Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô ABC Bài 101-150 Dấu Chỉ của Tình Yêu
(Thứ 6 sau lễ MMTC) ---------------------------------------------------------- Năm A:
Phúc Âm: Ga 6, 51-59: "Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là lời Chúa.
Năm B:
Phúc Âm: Mc 14, 12-16. 22-26 :“Này là Mình Ta. Này là Máu Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: ‘Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?’ Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. - Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. - Ðó là lời Chúa.
Năm C:
Phúc Âm: Lc 9, 11b-17: "Tất cả đều ăn no nê".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa". Nhưng Người nói với các ông: "Các con hãy cho họ ăn đi". Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này". Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: "Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người". Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Phụng vụ lời Chúa trong thánh lễ hôm nay nêu ra cái bối cảnh lịch sử của Bí tích Thánh thể. Bài trích sách Sáng thế cho thấy có một lời tiên tri nào đó về Bí tích Thánh thể được tiềm ẩn khi Menkisêđê, thày cả thượng phẩm dâng bánh và rượu. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô nhắc lại cái ý nghĩa của lời Chúa khi lập Bí tích Thánh thể. Còn Phúc âm ghi lại việc Chúa làm phép lạ nuôi dưỡng đám đông bằng của ăn vật chất. Dân chúng đến nghe Chúa để được nuôi dưỡng bằng lời Chúa, rồi Chúa lại nuôi dưỡng thân xác họ bằng bánh và cá. Chúa tỏ mối quan tâm đối với dân chúng bằng cách làm no thoả nhu cầu đói khát của họ. Cũng như Chúa dùng quyền năng biến năm cái bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi đám đông chừng năm ngàn người đàn ông, Chúa cũng dùng quyền năng biến đổi bánh rượu thành thịt máu Người để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của loài người.
Chúa ban mình máu Người làm của ăn thiêng liêng. Vậy điều ta cần có là bày tỏ nhu cầu đói khát thiêng liêng. Việc đói khát của ăn thiêng liêng phải bao hàm việc đói khát lời Chúa, đói khát bánh hằng sống, đói khát sự thật, sự thiện hảo và sự công chính. Hôm nay ta cần tự hỏi: ta thường khao khát những gì? Có phải ta khao khát giàu sang, phú quí, khao khát tiếng tăm, khao khát được biết đến? Trong phúc âm hôm nay ta thấy, việc đói khát lời Chúa khiến đám đông đi theo Chúa, và khi họ cảm thấy kiến bò bụng, thì Chúa lại nuôi dưỡng thân xác họ. Đó chính là ý nghĩa lời Chúa: Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia Người sẽ thêm cho (Lc 12:31).
Từ khi Chúa lập Bí tích thánh thể, hàng triệu người đã tìm đến cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa để tìm sức trợ lực, tìm sự an ủi cho cuộc sống. Họ đến để bày tỏ nỗi lòng, những lo âu, sợ hãi, thất vọng. Họ đến để trút những gánh nặng, những phũ phàng của cuộc sống, những nỗi khổ tâm của cá nhân cũng như gia đình vào lòng từ ái của Chúa. Họ đáp lại lời Chúa mời gọi: Hỡi tất cả những ai đang vất va, mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hãy mang lấy ách của tôi, và học với tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Và tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi thì êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng (Mt 11:28-30).
Đẻ đáp lại lời Chúa mời gọi, ta hãy tìm đến Chúa ngự trong Bí tích Thánh Thể là nguồn sức mạnh, là niềm vui, niềm an ủi, là sự cậy trông và là lẽ sống của cuôc đời. Khi mẹ Têrêsa được hỏi tại sao bà có đủ nghị lực làm việc phục vụ trẻ nghèo bên An độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời rằng Chúa Thánh Thể là sức mạnh của bà và bà cầu nguyện hàng giờ trước Mình thánh Chúa. Còn vô vàn vô số những người tín hữu khác, có cả người Tin lành, đã đến nhà thờ có Mình thánh Chúa ngự để cầu nguyện. Họ quì gối, cúi mặt xuống cầu nguyện thầm thĩ với Chúa. Họ ngồi đó một mình ở góc nhà thờ có khi trong bóng tối hàng giờ đồng hồ, một mình họ với Chúa. Họ để cho dòng lệ tuôn trào vì đau khổ hoặc vui mừng.
Chúa luôn ở đó chờ đợi ta. Ta có thể đến với Chúa bất cứ lúc nào, ngày đêm nếu nhà thờ mở cửa. Ta không cần kêu điện thoại, cũng không cần làm hẹn trước xem Chúa có nhà không và cũng không cần gõ cửa. Ở đây trước nhà chầu có Mình thánh Chúa ngự, ta có thể nói với Chúa dựa theo tư tưởng của thánh Augustinô: Lạy Chúa tâm hồn con sẽ còn lo âu khắc khoải cho tới khi con sẽ phải tuyệt vọng, hoặc đi đến kết luận là chỉ có Chúa mới giải đáp được những thắc mắc của tâm hồn con, mới đáp ứng được những nhu cầu khát vọng của con, chỉ có Chúa mới là lẽ sống của đời con, và chỉ có Chúa mới là cùng đích của đời con...
Để chúng ta đi vào thẩm cung của việc cầu nguyện xin ơn chữa lành với Chuỗi hạt Lòng Thương Xót, chúng tôi xin mời quý vị cùng với chúng tôi tiếp tục đi vào tìm hiểu ý nghĩa của việc Máu Châu Báu Chúa Giêsu bao bọc, che chở chúng ta như thế nào. Ngay trong Cựu Ước, ông Gióp hàng ngày đã thực hiện công việc sát tế các con vật bằng với số lượng là bẩy người con trai và ba cô con gái, để xin Chúa bao bọc các con ông và tha thứ lỗi lầm cho các con ông: «Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: “Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng!” Lần nào ông Gióp cũng làm như thế» (G 1:5). Máu các con vật bị sát tế đó dùng làm của lễ dâng hiến Thiên Chúa chính là máu bao bọc các con cái ông. Đây, chúng ta hãy nghe Xatan thú nhận trước mặt Chúa: «Bấy giờ Đức Chúa phán với Xa-tan: “Ngươi từ đâu tới?” Xa-tan thưa với Đức Chúa: “Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây”. Đức Chúa phán với Xa-tan: «Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác! « Nhưng Xa-tan thưa lại với Đức Chúa: «Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng? Chẳng phải chính Ngài đã bao bọc, chở che nó tư bề, nó cũng như nhà cửa và tài sản của nó sao? Ngài đã ban phúc lành cho công việc do tay nó làm, và các đàn súc vật của nó lan tràn khắp xứ» (G 1:7-10).
Trong Tân Ước, máu của con vật bị sát tế đó không ai khác hơn là Con Chiên Thiên Chúa, chính là Chúa Giêsu, người Con duy nhất và yêu quý của Chúa Cha đã đổ máu trên thập giá để bao bọc mọi người chúng ta. Trong cuốn 'The Blood', cuốn sách bán chạy nhất của tác giả Benny Hinn, ông diễn tả thật thâm sâu về Máu Chúa Giêsu: «Chúa Giêsu đã dời bỏ ngai thiên cung để đến nằm trên thập giá, nhờ đó Ngài đem đến cho chúng ta ơn cứu độ. Và sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ, Ngài đã dời bỏ thập giá để về ngai thiên cung, từ nơi đây Ngài trở thành vị Thượng Tế và mở đường cho chúng ta bước vào nơi Thiên Chúa hiện diện».
Từ đây ông hướng chúng ta về việc cử hành Bữa Ăn Tối của Chúa Giêsu. Mỗi lần chúng ta cử hành Bữa Ăn này chúng ta hãy nhớ rằng chính nhờ Máu của Ngài, chúng ta được nối kết đi vào sống thân tình với Thiên Chúa. Và mỗi lần chúng ta tôn vinh những gì Ngài đã hoàn thành cho chúng ta khi Ngài bẻ mình và đổ máu cho chúng ta, khi đó Thiên Chúa đến hiện diện tràn đầy trong chúng ta. Mỗi lần chúng ta cử hành Thánh Lễ thiêng liêng bằng việc tưởng nhớ như Chúa đang bẻ mình cho chúng ta ăn và đổ máu cho chúng ta uống, lúc đó dầu thánh của Chúa chảy xuống trên chúng ta để chữa lành chúng ta. Thần lực của chúng ta khơi nguồn từ đây. Chính Thánh Thể Chúa Giêsu, gồm cả thịt và máu, đem lại ơn chữa lành cho thế giới, cho quê hương, cho Giáo Hội, cho gia đình và cho những ai chúng ta muốn cầu nguyện cho. Như vậy giờ đây chúng ta hiểu được mỗi lần chúng ta tôn vinh Thánh Thể và Thánh Giá, Chúa Thánh Linh xuất hiện và Ngài đụng chạm đến cuộc sống chúng ta. Con đường đi của ơn chữa lành là như thế đó.
Ông Gióp đã bao bọc gia đình ông bằng máu các con vật bị sát tế, còn chúng ta, chúng ta được chính Con Thiên Chúa trở thành vật bị sát tế để máu của Ngài bao bọc chúng ta. Còn diễm phúc nào cao cả và thần hiệu hơn, thế thì tại sao chúng ta còn ngần ngại chưa chạy đến cầu khẩn Máu Châu Báu của Ngài bao bọc chúng ta, gia đình chúng ta, Giáo Hội chúng ta và quê hương chúng ta và toàn thế giới. Chúa bảo chúng ta hãy đứng bất động và nhìn xem Ngài chiến đấu cho chúng ta. Bất động ở đây không có nghĩa là thụ động, nhưng qua cầu nguyện, chúng ta hãy xức Máu của Ngài trên chúng ta và trên những ai chúng ta muốn cầu nguyện cho. Mỗi lần chúng ta hình dung ra mình đang đứng dưới chân thánh giá và nài xin Chúa đổ Máu Châu Báu của Ngài trên chúng ta và trên những ai chúng ta muốn cầu nguyện cho, chính là chúng ta xức Máu Chúa đó. Mỗi lần chúng ta lần chuỗi hạt Lòng Thương Xót là chúng ta xức Máu Chúa đó. Máu thần lực vô song đó sẽ bao bọc và chữa lành chúng ta và những ai chúng ta cầu nguyện. Công việc Xức Máu này không phải chúng ta chỉ xức một vài lần xong là thôi, nhưng trái lại, chúng ta phải theo gương ông Gióp là xức đều đặn hàng ngày.
Công việc Xức Máu này chúng ta phải thực hiện không phải chỉ do thôi thúc ích kỷ của chúng ta là xin ơn Chúa chữa lành, nhưng chính yếu hơn, phải do lòng yêu mến, nghĩa là mỗi lần chúng ta đến Xức Máu Châu Báu của Chúa là một lần chúng ta đi vào kết hiệp thân tình với Ngài. Ngài không trở thành phương tiện chữa lành của chúng ta, nhưng Ngài phải trở thành mục tiêu chúng ta đạt tới. Chúng ta càng đến với Ngài, càng đi vào thông hiệp với Ngài, càng sống yêu thương Ngài, Máu Châu Báu của Ngài như luồng Máu Đỏ phát xuất từ Lòng Thương Xót, càng bao bọc chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta như vậy sẽ được thấm đượm bằng Máu của Ngài. Với Máu của Ngài đầy tràn trong chúng ta thì còn hiểm nguy, thử thách nào, khó khăn, trở ngại hay bệnh tật nào có thể làm chúng ta sợ hãi nữa? Khi đó, tất cả đều trở thành ân huệ của Ngài. Lúc đó, luồng sáng Mầu Xanh lạt phát xuất từ trái tim Lòng Thương Xót Chúa bao bọc chúng ta. Và lúc đó, chúng ta chỉ còn một việc duy nhất là hướng về Chúa để ca ngợi Chúa, để tạ ơn Ngài.
Hãy đến đứng dưới chân cây thánh giá mỗi ngày, hãy đến rước Máu Chúa mỗi ngày, ít nhất rước lễ thiêng liêng trong cầu nguyện, để chúng ta nhận lãnh những phước lộc của Máu Châu Báu Chúa Giêsu: Máu che chở, Máu tha thứ, Máu xót thương, Máu ân tình, Máu bình an, Máu hòa giải, Máu tẩy rửa, Máu thánh hóa, Máu cứu độ. Và như vậy, quả thực Máu Chúa Giêsu trở thành nguồn mạch đem Ba Ngôi Thiên Chúa đến hiện diện tràn đầy trong chúng ta và đem chiến thắng đến cho chúng ta. Biết xức Máu Chúa đều đặn mỗi ngày, chúng ta sẽ là những người chiến thắng. Và ngược lại, không xức Máu Chúa đều đặn hàng ngày, chúng ta sẽ trở thành những kẻ chiến bại.
Chúa nhựt tuần sau là ngày Father day, nhưng tôi đã nghe đài phát thanh, truyền hình và báo chí nói rất nhiều về người cha. Một câu mà tôi thích nhất đã nghe được là:
Tình cha như bầu trời lồng lộng,
Lòng mẹ như biển rộng mênh mông.
Trong kinh thánh, Thiên Chúa được diễn tả qua hình ảnh của một người Cha.
Cha tôi mất sớm, lúc tôi mới lên 14, nhưng hình ảnh của người cha vẫn canh cánh bên lòng. Vì là con nhà nghèo, nên tôi cảm nghiệm được rất sớm và rất rõ cái công ơn của người cha. Cái cảnh người cha lam lụ, vất vả, mồ hôi đổi lấy bát cơm để nuôi tôi. Nhất là cái di sản tinh thần mà người cha đã để lại. Trước khi nhắm mắt lìa đời, người nắm tay tôi và dặn: Con hãy gắng mà vươn lên ! Con hơn cha là nhà có phúc !
Nhân dịp này, xin mọi người cùng tôi vinh danh người cha của mình, hoặc còn sống hoặc đã qua đời.
Hình ảnh người cha rất thân thương ấy dẫn đưa tôi đến hình ảnh một người cha khác mà trong bài đọc 2 hôm nay liên quan đến bí tích Thánh thể.
Chính trong đêm bị nộp, một đêm vô cùng giao động, bị phản bội bơi một người đệ tử và bị giao nạp cho kẻ thù, Đức Giêsu đã lập bí tích Thánh thể để làm của ăn nuôi sống linh hồn tôi. Cha tôi đã đổ mồ hôi, nuôi sống tôi. Đức Giêsu đã lấy thịt, máu mình mà nuôi sống linh hồn tôi.
Ôi! trời cao lồng lộng, biển rộng mênh mông, làm sao có thể so sánh được với mối tình nầy. Tình cha thương con. Tình Chúa thương tôi. Cha thương con biển hồ lai láng. Ôi đẹp làm sao !
Làng tôi đã nghèo, mà tiền nhân lại đặt cho cái tên nghe nó quê làm sao Làng Gia chiểu thuộc quận (huyện) Hoài ân. (Hoài ân là nhớ ơn).
Người Mỹ một năm chỉ có một ngày Nhớ ơn, ngày Thanksgiving. Nhưng thực ra một năm 365 ngày, ngày nào cũng phải là ngày hoài ân cả.
Thánh lễ Misa là hy lễ tạ ơn. Nhớ ơn cha mẹ không gì bằng thực hành những điều cha mẹ dạy, nhất là những lời trối trăn trước khi chết. Nhớ ơn Chúa không gì bằng thực thi những gì mà Người đã dạy trong bữa tiệc ly, trước khi chết, khi Người nói với các môn đệ: Hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy.
Việc nầy là việc gì ?
Thưa là :Cầm lấy, chúc tụng, bẻ ra và phân chia.
Những cử điệu mà chúng ta vừa nghe trong bài tin mừng của Thánh Luca. Cùng một cử điệu mà Đức Giêsu đã làm tại làng Ê-mau trước mặt hai môn đệ trong Luca, đoạn 24 câu 30.
Cầm lấy tức là nhận lãnh, nhận lãnh những gì mà TC đã trao ban: Tài năng, sức khỏe, tiền của, con cái... dù ít hay nhiều, thảy đều là của Chúa. Tất cả đều là hồng ân.
Không phải nhận rồi đem chôn vùi dưới đất như tên đầy tớ lười biếng trong dụ ngôn Những nén bạc, trong Mt 25, 24-30. Cũng không phải nhận rồi, ra riêng một xó để ăn một mình. Nhưng sau khi nhận lãnh phải có thái độ biết ơn (hoài ân), dâng lời chúc tụng như hai ông Melchizedec và Abraham đã làm (trong bài đọc 1).
Nhận rồi, bẻ ra, phân chia cho kẻ khác với, bấy giờ ân sủng của Chúa sẽ tuôn xuống dồi dào và chính lúc ấy phép lạ mới xảy ra. Ai nấy đều ăn no nê mà còn dư 12 thúng và 12 môn đệ mang về mỗi ông một thúng.
Đức Giêsu cũng có thể dùng quyền năng của Người khiến bánh từ trời rơi xuống như man na xưa, đã nuôi dân Israel trong sa mạc hoặc khiến đá trơ nên bánh như Sa tan đã đề nghị.(Mt 4: 3) Nhưng không, Chúa dùng 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Rõ ràng là Chúa muốn các môn đệ và cả chúng ta nữa cộng tác với Người để làm nên phép lạ. Khi Người bảo: Chính anh em hãy cho họ ăn, Chúa đã thấy trước cái khả năng hạn hẹp của các môn đệ và diễn tiến của sự việc. Nhưng các môn đệ đã vận dụng hết khả năng của mình, lục lọi trong đám đông để tìm cái gì mình đang có. Cũng có thể trong quỹ do Judas Iscariot giữ còn ít tiền, nhưng làm sao mua cho đủ và mua ơ đâu ra, trong lúc trời sắp tối, nơi hoang vắng cho trên 5,000 người ăn, một nhu cầu không phải nhỏ. Đành bất lực, các ông mới chạy đến Chúa: Chúng con chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi. Các ông đã trao cho Chúa để rồi các ông cũng nhận lại từ tay của Chúa mà phân phát cho đám đông.
Rõ ràng là Chúa muốn đón nhận những gì do con người mang đến, cho dù rất bé nhỏ để Chúa làm nên phép lạ. Cũng như một chút nước pha vào chén rượu nho (Pv Thánh thể) để được tham dự vào thiên tính của Chúa.
Mừng kính lễ Mình Máu thánh Chúa, ngày lễ của tình yêu, ngày lễ của sự hoài ân, nhớ ơn. Yêu là cho đi để rồi nhận lại một cách dồi dào và sung mãn. Nhớ ơn Chúa là thực thi những điều mà Chúa đã dạy trong bữa tiệc ly. Cầm lấy, tạ ơn, bẻ ra và phân chia.
Xin cho con biết đón nhận, biết nhớ ơn, biết bẻ ra và biết chia sẻ với anh chị em mình. Đó là hy lễ misa mỗi ngày con dâng tới Chúa.
Mỗi khi chúng con làm như vậy là chúng con nhớ đến Thầy./.
Nhân năm Thánh thể, xin gởi đến quý vị vài tư tưởng nhỏ để tuỳ nghi sử dụng. Trước hết về ý nghĩa bữa ăn. Nó là nhu cầu căn bản của loài người. Ai ai cũng phải ăn uống để sống. Tuy nhiên ăn uống cũng mang lại nhiều vui thích. Trong các thành phố, làng mạc, đâu đâu cũng thấy quán ăn mọc lên như nấm, vậy mà vẫn chưa đủ. Nhà nào cũng có bếp nấu ăn. Tôi không nhớ từ tấm bé đã có lần nào chê ghét ăn uống chưa? Người ta sáng kiến ra đủ mọi loại lương thực, thực phẩm. Đơn giản như gói mì tôm, thịnh soạn như các cao lương mỹ vị. Những biến cố của cá nhân, gia đình, xã hội đều có bữa tiệc để khoản đãi người thân, bạn bè, khách khứa. Trong đó các món ăn giữ phần quan trọng nhất. Sinh nhật, cưới hỏi, giỗ chạp, thăng quan, tiến chức, đỗ đạt, hội hè, ngoại giao, quốc khánh, nhóm họp lớn bé đều có các bữa tiệc ghi dấu. Cho nên ăn uống là sinh hoạt quan trọng nhất của con người. Không những nó nuôi sống chúng ta, nhưng còn thắt chặt tình đoàn kết nhân loại. Nó gắn bó ông bà, cha mẹ, con cái trong gia đình. Nó chia sẻ tình làng nghĩa xóm, thân nhân, bạn bè. Nó hàn gắn mối bất hoà giữa các quốc gia, quốc tế. Trong các tôn giáo bữa ăn còn giữ vai trò quan trọng hơn. Từ ý nghĩa vật chất chuyển sang ý nghĩa tinh thần. Thí dụ bữa ăn Vượt Qua của dân Do thái hoặc bữa Agapê thánh thể của chúng ta hôm nay. Chúng mang chiều kích thiêng liêng tối quan trọng cho tâm linh mỗi người. Dân Istael kỉ niệm Thiên Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, dẫn đưa họ tới tự do của quê cha đất tổ. Người tín hữu qua bữa ăn Thánh Thể kính nhớ Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại ban ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Cho nên Chúa Giêsu đã đánh giá cao các bữa ăn, dù là các bữa Mẹ Ngài nấu ở Najaret, bạn bè thiết đãi trên đường truyền giáo hay bữa ăn thân mật với các tông đồ, môn đệ. Liệu quý vị đã đếm các bữa ăn Ngài dùng trong Phúc âm chưa? Tôi nghĩ lên đến hàng trăm, hàng chục đến nỗi mấy thầy biệt phái chê Ngài là hay ăn uống (Lc 7,34). Ngài còn là đầu bếp nữa đấy. Hai lần nhân bánh lên nhiều trong sa mạc. Một lần nuôi 5 ngàn, lần khác nuôi 4 ngàn (Mc 6,30; 8,1). Sau khi sống lại Ngài vẫn ăn uống với các môn đệ và còn dọn bữa cho các ông gồm cá nướng và bánh ở bờ hồ Tibêria (Ga 6,29). Ngoài ra trong giáo lý của mình Ngài thường so sánh Nước Trời với bữa tiệc thịnh soạn. Phép lạ đầu tiên Ngài làm là biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana (Ga 2,1). Vậy thì việc ăn uống không chỉ là sinh hoạt thể lí mà còn mà còn là biểu tượng của lương thực tâm linh. Chúng ta không những nhai, nuốt, tiêu hoá thức ăn mà còn chia sẻ mồ hôi nước mắt, nhọc nhằn, tình cảm với nhau. Sau khi rời khỏi bàn ăn, không những chúng ta được lại sức khoẻ thể xác mà còn tăng trưởng tâm linh, thêm phần đoàn kết, liên đới, hoà thuận xã hội. Cho nên người ta chọn bữa ăn để quy tụ, hội họp, vui mừng. Chúa Giêsu cũng đã chọn bữa ăn để trở nên một với tín hữu.
Có điều khác biệt là khi chúng ta ăn uống với chủ nhân bữa tiệc. Chúng ta không liên kết nên một với ông ta, mặc dù ông cung cấp lương thực, thực phẩm cho chúng ta. Giỏi lắm thì chúng ta hợp nhất về tinh thần, lòng yêu mến quý trọng nhau. Trường hợp của Chúa Giêsu lại khác. Ngài ban chính thịt máu mình cho chúng ta ăn uống. Ngài nuôi dưỡng nhân loại bằng chính máu thịt mình làm cho linh hồn mỗi người thêm vững mạnh về phần thiêng liêng. Ngài kết hợp với họ trong đời sống siêu nhiên, ban cho họ khả năng bất tử, trường sinh muôn thuở. Điều này không chủ nhân thế gian nào làm được. Ngài kết hợp với khách ăn một cách toàn vẹn đến nỗi thức ăn thể xác chỉ là tượng trưng. Chúng ta có thể nhai, nuốt, nếm, tiêu hoá ông chủ Giêsu mà không gặp trở ngại nào! Ngược lại hoàn toàn ngọt ngào và vui thoả.
Lúc Chúa Giêsu tuyên bố chân lý này, thì nhiều người không hiểu. Họ bỏ đi, cho là nghịch nhĩ, khó nghe. Thánh Gioan kể: người Do thái liền tranh luận với nhau sôi nổi, họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt của ông ta được?” Đức Giêsu nói với họ: “Thật tôi bảo thật các ông; nếu các ông không ăn thịt và uống máu con người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời…” Nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi.” (Ga 6,52) Họ ngạc nhiên cũng phải, xưa nay bánh là bánh, rượu là rượu, không hề có chuyện bánh rượu trở nên máu thịt. Tuy nhiên loài người chỉ có khả năng nhìn xem bề ngoài bằng con mắt xác thịt. Ngươc lại, muốn xem thấy Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh thể, nuôi sống đời đời, thì phải chiêm ngưỡng bằng con mắt đức tin. Sau khi truyền phép, chúng ta nhìn ngắm bánh thánh đã là xác thịt và linh hồn của Chúa Giêsu thực sự, thì lời Amen chúng ta thưa lại linh mục để nhận lãnh Thánh thể, biểu lộ đức tin của Hội thánh và của mỗi linh hồn vào chân lý vĩnh cửu Chúa mạc khải cho nhân loại. Qua dòng lịch sử, các tác giả đạo đức đã viết nhiều về chân lý này. Hôm nay chúng tôi chỉ góp lời về ba khía cạnh quan trọng để kỉ niệm năm Thánh thể và nâng đỡ các linh hồn còn yếu kém. Thứ nhất, Thánh thể là Bí tích Thiên Chúa hiện diện giữa nhân loại một cách bền vững. Thứ hai, nó là Bí tích tình yêu Thiên Chúa yêu loài người một cách vô điều kiện. Thứ ba, nó là Bí tích qua đó Thiên Chúa truyền lệnh chúng ta hết lòng phục vu tha nhân. Xin khai triển từng điểm một.
Thứ nhất: trong Thánh thể Chúa hiện diện bền vững với loài người. Kinh thánh cho hay Thiên Chúa luôn ao ước ở với nhân loại. Ngài đi dạo trong địa đàng với ông Ađam và bà Evà: nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày. Con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt với Đức Chúa là Thiên Chúa. Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?” Con người thưa: “Con thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con trốn.” (St 3,8). Ngài gởi các ngôn sứ đến để hướng dẫn Israel đi theo đường lối Ngài. Ngài ban 10 giới răn trên núi Sinai như luật pháp để chúng ta noi theo, nhờ thế tránh được những sai lầm luân lý đạo đức. Chưa đủ, Ngài sai con một để nên đồng hình đồng dạng với chúng ta, dạy bảo và cứu vớt chúng ta. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa sống giữa nhân loại. Thánh Phaolô nói: “Mặc dù Ngài là Thiên Chúa nhưng đã ở trong hình thể loài người như chúng ta và vâng lời chịu chết trên thập tự”. Tuy nhiên để có thể ở lại với con cái sau cái chết, Ngài thiết lập Bí tích Thánh thể. Một sáng kiến nhiệm mầu đầy yêu thương không tìm thấy trong tôn giáo nào khác. Như vậy một đàng Ngài chu toàn thánh ý Đức Chúa Cha, chết đi để trả giá cho tội lỗi nhân loại và đền bù phép công thẳng của vị quan toà Thượng đế. Mặt khác vẫn hiện diện bền vững với loài người. Do đó Bí tích Thánh thể là phương tiện độc đáo Chúa Giêsu có mặt liên tục giữa chúng ta.
Chân thật và lạ lùng, ở bữa cuối cùng (lại bữa ăn) với các môn đệ. Chúa Giêsu tuyên bố: “Một ít nữa thế gian sẽ không thấy Thầy, nhưng chúng con sẽ thấy Thầy. Bởi vì Thầy sống và các con cũng được sống” (Ga 16,16). Bằng những lời ấy Ngài hứa sẽ luôn ở với các môn đệ mãi mãi, không những khi mặt trời còn toả sáng mà ngay cả khi đêm tối âm u, khi bình an cũng như khi bão táp hãi hùng. Ngài ở trên thuyền với chúng ta giữa đại dương cuộc đời như xưa Ngài ở trên thuyền với các môn đệ tại biển hồ Tibêria, nhắc nhở các ông: “Ta đây đừng sợ,” trái lại hãy vững tin vào quyền năng Ngài. Các môn đệ đã làm đúng như vậy và sóng gió yên lặng. Các ông trung thành cử hành lễ bẻ bánh và Bí tích Thánh thể để tưởng nhớ đến Chúa, đúng như Ngài truyền dạy. Như thế họ tin vững vàng vào Chúa Giêsu, Ngài sẽ chẳng bao giờ lìa xa mình.
Ngày nay chúng ta cũng tin kính y hệt, không có chi sai biệt, và đức tin ấy được gọi là tông truyền, tức truyền lại nguyên vẹn từ các thánh Tông đồ. Trước khi chịu chết Chúa Giêsu khẳng định: “Ta chẳng bỏ các con mồ côi”. Đây không phải là lời nói dối của một tên lừa đảo. Nhưng là chân lý của Ngôi Lời Thiên Chúa, xuống thế gian làm bạn với nhân loại. Một người bạn quý báu chân thật và trung thành. Hơn nữa Ngài là hiện thân của tình yêu Đức Chúa Trời dành cho loài người. Ngài yêu mến chúng ta bằng cách thí mạng sống mình để mưu cầu hạnh phúc đời đời cho từng linh hồn. Xin suy nghĩ kỹ lưỡng hơn về điều này, các bạn sẽ xem thấy một thế giới lạ lùng, đầy yêu thương và hạnh phúc, không thể tìm được ở nơi đâu khác trên thế gian này. Chỉ trong nhiệm mầu Thánh thể mà chúng ta thấy ấm áp, sum vầy mà chẳng bao giờ cảm thấy mình bị bỏ rơi, sống trong cô đơn lạnh lẽo. Các bạn luôn được vững tâm ngay khi thiên hạ tẩy chay hoặc nghĩ mình không xứng đáng được yêu vì có tội. Chúng ta luôn được nghe Chúa lập lại lời phúc âm. Ta sẽ chẳng để các con mồ côi (Ga 14,18). Lời này chính là ý nghĩa của Bí tích Thánh thể. Bởi vì Ngài cam đoan với nhân loại qua Bí tích, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.
Thứ hai: Thánh thể là Bí tích tình yêu thần linh. Chúng ta định nghĩa tình yêu thế nào? Đúng ra thì không định nghĩa được vì Thiên Chúa là tình yêu. Không định nghĩa được Thiên Chúa thì cũng không định nghĩa được tình yêu. Nó mênh mông bao la, siêu việt vô cùng, ôm ấp cả vũ trụ càn khôn. Nhưng xét về phần nhân loại thì là trái tim, là cảm xúc cho tha nhân. Đôi khi đúng, nhưng cảm xúc không kéo dài mà là từng cơn, từng lúc. Tình yêu phải bền bỉ, một lòng tận tụy với kẻ khác, tự hy sinh bản thân cho tha nhân. Như thế tình yêu kéo dài, nghiêm khắc với chính mình. Chỉ Thiên Chúa mới có thứ tình yêu tinh ròng này, khi Ngài hy sinh trên thập giá. Nhìn lên hình ảnh Giêsu treo trên thập giá, chúng ta cảm nghiệm thế nào là tình yêu đích thực, tình yêu Thiên Chúa nhập thể, còn tình yêu nhân loại nhuốm màu vị kỷ, dục vọng, tham lam, vụ lợi.
Tình yêu đích thực đòi hỏi tận tụy, hy sinh như bà mẹ với đứa con thơ. Bí tích Thánh thể là tình yêu vượt xa hơn thế nữa, loài người không thực hiện được. Nó vượt xa khả năng và quyền thế nhân loại. Chẳng người trần nào có thể ban thân mình cho người khác cách tuyệt hảo như Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh thể. Ngài đến với nhân loại bằng mình máu Ngài, linh hồn và thân xác gồm luôn bản tính Thiên Chúa. Ngài trao ban cho chúng ta trái tim yêu thương của Ngài, không tính toán, so đo. Chúng ta được hưởng trọn vẹn Ngôi Lời nhập thể, nguồn mạch khôn ngoan, thánh thiện, thượng trí, hạnh phúc, thiên đàng, quyền năng, sự sống vĩnh cửu,… Đức Giáo hoàng Pio XII đã nói về Thánh thể như sau: “Chúa Giêsu ước ao chuyện vãn với chúng ta thật thân tình, đặc biệt sau khi chúng ta rước lễ”. Như vậy sau rước lễ chúng ta thực sự nên một với Thiên Chúa, sống hạnh phúc thiên triều. Đó là những giây phút quý báu nhất trong cuộc đời người tín hữu. Chúng ta tan biến trong đại dương yêu thương nhưng vẫn còn hiện diện sống động giữa trần gian để làm chứng cho Ngài.
Thứ ba: Cuối cùng Chúa Giêsu Thánh thể sai phái chúng ta đi ra phục vụ tha nhân, phục vụ thế giới. Thánh thề không đóng khung trong nhà thờ. Thánh thể vươn tới gia đình, xã hội, trường học, chợ búa, nơi làm việc, công xưởng, bất cứ nơi nào có con người hiện diện, để thánh hóa họ, mang đến cho họ hạnh phúc và bình an. Trái tim chúa Giêsu không chỉ thu hẹp ở một nhóm người, nhóm tu sĩ, linh mục, giáo dân. Ngài ôm cả hoàn cầu, thánh hoá cả vũ trụ, mọi nơi và mọi thời. Nếu nhớ Ngài rửa chân cho các Tông đồ (kẻ được sai đi) trong bữa ăn, ngay trước lúc lập Bí tích Thánh thể? Để làm chi? Làm gương cho chúng ta phục vụ người khác. Vì thế mới có lệnh truyền: “Hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy”. Lệnh truyền này không những về việc ăn uống thịt máu Ngài, nhưng còn bắt chước Ngài phục vụ những nhu cầu của tha nhân như Ngài đã làm.
Đúng, khi lãnh nhận Bí tích Thánh thể, chúng ta trở nên giống Chúa Kitô, xả thân cứu vớt người khác, làm cho họ nên thánh, nên con Thiên Chúa, anh em với Ngài, đồng thừa tự Nước Trời. Tác giả Gerard Manley Hopkins thú nhận: khi rước Mình Thánh Chúa tôi trở nên Đức Kitô khi xưa. Ông viết thành thơ, nhịp điệu rất cảm động. Chúng ta phải thêm, bởi lẽ đó chúng ta phải tích cực tiếp tục sứ vụ của Ngài, trở nên chân tay, miệng lưỡi, trái tim của Ngài đến với tha nhân, những chi Ngài đã khởi sự làm, chúng ta hãy tiếp tục.
Tóm lại, mầu nhiệm Thánh thể là Bí tích Ngài hiện diện vững bền giữa nhân loại. Qua đó Ngài bày tỏ tình yêu thần linh cho chúng ta và sai phái các tín hữu ra đi phục vụ thế giới, qui tụ các linh hồn về với Thiên Chúa. Các Bí tích khác mời gọi nhân loại bằng ơn thánh (grace). Nhưng Thánh thể ban cho chúng ta chính nguồn mạch của ơn thánh đó. Khi chúng ta lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta lãnh nhận toàn bộ Chúa Kitô, nhân tính và thần tính, tình yêu và sự sống, ơn thánh và hạnh phúc trường sinh. Cho nên phải sửa soạn trước và cám ơn sau rước lễ thật nghiêm chỉnh. Chúng ta phải tôn thờ Thánh thể với hết linh hồn, hết sức lực và trí khôn mình. Ngoài Thánh thể chúng ta không có khả năng nên trọn hảo. Các thánh đều là những linh hồn tôn sùng Thánh thể nhiệt thành. Các hoạt động khác không thể so sánh với việc phụng thờ Thánh thể. Nó là chóp đỉnh của phụng vụ, của đời sống Kitô giáo. Nó mang lại cho linh hồn lành thánh niềm tin, sức mạnh, hối cải, chữa lành, hạnh phúc và nhiều ân huệ khác.
Vì vậy chúng ta không nên lãnh nhận Mình Thánh Chúa một cách ơ hờ, trễ nãi hay giả hình. Giả sử một ông chủ nhà mời khách sang đến thăm gia đình mình. Tới giờ khách đến ông lại vắng mặt, thử hỏi ông gây thất vọng cho khách biết bao? Cũng vậy, chúng ta mời Chúa đến thăm linh hồn mình, thì phải đón rước Ngài nồng hậu bằng đời sống thánh thiện. Nếu thấy mình còn mắc tội, thì Bí tích Hoà giải là phương tiện hữu hiệu để chuẩn bị linh hồn.
Người ta kể chuyện, có một ông vua đến thăm một gia đình thần dân nghèo khó. Ông tàng hình nói với đứa bé con ông chủ nhà: “Con muốn xem lâu đài của ta chăng? Nó to lớn, lộng lẫy nhất nước. Nó đẹp lắm, khi con ở đó, con sẽ làm vua”. Đứa bé trố mắt nhìn nhà vua và trả lời: “Con chẳng cần, nhà con tuy nhỏ bé, nhưng khi đức vua ở trong đó, nhà con lớn nhất nước và con cũng được làm tể tướng với đức vua”. Chúng ta có thể kể chuyện đó về mình, khi rước lễ. Bởi lẽ Đức Giêsu chính là vua, vua vũ trụ, vua nhân loại. Khi Ngài ngự vào mái nhà linh hồn mình, chúng ta cũng là vua. Amen.
Đây là câu Kinh Thánh các thánh sử Nhất Lãm ghi, kể cả Th.Phaolô(1Cor11). Tin Mừng Th.Gio-an hôm nay ta đọc không ghi nguyên văn câu đó nhưng ghi những câu tương tự trong diễn từ Bánh: “Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta…Đức Giê-su cầm lấy bánh, tạ ơn, phân phát…”. Chúng ta hãy tìm hiểu câu Kinh Thánh trên.
Theo nghĩa đen và văn mạch của các Tin Mừng thì câu đó có hai ý: Bánh đã biến nên Thân Chúa vàThân Chúa là của lễ đền tội cho nhân loại.
Bánh đã biến nên Thân Chúa:
Con ngươì được tạo dựng có tự do chọn lựa phúc hoặc khổ. Cho nên ở sa mạc trần đời tiến về Đất Hứa Thiên Đàng , Chúa thử xem họ thể hiện tự do mà có tin , yêu Tạo Hoá không: “Chúa các ngươi dẫn các ngươi qua sa mạc 40 năm…để xem các ngươi có tuân giữ lề luật của Ngài không” (Bài đọc 1).
Họ không tin, yêu khi kêu trách Chúa để họ thiếu cái ăn , cái uống cho nên Chúa thương tha thứ , lại ban manna và nước uống. Theo Mô-sê bánh đó chính là Lời Chúa mà Do Thái cần phải tuân giữ nếu muốn đến được Đất Hưá: “Người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi lời do miệng Chúa phán” (Bài đọc1).
Theo Th.Gio-an thì lời Chúa chính là Chúa Giê-su: “Lời đã hoá thành nhục thể và cư ngự giữa chúng ta”(Gio-an 1:14).
Vậy cả Cựu và Tân Ước đều dạy chúng ta rằng bánh Chúa ban từ Trời là chính Chúa Giê-su và như để chứng thực điều đó thì Chúa phán: “Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống”(Bài TM).
Có người bảo bánh Chúa cầm không phải là Thân Chúa mà chỉ tượng trưng cho Chúa để “nhớ đến Ta”. Nói như thế không đúng sự thật, không đúng ý Chúa và xúc phạm đến Ngài.
Không đúng sự thật vì nói như thế là không đúng với Thánh Kinh về manna(Tl. 8) và về Diễn từ Bánh (Ga. 6) và vì không hiểu chỉ thị từ “Đây” trong câu: “Đây là Mình Ta…” là nói lên sự hiện diện thật “hic et nunc, ở đây và lúc này”.
Không đúng ý Chúa vì ý Ngài muốn yêu chúng ta bằng “ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”, nên một với chúng ta bằng cách “làm con người trở thành Thiên Chúa” (Th.Tô-ma A-qui-nô) như lời Chúa phán: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta sẽ có sư sống đời đời…nó ở trong Ta và Ta ở trong nó”(Bài TM).
Ý Chúa còn muốn chúng ta nên một vì loài người chỉ có một nhân tính và chỉ là một Nhiệm Thể mà Chúa là đầu, chúng ta là chi thể: “Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể vì thông phần cùng một tấm bánh”(Bài đọc2).
Thân Chúa là của lễ đền tội thay nhân loại:
“Nhân vô thập toàn” nên người ta có xúc phạm đến Tạo Hoá. Thờ phượng Tạo Hoá là nhu cầu của thụ tạo. Một trong những việc thờ phượng là dâng lễ đền tội.
Chỉ Chúa mới đền đủ cho Chúa nên Ngài đã ra đời, làm người để đền thay cho họ. Ngài là Đại Giáo Trưởng(Thơ Do Thái).
“Vâng lời trọng hơn của lễ”. Vì của lễ nói lên lòng thành, nên Chúa đã “vâng lời đến chết trên thập giá” như của lễ đẹp ý Cha nhất đền thay cho nhân loại nơi A-đam không vâng phục Tạo Hoá.
“Hiến vì anh em” cũng có nghĩa “vì nhiều người để nên ơn tha tội”. Nhưng làm sao nhiều người của mọi thời được tha tội nếu Chúa không tái diễn lễ tế thập giá trên mọi bàn thờ? Và làm sao Ngài tái diễn được nếu không có linh mục thừa tác mặc lấy ngôi vị của Chúa khi đọc “Này là Mình Tôi…”. Linh mục cao trọng đấy nhưng đó là do Chúa , vì Chúa và anh em.
Nếu Chúa là của ăn siêu nhiên thì chúng ta phải ăn để thông hiệp với Chúa (Th.Tô-ma). Nếu Chúa là của lễ đền tội thì chúng ta phải năng dân g lên để được cứu độ. Đó là những điều Chúa nuốn chúng ta làm để yêu Ngài vì Ngài đã yêu chúng ta đến thế. Amen.
Nhìn lại cuộc sống mình, cũng như nhìn vào các đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta sẽ thấy họ làm nhiều việc như những người mất trí. Họ hành động chẳng dựa theo một cơ sở lý luận nào cả. Người ngoài cuộc chẳng ai hiểu nổi hành động của họ, ngay cả chính bản thân họ, có khi cũng chẳng hiểu tại sao mình lại làm như vậy. Và câu trả lời cho những việc làm kỳ quặc và có khi lố bịch đối với những người xung quanh đó, tôi thiết nghĩ, chỉ có thể là: Vì Tình yêu. Với sự thúc đẩy mãnh liệt của tình yêu, chúng ta có thể làm những việc mà không ai có thể nghĩ tưởng tới. Nhưng xét cho cùng, tình yêu của các đôi bạn trẻ, của chúng ta, một cách nào đó, đều quy hướng về bản thân mình. Chúng ta yêu người khác chỉ vì yêu chính bản thân mình. Hay nói một cách khác, chúng ta muốn được yêu.
Ngoài tình yêu đôi lứa, trong cuộc sống còn có một tình yêu khác cao thượng hơn, đó là tình mẫu tử. Tình mẫu tử, giúp người mẹ có sức mạnh chịu đựng những đêm dài thức trắng bên giường bệnh của đứa con nhỏ. Với sức mạnh của tình yêu, bà sẵn sàng chấp nhận bản thân thiếu thốn để con mình được no đủ; trong tình yêu, bà luôn mở rộng đôi tay đón những đứa con đi hoang trở về. Đôi nét về các loại tình yêu như thế có lẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
2. TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA :
Trước hết, tình yêu của Ngài vượt hơn cả tình yêu của người mẹ như lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối con dạ nó đã mang? Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi” (Is 49, 15). Ngài yêu chúng ta hoàn toàn vì chúng ta. Điều đó, được Môsê kể lại cho dân Do thái trong bài sách Đệ Nhị luật mà chúng ta vừa nghe: “Các ngươi hãy nhớ tất cả đoạn đường mà Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã dẫn đưa các ngươi qua sa mạc …Người đã ban cho các ngươi manna làm của ăn … đã khiến nước từ tảng đá cứng rắn vọt ra” (Đnl 8, 2-3. 15). Thiên Chúa đã làm tất cả những gì có thể để nuôi dân Do thái. Ngài đã dẫn dắt họ vượt qua hoang địa về đến Đất Hứa, cho dù họ có bất trung, cho dù họ có phản bội, kêu trách và bỏ Chúa. Họ đã quên đi hồng ân được giải thoát khỏi ách nô lệ mà lên tiếng than trách Chúa: thà cho họ chết bên Ai cập cạnh nồi thịt với những hành tỏi của Ai cập, nhưng vì yêu, Ngài sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm đó để đến với họ (x. Xh 14, 11-12; 16, 2-3).
Kế đó, tình yêu của Thiên Chúa lắm lúc cũng có vẻ “điên khùng”, vượt quá mọi lý luận của lý trí con người như tình yêu đôi lứa. Thật vậy, nhìn lại mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, chúng ta sẽ thấy trong mối tương quan này, Ngài không nhận lại được bất cứ điều gì. Chỉ vì yêu loài người chúng ta, Ngài đã làm những việc mà trí khôn con người không thể tưởng tượng được, đó là việc Ngài từ bỏ vinh quang của một vì Thiên Chúa, Nhập Thể làm một con người nghèo hèn ở giữa chúng ta (x. Pl 2, 6-7).
Cuộc đời Đức Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, chúng ta thấy Ngài sống hoàn toàn vị tha, nghĩa là vì tình yêu đối với Chúa Cha và đối với chúng ta. Cụ thể nhất là cái chết thê thảm và nhục nhã trên thập giá của Ngài. Cái chết này không vì một ích lợi nào cho mình, nhưng chỉ vì tuân theo thánh ý Chúa Cha và lợi ích phần rỗi của quý ông bà anh chị em và tôi, như lời chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin kính: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi”.
Hơn thế nữa, Ngài còn để lại chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn cho từng người chúng ta như lời Ngài phán: “Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Hành vi này của Đức Giêsu, quả thực đã đi quá sự suy luận của con người, đến nỗi ngay cả các môn đồ của Ngài cũng đã phải thốt lên: “Lời chi mà sống sượng thế! Ai nào có thể nghe nổi?” (Ga 6, 60), và “Từ đó, nhiều môn đồ của Ngài đã rút lui, và không còn đi theo Ngài nữa” (Ga 6, 66). Tình yêu của Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể, quả là một sự vấp phạm cho con người.
3. ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ :
Với bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã trao ban trọn vẹn và hoàn toàn con người của Ngài cho chúng ta, để nhờ Ngài chúng ta được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, và được sống đời đời như lời Ngài quả quyết: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6, 54). Ngài yêu chúng ta bằng một tình yêu hoàn toàn vị tha. Ngài yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài đã tự huỷ mình để trở nên tấm bánh và ao ước được chúng ta ăn, để chúng ta được nên một với Ngài. Vì thế, trong một đoạn Tin mừng ngắn hôm nay, động từ “ăn” đã được lập lại đến 9 lần.
Không chỉ khi hiến thân trên thập giá, trong suốt cuộc sống trần thế của mình, Đức Giêsu đã liên tục chấp nhận trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhiều người. Ngài chấp nhận trở nên “tấm bánh bị ăn”. Ngài tự nguyện trở thành của ăn cho nhiều chúng ta. Đó là một hành vi tự nguyện tiêu tan đi để cho chúng ta nhờ đó mà được sống. Cuộc sống của Ngài hoàn toàn là vì chúng ta, Ngài không kể gì đến bản thân mình, đến nỗi có lần người nhà của Ngài đã muốn đến bắt Ngài về, vì nghĩ Ngài bị mất trí (x. Mc 3, 20-21).
