Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Effetha!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!” - Ðó là lời Chúa.
Đau yếu, bệnh tật, nghèo đói là nỗi khốn khổ của kiếp người. Nó gắn liền với đời người vốn là TN 23-B151
Đau yếu, bệnh tật, nghèo đói là nỗi khốn khổ của kiếp người. Nó gắn liền với đời người vốn là hữu hạn. Khi lâm bệnh, con người cảm nghiệm sự bất lực, giới hạn và sự hữu hạn của mình. Bệnh tật có thể làm cho con người xao xuyến, đôi khi đưa tới tuyệt vọng và hối thúc con người tìm kiếm Thiên Chúa và quay về với Ngài. Chính vì thế, sứ điệp phụng vụ Lời Chúa hôm nay chứng tỏ ơn cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô – Đấng Thiên sai: “Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.
Thưa anh chị em, dân Israel xưa đã gặp phải nỗi khốn khổ khi bị lưu đày ở Babilon. Thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ rơi dân tộc Ngài đã tuyển chọn. Chính Thiên Chúa sẽ giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày và Đấng Thiên Sai sẽ đến để chữa lành mọi bệnh tật hồn xác cho như ngôn sứ Isaia loan báo: bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, người câm sẽ nói được và mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bởi, sự đui mù, câm điếc, què quặt … không chỉ là bệnh của thể xác nhưng còn mang ý nghĩa tâm hồn: mù vì không thấy những hành động cứu rỗi và uy quyền của Thiên Chúa; điếc vì không nghe Lời Chúa phán; què vì không đi trên đường Chúa vạch ra, không sống theo ý Chúa; câm vì không cất tiếng ca tụng, cảm tạ Thiên Chúa, nay Thiên Chúa sẽ cứu chữa họ. Đây là những dấu chỉ giải thoát của thời kỳ Đấng cứu độ, là lúc mà chính Thiên Chúa đến để cứu giúp con người. Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc, chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa. Qua Người, chính Thiên Chúa đã đến cứu độ con người, bằng cách phục hồi khả năng tương giao của họ, để họ có thể nghe và hiểu Lời Chúa, nhờ đó mà được sống sung mãn. Đối với các thánh ký Tân ước, sự quan trọng của các phép lạ không ở chỗ chữa lành các bệnh thân xác, nhưng là ơn cứu rỗi, là chữa lành những bệnh tâm hồn và Chúa Giêsu làm phép lạ như dấu chỉ minh chứng Người là Đấng Cứu Thế. Người đến ở với con người, tiếp xúc với con người để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật, làm cho con người được hạnh phúc thực sự, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Tất cả những việc Người làm họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!”.
Có câu chuyện kể rằng, Napoleon Hill có đứa con trai Blair bị khuyết tật thiếu đôi tai. Chuẩn đoán về trường hợp này, các bác sĩ cho biết, đứa trẻ có thể bị câm điếc suốt đời. Nghe những điều đó, Napoleon như chết lặng, nhưng ông đang cố tìm mọi cách để Blair có thể học nghe và nói. Quả thật, niềm tin của ông đã giúp ông thực hiện được điều đó.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Ơn cứu độ là sự gặp gỡ thực sự với Đấng Cứu Thế, đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, mà bệnh tật là dấu hiệu của nó. Con người cần phải gặp gỡ thực sự với Chúa Giêsu Con Thiên Chúa để đón nhận quyền năng cứu độ của Người. Người chính là Đấng Cứu Thế của chúng ta. Người có quyền năng cứu rỗi chúng ta không những bệnh tật phần xác nhưng cả tinh thần và linh hồn. Thánh Giacôbê cũng lên tiếng kêu gọi chúng ta không được đối xử thiên vị và có thành kiến với người nghèo, phải thương giúp người nghèo khổ bệnh tật hồn xác theo gương Đấng Cứu Thế.
Nguyện xin Chúa chữa đôi tai tâm hồn chúng ta để chúng ta lắng nghe Lời Chúa; chữa miệng lưỡi chúng ta để chúng ta chúc tụng và cao rao tình thương của Chúa. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta để chúng ta vững bước đi theo Chúa, nhất là trong những lúc khốn khổ, đau yếu. Amen.
Một Chân Trời Mới vừa được mở ra cho người câm điếc thành Sidon. Anh nhận được lòng thông TN 23-B152
Một Chân Trời Mới vừa được mở ra cho người câm điếc thành Sidon. Anh nhận được lòng thông cảm của nhiều người và chính lòng thông cảm của đám đông dẫn anh gặp Đức Kitô. Ngài ban cho anh ơn nghe được và nói được. Mở tai, mở lưỡi anh, Đức Kitô cho mọi người biết tình yêu Chúa không giới hạn cho những ai muốn gặp Chúa, kể cả dân ngoại.
Đức Kitô đến thành Sidon, là một trong mười thành có tên chung là Thập tỉnh. Vào vùng của dân ngoại, ngạc nhiên thay dân làng đem đến cho Ngài một người vừa câm, vừa điếc. Bởi câm điếc nên anh coi như bị cắt đứt khỏi mọi sinh hoạt trong làng. Đức Kitô giúp anh trở thành một thành viên sống động trong làng. Có lẽ anh bị câm điếc từ thuở mới sinh. Bởi anh vừa câm, vừa điếc, nên anh không thể sinh hoạt chung với cộng đoàn. Do đó có thể anh không hề biết Đức Kitô là ai và cũng không biết Ngài đã đến làng anh đang cư ngụ.
Không phải cha mẹ anh, cũng không phải họ hàng mà chính là số dân làng có lòng từ tâm, dẫn anh đến gặp Đức Kitô. Không chắc họ có phải là bạn của anh không, nhưng chắc chắn họ là những người biết, và thông cảm với nỗi khổ anh đang gánh chịu. Những người này chắc chắn biết về Đức Kitô, hoặc có thể họ đã từng chứng kiến phép lạ Đức Kitô thực hiện. Bởi biết quyền lực Ngài nên họ dẫn anh câm điếc đến mong Ngài thương cứu anh ta. Đức Kitô thương mến anh, làm vui lòng đám người dẫn anh đến gặp Ngài. Đức Kitô mở tai anh để anh nghe rõ ràng. Ngài mở lưỡi anh để anh nói tỏ tường.
Nhờ lòng từ tâm của đám đông, dẫn anh câm điếc đến Đức Kitô và Ngài ban cho anh sự sống. Nếu không có lòng từ tâm đó, anh suốt đời chịu câm điếc và chết với tật nguyền từ thuở sinh thời đó. Chúng ta chú í đến cách chữa trị tật câm điếc của anh. Bình thường Đức Kitô chỉ cần phán một lời là bệnh tật biến mất khỏi người bệnh. Lần này Đức Kitô vừa ra lệnh cho bệnh tật biến mất, vừa có những động tác khác thường.
Thứ nhất, Đức Kitô tách anh ra khỏi đám đông dân làng. Hầu hết dân ngoại tin dị đoan và tin bói toán. Tách anh ra khỏi đám đông cách nào đó giảm tin đồn dị đoan. Những người chứng kiến Đức Kitô chữa lành anh là môn đệ Ngài, cộng thêm những người tin vào Ngài, dẫn anh câm điếc đến gặp Ngài.
Thứ hai, bởi anh vừa câm vừa điếc nên thay vì ra lệnh, Đức Kitô đối thoại với anh bằng cử chỉ thân thiện, nhân lành. Đức Kitô sờ vào tai anh ta, ngón tay Ngài đụng lưỡi anh và ra lệnh ‘Mở Ra’, và anh nghe được rõ ràng; nói rõ ràng. Không cần phải đoán cũng biết anh nói lên lời tạ ơn, ca tụng Thiên Chúa. Lời nói đầu đời của anh chắc chắn là tuyên xưng đức tin. Lần đầu trong đời anh nói được và nói được rõ ràng, mạch lạc. Câu nói lại là câu nói tin tưởng, phó thác, cậy trông và tạ ơn Đức Kitô. Anh không cần tập nói; trái lại anh nói rõ ràng, mạch lạc. Điều này chỉ một mình Thiên Chúa có thể thực hiện.
Thứ ba, Đức Kitô tách anh ra khỏi đám đông để anh không bị phân tâm khi Đức Kitô chữa cho anh, mà hoàn toàn chú tâm vào Ngài. Như thế nói lên sự liên kết chặt chẽ, đặt trọng tâm vào Đức Kitô. Điều này không phải anh sạch phần thể xác, mà tận trong tâm hồn anh được hoàn toàn sạch trong. Đối với người khác, anh khỏi tật nguyền phần xác. Đối với môn đệ Đức Kitô và người có lòng tin vào Ngài, anh được sạch cả thể xác, lẫn tâm hồn. Chữa bệnh câm điếc cho anh, người chứng kiến được tăng đức tin, niềm tin sâu đặm hơn.
Thứ tư, Phúc âm tuần trước xác định. Dơ bẩn tâm hồn làm chết linh hồn. Đức Kitô không sợ bẩn về thân xác, Ngài dùng ngón tay chạm vào tai, vào lưỡi người câm điếc; điều này cho biết Ngài không sợ dơ bẩn bên ngoài mà chú tâm đến dơ bẩn trong tâm hồn. Dơ bẩn tâm hồn chính là tội. Quan niệm xưa cho biết tội và tật nguyền chung vai sát cánh. Hết tật nguyền là sạch tội, và sạch tội con người khoẻ mạnh, tinh thần trong sáng, tâm tư an bình. Trước Khi gặp Đức Kitô anh câm điếc không nói được một chữ, sau khi gặp Ngài anh nói rõ ràng, mạch lạc. Đức Kitô ban cho anh nhiều hơn mọi người mong đợi.
Anh bị câm về tinh thần, bị điếc về tâm linh. Đức Kitô chạm vào anh: tâm linh anh trong sáng, tội anh biến mất; anh ca vang lời ca tụng Thiên Chúa. Tâm linh anh sống động. anh không còn câm điếc về tâm linh nữa.
Chữa lành anh câm điếc đám đông nhận biết Đức Kitô có quyền trên cả thần câm lẫn thần điếc. Điều từ trước tới nay chưa hề xảy ra. Ngoài Thiên Chúa ra, không ai có thể mở tai người điếc, mở lưỡi người câm bằng dùng bùn tất và nước miếng. Không dâng lời ca tụng Chúa chính là câm điếc tâm linh.
Khi Thầy Giêsu bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh thì người TN 23-B153
Khi Thầy Giêsu bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh thì người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Người và xin Người đặt tay trên anh (x. Mc 7, 31-32). Tất cả mọi người đều chờ đợi điều kỳ diệu sẽ xảy ra. Đặc biệt là người đang bị bệnh.
Cả đám đông vây quanh Thầy Giêsu, hồi hộp chờ đợi, tò mò về những gì Người sẽ làm cho anh. Anh đứng đó, chăm chú nhìn Người và kiên nhẫn chờ đợi. Anh không thể nói với Người điều mình muốn và cũng không nghe được lời Người nói. Tất cả điều anh có thể làm là diễn tả điều mình muốn qua ánh mắt. Ánh mắt tha thiết ấy đang gửi gắm niềm tin và hy vọng vào Thầy Giêsu. Người cũng trìu mến nhìn anh. Ánh mắt của Người xoáy sâu vào tâm hồn anh như muốn nói: Con cứ an tâm và vững lòng. Có lẽ, chỉ có anh mới cảm nhận được tất cả những gì ánh mắt ấy đang nhắn nhủ anh. Người không để anh lạc lõng giữa đám đông nhưng lại kéo riêng anh ra khỏi đám đông. Anh để Người nắm lấy tay kéo đi mà không hề cưỡng lại. Anh bước từng bước đầy tin tưởng đi theo Người. Chỉ còn Thầy Giêsu và anh, diện đối diện. Người đứng trước mặt anh, đưa ngón tay đặt vào tai anh, rồi lại lấy nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Anh hiểu, Người đang muốn chữa cho anh.
Thấy Người ngước mắt lên trời, anh cũng nhìn theo chăm chú. Người rên một tiếng và nói: “Épphatha, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức, anh thấy tai mình mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh nói được rõ ràng” (x. Mc , 34-35). Anh reo mừng hân hoan, hạnh phúc vì được chữa lành. Điều đã từng trói buộc anh thì nay đã được tháo cởi, điều đã ngăn cản anh lắng nghe người khác thì nay đã hoàn toàn được mở ra. Anh không còn cô độc trong thế giới của riêng mình nhưng được bình an sống giữa mọi người. Những khiếm khuyết về thể lý nơi anh đã được ban lại cách nhưng không. Hơn nữa, tâm hồn anh đã mở ra với cuộc đời. Từ đây, anh có thể nghe người khác nói và nói được như bao người.
Đến với Chúa, đã bao lần ta cũng mang tâm thế của một người đang bị trói buộc cần được giải thoát. Ta có sẵn sàng để Chúa Giêsu lôi kéo, dẫn ta đi riêng ra một chốn, chỉ mình ta với Người không? Ở nơi đó, ta chỉ còn chăm chú ngắm nhìn Người, chờ đợi Người hành động. Người sẽ làm cho ta những gì Người muốn và đó cũng là điều mà ta muốn. Đôi khi cách thức Người thực hiện quả là khó hiểu nhưng ta hãy noi gương anh chàng trong bài Tin Mừng hôm nay, cứ bước từng bước theo Chúa, đến nơi Người muốn và để Người hành động cho ta tất cả những gì Người dự định.
Lạy Chúa Giêsu! Chỉ mình Chúa mới thấu biết tình trạng tâm hồn con, chỉ có Chúa mới biết điều gì là cần thiết cho con lúc này, và chỉ có Chúa mới yêu con như con là. Cảm tạ Chúa đã không ngừng lôi kéo con ra khỏi “những đám đông” vây quanh con để dẫn con đi riêng ra với Chúa. Chính Chúa đã cho con biết điều con thực sự cần là gì và hạnh phúc lớn nhất của con chính là được nghe thấy Lời Chúa nói với con, được Chúa nhìn bằng ánh mắt trìu mến, dù cho con chỉ là một kẻ tội lỗi. Xin cho con luôn biết tìm đến Chúa vì yêu Chúa, vì chính Chúa đã không ngừng tìm kiếm và giải thoát con vì yêu con. Amen.
Bước chân của Thầy Giêsu không ngừng nghỉ. Người cùng các môn đệ rảo bước từ làng này qua TN 23-B154
Bước chân của Thầy Giêsu không ngừng nghỉ. Người cùng các môn đệ rảo bước từ làng này qua làng nọ, từ vùng này đến vùng kia. Dường như đôi chân cùng nhịp đập với con tim. Tim còn đập là còn bước đi, tim còn đập là còn yêu thương. Trái tim và đôi chân không ngừng nghỉ để yêu thương con người. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về việc Người mở miệng lưỡi, mở đôi tai cho một người vừa điếc vừa câm (x. Mc 7, 31-37).
Người bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Tại đây, người ta đã đem đến cho Người một người vừa điếc vừa ngọng. Đoạn Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Người ngước mắt lên trời, thở dài và nói: “Ép-pha-tha, nghĩa là hãy mở ra!” (x. Mc 7, 33-34). Những người đến với Đức Giêsu được chữa lành có một điểm chung, đó là đức tin. Thường những người bệnh đến với Đức Giêsu đều được chữa lành nhờ tin. Điều đó cũng xảy đến với bệnh nhân này. Tai anh ta được mở ra và lưỡi như hết buộc lại. Anh nghe được và nói được.
Câu chuyện thánh Máccô kể cho chúng ta nghe hôm nay thật cảm động. Từ một người nghèo về thể lý, không thể nghe và nói, anh ta được trở nên giàu có. Cuộc đời anh bước sang một trang mới, đầy màu sắc tươi sáng. Còn gì vui hơn khi được nghe và được nói. Từ nay, anh có thể dùng miệng lưỡi để ca tụng Đấng đã yêu thương anh, gửi trao bao lời thân thương đến mọi người, dùng đôi tai để lắng nghe những giai điệu của cuộc sống. Anh có thể tận hưởng bao điều tốt đẹp mà có thể trước đây anh không có cơ hội biết đến. Đức Giêsu chính là Đấng đã giúp anh bước sang trang mới của cuộc đời. Có biết bao người đã có được cơ hội như anh. Không chỉ anh, mà cả những người chứng kiến sự việc ngày hôm ấy đều thấy rằng: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” Mc 7,37). Họ đồng thanh ca tụng Chúa.
Đức Giêsu cũng đã đến với cuộc đời mỗi người chúng ta. Người muốn kéo chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những ồn ào của cuộc sống. Có thể, trong chúng ta tuy không bị khiếm khuyết về thể lý như anh thanh niên trong câu chuyện trên, nhưng tâm hồn chúng ta cũng đang bị trói buộc bởi nhiều điều. Đó có thể là những nỗi đau trong quá khứ, hiểu lầm, hận thù, tranh chấp, áp lực, những khủng hoảng… Chúng làm cho chúng ta bị “điếc và câm”. “Điếc” vì chúng ta không còn khả năng lắng nghe tiếng Chúa đang thì thầm với mình, không đủ kiên nhẫn để lắng nghe nhau. “Câm” vì bao hận thù, đau thương đang chèn ứ ở cổ họng, khiến chúng ta không thể mở lời với nhau, với cuộc sống. Chúng ta có tai mà không thể nghe, có miệng mà không thể ca hát. Nỗi đau và những mất mát, hận thù, bận rộn trong cuộc đời đã làm cho chúng ta bị tê liệt, bị trói buộc.
“Ep-pha-tha: hãy mở ra”. Đức Giêsu cũng đang cố gắng giúp chúng ta thực hiện điều đó. Không chỉ kéo chúng ta ra khỏi đám đông, Ngài còn mời gọi chúng ta cộng tác trong cách chữa trị “hơi lạ” của Ngài. Có thể chúng ta sẽ cảm thấy hơi ghê khi thấy Ngài “nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh” (Mc 7,33). Thiết nghĩ, Đức Giêsu cũng đang dùng cách chữa trị “hơi lạ” đó đối với chúng ta. Thường chúng ta có xu hướng trốn tránh những điều làm chúng ta đau, những con người làm ta tổn thương. Người mời gọi chúng ta đối diện với những đau thương đó, cùng Ngài gỡ những nút thắt đang trói buộc ta. Có thể, theo cái nhìn của con người, có lúc, chúng ta không đón nhận được cách chữa trị của Thầy Giêsu. Tuy vậy, Ngài vẫn luôn kiên nhẫn với từng người trong chúng ta.
Có những khi Chúa cũng phải thở dài vì sự cố chấp, không cộng tác của chúng ta. Nhưng Chúa vẫn rất thương yêu chúng ta. Bởi chúng ta là những người nghèo của Chúa, những người được hứa cho hưởng vương quốc của Ngài nhờ đức tin và lòng yêu mến (x.Gc 2,5). Chính Ngài đã đến cứu với chúng ta, giúp chúng ta bước sang trang mới của cuộc đời, và giúp ta trở nên giàu có trong niềm tin yêu. Chúng ta hãy can đảm lên – đừng sợ, hãy dùng miệng lưỡi mà ca tụng Chúa, dùng đôi tai để lắng nghe và làm theo điều Người dạy bảo và hãy mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa.
Thánh Augustinô sinh năm 354 tại Algeria, Bắc Phi, được ơn trở về với Chúa và lãnh bí tích TN 23-B155
Thánh Augustinô sinh năm 354 tại Algeria, Bắc Phi, được ơn trở về với Chúa và lãnh bí tích Thánh tẩy năm 33 tuổi; sau nầy ngài được cử làm giám mục và được tuyên phong là tiến sĩ Hội thánh.
