Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 251-300 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa
----------------------------------- Phúc Âm: Ga 20, 19-31: "Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Nguyên nhân của những mối nghi ngờ chính là vì sự việc vượt quá tầm nhận thức, hiểu biết của PS2-251
Nguyên nhân của những mối nghi ngờ chính là vì sự việc vượt quá tầm nhận thức, hiểu biết của con người -nhất là về phuơng diện đức tin. Do đó việc Thánh Tôma nghi ngờ như trong trình thuật Tin Mừng, cũng là điều tự nhiên.Tuy nhiên điều mà Thánh Tôma có lỗi, chính là vì đã không tin vào lời Chúa. Như Thánh Tôma, chúng ta cũng đã nhiều khi không tin vào lời Chúa như vậy. Xin Chúa tha lỗi cho chúng con.
- Lạy Chúa, vì niềm tin vào Chúa của chúng con được truyền lại từ các Tông Đồ. Xin Chúa thương xót …
- Lạy Chúa, vì Chúa là “Đấng Hằng Sống” và “giữ chìa khoá của tử thần và âm phủ” (Kh1,18). Xin Chúa Kitô …
- Lạy Chúa, vì Chúa đã đến để cứu chuộc và ban bình an cho chúng con. Xin Chúa thương xót …
GIẢNG
Có thể nói là từ xưa đến nay, Thánh Tôma hầu như đã bị người ta ghim chết trong định kiến một con người cứng lòng tin. Thế nhưng có mấy ai nghĩ cho ngài là con người tiên phong trong việc tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa ? Nếu hiểu được điều đó, chúng ta mới có thể thấy được câu nói của Chúa Giêsu vừa là lời trách cứ, nhưng cũng là lời khích lệ niềm tin cho ngài cũng như cho tất cả chúng ta bất kỳ thời đại nào: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Quả vậy, Thánh Tôma không hẳn là người môn đệ duy nhất cứng tin. Các môn đệ khác cũng thế. Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, đã có lần Chúa Giêsu khiển trách các ông không tin và cứng lòng, “vì đã không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người sống lại” (Mc 16,14). Ngay cả khi tiễn Chúa về trời, Thánh sử Mátthêu vẫn còn ghi lại: “Có mấy ông lại hoài nghi” (28,17).
Thực ra, niềm tin không phải là định kiến bất dịch, nhưng là một sức sống. Sức sống thì phải được nuôi dưỡng, phải có di chuyển. Nuôi dưỡng thì tất nhiên phải có thời để cảm nhận đói và thời được no; nghĩa là có tình trạng hao hụt để tiến tới thời sung mãn. Những lần Chúa hiện đến, đâu có phải ai ai cũng nhanh chóng nhận ra người đứng trước mặt mình là Chúa -Chúa Giêsu Phục Sinh ! Chỉ sau khi được nhắc bảo, các môn đệ mới ngạc nhiên hướng nhìn Người ! Cho nên ai cũng có thể sai lầm, cũng có thể lỡ bước. Điều quan trọng, chính là biết thức tỉnh để đi đến cùng, đến cùng sự thật.
Thánh Tôma trong trình thuật hôm nay, bước đầu có thể như hơi quá lời khi thách thức các môn đệ khác: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25b). Tuy nhiên sau đó, khi Chúa ngự đến, Thánh nhân không chỉ giữ im lặng như những người khác, nhưng đã tuyên xưng niềm tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (c.28). Ngài công bố chấp nhận Đức Giêsu -người đang đứng trước mặt ngài- là con người đã chết đi nhưng đã sống lại thực sự, chẳng những là chủ nhân có thể ra lệnh sai khiến chỉ bảo, mà còn là Thiên Chúa -Đấng tạo sinh nên mình nữa ! Điều mà Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu trong kinh Tin Kính từ thời các Tông Đồ cho đến ngày nay, đâu có gì vượt quá điều Thánh Tôma đã tuyên xưng trước mặt Chúa ngày hôm nay: “Lạy Chúa của con; lạy Thiên Chúa của con !” Thánh nhân không chỉ tuyên xưng Chúa đã sống lại, nhưng còn tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế phải đến thế gian và là Thiên Chúa. Như thế, đức tin còn phải vượt qua điều thấy trước mắt để thấy được điều cần phải thấy, phải tin. Đã chắc gì các vị môn đệ khác thấy con người Chúa phục sinh hôm đo, mà tin nhận ngay hay thấy ngay được Chúa là Thiên Chúa tối cao đáng kính, đáng tôn thờ ? Ngôi Lời Thiên Chúa khi trở nên xác phàm, là muốn để cho nhân loại thấy Chúa Giêsu có thân xác.
Nhưng để được đi vào mầu nhiệm cứu rỗi và để sống trong Tình Yêu của Thiên Chúa, con người phải thấy được Chúa Giêsu tỏ hiện trong vinh quang Thiên Chúa tính của Người. Mối hạnh phúc mà Chúa Giêsu chúc mừng cho Thánh Tôma, chính là điều Thánh nhân đã “thấy” -thấy vượt qua cái thấy trước mắt- và đã nhanh chóng tuyên xưng lòng xác tín của mình vào điều đã thấy ngoài điều nhìn bắng ánh mắt đó. Nhờ xác tín như thế mà Thánh nhân đã không ngần ngại mang Tin Mừng của Chúa sang rao giảng tận Batư, Xyri; và tại Ấnđộ, ngài đã sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Chúa.
Chúng ta cũng đã không thấy Chúa nhãn tiền như các Tông Đồ hay như Thánh Tôma xưa. Nhưng liệu đó có phải là đầu mối đem lại hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đã cố gắng khám phá và tuyên xưng Chúa đang sống trong cuộc đời mình chăng ? Lời Chúa khích lệ Thánh Tôma ngày xưa vẫn còn mãi mãi giữ giá trị cho chúng ta ngày hôm nay: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).
Lạy Chúa, dù cuộc đời con có tăm tối, hay trống rỗng; dù đời con có thất bại nặng nề, muộn phiền hay lo âu, xin cho con luôn vững tin nơi Chúa, để nhìn thấy Chúa đang hiện diện bên cạnh và nâng đỡ con. Amen.
Chúng ta đang sống trong những ngày mừng Chúa Phục sinh. Tuần trước cha đã cắt nghĩa cho PS2-252
Chúng ta đang sống trong những ngày mừng Chúa Phục sinh. Tuần trước cha đã cắt nghĩa cho chúng con biết Phục sinh là gì và Chúa Giêsu đã phục sinh như thế nào. Hôm nay cha cũng lại tiếp tục nói về Chúa Phục sinh.
1. Sự kiện.
Cha đố chúng con Tin Mừng hôm nay nói về vấn đế gì?
- Thưa cha, Tin Mừng nói về việc Chúa Phục sinh hiện ra với các tông đồ. - Rất đúng. Đúng là Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta về vấn đề đó. Tin mừng thuật lại cho chúng ta hai lần Chúa Phục sinh hiện ra sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Hai lần này cách nhau đúng tám ngày. Lần thứ nhất là vào chính ngày Chúa Phục sinh, trong một căn nhà cửa đóng kín vì sợ người Do Thái. Lần này không có Tôma. Tin Mừng không cho biết lý do. Có người xấu miệng bảo là ông trốn kỹ quá cho nên chẳng ai biết mà tìm.
Tám ngày sau, Chúa Phục sinh lại hiện ra như lần trước và lần này có cả ông Tôma. Sau khi chào chúc bình an cho các tông đồ xong, Chúa Phục sinh tiến thẳng đến trước mặt Tôma và nói: "Hãy đặt ngón tay anh vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Hãy xỏ tay vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin" (Ga.20,27).
Cha hỏi chúng con: Lúc này ông có dám mạnh miệng thách thức như trước nữa không?
- Thưa cha, chắc chắn là không.
Đúng như thế. Không những ông không dám nói là ông không tin mà ngược lại ông còn mạnh bạo tuyên xưng đức tin vào Chúa một cách rõ ràng, minh bạch và dứ khoát nhất. Đây là lời tuyện xưng của ông: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi" (Ga.20,28). Có nhiều người bảo đây là lời tuyên xưng đẹp nhất, đúng nhất và hợp với ý của Chúa nhất. Chúa cũng chỉ mong mọi người tin Chúa như thế. Tại sao vậy? Thưa vì không những ông Tôma tin Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại: Lạy Chúa tôi; mà ông còn tin Chúa Phục sinh đang đứng trước mặt ông chính là Thiên Chúa: Lạy Thiên Chúa của tôi!
Chúng con thấy Chúa Giêsu rất hài lòng về lời tuyên xưng này của Tôma nên Chúa đã phán: "Tôma, vì anh đã thấy Thầy, nên anh mới tin" nhưng rồi Chúa cũng thêm ngay: "Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga.20,29).
Đó là những gì Tin Mừng hôm nay thuật lại.
2. Bài học
Cha hỏi chúng con: Chúng ta học được bài học nào qua câu chuyện hôm nay?
a. Trước hết cha muốn nhắc lại một lời rất an ủi của Chúa Giêsu đã nói: "Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga 20,29)
Cha nghĩ, khi nói những lời phúc này, Chúa Phục sinh đã nghĩ tới muôn vàn thế hệ sau các tông đồ, trong đó có chúng ta.
Nếu chỉ nói tới những gì mắt được thấy, tai được nghe thì các tông đồ diễm phúc hơn chúng ta bội phần (vì các ngài được phúc sống gần Chúa, được nhìn thấy những phép lạ Chúa làm, nhất là được gặp Chúa Phục sinh). Nhưng nếu bảo đức tin là ân huệ Chúa ban thì các tông đồ ngày xưa cũng như chúng ta ngày nay thôi. Lý vì các ngài cũng phải vượt lên trên những những gì mắt thấy tai nghe để rồi sau đó mới có được đức tin vào Chúa thì chúng ta cũng vậy. Chính vi thế mà có người bảo: đức tin là một bước nhảy vọt từ những gì xem thấy, nghe thấy đến những gì không nghe thấy, không xem thấy. Bởi vì đâu phải cứ được nhìn thấy, nghe thấy là sẽ có đức tin ngay đâu (Chúng con thấy biết bao người thời Chúa, nghe Chúa giảng, thấy Chúa làm phép lạ mà có tin đâu). Phần chúng ta, chúng ta không được thấy Chúa trực tiếp rõ ràng như các tông đố xưa, nhưng những lời chứng và nhất là cuộc sống làm chứng của các ngài để lại, cũng như nhờ ơn Chúa thương mà chúng ta trở thành những người tin Chúa! Việc Chúa Giêsu phán: Phúc cho những ai không thấy mà tin có ý nghĩa là như vậy.
b. Chúng con có biết Chúa nhật hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật gì nữa không?
Ngày 22.2.1931, Chúa Giêsu đã hiện ra và mặc khải cho nữ tu Faustina, thuộc dòng Đức Mẹ từ bi ở Balan, lòng thương xót của Chúa và dạy chị phải rao truyền lòng thương xót đó qua bức ảnh thánh, và chọn ngày Chúa nhật II sau Phục sinh là ngày lễ kính lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu nói với chị Faustina rằng: Hãy vẽ bức ảnh như con nhìn thấy đây với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Ta hứa, nếu ai tôn kính ảnh này sẽ không bị hư mất. Ta cũng hứa sẽ giúp linh hồn đó toàn thắng các kẻ thù trong cuộc sống, nhất là trong giờ lâm tử. Ta sẽ bảo vệ, gìn giữ linh hồn nó. Ta mong muốn tấm ảnh này được tôn kính trên toàn thế giới. Theo lệnh cha linh hướng, chị Faustina có hỏi Chúa về ý nghĩa hai màu sắc của hai luồng sáng đó, thì Chúa trả lời: Hai luồng sáng đó biểu thị cho máu và nước, luồng trắng chỉ nước, nó làm cho linh hồn nên công chính. Luồng đỏ chỉ máu, đó là sự sống của linh hồn. Hai luồng sáng này được ban ra do lòng thương xót vô bờ của trái tim Ta, mà người lính đã lấy đòng đâm thâu khi Ta bị treo trên Thập giá. Phúc thay những linh hồn nào luôn biết nương náu trong nơi trú ẩn này, vì cánh tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không đánh phạt họ. Chính Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nói: Bất cứ ai thành khẩn kêu cầu: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, sẽ được sự an ủi trong cơn nguy khốn.
Ngày 30.4 năm thánh 2000, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho nữ tu Faustina, tông đồ của lòng thương xót và đã lập lễ kính lòng thương xót của Chúa trên toàn Giáo hội vào chúa Nhật II Phục sinh, đúng như ước muốn của Chúa nói với chị Faustina: Ta ao ước là lễ kính lòng thương xót của Ta phải được cử hành vào Chúa nhật 2 Phục sinh. Như vậy là Hội Thánh, qua Đức Giáo Hoàng đã chính thức công nhận việc tôn sùng lòng nhân từ thương xót của Chúa, để mọi người, đặc biệt là các tội nhân biết tin tưởng mau mắn chạy đến với tình yêu đầy lòng nhân ái của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina rằng: không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi của nó có đỏ như máu đi nữa...
Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa!
Được mạc khải về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, chúng ta những con người yếu đuối tội lỗi sẽ được thêm tin tưởng và phó thác nơi tình thương của Thiên Chúa.
Ngày Chúa nhật là “ngày của Thiên Chúa”, là một lễ Phục Sinh. Viết đoạn Phúc Âm này sau 60 PS2-253
Ngày Chúa nhật là “ngày của Thiên Chúa”, là một lễ Phục Sinh.
Viết đoạn Phúc Âm này sau 60 năm sự kiện xảy ra, Thánh Gioan Tông đồ cảm thấy như còn thật mới mẻ sống động, một biến cố mà mình là nhân chứng.
Câu chuyện muốn nói lên rằng Chúa Giêsu sống lại chính là Đấng trước đây, nhưng cũng khác trước đây. Gioan đã nhìn thấy Ngài bị đâm thấu cạnh sườn trên Thập giá (19,34) thì hôm nay, Ngài tỏ cho thấy vết thương nơi tay và cạnh sườn. Chính là Ngài, nhưng Ngài đã đi vào một cõi sống mới, không lệ thuộc không gian và thời gian. Ngài đem đến sự bình an và vui mừng. Chúa đã sống lại. Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc bằng sự chết và sự sống lại của Ngài. Hôm nay, Ngài đến để trao cho các ông sứ mạng phổ cập ơn cứu rỗi đó. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Sứ mạng biệt sai phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài thổi hơi và phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Một trong mục đích của cuộc biệt sai là ban ơn tha thứ: “Các con tha tội ai thì tội kẻ ấy được tha; các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Ơn tha tội được bảo đảm bằng sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, nhưng cũng qua trung gian của Giáo hội: tha cho ai, cầm buộc ai, kẻ ấy được tha hay bị cầm buộc. Thật là một quyền năng lớn lao và vĩ đại.
Sự kiện xảy ra chiều Phục Sinh.
Nhưng hôm ấy, trong nhóm môn đệ, thiếu mặt Tôma, một người không phải là dễ bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy, tai nghe, tay sờ đụng. Người ta dùng lý trí để lý luận, kiểm chứng. Nhưng người ta cũng có thể dựa trên niềm tin để tăng phần kiến thức.
Khi nghe các bạn cho biết họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại, Tôma không tin. Là người thực tế ông muốn được kiểm chứng bằng giác quan, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, ông mới tin.
Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, có Tôma ở với các ông. Chúa Giêsu cho Tôma và qua Tôma cho chúng ta, một bài học về Đức Tin. TIN không phải là nhìn thấy, sờ đụng, mà là dựa trên chứng từ những kẻ đã “thấy” và “chiêm gưỡng” vinh quang của Chúa. Niềm tin vào mầu nhiệm sống lại của chúng ta dựa trên chứng tích của các Tông đồ và của Giáo hội. Trong bài giảng đầu tiên, Phêrô tuyên bố: “Đức Giêsu, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy” (Cv 2, 32).
Đó là căn bản nhưng cũng là phần thưởng của Đức Tin: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”, và nhờ đó chúng ta được sống nhờ danh Ngài.
Hồi ấy, dân chúng đồn thổi và kéo nhau đi xem một phép lạ Phép Thánh Thể. Có người mời Vua Thánh Louis (1214-1270) cùng đi xem. Thánh nhân từ chối vì “không muốn mất phần thưởng về Đức Tin”.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn Đức Tin và hãy gìn giữ, bám víu lấy Đức Tin, ngọn đuốc soi sáng ta trên cuộc đời đen tối.
Cách đây khoảng 104 năm, vào Chúa nhật thứ nhất sau lễ Phục sinh, tức Chúa nhật Quasimodo PS2-254
Cách đây khoảng 104 năm, vào Chúa nhật thứ nhất sau lễ Phục sinh, tức Chúa nhật Quasimodo, chiếc tàu Titanic đã chìm xuống lòng biển Đại tây dương mang theo trên một ngàn sinh mạng. Rất nhiều chi tiết liên quan đến con tàu định mệnh đã được báo chí đăng tải, nhưng có một chi tiết rất đáng chú ý: ngay phần hông tàu phía dưới mặt nước là dòng chữ “No God, no Pope” (Không Thiên Chúa, không Giáo hoàng).
Dường như khi khoa học kỹ thuật càng phát triển con người càng đánh mất niềm tin vào Thượng đế. Lắm kẻ dám nói: không có Thiên Chúa, vì họ có thấy đâu. Họ chỉ tin khi nào khoa học chứng minh điều đó. Nói cách khác, họ muốn tiếp cận với Thiên Chúa qua phương pháp khoa học thực nghiệm, nghĩa là bằng thấy, sờ, lý luận, phân tích, và xác minh.
Những đòi hỏi như thế đâu phải chỉ mới xuất hiện sau những tiến bộ vượt bậc của khoa học hôm nay. Đúng ra nó đã xuất hiện cách đây hai ngàn năm rồi. Khi mà người ta đòi phải thấy được Chúa nhãn tiền, sờ được Ngài, thọc tay vào lỗ đinh, xác quyết tường tận Đấng đã chết trên thập giá mà nay sống lại. Đó không phải là một niềm tin đòi được xét nghiệm bằng khoa học à?
Nhưng đức tin đâu có nằm trong phạm trù khoa học. Khoa học chỉ nghiên cứu các dữ kiện, định luật và nguyên nhân thuộc phạm vi vật chất. Ngoài đó nó không có chỗ đứng. Nói như thế không có nghĩa là khoa học chẳng dính dáng gì đến niềm tin và niềm tin không cần đến khoa học. Trái lại nếu thành tâm sử dụng thì khoa học vẫn là một phương thế rất tốt giúp con người khám phá sâu rộng sự hiện hữu của Thiên Chúa. Còn càng tự mãn trong khoa học người ta sẽ càng rời xa chân lý tuyệt đối.
Chuyện kể về một bác học người Pháp muốn làm một cuộc nghiên cứu trong sa mạc. Ông chọn mấy người Ả rập làm hướng dẫn viên. Một buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn, một người trong nhóm dẫn đường trải tấm thảm xuống cát và ngồi lên đó trong dáng điệu trầm tư. Thấy thế nhà bác học buộc miệng hỏi:
- “Ngươi làm gì thế?” - “Dạ, tôi cầu nguyện,” người kia trả lời. - “Cầu nguyện à, thời buổi này mà còn cầu nguyện à, vậy ra ngươi còn tin có Thiên Chúa? Mà ngươi đã thấy Chúa chưa,” Nhà bác học như muốn bắt bẻ. - “Dạ chưa.” - “Vậy ngươi nghe Chúa nói chưa?” - “Dạ chưa.” - “Vậy ngươi đã sờ chạm được Chúa chưa?” - “Dạ chưa,” người hướng dẫn khiêm tốn trả lời. - “Nếu thế thì ngươi là một tên điên khi tin vào một Thiên Chúa mà chưa bao giờ thấy, không bao giờ nghe, và cũng chẳng bao giờ đụng đến.” Thế rồi mọi người đi ngủ. Sáng hôm sau, trước lúc hừng đông, nhà thông thái vừa bước ra khỏi lều đã vội kêu lên: - “Ồ, tối hôm qua có một con lạc đà đi qua nơi này!” Người hướng dẫn viên trợn mắt kinh ngạc: - “Vậy chứ Ngài thấy con lạc đà đó đi qua đây à?” - “Không,” nhà thông thái tự đắc trả lời. - “Vậy chứ Ngài đụng phải nó à?” - “Không.” - “Vậy chứ ngài nghe nó kêu à?” - “Không.” Người hướng dẫn reo lên: - “Thế thì ngài là kẻ điên khi tin có một con lạc đà mà ngài không thấy, không nghe, và không đụng đến.” Nhà thông thái đáp lại: - “Nhưng ta biết được qua những dấu chân còn trên cát của nó kia kìa.”
Ngay lúc đó mặt trời mọc lên, toả muôn tia sáng rực rỡ lung linh. Người hướng dẫn viên liền chỉ tay về phía mặt trời và nói: “Thế thì tôi cũng nhìn vào cái dấu vết kia để thấy rằng có một Thiên Chúa đang đi qua cuộc đời.” Không ít người đã dùng những khám phá của khoa học để tuyên bố không có Thiên Chúa, chỉ có con người là chúa vũ trụ, và niềm tin thượng đế đang bị khoa học bóp chết. Thế nhưng, cùng lúc đó lại có rất nhiều người, qua khoa học, nhìn thấy thế giới này sao có nhiều điều bí ẩn, kỳ lạ, siêu vời mà tài sức con người chỉ mới vén mở được một phần rất bé. Từ đó họ càng nhận rõ dung mạo của một Đấng siêu vượt trên vũ trụ, khoa học, và tất cả-Đấng mà người Kitô hữu tin là nguyên lý siêu đẳng đã tạo nên trời đất bao la.
Thế nhưng cũng không ít người đặt vấn đề: nếu Thiên Chúa hiện hữu thì Thiên Chúa không phải là một Đấng yêu thương, vì nếu yêu thương, cớ sao Ngài lại để cho thế giới gặp nhiều bất hạnh khổ đau? Tại sao Thiên Chúa không can thiệp, loại trừ những tác oai tác quái của nó?
Nói như thế thì chẳng khác chi tự dưng phủ nhận và khước từ sự sống. Vì có sự sống nào phát sinh mà không có sự đau đớn. Có chồi non nào mọc lên mà nhánh cây hay hạt giống đã không phải chịu nứt toác thân mình.
Nhưng điều cần nói không phải là cứ trước những gian nan trắc trở khổ đau của cuộc đời mà cho là không có Thiên Chúa, hay Thiên Chúa độc ác, bất lực, không biết yêu thương. Song điểm đáng ghi nhận chính là: người càng tin tưởng Thiên Chúa càng có sức mạnh để mang vác gánh nặng của cuộc đời; những ai mà tâm càng thành lòng càng trong thì càng dễ cảm nghiệm và tin tưởng vào Chúa hơn, cho dù gánh khổ của cuộc đời không vơi đi chút nào và cảnh chướng tai gai mắt vẫn còn đó.
Tôi vẫn thích nhắc đến câu chuyện “Chúa Có Mắt Không” khi nói về những sự ngang trái trong đời: Một buổi sáng đẹp trời nọ, một thầy dòng bước ra vườn cây, vừa dạo cảnh thiên nhiên vừa cầu nguyện. Đứng trước hàng cây chôm chôm, nhìn những chùm trái nho nhỏ xinh xinh, bên cạnh đó là gốc bí với những hàng quả thật lớn bám trên những chiếc dây leo mỏng manh, bất chợt thầy nghĩ: “Chẳng biết Chúa có mắt không! Tại sao những trái chôm chôm bé tí teo kia lại mọc trên những cành cây cứng cáp chắc chắn, còn mấy trái bí khổng lồ như thế này lại bám vào những dây leo tí tẹo? Chẳng hợp tình hợp lý chút nào. Tại sao thứ mình thích thì lại nhỏ xíu, còn thứ không thích thì cứ to ơi là to?”
Trưa đó, sau lúc dạo và gặp phải ngày thời tiết nóng nực, thầy nằm hóng mát dưới một gốc cây và thiu thiu ngủ lúc nào không hay. Một làn gió thoảng qua. Cành lá rung động. Chợt một trái chôm chôm khô rơi trúng đầu thầy. Giật mình bật dậy. Rồi như vừa tỉnh khỏi cơn mộng thầy quì xuống cầu nguyện: “Ôi lạy Chúa, may mà Chúa có mắt, chứ để trái chôm chôm to bằng trái bí thì còn gì cái đầu của con.”
Thiên Chúa biết rõ những gì tốt nhất cho chúng ta. Ngài luôn làm mọi sự vì yêu thương con người. Vấn đề không phải là có Thiên Chúa không; Ngài có mắt hay có tai không; nhưng vấn đề là con người có mở mắt, mở lòng, mở tai để nhận ra sự hiện diện yêu thương và bàn tay quyền năng của Ngài không thôi. Trước một sự cố trong đời, có kẻ chống Chúa, từ Chúa, nhưng cũng có người tin yêu gắn bó với Ngài hơn. Thử hỏi bạn đang thuộc hạng người nào.
Lời của vị tu sĩ “Ôi lạy Chúa, may mà Chúa có mắt” sao nghe giống lời của Tôma quá. Theo sự tường thuật của Thánh Kinh, chẳng thấy Tôma nhìn vào vết đinh trên tay Chúa, cũng không xỏ bàn tay vào cạnh sườn Ngài, nhưng ông lại cảm nghiệm được sự hiện hữu của Thiên Chúa cách rõ ràng.
“Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” hay “Lạy Chúa, đúng là Chúa có mắt” chính là những lời tuyên xưng đức tin một cách sống động và hùng hồn vô cùng.
Thiết tưởng đời người Kitô hữu cũng nên thấm được niềm xác tín vững vàng như thế. Dù đứng trước phong ba bão táp, dù phải khốn đốn vì bao thăng trầm của cuộc đời, hãy cứ tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn hiện hữu bên ta, rất nhẹ nhàng và rất quyền năng: nhẹ nhàng như làn gió lay động nhành lá trong vườn, và quyền năng như lúc cửa đóng kín mà Ngài vẫn đến được với các tông đồ.
Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… Một hôm ma quỷ+6 muốn cám dỗ Thánh Martinô vào PS2-255
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… và không đặt tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một hôm ma quỷ muốn cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn hiện hình một vị vua oai phong đến bảo Thánh nhân:
- Hỡi Martinô, Cha cám ơn con đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn tin tưởng con. Cha mong từ nay con luôn ở bên Cha và tín nhiệm vào Cha. Martinô chăm chú nhìn vào ông vua và hỏi:
- Nhưng thưa ông, ông là ai vậy?
Ông vua đáp: - Ta là Đấng Kitô đây mà!
Martinô lại hỏi: - Vậy thì những vết thương bị đóng đinh ở tay chân Ngài đâu? - Ta từ vinh quang trên trời xuống, nên đâu còn thương tích gì. Martinô nói: - Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích.
Vua quỷ liền biến mất.
Đức Kitô khi đã Phục sinh vẫn giữ những thương tích của cuộc khổ nạn và những lần xuất hiện đầu tiên, Chúa thường cho các môn đệ xem những thương tích này để họ dễ nhận ra Chúa và cũng để nhắc lại cái chết với dấu tích yêu thương trọng đại của Chúa đối với họ.
Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã hiện ra với các Môn đệ trong những buổi họp mặt thường lệ. Các tín hữu, bắt đầu có buổi họp hàng tuần. Lễ hội đã chuyển từ ngày Sabat sang ngày Chúa nhật, ngày Chúa sống lại. Niềm tin và phương thức thờ tự đã chuyển từ Cựu ước sang Tân ước, từ Do thái giáo sang Kitô giáo. Mỗi Chúa nhật khi chúng ta họp nhau để phụng thờ Chúa đó là một lễ Phục sinh, và Chúa ở giữa các tín hữu Người. Cho dù chúng ta khoá kín cửa, cho dù tâm hồn ta còn ngổn ngang nhiều trở ngại, nhưng khi chúng a họp nhau lại vì Danh Chúa, thì Chúa có mặt với chúng ta.
Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa xuất hiện sau khi người sống lại. Và lần xuất hiện thứ hai chú trọng đặc biệt tới Tôma. Tông đồ Tôma là người nhiệt tình và thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy. Ông đã mạnh dạn biểu lộ nỗi nghi nan trước sự kiện Chúa sống lại. Khi hiện ra lần sau, Chúa đã bảo ông Tôma: “Đây là vết thương của Ta, Con hãy đặt tay vào và đừng hoài nghi nữa”. Có lẽ Chúa đã mỉm cười trước sự nghi nan này. Chúa cho ta biết dù Người không có mặt, Người vẫn nghe mọi lời nói, vẫn thấy mọi tâm tình, mọi suy tư của chúng ta. Sự kiện đó giúp chúng ta dễ tin vào lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” cho dù chúng ta không thấy Chúa.
Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin, vẫn thi hành lời Chúa, vẫn trung thành thực hiện sứ mệnh Chúa trao, đó là căn bản cuộc sống và của niềm tin. Nhờ đó chúng ta đáng lãnh phần thưởng như lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con mỗi khi chúng con ngắm nhìn những thương tích nơi chân tay và cạnh sườn Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long – Chúa nhật lễ Lòng thương xót Chúa 2013)
Nói đến vết thương, ai cũng rùng mình không muốn nhìn, chứ chưa nói tới đụng chạm vào. Vì sợ PS2-256
Nói đến vết thương, ai cũng rùng mình không muốn nhìn, chứ chưa nói tới đụng chạm vào. Vì sợ máu chảy cùng gây ra đau đớn. Nhưng Thánh Tông đồ Toma lại nằng nặc đòi cho bằng được đụng chạm xỏ ngón tay vào vết thương của Thầy mình.
Một đòi hỏi táo bạo phiêu lưu mạo hiểm!
Thông thường thân xác hình hài diện mạo, tiếng nói, mầu da tóc cùng cá tính của một người là những đặc điểm giúp dễ nhận ra người đó hơn cả. Nhưng với Thánh Toma lại khác. Theo Ông những vết thương nơi thân xác Thầy Giêsu mới là đặc điểm giúp Ông nhận ra Thầy mình.
Vì thế Ông qủa quyết với các Bạn Tông đồ:“ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không cỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.“ ( Ga 20, 25.)
Một người có tầm nhìn suy nghĩ khác lạ không giống ai. Nhưng lại ẩn chứa một sự gì sâu xa bí nhiệm.
Vậy Ông Thánh Toma là ai, và đòi hỏi cùng suy nghĩ khác lạ của Ông mang ẩn chứa sứ điệp đức tin gì?
1. Thánh Toma Điđymô
Trong Hội Thánh Công giáo có nhiều Thánh cùng tên Toma, như Thánh Toma Aquino, Toma Morus... Nhưng vị Thánh Toma và vết thương Thầy Giêsu là một trong 12 Thánh Tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn kêu gọi ngay từ lúc đầu Ngài ra đi giảng đạo.
Thánh Tông đồ Toma đã được học nghe Chúa giảng dậy, cùng chứng kiến những phép lạ Chúa làm, cùng sống trải qua cuộc đau thương khổ nạn của Chúa, được nhìn thấy Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa trở về trời và được tiếp nhận trực tiếp Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống ngày lễ Ngũ tuần.
Sau đó Thánh Tông đồ Toma đã vâng mệnh Chúa Giêsu, sau khi Ngài trở về trời, ra đi rao giảng nước Thiên Chúa, thành lập Hội Thánh ở chân trời vùng Á Châu bên nước Ấn Độ.
Không có sử sách nào ghi chép về nơi chốn cùng ngày tháng sinh ra của Thánh Toma. Chúa Giêsu kêu gọi Toma làm Tông đồ ở Galilea nước Do Thái, khi đó Ông đang là một bác thuyền chài đánh cá ở sông hồ. Tên Toma trong danh sách 12 Tông đồ Chúa Giêsu nơi ba Thánh sử Phúc âm Matheo (10,3), Maco ( 3,18) và Luca (6,15) được nói đến bên cạnh Thánh Tông đồ Matheo, còn trong sách Công vụ Tông đồ ở bên cạnh Thánh Philippus ( Cv 1,13).
Tên Toma có nguồn gốc từ tiếng Do Thái mang ý nghĩa là sinh đôi. Trong phúc âm theo Thánh Gioan Ông được gọi là Toma Điđymô, theo tiếng Hylạp cũng có nghĩa là sinh đôi (Ga 11,16; 20,24)
Hội Thánh Công gíao Roma mừng lễ kính Thánh Toma Tông đồ vào ngày 03.Tháng Bảy hằng năm. Giáo Hội Chính Thống mừng lễ Thánh Toma vào Chúa nhật thứ hai sau lễ Chúa phục sinh.
Con đường theo làm môn đệ Chúa Giêsu của Toma cũng đã trải qua giai đoạn phải quyết tâm chọn lựa cùng chia sẻ với Thầy mình, và đòi Thầy mình mạc khải cho biết Thầy mình là ai.
2. Con đường theo chân Chúa
Không biết khi Chúa Giêsu kêu gọi Toma, và những vị khác làm thành nhóm 12 Môn đệ đầu tiên của Ngài, họ đã có ý nghĩ về con đường đời sống, cùng công danh sự nghiệp trong nước Thiên Chúa như thế nào?
Thánh Toma khi nghe Chúa Giêsu nói đến nỗi đau khổ cùng nguy hiểm, Ngài sẽ phải gánh chịu trong đời sống khi lên Giêrusalem, Ông đã mạnh dạn nói cùng các anh em Tông đồ: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chịu chết với Thầy” (Ga 11,16)
Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. đã có suy tư về cung cách này của Thánh Toma „ Đó là một qủa quyết của lòng trung thành một mực theo chân Chúa cho dù phải đi tới đâu. Đây là mộ ví dụ điển hình trong mối tương quan theo chân Chúa: cùng sống, cùng chết, cùng cư ngụ ở trong trái tim người như Người ở trong trái tim ta.“
Thánh Toma khi nghe Chúa Giêsu thầy mình nói đến sự thương khó cái chết gần kề của Ngài, Ông một mặt nói ngay lời tuyên xưng lòng trung thành của mình. Thầy đi đâu, con theo tới đó (Ga 14,4) Và Ông cũng thắc mắc hỏi Thầy mình ngay, nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con có thể biết con đường đó?
Câu hỏi của Toma, cũng theo Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. „tương đối ở bình diện hiểu biết thấp. Nhưng lại là dịp lúc Chúa Giêsu nói lên những lời mạc khải về chính Ngài, và những lời đó trở nên thời danh cho mọi thế hệ: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống“ (Ga 14,6).
Rồi mỗi khi chúng ta nghe hay đọc những lời này, chúng ta có thể nghĩ rằng như đang đứng bên Thánh Toma nghe Chúa Giêsu nói với mình như Ngài đã nói với Thánh Toma khi xưa. Và chúng ta cũng được đặt ra câu thắc mắc của mình xin Chúa Giêsu cắt nghĩa cho hiểu, điều mình chưa hiểu. Đây là cung cách cầu nguyện với Chúa Giêsu trong sự tin tưởng cùng với sự giới hạn hiểu biết của mình.”
Xưa nay trong đời sống đạo Công giáo, khi nói đến Thánh Toma Tông đồ không ai có thể quên bỏ qua mà không nghĩ tới, như tường thuật trong Phúc âm Thánh Gioan, về sự hoài nghi của Thánh Toma - trong dân gian vẫn quen gọi là Toma yếu kém lòng tin - , và từ sự hoài nghi đó dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
3. Vết thương lòng thương xót Chúa Giêsu
Anh em Tông đồ kể thuật lại cho Ông nghe về việc Chúa Giêsu sống lại hiện ra với họ. Nhưng Ông không tin vào những lời kể đó. Ông muốn chính mình phải được nhận ra Chúa Giêsu theo cung cách của Ông: Đụng chạm vào vết thương lòng thương xót của Thầy Giêsu.
Ông muốn được đụng chạm vào những vết thương của Thầy Giêsu.Vì với Ông đó là dấu ấn đặc điểm của Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập gía.
Ông không muốn đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh chỉ ở tầng bên trên. Nhưng cần phải đi sâu vào tận vết thương tình yêu của Chúa.
Với Ông, những vết thương đóng đinh nơi Chúa Giêsu là hình ảnh lòng thương xót của Ngài đối với con người, cùng quan trọng cho đức tin vào Chúa Giêsu.
Chúa Giesu hiện ra cho Ông được nhìn thấy những vết thương nơi thân thể Ngài, sự hoài nghi nơi Ông liền biến ngay. Và từ đó đã dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh qua lời tuyên tín và cũng là lời cầu nguyện thâm sâu: Lạy Chúa, lạy Chúa của con. (Ga 20,28)
Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. trong bài giáo lý về Thánh Toma Tông đồ đã có suy tư: „ Trường hợp của Thánh Tông đồ Toma với chúng ta có ít nhất ba điều quan trọng: Thánh Toma mang lại niềm an ủi cho chúng ta trong những khi chúng ta gặp hoài nghi; Thánh Toma chỉ cho chúng ta, hoài nghi có thể dẫn đưa tìm đến ánh sáng giúp vượt qua sự bấp bênh mù mịt, và như Thánh Toma, những lời của Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta đến ý nhĩa chính thật của đức tin. Đồng thời cũng giúp chúng ta can đảm, cho dù có những khó khăn hoài nghi, tiếp tục trung thành theo Chúa.”