Tình yêu của Đức Giêsu là thế đó, còn tình yêu của tôi và quý ông bà anh chị em thì như thế nào? Nếu như trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn trách những đứa con bất hiếu với cha mẹ, phê phán những con người bạc tình, không biết quý trọng tình yêu mà người khác dành cho họ. Chúng ta trách những người trong cuộc không biết đáp lại tình yêu. Thế nhưng, nhìn lại mình, chúng ta có đáp lại tình yêu của Con Thiên Chúa đã tỏ bày cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể không? Nếu như chúng ta còn cảm thấy thật nặng nề khi đến với Ngài trong Thánh lễ. Chúng ta còn tính toán với Ngài từng phút giây dành ra để tôn thờ Ngài. Thậm chí, khi tham dự Thánh lễ, chúng ta cũng chẳng buồn đón nhận Ngài vào nhà tâm hồn của mình, thì có lẽ, chúng ta cũng chẳng khác gì những người bội bạc mà chúng ta trách cứ trong cuộc sống thường ngày.
Đặc biệt hôm nay, trong ngày lễ kính Mình Máu Đức Kitô, ước gì tất cả chúng ta nhận ra tình yêu bao la mà Con Thiên Chúa đã dành cho từng người chúng ta, để rồi chúng ta biết dành ra một khoảng thời gian thích hợp đến tôn thờ Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, để tạ ơn Ngài, tâm sự với Ngài về tất cả những nỗi lo âu, băn khoăn, khắc khoải của chúng ta trong cuộc sống. Và ngay trong Thánh lễ này, chớ gì tất cả chúng ta, những người hiện diện nơi đây đều dọn lòng sốt sắng, sẵn sàng đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, để rồi nói như thánh Phaolô: “Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh” (1 Cr 10, 17). Và rồi khi trở về nhà, từng người chúng ta lại trở nên “tấm bánh bẻ ra” cho nhiều người khác. Được như thế, tôi thiết nghĩ, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi mà là Đức Kitô đang sống trong tôi” (Gl 2, 20). Amen.
Khi Chúa Giêsu bôn ba đó đây rao giảng Tin mừng, chúng ta thấy dân chúng đi theo Người rất đông nhưng không hẳn vì họ thán phục giáo lý hay những phép lạ Người đã làm; họ đến với Chúa Giêsu chỉ để giải quyết vấn đề “bao tử” vốn đang cồn cào trong họ (x. Ga 6, 26). Chính vì thế, tại hội đường Caphácnaum, Chúa Giêsu hướng họ đến một thứ lương thực trường cửu khi Người đề cập đến chính Thịt và Máu Người làm của ăn Thần linh dưỡng nuôi họ.
Nói đến bánh từ trời xuống, không ai trong dân Dothái lại không hiểu tường tận câu chuyện của hơn 1250 năm trước trong sa mạc khi Giavê Thiên Chúa đã dùng Manna và chim cút nuôi dưỡng cha ông họ (x.Xh 16). Ngày đó, trên hành trình về đất Hứa, dân Dothái phải trải qua nhiều khó nhọc, gian khổ trăm bề. Những gian khổ đó có đáng là gì so với thời họ còn là nô lệ bên Aicập. Thế nhưng họ quên mất điều đó. Họ chỉ biết có mỗi một điều là trước đây họ được ăn no tuy bị kìm kẹp trong vòng nô lệ. Còn bây giờ, tuy được tự do nhưng lại phải đói khát. Vì thế họ kêu trách Môsê và lẩm bẩm than trách Giavê Thiên Chúa. Ngày đó, Giavê Thiên Chúa đã cho “kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần/Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 77, 25). Manna chính là hình ảnh tiên trưng, chuẩn bị cho việc mạc khải bánh đích thực từ trời là chính Đức Kytô hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn của Người.
Những dấu lạ hoá bánh ra nhiều của Chúa Giêsu cũng không gì khác hơn là muốn hướng họ đến một thứ lương thực trường tồn. Thế nhưng dân chúng vẫn không hiểu được ý nghĩa ấy. Họ chỉ biết rằng theo ông Giêsu thì được ăn bánh no nê và chỉ dừng lại ở đó. Điều Chúa Giêsu muốn là họ cần phải tìm một thứ lương thực nuôi sống không chỉ cho thân xác vốn mỏng giòn chóng qua mà còn để nuôi sống linh hồn họ nữa. Chúa Giêsu nhắc đến thân mình Người chính là của ăn quý giá ấy. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây”(c.51).
Rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn là loài người được hưởng sự sống dồi dào từ chính máu thịt của Người. Lẽ dĩ nhiên máu và thịt ở đây không phải là máu thịt bình thường như người Dothái vẫn xầm xì : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ấy được”(c.52), mà là Máu Thịt chính Chúa Giêsu sẽ hiến dâng làm của lễ dâng lên Chúa Cha khi Người bị treo trên thập giá. Như thế, chúng ta thấy, lương thực thần linh từ trời ban xuống cho nhân loại không chỉ dừng lại ở việc tin vào Con Thiên Chúa xuống thế làm người mà còn là việc lãnh nhận chính Mình và Máu của Người. Khi chúng ta ăn Thịt và uống Máu thánh Chúa Kytô là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Người, được ở lại trong Người và nhờ đó, chúng ta có được sự sống từ chính nơi Chúa Cha. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c.56).
Hiệu quả của việc lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kytô không chỉ là việc Chúa Kytô ngự trị trong tâm hồn chúng ta và ngược lại, nhưng còn là việc chúng ta hưởng trọn vẹn sự sống vĩnh hằng trong nước Thiên Chúa. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Chính vì tầm quan trọng của việc lãnh nhận linh dược vô giá này, mà Giáo hội đòi buộc mọi tín hữu cần chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng, nếu không, hậu quả sẽ khôn lường. Điều này được thánh Phaolô ghi lại rất rõ ràng. “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa… Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa là ăn và uống án phạt mình” (1 Cr 12, 27.29).
Mừng lễ Mình Máu Chúa Kytô là dịp để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì đặc ân cao trọng Người ban tặng cho loài người, vốn mỏng giòn yếu đuối và bất xứng. Đặc ân đó, Thiên Chúa vẫn hàng ngày ban tặng cho chúng ta trong bất cứ giờ cử hành thánh lễ nào diễn ra trên toàn thế giới. Bí tích Thánh Thể mời gọi chúng ta đến kín múc lương thực Thần linh qua việc lãnh nhận Mình Máu Chúa Kytô để chúng ta được kết hiệp mật thiết với Người; đồng thời giúp mỗi người chúng ta thông phần vào đời sống vĩnh hằng của Thiên Chúa ngay tại thế này.
Nếu chịu khó đi lướt một vòng siêu thị và để ý các mặt hàng tiêu dùng, ta sẽ dễ dàng nhận ra sự khác biệt giữa hàng hoá ngày nay và hàng hoá cách đây vài ba thập niên. Trước kia, đồ dùng có uy tín là những thứ được chế tạo có độ bền cao và có thể sử dụng nhiều lần, lâu dài. Chẳng hạn, một lưỡi dao cạo râu Gillette, được ráp vào cán vặn mở để thay thế và lau chùi, có thể dùng hàng chục lần mà vẫn cứ bén ngọt; hoặc một bộ áo đi mưa phải bền tốt qua nhiều mùa mưa. Nhưng ngày nay, cũng hãng dao cạo ấy, cũng các hãng nhựa ấy, khi làm các đồ dùng lại chủ trương xài một lần rồi bỏ đi. Bên cạnh đó, những hàng hoá điện tử như các loại máy móc, vi tính, điện thoại luôn được nâng cấp, cập nhật với tốc độ chóng mặt và thay đổi xoành xoạch từ mẫu mã đến tính năng, để hưởng lợi tối đa một phần nhờ đánh vào thị hiếu, nhưng nhiều phần lợi dụng sự ganh đua đố kỵ của giới tiêu dùng.
Dần dà tâm lý “ăn xổi ở thì” trở thành não trạng hết sức nguy hiểm: người ta không chỉ chấp nhận những gì thuộc loại “mì ăn liền” mà còn ngán ngại những gì có tính “bền vững” tạo nên hình ảnh khuôn phép cứng nhắc và nhàm chán. Sự thay đổi trở thành một điều tự nhiên, đương nhiên, và có khi còn là một nhu cầu. Trong vô thức, cái nhìn Đức Tin về Mình Máu Thánh Chúa, Bí Tích Cực Thánh mà Phụng Vụ Giáo Hội kính mừng hôm nay, không thể không bị ảnh hưởng sai lạc.
Dù biết rằng không ai có thể ăn phở thay cơm lâu mãi được, nhưng với não trạng “mì ăn liền” được quảng cáo đến mức trở thành nếp nghĩ, thì trong luân lý đạo đức, sự trung thành hôn nhân ít nhiều bị xói mòn và không thiếu những người cho việc thỉnh thoảng “bỏ cơm” để “ăn phở” cũng là bình thường !
Ngoài tính chất của một Bửa Tiệc là Bí Tích “An Uống”, Mình Máu Chúa còn là sự kết hiệp sâu thẳm nhất của cuộc tình Giê-su – Con Người, mà trong đó vai trò con người góp phần quan trọng để hôn phối nên hiệu lực và hiệu quả, tức là phải có ý ngay lành và phải chuẩn bị xứng đáng. Nhưng cũng từ đó mà nảy sinh nhiều tâm lý khá mâu thuẫn. Ở những người “tiếp xúc” với Mình Thánh Chúa hằng ngày do bổn phận ( các Linh Mục ) hay do thói quen ( người siêng năng tham dự Thánh Lễ ), thì sự máy móc trong một công việc quen thuộc đến nhàm chán rất dễ bào mòn lòng sốt mến. Trong khi những kẻ ươn lười việc đạo đức lại thấy quá long trọng, lắm hình thức và điều kiện, đến mức rối rắm, mất công sức, và do đó khó lòng mà trở thành nghĩa thiết. Khi cần kíp, họ thấy bị buộc phải tuân thủ luật Xưng Tội Rước Lễ Mùa Phục Sinh mà không thấy có tâm tình gắn bó gì với Bữa Tiệc và Của Ăn mà họ miễn cưỡng đón nhận.
Ở cả hai trường hợp, điều gây ra “trục trặc” từ cái nhìn đến tâm tình và hành xử chính là do vô tình tách biệt giữa “tác phẩm” ( Mình và Máu ) và “tác giả” ( Chúa Ki-tô ). Tiền Trung Thư là một nhà văn, một học giả nổi tiếng nhất của Trung Quốc hiện nay đến nỗi nhiều học giả khắp bốn phương tìm đến Bắc Kinh để mong được gặp ông. Nhưng Tiền Trung Thư đã khéo chối từ rằng: “Xin lỗi quý vị, quý vị đã ăn trứng thì không cần phải đi tìm gặp gà mái”.
Tác phẩm là sự kết tinh tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự kết tinh ấy đạt đến mức tác phẩm và tác giả hoà làm một, và thật sự chính là một. Vì vậy, khi người ta chỉ xem Mình Máu Chúa như một sản phẩm hoàn thành của “đầu bếp Giê-su” qua sự cộng tác của các đầu bếp Linh Mục, mà quên rằng trong Bí Tích Thánh Thể, Món Ăn cũng chính là bản thân vị Đầu Bếp, tác phẩm cũng chính là tác giả, thì sự thiếu sót lòng mộ mến và gắn kết chỉ là hậu quả tất yếu.
Hơn nữa, quá trình hoán chuyển cũng làm nên sự độc đáo trong Bí Tích Mình Máu Chúa. Nếu suy nghĩ sâu xa thì mới thấy ý định yêu thương của Chúa Ki-tô. Quả thật, ở thức ăn bình thường, con người đón nhận từ bên ngoài, rồi trải qua một quá trình thao tác phức tạp mới có được dưỡng chất biến thành máu và từ máu mới có thịt, xương, nuôi sống toàn thân. Còn nơi Bí Tích Thánh Thể, Thịt Máu Chúa “hoàn chỉnh” tự bên ngoài do tác động của Thánh Linh chứ không do ý chí của người nhận, và không cậy nhờ công ơn hoặc công đức của người nhận ( và kể cả người cộng tác ), để kẻ nhận lãnh Lương Thực Thần Linh này được bổ dưỡng đã đành, mà ngay những kẻ thật lòng ước ao thôi cũng được hưởng ơn ích.
Sau cùng, điều quan trọng thường bị bỏ qua hoặc bỏ quên trong Bí Tích Thánh Thể ấy chính là tính đoàn tụ, liên kết và hiệp nhất: không ai có thể và không ai được nhận Mình Máu Thánh Chúa một mình và cho riêng mình. Chúa Ki-tô là Đầu Hội Thánh và mỗi Ki-tô hữu là một chi thể. Vì vậy, không thể nào hiểu được một hành vi mang tính “xé lẻ”, ích kỷ hoặc tự tách rời các chi thể khác, và tệ hại hơn, còn tự ban cho mình quyền phán xét anh chị em mình. Có chăng đó là một chi thể giả tạo hoặc những gì nó nhận vào chẳng sinh ơn ích gì cho nó, lại còn làm hại cho các chi thể khác nữa.
Không nơi nào tính “duy nhất – thánh thiện – công giáo” thể hiện mạnh mẽ, cụ thể và rõ ràng như trong Bí Tích Thánh Thể, đến nỗi trở thành một đòi hỏi cấp bách: bao lâu người ta chỉ nói về bác ái, yêu Chúa yêu người, bao lâu người ta vẫn chỉ rao giảng đủ thứ và rất nhiều về Tin Mừng, mà không dẫn người nghe đến được Bàn Tiệc Thánh để nhận lãnh Mình Máu Chúa, thì vẫn chỉ là lý thuyết suông, và loại bác ái đó, theo ngôn từ của Thánh Phao-lô, vẫn chỉ đơn thuần là “thanh la, chũm choẹ, tiếng cồng, tiếng lệnh”. Sứ mệnh Tông Đồ Truyền Giáo chính là làm thế nào để dẫn đưa mọi người đến, đón nhận và kết hiệp làm một với Đức Ki-tô và với nhau trong Đức Ki-tô, nhờ Mình Máu Cực Thánh của Người.
Năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano II đã lập ra lễ Mình Máu Thánh Chúa KI-tô để xác nhận, bảo đảm và khuyến khích lòng kính mến vốn sẵn có của giáo dân thời Trung Cổ bên Châu Âu, với ý nghĩa ban đầu được Thánh Tô-ma tiến sĩ gợi ý qua các bản kinh ca ngợi của Ngài là: “Chúa về Trời nhưng vẫn còn hiện diện bên chúng ta, đặc biệt là trong Bí Tích Thánh Thể”.
Theo thời gian, lòng sùng kính đó càng ngày càng sâu xa: ngày lễ này được coi là lễ rất trọng. Sau này ý nghĩa được mở rộng ra có tính cách xã hội, với ý hướng là khi mừng lễ, tham dự Thánh Lễ và rước Mình và Máu Chúa, người Ki-tô hữu sẽ noi gương Chúa Giê-su mà trở thành lương thực nuôi sống nhau như trong bài Tin Mừng: Chúa đã nên của ăn của uống nuôi sống những ai tin và gia nhập vào đoàn dân của Người – là Giáo Hội – ở đời này và bảo đảm cho họ có được cuộc sống vĩnh cửu ở đời sau.
2. chúa GIÊ-SU ĐÃ LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Trong bữa Tiệc Ly, bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giê-su với các môn đệ của Người vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Chúa đã làm một việc vô cùng hệ trọng, một phép lạ lớn lao chưa tùng có, đó là biến bánh miến thành thịt của Người và biến rượu nho thành máu của Người; đồng thời Chúa truyền cho các môn đệ hãy làm như thế để tưởng nhớ đến Người. Vì vậy, bữa Tiệc Ly ngày hôm đó đã trở thành Thánh Lễ đầu tiên do chính Chúa Giê-su là Linh Mục tối cao cử hành. Và trong Thánh Lễ này, Chúa đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể qua việc biến bánh rượu trở nên Mình Máu của Người. Chúa còn muốn qua sự kiện cao quý này, tức là Thánh Lễ với việc truyền phép trên bánh và rượu được tiếp diễn luôn mãi qua các môn đệ của Người ở mọi thời và mọi nơi khi Giáo Hội còn lữ hành trên trần gian này.
3. mình và máu chúa GIÊ-SU
Công Đồng Trento đã tuyên bố rằng: “Bản thể của bánh và rượu trong lúc truyền phép được biến đổi sang bản thể của Mình và Máu Chúa Ki-tô”. Đây là giáo lý về biến thể. Biến thể có nghĩa là sự biến chuyển vô hình từ một bản thể này sang một bản thể khác. Sau sự biến chuyển này, bánh và rượu không còn nữa, mặc dầu hình bánh và hình rượu vẫn còn, nghĩa là màu sắc, mùi vị, hình thức... tất cả những gì giác quan chúng ta cảm nhận được, vẫn còn y nguyên, không thay đổi. Nhưng bản chất bánh và rượu đã được biến đổi thành Mình và Máu Chúa.
4. THÁNH THỂ LÀ BÍ TÍCH ĐỨC TIN, BÍ TÍCH TÌNH YÊU
Sự biến thể nêu trên là một mầu nhiệm, mầu nhiệm cao cả, chúng ta chỉ có thể đón nhận bằng Đức Tin. Chính vì thế, sau truyền phép, Linh Mục lớn tiếng công bố: “Đây là mầu nhiệm Đức Tin”.
Thánh Thể còn là Bí Tích Tình Yêu. Thánh Gio-an, môn đệ của Người đã viết: “Chúa Giê-su đã yêu thương các môn đệ của Ngài, và đã yêu thương họ đến cùng”. Đỉnh cao tình yêu của Chúa Giê-su ở đây là việc lập Bí Tích Thánh Thể, để từ nay Người trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa Người với bất cứ ai muốn đến viếng thăm, trò chuyện với Người và giữa những người Ki-tô hữu với nhau. Như vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giê-su đã tìm ra một cách thế tuyệt hảo để ở lại với tất cả những ai tin vào Người. Đúng như lời Chúa đã nói: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa đã ở lại, đã chờ đợi chúng ta luôn mãi qua Bí Tích Thánh Thể.
5. THÁNH THỂ CÒN LÀ BÍ TÍCH CỦA SỰ CHIA SẺ
Trong bầu khí thân thương của một bữa ăn từ biệt giữa Chúa Giê-su và các môn đệ, Chúa đã lần lượt cầm tấm bánh và chén rượu, truyền phép và phân chia cho các ông để các ông cùng ăn cùng uống với nhau trong tình huynh đệ. Chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ để các môn đệ làm mà nhớ đến Người.
Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc người Ki-tô hữu, ngoài việc cử hành Thánh Thể bên trong Nhà Thờ, còn phải sống Mầu Nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tình yêu ngay trong cuộc sống hằng ngày. Người Ki-tô hữu sẽ cử hành Thánh Thể một cách có ý nghĩa hơn nếu biết sống vị tha, biết quan tâm đến nhu cầu của những người chung quanh. Nếu người Ki-tô hữu nào nghèo của cải vật chất, thì có thể chia sẻ, cho nhau tình thương, sự thông cảm, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
6. THÁI ĐỘ NỘI TÂM CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU ĐỐI VỚI MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ
Việc ăn thịt và uống máu Chúa là một thái độ, một hành vi nội tâm hơn là việc mang tính thể lý, xác thịt. Không có thái độ hay hành vi nội tâm ấy thì việc rước Mình Máu Thánh Chúa có lẽ không được ơn ích gì !
Vả lại, Mình và Máu Chúa là chính Chúa với toàn thể Con Người và hoạt động của Người trong suốt ba năm truyền giảng Tin Mừng. An thịt và uống máu Chúa chính là dùng gương mẫu đời sống của Người, dùng Lời của Người để suy niệm, để thực hành, để bắt chước hầu ngày càng trở nên giống Chúa Giê-su trong quan niệm, tư tưởng, lời nói và hành động của mỗi người Ki-tô hữu chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con cảm tạ Chúa vì Ngài đã yêu thương mà hy sinh lấy Mình Máu Chúa làm của ăn của uống nuôi sống chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận và sống sự sống Thần Linh của Chúa để chúng con biết yêu thương, hy sinh và phục vụ lẫn nhau. Amen.
7. GỢI Ý ÁP DỤNG
Truyện kể rằng: Một hôm, người ta hỏi một em bé chín tuổi mới được rước lễ lần đầu: “Đâu là sự khác biệt giữa cây thánh giá và Mình Thánh Chúa ?” Em bé ấy trả lời thật xuất sắc rằng: “Trên cây Thánh Giá, người ta thấy Chúa Giê-su, nhưng Ngài không có ở đó. Còn trong bánh Thánh, người ta không thấy Ngài, nhưng Ngài ở trong đó”. Đúng vậy, về phép Thánh Thể, người ta không thể nhìn bằng con mắt xác thịt, mà chỉ có thể nhìn bằng con mắt đức tin, bởi vì đây là một mầu nhiệm đức tin, nhưng đây cũng là một mầu nhiệm của tình yêu thương. Vậy, mỗi khi tham dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Chúa vào lòng, tôi đã cảm nghiệm điều này đến mức nào hay chỉ làm việc thánh thiêng này một cách máy móc như bao công việc thường ngày khác ?
Bàn tiệc Thánh Thể là bàn tiệc chia sẻ. Người Ki-tô hữu khi đã thông hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể thì cũng nên thông hiệp với nhau bằng cuộc sống yêu thương phục vụ. Có như thế, bàn tiệc Thánh Thể sẽ là điểm hẹn diệu kỳ, nơi ấy mỗi người Ki-tô hữu sẽ được nối kết với Chúa Giê-su, nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một Nước Trời ngay ở trần gian công bằng hơn, yêu thương hơn và tốt đẹp hơn.
8. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su, Giáo Hội được Chúa trao phó cử hành và trao ban Thánh Thể cho các tín hữu. Nguyện xin Chúa ban cho mọi thành phần trong Giáo Hội luôn biết yêu mến và gắn bó với Chúa Giê-su Thánh Thể. Lạy Chúa Giê-su, Thánh Thể là một hy lễ. Nguyện xin Chúa cho ngày càng có nhiều người quảng đại dấn thân phục vụ anh chị em nghèo khổ, hoạn nạn và bị bỏ rơi trong xã hội. Lạy Chúa Giê-su, nơi Bí Tích Thánh Thể, Ngài luôn mời gọi và chờ đợi mỗi người Ki-tô hữu chúng con. Xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn chúng con biết yêu mến Thánh Thể, siêng năng rước lễ, để nhờ đó đón nhận dồi dào sức sống của Chúa và có khả năng kiến tạo tình hiệp nhất yêu thương trong gia đình, trong cộng đoàn và trong môi trường xã hội.
Phúc âm thánh lễ hôm nay thuật lại cuộc bàn tán của các thính giả Do thái khi nghe Chúa Giê-su tuyên bố thịt Ngài là của ăn, máu Ngài là của uống (c. 55). Họ nói : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt của ông ta được ?” Theo kinh nghiệm dân gian, điều thắc mắc xem ra có lý. Chính vì vậy, thánh Gioan kể tiếp : Nhiều môn đệ rút lui, không theo Ngài nữa. Vài kẻ khác phàn nàn : “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” Sự bất đồng thực ra không chấm dứt vào cuối thế kỷ I trong cộng đoàn thánh Gioan, mà còn kéo dài mãi cho tới ngày nay. Gần đây tôi được một linh mục bạn kể cho nghe câu chuyện về chính ông. Một giáo dân xông vào nhà xứ nhạo cười đức tin của ông. Hắn nói : “Làm thế nào bánh và rượu có thể biến thành Mình và Máu Chúa Ki-tô mà linh mục tuyên bố hằng ngày ? Có lường gạt không đấy !” Bạn tôi trả lời : “Tôi không bao giờ lường gạt. Chuyện đó có thể và dễ thôi, ngày ngày ông bạn chẳng ăn vào bụng cơm gạo, rau đậu, thịt cá và chúng ta đã trở nên da thịt của ông bạn đó sao ?” Người giáo dân say rượu không chịu thua : “Vậy cái xác to béo của Chúa Giê-su làm sao ở trong tấm bánh nhỏ xíu được ?” Cha xứ trả lời : “Khó gì đâu ! Cả một phong cảnh rộng lớn trước mắt ông bạn chẳng lọt vào tròng mắt nhỏ bé như viên bi của chúng ta sao ?” Người giáo dân ương gàn tiếp : “Thế làm sao một Giê-su lại có thể hiện diện khắp các nhà thờ trong cùng thời gian được ?” “Dễ ợt ! như vậy này !” Linh mục cầm một tấm gương soi giơ lên trước mặt đỏ gay của người thanh niên để hắn nhìn vào, rồi mém tấm gương xuống sàn gạch, tấm gương vỡ tan thành trăm mảnh. Linh mục bảo người tín hữu cúi xuống nhìn xem trăm mảnh vỡ, nói : “Mặt bạn chỉ có một nhưng bây giờ bạn thấy bao nhiêu ?” Người vô tín cúi mặt bỏ đi. Câu chuyện như vậy xem ra không hiếm trong thời đại chúng ta ! Nhất là nơi những thanh niên thiếu nữ va chạm với các môi trường thiếu niềm tin tôn giáo, như trường học, nhà máy, xí nghiệp, công trường, …
Người Do thái tuy ăn bánh vật chất Chúa cung cấp, nhưng lại thấy giáo lý của Ngài quá đáng, khó có thể chấp nhận (dù đó là sự thật). Họ ăn bánh nhưng không có khả năng thâm nhập ý nghĩa mầu nhiệm Chúa gởi gắm vào những tấm bánh đó. Ngay cả chúng ta ngày nay, mặc dù tốn biết bao giấy mực giải thích, vẫn chưa thật lòng tin vào lời Chúa Giê-su. Nếu tin, chắc hẳn chúng ta đã thay đổi nếp sống. Theo dòng lịch sử, vẫn thường nổi lên ý kiến cho rằng Ngài phát biểu như vậy là theo nghĩa biểu tượng, tức hình bóng mà thôi. “Bánh bởi trời” là ngôn ngữ văn chương của nhiều truyền thống thời Chúa Giê-su. Ngài mượn để nhấn mạnh người ta phải hấp thụ sự khôn ngoan mà Ngài đang giảng dạy. Lại còn số người khác thông thạo tiếng Hy lạp cho rằng theo ngôn ngữ thì phải thực sự ăn thịt và uống máu Ngài một cách thể lý chứ không theo kiểu bí tích như Hội thánh xưa nay vẫn chủ trương.
Dù được hiểu thế nào đi nữa, Chúa Giê-su muốn kết hiệp mật thiết với tín hữu, không khoảng cách nào được cho phép. Lấy trên tay, ăn như bánh, uống như rượu và tan biến thành một thực thể. Đám đông Do thái đã ăn bánh vật chất Chúa Giê-su ban thế nào, thì cũng là điều Ngài muốn các tín hữu rước Ngài như vậy vào lòng. Chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng chính thân thể Ngài. Ngài chính là bữa tiệc thịnh soạn Thiên Chúa ban cho loài người để được sống muôn đời. Một tác giả người Pháp đã viết : “Le repas des adieux de Jesus va se changer en un festin de présence éternelle” (bữa tiệc ly của Chúa Giê-su đổi thành yến tiệc của sự hiện diện đời đời). Một tư tưởng chân thật và thâm thuý cho những ai yêu mến Thánh thể. Nó chứa đựng tràn trề hy vọng cho những lữ khách trần gian. Ngài là bữa tiệc ban sự sống vĩnh cửu, không phải như những bữa ăn tạm thời nơi trần thế. Ngài ao ước ban Mình Máu Ngài cho chúng ta toàn vẹn và vĩnh cửu. Ngài quá gần gủi với mỗi tâm hồn đến độ trở nên làm một hữu thể, một sự tồn tại. Có lẽ vì thế mà các thính giả cảm thấy lời Ngài là quá đáng chăng ? Bởi lẽ Ngài đã ban tặng như vậy, chúng ta phải làm điều chi đó để đáp trả ?
Giả như Thiên Chúa còn có ý định giữ một khoảng cách nào đó, như các thần linh khác, thì có lẽ Giáo hội được tổ chức khác đi, với nhiều hoạt động hoành tráng hơn, lễ vật thịnh soạn hơn, thịt béo rượu ngon, hương thơm ngào ngạt hơn, như trong Cựu ước. Lúc ấy tín hữu có thể rộng đường hành động, bởi lẽ không nhiều đòi hỏi đáp trả. Nhưng được tiêu hoá Thiên Chúa, tan biến vào Thiên Chúa thì quả là việc vựơt xa trí tưởng tượng của loài người. Rồi phải đáp trả bằng dâng hiến toàn thân làm hy lễ tình yêu cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân hết khả năng, thì đúng loài người không thể làm nổi. Có lẽ vì vậy mà đám đông cằn nhằn sau lưng Chúa Giê-su. Nhưng trong lịch sử Israel, Thiên Chúa đã nuôi sống họ bằng Manna suốt 40 năm trường nơi sa mạc khô cằn và Chúa Giê-su đã nuôi đám đông đói khát bằng hai phép lạ nhân bánh lên nhiều, thì Ngài tặng ban mình làm của ăn, của uống nuôi dưỡng nhân loại trên đường hành hương về Nước trời không phải là vô lý.
Tác giả Abbé Paul viết trong cuốn “Les Merveilles de l’amour Miséricordieux” (Phép lạ của tình yêu thương xót) : “Trái tim Chúa Giê-su đã thực hiện một kiệt tác của tình yêu, đó là phép Thánh thể. Phép Thánh thể rút ra từ Thánh Tâm Chúa như giòng sông từ nguồn mạch.”(trang 293). Chúng ta lại gặp một tư tưởng lớn hết sức an ủi. Những người có thói quen suy niệm sẽ nhận ra đây là một kho tàng phong phú cho việc chiêm niệm : Nguồn mạch của bí tích Thánh Thể chính là Thánh Tâm Chúa, Thánh Tâm đã bị đâm thâu vì yêu dấu nhân loại, máu cùng nước tuôn trào để làm phát sinh ơn cứu độ, phát sinh các bí tích, đứng đầu là Thánh thể. Nuôi dưỡng bằng thịt máu Chúa không thể có hiệu quả nào khác ngoài sự sống muôn thuở và ở lại vĩnh viễn trong Ngài.(trừ phi chúng ta cố tình đuổi Ngài đi). Và Ngài ở lại trong chúng ta, không như khách trọ nhưng là người cư trú vĩnh viễn. Thức ăn của uống Ngài ban không bao giờ mai một và làm cho kẻ ăn lại đói. Ngược lại, nó làm no thoả cơn đói nhiều mặt của cuộc sống con người.
Lễ trọng hôm nay về của ăn thức uống, đương nhiên cũng về kẻ đói người khát. Thức ăn của uống là để thoả mãn các cơn đói khát của chúng ta. Nhưng thế giới ngày nay tạo nên nhiều kiểu đói khát mà chúng ta chẳng hề hay. Các quảng cáo, các nhà hàng, các tiếp thị, các hãng xưởng liên tục đưa ra xã hội khát vọng mua sắm : Kiểu xe hơi mới nhất với đầy đủ tiện nghi sang trọng, chiếc truyền hình màn phẳng siêu mỏng rỏ nét nhất, điện thoại di động đa chức năng, máy vi tính “Laptop”siêu tốc, quần nhung áo lụa Trung quốc hàng hiệu. Trăm ngàn thứ cám dỗ làm khuynh đảo lòng người, nhất là thanh niên thiếu nữ mới lớn, chưa có kinh nghiệm về cạm bẫy xã hội. Những thuốc “lắc” liều lượng Viagra, dược phẩm có tác dụng trẻ hoá mười năm, hai mươi năm đầy tràn thị trường, … Nhưng khi tiêu xài, thoả mãn rồi, thì lại nảy sinh khao khát khác. Tình trạng kể như vô tận, bởi dục vọng loài người xem ra không hạn định, càng được thoả mãn nó càng đòi hỏi. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn quan tâm đến những nhu cầu của chúng ta, không phải thứ đói khát vừa được liệt kê ở trên, chúng giả tạo nhưng là thứ đói khát căn bản hơn. Tận đáy linh hồn chúng ta có những khát vọng chân thật như tự do, công bằng, yêu và được yêu, hạnh phúc, tín ngưỡng, nhất là được sống mãi mãi. Tác giả Jim Wallace đề nghị nêu lên những điểm sau đây :
Thứ nhất: khao khát thánh thiện hay nói theo kiểu phổ thông là nhân phẩm vẹn toàn. Nó nằm ở tận đáy chiều sâu của con người, Chúa Giê-su đã từng kêu gọi chúng ta thoả mãn khát vọng này : “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện.”(Mt 5, 48). Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vào khát vọng này dưới ánh sáng của Tin mừng hôm nay. Chúa Giê-su ban tặng bản thân Ngài cho chúng ta làm của ăn thức uống chủ yếu để thoả mãn ước ao vẹn toàn nhân cách của nhân loại. Các phân tích xã hội đồng ý chỉ ra rằng con người tân thời bị vụn vỡ rất nhiều. Họ phân chia linh hồn trong nhiều lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, nghệ thuật, bè phái, ý thức hệ. Họ ít còn khả năng sống cho chính mình, vì vậy liên tục tìm kiếm ý nghĩa vẹn toàn cho sự tồn tại của mình. Thực tế, các nhà tâm lý học gọi người thời nay tâm thần phân liệt, nghĩa là yếu đuối, mỏng giòn, dễ tan ra từng mảng vụn, không dễ nhất quán trong công ăn việc làm, quan điểm và nhân cách. Cho nên, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta : “Chén chúng ta chia sẻ là dự phần vào Máu thánh Chúa Ki-tô, và bánh chúng ta bẻ ra không phải là tham dự vào Thân thể Người sao ?” Trong bữa ăn này, chúng ta hiệp nhất với Chúa và liên kết với nhau trong sự thánh thiện chung hay nói cách khác, trong sự toàn vẹn của nhân phẩm loài người, triệt tiêu mọi sự chia rẽ do tội lỗi gây ra. Đức giáo hoàng Phaolô VI nói ở Orvieto ngày 11- 08-1964 rằng : “Con người thời nay, cũng như con người hôm qua luôn cần đến Chúa Ki-tô để thoả mãn khát vọng tự do, trưởng thành và tiến bộ xã hội, hoà bình thế giới và mở rộng các ước mơ của mình. Họ cần Chúa Ki-tô, bởi vì chỉ mình Ngài mới có thể hoà hợp chúng với chân lý và cuộc sống”. Qua bí tích Thánh thể, điều mà quá khứ Chúa thực hiện cho các giáo dân thì bây giờ Ngài vẫn làm thành hiện tại và sống động nơi mỗi linh hồn chúng ta. Đó là ơn cứu rỗi, sự thánh thiện và tính vẹn toàn nhân phẩm của chúng ta. Khát vọng thứ nhất của nhân loại đã được thoả mãn.
Sự đói khát thứ hai lôi kéo chúng ta đến bàn tiệc Thánh thể là đói khát ý nghĩa đời sống. Không khoái lạc nào, không việc mua bán nào có thể thoả mãn ước vọng này. Hãy nhìn vào những kinh hoàng, những bạo lực, những chiến tranh, những hình thức khác của tàn phá như khủng bố, giết người, thiên tai chúng ta sẽ phải ngạc nhiên đặt câu hỏi : “Tất cả những điều này có nghĩa làm sao ?” Câu trả lời khó mà tìm thấy giữa những hỗn loạn của thế giới, giữa những ồn ào của xã hội loài người. Nhưng giây phút chia sẻ bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Chúa Giê-su cho chúng ta không gian thực tế để nhận ra ý nghĩa của cõi nhân gian này. Bởi vì Mình và Máu thánh Chúa nối kết chúng ta với cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su. Đấy là ý nghĩa của cuộc đời mỗi người. Nó tập hợp chúng ta thành một dân tộc với một tương lai rõ ràng : Thi hành thánh ý Thiên Chúa trên cõi trần gian. Không có lý tưởng nào cao đẹp hơn. Có thể trong cuộc sống chúng ta chẳng tìm được câu trả lời. Nhưng tiếp xúc với Chúa Ki-tô chúng ta được Ngài giúp đỡ để nhìn ra ý nghĩa của niềm vui nỗi khổ của mình qua tối tăm của biển đời trần thế.
Tác giả Wallace còn kể ra một loại đói khát nữa liên hệ với thánh lễ hôm nay, là ước mong được thuộc về cộng đoàn, được liên lạc ấm áp với tha nhân. Ước vọng này cũng nằm sâu thẳm dưới đáy con tim mỗi người. Ai ai cũng sợ nỗi cô đơn, trốn tránh những giây phút lẻ loi. Vì thế, người ta ưa tìm đến các tụ điểm, những chỗ ăn chơi như quán trà, cà phê, tửu điếm và trở nên trác táng. Chúa Giê-su giúp đỡ chúng ta tránh xa sự hoang vắng vô bờ nên đã tuyên bố : “Những ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.” Bữa tiệc thánh chúng ta tham dự hằng ngày nối kết chúng ta, không những với Chúa Giê-su, mà còn với tất cả mọi tín hữu trên thế giới cùng ăn uống hôm nay như chúng ta. Tất cả đều trở thành bạn đồng hành. Tiếng La tinh bạn đồng hành là companio, gồm hai từ ghép lại với nhau : từ com = cum = có nghĩa cùng nhau và panis nghĩa là bánh. Companio là cùng ăn bánh với nhau. Do việc ăn bánh và uống rựơu trên bàn tiệc thánh, Chúa Giê-su dọn cho, chúng ta họp thành một cộng đoàn cùng hành hương về nhà Cha. Chúng ta tuyên bố mình không cô đơn, ngược lại, liên kết với nhau khăng khít như anh em ruột thịt qua phép Rửa tội và Thánh thể. Chúng ta dấn thân phục vụ nhau như thành phần của một thân thể.
Hơn nữa, Mình Máu thánh Chúa còn nối kết chúng ta với những người đã qua đời, những tổ tiên trong đức tin. Họ cũng từng ăn và uống Mình Máu Ngài và hiện đang dự yến tiệc trên thiên quốc. Họ là những đấng thánh. Trong nghĩa này, họ cũng là bạn đồng hành (companio) với chúng ta trên hành trình về quê trời. Họ cầu nguyện cho chúng ta, nêu gương sáng cho mọi người bằng chính đời sống mình. Họ khuyến khích chúng ta bước đi vững chãi trên con đường thánh thiện và cầu mong mọi người đều sum họp. Như thế, mối giây thân ái yêu thương của bí tích Thánh thể ràng buộc chúng ta với Chúa Ki-tô và các tín hữu khác không hề bị bẻ gãy, dù là sự chết. Nó bền vững muôn đời. Tử thần không thể nuốt chửng chúng ta được, đúng như lời Chúa Giê-su tuyên bố : “Ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời.” Ước mong các tín hữu cảm nghiệm được thông điệp chân thật của Chúa Giê-su trong thánh lễ hôm nay. Amen.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu ban tặng cho loài người một kỷ vật cao qúi nhất do động lực yêu thương thúc đẩy. Ðó chính là Mình và Máu thánh của Người. Trong bữa tiệc ly, Chúa lập Bí Tích Thánh Thể để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người và để ở lại với loài người cho tới ngày tận thế. Bữa Tiệc ly là thánh lễ đầu tiên mà Chúa cử hành với các tông đồ trước khi chịu khổ hình thập giá. Qua lễ hi sinh thánh giá, Chúa lập một giao ước vĩnh cửu với loài người. Các thánh lễ được cử hành kế tiếp trên khắp hoàn cầu theo lệnh truyền của Chúa ‘Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày’ (Lc 22:19) là việc làm mới lại lễ hi sinh thánh giá. Tham dự vào bàn tiệc của lễ hi sinh thánh giá là dấu chỉ người tín hữu chấp nhận giao ước mới với Thiên Chúa.
Người Do Thái trong suốt dòng lịch sử Cựu ước sống bằng lời Chúa. Lời Chúa là lẽ sỗng và là nguồn hi vọng của họ mặc dầu họ gặp gian nan, thử thách và khổ cực ‘Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra’ (Ðnl 8:3). Người Tin lành cũng sống bằng lời Chúa. Lời Chúa nuôi sống đức tin của họ. Bánh manna mà Chúa ban cho dân Do Thái trong sa mạc (Ðnl 8:16) là để nuôi dưỡng thân xác của họ và cũng là dấu hiệu tiên báo bánh hằng sống. Còn bánh hằng sống là Mình và Máu Chúa Giêsu là để nuôi dưỡng phần hồn: Ai ăn thịt và uống máu tôi, sẽ được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6:54).
Lời Chúa giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người khiến cho người Do Thái bị vấp phạm. Họ tranh luận với nhau: Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được (Ga 6:52)? Ðối với người tin tưởng thì Mình Thánh Chúa còn là lương thực thiêng liêng: Ðây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6:58).
Trước khi trở thành tấm bánh để nuôi dưỡng thân xác loài người, hạt lúa miến phải trải qua những tiến trình như bị tróc vỏ, bị xay ép, bị nghiền nát và nhào lặn thành bột, rồi nướng thành bánh để được bẻ ra và phân phát cho nhiều người. Ðể làm lễ vật hi sinh đền tội cho loài người được hiệp nhất với Thiên Chúa Cha và để trở thành bánh hằng sống, bẻ ra và phân phát cho nhiều người, Chúa Giêsu cũng trải qua những tiến trình bị tẩy chay, bị chống đối, bị bách hại, bị tra tấn, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai và chịu chết trên thánh giá. Chúa tự hiến toàn thân để trở thành tấm bánh hằng sống cho loài người ăn hầu được sống. Ðược tiếp nhận Mình thánh Chúa vào tâm hồn, người tín hữu lại cố gắng sống theo đường lối Chúa và tuân giữ giới răn Chúa để được hưởng sự sống vĩnh cửu.
Tin vào lời Chúa khiến cho người Do thái được hiệp nhất với nhau. Tin vào lời Chúa cũng khiến cho người Tin lành được hiệp nhất. Qua việc tin tưởng vào lời Chúa và ăn cùng một bánh thánh, người tín hữu còn được hiệp nhất với nhau trong một nhiệm thể mà Chúa Kitô là đầu như lời Thánh Phaolô dạy: ‘Tất cả chúng ta cùng chia sẻ một Bánh thánh, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể’ (1Cr 10:17).
Hôm nay Chúa mời gọi ta đến dự bàn tiệc thánh để được rước Mình thánh Chúa. Ðể đáp trả lời Chúa mời gọi, ta cầu nguyện để xin cho được tránh khỏi những thái độ và cử chỉ quen quá hoá nhàm hầu có thể tỏ lòng tôn kính, mến yêu và quí trọng Bí tích Thánh thể. Ta không biết đánh giá điều ta luôn có trong tầm tay. Chỉ khi mất ta mới luyến tiếc. Giả sử trong một thời gian khá lâu, không có thánh lễ và Thánh thể, ta mới đánh giá được tầm quan trọng của thánh lễ và Thánh thể. Ta cũng cầu xin cho được khỏi phạm đến Mình và Máu thánh Chúa như thánh Phaolô cảnh giác: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cr 11:27). Vậy thì ta nguyện xin cho được hưởng sự sống đời đời như lời linh mục chủ tế cầu nguyện thầm cho mình và cho cộng đoàn dân Chúa ngay sau khi bẻ Bánh trong thánh lễ: Xin Mình và Máu Chúa Giêsu hoà lẫn với nhau mà chúng con sắp lãnh nhận, cho chúng con được sống muôn đời.
Lời nguyện xin cho được tin và sống nhờ việc ăn bánh hằng sống:
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể.
Con xin cảm tạ Chúa đã lập Bí tích Thánh thể
để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.
Xin tha thứ những lần con rước lễ một cách máy móc,
tỏ thái độ và cử chỉ bất kính khi lên rước Mình Thánh Chúa.
Xin Chúa làm mới lại đức tin của con vào sự hiện diện thực sự
của Chúa trong Bí tích Thánh thể.
Xin Chúa hãy đến ngự trị trong tâm hồn con,
nuôi dưỡng và ban sức sống thiêng liêng cho linh hồn con
để con được hưởng sự sống vĩnh cửu trong nhà Chúa. Amen.
Khác với ba Tin Mừng nhất lãm, Thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Thánh Thể chiều ngày thứ năm Tuần Thánh nhưng sau khi hóa bánh ra nhiều lúc Đức Giêsu phân phát lương thực trần gian cho những người đau khổ, thánh sử đặt vào miệng Đức Giêsu một bài giảng dài về bánh hằng sống ban sự sống muôn đời
Theo một văn phong điển hình của Thánh Gioan, trang Tin Mừng ngắn mà chúng ta đọc hôm nay chứa đựng năm từ chìa khóa: ăn (8 lần)..uống (4 lần)...thịt (5 lần).. máu (4 lần)... sống (9 lần)... Phải để mình cuốn hút vào giọng nói có nhịp điệu ấy và dám vượt ra ngoài ngôn ngữ và ý tưởng trong sáng. Sự gặp gỡ với mầu nhiệm Thiên Chúa không bao giờ ban cho người nào gắn chặt và bám víu vào cái tri giác được, vào nhân tính và sự duy lý.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống"
Bánh! Dẫu sao cũng là một vật rất đơn giản và rất, con người đối với toàn bộ vùng duyên hải của biển Địa Trung Hải, bánh (bánh mì) là lương thực căn bản, như khoai mì đối với châu Phi và lúa gạo đối với Châu Á bánh cũng là biểu tượng cho sự sống: Ai không ăn chẳng bao lâu sẽ chết và ai ăn không ngon phải đến bác sĩ, vì đó là dấu hiệu có cái gì không ổn trong sức khỏe của mình...
Nhưng, ngay sau đó, chúng ta được phóng lên bên trên những từ ngữ của Đức Giêsu: Đức Giêsu nói Người là bánh, lương thực nuôi sống... Hơn thế nữa, Người còn khẳng định rằng lương thực ấy thiêng liêng, từ trời xuống... Và đó là bánh hằng sống? Vậy thì đó là một thứ bánh tra hỏi chúng ta về bản chất cái đói của chúng ta đối với tôi sống có nghĩa là gì? Nếu tôi không muốn ăn thánh thể, chứng bệnh thiếu máu nào rình chờ tôi? Tôi nuôi sống mình bằng gì? Phải chăng bằng tài sản? Bằng lạc thú? Bằng tiêu thụ? Bằng lao động? Những sự thích tự phát và sơ đẳng của tôi là gì ?
"Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Có nhiều "trình độ" sống khác nhau. Pascal đã nói đến "ba cấp độ của sự cao cả": Những sự cao cả của xác phàm những sự cao cả của tinh thần và sau cùng sự cao cả của thánh thiện.. “Gom tất cả thân thể lại, người ta không thể làm ra một tư tưởng nhỏ : điều đó không thể làm được và tư tưởng thuộc về một trật tự khác. Gom tất cả thân thể và tinh thần lại người ta không thể rút ra một vận động của bác ái chân thật, điều đó không thể làm được và bác ái thuộc về một trật tự khác, trật tự siêu nhiên (Tư tưởng 585). Dĩ nhiên là có sự sống của thân thể, thuộc sinh học, đúng theo bản chất của nó là đẹp và mong manh một nhãn hiệu quần dài và qua đã treo một biểu ngữ quảng cáo với lý tưởng đó: "Bạn hãy để cho thân thể bạn phát biểu người ta thấy mình đang ở trình độ nào! Nhưng đời sống thật của con người là đời sống trí thức: Chính tư tưởng phân biệt con người với thú vật. Và chúng ta còn có một đời sống tâm linh: điều quan trọng lúc đó là yêu thương chân thật.