Mặc dù thánh Augustinô là người sáng tai, nghe rõ mọi chuyện trong đời; thế nhưng, trong cuốn “Tự thú”, thánh Augustinô thú nhận rằng đôi tai của ngài bị điếc trước những lời khôn ngoan của Chúa trong thời gian dài. Ngài viết: “Con yêu Chúa quá muộn! Nầy Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài… Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con…”
Cho đến gần 33 tuổi, chứng điếc tâm linh của thánh Augustinô mới được khai mở để đón nghe Lời dạy của Chúa và từ đó, cuộc đời của ngài được cải thiện tuyệt vời.
Thứ điếc đáng sợ nhất
Điếc tai không đáng sợ vì người điếc có thể học hỏi, tiếp nhận thông tin bằng mắt qua việc đọc sách báo, xem phim ảnh hoặc qua ngôn ngữ ký hiệu dành cho người câm điếc… và nhờ đó, họ có thể thông biết nhiều điều, nắm bắt nhiều lời dạy hữu ích, quán triệt được những điều khôn ngoan…
Có một thứ điếc đáng sợ và tai hại hơn nhiều, đó là “điếc-điều-khôn-ngoan”, đây là thứ điếc có chọn lọc: điếc trước điều hay lẽ phải và sáng trước những điều xấu xa. Thứ điếc nầy thường xô đẩy người ta vào tội lỗi.
Cụ thể là:
Có nhiều học sinh điếc đặc trước những lời giáo huấn của thầy cô nhưng rất sáng tai trước những quyến rũ của bạn bè hư hỏng.
Có người chồng rất sáng tai trước những lời rủ rê của bạn bè đàng điếm mà điếc đặc trước những lời can gián của vợ con.
Có người điếc lác đối với những Lời ban sự sống của Thiên Chúa mà sáng tai trước những lời đưa đến hư vong do Sa-tan mời gọi…
Thứ điếc nầy vô cùng tai hại vì làm cho con người suy thoái về đạo đức, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình và dễ sa vào con đường tội lỗi.
Điếc tai là chứng rất khó chữa trị, và chứng “điếc-điều-khôn-ngoan” cũng rất khó chữa lành.
Tất cả những người điếc tai đều khát khao mãnh liệt được chữa lành để có thể giao tiếp với mọi người chung quanh cách thoải mái và họ không ngại tốn kém cho việc chữa trị.
Tiếc thay, có nhiều người mắc chứng “điếc-điều-khôn-ngoan,” vì không nhận ra nguy hại của chứng bệnh đang mang, nên không cần điều trị, không muốn chữa lành và thế là họ phải bị điếc lâu dài và phải gánh chịu những hậu quả của nó.
Tìm đâu ra vị lương y có thể cứu người ta khỏi thứ điếc tai hại nầy?
Chúa Giê-su cho người điếc được nghe
Hôm ấy, Đức Giê-su bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su để xin Ngài cứu chữa… Chúa kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông… Ngài ngước mắt lên trời, kêu một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mác-cô 7, 31-35).
Và khi Gioan Tẩy giả sai các môn đệ đến gặp Chúa Giê-su để tìm hiểu sứ mạng của Ngài thì Chúa Giê-su cho biết Ngài là đấng được sai đến để làm cho “người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe…” (Mt 11, 5).
Như thế, Chúa Giê-su là Đấng mở tai cho muôn người khỏi điếc. Hãy đến với Ngài để được chữa lành.
Lạy Chúa Giê-su,
Từ lúc Augustinô được Chúa mở tai để nghe lời Chúa, cuộc đời của ngài được cải thiện tuyệt vời, được làm con Chúa trong gia đình Giáo hội, sau đó trở thành linh mục, giám mục và tiến sĩ Hội thánh.
Xin cho chúng con cũng khao khát được sáng tai trước lời Chúa dạy như thánh Augustinô, nhờ đó, lời Chúa sẽ thấm nhập vào tâm hồn chúng con và giúp chúng con cải thiện cuộc sống như ngài. Amen.
Trong Tin mừng (Mc 7, 31-37) của Chúa nhật 23 thường niên B hôm nay, chúng ta bắt gặp hình TN 23-B156
Trong Tin mừng (Mc 7, 31-37) của Chúa nhật 23 thường niên B hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh một người vừa bị ngọng vừa bị điếc được người ta đem đến để nhờ Đức Giê-su đặt tay chữa lành. Cái thiệt thòi của anh ta là không thể lắng nghe khi gặp gỡ mọi người và không thể nói rõ được khi đối diện với những người chung quanh. Đây là một nỗi khổ. Đây là một nỗi đau về thể lý. Anh ta chắc là đã vất vả chạy thầy chạy thuốc nhưng xem ra bất lực. Hôm nay, nơi vùng dân ngoại này, anh ta và mọi người nghe biết và đón gặp được Đức Giê-su, Đấng có uy quyền trong lời giảng cũng như việc làm để mong rằng sẽ được cứu chữa. Hình ảnh Đức Giê-su đã được tiên báo gần cả ngàn năm qua ngôn sứ Isaia trong bài đọc I: “Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” (Is 35, 4-6). Đúng vậy, Đức Giê-su đã xuất hiện để thực hiện những lời tiên báo về Ngài. Nơi nào Ngài hiện diện là nơi đó được thi ân giáng phúc. Ngài hiện diện là kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què được đi, kẻ đui mù được sáng, kẻ bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, và ngay cả kẻ chết đều được hồi sinh.
Quả thật, sau lời mời gọi đặt tay cho người vừa bị ngọng vừa bị điếc, Đức Giê-su đã không ngần ngại để thi thố quyền năng của Thiên Chúa. Ngài kéo riêng anh ta ra như muốn diễn ta sự gặp gỡ thân mật giữa Ngài với anh ta. Đồng thời, Đức Giê-su cũng muốn anh ta không bị đám đông quấy rầy và muốn giúp anh dễ dàng đón nhận sự chữa lành này cách nhẹ nhàng mà không ồn áo náo động. Đức Giê-su ‘đặt ngón tay vào lỗ tai và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh ta’(Mc 7, 32-33). Đây là ngôn ngữ cử điệu nhằm giúp anh ta sẽ được cứu chữa. Rồi Đức Giê-su ‘ngước mắt lên trời’ (c.34) như muốn nói rằng quyền năng đến từ trên cao. Anh sẽ được chữa lành là bởi từ trên cao chứ không phải con người. Thật vậy, điều con người không thể thì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể. (x.Lc 1,37)
Chúng ta thấy Đức Giê-su ‘thở dài’ (c.34) như diễn tả lòng thương xót cũng như sự rung động của Ngài trước hoàn cảnh này. Vì Ngài là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, nên trong mọi nơi mọi lúc và đối với mọi người, Ngài đã không ngừng ban ơn và chúc phúc. Điều đặc biệt là Đức Giê-su đã dùng lời để chữa lành như những lần khác, khi Ngài nói: “Ep-pha-ta”, nghĩa là: hãy mở ra (c.34)! Từ lời phán của Đức Giê-su lưỡi được giải phóng khỏi sự ràng cột đã từng khiến nó không thể nói năng rành mạch. Tai của anh đã nghe rõ ràng. Anh như đã trở nên con người bình thường nhờ quyền năng của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô. Quả thật, phép lạ không do bởi những cử chỉ của Đức Giê-su nhưng thực ra bởi ‘Lời’ được phán ra.
Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu rằng việc Đức Giê-su vừa làm không chủ ý đến việc chữa lành thân xác mà hệ tại ở việc chữa lành bệnh thiêng liêng, bệnh tâm hồn hay bệnh đức tin. Vì thế, nhiều lần trong Tin mừng, trước khi chữa lành bệnh thể lý cho ai, Đức Giêsu thường nói: Đức tin con đã chữa lành con.(x.Lc 8,48; Mt 9,22; ) Quả thật, Đức tin mới là quan trọng. Một khi đức tin được củng cố mạnh mẽ thì thân xác sẽ được khoẻ mạnh và an toàn.
Qua việc chữa lành của Đức Giê-su đối với người vừa bị ngọng vừa bị điếc, chúng ta được mời gọi nhận biết về một vị Thiên Chúa tình yêu và tràn đầy lòng nhân ái đối với con người, nhất là đối với những hoàn cảnh khổ đau, bệnh tật, nghèo đói, bị loại ra khỏi lề xã hội,…Trong bối cảnh mọi người đang phải hoang mang lo sợ bởi đại dịch Covid-19 trên toàn thế giới, nhất là tại Việt nam chúng ta: nhiều người đã bị nhiễm bệnh, hàng triệu người đã phải tử vong, dường như chúng ta đã cảm thấy mỏi mệt và bất lực hoàn toàn trước sự hoành hành của con Vi-rút nhỏ bẻ này. Tiền tài danh vọng cũng đã thất bại trước nó. Quyền cao chức trọng sở hữu và chạy theo nó bấy lâu, nay cũng tiêu tan và cũng chẳng thể làm được gì trước sự tấn công của Covid. Nhưng dưới nhãn quan đức tin, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Ngài là Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, chúng ta được mời gọi hãy tin tưởng vào quyền năng chữa lành của Ngài. Nơi Ngài, qua Ngài và trong Ngài, chúng ta sẽ được bình an và tràn đầy hạnh phúc nếu chúng ta tin. Ngoài Người ra, không ai có thể đem lại ơn cứu độ cho con người.(x.Cv 4,12). Thật vậy, dù sống dù chết, dù bệnh thể lý hay tâm hồn, chúng ta chỉ thật sự được giải thoát nơi danh Đức Giê-su.
Mỗi chúng ta đang đối diện đủ thứ bệnh tật không phải ngọng và điếc về thể lý nhưng ‘ngọng và điếc’ về mặt tâm hồn đang cần đến sự chữa lành của Đức Giê-su. Quả thật, đối với Covd-19, chúng ta có thể tiêm vắc-xin để phòng ngừa, nhưng đối với căn bệnh “covid tâm hồn” là vô cảm, là ích kỷ, là tham lam, là hận thù, là trộm cắp, là giết người, là ngoại tình, là cờ bạc, là rượu chè, là nói hành nói xấu, là bất hoà bất thuận,…chúng ta cần phải tiêm ‘Vắc-xin’ Lời Chúa, ‘Vắc-xin’ Mình Máu Thánh Chúa để loại trừ và giải thoát. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại việc đón nhận chữa lành cho mình mà không màng tới anh chị em chung quanh.
2/ Chúng ta được mời gọi chữa lành cho nhau
Người ta thường nói ‘có đi có lại mới toại lòng nhau’. Câu nói đó có thể cũng đang mời gọi chúng ta hướng về một nghĩa thiêng liêng giữa ta với Thiên Chúa. Vì chúng ta được Thiên Chúa dựng nên từ hư không, được dựng nên giống hình ảnh của Ngài, nên chúng ta cũng giống Ngài trong nghĩa cử yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta. Ai yêu mến thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. (x. 1Ga 4,16)
Vì thế, như Đức Giê-su đã luôn luôn thao thức và hướng đến việc chữa lành những mảnh đời đau khổ và bất hạnh, cụ thể trong bài Tin mừng của Chúa nhật hôm nay. Ngài đã chạnh lòng thương và chữa lành họ khi gặp gỡ. Đến lượt chúng ta, những người đã được chữa lành mỗi ngày bằng Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cũng không thể không yêu thương, chữa lành và quan tâm đến anh chị em chúng ta bằng những lời nói yêu thương, bằng những hành động bác ái, bằng những cử chỉ tôn trọng và chân thành.
Nơi bài đọc II (Gc 2, 1-5), Thánh Gia-cô-bê Tông đồ mời gọi chúng ta đừng sống thiên tư, thiên vị và kỳ thị anh chị em đồng loại, nhưng hãy có thái độ bao dung và thứ tha cũng như công bằng bác ái. Đây là thái độ sống cần đối với các ki-tô hữu chúng ta. Chúng ta không thể nói yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương anh chị em của mình. Vì như Gioan Tông đồ đã nói: “Các con thân mến, chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, vì Người đã thương yêu chúng ta trước. Nếu ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì là người nói dối. Vì người anh em mình xem thấy mà không thương yêu họ được, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Ðấng mình không thấy được?” (1 Ga 4,19).
Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Người đến trần gian để khai mở một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ TN 23-B157
Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Người đến trần gian để khai mở một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên của ơn Cứu độ. Sứ mạng Cứu thế của Chúa Giêsu được chính Chúa Cha xác nhận, khi Người chịu phép rửa bởi tay ông Gioan bên bờ sông Giordano, cùng với những cảnh tượng huyền bí lạ lùng, như một cuộc “thần hiện” trong Cựu ước, tức là trời mở ra và có tiếng phán từ trời, đồng thời hình chim bồ câu đậu xuống trên Chúa Giêsu (x.Mt 3,13-17). Qua biến cố “thần hiện” này, Chúa Cha giới thiệu với toàn thể nhân loại Con yêu Quý của Ngài.
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay giúp chúng ta kết nối Cựu ước với Tân ước. Vị ngôn sứ loan báo Đấng Cứu thế sẽ đến trong tương lai. Khi Người đến, sẽ có nhiều điều kỳ diệu: người mù sẽ nhìn thấy, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ mở miệng nói được. Thiên nhiên vũ trụ sẽ an hòa, con người sẽ sống với nhau trong tình nhân ái yêu thương. Cảnh hoang tàn sẽ chấm dứt, thay vào đó là cuộc sống thanh bình. Đoạn sách ngôn sứ Isaia hôm nay được viết trong thời lưu đày. Vào lúc khi người Do Thái sống xa quê hương đang đau buồn chán nản, vị Ngôn sứ khích lệ động viên họ: “Can đảm lên, đừng sợ. Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Ngài sẽ đến và cứu thoát các ngươi”. Chắc chắn những người đang sống tha phương sẽ vui mừng trước những lời này, và cảm nhận rõ quyền năng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương dân riêng của Ngài.
Thời Thiên sai mà ngôn sứ Isaia loan báo đã đến chưa? Đức tin Kitô giáo trả lời: đến rồi. Đấng Thiên sai là Đức Giêsu thành Nagiaret. Người là Đấng uy quyền trong lời giảng dạy cũng như trong các việc làm. Những gì đã được loan báo trong Cựu ước, nay được thực hiện nơi Đức Giêsu. Câu hỏi về sứ mạng của Đấng Thiên sai cũng là băn khoăn của ông Gioan Tẩy giả. Đang ở trong ngục, ông sai người đến hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi phải đợi một đấng khác?”. Thay cho câu trả lời, Chúa Giê-su bảo họ hãy thuật lại những gì họ thấy, tức là những dấu chỉ của thời Thiên sai mà ngôn sứ Isaia đã loan báo (x. Mt 111,2-6).
Thánh sử Mác-cô hôm nay kể lại phép lạ Chúa chữa cho một người câm điếc. Cách thức Chúa Giêsu chữa lành được diễn tả giống như phương pháp ma thuật thời bấy giờ, tức là không dùng thuốc, mà chỉ dùng quyền uy và sức mạnh của các vị thần linh. Với việc Chúa Giêsu chữa lành đủ mọi chứng bệnh khác nhau, Người chứng minh sứ vụ thiên sai của Người. Đồng thời, người cũng khẳng định, Người là Đấng nhân danh Đấng Tối cao mà đến trần gian. Không chỉ nhân danh Đấng Tối cao, Người còn là Con của Thiên Chúa, đến trần gian để thi hành thánh ý của Ngài.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Đây là sự hiện diện thiêng liêng vô hình. Qua Giáo Hội và qua mỗi tín hữu, Chúa Giêsu đang tiếp tục rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người cũng tiếp tục chữa lành các bệnh nhân, đem cho người đau khổ sự ủi an và người bệnh tật ơn chữa lành. Trong bài Thánh ca mang tựa đề “Chính Chúa chọn con” nhạc sĩ Hồng Bính đã diễn tả sứ mạng “thiên sai” của người tín hữu: “Xin dùng con theo ý của Ngài, làm tay chân cho người què cụt, cùng làm tai cho người bị điếc…làm đôi mắt cho người bị mù, làm tiếng kêu cho người bị oan”. Khi thực hiện được những nghĩa cử trên đây, mỗi chúng ta trở thành dấu chỉ của Đấng Thiên sai giữa cuộc đời còn nhiều gian khổ đau thương.
“Hãy mở ra!”. Đó cũng là lời mời gọi Chúa gửi đến với chúng ta hôm nay. Bởi lẽ chúng ta thường có thói quen khép kín trước nỗi đau của tha nhân, dửng dưng với người đồng loại và vô cảm trước nỗi khốn cùng của người bất hạnh. Thánh Giacôbê đã lấy một hình ảnh trớ trêu và nghịch lý xảy đến ngay giữa một cộng đoàn tín hữu, khi một người nghèo bị coi thường và bị đối xử tàn tệ, trong khi người giàu được cung kính đón rước. Tác giả bài đọc II đã gọi đó là cách cư xử thiên vị, đầy tà tâm. Đây là điều thường thấy trong cuộc sống của chúng ta, kể cả nơi các cộng đoàn tín hữu. Tác giả mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự giàu có thiêng liêng nơi người nghèo. Đó chính là sự giàu có mà Thiên Chúa ưu ái ban cho họ và không ai có quyền lấy đi sự giàu có ấy.
“Hãy mở ra!”. Đây cũng là lệnh truyền của Chúa cho Giáo Hội của Người. Nếu Giáo Hội muốn trung thành với sứ mạng được trao phó, Giáo Hội phải mở rộng mọi cánh cửa để đến với muôn dân, đem Tin Mừng của Đức Giêsu đến mọi góc khuất của cuộc đời, nơi còn biết bao người đang khao khát được nghe Tin Mừng cứu độ và đón nhận tình thương. Nói đến Giáo Hội, chúng ta thường nghĩ ngay đến một tập thể, xem ra chẳng có liên quan gì đến cá nhân chúng ta. Không phải vậy, Giáo Hội là mỗi người chúng ta. Tách riêng mọi thành phần Dân Chúa, Giáo Hội chỉ còn là một khái niệm rỗng tuếch. Vì vậy, Giáo Hội mở cửa, có nghĩa mỗi người tín hữu đều chia sẻ những thao thức truyền giáo, đồng thời cộng tác nỗ lực vào sứ mạng ấy.
Thời Thiên sai đã đến và chúng ta vinh dự được cộng tác làm cho những giá trị của thời Thiên sai được tỏa lan nơi mọi nẻo đường của cuộc sống, để rồi “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Đó là ước nguyện của Chúa Giêsu, cũng là lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Chúa Cha mỗi ngày.
Chúa Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta TN 23-B158
Chúa Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Chúa Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Chúa Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó ới ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sự kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
TẤM BÁNH CHIA SẺ Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc”.
Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu.
Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu. Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đến nói với ta: “Ephata”. Hãy mở ra. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.
3. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
Hãy kể ra những thứ ngọng và nói lý do của những thứ ngọng đó Hãy kể ra những thứ điếc và nói lý do của những thứ điếc đó. Khi gặp người khác bạn thích nói hay thích nghe. Hoặc bạn không muốn nói cũng chẳng muốn nghe? Lắng nghe có dễ không. Bạn có để ý lắng nghe Chúa và nghe nhau không? Nói những điều tốt đẹp rất có ích lợi. Bạn đã có kinh nghiệm gì về điều này chưa?