******************
Sách giáo huấn các Thánh tông đồ Didache viết vào thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh, cũng đề cập đến Thánh Tomas tông đồ đi truyền gíao ở bên Ấn độ và thành lập Giáo Hội ở đó.
Gíao phụ Origines viết tường thuật, Thánh tông đồ Toma trước hết đi rao giảng Phúc âm ở Irak. Sau đó bước chân truyền giáo của Thánh nhân đi sang tới miền Nam Ấn Độ. Và vào khoảng những năm 70. của thế kỷ I. sau Chúa Giáng sinh ngài bị chết vì đức tin ở Mailapur.
Hội Thánh Công giáo bên Ấn Độ, hoa trái kết qủa việc truyền giáo của Thánh tông đồ Toma, ngày nay là một trong những Hội Thánh phát triển về nếp sống lòng đạo đức sầm uất, phát triển lớn mạnh cả về phương diện số giáo dân giữa lòng đất nước quê hương của Phật giáo và Ấn Độ giáo.
Hội Thánh Công gíao bên Ấn Độ, hoa trái kết qủa truyền giáo xây dựng đức tin của Thánh tông đồ Toma đang có nhiều ơn kêu gọi tu trì.
Và Hội Thánh Công gíao ở đây góp phần đáng kể vào việc giáo dục, bác ái xã hội cho đời sống cho con người.
Chúa Nhật II Phục Sinh, Giáo Hội tuyên dương Lòng Thương Xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã PS2-257
Chúa Nhật II Phục Sinh, Giáo Hội tuyên dương Lòng Thương Xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua Thánh nữ Maria Faustina: "Ta muốn ngày lễ kính Lòng Thương Xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, Lòng Thương Xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch Lòng Thương Xót của Ta" ( Tiểu nhật ký, số 699 ). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên ( ngày 2 tháng 4 năm 2005 ). Lòng Thương Xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị Thánh thời đại.
Lòng Thương Xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng Phục Sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng Thương Xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng Thương Xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một, để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương. Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, Thánh Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” ( Lc 24, 11 ). Thánh Mátthêu thuật lại: khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ: Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” ( Mt 28, 17 ). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma ? Cám ơn Thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được'. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống Đức Tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng Đức Tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng 'lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi'. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình: "Lạy Thiên Chúa của con". Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng Đức Tin và Lòng Thương Xót của Chúa ở Ba Tư, Xiri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói: "Người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi". Nhà thần học Paul Tillich nói: "Sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của Đức Tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "Người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin". Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: "Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể vững tin". Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong Đức Tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở ( Lm. Phêrô Bi Trọng Khẩn ).
Lòng Mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu. Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với Tông Dồ Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” ( Ga 20, 28 ). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên Dức Tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn. Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc Âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” ( Ga 21, 4-7 )… Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin Mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới Dức Tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như Thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” ( 1Ga 4, 8; Ep 2, 4 ) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu Đức Tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng Thương Xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại. Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông Sắc Misericordiae Vultus ( Dung mạo Lòng Thương Xót ), Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, Lòng Thương Xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền Lòng Thương Xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” ( số 12 ).
Đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa ( 17.9.2015 ), Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhấn mạnh: “Mỗi người Công Giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của Lòng Thương Xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các Tông Đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: "Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma Tông Đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa".
Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7 ). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Trong Đêm Vọng Phục Sinh vừa qua, Giáo Hội công bố Tình yêu của Thiên Chúa trải dài trên nhân PS2-258
Trong Đêm Vọng Phục Sinh vừa qua, Giáo Hội công bố Tình yêu của Thiên Chúa trải dài trên nhân loại và trong cuộc sống của con người ngang qua các bài đọc trong phần phụng vụ Lời Chúa.
Hôm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, Giáo Hội cử hành đại lễ kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Qua thánh lễ này, Mẹ Giáo Hội muốn làm cho bản trường ca tình yêu của Thiên Chúa một lần nữa rõ nét hơn nơi trái tim và lòng dạ thương xót của chính Chúa Giêsu, Đấng hiện thân lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa có tên là Tình Yêu
Nói đến Thiên Chúa, ấy là chúng ta nói đến bản chất của Người là “Tình Yêu”. Chính thánh Gioan đã khẳn định như thế trong thư của ngài: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Vì yêu, Ngài đã tạo dựng trời đất muôn vật; đã tuyển chọn Israel làm dân riêng; đã nghe thấy tiếng van xin thống thiết của dân Người và đã ra tay giải thoát, dẫn đưa họ từ Ai cập trong thân phận nô lệ trở về Đất Hứa, nơi tràn trề sữa và mật; đồng thời nuôi sống họ bằng Manna và chim cút; vì yêu, Thiên Chúa đã không chấp nhất những tội vô ơn bạc nghĩa của dân...
Bởi lẽ, ở đâu tội lỗi tràn đầy, ở đó ân sủng chứa chan gấp bội, và lòng thương xót của Thiên Chúa luôn phủ lấp muôn vàn tội lỗi, sẽ tẩy trắng như tuyết, sạch như bông..., nên Thiên Chúa đã không bỏ rơi kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, đau đớn vì họ đang đi đến hố diệt vong!
Vì thế, nhiều lần nhiều cách, Người đã gửi các ngôn sứ, thẩm phán, vua chúa ... để nhắc nhở và mời gọi dân đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng, Thiên Chúa đã trao ban chính Con Một của Người là Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian trong thân phận của con người, để dạy dỗ, yêu thương, tha thứ, chữa lành bệnh tật... và đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời. Đỉnh cao của lòng thương xót ấy chính là cái chết đau thương trên thập giá vì con người... Và cũng chính tình yêu, Ngài đã khai mở Giáo Hội ngang qua lưỡi đòng đâm thâm. Chính từ cạnh sườn, Máu và Nước của lòng dạ xót thương đã chảy ra để lộ hiện dung mạo Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nhằm khai sinh và nuôi dưỡng Giáo Hội bằng chính nguồn sung mãn của lòng thương xót...
Trao ban bình an là trao ban lòng dạ thương xót của Thiên Chúa
Không dừng lại ở đó, lòng thương xót của Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại để chứng minh con đường cứu chuộc của Thiên Chúa nơi lịch sử cứu độ, trong cuộc đời, sứ vụ, sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu được móc nối chặt chẽ trên cùng một con đường tình yêu, được khởi đi và kết thúc do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nên ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu đã trao chuyển lòng thương xót của Thiên Chúa cho các môn đệ qua ơn ban bình an. Vì: tình yêu là bản chất của Thiên Chúa; thì lòng thương xót chính là biểu hiện của tình yêu và nhân loại được mời gọi sáp nhập, dìm mình vào trong đại dương lòng thương xót ấy ngang qua sự bình an sâu thẳm của tâm hồn.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu hai lần hiện ra với các môn đệ. Cả hai lần, Ngài đều trao ban bình an cho các ông.
Khi trao ban cho các ông sự bình an, Đức Giêsu muốn cho các ông bình tâm để nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua lịch sử cứu độ, và nhất là trên chính cuộc đời của từng người, để các ông đọc lại cuộc đời của mình và dân tộc mình trên nền tảng thương xót cảu Thiên Chúa để các ông chan chứa niềm tin và hy vọng, ngõ hầu can đảm làm chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và nhất là nơi cuộc thương khó và phục sinh của Thầy Giêsu.
Muốn có được điều đó, các ông cần đón nhận sự bình an của Đức Giêsu trong tâm tình của những người có đức tin và lòng mến, chứ không như theo quan niệm thói đời về sự bình an khi phỏng chiếu nó theo kiểu may rủi...
Thật vậy, sự bình an mà Đức Giêsu trao tặng, chính là một ơn cao trọng, biểu lộ tình yêu và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, để nở hoa tình yêu và kết trái tha thứ. Thế nên, bản chất của nó khác xa một lời chào hay một nghĩa cử xã giao. Điều này chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27).
Khi bình an của Đức Giêsu được trao ban và những ai được đón nhận, thì sự bình an ấy sẽ sinh hoa trái và làm cho người đón nhận được biến đổi. Điều này ta thấy diễn biến của tâm trạng Tôma, từ một người cứng lòng tin, đến nỗi ông thách thức luôn cả Đấng Phục Sinh!!! Tuy nhiên, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi yếu đuối của ông, bởi vì qua biến cố Ngài chịu khổ nạn, tinh thần của Tôma đang hoảng loạn và hoài nghi mọi chuyện, nên Đức Giêsu một lần nữa đem lòng quý mến ông, thương xót ông, nên đã hiện ra và đáp ứng nhu cầu hiếu tri của người môn đệ cứng tin. Tôma đứng trước Đấng đầy lòng thương xót và được nghe thấy Thầy của mình không trách móc, nhưng lại yêu thương và mời gọi ông, cho ông được đặc ân sỏ ngón tay và lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn... Đến lúc này, Tôma đã đụng chạm được vào tận căn của lòng thương xót nơi Thầy mình, vì thế, ông đã thốt lên: “Lậy Chúa là Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Đây là một lời tuyên xưng đức tin nơi tâm hồn bình an thực sự của Tôma. Cũng chính vì lời tuyên xưng đầy tin tưởng này mà Đức Giêsu đã trao ban mối phúc lòng thương xót: “Vì con đã thấy Thầy nên con đã tin; nhưng phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin” (Ga 20,29).
Như vậy, hai lần hiện ra, Đức Giêsu đều muốn các ông rồi mai đây sẽ trở thành chứng nhân của lòng thương xót, ngang qua cuộc sống và hành động của chính mình, để Thầy và trò cùng đi chung con đường thương xót, nhằm trải dài ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho nhân loại.
Sống và thi hành sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc đời Kitô hữu
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: “Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào, và cách riêng trong thời hiện tại chúng ta đang sống, Giáo Hội phải coi một trong những nhiệm vụ chính yếu của mình là rao truyền và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót đã được mạc khải một cách tuyệt vời trong Đức Kitô.”
Khám phá ra sứ điệp thương xót của Đức Giêsu ngang qua lời cầu chúc bình an cho các môn đệ, mỗi người chúng ta cũng hãy xin ơn bình an đó cho chính mình, và loan truyền sự bình an sâu thẳm ấy cho anh chị em chúng ta.
Đây là sứ mạng của mỗi chúng ta! Chúng ta không được dửng dưng với lòng thương xót và cũng không được thờ ơ khi thấy con người, nhân loại hôm nay vô tâm, quay lưng lại với lòng thương thương xót của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina: “Ta khao khát lòng thương xót của Ta được tôn thờ (NK, 998) ; Hãy công bố sự tôn kính lòng thương xót của Ta cho mọi tạo vật (NK 1572). Người nào tín thác nơi lòng thương xót của Ta, thì sẽ không bị tàn lụi, vì tất cả những việc của người đó đều là việc của Ta, và những kẻ thù của họ đều sẽ bị tan tác dưới bệ chân Ta (NK,723). “Ta đòi hỏi con việc làm cho lòng thương xót phát xuất từ tình yêu đối với Ta. Con sẽ tỏ bày lòng thương xót với những người chung quanh con, mọi nơi mọi lúc. Con không được lùi bước hay biện hộ hoặc tự miễn trách nhiệm cho bản thân việc đó. Ta ban cho con ba cách sử dụng lòng thương xót đối với người thân cận: Thứ nhất – bằng việc làm; thứ hai – bằng lời nói; thứ ba – bằng lời cầu nguyện. Trong cả ba cấp đó cần chứa đựng đầy lòng thương xót, và đó là bằng chứng không thể nghi ngờ được của tình yêu dành cho Ta” (NK, 742).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa, con xin tín thác nơi Ngài. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:19-31)
Một cử chỉ hoặc một lời nói của người khác có thể làm chúng ta nhớ suốt đời. Đó là điều thánh PS2-259 Đalat
Một cử chỉ hoặc một lời nói của người khác có thể làm chúng ta nhớ suốt đời. Đó là điều thánh Gio-an đã ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Tường thuật hai lần Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ, thánh sử đều nói đến sự kiện “Chúa đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Chắc chắn cử chỉ và lời nói này vẫn còn in sâu trong tâm hồn các môn đệ, đến nỗi sau nhiều năm, chi tiết ấy vẫn không thể bị bỏ quên trong trình thuật của thánh Gio-an. Nhưng liệu cử chỉ và lời nói ấy còn ảnh hưởng gì nơi chúng ta, những Ki-tô hữu hôm nay không?
Trước hết chúng ta trở lại với khung cảnh Chúa hiện ra với các môn đệ, lần thứ nhất vắng mặt ông Tô-ma và lần thứ hai có mặt ông với lời tuyên xưng rất cảm động của ông: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Chúa đến và đứng giữa các môn đệ. Người đang ở trung tâm của cuộc gặp gỡ, một vị trí quan trọng nhất. Đứng tại đây, vai trò của Chúa nổi bật, vì Người là tất cả những gì đức tin Ki-tô phải hướng về. Sự Phục sinh của Người là cốt lõi cho tất cả những điều các môn đệ Người mọi thời mọi nơi phải làm chứng và rao giảng. Mặc dù hiện thời chung quanh Chúa chỉ là một nhóm nhỏ các môn đệ Ki-tô hữu tiên khởi nhút nhát và sợ sệt, nhưng họ đã thay mặt cho cả một Giáo Hội mai sau sẽ hiện diện khắp nơi trên thế giới. Họ đang đón nhận Mầu nhiệm Phục Sinh với tất cả sự “vui mừng” và chờ đợi được Người sai đi: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Họ cũng đang mở rộng tâm hồn để nhận lấy Thánh Thần khi Chúa “thổi hơi vào các ông”, để họ có quyền tha tội cho người ta và lớn tiếng tuyên xưng Chúa Giê-su là “Chúa của tôi” và “Thiên Chúa của tôi” như tông đồ Tô-ma đã tuyên xưng. Chúa Phục Sinh đứng giữa họ để ban cho họ được tham dự vào quyền năng Thiên Chúa, rồi cũng như Người, họ có thể thực hiện nhiều điềm thiêng dấu lạ (x. Công Vụ Tông đồ 5:12).
Nhưng sự hiện diện của Chúa Giê-su đứng giữa các môn đệ còn có một ý nghĩa quan trọng khác, đó là Người đem lại bình an cho họ. Chúng ta thử tưởng tượng xem, lần trước, khi Chúa hiện đến, họ tưởng Người là ma. Người phải “chứng minh” rằng Người không phải là ma bằng cách bảo họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây”. Rồi Người còn cầm lấy khúc cá nướng mà ăn trước mặt họ nữa. Chứng minh đến thế là cùng! Vì họ chưa hoàn toàn tin, nên mới lo sợ và mất bình an. Bình an chính là điều họ cần có nhất trong lúc này, nên lời đầu tiên và khẩn thiết Chúa phải nói với họ, là: “Bình an cho anh em!” Bình an của Chúa không những dẹp yên bão táp như trên Biển Hồ năm xưa, mà còn ban cho tâm hồn họ một ân sủng quý báu nhất trong các hoa quả của Thánh Thần (Ga-lát 5:22). Chắc chắn rồi mai đây, các môn đệ Chúa lại càng cần tới bình an hơn nữa, khi họ bị bách hại trên đường rao giảng và làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Giống như ngày xưa Chúa Giê-su Phục Sinh đã đứng giữa các môn đệ và chúc bình an cho họ, hôm nay Chúa vẫn đứng giữa chúng ta, trong nhà tạm Thánh Thể và Lời Chúa tại nhà thờ, trong cộng đoàn hoặc trong gia đình mỗi người chúng ta, và ngay giữa tâm hồn chúng ta. Lời chúc bình an của Người, chúng ta nghe và chúc cho nhau trong Thánh Lễ, hoặc trong những lời khích lệ chúng ta nói với anh chị em. Sự hiện diện và bình an của Chúa vẫn mang cùng một lệnh truyền giáo và cùng một sức mạnh đỡ nâng, để chúng ta tiếp tục sứ mệnh của Người. Đặc biệt trong Năm thánh này, Chúa Giê-su đứng giữa chúng ta như “khuôn mặt lòng thương xót” của Chúa Cha. Người kêu gọi chúng ta là môn đệ Người hãy tỏ lòng thương xót đối với anh chị em, như Cha trên trời của chúng ta là Đấng hay thương xót.
Bài đọc 2 kể lại rằng khi ông Phê-rô đi qua, cái bóng của ông phủ lên bệnh nhân nào là người ấy được chữa lành. Vậy có Chúa ngự giữa tâm hồn, chúng ta mỗi người sẽ trở thành cái bóng của Người, để tất cả những ai gặp gỡ cái bóng của Chúa sẽ được Người ban cho bình an và sức mạnh. Thánh lễ hôm nay, Chúa Giê-su đứng giữa chúng ta khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa và rước Người vào lòng. Người phán: “Bình an cho anh chị em!”
Niềm tin vừa là hồng ân nhưng cũng vừa là sự dấn thân của bản thân. Niềm tin có điểm xuất phát từ PS2-260
Niềm tin vừa là hồng ân nhưng cũng vừa là sự dấn thân của bản thân. Niềm tin có điểm xuất phát từ tình yêu và cũng từ niềm tin để dấn thân trong tình yêu. Hai khía cạnh tin và yêu cùng hòa nhịp với nhau để mỗi ngày thêm xác tín hơn.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh và Toma, chính Toma đã xác tín niềm tin của mình bằng một tình yêu mãnh liệt: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).
Tin là một sự dấn thân.
Cuộc đời người môn đệ từ ba năm trước, khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng công khai. Chúa đã gọi các ông từ nơi đang làm việc, họ bỏ mọi sự để đi theo Người. Điểm hẹn đầu tiên với người môn đệ với Thầy luôn là một nơi ghi dấu ấn tượng đầu đời của dấn thân. Như đôi bạn đầu tiên gặp nhau một nơi điểm hẹn, rồi lần lượt thời gian nhắc lại điểm hẹn đầu tiên ấy, sống lại kỷ niệm của thưở đầu quen nhau, yêu nhau. Ký ức ấy sống động cùng tình yêu. Chúa Giêsu cũng hẹn các môn đệ nơi gặp gỡ sau Phục Sinh ở nơi điểm hẹn đầu tiên của ba năm về trước ở Galilê. Từ điểm hẹn đầu tiên, người ta có thể trắc nghiệm về lòng tin vào nhau. Người ấy có đúng hẹn không, người ấy có biết và nhớ sở thích của mình không? Những quan tâm đầu tiên đến nhau đủ mạnh để xây dựng niềm tin không? Tất cả những điều ấy sẽ dẫn tới một quyết định, dấn thân, sống cùng nhau, chia sẻ cuộc đời với nhau. Đó là một tình yêu đủ mạnh để tin vào người mình yêu để dấn thân vào chặng đường mới.
Chân thành về khiếm khuyết.
Tin là một tín thác, chân thành nói về khiếm khuyết cũng như thiếu sót của mình. Toma không ngần ngại nói về sự thiếu lòng tin của mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin” (Ga 20, 25). Là một tình yêu thật sự, điều thiếu sót của bạn sẽ được lắng nghe chân tình, và còn được chia sẻ lại về những vấp váp của người kia. Tình yêu là thật thà, là sẻ chia những vui buồn, những vấp ngã và cả những thành công để thêm niềm tin vào nhau.
Gặp gỡ và đối thoại.
Gặp gỡ nhau thường xuyên là một điều nói lên tình yêu hướng về nhau. Tình yêu có thể là mờ đi tiếng nói của lý trí; thế nên, lý trí đòi hỏi trong tình yêu luôn luôn cần có một sự thức tỉnh qua đối thoại. Đời sống tin yêu của các môn đệ cũng qua chặng đường ấy. Sự kiện hai môn đệ trên đường Emmau, họ nghe và thuật lại câu chuyện về Chúa Giêsu, chết, an táng, rồi sống lại, một cách nghi ngờ. Chúa Giêsu giải thích cho họ về Kinh Thánh, rồi bẻ bánh là một trong những điều Chúa Giêsu làm trườc khi tử nạn. Họ nhận ra Người.
Tình yêu đủ lớn nhưng khối óc cũng cần đủ lớn để hiểu biết lẫn nhau, nhận ra nhau từ trái tim chân thành và lý trí lành mạnh. Tin không bị lừa, yêu không gặp dối.
Tin yêu là một dấn thân liên tục.
Niềm tin không đủ lớn một lần cho tất cả và yêu cũng không đủ một lần cho trọn vẹn. Tin luôn luôn là một đòi hỏi thực hiện lời hứa một cách trung tín. Cam kết đi trong tình yêu để xây dựng niềm tin, đó là một tình yêu đã đi đến kết ước vĩnh viễn. Niềm tin trao cho nhau để không phải là nắm giữ tim nhau, nhưng là để sống trong niềm vui của nhau. Đi bên nhau mà không nghi kỵ nhau, sống bên nhau mà không kiểm soát lẫn nhau, nói với nhau mà không giả dối nhau…
Với các môn đệ một khi đã tin vào Chúa là dám sống chết cho điều mình tin, trở nên nhân chứng cho điều mình tin.
Tin yêu là một đòi hỏi không ngừng dấn thân. Xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện: Yêu mến Chúa hơn để trọn niềm tin vào Chúa hơn, thêm niềm tin vào Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn” qua những năm tháng đời sống, chúng con nên chứng nhân Phục Sinh của Người.
Phúc cho ai không thấy mà tin" (Yn 20,29). Bài Tin Mừng hôm nay liên quan tới Tôma là người PS2-261
"Phúc cho ai không thấy mà tin" (Yn 20,29). Bài Tin Mừng hôm nay liên quan tới Tôma là người không tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại và tự mạc khải cho các môn đệ. Vị Tông đồ này được biết đến nhiều qua tên "Tôma kém lòng tin". Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu tại sao Tôma không tin!
Khi nghe bài Tin Mừng này, chúng ta đã thấy thái độ của các môn đệ khi Chúa Giêsu mới hiện ra với họ. Họ ở với nhau trong phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Nếu đúng thực như thế thì việc họ nói về Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với họ quả có làm Tôma nghi ngờ là phải! Có Thầy ở đó thì việc gì phải sợ hãi nhất là Thầy có quyền năng sống lại từ cõi chết. Đáng lý họ phải mạnh dạn và mở toang phòng hội vì có Đấng uy quyền bên họ mới phải! Nói như thế thì Tôma chẳng phải là kẻ duy nhất trong nhóm họ "kém lòng tin"!
Là người Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi nên nhân chứng cho Đấng đang ngự giữa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô Phục sinh. "Những điều này được viết để chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và chúng ta được sống nhờ Danh Ngài" . Để trắc nghiệm lại chiều sâu và sự vững mạnh của niềm tin chúng ta vào Đức Kitô, chúng ta cần tự hỏi rằng "liệu cuộc đời chúng ta đang sống có nên gương mẫu cho người khác để khi nhìn vào họ thấy có Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa ở đó không? Hay chúng ta cũng khoá kín Ngài trong chúng ta vì sợ người khác nhận ra sự hiện diện của Ngài!". Chúa Giêsu ao ước đến và đem sự bình an cho chúng ta. Ngài muốn thổi hơi sự sống cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta sống nhờ Danh Ngài vì thế mọi cửa ngõ phải mở toang để mọi người trông thấy Ngài trong cuộc đời chúng ta.
Trong bài đọc Sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ rằng các Tông Đồ đã được biến đổi trong đức tin. "Các Ngài đã làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân" (Cv 5, 12). Họ đã nhận được món quà quyền năng và cuộc sống được chúc phúc với Đức Kitô đang chờ đón họ. Nhưng tặng ân đã không được ban để họ cất dấu trong căn phòng khóa kín mà là ban để họ đem Chúa Giêsu đến cho mọi người. Đó là tặng ân của Chúa Thánh Thần. Chính tặng ân này đã khiến họ có thể làm nhiều phép lạ và các việc phi thường. Tuy nhiên để làm tất cả những điều kỳ diệu đó, họ phải mở toang mọi cửa ngõ và long trọng công bố Tin Mừng của Đức Kitô.
Trong mùa Phục sinh này, chúng ta hãy chú tâm sát hạch lại chính mình để Tin Mừng của Đức Kitô không bị cửa đóng then cài trong ta. Hãy tìm đến Chúa Thánh Thần để Ngài trợ lực chúng ta sống cuộc sống Tin Mừng và nên chứng tá đích thực của Đức Kitô. "Yavê là sức mạnh và lời ca nơi miệng tôi, Ngài đã nên nguồn tế độ cho tôi!" (Tv 118, 14).
Chúa nhật hôm nay là lễ “LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT”. Lễ này được Đức chân phước giao hoàng PS2-262 ĐaNẵng
Chúa nhật hôm nay là lễ “LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT”. Lễ này được Đức chân phước giao hoàng Gioan-Phaolô II thiết lập vào ngày 30-4-2000, theo ước muốn của Chúa bày tỏ cho nữ tu Faus-ti-na.
Nữ tu Faus-ti-na sinh năm 1905 tại Ba-lan. Chị là người con thứ ba trong 10 người con của một gia đình nông dân nghèo khổ. 15 tuổi chị xin đi tu, nhưng cha mẹ không bằng lòng. Mãi khi 20 tuổi chị mới được phép.
Con nhà nghèo, học hành không có, nhà dòng sai chị làm những việc rất hèn mọn như nấu bếp, làm vườn, coi nhà, canh cổng. Nhưng chị làm với tất cả vì lòng mến Chúa và cứu các linh hồn.
Ngày 22-2-1931, sau 6 năm vào dòng, Chúa Giê-su hiện ra với chị. Chị thấy toàn thân Chúa sáng ngời, và từ Trái Tim Chúa chiếu ra hai luồng sáng phá tan bóng tối sự chết và tội lỗi. Chân Chúa bước tới gần kêu gọi mọi người nhìn lên Chúa. Tay trái Chúa chỉ vào trái tim như mời gọi mọi người tin cậy vào lòng Chúa thương xót.
Trong kinh Cầu Xin Lòng Chúa Thương Xót có câu: “Lạy Cha từ bi, chỉ mình Cha mới phán xét con. Cha không bao giờ từ chối khi con thống hối ăn năn, chạy tới lòng thương xót của Cha, nơi mà chưa một linh hồn nào bị từ chối, mặc dù họ là một linh hồn vô cùng tội lỗi. Lời Chúa Giêsu, Con Cha, đã bảo đảm với con rằng: ‘Thà rằng trời đất này biến ra không, nhưng lòng thương xót của Ta luôn ấp ủ một linh hồn tín thác’”
Đọc sách TM thánh Gio-an, những lần Chúa Giê-su sống lại hiện ra là những lần Chúa biểu lộ lòng Chúa thương xót.
Chúa nhật Phục sinh vừa qua, sách TM thánh Gio-an kể: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mac-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: ‘Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (Ga 20,1-2).
Hai tông đồ Phê-rô và Gio-an vội chạy ra mộ. Thấy khăn liệm và khăn che đầu được gấp lại và để gọn gàng, hai ông tin Chúa sống lại.
Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la tưởng là người ta đã lấy mất xác Chúa, thì Chúa hiện ra với bà. Chúa gọi tên bà, bà nhận ra Chúa (20,10).
BTM: BTM thánh lễ hôm nay cho biết: vì mới có hai tông đồ Phê-rô Gio-an và bà Ma-ri-a Mác-đa-la tin Chúa sống lại, còn các người khác chưa tin. Nên Chúa thương, ngày chúa nhật sau, khi các tông đồ họp nhau, Chúa hiện ra cho các ông, và cho các ông thấy các vết thương của Chúa.
Chẳng những Chúa thương các tông đồ, Chúa còn thương mọi người. Chúa biết loài người vẫn phạm tội, làm Chúa đau khổ, và làm cho nhau đau khổ, nên Chúa ban quyển tha tội cho các tông đồ, để các tông đồ tha tội cho loài người: “Anh em tha tội cho ai, người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23).
Trong buổi nhóm họp này vắng mặt tông đồ Tô-ma. Các tông đồ kể lại, tông đồ Tô-ma không tin, còn cao giọng nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).
Dù ông Tô-ma cứng lòng tin, Chúa cũng thương. Chúa nhật tuần sau, Chúa hiện ra để ông tin. Chúa bảo ông: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Bđ1: Sách Công vụ Tông đồ trong bđ1 hôm nay kể lại những người Do thái nghe các tông đồ giảng và tin theo Chúa. Sách viết: “Càng ngày càng thêm nhiều người tin theo Chúa. Cả đàn ông đàn bà rất đông” (Cv 15,14). Họ đúng là “những người không thấy mà tin”.
Bđ2: Chẳng những họ tin, họ còn chịu khổ vì đức tin. Sách Khải Huyền kể lại những đau khổ của các con cái Chúa. Chính bản thân thánh tông đồ Gio-an cũng phải chịu. Ngài kể: “Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cũng chia sẻ nỗi gian truân…và cùng kiên trì chịu đựng với anh em” (Kh 1,9).
Nhưng Chúa không để con cái Chúa chịu đau khổ một mình. Chúa đã hiện ra, truyền cho thánh Gio-an viết sách Khải Huyền để an ủi và khích lệ các con cái Chúa chịu đau khổ vì Chúa.
Ước gì trong cuộc sống dẫy đầy nước mắt này, chúng con cảm nếm được lòng thương xót của Chúa. Amen 7-4-2013
Có một giai thọai về thánh Tôma như sau: sau khi Chúa Giê-su về trời, các tông đồ bắt thăm để PS2-263
Có một giai thọai về thánh Tôma như sau: sau khi Chúa Giê-su về trời, các tông đồ bắt thăm để đi truyền rao Tin Mừng. Thánh Tô-ma bắt phải thăm đi Ấn-độ. Ngài từ chối, lấy lý do là không đủ sức khỏe. Ngài còn nại lý do bất đồng ngôn ngữ để từ chối. Ngài nói: “Tôi là người Do-thái, làm sao tôi đến giảng cho người Ấn-độ được”.
Đêm về Chúa Giê-su hiện ra và nói vơi thánh Tô-ma: “Tô-ma, con đừng sợ. Con hãy đi giảng lời Thầy cho dân Ấn-độ. Ơn Thầy đủ cho con”. Nhưng thánh Tô-ma vẫn cứng cổ thưa: “Thầy muốn con đi bất cứ đâu, con cũng sẵn sàng, nhưng đi Ấn-độ tuyệt đối con không đi”.
Ông Ab-ba-nes được vua Ấn-độ sai đến Giê-ru-sa-lem tìm một người thợ mộc khéo tay. Chúa Giê-su gặp ông ở chợ và hỏi: “Có phải ông muốn mua một người thợ mộc không ?”. Ông Ab-ba-nes thưa: “Phải, tôi muốn mua một người thợ mộc”. Chúa Giê-su bảo ông: “Tôi có một người nô lệ làm thợ mộc rất héo tay, Nếu ông muốn, tôi bán cho ông”. Vừa nói Chúa Giê-su vừa chỉ vào thánh Tô-ma đang đứng đàng xa. Sau khi thỏa thuận giá cả, Chúa viết giấy bàn như sau: “Tôi là Giê-su, con ông thợ mộc Giu-se. Tôi bán người nô lệ của tôi tên là Tô-ma cho ông Ab-ba-nes, một thương gia của vua Ấn-độ”. Hai bên ký kết và thanh toán tiền bạc xong, Chúa Giê-su đem thánh Tô-ma giao cho ông Ab-ba-nes. Sáng hôm sau thức dậy, thánh Tô-ma cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con xin vâng theo ý Chúa”.
Thánh Tôma được đưa về Ấn-độ và được đem đến trình diện vua Ấn. Vua sai ông đi xây cung điện cho vua. Vua hoàn toàn tín nhiệm ông. Vua đưa cho ông nhiều tiền để mua vật liệu và thuê thợ. Thay vì dùng tiền để xây cung điện, thánh Tô-ma dùng giúp đỡ người nghèo.
Mãi chưa thấy có cung điện, vua hỏi thánh Tô-ma: “Nhà ngươi có xây cung điện cho ta không ?”. Thánh Tô-ma thưa: “Dạ, có”. Vua hỏi: “Khi nào ta đến xem cung điện của ta ?”. Thanh Tô-ma đáp: “Bây giờ hoàng thương chưa thể xem được. Khi qua đời, hoàng tượng sẽ thấy cung điện của hoàng thương”.
Thoạt nghe, vua giận dữ, truyền đem thánh Tôma đi giết. Nhưng khi được thánh Tô-ma giảng Nước Trời, vua vui sướng theo đạo, để được vào cung điện Nước Trời.
Theo lịch sử Giáo Hội, thánh Tô-ma đã đi rao giảng Tin Mừng cho nươc Ấn-dộ. Các học trò của ngài sang Trung Hoa giảng đạo, sang cả Việt Nam. Thái thú Sĩ Nhiếp sang cai trị Việt Nam từ năm 187 đến 226. Cơ quan của ông ở Thanh Hóa. Ông đã treo Thánh Giá trong cơ quan.
BTM: Niềm tin của GH là niềm tin “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29). Các tông đồ được phúc “thấy”, để rồi xây dựng niềm tin “không thấy” của GH. Vì thế khi hiện ra, Chúa Giê-su truyền: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (20,21). Trước khi ra đi, các tông đồ được Chúa trang bị bằng ơn Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần” (20,22).
Nhờ các tông đồ, GH cùng một niềm tin như các ngài là tin Chúa Giê-su là Thiên Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20,28).
Thiên Chúa (Giavê) là tên Thiên Chúa mặc khải cho ông Môsê. Người Do Thái không dám kêu tên Thiên Chúa, vì sợ bất kính. Trong cầu nguyện, ngưới Do Thái dùng từ A-đô-nai, nghĩa là “Chúa của con”.
Vậy khi gọi Chúa Giê-su là “Chúa” là tin nhận Người là “Thiên Chúa”, Đấng sáng tạo, Đấng tối cao, Đấng toàn năng.
Trong tiếng Hy lạp, từ “Chúa” là “Ki-tô”. Ki-tô được dùng để gọi Xê-da, vua Rô-ma. Họ coi Xê-da như là một Thiên Chúa, và khi ông chết người ta đã thần thánh ông. Khi tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, là Ki-tô, các tín hữu từ chối vua Xê-da là chúa. Chỉ có Đức Giê-su là Chúa mà thôi. Sự từ chối này khiến các Ki-tô hữu phải chết, phải tử đạo.
Bđ2: Đúng vậy, các Kitô hữu đã bị bắt bớ, tử đạo. Chính thánh Gio-an tông đồ cũng phải bị tù đày ở đảo Pat-mốt. Người viết trong bđ2 ; “Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vướng quốc, và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong trong Đức Giêsu” (Kh 1,9).
Chúa đã hiện ra bảo thánh Gio-an viết sách Khải Huyền để an ủi khích lệ các con cái Chúa bị bắt bớ tù đày vì đạo thánh Chúa.
Bđ1: Sách Công vụ Tông Đồ cho biết, tuy các nhà lãnh đạo không tin theo lời các tông đồ giảng dạy, nhưng dân chúng thì tin theo: “không ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa, cả đàn ông đàn bà rất đông” (Cv 5,13).
Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh của Chúa nhật II Phục sinh hôm nay, chúng ta sẽ thấy Chúa như PS2-264
Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh của Chúa nhật II Phục sinh hôm nay, chúng ta sẽ thấy Chúa như câu đáp ca của thánh lễ: “Hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Bài đọc 1: Suốt Mùa Phục sinh, Giáo hội cho chúng ta đọc sách Công Vụ Tông Đồ của thánh Lu-ca. Bài đọc 1 thánh lễ hôm nay nói đến cộng đoàn những “những người tin theo Chúa” (Cv 5,14). Thánh Luca không còn gọi họ là những người theo đạo Do Thái nữa, mà gọi họ là “những tín hữu” (5,12), “những người tin theo Chúa”.
Những người tin theo Chúa tập họp lại thành một cộng đoàn. Thánh Lu-ca đã ba lần mô tả cộng đoàn này. Bđ1 hôm nay là lần thứ ba. Thánh Luca mô tả: “Mọi tín hữu đồng tâm nhất trí, thường hội họp tại hành lang Sa-lô-môn” (5,12). Cộng đoàn có 3 đặc điểm:
1/ đồng tâm nhất trí với nhau,
2/ thường hội họp, nghĩa là hằng tuần cử hành “lễ bẻ bánh” (Cv 2,42), tức là thánh lễ,
3/ công đoàn còn tin nhận các thánh tông đồ là những vị lãnh đạo. Thánh Lu-ca kể: “Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố, đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó” (5,15). Các tông đồ thay mặt Chúa lãnh đạo, nhân danh Chúa lãnh đạo, lãnh đạo bằng quyền năng của Chúa. Chúa đã sống lại, nên Chúa hiện diện và hành động qua các tông đồ. Chúng ta “hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ”, Chúa nhân từ gọi chúng ta vào cộng đoàn những người tin Chúa, vào Giáo hội của Chúa, vào giáo xứ, vào cộng đoàn tu trì.