Đức Giêsu không ngừng nghĩ đến "đời sống thánh thiêng" "đời sống muôn đời như Người nói.
“Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống".
Những thánh sử khác dùng một từ khác: "Này là mình Thầy" còn Gioan để nói về sự nhập Thể đã sử đụng chữ "thịt" được dịch ra tiếng Việt là "người phàm". "Và Ngôi Lời đã trở thành: người phàm." (Gioan 1,14)... “Đức Giêsu Kitô đã đến và trở nên người phàm (1 Gioan 4,2)... Gioan nhấn mạnh nhiều trên tính hiện thực của Đức Giêsu: "Điều chúng tôi đã thấy tận mắt và tay chúng tôi đã chạm đến" (l Gioan 1,1) người phàm, theo nghĩa Kinh Thánh, trước tiên không phải là bản chất thể lý mà chúng ta còn gọi là thịt, xác thịt...mà là toàn bộ "hữu thể sống", là "ngôi vị trọn vẹn".. “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là tôi, tất cả sự sống tôi”. Khi nói về "thịt tôi đây", như trong câu này, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người. Khái niệm này rất quan trọng: Đức Giêsu phải đi qua cái chết để chúng ta được nuôi sống bởi Người.. Người phải đi qua cái chết để chúng ta được sống.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?"
Không phải chỉ ngày nay Thánh Thể bị từ chối ngay từ ngày đầu tiên, người ta đã gào lên "điên rồ!"
Ai bám víu vào sự lĩnh hội ngay lập tức của các từ ngữ sẽ không thể đạt đến điều Đức Giêsu muốn nói:
Đức Giêsu nói với họ: "Thật tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông " không có sự sống nơi mình".
Không nao núng, Đức Giêsu còn nói thêm! Người không tìm cách để tránh gây thương tổn cho đến lúc này, Người chỉ nói "ăn" thịt Người.. Người nhấn mạnh thêm khi nói rằng phải "uống" máu Người. Sự ám chỉ về máu nhắc nhớ đến nghi thức hiến tế chiên vượt qua nơi những người Do Thái đối với tâm thức của người Do Thái, uống máu là một điều cấm kỵ, một sự cấm kỵ thiêng liêng... không chỉ không được phép mà còn ghê tởm, phạm thánh! Ngay cả thịt các động vật phải để cho nhỏ hết máu trước khi được ăn.. bởi vì máu là sự sống (Lêvi 17,11-14; Đệ nhị luật 12,23)
Nhưng thực tại văn hóa ấy, mà từ “máu” chuyển tải trong tư tưởng Thánh kinh cho thấy rõ ràng không chỉ là thứ chất lỏng gồm các hồng cầu và bạch cầu máu mà Đức Giêsu nói đến, chính là sự mới sẽ đến từ cái chết của Người chúng ta chớ bao giờ quên rằng thực tại mầu nhiệm của Mình và Máu mà chúng ta tiếp nhận chính là "thân thể vinh quang và thiêng liêng của Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Về vấn đề này, phải đọc lại sự khai triển của, Thánh Phaolô: "Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên nhưng là một hạt trơ trụi, như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý Người muốn: Giống nào hình thể nấy... Việc kẻ chết sống lại cũng vậy gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có sinh khí mà trỗi đậy là thân thể có thần khí...” (1 Côrintô 15,37-42)...
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”.
Sự vượt qua phi thường của các từ ngữ mà chúng ta được mời gọi trong đức tin, không nên làm cho chúng ta đi đến một ý nghĩa chỉ thuần là ẩn dụ hoặc làm dịu đi. Ở đây Gioan thình lình thay thế từ "phagein”, "ăn" mà ngài đã dùng cho đến lúc này.. bằng từ "trôgein" mang tính hiện thực nhiều hơn và có nghĩa là “nhai"! Mọi bản dịch đều ngần ngại đi theo thánh sử tới đó! Tuy nhiên, ở đây chúng ta có một ghi nhận văn hóa quan trường: trong bữa tiệc vượt qua, con cái Israen được khuyên bảo phải nhai kỹ thức ăn như để hấp thụ thức ăn ấy tốt hơn. Chính Đức Giêsu ám chỉ đến tập tục đó. Và trong điều đó, không có gì là ma thuật.. nhưng là một sự tượng trưng sâu xa rất hiện thực và rất có ý nghĩa bởi vì đời sống thiêng liêng của chúng ta được nuôi dưỡng và được diễn tả bằng thân thể.
“Vì thịt tội thật là của ăn và máu tôi thật là của uống"
Từ "thật" được lặp lại hai lần. Đức Giêsu, nhất là trong Tin Mừng của Gioan không ngừng đi từ một thực tại hữu hình đến một thực tại khác sâu xa hơn. Con người khát vọng sự viên mãn điều mà cón người đã có kinh nghiệm về niềm vui, tình yêu, sự sống làm cho con người ước mơ niềm vui sau cùng, không pha tạp một tình yêu hoàn toàn làm thỏa mãn, một đời.. sống không có sự chết. Lịch sử nhân loại là một lịch sử dài của những ước mơ bị tước đoạt những khát vọng thất bại Đức Giêsu dám đề nghị sự sống thật, lương thực thật.
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Ở đây có một từ mà thánh Gioan hay dùng: Ở lại! Đề tài này sẽ còn được phát triển dài vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh, trong bài văn phúng dụ về cây nho: thầy là cây nho anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Gioan 15,5) một trong những lời tự phụ nhất mà một con người bình thường không bao giờ phát biểu. Lời gây vấp ngã, nếu đó không phải là lời của Thiên Chúa.
“Nhai thịt”.. “uống máu"... Khi Gioan viết những lời này, các Kitô hữu đã cử hành bữa ăn mầu nhiệm Thánh Thể, tức thánh lễ. Thật vậy trong thánh lễ, có hai dấu chỉ phân biệt: bánh, chất rắn phải ăn... rượu nho, chất lỏng phải uống... Và có hai lời phân biệt: "Này là mình Thầy bị nộp.. này là máu Thầy đổ ra..." .
Thịt...Máu...làm thế nào mà không nghĩ đến cách cụ thể mà Đức Giêsu đã chết trên thập giá! Thánh Lễ đưa chúng ta về Gôngôtha nghĩa là hy tế đổ máu của Đấng đã ban cho tất cả một cách tự do. Hiệp thông với Đức Giêsu, không thể chỉ là một phần của phút trong đó chúng ta hiệp nhất với Người. Điều đó cũng phải là toàn bộ thời gian và bề dày của đời sống chúng ta mỗi ngày.. được hiến dâng cho tình yêu.
Và đó là "ở lại” trong Đức Giêsu. Và đó là “sự sống" theo Đức Giêsu... sự sống thật.
Sự hiệp lễ thánh thể chỉ có ý nghĩa khi nó biểu lộ và nuôi dưỡng sự hiệp thông trọng cuộc sống. Và một cách cụ thể mỗi người chúng ta biết rất rõ trong cuộc sống hàng ngày điều đó có nghĩa là gì.
“Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy".
Đây là một trong những công thức cô đọng nhất của tất cả Tin Mừng. Rõ ràng có vấn đề thần thánh hóa con người! Hình ảnh đồng hóa lương thực nói lên nhiều điều! Trong mọi chu kỳ của tự nhiên, luôn luôn hữu thể lớp trên đồng hóa thành hữu thể của lớp dưới: thảo mộc biến đổi thành vật chất vô cơ.. thú vật biến đổi thành các thảo mộc mà nó ăn và con người là đỉnh cao thấy rõ của sự biến đổi ấy mỗi ngày một hoàn thiện của sự sống tại sao sự biến đổi lại dừng lại ở đó? Tại sao Thiên Chúa lại không đồng hóa chúng ta với Người?
"Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời"
Sống! Sống dồi dào! Sống thánh thiêng! Chỉ thế thôi... bạn có muốn như thế không bạn hãy đến với ngày lễ của sự sống đời đời Thánh Thể chiếm vị trí nào trong đời bạn?. Bạn có đói khát Thiên Chúa không?.
Người ta không ăn Thánh Thể như những người Do Thái ăn bánh man-na để làm dịu cơn đói của thể xác đây là một cơn đói thiêng liêng, xuyên qua một dấu chỉ của thể xác.
- Bữa tiệc này tưởng nhớ Thiên Chúa giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai cập. Trong bữa tiệc, người Do thái ăn thịt chiên để nhắc nhớ kỷ niệm ngày xưa nhờ máu chiên bôi lên thành cửa các nhà người do thái mà các con trai đầu lòng của họ đã được sống sót.
- Trong khung cảnh nhiếu kỷ niệm lịch sử ấy, Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể trong đó Ngài ban thịt và máu Ngài làm lương thực nuôi linh hồn tín hữu. Ngài là Con Chiên Vượt Qua mới đã dùng máu mình để giải phóng nhân loại. B...nẩy mầm.
1. Có khi nào bạn đặt những câu hỏi “Tại sao?”về những việc Chúa Giêsu đã làm trong đêm cuối cùng Ngài ở với các tông đồ trước khi ra đi chịu chết không? - Tại sao ăn một bữa tiệc? Dễ hiểu thôi. Người ta cũng thường “nhậu” với nhau một bữa để chia tay.
- Nhưng tại sao Chúa Giêsu nói bánh là thịt Ngài? Rồi còn bảo chúng con môn đệ ăn và uống nữa? Câu này thật khó trả lời. Phải chăng vì buồn qúa hay- nói hơi xúc phạm- vì đã uống nhiều qúa nên Ngài nói… chơi vậy thôi? Không, văn mạch của đoạn Tin mừng này cho thấy Chúa Giêsu nói rất trang nghiêm. Thực ra, khi sắp chia ly nhau, người ta cũng muốn tặng cho nhau một món qùa kỷ niệm. Món qùa qúy chừng nào thì thể hiện tấm lòng yêu thương chừng nấy.Chúa Giêsu đã tặng lại cho loài người chính thân thể và mạng sống của Ngài.
2. Khi tôi yêu qúy ai thì tôi rất trân trọng những món qùa mà người ấy tặng cho tôi. Ngược lại nếu người ấy chẳng thấy tôi thiết tha gì tới món qùa kỷ niệm ấy thì người đó chắc buồn lắm.
Công giáo và Tin lành còn bất đồng ý kiến với nhau về tính chất sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bánh rượu. Tranh cãi với nhau về điều ấy có thể khiến người ta quên đi điểm quan trọng hơn của Bí Tích Thánh Thể, là: sở dĩ Chúa Giêsu muốn ở trong bánh rượu là để cho chúng ta sống với Ngài và Ngài sống trong tôi.
Lạy Chúa, được rước Chúa vào lòng, đó là một diễm phúc. Xin cho con luôn biết kết hiệp với Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, để hình ảnh Chúa luôn tỏa sáng nơi con. (Hosanna)
Có thể coi đây là một bài giáo lý về bí tích Thánh Thể : Chúa Giêsu nói rõ Thịt và Máu Ngài là bánh ban sự sống, đó là : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”.
- Ở đầu đoạn này, Chúa Giêsu đã nói rõ : “Bánh ta sẽ ban chính là thịt ta đây” (câu 51).
- Câu đó đã khiến những người do thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận vì trong họ có người hiểu theo nghĩa đen (ăn thịt sống của Chúa Giêsu), có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
- Phần Chúa Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào ? Thưa theo nghĩa đen. Bởi đó Chúa Giêsu dùng những động từ rất mạnh và cụ thể. Động từ “ăn” nguyên gốc là Trôgô nghĩa là “nhai”, lấy răng mà nhai một thức ăn nào đó. Và động từ trôgô này được lặp đi lặp lại nhiều lần (các câu 53-54). Tới câu 55 Ngài tuyên bố dứt khoát “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
- Như thế là Chúa Giêsu nói tới bí tích Thánh thể, trong đó Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người.
- Hiệu quả của việc rước lễ : “Ai ăn thịt Ta và uống máu ta thì có sự sống đời đời... thì ở trong ta và ta ở trong kẻ ấy”.
B.... nẩy mầm.
Thánh lễ quả là dịp rất quý giá để chúng ta ăn uống Chúa, nhờ đó được ở trong Ngài và chia sẻ sự sống thần linh của Ngài. Thế nhưng các lễ nghi Thánh lễ vẫn cứ lặp đi lặp lại hầu như ngày này cũng như ngày khác. Điều đó khiến chúng ta quá quen đến nỗi không còn chú ý. Việc Rước lễ cũng thế, có nhiều ngày nó chỉ là một hành động theo thói quen không chút ý thức.
Thỉnh thoảng ta cần phải làm sống lại ý thức khi tham dự Thánh lễ và Rước lễ.
2. Khi tôi yêu quý ai thì tôi rất trân trọng những món quà mà người ấy tặng cho tôi. Ngược lại nếu người ấy thấy tôi chẳng thiết tha gì tới món quà kỷ niệm ấy thì người đó chắc buồn lắm.
3. Công giáo và Tin lành còn bất đồng ý kiến với nhau về tính chất sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bánh rượu. Tranh cãi với nhau về điều ấy có thể khiến người ta quên đi điểm quan trọng hơn của Bí tích Thánh Thể, là : sở dĩ Chúa Giêsu muốn ở trong bánh rượu là để cho chúng ta sống với Ngài và sống nhờ Ngài.
4. “Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta đã thờ ơ lãnh đạm hoặc không chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để đón nhận Chúa” ("Mỗi ngày một tin vui")
5. Khi Mẹ Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin lập một chi nhánh của Dòng bà, bà đã kiên trì xin cho bằng được có một Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do : sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần và nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Thánh Chúa mà họ rước mỗi ngày. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
6. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”. Hằng đêm, mỗi khi thành phố lên đèn, mọi người hối hả trở về công sở, trường học...
Những bước chân hối hả qua lại...
Bên vệ đường, một bà lão khô quắt, nằm cong queo như cố thu mình trốn cái không khí se lạnh. Bà kiệt sức vì đói. Những bước chân vẫn đi qua, đi qua...
Và rồi, đôi chân con bước tới, ngập ngừng... rồi lại bước đi
Trên ti vi, người ta nói đến lũ lụt. Cảm động, con dự định... rồi lại thôi !
Con là thế ! Từ thuở lọt lòng mẹ, đã biết nắm tay lại.
Lạy Chúa, trên thánh giá Ngài đã giang rộng đôi tay và khi phục sinh, Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhân loại được sống.
Xin cho con luôn biết cho đi, cho đi mãi
không chỉ vật chất, nhưng cho cả bản thân. (Epphata)
7. Đã bao nhiêu lần tôi tham dự Thánh lễ, và cũng biết bao lần tôi đã lãnh nhận lương thực hằng sống. Giêsu đến và ở trong tôi. Mình Máu Ngài nuôi dưỡng đời sống tâm linh của tôi. Tôi đã không ý thức được như thế. Tôi đã đón nhận Ngài như một thói quen, chứ không như một nhu cầu thiết yếu cho đới sống của tôi. Sự vô cảm ấy ngăn cản tôi sống trong Ngài và Ngài sống trong tôi.
Lạy Chúa, được rước Chúa vào lòng, đó là một diễm phúc. Xin cho con luôn biết kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể, để hình ảnh Chúa luôn tỏa sáng nơi con. (Hosanna)
Công đồng Vaticanô II tuyên bố: “Mọi Bí tích đều liên hệ và hướng về phép Thánh Thể. Vì phép Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, nghĩa là chính mình Chúa Kitô Phục sinh. Phép Thánh Thể là nguồn suối, là chóp đỉnh việc rao giảng Tin Mừng” (P.05)
Hôm nay, Giáo Hội mời chúng ta tới chóp đỉnh, đến suối nguồn của tình yêu. Chỉ 25 năm sau ngày Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể, Giáo Hội, như Thánh Phaolô cho biết, đã đồng loạt làm lại việc Chúa đã làm là “cầm chén chúc tụng Chúa để thông hiệp với máu Chúa, chia sẻ tấm bánh để thông phần vào Mình Chúa”. Giáo Hội mời gọi chúng ta tin, và Giáo Hội mời gọi chúng ta tham dự vào bữa tiệc thánh, như ngày xưa Tông đồ đã tham dự trong nhà tiệc ly.
Gioan là một nhân chứng, được dựa ngực vào đầu Chúa. Gioan đã chứng kiến: “Chúa cầm lấy bánh trong tay cực thánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và phán: Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta sẽ bị nộp vì các con. Rồi cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén, đọc lời chúc tụng và phán: Này là chén Máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Chúa đã lập nên phép Thánh Thể.
Các Tông đồ dự Thánh lễ đầu tiên trong niềm tin và cung kính. Họ chia sẻ Mình và Máu Chúa như chúng ta cùng chia sẻ. Đây không phải chỉ là một chia sẻ tình huynh đệ mà là một sự thông phần Mình và Máu Thánh Chúa, và nhờ sự thông phần ấy chúng ta biết chia sẻ với anh em, hiệp nhất với kẻ khác.
Hôm nay, qua bài Phúc Âm, Gioan ghi lại cho chúng ta bài giảng của Chúa về Bánh ban sự sống trong hội đường “Ta là bánh sự sống”. Từ một sự kiện đã xảy ra, dân chúng đi theo Người, đoàn đoàn lớp lớp trong hoang địa không có gì ăn. Động lòng thương, Ngài tái diễn phép lạ Manna, Ngài cho họ ăn no nê. Nhưng ngài muốn khêu gợi lên trong tâm họ ý niệm một của ăn khác. Bất thần Ngài tuyên bố: “Bánh ban sự sống chính là Ta”. Câu ấy tương tự như câu: “Ta là Lời ban sự sống” (1Gio 1,1) hay “Ai khát Ta sẽ ban suối nước hằng sống” (Kh.h 21,6). Những hình ảnh nói lên một sự sống cao siêu, khác với điều thính giả được khi được ăn no.
Mà thật đám thính giả đã hoài nghi bàn tán. Họ chỉ muốn nhìn ở Ngài là một con người có cha có mẹ như mọi người khác. Chúa Giêsu đưa họ lên khi Ngài long trọng tuyên bố: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Họ lầm lần khi chỉ nại ra nguồn gốc trần thế. Nguồn gốc của người phát xuất từ trời. Ngài từ trời xuống, sinh bởi Chúa Cha trước khi có vũ trụ (17,500. Ngài đã nhìn thấy Chúa Cha (1,18). chỉ một mình Ngài có thể ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài. Ngài là Bánh hằng sh, Bánh ban sự sống. Ai tin vào Ngài, có “thần khí sự sống” (6,62-63). Rồi từ ý tưởng đó Ngài đưa họ tìm về bản chất chú Bánh ban sự sống, Bánh bởi trời.
Chúa liền đưa mọi thính giả cũng như mọi người chúng ta lên tột đỉnh mầu nhiệm khi Ngài tuyên bố: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là Thịt Ta, để ban sự sống cho nhân loại”. Đây là lời táo bạo nhất, và cũng là lời gây xúc cảm nhất. Vì thế ngài Do Thái xôn xao tột độ: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được”. Họ xôn xao, họ ngờ vực, họ bỏ Ngài, kể cả một số môn đệ nữa. Nhưng Chúa không xao xuyến, trái lại còn nói rõ và khẳng định hơn: “Nếu các ngươi không ăn thịt và uống mau Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời. Thịt ta thật là của ăn và Máu Ta thật là ủa uống”.
Phúc Âm của Gioan là Phúc Âm nhập thể. Lời Chúa khẳng định hôm nay nhắc lại lời sâu thẳm: Ngôi lời đã hóa thành xác thịt. Muốn chia sẻ sự sống của g, phải ăn thịt và uống máu của Ngài, như người xưa, dân Do thái trong bữa vượt qua, lề luật dạy phải “nhai nà ăn thịt” của con chiên. Nhờ sự ăn uống đó, chúng ta sẽ kết hợp mật thiết, sống với Chúa và nhờ đó cũng kết hợp với Cha trên trời, được sự sống đời đời.
Ôi, phép Thánh Thể là phép chí thánh, có sự hiện diện chính Mình và Máu. Rước Thánh Thể là đón tiếp, là mang Chúa trong thể xác và tâm hồn. Thời cách mạng Pháp, một Cha xứ Bretagne đưa Mình Thánh Chúa cho một gia đình, có một cậu bé tên là Benjamin đi theo giúp lễ, Cha xứ bị lính đuổi theo. Ngài vội trao Mình Thánh Chúa cho cậu bé trong một chiếc mặt nhật. Cha bị bắt, bị lục soát và bắn chết. Benjamin cũng bị bắt và vặn hỏi: Mình Thánh Chúa ở đâu? Em bé trả lời: Ở trong lòng tôi… các ông mở ra mà lấy! Bọn lính điên tiết vì câu trả lời, giết luôn em và vội chôn vùi hai xác dưới một gốc cây cổ thụ. Mấy năm sau, khi hòa bình trở lại, một gió lốc đánh ngã cây sồi, hai xác lộ hình ra, trên xác em bé còn sáng ngời mặt nhật Mình Thánh Chúa.
Lạy Chúa là mục tử, là Bánh thực, xin người chăn nuôi, bải vệ chúng tôi. Xin ban cho chúng tôi nhìn thấy những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh (Kinh lauda Sion).
Mỗi khi một nơi nào đó xảy ra nạn đói thì hầu như cả thế giới xúc động gởi thực phẩm đến tới tấp để cứu đói. Nhưng có mấy ai quan tâm đến những cái đói tinh thần: đói yêu thương, đói công bình, đói chân lý, đói tha thứ, đói cảm thông...? Mà loại đói sau này không ai luôn luôn cứu nỗi, ngoại trừ một mình Đức Giêsu.
Tuy nhiên không phải hễ cứ rước lễ là chúng ta sẽ no. Muốn cho Đức Giêsu thực sự trở thành của ăn bổ dưỡng thì chúng ta cần phải kết hợp với Ngài, cũng như cành nho có kết hợp với cây nho thì mới nhận được nhựa sống truyền sang.
2. Người đói mới cần ăn
Theo quy định của Giáo Hội, người đang mang tội trọng trong mình thì không được rước lễ. Đúng vậy, vì rước lễ như thế là xúc phạm Mình Thánh Chúa.
Nhưng từ ý thức tôn trọng Mình Thánh Chúa trên đây nhiều người đã vô tình xa cách thứ lương thực tuyệt vời Chúa ban: họ không dám rước lễ khi thấy mình yếu đuối về đức tin, chao đảo trong đức cậy và nguội lạnh về đức mến. Nghĩ vậy là sai, chẳng khác gì nghĩ rằng khi nào tôi đói thì tôi không được ăn.
Ngày xưa trong sa mạc, mặc dù dân do thái luôn làm Chúa buồn lòng, nhưng Ngài vẫn ban cho họ Manna mỗi ngày; Trong Thánh lễ đầu tiên ở nhà Tiệc ly, Đức Giêsu đã cho tất cả các tông đồ rước Mình và Máu Ngài, mặc dù trước đó họ còn tranh cãi với nhau, và sau đó họ đã bỏ Chúa mà trốn chạy.
Đúng là chúng ta bất xứng, và sẽ mãi mãi còn bất xứng với Mình Máu Thánh Chúa. Nhưng ý thức bất xứng ấy không được làm chúng ta xa cách thứ lương thực tuyệt vời cứu chữa cho ta bớt bất xứng.
Lạy Chúa, con chẳng đáng rước Chúa vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.
3. Thánh Thể là bí tích thông hiệp
Ngày xưa ở giáo đoàn Côrintô có một thói quen tốt đó là mỗi khi cử hành bữa tiệc Thánh Thể, tức Thánh lễ (Cena), người ta cũng tổ chức một bữa ăn huynh đệ (Agape): mọi người mang thức ăn đến góp chung để mọi người cùng ăn. Nhưng thói quen tốt này đã biến thành một tệ nạn là những người giàu đem nhiều thức ăn và toàn thức ăn ngon. Họ vội vã cùng nhau ăn trước, không chia sẻ cho những người nghèo. Bởi thế bữa ăn Agape này đã mất đi ý nghĩa yêu thương huynh đệ, trái lại là dịp gây chia rẽ đố kỵ nhau.
Thánh Phaolô rất buồn về tình trạng đó, nên trong đoạn thư này Ngài nhắc tín hữu mình nhớ đến ý nghĩa chung của bữa ăn: bữa ăn là dấu chỉ thông hiệp yêu thương. Tín hữu cùng tham dự một bữa ăn thì lẽ nào lại chia rẽ nhau? Huống chi trong bữa tiệc Thánh Thể, họ cùng ăn một thức ăn chung là Mình Máu Thánh Đức Giêsu? Vì thế mỗi khi tham dự Thánh Lễ, họ phải lưu ý đến việc thông hiệp: chẳng những thông hiệp với Đức Giêsu mà còn thông hiệp với nhau.
Hình như những ý nghĩa căn bản này không được chúng ta lưu ý lắm: mỗi khi dự lễ và rước lễ, nhiều người chỉ coi đó là một việc đạo đức mình phải làm. Họ không chú ý kết hiệp với Đức Giêsu bao nhiêu; và càng không lưu ý thông hiệp với nhau bao nhiêu.
4. Bánh và những thứ đói
Đức Giêsu là một thứ Bánh có thể thoả mãn mọi cơn đói của loài người: -Với những người theo Ngài trong sa mạc đã ba ngày và đang đói, Ngài đã cho họ bánh tự nhiên thỏa mãn cơn đói thể xác của họ.
-Với người cùi bị mọi người ghê tởm lánh xa, Ngài đã cho anh bánh chữa lành cơn bệnh.
-Với người phụ nữ nhiều chồng bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã cho chị thứ bánh nhân ái làm thỏa mãn cơn đói muốn được chấp nhận.
-Với những người tội lỗi, Ngài ban bánh thứ tha.
-Với những người bị xã hội ruồng bỏ, Ngài cùng ăn với họ và ban cho họ bánh cảm thông để thỏa mãn cơn đói muôn đước người ta nhìn nhấn phẩm giá của mình.
-Với người mẹ Naim đang đi chôn đứa con độc nhất của mình, và với Matta, Maria đang khóc vì Ladarô vừa mới chết, Ngài ban bánh sự sống cho người thân của họ sống lại.
-Với người thu thuế Giakêu bấy lâu nay đã quen ăn cắp phần bánh của người nghèo, Ngài đến nhà và ăn cùng bàn với ông, ban cho ông bánh một đời sống mới tốt đẹp hơn.
-Với tên trộm bên phải thập giá Ngài, Ngài ban cho hắn bánh hòa giải và một chỗ trên bàn tiệc thiên quốc.
Tuy nhiên, cũng có những người không rộng tay đón nhận bánh của Ngài:
-Đó là người thanh niên giàu có đã buồn bã bỏ đi khi Ngài khuyên anh từ bỏ tài sản.
-Đó là những người biệt phái và luật sĩ nhiều lần cố tình không muốn hiểu Tin Mừng của Ngài.
-Đó là dân thành Giêrusalem đã khiến Ngài phải khóc vì họ không đón nhận bình an Ngài mang tới.
-Và đó là Philatô đã mỉa mai khi Ngài xứng mình là chứng nhân của Sự Thật.
Ý nghĩa tấm bánh
Tấm bánh mà hằng ngày ta dâng lên trên bàn thờ và sau đó rước vào lòng chứa đựng rất nhiều ý nghĩa:
-Đó là thành quả của biết bao công lao: của đất, của ánh mặt trời, của những giọt mưa, của lao động và trí óc con người.
-Trước khi đến tay chúng ta, nó cũng đã qua tay người thợ gặt, người thợ xây và người thợ làm bánh.
-Và đương nhiên chúng ta không thể quên vai trò của Thiên Chúa tạo dựng và quan phòng.
-Là một tấm bánh, nhưng nó là kết hợp của rất nhiều hạt bột từ rất nhiều hạt lúa rải rác trên các cánh đồng.
Bởi thế, khi chủ tế dâng bánh lên, ngài đã đọc: "Lạy Chúa là Chúa tể càn khôn, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và lao công của con người".
Còn Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay thì coi tấm bánh ấy là biểu tượng của sự hợp nhất các tín hữu: chúng ta tuy nhiều người, nhưng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh"
6. Chuyện minh họa.
a/ Đói tình thương Nước Êthiôpia phải chịu một nạn đói khủng khiếp trong những năm 1984 đến 1986. Đức Hồng Y Hume của giáo phận Wesminster kể về một câu chuyện xảy ra lúc ngài đến thăm xứ này giữa thời gian đó. Người ta đã dùng một chiếc trực thăng chở ngài đến một ngọn đồi nơi dân chúng đang tập trung chờ cứu trợ.
Khi ngài vừa bước xuống chiếc trực thăng thì một cậu bé khoảng 10 tuổi chạy đến níu lấy cánh tay của Ngài. Em chẳng mặc gì ngoài một chiếc khố. Em cũng chẳng biết ngoại ngữ nên chỉ làm cử điệu tay chân: tay trái em chỉ vào miệng, và tay phải em cầm lấy tay ngài đặt lên má em.
Đức Hồng Y hiểu: chỉ vào miệng nghĩa là em đói thức ăn, và đặt lên má nghĩa là em đói tình thương. Người ta không chỉ đói thức ăn, mà còn đói nhiều thứ khác.
b/ Không thể hiểu được. Một người đến gặp linh mục và muốn khôi hài một chút về niềm tin của mình, nên anh hỏi: "Làm thế nào mà bánh và rượu trở nên thịt và máu Chúa Giêsu được?"
-Chẳng khó gì. Chính anh cũng biến đổi thức ăn thành thịt và máu. Tại sao Chúa Giêsu lại không làm được điều tương tự như vậy? Chưa chịu thua, anh hỏi: "Bằng cách nào mà Chúa Giêsu ngự trọn vẹn trong tấm bánh nhỏ như vậy?"
-Cũng tương tự, quang cảnh bao la ở trước con mắt nhỏ bé của bạn. Nhưng anh vẫn cố chấp: "Làm sao Chúa Giêsu có thể hiện diện ở tất cả các nhà thờ cùng một lúc?"
Linh mục cầm chiếc gương, đập bể nát, rồi cho anh nhìn vào và nói: "Chỉ có một mình anh nhưng bây giờ anh có thể nhìn thấy mặt mình được phản chiếu trong mỗi mảnh gương vỡ này cùng một lúc".
Chúa lập Bí tích Thánh Thể để làm của ăn uống cho tâm hồn chúng ta, để làm linh dược điều trị sự yếu, bệnh tật của tâm hồn ta, để bảo đảm sự sống đời đời cho ta, để cho chúng ta được hưởng cuộc sống lại, và để sống giữa chúng ta cho tới ngày tận thế. Đặc biết đối với những người sắp lìa trần, thì Bí tích Thánh Thể còn được gọi là của “ăn đàng” vì chính của ăn này giúp họ từ cuộc sống chóng qua đi vào cuộc sống vĩnh cửu, từ cõi trần gian đi vào thiên quốc. Cũng vì thế, mà các vị tử đạo của chúng ta vui mừng và cảm thấy hạnh phúc lớn lao, khi được rước Chúa trong lúc các Ngài bị giam giữ, trong những giây phút các Ngài chuẩn bị đón nhận hồng phúc tử đạo, trong lúc các Ngài phải chiến đấu gay go để giữ vững lòng tin, và trong lúc các Ngài cần sức mạnh để lướt thắng mọi cực hình thể xác.
Trong lúc cha Théaphane Ven (tử đạo ngày 2-2-1861, 32 tuổi) bị giam trong cũi, nhờ giáo dân tên Hương dẫn lối, Linh mục Thịnh đã đến bên cũi của cha, ban Bí tích hòa giải. Sau lại nhờ một bà đạo đức chuyển cho người một hộp nhỏ đựng Mình Thánh Chúa. Cha Ven cung kính chầy Thánh Thể cho đến nửa đêm, rồi mới rước lễ. Một lần khi trao Mình Thánh Chúa bị phát hiện, bà này đã nhanh miệng giải thích: đó là thuốc bổ để trị bệnh.
Thánh Ven gửi thư cho chị Melanie và gia đình, cha kể: “Em đã đến Kẻ Chợ (Hà Nội). Cả nhà thử tưởng tượng coi: ngồi bó gối trong cũi gỗ, tám người lính khiêng hai bên, đám đông dân chúng ồn ào bu lại coi. Em nghe họ nói: Chàng người Âu này coi dễ thương quá. Anh ta thản nhiên và vui tươi như đi ăn tiệc, chẳng tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Em cầu nguyện với Nữ Vương các Thánh tử đạo, xin Đức Mẹ thương phù trợ cho người tôi tớ nhỏ bé của Mẹ. Mới đầu quan tòa cho em uống một chén nước trà, em uống cách ngon lành ngay trong cũi…”
Khi quan muốn buộc tội cha làm tay sai cho quân Pháp xâm lược, cha khẳng định trả lời:
- Không bao giờ chúng tôi ủng hộ quân Viễn Chinh Pháp. Nếu không tin, xin để tôi đến gặp họ, tôi sẽ khiển trách họ đến gây chiến. Nếu tôi thất bại, tôi tự nguyện trở về nộp mạng.
- Hãy đạp lên Thánh giá anh sẽ khỏi chết.
Tôi suốt đời rao giảng đạo Thập giá lẽ nào tôi làm thế được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quá quí, để tôi mua nó bằng giá bội giáo?
Ngày 3-1-1861, cha Ven viết thư gửi Đức Cha Theurel Chiêu, Giám mục phó địa phận Tây: “Gươm đạo ở kề sát bên cổ mà con chẳng rùng mình chút nào. Thiên Chúa nhân lành đã hỗ trợ sự yếu đuối của con nên con thấy thoải mái. Thảinh thoảng con lại cất cao tiếng hát trong ‘cung điện’ này:
“Lạy mẹ yêu dấu Xin thương dẫn con Vào đất Nước Trời Bên Thánh nhan Người”
Ngày 2-2-1861, nghe quan tuyên đọc bản án trảm quyết, cha Venard Ven liền lấy áo lông cừu trắng ra mặc, áo mà cha đã sắm để mặc ngày tử đạo, cha muốn trang phục như ngày đại lễ. Một đội lính 200 người và hai võ quan cỡi voi áp giải vị anh hùng ra pháp trường Ô Câu Giấy. Suốt nửa giờ hành trình cha không ngừng hát Thánh ca, và kết thúc bằng bài Thánh ca Tin Mừng: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Tới nơi đã chỉ định, lính tháo gông cùm.
Một lý hình thấy chiếc áo cha mặc đẹp quá nên đã tự nguyện hành quyết cha. Hắn nói láo rằng cha phải xử lăng trì để cha cởi áo ra cho hắn lấy, hắn còn đòi tiền để chém sao cho mau chết. Cha mỉm cười nói: “Có hề chi đâ, càng lâu càng tốt”, rồi đưa tay cho lý hình trói vào cột. Lý hình vung gương chém lần thứ nhất, gươm trượt qua một bên vào má. Nhát thứ hai, y bổ đầu cha ra làm hai. Các giáo hữu phải bỏ tiền ra xin an táng thi hài và chuộc lại y phục của cha. Còn thủ cấp cha bị bêu trên cây ba ngày rồi thả trôi sông, đến sau có người chài lưới vớt được, đem về trao cho giáo quyền. Năm 1865, hài cốt đấng tử đạo được đưa về chủng viện hội thừa sai Paris, đặt trong gian phòng tử đạo.
Đang lúc các thầy giảng Phêrô Trương Văn Đường (tử đạo ngày 18-12-1838, 30 tuổi) Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, và Phêrô Vũ Truật bị giam giữ chờ ngày ra pháp trường, Cha Triệu giả làm thường dân đem Mình Thánh Chúa đến cho các thầy được bốn lần. Đối với các thầy, đó là hồng phúc lớn lao. Đây là những lời tâm sự của thầy Đường gởi cha Marette: “Hôm nay là ngày trọng đại, chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… Cửa Thiên đàng đã mở sẵn, nghĩ đến hạnh phúc đng chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao gì ở thế gian này nữa.”
Các cuộc thẩm vấn ba vị Thánh Phêrô Trương Văn Đường, Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, và Phêrô Vũ Truật thường đi liền với những tra tấn dã man. Sau đây là mấy dòng chữ trong thư của Thánh Mỹ còn để lại:
“Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống, lấy dây thừng cột chặt tay chân, rồi kéo căng, cột vào bốn cọc bốn phía, nguyên sự căng nọc như thế đủ làm chúng tôi đau đớn vô cùng. Thế rồi họ bắt đầu đánh đập… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa, mà là cả bó. Mỗi lần đánh, trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, gây nhiều thương tích đẫm máu.”
Ngày 20-6-1837, khi quan tỉnh Sơn Tây (Xứ Đoài) phái 1.500 quân đến vây giáo xứ Bầu Nọ bắt cha Cornay Tân, thì cũng bắt luôn hai thầy giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và anh Phêrô Vũ Truật. Cả ba là những cộng sự viên của cha Tân và cha xứ Marette. Ba người cùng bị áp giải với cha Tân đi hơn 6 dặm đường tới đề lao Sơn Tây. Là người lớn tuổi nhấ, thầy Mỹ như người anh cả thay mặt cho hai đồng bạn đối chất với quan. Trong một lá thư gởi thừa sai Marette, thầy Đường viết: “… Từ ngày được diễm phúc chịu khổ vì đức tin, thầy Mỹ thay chúng con viết thư cho cha. Ví chúng con coi thầy như đại diện cha ở giữa chúng con…”
Tại công đường, quan biểu thầy Đường đạp lên Thánh giá, thầy trả lờ: “Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh Thánh, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn thể xác.”
Riêng thầy Truật vì ốm yếu nên được mang gông nhẹ hơn và ít bị đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn, cả ba người đều kiệt lực phải khiêng về ngục thất. Ngày 20 tháng 9, lính canh ngục báo tin cha Tân đã bị trảm quyết và khuyên các thầy bỏ đạo. Nhưng cả ba cùng nói: “chúng tôi mừng vì thầy chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương người.”
Giai đoạn này thầy Mỹ ghi lại trong một bức thư: “Suốt bốn tháng liền, chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh ngục ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi tanh, ruồi muỗi tha hồ chích đốt trên những tấm thân đầy thương tích.”
Bản án quan tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gửi về. Nhưng thay vì thi hành ngay, bản án có ghi “Khoan xử chờ quyết định mới”. Bề ngoài bản án có vẻ nhân đạo, nhưng thực ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian, nhiệt tình ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng của con người có hạn, quá khổ đau mòn mỏi, đi đến nản chí, con người dễ bị lung lạc mà thay lòng đổi dạ.
Ba thầy giảng phải chờ thêm 14 tháng, tất cả là năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị thử thách lâu dài ấy, ba thấy vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi lòng khao khát đợi trông phúc tử đạo.
1838, triều đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18 tháng 12, ba chứng nhân anh dũng bước ra pháp trường Gò Vôi ở làng Mông Phụ (Sơn Tây). Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên, họ, nguyên quán và tội theo đạo Gia Tô, lệnh xử giảo. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước, ba thầy cùng làm dấu Thánh giá khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban ơn xá giải. Một anh lính mời các thầy uông rượu, ba thầy cảm ơn, chỉ xin uống nước trà và nói: “Chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội.”
Đến nơi xử, ba chứng nhân nằm trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để giữ trật tự. Từng vị một vị bị trói chân vào cọc và chói chéo hai tay ra sau lưng. Giây thừng tròng sẵn vào cổ. Chiêng trống ngân vang, lý hình mỗi bên nắm chặt đầu giây xiết thật căng, cho tới khi ba vị tuẫn giáo tắt thở: máu ứa ra đàng miệng. Sau đó lý hình lấy lửa đốt thử gan ngang bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết.
Cựu Và Tân ước cho thấy sự hiện diện của thiên Chúa để dẫn dân Israel cũ và Israel mới; tìm hiểu sự hiện diện này là con đường giúp chúng ta hiểu rõ thêm về sự hiện diện của Chúa Glêsu trong Thánh Thể. Các thánh ký viết Phúc âm nhất lãm và thánh Gioan viết Phúc âm thứ bốn đã trình bày những khía cạnh khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo hội qua nhiều hình thức khác, nhất là qua phép Thánh Thể. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu thành Côrintô cho thấy giáo huấn về việc Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể qua thơ (x. 1 Cor 10, 1422) mà thánh Phaolô đã viết. như chúng ta đã biết, bức thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô được viết vào khoảng năm 57, như thế bức thư được viết ra rất gần với giáo huấn của Chúa Kitô, vì chỉ cách khoảng hơn 20 năm kể từ khi Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá. Trong bức thư này, thánh Phaolô đã tận lực xây dựng cộng đoàn Kitô theo giáo huấn của Chúa Kitô và tránh cho cộng đoàn này những nguy hiểm mà hoàn cảnh chung quanh có thể đưa tới, nhất là từ thế giới văn hoá Hylạp.
Ơ đây, thánh Phaolô đã trình bày niềm tin chẳng những của mình, mà còn trình bày niềm tin của cả cộng đoàn tín hữu tại Côrintô. Ngài đã đề cập tới vấn đề thờ ngẫu tượng rất phổ cập nơi những người Côrintô ngoại giáo. Thánh Phaolô đã đặt vấn đề căn bản của đạo Kitô là "Nhờ việc tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể, người tín hữu đã thông hiệp với Chúa Kitô " , đó là ý chính của tất cả đoạn văn.
Chúng ta hãy tìm hiểu sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong phép Thánh Thể qua mấy lời thánh Phaolô quả quyết trong đoạn văn này. Đoạn văn đưa ra hai điểm giúp chúng ta hiểu đúng về phép Thánh Thể.
Trước hết về sự hiện diện đích thực của Thánh Thể.
Khi nói với các tín hữu thành Côrintô về phép Thánh Thể thánh Phaolô không nói với họ như nói về một loạt hình hóng biểu hiệu ám chỉ một điều gì khác, nhưng ngài nói về Thánh Thể như một điều có thực. Thánh Phaolô đã dùng một quả quyết thật táo bạo: "Anh em không thể uống chén của Chúa và uống chén của ma quỉ một lúc được hoặc "chén ân phúc mà ta hiến dâng không phải là thông phần vào Máu Chúa Kitô ư? Và Bánh ta bẻ ra không phải là dự phần vào thân thể Chúa sao ? " .
Như vậy tham dự vào Thánh Thể không phải là điều mơ ước suy tưởng hay chỉ là một hình bóng, sự tham dự này không chỉ là một sự hiện diện nơi tâm hồn các tín hữu do Đức tin, như thư thánh Phaolô gở tín hữu Êphêsô: “chớ gì Chúa ngự trong lòng anh em, bởi anh em có đức tin” (Eph 3,17). Nhân dịp tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể, tức là ăn Mình và Máu Chúa Kitô là một điều có thực, y như hệt tham dự vào việc ăn các vật hiến tế tại đền thờ ở Giêrusalem. Bản văn thánh Phaolô đưa ta tới kết luận chắc chắn trên đây (Cor 11,2729).
Đàng khác thánh Phaolô còn xác nhận “Phàm ai ăn Bánh này và uống Máu mà không xứng đáng là phạm đến Mình và Máu Chúa, ai nấy hãy tự xét mình trước rồi hãy ăn và uống chén nàyng không xứng đáng là ăn và uống lấy án phạt mình vì không trọng kính Mình Máu Thánh Chúa” (1Cor 11,2729). Theo đoạn văn này, những ai ăn Mình và uống Máu thánh Chúa Kitô thật bất xứng, thì bị coi là mắc tội phạm đến Mình và Máu Chúa Kitô, như vậy av2 uó6người chuốc lấy án phạt cho mình. Chính nhờ việc liên hệ chặt chẽ như việc ăn uống ở đây với mình và máu Chúa Kitô mà người ta bị phạt khi không lãnh nhận cách xứng đáng.
Trong tư tưởng thánh Phaolô, người ta nhận ra sẵn có niềm tin sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong Thánh Thể, đó cũng là niềm tin của các cộng đồng tại Côrintô. Chính vì vậy mà thánh nhân đã nhắc qua để trình bày vấn đề thờ cúng tượng thần. Người tín hữu Côrintô cũng không thắc gì thêmkhi nghe thánh Phaolô trình bày về việc ăn, uống Mình và Máu thánh Chúa Giêsu Kitô, họ đã nghe rao giảng và đã thực
hiện điều này, cũng như đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô trong các buổi họp mặt phép Thánh Thể trong cộng đoàn của họ.
Điểm thứ hai: Sự hiện diện siêu nhiên.
Ngoài sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong Thánh Thể như vừa nói trên, đoạn văn của thánh Phaolô còn cho thấy sự hiện diện của Ngài qua hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội như là thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, điều này được nhận ra do toàn bộ bức thơ gởi giáo đoàn Côrintô. Sau khi đã xếp đặt êm xuôi việc cử hành Thánh Thể tại giáo đoàn Côrintô như được nói tới trong các thơ (1cor 11 & 12), thánh Phaolô đã đề cập các đoàn sủng được ban cho các phần tử cộng đoàn trong các đoạn (1Cor 12 ;13;14). Ơ đây thánh Phaolô cho thấy các đoàn sủng đó được ban cho trong chính các buổi họp của cộng đoàn cử hành Thánh Thể. Vì chính khi cử hành Thánh Thể mỗi người sử dụng các đoàn sủng để giúp người khác cầu nguyện và tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể, nếu không thì kể như không có đoàn sủng, và không thì kể như không sử dụng đoàn sủng cho đúng cũng chẳng có lợi gì cho cộng đoàn. . Thánh Phaolô đã viết trong thơ gởi tín hữu Côrintô (x I Cor .14, 1517). Với những điều này chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô trong buổi cử hành Thánh Thể qua các đoàn sủng được ban cho một số phần tử để giúp cho tất cả mọi người. Các đoàn sủng này là do Thánh Thần ban phát, đó là sự hiện diện siêu nhiên của Chúa Kitô trong cộng đoàn. Đàng khác, thánh Phaolô nói rõ ràng sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể và sự hiệp nhất của nhiệm thể Chúa Kitô; chính Thánh Thể tạo nên sự hiệp nhất này và làm cho các tín hữu được nên một với nhau. Thánh Phaolô đã viết: "Hết thảy chúng ta dù nhiều cũng chỉ là một Thánh Thể, vì chỉ có một Bánh là ta chỉ dự phần vào một Bánh mà thôi " (Icor 11, 17) . Như vậy hết thảy được tham dự vào Thánh Tllể Chúa Kitô, và sự hiện diện đích thực cũng như siêu nhiên của Chúa Kitô đã làm nên sự hiệp nhất này. Đó là niềm tin của thánh Phaolô, niềm tin của các tín hữu thành Côrintô và cũng là niềm tin của toàn thể Giáo hội.
Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Đức Kitô trên thập giá. Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói : “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu ước.
Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua. Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hốm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập, Nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng : Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại : “Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa : Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy trên dân và nói : Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao ước cũ hay là Cựu ước.
Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là máu giao ước.
Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.
Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô.
Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau đã được Người giao hòa thành một gia đình thương yêu thuận hòa, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.
Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem lại sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có tham dự Thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không? 2) Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong bạn không? 3) Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại không? 4) Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?
Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh của lễ Vượt Qua của người Do Thái, một đại lễ lớn nhất của dân tộc. Đại lễ này tưởng niệm lại hành động can thiệp đầy quyền năng của Thiên Chúa, trong việc dẫn dắt dân Người thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Bữa ăn Vượt Qua là một nghi lễ long trọng. Bữa ăn tưởng niệm lại một việc trong quá khứ, và đang khi cử hành việc tưởng niệm đó thì quyền năng của Thiên Chúa lại được tái hiện.
Chúa Giêsu nói : “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể thì quyền năng và tình yêu của Chúa Giêsu lại được tái hiện. Nhưng không chỉ như thế, chính Chúa Giêsu lại hiện diện thật sự ở giữa chúng ta.
Trong khi đó, nhiều người Công giáo lại không ý thức đủ. Họ đi tham dự thánh lễ mà lại đến trễ, về sớm. Vài người lại nói chuyện với nhau hay chỉ nhìn ngắm kẻ khác. Nhiều người vào trong nhà thờ mà không tỏ sự tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện trong Nhà Tạm. Nhiều người không rước lễ và hầu như không còn để ý đến việc đó nữa. Nhiều người ăn vận trang phục bất xứng, thứ trang phục mà họ không dám mặc khi đến thăm một người bạn. Trong khi xếp hàng lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, một số người thay vì tập trung vào việc chuẩn bị đón Chúa ngự vào tâm hồn mình thì lại đưa mắt nhìn quanh khắp cả nhà thờ.
Tại sao lại xảy ra tình trạng đáng buồn như vậy ? Thật là tốt đẹp khi Giáo hội khuyến khích các tín hữu thường xuyên rước lễ và tạo điều kiện dễ dàng cho việc này. Nhưng cũng vì thế mà xảy ra tình trạng người giáo dân ơ hờ, trễ nải đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. Cũng có một số tín hữu chịu ảnh hưởng của Tin lành cho rằng Bánh Thánh chỉ là biểu tượng của Chúa Giêsu mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không nói : “Đây là biểu tượng của Mình Thầy”. Chúa nói cách rõ ràng : “Đây là Mình Thầy”.
Ước gì đại lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô hôm nay giúp mọi tín hữu Công giáo ý thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Ước gì ngày lễ hôm nay canh tân tâm tình biết ơn của chúng ta đối với quà tặng vô giá, mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta là chính Thịt Máu Chúa. Càng ý thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta càng có thêm sức mạnh để tiến bước trên hành trình đức tin của mình.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì quà tặng vĩ đại Chúa đã ban cho con là Bí tích Thánh Thể. Xin Chúa giúp con luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích này và hết lòng tôn sùng mến yêu.
Để cổ động cho việc cầu nguyện chung trong gia đình, linh mục Pê-tanh đã nói : “Gia đình nào cầu nguyện chung với nhau thì sẽ sống hiệp nhất với nhau”. Việc cầu nguyện chung trong gia đình sẽ củng cố mối dây hiệp nhất mọi thành phần với nhau mỗi ngày một thêm bền chặt. Dù không muốn nói ngược lại linh mục Pê-tanh và không muốn làm giảm giá trị của việc cầu nguyện chung trong gia đình, nhưng cha Gioan Tô-mát, dòng Tên đã nhấn mạnh một khía cạnh khác, cũng quan trọng không kém, đó là việc dùng cơm chung với nhau thì sẽ sống hiệp nhất với nhau.
Bữa ăn chung trong gia đình có một tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của nó mà ngày nay nhiều người đã bỏ quên hoặc không quan tâm cho đủ. Không phải bất cứ người xa lạ nào cũng có thể ngồi vào bàn ăn dùng bữa chung trong gia đình. Một người nào được mời dùng bữa với gia đình là dấu chỉ được chấp nhận vào tình thân với gia đình đó, người được mời đến dùng bữa với gia đình là người được gia đình đó quý mến. Bữa ăn tạo dựng sự hiệp thông và yêu thương thân thiết ngày càng bền chặt hơn.
Bữa ăn chung trong gia đình làm cho mọi thành phần vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em được hiệp nhất với nhau, được dịp chia sẻ những niềm vui, những quan tâm lo lắng của nhau. Nếu quan sát thêm chúng ta sẽ thấy vai trò của mỗi người được biểu lộ cách rõ ràng trong bữa ăn chung. “Một gia đình dùng bữa chung với nhau sẽ sống hiệp nhất với nhau”, lý tưởng là như thế, nhưng không phải tất cả mọi người, mọi gia đình ngày nay đều có thể thực hiện được lý tưởng cao đẹp này. Nhiều gia đình đã bỏ mất dịp tốt này, mọi người vội vàng lo cho mình có chút gì vào bụng rồi mau chóng đi lo công việc riêng, mọi người không còn xếp đặt công việc để có thể tham dự bữa cơm chung trong gia đình nữa, nhưng mỗi người xếp đặt đời sống theo một sở thích riêng hay một nhu cầu riêng. Cha mẹ lo làm việc xếp đặt đời sống chạy theo công việc nên không còn quan tâm đến việc ăn cơm chung với con cái ; phần con cái bận việc với bạn bè hay công việc riêng của mình nên cũng chẳng màng chi đến bữa cơm chung. Mỗi người trong gia đình đều có lý do riêng để không ăn cơm chung với nhau, nhiều gia đình ngày nay tan vỡ có lẽ vì hai lý do : không cầu nguyện chung với nhau và không ăn cơm chung với nhau. Chúng ta hãy nhìn lại gia đình mình và kiểm điểm theo hai nguyên tắc căn bản trên : cầu nguyện chung và dùng cơm chung.
Chúa Giêsu cũng dùng một bữa ăn, bữa ăn tối cuối cùng với các môn đệ để thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chúa đã làm cho bữa ăn cuối cùng này không phải là bữa ăn chứng tỏ tình bạn như trước đây, cũng không phải là bữa ăn để Ngài tự tỏ mình ra như một Môsê mới bằng cách ban phát Manna mới cho họ qua việc hóa bánh ra nhiều, nhưng là bữa ăn liên kết tình bạn và tình yêu.
Chính vì thế thánh Gioan đã viết : “Ngài đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng”. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Ngài ở đây là việc lập Thánh Thể. Thực vậy, Chúa Giêsu đã ghi dấu đặc biệt của Ngài nơi bữa tiệc này, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa chúng ta với Ngài và giữa chúng ta với nhau.
Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Chúa Giêsu vừa báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ giã từ thế gian để về cùng Cha. Ngài sẽ phải xa cách họ luôn sao ? Không, trong tình yêu thương, Ngài đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Phương thế tuyệt diệu đó là Bí tích Thánh Thể, nhờ đó Ngài hiện diện thực sự và trải dài sự hiện diện đó đến tận cùng thời gian qua mọi người để ban cho họ những điều tốt lành.
Đây là một mầu nhiệm đức tin, bởi vì lý trí chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta biết : Chúa hiện diện thật sự trong Bí tích Thánh Thể, nên khi rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả quyết : “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì Tôi sống trong người ấy, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này và mai ngày thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Vì vậy, chúng ta hãy siêng năng rước lễ để chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, và sự kết hiệp đó đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải như vậy, nhưng thực tế có được như vậy không ? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên mất điều này : hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với nhau.
Tóm lại, khi dâng thánh lễ là chúng ta cùng tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa cho chúng ta một khi đã được hiệp thông với Chúa, thì cũng biết hiệp thông với nhau bằng cuộc sống yêu thương phục vụ để cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo hội mừng lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Trước khi về trời, Chúa không lỡ bỏ rơi loài người mồ côi, Chúa để lại cho loài người một kỷ vật cao quí là mình máu Thánh Người trong Bí tích Thánh thể để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người, để ban sức mạnh thiêng liêng và an ủi loài người : Đây là Mình Thày (Mc 14:22), Đây là Máu Thày, máu giao ước đổ ra cho muôn người (Mc 14:24). Cái giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người không phải được ký kết bằng máu hiến tế của chiên cừu, mà Mô-sê đã dùng trong Cựu ước, nhưng bằng máu Con Thiên Chúa như Chúa phán trong Phúc âm hôm nay và được Thánh Phao-lô thuật lại trong Thư gửi tín hữu Do thái (Dt 9:14).
Thánh lễ mi-sa là việc làm mới lại lễ hi sinh thánh giá. Tham dự vào bàn tiệc thánh là dấu chỉ ta chấp nhận giao ước mới với Thiên Chúa. Nếu người công giáo được hỏi xem có tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể không, chắc đa số sẽ trả lời là có. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa người Công giáo và người Tin lành. Người Công giáo tin có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể do lời truyền phép của linh mục. Tuy nhiên đôi khi ta có thể nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa trong Bí tích Mình thánh. Có khi nào ta nghe tiếng cám dỗ bảo ta điều gì không nên tin, việc gì không nên làm, vấn đề gì cần phải được xét lại không? Có bao giờ ta tự hỏi không biết khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép trong thánh lễ : Này là mình Ta.. Này là máu Ta có thực sự như vậy không? Không biết bánh rượu sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép có thực sự trở thành mình máu thánh Chúa không? Sở có những câu hỏi như vậy là vì ta thấy bánh rượu sau khi được truyền phép trông bề ngoài không có gì khác với bánh rượu trước khi truyền phép ? Có một linh mục kia tự nghĩ nếu quả thật bánh rượu sau khi được truyền phép không phải là mình máu thánh Chúa thì những lần ngài dâng lễ quả là vô ích. Nếu quả thật không có sự biến đổi thực sự do lời truyền phép của linh mục dâng thánh lễ, thì vị linh mục đó không thể tự lừa dối mình, nghĩa là không thể tiếp tục dâng thánh lễ. Và vị linh mục đó lý luận chẳng lẽ từ khi Chúa lập Bí tích Thánh thể và lập chức linh mục đã có cả hàng triệu linh mục trên thế giới đã đọc lại lời Chúa hàng ngày: Đây là Mình Ta…Đây là Máu Ta lại tiếp tục dâng thánh lễ được sao?
Ta cứ giả sử người công giáo tin trong đầu óc có Chúa hiện diện trong Bí tích Thánh thể, và khi rước lễ là rước mình thánh Chúa. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được bằng con tim có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Mình Máu thánh không lại là chuyện khác. Để có thể cảm nghiệm được có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể, ta hãy đáp lại lời Chúa mời gọi: Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với ta, ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28). Nếu chưa có kinh nghiệm cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa, ta hãy đến cầu nguyện và thờ lạy trước Mình thánh Chúa, để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút những gánh nặng của cuộc sống, những nỗi khổ tâm của lòng mình vào lòng từ ái của Chúa. Ta có thể cầu nguyện riêng một mình, hay với nhóm, hay chỉ cần ngồi đó thinh lặng để cho lòng mình nói với Chúa. Khi mẹ Teresa, thành Calcutta được hỏi tại sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục phục phụ người nghèo bên Ấn Độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời Chúa Thánh thể là sức mạnh của bà và bà cầu nguyện hàng giờ trước Mình thánh Chúa. Chúa bảo ta qua các tông đồ: Các con lại không thức với Thày được một giờ sao (Mc 14:37)?
Để đáp lại lời Chúa mời gọi, ta hãy thức với Chúa một giờ, hãy cầu nguyện với Chúa một giờ trước Thánh thể Chúa, hoặc ban ngày hay ban tối, hoặc với ngưòi khác hay một mình xem ta cảm thấy thế nào? Nếu lần này không cảm thấy gì, thì lần sau, rồi lần sau nữa. Ta hãy thức với Chúa một giờ xem lời Chúa và Mình thánh Chúa có sức tác động và biến đổi tâm hồn và đời sống ta không, xem Chúa có thực sự là sức mạnh, là nguồn vui, là niềm an ủi, là sự cậy trông và là lẽ sống của đời ta không ?
Bí Tích Thánh Thể – Mình Máu Chúa Ki-tô – chính là bản tình ca đầu tiên Thiên Chúa “sáng tác” để hát cho con người nghe, cho con người sức mạnh và sức sống vượt qua sa mạc trần thế, chiến thắng tiếng gọi mời quyến rũ đam mê tội tình của những “sirènes – hỏa ngục” luôn tìm cách lôi ta vào chốn hư vong, mất cả xác hồn.
Để khơi nguồn hứng sáng tác bài tình ca này, Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất muôn vật, đã tác thành sông núi biển khơi và vũ trụ trăng sao, đã cho con người mang hình ảnh của Người và đã tái tạo những hư hao tưởng chừng không thể cứu vãn được, do chính con người tự gây nạn kiếp cho mình, khi ngay từ lần tiếp cận đầu tiên, đã bỏ Chúa, mà nghe theo lời đường mật của Sa-tan: ngọt mật chết ruồi ! Con người từ đó lang thang.
Ở đâu cũng thế – thiên đàng hay trần gian – sự phản bội tình yêu bao giờ cũng là tội nặng nề nhất: ở trần gian, gương vỡ rồi, dù có gắn lại thì vẫn không làm sao xóa đi những vết chắp vá, dù bao dung tha thứ bao nhiêu, thì vết thương lòng vẫn âm ỉ đau nhức; chỉ có Thiên Chúa mới hành động lạ lùng khi con người bội vong và chính “sáng kiến” lần cuối cùng này còn vĩ đại hơn lần đầu, mới xóa hết mọi tì vết của sự phản bội ấy, bằng bản tình ca Thiên Chúa khởi xướng trong hang đá Bê-lem, hoàn tất trên đồi Gôn-gô-tha, nhưng cả hồn nhạc Người muốn hát cho ta nghe và muốn ta hát cho Người nghe, chính là việc Chúa Giê-su ban Thịt Máu cho chúng ta.
Chuyện kể rằng: Tháng 11.2003, người dân một làng ở đảo quốc Fiji đã gửi lời xin lỗi theo kiểu truyền thống, đến con cháu nhà truyền giáo người Anh Thomas Baker, vì tổ tiên họ cuối thế kỷ 19 đã... ăn thịt mất nhà truyền giáo này ! Buổi lễ xin lỗi được tổ chức trang trọng với sự tham gia của thủ tướng Fiji và hậu duệ của Thomas Baker. Lịch sử ghi nhận vào ngày 21.7.1886, cha Thomas Baker, Hội Truyền Giáo Luân Đôn, bị dân làng Navatusila bắt trói vì dám sờ đầu của vị tù trưởng đáng kính của họ. Bị khép vào tội nặng nhất, nhà truyền giáo bị dân làng kết án tử và sau đó đem đi... làm thịt: ”Chúng ta hãy ăn hết, trừ đôi giày của hắn !” Bảo tàng Fiji vẫn giữ đôi giày bị bỏ lại, như một bằng chứng về sự man rợ này ( theo Pacific Islands News Association ).
Nhưng ở đâu đó trong rừng rậm Châu Phi, vẫn còn một bộ lạc ăn thịt... người, song không phải họ giết người dã man để ăn thịt, mà tập tục định rằng: ngày tròn 60 tuổi, cha mẹ tắm rửa sạch sẽ, để con cháu... làm thịt chia nhau ăn. Theo họ, như vậy họ mới thực sự “ở” trong con cháu, máu thịt của họ trở thành máu thịt cho con cháu. Điều đó khiến cho họ vui sướng và hãnh diện, vì không phải ai cũng sống đến tuổi ấy cho con cháu... được nhờ !
Năm 1971, một chiếc Boeing đã rơi trên dãy núi Andes ở Mỹ. Mùa đông năm ấy lạnh một cách khác thường. Tuyết dày đặc. Việc cứu hộ hết sức chậm chạp và ngườI ta dự tính phải mất nhiều tuần mới có thể đến nơi chiếc máy bay gặp nạn. Điều đó cũngđồng nghĩa với việc những người sống sót – nếu có – sẽ khó lòng thoát khỏi chết do vết thương, do cái rét hoặc do đói. Và sự việc đã xảy ra như thế: không kể những người đã chết khi máy bay đâm xuống núi, mà những người bị thương nặng cũng lần lượt chết. Tuy vậy, do máy bay rơi giữa băng dày, cho nên còn khá nhiều người sống sót hoặc chỉ bị thương nhẹ.
Ban đầu họ còn lạc quan và tin rằng họ có thể dùng số thực phẩm dự trữ và chờ đội cứu hộ. Nhưng chỉ sau một tuần, chút lạc quan cuối cùng cũng biến mất, khi tuyết rơi ngày càng dày đặc: họ có thể phần nào chống lại cái lạnh buốt giá, nhưng lương thực đã cạn. Chung quanh họ, những xác chết được cái lạnh bảo quản tốt, càng khiến họ mất bình tĩnh. Họ bắt đầu nghĩ tới cái chết, chết vì đói !
Và một buổi sáng khi thức dậy sau một đêm trằn trọc vì cơn đói dày vò, khi lết ra khỏi khoang máy bay, tất cả bọn họ đều nôn thốc nôn tháo, khi nhìn thấy một người trong bọn họ đang... ngấu nghiến nhai tảng thịt cắt từ xác một hành khách đã chết. Song chỉ đến chiều tối, cơn đói hành hạ và bản năng sinh tồn mách bảo họ bắt chước anh bạn đồng hành. Cứ như thế, họ đã sống sót cho đến ngày đội cứu hộ đến. Ngày nay, chẳng mấy ai phản ứng như dân chúng và một số môn đệ thuở ấy, khi nghe Chúa Giê-su “nói điều chói tai” vì cả gan bảo họ ăn thịt và uống máu của Người. Ngược lại...
Báo chí những ngày gần đây đưa ra hình ảnh của những người mua thai nhi hoặc trẻ sơ sinh, để làm những món ăn, chế biến các loại rượu và người ta nhồm nhoàm nhai nuốt, thưởng thức, ca tụng nhau, khuyến khích nhau: những cảnh tưởng chừng chỉ có trong những cuốn phim kinh dị. Nhưng ác quỷ Dracula hoặc những bộ tộc bán khai cũng không hành động tởm lợm như thế đối với các thai nhi vô tội ! Rồi những con người tự cho là văn minh, cứu người, lại lạnh lùng giết chết những bào thai, làm những động tác giết thai nhi không chút run tay, như cắt nhỏ, bóp nát, hút ra, đổ vào cái “bô” vệ sinh như một thứ cặn bã bị chúc dữ ! Con người đã đạt đến mức độc ác cuối cùng, vượt xa những con thú hung hãn nhất, vượt xa những con vật bị bệnh dại, trong khi miệng vẫn nói cười, vẫn cho rằng sát nhân ( vì chẳng có từ nào khác phù hợp ) như họ là giúp người khác hạnh phúc, những thứ người khác cũng lòng lang dạ sói và chai đá chẳng kém gì họ, những kẻ ích dâm ô, ích kỷ, hèn nhát.
Bài tình ca con hát hôm nay, lạy Chúa Tình Yêu, là tiếng thét kinh hoàng của thai nhi đang bị xé nát và giết chết, kết quả những cảnh đam mê xác thịt thác loạn vô trách nhiệm, để rồi nạo phá và giết bỏ giọt máu do sự dâm ô của họ tạo ra, là thịt máu baongười vô tội bị chết trong lửa đạn, chiến tranh, khủng bố, mà tất cả đều bắt nguồn từ tham lam, độc ác và ích kỷ của con người. Bài tình ca ấy, Chúa đang nghe, Chúa đang đau, Chúa đang kinh hãi, xót xa. Chúa muốn chúng con hãy no nê Thịt Máu Chúa, Thịt Máu của hy sinh dâng hiến, để Chúa biến cải tâm hồn chúng con, trước khi chính chúng con đem Chúa đến cho anh em. Pie Pelicane, Jesu Domine, me immundum munda tuo sanguine. Ôi Chúa Giê-su, Cánh Chim Bồ Nông Từ Ái, xin dùng Máu Thánh Chúa tẩy xóa con khỏi mọi xấu xa nhớp nhơ !
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giê-su. Nghĩa là chúng ta mừng kính mầu: THÁNHTHỂ-124
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giê-su. Nghĩa là chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Giê-su trao ban chính ngài cho chúng ta dưới hình bánh rượu trong bí tích Thánh Thể.
Như chúng ta nghe bài Tin Mừng theo Thánh Mác-cô thuật lại: “Trong bữa ăn, Chúa Giê-su cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: Đây là Mình Thầy Anh em hãy cầm lấy mà ăn. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông mà bảo: Đây Máu Thầy, Máu giáo ước đổ ra vì muôn người”. Trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an chúng ta còn nghe Chúa Giê-su nói: Ai ăn Ta sẽ nhờ Ta mà được sống ( Ga 6, 57 )
Chúng ta tự hỏi: Làm sao mà Chúa Giê-su lại trở nên Thánh Thể nuôi người ? Làm sao thịt Chúa Giê-su lại có thể trở thành của ăn ? Làm sao máu Chúa Giê-su lại trở thành của uống ? Làm sao bánh rượu kia sau lời truyền phép của Linh Mục lại trở thành Chúa Giê-su mà tôi phải cúi đầu tôn kính và thờ lạy ?
Làm sao và làm sao ? Chúng ta thấy mầu nhiệm tiếp nối mầu nhiệm. Mầu nhiệm bao trùm mầu nhiệm. Những lời giải thích của trí không không làm cho mầu nhiệm sáng tỏ bao nhiêu. Như tác giả Sách Gương Chúa Giê-su, chúng ta tin rằng: “Bí Tích Thánh Thể là mầu nhiệm của tình yêu chứ không phải là mầu nhiệm của lí trí. Là việc của con tim chứ không phải là việc của trí khôn”.
Ai yêu thì có kinh nghiệm này: Khi người ta yêu nhau thì người ta muốn ở cùng nhau, ở trong nhau. Người ta muốn nên một với nhau. Mình với ta tuy hai một. Quy luật của tình yêu là như thế. Chừng nào chưa được như thế, thì chừng ấy những người yêu nhau còn khắc khoải. Chúa Giê-su đã yêu chúng ta cho nên Ngài hiểu như thế và Ngài sống cái quy luật đó của tình yêu. Người đã nên một với chúng ta trong cuộc sống làm người này, đã nên một với chúng ta trong cái chết và đã nên một với chúng ta một cách hữu hình trong Bí Tích Thánh Thể. Con đường từ cõi trời xuống cõi thế, nơi máng cỏ chuồng bò, đến thập giá và đến bàn thờ là hành trình của một tình yêu phiêu lưu, một tình yêu hạ mình, một tình yêu điên dại. Chỉ tình yêu mới có thể làm như thế.
Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của tình yêu. Mà như chúng ta biết phàm đã là tình yêu, thì đón nhận cần thiết hơn là tìm hiểu. Sẽ là tốt hơn, nếu trước những con người cụ thể, chúng ta biết yêu thương, thay vì đi hỏi xem tình yêu là gì. Cũng vậy, đón nhận Mình Máu Thánh Chúa, thì cần thiết hơn và tốt hơn là đi hỏi tại sao.
Chúng ta cần thiết phải đón nhận Chúa Giê-su Thánh Thể, vì Chúa sẽ thoả lòng khi Tình Yêu của Ngài dành cho chúng ta lại đã được con người chúng ta đón nhận.
Chúng ta thấy mình cũng chỉ thoả lòng khi đón nhận Chúa Giê-su Thánh Thể. Kinh nghiệm cuộc đời sẽ dạy cho chúng ta biết rằng: Sẽ không có điều gì, sẽ không có một ai, ngay cả là vợ là chồng, là người mình yêu thương nhất có thể có thể lấp đầy khoảng trống vắng của trái tim mình. “Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy” ( Mark Link ). Thánh Âu-tinh nói rằng “Lạy Chúa tâm hồn con khắc khoải cho đến khi đựơc nghỉ yên trong Chúa”.
Chúng ta sẽ chỉ được bình an đích thực khi chúng ta tôn thờ và đón nhận lấy Mình và Máu Thánh Chúa Giê-su. Mọi nỗ lực tìm kiếm sự hợp nhất trọn vẹn và tròn đầy ở ngoài Chúa đều là mê lầm cả. Làm gì có hạnh phúc nếu chỉ có con nguời. Làm gì có sự bình an đích thực khi chỉ trông cậy vào vật chất nay còn mai mất, biến đổi như nước chảy mây bay. Hạnh phúc thật chỉ có cho những con người biết sống với trời và với người, biết kết hợp với người mà cũng không quên trời. Biết kết hợp những giá trị máu qua và những giá trị vĩnh cữu. Biết nối cái hữư hạn vào cái vô hạn. Nhưng cái sẽ thành hiện thực khi con người biết tôn thờ và đón nhận Thánh Thể. “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở trong kẻ ấy”.
Bao nhiêu khát vọng hiệp nhất của con người đã thất bại, bao nhiêu ước mơ hạnh phúc của con người bị tước đoạt. Nhưng chúng ta tin rằng ai tin nhận Chúa Giê-su Thánh Thể, ai ăn thịt và uống máu con người, thì những khát vọng hiệp nhất với Chúa Trời của con người có từ ngàn đời, lập tức thành hiện thực. Hiến chế Phụng Vụ, 47 viết rằng: “Khi lãnh nhận Đức Ki-tô, tâm hồn được đầy tràn ân sủng, cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời”.
Ít nhất việc đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa cũng làm cho đời sống Đức Tin của chúng ta được lớn lên và có ý nghĩa. Cha Jacques Loew, một người vô thần, sau trở thành Linh Mục Dòng Đa-minh và là người sáng lập Hội Truyền Giáo Thánh Phê-rô và Thánh Phao-lô, đã làm chứng trước giáo triều Rô-ma như sau:
“Con là người vô thần. Nhưng muốn xem Thiên Chúa có hay không nên con đã đến xin các cha Dòng Chartreuse ở Valsainte vào Đan Viện ít hôm để tìm kiếm. Con được tiếp đón khá nồng hậu. Có điều là lạ thay khi con muốn được nghe các ngài giảng về đạo giáo, thì các ngài lại nghe con nói và bảo con: “Anh đang ở trên đường tốt. Cứ thế mà đi” và chỉ cho con một Nhà Nguyện và bảo. “Nếu muốn, anh cứ vào”.
Bấy giờ là Tuần Thánh, con thấy các cha các thầy đến vậy quanh bàn thờ, nơi Đức Viện Phụ cử hành Thánh Lễ, chỉ mình con trong xó góc. Con nghĩ hoặc những người này là những người điên, đi nuốt miếng gì đó mà con không biết, hoặc là con mù loà. Nhưng đúng là con thấy các cha các thầy rất bình thường, rất quân bình, lại còn có khả năng sống trọn vẹn trong thinh lặng, trong sa mạc. Lúc đó con bị bắt buộc phải nghĩ rằng chắc chắn có một cái gì đó mà con không biết, một sự hiện diện thần thánh vượt quá giác quan của con. Con bắt đầu xác tín rằng có thể có một Đấng vô hình. Dần dần con hiểu ra rằng nếu Thiên Chúa yêu thương ta thì Ngài có thể đến với ta qua Con của Ngài. Thế là con bắt đầu tin vào Chúa Giê-su.
Còn một điều phức tạp nữa đối với con là: Con được thanh tẩy theo nghi lễ Công Giáo nhưng lại lớn lên trong đạo Tin Lành. Vậy nên chọn Công Giáo hay Tin Lành ? Con quyết định đi dự một bữa tiệc Ca-na Tin Lành xem sao. Khi con xin các bạn Tin lành và các mục sư cho biết ý nghĩa của tiệc Cana, thì mỗi người, trả lời mỗi khác. Người thì bảo đó là một ký ức, người thì bảo đó là một bữa ăn huynh đệ. ( ... ) Con băn khoăn cho tới khi đọc Tin mừng và gặp được câu: “Này là Mình ta, này là Máu ta”. Đó chính Thánh Thể Chúa.
Chính Thánh Thể Chúa đã dẫn đưa con vào Hội Thánh, dẫn đưa con vào hàng Giáo Sĩ và hôm nay có mặt với các ngài ở đây. Ước mong sẽ không gì có thể làm suy yếu xác quyết 2000 năm về kho tàng Thánh Thể quý báu này, một kho tàng nâng đỡ và tăng cường Đức Tin của chúng ta”.
Ước mong xác tín và kinh nghiệm của cha Jacques Loew cũng là xác tín và kinh nghiệm của chúng ta. Amen.
Trên bình diện giai thoại, nên nhắc đến một chú giải mới đây cho rằng đám đông theo Chúa: THÁNHTHỂ-125
Trên bình diện giai thoại, nên nhắc đến một chú giải mới đây cho rằng đám đông theo Chúa là một cuộc tập họp có dáng dấp quân sự… Theo lối nhìn ấy, tưởng nên phụ đề thêm cho đủ bộ: Chúa chữa lành các bệnh nhân, vậy có nên nghĩ Chúa điều hành một sở y tế không? Phải nói lên như vậy để chúng ta chú ý đến sự cần thiết đọc các bản văn Kinh Thánh với tinh thần khách quan, không nên quên rằng nguy cơ là ở chỗ để óc chủ quan làm cho hiểu sai ý nghĩa Kinh Thánh. Phê phán thẳng thắn với một tâm hồn thanh khiết, là điều kiện phải có cho sự khảo cứu những tác phẩm nghiêm chỉnh – đức tính ấy rất cần cho người đọc Kinh Thánh.
Ý định Thiên Chúa trong sáng như thanh thiên bạch nhật, hiển hiện qua đoạn Phúc Âm thuật lại phép lạ hóa bánh thành nhiều. Đức Giêsu đáp ứng những khát vọng sâu xa của nhân loại bằng ân huệ sinh hóa bánh ăn và bằng chính bản thân Chúa lôi cuốn dân chúng. Bài đọc hôm nay dễ hiểu, chỉ cần lưu ý ba chi tiết hấp dẫn:
Đức Giêsu niềm nở với đám đông dân chúng theo Người.
Đức Giêsu là Thầy được dư luận rộng rãi đồn đại. Ai cũng muốn đến gần để xem để nghe. Tới một lúc, Chúa muốn lui ra một chỗ riêng biệt. Dân chúng đoán biết ý Chúa, vội đến đó trước chờ Người. Thấy thế, Chúa tỏ ra niềm nở với họ. Chúng ta có thể tưởng tượng Người có lẽ hơi bực mình, muốn nghỉ ngơi một lát vì mệt mỏi. Chúa để đám đông vây quanh, như thể ‘nuốt’ lấy Người. Có ý kiến cho rằng linh mục của Đức Giêsu Kitô được ơn kêu gọi trở nên một người bị ‘nuốt’. Đối với Chúa, điều nhận xét này đúng vô cùng. Chúa ban cho dân chúng một của ăn thiêng liêng lâu bền hơn của ăn vật chất. Vậy của ăn mà loài người khao khát nhất là của ăn thiêng liêng. Môn đệ Đức Kitô không được bao giờ quên rằng người xung quanh có quyền đòi hỏi nhiều ở mình, mình phải niềm nở, phải tiếp tế cho những ai đói khát.
Chúa nói với họ về Nước Thiên Chúa. Và bảo các môn đệ: “Hãy cho họ ăn”.
Cho họ của ăn nào? Họ cần cả hai thứ, bánh phần hồn lẫn bánh phần xác. Con người là một bản thể vừa vật chất vừa siêu nhiên. Nước Thiên Chúa dưới thế gồm những con người cần có lương thực nuôi thân. Kitô hữu nào muốn trở nên môn đệ Đức Kitô trong sự thật, kẻ ấy phải cố gắng phân phát của ăn vật chất cho những ai đói về thể xác, nhưng không được quên rằng họ cũng đói về phần hồn. Thế giới ngày nay thiếu ăn, kêu gọi chúng ta giúp đỡ – Đức Giáo Hoàng không ngớt nhắc nhở chúng ta điều ấy. Chúng ta làm gì về mặt thực tế cho những kẻ ăn không đủ no? Thế giới đang kêu gọi những người có trách nhiệm về Phúc Âm. Chúng ta có đem Phúc Âm thật đến cho những kẻ đói khát sự thật không?
3) Bánh được Đức Giêsu hóa thành nhiều là tiền-ảnh về Bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu tự hóa thành nhiều như Người đã hóa năm chiếc bánh thành vô số của ăn. Phép lạ bánh là dấu chỉ khiến chúng ta ý niệm về quyền năng vô biên của Thiên Chúa đem phục vụ cho một tình yêu vô biên. Không có dấu hiệu yêu thương nào lớn hơn hiến mạng sống mình. Đức Giêsu hiến mạng sống Người, hơn thế nữa, Chúa tặng tất cả bản thân Chúa cho nhân loại. Chúa dùng quyền năng vô biên của Người phục vụ cho sự hiến tặng ấy. Chúa tự hóa thành nhiều để hiến cho mỗi người chúng ta. Khi hàng ngàn người rước lễ, có hàng ngàn con người riêng biệt, chính Đức Kitô hiến toàn thân cho mỗi người rước Mình Thánh Chúa lúc đó.
Thánh Kinh đã dùng thật nhiều hình ảnh để diễn tả về bữa tiệc Thánh Thể. Nào là hình ảnh: THÁNHTHỂ-126
Thánh Kinh đã dùng thật nhiều hình ảnh để diễn tả về bữa tiệc Thánh Thể. Nào là hình ảnh Manna, Bánh bởi trời, nào là hình ảnh chiên vượt qua… Và gần chúng ta hơn hết là hình ảnh của phép lạ bánh hóa nhiều. Tất cả những hình ảnh ấy được thực hiện một cách viên mãn nơi Đức Kitô khi Ngài tuyên bố:
Ta là bánh hằng sống… Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống.
Chính Chúa Giêsu đã trở nên của ăn cho tâm hồn mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể chính là một sáng kiến tình yêu vĩ đại nhất của Chúa Giêsu. Ngài đã thiết lập mầu nhiệm tình yêu này để thông ban cho con người một hồng ân cao cả, đó là nhờ mình và máu Ngài mà chúng ta được thông hiệp vào sự sống thần linh. Thánh Thể còn là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất được dâng lên cho Thiên Chúa. Qua cái chết và sự Phục sinh, Đức Kitô đã trở nên của lễ hoàn hảo.
Nhưng lễ tế này, giờ đây còn được tái diễn trong thánh lễ. Hy tế ấy vẫn tồn tại và hiện thực, mặc dù biến cố ấy đã xảy ra cách đây hai mươi thế kỷ. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch sự sống, bổ dưỡng cho tâm hồn chúng ta như lời Chúa đã nói:
- Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.
Dân Chúa đang trên đường lữ thứ trần gian cần phải được bổ dưỡng bằng lương thực thần linh này để đạt tới bờ bến bình an.
Bí tích Thánh Thể còn là nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, sự sống đời đời là gì nếu không phải là ơn cứu độ Chúa dành cho chúng ta. Bí tích Thánh thể còn là sợi dây liên kết mọi người chúng ta lại với nhau như lời thánh Phaolô:
- Tất cả chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng thông phần một nguồn sức sống thần linh là Đức Kitô.
Tuy nhiên, Bí tích Thánh Thể chính là bí tích của đức tin. Muốn lãnh nhận, chúng ta phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhận ra bộ mặt của Đức Kitô trong Giáo hội. Chỉ qua lăng kính đức tin, chúng ta mới nhận ra Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Không có đức tin mọi hành vi phụng vụ đều bị coi là mê tín. Bí tích chỉ có ý nghĩa và tác sinh hiệu quả khi chúng ta có một đức tin sống động, một tình thương chan hòa và ơn sủng Chúa trao ban.
Và sau cùng, Thánh Thể chính là hình ảnh của bữa tiệc cánh chung. Khi tham dự Thánh Thể, được ăn và uống mình máu Thánh Chúa Giêsu, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Được Đức Kitô tan biến và thấm nhập vào tâm hồn chúng ta, được sống bằng chính sức sống của Thiên Chúa. Và như vậy, đời sống vĩnh cửu đang có và triển nở nơi người tín hữu để rồi tiến đến tình trạng viên mãn trong ngày sau hết.
Vì những ý nghĩ cao cả ấy, việc cử hành thánh lễ, phải là trung tâm của mọi hoạt động phượng tự của Giáo hội, cũng như phải là chóp đỉnh của đời sống người tín hữu, như Công đồng Vatican II đã xác quyết:
- Mọi bí tích, mọi việc tông đồ, mọi chức vụ của Giáo hội đều qui về Bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là khởi nguồn và chóp đỉnh của mọi việc rao giảng Tin Mừng và là dấu chỉ của sự hiệp nhất.
Thế nhưng còn chúng ta, chúng ta đã nghĩ gì về Bí tích Thánh Thể và nhất là chúng ta đã đáp trả tình thương to lớn mà Chúa Giêsu Thánh thể đã dành cho chúng ta như thế nào.
Cuộc gặp gỡ tình yêu mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta ở trang Tin Mừng này hay Tin Mừng: THÁNHTHỂ-127
Cuộc gặp gỡ tình yêu mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta ở trang Tin Mừng này hay Tin Mừng nọ đôi khi là một kế hoạch lớn, một cuộc đối diện khá thân mật với Ngài và đôi khi là một kế hoạch tổng thể trong đó chúng ta chiêm ngưỡng Ngài từ xa hơn. Đó là trường hợp ngày hôm nay.
Không có trần thuật nào quen thuộc với chúng ta hơn là trần thuật bánh hóa nhiều. Có sáu trần thuật như thế trong Tin Mừng! Ngày hôm nay, lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cố gắng đi ngay vào việc suy niệm Thánh Thể, nhưng như thế, sẽ làm hạn hẹp những quan điểm rộng rãi của thánh Luca.
Từ đầu thánh Luca không ngừng loan báo biến cố: ngày hôm nay hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa, ngày hôm nay Đấng Thánh của Chúa đã đến, những việc lạ lùng xảy ra, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài.
Đối diện với những kẻ thù địch và những kẻ bỏ rơi Chúa Giêsu, thánh Luca ghi lại lần cuối cùng quang cảnh ở Galilê: Chúa Giêsu và đám đông phấn khởi. Đó là sự suy niệm của chúng ta, nhưng còn mở rộng ra, hết sức rộng: Chúa Giêsu, niềm mong đợi của tất cả mọi người.
Thánh Luca sắp giúp chúng ta thấy Chúa Giêsu như là Đấng quy tụ và làm cho phỉ nguyện. Lời đầu tiên của bài Tin Mừng là: “Dân chúng”, lời cuối cùng: “Tất cả ăn no nê”. Việc hóa bánh thành nhiều về mặt lịch sử đúng là một phép lạ, năm ngàn người được nuôi sống với năm chiếc bánh và hai con cá. Tôi ái ngại cho những người mà điều này làm cho khó chịu. Đức tin của họ thiếu động lực. Nhưng đàng sau phép lạ có dấu chỉ lớn về cơm bánh: Chúa Giêsu làm cho những người đói được no nê.
Ngày quy tụ Dân Chúa, Ngài tổ chức Dân Chúa, nhóm Mười Hai hiện diện trong trần thuật này, nhưng điều được nói đến nhất chính là quyền bính bình lặng và mạnh mẽ, ảnh hưởng của Ngài. “Xin Thầy giải tán dân chúng!”, nhóm Mười Hai lo lắng nói với Ngài. Không, Ngài ở lại thì chúng ta cũng ở lại, không có kẻ nào khác Ngài là người quy tụ ở dưới đất cũng như trên trời.
Ngài nói: Ngài giảng dạy Nước Trời, thánh Luca giải thích như thế. Thánh Luca cho thấy kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa. Chúng ta mất thời giờ khi chúng ta tìm kiếm một ông thầy mặc khải khác.
“Ngài mang lại sức khỏe”. Ở đây nữa, đàng sau các phép lạ, phải thấy dấu chỉ này là việc chữa lành các tâm lòng, sự dứt ra khỏi tội lỗi, sự giải thoát lớn, sức khỏe của con cái Chúa.
“Mọi người đều ăn no nê, và người ta thu lại được mười hai thúng bánh vụn!” dấu hiệu của cơm bánh, chính là thức ăn thần diệu, làm phỉ nguyện và dư dật. Chúa Giêsu nói với những người lầm lẫn về dấu chỉ này: “Cơm bánh, chính là Ta! Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói; ai tin Ta sẽ không bao giờ khát” (Ga 6,35)
Chúng ta sẽ đi đến Chúa Giêsu thật ngày mà chúng ta xác tín rằng chỉ có Ngài mới có thể xoa dịu cơn đói chủ yếu của đám đông dân chúng. Cơn đói được sống, được hiểu cuộc sống, được rút ra các mật ngọt từ đó, và đi tới niềm vui tối hậu mà vì đó chúng ta cảm thấy rõ rằng chúng ta đã nhận lãnh sự sống và những đói khát vô bờ bến. Chính Ngài là Sự Sống và là Cơm Bánh.
Cảm thấy những điều đó ở trong đám đông để thoát khỏi nếu cần một sự sùng tín Thánh Thể được sống quá riêng tư với Ngài. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa Giêsu khi chúng ta rất muốn tất cả đều yêu mến Ngài.
Trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều là trình thuật nền tảng và quen thuộc của Tin Mừng : THÁNHTHỂ-128
Trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều là trình thuật nền tảng và quen thuộc của Tin Mừng , vì 4 Tin Mừng đều thuật lại câu chuyện này (Mt 14, 13-21; Mc 6, 30-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-14). Xét về chi tiết thì mỗi tác gỉa thuật mỗi khác tùy theo quan điểm riêng của từng tác giả, nhưng tổng quát sự kiện xẩy ra thì giống nhau.
Thánh Luca cho chúng ta chiêm ngắm một vị Chúa đầy tình thương, tình người và kêu gọi chúng ta chia sẻ để có thể hiệp thông vời Chúa và liên kết với anh chi em.
Chúa Giêsu, Đấng thương cảm trước “cái đói, cái khát” của con người.
Những ai đã trải qua cái đói, khát thì mới thấy sự đáng thương, bi đát của người bị đói. Vì thế, phải đặt mình vào vị trí của những người đi theo Chúa Giêsu vào buổi chiều hôm ấy thì mới thấy được tình trạng thê thảm như thế nào khi không có cái gì để bỏ vào bụng. Có lẽ những người này đang trong tình trạng đói lả. Và Chúa Giêsu không thể nào làm ngơ trước tình trạng đáng thương ấy của “đám đông”. Họ đói khát vì đi theo Người, vì chăm chú nghe Lời Người. Chúa Giêsu không chỉ giải quyết cái đói thiêng liêng: Người nói với họ về nước Thiên Chúa (c.11b) mà Người còn giải quyết cái đói vật chất của đám đông đang theo Người: chữa lành những ai cần được chữa lành và cho mọi người được ăn no nê (c.17a)
2) Chính anh em hãy cho họ ăn
Phản ứng sửng sốt củ các môn đệ như bị gáo nước lạnh dội thẳng vào người là bình thường, vì làm sao họ có thể cung cấp thực phẩm cho số người như thế (riêng đàn ông đã đến gần 5 ngàn). Vì vậy, khôn ngoan nhất là giải tán để họ có thể tìm lương thực nơi các làng mạc chung quanh. Trong Gioan thì Chúa Giêsu là người đầu tiên bày tỏ sự lo lắng này (Ga 6,5) chứ không phải các môn đệ; và đây có lẽ cũng là cách của chúng ta hôm nay. Nhưng khi được Chúa gợi ý cho dân ăn, thì các ông đã nhiệt tình như muốn đóng góp tất cả. Năm chiếc bánh và hai con cá như thế là tất cả chất liệu mà các ông có thể có để cung cấp cho Người (5+2=7: một con số diễn tả sự viên mãn, trọn vẹn). Trong bữa ăn Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh chị em và rồi chính Người sẽ cung cấp chất liệu để ta chia sẻ (Lc11,14).
Thực ra chính Chúa Giêsu mới là Đấng làm cho con người được no thoả. Các môn đệ xưa kia đã cộng tác với Thầy mình vàhôm nay là Giáo Hội mà trong đó mỗi người chúng ta được kêu gọi như là cánh tay nối dài của Chúa. Chúng ta chỉ có thể trở thành tấm bánh được bẻ ra và được trao ban cho anh chị em mình một khi dám đi ra khỏi cái tôi ích kỷ, hẹp hòi, so đo, tính toán, cố bám lấy chức, quyền, địa vị hay tìm kiếm một chỗ ở an toàn để yên thấn, để được kính nể… Chính vì vậy, cộng đoàn mặc dù không đói cơm bánh nhưng lại là nơi đói khát tình người, tình huynh đệ; và thế giới hôm nay tưởng chừng như sung túc thì lại trở thành nơi thiếu cơm bánh và đầy bất công. Một thế giới tuởng chừng là ngôi nhà chung của mọi người thì lại là nơi chất chứa nỗi cô đơn, tuyệt vọng.
Bao lâu “cái tôi”của ta còn quá lớn thì không thể ngả mình thành từng nhóm (câu 14a) và lại càng không thể bảo mọi người ngả mình xuống được (c.14b), tức là vẫn còn chia rẽ, vẫn còn thiếu tình huynh đệ. Nếu sau khi hiệp thông với Chúa trong thánh lễ (rước lễ) mà không không thể chia sẻ cơm bánh vật chất, cơm bánh thiêng liêng với anh chị em mình thì Mình Máu Thánh Chúa vẫn còn xa lạ với chúng ta vì chúng ta chưa thực sự hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm Bánh được bẻ ra và được trao ban cho nhân loại thông qua các tín hữu.
Một người trong nhóm soạn bài giảng của chúng tôi xung phong triển khai đề tài Thánh Thể: THÁNHTHỂ-129
Một người trong nhóm soạn bài giảng của chúng tôi xung phong triển khai đề tài Thánh Thể của chúa nhật này. Ông khoe, chắc chắn sẽ tìm ra tài liệu để giúp đỡ mình. Tôi nghĩ chẳng nên làm thế. Hãy để bản văn ngày lễ tự nói lên ý nghĩa và Thánh Thể soi sáng chúng ta những tư tưởng mới về Mình Máu Thánh Chúa. Một trong những tư tưởng ấy là nhìn vào sự đói khát trong cộng đồng chung quanh và trên toàn thế giới. Rồi nhìn xem các bản văn chúa nhật này giải quyết vấn đề ra sao? Thực ra loài người luôn ở trong tình trạng đói khát, đói vật chất và tinh thần. Hình thức nào cũng khủng khiếp. Báo chí hàng ngày đăng tải những tin tức não lòng về đói kém. Hiện thời ở Phi Châu, già nửa dân số sống dưới mức nghèo khó tức khoảng 1 đôla một ngày. Ở Châu Á, tình hình không sáng sủa hơn. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc thì 2/3 thế giới là nghèo khó, thêm vào đó, loạn lạc, chiến tranh ngày càng đẩy một số lớn nhân loại vào cuộc sống bần cùng không cửa không nhà. Số dân tị nạn hiện thời khoảng 13 đến 15 triệu người. Một con số không thể tưởng tượng nổi, nhưng đó chỉ là hình thức thống kê, thực tế còn vượt xa hơn nhiều.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa được thiết lập vào 1264 với chủ ý tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Từ thời ấy khắp mọi nơi trên thế giới, lễ được mừng rất long trọng, gây nhiều cảm hứng và lòng tôn sùng nơi các tín hữu. Có các cuộc rước kiệu Thánh Thể, các buổi chầu Mình Thánh trọng thể, kéo dài hàng chục thế kỷ cho đến công đồng Vatican II. Phải công nhận rằng lòng tôn sùng Thánh Thể đã đào tạo nên những vị thánh lớn cho Giáo Hội; ngày nay lòng sùng kính này có phần giảm sút cho nên người giáo dân không thấy rõ được mối quan hệ hữu cơ giữa Giáo Hội và Thánh Thể. Họ ít làm việc thờ kính Thánh Thể cho nên ít thấy Thánh Thể là thân mình Đức Kitô tức là Hội Thánh. Thật là một điều đáng tiếc!