Kinh nghiệm của Upanisad, tác giả Hoành Sơn Hoàng Sỹ Quý, ngài cho hay rằng từ rất sớm TN 23-B159
Kinh nghiệm của Upanisad, tác giả Hoành Sơn Hoàng Sỹ Quý, ngài cho hay rằng từ rất sớm các tác giả Upanisad đã đặt ra những câu hỏi “Tại sao?”:
“Đâu là nguyên nhân? Brahman ư? Từ đâu chúng ta sinh ra ? Chúng ta ở đâu và sống bằng gì ? Chúng ta là kẻ đương sống số phận của mình trong sướng vui và đau khổ, hỏi ai là địa vị cai quản chúng ta, hỡi kẻ biết Brahman?” (Trích Triết sử Ấn Độ, Hoành Sơn Hoàng Sĩ Quý). Những câu hỏi cơ bản để biết mình là ai và sống có ý nghĩa gì? Xin Chúa mở tai, mắt, tâm trí con để con được nhận ra chính Chúa trong cuộc đời con.
Ý nghĩa cuộc đời.
Nếu không mở mắt, mở tai ra để nhận biết thực tại căn bản của mình, con người sẽ sống mà như đang chết, vì không biết gì về ý nghĩa cuộc đời, chỉ sống vạ vật như loài thú hoang. Xa cách Chúa, con mãi mãi là hư vô: “Nếu số phận không để tôi gặp Người, trên cõi đời này, thì xin cho tôi luôn luôn cảm thấy thiếu vắng bóng Người – Đừng để tôi quên dù quên giây lát, mà xin để tôi gánh chịu buồn này day dứt trong những giấc mơ hay những giờ thao thức, Người ơi.” (Bài 79, Lời Dâng, R. Tagore)
Cuộc sống thiếu ý nghĩa nếu như bị xâm lấn làm cho con người không còn nhận ra thực tại mù, câm, điếc của mình. Một thực tại của đời sống tranh giành từng ngày, kiếm sống, con người bị rơi vào vòng xoáy vật chất, tìm kiếm cái ăn, cái ở, cái danh dự hão để ru ngủ mình.
Một thực tại đòi hỏi cần “biết mình?”, “The Self – Cái chính mình”, để sống và thực sự hiện hữu trên đời này có một ý nghĩa đặc biệt. Cả Đông Phương và Tây Phương đều quan tâm đến cái “biết” này, bằng con đường suy tư và con đường khoa học.
Cái “biết” ở chiều sâu quan trọng ở nhiều mặt trong cuộc sống, không chỉ ở trong quá khứ mà biết để còn dự phóng ở tương lai. Cái biết để biết người, biết ta. Cái biết quan trọng nhất vẫn là cái biết về chính mình. Làm sao biết được chính mình, biết mình là điều khó vì chính mình hay thay đổi, biết mình hay yếu đuối, vấp ngã, biết mình đầy cản trở để tiến bước vào nội tâm sâu lắng… Thánh Augustine trong cuốn Soliloques (Tự thoại), ngài đã cầu xin với “Thiên Chúa không hề đổi thay, xin cho con biết con và xin cho con biết Chúa. Ðó là tất cả điều con nài xin”.
Chúa đã biết con.
Thánh vịnh 139 nói lên tâm tình: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết.” (Tv 139, 1 -4). Chúa biết con và Chúa luôn đi tìm con như đã từng đi tìm con chiên mất. Chúa tìm con vì Chúa đã không muốn để con hư mất trong sự ngây dại của con.
Chúa tìm con, để mở lại cho con đôi mắt, mở tai để con nghe tiếng Chúa, mở miệng con để con đáp lại tiếng Người gọi. Chúa đã yêu thương và yêu thương đến nỗi con không thể chạy trốn Người. Kinh nghiệm của Thánh Augustine trong tự thuật của ngài: “Tôi đã đi đến chỗ không thể quay trở lại. Lời Chúa đã đi vào nội tâm linh hồn tôi. Tôi cảm thấy Chúa đang bao bọc tôi tôi không còn con đường nào trốn chạy được nữa. Tôi không còn hồ nghi sự sống đời đời của Chúa, cũng như liên hệ giữa một hữu thể vật chất và linh thiêng. Tôi đã trở lại tù trong lòng tôi. Tôi không còn tìm ra chứng cớ nào chống lại chân lý”.
Cũng như xưa, Adam và Eva sau khi phạm tội đã chạy trốn Chúa có được đâu? Chúa đi tìm và Chúa gọi tên, Chúa biết tất cả về con, con không thể chạy trốn Chúa. Chúa tìm con để cứu vớt con trong tình thương của Người và chính vì thế, con luôn bị Người quyến rũ như tâm sự của Giêrêmia: “ Lạy Chúa, Ngài đã quyến rũ con,và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20, 7).
Chúa tìm con, đó là để con thuộc về Chúa. Chúa mở đôi mắt mù lòa của con, Chúa mở tai và miệng con. Và con nhận ra Chúa yêu thương con, con tạ ơn Chúa và xin Chúa luôn chiếm lấy con để con không thể xa Người nữa.
Khi đọc Tin Mừng thánh Marcô chúng ta thấy đôi lần ngài dùng từ hoặc cụm từ trong chính gốc TN 23-B160
Khi đọc Tin Mừng thánh Marcô chúng ta thấy đôi lần ngài dùng từ hoặc cụm từ trong chính gốc của tiếng Aramêô. Ví dụ, “Talitha Kumi,” hoặc “Ephphatha!” trong Tin Mừng hôm nay. Một học giả giải nghĩa rằng thánh Marcô dùng từ “Ephphatha” trong chính tiếng gốc của nó vì dân thời đó tin là tất cả “những từ chữa lành” có sức mạnh và hiệu nghiệm hơn nếu để chính nguồn gốc của chúng.
Quả thật, “Ephphatha – Hãy Mở Ra!,” chỉ câu nói đơn giản này mà Chúa Giêsu đã mở tai và tháo gỡ lưỡi của người câm-điếc và lập tức anh ta nghe và nói được. Tôi tin là phần đông chúng ta không điếc đến độ cần đến phép lạ để có thể nghe những âm thanh trong cuộc sống hằng ngày.
Nhưng, hôm nay người câm được giải phóng khỏi những khuyết tật thể lý không chỉ để nghe giọng nói bình thường của Chúa Giêsu, nhưng cũng để nghe cách sâu xa tinh thần và sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo. Chúng ta có thể nói những lời anh nghe từ Chúa Giêsu bắt đầu thấm nhuần vào tim và toàn cơ thể của anh ta.
Có lẽ đây là phép lạ mà mỗi người chúng ta cần, một phép lạ để nghe Tin Mừng với đôi tai rộng mở, với trái tim và tinh thần mới. Chúng ta đã nghe Lời Chúa và nhiều bài giảng, do đó, nhiều lúc ta trở nên dửng dưng và với thái độ, “mặc kệ.” Với thái độ này chúng ta từ từ trở nên điếc hoàn toàn với Tin Mừng và những suy niệm về Tin Mừng. Hoặc chúng ta trở nên điếc “chọn lựa,” nghĩa là chỉ nghe những điều chúng ta muốn nghe và chỉ nghe những người chúng ta muốn nghe; những lúc khác chúng ta trở nên điếc. Có thể chúng ta trở nên điếc với Tin Mừng vì cảm thấy Lời Chúa khó hiểu và không thích hợp với cuộc sống thực tế hoặc nếu chúng ta nghe thì phải áp dụng vào cuộc sống, và nếu sống thì phải hy sinh và bỏ mình… Vì thế, chúng ta thà điếc hơn nghe.
“Ephphatha – Hãy Mở Ra!” Đây là phép lạ mỗi người chúng ta cần – để có thể nghe và cảm nhận được sức mạnh của Tin Mừng; để nghe Lời Chúa và đón nhận những suy niệm về Lời Chúa cách sốt sắng và với thái độ không thành kiến; và mỗi lần chúng ta nghe Lời Chúa, chúng ta đón nhận với tinh thần như nghe lần đầu tiên như anh câm-điếc trong Tin Mừng hôm nay. Phép lạ này sẽ giúp mỗi người chúng ta đón nhận Tin Mừng với tinh thần và thái độ mới và sống cách thực tế trong đời sống thường nhật.
Người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thiếu khả năng thể lý để nghe. Nhưng nhiều người trong chúng ta thiếu khả năng tinh thần để nghe. Chúng ta mang chứng bệnh điếc tinh thần. Nỗi phiền toái của việc không lắng nghe người khác, hay nói cách khác, sự phiền toái của việc lắng nghe người khác cách thể lý, nhưng không hiểu thấu những gì họ đang nói; đây là một cơn bệnh của nhiều người trong Giáo Hội. Vì chúng ta có thể nghe một người, nhưng không thực sự nghe những gì họ nói.
Lắng nghe là một kỹ năng có thể đạt được. Chúng ta có thể gây ảnh hưởng trên một người cách đặc biệt nếu chúng ta biết thinh lặng và lắng nghe. Vậy, làm thế nào chúng ta có thể trở nên những người lắng nghe tốt?
Marlee Matlin, một diễn viên đẹp đóng vai cô gái điếc trong phim “Children of a Lesser God.” Trong phim cô luôn liên lạc bằng sign language – ký hiệu cho dù vai chính nam biết cô có thể nói được. Trong một cảnh quan trọng gần cuối phim, cô nói trước mặt anh ta. Lời nói của từ từ hình thành đủ cho người khác hiểu, nhưng không rõ ràng. Cô ta không thể nói tốt vì cô không nghe được.
Đây cũng chính là tình trạng của anh thanh niên trong Tin Mừng thánh Marcô. Trước khi Chúa Giêsu tháo gỡ lưỡi của anh ta, thì Ngài phải mở đôi tai của anh ấy trước. Chỉ khi anh ta nghe được sứ điệp anh mới có dữ liệu để nói.
Với chúng ta cũng thế. Chúng ta không thể chia sẻ với tha nhân những gì chính chúng ta chưa tìm thấy. Chúng ta không thể dạy điều chúng ta chưa nghe. Chúng ta không thể truyền đạt chân lý cho tha nhân khi chúng ta chưa áp dụng trong cuộc sống của mình.
Xin Chúa Giêsu truyền lời “Ephphatha – Hãy Mở Ra!” với mỗi người chúng ta để mở, không chỉ đôi tai thể lý, nhưng cả đôi tai tâm hồn để chúng ta có thể sẵn sàng nghe Lời của Ngài với tâm hồn rộng mở và thái độ mới mỗi khi Lời Ngài được công bố. Xin Mẹ Maria, người luôn lắng nghe, đón nhận và suy niệm Lời Chúa trong lòng, giúp chúng ta sống sứ điệp Tin Mừng hôm nay, “Ephphata – Hãy Mở Ra!,” để chúng ta có thể nghe tiếng Chúa và lắng nghe được những nhu cầu của tha nhân.
Giữa miền thập tỉnh vùng xa, Giê-su thăm viếng, đi ra khắp miền. Một người câm điếc đến bên TN 23-B161
Giữa miền thập tỉnh vùng xa, Giê-su thăm viếng, đi ra khắp miền. Một người câm điếc đến bên, Xin Thầy cứu chữa, khấn thiên vái trời. Tách riêng người điếc một nơi, Đặt tay chữa khỏi, tai thời mở ra. Chúa bôi nước miếng ngợi ca, Mắt nhìn thượng giới, lạy Cha trên trời Eph-pha-ta sáng rạng ngời, Rõ ràng miệng lưỡi, nói lời tri ân. Chúa liền cấm họ xa gần, Đừng truyền tin đó, cận lân trong làng. Nhiều người thán phục bàng hoàng, Người làm mọi sự, tiếng vang khắp vùng. Chữa lành câm điếc điên khùng, Hồng ân giáng phúc, muôn trùng ngợi khen.
Chúa Giêsu đã hoàn thành những dấu chỉ về Đấng Kitô mà tiên tri Isaia đã loan báo. Với lòng thương xót, Chúa đã đến giải thoát con người khỏi ràng buộc của sự câm điếc. Người câm điếc bị thiệt thòi mọi sự. Họ bị đóng kín trước cửa ngõ của thiên nhiên và con người. Họ không nói được và cũng không nghe được. Họ bị cô lập trong thế giới của thinh lặng.
Bệnh câm điếc thể xác là một khuyết tật ngoài ý muốn nhưng bệnh câm điếc về tinh thần có thể là một sự lựa chọn của con người. Trong bài Phúc âm Chúa đã đặt tay và chữa cho người câm điếc. Chúa nói rằng: Epheta, hãy mở ra. Tức thì anh nói và nghe được. Thật sung sướng và hạnh phúc khi anh được nghe lời Chúa và tiếp cận với thế giới bên ngoài.
Chúng ta tạ ơn Chúa vì chúng ta nói được và nghe được. Tôi có gặp một linh mục sinh sống tại Cochabamba, Bolivia. Thường ngày, ngài đến dâng lễ cho các dì phước tại nhà Dòng. Ngài không bị câm hoàn toàn nhưng cất giọng đọc mãi không ra lời, rất khó để cảm thông và đối thoại. Vì thiếu linh mục, ngài vẫn đến dâng lễ hằng ngày. Ngài bị mất mát qúa nhiều nhưng Chúa bù lại cho ngài niềm vui phục vụ. Ngài rất hân hoan khi được dâng thánh lễ.
Chúng ta là những người rất may mắn. Chúng ta có miệng nói được và tai nghe được. Chúng ta nghe lời Chúa, rồi dùng miệng lưỡi để rao giảng, làm chứng và ca hát tôn vinh danh Chúa. Chúa mở miệng và tai cho người câm điếc, anh đã dâng lời ca ngợi và truyền rao chân lý phúc âm của Chúa cho mọi người.
Mỗi người chúng ta tự hỏi chúng ta đã làm gì với những giác quan hoàn hảo mà Chúa đã ban. Chúng ta có lắng nghe lời Chúa và những lời tốt lành thánh thiện hay chúng ta chỉ nghe những lời dèm pha, chỉ trích, nói hành và bày truyện xấu xa. Miệng lưỡi của chúng ta có rao giảng lời Chúa, có nói lời ngay thật hay dùng để nói lời gian ngoa, xảo trá, gây chia rẽ và phân tán.
Chung quanh chúng ta có cả triệu triệu người có tai thính nhưng họ không nghe vì không lắng tai nghe. Lắng nghe cần có sự chú ý, như lắng nghe những ưu tư của con cái, lắng nghe những nhu cầu của nhau trong đời sống gia đình hoặc những nhu cầu của tha nhân. Lắng nghe là một sự khôn ngoan. Lắng nghe cần sự tập trung như lắng nghe lời Chúa.
Lạy Chúa, xin mở miệng con để con dâng lời cảm tạ và ngợi khen danh Chúa. Xin mở tai con để con biết lắng nghe lời yêu thương của Chúa. Cho con biết lắng nghe và đáp ứng những nhu cầu cần thiếu của anh em chung quanh của chúng con.
Trên một tờ báo ở thành phố Cincinnati, tiểu bang Ohio, có câu chuyện như sau. Tại một tiệm TN 23-B162
Trên một tờ báo ở thành phố Cincinnati, tiểu bang Ohio, có câu chuyện như sau. Tại một tiệm ăn rất nổi tiếng và đông khách, thường phải đợi một lúc lâu mới có bàn trống. Khi khách hàng vừa được dẫn vào bàn ăn, thì chú em lau bàn khoảng 14, hay 15 tuổi liền đến lau dọn những mảnh đồ ăn do những người khách trước làm rơi rớt xuống bàn. Khách hàng thường chào “Hello!” và cám ơn, nhưng chú em cứ cắm cúi lau dọn mà chẳng trả lời. Tiếp sau đó, cô hầu bàn đến lấy “order” và nói với khách hàng: “Xin lỗi Quý Vị! Chú em lau bàn này bị điếc và câm, chứ không phải em bất lịch sự đâu!” Chú em lau bàn cứ lẳng lặng đi làm việc từ bàn này qua bàn khác. Cô hầu bàn cũng đi theo vừa giải thích vừa lấy “order” của khách hàng.
Hình ảnh của hai người trong câu chuyện, một người cắm cúi làm việc, một người tươi cười duyên dáng đi giải thích, gây một ấn tượng mạnh mẽ. Chúng ta tự hỏi phải chăng hình ảnh của hai người này là biểu tượng của Vương Quốc Thiên Chúa?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 7:31-37, trên đường đi truyền giáo từ các vùng Tia Siđon và miền Thập Tỉnh, Chúa Giêsu chữa một người dân ngoại vừa điếc vừa câm. Ngài đã dùng những dấu hiệu để chữa lành: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh” (Mc 7:33). Rồi Người ngước mắt lên trời, và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là “Hãy mở ra!” Tức khắc, anh ta bắt đầu nghe và nói được, rồi đi loan báo Tin Mừng cho mọi người biết.
Theo linh mục Eugene LaVerdière những chi tiết của câu chuyện đã bắt nguồn từ việc mục vụ của Chúa Giêsu, và phản ảnh lại qua những hình thức thực hành Bí Tích Rửa Tội của các tín hữu thời sơ khai (Emmanuel, Jesus among the Gentiles, 1990; GLCG # 1504). Hơn nữa, cha LaVerdière còn nhấn mạnh câu chuyện đã được kết hợp với việc Chúa Giêsu thành lập nhóm Mười Hai Tông Đồ (Mc 6:7-13) để sai các ông đi rao giảng, xức dầu và chữa dân chúng khỏi bệnh. Tất cả những biểu tượng này là sự thực hành có tính cách Bí Tích của các tín hữu lúc ban đầu. Như Sách Giáo Lý Công Giáo đã nói: “Trong khi giảng dạy, Chúa Giêsu thường sử dụng những dấu hiệu của vũ trụ vạn vật để giúp người ta hiểu biết những mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa” (# 1151).
Phúc Âm hôm nay không quan tâm đến sự câm điếc thể lý của anh, nhưng nhấn mạnh đến sự câm điếc tinh thần. Thực vậy, bằng cách này hay cách khác, chúng ta cũng “điếc” trong việc lắng nghe tiếng Chúa nói với ta, và “câm miệng” trước việc rao giảng và làm chứng tá cho tình yêu Thiên Chúa. Phải thành thật thú nhận rằng nhiều khi chúng ta chưa nói lên đầy đủ sự thật của Tin Mừng. Chúng ta mới chỉ công bố một phần nào của Tin Mừng theo khía cạnh rất chủ quan của mình, theo thiên kiến hay ích lợi cá nhân. Vì thiếu sót trong việc lắng nghe tiếng Chúa nên chúng ta cũng khiếm khuyết trong việc rao giảng Tin Mừng cứu độ, và đặc biệt là sống điều đã rao giảng. Để sống điều được rao giảng, chúng ta cần sự giúp đỡ của nhiều người khác, nhất là tiếng nói của Giáo Hội.
Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa và việc loan báo Tin Mừng đến với tất cả mọi người, không phân biệt quốc gia, chủng tộc hay nam nữ. Mọi người được mời gọi tham gia vào Vương Quốc Thiên Chúa, một Vương Quốc của yêu thương, một trời mới và đất mới mà chúng ta hy vọng (Kh 21:1).
Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều văn sĩ nổi tiếng đã mô tả một viễn tượng về một thế giới hoàn hảo nơi mà mọi người đều yêu thương hòa hợp với nhau và với Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói về việc sư tử nằm chung với chiên bò (Is 11: 6-9), giống như cảnh trong thơ Bùi Giáng diễn tả: “Hùm thiêng ba cặp từ bi, mười hai con mắt nhu mì mở ra.” Thánh Augustinô đã Kitô giáo hóa thế giới trong cuốn sách có tựa đề là “Thành Phố Của Thiên Chúa – The City of God.” Thánh Thomas More bàn về một nơi lý tưởng, với một hệ thống xã hội và chính trị hoàn hảo, gọi là Utopia, nhưng đã bị coi là không tưởng.
Thế nhưng, vào giữa thế kỷ thứ 20, do ảnh hưởng của những chế độ độc tài cũng như chiến tranh đã bóp méo đi những hình ảnh lý tưởng của dân chúng, một loại tiểu thuyết mới ra đời gọi là chống không tưởng: Anti-Utopia. Những cuốn tiểu thuyết này trình bày một thế giới mà tất cả mọi sự đều đi sai lạc hết. Hai cuốn nổi tiếng nhất là cuốn “Brave New World” của Adolph Huxley, và cuốn “1984” của George Orwell.
Cuốn “Brave New World” trình bày một xã hội bị thống trị bởi á phiện, xì ke, ma túy và khoái lạc mà không ai có thể thoát khỏi bị chi phối. Vài năm sau đó, cuốn “1984” đã được xuất bản, trình bày một thế giới bị kiểm soát hoàn toàn bởi quân phiệt, loại trừ mọi tự do của con người. “Big Brother is watching you – Mắt nhân dân như mắt khóm” đang theo dõi bạn. Sự sợ hãi ám ảnh con người trong các chế độ độc tài, tân phát- xít và quân phiệt đã phá hủy mọi thứ tự do căn bản của con người.
Sau khi cuốn “1984” ra đời, Orwell đã gửi tặng cho Huxley, tác giả cuốn “Brave New World” cuốn sách của mình. Đọc xong cuốn “1984”, Huxley đã không đồng ý và trả lời lại với một câu nói nổi tiếng rằng: “Không phải là sức mạnh quyền lực phá hủy chúng ta, nhưng là khát vọng khoái lạc khôn cùng phá hủy chúng ta.” Những gì xảy ra ở hậu bán thế kỷ 20 đã chứng minh cho câu nói của Huxley. Dù là một thế giới, một quốc gia, một gia đình, hay một cá nhân, chúng ta đã bị phá hủy bởi cái khát vọng khôn cùng của con người trong việc tìm kiếm khoái lạc, thỏa mãn những nhu cầu, và lòng tham lam ích kỷ không đáy của mình.
Trong Thánh Kinh, tội tổ tông là tội ông Adong và bà Evà muốn tự mình đi tìm kiếm khoái lạc. Đây không phải là vấn đề của trái cấm, nhưng là vấn đề của Adong và Evà muốn tự thỏa mãn lấy khát vọng của mình, không cần Thiên Chúa nữa: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ trở nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3: 5). Khát vọng khôn cùng trong việc tìm kiếm khoái lạc đã làm cho con người trở nên ích kỷ. Sự ích kỷ làm chúng ta quên mất tình yêu Thiên Chúa và sự yêu mến tha nhân (Pl 2:3-4).
Tại một buổi tiệc chúc mừng Tiger Woods đoạt giải vô địch môn golf, chàng ca sĩ mù Stevie Wonder khoe với Tiger Woods rằng anh cũng là một tay đánh golf siêu hạng. Tiger bán tín bán nghi rằng làm sao một chàng ca sĩ mù lại có thể đánh golf được, nhưng anh cũng tỏ ra rất lịch sự trò chuyện cho vui. Chàng ca sĩ mù mới giải thích thêm: “Khi tôi bắt đầu chơi, “tee off”, tôi sẽ bảo một anh chàng đứng ở trên vùng cỏ xanh – “the green” gần lỗ, gọi tôi thật to. Tai tôi rất thính, tôi có thể điều khiển quả banh đi vào lỗ.” Tiger Woods cảm thấy thích thú với cách chơi golf của chàng ca sĩ mù. Thấy thế Stevie Wonder đề nghị chơi thử một vòng 18 lỗ với Tiger Woods. Khi Tiger Woods đồng ý chơi, chàng ca sĩ mù bèn thách thức: “Chơi đánh độ 100 ngàn đô la một ván?” Tiger Woods bèn lưỡng lự từ chối rằng anh không muốn chơi vì tiền, nhưng anh chàng ca sĩ mù lại cứ làm tới nài nỉ, đòi chơi đánh độ tới nỗi Tiger Woods phải nể nang và nói: “Được rồi, khi nào anh muốn chơi?” Chàng ca sĩ mù Stevie bèn cười xòa và nói: “Tôi sẽ chơi vào bất cứ đêm tối nào anh chọn lựa!”
Chàng ca sĩ mù đánh golf cần đến một người nào đó gọi thật lớn để anh biết đâu là đích điểm điều khiển trái banh vào lỗ. Cũng giống như thế, để cuộc sống luôn hướng về tình yêu Thiên Chúa và lòng yêu thương tha nhân, chúng ta cũng cần đến một người nào đó giúp đỡ, chúng ta không thể làm một mình! Nếu chúng ta muốn đôi tai và tâm trí mở ra, chúng ta phải làm việc chung với nhau, vì Thiên Chúa hoạt động qua những người xung quanh chúng ta (Cv 2:44).
Câu chuyện được kể về Thánh Phanxicô Assisi và những thầy dòng của ngài đi xuống làng để rao giảng Tin Mừng của Lời Chúa. Khi tới làng, họ đã nhanh chóng hòa đồng với dân làng trong những câu chuyện của cuộc sống và dành thời giờ để giúp đỡ họ trong công tác lao động. Các ngài đã đi vào cuộc sống của dân làng. Sau cùng, khi mặt trời sắp lặn, thánh Phanxicô nói với các thầy chuẩn bị trở về tu viện. Khi họ sắp sửa lên đường ra về, có một thầy thắc mắc hỏi: “Chúng ta đến đây chẳng phải để rao giảng Tin Mừng cho dân chúng sao? Khi nào chúng ta sẽ làm điều đó?” Thánh Phanxicô quay sang người anh em tu sĩ của mình và nói: “Nếu dân chúng làng này đã chưa nghe được Tin Mừng ngày hôm nay, thì việc rao giảng Thánh Kinh sẽ không giúp gì khác cho họ được!” Mọi người bèn lên đường quay trở về tu viện.
Tin Mừng được rao giảng bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của Thánh Phanxicô và các tu sĩ của ngài, không phải bằng lời nói mà bằng cuộc sống, không phải bằng trí não mà bằng con tim. Cái thế giới đại đồng hòa bình và yêu thương Thánh Phanxicô đề xướng ra vẫn là hình ảnh lý tưởng cho chúng ta mơ ước. Sự an bình ngay trong nội tâm của một người lan tỏa tới tha nhân, đến với thiên nhiên, và với Thiên Chúa. Đó chính là “Vương Quốc Thiên Chúa đã đến gần” mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (Mc 1: 15).
Vương Quốc Thiên Chúa giống như chú em câm điếc siêng năng lau bàn và cô hầu bàn lịch sự cùng làm việc chung với nhau. Không ai có thể nghe được tiếng Chúa hoàn toàn. Không ai có thể nói lên được tình yêu Thiên Chúa một cách hoàn hảo. Chúng ta cần đến nhau, cùng nhau lắng nghe, cùng nhau nói lên tình yêu Thiên Chúa, và cùng nhau phục vụ Thiên Chúa (Cv 6:2-4). Đó là phương cách xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa ngay từ bây giờ và trên trần gian này.
Nghe và nói là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao TN 23-B163
Nghe và nói là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp hằng ngày. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ. Vì vậy nghe được và nói được là hồng ân rất lớn Chúa ban cho con người. Chúng ta phải sử dụng hai khả năng ấy cho phù hợp với thánh ý Chúa.
Thường thường những người mới sinh ra đã bị câm thì cũng bị điếc. Người bị câm và điếc thiệt thòi rất nhiều và mất nhiều hạnh phúc trong cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó.
Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Vì thế mới có lời kinh của người điếc: “Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William Barclay).
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bầy hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm. Không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy. Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội; họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn.
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi nước bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: ”Epphata”: Hãy mở ra! (Mk 7:33-34).
Về cử chỉ xỏ ngón tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ ngón tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh mong đợi.
Phép lạ không chú trọng chữa lành thể chất của anh chàng vừa câm vừa điếc. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Chúa, và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.
Khi chữa bệnh cho người câm điếc, Đức Giêsu nhằm đem lại cho người ấy khả năng nghe và nói được; nhưng Ngài còn muốn đi xa hơn, nghĩa là chữa bệnh câm điếc tinh thần hay thiêng liêng của con người. Câm và điếc thể chất thì ai cũng biết, còn bệnh câm điếc thiêng liêng thì chỉ có Chúa biết, và đôi khi đương sự cũng biết. Chúng ta cần bàn tới bệnh câm điếc thiêng liêng mà ai trong chúng ta cũng mắc phải không nhiều thì ít.
Nhiều người rất thính tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần hay tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan tới danh vọng, tiền tài, sắc dục… nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hoạt bát về đủ mọi đề tài… nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên lời hay lẽ phải, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
Đức Giêsu làm phép lạ này như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: ”Epphata” nghĩa là hãy mở ra tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được, cũng là bài học cho các môn đệ và chúng ta. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận, vừa thông truyền Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như lời tiên tri Isaia từng nói: ”Đức Chúa đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh” (Is 50,4).
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Đức Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau; nước Đức được thống nhất; thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 175).
Chúa ban cho người câm điếc có thể nghe được và nói được để anh có thể dùng hai khả năng ấy để chia sẻ với mọi người. Đây là hai ân ban của Chúa. Chúng ta cũng phải dùng ân ban ấy cho đúng; bởi vì trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có cái lưỡi tốt nhưng không biết nói những lời đáng nói. Cho nên chúng ta cần phải được Chúa chữa trị để biết chia sẻ cho nhau.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta lại cố tình tạo ra sự câm điếc khi chúng ta không bao giờ biết đến anh em, chỉ biết sống ích kỷ, chú tâm vào bản thân mình, không để ý đến ai. Do đó, chúng ta trở nên cố chấp trước những lời khuyên bảo của người khác để làm những điều xằng bậy mà không biết hổ thẹn.
Chúa cũng ban cho chúng ta cái lưỡi tốt để nói năng; chúng ta cũng phải biết dùng nó để chia sẻ với nhau vì lời nói là phương tiện chia sẻ với nhau hữu hiệu, có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Dùng lưỡi mà chia sẻ với nhau là một điều tốt, nhưng phải chia sẻ với nhau một cách thành thực chứ không dối trá; bởi vì người ta nói: ”Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, (Tục ngữ) có nghĩa là lưỡi không có xương nên uốn lắt léo thế nào cũng được. Nghĩa bóng của câu này thường được dùng để chỉ người ăn nói trước sau bất nhất, lúc thế này, lúc thế khác.
Ngoài ra, những người ác độc có những lời lẽ rất ngon lành, tốt đẹp nhưng lại hàm ý nghĩa xấu trong đó. Vì thế người ta nói: ”Lưỡi mềm độc quá đuôi ong” (Tục ngữ), có nghĩa là lưỡi mềm là lưỡi không cứng rắn như đá, không sắc nhọn như dao; lưỡi không có gì đáng sợ vì không làm đau đớn thương tổn được người ta. Ấy vậy mà lưỡi độc quá đuôi ong, châm vào thịt đau buốt và sưng vù lên. Lưỡi nói xấu ai thì người ấy mất bạn bè, mất danh giá; lưỡi vu khống ai thì người ấy bị tù tội, mất cơ nghiệp, có thể mất cả tính mạng (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 152).
Khi Đức Giêsu chữa anh điếc, Ngài khêu gợi đức tin nơi anh. Chắc chắn là anh ta kém đức tin vì Đức Giêsu phải đem anh riêng ra làm những cử chỉ khêu gợi lên trong lòng anh đức tin cần thiết để ban ơn khỏi bệnh cho anh. Khi đức tin đã nhóm lên trong lòng, Ngài mới làm phép lạ cho anh khỏi bệnh. Điểm chúng ta muốn nói là sở dĩ anh kém đức tin vì anh điếc, không nghe được Lời Chúa. Ngày nay nhiều thanh thiếu niên kém đức tin hoặc đã mất đức tin vì anh điếc hay giả điếc, không nghe Lời Chúa.
Tin Mừng hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nói cụ thể hơn, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc là chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.
Hồi ấy, Giêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì về Thiên Chúa. Ngài say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, ngài nghe tiếng Chúa hỏi: “Giêrônimô, con là môn đệ của ai?” Ông thưa: “Con là môn đệ của Chúa.” Chúa đáp: “Không phải, con là môn đệ của Cicéron.” Từ đó, Giêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Belem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: ”Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu.” Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của Ngài đã được công đồng Triđentinô (thế kỷ 16) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Hội Thánh.
Lạy Chúa, xin chữa lành bệnh câm điếc của chúng con, phần xác hay phần thiêng liêng.
Chúng ta đang theo Đức Giêsu trên hành trình mục vụ của Ngài ở ngoài miền Galilê, với nhiều TN 23-B164
Chúng ta đang theo Đức Giêsu trên hành trình mục vụ của Ngài ở ngoài miền Galilê, với nhiều phép lạ chữa các tật bệnh và hoá bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8,1-10).
Hôm nay thánh sử Máccô trình thuật cảnh tượng Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa câm:
“Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh.Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói : Épphatha, nghiã là: hãy mở ra ! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” ( Mc 7,31-37).
1. Đức Giêsu đã kéo anh ta ra khỏi đám đông.
Kéo anh ra khỏi đám đông, Đức Giêsu muốn làm nổi bật lòng ưu ái, quan tâm của mình đối với người câm điếc, và cử chỉ này nói lên một điều quan trọng, đó là Ngài yêu anh đặc biệt và không khinh khi anh như bao người thời đó coi người bệnh tật là tội nhân bị Thiên Chúa trừng phạt, bỏ rơi. Chúng ta đừng quên mục đích chính của phép lạ Đức Giêsu làm là để mọi người tin vào Ngài. Nhưng tin vào Ngài là gì, nếu không phải là tin Thiên Chúa yêu thương con người và mỗi người là tình yêu của Thiên Chúa, là con ngươi trong mắt Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu chạm đến người câm điếc:
“Đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”, Đức Giêsu đã chạm vào thân phận yếu đuối, bệnh hoạn của người câm điếc. Con người Thiên Chúa đã không chỉ ở giữa loài người, nhưng còn gần gũi, sát cạnh để chạm được vào da thịt, sờ được vào nỗi đau, sẻ chia được tất cả những gì ở con người. Không có Thiên Chúa nào yêu con người, say đắm con người và hết mình, hết tình vì con người như Thiên Chúa trong Đức Giêsu, một Thiên Chúa ở giữa con người, sống với con người và chết như con người, cho con người được sống.
3. Đức Giêsu ngước mắt lên trời:
Đức Giêsu đã đến để làm theo ý Chúa Cha, nên trong bất cứ việc làm, hay quyết định nào, Ngài đều ngước mắt lên trời cầu xin sức mạnh của Thiên Chúa Cha. Đây mới chính là trung tâm, trọng điểm của phép lạ, khi Đức Giêsu cậy đến ơn sủng, kêu cầu sức mạnh từ Thiên Chúa và đặt hoạt động của Ngài cũng như những người được Ngài chữa lành, cứu sống trong tương quan với Thiên Chúa, Cha Ngài. Việc chữa bệnh, trừ qủy, cho sống lại của Ngài nhắm chung một mục đích là làm vinh danh Cha Ngài và để mọi người nhận ra Cha Ngài yêu thương họ như thế nào.
4. Đức Giêsu nói với người câm điếc : “Éphata – Hãy mở ra!”
“Hãy mở ra !” không chỉ là lệnh truyền mà còn là chương trình sống Đức Giêsu đề nghị cho người câm điếc được chữa lành. Khi truyền cho tai và lưỡi của thân xác anh mở ra, Đức Giêsu muốn tâm hồn anh cũng mở ra với Thiên Chúa, với mọi người.
Và qua người câm điếc hôm nay, Đức Giêsu nói với mỗi người chúng ta:
– Hãy mở ra tâm hồn ! Vì từ lâu ta tự khép kín trong cô độc, và một mình ngậm ngùi gặm nhấm tất cả khổ đau, như cách trả thù đời, trả thù người.
– Hãy mở ra cửa lòng ! Vì đủ thứ mặc cảm đã đóng chặt ta ở qúa khứ với gánh nặng vô song của những kỷ niệm buồn.
– Hãy mở ra trái tim ! Vì không biết từ bao giờ, ta đã không còn niềm vui đợi chờ được yêu, và hạnh phúc lên đường yêu thương người khác.
– Hãy mở ra mắt nhìn ! Vì quanh ta còn nhiều người cô đơn, bất hạnh hơn ta và đang cần ta nói với họ và lắng nghe họ nói. Từ lâu họ câm không nói, điếc không nghe, vì ta đã làm họ thất vọng, nên không còn muốn nói, muốn nghe .
– Hãy mở ra đôi tay! Vì tay không trao dâng, ban tặng sẽ bại liệt vì thiếu máu “tình người”
– Hãy mở ra với Lời Chúa ! Vì Lời Thiên Chúa đổi mới, ban sức sống, tự do và niềm hy vọng.
– Hãy mở ra với thế giới ! Vì trong thế giới và với thế giới, ta mới có thể yêu mến và phụng sự Thiên Chúa.
– Hãy mở ra với chính mình ! Vì mình cần được mở ra để Thánh Thần là Hơi Thở Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa tràn ngập, chiếm lãnh.
– Hãy mở ra với lòng thương xót để được xót thương và học biết thương xót đồng loại.
5. Đức Giêsu đã truyền bảo không được kể chuyện đó với ai.
Tin Mừng Máccô ghi nhận bốn lần làm phép lạ, Đức Giêsu đã dặn không được kể lại với ai : chữa người bị phong hủi : Mc 1,44, cho con gái ông Gia – ia sống lại : Mc 5,43, chữa người mù ở Bétxaiđa : Mc 8,26, và chữa người vừa điếc vừa ngọng: Mc 7,36. Mục đích của lời căn dặn này là để người ta không ảo tưởng về một Đấng Cứu Thế với uy lực chính trị, vì bối cảnh của Ítraen bị trị lúc bấy giờ. Nhưng điều Đức Giêsu muốn là mọi người đón nhận Tin Mừng bằng thay đổi đời sống để đi vào tương quan cha – con với Thiên Chúa và anh – em với mọi người, đồng thời nhận ra Đấng Cứu Thế qua dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, gần gũi mọi người, giầu lòng thương xót và đường lối cứu thế của Ngài là “từ bỏ mình, vác thập giá” (Mc 8,34).
*****
Như người câm không thể nói gì, vì họ điếc không bao giờ nghe thấy gì; như người điếc lớn lên và già đi trong một thế giới không tiếng nói, không âm thanh, chúng ta cũng có thể như họ, khi đến với Chúa trong tình trạng “không nghe không nói”, như người câm điếc, vì sự điếc lác của tâm hồn làm chúng ta câm và sợ hãi. Cũng vì điếc Lời Chúa, chúng ta sẽ không có ngôn từ của Chúa để nói với Ngài và nói về Ngài. Và đó là căn bệnh nan y, nguy hiểm của mọi thời, mọi nơi : không muốn nghe và không muốn nói với Thiên Chúa và về Thiên Chúa.