Bài đọc 2: Sách Khải Huyền của thánh Gio-an cũng được đọc liên tiếp trong 6 Chúa nhật mùa Phục sinh. Khải huyền là một lối văn xuất hiện vào thế kỷ II trước Chúa giáng sinh. Khải huyền làm sống lại phong trào các ngôn sứ đã vắng mặt từ lâu. Khải huyền dùng lối văn biểu tượng, hình ảnh, mầu sắc, con số, sự vật, con vật, và những ẩn dụ. Khải huyền có nghĩa là “vén mở những gì ẩn dấu”, tức là “mặc khải”. Sách Đa-ni-en là sách dùng lối văn khải huyền đầu tiên, vào giữa thế kỷ II trước CGS. Sách Khải huyền của thánh Gio-an đã mượn nhiều hình ảnh của sách Đa-ni-en. Chẳng hạn hình ảnh “Con Người”.
Bđ2 thánh lễ hôm nay đã kể thị kiến đầu tiên của thánh Gioan. Thị kiến đó như sau: “Tôi đang ở đảo Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Chúa Giêsu. Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn nói rằng: “Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh’. Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có có thắt đai bằng vàng” (Kh 1,9-13).
“Con Người” là hình ảnh ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng 93 lần để diễn tả về thân phận con người. Ngôn sứ Đa-ni-en dùng để diễn tả Đấng Thiên sai và Vị Vua, đã dùng quyền năng để thống trị sức mạnh sự dữ và ngày sau hết sẽ chiến thắng. Khi dùng hình ảnh “Con Người”, thánh Gio-an muốn nói rằng: với sự sống lại của Chúa Giê-su, thời sau hết đã đến. Con Người mặc áo choàng và thắt đai vàng là hình ảnh vị thượng tế trong sách Xuất hành (28-29). Chúa Giê-su chính là vị thượng tế tối cao thay cho các vị thượng tế của đạo Do thái. Cũng như các Giáo hội thay cho những cây đèn vàng trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Thị kiến xảy ra vào “ngày của Chúa”, tức là vào ngày chúa nhật, ngày Chúa sống lại.
Như thế, bđ2 thánh lễ hôm nay cũng đã nói đến các tín hữu Chúa họp nhau để cử hành thánh lễ vào mỗi ngày chúa nhật. Chúng ta “hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ”, Chúa đã cho chúng ta cũng được phúc hằng tuần vào các ngày chúa nhật hay hằng ngày được đến nhà thờ, để cử hành “lễ bẻ bánh”, cử hành thánh lễ với Vị Thượng tế Giêsu.
Bài Tin Mừng: Chúng ta còn tạ ơn Chúa, vì trong thánh lễ, chúng ta được gặp Chúa. Bài TM thánh lễ hôm nay kể Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ cũng vào ngày chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần: “Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: ‘Bình an cho anh em’. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,19-20).
Thánh Gio-an kể Chúa hiện ra hai lần. Lần thứ nhất thánh Tô-ma vắng mặt, nên đã không gặp được Chúa. Lần thứ hai thánh Tô-ma có mặt, nên đã gặp được Chúa. Để thỏa mãn đòi hỏi của ông, Chúa đã cho ông xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn. Có lẽ ông đã không xỏ, không đặt. Dù vậy, ông đã tin và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (20,28), nghĩa là ông tin nhận Chúa là ông chủ và là Thiên Chúa của ông.
Như thế, lần thứ nhất thánh Tô-ma không đi lễ chúa nhật với anh em, nên ông đã không gặp được Chúa; còn lần thứ hai, ông đã đi dâng lễ chúa nhật, nên ông đã gặp được Chúa. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa đã cho chúng ta đi dâng lễ, không những chúng ta được gặp Chúa, mà còn được Chúa ngự vào lòng chúng ta. Chính nhờ thánh lễ, cuộc sống hằng ngày có trăm bề thử thách, có ngàn nỗi ê chề, chúng ta vẫn bình an, vẫn vui sống. Trái lại, người ta không đi lễ, nên người ta không đủ can đảm để đương đầu với những thử thách khổ đau, người ta đã chán đời, người ta đã hận đời.
Năm 1645, cha Đắc Lộ bị chúa Nguyễn trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Trong khi chờ xuống tầu của người Bồ tới buôn bán. Cha bị quản thúc trong một gia đình người Nhật ở Hội An. Ông Phan-sinh, chủ gia đình, tối đến bắc thang cho cha trèo qua cửa sổ sang nhà có đạo bên cạnh, để gặp gỡ giáo dân, rửa tội, giải tội và dâng thánh lễ. Độ 2 giờ sáng cha trèo về. Cứ thế được 22 ngày. Cha kể: nhiều người từ vùng biên giới cách xa cả ngàn dặm, cũng không quản ngại tìm đến.
Bởi vì họ cần được gặp Chúa, cần có Chúa trong cuộc đời.
Con người thuở ban sơ thật tốt lành, sống chan hoà tình thương trong cảnh địa đàng. Cùng làm cùng PS2-265 Lượng
Con người thuở ban sơ thật tốt lành, sống chan hoà tình thương trong cảnh địa đàng. Cùng làm cùng ăn và cùng chung nhau mọi sự. Một cảnh sống hạnh phúc và thanh bình. Nhưng Sách Thánh đã ghi lại biết bao nhiêu sự tích phản ảnh cho những sự kiện đã phá vỡ rất sớm cái cảnh hoà bình yên vui đó.
Tội lỗi đã đột nhập vào cuộc sống, khi con người bắt đầu có của riêng, với nghề nghiệp riêng, quyền lợi riêng, đã gây ra những mâu thuẫn đối kháng. Ai ngờ anh em ruột thịt như Cain và Abel, đã đi tới chỗ thanh toán nhau, anh giết em rồi phủi tay như không có một chút trách nhiệm nào. Anh làm nghề trồng trọt, em làm nghề chăn nuôi, đồng cỏ và ruộng vườn đã trở thành đối tượng tranh chấp quyền lợi khi nó trở thành đồng riêng và ruộng riêng. Abraham và Lót là chú cháu. Nhưng đàn súc vật của chú không còn là của cháu và giếng nước càng phải nên của riêng, chú cháu tranh chấp rồi chia rẽ, mỗi người phải đi về một hướng, mâu thuẫn nhau như đông với tây.
Tiếp đến là cảnh người được làm chủ nhân, kẻ phải làm đầy tớ, cũng đã khiến hai anh em Isaac và Ismael cùng cha khác mẹ, trở thành kẻ thù truyền kiếp. Địa đàng không còn, hoà bình đã tan vỡ, đang khi nó vẫn là đòi hỏi mãi mãi bức thiết của một nhân loại cần được sống hạnh phúc. Sách thánh có thể được coi như mặt trái của lịch sử đòi hoà bình trên nền tảng không thể thiếu của công bình xã hội, theo những đòi hỏi của một niềm tin vào Thiên Chúa.
Lịch sử đã chỉ rõ cho thấy từ bao thế hệ niềm tin mà không tổ chức thành hành động xã hội thì không thể giải quyết được vấn đề xã hội nào, kể cả hoà bình: hoà bình giữa người với người, hoà bình giữa dân tộc này với dân tộc khác, hoà bình trên khắp mặt địa cầu. Bởi vì bao lâu còn bất công, thì bấy lâu sẽ còn tồn tại những bất bình. Muốn xoá bỏ bất công, muốn chấm dứt bất bình, thì phải có những hành động xã hội. Phải chăng các tín hữu đầu tiên đã hiểu ra bài học kinh nghiệm này của lịch sử dân Chúa, hiểu ra được ý nghĩa thiết thực của sứ điệp Tin Mừng, để tổ chức một nếp sống mới. Từ sau cái chết của Chúa Giêsu, một cộng đồng tín hữu mới xuất hiện như dấu chỉ của ơn phục sinh, như hoa trái đầu mùa của ơn cứu rỗi. Họ không lập ra những nghi thức mới, những đền thờ mới, nhưng họ tổ chức một nếp sống xã hội mới, phỏng theo tinh thần của Đức Kitô: bỏ mọi sự làm của chung, rồi phân phối theo nhu cầu, không ai phải thiếu thốn bên cạnh sự giàu có của kẻ khác. Do đó mà giữa họ có được một cảnh sống đoàn kết yêu thương và hoà bình chan chứa.
Hoa bạch chỉ là loại hoa nổi tiếng quý giá. Có một người dân thành thị về chốn thôn dã tìm hái PS2-266
Hoa bạch chỉ là loại hoa nổi tiếng quý giá. Có một người dân thành thị về chốn thôn dã tìm hái hoa này. Anh ta nghĩ hoa quý, ắt phải nở trên đỉnh núi cao, bèn cố sức trèo lên đỉnh núi tìm hoa. Lên đến đỉnh núi, anh ta lục lạo suốt buổi mà chẳng thấy bông hoa nào, đành thất vọng xuống núi, ra về tay không.
Hôm sau, anh ta lại tìm theo lối cũ lên núi lục lạo thêm một phen nữa, vẫn không kiếm ra. Ngày thứ ba, anh vẫn chưa nản chí, tiếp tục leo lên đỉnh núi tìm hoa bạch chỉ. Anh tự nhủ:
- Giống hoa quý này chỉ có trên đỉnh núi cao, ta không tin là sẽ không kiếm ra nó trên đỉnh núi cao!
Nhưng cuối cùng, anh ta vẫn không kiếm ra loại hoa quý này. Trong lúc chán nản thất thểu xuống núi, anh ta chợt thấy trong đám cỏ mọc dướii chân núi có hoa bạch chỉ. Đáng tiếc là nó đã bị chính anh giẫm nát mất rồi.
* * *
Những người quá tin vào ý nghĩ chủ quan của mình thường cố cháp, không lắng nghe ai, để rồi công sức của mình đều đem ra đổ sông, đổ biển. Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh, hiện ra với các tông đồ, vắng mặt Tôma.
Vì thế, khi nghe các môn đệ khác nói: "Chúng tôi đã được thấy" (Ga 10,25), ông đã không tin. Tôma đúng là một con người của thực nghịệm, việc gì cũng đòi phải kiểm chứng, đòi phải "thấy và chạm đến" mới tin. Nhưng thực ra đâu phải những gì "thấy mới tin". Có ai thấy lúc cha mẹ sinh ra mình đâu, thế nhưng vẫn tin đó là cha mẹ của mình. Có ai thấy luồng điện chạy qua sợi dây điện đâu, thế mà mọi người vẫn tin là có điện ở trên đó. Người ta thường "tin" vào các sự kiện mà người khác "thấy". Chúng ta tin Đức Thánh Chsa đang cai quản Hội thánh tại kinh thành Roma, co dù chúng ta chưa bao giờ thấy ngài. Chúng ta tin Đức Kitô chết và sống lại , cho dù chúng ta chẳng hề thấy người. Niềm tin của chúng ta chỉ dựa vào lời chứng của các Tông đồ: "Chúng tôi đã được thấy Chúa".
Như thế, niềm tin đâu chỉ dựa vào giác quan mà còn dựa vào đức tin của những kẻ đã "thấy và đã tin", những kẻ đã dám lấy cái chết để chứng minh cho niềm tin của mình.
Nếu Đức Kitô đã thỏa mãn lòng mong ước của Tôma là cho ông được "thấy và chạm đến" vết thương của Người là để củng cố niềm tin của ông. Đôi khi trong cuộc sống, Thiên Chúa cũng cho chúng ta được "thấy và chạm đến" những quyền năng phép lạ, những hồng ân bất ngờ, là để chúng ta thêm niềm tin tưởng nơi Người.
Đứng trước ân ban của Đức Giêsu cho Tôma được "thấy và chạm đến" Người, thì ông đã đáp lại bằng một cử chỉ tuyệt vời, là sấp mình xuống thưa:
"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" ! (Ga 20,28). Lời tuyên xưng của Tôma quả là rõ ràng, trong suốt như pha lê. Đó là niềm tin của chúng ta. Niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Người là Chúa và là Thiên Chúa thật. Chính nhờ Tôma mà niềm tin của chúng ta được chúc phúc: "Phúc thay những ngưồi không thấy mà tin" (Ga 20,39).
* * *
Lạy Chúa, Đức tin là một ân huệ Chúa ban, chúng con xin cảm tạ Chúa. Xin thêm đức tin cho chúng con, để dù bao thăng trầm của cuộc sống, chúng con vẫn vững một niềm tin vào Thiên Chúa và con người. Amen.
1. Thái độ của Tôma: đòi hỏi bằng chứng mới chịu tin
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến thái độ của tông đồ Tôma. Ông đòi buộc phải thấy dấu đinh trong PS2-267
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến thái độ của tông đồ Tôma. Ông đòi buộc phải thấy dấu đinh trong tay Đức Giêsu, xỏ ngón tay vào lỗ đinh ấy rồi đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, thì ông mới tin. Lý trí thiên về thực nghiệm và có chiều hướng khoa học của ông đòi buộc ông phải làm như thế, nếu không, ông không thể chấp nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại, vì việc sống lại quả hết sức khó tin. Nhưng rất có thể là sau khi được thỏa mãn những đòi hỏi ấy, Tôma xác tín việc Chúa sống lại hơn nhiều tông đồ khác. Người ta vẫn nói: « đại nghi thì đại ngộ» (nghi ngờ lớn thì giác ngộ lớn)! Các tông đồ khác - với bản tính đơn sơ, dễ tin hơn - không cảm thấy phải có những bằng chứng rõ ràng như Tôma mới tin được. Các ông chỉ dựa vào một số những biến cố thấy được nơi Thầy mình trước đây, như cuộc hiển dung trên núi Tabo, khả năng làm phép lạ như hóa bánh ra nhiều, làm sóng gió ngoài biển phải im lặng, thậm chí làm được cho kẻ chết sống lại nhiều lần, v.v... là các ông đã đủ để tin rồi.
Đòi hỏi hay không đòi hỏi bằng chứng để tin không phải là chuyện quan trọng. Điều này tùy thuộc vào bản tính Trời cho của mỗi người. Điều quan trọng là phải làm sao để tin cho chắc, tin cho vững, tin tới mức có thể dám dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Có những người rất dễ tin, vì thế niềm tin ấy không được xây dựng trên cơ sở vững chắc để có thể giúp họ dấn thân hết mình cho điều mình tin, nên khi gặp những giông tố thử thách, nghe những lý thuyết ngược lại, thì đức tin đâm ra bị chao đảo. Vì thông thường là: nếu dễ tin trong trường hợp này thì cũng sẽ dễ tin trong những trường hợp khác! Hay dễ được thì cũng dễ mất! Cũng có những người đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới chịu tin. Có thể họ không tin nếu chưa đủ chứng cớ. Nhưng một khi đã có chứng cớ làm cơ sở để tin, thì họ lại tin rất vững chắc tới mức độ có thể dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Hạng người sau sẽ ích lợi cho Thiên Chúa, Giáo Hội và nhân loại hơn. Cũng có thể có những người tuy dễ tin, nhưng vẫn tin vững chắc và không thay đổi được. Điều này theo lý luận thì khá nghịch lý, nhưng vẫn có thể xảy ra, vì trong thực tế vẫn có những điều rất nghịch lý!
Trong Kitô giáo, đức tin là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, tin hay không tin không quan trọng bằng chất lượng của đức tin. Người tin hời hợt cũng là tin, và người tin một cách xác tín cũng là tin. Nhưng giá trị của hai thứ đức tin ấy khác hẳn nhau.
2. Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu
Người Kitô hữu coi việc rỗi linh hồn, tức hạnh phúc vĩnh cửu, là điều quan trọng nhất. Họ có thể hy sinh tất cả mọi thứ khác trên đời cho hạnh phúc vĩnh cửu ấy, và đó chính là sự khôn ngoan căn bản của họ. Vì như Đức Giêsu nói: « Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì ích lợi gì?» (Lc 9,25). Nhưng muốn được sự sống đời, thì phải tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu-Kitô, hay vào Tin Mừng của Ngài như một điều kiện không thể không có: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc 16,16); «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9).
3.Nhưng điều quan trọng là chất lượng của đức tin
Nhưng thế nào là tin đúng với ý nghĩa của chữ « tin»? Nhiều người tưởng rằng mình tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, nhưng thật ra họ chẳng tin hay chỉ tin rất ít! Chỉ cần Chúa gửi đến cho họ một vài thử thách là họ sẽ thấy ngay họ có tin hay không, hoặc tin ở mức độ nào.
Thật vậy, trong những điều kiện bình thường không có gì đe dọa, có biết bao người tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, rao giảng đức tin hùng hồn không ai bằng. Thậm chí để bảo vệ đức tin, họ không ngần ngại lên tiếng kết án những kẻ xem ra yếu đức tin hoặc tin khác với mình. Nhưng khi có thử thách xảy tới, chẳng hạn khi tình thế đòi buộc phải lên tiếng bảo vệ đức tin, bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ công lý, và việc lên tiếng bảo vệ này đòi hỏi phải trả một cái giá nào đấy, thì họ lại sẵn sàng im lặng bất động, bỏ mặc đức tin, Giáo Hội và công lý ra sao thì ra. Hay khi đức tin đòi hỏi phải dấn thân hy sinh, chịu thiệt thòi một cách cụ thể mà trước mắt không được bù đắp lại, lúc đó họ mới nhận ra đức tin của họ - mà họ vẫn tưởng rất mạnh mẽ - hóa ra là thứ đức tin chỉ tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng mà thôi!
4. Tin thật trong lòng quan trọng hơn tuyên xưng ngoài miệng
Phải nói rằng chúng ta chú tâm vào việc tuyên xưng đức tin hơn là sống đức tin, chúng ta quan tâm chứng tỏ đức tin bằng miệng, bằng lời nói nhiều hơn bằng hành động. Chúng ta có khuynh hướng chọn cái dễ hơn, cái « rẻ tiền» hơn để thực hiện, chứ không chọn cái thật sự cần thiết dù là «đắt giá», vì thế, đời sống đức tin và việc truyền giáo của chúng ta không đi đến kết quả mong muốn. Theo thánh Phaolô thì «có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ» (Rm 10,10). Chúng ta có vẻ coi việc xưng ra ngoài miệng quan trọng hơn việc tin thật trong lòng. Có phải chúng ta coi việc «được ơn cứu độ» quan trọng hơn việc «được nên công chính»? Nhưng cần xét lại xem: có ai không trở nên công chính mà được ơn cứu độ nhờ «xưng ra ngoài miệng» không? Lời ấy của thánh Phaolô đòi hỏi chúng ta phải làm cả hai, và điều trước (tin thật trong lòng) thì quan trọng và cần thiết hơn điều sau (xưng ra ngoài miệng)! Điều sau chỉ là hiệu quả chứng tỏ điều trước mà thôi. Vì theo tự nhiên thì «lòng có đầy, miệng mới nói ra» (Mt 12,34; Lc 6,45). Lòng không đầy mà ngoài miệng lại nói ra thật hùng hồn mạnh mẽ thì rất có thể đã có phần nào giả dối trong đó!
Thật vậy, thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng chứ không được chứng tỏ bằng hành động chỉ là đức tin giả dối, hay « đức tin chết»: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Liệu người ta có thể được cứu rỗi với thứ «đức tin chết» ấy không?
5.«Phúc thay những người không thấy mà tin!»
Quả thật, nếu thấy rồi thì đâu còn là tin nữa, mà là thấy, biết! Như vậy, tin khác với thấy, biết. Tin chỉ có ý nghĩa khi đối tượng tin còn mù mờ, chưa sáng tỏ, nó vừa đòi hỏi lý trí nắm được một số chứng cứ để tin, vừa đòi hỏi ý chí chấp nhận một kết luận vượt khỏi giới hạn mà những chứng cứ ấy chứng tỏ. Chẳng hạn bố mẹ tôi nói với tôi rằng lúc nhỏ tôi bị một chứng bệnh rất nguy hiểm mà tôi đã thoát được. Tôi tin điều ấy, chứ không phải tôi biết hay thấy điều ấy. Để tin điều ấy, trong tôi có tác động của lý trí và ý chí. Lý trí tôi dựa trên những chứng cứ xác thực này:
- bố mẹ tôi sinh ra tôi và nuôi tôi nên biết rõ điều đó. - bố mẹ tôi là một người chân thật, không hay nói dối - tôi thấy bố mẹ tôi không có lợi gì khi dối gạt tôi điều này.
Những chứng cứ ấy chưa đủ để tôi có thể kết luận chắc chắn điều ấy. Nhưng dựa trên những chứng cứ xác đáng ấy, tôi xác định rằng điều bố mẹ nói về chứng bệnh lúc tôi còn nhỏ ấy là sự thật. Xác định điều ấy khi chưa hoàn toàn sáng tỏ là việc làm của ý chí tự do.
Lời của Đức Giêsu: « Phúc thay những người không thấy mà tin!» đặc biệt áp dụng cho chúng ta hơn là cho các tông đồ. Tất cả chúng ta chẳng ai thấy Đức Giêsu, chẳng ai thấy Ngài sống lại. Nhưng chúng ta tin điều ấy. Niềm tin ấy được xây dựng trên những lời chứng phải trả giá bằng máu, bằng mạng sống của các tông đồ, là những người đã sống với Đức Giêsu và đã chứng kiến Ngài sống lại: «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. 3,15; 4,33; 10,39.42; 13,31). Không ai lại sẵn sàng chết để làm chứng một điều gian dối chẳng đem lại lợi lộc gì cho mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin củng cố đức tin cho con, đồng thời giúp con luôn thành thật với niềm tin của mình. Đừng để cho con trở nên giả dối: tin thì không mạnh, nhưng tuyên xưng ngoài miệng thì rất là mạnh. John Nguyễn (Nguồn vietcatholic.org)
Chúng ta đã long trọng mừng lễ Phục Sinh. Mọi ồn ào của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống. PS2-268
Chúng ta đã long trọng mừng lễ Phục Sinh. Mọi ồn ào của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống. Những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua. Đối với nhiều người, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết. Điều còn lại có thể chỉ là những lời bình phẩm về cách tổ chức lễ năm nay có gì hơn hay kém năm ngoái. Để tránh lối suy nghĩ lệch lạc đó nơi các tín hữu, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu. Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau. Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I). Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ và chứng kiến những điều tốt lành họ đang làm.
Tuy vậy, vấn đề người chết sống lại, xưa cũng như nay, được coi là một câu chuyện hoang đường, không thể chấp nhận. Ngay như các môn đệ là những người đã cùng sống với Chúa và đã được nghe Người tiên báo về sự phục sinh, mà các ông còn chưa dễ dàng tin vào sự kiện này. Thánh Máccô ghi lại sự nghi ngờ đến mức cứng lòng của các ông: Khi bà Maria Mácđala kể với các ông là bà đã gặp Chúa phục sinh, các ông cũng không tin. Các ông cũng không tin khi hai môn đệ từ Emmau trở về quả quyết đã gặp Chúa (x. Mc 16, 9-13).
Lời Chúa hôm nay dẫn chứng một nhân vật cụ thể nữa, đó là Tôma. Ông không có mặt khi Chúa hiện ra với các môn đệ. Điều các bạn kể lại không thể thuyết phục ông chấp nhận một điều “ngược đời”. Dấu đinh ở tay, vết thương ở cạnh sườn Chúa… là những điều ông đã chứng kiến như bằng cớ của việc Chúa Giêsu đã chết. Đối với ông, việc được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thủng là bằng chúng xác thực về việc Chúa sống lại. Thực ra, Tôma không thách thức Chúa, ông chỉ cần bằng chứng thiết thực để ông tin.
Chúa Giêsu đã đáp trả những điều kiện Tôma đã đưa ra. Tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện đến với các ông với những thương tích trên thân thể Người. Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa mời ông thực hiện những điều ấy. Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa. Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin.” Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình.
Trong trình thuật của mình, thánh sử Gioan hai lần nói đến chi tiết “các cửa đều đóng kín,” để diễn tả Đức Giêsu phục sinh không còn bị giới hạn bởi không gian, nghĩa là Người trở nên thiêng liêng giữa thế giới của chúng ta. Cũng như Người có thể vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, hôm nay Người đang hiện diện nơi dung mạo và cuộc đời của những ai mang tên Người, tức là các Kitô hữu. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II)
Chúa Giêsu phục sinh hôm nay đang hiện diện cách huyền nhiệm nơi cuộc đời này. Sự hiện diện của Chúa có thể được chứng tỏ qua đời sống đạo đức yêu thương của các tín hữu. Xin cho mỗi chúng ta biết nhận ra Người đang sống giữa chúng ta để hăng hái nhiệt thành làm chứng cho Người. “Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).
Phục Sinh, sự kiện vĩ đại về một con người đã bị đóng đinh trên thập tự giá tới chết và được mai PS2-269
Phục Sinh, sự kiện vĩ đại về một con người đã bị đóng đinh trên thập tự giá tới chết và được mai tang trong mộ đá, nhưng đã trỗi dậy và ra khỏi mồ: đó quả là một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Sự kiện này đúng là nền tảng niềm tin của mọi Kitô hữu qua mọi thời đại, thế nhưng nó lại chỉ được cả 4 Phúc âm tường thuật cách quá tẻ nhạt và tầm thường. Thậm chí, nếu so sánh với việc Chúa Hiển Dung trên núi Ta-bo, tôi thấy tường thuật thiếu đến cả các chi tiết tối thiểu: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17,2) Tất cả những gì được đề cập tới trong trình thuật phục sinh của các sách Tin Mừng chỉ đơn giản là ngôi mộ trống vắng và lời công bố giản dị: “Người không còn ở đây nữa, nhưng đã sống lại rồi!” Đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu về điều này; và như nhiều tín hữu trong các đám rước Chúa Phục Sinh, tôi muốn bù đắp bằng một hình ảnh vinh quang hơn: hình tượng Chúa uy nghi giơ cao cờ chiến thắng khải hoàn, ung dung bước ra khỏi ngôi mộ với ánh sáng chói lòa, giữa các thiên thần thờ lạy và các tên lính khiếp sợ.
Chắc chắn Chúa Phục Sinh có khía cạnh thể lý: một Giêsu đã gục chết trên thập giá, đã được hạ xuống và tẩm liệm, được mai táng trong phần mộ, mà nay được loan báo là đã sống lại. Sự kiện thể lý này là nền tảng cho việc tuyên xưng một trong các tín điều căn bản nhất của Kitô giáo: “Tôi tin kẻ chết sống lại”. Nhưng theo cách diễn tả của các sách Tin Mừng, khía cạnh thể lý xem ra chỉ là thứ yếu. Cũng như trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, các đau khổ thể lý, cho dầu có được mô tả cách sinh động tới đâu thì ý chính vẫn là nói lên tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Phục Sinh cũng vậy, biến cố (đúng hơn là lời loan báo) Đức Giêsu ‘không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi’, cũng phải nói lên được tình yêu cứu độ trong tất cả sức mạnh vô địch của nó: tình yêu của Thiên Chúa từ nhân đã dứt khoát và vĩnh viễn chiến thắng sự chết về mọi mặt, và sẽ tồn tại bất diệt.
Theo Kinh Thánh thì chết thể lý chỉ là một trong các hậu quả của tội lỗi, và là hình bóng của một cái chết khác còn tệ hại hơn nhiều (St 2,17). Đức tin Công giáo dạy rằng tất cả chúng ta đều đã chết trong tội và cần tới ơn cứu độ để hoàn lại cho ta sự sống. Trong số các hình ảnh được dùng để diễn tả tội lỗi, chết là hình ảnh rõ ràng và trung thực nhất. Qua các thời đại, con người muốn dùng các nghi lễ tôn giáo để hoàn lại cho mình sự sống mà tội đã lấy mất. Các hình thức hoàn lương, đền tội, tu luyện và khổ chế đều mang cùng một mục đích đó. Nhưng trong thâm tâm tất cả đều biết rằng: chẳng một ai có quyền tha tội ngoại trừ một mình Thiên Chúa, cũng như chẳng ai có thể hoàn lại sự sống sau cái chết của tội lỗi ngoại trừ Thiên Chúa toàn năng (xem Ga 11,40-44). Ngày nay một số người (trong số đó có cả tín hữu – linh mục?) có khuynh hướng cho rằng tội chỉ là một yếu đuối, một cơn bệnh hay một khiếm khuyết nhất thời mà con người có nhiều cách để thắng vượt, nhiều cách để chữa trị, trong đó tâm lý học được coi như liều thuốc hữu hiệu nhất. Nếu tội chỉ là một căn bệnh cho dầu hiểm nghèo thì tác hại của nó cũng chỉ giới hạn. Cái chết thập giá của Đức Giêsu là một khảng định ngược lại: tội không chỉ dẫn tới cái chết nhưng thực sự là chết. Cũng vậy sự phục sinh của Người khảng định ơn cứu chuộc thực sự hoàn lại sự sống đích thực và toàn diện cho mọi người đã chết trong tội.
Cần bằng chứng Kinh Thánh ư? Dựa và câu khảng định của Đức Giêsu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25) Phao-lô đã có thể xác quyết: “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô lại còn lớn lao hơn biết mấy… ” (Rm 5,17), “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15,22). Như vậy, đối với một Thiên Chúa cứu độ, cho Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết là điều nhất thiết phải làm, cũng thế nhất thiết không kém Người phải làm cho chúng ta, những kẻ tin, sống lại từ cõi chết. Trên Thập giá, Đức Giêsu đã mặc lấy cái chết tội lỗi của cả trần gian, mà chết thể lý của Người là hình ảnh cụ thể nhất, một đàng để mạc khải cho thấy Thiên Chúa yêu thương cứu độ ‘đến cùng’, đàng khác như một A-đam mới Người cũng trọn vẹn đón nhận tình thương cứu độ của Cha để được sống, “Con phó linh hồn con trong tay Cha”. Phục sinh của Người là bằng chứng hùng hồn về sức mạnh của Tình Yêu Thiên Chúa cứu độ vĩnh viễn chiến thắng sự chết dưới mọi hình thức, lòng nhân ái thần linh chiến thắng tội chết trong mọi chiều kích. Chính Đức Giêsu đã khảng định cách chắc nịch: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. ‘Sẽ’ đây nói lên một định luật chứ không phải thì tương lai: sống lại ngay bây giờ, chứ không chỉ trong ngày sau hết, sống lại trong ân sủng ngay tức thời chứ không chỉ trong ngày thế tận; cũng vậy ‘chết’ đây là về thể lý, nhưng còn quan trọng hơn nhiều là về mặt thiêng liêng. “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”.
Suy nghĩ như thế làm tôi hiểu ra rằng: chỉ nhấn mạnh về một Đức Giêsu Kitô phục sinh vinh quang về mặt thể lý rất có thể trở thành một lạc đề nguy hiểm. Vinh quang đích thực của Phục sinh, đồng thời cũng là sức mạnh vô địch của Thập giá chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Lòng thương xót của Người đã vĩnh viễn chiến thắng tội chết nơi con người: tình yêu đã chứng tỏ mạnh hơn cả sự chết, đặc biệt chết trong tội. Cho nên rõ ràng “nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8) trong tình yêu nhân hậu và tha thứ của Thiên Chúa. Mầu nhiệm thập giá và phục sinh không bao giờ được tách rời. Đó chính là sự Vượt Qua (Pasqua – Passover) của mọi Kitô hữu chúng ta, một mầu nhiệm sống động vĩ đại.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con nhận biết tội đã làm con chết thực sự, để con nghiệm ra được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Kinh nghiệm về cái chết thể lý đã cho con phần nào thấy được lòng nhân từ của Chúa… nhưng đó cũng chỉ là hình ảnh mờ nhạt của một thực tế vĩ đại hơn nhiều: Đấng Cứu Độ không ngừng tiêu diệt sự chết nơi con để hoàn lại sự sống. Xin cho con không ngừng biết đón nhận ơn phục sinh trong suốt cuộc đời, bao lâu con vẫn còn yếu đuối sa ngã trong tội chết. Và chính trong sự kỳ diệu vĩ đại này, xin cho con (cùng với mọi tín hữu) cất cao lời ca ngợi lòng từ bi thương xót của Chúa hàng ngày và cho đến muôn đời. Amen.
Có một bác sĩ nói rằng: mỗi lần mổ bệnh nhân khi thấy thân thể họ tan nát ông thường đắng lòng PS2-270
Có một bác sĩ nói rằng: mỗi lần mổ bệnh nhân khi thấy thân thể họ tan nát ông thường đắng lòng kêu lên “Lạy Chúa, lại Chúa tôi”. Đây là lời than ai oán, lời cảm thương, lời chia sẻ với nỗi đau của tha nhân. Đây cũng là lời chúng ta vẫn thường nói hay thường nghe khi chứng kiến một người bị tai nạn, bị đói khổ, bất hạnh chúng ta cũng từng kêu lên “lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Cuộc đời quanh ta có biết bao người khốn khổ lầm than. Có kẻ đói ăn. Có kẻ đói hạnh phúc. Có kẻ cô đơn, bệnh tật, bị bỏ rơi. Có biết bao mảnh đời chung quanh khi nhìn thấy mà lòng chúng ta cũng quặn đau với nỗi đau của họ. Có chứng kiến được những bất hạnh của tha nhân mới thấy nhu cầu dấn thân xoa dịu nỗi đau thật cần thiết. Có nhìn thấy nỗi bất hạnh của tha nhân mới biết mình cần phải làm gì để xoa dịu nỗi đau.
Ông Tôma năm xưa khi được tận mắt thấy những dấu đinh đâm tan nát nơi thân thể Chúa, khi ông trông thấy lỗ rách nơi cạnh sườn Chúa, ông cũng đã thốt lên trong đau đớn “lạy Chúa, lạy Chúa tôi”. Ông cảm thương với nỗi đau của Thầy. Mặc dù ông đã chứng kiến từ xa cảnh tan nát của Thầy, nhưng hôm nay ông được tiếp xúc gần gũi, gần đến nỗi có thể xỏ ngón tay vào các lỗ đinh của Thấy thì nỗi cảm xúc của ông cũng dâng trào trong trái tim ông. Dù rằng, ông đã không xỏ một ngón tay nào vào lỗ đinh của Chúa, nhưng trái tim mách bảo cho ông biết cần phải làm gì để xoa dịu nỗi đau cho Thầy Chí Thánh.
Khi cảm nghiệm về nỗi đau của Thầy Giêsu, Tôma đã được biến đổi. Ông quỳ xuống tôn thờ Chúa. Ông mong muốn dành cuộc đời để loan truyền tình thương Chúa cho nhân loại. Ông hiểu hơn về lòng thương xót của Chúa dành cho nhân loại. Chính vì yêu. Chính vì muốn biểu lộ lòng thương xót cho nhân loại mà Thầy Giêsu đã can tâm tình nguyện chịu chết trên thập giá. Chính Thầy Giêsu đã bày tỏ lòng thương xót của mình khi tự nguyện gánh lấy những cực hình, những đau đớn để cứu độ chúng sinh. Chính Chúa không chỉ nhìn thấy những khổ đau của con người để xót xa, chạnh lòng thương mà ngài còn dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho chúng ta. Chúa xót thương khi sống nghèo để đồng cảm với những người nghèo. Chúa xót thương khi sống phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho những kẻ bất hạnh. Chúa xót thương nhân loại đang chết trong tội lỗi nên đã gánh lấy cực hình để đền thay tội lỗi nhân gian. Lòng thương xót của Chúa mãi mãi chịu hiến tế để cứu nhân gian.
Hôm nay, ngày lễ Lòng Thương Xót của Chúa, Giáo Hội cũng tôn phong hai chân phước lên bậc hiển thánh. Đặc biệt Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, một con người của lòng thương xót. Lòng thương xót của Ngài biểu hiện qua việc tha thứ cho kẻ đã ám sát ngài. Lòng thương xót của ngài còn biểu hiện qua việc cảm nhận sự liên đới trách nhiệm với những sự chia rẽ trong quá khứ do hiểu lầm hay do bất khoan dung, thế nên, Ngài đã rất nhiều lần xin lỗi Chúa, xin lỗi anh em, xin lỗi vì những đối xử bất khoan dung đã gây nên những đổ vỡ.
Chính ngài cũng là tông đồ của Lòng Thương Xót khi dấn thân cổ võ lòng thương xót của Chúa. Chính ngài đã thổi vào nhân loại này một năng lực mới từ lòng thương xót của Chúa. Để rồi lòng thương xót của Chúa như vũ khí mới để chiến thắng ba thù, như làn nước trong xanh để đem lại ơn phúc cho những ai tin tưởng chạy đến với Lòng Thương Xót của Chúa.
Ước gì chúng ta luôn nhận ra tình thương vô bờ bến của Chúa để như Tôma quỳ lạy tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào lòng thương xót của Chúa để ân sủng của Chúa chữa lành những vết thương tâm hồn và thân xác cho chúng ta. Amen.