Câu chuyện trước phân đoạn Phúc Âm hôm nay là các tông đồ trở về từ sứ mạng rao giảng, họ muốn nghỉ ngơi và Chúa Giêsu truyền cho họ lánh vào một nơi vắng vẻ như thánh Luca ký sự: “Các tông đồ trở về thuật lại cho Đức Giêsu những việc các ông đã làm. Người đem các ông đi riêng với mình lui về thành kia gọi là Bétsaiđa”(Lc 9,10). Nhưng dân chúng đã khám phá ra các ngài và họ kéo đến rất đông. Chúa Giêsu đón nhận họ và rao giảng về nước trời cho họ nghe đồng thời chữa lành những bệnh nhân họ đem tới (Lc 9,12). Nói cách khác, Chúa Giêsu trông thấy rõ và giải quyết mọi nhu cầu của dân chúng, phần xác cũng như phần hồn. Đám người này thuộc giai cấp bình dân, nghèo khổ và chất phác, bởi lẽ theo tục lệ, người Do Thái giàu có đi đâu xa cũng mang theo giỏ thức ăn đủ cho hai đến ba ngày đường. Mục đích là không phải ăn những đồ dơ bẩn của dân ngoại. Phúc Âm hôm nay kể: “Ngày bắt đầu tàn, nhóm mười hai đến bên Đức Giêsu, thưa Người rằng: xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc, nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn”nghĩa là đám đông hoàn toàn không mang theo thức ăn như tục lệ; họ nghèo khổ, không có dư để dự phòng, nhiều người có thể đói lả nếu Chúa không giơ tay cứu giúp. Tuy nhiên họ không phải là hạng phàm phu tục tử, chỉ chăm lo cho cái bụng. Trước tiên họ đói khát Lời Thiên Chúa và đến nghe Chúa Giêsu loan báo về nước trời, tiếp theo là được chữa lành. Nhưng không phải chỉ có thế; họ đại diện cho toàn thể nhân loại đứng ra xin Chúa nuôi dưỡng, bởi vì loài người thường khi thất bại trong nhiệm vụ nuôi nấng lẫn nhau. Lúc ấy trời đã bắt đầu tối.
Và một trong những góc “tối”của nhân loại là đám người đói khát. Theo tính toán của các nhà kinh tế, thế giới này có đủ lương thực cho những người nghèo khó nếu như người ta biết phân phối cho đồng đều. Nhưng thực tế không được như vậy, các nước Tây Âu giàu có sản xuất dư thừa thực phẩm nhưng hoặc huỷ đi hoặc được chính phủ trợ cấp để bỏ hoang đồng ruộng chứ không cung cấp cho những nước đói nghèo. Vì thế những người có chút ít lương tâm đã lập ra phong trào “Bánh ăn cho thế giới”(Bread for the World). Một mặt xuất bản các tin tức về tình trạng đói nghèo trên thế giới để đánh thức lương tâm nhân loại; mặt khác tích cực quyên góp để trợ giúp các quốc gia đói ăn. Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu sau khi cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, đọc lời chúc tụng, Ngài đưa cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân chúng và mọi người đều ăn no nê. Tức các môn đệ lãnh trách nhiệm “phân phối”lương thực cho đám đông. Ngày nay, Giáo Hội cũng lãnh trọng trách đó, nhưng không phải chỉ về phương diện thiêng liêng mà thôi nhưng còn về vật chất nữa. Một nhà cách mạng nổi tiếng đã từng nói: “Không sợ thiếu, chỉ sợ phân phối không công bằng”. Thực tế trong Hội Thánh nếu chúng ta có lòng thương yêu đích thực, thì chắc chắn không ai phải chịu số phận túng quẫn quá đáng. Một mình mẹ Têrêsa thành Calcutta đã có thể giúp đỡ và nuôi sống hàng ngàn người hấp hối trên thế giới. Mẹ không lo thiếu mà chỉ lo thi thố lòng bác ái. Trong nhiều giáo xứ nếu các hội từ thiện hoạt động tốt thì giáo xứ giảm hẳn con số người nghèo. Nhiều chính phủ hiện nay đang phát động phong trào xoá đói giảm nghèo và kết quả rất là khả quan, có thể giảm tới một nửa số hộ nghèo; chúng ta nên tích cực tham gia vào các chương trình đó. Nếu thực hiện tốt công việc này chắc chắn hình ảnh Chúa Giêsu nuôi dưỡng đám đông sẽ được cảm nghiệm rõ nét trong cộng đồng nhân loại.
Chúng ta sẽ không còn hành động như các tông đồ thuở xưa, giải pháp dễ dàng của họ là: Xin Thầy giải tán đám đông để họ tìm lấy chỗ trọ và thức ăn. Nhưng Chúa muốn điều ngược lại: “Anh em hãy cho họ ăn đi”. Giữa hoang địa thì lấy đâu ra của ăn mà nuôi sống năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con trẻ. Chúa đã giảng cho họ về hạnh phúc nước trời, bây giờ là lúc thể hiện nội dung đó. Người đã chữa nhiều bệnh tật thì vấn đề nuôi sống đám đông không phải là khó; Nước trời phải được cụ thể nhìn thấy. Tuy nhiên, các môn đệ vẫn còn mù tối và chưa thực sự tin vào lời rao giảng của thầy mình. Chúng ta cũng vậy, đã dám can đảm đánh đổi cuộc đời với những dấu chỉ của lòng tin? Đã dám hy sinh những tiện nghi, lợi lộc cho lý tưởng mình rao giảng? Hay chỉ đề nghị người khác theo Chúa còn mình thì không? Trước phép lạ Chúa Giêsu, các tông đồ đã được chữa lành về phần thiêng liêng, họ đã tận mắt chứng kiến Chúa Giêsu thoả mãn nhu cầu “đói khát”của đám đông. Trước hết Ngài truyền chia họ ra từng nhóm nhỏ: “Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một”. Để làm chi? Đó là những cộng đoàn thân thiện, biết về nhau, chung tình thân ái, cùng dự bữa ăn Agapé, chứ không phải một bữa ăn khổng lồ, kẻ thì cao sang, kẻ lại vô danh tiểu tốt, nghĩa là còn loại trừ nhau và xa lạ với nhau. Nhưng đây là những cộng đoàn bác ái cùng chung chia bữa ăn bình đẳng, người cao chức vị không được phần hơn, còn người bé nhỏ cũng không phải chịu thiệt thòi. Mọi người đều được ăn no nê, phần dư người ta thu được mười hai thúng đầy. Giống như các tông đồ xưa. Chúng ta hôm nay cũng được chữa lành khỏi những bệnh mù thiêng liêng, không còn kỳ thị thấp cao, giàu nghèo, sang hèn, người học thức cũng như người ngu đần, da trắng cũng như da màu. Chúng ta không tách biệt khỏi những nhu cầu của anh em đồng loại, bởi vì Hội Thánh là những nhóm nhỏ, biết rõ về nhau, săn sóc những nhu cầu của nhau cho đến chi tiết.
Bài học thứ hai là làm thế nào chúng ta có khả năng nuôi dưỡng thiên hạ? Lời Chúa truyền cho các tông đồ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi”không phải là một lệnh truyền trống rỗng, Chúa Giêsu biết rõ các ông chẳng có gì ngoài năm chiếc bánh và hai con cá. Nhưng ngần ấy cũng đủ để Ngài làm phép lạ miễn là các ông có một tấm lòng. Trong bí tích Thánh Thể chúng ta nhận lãnh hàng ngày Đấng có quyền năng biến đổi cuộc đời chúng ta thành phép lạ, nếu chúng ta dâng hiến toàn thân cho Ngài, không so đo tính toán hơn thiệt. Thánh Thể có thể chữa bệnh ích kỷ, mở mắt cho người ta nhìn thấy những phương tiện nuôi dưỡng kẻ khó nghèo. Thế giới không thiếu lương thực nhưng thiếu lòng nhân ái để phân phát những tặng phẩm của Thiên Chúa. Đức Giêsu hôm nay làm gương để chúng ta noi theo: Mọi người được ăn cùng một thứ bánh, cùng uống một chén rượu mà Ngài tặng ban và sẽ được sống muôn đời nhờ bánh rượu đó. Vậy chúng ta có sẵn sàng chia sẻ cuộc sống của mình với tha nhân? Chia sẻ tình yêu, kiến thức, của cải… để giảm bớt sự nghèo đói của thế giới?
Chúng ta thường có khuynh hướng lãng quên, bí tích Thánh Thể là điểm mốc để nhắc nhớ nhân loại về những ân huệ Chúa ban: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”. Nhớ đến Chúa Giêsu bởi Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, là ơn cứu độ, là sự phục sinh và cuộc sống muôn đời, tóm lại, là hạnh phúc của nhân loại và từng cá nhân sinh ra trong thế gian này. Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ hay kính thờ Thánh Thể là mỗi lần chúng ta được đổi mới linh hồn, lớn lên trong tình yêu Chúa và tha nhân cho đến khi Chúa lại đến. Thực ra theo cái nhìn cánh chung, mỗi sáng Chúa Giêsu trở lại trong thánh lễ và chúng ta được hạnh phúc tiếp rước Ngài. Cùng với Ngài là muôn vàn ân huệ và hạnh phúc. Nếu sửa soạn tâm hồn cho sốt sắng và xứng đáng, chúng ta sẽ được hưởng đầy đủ niềm vui thiên đàng như nhiều vị thánh đã từng cảm nghiệm. Phiền vì thiếu ý thức và hy sinh nên đa phần tham dự thánh lễ một cách máy móc, ươn lười, uể oải như bị ép buộc. Thành thử chẳng hưởng được những kho tàng quý báu đó; hậu quả là không thể tiến triển về phần thiêng liêng, thụt lùi hoặc dậm chân tại chỗ.
Sâu xa hơn nữa, bí tích Thánh Thể gói ghém trọn vẹn cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đúng như thời điểm Ngài hy sinh trên thập tự tại núi Sọ. Ngày nay người ta nghệ thuật hoá ảnh tượng bằng tài hoa của mình trên vàng bạc gỗ quý. Thực tế lúc Ngài chịu đóng đinh không phải như vậy. Nó là một cuộc hành hình dã man của đám lính La Mã mất hết tính người; Ngài bị lột trần không mảnh vải che thân, đinh đóng thấu xương, máu chảy đầm đìa, tanh hôi, ruồi nhặng bu đầy, khách qua đường không dám nhìn, bước đi nhanh như sợ bị ô uế hoặc có người buông lời chửi thề. Theo thói thường, cảnh tượng thê lương này kéo dài vài ba ngày, có khi cả tuần, cho đến lúc nạn nhân tắt thở. Trường hợp Chúa Giêsu, Ngài chết nhanh chóng đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên (Mc 15,44). Cho nên trong thánh lễ chúng ta đừng vì những trang hoàng bề ngoài mà làm mất tính thô kệch và gồ ghề của mầu nhiệm khổ nạn. Nó tàn nhẫn hơn các cuộc hành quyết bằng ghế điện hay xử bắn ngày nay.
Tóm lại, lễ Mình Máu Thánh Chúa là một cơ hội tốt để người tín hữu suy niệm về tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại tội lỗi, về sức mạnh của sự dữ, về những đau khổ ngày nay mà phần lớn nhân loại còn phải gánh chịu. Chắc chắn trong nhiều thánh đường tín hữu sẽ được rứơc lễ dưới hai hình thức bánh rượu, bởi lẽ chủ tế (Đức Giêsu) đã tuyên bố: Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn và uống… này là Mình Thầy, này là Máu Thầy. Cho nên, với tất cả tâm tình thờ phượng và biết ơn chúng ta đón nhận bánh và chén ban ơn cứu độ. Cầu xin Ngài thánh hoá linh hồn mình, cuộc sống hàng ngày, anh chị em thân thiết và cả thế gian như Ngài đã nói: “Máu này đổ ra cho muôn người được ơn tha tội”(Mt 26,28). Ước chi nhờ thánh lễ hôm nay chúng ta ý thức hơn sứ mạng của mình là tích cực rao truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng Ngài đã sống lại, cho đến khi Ngài đến xét xử trần gian. Amen.
[LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ NĂM C (10.06.2007)]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong đời sống xã hội có những cuộc sống và cái chết khiến người đời phải xót xa, trách móc: THÁNHTHỂ-130
Trong đời sống xã hội có những cuộc sống và cái chết khiến người đời phải xót xa, trách móc nhưng cũng có những cuộc sống và cái chết khiến mọi người phải thương tiếc, kính phục. Những cuộc sống và cái chết đáng kính phục nhất vẫn là của những người đã sống và chết vì người khác, nhất là vì những người bé mọn, nghèo hèn. Đứng đầu đội ngũ những người đáng kính phục này phải là Đức Giê-su Na-da-rét mà người Công giáo chúng ta tuyên xưng là Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa!
Mừng Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô là dịp tốt để chúng ta chiêm ngưỡng, bái phục và sống theo gương của Người.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: St 14,18-20: Ông Men-ki-xê-đê dâng bánh và rượu. 18 Khi ông Áp-ram thắng trận trở về, có ông Men-ki-xê-đê, vua thành Sa-lem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. 19 Ông chúc phúc cho ông Áp-ram và nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho Áp-ram! 20 Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch của ông! " Rồi ông Áp-ram biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm.
(2) Bài đọc 2: 1 Cr 11,23-26: Mỗi lần anh em ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. 23 Thưa anh em, điều tôi đã lãnh nhận tư nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." 25 Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." 26 Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 9,11b-17: Mọi người đều ăn và được no nê. 11 Hôm ấy, Đức Giê-su nói với đám đông về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. 12 Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: "Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng." 13 Đức Giê-su bảo: "Chính anh em hãy cho họ ăn." Các ông đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này." 14 Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một." 15 Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. 16 Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. 17 Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng. 2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (St 14, 18-20) là đoạn Sách Sáng Thế, kể lại cuộc gặp gỡ giữa ông Áp-ram và ông Men-ki-xê-đê. Ông Áp-ram vừa thắng trận trở về. Ông Men-ki-xê-đê là vua thành Sa-lem và là tư tế của Thiên Chúa. Ông Men-ki-xê-đê chúc phúc cho ông Áp-ram và ông Áp-ram chia chiến lợi phẩm cho ông Men-ki-xê-đê. Qua câu chuyện mà đoạn Sách St 14,18-20 tường trình lại, chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng được cả ông Áp-ram cả ông Men-ki-xê-đê kính trọng và tôn thờ vì Thiên Chúa đã làm nên cuộc chiến thắng của Áp-ram và binh lính ông. Vì thế mà việc dâng tiến bánh và rượu và lời tạ ơn là việc làm xứng hợp nhất trong hoàn cảnh này. Ông Men-ki-xê-đê, với tư cách là tư tế, đã thực hiện việc ấy thay cho ông Áp-ram và cho toàn dân Ít-ra-en.
(2) Bài đọc 2 (1 Cr 11,23-26) là những lời của Thánh Phao-lô nhắc lại sự kiện Chúa Giê-su đã trao Mình và Máu của Người cho các môn đệ trong bữa ăn tối cuối cùng. Bánh trên bàn ăn đã được Chúa Giê-su “hóa phép” thành Mình Người. Rượu trên bàn ăn đã được Chúa Giê-su “hóa phép” thành Máu Người. Mình và Máu Chú Giê-su bị nộp và bị đổ ra là để chuộc tội của chúng ta. Đó là điều kỳ diệu của Phép Thánh Thể là Bí Tích của Tình Yêu Dâng Hiến của Thiên Chúa làm người. Trong đoạn Thư 1 Cr 11,23-26 trên, chúng ta thấy tình thương và quyền năng vô biên của Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa. Tình thương đã khiến Chúa Giê-su hiến dâng mạng sống mình cho nhân loại. Quyền năng giúp Chúa Giê-su thực hiện một phép lạ vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 9,11b-17) là bài tường thuật của Lu-ca về phép lạ hóa bánh ra nhiều cho những người đến nghe Chúa Giê-su rao giảng về Nước Thiên Chúa. Số người là rất đông, chỉ tính nguyên đàn ông đã có tới trên năm ngàn. Thế mà chỉ có 5 cái bánh và hai con cá!
Qua Bài Phúc Âm Lc 9,11b-17 chúng ta cũng thấy tình thương và quyền năng của Chúa Giê-su. Tình thương, vì Chúa Giê-su không chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh mà còn lo lắng cho cả nhu cầu ăn uống của đám đông quần chúng. Quyền năng, vì từ năm cái bánh và hai con cá - một lượng lương thực ít ỏi chỉ đủ cho 5-10 người bớt đói bụng - Chúa Giê-su đã làm cho năm ngàn người được ăn uống no nê và còn dư những mười hai thúng bánh cá vụn.
Câu truyện bánh hóa nhiều ở trên chỉ là hình bóng, là sự kiện báo trước về Bí Tích Thánh Thể và Hy Lễ Thập Giá mà Chúa đã thực hiện trong Bữa Ăn Tối Ngày Thứ Năm và trên đồi Gôn-gô-tha Chiều Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, trước Lễ Vượt Qua năm 30.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta? Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được tìm thấy trong lời này của chính Chúa Giê-su trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy…. Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Thiết nghĩ Sống Sứ Điệp của Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giê-su là thực hiện hai điều này: 3.1 Đón nhận Bí Tích Thánh Thể với lòng biết ơn, trân trọng: Chúa Giê-su đã vì YÊU nhân loại mà hiến dâng mạng sống, chịu đau khổ và chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Người muốn chúng ta đón nhận Tình Yêu và Hiến Tế của Người với lòng biết ơn tràn đầy. 3.2 Học và thực hành bài học của Chúa Giê-su Thánh Thể: Chúa Giêsu chẳng những mời gọi chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Tình Yêu Bao La của Người mà còn mời gọi chúng ta bắt chước noi gương Người mà dâng hiến mạng sống mình vì anh em để thể hiện tình yêu thương chúng ta dành cho người xung quanh.
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em… Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới”. Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con Con Một Chúa để Người hiến dâng mạng sống mình vì chúng con. Chúng con nài xin Chúa ban cho chúng con một tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với Tình Yêu bao la của Con Cha là Chúa Giê-su Ki-tô, được thể chẳng những trong tâm tình mà cả trong hành động cụ thể hàng ngày.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con. 4.2 “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”.
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con Con Một Chúa để Người hiến mạng sống mình vì chúng con.
Chúng con nài xin Chúa ban cho chúng con biết cách tưởng nhớ đến Con Cha là Chúa Giê-su Ki-tô, chẳng những trong cử hành Thánh Thể mà trong cả cuộc sống phục vụ anh em của chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 “Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng”. Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con Con Một Chúa để Người thực hiện những dấu lạ và kỳ công cho chúng con.
Chúng con nài xin Chúa ban cho chúng con biết cách ngưỡng mộ và cao rao ngợi khen tình yêu và quyền năng của Con Cha là Chúa Giê-su Ki-tô, từ ngày này sang ngày khác trong suốt cuộc đời của chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Nước Êthiôpia phải chịu một nạn đói khủng khiếp trong những năm 1984 đến 1986. Đức Hồng Y: THÁNHTHỂ-131
Nước Êthiôpia phải chịu một nạn đói khủng khiếp trong những năm 1984 đến 1986. Đức Hồng Y Hume của giáo phận Wesminster kể về một câu chuyện xảy ra lúc ngài đến thăm xứ này giữa thời gian đó. Người ta đã dùng một chiếc trực thăng chở ngài đến một ngọn đồi nơi dân chúng đang tập trung chờ cứu trợ.
Khi ngài vừa bước xuống chiếc trực thăng thì một cậu bé khoảng 10 tuổi chạy đến níu lấy cánh tay của Ngài. Em chẳng mặc gì ngoài một chiếc khố. Em cũng chẳng biết ngoại ngữ nên chỉ làm cử điệu tay chân : tay trái em chỉ vào miệng, và tay phải em cầm lấy tay ngài đặt lên má em.
Đức Hồng Y hiểu: chỉ vào miệng nghĩa là em đói thức ăn, và đặt lên má nghĩa là em đói tình thương.
***
Mỗi khi một nơi nào đó xảy ra nạn đói thì hầu như cả thế giới xúc động gởi thực phẩm đến tới tấp để cứu đói. Nhưng có mấy ai quan tâm đến những cái đói tinh thần: đói yêu thương, đói công bình, đói chân lý, đói tha thứ, đói cảm thông…, ai có thể lấp đầy những cơn đói khát đó của nhân loại? Ai có thể cho những của ăn mà ăn rồi sẽ không bao giờ đói nữa?
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã cảm thông cơn đói của những người đã lặn lội vạm dặm đường xa đi nghe giảng nên Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Dân chúng được ăn no nê thừa thãi thứ bánh vật chất mà Ngài vừa làm phép lạ, bánh ăn rồi lại đói, đói rồi lại đi tìm của ăn. Bây giờ Ngài hướng họ đến một thứ lương thực cao quý hơn, đó chính là Mình và Máu Ngài : "Tôi là bánh trường sinh… Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi, để cho thế gian được sống…Ai ăn thịt và uống máu tôi thì sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết".
Như em bé xứ Êthiôpia trong câu chuyện trên, em không chỉ đói lương thực mà còn đói những thứ khác nữa. Giả sử em được thoả mãn đầy đủ, được cho ăn ngon mặc đẹp, được một gia đình khá giả nhận làm con nuôi với đầy đủ tình thương, em có còn tiếp tục đói khát một cái gì khác nữa không? Em có tiếp tục chạy đến vị cứu tinh để tiếp tục chỉ chỏ nữa không?
Như một người cha thấu hiểu tâm sự con mình, nhìn nó ú ớ vụng về đưa tay chỉ chỏ lung tung, Ngài biết cái nó đang khao khát tìm kiếm nhưng chưa biết thể hiện ra sao. Ngài biết cái nó đang vẫy vùng vươn tay kiếm tìm nằm ngoài tầm tay nó. Ngài hiểu linh hồn nó đang sống trong thao thức. Nó chưa xin, Ngài đã cho! Cho đi chính Thịt và Máu mình. Cho đi cái mà đứa con không dám xin, không dám nghĩ đến.
Vì món quà lớn quá nên đứa con ngỡ ngàng…. Vì món quà tuyệt vời quá, ngoài sự hiểu biết nên có đứa nhắm mắt chối bỏ không tin….
***
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nếu con cảm thấy đủ, sẽ không bao giờ con cất bước đi tìm của ăn. Nếu con cảm thấy thỏa mãn, không bao giờ biết đói khát thì con sẽ không bao giờ cảm thông được cái đói của những người xung quanh. Xin cho con biết đói: đói Lời Chúa, đói của ăn cho linh hồn, đói sự sống vĩnh cửu. Trong cái đói, xin cho con biết chạy đến Chúa để tận hưởng món quà tình yêu Chúa đã trao ban cho nhân loại qua Bí Tích Thánh Thể. Sống trong cái đói, con sẽ dễ dàng chia sẻ và cảm thông với những cơn đói khác của anh em mình.
Tình đã đến trong những ngày độc dược trong những ngày rữa nát mọi tinh hoa trong những ngày sự sống diễn ra bằng điên dại dẫm bừa lên sự sống !... nhìn nhau đi em để thấy những giòng xanh hạnh phúc trần gian đang lăn từ khóe mắt. ( thơ Nguyễn Tất Nhiên )
Nhìn nhau đi, để thấy được giòng xanh hạnh phúc. Giòng xanh hạnh phúc ấy, có lẽ ta rất dễ: THÁNHTHỂ-132
Nhìn nhau đi, để thấy được giòng xanh hạnh phúc. Giòng xanh hạnh phúc ấy, có lẽ ta rất dễ thấy nơi dân gian cuộc đời. Một cuộc đời luôn có Chúa, có Mình và Máu Thánh. Trình thuật hôm nay, nói về quà tặng Chúa ban nơi Mình Ngài, bàn tiệc Thánh. Tiệc lòng mến, rất agapè.
Mừng tiệc Thánh agapè mỗi tuần, cộng đoàn nơi tôi ở vừa tái cấu trúc nguyện đường cho an toàn, hợp lý. Một trong những điều tôi cảm thấy lạ, là: cửa Nhà Tạm Chúa ngự được làm bằng kính, rất sáng trong. Trong đến nỗi, ánh sáng bên ngoài có thể lọt vào, để lộ hiện nguyên hình chén Thánh. Và đây cũng là lần đầu, tôi cảm thấy yếu tố này đã đánh động, thu hút lòng Đạo nơi tôi và chắc cũng là của một số anh em.
Phản ứng của anh em chúng tôi cũng đa dạng, đôi lúc thật lạ lùng. Người cho rằng: làm thế không trang nghiêm, thiếu tôn kính. Kẻ bảo là: lập trường cấu trúc cũng không tệ. Tựu trung, đa số đã bày tỏ sự đồng thuận, là: hãy nên để thế. Để như thế, vì Mình Thánh Chúa là Thực phẩm nuôi sống chúng ta, mỗi ngày. Mỗi ngày, ta nhìn thấy Ngài, rất muốn sẻ san. Ngài là thực phẩm, nên cũng cần mang dáng dấp chào mời, dễ bẻ vụn và phải đổ tràn ra bên ngoài bằng yêu thương, vô bờ bến. Đó, chính là động tác Chúa thực hiện vào Tiệc Thánh, chiều Thứ Năm. Hôm trước ngày khổ nạn. Và, đó cũng là việc ta vẫn làm mỗi tuần, ngày của Chúa.
Ngày của Chúa, nhiều vị thường diễn tả việc dự Tiệc thánh như thói quen nguyện cầu, dâng tiến. Tệ hơn, có người lại coi việc cử hành Tiệc như màn độc diễn của vị chủ tế trên bàn thờ. Giáo dân tham dự chỉ với tính cách người dự khán, thôi. Nghĩa là, chỉ đến rồi đi. Đi xem lễ. Đến nhà thờ. Nhất nhất, để thực hiện tổng cộng những sáu điều Hội thánh khuyên răn. Không đi không đến e sẽ mắc tội. Và, là tội trọng.
Vốn mang trong người phong thái ấy, nhiều người vẫn hay đến trễ, về sớm. Chỉ đứng xa hoặc loanh quanh ở ngoài, hút thuốc nói chuyện hoặc liên tưởng chuyện làm ăn nào khác. Tuyệt nhiên, không mang dáng dấp tích cực, hợp tác nơi bàn tiệc.
Tiệc Thánh, trước tiên và nhất thiết phải là động thái tích cực của cả cộng đoàn. Bởi, tự bản chất, ý nghĩa của Tiệc là như thế. Chí ít, ta tham dự Tiệc là để thật sự ăn Mình Chúa, và uống Máu Chúa , như được dạy bảo. Nói cho cùng, tham dự Tiệc không là chuyện đơn độc riêng lẻ, nhưng là việc của cả cộng đoàn. Cộng đoàn tình thương. Dự tiệc lòng Mến. Dự rất đông. Rất tích cực.
Dự Tiệc ngày của Chúa, ta cùng nhau đến vì Thân Mình Ngài. Cùng đến, như những người thân yêu chung tình, cùng ăn cùng uống. Cùng chung sức sống. Đến để bày tỏ lòng biết ơn chân thành, đối với Ngài. Đến, vì “Thánh Thể” thật sự mang ý nghĩa một cảm tạ. Ta đến, không phải vì sợ phạm vào điều khuyên thứ ba Hội thánh luôn răn giữ. Ta đến, không vì sợ tội. Không vì sợ vi phạm giới răn Hội Thánh Chúa, khuyên giữ. Ta đến, cũng chẳng phải là giữ chỉ để giữ. Giữ vì sợ mắc tội. Giữ, nhưng không mảy may thuyết phục. Thành thử, có người cứ đến trễ và về sớm. Cũng chẳng thấy cần phải lưu lại đôi phút để hàn huyên, chia sẻ những tâm tình người đồng Đạo.
Đến dự Tiệc lòng mến, tuyệt nhiên không là đi “xem lễ”, như nhiều người lầm gọi. Bởi, đi xem là xem vị chủ tế độc diễn màn dâng tiến một mình, trên bục cao. Ngược lại, đến dự Tiệc Thánh là việc tham gia vào việc chung. Tham dự và gia nhập tiệc vui rất chung. Ăn chung uống chung, cũng một Mình Máu Rất Thánh của Chúa. Ăn và uống chung, rất công khai. Đầy hưng phấn. Như Chúa từng bày tỏ: “Bằng vào việc này, mọi người sẽ biết các anh là môn đệ của Thầy, anh em hãy thương yêu nhau” ( Yn 13, 35 ). Và: “Xin cho chúng nên một để thế gian biết Cha đã gửi Con đến” ( Yn 17, 21 – 23 )
Đến dự Tiệc, mà mang tâm trạng đơn độc lặng thinh, là chưa hiểu ý nghĩa của sự đồng tâm cộng lực,chung lòng mến. Đến dự Tiệc, là cùng mang tâm tưởng thâm sâu đượm tình mật thiết của cộng đoàn kẻ tin. Tiệc Thánh, không là thời điểm ta tác tạo nên cộng đoàn, mà thôi. Nhưng, là thời gian giúp ta cử hành mừng kính đặc điểm cùng nhau chung phần vui hưởng của cộng đoàn. Thật đáng tiếc: hơn bốn thập niên thời hậu Công Đồng đã trôi qua, mà nhiều vị vẫn còn nhấn mạnh đến yếu tố tu đức cá thể. Chỉ nhắm mục đích tìm sự “rỗi linh hồn”, riêng mình ta thôi.
Vì thế, người dự Tiệc ngày của Chúa vẫn cứ hành xử như khách lạ, vừa đến thăm. Khách đến, thiếu vắng cả nụ cười, tối thiểu. Thiếu tình thương. Thiếu hợp tác, đùm bọc. Cả khi, lời “chúc bình an, tay nắm tay” trao cho nhau, cũng chỉ là động tác lấy lệ. Chỉ như phản xạ tự nhiên, rất quen làm. Khác hẳn tâm tình người dự tiệc mừng ngày sinh, rất thân thương.
Nói rộng hơn, dự Tiệc Thánh không chỉ đến để nhận bánh thánh hiệp thông, rất giản đơn. Mà, để chia sớt và cùng sẻ san một Bánh Thánh là Mình Ngài. Cùng uống chén Máu cứu độ của chính Ngài. Mình và Máu Đức Chúa đã Phục sinh. Mình Thánh Chúa ta lãnh nhận, không chỉ riêng Mình Đức Kitô thôi, nhưng còn là thân mình của cả cộng đoàn, vẫn được coi như chi thể thân thương đã tháp nhập vào Thân Mình Đức Kitô, đang hiện hữu.
Qua sẻ san Mình và Máu Thánh Chúa, cộng đoàn tình thương mới nhận ra rằng: không chỉ riêng có Đức Kitô đến với ta, mà thôi. Nhưng, là cả Thân Mình Ngài có cộng chung chi thể, là cộng đoàn thân thương ta sống cùng, và sống với. Ở một số cộng đoàn, nhiều vị có thói quen bái gối trước khi đón nhận Bánh Thánh. Nếu đây là cử chỉ thông thường nhằm tỏ lòng tôn kính, tưởng cũng nên bái gối trước cộng đoàn đang xếp hàng đón nhận Thân Mình Chúa vào bên trong mọi người.
Nói tóm, hiệp thông nhận đón Mình Máu Chúa, không là riêng mình Đức Kitô đến với ta mà thôi. Mà còn là, cả cộng đoàn tình thương đã ở trong ta. Với ta. Thành thử, khi nhận Bánh Hằng Sống vào lòng bàn tay và đáp lời “Amen”, ta đã nghiêm chỉnh nhận lời mời cùng nhau trở thành thân mình của Đức Chúa, ta vừa nhận. Thân Mình Ngài, đã bẻ vụn thành tình thương yêu. Máu Thắm của Ngài đã đổ tràn thành hy vọng. Nhờ đó, thế giới hôm nay được cứu thóat khỏi chính con người mình. Khỏi cái “mình” xấu xa, đớn hèn bấy lâu nay. Và từ đó, tìm được sự sống trọn vẹn nơi Đức Kitô.
Có Chúa ở với và ở cùng, khi đón rước Mình và Máu Ngài, ta ngân vang lời thơ của thi sĩ họ Hàn, rằng:
Ta há miệng cho Nguồn Thơm trào vọt: Tứ thời Xuân ! Tứ thời Xuân non nước ! Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang, Thiên hạ bình và Trời tuôn ơn phước Như triều thiên vờn lượn khắp không gian. Ta cao ngân giọng vô cùng thanh thoát Khiến châu thân rung động thể tơ trăng. ( Hàn Mặc Tử – Nguồn Thơm )
Vâng, đúng thế. Nguồn Thơm đã thấm nhập vào châu thân rung động của chính ta. Của cả cộng đoàn. Và mãi mãi, ta sẽ vui vầy Tiệc Thánh. Tiệc mến yêu Mình Máu Chúa, rất agapè.
Trong sách Giáo lý Công giáo số 1358, Giáo Hội tóm lược ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể: THÁNHTHỂ-133
Trong sách Giáo lý Công giáo số 1358, Giáo Hội tóm lược ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể vào những điểm chính như sau:
1. Thánh Thể là sự cảm tạ và ngợi khen Chúa Cha: Thánh Thể là lời chúc tụng để Giáo Hội bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa vì tất cả những ơn lành Ngài đã thực hiện qua việc sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa nhân loại. Ý nghĩa trước hết của thánh lễ là “Lễ Tạ Ơn” Thiên Chúa. Câu chuyện kể về một phụ nữ thường xuyên mang theo mình cuốn sách mỏng. Chị đặt tên cho nó là cuốn sách ghi chép tiểu sử cuộc đời. Chị thường chia sẻ với bạn bè rằng nó chẳng mất nhiều thì giờ để đọc, vì cuốn sách chỉ có ba trang giấy. Lại chẳng có một chữ nào được viết trên đó cả. Trang đầu tiên màu đen. Chị nói rằng nó đại diện cho các tội lỗi xưa nay của chị. Trang thứ hai màu đỏ, nó biểu tượng cho máu Chúa Giêsu đã đổ ra vì tội lỗi của chị. Trang thứ ba màu trắng, đại diện cho chính chị sau khi đã được lau sạch trong máu của Chúa Giêsu Kitô, Người đã làm cho chị trở nên trắng hơn tuyết.
Thánh Thể tưởng niệm sự hy sinh của Chúa Giêsu: Một câu chuyện có thật gợi lên sự hy sinh cao cả của Chúa Kitô được những tù binh người Anh bị lính Nhật giam giữ trên bờ sông Kwai kể lại như sau: Một người lính Anh Quốc của trung đoàn Argyll bị lính Nhật bắt giam phải đi làm lao động khổ sai xây dựng đường rầy xe lửa. Như thường lệ, sau mỗi ngày lao động, tất cả những dụng cụ làm việc phải được kiểm kê. Ngay khi một nhóm tù binh vừa trao nộp dụng cụ xong, sắp sửa trở về trại, thì người lính Nhật canh giữ la lên rằng có một cái xẻng bị mất. Anh lính quả quyết rằng một người nào đó đã ăn cắp và bán cho người Thái. Cả nhóm tù binh phải tập họp lại. Anh lính Nhật bước tới bước lui trước mặt từng người tù, anh phô trương, nộ nạt, sỉ vả họ vì hành động xấu xa và vô ơn đối với hoàng đế. Đến lúc phát cáu, hắn nổi giận, và la hét. Hắn yêu cầu thủ phạm phải bước ra khỏi hàng ngũ chấp nhận hình phạt. Nhưng chẳng có ai động đậy. Tên lính Nhật lại càng nổi cơn điên lên cao độ hơn nữa. Hắn hét lên: “Tất cả phải chết! Chết hết! Chết hết!”.
Để chứng tỏ điều hắn nói là thật, hắn lên cò súng, kê báng súng lên vai và chĩa nòng súng vào từng người một, sẵn sàng bắn từ đầu cho đến cuối. Vào lúc đó Argyll bước tới, đứng yên và nói: “Tôi đã làm điều đó”. Tên lính Nhật tuôn ra tất cả sự thù hận, hắn đấm đá túi bụi vào Argyll. Tuy nhiên anh vẫn đứng lặng thinh với khuôn mặt đầy máu me đang chảy xuống. Sự yên lặng của anh đã khiêu khích sự phẫn nộ của tên lính Nhật lên tột độ. Hắn nắm lấy cây súng trường, đưa lên cao khỏi đầu, và với một tiếng tru lên như chó, hắn bắn vào đầu Argyll. Argyll tung người lên, rơi xuống đất, rồi nằm yên bất động. Mặc dù rõ ràng rằng người tù đã chết, nhưng tên lính Nhật vẫn tiếp tục đánh anh cho đến khi hắn kiệt sức mới thôi! Những người tù khổ sai đã lãnh xác người bạn mình, vác những dụng cụ lao động trên vai, bước về trại. Khi những dụng cụ lao động được đếm lại một lần nữa ở đồn lính canh, đã không có cái xẻng nào bị mất cả. Tất cả dụng cụ lao động đều đầy đủ!
Thánh Thể là sự tưởng niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh “tưởng niệm” không chỉ có nghĩa là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn có nghĩa công bố những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người. Trong Tân Ước từ “tưởng niệm” còn có nghĩa là sự tái diễn có tính cách bí tích, làm cho trở thành hiện tại sự hy sinh của Chúa Kitô như Công đồng Vatican II đã nói: “Tất cả mỗi khi hy lễ thập giá mà Chúa Kitô, lễ Vượt Qua của chúng ta, được hiến tế trên bàn thờ, thì công cuộc ơn cứu chuộc của chúng ta được thực hiện”.
Thánh Thể là sự hiện diện của Chúa Kitô: Nhờ quyền năng của Lời Ngài và của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo Hội bằng nhiều cách: trong việc cầu nguyện của Giáo Hội, nơi những người nghèo khó, nơi các bệnh nhân, các tù nhân, trong bí tích của Ngài, trong hy lễ Thánh Thể, và nơi con người của thừa tác viên. Đặc biệt nhất là Ngài hiện diện dưới hình bánh và hình rượu trong Bí tích Thánh Thể. Đó là ngày lễ Phục sinh ở trong tù. Có chừng hơn 10.000 tù nhân chính trị bị giam giữ bởi một chế độ tàn bạo và áp bức. Một nhóm tù nhân Kitô hữu muốn cử hành Bí tích Thánh Thể, nhưng họ không có bánh lễ, không có rượu nho, không có chén thánh, cũng chẳng có sách lễ, không có Thánh Kinh, và không có cả linh mục nữa. Những tù nhân không phải là Kitô giáo cũng nhiệt tình giúp đỡ: “Chúng tôi sẽ giúp đỡ các anh. Chúng tôi sẽ nói chuyện rì rào rất êm ái để quý vị có thể gặp nhau mà không lôi kéo sự chú ý của các tên canh tù”. Một trong những tù nhân Kitô hữu lên tiếng góp ý với đồng đạo: “Chúng ta không có bánh lễ, cũng chẳng có lấy một giọt rượu nho, nhưng chúng ta sẽ cử hành như thể chúng ta có tất cả”. Và người tù nhân Kitô hữu đó bắt đầu hướng dẫn mọi người tham dự thánh lễ qua các nghi thức phụng vụ. Mọi người đều ngạc nhiên vì anh nhớ từng lời, từng kinh đã nghe được qua bao nhiêu thánh lễ ngày Chúa nhật từ khi còn bé. Khi đọc đến những lời của Chúa Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly, anh quay sang người bạn tù bên cạnh mình. Rồi nắm lấy hai bàn tay mà nói: “Đây là mình ta sẽ bị nộp vì các con”. Và sau đó tất cả mọi người trong nhóm đi một vòng tròn, từng người một, mỗi người quay sang người bên cạnh, mở rộng đôi bàn tay và lập lại những lời của Chúa Giêsu: “Đây là mình ta sẽ bị nộp vì các con”.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” là một mệnh lệnh được thi hành không chỉ trong thánh lễ với linh mục thừa tác viên chính thức của Giáo Hội, nhưng còn được sống thánh lễ và cử hành bằng chính đời sống của các Kitô hữu nữa. Thánh Inhaxiô thành Antiokia đã nói: “Thánh Thể là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết”. Đây chính là bảo chứng của Vương Quốc tương lai, sự sống đời đời như lời Chúa phán hôm nay: “Đây là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.
Suy niệm dựa trên bài đọc trong Thánh Lễ tại Đại Hội Thần Học Công Giáo Hoa Kỳ, thứ Bảy: THÁNHTHỂ-134
Suy niệm dựa trên bài đọc trong Thánh Lễ tại Đại Hội Thần Học Công Giáo Hoa Kỳ, thứ bảy, ngày 9 tháng 6 năm 2007, tại Nhà Thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm, thành phố Los Angeles, California.
***
Hôm nay chúng ta mừng kính Lễ Mình và Máu Thánh Chúa. Bài đọc trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô dạy bảo chúng ta, là người được cứu chuộc nhờ cái chết của Chúa, khi ăn thịt và uống máu Ngài, chúng ta tuyên xưng việc Chúa chịu chết cho đến ngày Người lại đến.
Niềm tin này thật không bình thường, tuyên xưng một cái chết – thật phản ngược với trào lưu văn hoá hiện nay. Niềm tin này cũng trái nghịch hẳn với bài đọc một, khi ông Men-ki-xê-đê nhân danh Thiên Chúa Tối Cao chúc lành cho Ap-ram, người mới đánh đuổi mấy đạo quân trong thung lũng sông Ê-phát. Ở đó đâu có ai ca tụng cái chết; chết là số phần của những kẻ thù nghịch cùng Thiên Chúa. Ngay cả tác giả thánh vịnh hôm nay cũng chẳng tuyên xưng cái chết cách tích cực; chúng ta cứ hình dung “biến quân thù thành bệ dưới chân ta” thì rõ.
Thế giới hôm nay chúng ta đang sống không muốn chấp nhận cái chết. Mỗi năm Hoa Kỳ chi 25% y tế phí cho 1% dân số: tức là cho những người sống vào những năm tháng cuối đời. Có những chi tiêu tốn kém chính đáng, nhưng cũng có nhiều gia đình đòi bằng được các phẫu thuật thay các bộ phận cơ thể cho những người đã quá già, một phần vì họ sợ chết, vì họ nghĩ rằng chết là hết, chẳng còn gì nữa.
Trong khi Chúa Giê-su mời gọi biến vài cái bánh, dăm con cá của chúng ta để mang lại sự sống cho trần gian, nhưng chúng ta quá bận tâm lo lắng tìm kiếm những lương thực hư nát, muốn bảo đảm an toàn cho bản thân và từ chối cộng tác với Ngài.
Tôi xấu hổ khi nhớ lại một buổi chiều vài năm trước đây, trong khi đi dạo dọc theo hướng nam trên Công Trường Thánh Mac-tin tại Lima, thủ đô nước Pê-ru,tôi gặp một chàng thanh niên trạc 25 tuổi mời tôi đánh giầy. Đã quen trả lời các chào mời này, tôi lịch sự đáp, “Không, cám ơn anh,” và tiếp tục bước. Anh ta liền nói một câu mà trước đây tôi chưa từng nghe: “Để tôi có miếng ăn.” (“For bread.”) Những chữ này tôi nhớ rõ mồn một đấy nhưng ý nghĩa thực sự của chúng lại chẳng thấm vào tâm trí tôi lúc bấy giờ. Này đây một thanh niên trẻ trung, chắc có vợ con ở nhà, không tìm nổi công việc để nuôi sống bản thân và gia đình. Nhưng tôi lại tiếp tục rảo bước. Anh ta liền khẩn khoản lần nữa: “Để tôi được sống.” (“For life.”) Vì cuộc sống của anh ta và của bản thân mình, tôi đã chân thành ao ước giá như mình có chút lòng cảm thông để dừng lại, để nói chuyện với anh ta, và tặng anh ta ít tiền, nhưng tôi đã không làm như thế. Tôi vẫn tiếp tục bước đi. Tôi đã nghe lời van xin miếng ăn, và tôi, dù trong túi lúc bấy giờ có dư tiền để mua vài miếng bánh và dăm con cá, vẫn đã tiếp tục bước đi…
Tuyên xưng cái chết của Chúa. Chúng ta đã chứng kiến và cảm thông sâu xa trước những cái chết phi lý tại trường Đại học Kỹ thuật Virginia, nhưng thường chúng ta giữ một thái độ dửng dưng trước những sự sống vô tội bị tiêu diệt trong nền văn hoá của mình: cái chết trong lòng mẹ hay trên phố chợ Falujah của I-rắc. Máu của người dân bản xứ đã thấm vào lòng đất California, khi quân đội Tây Ban Nha hãm hiếp giết chóc hoặc khi người da trắng đi tìm vàng đã bắn giết bừa bãi. Và chung quanh thế giới chúng ta sống, vì thu nhập ít ỏi, biết bao trẻ em đã lớn lên trong suy dinh dưỡng, nhiều em đã bị thui chột cả về thân xác lẫn tinh thần không phương cứu chữa.
Tuyên xưng một cái chết mang lại ý nghĩa gì trong thế giới của chúng ta?
Cũng chính nền văn hoá chi tiêu tốn kém cho những người già cả chạy trốn tử thần, đã không còn tôn trọng những người lớn tuổi. Chúng ta không nhìn vào các bậc cha ông để nghe họ kể về các đấng sinh thành của họ. Hầu như không ai trong chúng ta biết tên ông cố của mình. Trong 8 tên họ của ông bà cố, ta nhớ được mấy người? Và nếu mà ta không nhớ tên họ, thì làm sao cháu chắt chít của chúng mình nhớ được tên của ta? Thật cũng khá mỉa mai khi sống trong một thời đại mà mầu nhiệm các thánh thông công ít được biết đến nhất, và các tín hữu ít khi suy ngẫm rằng chỉ sau vài thế hệ, ngay cả con cháu của họ cũng sẽ chẳng nhớ họ là ai.
Và nếu các bạn nghĩ rằng sách vở của mình viết ra sẽ là di sản muôn đời cho thế hệ mai sau, xin cứ thử vào thư viện nơi có các cuốn sách đó. Hãy thử chọn một quyển viết vào khoảng năm 1907, hoặc thậm chí 1957. Đọc mục lục sách, rồi nghĩ đến bao nhiêu năng lực mà tác giả đã đổ vào tác phẩm đó rồi tự hỏi lòng mình rằng trong 10 năm qua, đã có bao nhiêu lần quyển sách này được đọc đến? Sách chúng ta viết sẽ có ngày được 50 hay 100 tuổi. Tôi thấy thật thấm thía khi nhận ra rằng “vinh dự của các giáo sư rồi cũng mau qua.” (Sic transit gloria professorum).
Loan truyền cái chết của Người tức là nhận biết ý nghĩa thật sự của đời chúng ta cuối cùng phải được triển nở trong lịch sử lâu dài của người tín hữu, mỗi người có được nổi nang ít nhiều khác nhau, nhưng tất cả rồi cũng sẽ quy tụ chung quanh ngai uy linh của Thiên Chúa.