Xin Chúa thương tháo cởi chúng con khỏi mọi gông cùm, xiềng xích của Satan để tai chúng con mở ra lắng nghe Lời Chúa, và môi miệng chúng con mở ra kể mọi kỳ công do tay Chúa và ca ngợi Ngài.
Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu luôn quan tâm tới hết mọi hạng người, đặc biệt TN 23-B165
Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu luôn quan tâm tới hết mọi hạng người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người bệnh hoạn tật nguyền… Vì yêu thương họ, Ngài đã chữa lành cho họ, đem lại niềm vui và sự sống cho họ. Tin mừng hôm nay ghi lại biến cố Chúa chữa lành một người câm và điếc. Ngài ân cần tiếp đón anh ta: đặt tay trên anh, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, cầu nguyện cho anh ta và phán “Ephata” (hãy mở ra). Lập tức tai anh ta nghe được và anh nói được rõ ràng.
Nạn nhân là một người câm và điếc, một người mất khả năng tương giao với kẻ khác: người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được. Nghe và nói là khả năng rất quan trọng và là đặc ân của Thiên Chúa ban cho con người. Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ “câm và điếc” hoàn toàn bị tước đoạt hai khả năng truyền đạt này. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Đời của kẻ câm và điếc thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn, vì họ mất đi sự tương quan hiệp thông với người khác. Thật là đau buồn và đáng thương!
Buồn vui, thành công hay thất bại. hạnh phúc hay bất hạnh… đều do cái lưỡi và cái tai. Báo Tuổi Trẻ đăng bài xã luận về “cái lưỡi và cái tai” như sau:
– Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề. Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên chuyện tầy trời nếu có được hổ trợ của những “cái tai” không phân biệt tật xấu, thật giả của mấy ông “nhà báo nói láo ăn tiền”.
Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc chắn sẽ không thể vẽ vời để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:
– Hôm nay bác Hai nói thật là chí lý thậm phải!
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lớn rồi ôn tồn nói:
– Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?
Chúa Giêsu chữa lành cho anh câm và điếc để phục hồi hai khả năng thông truyền trong tương giao với người khác. Phép lành chữa lành này biểu lộ tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu chữa lành câm điếc về phần xác và cả về phần thiêng liêng.
Thực tế, chẳng ai muốn câm, chẳng ai muốn điếc cả. Chúa cho chúng ta 2 khă năng nói và nghe. Đó là 2 ân huệ lớn lao Chúa ban cho chúng ta. Tuy nhiên, nhận được 2 ơn ấy không hẳn chúng ta biết sử dụng 2 ơn ban ấy. Nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe điều hay lẽ phải, nhiều người có miệng lưỡi tốt nhưng không biết nói những điều tốt lành, những điều đáng nói. Cho nên cả chúng ta cũng cần được Chúa Giêsu chữa trị. Nghe được mọi chuyện, nhưng lại không nghe được lời Chúa thì cũng như điếc. Nói được đủ thứ chuyện nhưng không biết tuyên xưng lòng nhân lành của Chúa, không biết loan báo Tin mừng cho anh em… thì cũng kể như câm vậy.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết lắng nghe Chúa và anh em, biết nói lời Chúa và tấm lòng yêu mến.
Không tàn tật khiếm khuyết, chẳng bị chế nhạo là ngốc nghếch quê mùa, cuộc sống được như vậy TN 23-B166
Không tàn tật khiếm khuyết, chẳng bị chế nhạo là ngốc nghếch quê mùa, cuộc sống được như vậy có gọi là tạm ổn không ? Sở hữu một sức khoẻ tương đối, được yêu thương, được nhìn thấy con cháu khôn lớn ở hiện tại, có lẽ nhiều người hằng mơ ước như thế. Có những suy nghĩ tiêu cực cho rằng lòng tham của con người như thùng không đáy, được voi đòi tiên ; nhưng làm sao để ước mơ của mình không “viển vông”, đó là vấn đề phức tạp nơi cuộc sống này. Tiếng trống khai giảng năm học mới đang vang lên trên quê hương, cũng là lúc nhiều câu thành ngữ vẫn đánh động lòng người: học tốt, dạy tốt, học đi đôi với hành, học nữa, học mãi, vì lợi ích trăm năm trồng người.
“Người ta đem kẻ câm điếc đến bên Đức Giêsu và xin Ngài đặt tay chữa trị…”. Sự hỗ trợ của người thân, hoàn cảnh khổ đau của người câm điếc, tất cả đều diễn tả một nỗi niềm đợi chờ, Đức Giêsu không thăm khám, không thoả thuận điều gì, Ngài đã sử dụng tình yêu thương và lời quyền năng để mở miệng và thông lỗ tai cho anh ta. Đám đông hôm đó phấn khởi vì người thân của họ từ nay có thể nghe, nói, sẽ sinh hoạt với cộng đồng xã hội bình thường, họ vui và hạnh phúc vì được chứng kiến phép lạ rất đặc biệt. Trong khi Đức Giêsu hướng mọi người về tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa, nghĩa là không dừng lại ở việc nghe, nói, nhìn, một cách vu vơ bên ngoài, mà cần phải nói lên niềm tin yêu bằng việc làm cụ thể của mình.
Người xưa có câu: người hay than phiền, sẽ càng ngày càng có nhiều phiền não, vui vẻ, năng động, vẫn là chìa khoá mở ra một tương lai tươi sáng. Hẳn cha ông chúng ta chẳng vui vẻ gì khi đám con cháu cứ ù lỳ thụ động, đợi chờ dịp may như chờ sung rụng. Nếu đau khổ vì khiếm khuyết, túng thiếu vì đói nghèo, liền đó là được quyền phép Đức Giêsu can thiệp tức khắc, như thế cuộc sống này làm gì có cơ hội vượt qua thập giá để đến vinh quang. Đức Giêsu đáp ứng nhu cầu được nghe, được nói, được nhìn xem, cho người câm điếc, và số người thân của anh ta, chưa phải là trọng tâm của ơn cứu độ. Ngài ngăn cấm họ đừng loan truyền danh tiếng về một thầy thuốc tài giỏi, nhưng họ phải bày tỏ niềm tin yêu Một Thiên Chúa đang ở giữa nhân loại.
Kho tàng văn học Việt Nam có nói tới ngụ ngôn: “chuột sa hũ gạo”, ít nhiều cũng sát gần với câu truyện Tin mừng hôm nay. Có mấy chú chuột tung tăng chạy nhảy vô tình rơi trúng lu gạo, chúng vừa sợ vừa mừng, vì chúng chưa từng ở trong tình thế mà đồ ăn nhiều như thế. Mùi gạo thơm phức, chúng ăn rồi ngủ, ngủ rồi lại ăn, cứ an vui thụ hưởng cho tới khi không còn hạt gạo trong lu, mới giật mình hiểu rằng chúng không thể vượt ra khỏi lu gạo nữa ! Đối diện với đau khổ hay gặp được may mắn trong đời, mỗi người đều cần đến sự khôn ngoan để biết xử trí, để biết sống điều mình đang có như một cơ hội dẫn đưa đến thành công.
Người xưa có câu: cho tiền cho bạc, không bằng chỉ đàng đi buôn. Đức Giêsu không chỉ đặt tay chúc lành theo đề nghị của đám đông hôm xưa, Ngài giải thoát con người khỏi khổ đau đó là vì yêu, Ngài đưa kẻ câm điếc ra khỏi nơi ồn ào, và ngước lên trời cầu nguyện xin Thiên Chúa mở miệng lưỡi cho anh ta. Nhìn được, nghe được, nói được, hiểu được, chính là cơ hội, là ơn ban, nếu người ta biết sống niềm tin yêu chân thật họ vừa lãnh nhận. Gặp Đức Giêsu, kêu cầu Đức Giêsu, nhận được tình yêu thương của Đức Giêsu, đã gọi là quà tặng, là phép lạ, điều quan trọng và cần thiết hơn là chúng ta có hiểu có muốn sống thánh ý của Thiên Chúa không ?
Có ba thứ trên đời thoáng nghe, thiết tưởng sẽ hồ hởi lắm, nhưng thực tế chúng không thể bền vững được đó là: giấc mơ, tiền bạc và chức quyền. Có ba thứ mà Đức Giêsu ban tặng riêng cho người khiếm khuyết mà Tin mừng vừa công bố: mở tai, mở miệng lưỡi, mở tầm nhìn, nhưng xem ra đó mới chỉ là cơ hội giúp anh ta biết mở rộng tâm hồn cho tình yêu Chúa ngự trị mới có hạnh phúc thật. Chúng ta hôm nay có sức khoẻ, có nói với Chúa, nói về Chúa bằng một niềm tin, bằng một tình yêu, vốn thật là cao quý, nhưng Chúa sẽ vui hơn, khi ta có một tâm hồn sạch đẹp, bình an và thấm nhuần tình yêu Chúa.
Đức Giêsu đến trần gian vì yêu thương, Ngài thực thi sứ mạng cứu độ không phải chỉ bằng lý thuyết, bằng lời quyền năng, mà là bằng khổ đau thập giá và niềm vui sống lại. Đức Giêsu từng mở mắt người mù, phục sinh kẻ chết, Ngài tiếp tục mở tai mở miệng lưỡi kẻ câm điếc, Ngài còn chờ đợi sự tự do tin yêu của chúng ta hầu mở mắt tâm hồn giúp chúng ta vui hưởng gia nghiệp của Ngài. Nếu người ta biết nghèo đói, bệnh tật, câm điếc, mù loà…là khổ đau, mà chỉ tìm gặp Đức Giêsu xin cứu giúp chúc lành thì chưa ổn. Đức Giêsu đến trần gian giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết ; hãy khiêm tốn xin Ngài thêm đức tin, xin Ngài ban ơn biến đổi cõi lòng và giúp chúng ta sống thánh ý Chúa cách trọn vẹn hơn, đúng đẹp hơn. Amen.
Nhìn vào cuộc sống, con người và vũ trụ, người ta đã có thể nhận ra sự khôn ngoan kỳ diệu của TN 23-B167
Nhìn vào cuộc sống, con người và vũ trụ, người ta đã có thể nhận ra sự khôn ngoan kỳ diệu của Thiên Chúa. Nơi con người, Thiên Chúa dựng nên tất cả đều cân đối, đối xứng. Thiên Chúa dựng nên hai con mắt, hai lỗ tai, nhưng lại chỉ có một cái miệng. Có người nói rằng: “nếu Thiên Chúa dựng nên hai cái miệng chắc là cuộc sống chung sẽ nhức đầu lắm vì ai cũng nói gấp đôi; nếu có hai cái miệng thì tay làm không đủ để nuôi cái miệng, nó ăn sẽ sập nhà, lở núi”. Phải chăng khi dựng nên như thế, Thiên Chúa muốn mỗi người phải nhìn và nghe gấp hai lần so với cái miệng. Có lẽ đúng như vậy, con người cần có khả năng nghe nhiều hơn nói. Tuy nhiên trong thực tế, có nhiều người dù tai không bị điếc, nhưng họ đã mất khả năng nghe vì họ không muốn lắng nghe.
Trong tiếng Anh có hai từ khác nhau để chỉ về việc nghe đó là hearing và listening. Hearing là nghe: ta vẫn nghe thấy âm thanh, tiếng động xung quanh, nhưng những âm thanh ấy không đi vào não, không chạm đến tim. Ví dụ: ta có thể nghe tiếng xe đang chạy ngoài đường, song chúng ta không quan tâm. Trái lại, listening là lắng nghe tức là: nghe cách chăm chú, nghe có suy nghĩ và để cho lời chạm đến tâm trí và trái tim của mình. (hearing is through ears, but listening is through the mind)
Thiên Chúa đã thực hiện biết bao việc kỳ diệu để bảo vệ dân của Ngài. Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh và nhiều phép lạ để đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập. Phép lạ cho dân vượt qua Biển Đỏ khô chân là một phép lạ vô cùng lớn lao, người Do Thái vẫn còn nhắc lại cho con cháu mọi thế hệ. Tại núi Sinai, Thiên Chúa đã hiện ra ký kết giao ước với Israel qua Môsê, Ngài làm cho ngọn núi Sinai rung chuyển, khiến cho dân chúng khiếp sợ. Dân cam kết tuân theo giới răn và huấn lệnh của Thiên Chúa. Tuy nhiên, với thời gian, người Do thái đã đánh mất khả năng nghe – nhìn này. Họ nhìn mà không thấy, nghe mà không thấm. Nói đúng hơn, họ cố tình không muốn thấy và không muốn nghe những lời của Thiên Chúa.
Tiên tri Isaia trong đoạn sách hôm nay, khơi lên cho dân Do thái một niềm hy vọng trong lúc họ đang bị lưu đày bên Babylon. Israel đã chóng quên các phép lạ Chúa đã thực hiện trong quá khứ, đã bỏ qua những lời hứa và giới răn lề luật của Thiên Chúa. Họ buông mình theo lối sống dễ dãi, buông thả của người Babylon. Vị tiên tri loan báo sẽ đến ngày Thiên Chúa mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc. Thiên Chúa sẽ cho người què đi được và mở miệng cho người câm có thể reo hò ca tụng Thiên Chúa. Đó là thời Thiên Chúa sẽ đem lại niềm vui ơn cứu độ cho những ai mở tai để lắng nghe Lời của Chúa và mở mắt mở lòng cho những ai tin nhận Chúa.
Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu là Đấng đã thực hiện lời tiên báo của Isaia năm xưa. Thánh Marcô thuật lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người vừa điếc vừa ngọng và xin Ngài chữa anh. Thánh Marcô muốn nhấn mạnh cho chúng ta một số chi tiết trong phép lạ này. Trước hết là đám đông dân chúng: Những người dân ngoại này chắc chắn đã nghe nói về Đức Giêsu, nay họ có dịp tận tai nghe, tận mắt được nhìn thấy Ngài, họ đã mở lòng để tin Ngài. Con mắt, lỗ tai và tâm hồn của họ đã mở. Vì thế họ đem người điếc và ngọng này đến để xin Chúa đặt tay chữa lành cho anh.
Chúa Giêsu đã thực hiện những việc hết sức đặc biệt trên người bệnh này. Trước hết, Ngài kéo riêng anh ra khỏi đám đông. Việc làm này cũng có nghĩa là Chúa đã muốn kéo riêng anh về phía Chúa để anh được ở gần Chúa hơn và để anh được thuộc về Chúa chứ không thuộc về đám đông dân ngoại nữa. Ngài đặt tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh: Việc làm này có vẻ giống các thầy lang thời đó, nhưng sâu xa hơn, việc làm này cho thấy Chúa Giêsu đã thực sự đụng chạm không chỉ đến tai, đến miệng của anh, mà Chúa còn đụng chạm đến con người, trái tim và tâm hồn của anh nữa. Từ đây, Chúa không chỉ chữa anh khỏi câm, ngọng, mà Chúa mở tai, mở mắt tâm hồn để anh có thể nhận ra Ngài là Thiên Chúa quyền năng và có thể lắng nghe Lời của Chúa. Được Chúa chạm đến tâm hồn và cuộc đời, chắc chắn sẽ có một sự biến đổi lớn lao. Không dừng lại ở việc làm, Chúa Giêsu còn ngước mắt lên trời để cầu nguyện cho anh và đồng thời Ngài thực hiện một phép lạ lớn trong cuộc đời của anh đó là mở toang tất cả những gì còn bị đóng kín, chôn chặt trong cuộc đời anh qua một mệnh lệnh: “Epphata – Hãy mở ra”. Thánh Marcô diễn tả: “lập tức, tai anh ta mở ra, lưỡi hết bị trói buộc. Anh ta nói được rõ ràng”.
Qua phép lạ này, Chúa Giêsu không chỉ mở tai, mở miệng cho người bị câm điếc, nhưng Ngài còn mở lòng, mở trí cho đám đông dân chúng. Tin Mừng ghi lại: việc này xảy ra tại miền Tirô và Siđon tức là vùng của những dân ngoại. Khi Đức Giêsu chữa lành cho người câm điếc, Ngài căn dặn anh và dân chúng chung quanh đừng nói với ai. Nhưng càng cấm thì dân chúng càng loan truyền rộng rãi, khiến cho mọi người đều ngạc nhiên thán phục mà rằng: Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp. Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được. Trước các việc tốt lành Đức Giêsu đã thực hiện, những người dân ngoại này đã được mở mắt để tin Ngài là một Vị Ngôn Sứ. Họ đã mở tai đón nhận lời giáo huấn của Chúa Giêsu và cũng là Lời Quyền Năng có thể biến đổi hoàn toàn con người, xua trừ mọi bệnh tật, vốn được coi như hậu quả của ma quỷ và tội lỗi. Họ mở miệng để ca ngợi Chúa Giêsu: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp”.
Thưa quý OBACE, có thể chúng ta cũng giống như người Do Thái, dù không bị điếc, mù hay câm, nhưng chúng ta đã đánh mất khả năng nghe – nhìn và nói về Thiên Chúa. Chúng ta mất khả năng nghe vì chúng ta đã cố tình không muốn nghe và không chăm chú lắng nghe. Vì thế Lời dạy bảo của Chúa không thể lọt vào tim vào trí chúng ta được. Chúng ta đang sống trong môi trường có quá nhiều âm thanh ồn ào, khiến chúng ta giảm khả năng nghe Lời của Thiên Chúa. Những tiếng ồn này không chỉ là những tiếng ồn của âm thanh chung quanh, mà có cả sự ồn ào trong tâm hồn. Nhiều người đang để trong mình sự ồn ào gào thét của dục vọng, âm thanh của sự gian dối và cả những lời lôi kéo của sự lười biếng vv… khiến chúng ta không nghe được Lời Chúa. Ngoài ra còn có các thứ âm thanh khác trong tâm hồn cản trở khả năng nghe của chúng ta, như âm thanh của tiền bạc, danh vọng và các thú vui. Các thứ âm thanh đó khiến cho lòng chúng ta bị khô cứng, tâm hồn bị đóng băng, khiến cho Lời của Chúa và Tin Mừng không thấm vào tim vào hồn chúng ta được.
Trong cuộc sống cộng đoàn và cuộc sống gia đình, nhiều người cũng đánh mất khả năng lắng nghe nhau bởi vì họ nói nhiều hơn nghe, đổ lỗi cho người khác nhiều hơn nhận trách nhiệm về mình. Vì thế cuộc sống chung của cộng đoàn và gia đình thường xuyên bị căng thẳng cãi vã, đưa đến đổ vỡ. Nhiều người mất khả năng lắng nghe là vì họ để trong mình sự kiêu căng, tự mãn khiến cho tâm hồn không thể tĩnh lặng để có thể lắng nghe nhau và xét lại những hành vi của mình.
Nguy hiểm hơn nữa đó là tình trạng câm điếc trong tâm hồn đang xảy ra nơi chúng ta, khiến ta không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, không nhìn thấy những việc Chúa đang thực hiện cho mình và gia đình; cố tình không muốn nghe Lời Chúa nhắc bảo qua tiếng nói lương tâm, qua luật Chúa và Giáo Hội. Có nhiều người bị điếc khi làm ngơ trước lời kêu cứu của anh chị em đang gặp khổ đau. Có người bị câm vì sợ hãi không dám nói lên sự thật và không dám bênh vực cho sự thật. Có nhiều người vì quyền lợi, địa vị hoặc vì một thứ bổng lộc nào đó của xã hội, mà chấp nhận biến mình thành kẻ điếc, thành người câm hoặc mù lòa.