Có một bài hát sinh hoạt mà chúng ta đã từng hát. Bát hát đó như thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô biến PS2-271
Có một bài hát sinh hoạt mà chúng ta đã từng hát. Bát hát đó như thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh...” Quả thực, nếu ai đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô họ sẽ được đổi mới. Họ sẽ thay đổi đời mình theo như đòi hỏi của chân thiện mỹ. Từ Giakêu đến Maria Madalena tội lỗi, tham lam đã dũ bỏ mọi quyến luyến của tiền tài mà dấn thân theo Chúa. Từ Phaolô, Phêrô quá khích, yếu đuối đã hoàn toàn biến đổi để dấn thân xây dựng và mở mang Nước Chúa. Chính Đức Kitô đã thay đổi cuộc đời họ. Chính Đức Kitô đã biến đổi cuộc đời họ thành những trang Tin Mừng của Chúa.
Người ta kể rằng: Có một nhà báo không tin có Chúa, cho đó là trò mê tín dị đoan. Ông ta tìm đến một Giáo Xứ, hỏi thăm mọi người để tìm ra một người mới theo Đạo, và đã tìm được một người công nhân ít học để phỏng vấn, dự định từ đó sẽ viết một bài báo bôi bác Đạo. Cuộc phỏng vấn diễn ra như sau:- Xin hỏi thăm, có phải anh mới theo Đạo Chúa không?- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Ki-tô.- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?- Rất tiếc, tôi là người ít học, lại mau quên, tôi đã có được học những chi tiết này trong một khóa Giáo Lý, nhưng bây giờ thì tôi lại không nhớ nổi, nghe đâu như Đức Ki-tô là người Do-thái thì phải!- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?- Tôi không nhớ rõ lắm, hình như cũng vào khoảng tuổi tôi bây giờ, gần 40 hoặc trẻ hơn một chút.- Vậy, anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?- Câu này thì tôi xin chịu thua!- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo cái ông Ki-tô ấy!- Ông nhà báo nói thế thì chỉ đúng một phần.
Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Ki-tô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi tôi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi... Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng đợi chờ tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Ki-tô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Người...Nghe đến đây thì ông nhà báo không tin Chúa hậm hực đứng lên bỏ ra về, không được một lời cám ơn. Ông ta không ngờ lại gặp một con người hết lòng xác tín vào Đức Ki-tô như thế...
Hai môn đệ đi làng Emmau đã từng đi trong tâm trạng thất vọng buông xuôi. Bao nhiêu hy vọng vào Thầy đều tan rã theo cái chết của Thầy. Sự nghiệp, hoài bão cũng tan thành mây khói. Họ trở về quê trong tâm trạng lo âu buồn phiên vì tương lai thật đen tối. Thế nhưng, Chúa đã đến với họ trong hình dáng của người khách lạ. Một người tưởng chừng như tình cờ đến với họ để khai thông cho họ hiểu Kinh Thánh. Một người bạn đồng hành giúp họ hiểu hơn về những gì đang diễn ra theo thánh ý Chúa. Họ đã được an ủi nhờ người bạn chân thành cùng đi với họ. Nhưng điều quan trọng là họ đã bừng tỉnh và thay đổi não trạng khi họ nhận ra người khách lạ chính là Thầy mình đã sống lại. Niềm vui gặp lại Thầy đã thay đổi tâm trạng của họ. Từ thất vọng sang hân hoan. Từ mất định hướng sang việc trở về cùng với đồng bạn loan truyền tin vui Chúa đã Phục sinh.
Quả thực, hai môn đệ đã hoàn toàn thay đổi nhờ gặp được Chúa Giêsu. Một Giêsu là Chúa của họ đã đánh bại thần chết để sống lại vinh quang. Chính cuộc gặp gỡ này đã mang lại cho họ một niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn não trạng của họ từ thất vọng đến tin tưởng, lạc quan.
Xin cho chúng ta luôn xác tín về sự hiện diện của Chúa để dám sống làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa trước những khó khăn trong dòng đời. Xin đừng vì những nghi nan mà chối bỏ Chúa nhưng luôn biết cậy dựa vào Chúa để vượt qua sóng vỗ ba đào. Amen.
Hôm nay lễ lòng thương xót Chúa. Thiết tưởng chúng ta cần hiểu lòng thương xót nghĩa là gì? PS2-272
Hôm nay lễ lòng thương xót Chúa. Thiết tưởng chúng ta cần hiểu lòng thương xót nghĩa là gì? Thương xót nghĩa là sự biểu lộ lòng xót xa đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn. Lòng thương xót đối với Chúa còn là sự khao khát muốn làm vơi đi những nỗi đau khổ đó. Như vậy, lòng thương xót của Chúa là sự biểu lộ tình thương trước những hoàn cảnh khó khăn của dân Chúa.
Lòng thương xót của Chúa không như con người. Vì con người thương xót nhưng có chọn lựa, có tính toán. Cùng hoàn cảnh nhưng chúng ta thương người này và có thể ghét người kia. Thế nhưng, lòng thương xót của Chúa thì trải rộng cho mọi người. Không toan tính. Không chọn lựa. Ngài yêu thương con người bất kể tình trạng luân lý của họ. Bởi vi, Chúa vẫn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thế nên, lòng thương xót của con người chúng ta thì giới hạn. Chúng ta có thể xót thương kẻ cơ hàn. Xót thương những người già yếu, bệnh tật bị bỏ rơi. Xót thương những trẻ nhỏ bị lạm dụng, bị bóc lột nơi cha mẹ hay người nuôi dưỡng. Và chắc chắn chúng ta sẽ chẳng bao giờ xót thương những phường tội lỗi như: trộm cắp, mại dâm, hay tham ô. Chúng ta thường không thương xót họ mà có khi còn nguyền rủa họ.
Lòng thương xót Chúa thì không giới hạn. Ngài yêu thương mà không cần nhìn xem họ là ai? Ngài chỉ bận tâm đến nhu cầu của con người và ra tay nâng đỡ. Thánh Kinh bảo rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được. Thế nhưng, Chúa đã không chấp tội con người, Ngài cũng không giáng phạt theo như tội ta đã phạm. Lòng thương xót của Chúa trải rộng trên con người. Trên người lành cũng như người dữ. Ngài luôn biểu lộ lòng thương xót cho bất cứ ai đến với Ngài. Lòng thương xót ấy không dừng lại ở nơi kẻ yêu Ngài mà còn dành cho cả kẻ ghét Ngài, xỉ nhục và kết án Ngài. Chính trong đau thương khổ nhục mà Ngài vẫn xót thương những kẻ đang hành hạ Ngài khi Ngài cầu nguyện cùng Cha: Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.
Có lẽ với bản tính con người, chúng ta sẽ thù hận kẻ giết hại chúng ta một cách oan uổng. Có lẽ chúng ta cũng kinh tởm kẻ vô ơn, phản bội với chúng ta. Thế mà, Chúa Giê-su dường như không còn nhớ đến tội lỗi của con dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngài đã tha thứ cho kẻ làm nhục Ngài. Ngài cũng tha thứ cho những môn đệ đã bỏ Ngài trong tuần thương khó.
Vâng, khi Chúa sống lại Ngài không tìm ai để trách móc, kêu oan. Và dường như Ngài cũng không bận tâm đến lỗi lầm của các môn sinh. Ngài đã trao bình an cho các môn sinh mỗi khi hiện ra với họ. Ngài biết trong lòng các ông còn một nỗi buồn vì phản bội, vì bỏ rơi Thầy trong gian nguy. Ngài biết sau khi Chúa sống lại lòng các tông đồ còn rối bời hoang mang lo sợ, bất an vì mặc cảm tội lỗi, mặc cảm phản bội Thầy. Chúa đã biết điều đó nên đã đi bước trước để ban bình an cho các ông.
Sứ điệp lễ lòng Chúa thương xót là sứ điệp của yêu thương. Thiên Chúa vẫn tiếp tục xót thương dân Người. Lòng thương xót của Chúa không bị tội lỗi của con người cản trở mà vẫn đong đầy cho những ai đến với Ngài. Lòng thương xót Chúa vẫn xoa dịu những ai đang bất an vì tội lỗi. Lòng thương ấy vẫn đang chữa lành cho những ai đang đau khổ bệnh tật tâm hồn hay thể xác. Lòng thương xót ấy vẫn là căn tính của Thiên Chúa rất yêu thương và xót thương dân Người.
Ước gì mỗi người chúng ta biết tín thác vào lòng thương xót Chúa cho dẫu chúng ta còn mang đầy những vết thương của yếu đuối lỗi lầm. Hãy để cho lòng thương xót Chúa chữa lành những tật nguyền của chúng ta. Ước gì khi chúng ta đã hưởng nếm lòng thương xót vô bờ của Chúa thì cũng biết trao ban lòng thương xót ấy cho anh em. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng có một tấm lòng bao dung để gạt qua những thành kiến, những đố kỵ, ghen tương mà đón nhận nhau trong yêu thương chia sẻ. Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở thành một chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa bằng tình yêu hiến dâng phục vụ tha nhân. Amen.
Bài đọc I (Cv 4, 32-35) cho ta thấy hình ảnh của một cộng đoàn Kitô hữu sơ khai sống trung thành tuyệt đối với Tin Mừng.
Bài đọc II (1Ga 5, 1-6) nhấn mạnh đến ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.
Tin Mừng thánh Gioan tường thuật lại việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra, tỏ cho các Tông Đồ xem PS2-273
Tin Mừng thánh Gioan tường thuật lại việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra, tỏ cho các Tông Đồ xem thấy những vết thương và ban bình an cho họ. Sau đó, Ngài ban Thánh Thần và quyền tha tội cho các ông. Đặc biệt khi chạm vào những vết thương của Chúa Giêsu Phục Sinh thì sự nghi ngờ của Tôma trở thành lòng tin.
Đức tin là cái gì kỳ diệu và quý báu nhất trên đời. Nếu thế giới này chỉ có sự nghi ngờ thì mọi tương quan của chúng ta lấy gì mà bảo đảm. Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy cố gắng nhận ra sức mạnh của lòng tin sắt đá.
"Nếu tôi không thấy, không chạm...tôi sẽ không tin". Những lời của Tôma nghe ra có vẻ rất hợp lý và có cơ sở. Nó đại diện cho những lối giải quyết thời đại theo con đường hiểu biết, lý trí. Ngày nay, người ta có thể giải thích mọi sự dựa trên lý trí. Nếu một điều gì khó hiểu, tất cả chúng ta phải làm sáng tỏ dưới ánh sáng của khoa học thì mọi chuyện sẽ được rõ ràng.
Tất nhiên, chúng a cần phải được lý trí hướng dẫn, nhưng chúng ta cũng phải biết lắng nghe trí tưởng tượng và biết lắng nghe tiếng nói từ con tim của mình. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống mà chúng ta không thể hoàn toàn giải quyết hay hiểu bằng lý trí. Khoa học chưa phải là tất cả. Như một nhà tư tưởng đã nói: Những gì khoa học biết thì rất ít, nhưng chưa biết thì rất nhiều.
Quan niệm của Tôma sẽ dẫn chúng ta đến với một cuộc sống duy vật thuần tuý (hoàn toàn dựa vào vật chất). Nhưng một trong những thành phần quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta cũng chưa thể nhìn thấy hay chạm được. Có những điều vượt quá mà giác quan ta không thể cảm nhận được nhưng chúng lại hiện hữu thật sự. Thế giới mà chúng ta có thể nhìn thấy được chỉ là một phần của thế giới bao la với vô số những gì có thật mà ta không thấy nhưng nó mang một ý nghĩa quan trọng. Như thái tử Little đã nói: "Cái chính yếu là cái ta không nhìn thấy được."
Thấy và nghe có thể là một chướng ngại ngăn cản những suy nghĩ, cảm giác và trí tưởng tượng của chúng ta. Cái chúng ta thấy chỉ góp một phần nhỏ bé cho sự cảm nhận sâu sắc bên trong. Người ta chỉ thích cái nhìn thực tế, nhưng theo Van Gogh: muốn đặt niềm tin vào điều gì thì cái nhìn chỉ đóng vai trò nho nhỏ. Khi một người biết một cái gì và thật sự biết sâu sắc về nó trong tận cõi lòng, thì anh ta không cần phải lý luận hay chứng minh về nó. Anh ta chỉ biết nó, như thế là đủ. Chúng ta không đủ khả năng để nhận thức sự quan trọng của một điều gì nếu như chúng ta không hiểu chúng tường tận. Nhưng chúng ta còn cần phải biết bằng nhiều cách khác.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thông cảm với Tôma. Ông ta chỉ là một tiếng vang trong nhân loại đang chạy tìm những gì thực tế. Vì ở trần gian, chúng ta không thể biết về Thiên Chúa và thế giới linh thiêng một cách tuyệt đối. Chúng ta hãy bằng lòng vì: thấy là sự phản chiếu mơ hồ từ một tấm gương soi. Chúng ta không được nhìn từ cánh cửa được mở sẵn nhưng nhìn xuyên qua từ những khe hở. Khe hở này đủ lớn để để ánh sáng có thể đi qua, nhưng nếu nó quá lớn sẽ làm mất đi sự thán phục và vẽ huyền nhiệm. Ánh sáng quá nhiều hay quá ít đều làm cho chúng ta bị mù. Cần có đủ ánh sáng để chúng ta có thể nhìn những gì mình muốn, cũng cần đủ bóng tối để con người có thể quay trở lại.
Chủ nghĩa duy lý xem Thiên Chúa và Tôn giáo như những gì có thể hiểu và lý giải được. Còn đức tin đến với Thiên Chúa như là mầu nhiệm không thể hiểu và lý giải được nhưng chỉ bằng cảm nghiệm. Đức tin sẽ mang chúng ta đến những nơi mà cảm giác không thể đến. Vì vậy mà Pascal đã nói: "Đức tin không đến từ lý trí nhưng đến từ con tim."
Lạy Chúa! Xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con nhạy cảm nhận ra Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, nhất là nhận ra Chúa nơi từng người mà chúng con gặp gỡ.
Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa !" (Ga 20,25).
Tin là gì? Có phải tin là chấp nhận một điều mà ta không thấy? Nếu thế thì phải chăng tin chỉ là thất PS2-274
Tin là gì? Có phải tin là chấp nhận một điều mà ta không thấy? Nếu thế thì phải chăng tin chỉ là thất bại của trí tuệ? Nói tin vào Chúa thì đơn giản. nhưng khi niềm tin bị thử thách bằng tính mạng, của cải, thương tích... liệu chúng ta có còn đứng vững hay không? Đây là một thách đố cho niềm tin của con người.
Tin Mừng hôm nay thuật cuộc hiện ra của Đức Giêsu với các môn đệ sau khi Ngài sống lại, cốt ý là để phục hồi niềm tin cho các Tông đồ. Các ông hân hoan vì: "đã được thấy Chúa" (Ga 20,25). Thế nhưng, tin không phải là nhìn nhận một điều không có, nhưng là nhìn nhận một điều có mà không thấy. Một điều đã có mà dù chối từ, điều ấy cũng vẫn tồn tại. Tin Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ là việc của lý trí nhưng là việc làm của con tim.
Quả thật, điều này mọi kitô hữu điều biết và tin. Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm nhận được thâm thuý điều này hay không còn tuỳ nơi mỗi tâm hồn. Vì niềm tin đòi buộc toàn diện cuộc sống, tình yêu, đau khổ, ước mơ, yếu đuối, sáng tạo, lầm lẫn... Bởi vì, Chúa Giêsu đi từ những thất bại của sự chết đến sự toàn thắng của phục sinh, chính trong cái tuyệt vọng nhất của cuộc đời theo Chúa lại tàn ẩn một niềm hy vọng và một sức sống mãnh liệt. Đó chính là khởi điểm cho một sự sống mới, sống niềm tin.
Qua cái chết và phục sinh của Đức Kitô đã trở nên một nguyên lý của sự sống, sống cho niềm tin. Là kitô hữu hãy soi rọi vào tâm hồn của mình với lòng cậy trông vững chắc của niềm tin, mỗi lần chúng ta trở về sau những lầm lỗi là được phục sinh với Chúa. Mỗi lần chúng ta tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại là đang ra khỏi mộ với Chúa. Mỗi khi chúng ta chết với Đức Kitô là được phục sinh với Ngài.
Tin vào Đức Giêsu phục sinh, chính là đón nhận chứng từ của các Tông đồ. Vì các ngài đã lấy máu mình quả quyết trước mặt thế gian và cho rằng: Thầy mình đã chết trên thập giá và được phục sinh trong thân xác vinh hiển, vượt thắng những điều kiện thông thường của không gian và thời gian.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho con một lòng yêu mến Chúa như các Tông đồ: Maria Mađalênna, Phêrô, Gioan. đã cảm nếm được niềm vui phục sinh. Xin cho con biết chia sẻ niềm vui và sống niềm tin ấy cho mọi người mà con gặp gỡ, để tất cả được hưởng niềm vui phục sinh của Chúa. Amen.
Trong suốt những ngày qua, từ đêm thứ bảy Vọng Phục Sinh, rồi Chúa Nhật Phục Sinh, và trong suốt PS2-275
Trong suốt những ngày qua, từ đêm thứ bảy Vọng Phục Sinh, rồi Chúa Nhật Phục Sinh, và trong suốt tuần Bát Nhật Phục Sinh vừa qua, chúng ta đã nghe rất nhiều về sự kiện Chúa Phục Sinh, với những dấu chỉ ngôi mộ trống, các dây băng và vải khăn liệm, cũng như các lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ của Người. Ngày Chúa Nhật hôm nay được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn làm ngày Chúa Nhật của Lòng Thương Xót Chúa. Hôm nay chúng ta cùng suy niệm về Lòng Thương Xót Chúa trong mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa, để chúng ta thêm tin tưởng và phó thác đời mình vào tình thương bao la của Chúa.
Từ lúc khởi đầu của vũ trụ, Chúa đã tỏ tình thương khi dựng nên vũ trụ cùng muôn vật, muôn loài, trong đó có con người chúng ta. Chúa ban cho loài người cai quản và sử dụng muôn loài muôn vật trong vũ trụ làm phong phú đời sống con người. Thế nhưng con người đã nghe theo ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa, trong lúc ấy Chúa lại hứa ban Đấng Cứu độ cho con người chúng ta. Chúa lấy Lòng Thương Xót mà xử với kẻ chống lại mình. Trong Cựu Ước Chúa không ngừng biểu lộ Lòng Thương Xót cho dân của Ngài khi dân chúng phản nghịch cùng Ngài mà chạy theo các thần mà thờ lạy. Chúa đánh phạt, sửa dạy nhưng không huỷ diệt họ.
Đến khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, Chúa đã giảng dạy và cứu chữa làm cho người bệnh được lành mạnh, người đói được no nê, làm cho dân chúng cảm thấy được an ủi, được ấm lòng khi nhận được Lòng Thương Xót Chúa.
Đ ặc biệt là sau khi chết và sống lại Chúa Giêsu đã làm thay đổi rất nhiều trong đời sống các Tông đồ và những người theo Chúa. Chúa Phục Sinh đã "hoàn tất" sự biểu lộ của Lòng Thương Xót Chúa trong cuộc khổ nạn, khi Ngài đem lại sự Bình An và Sức Sống mới nơi các học trò của mình.
Chúa Giêsu Phục Sinh xóa tan sự sợ hãi nơi lòng các môn đệ và những người thân của Chúa. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, các môn đệ của Người đã bị đánh tan tác, kẻ thì chạy trốn, người thì bỏ về quê, có người đi theo Chúa xa xa, nhưng lại yếu hèn chối Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh không truy cứu những lỗi lầm nhưng tha thứ cho những kẻ vấp ngã trong cuộc Thương Khó của Ngài. Chúa lại thương yêu tin tưởng ban cho kẻ yếu đuối trách nhiệm gánh vác đàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh biến đổi những anh thuyền chài thành những người thông thạo Kinh Thánh, thành những kẻ chài lưới người ta. Chúa Giêsu Phục Sinh ban Bình An và sự tha thứ, cùng niềm khích lệ cho các môn đệ và cho Hội Thánh khi trao phó trách nhiệm cho các ông. Chúa Giêsu Phục Sinh ban Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ và Hội Thánh, nhờ đó Hội Thánh luôn vững bước tiến về quê hương vĩnh cữu là quê trời.
Ngày hôm nay Chúa cũng không ngừng tha thứ cho chúng ta trong Bí tích Giải tội dù chúng ta cứ mãi phạm tội phản nghịch Ngài. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì Lòng Thương Xót Chúa luôn tuôn đổ trên đời sống chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng dù chúng ta tệ hại quá nhưng hãy tin tưởng phó thác mọi sự trong tình yêu và Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta cũng hãy học nơi Chúa để cũng biết thương xót và không ngừng tha thứ cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao PS2-276
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn còn trong tội lỗi” (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những bàn thờ “kính thần vô danh”. Phaolô dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã Phục sinh sống lại từ cõi chết. Vừa nghe đến việc người chết sống lại, một nhà trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng: “Khi tro bụi đã uống máu một con người, người ấy không bao giờ sống lại”. Phaolô buồn “rũ áo” đi đến cùng dân ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp, một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại. Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then cài, Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói: Shalom - Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bìng an vui mừng cho họ và sai họ đi phổ cập ơn cứu rỗi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Chúa Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt 9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi thở, “Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha, các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại”. Ngày khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga 5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong một nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói: “Còn khuya tôi mới tin”, nếu tôi không kiểm chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một lời tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chết để đền tội ta nhưng nay Ngài đã phục sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa. Trong dịp này. Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một mối phúc thật khác là phúc thật Đức Tin. Ngài nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin, Phúc cho ai không thấy mà tin” (Gio 20, 29). Đức Tin là một đặc ân của Thiên Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng như có thể, như dân Do thái xưa, từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách đây 50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn Emile Zola cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền. Tại nhà ga Austerlitz, Zola gặp một người đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ tuyệt vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola nói: “Bà này đến Lộ-Đức khỏi bệnh thì tôi tin!” Người đàn bà sắp chết đó đi tắm suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi ra hang đá quì cầu nguyện một giờ. Bác sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn “Hành trình Lộ-Đức” để nói lên sự thật; Zola chối sự thật trong cuốn “Lourdes” của ông.
“Tôma, vì con thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! "20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." 24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến.25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em."27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
SUY NIỆM
Trong những ngày qua dân cư mạng chuyền cho nhau xem bức ảnh một phóng viên quỳ trên bãi cỏ PS2-277
Trong những ngày qua dân cư mạng chuyền cho nhau xem bức ảnh một phóng viên quỳ trên bãi cỏ và bên phải ông là thi thể một em bé . Phía sau là đoàn xe bốc cháy nghi ngút. Đó là phóng viên ảnh Abd Alkader Habak đang tuyệt vọng và đau đớn vì nạn nhân tấn công khủng bố. Bức ảnh ghi lại một vụ nổ do một kẻ đánh bom tự sát đã tiếp cận đoàn xe gồm 10 chiếc chở nhàng nghìn người sơ tán khỏi hai thị trấn Fuaa và Kafray, ở Syrie vào ngày 15-4-2017. Ông Habak kể: “Không có từ nào có thể diễn tả chuyện gì xảy ra. Tôi đang đứng gần một xe phân phát đồ ăn cho trẻ em. Tôi chỉ đứng cách vụ nổ vài mét khi đó. Máy quay của tôi rơi xuống đất, còn tôi ngã xuống đường”. Chiến tranh đã giết chết hàng triệu trẻ em. Các em chẳng có tội gì nhưng phải đón nhận những cái chết quá bi thương. Đứng trước cảnh tượng đau thương như thế có người bật khóc: Thiên Chúa nhân lành ở đâu? Đức Phanxicô trong bài giảng lễ Phục sinh 2017 cũng đã chia sẻ nỗi niềm này: thách đố đối với nhiều người là nếu Chúa đã sống lại từ trong cõi chết, “tại sao những điều này cứ tiếp tục xảy ra: bao nhiêu là bi kịch, rồi đến bệnh tật, nạn buôn bán người, khai thác con người, chiến tranh, những hủy diệt, những cuộc tàn sát, những trò trả thù, những hận thù?”, Đức Thánh Cha cũng đặt câu hỏi: “Chúa ở đâu?”.
Thay vì đi tìm câu trả lời tại sao, bởi: “Không một ai trong chúng ta được hỏi: tôi có hài lòng với những gì đang xảy ra trên thế giới không?” Đức Thánh cha đã đưa ra một chỉ dẫn về một niềm hy vọng khi nhìn vào biến cố Phục sinh: Trong thứ văn hóa loại bỏ thời nay, người ta thường vứt bỏ những gì bị cho là không cần thiết hoặc không còn hữu dụng. Và hãy thử nghĩ xem, Chúa Giêsu là phiến đá bị loại bỏ, thế mà kỳ thực Người là cội nguồn sự sống. Từ đó chúng ta có thể nhận ra: chúng ta, những viên sỏi nhỏ, là những người đã bị ném vào một trái đất tràn ngập những đau khổ, và thảm kịch này, nhưng với niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta vẫn có lý do để sống giữa những cơn hoạn nạn khủng khiếp như vậy. Với niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta vẫn có được một cảm thức vượt được lên trên những thực tại cay đắng của đời thường: có những bức tường đấy, nhưng cũng có cả một chân trời; có cuộc sống, có niềm vui, bất chấp là cũng có thập giá cùng với những mơ hồ nảy sinh từ đó.
Quả thật, sự Phục sinh của Chúa Kitô là câu trả lời cho chúng ta về những bất hạnh, nỗi truân chuyên và các khổ đau mà chúng ta đang gánh vác. Khi tạo dựng nên chúng ta Thiên Chúa đâu muốn chuáng ta lâm vào hoàn cảnh tang thương này, tất cả chỉ vì tham vọng của con người. Nhưng Thiên Chúa nào đâu chịu để cho tình thương của Ngài yên ngủ, lòng thương xót của Ngài thôi thúc Ngài phải ra tay hành động để cứu vớt con người. Và thật là kỳ lạ tình thương của Chúa. Ngài đã giải thoát nỗi khổ đau của con người bằng chính sự khổ đau mà Con của Ngài đón nhận. Vào ngày Thư Sáu Tuần Thánh suy niệm về những cực hình mà Chúa Giêsu chịu, thì quả thật những nỗi khổ đau mà chúng ta gánh vác so ra chẳng là chi cả.
Thật vậy, Chúa không câm lặng, dửng dưng trước những bất hạnh của chúng ta, trái lại Lòng Chúa quặn đau, và xót xa vì sự khốn cùng của chúng ta, cho nên Thiên Chúa Cha đã ra như mù như điếc trước nỗi đau cùng cực của Người Con Chí Ái để mong sao nhân loại này được tìm thấy lại nguồn hạnh phúc. Sự tự hiến của Đức Kitô trên Thập giá biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại, và tỏ cho con người hiểu rằng, con ngừoi chỉ có thể được cứu sống do chính bởi Lòng thương xót này. Và sự Phục sinh của Chúa Kitô là hoa quả của lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, vì chính sự thương xót này mà Thiên Chúa dẫn đưa nhân loại vượt qua mọi khổ đau để đạt tới được sự sống đích thật.
Khi ban chúc bình an cho các môn đệ Chúa cho các ông xem tay và cạnh sườn, điều đó nói lên rằng, bình an đích thật chỉ có thể xuất phát từ Lòng thương xót của Chúa. Dấu đanh nơi tay chân, và vết thương nơi cạnh sườn là dấu chỉ của một sự tự hiến tột cùng cho con ngừoi vì yêu thương, và từ tình yêu này, sự sống đã được phục hồi, và sự sống đến từ tình yêu luôn chan chứa niềm hoan lạc và bình an vì sự sống đó không bao giờ còn đối diện với khổ đau và bất hạnh.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn tín thác vào Lòng Chúa xót thương để nhận ra rằng, Chúa không để chúng con một mình trong thế gian đầy đau thương này, nhưng trái lại Chúa luôn đòng hành với chúng con, và sự phục sinh của Chúa là bảo chứng cho chúng con biết rằng, tình thương Chúa không bao giờ để chúng con hư mất nếu chúng con thực sự tín thác vào Chúa . Amen Lm Antôn Hà Văn Minh
Chúa Nhật II Phục Sinh, lễ kính “Lòng Thương Xót Chúa”, ĐTC Phanxicô tuyên thánh cho hai vị PS2-278
Chúa Nhật II Phục Sinh, lễ kính “Lòng Thương Xót Chúa”, ĐTC Phanxicô tuyên thánh cho hai vị Giáo Hoàng, Gioan XXIII và Gioan Phaolô II.
Câu chuyện về một thanh niên tật nguyền được diễm phúc gặp gỡ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thật cảm động.
Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?".
Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự. Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, "Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người".
Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: "Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và để ý đến họ."
Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.
B. Ý nghĩa các vết sẹo
Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.
Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
1. Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa
Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần. Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây...”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi... Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).
Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.
2. Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả
Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.
Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.
Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.
Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…
Chàng trai ngạc nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.
Chàng trai thắc mắc:
- Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?
Ông cụ mỉm cười rồi nói:
- Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông lão nói tiếp:
- Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.
Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.
Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn...
3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh
Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh. Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!
Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.
Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân hay một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình, cũng có thể gọi đó là sự phục sinh! Trước khi thụ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ về những thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).
Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vỡ, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự Phục sinh sao ? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường…
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
Hôm nay (27/04/2014), Chúa Nhật II Phục Sinh, toàn thể Giáo Hội vui mừng dâng lời tạ ơn Thiên PS2-279
Hôm nay (27/04/2014), Chúa Nhật II Phục Sinh, toàn thể Giáo Hội vui mừng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra để ban bình an cho các môn đệ. Tạ ơn vì “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc,1, 50). Trong chính hôm nay, Giáo Hội có thêm hai người con đã được dồi dào ơn Chúa để trở nên hai vị thánh: thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Lễ phong thánh hai vị Giáo Hoàng này diễn ra tại quảng trường thánh Phêrô vào lúc 10g00 sáng giờ Roma (tức 15g00 Việt Nam)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trong khung cảnh Chúa Nhật cuối tuần Bát Nhật Phục Sinh, còn được gọi là “Chúa Nhật về Lòng Thương Xót Chúa”. Chúng ta không thể không quan tâm đến sự hiện diện vừa có tính siêu việt, vừa rất thân tình và giàu lòng nhân hậu của Đấng Phục Sinh.
1. Khuôn mặt thương xót của Thiên Chúa thể hiện nơi Đấng Phục Sinh.
Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật về bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu và các môn đệ, thánh sử Gioan đã viết “Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Do vậy, “vào chiều ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20,19), khi các môn đệ đang ở trong phòng đóng kín các cửa vì sợ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra và ban bình an cho các ông. Vì yêu thương nên chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã lập tức hiện đến và giúp các môn đệ vượt qua nỗi sợ hãi. Vì quan tâm rất nhiều nên Người tìm cách giúp họ bình an sau những biến cố đau thương vừa xảy ra. Những lo sợ không còn nữa, thay vào đó là niềm vui không ai có thể lấy mất được. Thầy Giêsu chịu chết và chịu táng xác giờ đây hiện ra với một quyền năng lạ lùng. Người không còn bị giới hạn bởi không gian, ngôi nhà đóng kín cửa không còn cản trở được tình thương của Người dành cho các môn đệ.
Riêng tông đồ Tôma, vì không có mặt khi Chúa Phục Sinh hiện đến nên ông đòi hỏi với những xác minh cụ thể: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,27). Trước một đòi hỏi có tính cứng lòng tin như vậy, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn yêu thương ông và đã đáp ứng để ông Tôma được lòng sám hối:“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga, 20,27). Ông Tôma đã được biến đổi và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Chính tình yêu, chính lòng thương xót của Đấng Phục Sinh đã hoán cải Tôma và cho giúp ông được phục sinh tâm hồn!
2. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương:
Đáp ca hôm nay được lặp đi, lặp lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117,1). Trong suốt dòng lịch sử, dân Israel luôn nghiệm thấy Thiên Chúa là Đấng nhân từ, giàu lòng thương xót. Trong suốt dòng lịch sử, tội lỗi loài người cứ chồng chất, nhưng Thiên Chúa vẫn cứ yêu thương, sẵn sàng tha thứ khi con người hối cải. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin và Con của Người thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới này là sự hiện diện của chính Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót.
Ngày hôm nay làm sao chúng ta không thể không nhớ đến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II. Trong “Thông điệp và việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa” có viết: “Ngày 30.04.2000, trong bài giảng lễ phong thánh cho chị Faustina, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa trong toàn thể Giáo Hội. Ngài nói: “Thật là quan trọng việc chúng ta đón nhận trọn vẹn sứ điệp đến với chúng ta từ Lời Chúa của ngày Chúa Nhật II Phục Sinh, ngày mà từ nay khắp Hội Thánh sẽ gọi là Chúa nhật của Lòng Thương Xót Chúa”.
Chính ngày hôm nay, tại quảng trường thánh Phêrô, ĐGH Gioan Phaolô II được phong hiển thánh. Thật là một biến cố trọng đại và là một tin vui. Đây là vị thánh Giáo Hoàng đã tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương xót Chúa. Người muốn giới thiệu và mời gọi mọi người hãy chạy đến với lòng thương xót Chúa. Thế giới ngày nay cần đến lòng thương xót Chúa biết bao! Một thế giới có nhiều hận thù và chiến tranh, một thế giới có nhiều bất công và khổ đau. Con người ngày nay cần chạy đến lòng thương xót Chúa biết bao! Một đời người vui ít nhưng buồn nhiều, một đời người gặp nhiều oan trái hơn là công bình, một đời người đầy yếu đuối và tội lỗi, một đời người nhiều bệnh tật thì thử hỏi biết chạy đến với ai nếu không chạy đến Lòng Thương Xót Chúa?
Hạnh phúc cho những ai gặp gỡ được Đấng Phục Sinh trong cuộc đời mình. Tốt đẹp biết bao cho những ai tín thác vào tình yêu của Cha trên trời và cầu khẩn “Vì cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô. Xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới”; “Lạy Đấng Chí Thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Xin thương xót chúng con và toàn thế giới”; “Jesus I trust in You: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”. Khi siêng năng và sốt sắng dâng lời cầu nguyện như vậy, chắc chắn Thiên Chúa sẽ ban cho ta, cho người thân, cho nhân loại nhiều ơn lành hồn xác!
Đấng Phục Sinh không chỉ hiện ra vào “ngày thứ nhất” hay“tám ngày sau” cho các môn đệ và cho Tôma. Người tiếp tục yêu thương và hiện đến cách vô hình trong cộng đoàn các tín hữu để giúp họ sống hợp nhất với nhau và thực hành 05 chuyên: “một chuyên cần giáo lý, hai vững chí hiệp thông, ba bền lòng phụng vụ, bốn vui thú nguyện cầu, năm cùng nhau làm chứng”. Người vẫn luôn hiện đến một cách vô hình giữa cộng đoàn cầu nguyện “ ở đâu có hai hay ba người hợp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20).
Nhờ lời cầu bàu trợ giúp của hai vị thánh Giáo Hoàng: Gioan XXIII và Gioan Phaolo II cho chúng ta biết chạy đến với lòng thương xót Chúa. Nhờ đó, mỗi người, mỗi gia đình và thế giới này được gặp Chúa Giêsu Phục sinh, được biến đổi và được phục sinh với Chúa. Amen.
Cách đây 10 năm, ngày 30. 04. 2000, Đức cố GH Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chân phước PS2-280
Cách đây 10 năm, ngày 30. 04. 2000, Đức cố GH Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chân phước Faustina, người được xem là vị tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa. Và không đầy một tháng sau, ngày 20. 05. 2000, ĐGH đã chính thức thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa trên Giáo Hội Công giáo toàn cầu vào Chúa Nhật II sau lễ PS. Kể từ đó đến nay, Chúa Nhật II PS như hôm nay còn có tên gọi khác là Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của TC.
Vậy sứ điệp về Lòng Thương Xót của Chúa nói với chúng ta điều gì? Theo nhật ký của thánh nữ Faustina để lại thì Chúa Giêsu đã hiện ra với chị và nói với chị là Ngài muốn: "mọi người hãy tín thác vào Lòng Thương Xót khôn dò của Chúa. Đó là cơ hội quý báu và tối hậu để nhân loại được cứu rỗi."
Tín thác vào Chúa là cơ hội quý báu và tối hậu để được ơn cứu độ. Hay nói cách khác, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là cho ta một cơ hội để hoán cải đời sống và để được cứu độ.
Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra và cho tất cả các môn đệ một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Đối diện với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu tuần vừa qua, tất cả các môn đệ đều vấp ngã. Họ chạy trốn, đóng cửa rất kỹ vì mang trong mình một nỗi sợ hãi, hoang mang tột cùng. Không chỉ sợ người Do thái bắt được mình và mình phải chết; mà còn sợ hãi, hoang mang vì mang trong mình một mặc cảm tội lỗi ghê gớm vì chính mình đã bỏ Thầy, chối Chúa.