Rất có thể các nhà thần học bị thêm một nguy cơ: tạo cho mình một vỏ bọc chắc chắn, càng ngày càng dày thêm do những kiến thức hiểu biết sâu sắc của các trường phái Công Giáo mà chúng ta tin tưởng gắn bó. Chúng ta không nghe được sứ điệp Tin Mừng đòi hỏi trong lễ sáng Chúa Nhật vì chỉ nhìn thấy vài thiếu sót thần học trong bài giảng của cha xứ. Chúng ta dễ dàng bị ru ngủ bởi niềm xác tín rằng vì mình là người dạy người khác biết đức tin, và biết Tin Mừng đòi hỏi điều gì. Trong khi đó, chúng ta biết quá ít về bạn sinh viên mình dạy: một bạn trẻ phải bỏ học vì bị bệnh phiền muộn trầm cảm, hay một phụ nữ trẻ học hành thất thường do bị hãm hiếp mà ta không hề nghe biết.
Tuyên xưng cái chết của Người thật phản văn hoá vì nó bộc lộ sự thiếu sót về nguyên tắc của thời đại chúng ta. Không chỉ vì chúng ta là một dân tộc ích kỷ, vì chúng ta để tiện nghi an toàn của mình trên hết mọi sự, mà còn vì chúng ta thấy mình không cần được cứu chuộc. Là những thầy cô giáo, chúng ta nhiều khi hết sức ngạc nhiên khi thấy sinh viên của mình táo tợn đòi hỏi cho rằng xứng đáng được điểm cao. Nhưng có phải chúng ta cũng giống các sinh viên này? Chúng ta tuân thủ một giáo trình của cuộc sống thật cẩn thận, và còn làm một số việc lập công với Chúa. Rồi chúng ta vẫn tự nhủ, “Ta tuy có lỗi phạm, nhưng chắc chắn ta đáng được điểm đậu trong kỳ thi kết thúc cuộc đời.”
Cuối tuần này chúng ta tụ họp trong một khách sạn sang trọng, và trong khoảng một tiếng đồng hồ nữa đây chúng ta sẽ dùng bữa tối theo cung cách mà chỉ có một số người trên hành tinh này có điều kiện. Chúng ta hãy mừng lễ, cũng như Chúa Giê-su đã làm, có rượu ấm và tình thân, nhưng xin để việc mừng lễ này, trong thánh đường này cũng như trong bữa tiệc tiếp theo sau đây, phải là lời nhắc nhở cho chúng ta ý thức rằng, khoảng cách còn rất xa để mình đạt được những đòi hỏi của vai trò của người loan truyền cái chết của Chúa.
Như thế chúng ta có niềm hy vọng gì? Nói cho cùng, niềm hy vọng của chúng ta cũng là niềm hy vọng của thánh Phao-lô: đó là sự thật được mạc khải trong sự sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Ki-tô. Sự thật này cứ chen vào cuộc đời của chúng ta dù ta không muốn.
Có một quá khứ thất bại không có nghĩa rằng chúng ta nhất thiết sẽ phải tiếp tục thất bại. Như Flannery O’Connor viết trong thư gửi cho của mình là bạn Betty Hester: “Ý nghĩa của việc cứu chuộc chính là nhờ đó, chúng ta không lập lại lịch sử của mình.”
Bài Tin Mừng hôm nay minh chứng cho niềm hy vọng đó. Chúng ta vừa nghe việc Chúa cho 5000 người ăn, Chúa hứa ban cho chúng ta dồi dào sung mãn dù ta chỉ đóng góp một phần bé nhỏ. Là những thần học gia, chúng ta cần nhận thức rằng tập thể chúng ta không thể tự nuôi chính mình – đó là lý do tại sao chúng ta quy tụ chung quanh bàn tiệc này.
Chúng ta tin vào Chúa, vào mầu nhiệm các thánh thông công, vào việc chúng ta được tha thứ tội lỗi, và tin vào cuộc sống này không chấm dứt, không qua đi bởi cái chết. Trong thánh lễ Mừng Kính Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay đây, thật là đúng đắn khi chúng ta loan truyền cái chết của Chúa cho đến khi Ngài lại đến.
Còn gì diệu kỳ và cao vời bằng việc Chúa Giêsu đã vâng lệnh Chúa Cha gánh tội cho toàn thể:THÁNHTHỂ-135
Còn gì diệu kỳ và cao vời bằng việc Chúa Giêsu đã vâng lệnh Chúa Cha gánh tội cho toàn thể nhân loại: ” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ). Chúa đã chết thay cho con người, cho loài người. Đó là điều vô cùng cao quí. Chúa lại còn yêu thương trần gian để lại chính Mình và Máu của Người để nuôi sống nhân loại. “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời “ ( Ga 6, 51 ).
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG DÂN CỦA NGƯỜI:
Cuộc hành trình của dân Do Thái đi vào đất hứa là một cuộc hành trình dài dằng dẵng, khó khăn, thử thách trăm bề. Dân Do Thái đã có lúc nản chán, đã có lúc thất vọng muốn bỏ cuộc. Theo đoạn sách Đệ Nhị Luật chúng ta đọc hôm nay, Thiên Chúa luôn ở bên dân, luôn chăm sóc dân, khi dân đói Ngài cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân hằng ngày; lúc dân khát không có bất cứ một giọt nước nào cho họ và đàn súc vật, Ngài lại sai Môsê lấy gậy đập vào đá tức khắc nước tuôn chảy tràn trề khiến dân có nước uống và đàn súc vật cũng được uống no nê. Thực tế, đây là những việc thật lạ lùng Thiên Chúa đã làm vì yêu thương dân chúng và tác giả sách Đệ Nhị Luật đã ghi chép lại để lưu truyền lại cho con cháu, hầu con cháu hiểu được tình thương vô biên của Chúa như thế nào đối với dân của Ngài. Manna và nước Thiên Chúa ban cho dân Do Thái trong cuộc hành trình sa mạc chỉ là lương thực và nước uống tạm, dân ăn Manna và uống nước từ tảng đá của Môsê dùng gậy đập vào rồi vẫn chết. Chúa Giêsu hôm nay đã khẳng định cách dứt khoát: ” Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống “. Thịt và Máu của Chúa hoàn toàn khác biệt với Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân Do Thái và nước từ những tảng đá chảy ra chỉ là nước lã mà thôi. “Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời “( Ga 6, 51 ), Chúa Giêsu không nhằm thỏa mãn cái đói cái khát của con người. Ngài ban chính Thịt và Máu của mình làm của ăn của uống nuôi sống con người. Đây quả thực là Bí Tích Tình Yêu, Bí Tích cao vời chỉ có đức tin con người mới có thể hiểu được.
THỊT VÀ MÁU CỦA CHÚA GIÊSU LÀ CỦA ĂN, CỦA UỐNG ĐEM LẠI CHO CON NGƯỜI SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI:
Thịt nói lên cả ý nghĩa thần linh, nuôi linh hồn con người, dẫn con người đến sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu. Thịt của Chúa Giêsu còn ám chỉ đến việc Nhập Thể của Người. Việc Nhập Thể của Chúa Giêsu mang lại cho mỗi người, cho loài người ơn cứu độ: ” Ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa “. Chúa Giêsu đã chấp nhận hoàn toàn theo ý định của Thiên Chúa Cha để cứu rỗi loài người, cứu độ con người. Chính vì thế, thánh Phaolô trong bài đọc hai ngày lễ hôm nay đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể, nghĩa là trở nên một với Người: ” Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy “ ( Ga 6, 56 ). Ăn thịt và uống máu Chúa Kitô người Kitô hữu lãnh nhận một động lực mạnh nhất là xua tan những đà cản, những mối hận thù, bất hòa để họ có thể đến với anh em, đến với tha nhân trong yêu thương, cảm thông và tha thứ. Khi mời gọi:” Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy “, Chúa Giêsu muốn mời gọi mọi người Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống phục vụ, hy sinh, quảng đại và trao ban. Vì là Bí Tích Tình Yêu, mỗi lần lãnh nhận Mình và Máu Chúa Giêsu, người Kitô hữu hân hoan, ý thức rõ ràng mình đang lãnh nhận tình yêu vô biên của Chúa và họ sẵn sàng chia sẻ tình yêu họ lãnh nhận cho tha nhân, cho những người anh em đồng loại. Bởi vì Chúa đã hứa: ” Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”( Ga 6, 54 ).
ĐÁP LẠI TÌNH YÊU CỦA CHÚA:
Từ nhà Tiệc Ly năm xưa, khi Chúa Giêsu cầm lấy bánh tạ ơn Chúa Cha, rồi trao cho các môn đệ mà nói: ” Hãy nhận lấy mà ăn…Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy “ và Chúa cũng cầm rượu tạ ơn Chúa Cha và trao cho các môn đệ mà nói: ” Hãy nhận lấy mà uống…Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy “. Cử chỉ của Chúa Giêsu trong nhà Tiệc Ly đã thay đổi các môn đệ hoàn toàn, họ sẽ yếu đuối, họ sẽ vấp ngã, họ sẽ chối Thầy, họ sẽ phản Thầy, nhưng tấm bánh và chén rượu Chúa trao cho các môn đệ là Mình và Máu của Ngài đã trở nên sự cảm thông, sự tha thứ, ơn giải thoát. Khi lãnh nhận Mình và Máu của Chúa Giêsu, các một đệ tiếp nhận sự chết và phục sinh của Ngài.Điều ấy cho các môn đệ hiểu rõ ơn cứu độ Chúa dành cho các ông và cho nhân loại. Suốt dòng lịch sử cứu độ, suốt cuộc hành trình đức tin, Bí Tích Thánh Thể luôn được cử hành mọi nơi, mọi lúc trong các nhà thờ, nơi có các linh mục, những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu. Thánh lễ trở nên trung tâm của đời sống Kitô giáo và Bí Tích Thánh Thể trở nên tình yêu vô biên của Chúa đối với con người, đối với thế giới. Thánh lễ phải được người Kitô hữu đưa vào cuộc sống hằng ngày và Bí Tích Thánh Thể luôn là lương thực dồi dào, quí hóa nuôi sống con người. Tuy nhiên, trước tình yêu cao vời, hy sinh, tự hiến của Chúa: ” Khi nào Ta được treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ lôi kéo mọi người đến cùng ta “. Hội Thánh mời gọi mọi người Kitô hữu luôn hiệp thông với nhau trong Bi Tich Thánh Thể và khi đã lãnh nhận Mình Máu của Chúa Giêsu Kitô, người Kitô hữu không ích kỷ nhận cho riêng mình mà Mình Máu của Chúa còn nhắc nhở các Kitô hữu sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau. Người Kitô hữu luôn luôn phải sẵn sàng dọn tâm hồn để lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể mỗi lần tham dự thánh lễ và hết lòng tôn sùng, kính thờ Bí Tích yêu thương lớn lao này.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn khao khát và sốt sắng rước Mình và Máu Chúa. Amen.
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người:THÁNHTHỂ-136
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.
Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
Nếu đọc lại Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy từ việc chuẩn bị đến việc thiết lập và cử hành bí tích:THÁNHTHỂ-137
Nếu đọc lại Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy từ việc chuẩn bị đến việc thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể, tất cả đều được diễn ra trong bàu khí của một bữa ăn.
Thực vậy, bữa tiệc thứ nhất đó là đám cưới Cana, tại đây Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước lã hóa thành rượu ngon. Qua phép lạ này Chúa Giêsu không phải chỉ muốn cứu cho đôi tân khỏi bị bẽ mặt với khách mời vì thiếu rượu, mà còn muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, cũng như chuẩn bị cho các ông đón nhận bữa tiệc ly sau này, khi Ngài biến rượu thành máu thánh Người.
Tiếp đến là phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng đám đông trong hoang địa. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta:
Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống, ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế. (Ga 6,55-56).
Thế nhưng, quan trọng hơn cả phải là bữa tiệc ly, qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể vào buổi chiều ngày Thứ năm Tuần Thánh. Phúc âm đã kể lại như sau: Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:
Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Cùng một thể thức ấy Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:
- Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. (Mt 26,26-29).
Cuối cùng, đó là bữa ăn nơi quán trọ gần làng Emmaus. Sau khi hai môn đệ mời Người vào nghỉ chân, Người đã cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh, đã sống lại. (Lc 24,13-35).
Nhìn vào đời thường, chúng ta thấy, những người cùng ngồi ăn với nhau trong một bàn tiệc trong một bữa cơm, thường có một mẫu số chung nào đó. Mẫu số chung ấy có thể là tình nghĩa gia đình, tình nghĩa bè bạn. Mẫu số chung ấy còn có thể là một niềm vui, một nỗi buồn, hay một công việc cùng làm. Vì thế, bữa ăn trở nên một biểu tượng của tình yêu, của cảm thông, của hợp nhất.
Bàn tiệc Thánh Thể cũng vậy, phải là biểu tượng của yêu thương, của cảm thông, của hợp nhất, như lời thánh Phaolô:
Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô. (1Cr 10,17)
Vì thế, sống Bí tích Thánh Thể cũng chính là sống yêu thương, sống cảm thông, sống hợp nhất. Chúng ta phải bắt chước cộng đoàn Giêrusalem ở những năm tháng đầu tiên khi Giáo hội còn phôi thai. Từ nghi thức bẻ bánh trở về, họ đã gom góp tài sản riêng làm của chung, rồi phân phối theo nhu cầu của mọi người, đến nỗi dân ngoại đã phải thán phục và kêu lên:
- Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào. (Cv 2,42-46).
Còn chúng ta thì sao? Hằng ngày, hay ít nữa là hàng tuần, chúng ta đều đến nhà thờ tham dự thánh lễ, thế nhưng, trong cuộc đời, chúng ta đã thực sự sống yêu thương, sống cảm thông và sống hiệp nhất với nhau hay chưa?
Bài Phúc Âm này là phần chính của bài giảng về bánh sự sống, được Chúa dạy sau phép lạ:THÁNHTHỂ-138
Bài Phúc Âm này là phần chính của bài giảng về bánh sự sống, được Chúa dạy sau phép lạ hóa bánh ra nhiều và bước đi trên nước. Qua những phép lạ ấy, Chúa Giêsu đã chứng tỏ quyền năng của Ngài trên thiên nhiên, trên thân thể Ngài và quyền phân phát vô tận lương thực thần linh, mà bánh hóa nhiều là biểu tượng. Như đối với phần đông các bản văn của thánh Gioan, đoạn này đòi hỏi sự suy niệm và đón nhận chăm chú hơn là lời bình giải. Chính để giúp suy niệm, mà một vài ghi chú sau đây được đề ra:
1) “Ta là bánh sự sống từ trời xuống”
Chúng ta có thể giải thích lời này như một mệnh đề phát biểu sự kiện Nhập Thể. Sự sống đời đời hứa cho ai ăn bánh ấy là sự sống siêu nhiên, do Đức Kitô mang đến cho kẻ nào tin vào Ngài như là Đấng được Chúa Cha sai đến. Nhưng lời ấy còn có ý nghĩa khác. “Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta chịu nộp cho thế gian được sống”. Ở đây Chúa Giêsu nói về tương lai. “Bánh” cho đến đây có thể chỉ Chúa Giêsu lương thực đức tin, nay mang một ý nghĩa mới: Đức Kitô -Bánh ăn– đã trao nộp thịt mình cho thế gian được sống. Điều ấy có nghĩa là nếu phép Thánh Thể là một lương thực, đồng thời cũng là lễ hy sinh. Đức Kitô tự nộp làm của lễ hy sinh trong cuộc tử nạn trên thập giá. Thánh Thể đồng hóa hy lễ ấy và tiếp nối cho đến mãi mãi. Chúng ta có nghĩ rằng khi tham dự vào bàn tiệc của Chúa, mối dây liên kết huynh đệ đầu tiên và chính yếu nhất nối liền chúng ta với hy lễ của Ngài hay không? Những buổi cử hành phép Thánh Thể nối kết làm một sự thông hiệp của chúng ta với nhau. Đừng bao giờ chia cắt những gì Chúa đã liên kết. Các thánh lễ của chúng ta, cử hành chia sẻ, cũng phải cử hành lòng thờ phượng.
2) Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy ở trong Ta và Ta ở trong người ấy. Lời này của Chúa cho thấy rõ một sự hỗ tương quan trọng. Thực vậy, thoạt xét người ta có thể đơn giản nghĩ rằng Đức Kitô ở trong người nào ăn mình Ngài. Như thế chưa đủ, điều ngược lại cũng đúng. Người ước ao mình được ở trong Ngài, người ấy được đi vào và ở trong Đấng tạo dựng cứu chuộc, viên mãn của mình. Làm sao nghĩ tưởng một điều như vậy? Chúa đã muốn như thế. Ngài ban cho con người một khả năng phi thường hòa nhập vào thần linh. Khi rước mình Đức Kitô, người tín hữu tiến dần đến sự hòa nhập với Đức Kitô. Nếu nghĩ rằng con người sẽ biến Thiên Chúa thành người khi được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Ngài thì thật là ấu trĩ. Con người được biến thành Thiên Chúa mới đúng. Con Thiên Chúa khi hiến thân làm lương thực thần hóa người nào được ăn Ngài. Ngài cho người ấy được tham dự vào bản tính thần linh. Điều này khiến ta nghĩ đến câu tán tụng của mùa Giáng Sinh: Ôi trao đổi kỳ diệu, Thiên Chúa làm người để người được nên Thiên Chúa.
Càng ngày người ta càng nghe câu nói làm tổn thương đến đời sống Kitô hữu: “Tôi là tín hữu:THÁNHTHỂ-139
Càng ngày người ta càng nghe câu nói làm tổn thương đến đời sống Kitô hữu: “Tôi là tín hữu nhưng không hành đạo”. Tôi hy vọng rằng tất cả con người bạn nổi lên chống lại cái khẳng định tách rời sự “hành đạo” với “đức tin” này. Nhưng chúng ta hãy xem xét kỹ mối dây liên kết giữa hai điều trên.
Việc chúng ta suy niệm về Bánh Hằng Sống sẽ chỉ cho chúng ta thấy mối liên kết giữa hai phần của cuộc sống Kitô hữu: “Nếu các ngươi không ăn thịt Ta, nếu các ngươi không uống máu Ta, các ngươi sẽ không có sự sống”
Tiếng cốt lõi đó là: sự sống. Người tín hữu không hành đạo rất có ý muốn “sống đức tin” của mình. Và điều này được thể hiện tức khắc do một mối quan tâm chính đáng về tình yêu thương anh em: “Tôi tin vào Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Chúa Kitô không đòi hỏi tôi phải đi lễ, Ngài đòi hỏi tôi phải yêu thương”.
Ngài đòi hỏi cả hai việc! Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”, cũng chính là Chúa Giêsu đã báo trước cho chúng ta: “Nếu các con không hiệp thông cùng thịt và máu Ta, các con sẽ không có sự sống. Sự sống này cho phép các con là anh em với nhau như Thầy là anh em với các con”.
Phép Thánh Thể kết hợp chúng ta với cuộc sống của Chúa Kitô đến nỗi chúng ta không dám nghĩ đến điều đó nếu chính Ngài không nói với chúng ta: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”. Tôi nghĩ đến một câu rất hay của thánh Cypriano: “Ai chiếm trọn tâm lòng chúng ta kẻ ấy cũng được chúng ta nói đến”. Người ta có thể thêm: người ấy cũng hiện diện trong các cử chỉ của chúng ta, trong cách thức chúng ta yêu thương nữa.
Người tín hữu muốn yêu thương mà “không đi lễ” thì không thấy được rằng họ ít có đức tin bởi vì họ không tin vào một lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu: “Không ăn Bánh Hằng Sống thì các ngươi sẽ không có sự sống”. Người tin nửa vời này và người không tin có thể rất thương yêu nhau như anh em. Điều này rất thường gặp. Nhưng họ khó và hiếm khi yêu thương “như Chúa Giêsu”. Đối với người không tin, đây là điều bình thường. Đối với người tín hữu thì đây là một sự lệch lạc: muốn là môn đệ của Chúa Giêsu, bắt chước Chúa Giêsu mà không nuôi dưỡng mình bằng sự sống của Ngài.
Tôi biết rõ vấn nạn kinh khủng này: thực ra, người tín hữu hành đạo không bỏ lễ có yêu thương anh em đến thế chăng?
Trước hết, vơ đũa cả nắm là điều không tốt. Có những người tôn sùng Thánh Thể mà sự dễ thương và lòng độ lượng nói lên rất nhiều về “sự sống của Chúa Kitô” nơi họ.
Nhưng vấn đề Thánh Thể –liên quan đến tất cả chúng ta- chính là vấn đề sức sống Thánh Thể của chúng ta. Nhận lãnh sự sống bằng cách ăn Bánh Hằng Sống đòi hỏi một sự chú ý, một sự gắn bó bên trong là những điều thường quá thiếu vắng. Rước lễ dần dần trở nên ma thuật và thói quen, như thể việc di chuyển và giơ hai tay ra là đủ để trở nên một người xin sự sống đầy quyền lực. Không, điều này đòi buộc một niềm tin thức tỉnh nói với chúng ta lúc ấy, là tại sao chúng ta đi rước lễ và chúng ta vừa nhận lãnh thứ lương thực gì. “Một thứ bánh bị bẻ ra vì một thế giới mới”, một cuộc sống bị nghiền nát để chúng ta có thể thoát ra khỏi ích kỷ và kiêu ngạo. Không có cái chết này làm sao chúng ta là anh em với nhau được?
Mừng kính Mình và Máu Thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ:THÁNHTHỂ-140
Mừng kính Mình và Máu Thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, nhất là qua bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, tình yêu là một đề tài xưa như trái đất và được đề cập đến nhiều nhất qua sách vở, qua nghệ thuật cũng như qua cuộc sống. Tuy nhiên, con người vẫn chưa khai triển hết vẻ phong phú của tình yêu, cho nên tới bây giờ, tình yêu vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng trên môi miệng chúng ta.
Nếu đưa mắt nhìn xem, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi biết bao nhiêu yêu thương. Những người bạn chân thành luôn nâng đỡ để cùng nhau theo đuổi một mục đích, một lý tưởng. Những cặp tình nhân mà trái tim luôn đập cùng một nhịp yêu thương. Những người mẹ luôn ân cần nuôi dạy những đứa con thơ dại. Tình yêu ở trước mặt cũng như ở sau lưng chúng ta. Thế nhưng, đâu là mẫu số chung cho những thứ tình yêu ấy? Đâu là điểm làm cho mặc cho những thứ tình yêu ấy một giá trị và đưa chúng vào một lãnh vực cao cả hơn?
Tôi xin trả lời: - Đó là sự hy sinh.
Thực vậy, đúng như tuc ngữ đã bảo: - Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, ,mấy ngàn cũng qua.
Đã yêu thương nhau, thì sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh cho nhau và vì nhau để mưu cầu hạnh phúc cho nhau, nhu một câu danh ngôn đã bảo:
- Hãy cho tình yêu vào máy cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là một tình yêu thức thiệt, bằng không thì chỉ là một tình yêu thứ dổm mà thôi.
Sự hy sinh phải là nền tảng căn bản, trên đó tình yêu được xây dựng, cho dù sóng gió cuộc đời có phũ phàng, cũng không thể làm cho nó bị lay chuyễn. Hy vinh và tình yêu luôn bổ túc lẫn cho nhau: hy sinh sẽ làm cho tình yêu trở nên tinh ròng và tình yêu tinh ròng sẽ giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận hy sinh.
Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài chính là tình yêu tuyệt hảo nhất, khuôn mẩu cho mọi tình yêu của chúng ta. Và như vậy, chắc chắn sự hy sinh Ngài dành cho chúng ta cũng thật lớn lao.
Sự hy sinh ấy bắt đầu từ nguyên thủy. Khi tạo dựng nên trời và đất, Ngài đã một phần nào đặt mình vào sự giới hạn của không gian và thời gian. Thế nhưng, Ngài đã nhận được những gì , nếu không phải là sự phản bội của loài người, một tạo vật đã được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài.
Tuy nhiên, dù con người có phản bội, Ngài cũng đã không bỏ rơi con người trong án phạt của sự chết, trái lại Ngài đã đưa ra chương trình cứu độ và thực hiện chương trình ấy trong dòng thời gian, bằng cách sai Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta.
Giả như bây giờ xảy ra một cuộc hỏa hoạn, hẳn chúng ta sẽ ca tụng hành vi can đảm của người đã dám coi thường cái chết, nảy vào vùng lửa cháy để cứu thoát một em bé nào đó. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài đã hy sinh vì chúng ta và đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, như lời Ngài đã phán:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hơn thế nữa, Ngài lãi còn trao ban cho chúng ta Mình và Máu thánh Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Vì vậy, chúng ta có thể nói được rằng bí tích Thánh Thể chính là bí tích của tình yêu Thiên Chúa.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã nghe nói đến nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại miền Bắc. Đó là một nạn đói thật khủng khiếp, giết hại gần hai triêu người.
Có hai mẹ con người kia cũng lâm vào cảnh tang thương ấy và nằm hấp hối chờ chết bên vệ đường. Người mẹ trước khi nhắm mắt, đã không thể nào cầm lòng được trước tiếng khóc của đứa con thiếu sữa. Bởi đó, bà đã làm một hành động táo bạo, đó là cắn đứt ngón tay trỏ, để đứa con được bú những giọt máu cuối cùng của mình thay cho dòng sữa đã cạn kiệt, với hy vọng nó sẽ được cứu sống.
Câu chuyện cảm động ấy không phải chỉ xảy ra một lần, nhưng nó còn xảy ra mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã trối lại cho chúng ta Mình Máu thánh Ngài làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta, như lời Ngài đã xác quyết:
- Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Chính nhờ của ăn thần linh này, chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa, được trở nên giống Chúa và được chia sẻ sự sống ân tình với Ngài.
Vì thế, hãy siêng năng tham dự thánh lễ và hãy sốt sắng rước lể mỗi khi có thể, để đáp trả tình yêu thương vô biên Chúa đã dành cho mỗi người chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu khẳng định cho chúng:THÁNHTHỂ-141
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu khẳng định cho chúng ta: “Ngài chính là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời …”. Ngày xưa, tổ tiên, cha ông của người Do Thái được Chúa ban cho man-na nhưng rồi cũng sẽ chết. Còn với Chúa Giêsu, Ngài là Bánh Hằng Sống, Bánh Hằng Sống chính là Bí Tích Thánh Thể, là Mình và Máu Chúa ban cho con người.
Có người tin và có người không tin. Những người Do Thái không tin nên đã tranh luận sôi nổi sau khi nghe Chúa nói Chúa là Bánh Hằng Sống. Họ không dừng lại ở chuyện tranh luận nhưng họ đã đi quá xa cái chuyện tranh luận và cuối cùng đã dẫn họ đến chuyện kết án tử cho Chúa. Đặc biệt trong giờ phút chia ly, trong giờ phút trước khi chịu án tử, Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ Bí Tích Tình Yêu. Bí Tích Tình Yêu của Chúa đã lập hơn 2000 năm qua và Ngài vẫn còn mở ngõ cho sự đón nhận của con người. Ngày xưa vẫn thế và ngày nay vẫn vậy. Có những người không tin đã đành, có những người tin, vẫn đi tham dự Thánh lễ nhưng vẫn chưa sống mầu nhiệm Thánh Thể mà Chúa mời gọi.
Khi được nâng lên thành một Bí Tích, bữa ăn với lương thực chính là Đức Giêsu càng có giá trị vô song, đó là cho con người có chính sự sống của Thiên Chúa, và nhờ đó dần dần được tham dự vào thế giới Thiên Chúa, thế giới của vĩnh hằng và sung mãn. Sự sống ấy đã là cơ nghiệp Chúa Giêsu để lại cho ta rồi, như Ngài đã nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”(Ga 6, 54), cũng như cho con người sống với những kích thước lớn nhất và sâu nhất. Được mang lấy Đức Kitô trong mình, người kitô hữu cũng phải sống tinh thần của Ngài, mà Đức Kitô không sống cho riêng mình nhưng sống cho Chúa Cha và cho nhân loại. Ta trở nên một với Ngài không chỉ trong lúc cử hành Thánh Thể, nhưng cuộc đời của ta phải là một thánh lễ nối dài, đang khi trở về với cuộc sống thường nhật, mỗi người hãy ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chỉ xin đưa ra ba chiều kích nhỏ của việc sống Bí Tích Tình Yêu.
Hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong cuộc lữ hành trần thế, Giáo Hội được gọi gìn giữ và cổ võ sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và sự hiệp thông giữa các tín hữu. Vì mục tiêu ấy Giáo Hội có được lời Chúa và các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể, nhờ đó Giáo Hội luôn sống động, tăng triển. Thánh Thể xuất hiện như đỉnh cao của tất cả các Bí Tích, vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, bằng đồng hoá với Người Con yêu dấu của Người, nhờ hoạt động Chúa Thánh Thần với một đức tin sâu sắc.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã viết: “Khi bạn không được rước Mình Thánh Chúa và không tham dự thánh lễ, bạn có thể rước lễ thiêng liêng, đây là một thực hành đem lại nhiều ơn ích, qua đó tình yêu Thiên Chúa sẽ ấn dấu mạnh mẽ trên bạn”.
Việc trở nên chi thể Đức Kitô do Bí Tích Thanh Tẩy thực hiện, không ngừng được đổi mới và củng cố nhờ tham dự vào hy lễ tạ ơn, nhất là việc thông hiệp trọn vẹn qua việc rước lễ. Chúng ta có thể nói rằng không những mỗi người chúng ta tiếp nhận Đức Kitô, nhưng Đức Kitô tiếp nhận mỗi người chúng ta. Người thắt chặt tình bằng hữu với chúng ta: “Anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15, 14). Quả thật, chính nhờ Người mà chúng ta có sự sống: “Ai ăn Ta sẽ nhờ Ta mà được sống” (Ga 6,57). Việc rước lễ thể hiện cách tuyệt đỉnh việc “ở trong nhau”, giữa Đức Kitô và mỗi môn đệ của Người: “Anh em hãy ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4). Nhờ cử hành Bí Tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ chúng ta được kết hợp với phụng vụ trên trời và tiền dự vào sự sống vĩnh cửu, khi Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi sự (1Cr 15, 28).
Bởi thế, thánh Augustino đã kêu gọi: “Chúng ta hãy đến hiệp lễ, với lòng xác tín hiệp thông Mình và Máu Chúa Kitô. Vì dưới hình thức bánh, chính thân xác Người được ban cho bạn, còn dưới hình rượu thì có Máu Người, bạn chỉ còn là một Mình và một Máu với Người”.
Vậy ăn lấy Đức Kitô trong tâm hồn là gì ? phải chăng là sự lãnh nhận tinh thần và sự sống của Người, một sự quyện lấy nhau, người này ở trong người kia. Nơi Chúa chỉ có một sự sống duy nhất là sống cho nhau và cho người khác.
Chia sẻ và trao ban.
Trao đổi, chia sẻ trong Bí Tích Thánh Thể được đẩy đến mức tận cùng. Bánh ơn trời, hoa màu của ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Thiên Chúa! Con người dâng lên và Thiên chúa trao lại tất cả. Chính trong Bí Tích Thánh Thể mà người Kitô Hữu sống lấy giây phút hiện tại, điều mà thánh Gioan đã thốt lên: Thiên chúa đã yêu thương thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Người Con Một … (Ga 3,16); và cũng chính trong Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta có thể “trút cả mọi lo âu cho Chúa, vì Người chăm sóc chúng ta” (1Pr 5,7). Trong Bí Tích Thánh Thể, chia sẻ không còn chỉ là lời lẽ hay quà tặng bên ngoài, mà là chia sẻ đến mức không tưởng: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy …”. Quà tặng Người trao chính là thân mình tự hiến của Người. Đó là tuyệt đỉnh của tình yêu.
Thân mình tự hiến cho chúng ta, phải chăng chính là để chúng ta biết tự hiến thân mình cho anh em? Chắc hẳn đó mới là sự trao đổi và cũng là sự tưởng nhớ mà Đức Giêsu mong muốn: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Đón nhận tấm bánh bẻ ra, thúc giục người Kitô Hữu phải chia sẻ bánh trong cuộc sống hằng ngày, đó là chia sẻ bánh bác ái, những gì chúng ta là và những gì chúng ta có, nó phải biến đổi chúng ta thành những người đồng bàn trong Giáo Hội và với từng con người, nó cũng dạy chúng ta cách phục vụ Giáo Hội qua anh chị em mình.
Việc cử hành Thánh Thể kêu gọi ta thực thi đức ái cách mãnh liệt, bằng cách lưu tâm đặc biệt đến anh em túng thiếu, những người được miêu tả như “bí tích hiện diện của Đức Kitô”. Như thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Bạn muốn tôn kính thân mình Chúa. Bạn đừng khinh thường khi thấy thân mình này được bao phủ bởi những giẻ rách, sau khi tôn vinh thân mình trong nhà thờ, được vận toàn lụa là, bạn đừng để thân mình bên ngoài bị lạnh, đừng để thân mình này lâm cảnh khốn cùng … Đấng đã nói: “Đây là Mình Tôi”, và bảo đảm với bạn những điều đó là thật, Đấng ấy cũng nói: Điều mà ngươi không làm cho kẻ bé mọn nhất này là chính người cũng không làm cho Ta.
Bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải chăm sóc người nghèo. Để thực sự lãnh nhận Mình và Máu Đức Kitô đã nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhậnï ra Người trong những người nghèo nhất. Thánh Thể thực sự dẫn đến yêu thương và thái độ phục vụ mà Đức Kitô yêu cầu các môn đệ thực hiện (Lc 22, 24-27; Ga 13, 14). Đáp lại sự tranh chấp của các môn đệ, là hành vi cúi xuống rửa chân của Đức Giêsu. Người đã trở nên gương mẫu yêu thương phục vụ tha nhân cách khiêm nhường (Ga 13, 14-17). Một tình yêu khiến Người trở nên của ăn “Đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em” (Lc 22, 19). Một tình yêu được nâng lên thành một luật nền tảng, đúng hơn là một lối sống, làm mô phạm cho mọi người, mọi tương quan trong Giáo Hội “Các con hãy làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13, 15). Điều này được thực hiện sống động nơi cộng đoàn tiên khởi: hiệp thông, chuyên cần bẻ bánh, cầu nguyện không ngừng, giúp đỡ người nghèo, những khách hành hương, thăm viếng các tù nhân và nuôi dưỡng những ai túng thiếu (Cv 2, 42- 47; 4, 32-35; 5, 14, 46).
Đức ái Kitô Giáo chỉ thực hiện được, nếu tình yêu Thiên Chúa được chuyển từ Đấng Cứu Thế sang cho người khác.
Biến đổi và thăng hoa cuộc sống.
Một câu hát có lẽ đã đi sâu vào ký ức nhiều người:
“Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày
Linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây …”.
Cuộc viếng thăm đích thực nào cũng động chạm tới cõi lòng và làm biến đổi cuộc sống. Biến đổi sẽ đến mức trọn vẹn khi ta có thể thốt lên: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Đức Kitô đến thăm viếng tâm hồn mỗi người Kitô Hữu, nhưng điều quan trọng là sự biến đổi nơi người kitô hữu, người đón nhận cuộc viếng thăm. Nếu sự biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là trên bình diện thân thể, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, thì cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người Kitô Hữu biến đổi tận bình diện nào khi lãnh nhận Thánh Thể ? Nói khác đi Thiên Chúa viếng thăm, chấp nhận ra khỏi chính mình để mang lấy những gì thuộc về con người, vậy con ngườiù liệu có ra khỏi chính mình để nhận lấy những gì thuộc về Thiên Chúa hay không ? Câu trả lời tất nhiên thuộc về Thánh Thần và thái độ tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Tham dự Thánh Lễ là tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể, là cảm nếm trước bàn tiệc Nước Trời, nơi đó Chúa Kitô mời gọi mọi tín hữu đến rước lấy Ngài để có sự sống đời đời. Do đó mỗi khi tham dự Thánh Lễ, người tín hữu sẽ rước Thánh Thể để nuôi dưỡng đời sống đức tin. Đức ấy phải được hiện tại hóa qua đời sống hằng ngày. Thánh Phaolô đã lưu ý mọi Kitô Hữu về sự kết hợp với Thiên Chúa qua tất cả thụ tạo và việc làm, như một cách hiểu Thánh Thể nối dài trong cuộc sống: “Dù ăn, dù uống hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10, 31). Đồng thời ngài cũng cảnh cáo sự chia rẽ giữa các tín hữu với nhau. Nói khác đi, Phaolô lên án việc cử hành Bí Tích Thánh Thể cắt đứt với cuộc sống thật: Tất cả cùng hiệp thông với một thân mình Chúa Kitô qua tấm bánh và chén rượu duy nhất, nhưng lại phân biệt giàu nghèo và chia rẽ nhau” (1Cr 11, 17-34).
Bữa tiệc Thánh Thể phát sinh một hiệu quả thánh hóa thân xác ta. Thánh Thể tác động một cách thần thiêng, gây ảnh hưởng không phải bằng sự đụng chạm khả giác nhưng bằng sự lan tỏa Chúa Thánh Thần, mà Mình Thánh Chúa đang mang theo. Phẩm giá của xác thịt nhân loại ngày càng trở nên cao trọng nhờ việc rước Thánh Thể. Một cách mầu nhiệm, Đức Kitô đến che giấu sự cao cả của xác thịt Ngài trong xác thịt hèn hạ của chúng ta, và muốn cho xác thịt ta tham dự vào việc thần hóa nhân tính. “Thân xác ta là đền thờ của Thiên Chúa”. Chính vì thế, thân xác ta phải được biến đổi và tinh sạch. Vì nó thuộc về một ngôi vị con người và chia sẻ sự cao trọng của ngôi vị ấy. Nhất là nó đã trở nên nơi ở của Thiên Chúa, khi ta đón rước Chúa Ba Ngôi ngự vào lòng. Đối với người hấp hối, khi rước của ăn đàng, họ đón nhận được Đức Kitô là Đấng sẽ đưa linh hồn họ sang cõi sống bên kia, và đồng thời trong thân xác sắp tan rã, họ cũng nhận được sự bảo đảm có một sự sống trổi vượt, sẽ thắng được sự chết vào ngày thế mạt. Của ăn đàng đưa linh hồn vào hạnh phúc trên trời và đưa thân xác đến phúc sống lại.
Như thế, Thánh Thể là suối nguồn bình an sâu thẳm, vì nó xác nhận việc con người hòa giải cùng Thiên Chúa. Thánh Thể còn phát sinh ra sự bình an, bởi lẽ nó mang lại cho con người điều thiện hảo duy nhất có thể làm cho con tim thỏa mãn, là chiếm hữu được chính Thiên chúa. Nhờ đó khi gặp cơn cám dỗ, sự bình an ấy giúp con người được bình tĩnh và tín thác vào sự che chở của Thiên Chúa.
Nhớ lại câu dẫn vào Thánh lễ rất quen thuộc của một cha giáo: “Anh em thân mến ! Mỗi một lần chúng ta tham dự Thánh lễ là mỗi một lần chúng ta biến đổi cuộc đời chúng ta nên một với Đức Giêsu. Sau mỗi lần tham dự Thánh lễ mà chúng ta không để cho cuộc đời chúng ta nên một như Đức Giêsu thì Thánh lễ chúng ta tham dự trở nên vô ích”.
Nghe một lần chưa thấm, nghe nhiều lần rồi thấm và phải suy nghĩ. Đúng như vị linh mục ấy nói. Nếu cứ tham dự Thánh lễ xong rồi cuộc đời đâu lại vào đấy thì quả là chán vì khi ta tham dự Thánh Lễ, ta được kết hợp với Thiên Chúa là nguồn vui, nguồn bình an, nguồn hạnh phúc thật của đời ta.
Và bài hát rất quen thuộc của linh mục nhạc sĩ Thành Tâm: “Ta về thôi vì Thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, mang tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để thành chứng nhân !”. Thánh lễ nào cũng kết thúc, cũng chia tay, cũng tạm biệt nhưng Thánh lễ sẽ không kết thúc, không tạm biệt, không chia tay với cuộc sống của ta. Hoa quả của Thánh Lễ, hoa quả của Bí Tích Thánh Thể chính là lối sống, hành vi, lời ăn tiếng nói, cách cư xử của mỗi người chúng ta với anh chị em đồng loại.
Thánh Phaolô mời gọi chúng ta sống kết hiệp với Chúa như Ngài đã kiết hiệp: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Ước gì mỗi Kitô hữu cũng mặc lấy, cũng sống lấy tâm tình của Thánh Phaolô để mọi người xung quanh chúng ta nhìn vào chúng ta họ thấy có một Đức Giêsu đang hiện diện với họ.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể đến và ở lại với mỗi người chúng ta và xin Ngài làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta. Xin Chúa nuôi dưỡng và gìn giữ chúng ta đi qua cuộc lữ hành trần thế này để mai kia chúng ta được cùng hưởng nhan Thánh của Ngài trên Thiên Quốc.
Mặc dầu ngày thứ năm tuần thánh, Giáo hội đã kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể để THÁNHTHỂ-142
Mặc dầu ngày thứ năm tuần thánh, Giáo hội đã kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta, hôm nay Giáo hội tiếp tục cử hành lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô để giáo dân có nhiều thì giờ suy niệm về phép Thánh Thể, thúc giục giáo dân thêm lòng yêu mến tôn sùng. Qua Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được hiểu biết tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể này, đồng thời thúc giục chúng ta năng rước lễ để lãnh nhận Chúa Giêsu làm lương thực nuôi linh hồn chúng ta trên bước đường đi về Quê Trời.
Qua các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy Thánh Thể thực sự đã được loan báo từ trước bằng những hình ảnh. Manna mà Thiên Chúa ban cho dân Israel dùng trong sa mạc suốt bốn mươi năm chẳng phải là hình bóng phép Thánh Thể mà Đức Giêsu đã lập sao ? Thánh Phaolô cũng nhắc lại cho tín hữu Corintô tư tưởng trên: dân Israel đã được ăn manna, uống nước từ tảng đá… để nói lên rằng tòan dân Israel đã được thừa hưởng bao hồng ân của Thiên Chúa.
Lời Chúa trong đọan Tin mừng thánh Gioan là những lời Đức Giêsu diễn giảng về Bánh hằng sống, Bánh từ trời, Bánh ban sự sống thần linh. Bánh đó chính là Đức Giêsu Kitô. Thịt máu Ngài đã trở nên cơm bánh, trở thành lương thực, trở thành của ăn của uống giúp con người đi vào thế giới của Thiên Chúa kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Bánh này trổi vượt hơn Manna trong sa mạc mà tổ tiên dân Israel đều đã được ăn. Vì thế ai ăn bánh này sẽ được sống vĩnh cửu trong Vương quốc của Thiên Chúa.
Trung tâm đời sống Kitô hữu là Thánh Thể, mà Thánh Thể là một nhiệm tích tuyệt diệu làm cho Đức Kitô hiện diện thực sự với dân chúng trong mầu nhiệm Vượt qua. Trong bữa ăn sau hết, chính Ngài bị nộp, Ngài đã thiết lập hiến tế tạ ơn bằng Mình và Máu Ngài. Hiến tế của Tình yêu. Hiến tế của hiệp nhất, giây liên kết đức bác ái, bữa tiệc Vượt qua trong Đức Giêsu là của ăn. Xét theo phương diện này, hôm nay ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm nhiệm tích Thánh Thể là lương thực nuôi linh hồn vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta: ”Ta là bánh hằng sống từ trời ban xuống”(Ga 6,51).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Đnl 8,2-3.14-16: Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, dẫn dắt họ suốt 40 năm trường trong sa mạc để vào đất hứa. Kết thúc cuộc hành trình, trước khi tiến vào Đât Hứa, ông Maisen khuyên bảo dân đừng bao giờ quên những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho. Trong số những ơn lành Chúa đã ban, dân Chúa hãy nhớ lại việc Thiên Chúa đã nuôi sống họ bằng cách ban manna từ trời xuống và cũng làm cho nước từ tảng đá vọt ra để thỏa mãn cơn khát khao.
Nhưng đấy mới chỉ là thức ăn vật chất nuôi phần xác thôi, còn cần phải có một thức ăn thiêng liêng khác là Lời Chúa và Thánh Thể nuôi sống linh hồn loài người nữa.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1o,16-17: Nhận thấy trong cộng đoàn tín hữu ở Côrintô có sự bất hoà, chia rẽ, thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy đoàn kết lại, hiệp nhất trong tình yêu thương. Ngài cho biết: Thánh Thể chính là mối dây tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Khi chúng ta hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thì chúng ta cũng phải thể hiện sự hiệp thông ấy ra trong đời sống cộng đoàn bằng cách phải hiệp nhất với nhau. Cũng như chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều người cũng chỉ là một thân thể.
+ Bài Tin mừng: Ga 6,51-58: Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, không nghĩ đến ăn uống. Thấy họ đói, Chúa Giêsu đã nuôi sống họ bằng cách làm cho bánh hoá nhiều. Dân chúng được ăn no nê thừa thãi thứ bánh vật chất mà Ngài vừa làm phép lạ cho có nhiều. Bây giờ Chúa muốn đưa họ đến một thứ lương thực cao qúi hơn. Vì thế, Ngài loan báo cho họ một thứ bánh khác. Bánh đó chính là Mình Máu Ngài, Bánh hằng sống mang lại ơn cứu độ cho thế gian.
Chúa Giêsu đã khẳng định mặc dầu người ta không hiểu cũng như không muốn hiểu: ”Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, và bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống... Ai ăn thịt và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thánh Thể, nguồn sống thiêng liêng: Trong lời mở đầu của thông điệp về Bí tích Thánh Thể “ECCLESIA DE EUCHARISTIA”, Đức Thánh Cha Gioan-Phalô II đã xác tín “Giáo hội múc nguồn sự sống từ Bí tích Thánh Thể. Sự thật này không đơn thuần diễn tả một kinh nghiệm thường nhật của đức tin, nhưng tóm kết cốt lõi của mầu nhiệm Giáo hội. Trong niềm hân hoan, Giáo hội kinh nghiệm, dưới nhiều hình thức, sự thực hiện liên lỉ lời hứa “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo hội bắt đầu cuộc hành trình đi về Quê Trời, bí tích thần thiêng tiếp tục ấn dấu trên ngày sống, bằng cách tuôn đổ trên họ niềm hy vọng tin tưởng”.
Công đồng Vatican II tuyên bố cách xác đáng rằng “Mọi Bí tích đều liên hệ và hướng về Thánh Thể. Vì phép Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, nghĩa là chính mình Chúa Kitô Phục sinh. Phép Thánh Thể là nguồn suối, là chóp đỉnh việc rao giảng Tin mừng” (P.O, số 5).
Thánh Thể đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống Giáo hội và giáo dân, nên Giáo hội lập ra lễ kính Thánh Thể để thúc giục giáo dân gia tăng lòng tôn sùng phép Thánh Thể. Lễ kính này đã manh nha ở thành phố Liège bên Bỉ với những ơn lạ của chị dòng Juliana về phép Thánh Thể từ năm 1208 cho mãi đến năm 1263 với phép lạ máu Chúa chảy loang thấm ướt khăn thánh ở làng Polsena bên Đức. Ngày 8.9.1264, Đức Thánh Cha Urbanô ban sắc lệnh Transiturus lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô trên khắp hoàn cầu.
I. THÁNH THỂ, NGUỒN SỐNG CỦA KITÔ HỮU.
Con người có hồn có xác. Cả hai liên kết chặt chẽ với nhau. Muốn sống cần phải có ăn, không ăn thì chết. Nhưng hồn và xác lại có những của ăn khác nhau. Xác cần có của ăn vật chất, hồn lại có của ăn thiêng liêng là chính Mình Máu thánh Chúa Kitô như lời Ngài đã dạy.