Muốn được chữa khỏi sự câm điếc trong tâm hồn, chúng ta cần phải có những bước đi của người câm điếc trong Tin Mừng hôm nay. Đó là: để cho Chúa kéo ra khỏi đám đông là những thói quen cũ, cùng những thói xấu và sự lười biếng để ở riêng một mình với Chúa trong cầu nguyện và gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Hãy để cho Lời Chúa đụng chạm đến đôi tai, môi miệng và con mắt tâm hồn, để Ngài tháo gỡ những gì cản trở, trói buộc ta và thanh tẩy môi miệng chúng ta.
Xin cho chúng ta luôn sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa và mở rộng tâm hồn để đón nhận giáo huấn của Chúa. Xin cho chúng ta không ngừng nhận ra quyền năng của Chúa và dùng môi miệng mình để ca tụng tôn vinh danh Chúa luôn mãi. Amen.
1) Theo kinh nghiệm dân gian, người ta có thể dùng nước bọt buổi sáng để chữa mụn hạt cơm bằng cách bôi liên tục nước bọt vào buổi sáng từ 5-10 ngày, hạt cơm sẽ tự teo và rụng đi mà không để lại dấu vết gì. Ngoài tác dụng chữa mụn nhọt sưng đau, bỏng da nông, người ta còn dùng nước bọt chữa muỗi đốt rất hiệu quả bằng cách dùng nước bọt bôi liên tục 30 phút 1 lần sẽ có tác dụng làm hết ngứa và sưng đau.
2) Còn theo nghiên cứu hiện đại, thì mỗi ngày mỗi người sẽ tiết ra khoảng 1.000-1.500ml nước bọt. Thứ dịch thể này có vai trò làm hàng rào diệt vi khuẩn và virut xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng bởi chất bacteriolysin có tác dụng phân giải và hòa tan các vi khuẩn và virut. Ngoài ra, nước bọt còn có tác dụng cầm máu, làm lành vết thương, tăng khả năng hấp thụ và tiêu hóa thức ăn.
Theo GS. Tây Đồng (Nhật Bản) thì nước bọt còn có chức năng ức chế các tế bào ung thư, bởi vậy, để đề phòng ung thư đường tiêu hóa, khi ăn phải nhai kỹ, nuốt chậm để nước bọt hòa lẫn vào trong thức ăn một cách đầy đủ.
Các nhà nghiên cứu Pháp đã phát hiện trong nước bọt của người có chất giảm đau mạnh hơn morphin nhiều lần[4].
Các nhà sinh học thuộc Viện Sức khỏe Hoa Kỳ thì xác định trong nước bọt người và động vật có chứa một loại protein giúp mau lành vết thương và chống nhiễm khuẩn, được đặt tên là SLPI. [5] Ở đây, Chúa Giêsu Ngài đã dùng nước miếng để mà bôi vào lưỡi, chữa bệnh câm : Một việc mà con người sau bao cố gắng tìm tòi, cho đến nay vẫn chưa làm được, thì Đức Kitô đã thực hiện một cách dễ dàng mau chóng như một trò chơi thích thú.
Quả thực, cách đây 20 thế kỷ, khi mà Chúa Giêsu dùng nước miếng để mà bôi vào lưỡi, chữa bệnh câm, thì đây chính là một phép lạ hiển nhiên, gây chấn động mạnh mẽ trong dân chúng. Đây không phải do tính chất của nước miếng mà là do quyền năng của Đức Giêsu đã phú bẩm cho nó và dùng nó như chất liệu chữa bệnh phần xác.
Có thể nói, phép lạ chữa người câm điếc trong bài Tin Mừng hôm nay cũng tượng trưng một việc vĩ đại hơn Chúa sẽ thực hiện, đó là làm cho người ta khỏi câm điếc phần linh hồn, biết mở tai mở miệng trí khôn để lắng nghe và ca tụng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Cha nhân lành, ca tụng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai xuống cứu độ loài người.
Nói tóm lại, kính thưa cộng đoàn phụng vụ. Trong thực tế đời sống, chúng ta có thể bắt gặp hoặc là chính mình rơi vào một trong năm trường hợp sau đây :
[1] nên chắc chắn họ sẽ không hiểu được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ dễ dẫn đến việc cho Ngài là một thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh.
[2] vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng, có thể gây nên bạo động ; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những cử chỉ tượng trưng của Ngài. Hơn nữa, việc Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín đáo và khiêm tốn.
[3] Cứ sự thường nước bọt có nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ quyền uy của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.
[4] được đặt tên là opiophin.
[5] Nghiên cứu hiện đại cũng cho thấy, trong nước bọt có nhiều IgA và các hormon có tác dụng thúc đẩy quá trình phân chia và sinh trưởng của tế bào, kéo dài tuổi thọ và làm giảm sự suy thoái của tổ chức cơ thể.
Phúc Âm tuần này thuật lại chuyện người thanh niên không nghe những điều xấu và không nói TN 23-B169
Phúc Âm tuần này thuật lại chuyện người thanh niên không nghe những điều xấu và không nói những lời tục tĩu. Anh ta không làm những điều đó, bởi vì anh không nghe được và không nói được. Anh vừa điếc vừa câm. Không nghe được tiếng báo động xảy ra quanh mình nên anh sống trong tình trạng thiếu đề phòng sự dữ xảy đến. Không nói được nên diễn tả bằng tay chân, bị giới hạn khi diễn tả tâm tư, tình cảm. Người ta có thể quen với thói hư, tật xấu nhưng nhịn nói, đói nghe rất khó quen. Anh sống cảnh cô đơn, buồn tủi, đau khổ, sợ hãi trong nhiều năm. May mắn thay, anh gặp Đức Kitô và đời anh thay đổi hoàn toàn, trở thành con người mới, cuộc đời mới, trong một thế giới vui tươi, chan hoà tình thương Đức Kitô ban cho anh.
Đức Kitô cứu anh bằng cách nào? Thứ nhất, Đức Kitô tách anh ra riêng một chỗ khỏi đám đông. Trước đây anh thuộc về đám đông hay bị đám đông che lấp nên ít ai để í đến anh. Tách anh ra khỏi đám đông anh trở thành nhân vật chính, người đặc biệt, mọi con mắt chú í đến anh. Khi chỉ còn anh với Ngài, Đức Kitô sờ vào tai anh và anh bắt đầu nghe rõ. Sau đó Đức Kitô sờ vào lưỡi anh và anh nói được rõ ràng. Đám đông chứng kiến việc Đức Kitô làm nhưng họ không thể nào nhận biết được những biến chuyển xảy ra trong anh, chỉ mình anh nhận biết những biến chuyển đó. Tương tự như kinh nghiệm người phụ nữ bị bệnh loạn huyết lâu năm, bà ước ao sờ vào gấu áo Đức Kitô và bà nhận biết có sức mạnh từ Ngài chữa bà khỏi bệnh Lc 8,40tt. Đám đông chỉ nhận biết trước đây anh không nghe được và không nói được bây giờ anh nghe điều tốt thiên hạ ca tụng Đức Kitô: ‘ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả c.37’. Có lẽ anh nghe được chính tiếng của anh ca tụng Đức Kitô. Khi sờ vào tai và lưỡi người câm điếc Đức Kitô không chỉ sờ vào thân thể anh mà chính là Ngài sờ vào con tim của anh, con tim của anh rung động theo tình cảm Ngài dành cho anh. Khi con tim rung động, toàn thể con người rung động, cảm nhận và đáp lại.
Đám đông coi thường hay lơ anh, Đức Kitô tách anh ra khỏi đám đông ngầm nói cho mọi người biết dù anh bệnh tật vẫn phải đối xử với anh như con người. Anh là con cái của Thiên Chúa và được Thiên Chúa mến thương như mọi người. Thứ hai, khi nói chuyện với công chúng Đức Kitô nói cho đám đông nhưng khi cứu người Đức Kitô cứu từng cá nhân và chính con tim người đó đáp trả ơn Đức Kitô ban. Đức Kitô làm nhiều động tác nhưng Ngài chỉ nói có một chữ và chữ đó là Epphatha có nghĩa là mở ra. Chữ Epphatha truyền cho tai anh mở ra, lưỡi anh mở ra và tim anh mở ra.
Tai anh mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng c.35
Có lẽ hành động sờ vào tai, vào lưỡi làm cho tim anh mở ra nhiều hơn là do lời phán: Epphatha. Anh sống trong hoàn cảnh đau khổ nhiều năm và thân nhân, thân hữu, đều bất lực, bó tay trước hoàn cảnh bi đát của anh. Đức Kitô là Đấng duy nhất có khả năng thay đổi hoàn cảnh tồi tệ của anh thành cảnh huy hoàng và Ngài làm điều đó cách nhẹ nhàng, đơn giản.
Gặp gỡ Đức Kitô đời anh biến đổi hoàn toàn, từ tối tăm sang ánh sáng, từ tuyệt vọng sang hy vọng, từ bị khinh bỉ sang được đón chào. Anh được ơn đó vì tim anh mở ra chân thành đón nhận ân sủng Chúa.
“Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng Vương Quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người sao?” (Gc 2,5)
Theo lời thánh Gia-cô-bê nói, thì Thiên Chúa chọn những người nghèo khó trước mặt người đời TN 23-B170
Theo lời thánh Gia-cô-bê nói, thì Thiên Chúa chọn những người nghèo khó trước mặt người đời để họ trở nên người giàu có về đức tin và thừa hưởng Vương Quốc Người đã hứa.
Người nghèo khó trước mặt người đời là người không có nhiều tiền, nhiều của, thiếu thốn, may ra chỉ đủ sống qua ngày. Chúa chọn người nghèo về tiền, để họ giàu về đức tin. Chúa chọn người nghèo về của, để họ giàu về lòng mến. Và cuối cùng là cho họ được thừa hưởng Vương Quốc, tức là Nước Trời mà Người đã hứa. Như thế, ta mới hiểu ý nghĩa sâu xa câu Đức Giê-su nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của các ngươi” (x.Lc 6,20).
Không phải cứ là người nghèo là có phúc và được lên thiên đàng. Không. Họ phải là người giàu có về đức tin và lòng mến cơ, mới thực sự là người có phúc và được lên thiên đàng.
Thực tế, trên thế giới này có người giàu và có người nghèo. Số người nghèo thì nhiều nhưng họ lại ít tiền, ít của. Số người giàu thì ít nhưng họ lại lắm tiền, nhiều của. “Người thì ăn không hết, kẻ thì lần không ra” đó mà. Ai cũng thích giàu và lo làm giàu, nhưng có bao nhiêu người giàu ? Có bao nhiêu người hạnh phúc trong cảnh giàu sang ? Ít lắm. Và có bao nhiêu người hạnh phúc trong cảnh nghèo khó ? Cũng không có nhiều.
Thế nhưng, người nghèo khó có lợi thế để hưởng hạnh phúc Nước Trời hơn người giàu có. Đức Giê-su đã nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (x. Lc 18,25). Tại sao ? Tại vì người nghèo, không có tiền, không có của dư dật bảo đảm, nên họ dễ cậy dựa vào Thiên Chúa; dễ tin vào Lời Chúa hơn. Còn người giàu, ỷ mình có tiền, có của, có thể bảo đảm cho cuộc sống, nên họ không cần dựa vào Chúa, không cần tin vào Chúa làm chi. Họ cho rằng có tiền là có tất cả.
Đúng vậy, có tiền là có tất cả, nhưng những thứ họ mua chỉ là những thứ ở đời này thôi, chứ Nước Trời họ không mua được. Ngay cả tình yêu ở đời này họ cũng không mua được bằng tiền nữa mà. Họ giàu, họ có nhiều tiền nhiều của; có thể có người yêu thương, nhưng sự yêu thương đó không dành cho họ, mà dành cho tiền, cho của. Nghĩa là người ta yêu thương, không phải yêu thương con người của họ mà người ta yêu tiền; người ta thương của của họ mà thôi. Thế thì có oách chi !!! Có hạnh phúc chi !!!!! Còn tiền, còn của, còn anh anh em em; hết tiền hết của thì bái bai.
Nếu người nghèo khó, đã nghèo lại còn ham tiền, ham của nữa, thì họ sẽ mất cả đời này lẫn đời sau. Đời này đã thiếu thốn, thiếu ăn, thiếu mặc mà đời sau cũng thiếu cả sự sống đời đời luôn. Vì họ đâu có làm giàu cho đức tin và lòng mến của mình đâu. Đâu phải cứ nghèo là có phúc đâu. Người nghèo chỉ có phúc khi giàu có về đức tin và giàu có về lòng mến. Làm sao để ta nên người giàu về đức tin và lòng mến đây?
Theo bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giê-su đã làm cho người vừa điếc vừa câm nghe được và nói được. Thì để ta giàu về đức tin, ta cũng phải nghe Lời Chúa; để giàu về lòng mến, ta cũng phải nói Lời Chúa.
Như ta đã biết, chỉ có Lời Chúa mới làm cho ta tin Chúa và làm cho đức tin của ta thêm mạnh mẽ mà thôi. Nói cách khác, Lời Chúa là thức ăn cho đức tin của ta. Ta càng nghe Lời Chúa bao nhiêu, thì đức tin của ta càng vững vàng, càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Ta cứ nghĩ, làm sao ta tin Chúa nếu ta không nghe Chúa nói ? Chúa nói cho ta biết về Chúa; Chúa nói cho ta biết cách sống sao để ta có hạnh phúc thật, để ta thừa hưởng Nước Trời; Chúa nói cho ta biết việc phải làm, cách đối xử với tha nhân; Chúa nói cho ta về hạnh phúc Nước Trời.
Ta thử hỏi, khi chết anh muốn đi về đâu ? Ai cũng muốn được vào thiên đàng. Thế nhưng làm cách nào để vào thiên đàng thì họ không bao giờ màng đến. Thế thì sao, sự muốn đó có thực tế và có thực hiện được không? Mơ thì vẫn cứ mơ, muốn thì vẫn cứ muốn, nhưng chẳng bao giờ thành hiện thực cả. Vì có nghe và thực hành Lời Chúa nói đâu mà. Bộ Nước Trời là của chùa, cứ chết là lên thẳng cẳng sao? Bộ cứ nghèo là có phúc, là được lên thiên đàng sao? Chúa nói ta nghe, ta tin và đem ra thực hành, chắc chắn ta sẽ sống an bình ở đời này dù ta không nhiều tiền, nhiều của và ta sẽ lãnh được Lời Chúa hứa ban Nước Trời cho ta.
Ta mà nghe Lời Chúa thì ta sẽ giàu về đức tin. Ta mà nói Lời Chúa thì ta sẽ giàu về lòng mến. Ta không chỉ nói bằng miệng, mà ta còn nói bằng việc làm hay bằng cuộc sống nữa. Quả thật, ta có nghe Lời Chúa thì mới có khả năng nói Lời Chúa. Lời nói đó của ta mới có giá trị.
Lời Chúa là lời chân thật, là lời yêu thương; là lời tha thứ, là lời tốt lành, thánh thiện. Khi ta nói những lời đó thì ta yêu thương người khác và ta được người khác yêu thương. Như thế có phải là ta giàu về lòng mến, giàu về lòng yêu thương không? Càng nói, càng sống những Lời đó bao nhiêu thì ta càng giàu về lòng mến, giàu về lòng yêu thương bấy nhiêu.
Có thể nói, những Lời được gieo vào lòng của ta đã mọc nên, đang lớn lên và sẽ sinh nhiều hoa trái tốt lành và thánh thiện. Chúng ta là những người chẳng giàu có gì ở thế gian này, ta hãy chấp nhận và vui mừng, vì điều đó sẽ giúp ta được nên giàu có về đức tin và lòng mến.
Ta hãy cố gắng nghe và nói Lời Chúa, để càng ngày ta càng giàu có về đức tin; càng giàu có về lòng mến, ta sẽ sống bình ở đời này và sẽ sống hạnh phúc trên Vương Quốc mà Chúa đã hứa. Đúng như Lời Đức Giê-su đã nói: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của các ngươi” (x.Lc 6,20) .
Bài đọc 1 hôm nay (CN XXIII/TN-B – Is 35, 4-7a) trình thuật lời ngôn sứ Isaia nói với dân It-ra-en TN 23-B171
Bài đọc 1 hôm nay (CN XXIII/TN-B – Is 35, 4-7a) trình thuật lời ngôn sứ Isaia nói với dân It-ra-en đang trong hoàn cảnh lưu đày. Đây là một lời hứa của Đức Chúa nói với Dân Người: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Vào những ngày ấy, “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” Những lời hứa hẹn ấy báo hiệu một kỷ nguyên mới sẽ đến, khiến tất cả những người có bệnh tật như cũng được hồi sinh và cả những chỗ đất khô khan cũng trở nên tươi tốt. Ơn cứu độ sẽ tái tạo và tái sinh con người cũng như vạn vật. Chính Tin Mừng của Chúa sẽ sửa chữa, cải tạo mọi cái hư hỏng trước đây cho nên hoàn thiện.
Cũng vì đây là lời hứa cho một tương lai sắp tới (“sắp tới ngày báo phục” – Is 35, 4), nên cần có thời gian để lời hứa được hiện thực hóa. Người thực hiện lời hứa đó chính là Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa, Người đã chữa lành cho nhiều người: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…” (Lc 7, 1-23). Nói cách cụ thể, những gì trong các công trình của Thiên Chúa dưới thời Cựu Ước, những “hình ảnh báo trước” điều Thiên Chúa sẽ hoàn thành trong thời viên mãn, sẽ hiện thực hóa nơi Ngôi Lời nhập thể (Tân Ước).
Để hiểu được những lời tiên báo cùng những sự kiện đó, Giáo lý HTCG (số 129) khuyên các Ki-tô hữu: “Vậy các Ki-tô hữu phải đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Đức Ki-tô chết và sống lại. Cách đọc tiên trưng này làm tỏ hiện nội dung vô tận của Cựu Ước… Đàng khác, Tân Ước đòi hỏi cũng phải được đọc dưới ánh sáng Cựu Ước. Việc huấn giáo của Hội Thánh thời sơ khai luôn làm như vậy ( x. 1Cr 5, 6-8; 10, 1-11). “Theo một ngạn ngữ cổ xưa, Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước “Novum in Vetere latet et in Novo Vetus patet” (Thánh Au-gus-ti-nô thất thư 2, 73; x.DV 16).”
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIII/TN-B – Mc 7, 31-37) là một minh họa cho việc hiện thực hóa Lời Hứa của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Thánh sử Mac-cô trình thuật phép lạ Đức Giê-su chữa cho một nguời bị điếc và ngọng. Người không chữa lành cho anh theo kiểu người thợ chữa một cái máy. Thái độ ân cần của Chúa “kéo riêng anh ra khỏi đám đông” và những cử chỉ chăm sóc tận tình, đụng chạm đến tai anh, xức nước miếng vào lưỡi anh, đã giúp anh tái lập mối tương quan với mọi người. Khi “tai được mở ra và lưỡi hết bị buộc lại” là lúc anh ta cũng được mở ra với thế giới và có khả năng cần thiết để nối kết tương giao với cộng đồng.