Trong tình cảnh bi đát đó, Chúa Giêsu đã hiện ra. Ngài không chỉ chữa lành vết thương tâm hồn các môn đệ khi trao gởi: "Bình an cho anh em" (Ga 20, 19-20) và trao ban chính Thánh Thần của Ngài; mà Ngài còn mở cho các ông một cơ hội để làm lại cuộc đời khi trao cho các ông sứ vụ đi rao giảng Tm: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20, 21). Đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Và còn hơn các môn đệ khác, tôi nghĩ, có lẽ hôm nay Tôma là người cảm nghiệm sâu xa nhất Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không những đã cho ông thấy Chúa như các môn đệ khác, mà Chúa còn tự nguyện đáp ứng yêu cầu của ông là thọc ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Người. Đứng trước nghĩa cử của Chúa, ông chỉ còn biết rưng rưng nước mắt mà thốt lên: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con."
Chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta vừa tham dự vào Tam Nhật Thánh tuần vừa qua xong, chúng ta có nhận ra rằng chính Chúa Giêsu đã thương ta vì ta long đong, lầm than, khốn khổ, và ngay cả khi ta tội lỗi, vô ơn ... thì Ngài vẫn chịu chết vì ta để cho ta sống không?
Thiên Chúa của ngày hôm qua, cũng là Thiên Chúa của ngày hôm nay. Ngài vẫn tiếp tục trắc ẩn trước cảnh khốn khó, nhọc nhằn của con cái mình. Ngài vẫn tiếp tục mở cho ta cơ hội để đến với Lòng Thương Xót của Ngài, cụ thể là qua các bí tích. Tôi thấy có hai Bí tích thể hiện Lòng Thương Xót của Chúa rõ nét nhất là Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Thánh Thể.
Ai trong chúng ta, với một lương tâm ngay thẳng, khi phạm tội thì đều cảm thấy bất an, bất ổn trong tâm hồn. Và khi đã xưng tội xong thì thấy lòng mình thanh thản, bình an, như trút được một gánh nặng. Quả thật, đến với Bí Tích Hòa Giải chúng ta được Thiên Chúa xót thương, tha thứ mọi tội lỗi và Ngài cũng nói với ta như nói với các môn đệ hôm nay: "Bình an cho các con." Ngài cho ta một cơ hội để được đổi mới cuộc đời, được sống trong ơn nghĩa của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy mạnh dạn đứng lên để trở về với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mỗi khi ta vấp ngã bởi muôn ngàn yếu đuối trong cuộc đời.
Còn với Bí Tích Thánh Thể, Thiên Chúa đã trao ban chính Ngài để ở lại với ta, để chia sẻ, đồng hành, nâng đỡ và mở cho ta một cơ hội để được cộng tác với Ngài khi sai ta đi như sai các tông đồ hôm nay: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em." Amen.
Các tông đồ và các phụ nữ thời Giáo Hội sơ khai đã may mắn hơn chúng ta, vì họ đã là những người PS2-281
Các tông đồ và các phụ nữ thời Giáo Hội sơ khai đã may mắn hơn chúng ta, vì họ đã là những người tận mắt chứng kiến ngôi mộ trống, đã từng chứng kiến việc Chúa Giêsu hiện ra sau khi Người từ cõi chết sống lại, nhiều người trong họ được đồng bàn với Người, được đụng chạm đến Người. Còn chúng ta là những thế hệ tín hữu sau các tông đồ chúng ta không được tận mắt thấy những lần Chúa hiện ra và cũng không thấy mồ trống, nhưng chúng ta vẫn tin Chúa đã sống lại thật. Vây thì dựa vào đâu để chúng ta tin Chúa đã sống lại? Đó cũng là điều bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta.
Đoạn Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, và lần thứ hai cuộc hiện ra như được dành riêng cho một tông đồ thiệt thòi hơn các tông đồ khác, đó là Tôma. Có lẽ vì quá thất vọng và hoảng sợ, trong khi các tông đồ khác dựa vào nhau để nâng đỡ nhau, thì Toma lại chọn một hướng khác, có lẽ ông bỏ về quê. Vì thế ngay buổi chiều ngày thứ nhất, Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, đã không có Toma ở đó. Với lần hiện ra này, Chúa Phục sinh đã ban cho các tông đồ một sức sống mới và một ơn thật đặc biệt, thật cần thiết cho các ông lúc này, đó là sự bình an. Vì cái chết của Chúa Giêsu quả thật còn đang đè nặng trên các tông đồ, những tiếng la hét giết đi, đóng đinh nó vào thập giá, của đám đông Do Thái như còn đang ám ảnh các ông, khiến các tông đồ sợ hãi, rút vào trong nhà và đóng kín cửa.
Biết được tâm trạng của các tông đồ, biết được nhu cầu của các ông, Chúa Giêsu đã hiện ra trước mặt các ông, và Ngài nói: Bình an cho các con. Không chỉ như thế, để củng cố đức tin cho các ông, Chúa Giêsu đã cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, Người đã thổi hơi trên các ông và nói: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Thánh Thần chính là quà tặng sự sống mà Chúa Phục sinh trao ban, cùng với hình ảnh thổi hơi, nhắc cho chúng ta nhớ đến hơi thở đầu tiên Thiên Chúa thổi vào Ađam khi ông còn là tượng đất, Thiên Chúa đã thổi sinh khi vào lỗ mũi và cho con người có sự sống, thì hôm nay, hơi thở của Đấng Phục Sinh được thổi trên các tông đồ, để trao ban cho các ông một sức sống mới, biến các ông thành con người mới, thành tạo vật mới và sống trong một thế giới mới, thế giới của sự sống.
Cùng với hơi thở Thánh Thần, Chúa Phục Sinh còn trao cho các tông đồ một sứ vụ hết sức quan trọng, đó là sai các ông ra đi, cùng ban cho các ông quyền tha tội. Với năng quyền tha tội, các tông đồ thực hiện và trao ban tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa, hay cụ thể hơn, đó là các ông trở thành hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa trong thế giới, và để biến đổi thế giới nên một thế giới mới, thế giới của tình yêu thương và tha thứ.
Với những sự kiện và sứ vụ quan trọng được trao cho các tông đồ như thế, nhưng rất tiếc, tông đồ Tôma đã không có mặt. Chính vì tách lìa khỏi cộng đoàn các tông đồ, tức là Giáo Hội, nên khi các tông đồ khác làm chứng về việc Chúa sống lại, Tôma đã không thể đón nhận được tin mừng Phục sinh. Không chỉ như thế, ông còn đi đến một thái độ cực đoan khi ông tuyên bố: Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin.
Chúa Giêsu đã không nỡ để cho đức tin của Tôma bị khô héo, cũng không muốn để cho ông đứng bên ngoài cộng đoàn Giáo Hội, nên có thể nói tám ngày sau Chúa đã hiện ra cho riêng Tôma. Việc làm này thể hiện lòng thương xót của Chúa, vì Thiên Chúa không muốn để cho bất cứ một ai phải rơi vào tuyệt vọng. Tin Mừng nhấn mạnh: Tám ngày sau các môn đệ tụ họp trong nhà và có cả Tôma ở đó với các ông. Chi tiết này cho thấy dường như Tôma đã quay trở lai với cộng đoàn sau những ngày, vì lý do gì đó, ông đã chọn tách ra khỏi anh em tông đồ. Trong bầu khí xum họp và hiệp nhất này, Chúa Giêsu lại một lần nữa hiện ra với các tông đồ, và Người gọi đích danh Tôma: Hãy đặt ngón tay con vào đây và hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và thọc vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin. Trước đặc ân to lớn này, Tôma đã tuyên xưng đức tin của mình: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con. Ông đã tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa, Đấng tổ tiên ông vẫn tôn thờ. Chúa Giêsu đã trả lời Tôma: Vì con đã thấy Thầy nên con tin, phúc cho những ai đã không thấy mà tin. Qua lời này, Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những thế hệ tín hữu sau này, họ không được chứng kiến những lần hiện ra của Chúa, cũng không được diễm phúc đụng chạm, ăn uống với Chúa như Tôma và các tông đồ, nhưng họ vẫn tin nhờ lời làm chứng của các tông đồ và của cộng đoàn Giáo Hội.
Từ mệnh lệnh của Chúa Phục sinh, các tông đồ đã miệt mài lên đường để loan truyền tin mừng phục sinh cho thế giới, các ngài đã hình thành nên nhiều các cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Sách Công Vụ cho thấy: Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Lời mô tả này cũng đủ để cho thấy có một sức sống đang tuôn chảy trong Giáo Hội và chi phối mọi hoạt động, và làm nên đời sống đức tin của các tín hữu.
Thưa quý OBACE, chúng ta sẽ không thể có được đức tin vững chắc vào mầu nhiệm Chúa Phục Sinh nếu chúng ta không gắn kết một cách chặt chẽ với Giáo Hội, vì Giáo Hội chính là người mẹ sinh ra chúng ta trong đức tin, đồng thời cũng là thầy dạy chúng ta trong đức tin, và cũng là điểm tựa đức tin của chúng ta. Vì thế, ngày nay muốn có được một đức tin vững chắc, chúng ta cũng phải gắn kết một cách chặt chẽ với Giáo Hội và chuyên tâm lắng nghe lời giảng dạy của Giáo Hội, đồng thời cũng như các tín hữu sơ khai, chúng ta còn cần phải sống tinh thần hiệp thông với nhau trong cầu nguyện, và nhất là tham dự Thánh lễ, đó là những phương thế giúp cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nhiều người, nhiều nhóm, cùng với các phương tiện truyền thông, họ đang cố tình bôi xấu Giáo Hội bằng thổi phồng một số những sai phạm của các thành viên trong Giáo Hội, tạo sự nghi ngờ của chúng ta vào Giáo Hội, và thâm độc hơn, họ muốn tách chúng ta ra khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội, nếu chúng ta để mình rơi vào cái bẫy của thế gian, nó sẽ kéo chúng ta về phía nó, và biến chúng ta thành những kẻ thù nghịch, hoặc có thái độ bất mãn với Giáo Hội. Hãy hết sức cẩn thận với những cám dỗ và các khuynh hướnh đó, hãy tin tưởng, khiêm tốn lắng nghe sự hướng dẫn của Giáo Hội, vì chỉ khi gắn bó với Giáo Hội, chúng ta mới có được một đức tin tinh tuyền và chính thống mà thôi, mà Giáo Hội cụ thể là Giáo phận, là Giáo xứ, là nơi chúng ta được nuôi dưỡng đời sống đức tin và được sự săn sóc của Giáo Hội là mẹ chúng ta.
Không chỉ củng cố đức tin cho bản thân chúng ta, Đấng Phục Sinh còn mời gọi chúng ta trở thành những người loan truyền tin vui phục sinh và lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Chúng ta không thể đem Tin Mừng Phục Sinh cho người khác khi chúng ta chưa được biến đổi, chúng ta không thể báo tin vui cho người khác nếu chúng ta sống buồn bã chán nản hay thất vọng. Vì thế để có thể trở thành người loan Tin Mừng, thì trước tiên chúng ta phải là những người thực sự cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh thực sự là Tin Mừng cho bản thân, Người đang hiện diện và đang thúc đẩy chúng ta, qua lối sống, qua cách làm việc va qua cách cư xử của chúng ta. Có như thế thì Tin Mừng mới có thể ảnh hưởng đến người khác được.
Mỗi người hãy là những người loan truyền tin Mừng Phục Sinh cho những người chung quanh bằng một đời sống vui tươi, được thể hiện trên gương mặt, trong đời sống, và trong cách làm việc thường ngày. Hãy sống niềm tin phục sinh bằng việc tin tưởng nơi Chúa và gắn bó với Giáo Hội, hãy góp phần làm cho cuộc cá nhân, cuộc sống gia đình và xã hội thêm vui tươi. Hãy bước ra khỏi sự ngại ngần sợ hãi để nói về Chúa Giêsu cho mọi người, và sống giới răn của Chúa trong xã hội hôm nay, đồng thời góp phần làm cho cuộc sống xã hội mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn.
Xin lòng Chúa thương xót ban thêm đức tin cho chúng ta, và biến chúng ta trở thành những chứng nhân không mệt mỏi cho lòng thương xót và tình yêu thương của Chúa cho những người mà chúng ta thường gặp gỡ. Amen.
Hôm nay, toàn thể nhân loại ngập tràn lòng thương xót Chúa, bởi vì hôm nay là ngày mà mọi cánh PS2-282 Dalat
Hôm nay, toàn thể nhân loại ngập tràn lòng thương xót Chúa, bởi vì hôm nay là ngày mà mọi cánh cửa của lòng thương xót được mở ra để ấp ủ những ai tín thác nơi Chúa như lời Ngài đã phán với thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699).
Các lỗ đinh ở chân tay và vết đâm từ cạnh sườn Đức Giêsu mà hôm nay Ngài tỏ ra cho Tôma được thấy đã mạc khải cho chính Tôma và cả chúng ta thấy lòng thương xót vô bờ của Ngài dành cho nhân loại.
1. Lòng thương xót của Chúa dành cho Tôma
Thánh sử Gioan hôm nay trình thuật sự kiện Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, trong đó có Tôma. Hình ảnh Tôma được hiện lên như là nhân vật chính trong bài Tin Mừng hôm nay. Nói cách khác, nếu không có thắc mắc đến độ thách thức của Tôma thì có lẽ chưa chắc đã có lần hiện ra này của Đức Giêsu! Bởi vì: trước đó, sau khi nghe các Tông đồ khác thuật lại việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các ông, Tôma đã không tin. Ngược lại, ông còn tuyên bố thật thẳng thừng rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).
Tôma thuộc típ người thực nghiệm, tức là không thể tin nếu không mắt thấy, tai nghe, tay sờ. Lý do chính yếu làm cho Tôma không thể tin nổi việc Đức Giêsu sống lại, đó là: ông đã hiểu sai về sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì thế, lời tiên báo của Đức Giêsu trước đó không lay động gì với suy nghĩ của ông về con người vĩ đại của Đức Giêsu.
Quả thật, ông hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia theo kiểu trần gian, tức là một người quyền thế chứ không phải là người yếu đuối như vậy.
Khi hiểu như thế, ông đã hoàn toàn thất vọng về cái chết của Thầy mình. Ông không còn tin tưởng vào tương lai. Vì vậy, khi nghe các Tông đồ báo tin Thầy đã sống lại và đã hiện ra với họ, trong ông luôn luôn nghĩ là điều hoang tưởng. Chính sự nghi ngờ này đã làm cho ông dám cả gan thách thức Chúa để thỏa mãn sự hiếu tri!
Chúa thương Tôma vì Ngài hiểu được sự yếu đuối và tham sân si của ông. Ngài không trách và cũng không lên án, nhưng ngược lại, Ngài đã yêu thương ông bằng tình yêu đặc biệt.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi lần này hiện ra, Đức Giêsu đã nhắm thẳng vào Tôma với lòng trìu mến ông cách đặc biệt, đồng thời Ngài cũng củng cố lòng tin nơi ông, nên Ngài nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27).
Sự nghi ngờ tan biến khi lòng thương xót của Đức Giêsu phủ lấp trên con người và tâm trí Tôma. Vì thế, ông đã thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Lời thốt lên này cho thấy ông thật ngỡ ngàng trước lòng thương xót đặc biệt của Đức Giêsu dành cho ông. Mặt khác, đây cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đấng Phục Sinh.
Như vậy, trước đó, Tôma đã cứng lòng không chịu tin. Nhưng khi Đức Giêsu tỏ lòng thương xót của Ngài cho ông, ông đã hoàn toàn thay đổi và xác tín niềm tin của mình vào Chúa cách mạnh mẽ.
Còn chúng ta ngày nay khi đứng trước lòng thương xót của Thiên Cháu, chúng ta có thái độ nào?
2. Thực trạng niềm tin nơi xã hội hôm nay
Xã hội ngày càng phát triển, con người luôn đề cao tri thức, khoa học thực nghiệm, hiện sinh. Nhân loại đang có chủ chương giải nghi huyền nhiệm. Chính vì điều này mà con người hôm nay bị đóng khung bởi những kiến thức thực dụng.
Ngày nay, con người ít muốn nhắc đến niềm tin tôn giáo. Họ cũng chẳng cần để ý đến những dấu chỉ thời đại. Và ít khi nghĩ đến việc phải thi hành bổn phận về lòng thương xót.
Biết bao nhiêu mặc khải về tình thương của Thiên Chúa, nhưng đã bị con người bỏ qua. Biết bao nhiêu lời mời gọi tương thân tương ái của Giáo Hội, nhưng vẫn chỉ có những ngọn lửa leo loét trong màn đêm dày đặc. Biết bao nhiêu lời mời gọi xây dựng hòa bình trong sự thật và công bằng, nhưng cũng chỉ như tiếng kêu lạc lõng giữa rừng sâu!
Khác với Tôma, con người ngày nay luôn tìm mọi cách để giải nghi huyền nhiệm. Họ muốn quy chiếu tất cả vào khả năng của con người. Tuy nhiên, sự thật cho thấy, con người đã thất bại nặng nề khi khước từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Con người đã bị thiên nhiên quay lưng lại khi không biết vận hành theo trình tự của Thiên Chúa tạo hóa.
Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi nhìn ra xã hội hôm nay với bức tranh phân hóa giàu nghèo ngày càng nổi cộm. Hố sâu hay bức tường cao là những thứ được đào và xây lên bởi sự ích kỷ, kiêu ngạo của con người để loại trừ, phân biệt… Sự vô cảm, lạnh nhạt, thiếu tình thương đang dần trở thành căn bệnh thời đại. Sự bất an và mất hạnh phúc khi con người nhân danh chiến tranh để xây dựng hòa bình mà bỏ qua công lý và sự thật đang ngày càng leo thang… Và biết bao đau thương khác đang ngày đêm diễn ra trong xã hội loài người chỉ vì thiếu đi sự cảm nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa như Tôma khi xưa.
3. Người Kitô hữu và lòng thương xót Đứng trước thực trạng đó, người Kitô hữu được mời gọi xác tín ngày càng mạnh mẽ niềm tin của mình vào Thiên Chúa, nhất là biết nhạy bén với các dấu chỉ thời đại để loan truyền lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người và thế giới hôm nay.
Thật vậy, lúc này, hơn bao giờ hết, trong một xã hội muốn loại trừ Thiên Chúa như vậy, chúng ta được mời gọi trở nên khí cụ của lòng thương xót; trở nên ngọn hải đăng soi sáng cho những con thuyền đang chơi vơi giữa đại dương mênh mông; là chiếc la bàn trong rừng sâu để chỉ dẫn cho những ai mất định hướng; là biển chỉ đường cho những ai muốn tìm về Chân Thiên Mỹ; là tấm bánh cho những ai đói nghèo; là ly nước cho những ai đang khát; là mái nhà cho những ai không chỗ nương thân; là niềm hy vọng cho những ai thất vọng; là điểm tựa cho những ai mất niềm tin…
Muốn làm được điều đó, mỗi người chúng ta hãy có tâm tình của chính thánh Tôma khi đối diện với lòng thương xót của Đức Giêsu, đó là biết thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28) .
Mong thay mỗi người chúng ta sẽ là những người nhận ra lòng thương xót vô biên của Chúa như thánh Tôma khi xưa. Đồng thời biết làm chứng về lòng thương xót ấy cho mọi người xung quanh. Amen.
Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh trình bầy cho chúng ta về một Tin Mừng duy nhất:” Con Thiên Chúa là PS2-283
Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh trình bầy cho chúng ta về một Tin Mừng duy nhất:” Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đã khải hoàn từ cõi chết, Ngài không chết nữa, Ngài đang hiện diện giữa chúng ta “. Tin Mừng của thánh sử Gioan và cũng là người làm chứng cho Chúa Phục Sinh:” Tôi đã thấy và tôi tin “. Gioan đã tin, nên Chúa Phục Sinh cho Ngài thấy. Ngài đã là nhân chứng kiên cường, bất khuất cho Chúa Giêsu sống lại. Các môn đệ của Chúa nhất nhất đã tin vào Chúa, nhờ đức tin, các Ngài đã được Chúa sống lại cho thấy Ngài, và các Ngài đã là nhân chứng cho sự Phục Sinh của Chúa dù có phải hy sinh cả mạng sống.
Chúa Phục Sinh từ cõi chết sống lại đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ để củng cố đức tin cho các ngài: Chúa Phục Sinh đã hiện ra cho các người phụ nữ,cho Simon Phêrô, Gioan. Chúa sống lại đã hiện ra với các môn đệ trong phòng kín khi không có Toma, rồi sau tám ngày Phục Sinh, Chúa đã hiện ra và ban bình an cho các môn đệ, hôm nay có cả Toma, Ngài giơ chân, tay, cạnh sườn thương tích cho Toma xem, và mời Toma hãy xo ngón tay vào lỗ đinh, xỏ bàn tay vào vết thương cạnh sườn của Ngài.Chúa hiện ra với hai đệ trên đường Emmaus, Chúa hiện ra với các môn đệ trên bờ biển và dạy các Ngài thả lưới bên mạn phải thuyền, các môn đệ đã làm theo và đã bắt được mẻ cá thật lạ lùng. Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin, làm cho đức tin của các Ngài thêm mạnh mẽ nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Củng cố lòng tin, Chúa sai các môn đệ ra đi:” Như Cha đã sai Thầy, giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi “.
Viễn cảnh trước mắt cho các môn đệ thấy một thế giới bao la, mênh mông, rộng lớn mà Chúa đã loan báo trước cho các Ngài. Chúa đã chuẩn bị cho các Ngài từ lúc theo Chúa, cho tới giờ phút Chúa Phục Sinh…Theo Chúa nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu mầu nhiệm đau khổ là gì, mầu nhiệm thập giá và sự sống lại là làm sao, do đó, các Ngài vẫn co cụm, vẫn sợ sệt, lo âu khi Chúa bị bắt, bị giết…Nếu Chúa Phục Sinh không mở lòng, không ban ơn can đảm, trí hiểu cho các môn đệ qua tác động, hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đặc biệt sự soi sáng của ánh sáng Phục Sinh, chắc chắn các Ngài sẽ không thể nào làm chứng cho Chúa Phục Sinh được. Tuy nhiên, nhờ quyền năng của Chúa Phục Sinh, các môn đệ đã được thay đổi, đức tin của các Ngài đã trưởng thành theo lòng Chúa mong muốn để các Ngài có thể hoàn thành sứ mạng cao cả Chúa trao phó là làm chứng và loan truyền sứ điệp Chúa Phục Sinh cho toàn thể nhân loại.
Chúa Phục Sinh đã thay đổi hoàn toàn sinh mạng của các môn đệ, từ tình trạng lo âu, sợ sệt, co cụm, đóng kín cửa nhà vì sợ người Do Thái, các môn đệ đã được củng cố đức tin mạnh mẽ, kiên cường, các Ngài đã nhận lãnh Thánh Thần, đức tin đã được kiện toàn, họ mở tung cửa để ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Họ khong còn khép kín cõi lòng, không còn tự mình bị giam hãm trong phòng, họ đã ra đi bất chấp tất cả hiểm nguy, ngay cả phải hy sinh chính mạng sống.
Chúng ta cũng như các môn đệ, các tông đồ Chúa có những lúc chúng ta bị vùi dập trong đêm tối, bị cám dỗ để mất đức tin, cám dỗ xa lìa Chúa khi những khó khăn, nghịch cảnh, hiểm nguy xẩy đến trong đời…Khi thập giá chồng chất, khi mầu nhiệm thập giá bủa vây, giăng mắc vv…
Các môn đệ, các tông đồ là những người đã được sống với Chúa, được nghe Chúa dạy bảo, được thấy Chúa làm phép lạ, nhưng khi thập giá, mầu nhiệm thương khó xẩy tới, các môn đệ đều nao núng, đều muốn bỏ cuộc. Tuy nhiên, Chúa Phục Sinh không bao giờ bỏ rơi, các môn đệ, và như thế Chúa sống lại cũng không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Ngài luôn có mặt trong cuộc đời, trong lịch sử của mỗi người, của thế giới vv…Chỉ cần chúng ta có đôi mắt đức tin, đôi mắt Phục Sinh, chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang đồng hành với chúng ta trong mọi trạng huống của đời sống: lúc thuận cũng như lúc nghịch.
Hôm nay, Chúa nhật II Phục Sinh, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chọn để Kính Nhớ Lòng Chúa Thương Xót Chúa, chúng ta hãy mau mắn chạy tới với Lòng Thương Xót của Chúa vì Chúa mãi mãi một lòng xót thương chúng ta.
Chúng ta hãy mau mắn quay trở về với Thiên Chúa tình thương để lãnh nhận sự tha thứ và ơn bình an của Ngài.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Toma có dám xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa Phục Sinh không ? 2.Tại sao Chúa Phục Sinh lại ban bình an cho các môn đệ ? 3.Bình an của Chúa Phục Sinh có khác với bình an của thế gian không? 4.Chúa Phục Sinh có hiện diện với chúng ta không ? 5.Ai đã chọn Chúa nhật II Phục Sinh làm Chúa nhật Kính Nhớ Long Thương Xót Chúa ? -------------------------------------
Sau cơn mưa trời lại sáng. Một tuần sau khi Chúa sống lại, Phụng vụ Lời Chúa bắt đầu từ Chúa PS2-284
Sau cơn mưa trời lại sáng. Một tuần sau khi Chúa sống lại, Phụng vụ Lời Chúa bắt đầu từ Chúa Nhật II Phục Sinh trình bày cho chúng ta tất cả những đổi mới trong mọi lãnh vực cuộc sống như đức tin, tâm hồn, lối sống, đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy sự canh tân về đức tin là nguyên lý đổi mới mọi sự. Tiêu biểu là trường hợp tông đồ Tô-ma. Tiếp đến, thánh Phê-rô nói đến “niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại”. Còn bài trích sách Công Vụ Tông Đồ giới thiệu với chúng ta một nếp sống mới của cộng đồng Ki-tô hữu tiên khởi. Tất cả những đổi mới này đều là nhờ Phục Sinh.
Bài Tin Mừng kể lại hai thời điểm trong cuộc đổi mới đức tin của tông đồ Tô-ma, có lẽ của những tông đồ khác nữa. Trước hết là “vào chiều ngày thứ nhất trong tuần”, Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ trong căn nhà cửa đều đóng kín. Từ thái độ sợ hãi người Do-thái, các môn đệ Chúa đã trở thành những người “vui mừng vì được thấy Chúa” và được nhận lãnh Thánh Thần. Tiếc thay ông Tô-ma lại vắng mặt nên không được diễm phúc nhận sự biến đổi ấy! Trở về và nghe anh em kể lại việc Chúa hiện ra, Tô-ma không tin, rồi còn đòi chứng cớ hiển nhiên. Nhưng Chúa vẫn dành cho Tô-ma một cơ hội khác. Đó là “tám ngày sau”, Chúa lại đích thân đến, dường như chỉ vì Tô-ma! Chúa muốn “đổi mới” nốt con người cứng lòng tin này. Sau lời mời gọi của Chúa xin Tô-ma hãy sờ vào vết đinh trên tay chân Chúa và thọc ngón tay vào cạnh sườn Người, ông đã quay một trăm tám mươi độ, chẳng những đức tin của ông đổi mới mà còn sâu xa đến nỗi ông phải thốt lên những lời lẽ vô cùng cảm động: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Nhờ Tô-ma, Chúa Giê-su còn cho chúng ta thấy một chiều kích sâu xa của đức tin, là “Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Đức tin đổi mới của các tông đồ và môn đệ Chúa đã đưa một luồng sinh khí mới vào đời sống cộng đoàn Ki-tô tiên khởi. Chắc chắn sự đổi mới ấy là tuyệt vời, nên đã được ghi chép lại trong sách Công Vụ Tông Đồ. Một trong những đặc nét của đời sống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem được đề cao chính là tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Yêu thương là hoa quả đầu mùa của Phục Sinh. Hạt giống yêu thương đã nảy mầm cùng với sự sống lại của Chúa và phát triển trong cộng đoàn Ki-tô hữu. Những lời Chúa giảng dạy về yêu thương giờ đây được thể hiện qua thực tại tín hữu hợp nhất và chia sẻ với nhau tất cả những gì mình có. Lối sống mới này gặp thấy trong mọi lãnh vực, từ việc thờ phượng cho đến cuộc sống thường ngày. Mọi người đều nghĩ đến nhau, chăm sóc cho nhau vật chất cũng như tinh thần, để thực thi lời Chúa dạy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em. Sách Công Vụ cũng không quên ghi lại cảm tưởng của những người ngoài Ki-tô giáo cũng như sự phát triển của cộng đồng mới này: “Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”.
Sống sứ điệp Lời Chúa Cùng với sự sống lại của Chúa Giê-su Ki-tô, cộng đoàn tín hữu tiên khởi và mọi sự được đổi mới. Họ đã sống đích thực tinh thần Phục Sinh. Vậy chúng ta, những Ki-tô hữu ngày nay, làm thế nào để cho Chúa Phục Sinh đổi mới chúng ta đây? Trong bài đọc 2, thánh Phê-rô chia sẻ với chúng ta kinh nghiệm đổi mới của ngài. Trước hết ngài khẳng định với chúng ta rằng nền tảng của đổi mới chính là việc Thiên Chúa cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta mang một căn tính mới làm con cái Chúa. Chúa Giê-su đã cho chúng ta được đồng thừa kế gia sản của Người, tức những gì đã dành cho Người ở trên trời. Sống niềm hy vọng được thừa hưởng gia sản vĩnh cửu đã được thánh Phê-rô gọi là “niềm hy vọng sống động”. Hy vọng sống động không ngồi chờ sung rụng, đợi thời cơ may mắn đến, nhưng là giữ vững niềm tin vào Chúa Phục Sinh, dù “còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách”. Hy vọng sống động biểu lộ qua việc tích cực sống những giá trị Tin Mừng, dù những giá trị ấy đi ngược lại lối sống của thế gian. Tóm lại đó là lối sống của những người đang được cứu độ!
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các Môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin !” (30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, PS2-285
Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết sống lại:
- LẦN THỨ NHẤT Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tô-ma. Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi thổi hơi ban Thần Khí cho các ông (23).
- LẦN THỨ HAI sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma và khi gặp Chúa, Tô-ma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giê-su đã chúc phúc cho những ai không thấy mà tin ! (29)
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20:
+ Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo.
+ Đức Giê-su đến: Người hiện đến khi cửa nhà đóng kín cho thấy thân xác của Người sau phục sinh có đặc tính siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi.
+ Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27).
+ Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23:
+ Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Người lại truyền cho các môn đệ và các tín hữu sau này.
+ Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ thông truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu.
+ “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã chứng tỏ Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, ban quyền tha tội cho các tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các giám mục kế vị các tông đồ sẽ tiếp tục thông chia quyền tha tội cho các linh mục là những cộng tác viên của mình.
- C 24-25:
+ Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi” (Đi-đy-mô). Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông hay thắc mắc để được Thầy giải thích rõ hơn (x. Ga 14,5).
+ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25).
+ “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm nói tới sự cứng tin của các môn đệ: Matthêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Mác-cô thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14); Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38).
+ Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
- C 28-31:
+ Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng đức tin đầy đủ nhất: Đức Giê-su vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa).
+ Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các tông đồ (x. Ga 19,35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì niềm tin vào mầu nhiệm ấy.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì Thứ Bảy (Sa-bát) như trong đạo Do thái ?
2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân xác sống lại của Chúa có đặc tính gì ?
3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì ?
4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ?
5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc nào ?
6) Đức Giê-su thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ để làm gì ?
7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh khi nào ?
8) Tin Mừng cho biết gì về tông đồ Tô-ma ?
9) Các tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm Phục Sinh không ?
10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của ông Tô-ma ?
11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng nào ?
12) Ngày nay các tín hữu chúng ta cần dựa vào bằng chứng nào để tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su ?
Tờ báo TIẾNG GỌI (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện thật cảm động như sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang học làm thủy thủ trên một tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ có cậu bé này là còn có đức tin vào Chúa.
Cậu bé được bà mẹ đạo đức khuyên dạy con rằng: “Chúa đặt con trên con tàu này là để cho con có dịp làm chứng cho Người”. Do đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ rảnh rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để chơi bời sa đọa, thì cậu ta đều cố ngăn cản bằng cách này hay cách khác. Nhưng không những đám thủy thủ không chịu nghe cậu, mà nhiều khi họ còn chế diễu nhạo báng cậu: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện tạ ơn Chúa trước khi ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn của cậu giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát tục tĩu để chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người cậu. Để đáp lại, cậu thiếu niên chỉ mỉm cười bỏ qua và âm thầm cầu xin Chúa cho họ.
Một lần kia khi đang làm việc trên boong tàu, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Thấy cậu bơi lại gần con tàu thì họ lại dùng cây sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu đã bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to rằng: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa Giê-su thì các bạn sẽ được cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi đã được chịu chết vì danh Chúa Giê-su !” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong tàu làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau cậu mới tỉnh dậy. Thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa, và hãy quay trở về với Chúa. Kết quả là sau đó toàn thể các thủy thủ trên tàu đều xúc động trước tấm gương can đảm trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối xuống cầu nguyện và tuyên xưng đức tin, đồng thời ăn năn sám hối để xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của mình.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay đề cập đến đức tin của cộng đoàn môn đệ, và sự cứng tin của Tô-ma, tiêu biểu đức tin thực nghiệm của con người ngày nay như sau:
1) Tiến trình đức tin của cộng đoàn môn đệ vào mầu nhiệm Chúa phục sinh:
Sau khi Đức Giê-su chết và được an táng trong mồ, các môn đệ của Người tập trung tại nhà Tiệc Ly và vào buổi chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, họ đã được Chúa Phục Sinh hiện đến đứng giữa họ đang khi cửa nhà vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Họ rất vui mừng được nhìn thấy Chúa. Sau lời chào chúc bình an, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Rồi Người sai các ông tiếp tục sứ mạng Thiên Sai và ban Thánh Thần để các ông thi hành sứ mạng tha tội cho mọi người (x. Ga 20,19-23). Sau đó các môn đệ đã báo tin cho Tô-ma, người duy nhất trong nhóm vắng mặt khi Chúa Phục Sinh hiện ra. Họ nói: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”. Nhưng ông Tô-ma không dễ dàng tin Thầy đã sống lại. Ông đòi phải được gặp Chúa và chỉ chấp nhận tin Chúa sống lại sau khi đã được “mắt thấy tay sờ” như sau: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).
2) Lượng giá về đức tin thực nghiệm của ông Tô-ma:
Ngày nay con người đã bước vào kỷ nguyên mới của khoa học kỹ thuật và chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm. Họ luôn đặt dấu hỏi và hoài nghi mọi sự: Họ chỉ tin nhận sau khi đã tìm hiểu qua các bước như sau: Một là quan sát sự kiện và nêu giả thuyết. Hai là làm thí nghiệm để kiểm chứng giá trị giả thuyết. Sau cùng đề ra quy luật phổ quát để giải thích mọi trường hợp khác tương tự. Sự cứng tin của Tô-ma hôm nay phù hợp với lối suy tư khoa học thực nghiệm của con người thời nay. Thực vậy: Nguyên việc một người tín hữu sống tốt và ăn nói trung thực, nhưng lại có vốn hiểu biết hạn hẹp và hay bị kẻ khác lường gạt… sẽ không đủ uy tín để rao giảng đức tin và mời gọi người khác tin theo Chúa. Để chu toàn được sứ vụ làm chứng cho Chúa trong xã hội hôm nay, noi gương đức tin sáng suốt của Tô-ma, chúng ta cần tin vào Chúa Phục Sinh dựa vào Lời Chúa, vào đức tin của Hội Thánh qua các nghi thức phụng vụ. Rồi còn phải đào sâu về giáo lý Thánh kinh, cần áp dụng các kiến thức khoa học cơ bản trong việc lý luận và trình bày các mầu nhiệm đức tin một cách có hệ thống và chặt chẽ dễ hiểu và dễ tin hơn.
3) Cần canh tân việc loan truyền đức tin cho con người thời nay:
Trước đây người giáo dân dễ tin vào các linh mục, tu sĩ, hoặc cha mẹ, thầy cô... Khi học giáo lý, trẻ em dễ dàng tin vào những chân lý đức tin của Hội Thánh dạy mà không thắc mắc gì nhiều. Nhưng ngày nay và cho đến các thế hệ sau này, con người sẽ có sự đòi hỏi nhiều hơn khi nghe giảng dạy các mầu nhiệm đức tin để tin. Cần phải “nói có sách, mách có chứng”. Nếu không chứng minh bằng những sự kiện trong thực tế thì ít nhất cũng phải chứng minh sự đáng tin của các điều chúng ta rao giảng. Phải trình bày đức tin cách khoa học hợp tình hợp lý, có bằng chứng trong Thánh Kinh. Cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, lý luận chặt chẽ để giúp người nghe dễ dàng đón nhận chân lý. Dù đức tin là do ơn Chúa ban, nhưng nếu muốn cho việc rao giảng đức tin đạt được hiệu quả cao là được nhiều người thời nay đón nhận, thì đòi người rao giảng phải sống đức tin trước, và phải canh tân phương cách rao giảng kết hiệp với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.