1. Của ăn thể xác.
Người ta thường nói: ”Có thực mới vực được đạo” (Tục ngữ). Nói như thế có nghĩa là phải có của ăn phần xác nuôi sống đã, phải sống đã rồi mới có thể thực hiện việc đạo nghĩa được. Nhiều người nói quả quyết hơn: ”Dĩ thực vi tiên”: phải lấy cái ăn làm đầu. Câu tục ngữ trên cũng có nghĩa tương đương với câu ngạn ngữ La tinh: ”Manducare priusquam philosophare”: ăn đã rồi hãy nói triết lý, vì không có ăn thì lấy hơi đâu mà nói triết lý ?
Bất kỳ ai cũng phải ăn, không ăn nhiều thì ăn ít. Càng ăn nhiều thức ăn có độ dinh dưỡng cao thì người càng mập, béo, khỏe mạnh. Ăn uống thiếu chất dinh dưỡng thì người sẽ gầy còm, ốm o. Trung bình mỗi người lớn một ngày phải được cung cấp 2.600 calories, nhưng trong thực tế, trừ một số nước tiên tiến mỗi ngày được cung cấp tới 3,130 calories, khiến con người họ to cao, bép mập; còn đa số dân chúng ở các nước kém mở mang chỉ được cung cấp dưới mức trung bình ấy. Một số nước mỗi người chỉ được cung cấp 1.700 calories mỗi ngày, và tệ hơn nữa, một số nước ở Phi châu chỉ được cung cấp 1.200 calories mỗi ngày. Theo tin tức của đài truyền hình cho biết: tính tứ năm 1975 đến nay, chiều cao của trẻ em Việt nam đã tăng thêm được vài centimét.
Trong kinh “Lạy Cha” chúng ta vẫn cầu xin Chúa cho chúng ta có của ăn hằng ngày: ”Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Lương thực đây phải hiểu là lương thực của phần xác và phần hồn. Nhưng dù sao chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta có của ăn của để, đừng để chúng ta thiếu thốn quá mà bỏ bề việc đạo.
Người Việt nam chúng ta rất thực tế, không ước ao được giầu sang phú qúi, của cải dư dật vì như thế có thể làm cho người ta dễ hư hỏng hoặc làm cho người ta thêm lo lắng đêm ngày:
Ăn cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
Ăn cơm với cáy thì ngáy o o.
Trong thực tế của đời sống hằng ngày, họ chỉ cần hai chữ “bình an”, họ chỉ ao ước được hưởng những hạnh phúc thông thường, như thế họ đã mãn nguyện:
Ăn được ngủ được là tiên,
Không ăn không ngủ mất tiền thêm lo, (Ca dao)
2. Của ăn phần hồn.
Nếu chúng ta nói: thân xác phải ăn thì mới sống được, chúng ta phải nói thế nào về phần hồn ? Dĩ nhiên, linh hồn cũng phải ăn thì mới sống được, nhưng của ăn nuôi sống linh hồn không phải là của ăn vật chất như cơm bánh hằng ngày ta ăn, mà là của ăn thiêng liêng. Nói khác đi, của ăn đó chính là Mình máu Chúa Kitô.
Trong sa mạc, dân Israel đã được ăn manna hằng ngày để nuôi thể xác. Chúa Giêsu cũng làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi phần xác cho dân chúng khi đói. Ngoài bánh ấy ra, Chúa Giêsu còn hứa sẽ ban cho họ thứ bánh khác, không phải là thứ bánh họ đã ăn, bánh này ăn vào sẽ không bao giờ đói nữa: ”Ta là bánh hằng sống, ai đến cùng Ta không khi nào đói, ai tin kính Ta chẳng bao giờ khát “(Ga 6,35). Ngài hứa ban bánh hằng sống, dân chúng ước ao ăn bánh này cho khỏi đói khát nữa. Nhưng Chúa Giêsu còn muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài muốn nói về một thứ bánh hằng sống chân thật, đó là chính Thịt Máu Ngài.
Mặc dầu Ngài nói như thế, người ta sẽ không tin, còn làm cớ vấp phạm cho nhiều người đến nỗi có nhiều người bỏ đi vì thấy nó chói tai quá, kể cả môn đệ cũng có một số bỏ đi. Tuy thế, Ngài cứ nói, nói một cách thẳng thừng: ”Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con người thì các ngươi chẳng được sống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54-55).
Để bảo tồn sự sống, mọi sinh vật phải có thức ăn thích hợp với bản tính riêng. Linh hồn chúng ta đã được thần hóa, nên cũng cần có một thức ăn thích hợp với nếp sống mới đó. Thức ăn này phải là do việc thông hiệp vào thịt máu Chúa Giêsu ban cho: ”Ta là bánh hằng sống. Các ngươi hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các ngươi hãy lãnh nhận mà uống, vì này là máu Ta. Ai ăn mình và uống máu Ta sẽ được sống. Vì mình Ta thực là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
Ai lãnh nhận mình máu Chúa Kitô, người ấy được kết hợp với Chúa, được tan biến trong Chúa để cả hai nên một, để người ấy có thể nói như thánh Phaolô: ”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Trong khi rước lễ, chúng ta coi mình như đón nhận Chúa Giêsu, Chúa Giêsu ngự vào lòng tôi. Chúng ta nói về sự hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta. Chúa Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin mừng hôm nay: ”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Chúng ta có thể nói như thánh Inhaxiô: ”Đây là nơi Chúa Giêsu bồng ẵm tôi”.
Thánh Cyrillô thành Alexandria so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hoà lẫn với nhau. Thánh Têrêsa thành Lisieux đã diễn tả sự hiệp lễ lần đầu của ngài như là sự tan hòa với Chúa Kitô.
Chúng ta hãy suy nghĩ điều này và bắt đầu nhận htức rằng sự quan trọng không phải là tình yêu, lòng khao khát hay những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dầu tất cả cần phải có. Sự quan trọng nhất là tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Ngài ước mong ôm ẵm chúng ta, chia sẻ chính đời sống Ngài cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ở lại trong Ngài như chúng ta muốn Ngài ở lại trong chúng ta (GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng CN năm A, tr 79).
Mỗi khi rước Chúa ngự vào lòng, chúng ta muốn được hoà tan trong Chúa, muốn được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, muốn được đổi mới con người của mình. Dĩ nhiên, sự đổi mới này chỉ có tính cách thiêng liêng, nghĩa là linh hồn chúng ta được đầy tràn ơn Chúa, được trở nên thánh thiện hơn, làm chiếu toả Chúa ra bằng cách sống hằng ngày, còn thân xác chúng ta thì không có gì thay đổi.
Truyện: Biến đổi trong Chúa.
Một người ngoại giáo hỏi người bạn Công giáo:
- Người Công giáo các bạn ăn Chúa Kitô phải không ?
- Vâng, người Công giáo trả lời.
Người kia hỏi tiếp:
- Vậy sao các bạn không trở nên như Chúa ?
Một lát sau, khi đi ngang qua trại heo, người Công giáo hỏi:
- Bạn có khi nào ăn thịt heo không ?
- Rất nhiều lần. Mà hỏi làm gì vậy ?
- Sao bạn chưa biến đổi thành heo ?
Đó là câu trả lời cứng cỏi nhưng kiến hiệu cho câu hỏi cứng cỏi. Trong thực tế, chúng ta được biến đdổi trong Chúa cách thiêng liêng nhờ sự rước lễ. (GM Arthur Tonne, Góp nhặt, tr 8-9)
II. THÁNH THỂ LÀ MỘT MẦU NHIỆM.
Trong Thánh lễ, ngay sau truyền phép Mình thánh, Linh mục đã nhắc nhở cho giáo dân: ”Đây là mầu nhiệm đức tin”. Hội thánh muốn nhắc nhở cho giáo dân: Thánh Thể là một mầu nhiệm, không trí khôn nào có thể suy thấu, chỉ dùng con mắt đức tin mà chấp nhận. Với con mắt xác thịt, không ai có thể trông thấy Chúa trong hình bánh hình rượu với cả mình và máu, nhân tính và thần tính của Chúa Giêsu, nhưng không thấy không có nghĩa là không có. Như kinh nghiệm cho chúng ta thấy: ban ngày người mù đâu có thấy ánh sáng, nhưng không thấy ánh sáng thì không thể phủ nhận được sự hiện hữu của mặt trời. Mặt trời vẫn có đó.
Sau khi truyền phép Mình thánh, bánh và rượu đã trở nên mình máu Chúa Kitô. Cả con người của Chúa Giêsu ở trong đó: thịt và máu, nhân tính và thần tính. Chúa Giêsu đang hiện diện trong hình bánh hình rượu.
Chúng ta phải phân biệt hai sự hiện diện:
- Hiện diện tượng trưng (Presentia symbolica)
- Hiện diện thực sự (Presentia realis).
1. Hiện diện tượng trưng:
Là tin rằng Chúa Giêsu hiện diện trong hình bánh, coi như Ngài hiện diện trong đó, nhưng thực sự không có thịt máu Ngài trong đó. Như thế là chối bổ sự biến thể (transsubstantiatio) mà Giáo hội dạy: sau truyền phép thì bánh rượu chỉ còn hình dáng bề ngoài(species), còn bản thể (substantia) đã trở nên mình máu Chúa Kitô rồi. Đối với sự hiện diện tượng trưng này, mọi người dễ hiểu, dễ chấp nhận vì nó phù hợp với sự hiểu biết của lý trí con người, không cần dùng đến con mắt đức tin.
2. Hiện diện thực sự.
Đây là vấn đề gai góc. Hiện diện thực sự là có sự hiện diện thực của Chúa Giêsu với mình và máu, với nhân tính và thần tính của Người. Cả con người của Ngài hiện diện trong đó mặc dầu con mắt xác thịt chúng ta không thấy. Đây thực sự là mầu nhiệm đức tin.
Theo cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tường trình cho biết, chỉ có 1/3 giáo dân Công giáo Hoa kỳ tin có sự hiện diện thật của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, số khác chỉ tin Bí tích Thánh Thể là biểu tượng cho sự hiện diện thật của Chúa Kitô.
Phản ứng trước cuộc thăm dò này, các Giám mục Hoa kỳ đã nhắc lại một thông tư trong hội nghị hội đồng Giám mục Hoa kỳ vào tháng 6/2001 “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể: Những câu hỏi và trả lời căn bản”. Trong bản văn này xác định lại một lần nữa trong Bí tích Thánh Thể “toàn thể con người Đức Kitô thật sự hiện hữu dưới hình thức bánh và rượu, thân xác, máu, linh hồn và thần linh”.
Truyện: Hiện diện thực sự.
Một linh mục và một mục sư Tin lành ở cùng một tỉnh thường nói chuyện với nhau nhiều về đạo. Thời gian trôi qua, mục sư bắt đầu tin những chân lý của đạo Công giáo dần dần. Ông tin hết mọi chân lý, trừ có một – chân lý Chúa ngự thật trong phép Thánh Thể. Chân lý duy nhất này ông không thể nào tin được. Ông vẫn nói: ”Nếu tôi có thể tin được rằng tôi rước lấy Chúa thực sự khi chịu lễ, thì chắc là tôi sẽ hạnh phúc nhất trên đời; nhưng xem chừng tôi không thể tin được”.
Ít lâu sau, vị mục sư đau nặng, Linh mục đến thăm ông, nhưng ông mê man bất tỉnh. Qùi gối bên giường, linh mục cầu xin Chúa ban cho mục sư tỉnh lại và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa nghe. Vị mục sư hấp hối đó mỉm cười và xin được phép ngồi lên, tựa lưng vào gối. Ông có thể tiếp tục nói, nhưng mắt ông nhìn chòng chọc vào cái gì ở chân giường. Ông chỉ tay, nhưng vị linh mục không trông thấy gì cả. Rồi người hấp hối cứ nhìn chòng chọc và bỗng nhiên mặt ông tươi lên như hoa. Ông vừa thở hổn hển vừa phều phào: ”Hiện diện thực sự – Nếu tôi được biết kịp thời thì chắc tôi đã giảng cho toàn thế giới chân lý này”. Nói rồi, ông nhắm mắt thở hơi cuối cùng. W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 161-162)
Chúng ta may mắn vì được Chúa ban đức tin ngay từ khi mới sinh. Những người khác thường phải chiến đấu lâu ngày lâu tháng mới tin được những điều chúng ta không phải khó lòng gì mà đã tin.
Bí tích Thánh Thể là bí tích của tình yêu. Dấu chỉ tuyệt diệu nhất của tình yêu Thiên Chúa là sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta – nơi BÍ TÍCH THÁNH THỂ. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình để những ai tin vào Người thì không bị hư mất, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). Thiên Chúa yêu chúng ta nên đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô; Chúa Giêsu Kitô yêu chúng ta nên đã “Chấp nhận thân phận tôi đòi”(Phl 2,7), đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh vinh hiển để đem lại Sự sống cho chúng ta, Ngài còn “Ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20) nơi Bí tích Thánh Thể; tất cả chỉ vì yêu chúng ta.
Bài Thuyết Trình của Đức Cố Hồng Y Alfonso López-Trujillo
Nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình
Trình bày tại Đại Hội Tông Đồ Tận Hiến Gia Đình, Ngày 19 tháng 7, năm 1998
Các bạn thân mến,
Một lần nữa, tôi xin nhân dịp này cám ơn Hội Tông Đồ Tận Hiến Gia Đình, và đặc biệt là ông bà:THÁNHTHỂ-143
Một lần nữa, tôi xin nhân dịp này cám ơn Hội Tông Đồ Tận Hiến Gia Đình, và đặc biệt là ông bà Jerry và Gwen Coniker, đã tổ chức Đại Hội này và đã mời tôi tham dự.
Chúng ta đã suy nghĩ về đặc quyền và nhiệm vụ của gia đình trong công tác truyền thụ Tin Mừng qua việc dạy Giáo Lý và cầu nguyện trong gia đình. Công tác đa dạng của các bạn cũng nhấn mạnh đến việc gia đình được mời gọi để truyền giáo trong xã hội thế nào. Các bạn cũng đặc biệt nhấn mạnh đến các Giờ Thánh Đừng Sợ, về vai trò của Bí Tích Thánh Thể trong việc kết hợp và củng cố gia đình như một cộng đoàn truyền giáo, và vai trò của gia đình trong việc tôn trọng sự sống trong xã hội ra sao. Các bạn tìm cách đem niềm hy vọng đến cho gia đình khi gặp khó khăn trong ơn gọi truyền thụ Tin Mừng. Vậy chúng ta hãy bỏ một chút thì giờ suy nghĩ về những đề tài trên.
Gia Đình và Việc Bảo Vệ Sự Sống
Nhân loại ngày nay có vẻ dã man và bất nhân hơn bao giờ hết, bất kể những tiến bộ về kỹ thuật và khoa học.
Như các bạn đã biết, hiện nay mỗi năm có trên 50 triệu trẻ em vô tội bị thanh trừng bởi tội ác phá thai. Điều này chẳng khác gì mỗi năm toàn thể dân chúng nước Ý Đại Lợi bị tiêu diệt trong cuộc chiến tàn bạo và tồi tệ nhất.
Đó là cuộc chiến chống lại những người cô thế và vô tội, là những người cũng có quyền sống, là quyền căn bản mà không ai có thể từ chối được.
Năm nay chúng ta mừng kỷ niệm 50 năm công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Từ giây phút thụ thai, “người được thụ thai” là một hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để thành con cái Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Tẩy.
Đức Thánh Cha [Gioan Phaolô II] đã dạy rằng có hai Tin Mừng không thể tách rời nhau được: Tin Mừng cho gia đình, là Tin Mừng cho mọi người, vợ chồng, con cái và xã hội! Và cũng có Tin Mừng Sự Sống: Sự sống con người là hồng ân của Thiên Chúa và chỉ thuộc quyền Thiên Chúa. Sự sống con người thiêng liêng. Con người không phải là một sự vật, không phải một dụng cụ mà một người có thể sử dụng, thao túng và vất đi. Không ai có quyền muốn làm gì thì làm với đời sống của một con người vô tội. Thông Điệp Evangelium Vitae của ĐTC Gioan Phaolô II là một thông điệp vĩ đại và lịch sử trong việc bảo vệ sự sống con người.
Hội Thánh bênh vực sự sống con người với tình yêu và lòng can đảm, cùng công bố hồng ân tuyệt vời này là hồng ân mà gia đình cũng phải công bố, rao truyền và bảo vệ. Thưa các phụ huynh, không có của cải nào quý giá hơn là con cái quý vị! Hội Thánh bênh vực sự sống của mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ nhất, yếu đuối nhất và thiếu thốn nhất, các trẻ em chưa được sinh ra, các bệnh nhân, và sự sống của các bậc lão thành. Thời nay người ta bị cám dỗ khai trừ tất cả những người này vì coi họ là gánh nặng cho xã hội và cho chính gia đình.
Hội Thánh nhắc nhở chúng ta rằng là con người, họ đã được Đức Kitô cứu chuộc và Người cũng đã hiến mạng sống Người cho họ. Người đã yêu tôi và đã hiến mạng sống Người cho tôi! Người cũng làm thế cho các bệnh nhân, cho những người bị khinh rẻ. Điều gì là điều then chốt và là lý do của giá trị cao cả của con người? Điều then chốt là người ấy là một người được Thiên Chúa yêu thương… quá mức đến nỗi mà Chúa Giêsu phải cứu chuộc người ấy trên Thập Giá.
Không ai, không một quyền lực nào, không một quyền bính nhân loại nào, một quốc hội nào, một chính phủ nào, có thể dành cho mình quyền thế và quyền đối xử với một con người như sự vật và quyết định rằng người ấy không có quyền sống.
Thật là một gương mù không những chi cho các tín hữu mà còn cho tất cả mọi người khi nghe về những tội ác phạm đến những người nghèo đói và thiếu thốn nhất.
Một Cuộc Vận Động Vĩ Đại Vì Sự Sống
Việc bảo vệ sự sống, nền văn hóa sự sống, tìm được sự hỗ trợ lớn lao nhất từ các gia đình. Thể chế gia đình có một sứ vụ là bảo vệ sự sống, giáo dục nó và đưa nó đến sung mãn.
Các bạn đã biết rõ lời mời gọi mà Hội Thánh đưa ra cho chúng ta qua Thông Điệp Evangelium Vitae, là tham gia vào “một cuộc vận động vĩ đại vì sự sống.” Thông Điệp này đặc biệt mời gọi các gia đình trở thành phương tiện mà qua đó Nền Văn Hóa Sự Sống được phục hồi. Quả thật, Đức Thánh Cha đã vạch ra rằng một trong những ly do mà phá thai và giết chết êm dịu là những tội ác tầy trời khủng khiếp vì chúng xảy ra trong gia đình, là nơi che chở sự sống. Vì thế Ngài tiếp tục quả quyết rằng, “Trong số ‘những người vì sự sống và cho sự sống’, gia đình có một nhiệm vụ tiên quyết. Nhiệm vụ này phát sinh từ chính bản chất của gia đình là một cộng đồng sự sống và tình yêu… Như một Hội Thánh Tại Gia, gia đình được triệu tập để công bố, cử hành và phục vụ Tin Mừng Sự Sống” (EV, số 92).
Bí Tích Thánh Thể và việc Bảo Vệ Sự Sống
Bí Tích Thánh Thể dạy các gia đình và thúc đẩy họ bảo vệ sự sống. Chúng ta hãy nhìn đến một vài điểm trong lãnh vực này.
Bằng một cách đặc biệt, các bạn đang có mặt ở Đại Hội này biết rằng các gia đình được thêm sức mạnh trong ơn gọi này qua việc cùng nhau tôn sùng Thánh Thể. Việc tôn kính như thế kéo các phần tử lại gần nhau hơn trong mối giây bác ái là điều thiết yếu của những gia đình vững mạnh. Việc làm giờ thánh gia đình, được hội Tông Đồ này cổ võ, ghép gia đình vào sứ vụ hằng ngày của Hội Thánh để thăng tiến Tin Mừng Sự Sống.
Hội Thánh không thể tồn tại được nếu không có Bí Tích Thánh Thể. Gia đình Kitô hữu cũng thế. Sức bổ dưỡng của gia đình đến từ Mình và Máu Thánh Chúa. Sứ vụ làm Hội Thánh Tại Gia của gia đình cũng được tìm thấy trong Bí Tích Thánh Thể và dẫn nó trở lại cùng Bí Tích Thánh Thể, là nguồn mạch và tột đỉnh của tất cả đời sống và hoạt động của Hội Thánh.
Quyết tâm thăng tiến nền Văn Hóa Sự Sống của gia đình lãnh nhận hình thái và sức bổ dưỡng của nó từ Bí Tích Thánh Thể như là một Bí Tích của Đức Tin, của sự hiệp nhất, của đời sống, của việc phụng tự và của tình yêu.
Bí Tích Thánh Thể là một Bí Tích của Đức Tin. Chúng ta không thấy gì khác nơi Bánh Thánh trước khi và sau khi Truyền Phép. Bánh Thánh có cùng một hình dáng, mùi, vị, và cảm giác như một tấm bánh. Chỉ có một trong năm ngũ quan nhận ra sự thật. Như Thánh Thôma diễn tả trong ‘Adoro Te Devote’ rằng, “Người ta đều bị đánh lừa vì nhìn, đụng chạm, và nếm Người. Nghe và tin vào lời nói thì mới tin Người?” Tai nge Lời Người, “Đây là Mình Thầy; đây là Máu Thầy,” và Đức Tin dẫn đưa chúng ta vào phía sau bức màn che của sự vẻ bề ngoài.
Các Kitô hữu thường có cái nhìn vượt qua những vẻ bề ngoài. Em bé nằm trong máng cỏ không nhìn giống Thiên Chúa chút nào; hay con người bị treo trên Thập Giá cũng chẳng sao. Nhưng nhờ Đức Tin mà chúng ta biết con người ấy không phải chỉ là người. Sách Thánh Kinh không có hào quang tỏa ra giữa những sách khác, nhưng nhờ Đức Tin chúng ta biết rằng sách ấy là Lời đặc biệt của Thiên Chúa. Thánh Thể có vẻ như chỉ là bánh và rượu, nhưng nhờ Đức Tin chúng ta thưa “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!” khi chúng ta quỳ gối thờ lạy.
Cũng một động lực của Đức Tin giúp chúng ta thấy vượt qua vẻ bề ngoài của những mầu nhiệm này, cũng làm cho chúng ta thấy vượt qua vẻ bề ngoài của những người lân cận của mình. Chúng ta có thể nhìn đến những người chung quanh chúng ta, đến những người làm chúng ta khó chịu, hay những người xấu xí, hoặc những người nằm bất tỉnh trên giường bệnh, và có thể nói rằng, “Đức Kitô cũng ở đấy. Đó là anh em tôi, chị em tôi, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa!” Bằng cùng một động lực chúng ta cũng có thể nhìn vào một em bé trước khi được sinh ra và nói, “Đây cũng là anh em tôi, chị em tôi, có nhân phẩm ngang hàng như mọi người và đáng được bảo vệ như những người khác!” Có một số người sẽ nói rằng đứa trẻ trong bụng, đặc biệt là trong những giai đoạn đầu tiên, quá nhỏ để được bảo vệ bởi Hiến Pháp. Có phải Bánh Thánh quá nhỏ để có thể là Thiên Chúa, và vẻ bề ngoài quá khác Thiên Chúa để chúng ta thờ kính không? Một mảnh vụn nhỏ nhất của Bánh Thánh cũng hoàn toàn là một Đức Kitô. Đức Tin Thánh Thể là một thuốc giải độc mạnh cho quan niệm nguy hiểm là giá trị tùy thuộc vào kích thước, hoặc sưc mạnh, hay bất cứ đặc tính nào khác. Là gì chứ không phải có gì, mới là nguồn gốc của phẩm giá.
Hãy tưởng tượng tất cả mọi người khắp nơi trên thế giới là những người đang rước Lễ hôm nay. Có phải mỗi người đang đón nhận một cái gì khác nhau không? Chẳng phải mỗi người đang đón nhận một và chỉ Đức Kitô duy nhất? Qua Bí Tích này, Đức Kitô là Chúa, Đấng ngự trị vinh hiển trên Thiên Đàng đang kéo tất cả mọi người lên với Chính Người. Chính Người là Đấng lôi kéo chúng ta lên với Người, rồi Người kéo chúng ta lại với nhau. Thánh Phaolô giải thích về điều này, “Chúng ta, tuy nhiều người, nhưng chỉ là một thân thể, vì chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh” (1 Cor 10:17). Khi chúng ta gọi nhau là “anh chị em,” chúng ta không chỉ dùng ẩn dụ để phản ảnh một cách mờ ảo sự liên kết giữa con cái cùng một cha mẹ. Sự hợp nhất chúng ta có trong Đức Kitô còn mạnh mẽ hơn sự hợp nhất giữa anh chị em ruột thịt, bởi vì chúng ta có cùng chung một máu: Máu Thánh của Đức Kitô! Kết quả của Thánh Thể là chúng ta trở nên một, và đều này đòi buộc chúng ta phải lo lắng cho nhau như chúng ta lo lắng cho bản thân mình.
Đây là sự hợp nhất của gia đình: chúng ta đã khám phá ra chúng ta là con cái Thiên Chúa. Chúng ta có thể kêu lên, “Abba,” có nghĩa là, “Cha ơi!” Chính Chúa Thánh Thần làm chứng cho tinh thần chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa (x. Rom 6:16). Tất cả đều là con cái.
Hãy tưởng tượng một người lên Rước Lễ, sau khi lãnh nhận Bánh Thánh, người ấy bẻ ra một mảnh trả lại cho vị linh mục. Điều này tượng trưng cho những gì xảy ra khi một người tẩy chay một người khác mà Đức Kitô đã cứu độ! Khi lãnh nhận Đức Kitô, chúng ta, dù thuận lợi hay không, dù muốn hay không, cũng lãnh nhận toàn thể Đức Kitô, trong tất cả các phần tử của Người, là anh chị em của chúng ta.
Như Thánh Gioan ghi nhận, Đức Kitô đã phải chết “để quy tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi thành một.” Tội lỗi phân tán. Đức Kitô kết hợp. Chữ “diabolical (ma quỷ)” có nghĩa là “cắt ra từng mảnh.” Đức Kitô đến “để tiêu diệt công trình của ma quỷ” (1Ga 3:8). Bí Tích Thánh Thể xây dựng gia đình nhân loại trong Đức Kitô là Đấng mời gọi, “Hãy đến với Thầy, hãy nuôi các con bằng Máu Thầy, hãy trở thành Thân Thể Thầy.” Trong một động lực trái ngược, việc phá thai nói, “Cút đi! Chúng ta không có chỗ cho ngươi, chúng ta không có thì giờ cho ngươi, chúng ta không muốn ngươi, chúng ta không có trách nhiệm về ngươi. Hãy tránh đường cho chúng ta đi!” Việc phá thai tấn công sự hợp nhất của gia đình nhân loại bằng cách cắt ra từng mảnh mối liên hệ cơ bản nhất giữa hai người: người mẹ và đứa con. Bí Tích Thánh Thề, như là Bí Tích của Hợp Nhất, quay ngược động lực của phá thai lại.
Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của Sự Sống. “Ta là Bánh Hằng Sống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (x. Ga 6:47-58). Hy tế Thánh Thể là chính hành động của Đức Kitô mà nhờ đó Người tiêu diệt sự chết và phục hồi sự sống cho chúng ta. Mỗi khi chúng ta họp nhau lại để dự Hy lễ này chúng ta mừng việc sự sống chiến thắng sự chết, và như thế cũng chiến thắng phá thai. Phong trào phò sự sống không phải hoạt động cho chiến thắng mà hoạt động từ chiến thắng. Như Đức Thánh Cha đã nói ở Denver năm 1993, “Đừng sợ. Kết quả của cuộc chiến phò sự sống đã được định đoạt.” Công việc của chúng ta là áp dụng chiến thắng đã được thiết lập vào mọi phương diện của xã hội chúng ta. Cử hành Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của công việc ấy.
Bí Tích Thánh Thể là hành vi Thờ Phượng Thiên Chúa Tối Cao. Mỗi người cần học hai bài học là, “1. Có Thiên Chúa. 2. Không phải tôi.” Bí Tích Thánh Thể là một Hy lễ hoàn hảo, nhìn nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa, và nhìn nhận rằng “Ngài có quyền được mọi tạo vật vâng phục” (Sách Lễ, Ca Nhập Lễ Ngày Thứ 3 Trong Tuần). Ngược lại, việc phá thai công bố rằng sự chọn lựa của người mẹ là tối cao. “Tự do chọn lựa” được coi là đủ để biện minh cho ngay cả việc cắt một em bé ra từng mảnh. Chọn lựa bị tách ra khỏi chân lý là thờ ngẫu tượng. Nó trái ngược với việc thờ phượng chân chính. Nó cho rằng tạo vật là Thiên Chúa. Tự do chân chính chỉ được tìm thấy trong việc tùng phục chân lý và Thánh Ý Thiên Chúa. Tự do thật không phải là khả năng muốn làm gì thì làm, mà là khả năng có thể làm điều phải.
Cuối cùng, Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu. Thánh Gioan giải thích, “Nhờ điều này mà chúng ta biết được tình yêu, là Chúa Giêsu Kitô đã thí mạng sống Người vì chúng ta” (1 Ga 3:16). Đức Kitô dạy, “Không có tình yêu nào lớn hơn là của người thí mạng sống mình cho bằng hữu” (Ga 15:13). Biểu tượng đúng nhất của tình yêu không phải là trái tim mà là Tượng Chịu Nạn.
Phá thai là điều hoàn toàn trái ngược với tình yêu. Tình yêu nói, “Tôi hy sinh chính mình vì lợi ích của người khác.” Phá thai nói, “Tôi hy sinh người khác vì ích lợi của tôi.” Trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta nhìn thấy ý nghĩa của tình yêu và lãnh nhận sức mạnh để sống tình yêu này. Hơn nữa, những kẻ cổ võ việc phá thai cũng dùng cùng một lời Chúa dùng để dạy chúng ta ý nghĩa của tình yêu: “Đây là mình tôi.” Bốn chữ bé nhỏ này được nói lên từ đầu kia của vũ trụ, với những kết quả hoàn toàn trái ngược. Đức Kitô thí mình Người để người khác được sống; những kẻ ủng hộ phá thai giữ chặt lấy thân xác mình để cho người khác phải chết. Đức Kitô phán, “Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con; Đây là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con.” Đó là những lời của hy sinh; đó là những lời của tình yêu.
Năm 1994 tại Washington, Mẹ Têrêxa đã nói rằng chúng ta chống phá thai bằng cách dạy cho người mẹ tình yêu thực sự có nghĩa gì: “sẵn lòng cho đi đến lúc bị tổn thương… Như thế, người mẹ đang nghĩ về phá thai phải được giúp đỡ để yêu, nghĩa là biết cho đi đến khi chương trình hay thì giờ nhàn rỗi của người mẹ ấy bị tổn thương, để người mẹ ấy tôn trọng sự sống của con bà.”
Gustave Thibon đã nói rằng Thiên Chúa thật biến đổi sự bạo tàn thành đau khổ, trong khi đó Thiên Chúa giả biến đổi đau khổ thành bạo tàn. Người phụ nữ có ý phá thai sẽ biến đổi cái đau khổ của chị thành bạo tàn trừ khi chị ấy để cho tình yêu biến đổi chị, và làm cho chị bằng lòng hy sinh. Bí Tích Thánh Thể ban cho chúng ta cả bài học lẫn sức mạnh. Một người Mẹ phải nói, “Đây là mình mẹ, máu mẹ, sự sống mẹ, mẹ sẽ nộp cho con là con mẹ.”
Thường thì phụ nữ là nạn nhân của lương tâm xấu của xã hội.
Mọi người muốn chống phá thai cũng cần phải nói cùng những lời như trên. Chúng ta cần thực thi cùng một sự đại lượng mà chúng ta yêu cầu các người mẹ thực thi. Chúng ta phải bắt chước những mầu nhiệm mà chúng ta cử hành. “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” có thể áp dụng cho tất cả chúng ta theo nghĩa là chúng ta cùng chịu đau khổ cách yêu thương với Đức Kitô để cho người khác được sống. Chúng ta phải giống như cột thu lôi giữa cơn giông tố kinh hoàng của bạo tàn và hủy diệt này, và thưa, “Lạy Chúa, con sẵn lòng lãnh nhận một phần nào sự bạo tàn này và nhờ tình yêu mà biến đổi nó thành sự đau khổ riêng của con, để người khác được sống.”
Thật vậy, Bí Tích Thánh Thể ban lệnh tiến quân cho phong trào phò sự sống. Bí Tích này cũng ban cho nó nguồn năng lượng, đó là tình yêu. Quả thế, nếu phong trào phò sự sống không phải là một phong trào của tình yêu, thì nó không còn là gì cả. Nhưng nếu nó là phong trào của tình yêu, thì không có gì có thể chặn đứng được nó, vì “Tình yêu mạnh hơn sự chết, và có quyền năng hơn cà hỏa ngục” (Nhã Ca 8:6).
Kết Luận
Kính thưa anh chị em, các gia đình lành mạnh là hy vọng của thế giới, vì thế chúng ta phải xây dựng các gia đình lành mạnh ấy với một ý nghĩa hy vọng cao cả. Nhìn thấy những sự dữ trên thế gian không thể làm cớ cho chúng ta bỏ trốn thế gian, nhưng ngược lại làm cho chúng ta tích cực tìm cách đối thoại với nó về ơn cứu độ.
Như là một sự hỗ trợ cho niềm hy vọng ấy, tôi xin phép kết luận bằng cách mời anh chị em chú ý đến Đại Hội Thế Giới của Đức Thánh Cha với các Gia Đình ở Rôma, mà Ủy Ban Giáo Hoàng về Gia Đình sẽ bảo trợ trong Mùa Thu của Năm Thánh 2000. Cuộc gặp gỡ này được đánh dấu bằng một Hội Nghị Thần Học Mục Vụ, bằng một cuộc cử hành Lời Chúa và chúc tụng vui mừng cùng với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô, và bằng Một Phụng Vụ Thánh Thể do Đức Thánh Cha cử hành, là một giây phút của ân sủng trọng đại có thể giúp chúng ta đào sâu sự hiểu biết, quyết tâm, và hiệp nhất giữa những người cùng hoạt động vì sự sống và gia đình. Hai lần gặp gỡ trước cũng vậy, lần thứ nhất được tổ chức ở Rôma trong Năm Quốc Tế về Gia Đình (1994), và lần thứ nhì được tổ chức năm ngoái ở Rio de Janeiro. Tôi nhiệt tâm hy vọng rằng nhiều người trong anh chị em, hợp cùng nhiều người khác trong Nước Hoa Kỳ, sẽ có thể tham gia cuộc hành hương Đức Tin đến Rôma trong năm 2000, để hợp nhau cầu nguyện cùng với các gia đình khác từ khắp nơi trên thế giới.
Nguyện xin Chúa chúc lành dồi dào cho anh chị em, gia đình anh chị em, và công việc rất trọng yếu mà anh chi em đang làm cho Nước của Người.
“ Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.” ( Ga 6, 53 ).
Khi Chúa Giêsu đã dùng kiểu nói trịnh trọng theo văn phong thời bấy giờ Ẫ thật, Tôi bảo thật:THÁNHTHỂ-144
Khi Chúa Giêsu đã dùng kiểu nói trịnh trọng theo văn phong thời bấy giờ “ thật, Tôi bảo thật.. ( Amen…Amen…)” thì không chỉ nói lên tầm quan trọng của nội dung lời tuyên bố mà còn nói lên tính tất yếu và thiết yếu của chân lý đối với thính giả bấy giờ và nhân loại mọi thời. Căn cứ vào những lời Chúa Giêsu tuyên phán ở trên, chúng ta thử hỏi rằng những thính giả lúc bấy giờ, thực sự có sự sống nơi họ không. Hay nói cách khác, cần phải đặt vấn đề: sống là gì ?
SỐNG LÀ GÌ ?
Một câu hỏi không dễ trả lời. Câu trả lời khá phổ thông: sống là động. Trạng thái động đối lập với trạng thái tỉnh ( bất động ). Trạng thái này có thể là di động, chuyển động, cử động hay hành động. Nếu mô tả tình trạng sống là trạng thái động, thì vừa thái quá lại vừa bất cập. Các khoáng sản như đất đá hay lớn hơn như quả địa cầu, các tinh tú…chúng hằng di động và đang chuyển động. Vậy chúng đang sống ư ? Với sinh vật bậc cao là con người, nếu ở trong tình trạng hôn mê, không còn hành động cũng chẳng cử động thì đã chết chưa ?
Dưới cái nhìn sinh hóa thì sống là một quá trình tổng hợp và trao đổi các hợp chất hữu cơ. Các học giả trình bày khái niệm: sống là tồn tại có trao đổi chất với môi trường bên ngoài, có sinh đẻ, lớn lên và chết. Một số triết gia vừa thực tế vừa phũ phàng cho ta thấy sống là một quá trình tích lũy năng lực: sức khỏe, tiền bạc, địa vị…để tiến dần về nấm mộ ( cái chết ).
Quả thật nếu quan niệm sống như là một tình trạng đối lập với chết thì cuộc sống của con người trên bình diện thể lý tự nhiên đúng là nghịch lý và phi lý. Và rồi người ta dễ dàng đồng quan niệm với anh em Phật tử rằng cuộc sống ( đời ) là bể khổ với cái vòng lẫn quẩn thành - trụ - hoại – không; sinh - lão - bệnh - tử.
Dưới nhãn quan Kitô giáo theo ánh sáng Lời mạc khải thì sống là một trạng thái, đúng hơn là một động thái ở cùng, ở với và ở trong Đấng là nguồn sống, là Đấng Sáng tạo, là căn nguyên và cùng đích của mọi hiện hữu, đặc biệt của loài người. Con người khi tự ý cắt lìa, xa rời Thiên Chúa là đi vào cõi chết hay là đã chết, cho dù cơ thể còn sinh động, còn tổng hợp các chất hữu cơ…
Sách Sáng Thế ký diễn tả chân lý này khi cho thấy loài bụi đất chỉ thực sự là sống khi được Giavê thổi sinh khí vào ( x. St 2,7 ). Đến đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa lời Chúa trong sách Đệ Nhị Luật khi Giavê thử thách dân Người trong hoang mạc, khi để họ phải chịu đói cùng cực rồi ban Manna từ trời nuôi sống họ để họ ý thức, đúng hơn là đẻ họ tin nhận rằng: “người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” ( Đnl 8,3 ).
“ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống” ( Ga 6,51 ). Một lời tuyên bố công khai gây nhiều tranh cãi cho thính giả bấy giờ. Quả là chối tai ! Nhưng đó là sự thật, một sự thật nền tảng và thiết yếu cho con người đến nỗi Chúa Giêsu trình bày một cách thẳng thừng tới mức “sống sượng”, không chút rào đón xa gần. Người còn tái khẳng định chân lý ấy ở dạng thức đối nghịch: “ Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” ( Ga 6,53 ). Chúng ta nhận ra tính tất yếu và khẩn thiết của chân lý này qua thái độ của Chúa Kitô là sẵn sàng chấp nhận người ta, kể cả các môn đệ rời bỏ Người, ngoại trừ nhóm Mười hai ( x.Ga 6,60-71 ).
ĐỂ THỰC SỰ LÀ SỐNG CẦN PHẢI ĐÓN NHẬN NGUỒN SỐNG TỪ THIÊN CHÚA VÀ HÀNH XỬ THEO SỰ SỐNG THIÊN LINH.
Thiên Chúa có thể ban cho nhân loại sự sống của Người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Mình Máu Chúa Kitô chính là một trong những phương thế đặc biệt Chúa ban sự sống của Người cho nhân loại chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta dễ dàng tin nhận chân lý này hơn người Do Thái xưa, vì chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là chúng ta có biết sống, cư xử, hành động theo nguyên lý hoạt động của sự sống Thiên Chúa không.
Sự sống của Thiên Chúa chính là tình yêu giữa Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy được tỏ bày qua dòng lich sử, qua lịch sử ơn cứu độ và được tỏ bày cách trọn vẹn, hoàn hảo cho nhân loại nơi Đức Kitô, Ngôi Hai nhập thể làm người. Dựa vào lời mạc khải và qua lời dạy của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta cùng xem xét một vài sắc thái của tình yêu Thiên Chúa:
Một tình yêu thể hiện qua tình bạn ( Filia ): Ngay từ thưở đầu công trình sáng tạo, Giavê đã ngày ngày dạo chơi với con người và con người ở trước nhan Giavê cách thân tình như bạn hữu. Sau khi phạm tội thì con người mới lánh mặt Giavê (x. St 3,8 ). Khi đã biết đến giờ phải bỏ thế gian mà về cùng Cha, Chúa Giêsu đã tỏ bày cho các môn đệ: “ Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy đã gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” ( Ga 15,15 ).
Đã là bạn hữu chân thành thì luôn tín nhiệm nhau. Sự tín nhiệm được thể hiện không chỉ qua việc tỏ bày cho nhau cả những sự sâu kín của mình mà còn sẵn sàng trao phó trách nhiệm, cả trong những việc lớn lao, cao cả lẫn hệ trọng. “ Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy bá chủ cá biển, chim trời…” St 1,28 ). Ngay từ đầu Giavê đã trao phó nhiệm vụ làm chủ vũ trụ thiên nhiên cho con người. Đến thời viên mãn Chúa Kitô lại trao phó việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho các môn đệ ( x. Mt 28,16-20 ).
Một tình yêu thể hiện qua việc đón nhận và trao ban ( Eros và Agapê ): Khi tạo dựng con người Giavê Thiên Chúa đã sáng tạo loài tạo vật hữu hình cao cả nhất là loài người giống hình ảnh và họa ảnh của mình ( x. St 1,26-27 ). Có thể nói đây là một sự đón nhận toàn vẹn. Xem ai như chính mình là một sự đón nhận hết cả tấm lòng. Trên thập giá, đôi tay của Chúa Kitô giang ra, Trái Tim cực thánh của Người mở tung, là hành vi tình yêu đón nhận cách hoàn hảo và trọn vẹn. Người đón nhận cả những lời hoan hô Người khi Người vào thành thành Giêrusalem lẫn cả những lời nhục mạ khinh khi của nhiều người Do Thái bấy giờ. Người đón nhận lời tuyên tín của Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai: “ Bỏ Thầy chúng con biết theo ai…” ( Ga 6,68 ) và đón nhận cả sự phản bội, sự hèn nhát của các ngài khi bỏ Thầy chạy cứu lấy thân mình. Người đón nhận nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ vốn ghen tức tìm mọi cách loại trừ Người và đón nhận cả sự mê lầm của họ ( x. Lc 23,34 ).
Khi đón nhận con người như là hình ảnh của mình, Giavê Thiên Chúa đã trao ban chính công trình sáng tạo của mình, một công trình như mới khởi đầu. Và Chúa Kitô khi đón nhận các môn sinh làm bạn hữu thì Người đã trao ban công trình cứu độ mà Người vừa khai mở. Khi đón nhận bản tính nhân loại vào Ngôi vị Thiên Chúa thì Ngôi Hai đã thực sự trao ban chức vị làm con Thiên Chúa cùng với gia sản thừa kế cho loài người.
Chính khi đón nhận là lúc trao ban. Chính lúc trao ban là lúc đón nhận. Cả hai động thái trao ban và đón nhận luôn quyện lẫn vào nhau trong một tình yêu đích thực. Và tình yêu ấy bắt nguồn từ Đấng là Tình Yêu ( x.1Ga 4,8 ). Hôm nay chúng ta cùng tôn thờ mầu nhiệm Chúa Kitô trao ban cho chúng ta chính Máu Thịt của Người qua Bí Tích Thánh Thể. Hiện diện trong Thánh Thể là trọn vẹn Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa với thiên tình và nhân tính của Người. Trao ban cho ta Thân Mình Người là Chúa Kitô đón nhận chúng ta nên một với Người. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý này: “ Thưa anh em, khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Chúa Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ?” ( 1 Cor 10,16 ).
Được dự phần vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là để được sống. Và sự sống đích thực này phải được thể hiện bằng tình yêu. Đó là tình yêu sẵn sàng đón nhận tha nhân, cả ưu điểm lẫn khuyết điểm, cả mặt nổi trội lẫn khía cạnh hạn chế… Đó là tình yêu sẵn sàng trao ban những gì tốt nhất, đẹp nhất của ta cho tha nhân và trao ban cả con người của ta, sự sống của ta. Và đó phải là tình yêu luôn tìm cách nâng nhau lên hàng bạn hữu. Nếu như được vậy, thì một điều chắc chắn là chúng ta đang sống thực sự và thực sự đang sống cách dồi dào.
Từ ngày xưng tội rước lễ lần đầu chúng ta hầu như hằng ngày, hay hằng tuần đón nhận Tấm:THÁNHTHỂ-145
Từ ngày xưng tội rước lễ lần đầu chúng ta hầu như hằng ngày, hay hằng tuần đón nhận Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu.
Tấm bánh đó không làm cho no đủ đầy bao tử, nhưng cho tâm hồn đức tin được no thỏa.
Tấm Bánh đó cũng không làm tăng sức lực cho bắp thịt gân cốt, nhưng mang đến hiệu qủa sức mạnh tinh thần thêm an tâm vững chí.
Tấm Bánh đó cũng không hóa giải mọi lo âu trong cuộc sống cơm áo hằng ngày trong đời sống, nhưng mang đến niềm an ủi cho tâm hồn trong những khi gặp lo âu sầu khổ trong đời làm người.
Vậy có thể dùng hình ảnh gì diễn tả mầu nhiệm sự ẩn chứa trong Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu?
Có thể dùng nhiều hình ảnh, những ví dụ khác nhau trong thiên nhiên làm việc này. Nhưng hình ảnh bông hoa hồng có lẽ gần gũi, cùng cụ thể sống động hơn cho việc diễn tả mầu nhiệm này. Vì đâu đâu cũng có hoa hồng: một biểu hiểu nói về tình yêu.
Chúa Giêsu, khi cầm tấm bánh biến thành thân xác mình như lương thực của ăn để lại cho những người tin theo Chúa, muốn trối lại tình yêu của Người cụ thể trong tấm bánh Thánh Thể, trước khi hy sinh chịu khổ hình chết trên thánh gía. Ngài đã hy sinh vì tình yêu cho con người.
Cây hoa hồng nào cũng có gai nhọn, không ý tứ đụng chạm vào nó có thể bị thương chảy máu nơi tay hay chân. Với tình yêu cũng thế, đẹp, nhưng cũng dễ bị gây thương tổn, bị làm cho thất vọng. Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của Người bằng gía máu hy sinh chịu chết.
Cánh hoa hồng nào cũng có chiếc năm lá bao bọc xung quanh. Mầu xanh lá cây là mầu biểu hiệu của niềm hy vọng. Chúng ta, vì thế luôn có niềm hy vọng: tình yêu mạnh hơn sự đau khổ, hơn sự cay đắng thất vọng. Một nụ cười thân yêu, một lời nói thân thiện tình người, lời khuyến khích cổ vũ tinh thần mang đến cho nhau sự phấn khởi mới vươn lên.
Từ cánh hoa hồng phát tỏa hương thơm dịu mát tỏa lan trong một không gian. Tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu chiếu tỏa hương niềm an ủi cho không gian tâm hồn đức tin người đón nhận.