4) Cần rao giảng đức tin bằng việc làm đi đôi với lời nói:
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã để lại cho chúng ta một phương châm thực hành như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp Evangelii nuntiandi số 41). Con người thời nay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể mới tin. Do đó, người rao giảng cần phải chứng tỏ điều mình rao giảng trước hết bằng chính cuộc sống của mình. Thật vậy, ai mà tin được là Tin Mừng thực sự cái tin mà chính người rao giảng lại mang nét mặt cau có buồn thảm ? Ai mà tin được là Tin Mừng giải phóng con người khi chính người rao giảng lại đang ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi và làm nô lệ cho các đam mê bất chính? Ai mà tin được là Tin Mừng cứu độ khi chính người rao giảng lại có lối sống ích kỷ vô cảm, khi các thành viên gia đình của họ luôn bất hòa dẫn đến nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình?
Đức tin không phải chỉ là tuyên xưng các tín điều Hội Thánh dạy khi đọc kinh tin kính… nhưng là xác tín Đức Giê-su chính là “Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa”, là “con đường, sự thật và sự sống”… để sẵn sàng tín thác, cậy trông và sống chết cho Người. Làm thế nào để Lời Chúa chiếu soi vào cách suy nghĩ, nói năng và ứng xử của chúng ta; Luôn sống kết hiệp với Chúa như cành nho tháp nhập và hút nhựa sống là ơn sủng qua việc dự lễ và rước lễ mỗi ngày… Nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ ngày một đổi mới nên tốt hơn, ứng xử công bình nhân ái hơn và sẽ sống trong bình an hạnh phúc hơn. Nhờ đó, việc loan báo Tin Mừng của chúng ta se được người khác lắng nghe và là bước đầu giúp họ đón nhận đức tin để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN:
Cậu bé trong câu chuyện trên đã bất chấp nguy hiểm, can đảm trung thành với Chúa và luôn làm chứng về Chúa, nên sau nhiều gian nan thử thách cậu đã thành công. Vậy để chu toàn sứ mệnh được sai đi, bạn cần làm gì để giúp con người thời đại hôm nay dễ dàng tin có Chúa và đón nhận các chân lý đức tin ?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Cha từ bi nhân ái. Xin cho chúng con mau mắn đáp lại tình thương cứu độ của Cha bằng việc sống đức tin thể hiện qua cách suy nghĩ nói năng và hành động, noi theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su Con Cha. Xin cho chúng con biết rao truyền đức tin cho con người thời nay bằng lời nói, bằng sự hy sinh quên mình và khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật đau khổ, hầu giới thiệu lòng thương xót của Chúa và giúp nhiều người tin theo để được hưởng ơn cứu độ.
Mầu nhiệm là điều phàm nhân không hiểu nổi. Chữ “mầu nhiệm” của tiếng Việt được sử dụng t PS2-286 Ephata
Mầu nhiệm là điều phàm nhân không hiểu nổi. Chữ “mầu nhiệm” của tiếng Việt được sử dụng trong các sách thần học và giáo lý để dịch chữ mysterium ( tiếng Latinh ), mystery ( tiếng Anh ), hoặc mystère ( tiếng Pháp ). Chữ “mầu nhiệm” thường được dùng trong lĩnh vực Đức Tin, theo nghĩa là những chân lý vượt quá tầm hiểu biết của trí tuệ con người, tức là con người không thể hiểu thấu. Chúng ta nhận biết bằng Đức Tin dựa trên lời chân thật của Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa mặc khải. Có nhiều mầu nhiệm, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là một mầu nhiệm.
Thật kỳ diệu, ngay trên đỉnh Canvê, Thập Giá đã nảy lộc, đơm hoa và kết trái. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Ngài đã phục sinh vinh hiển, ngôi mộ trống là chứng có hùng hồn đầy tính thuyết phục, mặc dù người ta đã hèn nhát hối lộ nhau để bóp méo sự thật.
Trước đây, Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, ngày nay gọi là Đại lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30.4.2000, ngày tuyên Thánh Nữ Tu Faustina Kowalska ( 1905-1938 ), vị Tông Đồ tiên khởi của Lòng Chúa Thương Xót.
Tuy là hai cách gọi nhưng vẫn chỉ là một. Tương tự, Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và Lòng Chúa Thương Xót tuy ba mà một. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải ước muốn của Ngài cho Thánh nữ Faustina: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” ( Nhật Ký, số 341 ).
Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta” ( Nhật Ký, số 1109 ). Ơn tha thứ hoàn toàn đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dismas đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, lúc 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm xưa trên đồi Golgotha. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào Lòng Chúa Thương Xót.
Đức Tin vô cùng quan trọng. Thật thế, Thánh Phaolô xác định: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” ( Rm 3, 28 ). Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan Đức Tin, và có thể coi như “mối phúc thứ chín”, do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” ( Ga 20, 29 ). Và chắc chắn rằng “bất kỳ ai tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh, sẽ không phải thất vọng” ( x. Rm 10, 11; 1Pr 2, 16 ).
Đề cập vấn đề Đức Tin trong ngày lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, xin được “mở ngoặc” nhỏ: Thấy có những người hằng ngày tới nhà thờ lần Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót với cộng đoàn, nhìn bề ngoài thấy là người đạo đức lắm, thế nhưng họ vẫn tin vào tử vi. Họ lý luận rằng đó là khoa học, không có tội ( sic ! ).
Tử vi cũng gọi là “tử vi đẩu số”, một hình thức bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và chi… Người ta lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là “chấm tử vi”. Căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư ? Miệng leo lẻo nói tin Chúa mà lòng có tin chưa ? Tương lai chúng ta phó thác trong tay Chúa hay tử vi ? Như vậy không phải là “tin bằng môi miệng” ư ?
Ngoài ra, cũng thấy có những người vẫn còn “chạy đua” theo những “sự lạ” trong khi lại không để ý các phép lạ hằng ngày: Thánh Thể và không khí. Phải chăng như vậy cũng chỉ là “lẻo mép”, chúng ta đến với Lòng Chúa Thương Xót mà chưa thực sự vì yêu mến ? Thiết nghĩ, cách thể hiện Đức Tin như vậy cũng nên “xét lại” lắm !
Người Việt có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đúng vậy, cái “phẩm” quan trọng hơn cái “lượng”. Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi thì dễ đổ khi gặp mưa gió. Thực tế minh nhiên. Vấn đề Đức Tin cũng vậy, nếu không có chiều sâu thì chỉ là Đức Tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi !
Thánh nữ Faustina nói về việc sống Đức Tin: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa đang và sẽ được thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan; vì chính khi ấy, công cuộc lại càng được củng cố hơn nữa” ( Nhật Ký, số 1659 ).
Tác giả Thánh Vịnh luôn vững tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn” ( Tv 73, 26 ). Chỉ người nào có Đức Tin son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” ( Rm 8, 39 ). Tin vào Chúa là tin vào Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài.
Trình thuật Cv 2, 42-47 cho biết: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”.
Một đoạn văn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương, tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót, ai cũng thể hiện lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi cấp độ, không chi li, không so đo, tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên mình vì người khác... Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ.
Từ muôn thuở tới muôn đời, trước sau như một, Thiên Chúa mãi là Đấng giàu lòng thương xót: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” ( Tv 118, 2-3 ). Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi người đều được hưởng Ơn Cứu Độ. Chúng ta có nhiệm vụ phải loan báo Lòng Chúa Thương Xót, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài, và tuyên xưng: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” ( Tv 118, 14 ).
Chúa Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở nên đá tảng góc tường” ( Tv 118, 22 ). Thật là kỳ công vô song của Thiên Chúa ! Vì thế, chúng ta hãy nhắc nhở nhau và đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ !” ( Tv 118, 24 ).
Trong tâm tình hân hoan đó, Thánh Phêrô vui mừng nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết” ( 1Pr 1, 3-5 ). Đó là lời chứng của người đã trải nghiệm các cung bậc sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác.
Để động viên chúng ta, Thánh Phêrô nhắn nhủ thêm: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện Đức Tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, Đức Tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” ( 1Pr 1, 6-7 ). Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín thì mới chứng tỏ Đức Tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ.
“Không thấy mà tin” là một Mối Phúc, đúng là như vậy. Tuy nhiên, trong khi miệng nói tín thác vào Lò ng Chúa Thương Xót mà lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú, đọc như con vẹt, chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô ích !
Quả đúng như vậy, bởi vì Chúa Giêsu đã nói chắc chắn và rõ ràng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ). Ngôn hành phải song song, không thể nói một đàng làm một nẻo.
Về Mối Phúc “không thấy mà tin”, Thánh Phêrô cũng giải thích rạch ròi: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức Tin, là ơn cứu độ con người” ( 1Pr 1, 8-9 ). Đức Tin quan trọng, nhưng Đức Tin có những mức độ khác nhau ở mỗi người, Đức Tin càng sâu rộng càng có giá trị, và tất nhiên cũng cần trau giồi hằng ngày – thậm chí là từng giây phút trong cuộc sống.
Tin Mừng hôm nay là trình thuật Ga 20, 19-31, một đoạn Tin Mừng rất quen thuộc nói về việc cứng lòng tin của Tông Đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản diện thường không được người ta có cảm tình. Thế nhưng chúng ta quên rằng, nhân vật phản diện đó lại làm “nền” để nhân vật chính diện được nổi bật. Có lẽ Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi nói tới Đức Tin, nhất là trong Mùa Phục Sinh.
Rất có thể Tông Đồ Tôma là người thực tế nên ông cần điều cụ thể, rõ ràng. Chúng ta cứ chê ông cứng lòng, nhưng chúng ta cũng vẫn cứng lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ của Giáo Hội, thế nên Đức Tin của chúng ta vẫn dễ bị “lung lay” mỗi khi gặp gian khổ, và rồi chúng ta vẫn “chạy đua” về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu” tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu” Đức Tin. Như vậy không gọi là cứng lòng tin thì gọi là gì ?
Kinh Thánh cho biết rằng vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người Do Thái, trong “khoảng sợ hãi” đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì cũng lạnh xương sống lắm chứ ! Nhưng bất ngờ Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy thật rồi. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”.
Nhưng chiều hôm đó không có mặt Tông Đồ Tôma, cũng gọi là Điđimô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông về thấy Chúa nhãn tiền, nhưng ông Tôma nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Ái chà, coi bộ “căng” dữ nghen !
Rồi tám ngày sau, các Tông Đồ lại quy tụ, lần này có cả ông Tôma. Các cửa cũng vẫn đóng kín mít. Thế mà thật lạ, Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ngại hết sức ! Biết rồi còn nói, Thầy kỳ ghê đi ! Ngại thì ngại lắm, ông Tôma chỉ còn biết vội sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” Đó là một dạng thú tội. Ngài ôn tồn: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !” ( Ga 20, 29 ).
Sau khi sống lại, hai lần đầu tiên Chúa Giêsu hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong tuần”, khi các tông đồ đang tụ họp nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa vào ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Thánh Gioan cho biết: Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Về Đức Tin, Thánh Giacôbê cũng có cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân” ( Gr 17, 7 ).
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình yêu, là Đấng giàu lòng thương xót, và Ngài đã yêu thương chúng ta đến cùng ( Ga 13, 1 ). Chính vết thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, là Nguồn Mạch Lòng Thương Xót, chính Máu và Nước đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt, và rồi ông này đã phải thú nhận ngay tại chân Thập Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa, là người công chính !” ( Mt 27, 59; Mc 15, 39; Lc 23, 47 ).
TIN để ĐƯỢC Thiên Chúa thương xót là hệ lụy liên kết chặt chẽ, không thể tách rời. Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, thế nên không ai có thể đến với Chúa Cha nếu không qua Đức Kitô: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được v ới Chúa Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).
Trong niềm vui tưng bừng của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cùng nhớ lại lời Thầy Giêsu đã nói trước khi Ngài chịu chết và sống lại: “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” ( Ga 14, 1-3 ). Lời này là lực đẩy mạnh mẽ để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành trần gian cho đến khi hoàn tất cuộc đời, cũng là lúc chúng ta được gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh mãi mãi.
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn chân thành tín thác vào Con Chúa, Đấng đã chịu tử nạn vì thương xót nhân loại và đã phục sinh để những ai tin Ngài cũng sẽ được sống dồi dào. Xin Ngài thương xót toàn thế giới, và xin giúp con thể hiện lòng thương xót đúng với Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng đã yêu thương nhân loại đến cùng và là Đấng cứu độ. Amen.
TRẦM THIÊN THU --------------------------------
Ghi chú: Đội trưởng Longinus ( cổ ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos ) kém thị lực, khi ông cầm ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và ông đã nên thánh, Giáo Hội có đặt tượng Thánh Longinô ở Đền Thờ Thánh Phêrô ( Rôma ).
HẠNH NGỘ
Mục sư Billy Graham cũng có lúc nghi ngờ. Năm 1949, lúc đó Billy Graham được 30 tuổi, đã làm thế giới lưu ý qua các buổi truyền giảng bắt đầu ở Los Angeles. Theo hồi ký của ông viết, ông Templeton, người trở nên nhà truyền giáo nổi tiếng trước ông Graham 15 năm, đã xây dựng một Thánh đường với 1.200 chỗ ngồi, đã đưa ra nhiều câu hỏi thần học mà ông Billy Graham không đủ thông minh, kiến thức thần học để giải đáp. Ông viết: “Sự nghi ngờ, thắc mắc tràn ngập lòng tôi. Tôi dùng Kinh Thánh để tìm câu trả lời. Tôi cầu nguyện van nài Chúa giúp tôi.” Cuối cùng, với lòng nặng nề ông rảo bước dưới ánh trăng tại vùng núi San Bernardino. Tay cầm chặt quyển Kinh Thánh, ông quỳ gối và thú nhận với Chúa rằng, ông không thể giải đáp những thắc mắc, những câu hỏi, những nghi ngờ trong lòng của ông cũng trong lòng người bạn của ông là Templeton.
Sau cùng tôi cầu nguyện như sau: “Lạy Cha, con sẽ chấp nhận mọi điều qua lời của Cha bằng Đức Tin. Con sẽ để Đức Tin của con vượt lên trên những câu hỏi, nghi ngờ và con tin rằng quyển Kinh Thánh này là lời của Chúa”.
Ông đứng lên ràn rụa nước mắt và ông nhận ra quyền năng của Đức Chúa Trời bao phủ con người ông, điều mà bao lâu nay ông chưa từng có cảm giác đó. Ông nói: “Không phải tất cả nghi ngờ của tôi đều được Chúa trả lời, nhưng một cây cầu lớn đã bắc ngang và tôi bước qua. Tôi không còn bận tâm đến những nghi ngờ chưa có câu trả lời. Nó đã từng làm cho tôi gần như mất cả tâm thần của tôi một thời gian khá lâu. Lòng tôi, trí óc tôi cho tôi biết rằng tôi vừa chiến thắng trong một trận đấu tâm linh.”
Trong khi đó ông Templeton vẫn tiếp tục sống nặng trĩu với những nghi ngờ trong lòng và cuối cùng ông bỏ công tác mục vụ, di chuyển sang Canada, trở thành một nhà bình luận, viết tiểu thuyết vô thần. Nghi ngờ là điều không ai tránh khỏi trên bước đường theo Chúa. Nhưng đừng giữ mãi trong lòng. ( theo Baptist Church ).
Mục sư Billy Graham đã vinh dự gặp được Chúa qua cầu nguyện, qua hiệp thông Lời Chúa, Kinh Thánh và qua linh cảm Đức Tin. Hôm nay Tin Mừng theo Gioan tường thuật Tông Đồ Tôma đã nghi ngờ Đức Giêsu phục sinh. Nhưng với lòng từ bi nhân ái, Đức Giêsu đã cho ông hạnh ngộ, thoả mãn mong ước cháy bỏng. Lời Chúa nêu ra những yêu cầu cần thiết để được gặp Chúa. Đó là cầu nguyện, hiệp nhất và nhất là nhờ Lòng Chúa Thương Xót.
Cầu nguyện
“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con." Điều quan trọng nhất để có thể hạnh ngộ với Chúa, chính là siêng năng cầu nguyện, như các Tông Đồ đã tụ họp nhau hiệp ý. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” ( Cv 1, 14 ).
Trong những khi gian nan khốn khó, Thánh Phaolô luôn mời gọi tín hữu Kitô cầu nguyện. “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện” ( Rm 12, 12 ).
Hiệp nhất
Các Tông Đồ đã phải tan đàn xẻ nghé, khi Thầy Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá. Nhưng ngay sau đó, ân hận, sám hối, các ông đã can đảm tìm về với nhau, hiệp nhất đoàn tụ, nên Đức Giêsu thương yêu trở lại, hiện diện giữa họ. Bởi vì “Ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” ( Mt 18, 20).
Đức Giêsu liền chúc bình an cho các ông, giữa bầu khí còn căng thẳng, khi thế lực đen tối còn trấn áp đe doạ. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con."
Lòng Thương Xót
Tông Đồ Tôma vắng mặt khi Đức Giêsu hiện ra lần đầu với các Tông Đồ, liền tỏ ra nghi ngờ, không nghe các đấng tường thuật lại. Bất cứ ai đi theo Chúa, cũng khó tránh khỏi thử thách này. Nhưng Tôma không hề sĩ diện giấu kín, mà công khai chia sẻ nỗi niềm, nên Chúa đầy Lòng Thương Xót, hiện ra an ủi. "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin."
Nhiều khi thiếu khiêm nhường, thiếu lòng tin, thiếu niềm cậy, thiếu đức mến, người Kitô hữu cũng thường bắt chước ông Tôma yêu cầu Chúa chiều theo ước muốn, nguyện vọng, ý riêng, mà không đếm xỉa đến đức vâng lời, tìm hiểu và tuân theo Thánh Ý Chúa, hoặc nghe theo những lời khuyên bảo tốt lành của Chủ Chăn. Thế còn là chiên ngoan của Chúa nữa chăng ? Vậy đừng làm dụng, thử thách Lòng Chúa Thương Xót kẻo bị án luận phạt.
“Các Tồng Đồ đã khiêm tốn thuật lại trong Phúc Âm Đức Tin yếu hèn của họ, để chúng ta mạnh tin hơn” ( Đường Hy Vọng, số 279 ).
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin thương xót huấn cải, đổi mới tâm hồn chúng con, để chúng con được vinh dự tái sinh trong ánh sáng Chúa sống lại.
Khấn xin Mẹ Maria dạy chúng con khiêm hạ, vâng phục và đơn sơ, cùng cầu bầu chúng con được sống lại cả xác lẫn hồn, nhờ ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô hằng sống. Amen.
( Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II về Lòng Chúa Thương Xót, ngày 17.8.2002 )
“Hãy tin vào Thiên Chúa Toàn Năng. Ôi Lòng Chúa Thương Xót phi thường và sâu thẳm, Ngài đáng được tôn thờ và ngợi khen. Ôi thuộc tính vĩ đại của Thiên Chúa Toàn Năng, Ngài là niềm hy vọng ngọt ngào của tội nhân” ( Nhật Ký, 951 ).
1. Anh chị em thân mến,
Hôm nay tôi lặp lại những từ đơn giản và thẳng thắn này của thánh nữ Faustina để cùng với Thánh nữ và PS2-287
Hôm nay tôi lặp lại những từ đơn giản và thẳng thắn này của thánh nữ Faustina để cùng với Thánh nữ và toàn thể anh chị em tôn sùng mầu nhiệm Lòng Chúa Thương Xót phi thường và sâu thẳm. Cũng như Thánh nữ Faustina, chúng ta muốn tuyên xưng rằng ngoài Lòng Chúa Thương Xót không có niềm hy vọng nào cho nhân loại. Chúng ta cùng lặp lại niềm xác tín rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài !
Lời tuyên tín này, lời tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa Toàn năng, rất cần trong thời đại chúng ta, khi loài người cảm thấy hoang mang trước nhiều biểu hiện của ma quỷ. Khẩn cầu Lòng Chúa Thương Xót cần phát xuất từ đáy lòng đã gặp đau khổ, lo sợ, vô định, và đồng thời mong mỏi niềm hy vọng chính xác.
Đó là cách ngày nay đã có, trước thánh cốt ở Lagiewniki, để nhìn lại thánh nhan Chúa Cha qua Chúa Giêsu: “Cha của Lòng Thương Xót và Chúa của Niềm An Ủi” ( 2Cr 1, 3 ). Với con mắt tâm hồn, chúng ta muốn nhìn vào đôi mắt của Chúa Giêsu nhân từ, để tìm kiếm sâu thẳm trong ánh mắt của Ngài sự phản ánh đời sống nội tâm, cũng như ánh sáng hồng ân mà chúng ta thường lãnh nhận, và Thiên Chúa vẫn trao ban cho chúng ta hằng ngày cho đến tận thế.
2. Chúng ta sẽ cung hiến Thánh Đường mới này dâng kính Lòng Chúa Thương Xót. Trước khi làm vậy, tôi muốn chân thành cảm ơn những người đã góp công sức xây dựng thánh đường này. Đặc biệt cảm ơn Đức Hồng Y Franciszek đã nỗ lực đảm nhiệm công việc như dấu chỉ của ngài muốn sùng kính Lòng Chúa Thương Xót. Tôi cũng cảm kích các chị Dòng Thánh Mẫu Thiên Chúa Nhân Từ ( Sisters of the Merciful Mother of God ), tôi cảm ơn chị em đã phổ biến sứ điệp của Thánh nữ Faustina. Tôi hân hoan chào mừng các Hồng Y và các Giám Mục Ba Lan, dẫn đầu là Hồng Y Tổng Giám Mục, cũng như các Giám Mục đến từ các quốc gia trên thế giới. Tôi vui mừng có sự hiện diện của các Linh Mục Triều, Linh Mục Dòng, và các Chủng Sinh.
Tôi thân ái chào mừng những người tham dự Thánh Lễ hôm nay, đặc biệt các vị đại diện của Quỹ Đền thờ Lòng Chúa Thương Xót ( Foundation of the Shrine of Divine Mercy ) đã giám sát việc xây dựng, kể cả các thợ xây có liên quan trong nhiều dự án. Tôi biết rằng nhiều người hiện diện ở đây đã rộng lòng góp tiền của vào việc xây dựng Thánh Đường này. Nguyện xin Thiên Chúa thưởng công cho sự đại lượng của quý vị và chúc lành cho sự tận tâm của quý vị !
3. Anh chị em thân mến ! Khi chúng ta thánh hiến Thánh Đường mới này, chúng ta cũng có thể hỏi xem điều gì gây rắc rối cho Vua Salômon khi ông thánh hiến Đền Thờ Giêrusalem là Nhà Chúa: “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng ? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây !” ( 1V 8, 27 ).
Thoạt nhìn, để kết hợp những “nơi” nào đó với sự hiện diện của Thiên Chúa có thể có vẻ không thích hợp. Chúng ta không bao giờ có thể quên rằng thời gian và không gian thuộc về Thiên Chúa trong trạng thái nguyên vẹn của Ngài. Nhưng cho dù qua thời gian và thế giới có thể được coi là “Đền Thờ” của Ngài thì Thiên Chúa cũng đã chọn những thời điểm và những vị trí để làm cho con người có thể trải nghiệm cách hiện hửu đặc biệt của Ngài và ân sủng của Ngài. Được Đức Tin thúc đẩy, người ta đến những nơi như thế này và tin rằng họ sẽ tìm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong cùng niềm tin đó, tôi đến Lagiewniki để thánh hiến ngôi Thánh Đường mới này. Tôi tin rằng đây là nơi đặc biệt được Thiên Chúa chọn để gieo hạt giống ân sủng của Lòng Thương Xót. Tôi cầu nguyện cho nơi này luôn là nơi mà Lòng Chúa Thương Xót được tuyên xưng, là nơi trở về và sám hối, là nơi cử hành Bí Tích Thánh Thể, là nguồn mạch của Lòng Thương Xót, là nơi cầu nguyện và là nơi cầu xin Lòng Thương Xót cho chính chúng ta và cho thế giới.
Tôi cầu nguyện theo lời của Vua Salômon: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con ! Xin đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi tớ Ngài dâng trước tôn nhan hôm nay. Xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày, nhìn đến nơi này, vì Ngài đã phán: ‘Danh Ta sẽ ở đấy’; xin Ngài lắng nghe lời nguyện tôi tớ Ngài dâng ở nơi đây. Xin nghe lời nài van của tôi tớ Ngài và của Ítraen dân Ngài dâng lên ở nơi đây. Từ trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe; xin lắng nghe và tha thứ” ( 1V 8, 28-30; 2Sbn 6, 19-20 ).
4. “Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Chân Lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Ngài như thế” ( Ga 4, 23 ). Khi chúng ta đọc những lời này của Chúa Giêsu trong Đền Thờ Lòng Thương Xót, chúng ta biết rằng không ai có thể đến đây ngoại trừ Thần Khí và Chân Lý. Chính Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi và Chân Lý, hướng dẫn chúng ta đi trên con đường Lòng Thương Xót. Bằng cách quan tâm thế giới “sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử” ( Ga 16, 8 ), Ngài cũng cho chúng ta biết sự viên mãn của Ơn Cứu Độ nơi Đức Kitô. Việc thuyết phục quan tâm tội lỗi liên quan gấp đôi tới Thập Giá của Đức Kitô.
Mặt khác, qua Thập Giá của Đức Kitô, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nhận thức tội lỗi bằng chiều kích đầy đủ của điều ác mà nó chứa đựng và che giấu bên trong. Vả lại, Chúa Thánh Thần cho phép chúng ta, cũng nhờ Thập Giá của Đức Kitô, để thấy tội lỗi bằng ánh sáng của “mysterium pietatis” – nghĩa là lòng nhân từ và sự tha thứ của Thiên Chúa ( x. Dominum et vivificantem, 32 ).
Do đó, “việc thuyết phục quan tâm tội lỗi” cũng trở thành việc thuyết phục tội lỗi đó có thể bị gác sang một bên và con người có thể được phục hồi xứng đáng là con yêu dấu của Thiên Chúa. Thật vậy, Thập Giá là “cách hạ mình sâu thẳm nhất của Thiên Chúa đối với con người [...]. Thập Giá như cách tiếp xúc của tình yêu vĩnh hằng trên những vết thương nhức nhối nhất của con người trên trái đất” ( Dives in Misericordia, 8 ). Viên đá góc tường của Đền Thờ này sẽ luôn luôn nhắc nhớ về sự thật này, vì nó được đưa tới đây từ Đồi Canvê, như thể Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết từ trên Thập Giá vậy.
Tôi thâm tín rằng ngôi Thánh Đường mới này sẽ luôn là nơi người ta đến gặp Thiên Chúa trong Thần Khí và Chân Lý. Họ sẽ đến bằng niềm tin đồng hành với những người khiêm nhường mở rộng lòng mình với việc làm của Lòng Chúa Thương Xót, với tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Ở đây, trong ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa, trái tim con người sẽ cháy bùng lửa ước muốn trở về, và những tìm kiếm niềm hy vọng sẽ được an ủi.
5. “Lạy Chúa Cha hằng hữu, con dâng lên Ngài Mình và Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của Con Yêu Dấu Cha, Chúa chúng con, đền thay tội lỗi của mọi người trên thế giới. Nhờ cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới” ( Nhật Ký, 476 ). Trên chúng ta và toàn thế giới...
Thế giới ngày nay cần Lòng Chúa Thương Xót biết bao ! Tại mỗi lục địa, từ sâu thẳm đau khổ của con người, tiếng kêu xin Lòng Thương Xót như đang vang lên. Ở đâu có thù hận và khao khát trả thù ngự trị thì ở đó chiến tranh sẽ đem lại đau khổ và chết chóc cho những người vô tội, nơi đó cần có Lòng Chúa Thương Xót để ổn định trí tuệ và tâm hồn con người, và để đem lại hòa bình. Nơi nào không tôn trọng sự sống và sự xứng đáng của con người thì nơi đó cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Trong ánh sáng của Lòng Thương Xót, chúng ta thấy giá trị cao cả của mỗi con người. Lòng Thương Xót cần thiết để bảo đảm rằng mọi sự bất công trên thế giới sẽ chấm dứt trong ánh sáng chói lọi của chân lý.
Do đó mà hôm nay, tại Đền Thờ này, tôi long trọng phó thác thế giới cho Lòng Chúa Thương Xót. Tôi làm vậy với niềm khao khát rằng sứ điệp của Lòng Thương Xót được tuyên xưng ở đây qua Thánh nữ Faustina, có thể được mọi người trên thế giới biết đến và tâm hồn họ tràn ngập niềm hy vọng. Nguyện xin sứ điệp này lan tỏa từ nơi này tới quê hương yêu dấu của chúng ta và khắp thế giới. Nguyện xin lời hứa liên kết của Chúa Giêsu được hoàn tất: Từ khắp nơi phải nhận biết “ngọn lửa sẽ chuẩn bị cho thế giới về lần đến cuối cùng của Ngài” ( x. Nhật Ký, 1732 ).
Ngọn lửa này cần được thắp lên nhờ Hồng ân Thiên Chúa. Ngọn lửa của Lòng Thương Xót cần được chia sẻ cho thế giới. Nhờ Lòng Chúa Thương Xót, thế giới sẽ tìm thấy bình an và nhân loại sẽ tìm thấy hạnh phúc ! Tôi giao phó nhiệm vụ này cho tất cả anh chị em, cho Giáo hội ở Krakow và Ba Lan, cho tất cả những người sùng kính Lòng Chúa Thương Xót ( votaries of Divine Mercy ), những người sẽ tới đây từ Ba Lan và khắp nơi trên thế giới. Cầu mong anh chị em là chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót !
6. Thiên Chúa là Cha nhân từ, nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Cha đã mạc khải lòng yêu thương và tuôn đổ tình yêu ấy trên chúng con qua Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi chúng con. Hôm nay chúng con phó thác nơi Cha số phận của thế giới và của mọi người. Xin ghé mắt đoái nhìn chúng con là những người tội lỗi, xin chữa lành sự yếu đuối của chúng con, xin chế ngự ma quỷ, và ban cho các dân tộc trên thế giới nhận biết Lòng Thương Xót của Ngài. Nơi Ngài, lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, ước gì chúng con tìm thấy nguồn cậy trông.
Lạy Chúa Cha hằng hữu, nhờ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Con, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
Niềm tin là điểm tựa để con người vươn lên, là chất sống để con người tiếp tục tồn tại và là sự khởi PS2-288
Niềm tin là điểm tựa để con người vươn lên, là chất sống để con người tiếp tục tồn tại và là sự khởi đầu của tiến trình đi lên trong mối quan hệ hỗ tương. Như thế niềm tin quan trọng và cần thiết biết bao! Hơn nữa tin vào Chúa Kitô phục sinh càng cần thiết hơn. Chính Chúa Kitô luôn nâng đỡ niềm tin của chúng ta và đã thể hiện lòng thương xót, tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Chúa Kitô Phục sinh là một Tin mừng, Tin mừng của lòng thương xót, nhưng là một tin mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Thật thế, sự kiện ngôi mộ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để cho chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (cho Maria), một cử chỉ bẻ bánh (cho hai môn đệ Emmaus) hoặc cũng có thể là một phép lạ xảy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20, 28). Khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: "Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin!" (Ga 20, 27). Điều đó cho chúng ta thấy được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Như thế, dấu chỉ để các Tông Đồ nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính những dấu đinh. Nếu chính Đấng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. Và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng Phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chúa Phục Sinh một cách sống động nhất. Chúng ta hãy nhận ra lòng thương xót của Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là tình thương của Thiên Chúa đối với vũ trụ, con người. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là "người" và là Chúa trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, bị đói khát, nghèo hèn, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nhiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống của người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: "Những kẻ tin, muôn người như một, chuyên cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện"(Cv 2, 42 - 47). Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên "số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông" (x. Cv 4, 32-35; 2, 42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống... để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, con tin Chúa đã sống lại và đang hiện diện với chúng con, với Giáo Hội. Xin Chúa thêm lòng mến Chúa để chúng con can đảm sống chứng nhân giữa đời thường bằng một tình yêu mà Chúa đã hiến mạng sống vì yêu thương chúng con. Amen.
Qua Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (1905-1938, Dòng Đức Mẹ Thương Xót – O.L.M., Our PS2-289
Qua Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (1905-1938, Dòng Đức Mẹ Thương Xót – O.L.M., Our Lady of Mercy), Chúa Giêsu đã muốn Giáo Hội dùng Chúa Nhật II Phục Sinh để đặc biệt tôn kính Lòng Chúa Thương Xót (*). Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, vấn đề là chúng ta phải biết tin vào tình yêu thương đó, như Chúa Giêsu đã dạy: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.
Có nhiều dụ ngôn nói về Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), nhưng hôm nay, nhân vật “nổi bật” được nhắc tới là Tông đồ Tôma – người có “biệt danh” là Tông-Đồ-Cứng-Lòng-Tin. Nhưng tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, vì chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đã thực hiện lòng thương xót trên đồi Gôn-gô-tha, và “đại ca” Dismas là người được hưởng LCTX ngay buổi chiều hôm đó. Thật kỳ diệu xảy ra ngay lập tức nếu chúng ta thật lòng tin vào LCTX.
Đức tin rất quan trọng và rất cần thiết, vì nhờ tin mà sống, như Chúa Giêsu đã xác định với cô Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết ” (Ga 11:25-26). Chính Chúa Giêsu đã sống lại trước sự kinh ngạc của mọi loài, nhờ sự phục sinh của Ngài mà mọi loài nên mới, tưng bừng rộn rã: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:24).
Dù đức tin của chúng ta còn non yếu, nhưng chắc chắn ai trong chúng ta cũng đã và đang được hưởng LCTX qua từng ngày sống. Vì thế, chúng ta phải thực hiện lời khuyên của Thánh Vịnh: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở” (Tv 118:1). Đức từ bi đó cũng chính là lòng thương xót. Niềm hạnh phúc cứ tiếp tục dâng cao, lan tỏa… Và cuối năm nay, ĐGH Phanxicô sẽ mở Năm Thánh Từ Bi Thương Xót, thời gian từ 8-12-2015 tới 20-11-2016.
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, “cộng đoàn tín hữu đầu tiên đông đảo lắm, nhưng họ chỉ có một lòng một ý, không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, mọi sự đều là của chung” (Cv 4:32). Họ sống như vậy là sống theo di ngôn của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Đó cũng chính là sống và thực thi lòng thương xót theo Tôn Ý Ngài. Chúng ta đã và đang được Thiên Chúa thương xót thì chúng ta cũng phải biết thương xót nhau. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Kinh Thánh cho biết thêm: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4:33-35). Có Chúa, sống vì Chúa và vì tha nhân, người ta sẽ an tâm, chẳng lo gì cả. Đó mới là hạnh phúc và tự do đích thực!
Kinh Thánh luôn nhắc đi nhắc lại: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:2-4). Dù là ai, từ dân Ít-ra-en tới nhà A-ha-ron, từ người kính sợ Chúa tới tội nhân, cũng đều hân hoan xưng tụng như vậy. Lời xưng tụng đó cũng chính là lời xưng tụng LCTX bao la muôn thuở. Không xưng tụng sao được, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực”, nhờ vậy mà “tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm”, và dù “Chúa sửa phạt tôi, nhưng không nỡ để tôi phải chết” (Tv 118:16-18). Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi bao la, quá đỗi nhân từ, quá đỗi kỳ diệu!
Phàm nhân không thể nào hiểu nổi, vì LCTX vượt quá trí hiểu của con người. Thật vậy, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15). Ôi, LCTX cao vời khôn ví, chúng ta chỉ còn biết cúi đầu tôn kính và cảm tạ! Vâng, bức tượng làm sao hiểu nổi người tạc tượng? Thụ tạo làm sao hiểu nổi Tạo Hóa? Chắc chắn như vậy. Và điều kỳ diệu đã thực sự xảy ra: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23).
Nhờ TIN mà được SỐNG. Ngược lại, KHÔNG TIN thì KHÔNG ĐƯỢC SỐNG, tức là PHẢI CHẾT. Tin là khôn ngoan, không tin là ngu dại. Vậy thì tại sao lại không TIN để ĐƯỢC SỐNG đời đời?
Thánh Gioan, con-người-của-tình-yêu, đã lý luận rất lô-gích: “Phàm ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người” (1 Ga 5:1-2). Yêu thương liên quan niềm tin, và ngược lại. Hai vấn đề nhưng không thể tách rời.
Thánh Gioan giải thích: “Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta” (1 Ga 5:3-4). Rõ ràng YÊU và TIN là hai “đầu mối” của một sợi dây, không thể có đầu này mà không có đầu kia. Nghe rất đơn giản, luật rất “nhẹ” (có nặng nề gì đâu), thế nhưng lại không hề đơn giản để thực thi cho vuông tròn!
Về “nguồn mạch đức tin”, Thánh Gioan cho biết: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người TIN rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ NƯỚC và MÁU; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật” (1 Ga 5:5-6). Nói gì thì nói vẫn liên quan đức tin, có tin thì mới hành động. Đó là hành động gì? Yêu thương và làm chứng nhân về LCTX.
Vẫn liên quan vấn đề đức tin, trình thuật Ga 20:19-31 kể về việc “độ cứng” trong đức tin của Tông Đồ Tôma Điđymô. Tại sao ông Tôma “nhà ta” lại có “máu” đa nghi như Tào Tháo thế nhỉ? Nói khôi hài theo Việt ngữ, vì tên ông là một câu hỏi. Lúc nào ông cũng thắc mắc: “Đi đi mô?”. Cách hỏi “đi mô” của người miền Trung tức là “đi đâu?”. Thảo nào…!
Tám ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
Hôm đó, không biết ông Tôma bận chuyện gì mà vắng mặt, không hiện diện với các Tông Đồ. Nghe các bạn nói Thầy sống lại và đã hiện ra với họ. Ông nhất định không tin, nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Mấy Tông Đồ kia lắc đầu và cũng đành “bó tay”, chẳng biết nói chi cả. Ui da, cứng gì mà cứng như đá xanh thế không biết!
Rồi lại tám ngày sau, các ông lại họp mặt trong nhà, lần này có cả ông Tôma. Các cửa vẫn đóng kín như bưng, con muỗi chui qua còn chưa lọt. Thế mà bỗng Đức Giêsu xuất hiện. Không biết lúc đó có ông nào giật mình mà tưởng là ma không nhỉ? Ngài đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Phim có ghép tài tình cách mấy cũng vẫn thua xa. Nói rồi Ngài nói ngay với ông Tôma: “Này, cậu đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy đây này. Nhìn cho rõ nhá. Rồi hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy đây này. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin thật nghe chưa!”. Ui da, ông Tôma xấu hổ quá sức, chắc là chẳng dám sờ nữa đâu. Thế nên ông chỉ còn biết cúi đầu mà thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Và Chúa Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
Nói nào ngay, cũng nhờ ông Tôma cứng lòng tin mà chúng ta có thêm một mối phúc: “Không thấy mà tin”. Dẫu sao thì cũng cảm ơn ông Tôma, nhờ lòng tin của ông cứng như sáp nguội mà hậu sinh chúng con được hưởng thêm một mối phúc nữa đấy!
Thánh Gioan cho biết: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà ĐƯỢC SỰ SỐNG nhờ danh Người” (Ga 20:30-31).
Lại vẫn liên quan đức tin, Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ Faustina: “Trước khi Ta đến như một Thẩm Phán công bình, Ta sẽ mở rộng Cửa của Lòng Thương Xót. Ai từ chối bước qua Cửa của Lòng Thương Xót thì phải bước qua Cửa của Sự Công Bình” (Nhật Ký, số 1146).
Quả thật, Chúa Giêsu quyết yêu thương chúng ta tới cùng (Ga 13:1), nên Ngài luôn tìm mọi cách để chúng ta được cứu độ. Trong Nhật Ký, số 796, Thánh Faustina cho biết rằng Chúa Giêsu bảo Thánh nữ lần Chuỗi Lòng Thương Xót trong chín ngày trước Đại lễ LCTX, bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần Thánh. Chúa Giêsu nói: “Nhờ tuần cửu nhật này, Ta sẽ ban mọi ân sủng cho các linh hồn”.
Thời đại của chúng ta là thời cuối cùng, và thời gian chẳng còn bao lâu, đừng cứng lòng nữa, hãy sám hối khi còn kịp trong thời gian Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta trong Giờ Thương Xót!
Lạy Thiên Chúa, xin biến trái tim sắt đá của chúng con thành trái tim mềm mại chứa máu-yêu-thương và máu-thương-xót, xin giúp chúng con biết duy trì và bảo vệ đức tin đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ giàu Lòng Thương Xót của chúng con. Amen. ————– (*) Nhật Ký của Thánh Nữ Faustina [số 699] đề cập Đại Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót với 10 điều này:
Vào ngày đó, mọi chiều sâu thẳm nhất về Lòng Nhân Từ của Ta sẽ được rộng mở ra.
Ta sẽ tuôn đổ ra cả một đại dương về ơn huệ trên tất cả những linh hồn nào tiếp cận với Nguồn Suối Nhân Từ của Ta qua Bí Tích Hòa Giải và Rước Mình Thánh Chúa. Linh hồn nào đi xưng tội trước đó và lãnh nhận Thánh Thể vào ngày lễ này sẽ lãnh nhận được sự tha thứ trọn vẹn của Ta, thoát khỏi mọi án phạt về tất cả các tội đã phạm.
Vào ngày lễ này, tất cả mọi cánh cửa về ơn huệ của Thiên Chúa sẽ được mở rộng ra cho tất cả mọi người.
Đừng để một tâm hồn nào phải sợ hãi khi đến gần Ta, thậm chí ngay cả khi người đó đầy các tội lỗi tày trời.
Lòng Nhân Từ của Ta cao vời đến nỗi không một tâm trí nào của loài người hoặc thiên thần có thể hiểu và đo lường được mãi cho đến muôn đời.
Trong mối quan hệ với Ta, mỗi tâm hồn sẽ suy niệm về tình yêu thương và lòng nhân từ của Ta mãi cho đến muôn đời.
Ngày lễ kính Lòng Chúa Thương Xót được nổi bật lên từ chiều sâu thẳm Lòng Nhân Từ của Ta.
Mong ước của Ta là ngày lễ này được trọng thể cử hành vào Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh.
Nhân loại sẽ không có được nền hòa bình mãi cho đến khi nào biết quay về Nguồn Suối Nhân Từ của Ta.
Các bài đọc Kinh thánh hôm nay cho chúng ta thấy sự quan trọng của đức tin vào sự sống lại của Chúa PS2-290
Các bài đọc Kinh thánh hôm nay cho chúng ta thấy sự quan trọng của đức tin vào sự sống lại của Chúa Giê-su Kitô. Trong bài đọc I, đức tin vào Chúa phục sinh giúp các tín hữu đầu tiên biết sống yêu thương nhau. Họ bỏ mọi sự làm của chung, để không ai phải thiếu thốn gì cả. Trong bài đọc II, tác giả thư thứ nhất của thánh Gioan xác nhận: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu mến Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và nếu ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng thắng thế gian, vì thế gian từ chối không nhận biết Ngài. Bài Tin mừng tường thuật hai lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ.
Lần đầu không có sự hiện diện của Tô-ma, Chúa ban bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Lần thứ hai, Chúa hiện đến với các tông đồ và có sự hiện diện của Tô-ma. Ngài thách thức ông hãy xỏ ngón tay ông vào các lỗ đinh đóng của Ngài, để ông tin Chúa vẫn sống. Sau đó, Tô-ma đã tin thật Chúa Giê-su đã sống lại.
Có một câu chuyện kỳ thú có thật đăng trong một tuần báo như sau. Một chiếc máy bay trong một phi vụ bị rớt xuống biển Thái bình dương. Phi hành đoàn có 8 người đều sống sót, trong đó có phi công phó tên là Jim, một người ngoại đạo. Họ đói khát và lênh đênh trên mặt biển 21 ngày trên một chiếc xuồng cao xu. Nguồn sức mạnh duy nhất giúp họ sống sót là cầu nguyện bằng một đoạn Tin mừng trong cuốn Kinh thánh bỏ túi, và những lời cầu nguyện cá nhân.
Ngày thứ sáu sau vụ rớt máy bay, tất cả mọi người trong nhóm đều cảm thấy rất yếu đuối. Họ cần thức ăn và uống một cách khẩn trương. Sau buổi cầu nguyện tối hôm đó, họ bắn một trái châu lên trời với ước vọng là gây chú ý cho bất cứ một chiếc tàu nào di chuyển trong vùng. Nhưng trái sáng bị hư, rớt ngay xuống bên cạnh chiếc xuồng. Một sự kiện lạ lùng xảy ra là ánh sáng của trái châu trên mặt nước đã thu hút một đàn cá tụ lại. Đàn cá bơi lội hỗn loạn và mấy con nhảy lên chiếc xuồng. Hôm đó, mọi người có được một bữa ăn đầu tiên trong một tuần lễ.
Trưa ngày hôm sau, họ gần như chết khát nên cùng nhau cầu nguyện xin nước uống. Một việc lạ lùng nữa xảy ra. Buổi chiều hôm đó một cơn mưa lớn đổ xuống. Ông Jim, viên phi công phụ, bắt đầu có một niềm tin vào Thiên Chúa. Ngày thứ 10 một việc đặc biệt xảy ra. Sau buổi cầu nguyện, họ tự thú và chia sẻ với nhau những tội lỗi, những lầm lỗi trong cuộc đời một cách khiêm nhường, và trong một niềm thành tâm với Chúa, mà họ tin thật có Chúa hiện diện.
Ngày thứ 13 có một sự kinh ngạc lại xảy đến. Trong lúc họ đang khát nước một trận mưa to ào tới nhưng lại cách họ khoảng 100 thước tây. Lúc đó đến phiên ông Jim dẫn cầu nguyện, và họ cùng cầu nguyện cho cơn mưa chuyển hướng đến họ. Trước sự kinh ngạc của mọi người trong nhóm, gió không chuyển hướng, nhưng cột mưa từ từ tiến về phía họ. Thế là họ thoát chết khát.
Ngày thứ 21, họ nhìn thấy đất liền từ phía chân trời. Ông Jim, người mới có niềm tin, tình nguyện chèo xuồng. 7 tiếng rưỡi sau đó, họ đặt chân lên bờ. Sau khi vào bờ, cả nhóm đã quì xuống, cảm tạ đội ơn Thiên Chúa đã che chở và gìn giữ họ sống sót trong vụ rớt máy bay trên biển.
Sau đó, ông Jim đã chia sẻ kinh nghiệm về hành trình kinh hoàng 21 ngày lênh đênh trên biển Thái bình dương. Ông cho biết, sau khi đã hoàn toàn bình phục, ông thú nhận và cầu xin không phải trải qua khúc biển rộng và sâu như thế nữa. Ông còn cho biết, cho dù đã kiệt sức trong vòng 3 tuần vì đói, khát và sức nóng, nhưng qua đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, họ đã hoàn thành một chiến công, có ảnh hưởng và biến đổi cuộc sống của họ. Ông Jim sau đó đã đi khắp nơi, chia sẻ với mọi người về hành trình đức tin mới của mình, từ một người không có đức tin trở thành một người có đức tin vững chắc và mãnh liệt vào Chúa. Chúng ta có thể tìm thấy những điểm tương đồng rỏ rệt giữa ông Jim trong câu chuyện trên đây và tông đồ Tô ma trong Tin mừng hôm nay. Chúng ta thấy, lúc đầu hai người là những người nghi ngờ, sau đó đã biến đổi có một niềm tin mãnh liệt vào Chúa, và cuối cùng, đặc biệt hơn, hai người đã trở thành hai nhà truyền giáo cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh. Ông Jim đã mang đức tin vào Thiên Chúa mới nhận được đi khắp nơi chia sẻ với mọi người, Tô ma đã đem đức tin rao truyền tới tận Ấn độ, và công việc truyền giáo của hai người vẫn tiếp tục có hoa trái tới ngày nay. Một điều quan trọng đáng cho chúng ta chú ý là cả hai, ông Jim và thánh Tôma đã trải qua một hành trình đức tin, từ một người nghi ngờ, trở thành vững tin, và trở thành những nhà truyền giáo sẵn lòng và hăng hái chia sẻ đức tin với mọi người.
Ông bà anh chị em thân mến. Đây cũng là một bài học quan trọng cho tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta từ những người không có đức tin, đã trở thành những Ki-tô hữu, nhưng nếu chúng ta thành tâm tự suy xét, có bao nhiêu người đã đi tới một bước nửa, trở thành tông đồ của Chúa cho người khác? Trở thành những chứng nhân rao giảng Tin mừng của Chúa Ki-tô Phục Sinh? Chúng ta phải ý thức rằng chắc chắn Chúa không có ý định là muốn chúng ta giữ ơn sủng đức tin cho chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta chia sẻ đức tin, chia sẻ Tin mừng với người khác, như những người bị rớt máy bay và sống sót trên chiếc xuồng cao xu đã chia sẻ với ông Jim, hay như các tông đồ khác chia sẻ đức tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh đã hiện ra, khi Tô ma có mặt. Nếu các tông đồ không chia sẽ, làm chứng và khẳng định Chúa đã sống lại và hiện ra với các ông, có thể Tô-ma đã mất niềm tin và bỏ Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay, sau khi ban bình an cho các tông đồ, Chúa Giêsu Ki-tô Phục sinh đã nói với các ông “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Đó cũng là sứ vụ của tất cả chúng ta hôm nay. Chúng ta không phải đi truyền giáo khắp nơi như thánh Tô Ma hay như ông Jim, nhưng chúng ta được kêu gọi thứ nhất phải có một đức tin vững chắc vào Chúa, và muốn có đức tin vững chắc này, chúng ta phải có một sự liên hệ mật thiết với Chúa qua đời sống cầu nguyện và việc thực hành lời Chúa dạy. Và thứ hai chúng ta được kêu gọi chia sẻ đức tin với người khác, nhất là với con cái, cháu chắt trong gia đình, bằng cách hy sinh thời giờ sống gần gũi với con cái, cháu chắt, / dạy dỗ làm gương sáng tốt lành và bác ái, / cầu nguyện và tham dự Thánh lễ một cách sốt sắng, / và thành tâm giúp con cái trong việc học giáo lý.
Chúng ta phải biết phân biệt niềm tin với đức tin. Niềm tin chỉ là một sự ý tưởng, còn đức tin là hành động biểu lộ hay sống niềm tin đó. Xin Chúa Kitô Phục sinh củng cố đức tin mạnh mẽ hơn để chúng ta đối diện với mọi hòan cảnh trong cuộc sống, nhất là những nghịch cảnh. Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn sứ vụ làm chứng nhân và rao giảng Tin mừng cho Chúa.
Chúng ta cử hành Tam Nhật Vượt Qua với đại lễ Phục Sinh. Chúa Giêsu phục sinh chính là đỉnh PS2-291
Chúng ta cử hành Tam Nhật Vượt Qua với đại lễ Phục Sinh. Chúa Giêsu phục sinh chính là đỉnh cao của niềm hy vọng, suối trào của mọi niềm hoan lạc. Niềm vui này sẽ được kéo dài suốt năm mươi ngày gọi là năm mươi ngày hoan lạc phục sinh. Như thế, sự phục sinh của Đức Kitô chính là nguồn suối của niềm hoan lạc và việc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh chính là gặp gỡ với Đấng trao ban niềm vui phục sinh đó. Bởi thế, trong suốt tuần Bát Nhật Phục Sinh, Giáo hội liên tục cho chúng ta lắng nghe các bài Tin Mừng kể lại những lần gặp gỡ giữa Đấng Phục Sinh với các tông đồ, môn đệ và nhiều người khác. Trong hai Chúa nhật, thứ ba và thứ bốn Mùa Phục Sinh, Giáo hội như muốn kéo dài niềm vui phục sinh ấy, cho nên một lần nữa, các cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh lại được tiếp tục suy niệm.
Nếu chúng ta để ý, bài Tin Mừng của Chúa nhật thứ hai Mùa Phục Sinh được dùng chung cho cả ba năm theo chu kỳ phụng vụ (A, B, C). Đây là đoạn Tin Mừng được thánh sử Gioan ghi lại như một vở kịch ngắn nhưng rất có hậu. Câu chuyện bắt đầu bằng sự kiện Đấng Phục Sinh đến gặp các tông đồ, nhưng thiếu thánh Tôma. Thánh Tôma sau khi nghe các tông đồ kể lại đã cương quyết không tin. Sau đó, Đấng Phục Sinh lại đến gặp các tông đồ, lần này có cả thánh Tôma và ngài đã tin.
Nội dung vắn tắt như vậy, nhưng rất nhiều chi tiết trong đoạn Tin Mừng này cần được dừng lại.
Trước hết, thánh sử Gioan viết: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần”. Sao ngài không nói luôn: “Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần” mà lại còn phải “Vào chiều ngày ấy”. Đấy là chủ ý của ngài. Ngài muốn chúng ta phải nhớ lại cái “ngày ấy”. Ngày nào? Ngày thứ nhất trong tuần. Ngày này gợi ta nhớ ngay tới ngày Đấng Phục Sinh bước ra khỏi mộ, ngày của một sự sáng tạo mới, của một cuộc sống mới, một niềm vui mới; ngày khai sinh một tôn giáo mới. Tất cả những ai tin theo Đức Giêsu Kitô đều phải ghi khắc ngày này. Và hôm nay đây, cũng lại vào cái ngày thứ nhất ấy, Đấng Phục Sinh đã đến với các tông đồ của mình. Cứ theo mạch văn, ta sẽ có cảm tưởng Đấng Phục Sinh đã bước ra khỏi mộ và đang đến những ngôi mộ khác, bước ra khỏi mộ của mình và đang đến với ngôi mộ của các tông đồ. Các chi tiết “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín” dường như nói lên điều đó. Nếu Người đã từng bước ra khỏi mộ, thì nay Người cũng đến để kéo các tông đồ bước ra khỏi mộ, đem lại “Sự bình an Phục sinh” cho các ông. Bình an như ơn ban đầu tiên Đấng Phục Sinh đem đến cho họ.
Sự kiện thánh Tôma vắng mặt cho thấy ơn bình an này chưa được ban tới cho ông, ông vẫn còn ở trong ngôi mộ của mình. Và một lần nữa, “ngày ấy” lại đến. “Tám ngày sau” có nghĩa là “ngày thứ nhất trong tuần”. Đấng Phục Sinh lại đến với các tông đồ của mình, và lần này có cả thánh Tôma. Cửa vẫn còn đóng kín phải chăng vì vẫn còn người chưa ra khỏi mộ. Ngôi mộ này sẽ phải được mở toang, ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ ùa vào.
Khi kể lại sự kiện này, thánh sử Gioan như muốn chúng ta ý thức rõ tầm quan trọng của việc đón gặp Đấng Phục Sinh và đời sống cộng đoàn. Ngày thứ nhất trong tuần không chỉ là ngày của Đấng Phục Sinh, nhưng còn là ngày Người đến gặp gỡ Hiền thê (Giáo hội) của mình, là ngày Người đến củng cố, nâng đỡ, dạy dỗ. Bởi thế, ngày thứ nhất nay trở thành ngày Chúa nhật mang một ý nghĩa tâm linh rất sâu xa. Đây không phải là ngày phải tuân giữ theo luật, không phải chỉ là ngày cộng đoàn gặp gỡ nhau, nhưng trước tiên và trên hết, đây chính là ngày của niềm vui và hạnh phúc, vì đó là ngày Giáo hội chờ đón Đấng Phục Sinh đến gặp gỡ mình. Đã từng xảy ra một kinh nghiệm thật đáng sợ: Đó là một đời sống đức tin không có ngày Chúa nhật, một đời sống đức tin xa cách cộng đoàn. Đây chính là kinh nghiệm của thánh Tôma, một kinh nghiệm tự đặt mình vào cơn cám dỗ “không tin”. Rất may là ngài đã sớm có mặt vào “ngày ấy”, “ngày thứ nhất trong tuần”, đã sớm sống lại đời sống cộng đoàn, ngài đã lấy lại được niềm tin.
Giáo hội ngày nay vẫn ý thức tầm quan trọng không thể thiếu của “ngày ấy”, “ngày thứ nhất trong tuần”, ngày Chúa nhật. Đó chính là “ngày hẹn”, ngày của sự gặp gỡ, của niềm vui và hạnh phúc. Giáo hội không ngừng mời gọi con cái mình đừng bao giờ đánh mất, bỏ lỡ “ngày hẹn” ấy, nhưng hãy học sống cảm nhận niềm vui của sự gặp gỡ thiêng liêng này.
Người xưa có để lại cho hậu thế một kinh nghiệm: khi bạn yêu ai với tất cả trái tim mình, tình yêu PS2-292
Người xưa có để lại cho hậu thế một kinh nghiệm: khi bạn yêu ai với tất cả trái tim mình, tình yêu đó sẽ không bao giờ mất đi, ngay cả khi bạn phải đi xa hoặc không hiện diện. Tình yêu không mầu không mùi, ấy vậy trong cuộc đời này, tình yêu thường được hiểu là cánh cửa mở ra cho hạnh phúc đi sâu vào tâm hồn. Giáo Hội thời nào cũng có người thắc mắc, tại sao môn đệ Đức Giêsu khiếp sợ các chức sắc Do-thái đến độ phải cửa đóng then cài ? Vì sao cha ông chúng ta có được kinh nghiệm: diệt cỏ, diệt tận gốc, yêu ai yêu cả đường đi ?
Bao lâu trái tim của các học trò Đức Giêsu còn chất chứa oán hận, cuộc sống của các ông sẽ còn ngập tràn sợ hãi. Bao lâu tâm hồn người Kitô hữu đầy tràn tình yêu Chúa, lúc ấy ta sẽ đủ khôn ngoan để lấy ơn đền oán, và biết yêu cả ưu khuyết điểm của anh chị em mình. Đức Giêsu chịu đóng đinh thập giá, chịu chết đi cho thế gian tội lỗi, và bằng tình yêu, Chúa tiêu diệt cả tính hư tật xấu ẩn chứa nơi tâm hồn các môn đệ.
Nếu xét đến hoàn cảnh thuận lợi, chúng ta sẽ lắc đầu trước sự cứng lòng của Tôma, không lẽ nào Tôma lại ganh tị với các anh em khác, dám thách thức Đấng Phục Sinh về niềm tin của ông ! Có thể hình ảnh Tôma và tính cách thực dụng của ông còn tồn tại nơi xã hội hôm nay, chúng ta tin Chúa ở nhà thờ, dễ ca tụng, tung hô Chúa khi nhận ra phép lạ Chúa đang thực hiện cho gia đình mình.
Đấng Phục Sinh là Thiên Chúa yêu thương, Đấng Phục Sinh là Thầy và là Chúa của tất cả những ai biết tin tưởng, hiệp nhất lời cầu nguyện; Chúa Phục Sinh trong mọi lúc nhớ đến nghĩa tình, và quảng đại tha thứ, quên hết tội lỗi của chúng ta. Đấng Phục Sinh xuất hiện giữa lúc cửa đóng then cài, không chỉ để chứng minh với các tông đồ Thầy đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông ơn bình an và sự sống mới: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần….”.
Hôm nay, Giáo Hội một lần nữa xác minh Đức Giêsu chịu đau khổ và Đấng Phục Sinh vẫn là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ, đối với tất cả những ai tin tưởng, đi con đường Chúa hướng dẫn…. Hôm nay đây, lòng thương xót của Đấng Phục Sinh đang phủ lấp cuộc đời, ban ơn bình an cho mỗi người như khi xưa đã từng ban cho các tông đồ. Tình yêu thương của Thiên Chúa vẫn là nhu cầu để giúp chúng ta nghe, hiểu, tâm phục khẩu phục như Tôma, vì có được tình yêu của Chúa, ông không dám xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Đấng Phục Sinh….
Nếu chỉ nói suông, nói lý thuyết, Đức Giêsu không phải đối diện với đau khổ, không vác thập giá, không sống lại, hẳn các tông đồ là những người đầu tiên sẽ gạt bỏ Thầy Giêsu, và lời chào chúc bình an cũng không có ý nghĩa gì ! Nhờ tin vào Đức Kitô tử nạn và Phục Sinh, tình yêu của Đấng Phục Sinh biến đổi được mọi tâm hồn nên xứng đáng hơn. Bài đọc 1 hôm nay cho thấy Giáo hội thuở ban đầu ấy thật đẹp, mỗi người tín hữu đều biết chia sẻ vật chất, tinh thần làm của chung, mỗi người luôn biết hiệp nhất cầu nguyện, cùng nhau cử hành nghi thức bẻ bánh, thật là hạnh phúc.
Khung cảnh của phòng hội họp mà Tin Mừng cho thấy thật kỳ lạ, giới lãnh đạo Do-thái mở cửa chờ đợi Thiên Chúa, Ngài lại không đến. Các môn đệ thì cửa đóng kín mít, Chúa Phục Sinh vẫn hiện diện. Bao lâu ta còn cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, chúng ta sẽ không thể hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong gia đình, nếu cả chồng lẫn vợ mà nóng tính, cọc cằn, con cái không thể cảm nhận được tình yêu của cha mẹ, đã vậy, chúng sẽ phải sống chung trong sợ hãi, bất an…..
Để giảm bớt lo âu, lúc nào ta cũng đủ sức mạnh thiêng liêng, để nghe hiểu, thế nào là lòng bao dung của Thiên Chúa, đâu là đối tượng mà Thiên Chúa mời xem dấu đinh của Ngài, ta cần có lòng khiêm tốn và trở nên môn đệ Chúa Kitô. Để thực hành trong đời sống, chỉ người Tín hữu mới có thể biểu lộ đức tin bằng việc cầu nguyện, dâng hy sinh, làm việc bác ái. Làm gì để gặp để thấy Chúa Phục Sinh ? thưa không phải là giàu có, là có khả năng uyên thâm, là cần mạo hiểm hay kiểu ba phải 3, 4, 5 Chúa, tôi cũng tin. Niềm vui Phục Sinh chính là niềm vui đến sau sợ hãi. Đó là niềm vui và sự bình an vượt qua khổ đau thất vọng mà không gì có thể cản trở được ta !
Trong một xã hội văn minh, người ta chủ trương thời đại này chẳng tin ai cả, có tin là nên tin vào chính mình. Đức Kitô khi phục sinh vẫn mang thương tích của cuộc khổ nạn, Chúa Phục Sinh vẫn cho xem dấu tích yêu thương trọng đại để soi chiếu cho mỗi người. Khi hiện ra lần sau, Chúa đã bảo ông Tôma: “Đây là vết thương của Ta, Con hãy đặt tay vào và đừng hoài nghi nữa”. Khi đối diện với sự thật về Đấng Phục Sinh, Tôma không dám kiểm chứng, không còn mạnh miệng tuyên bố nữa, nhưng qua Tôma, Chúa vẫn quả quyết: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Và để gặp gỡ Đấng Phục Sinh, hiểu biết Thiên Chúa giàu lòng thương xót, các tông đồ, tất cả chúng ta, không cần có khả năng thâm sâu, thời giờ nhiều hay ít, lòng mến cần hơn cả. Amen.
Giả dụ có một người ngoại đạo đặt cho chúng ta câu hỏi: Đức Giêsu có sống lại thật không ? Câu PS2-293
Giả dụ có một người ngoại đạo đặt cho chúng ta câu hỏi: Đức Giêsu có sống lại thật không ? Câu chuyện sống lại có phải do những người Kitô hữu dệt nên như thế ? – Có lẽ chúng ta sẽ tìm mọi cách để chứng minh rằng: Chúa đã sống lại thật. Và giả dụ người ta lại đặt câu hỏi tiếp theo: Vậy ông bà, anh chị nói rằng Chúa đã phục sinh thì điều đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của ông bà, anh chị ? – Có lẽ chúng ta không dễ để trả lời câu hỏi này, nếu cuộc sống của chúng ta không có gì khác biệt hơn hoặc nổi bật hơn cuộc sống của những người chung quanh.
Các bài đọc của Chúa nhật II giúp chúng ta trả lời cho những câu hỏi ấy: Chúa có sống lại thật không và Mầu nhiệm Phục sinh mời gọi ta điều gì ? Tất cả các Tin Mừng đều đưa ra cho chúng ta lý chứng về việc Chúa sống lại, đó là ngôi mộ trống, không còn xác Chúa ở đó, và những lần Chúa hiện ra với các tông đồ, cho các ông thấy rằng Chúa đã sống lại thật. Tuy nhiên, chúng ta là những thế hệ tín hữu sau các tông đồ, chúng ta không được nhìn thấy ngôi mộ trống, cũng không được thấy những lần Chúa hiện ra, vì thế, niềm tin Chúa Phục sinh của chúng ta hoàn toàn phải dựa trên lời chứng của các tông đồ là những người đã chứng kiến những sự kiện này.
Thánh Gioan trong đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại hai lần hiện ra của Đấng Phục Sinh: lần thứ nhất vào buổi chiều ngày Phục sinh và lần thứ hai là tám ngày sau. Chắc chắn sau cái chết của Chúa Giêsu, các tông đồ hoàn toàn mất phương hướng và rơi vào cảnh sợ hãi, lẩn trốn, vì sợ những người Do Thái. Các ông rút vào phòng và đóng cửa lại. Trong lúc các ông hoang mang như thế thì Chúa Giêsu hiện ra và ơn đầu tiên Ngài ban cho các ông là ơn bình an. Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các ông: Bình an cho các con ! Ngài đã thấy rõ tâm trạng của học trò mình nên bình an là ơn cần thiết cho các ông lúc này, vì thế mà Ngài đã lặp đi lặp lại: Bình an cho anh em !
Thánh Gioan còn cho thấy, các tông đồ mặc dù còn sống, còn thở, nhưng thực sự tâm hồn các ông đã chết, các ông chỉ như một cái xác không hồn. Vì thế, Chúa Giêsu đã thổi cho các ông luồng sinh khí mới: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…”. Hình ảnh này cho chúng ta nhớ lại, ngày xưa khi tạo dựng Adam, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào lỗ mũi và cho Adam có sự sống, thì hôm nay, Chúa Giêsu cũng thổi Thần Khí của Ngài cho các tông đồ để tái tạo và ban cho các ông một sức sống mới, làm nên một dân mới. Cùng với ơn bình an, Chúa trao quyền năng mới, quyền năng tha tội, là quyền năng của Thiên Chúa, nay được trao cho các tông đồ. Đây chính là kỳ công mà Chúa Phục Sinh ban cho các tông đồ, là những thủ lãnh trong Giáo Hội của Ngài.
Vì thế, để đón nhận được niềm tin Phục sinh, chúng ta cần trở về với các tông đồ, tức là Giáo Hội, và lắng nghe lời chứng của các ngài. Trái lại, khi chúng ta tự tách mình ra khỏi Giáo Hội thì chúng ta không thể đón nhận được niềm tin này, đó là trường hợp của ông Tôma trong câu chuyện hôm nay. Vì một lý do nào đó, ông đã tách lìa khỏi cộng đoàn các tông đồ, nên chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, thì đã không có ông ở đó, nên ông đã không tin và ông còn khẳng định: Nếu tôi không thấy những lỗ đinh… thì tôi không tin. Hôm nay, cuộc hiện ra vào tám ngày sau, Chúa dành riêng cho Tôma khi ông đã trở về trong sự hiệp nhất với các tông đồ. Chúa đã cho ông thấy những vết thương trên thân thể Ngài. Chúa đã cho Tôma được đụng chạm đến những dấu vết của tình yêu thương, và Ngài mời gọi Toma: Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Ông Tôma đã tin và ông còn tuyên xưng niềm tin của mình cách công khai: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con ! Niềm tin của ông không chỉ dừng lại nơi Chúa Phục Sinh mà còn tin Thầy của ông là Chúa và là Thiên Chúa nữa.
Nếu như bài Tin Mừng trả lời cho câu hỏi Chúa có sống lại thật hay không, thì bài đọc một và bài đọc hai cho chúng ta thấy, niềm tin Phục sinh có ảnh hưởng sâu rộng trên đời sống của cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Sách Công vụ kể lại rằng: Các tín hữu bấy giờ gia tăng đông đảo, một lòng một ý với nhau, cùng làm chứng cho việc Chúa sống lại, sống chia sẻ, bác ái, và trong cộng đoàn không còn ai phải thiếu thốn. Đó là những công việc mà Giáo Hội sơ khai đã làm để minh chứng cho niềm tin của mình, hay nói đúng hơn, việc sống yêu thương và thực thi bác ái là lời chứng mạnh mẽ nhất về niềm tin Phục sinh của Giáo Hội và của chúng ta hôm nay.
Thư Thánh Gioan đã quảng diễn rộng hơn khi nói: Ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy được Thiên Chúa sinh ra… và… căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình là con cái Thiên Chúa: Đó là, chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành giới răn của Người. Như thế, mỗi người chúng ta hôm nay được sinh ra từ cạnh sườn của Đức Kitô qua Bí tích Rửa tội. Chúng ta đã là con Thiên Chúa, và vì là con Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi sống giới răn yêu thương của Chúa. Chúng ta cũng phải yêu đến độ cúi xuống để rửa chân, để phục vụ, yêu đến trao ban mạng sống, trở nên tấm bánh trao tặng cho mọi người. Đó là cách chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Phục sinh, hay nói cách khác, nếu chúng ta tuyên xưng Chúa Phục sinh, thì chúng ta phải sống và thực hành như thế.
Chúng ta cùng với Giáo Hội cử hành ngày Lòng Chúa Thương Xót. Chúng ta cùng cảm nghiệm tình thương Thiên Chúa dành cho mỗi người. Chúa đã cho Tôma được xỏ tay vào cạnh sườn Chúa, được đụng chạm đến trái tim chạnh thương của Ngài, thì hôm nay, Chúa cũng vẫn cho mỗi người chạm đến lòng thương xót Chúa. Chúa đang chạm đến chúng ta qua tình yêu thương của Giáo Hội. Chúng ta chạm đến lòng thương xót Chúa qua Bí tích Giải tội. Hãy tin tưởng đến với Chúa vì Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Tuyên xưng niềm tin Phục sinh và Lòng thương xót Chúa, chúng ta không thể để mình sống trong ủ dột, buồn chán, cũng không thể buông xuôi hay thất vọng mỗi khi gặp thử thách, gian nan. Trái lại, chúng ta phải sống trong hy vọng và trong niềm tin tưởng: Chúa Phục sinh luôn ở bên ta để giải gỡ cho ta những khó khăn, nhất là những lúc ta gặp khó khăn về niềm tin.
Được tái tạo trở nên con người mới với một tinh thần mới, chúng ta không thể để mình quay trở lại với con người cũ, nếp sống cũ nữa. Chúng ta không thể mãi nuôi trong mình sự thù hận, hoặc những lối sống lười biếng, dễ dãi, mà phải sống với một quyết tâm mới, gắn bó với Chúa bằng việc siêng năng đến với Thánh lễ và các Bí tích, đồng thời, gắn bó với Giáo Hội là mẹ của chúng ta.
Để mầu nhiệm Phục Sinh ảnh hưởng trên cuộc đời của mình, chúng ta hãy noi theo gương của Giáo Hội sơ khai: sống yêu thương nhau và chia sẻ với nhau trong tình huynh đệ. Hãy gạt bỏ khỏi mình sự dửng dưng, thờ ơ để biết sống quan tâm đến nhau nhiều hơn. Hãy gạt bỏ khỏi mình sự nhỏ nhen, hẹp hòi, ích kỷ để biết sống quảng đại và cảm thông… Chính đời sống bác ái yêu thương của từng Kitô hữu sẽ là cách chúng ta minh chứng niềm tin Phục sinh một cách mạnh mẽ nhất.
Cầu chúc cho mọi người trở thành sứ giả đem niềm vui Phục sinh đến cho mọi người. Amen.
Có một đoàn hát đi về một vùng quê để phục vụ. Trong đoàn hát có một anh hề rất nỗi tiếng, chuyên PS2-294
Có một đoàn hát đi về một vùng quê để phục vụ. Trong đoàn hát có một anh hề rất nỗi tiếng, chuyên đem đến cho người xem những phút thư giãn quí báu. Chỉ cần anh xuất hiện, thì bất cứ một cử chỉ, một hành động nào của anh cũng đem lại cho người xem những liều thuốc bổ bằng những trận cười thoải mái.
Nhưng chuyện không may lại xảy ra. Không biết vì lý do nào mà nơi cư ngụ của đoàn bị bốc cháy. Mọi người lo chạy chửa, còn anh hề lo đi tìm những người chung quanh đến phụ giúp. Nhưng khốn khổ thay, khi mọi người nhìn thấy anh, họ rất vui mừng, xúm lại chung quanh. Mặc cho anh nói gì, làm gì, họ chỉ có được những trận cười thỏa thích. Anh càng tỏ ra sự việc nguy hiểm, càng cầu khẩn, van xin, họ càng thích thú và cho rằng: Ở bên ngoài anh hề càng gần với thực tế thì càng biểu diễn xuất thần hơn. Thế là đoàn hát dành phải chịu như số phận nó đã được định như thế.
Họ cố gắng được bao nhiêu thì chỉ có bấy nhiêu thôi, còn sứ mạng của anh hề để cứu cho đoàn kể như thất bại. Vì bao nhiêu người chỉ nhìn thấy chất hề nơi anh ta, cũng với một cung cách đó, cũng với những hành động đó, cũng với những kiểu nói đó và cùng với chính con người đó thì làm sao có thể thuyết phục được người nghe có một cái nhìn khác về anh ta được.