Một vị Thừa Sai bên Ấn độ hỏi Thánh Gandhi, làm thế nào để truyền giáo có hiệu qủa tốt. Thánh Gandhi trả lời: „ Các bạn hãy nghĩ đến mầu nhiệm bí ẩn của cánh hoa hồng. Tất cả mọi người yêu thích hoa hồng, bởi vì hoa hồng tỏa hương thơm dịu mát. Cũng thế, các Bạn hãy nỗ lực chiếu tỏa hương thơm của mình ra đi!“
Bên dưới mỗi cánh hoa hồng có năm cánh lá bao bọc kết lại như hình một chiếc chén hứng đựng những cánh hoa. Năm cánh lá này nâng đỡ hoa hồng từ khi bông hoa nhú nở cho tới khi hoa tàn úa khô héo, dù trời nắng hay mưa hay gía lạnh tuyết rơi. Hình ảnh này nói lên sự trung thành. Nơi con người chúng ta, một tình yêu chân thành luôn gắn bó với nhau, cho dù có phải trải qua sóng gío khó khăn, khủng hoảng.
Thiên Chúa hằng trung thành với con người cùng yêu mến họ, cho dù con người có khi quên Ngài, hay quay lưng lại với Ngài.
Khi cánh hoa tàn héo, không còn tươi nở, cũng không phải lúc là hết chấm dứt đâu. Trái lại, hạt giống hoa rơi xuống khỏi cánh hoa. Từ hạt giống đó nẩy sinh sức sống mới.
Sự chết, ai cũng hãi hùng lo sợ, nhưng không phải là hết, là tiếng nói sau cùng. Trong Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu chúng ta tiếp nhận có sức sống tình yêu của Ngài. Sức sống ơn tha thứ củng cố tâm hồn đức tin. Sức sống đó tựa như hạt mầm cho sự sống mới nảy sinh.
Trong “Chuyện cậu hoàng tử nhỏ “ kể lại: khi Cậu Hòang tử trở lại gặp chú chó Sói, cậu ta nói với chó Sói: Đơn giản thôi. Đây là điều bí ẩn của tôi. Người ta chỉ có thể nhìn bằng trái tim tâm hồn tốt rõ ràng hơn, những gì căn bản thâm sâu ẩn khuất với đôi con mắt thường!“
Cũng vậy với mầu nhiệm Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu: Trí khôn hiểu biết con người chúng ta không bao giờ hiểu thấu đáo tình yêu Chúa đã trở nên thật bé nhỏ thu gọn trong một tấm bánh to bằng đồng tiếc cắc hay to như đầu ngòn tay cái của ta. Không kính hiển vi nào có thể phóng to nhìn phân tích được tình yêu Chúa Giêsu ẩn chứa trong tấm bánh đó.
Điều căn bản thâm sâu ẩn khuất với con mắt thường của con người, chúng ta nhìn quan sát bằng con mắt trái tim tâm hồn niềm tin Tấm bánh Thánh Thể. Và từ đó có ý niệm về tình yêu Thiên Chúa.
„Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì.“ ( Thánh Tomasô, bài Tantum ergo.).
Một vị khách lạ đến thăm một gia đình nhà quê nghèo khổ. Ngôi nhà lụp xụp và chỉ có một em:THÁNHTHỂ-146
Một vị khách lạ đến thăm một gia đình nhà quê nghèo khổ. Ngôi nhà lụp xụp và chỉ có một em bé ở nhà, cha mẹ đi làm ruộng hết. Vị khách bước vào nhà, hỏi em bé: “Con có muốn đến ở với ta không? Nhà ta rộng rãi lắm, lâu đài, dinh thự, sân to, vườn rộng, em tha hồ chạy nhảy, chơi đùa?”. “Thưa ông, con không muốn. Con ở nhà với cha mẹ thích hơn. Lâu đài dinh thự đâu có to”. “Thế con bảo cái gì to?”. “Thưa, vua ạ”. “Vậy ta là vua đây, ta bí mật đi thăm dân chúng”. Em bé bất ngờ reo lên: “Thì ra nhà con to nhất nước rồi. Vui quá”. Đó là ý nghĩ của ngày lễ hôm nay, Hội thánh kính Mình Máu Chúa Kitô mà tín hữu rước lấy hằng ngày. Vua cả trên hết các vua. Chúa trọng trên hết các Chúa chắc chắn sẽ biến đổi tín hữu to lớn nhất vũ trụ. To hơn cái lều của cha mẹ em bé, có vua ngồi trong.
Ngày 28 tháng 09 năm 1884, bà thánh Marie Eugenie, sáng lập dòng Đức Mẹ lên trời huấn giáo cho các chị em về sự hiện diện của Thiên Chúa. Theo bà có ba cách Chúa hiện diện: thứ nhất bằng quyền năng. Quyền năng Ngài thẩm thấu hết mọi tạo vật giống như nước đại dương thẩm thấu miếng bọt biển tới từng thớ sợi. Ngay cả quỷ sứ và tội nhân cũng không tránh thoát. Thứ hai, bằng ơn thánh và tình yêu qua bí tích rửa tội và các bí tích khác. Thứ ba, bằng Thánh Thể. Thiên Chúa hiện diện trong hình bánh hình rượu chân thật và sống động y như thuở xưa trước dân Do Thái khi Ngài sinh ra, dâng mình, lớn lên, rao giảng, khổ nạn và chết trên thập tự. Bà cho đây là sự hiện diện ngọt ngào và an ủi nhất. Chúng ta không có lý do để ghen tỵ với người Do Thái xưa ở đất Palestine.
Một chị em hỏi: nhưng chúng con có thấy Chúa nói gì đâu? Ngài hoàn toàn im lặng khi chúng con quỳ cầu nguyện trước Thánh Thể. Bà thánh trả lời: thì các mục đồng, các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Nhi ở Bêlem có thấy Chúa mở miệng đâu? Đơn giản vì Ngài chưa biết nói. Bây giờ trong Thánh Thể cũng vậy, Ngài giấu kín nhân tính và thần tính. Nhưng Ngài biết hết, trông thấy hết, cảm nghiệm mọi sự. Chị em không tin ư? Thế thì chị em tin thế nào được các màu nhiệm khác?
Thánh Thomas Aquinas cũng có lòng tin sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể, cho nên đã sáng tác ra những lời kinh rất sốt sáng và giầu tưởng tượng như chúng ta vừa trích một hai câu ở trên. Thánh nhân thường chiêm ngắm Thánh Thể với những biết ơn cảm tạ: “Ôi yến tiệc mình và máu thánh Chúa Kitô … Ôi Giêsu, Ngài thương yêu con dường ấy …”. Bí tích Thánh Thể là trường siêu đẳng đào tạo các thánh, các anh hùng, các vĩ nhân, các nhà rao giảng thời danh.
Để ngắm bắt ý nghĩa của ngày lễ, chúng ta hãy rảo qua các bài đọc. Bài đọc một trích sách Đệ Nhị Luật: “Khi ấy, ông Môisê nói với dân Israel rằng: anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt 40 năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực. Như vậy Ngài thử thách lòng dạ anh em … Rồi đã cho anh em ăn manna … Ngõ hầu cho anh em biết rằng người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”. Đáng ngạc nhiên là tác giả Đệ Nhị Luật gợi nhớ các kinh nghiệm đáng lý phải ghê sợ và cố quên đi. Vì 40 năm trong sa mạc là 40 năm đói khát, kiệt sức, thất vọng, bại trận, rắn rết, tiêu hao chết chóc đến độ nhiều lần dân chúng nổi loạn kêu ca Thượng Đế và chống lại ông Môisê. Dân Do Thái ngỡ ngàng tại sao Chúa hứa giải phóng, tự do lại phải đi con đường nhọc nhằn này? Nhiều người muốn trở lại Ai Cập, an phận làm nô lệ còn hơn.
Nhưng tác giả Đệ Nhị Luật chỉ coi đó là “thử thách”. Xem họ có vâng lời Thiên Chúa không? Đây cũng là bài học lớn cho tín hữu ngày nay. Con đường đi tới tự do của ơn thánh không phải là dễ. Muốn từ bỏ Satan, thế gian, tội lỗi nhất định phải trả giá. Giải phóng mình khỏi ích kỷ, tham lam, dâm dục, phù phiếm không phải là một lúc một ngày và dễ dàng như ăn một chiếc bánh ngọt. Nó đòi hỏi cố gắng và kiên trì, hy sinh và khước từ càm dỗ. Hô hào khơi khơi thì dễ lắm, nhưng thực hành quả là cam go. Nhiều linh hồn đã thất bại.
Một hình thức thử thách sa mạc khác có lẽ phổ thông hơn mà đa phần chúng ta phải trải qua. Đó là những khó khăn, thất bại hàng ngày: con cái hư hỏng, gia đình bất hoà, đau yếu liên miên, nợ nần, thất nghiệp, rượu chè, nghiện ngập. Giáo hội gặp nhiều khó khăn khi phải lội ngược dòng với cái ác của xã hội tân thời: ngừa thai, phá thai, tế bào gốc, chết êm dịu. Toàn là rắn rết, bọ cạp, đất cháy, cỏ khô.
Nhưng xin nhớ Đệ Nhị Luật không chỉ liệt kê những hãi hùng, mà còn nhấn mạnh sự hiện diện của Thiên Chúa, qua manna, nước mát từ tảng đá chảy ra. Đức Chúa luôn ở bên dân Do Thái, giúp đỡ tuyển dân vượt qua khó khăn để trở về đất hứa, tới bến tự do chảy sữa và mật ong. Họ không được phép thất vọng và cũng không được phép tham lam.
Ngày nào thu lượm manna đủ cho ngày ấy. Ngày nào họ cũng phải cậy dựa vào Thiên Chúa để có lương thực. Đây là bài học quý giá cho tín hữu, nhất là các tu sĩ, linh mục, trong tình hình hiện nay. Hình như người ta muốn tước quyền Thiên Chúa, chẳng cậy dựa vào ai. Kinh tế thị trường toàn cầu, sản xuất, tiêu dùng quá mức làm cạn kiệt tài nguyên địa cầu. Nhưng chúng ta không được phép thất vọng dù tội lỗi đến đâu. Thiên Chúa vẫn luôn sẵn sàng cứu giúp. Người có lý do để thất vọng nhiều nhất, là Đức Giêsu Kitô, trước thế lực to lớn của thờ, một mình cô thân cô thế với nhóm hèn nhát, vô học, đương đầu với cái chết cầm chắc do xã hội và tôn giáo lúc ấy áp đặt, nhưng chẳng ai đầy lòng trông phó thác bằng Chúa Giêsu. Noi gương ấy, các thánh tử đạo sau này can trường không kém.
Vậy thì không ai được phép thất vọng. Chúng ta còn phải sống bằng lời Thiên Chúa nữa. Lời Thiên Chúa không có từ “tuyệt vọng” vì Ngài cứu giúp và ước ao mọi người được sống hạnh phúc. Câu mở đầu bài Tin Mừng hôm nay viết: “Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Câu Phúc Aâm này ở trung tâm bài diễn từ về Bánh Hằng Sống. Trước đó Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người ăn (6, 1-14). Ngài nhân nhiều bánh để chứng tỏ sự thật hiển nhiên. Vào thời Chúa Giêsu, văn hoá coi “thịt máu” là toàn bộ ngôi vị một người. Vậy thì ăn bánh bởi trời chính là “thịt tôi đây cho thế gian được sống” nghĩa là lãnh nhận lấy toàn bộ ngôi vị của Ngài. Những “tri thức ” khiếm khuyết đức tin nói câu văn chỉ có nghĩa bóng mà thôi. Truyền thống phổ thông cũng tin như vậy. Hậu quả là không được tiến bộ về đàng thiêng liêng, họ rước lễ, vào trước Mình Thánh, coi như vào nơi không người, vô tình và nguội lạnh.
Không phải như vậy. Chúa nói tiếp: “Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Manna biểu tượng bánh Chúa Giêsu ban. Hình bóng manna mà còn thực đến độ nuôi sống con người, thì bánh Chúa Giêsu ban là thịt máu Ngài lại chỉ là “hình bóng” thì quả thật là vô lý. Làm thế nào “hình bóng” có khả năng ban cho người ta tham dự vào sự sống muôn đời. Liệu “hình bóng” có thể dẫn đưa người ta vào sự sống Thiên Chúa và Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn?
Nhưng nhiều người không hiểu, bỏ đi nói: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe nổi?”. Nhiều môn đệ cũng bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo lưu lời nói của Ngài, và thay vì nói với đám đông: quý vị hiểu sai ý nghĩa của tôi, Ngài quay ra hỏi các tông đồ: “Chúng con có muốn bỏ đi không?”. Chắc chắn các tông đồ cũng ngỡ ngàng, nhưng Phêrô đứng ra nói thay cho các bạn: “Bỏ thầy, chúng con biết theo ai, thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Chúng ta biết rằng sau này trong bữa tiệc ly, các môn đệ không còn bỡ ngỡ, mà tin thật vào lời Chúa khi Ngài phán: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, mà uống, này là thịt máu thầy. Từ đấy Hội Thánh nối tiếp đức tin của các tông đồ. Thánh Phaolô, trong bài đọc hai viết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?”. Dĩ nhiên là thánh nhân tin thật Chúa Giêsu ngự trong bánh rượu sau khi truyền phép mà nơi khác chính thánh nhân dạy lời lẽ: Này là Mình Thầy, ngày là Máu Thầy. Cho tới hôm nay, Hội Thánh vẫn sử dụng công thức đó. Nhiều trăm năm sau, thanh Gioan Kim Khẩu viết: “Khi bạn ngắm nhìn hào quang đặt trên bàn thờ, bạn có thể nói: Nhờ Thân Thể này, tôi không còn là bụi tro nữa, bởi tôi không còn là tù nhân nữa, nhưng là người tự do… Thân Thể này được ban cho chúng ta để lưu giữ và ăn uống, làm dấu chứng tình yêu tha thiết của Ngài”. Chứng cứ rõ ràng nhưng vẫn không tránh khỏi vật lộn với lòng trí không tin. Rất sớm, các Giáo Hội đông phương đã dùng từ “thay đổi hữu thể” (metaousias) để diễn tả mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa. Thế kỷ 13, công đồng Tridentinô ấn định từ “biến đổi bản thể” (transubtanto) tức thay đổi từ bản thể bánh rượu sang bản thể Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI xác định lại ý nghĩa khi nói rằng: “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong hình bánh rượu ở ý nghĩa trọn vẹn nhất của từ ngữ đó”.
Vậy đức tin vào bí tích Thánh Thể của Giáo hội y nguyên từ thời tông đồ đến nay. Và chúng ta không nên hiểu theo nghĩa biểu tượng mà thôi. Đó là một sự hiện diện đích thực cả về nghĩa tinh thần lẫn vật chất: “Ai ăn thịt và uống máu tôi sẽ không còn đói khát nữa, nhưng sẽ được sống muôn đời”. Thế giới có nhiều hình thức đói khát lắm. Đói tình yêu, đói hoà bình, đói công lý, đói đoàn kết, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời. Và chẳng thứ bánh nước nào thoả mãn trọn vẹn con người cả. Duy chỉ có bánh từ trời mới đủ khả năng ấy. Bánh có thể nuôi sống tâm trí, trái tim, ước muốn thiên hạ đến độ sung mãn. Trong một số Giáo hội đông phương tiên khởi có truyền thống mời lên bàn tiệc thánh. Sau khi nghe lời Chúa, tín hữu được mời gọi lên bàn thờ để “lãnh nhận Đức Giêsu Kitô vào đời sống mình”. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng được kêu mời như vậy. Đức Kitô ngự trong mỗi linh hồn không những như vị khách sang trọng, giầu có, nhưng còn như nhà đào tạo chúng ta nên to lớn nhất vũ trụ, tức nên giống Ngài, như em bé bất ngờ kêu lên: Nhà con to nhất nước.
Chúa Nhật tới, chúng ta mừng lễ trái tim Chúa Giêsu. Hai lễ này nối kết với nhau một cách tự nhiên để ban cho Hội Thánh niềm vui và hạnh phúc sau mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu trao ban thân mình trọn vẹn trong bí tích Thánh Thể, thì lẽ đương nhiên Ngài cũng ban trọn vẹn trái tim Ngài nữa. Vậy lễ mừng hôm nay là bảo chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ngài chẳng giữ chi cho mình, kể cả cuộc sống vĩnh cửu trong Nước của Cha Ngài. Ôi màu nhiệm lạ lùng của Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Amen.
Tổng hợp theo: Jude Sicilianô Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP
Tâm tình đầu tiên bừng lên trong tâm hồn tôi, khi lắng nghe bài Tin Mừng của thánh sử Gioan:THÁNHTHỂ-147
Tâm tình đầu tiên bừng lên trong tâm hồn tôi, khi lắng nghe bài Tin Mừng của thánh sử Gioan về Phép Thánh Thể, là cảm tạ ngợi khen, như Mẹ Maria đã hát trong kinh Magnificat:
“Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm cho tôi, biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1, 49)
Để thể hiện Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa, mà sự biểu hiện của Tình Yêu Cao Vời này là Thánh Thể, một Mầu Nhiệm Tình Yêu được cắm rễ sâu trong đời sống Giáo Hội, Chúa Giêsu đã mặc khải trong câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay:
“Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm cho tôi những gì, tôi xin được hạnh phúc chia sẻ để cùng cảm tạ về quyền năng Mầu Nhiệm là “nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Giáo Hội”.
Từ khi được quay trở về với Chúa, tôi rất chăm chỉ đọc, suy niệm và cầu nguyện Lời Chúa. Và rồi khoảng 6 tháng sau, tôi cảm nghiệm được Đức Mẹ yêu mến dậy cho tôi biết lắng nghe cùng cảm nhận được đức tin chân chính, nhân ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm 2004. Chính kể từ ngày lễ trọng đại này, tôi đã bắt đầu đi dự thánh lễ mỗi ngày với lòng yêu mến sốt sắng hơn. Điều mà trước kia, tôi đã bỏ bê, sống xa lìa nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu.
Trong những tháng ngày được sống với Thánh Thể, tôi đã cảm nghiệm được hiệu quả của Người khi nhận ra mình đã được Chúa tha thứ tất cả những tội lỗi, những xúc phạm, những sai lầm trong quá khứ. Nhờ ơn tha thứ cùng sức mạnh được rước lễ mỗi ngày, tôi đã thực sự xa lánh được những lỗi phạm vẫn hằng ám ảnh tôi, tức tôi đã được hòa giải, đã được sống trong tình trạng làm con cái hiếu thảo ngay từ cuộc đời hiện tại. Đây chính là quyền năng biến đổi khi Chúa Giêsu đã khẳng định:
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.” (Ga 6, 54-55)
Với lời yêu thương đến cùng này, tôi cảm nhận được tâm hồn mình trẻ lại và rồi trào dâng lên niềm hy vọng sẽ được sống lại vào ngày sau hết của cuộc đời mình. Tâm tình này đã được thánh Gioan truyền dậy rất rõ trong thư của ngài là: “Phàm ai đặt hy vọng vào Đức Kitô, thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch.” (1Ga 3, 3)
Quyền năng kế tiếp mà tôi vinh dự được lãnh nhận qua Phép Thánh Thể là Ngừơi đã biến đổi thân xác hay ốm đau, hay rên xiết do những di chứng bệnh liệt tủy sống mãn tính của tôi. Một khi cơn đau nào đó chợt đến, như viêm phế quản, phù chân hoặc đau răng, hoặc cảm cúm, tôi chỉ cần rước Mình Thánh Chúa là Người lại chữa lành xoa dịu vết đau của tôi, bởi Người đã truyền dậy cho tôi biết quyền năng Thánh Thể của Người là:
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6, 56)
Chính vì yêu thương mà Chúa đã ban cho tôi được kết hiệp với Người. Sự bình an của Người đã làm thân xác và tâm hồn tôi lành mạnh và cũng từ đó mà Người cất khỏi những phiền muộn, những lo âu sợ hãi mà trứơc đó, tôi chưa hề cảm nếm sự hiệp thông tuyệt diệu, như Người đã ủi an mời gọi:
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11, 28)
Chưa hết, Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm thay đổi tâm tính ích kỷ, vơ vén, hèn kém vì tôi đã luôn từng sợ sệt và chỉ lo cho bản thân tật nguyền của mình. Người đã dẫn tôi đi vào cảm nhận được Thiên Chúa là Tình Yêu. Nên tâm tình của tôi đã dần thay đổi. Tôi biết cảm thông những nỗi đau của người khác, biết “vui với người vui, khóc với người khóc”, biết sẻ chia nâng đỡ người hoạn nạn khổ đau.
Thực sự đây là hiệu quả thứ ba mà tôi đã tin vào lời của Chúa Giêsu:
“Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.” (Ga 6, 57)
Mà Thiên Chúa là Tình Yêu, như thánh Gioan đã xác tín và khuyên nhủ:
“Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1Ga 4, 8)
Với những hồng ân mà Chúa Giêsu Thánh Thể đã ban cho tôi, tôi luôn nhắc nhở mình sống tâm tình như thánh nữ Têrêsa HĐGS đã cho tôi kinh nghiệm là:
“Khi bạn không được rước Mình Thánh Chúa và không tham dự thánh lễ, bạn có thể rước lễ thiêng liêng. Đây là một thực hành đem lại nhiều ơn ích, qua đó Tình Yêu Thiên Chúa sẽ ẩn dấu mạnh mẽ trên bạn.”
Tôi rất đỗi vui mừng khi lắng nghe được tiếng Chúa qua những lời mặc khải về mầu nhiệm Thánh Thể. Và rồi từ kinh nghiệm này, tôi thích thú và dễ dàng đón nhận lời giáo huấn của ĐTC Bênêđictô XVI trong buổi gặp gỡ giới trẻ Piazza Matteotti vào ngày 18/05/2008 vừa qua. Ngài nói với những tâm hồn trẻ, nhân chuyến thăm viếng mục vụ tại Savona và Genoa trong vùng Liguria nước Ý như sau:
“Việc đi sâu vào mối tương quan với Chúa Kitô đòi hỏi một sự hiểu biết Kinh Thánh, hơn hết là Tin Mừng, nơi Chúa nói với chúng ta.
Những lời này không luôn luôn là dễ, nhưng đi sâu vào trong những lời này, đi sâu vào trong sự đối thoại, gõ cửa của lời nói với Chúa: “Xin mở”, thật sự chúng ta gặp những lời sự sống.”
Ngài cũng nói thêm:
“Sự đàm thoại với Chúa trong Kinh Thánh không những có tính cách cá nhân, mà còn được thực hiện trong cộng đồng Giáo Hội, nơi Chúa Kitô luôn luôn hiện diện, trong sự hiệp thông phụng vụ, trong chính sự gặp gỡ cá nhân với Thánh Thể và trong bí tích hòa giải.
Chỉ trong cách này, chúng ta có thể đích thực biết Chúa Giêsu và chúng ta cũng có thể truyền thông tình bạn này cho những người khác. Chúng ta càng nên những người bạn lớn của Chúa Giêsu, chúng ta càng mở rộng lòng chúng ta cho những người khác, ngõ hầu họ cũng có thể nên trẻ thực sự, nói cách khác, như vậy họ cũng có thể có trước mắt một tương lai lớn.”
Qua lời giáo huấn này, tôi liên tưởng tới hiệu quả mà thánh Lêô Cả Giáo Hoàng đã chiêm niệm và đã sống:
“Thông dự vào Mình Máu Đức Kitô có một hiệu quả đặc biệt này, là biến hóa chúng ta thành Đấng chúng ta rước lấy. Một khi cùng chết, cùng được mai táng và cùng sống lại với Người, chúng ta hãy mang lấy Người luôn trong trái tim và trong thể xác chúng ta.”
Với niềm hân hoan vì xác tín rằng thánh lễ là ơn huệ lớn lao nhất mà Thiên Chúa đã ban xuống cho loài người, tôi xin dâng lên lời cảm tạ tri ân:
“Ôi lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Hóa ra khi lên rước lễ, chúng con không chỉ nên xin cho được lãnh ơn nọ ơn kia lặt vặt vật chất cho cuộc sống phù du tạm gửi này, mà là xin cho chúng con lãnh nhận được chính sự sống của Thiên Chúa Cha Hằng Sống, để sống hạnh phúc muôn đời trong tình yêu của Ngài.
Tạ ơn Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm cho con biết bao điều kỳ diệu. Danh Người thật chí thánh chí tôn! Amen.”
Hồi còn nhỏ, nhà nghèo nên thỉnh thoảng được mẹ đi chợ về mua cho mấy chiếc bánh đa. Đối với:THÁNHTHỂ-148
Hồi còn nhỏ, nhà nghèo nên thỉnh thoảng được mẹ đi chợ về mua cho mấy chiếc bánh đa. Đối với tôi, bánh đa là quí lắm rồi. Bánh đa ăn với cùi dừa. Hoặc bánh đa ăn chung với thịt ba rọi luộc thì tuyệt! Nhưng với những đứa trẻ như tôi, chúng tôi thường tổ chức những buổi làm lễ giả. Bắt chước các linh mục dâng miếng bánh lên cao, rồi cũng bắt chước trao cho nhau những miếng bánh mà chúng tôi đã bẻ nhỏ và cố gắng làm cho tròn để giống bánh thánh mỗi khi lên rước lễ. Vì muốn bắt chước đúng như trong thánh đường, nên chúng tôi cũng cung kính nhận lấy miếng bánh như thế và cố gắng không nhai, mà ráng nuốt, nên đã có lần tôi bị chết nghẹn trong cổ họng. Tôi đã cố gắng nhắm mắt nuốt trôi miếng bánh đa ấy. Kết quả là tôi không nuốt được cơm mấy hôm, ngay cả uống nước cũng đau đớn.
Kỷ niệm trên đây là một trong những kỷ niệm rất êm đềm của thời ấu thơ mỗi khi tôi nghĩ đến Thánh Thể – Bánh của các thiên thần. Bánh ban sự sống đời đời. Những buổi dâng lễ thời thơ ấu ấy, và những miếng bánh đa bẻ nhỏ ấy sau này đã dẫn tôi đến một cái nhìn tuy rất đơn sơ, nhưng gần gũi với Thánh Thể, miếng bánh trắng nhỏ đã được thánh hiến và trở thành Mình Máu Thánh Chúa. Thứ bánh mà Chúa Giêsu gọi là bánh các thiên thần được ban xuống từ trời.
“Bánh Thiên Chúa ban từ trời xuống và ban cho thế gian sự sống” (Gioan 6:33).
“Ta là bánh hằng sống. Đây là bánh từ trời xuống cho con người ăn và không bao giờ bị chết” (Gioan 6:48-49).
“Ta là bánh hằng sống, không ai đến với Ta mà sẽ bị đói bao giờ. Không ai tin vào Ta mà sẽ bị khát bai giờ” (Gioan 6:35).
“Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại trong ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống” (Gioan 6:52- 55).
Qua những lời Chúa Giêsu vừa được trích dẫn trên, Ngài đã hứa chắc chắn sẽ ban cho nhân loại một thứ bánh ăn trên hành trình Đức Tin mà ngài gọi đó là “bánh hằng sống”. Khác với tất cả các thứ bánh khác mà con người làm ra, ăn vào rồi cũng phải chết. Chúa Giêsu ban cho những ai tin nhận Ngài thứ bánh trường sinh, ăn vào sẽ không phải chết . Thứ bánh được làm bằng những chất liệu hết sức đặc biệt là “thịt” và “máu” của chính Ngài. Cũng chính ở điểm này đã khiến cho nhiều người vấp phạm khi Ngài nói với họ về thứ bánh ấy. Nhưng đối với những ai tin tưởng, thì như Thánh Tôma Tiến Sỹ đã bảo rằng: ‘Hãy lấy Đức Tin bù lại” nếu như giác quan không cảm thấy gì. Và đây cũng là lời giải thích mà Tổng Thần Gabriel đã nói với Đức Trinh Nữ Maria trong ngày truyền tin rằng “Có gì mà Thiên Chúa không làm được” (Luca 1:37).
Thật vậy nếu nhìn vào buổi chiều ngày Lễ Vượt Qua, sau khi đã lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã từ từ tỏ hiện cho các Tông Đồ và chúng ta sau này thế nào là “bánh hằng sống”, và cách thức cũng như chất liệu Ngài dùng để làm thứ bánh ấy.
Trong vườn Cây Dầu, toàn thể thân xác và linh hồn của Chúa Giêsu bị nghiền nát như những hạt miến và trái nho dưới sức ép mãnh liệt của tình yêu và của Thánh Ý Chúa Cha. Tiếp đến, thân xác ấy, linh hồn ấy, con người ấy lại bị nhào nặn bằng những trận đòn tơi tả của lý hình trong dinh thượng tế, và dưới sức nặng nề của cây thập giá trên đường lên núi Sọ. Sau khi thịt máu đã được nghiền nát, quyện tan với nhau để trở thành tấm bánh, nó đã được nướng trên ngọn đồi Gongotha bằng ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa: “Không ai có tình yêu cao cả hơn kẻ thí mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Gioan 15:13).
Được gọi là bánh từ trời ban xuống, bánh trường sinh, vì để làm nên bánh này, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều hiện diện và cùng làm. Ngôi Cha trong tình yêu muôn thuở là muốn con người mà Ngài tạo dựng được cứu độ và được sống trường sinh. Ngôi Con, Đấng tự hiến thân mình làm bánh. Và Ngôi Thánh Thần, Đấng hong khô, sưởi chín bánh này bằng Tình Yêu đời đời mà Ngôi Cha đã dành cho Ngôi Con. Chính do những chất liệu này, mà sự sống đời đời được tuôn đổ vào tâm hồn những ai ăn bánh này. Và không lạ lùng gì, khi đã ăn bánh ấy, con người sẽ được sự sống đời đời: “Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại trong ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống” (Gioan 6: 55).
Nhưng điều khó hiểu không phải đến từ Thiên Chúa, mà là từ phía con người. Trở lại hình ảnh đầu tiên khi Chúa Giêsu giới thiệu bánh này với những kẻ đến nghe Ngài, một số đông trong đó có cả những môn đệ đã bỏ đi vì cho rằng đó là những lời chói tai, và vớ vẩn: “Lời nói chói tai quá ai nghe cho nổi. Làm sao ông ấy có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được” (Gioan 6:52,59). Tư tưởng này thời đại nào cũng có những người suy nghĩ và hành động như thế. Nhưng đối với những Kitô hữu tin nhận Chúa Giêsu, thì cũng như Phêrô, chúng ta hãy thưa lên với Chúa: “Lậy Chúa, chúng con còn biết theo ai? Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Gioan 6:68).
Thật vậy, mỗi lần tôi đến với Chúa Giêsu và rước Ngài vào linh hồn mình, là mỗi lần tôi được nuôi sống, được tăng bổ và được lớn lên trong tình yêu và ân sủng của Ngài. Tôi tìm được nơi Ngài lời ban sự sống và cũng chính là sự sống. Thế thì tại sao tôi lại không đến với Ngài. Như cơm nước là nhu cầu cần thiết cho sự sống thể xác, cho sự lớn mạnh và phát triển, cho những năng lực của đời sống, Thánh Thể cũng nuôi sống và làm tôi lớn lên trong tình yêu của Thiên Chúa.
Trong những lúc một mình trước Nhà Tạm, và đặc biệt sau khi rước Thánh Thể, tôi luôn luôn hỏi Chúa: “Lậy Chúa, nếu không có tình yêu Chúa bao bọc. Nếu không có sức mạnh Chúa nâng đỡ. Và nếu không có Thần Khí Chúa hướng dẫn thì con đây và nhân loại sẽ đi về đâu?”. Và những lúc như vậy, tôi nghe như có tiếng Chúa phán bảo: “Chính vì thế mà con cần phải có Cha. Và cũng chính vì thế mà Cha đã trở nên cơm bánh nuôi sống, và thần lực nâng đỡ con. Vì Cha là bánh hằng sống. Bánh bánh nuôi sống con trên lữ hành trần gian, và trong hành trình Đức Tin. Hãy siêng năng đến ăn bánh này.”
Công Đồng Vaticanô II gọi Bí Tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kito:THÁNHTHỂ-149
Công Đồng Vaticanô II gọi Bí Tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu” (Lumen Gentium #11). Qua Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ban Mình Thánh và Máu Thánh Người làm thần lương nuôi dưỡng linh hồn chúng ta và ân sủng để chúng ta chu toàn nhiệm vụ hằng ngày. Nhờ Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta được kết hợp mật thiết với Đức Kitô, và càng ngày càng trở nên giống Người. Tất cả các Bí Tích Khác đều quy hướng về Bí Tích Thánh Thể. Sống Bí Tích Thánh Thể thật là cần thiết cho việc lớn lên và phát triển đời sống thiêng liêng. Mọi bàn luận về Lòng Thương Xót cần bao gồm Bí Tích Thánh Thể vì cả hai là một. Lòng Thương Xót là Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể. Hay nói đúng hơn, Thánh Thể chính là Chúa Giêsu đầy Thương Xót.
Nhà Tạm là Toà Thương Xót
Trong Nhật Ký của Thánh Faustina, Chúa nói với một linh hồn tội lỗi,
"Nầy, Ta đã thiết lập một Tòa Thương Xót nơi trần thế vì con - đó là Nhà Tạm - và từ Tòa này Ta muốn ngự vào lòng con" (Nhật Ký, 1485).
Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu (Sacramentum Caritatis). Chúa yêu chúng ta nên Người muốn cho chúng ta được sống, và được sống dồi dào (x. Ga 10:10). Người muốn ở với chúng ta luôn mãi (x. Mt 18:20). Người yêu chúng ta đến cùng (x. Ga 13:1), đến nỗi hiến mạng sống vì chúng ta (x. Ga 15:13). Không những thế, Người muốn chúng ta nên một với Người bằng cách ban chính Thịt và Máu Người làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Trong chương 6, Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa nói rằng Người là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Người nói thêm:
"Vì Thịt Thầy chính là của ăn, và Máu Thầy chính là của uống… Thật, quả thật, Thầy nói với các con, nếu các con không ăn thịt Con Người và uống máu Người, trong mình các con sẽ không có sự sống; ai ăn thịt Thầy và uống máu Thầy có sự sống đời đời, Thầy sẽ cho nười ấy sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6:53-54).
Vậy Bí Tích Thánh Thể là Tòa Thương Xót. Chúa thương xót chúng ta là những con người yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội, nên đã ban chính Thịt và Máu Người để thêm sức mạnh cho chúng ta và chữa lành chúng ta.
Sự Hiện Diện Thật
Hội Thánh dạy rằng ngay lúc Truyền Phép trong Thánh Lễ, bánh và rượu trên bàn thờ biến thể thành Mình và Máu của Đức Chúa Giêsu Kitô. Bánh và ruợu không còn nữa, mặc dầu vẻ bề ngoài không thay đổi. Thực ra thì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi trong tinh thần, sự hiện diện của Đức Kitô trong Bí Tích Thánh Thể (Đức Kitô hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể với Mình, Máu, Linh Hồn và Thiên Tính) được gọi là sự Hiện Diện Thật.
Trong Linh Ảnh Lòng Thương Xót, có những tia Máu và Nước phát ra từ chỗ Trái Tim Chúa bị đâm thâu qua. Thánh Faustina cũng thấy những tia đó phát ra từ Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể nơi mặt nhật.
Chị viết:
"Khi tôi ở trong nhà thờ chờ xưng tội, tôi cũng thấy những tia sàng này phát ra từ mặt nhật và tỏa ra cả nhà thờ. Hiện tượng này kéo dài suốt giờ chầu. Sau khi ban phép lành, tia sàng tỏa ra cả hai bên rồi trở lại mặt nhật. Những tia sáng này rất rạng rỡ và trong như pha lê. Tôi xin Chúa Giêsu đoái thương đốt lửa yêu mến Chúa trong tất cả các linh hồn rất nguội lạnh. Dưới những tia sáng này một tâm hồn sẽ ấm áp lên dù nó có lạnh như một tảng băng; dù có cứng như đá, nó sẽ tan vỡ thành bụi tro” (Nhật Ký, 370).
Ngày khác Chị viết:
"Khi linh ảnh được trưng bày trên bàn thờ trong buổi chầu Thánh Thể trong dịp Lễ Corpus Christi (kính Mình Máu Thánh Chúa) [ngày 20 tháng 6, năm 1935], lúc linh mục đặt Mình Thánh Chúa và ca đoàn bắt đầu hát, tôi thấy những tia sáng từ linh ảnh xuyên qua Bánh Thánh và tỏa ra toàn thế giới. Rồi tôi nghe những lời sau: Những tia sáng thương xót này đã chiếu qua Bánh Thánh, và chúng sẽ chiếu soi toàn thế giới" (Nhật Ký, 441).
Sống Thánh Thể
Chúa muốn chúng ta không những chỉ rước Thánh Thể, mà còn muốn chúng ta sống Thánh Thể. Sống Thánh Thể có nghĩa là để cho Chúa Giêsu ngự vào từng tế bào của thân thể chúng ta và để ân sủng Người biến đổi toàn diện con người chúng ta. Nhờ thế chúng ta trở thành biểu tượng của tình yêu cao vời của Người giữa thế gian.
Trước hết sống Bí Tích Thánh Thể là quy chiếu tất cả về Chúa, làm tất cả mọi sự trong đời để tôn vinh Chúa. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết:
Việc phượng tự mới của người kitô hữu [Bí Tích Thánh Thể] bao trùm hết mọi khía cạnh của đời sống, bằng cách biến đổi chính đời sống này: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cor 10, 31)…( Sacramentum Caritatis #71)
Là mầu nhiệm để sống, Thánh Thể được hiến ban cho mỗi chúng ta trong điều kiện hiện tại, làm cho hoàn cảnh sống của chúng ta trở nên nơi sống hằng ngày sự mới mẻ của Kitô giáo. Nếu Hy Tế Thánh Thể nuôi dưỡng và làm lớn lên nơi chúng ta điều đã được trao ban trong Bí tích Rửa Tội, nhờ đó tất cả chúng ta được mời gọi đến sự thánh thiện (x. Lumen gentium, số 39-42), điều đó phải xuất hiện và bày tỏ cách đích thực nơi những hoàn cảnh hoặc tình trạng sống của mỗi người kitô hữu. Ngày qua ngày, họ trở nên một phượng tự đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách sống ơn gọi của chính mình. Khởi điểm từ sự tập hợp phụng vụ, chính Bí tích Thánh Thể dẫn đưa chúng ta vào trong thực tại hằng ngày để mọi sự được thực hiện vì vinh quang của Thiên Chúa (Sacramentum Caritatis #79).
Thứ đến Sống Thánh thể là để những tia sáng thương xót từ Thánh Thể Chúa chiếu qua chúng ta đến toàn thế giới. Nhờ đó chúng ta trở nên hình ảnh của Lòng Thương Xót, chiếu Tình Yêu và Lòng Thương Xót vào lòng tha nhân.
"Các con là ánh sáng thế gian, một thành xây trên đồi cao không thể giấu được. Không ai thắp đèn và để ở đưới đáy thùng, nhưng để trên giá mà soi sáng cả nhà. Hãy tỏa sự sáng của các con ra trước mặt mọi người, để họ thấy việc lành các con làm mà ngợi khen Cha các con trên Trời" (Mt. 5:14-16)
Chúa muốn chúng ta đón rước Người trong việc rước và viếng Thánh Thể thường xuyên. Người muốn ban phát dư đầy ân sủng cho chúng ta, nhưng nhiều người trong chúng ta còn quá lơ là. Trong một lời nhắn nhủ cùng Thánh Faustina, Người nói:
"Họ đối xử với Ta như một vật vô tri, trong khi Trái Tim Ta đầy tình yêu và thương xót. Để cho con biết một chút đau đớn của Ta, con hãy tưởng tượng một người mẹ dịu hiền nhất và rất thương con, trong khi đó các con hắt hủi tình yêu của bà. Con xem bà đau khổ ra sao. Không ai có thể an ủi bà. Đây chỉ là một hình ảnh mờ nhạt và na ná như tình yêu của Ta." (Nhật Ký, 1447)
Tình Trạng Ân Sủng
Những người lên rước Chúa phải ở trong tình trạng ân sủng, nghĩa là sạch tội trọng. Thánh Phaolô viết:
"Vì vậy, ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì xúc phạm đến Mình và Máu Chúa. Phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén đó. vì ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình" (1 Cor. 11:27-29).
Quyền Năng của Bí Tích Thánh Thể
Bí Tích Thánh Thể làm cho trái tim chúng ta nên sốt sắng và thêm lòng yêu Chúa. Quyền năng của Bí Tích Thánh Thể làm cho chúng ta liên kết với Chúa Giêsu bằng một mối dây liên hệ mật thiết. Bí Tích này tha các tội nhẹ, đem lại bình an, sức mạnh và làm thỏa mãn những ai có lòng ăn năn chừa cải tội lỗi. Vì chúng ta là phần tử của Nhiệm Thể Chúa là Hội Thánh, Bí Tích này cũng kết hợp chúng ta với Hội Thánh và những phần tử khác của Nhiệm Thể này.
Không có cách nào tốt hơn để chúng ta có mạnh sức thi hành sứ vụ này là dành nhiều thì giờ trước Sự Hiện Diện của Nguồn Tình Yêu và Thương Xót trong Bí Tích Thánh Thể. Nếu chúng ta bỏ vài giờ ra ngồi trước một tia phóng xạ, chúng ta sẽ thay đổi ra sao? Chúa chắc chắn phải có nhiều cường lực hơn những tia phóng xạ. Nếu chúng ta đến với Người để nhận ân sủng và Lòng Thương Xót, chúng ta sẽ thay đổi ra sao?
Hội Thánh phân biệt giữa quyền năng khách quan của Bí Tích khi Chúa ban ân sủng cho chúng ta nhờ tác động của Đức Kitô (ex opere operato) và tâm tình (chủ quan) của chúng ta khi lãnh nhận những ân sủng này (ex opere operantis). Khi chúng ta cảm thấy các lỗi lầm của mình quá trầm trọng hoặc đức tin mình quá yếu, hay cảm thấy khô khan, đừng chỉ dựa vào tình cảm của mình mà suy nghĩ và hành động, nhưng phải dựa trên niềm tin vào Sự Hiện Diện Thật của Chúa và quyền năng của Người trong Bí Tích Thánh Thể mà đến với Người.
Kết Luận
Bí tích Thánh Thể là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa có thể ban cho chúng ta. Chúng ta có nhiệm vụ rước Chúa và thăm viếng Chúa thường xuyên nơi Bí Tích Thánh Thể để đáp lại tình yêu mà Người đã dành cho chúng ta. Khi hoàn cảnh không cho phép chúng ta đến cùng Chúa nơi Nhà Tạm, thì chúng ta nên dành vài phút mỗi ngày thờ lạy và rước Người cách thiêng liêng.
Lạy Chúa Giêsu, con tin thật Chúa ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể. Con kính mến Chúa trên hết mọi sự, và khao khát được rước Chúa vào linh hồn con. Vì con không thể rước Chúa thật được bây giờ, thì xin Chúa ít ra ngự vào lòng con cách thiêng liêng. Con xin ôm chặt lấy Chúa như Chúa đã ngự đó, và xin kết hợp hoàn toàn với Chúa. Xin đừng bao giờ để con lìa xa Chúa. Amen
Thánh Faustina nhận ra món quà cao quý của Bí Tích Thánh Thể nên thêm vào tên Chị: Sơ Maria Faustina của Bí Tích Thánh Thể. Chị viết, "nếu thiên thần biết ghen, các vị sẽ ghen với chúng ta hai điều; một là việc rước Lễ, và việc khác là chịu đau khổ" (Nhật Ký, 1804).
(Viết Theo Nhật Ký của Thánh Faustina và Tông Huấn Sacramentum Caritatis, cùng tài liệu của Hội Tông Đồ Lòng Thương Xót).
Khi đọc bài Phúc Âm của Thánh Gioan (chương 6, câu 51-58), tôi chợt nhớ đến câu chuyện:THÁNHTHỂ-150
Khi đọc bài Phúc Âm của Thánh Gioan (chương 6, câu 51-58), tôi chợt nhớ đến câu chuyện xảy ra tại nước Ývào khoảng năm 1900-1910, câu chuyện ấy được kể như sau:
Có một em bé 7 tuổi tên là Lucia đi lễ với chị; hôm đó chị của bé được rước Mình Thánh Chúa lần đầu. Bé Lucia mới nói với mẹ rằng bé chỉ ước ao được lên đứng gần Maria, chị của bé, để được ngắm chị rước Chúa vào lòng thôi. Mẹ Lucia không chịu, nhưng bé cứ năn nỉ mãi, nên mẹ bé đồng ý cho bé đứng bên cạnh chị. Khi Cha Sở đến trao Mình Chúa cho Maria, bé Lucia đứng nhìn say đắm, rồi bỗng nhiên Cha Sở thấy có một vòng tròn trắng bay từ từ đến và đậu ngay trên trán bé Lucia. Ngài hiểu ý Chúa, liền đến cho Lucia rước lễ luôn, mặc dù em chưa học giáo lý vỡ lòng. Hôm đó còn trong mùa Giáng Sinh, nên sau Thánh Lễ, bé Lucia đến hang đá và quỳ xuống cầu nguyện. Lát sau, Maria gọi Lucia đi về, nhưng gọi mãi mà em không trả lời. Maria liền kêu mẹ: “Mẹ ơi, con gọi mãi mà Lucia không trả lời, cứ im lặng hoài không thôi!”. Mẹ em mới gọi: “Lucia, về đi nào!”, nhưng vẫn không thấy em trả lời, bà liền đến gần thì thấy em không cử động gì cả, bà mới hay là Chúa đã rước em về với Ngài rồi. Lúc bấy giờ mọi người mới hiểu là vì em khao khát được rước Chúa vào lòng, nên Chúa đã đến với em và nay đã đem em về với Ngài. Cha Sở chứng kiến phép lạ ấy sau này là Đức Giáo Hoàng Piô X.
Hôm nay, nhớ lại câu chuyện ấy, tôi vẫn còn cảm thấy rất cảm động, và tôi lại nhớ đến bữa tiệc ly trong đó Chúa Giêsu đã cùng với các môn đệ cử hành mầu nhiệm Thánh Thể. Nếu hiểu được mầu nhiệm ấy, hẳn là chúng ta biết rằng Chúa rất yêu thương chúng ta. Nhưng Chúa cũng đã từng nói với các môn đê: “Này chúng ta lên Giêrusalem” (Mt 20,18), Chúa mời gọi các môn đệ cùng đi với Chúa, Ngài muốn chia sẻ tất cả những đau khổ buồn vui với các môn đẹ. Cũng chỉ có Tình Yêu thương chân thật mới chia sẻ được cho nhau như vậy, mà thật sự Ngài coi các môn đệ như là bạn. Đọc bài Phúc Âm ấy, tôi mới hiểu rằng Chúa không nói chúng ta hãy chịu đựng đau khổ, cũng không nói chúng ta hãy chạy trốn đau khổ, mà Chúa muốn chúng ta đón nhận nó. Chính Chúa cũng đã chấp nhận đau khổ ấy, và hiến cả mạng sống mình vì Tình Yêu đối với chúng ta, như chúng ta thấy trong Vườn Cây Dầu, Chúa đã xin Chúa Cha cất chén đắng, nhưng lại nói tiếp ngay: “đừng theo như ý Con mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40). Chính bản thân tôi vẫn ước ao được Chúa ngự vào trong lòng mỗi ngày, tôi mới cảm thấy được bình an, hạnh phúc. Chúa mãi mãi ở trong lòng tôi mỗi ngày, để tôi nhận biết và thấu hiểu được tình yêu Chúa cao vời biết bao. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có lòng khao khát Chúa, khao khát một cách mãnh liệt như bé Lucia vậy.