Nghe qua bài Phúc Âm chắc có lẽ chúng ta không khỏi trách thầm Tôma tại sao lại quá cứng tin khi nghe các Tông Đồ tường thuật lại những gì mình đã chứng kiến, những gì mình đã nghe, những gì đã được chỉ bảo. Thử nhìn lại xem: cũng với những con người đó: Những con người đã từng phản bội, những con người đã từng hèn nhát , trốn chạy, những con người đã từng sợ sệt; cho đến giờ này, những thái độ đó vẫn còn hiện diện, không có gì thay đỗi. Làm sao Tôma có thể tin được lời: "Chúng tôi đã thấy Chúa, chúng tôi đã được nhận Thánh Thần, chúng tôi đã được sai đi . . ." Vậy mà giờ nầy họ vẫn còn ngồi ỳ ra đó, vẫn còn sợ sệt, vẫn còn bất động, thì thử hỏi các ông đã thấy, đã tin Chúa Sống lại như thế nào ? Nếu chính các ông không có thái độ tin thật sự, thì việc các ông báo lại cho người khác với một thái độ như thế thì làm sao người nghe có thể tin được, khi nhìn thấy lời nói và hành động hoàn toàn khác như thế. Vậy thì ai là người đáng trách ?
Chúa Giêsu không trách Tôma, Ngài đã nhìn thấy, Ngài muốn củng cố lòng tin cho ông. Chúng ta thấy thái độ của ông rất đáng khâm phục: Ông đã tỏ thái độ xứng đáng của một người tin thật sự. Chắc là Ông không cần phải thực hiện lời nói của mình là: phải chạm đến, phải sờ vào. Nhưng khi ông cảm nhận được những gì Thiên Chúa đặt biệt đối xử với ông. Không còn cách nào khác hơn là ông phải tin. Không phải chỉ bằng lời nó suông nhưng bằng hành động cụ thể.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin."
Lời chúc phúc dã trải qua 2000 năm lịch sử. Giờ đây chúng ta có cảm nhận được Lời Chúc đó cho chính mình, hay chúng ta vẫn ngỡ rằng: Lời đó cho ai chứ không phải cho tôi. Vậy thì chúng ta vẫn còn mang nặng tâm trạng của các Tông Đồ khi xưa. Chỉ nhìn thấy nỗi thống khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Hình khổ thập giá vẫn đè nặng trên con người chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày. Đó là chúng ta chỉ nhìn thấy những vất vã của cuộc đời, nên nỗi bi oan thống khổ luôn đè nặng trong tâm trí. Mặc dù Chúa đã sống lại, đã hiện ra, đã truyền lệnh và đã chúc phúc.
Trải qua bao nhiêu năm của cuộc đời, chúng ta vẫn ngồi yên bất động, không có chút gì thay đỗi trong cuộc sống. Chúng ta vẫn trình bày bộ mặt thảm sầu của cây thập giá qua cách sống của chính mình. Nhiều khi chúng ta cũng cố gắng thực hiện lệnh truyền của Chúa phục sinh: thông báo cho mọi người biết nhưng không kết quả, vì chúng ta chỉ dùng lời nói, nhưng hành động lại hoàn toàn khác.
Chúng ta hay phiền trách người này người nọ cứng tin, chúng ta chỉ biết quy lỗi cho người. Nhưng có khi nào tự nhìn lại bản thân, nhìn lại cách sống của chính mình xem. Chúng ta chưa sống thật với Lời chúc phúc, cũng chưa sống được với niềm vui phục sinh mà chúng ta đã lãnh nhận, thì làm sao thông báo cho ai được. Dùng lời lẽ để chứng minh cho đức tin là một điều tốt, nhưng tốt hơn và cần hơn là hành động cho người khác thấy niềm tin của mình.
Đó chính là điều mà các bạn của Tôma lẽ ra phải có, nhưng không có. Còn chúng ta, chẵng lẽ trong cuộc sống đời thường, mình cũng vẫn là một anh hề trên sân khấu, để đến khi kết cuộc chúng ta không có điều gì có thể tin được sao ? Như vậy, hậu quả chúng ta sẽ lãnh nhận được như thế nào ? Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người nhận được sự sống mới của Chúa, và biết sống sự sống mới, sự Phục Sinh trong cuộc sống đời thường.
Bài trích Phúc Âm theo thánh Gioan: "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Đức Chúa GIÊSU hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Đức Chúa GIÊSU lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như CHA đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
Bấy giờ trong 12 Tông Đồ, có ông Tôma không cùng ở với các ông khi Đức Chúa GIÊSU hiện đến. Các môn đệ khác nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Thầy, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Đức Chúa GIÊSU hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy THIÊN CHÚA của con". Đức Chúa GIÊSU nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Xin suy tư về 3 điều: nỗi sợ hãi của các Tông Đồ; lòng cứng tin của Tôma và hồng ân tha thứ của Đức PS2-295
Xin suy tư về 3 điều: nỗi sợ hãi của các Tông Đồ; lòng cứng tin của Tôma và hồng ân tha thứ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Phục Sinh.
1/ Nỗi sợ hãi của các Tông Đồ.
Lúc ấy là buổi chiều Chúa Nhật Phục Sinh. Tin Vui Đức Chúa GIÊSU KITÔ Sống Lại quá mới mẻ. Các Tông Đồ chưa được diễm phúc trông thấy Thầy Chí Thánh. Trong khi các biến cố đau thương dồn dập xảy ra từ Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh vẫn còn đó. Chỉ vỏn vẹn 3 ngày nhưng lại kinh hoàng đến gần như bất tận. Nói thế để diễn tả trạng huống hỗn độn của 12 Tông Đồ: Giuđa phản bội Thầy. Phêrô chối bỏ Thầy. Các vị còn lại hoảng sợ chạy trốn, ngoại trừ Gioan.
Kinh hoàng, hoảng sợ là tâm tình con người khi đối diện với gian nguy và thử thách. Cuộc sống nào cũng tràn đầy khó khăn. Nhưng khó khăn củng cố niềm tin sâu xa vào sự trợ giúp của THIÊN CHÚA, Đấng là CHA Nhân Lành. Ngài không bao giờ để con người mang gánh nặng quá sức. Ngài không bỏ rơi con người đơn độc trong cuộc chiến đấu. Vào mọi lúc và ở bất cứ nơi đâu, tín hữu Công Giáo hãy luôn khẩn cầu cùng Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng đã đánh bại cái chết cùng sự dữ. Ngài là Đấng Toàn Thắng, là Vị Vua Khải Hoàn. Trong gian nan khốn khó hãy ngước nhìn Đức Chúa GIÊSU KITÔ, hãy van xin Ngài. Ngài sẽ đến và ban cho mỗi người sức mạnh, an bình và Tình Yêu.
2/ Lòng cứng tin của Tôma.
Tông Đồ Tôma đại diện cho lớp người kiêu căng, thiển cận, ngoan cố và mù quáng. Họ tự ban cho mình khả năng phê phán tất cả và quyền kiểm chứng mọi sự. Trước mọi dấu chỉ tình yêu, họ chỉ bịt tai nhắm mắt lập đi lập lại: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Thầy, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Ôi cái quyền kiểm chứng hạn hẹp của loài người thật đáng thương biết bao! Làm sao con người có thể hiểu cho thấu và suy cho tường mọi biến cố xảy ra trên trần thế này? Điều khôn ngoan nhất chính là lòng khiêm tốn. Khiêm tốn chấp nhận mọi giáo huấn của các Mục Tử trong Giáo Hội Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền.
3/ Hồng ân tha thứ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Phục Sinh.
Vì biết rõ cái dại-dột cứng-đầu của Tôma, nên Người đáp ứng ngay: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin".
Đó chính là thái độ khoan dung tha thứ vô bờ của Đấng vừa là THIÊN CHÚA vừa là Vị CỨU TINH muôn loài. Đôi Bàn Tay mang thương tích của Đức Chúa GIÊSU KITÔ luôn luôn giang rộng để tiếp rước mọi tội nhân, tất cả các hối nhân. Tiếp rước để trao ban an bình và ơn tha thứ. Tín hữu Công Giáo hãy mau mau nép vào vòng tay của Thầy Chí Thánh và khiêm tốn tuyên xưng: "Lạy Chúa con, lạy THIÊN CHÚA của con".
Dịp Đại Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) thiết lập Lễ Lòng Thương Xót Chúa mừng vào Chúa Nhật II sau Lễ Phục Sinh.
Toàn trái đất tràn ngập lòng Nhân Lành của THIÊN CHÚA. Nếu các tâm hồn biết thật sự đón nhận lòng Thương Xót THIÊN CHÚA tuôn đổ trên mọi thọ tạo thì chắc chắn sẽ không có người bất hạnh, kẻ tội nhân và người bị bỏ rơi. Nhưng TẤT CẢ cùng quy tụ trong một đàn chiên duy nhất được hướng dẫn và bảo vệ bởi Đấng Chăn Chiên Nhân Lành đã hiến mạng sống vì đàn chiên. Đấng Chăn Chiên Nhân Lành không hiến dâng mạng sống một lần nhưng tiếp tục trao ban Sự Sống mỗi ngày cho tất cả mọi người cho đến tận cùng thời gian.
Sự dữ tràn ngập trái đất vì Kẻ Thù Satan luôn luôn tìm cách gieo rắc chia rẽ và oán thù. Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa nhắc nhở từng tín hữu Công Giáo van xin Lòng Nhân Lành THIÊN CHÚA và mở cửa tiếp rước Đấng là Tình Quân muôn thưở: "Này đây Thầy đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Thầy và mở cửa, thì Thầy sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Thầy. Ai thắng, Thầy sẽ cho ngự bên Thầy trên ngai của Thầy, cũng như Thầy đã thắng và ngự bên CHA Thầy trên ngai của Ngài. Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh" (Khải Huyền 3,20-22).
Năm 1899, hai nước Chile và Argentina đã đưa đến oán thù xuýt đưa đến cuộc chiến tranh ác liệt. Sự PS2-296
Năm 1899, hai nước Chile và Argentina đã đưa đến oán thù xuýt đưa đến cuộc chiến tranh ác liệt. Sự chuẩn bị kéo dài cho tới năm 1900, hai bên đã sẵn sàng giao tranh với nhau.
Trong Tuần thánh năm ấy, Đức Giám Mục Buenos Aires của Argentina tha thiết kêu gọi đôi thôi chiến tranh để tái lập nền hòa bình giữa hai nước. Sứ điệp của ngài lập tức được truyền sang nước Chile và các Đức Giám Mục của nước Chile cũng đồng tình hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu gọi hòa bình. Thế rồi hai Giáo Hội của hai nước đã áp lực để hai chính phủ ngồi lại với nhau qua trung gian của vua Edward thứ 7 của Anh quốc.
Không mấy chốc, một hoà ước đã được ký kết. Để nói lên thiện chí xây dựng hòa bình, quân đội của hai nước đã gom góp chung một số vũ khí để đúc thành một bức tượng khổng lồ Chúa Giêsu hòa bình cao 48 thước. Với cánh tay phải mở rộng ban phép lành cho hai nước, còn tay trái cầm thánh giá phục sinh. Tượng được xe lửa chuyên chở đến chân núi để chính phủ hai nước trục lên đặt trên đỉnh núi Andres, nơi đã gây ra cuộc xung đột giữa hai quốc gia. Dưới chân tượng đề hàng chữ: Bình an cho các con, để chính Chúa chứng giám cho nền hòa bình miên viễn của họ. Trên mặt khác của tượng, ghi lời Thu của thành Ephêsô như sau:Chính Ngài là sự bình an của chúng ta. Ngài đã làm cho sự chia rẽ của đôi bên nên một.
Người trần gian mỗi khi đem được hòa bình trở lại thì người ta ca tụng và trao thưởng cho một giải thưởng Hoà Bình, như năm 1990, Tổng Thổng Gorbachow của Liên Sô được thế giới tự do ban tặng Giải thưởng Hòa Bình trong việc đạp đổ được bức tường Bá Linh. Mẹ Têrêsa cũng được Thế Giới tự do trao tặng giải thưởng Hòa bình, vì Mẹ đã có công trong việc xóa bỏ nạn đói trên thế giới, đã khiến những nước giầu có để ý đến người nghèo. Đức Giám Mục Buenos Aires của Argentina cũng đáng được lãnh giải thưởng Hòa Bình giữa hai nước hiềm khích. Và cả những người khác nữa đã đem vãn hồi được sự hòa bình trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ thực sự có hòa bình khi những bức tường xấu xa, tội lỗi, căm thù...... được ngăn chặn lại.
Chúa Giêsu sau khi đã chiến thắng thần chết, Ngài không con bị kiềm chế trong xác thịt nữa, ngài đã hiện đến với nhiều người để loan báo sự vinh thắng và ban bình an cho nhiều người, để những ai đi theo đường chân lý và lời mời gọi của Ngài thì sẽ được bình an, được chiến thắng.
Có lần, một linh mục chia sẻ: Có một anh sinh viên gởi thư và nêu thắc mắc bao gồm một nỗi khổ PS2-297
Có lần, một linh mục chia sẻ: Có một anh sinh viên gởi thư và nêu thắc mắc bao gồm một nỗi khổ rất lớn, liên quan dữ dội đến đức tin. Anh sinh viên hỏi rằng, "Thưa Cha, chỉ còn có ba tháng nữa, con sẽ tốt nghiệp đại học. Dù lúc này, ba con rất yếu, nhưng con cầu xin Chúa cho ba con được sống cho tới ngày con cầm được mảnh bằng tốt nghiệp về khoe với ba: "Thưa ba, đây là bằng tốt nghiệp của con". Cha có biết không, cái bằng tốt nghiệp đó, con đã phải chờ phải đợi biết là chừng nào. Ba con cũng thế, đêm ngày mong mỏi, cứ mong mỏi, cứ chờ đợi làm sao để nhìn thấy con tốt nghiệp đại học, y như là khi con đậu đại học là chính lúc ba con đậu đại học vậy. Cũng đúng thôi cha ạ. Vì mảnh bằng tốt nghiệp, nếu con đạt được thì đâu chỉ của riêng con mà là của cả hai cha con cộng lại. Đó là công lao nuôi dưỡng của ba con hai mươi mấy năm trời và công lao học tập miệt mài của con bao nhiêu năm mới có nó, vậy mà Chúa không nghe lời con xin. Cách nay một tuần, Chúa đã cất ba con. Ba con chết mà không nhìn thấy kết quả do mình tạo ra, và ngày đêm mong mỏi. Sao Chúa lại làm như vậy? Sao vậy cha?"
Và trong lá thư gởi theo địa chỉ mà anh sinh viên cho biết, vị linh mục trả lời:"Tôi cũng không biết nữa, không hiểu vì sao Thiên Chúa lại làm như vậy. Nhưng chắc Chúa có lý do của Ngài. Đọc thư anh, tôi thông cảm với anh, thông cảm nhiều lắm, vì tôi cũng đã từng gặp đau khổ tương tự như anh. Tôi cầu nguyện cho anh và dâng những đau khổ, dâng sự đồng cảm của hai chúng ta, để Chúa tìm cách bù cho anh trong kết quả thi tốt nghiệp sắp tới. Điều tôi quan tâm hơn hết, đó là anh còn tin Chúa nữa hay không?".
"Anh có còn tin Chúa nữa hay không?". Tôi nghĩ rằng, lời hỏi đó cũng rất cần thiết cho bạn và tôi. Có những lúc đau khổ tột cùng, những lúc tưởng như cuộc đời mình bế tắt , chính những lúc như thế, chúng ta có còn tin Chúa nữa hay không?
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ là câu trả lời quí giá về nỗi đau trong cuộc đời của bạn và của tôi. Vì hiểu được ý nghĩa của Tin Mừng hôm nay, sẽ giúp ta vững tin hơn. Chỉ với một bài Tin Mừng không dài lắm, nhưng thánh Gioan có đến hai lần kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Có lẽ bạn sẽ thắc mắc: hôm nay Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của niềm vui, một niềm vui lớn. Đàng khác bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ, lại là một niềm vui không nhỏ. Vậy mà từ đầu tới giờ, tôi chỉ toàn nói đến đau khổ. Vì sao lại nói đến đau khổ giữa mùa Phục sinh? Là bởi vì Chúa không tự nhiên mà phục sinh. Nhưng Chúa phục sinh từ trong đau khổ. Chúa phục sinh từ trên thánh giá. Hôm nay, dù đã sống lại, đã chiến thắng khải hoàn, thân xác phục sinh chói ngời đã cùng quyền năng Thiên Chúa bước vào vô biên, bước vào vĩnh cửu nhưng bây giờ hiện ra với các môn đệ, thân xác phục sinh rạng rỡ ấy vẫn còn y nguyên dấu của thập giá.
Cả hai lần trong bài Tin Mừng đều chứng minh Chúa hiện ra chỉ có cùng một kiểu như thế. Lần thứ nhất, thánh Gioan ghi nhận, ngay khi hiện ra" Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người". Bạn có biết điều gì trên tay và trên cạnh sườn mà Chúa cho xem vậy? Vì nơi ấy, dấu thập giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay ấy và trên cạnh sườn ấy, còn nguyên dấu tích của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu qua. Chỉ sau khi xem tay và cạnh sườn bị thương tích như thế, các môn đệ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy "vui mừng vì xem thấy Chúa". Như vậy dấu của thập giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ.
Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt, nên thánh Tôma nhất quyết không tin. Bởi đó tám ngày sau, Chúa lại hiện ra một lần nữa, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn lần trước, dứt khoát hơn lần trước. Ngài không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa Giêsu Phục sinh còn lên tiếng nói: " Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin". Ví dụ có một ngày nào Chúa hiện ra và cũng nói với bạn những lời mà Chúa đã từng nói với thánh Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, hãy thọc bàn tay con vào đây", bạn có còn dám nhìn Chúa nữa không? Chẳng những không dám nhìn, càng không dám đưa ngón tay đưa bàn tay, mà có khi run rẫy chết khiếp, bạc vía kinh hồn. Thánh Tôma cũng không hề là trường hợp ngoại lệ. Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: "Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lổ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin". Tuyên bố mạnh mẽ là thế, kiên quyết là thế, dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thập giá còn in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi". Một lần nữa, thánh Gioan lại cho thấy, dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.
Mà dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin, nên trong mùa phục sinh, ta lại bàn đến vấn đề đau khổ, đó cũng là điều hợp lý. Chúa Phục sinh đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thập giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục sinh, lại làm cho các môn đệ, dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.
Người ta nói: " Lửa thử vàng, gian nan thử sức". Và tôi thêm, đối với người có đạo, đau khổ rèn luyện đức tin của họ. Đối với anh sinh viên, tôi tin rằng, nếu anh đọc và suy nghĩ Lời Chúa, suy nghĩ về cuộc đời của Chúa Kitô, về sự chết và sống lại của Ngài, chắc chắn anh sẽ vượt qua nỗi buồn mất cha, dù anh rất yêu cha của anh. Tôi cũng tin y như thế về các bạn và chính bản thân tôi. Nếu chúng ta để cho Lời Chúa thấm trong cuộc đời của mình, thì có nỗi đau nào bạn và tôi không vượt qua!
Mỗi người đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng một người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn. Hay con đường tương lai của mình, hay sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước mặt, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình như trường hợp anh sinh viên kia những lúc bi đát đến cùng cực ấy, bạn và tôi hãy nhớ lại lời vị linh mục hỏi chàng sinh viên kia:" Tôi có còn tin Chúa nữa hay không?".
Chúng ta rất may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ, và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn mang trên thân thể những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu.
Sau hết tôi muốn mời bạn cùng tôi dâng lời cầu nguyện, chỉ một lời cầu nguyện thôi nhưng bằng tất cả tình yêu thẳm sâu tận hồn chúng ta: " Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn vững tin vào Chúa".
Đức Giêsu đã sống lại thật rồi. Alléluia ! Những điều Thánh Kinh thuật lại đã minh chứng việc Chúa PS2-298 Dalat
Đức Giêsu đã sống lại thật rồi. Alléluia ! Những điều Thánh Kinh thuật lại đã minh chứng việc Chúa Giêsu sống lại: các Tông đồ và mọi người chúng ta với con mắt đức tin, đã nhận ra Đức Giêsu sống lại, Ngài đang hoạt động trong thế giới và trong mỗi người chúng ta. Hôm nay, Chúa sống lại lại hiện ra với các Tông đồ: việc đầu tiên Ngài ban bình an cho các Tông đồ, và minh chứng cho các Tông đồ thấy tay, chân bị đóng đinh và cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu qua, và Ngài thổi hơi vào các Tông đồ và bảo:” Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần…” “ Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em “.
Đọc Lại Kinh Thánh, chúng ta đã nhận ra ngay từ thời Cựu Ước, lúc Thiên Chúa tạo dựng nên trời đất, muôn vật…Thần khí của Thiên Chúa đã bay là là trên mặt nước. Thần khí lúc này là Thần khí sự sống. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và muôn loài. Thần khí của Thiên Chúa hả hơi ban sự sống. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa thổi sinh khí của Người và ban cho con người sự sống. Trình thuật của thánh Gioan hôm nay cũng cho thấy Chúa Phục Sinh thổi hơi vào các môn đệ và ban cho họ năng lực mới, tạo thành mới “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ “. Các môn đệ của Chúa được Chúa sai đi:” Như Cha đã sai Thầy.Thầy cũng sai anh em “.Quyền năng của Đấng Phục Sinh đã biến đổi các môn đệ. Các ngài có sứ mạng đem niềm vui, bình an và kiến tạo sự sống mới cho những ai tin vào Đức Kitô.Bởi vì, các môn đệ đã lãnh nhận quyền năng nơi Đức Kitô Phục Sinh, các ngài có trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ hăng say đem quyền năng ấy đi khắp tận cùng thế giới.
Quả thực, các môn đệ khi được Chúa sống lại thổi hơi ban sinh khí mới, năng lực mới của Chúa Thánh Thần, các ngài đã hiên ngang, mạnh dạn làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Lời chứng của các môn đệ càng ngày càng mạnh mẽ, không suy giảm cường độ chút nào cả và càng lúc càng ảnh hưởng đến mọi người. Các môn đệ cảm nghiệm rõ ràng năng lực mới lạ và kỳ diệu đã khiến họ làm được nhiều phép lạ. Sự biến đổi không thể nào giải thích được nơi các môn đệ của Đức Giêsu, khiến cho nhiều người rất đỗi ngạc nhiên và chính những người này nói rằng lý trí cũng đủ minh chứng Chúa Giêsu Phục Sinh.
Chúng ta hôm nay, không được diễm phúc như thánh Tôma đối diện với Chúa Phục Sinh, được nhìn chân tay và những lỗ đinh, nhìn cạng sườn của Chúa bị lưỡi đòng đâm thâu qua, để có thể cảm nghiệm trực tiếp Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, chúng ta đã có chứng cớ của Kinh Thánh, chứng cớ sống động của các Tông đồ, chứng cớ không thể chối cãi của bà Maria Mađalêna đã thuật lại…Chúng ta có thể dùng lý do Chúa tặng ban để xác quyết và nhận ra Chúa đã sống lại thật. Và rồi, chúng ta cũng phải sẵn sàng quỳ gối như thánh Tôma và thưa với Chúa Giêsu:” Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con “. Và Chúa cũng sẽ nói với mọi người chúng ta:” Hạnh phúc thay những ai không thấy mà tin “.
Chúa nhật hôm nay cũng là Chúa nhật kính nhớ Lòng Thương Xót Chúa.Chúng ta luôn tin tưởng, phó thác nơi lòng nhân từ thương xót của Chúa. Như người con hoang đàng, như con chiên lạc, như người phụ nữ ngoại tình, chúng ta luôn tín thác nơi Lòng Thương Xót của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc hành trình theo Chúa là một cuộc hành trình đức tin lâu dài, có những lúc chúng con dễ dàng tin nhận, nhưng có những lúc đức tin của chúng con bị thử thách, chao đảo như thánh Tôma, xin giúp chúng con nhớ lại những sự việc đã xảy ra theo lời Kinh Thánh thuật lại vào ngày Chúa nhật Phục sinh, xin Chúa đánh thức đức tin của chúng con để chúng con nhận ra biến cố Phục Sinh không chỉ tác động trên các môn đệ của Chúa năm xưa mà có ảnh hưởng sâu rộng trên lịch sử nhân loại. Xin giúp chúng con biết mau mắn loan báo Chúa Phục Sinh cho nhiều người như Mađalêna và các môn đệ đã mau mắn loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho nhiều người.Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận năng lực mới của Chúa Thánh Thần: đem niềm vui, hiệp nhất, yêu thương và bình an đến cho mọi người. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa Phục Sinh lại ban bình an cho các môn đệ ? 2.Thổi hơi vào các môn đệ có nghĩa gì ? 3.Quyền năng của Đấng Phục Sinh là gì ? 4.Ai đã sai Chúa Giêsu và ai đã sai các Tông đồ ? 5.Quyền tha tội là gì ?
Người Công Giáo Việt Nam chúng ta thường hay nhận xét một biến cố hay một nhân vật nào đó, PS2-299
Người Công Giáo Việt Nam chúng ta thường hay nhận xét một biến cố hay một nhân vật nào đó, ít có mấy người để ý đến điều đang tiềm ẩn đằng sau những mặt nổi hay chiều sâu bên trong nơi những con người mà ta nhận xét. Vì thế, nhiều khi chúng ta khá chủ quan để kết luận một vấn đề, nên dễ dẫn đến chuyện đóng khung sự kiện hay đối tượng mà ta đánh giá trong một khoảng tham chiếu rất phiến diện dựa trên chuẩn mực mà chính ta đưa ra….
Với thánh Tôma mà hôm nay Tin Mừng nhắc đến, ngài cũng chịu sự nhận xét khá tiêu cực của nhiều người trong chúng ta, qua cái nhìn và lối suy diễn rất hiện sinh: “Tôma, vị Tông đồ cứng lòng tin”.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Lời Chúa và ân sủng do lòng thương xót của Người, chúng ta nhận thấy một điều quan trọng nơi câu chuyện Tin Mừng ngang qua nhân vật và cách biểu cảm của thánh Tôma.
Tiến trình căn bản của đức tin
Đức Tin là một ân ban của lòng thương xót Chúa cho ai thì người đó được. Điều này đã được Đức Giêsu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa Cha khi nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Quả thật, không phải ai muốn mà được, nhưng còn phải được chính Thiên Chúa là người dẫn lần ta đến với đức tin như chính thánh Phaolô đã viết: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29).
Tuy nhiên, đức tin ấy không thể trưởng thành mà không có môi trường, không có cộng đoàn. Vì thế, khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được lãnh nhận hồng ân đức tin ấy trong tương quan và ngang qua cộng đoàn.
Thế nhưng, nếu chỉ dừng lại ở một bầu khí đức tin cộng đoàn thì chưa đủ, mà nó lại phải trở về với mối tương quan cá vị giữa ta với Chúa, để đức tin của chúng ta mang tính cá biệt với Thiên Chúa, rồi sau đó trở về hòa nhập với cộng đoàn để được lớn mạnh.
Đây cũng là tiến trình đức tin của Tôma mà Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta.
Niềm tin của thánh nhân vào Đức Giêsu, Đấng Phục sinh được khai mào từ lời chứng của cộng đoàn: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" (Ga 20,25). Đây là lời klhẳng định của các Tông đồ khi Tôma vắng mặt trong biến cố Đức Giêsu hiện ra với các ông vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi sống lại từ cõi chết.
Với Tôma, một người hiện sinh về việc tìm tòi cốt lõi của vấn đề, thì lời chứng của cộng đoàn chỉ đóng một vai trò dẫn đường để đưa ngài tới chỗ chính mình phải là người chủ động cảm nghiệm trực tiếp vấn đề mang tính cá vị: "Nếu tôi không thấy tôi không tin" (x. Ga 20, 25). Qua câu nói này của thánh Tôma, chúng ta nhận thấy ngài là một con người ngay thẳng, chân tình và rất thực tế.
Chính vì điều này mà Đức Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót đã mặc khải trực tiếp khi tỏ tình thương đối với vị Tông đồ này cách đặc biệt sau 8 ngày.
Quả thế, khi hiện ra với các Tông đồ lần này, Đức Giêsu đã nhắm thẳng vào Tôma, nên Ngài đã lên tiếng: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20, 27). Đứng trước lòng thương xót của Đấng mà thánh nhân đang đi tìm, ngài đã không dám thực hành điều đã nói với các Tông đồ là: sỏ tay vào vết đinh, thọc tay vào cạnh sườn…, mà ngay lập tức, ông đã quỳ mọp xuống và tuyên xưng niềm tin của mình các mạnh mẽ mang tính cá vị và tuyệt đối: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !" (Ga 20, 28) . Đây là đỉnh cao của lời tuyên tín Phục Sinh nơi Tôma.
Nhờ vào lòng thương xót của Đức Giêsu cách đặc biệt, nên cũng từ đây, Tôma nhận ra một chân lý rằng: tin rồi mới thấy cách trọn vẹn. Thấy Đấng Phục Sinh thì cũng thấy Đấng là Thầy của mình trước đó. Thấy Đấng Phục Sinh cũng là thấy Thiên Chúa của mình. Điều này đã đem lại một sự mãn nguyện mang tính tuyệt hảo và hạnh phúc viên mãn của Tôma.
Đức tin của mỗi chúng ta
Từ những trải nghiệm đức tin của thánh Tôma, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta xem lại những xác tín và biểu hiện đức tin của mỗi người.
Thật vậy, chúng ta khám phá ra một chân lý rằng: Đức tin không chỉ một phía từ Thiên Chúa ban, cũng chẳng phải do sự cố gắng thuần túy cá vị, mà nó được kết hợp cả hai từ trên xuống dưới, tức là do lòng thương xót của Thiên Chúa ban nhưng không cũng như nghị lực rất cố gắng của mỗi người và được nuôi dưỡng bởi cộng đoàn.
Điều này lý giải cho chúng ta thấy rằng: nếu bất kể cái gì ta cũng thuần phục và gán cho ơn thánh thì sẽ rơi vào tình trạng: “Kính nhi viễn chi” hay không bao giờ dám bàn luận và cũng chẳng cần phải đào sâu hơn nữa, bởi lẽ “mọi chuyện đã rồi” nên chỉ tin mà thôi. Tin như thế, có thể rơi vào tình trạng cả tin rồi lại chẳng tin! Nó giống như số phận của những hạt giống bên bụi gai, vệ đường và đá sỏi.
Còn nếu dựa vào lý trí thuần túy, chúng ta có thể rơi vào trạng thái phỏng chiếu đức tin của mình trên những gì mắt thấy, tai nghe, hay cân đo đong đếm được và phải đáp ứng nhu cầu thỏa mãn sự hiếu tri. Nếu lấy điều này làm tiêu chuẩn, chúng ta rất có thể rơi vào sự kiêu ngạo, lạnh nhạt, vô cảm và bất tín giống như những Kinh sư và người Pharisêu.
Mặt khác, nếu chỉ dựa vào tập thể, tức là đức tin của tôi phụ thuộc vào cộng đoàn, thì đức tin mạnh mẽ hay là yếu ớt của cộng đoàn cũng là tâm thức của tôi. Tin như thế, không chừng chúng ta đang lấy cộng đoàn làm bình phong hay ngụy biện cho sự hời hợt, giả tạo và hình thức của mình. Điều này có nguy cơ rơi vào tình trạng: “Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì lìa nhau ra”. Rất giống như đám đông dân chúng trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta một kinh nghiệm được lấy từ mẫu thức của thánh Tôma.
Trước tiên, đừng cả tin mọi chuyện. Cần phải suy thấu dựa trên ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa qua Kinh Thánh, Giáo Huấn của Giáo Hội. Lấy Lời Chúa làm nền tảng, Giáo Huấn của Giáo Hội làm điểm tựa cho niềm tin của mình.
Thứ hai, “đừng cứng lòng, nhưng hãy tin!" điều này soi sáng cho chúng ta: Không phải bất cứ cái gì cũng đo lường được bằng đơn vị định lượng của khoa học, nhưng nhiều khi nó còn được đo bằng từ ánh mắt đến trái tim, từ lòng với lòng. Bởi lẽ, nhận thức của con tim đôi khi khác hoàn toàn với nhận thức của lý trí.
Cần nắm vững điều căn cốt của đức tin chính là: vun đắp, cộng tác với ơn thánh của Thiên Chúa để đức tin do lòng thương xót của Người ban được lớn lên trong tâm hồn, đồng thời làm sao cho đức tin của mình được chung nhịp đập với đời sống đức tin của cộng đoàn.
Cuối cùng, đức tin của chúng ta phải được nuôi dưỡng trong mối tương quan cá vị từng người, để qua đó, ta mới có đủ cảm thức và nhạy bén thực sự với ơn Chúa và hòa nhập được với đời sống cộng đoàn. Có thế, chúng ta mới vươn tới một đức tin vừa mang tính khả giác, vừa mang chiều kích ân sủng và mầu nhiệm. Điều ta muốn thấy mà không thấy thì hãy bắt đầu bằng đức tin, để từ đó, đức tin sẽ dẫn ta đến điều ta không thấy và điều ta không thấy mà tin sẽ đem lại cho mình hạnh phúc trọn vẹn như lời Đức Giêsu đã nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã tỏ lòng thương xót đến thánh Tôma. Xin Chúa cũng thương xót đến chúng con như Chúa đã thương xót đến thánh Tôma khi xưa. Tất cả những ước nguyện đó, con xin tín thác nơi lòng thương xót Chúa. Amen. -------------------------------------
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 20,19-31)
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em!» (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: «Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». (22)Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ».
(24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: «Chúng tôi đã được thấy Chúa!» Ông Tôma đáp: «Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin». (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em». (27) Rồi Người bảo ông Tôma: «Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin». (28) Ông Tôma thưa Người: «Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!» (29) Đức Giêsu bảo: «Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!»
(30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Bản văn Tin mừng này liên kết hai lần hiện ra của Chúa Giêsu với các môn đệ sau khi phục sinh. PS2-300
Bản văn Tin mừng này liên kết hai lần hiện ra của Chúa Giêsu với các môn đệ sau khi phục sinh. Lần thứ nhất với các môn đệ không có Tôma, lần thứ hai có sự hiện diện của Tôma. Cả hai trình thuật này soi sáng cho nhau và xoay quanh chủ đề chính yếu là niềm tin của các Tông đồ trước mầu nhiệm Phục sinh và sứ mạng loan báo Tin mừng Phục sinh của các ông.
1. Niềm tin Phục sinh, dễ mấy ai tin:
Khi nghe các bạn báo tin Thầy đã sống lại, Tôma đã không tin, ông đòi phải tận mắt chứng kiến mới tin. Việc Chúa sống lại quả thật là khó tin, vượt quá kinh nghiệm của tri thức nhân loại. Với Tôma và có lẽ cũng của rất nhiều người, đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay thì những gì không thể quan sát, không thể đo lường, không thể chứng minh đều có thể bị từ chối. Bên cạnh đó, Tôma không tin các bạn cũng có lỗi nào đó do chính các Tông đồ. Các ông nói Thầy đã sống lại, sao lại vẫn còn sợ hãi, vẫn còn chưa dám ra khỏi nhà, vẫn còn bất động ? Câu Chúa nói như để trách cứ sự cứng lòng của Tôma xem ra cũng chính là câu Người khiển trách tất cả các môn đệ: “Tôma, con đã xem thấy Thầy, nên con tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Trong thực tế đời sống Kitô hữu, nhiều khi cách sống theo Tin mừng của mình khiến cho anh chị em vốn đã cứng tin lại càng thêm cứng tin. Tin là một điều không phải dễ nói, dễ thuyết phục. Đòi hỏi mỗi Kitô hữu phải kiên tâm, trung thành sống và làm chứng cho Tin mừng mới mong có thể giúp người khác tin.
2. Niềm tin Phục sinh, niềm vui và hy vọng:
Các môn đệ đang trong tâm trạng thất vọng lo âu, sợ hãi vì Thầy mình đã chết. Khi thấy Thầy mình hiện ra, bấy giờ các ông vui mừng vì được xem thấy Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh đã mang lại niềm vui, niềm hy vọng cho các môn đệ. Ngay khi hiện diện giữa các môn đệ Người đã ban bình an cho các ông. Khi Chúa Giêsu giáng sinh, ca đoàn các Thiên sứ đã vang lời ca bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Hôm nay, Đấng Phục Sinh đã thực sự mang lại bình an cho con người. Người đã chết và phục sinh vinh quang để mở đường cho những ai tin theo Người cũng sẽ sống lại chung hưởng vinh quang, tình yêu và hạnh phúc với Người. Niềm tin Phục sinh mang lại niềm vui và hy vọng cho con người. Từ đây, quả thực nhân loại đã được giải thoát khỏi ách Tử thần, vươn lên trở thành Con Thiên Chúa, sống sự sống viên mãn của Ngài ; từ đây, nhân loại đang sống trong khổ đau, bất an đã thực sự được giải thoát để mưu cầu hạnh phúc và bình an trong tình yêu của Thiên Chúa. Nếu thực sự sống niềm tin Phục sinh giúp cho người Kitô hữu có niềm lạc quan, hy vọng vươn tới. Tất nhiên, ở đây không phải là yếu tố tâm lý nhưng là sự tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu, được Người thông ban cho các Tông đồ, Giáo hội và tất cả những ai tin, chính Chúa Thánh Thần là tác nhân làm nên niềm hy vọng, niềm vui sống. Những ai tin vào Đấng Phục Sinh sẽ lãnh nhận tràn đầy Thánh Thần của Người.