Đức Giê-su đã dùng những dấu hiệu chữa bệnh bề ngoài “đặt ngón tay vào tai anh, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh”, rồi Người “ngửa mặt lên trời” (tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa Cha) và nói “Hãy mở ra!”, thì “Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi hết bị buộc lại.” Cứ kể ra, với quyền năng Thiên Chúa, Đức Ki-tô chỉ cần phán một lời thì bệnh nhân sẽ khỏi, nhưng ở đây Người muốn cho mọi người thấy được tỏ tường phép lạ mà Người đã thực hiện, nên Người mới có những hành động như trên (một cách mạc khải mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa thông qua những cử chỉ và hành động mà người đời thường gặp trong cuộc sống trần thế). Căn bệnh điếc và ngọng về thể lý thì chỉ cần như thế là đủ; nhưng ở đây Đức Ki-tô còn muốn đi xa hơn, chữa căn bệnh ngọng và điếc về tâm linh của bệnh nhân cũng như của cả đám đông.
Nói đến vấn đề ngọng và điếc tâm linh cũng khá rắc rối và thường thì người mắc căn bệnh này lại không tự biết mình đang mắc bệnh. Căn bệnh này phổ biến ở hai chiều kích: siêu nhiên và xã hội. Với siêu nhiên thì gần như họ luôn nghễnh ngãng (nghe câu được câu chăng, tai lành tai điếc, chớ chưa đến nỗi điếc đặc), thờ ơ trước Lời chân lý và vì thế khi phải nói điều chân lý, họ trở nên ngọng nghịu lắp bắp nói chẳng nên lời. Với xã hội thì căn bệnh này càng phổ biến, đó là những kẻ theo một truyền thuyết mù quáng nào đó mà họ cho là lý tưởng (kiểu như đánh bom tự sát khủng bố giết hại đồng loại, sẽ được nên thánh “tử vì đạo”), hoặc những kẻ ăn trên ngồi trốc rất thính tai khi nghe đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị; nhưng lại “mũ ni che tai” để trở thành điếc đặc trước những thảm cảnh của con người như thiên tai (nạn nhân bão lụt, động đất, nghèo đói, bệnh tật), nhân họa (nạn nhân chiến tranh, khủng bố, áp bức, bóc lột…).
Đó chẳng phải ai khác hơn là những kẻ “xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (Mt 25, 42-43). Quả thực là vẫn còn quá nhiều bệnh nhân “đui mù câm điếc” tâm linh và thật sự cũng vẫn còn thiếu thật nhiều những môn đồ chân chính của Thầy Thuốc Chí Thánh Giê-su Ki-tô. Với những trường hợp bệnh nhân không được chữa khỏi, thế nhân thường hay đổ lỗi cho thầy thuốc. Gặp thầy dỏm thiếu tài hoặc thầy hay nhưng lại thiếu đức thì không nói làm gì, nhưng đến như gặp thầy có đủ tài đức mà họ vẫn không tin, ấy mới là điều đáng trách. Khổ một nỗi là đến ngay những người mắc căn bệnh trầm kha ấy cũng – vô tình hay cố ý – không nhận ra được chính mình đang mang bệnh nan y, cầu mong được Thầy Thuốc Chí Thánh chữa trị.
Họ đã quên mất một điều xem ra có vẻ nghịch lý nhưng lại là sự thật hiển nhiên: Người bệnh – nhất là những căn bệnh tâm linh – muốn được khỏi thì điều kiện tiên quyết không ở nơi người thầy thuốc, mà ở chính nơi bản thân mình và đó chính là lòng tin, là đức tin vậy. Người Thầy Thuốc Chí Thánh luôn luôn sẵn sàng đến với mọi người đau yếu bệnh tật, ăn thua là người bệnh có biết đáp trả mà chạy đến với Người hay không mà thôi. Vâng, “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” (Thánh Au-gus-ti-nô), bệnh nhân tâm linh phải cộng tác bằng đức tin vào Người Thầy Thuốc Chí Thánh, mới được khỏi bệnh là điều tất nhiên vậy. Đừng bao giờ quên rằng chính Người Thầy Thuốc Chí Thánh khi chữa lành cho bệnh nhân luôn luôn khẳng định “Đức tin của con đã chữa lành con”.
Ôi! Lạy Chúa! Con cảm thấy con cũng đang bị điếc và câm – hay ít ra là đang nghễnh ngãng và ngọng nghịu như kẻ giả điếc, giả câm – trước Lời Chúa mời gọi con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ trước những thế lực áp bức bất công… Nhưng con đã làm như không nghe, không thấy, con đã “giả mù sa mưa” để có thể câm lặng “toạ thị cầu an” hầu được yên thân, khỏi bị mất mát, hy sinh những gì mà thế lực áp bức sẽ dành cho những kẻ dám bênh vực cho những người bị áp bức.
Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thánh Linh chữa lành cho con chứng bệnh nan y ấy, như xưa Chúa đã chữa cho biết bao người “què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc” được khỏi không những căn bệnh “đui mù câm điếc” về thể lý mà cả về mặt tâm linh nữa. Ôi! Lạy Chúa! “Tiếng con kêu, nguyện thấu tới Ngài, lạy CHÚA, theo lời Ngài, xin mở trí cho con. Ước chi lời cầu khẩn của con vọng tới Ngài, xin giải thoát cho, như lời Ngài đã hứa.” (Tv 119, câu 169-170). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Câu tục ngữ này nói lên tình yêu TN 23-B172
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Câu tục ngữ này nói lên tình yêu thương, nâng đỡ nhau trong gia đình, làng xóm, bạn bè. Tình yêu thương ấy diễn tả bằng lời nói và hành động trong ngày sống. Khi gặp một người nào đau ốm, chúng ta biết được bài thuốc hay bác sĩ giỏi, chúng ta liền giúp họ.
Tin Mừng hôm nay cũng khắc họa tình yêu thương liên đới giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Khi hay tin Đức Giê-su vào miền Thâp tỉnh, người ta liền dẫn một người vừa điếc vừa ngọng đến xin Chúa Giê-su đặt tay trên anh (x.Mc 7,32). Người ta tin vào quyền năng của Chúa Giê-su, tin vào những phép lạ Ngài làm, nên họ chỉ xin Ngài đặt tay trên anh thôi. Thấy được tình yêu thương và lòng tin của họ, Chúa Giê-su động lòng thương xót và cảm mến, Ngài không những chữa bệnh cho họ mà còn cho họ thấy tình yêu một tình thương lớn lao. Ngài lôi anh ra khỏi đám đông đến gần Ngài, rồi đặt ngón tay của Ngài đụng chạm trực tiếp vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh, rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha” nghĩa là: “Hãy mở ra” (x.Mc 7,33-34). Tình yêu thương của Ngài là một sự đụng chạm, một sự hạ mình trước Chúa Cha và mọi người. Ngài hòa mình với những người đau khổ để cùng với tất cả mọi người hướng về Chúa Cha. Nhờ niềm tin của những người đưa anh chàng vừa điếc vừa ngọng đến với Chúa Giê-su, mà anh đã được sự sống mới. Anh đã nghe được và nói được những gì anh muốn tỏ bày. Anh đã được tự do và không còn bị ràng buộc bởi căn bệnh. Anh còn được hưởng ân phúc của Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su đã nói: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe” (Mt 13,16).
Ngày nay, hình ảnh đặt tay vẫn còn được Giáo hội cử hành trong Thánh lễ. Mỗi lần cộng đoàn rước lễ, những trẻ chưa đến tuổi rước lễ háo hức đến với vị chủ tế để được đặt tay chúc lành. Còn chúng ta, chúng ta không những được đặt tay mà còn được đụng chạm, được Chúa ngự vào tâm hồn khi chúng ta rước lễ. Ngoài ra, chúng ta còn được đụng chạm trong nhiều hình thức như khi cầu nguyện, lúc làm việc với ý ngay lành. Tuy nhiên, để được Chúa đụng chạm thật sự, chúng ta cần có một sự khao khát trọn lành cùng một đức tin vào Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa luôn khao khát và tìm cách để ở lại với chúng con. Xin Chúa hãy lôi cuốn chúng con đến ở lại với Chúa bằng cách mở đôi mắt và đôi tai đức tin, để nhờ đó chúng con có thể thấy và thốt lên: “Chúa làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (x.Mc 7,37). Amen.
Xe buýt vừa đến trạm, cô gái có mái tóc buông xuống ngang vai bước lên. Nơi cô ánh lên một TN 23-B173
Xe buýt vừa đến trạm, cô gái có mái tóc buông xuống ngang vai bước lên. Nơi cô ánh lên một nét đẹp dịu dàng.
Hắn ngồi cạnh cô gái và bị nét đẹp của cô thu hút. Hắn muốn làm quen nhưng chưa biết phải mở lời thế nào. Cô gái có đeo một chàng chuỗi ở cổ tay. Hắn trộm nghĩ: “Cùng đạo thì dễ bắt chuyện đây.”
– Chào em! Em tên gì?
Cô gái im lặng, mắt vẫn nhìn qua ô cửa phía trên. Hắn bạo dạn hỏi thêm lần nữa nhưng cô gái vẫn im lặng. “Người đâu mà kiêu”, hắn trộm nghĩ và không thèm hỏi nữa. Xe dừng, bà cụ bước lên xe. Cô gái nhanh chóng nhường ghế và đỡ bà vào chỗ ngồi. Hắn cũng đứng lên nhưng hắn ngồi trong nên chậm chân hơn. Bà cám ơn cô gái và cô gái nở nụ cười, xua tay ý bảo “không có gì”. Thì ra cô gái bị câm. “Người đẹp thế mà…”. Hắn đã bị chinh phục bởi lòng tốt của cô.
Hôm nay, Thầy Giê-su đã chữa lành cho một người vừa điếc vừa ngọng. Bài thuốc của Thầy chỉ là: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: Epphatha, nghĩa là: hãy mở ra!” (Mc 7,33-34). Điều đặc biệt là Thầy đã kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông. Thật lạ, lần trước Thầy chữa người bại tay trong hội đường; lần khác nữa, Thầy chữa người bại liệt, Thầy đều chữa bệnh trước mặt bao người; lần này Thầy lại kéo riêng anh này ra. Anh đã nói được rõ ràng nhờ tình thương và quyền năng của Thầy Giê-su (x.Mc 7,35). Chắc hẳn anh là người hạnh phúc nhất lúc này. Đám đông thì hết sức “kinh ngạc” và truyền tai nhau công việc vĩ đại Người thực hiện (x.Mc 7,37). Từ nay, anh được nói năng và kể mãi cho mọi người biết về ân huệ mình được nhận lãnh. Anh đã có một kinh nghiệm rất riêng tư với Thầy Giê-su. Thầy đã mở miệng lưỡi cho anh được nói năng. Thầy mở tai cho anh được nghe lời yêu thương và hơn hết, tâm hồn sầu khổ của anh nay được mừng vui, đầy hoan hỉ khi nhìn về tương lai.
Có một thứ bệnh câm điếc còn đáng sợ hơn thứ câm điếc thể lý, đó là thứ bệnh câm điếc thiêng liêng. Nhìn lại tương quan của ta với người ấy, ta thấy căn bệnh câm điếc thiêng liêng này đã gây bao đau khổ cho chính ta và cả người ấy. Chẳng phải khi cả hai cùng làm việc với nhau, cùng sống trong một mái nhà nhưng chẳng thể nói chuyện với nhau, ta đã rất khổ tâm. Hay những khi cùng đối thoại, ta phải bỏ đi vì có một vết thương đã rạn nứt khiến cho cả hai không xích lại gần nhau được. Đến với Chúa Giê-su Thánh Thể, ta đã thưa với Người tình trạng của ta. Chúa mời gọi ta hãy mở lòng ra để đến với người ấy. Một lần, hai lần, ba lần,… ta đã cố gắng từng chút một và Chúa đã dẫn ta đi riêng ra một chỗ. Mỗi lần thất bại là mỗi lần ta tự hỏi tại sao? Chỉ vì ta chưa chịu thay đổi mà đòi người ấy thay đổi. Ta lại chủ động tương quan và khi không nhận được sự tương tác của người ấy, ta đã thất vọng. Lần đó, ta cố kiên nhẫn thêm. Chúa đã mở lòng cho cả hai và nhờ lòng tín thác vào Chúa, ta đã đón nhận được niềm hạnh phúc đầy tràn. Phải thú thật rằng, ta cũng từng bưng tai bịt mắt trước điều mà Thánh Thần thúc đẩy. Ta hiểu rõ điều cần phải nói, ta biết mình cần phải lắng nghe nhưng ta đã làm ngược lại. Có bao lần ta ca tụng Chúa nhưng tâm hồn ta còn ngổn ngang bao lo lắng. Hãy thưa với Chúa điều này: “Lạy Chúa, xin mở tâm hồn con, chạm vào tâm hồn con ngay lúc này”.
Lạy Chúa, Chúa ban cho con có đôi tai để lắng nghe, có miệng để nói lời yêu thương. Xin Chúa dạy con biết lắng nghe, biết nói với thái độ cảm thông, xây dựng trong bác ái bởi vì tâm hồn con bị đóng chặt bởi bao ích kỷ, toan tính, giận hờn, ghen tương. Xin Chúa cho con từng ngày biết sống điều Chúa dạy, tha thiết với ơn Chúa để mở ra với Chúa và với tha nhân. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta tới chứng kiến một phép lạ chữa lành rất ý nghĩa do Chúa TN 23-B174
Bài Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta tới chứng kiến một phép lạ chữa lành rất ý nghĩa do Chúa Giêsu thực hiện và được thánh Máccô trình thuật ở 7,31-37.
1- Phép lạ của tình yêu cứu độ
Qua trình thuật này cũng như các trường hợp chữa lành khác trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu không làm phép lạ như những thầy phù thuỷ đung đưa cây đũa thần hay kích những ngón tay ma thuật của mình để đánh lừa ánh mắt của những người quan sát. Trái lại, khi người ta đưa một người vừa câm vừa điếc đến để xin Người đặt tay, Chúa Giêsu kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, Người đặt ngón tay vào lỗ tai, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, thở dài và nói: “Épphatha” – hãy mở ra!” Lập tức tai anh mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh nói được rõ ràng.
Tất cả những hành động này của Chúa đối với bệnh nhân nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu luôn đồng cảm với những con người gặp cảnh đau khổ và bệnh tật; Người chia sẻ một cách sâu xa với những bất hạnh đang đè nặng lên cuộc sống của họ. Thánh Máccô muốn làm nổi bật điều này: Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Độ của loài người, Người là hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa. Điều mà tiên tri Isaia tiên báo trong bài đọc I nay đã được ứng nghiệm: “Hãy can đảm lên, đừng sợ!… Ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tôi. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được” (Is 35,4.6).
Trong một lần khác, sau khi Chúa Giêsu đã chữa lành mọi kẻ ốm đau, khi thấy ứng nghiệm lời tiên tri Isaia, tác giả Tin Mừng chú thích: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17; x. Is 53,4).
Tự bản chất, các phép lạ do Chúa Kitô làm không bao giờ dừng lại trên chính nó; chúng là những dấu chỉ hướng tới ý nghĩa bên trong và hướng tới đức tin. Điều mà Chúa Giêsu mỗi lần thực hiện cho một người trên bình diện thể lý diễn tả điều Người muốn làm cho mỗi người mỗi ngày trên bình diện tâm linh.
Thật vậy, người đàn ông được chữa lành bởi Chúa Giêsu là một người vừa câm vừa điếc; anh ta không có thể giao tiếp với những người khác, người ta không thể nghe anh ta nói và diễn tả những cảm xúc hay nhu cầu của mình. Nếu hiểu rằng câm điếc là không có khả năng để giao tiếp và liên lạc với người bên cạnh, để xây dựng các tương quan tốt đẹp, thì điều này làm chúng ta nhận thức ngay lập tức rằng tất cả chúng ta ít hay nhiều theo cách thức nào đó là những người vừa câm vừa điếc, đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gửi tới tất cả chúng ta tiếng kêu này của Người: “Épphatha” – hãy mở ra!”
Ở đây, có sự khác biệt giữa sự câm điếc thể lý và câm điếc tinh thần. Sự câm điếc thể lý không lệ thuộc vào cá nhân anh tay, nhưng do số phận, có thể do bẩm sinh, nên anh ta hoàn toàn không đáng trách; trong khi đó, sự câm điếc luân lý hay tinh thần lệ thuộc vào chính đương sự, vào chính chúng ta, và nó là điều đáng trách, có khi là tội nữa.
2- Căn bệnh câm điếc tâm linh
Ngày hôm nay người ta nói nhiều về tình bệnh “câm điếc thể lý” và tìm kiếm nhiều phương thức chữa trị, giúp các bệnh nhân cải thiện và hoà nhập vào xã hội, nhưng lại tránh né nói về căn bệnh câm điếc tâm linh và luân lý trong đời sống chúng ta.
Hình ảnh người câm điếc hôm nay khiến chúng ta phải phản tỉnh và suy nghĩ về sự câm điếc tâm linh.
Chúng ta bị câm điếc, khi không còn lắng nghe tiếng kêu cứu của người khác nói với chúng ta và chúng ta thích đặt một một bức tường hay một lớp kính hai mặt của thái độ dững dưng giữa chúng ta với tha nhân.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta lệch lạch, hay chủ quan, thiên tư thiên vị khi đánh giá người khác chỉ dựa theo hào nhoáng bên ngoài hay đề cao của cải, khi coi trọng người giàu và ruồng bỏ người nghèo, như thánh Giacôbê cảnh báo chúng ta trong bài đọc II (x. Gc 2,1-5).
Các bậc cha mẹ bị câm điếc khi không còn đọc thấy và hiểu ra nơi những thái độ khó hiểu và xáo trộn của những người con chứa đựng lời van xin cha mẹ hay quan tâm và yêu thương chúng.
Một người chồng bị câm điếc khi anh không nhận ra những dấu hiệu trong sự lo lắng của người vợ về sự kiệt sức và mệt mỏi hoặc cần sự giải thích, hay một sự thấu hiểu trong lúc khó khăn. Và điều này cũng áp dụng tương tự như thế đối với những người vợ. Người vợ cũng bị câm điếc khi đối xử như thế với chồng.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta khép kín trong chính mình, vì sự kiêu hãnh, trong việc xa lánh người khác và sống trong “chiến tranh lạnh,” trong khi có lẽ chỉ cần một lời xin lỗi hoặc một lời tha thứ, chúng ta có thể làm hoà với nhau và mang lại hoà khí cho gia đình.
Chúng ta, những người nam nữ tu sỹ là những người có thời gian để giữ thinh lặng trong ngày, đôi khi chúng ta xưng thú trong toà giải tội rằng: “Con có làm ồn trong giờ thinh lặng.” Tôi nghĩ rằng nhiều lúc chúng ta phải xưng thú ngược lại: “Con đã không phá tan sự thinh lặng giữa con người anh em như con phải làm.” Đó cũng là triệu chứng câm điếc tâm linh.
3- Phát xuất lại từ tình yêu
Tuy nhiên, điều quyết định cho chất lượng giao tiếp không đơn thuần là nói hoặc không nói, nhưng là nói hoặc không nói với tình yêu. Về điểm này, thánh Augustinô khuyên chúng ta trong một bài phát biểu: “Trong mỗi hoàn cảnhChúng ta không thể biết cách chính xác điều nên làm: nói hoặc thinh lặng, sửa lỗi hay cứ để cho mọi sự tiếp diễn. Ở đây có một nguyên tắc có giá trị cho mọi trường hợp: Hãy yêu thương rồi bạn làm điều mình muốn.” Vì thế, trước hết, chúng ta hãy có lòng yêu mến thực sự trong trái tim mình, rồi nếu có phải nói, hãy nói với tình yêu mến, hoặc nếu phải thinh lặng, hãy thinh lặng với tình yêu đó tình yêu, và mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp bởi vì chỉ điều tốt lành đến từ tình yêu mến.
Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu làm sao để xây dựng tương quan với người khác theo một cách thế lành mạnh và đẹp đẽ và nơi mà sự đổ vỡ của truyền thông bắt đầu, nơi mà sự khó khăn xuất phát. Đó là khi Ađam và Evà ở trong những tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, thì tương quan hỗ tương của họ cũng trở nên tốt đẹp và mê li: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2,23). Ngay khi tương quan của họ với Thiên Chúa bị cắt đứt, vì sự bất phục tùng, lúc ấy những lời tố cáo nhau bắt đầu xuất hiện: “Vì tại bà, vì tại ông…”
Đó là nơi mà con người phải bắt đầu lại. Thật may mắn, Chúa Giêsu đến để hoà giải chúng ta với Thiên Chúa và qua đó để hoà giải chúng ta với tha nhân. Người hoà giải chúng ta trước hết nhờ các bí tích. Giáo Hội luôn luôn nhìn thấy trong những cử chỉ rất ấn tượng mà Chúa Giêsu thực hiện cho người câm điếc (như đặt tay vào tai và rờ vào lưỡi anh) là một biểu tượng về các bí tích. Nhờ đó, Người tiếp tục “đụng chạm” vào chúng ta một cách thể lý để chữa lành chúng ta một cách thiêng liêng.
Đó là lý do tại sao trong Phép Rửa, thừa tác viên làm những hành vi trên thụ nhân được rửa tội như Chúa Giêsu đã làm trên người câm điếc: Ngài đặt ngón tay vào tai và chạm vào miệng họ và nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Épphatha – hãy mở ra!”
Bí tích Thánh Thể đặc biệt giúp chúng ta chiến thắng sự khiếm khuyết về việc liên kết với tha nhân, khi làm cho chúng ta kinh nghiệm sự kết hợp tuyệt vời nhất với Thiên Chúa, khi chúng ta nên một với Người và qua đó, chúng ta nên một với nhau. Amen!
Bài Tin mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe câu truyện Chúa Giê-su chữa lành cho người bị câm TN 23-B175
Bài Tin mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe câu truyện Chúa Giê-su chữa lành cho người bị câm điếc, hoàn toàn không có khả năng nghe và nói được từ lúc anh được sinh ra. Anh bị bệnh tật đày đọa đã khổ rồi, nhưng còn khổ hơn vì quan niệm của người Do thái thời đó cho rằng bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của cha mẹ anh. Vì thế anh bị loại trừ khỏi cộng đoàn, xã hội. Anh sống trong tình cảnh rất cô đơn và khổ đau của mình.
Chúa Giêsu hiểu được nỗi đau khổ của anh và đã chữa anh lành mạnh nghe nói được như người bình thường. Hành động nhân từ, thương xót chữa lành những người bệnh tật, bị câm điếc và bị quỉ ám là sứ mệnh của Chúa Giê-su khi Người đến trần gian. Chúng ta thấy sau những lần làm phép lạ, Chúa Giêsu thường cấm bệnh nhân hoặc ma quỉ không được nói gì về Người. Lần này, sau khi chữa lành người câm điếc, Chúa cũng căn dặn anh không được nói cho ai biết. Tin mừng thánh Mác-cô nhấn mạnh tới điểm này, vì Chúa Giêsu thấy tâm trạng dân chúng chưa thực sự hiểu, và có lẽ không muốn hiểu biết Người là Đấng thiên sai, là Con Thiên Chúa được sai đến cứu độ cho nhân loại. Họ chỉ thấy nơi Người chân dung là một người trần thế và sẽ trở thành vua, vì thế đã có lần họ tính tôn Người lên làm vua. Ngay các môn đệ theo Chúa, được nghe lời Người giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Người làm cũng có tâm trạng đó. Vì thế Chúa ngăn cấm họ để đề phòng và giảm bớt sự hiểu sai lầm, ngộ nhận của dân chúng về Người. Và nhất là đối với các tông đồ, khi biết được sự thực về Người là “Tôi Tới Đau Thương”, phải chịu khổ hình, chết trên thập giá trước khi vinh quang phục sinh thì họ bớt chán nản và thất vọng.
Phép lạ Chúa Giêsu chữa người câm điếc hôm nay có nhiều ý nghĩa, nhưng tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em 2 bài học sau đây. Nhưng trước khi đi vào 2 bài học này, chúng ta biết nghe và nói là hai khả năng rất quan trọng và cần thiết của con người. Nghe để hiểu đúng ý của người nói. Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường không hiểu đúng ý người nói cho nên trả lời hoặc phản ứng sai lệch. Và người không có khả năng nghe thì gọi là người điếc. Khả năng nói để diễn tả tư tưởng trong khi giao tiếp với người khác. Người không nói được thì trở nên cô độc, và không có khả năng nghe thì gọi là người câm.
Theo tự điển, có 2 định nghĩa của tình trạng điếc và câm. Thứ nhất là khi hoàn toàn không có khả năng nghe và nói. Có nghĩa là có tai mà không nghe được, có miệng mà không nói được. Và thứ hai là khi miễn cưỡng, không sẵn lòng hoặc làm ngơ không muốn nghe, không muốn nói. Trong cuộc sống chúng ta thường gặp nhiều người trong trường hợp thứ 2, và nhiều khi chính chúng ta cũng rơi vào trường hợp thứ 2 này. Thí dụ như khi chúng ta dửng dưng trước Lời Chúa, trước những lời kêu gọi bác ái, quảng đại, dửng dưng trước lời kêu gọi hy sinh phục vụ, thờ ơ trước những lời khuyên bảo của cha mẹ, ông bà, trước lời kêu gọi sống đạo sốt sắng, sống đức tin chính đáng. Có người đến nói với cha xứ, cha giảng kêu gọi giáo dân sống đạo đức, sốt sắng đi tham dự Thánh lễ sớm, sống nhiệt tình, hy sinh, bác ái và quảng đại một số người không nghe đâu. Thay vì dùng miệng lưỡi để cám ơn Chúa, cám ơn cha đã cố gắng khuyên bảo họ, họ dùng lưỡi mới rước Mình Thánh Chúa nói xấu cha, gây chia rẻ giáo xứ. Vì thế cả chúng ta nữa cũng cần được Chúa Giêsu chữa trị bệnh câm điếc của chúng ta.
Thật vậy, Chúa Giêsu chữa lành cho người câm điếc không chỉ có ý nghĩa với người đó, mà cũng còn có ý nghĩa, có những bài học quan trọng và cần thiết hơn đối với chúng ta. Có ý nghĩa không phải vì chúng ta câm điếc, mà vì chúng ta được Chúa ban cho hai khả năng quan trọng và quý báu đó. Tuy nhiên nhận được hai ơn ban ấy, không hẳn là chúng ta biết xử dụng đúng hai ơn ấy, hay đúng với thánh ý của Chúa. Trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, hay nghe những điều đáng nghe, ngược lại nghe những điều không đáng nghe hay nghe điều xấu. Nhiều người có miệng lưỡi tốt nhưng không biết nói những điều đáng nói, ngược lại, nói những điều không đáng nói hay nói những điều xấu.
Bài học thứ nhất mà Chúa muốn dạy chúng ta qua phép lạ chữa cho người câm điếc là để có một đức tin vững mạnh thì phải dùng đôi tai Chúa ban để nghe Lời Chúa dạy bảo. Lời Chúa là của ăn thiêng liêng làm cho linh hồn chúng ta được sống. Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúng ta cũng biết và xác tín rằng Lời Chúa là sự sống, là ánh đèn soi cho cuộc hành trình đức tin của chúng ta nơi dương thế. Chúng ta biết sống trong xã hội này chúng ta dễ bị lôi cuốn bởi nhiều tiếng gọi của sự xấu, tham lam, gian dối, ích kỷ và ý riêng hơn là lắng nghe Lời Chúa dạy. Là những Ki-tô hữu, chúng ta phải ý thức Lời Chúa là của ăn thiêng liêng làm cho linh hồn chúng ta được sống. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thì chúng ta phải nghe và sống Lời Chúa như Chúa nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy.”
Bài học thứ hai là phải dùng miệng lưỡi để ca tụng tôn vinh và nhất là làm chứng cho Chúa trong xã hội này. Tôn vinh và làm chứng cho Chúa vì đây là bổn phận và nghĩa vụ của người làm con Chúa như Chúa nói: “Các con hãy đi rao giảng muôn dân.”
Lại nữa, trong đời sống giao tiếp thường ngày, chúng ta cần chú ý lắng nghe để hiểu người khác và trao đổi những ý tưởng. Nhất là trong gia đình vợ chồng, con cái, cha mẹ phải lắng nghe tiếng nói của nhau, để xây dựng và bảo toàn hạnh phúc, hòa thuận, và giúp nhau sống đức tin.
Qua bài Tin mừng Chúa chữa lành người bị câm điếc hôm nay, chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta 2 ơn quí báu, nghe được và nói được. Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra những bệnh câm điếc thiêng liêng, thờ ơ không nghe Lời Chúa dạy, nhất là dùng miệng lưỡi nói nói những lời sai dối. Biết can đảm chạy đến vị bác sĩ tài giỏi và nhân từ là Giêsu càng sớm càng tốt, để Người chữa lành và phục hồi khả năng lắng nghe và sống Lời Chúa dạy, để đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn của chúng ta trở thành những lời ca tụng, tôn vinh và sáng danh Chúa.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay khởi đầu bằng lời kêu gọi hãy mừng vui và hãy can đảm. Ngôn sứ TN 23-B176
Phụng vụ lời Chúa hôm nay khởi đầu bằng lời kêu gọi hãy mừng vui và hãy can đảm. Ngôn sứ Isaia nói với chúng ta: Đừng sợ! bởi vì Thiên Chúa sắp can thiệp để đem lại cho dân Ngài chiến thắng. Bài đọc I được viết trong bối cảnh dân Do Thái còn đang lưu đày. Ngày đêm họ tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa cứu giúp và đưa họ về quê cha đất tổ. Chính lúc họ đang âu sầu khổ cực, Chúa nói với họ qua ngôn sứ Isaia: Đã đến thời Thiên Chúa cứu thoát. Với giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, vị Ngôn sứ diễn tả ngày Chúa can thiệp bằng những hình ảnh rất vui tươi sinh động: người mù sẽ nhìn thấy, kẻ què sẽ đi được, người điếc sẽ nghe thấy và người câm sẽ reo hò. Ước vọng nóng bỏng của người mù là có thể nhìn, của người què là đi được, của người câm là có thể nói, của người điếc là có thể nghe. Qua hình ảnh diễn tả, vị Ngôn sứ muốn khẳng định rằng, vào ngày Thiên Chúa can thiệp, con người sẽ đạt được tất cả những gì mong muốn chờ đợi. Thiên Chúa sẽ bù đắp cho họ nỗi thống khổ họ đã phải chịu trong quá khứ và ban cho họ tràn đầy niềm vui. Vào năm 538 trước Công nguyên, Chúa đã dùng Vua Kirô người Ba Tư để trả tự do cho người Do Thái, chấm dứt thời lưu đày. Sau những tháng ngày xa quê, họ trở về để phục hưng xứ sở trong niềm vui vỡ òa. Lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện. Người Do Thái hát lên bài ca: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng như trong mơ…” (Tv 126,1). Cuộc trở về của người Do Thái từ kiếp lưu đày cũng chỉ là hình bóng cho thời đại Thiên Sai mà Thiên Chúa sẽ thực hiện. Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã đến đem cho con người sự giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và dẫn đưa họ về với Chúa Cha. Người hứa ban cho họ tự do đích thực, không còn bị tội lỗi chi phối và điều khiển. Người tin vào Chúa Giêsu sẽ không còn là nô lệ của tội lỗi, nhưng được mặc ấy sự thánh thiện. Thánh Mác-cô đã ghi lại một phép lạ Chúa chữa người vừa câm vừa điếc. Nhờ tác động của Chúa, “tai anh ta mở ra và lưỡi như hết bị buộc lại”. Kiểu nói của Mác-cô muốn diễn tả người bị câm điếc cũng giống như một tù nhân. Anh ta bị nhốt kín nên giờ được mở ra, bị xiềng xích gông cùm nên giờ được tháo cởi. Nói tóm lại, anh được giải phóng khỏi cảnh tù tội và được đưa trở lại hội nhập với cuộc sống bình thường. Thánh Mác-cô cũng là một tác giả hay nói đến việc Chúa Giêsu cấm người ta loan tin, sau mỗi khi Người làm phép lạ. Đây là lối trình bày có chủ ý, vì thánh Sử muốn liên hệ đến những “trào lưu thiên sai” thời bấy giờ muốn chủ trương một Đấng thiên sai theo kiểu trần tục. Chính vì thế, Chúa Giêsu không muốn người ta đồn thồi về Người như một vị anh hùng của thời đại theo nhãn giới trần gian. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ đi khắp thế gian để tiếp nối công việc Người đã khởi sự, tức là đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Ngày hôm nay, Giáo Hội của Chúa được mời gọi đem niềm vui cho mọi thời đại. Chúa muốn qua các tín hữu để làm cho người mù có thể nhìn thấy, người què có thể đi được, người câm có thể nói được và người điếc có thể nghe được. Giáo Hội có sứ mạng đem đến cho con người những nhu cầu căn bản của cuộc sống, để họ sống trong niềm vui nơi trần thế này, và bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Khát vọng cháy bỏng của người mù là được nhìn thấy, của người què là được đi, của người điếc là được nghe và của người câm là được nói. Họ có thể đánh đổi tất cả để có được điều họ đang mong ước. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta có đôi mắt sáng mà lại không muốn nhìn; có đôi chân lành lặn mà lại không muốn bước đi; có đôi tai tinh thông mà lại chẳng muốn nghe, có miệng lợi khẩu mà lại không muốn nói. Thánh Giacôbê đã nói đến những người thánh thiện chỉ bằng ngôn từ mà không phải bằng việc làm. Sự kính cẩn, những lời nói trau chuốt mà không kèm theo việc làm thì chỉ là khuôn sáo rỗng tuếch (Bài đọc II). Con mắt tâm hồn trong sáng sẽ giúp chúng ta nhận ra đâu là con đường chính trực; đôi chân nhiệt thành sẽ giúp chúng ta ra khỏi vỏ bọc ích kỷ của mình để đến với tha nhân; đôi tai tinh thông sẽ giúp ta lắng nghe và thực hành Lời Chúa; môi miệng chân thành sẽ giúp ta nói những lời thân thiện. Xin Chúa mở miệng chúng ta để chúng ta biết ca ngợi Chúa và dùng lời nói nối kết tình hiệp thông. Như thế, niềm vui của chúng ta sẽ chan chứa trong cuộc sống hôm nay.
Nhiều người Việt chúng ta, nhất là những người lớn tuổi, sống trong quốc gia Hoa kỳ này, khi TN 23-B177
Nhiều người Việt chúng ta, nhất là những người lớn tuổi, sống trong quốc gia Hoa kỳ này, khi đề cập đến ngôn ngữ, thì chúng ta phải thú nhận có ít hay nhiều những kinh nghiệm về câm và điếc. Vì không sinh ra hay lớn lên ở đây, cho nên khi tiếp xúc với người bản xứ, chúng ta nghe họ nói, nhưng không hiểu được hoàn toàn ý nghĩa, và cũng không thể nào diễn tả hết tư tưởng của chúng ta. Tai và miệng chúng ta bị giới hạn, và do đó chúng ta cảm thấy như bị câm điếc. Ngôn ngữ bao gồm hai phần: tiếp nhận qua tai nghe và diễn tả qua miệng nói. Ngôn ngữ rất quan trọng và là chìa khóa thành công trong mọi phương diện cuộc sống, nhất là trong tình liên hệ với những người thân thuộc, và nhất là trong cuộc sống hôn nhân gia đình vợ chồng. Ngôn ngữ giúp vợ chồng hiểu nhau hơn, có một tình liên hệ mật thiết với nhau, và tạo sự yêu thương và hòa thuận trong gia đình. Đặc biệt trong đời sống tinh thần, đời sống đức tin và trong sự liên hệ với Chúa, ngôn ngữ hay Lời Chúa giúp chúng ta hiểu biết Chúa nhiều hơn, tạo tình mật thiết và yêu mến Chúa hơn, đức tin của chúng ta thêm vững chắc và giúp chúng ta chân thành sống Lời Chúa dạy.
Ông bà anh chị em thân mến. Những bài Kinh thánh Lời Chúa hôm nay đề cập đến tình trạng khó khăn và giới hạn của hai khả năng nói và nghe về thể lý, và qua đó, ám chỉ đến tình trạng câm, điếc trong đời sống tinh thần, đời sống đức tin, và nhất là cho chúng ta thấy lòng nhân từ và yêu thương Chúa. Trước hết, trong bài đọc 1, ngôn sứ I-sa-i-a dùng miệng lưỡi mình nói với dân Chúa, trong thời gian bị lưu đày khổ cực gian truân ở Ba-bi-lon, về lòng yêu thương, nhân từ và quyền năng của Thiên Chúa cho họ, ngài nói, “Can đảm lên, đừng sợ. Này đây Thiên Chúa các ngươi sẽ đến và cứu thoát các ngươi.” Bài đọc cho chúng ta biết sự cứu thoát của Chúa được diễn tả qua những dấu kỳ diệu, người mù được ánh sáng và câm điếc được chữa lành. Thật vậy, lời ngôn sứ cũng là một sự an ủi, hy vọng và trông cậy cho chúng ta. Nhìn vào cuộc sống, chúng ta nhận ra những hoàn cảnh, sự kiện làm cho chúng ta buồn phiền, lo lắng và sợ hãi, như bệnh tật, công ăn việc làm, rắc rối gia đình, con cái, hay tương lai sẽ ra sao và như thế nào. Vì vậy, Lời Chúa làm cho chúng ta vững tâm, vui mừng và hy vọng, vì Chúa sẽ đến và cứu giúp chúng ta. Thật vậy, Kinh thánh cho chúng ta biết dân Do thái đã được Chúa cứu thoát khỏi ách nô lệ, trở về quê hương và sau đó họ đã khởi công xây đền thờ để tạ ơn Chúa.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô nêu lên hai chứng bệnh câm điếc tinh thần mà chúng ta thường mắc phải, đó là thành kiến và đối xử thiên vị, cần được Chúa chữa trị. Thành kiến là sự nhận xét giới hạn theo cái nhìn của mình, theo cái nhìn không suy xét cẩn thận. Thí dụ khi các kinh sư và biệt phái đoán xét Chúa Giêsu, họ chỉ nhìn vào nguồn gốc và gia cảnh của Chúa. Họ điếc hay không muốn biết về những lời dạy dỗ khôn ngoan của Chúa. Và họ cố tình trở thành mù, không thấy quyền năng của Chúa qua các phép lạ Ngài đã làm. Thành kiến giam hãm họ trong cái nhìn thiển cận, ngăn cản không cho họ nhận ra và tin vào Chúa Giê-su Kitô là Đấng Cứu Thế. Vì thành kiến, cho nên con người chúng ta có khuynh hướng chú ý đến những giá trị vật chất, và không có cái nhìn lên cao hơn để thấy những giá trị tinh thần. Và cũng vì thành kiến, chúng ta thường coi trọng người giàu sang, hay ăn mặc cách sang giầu bên ngoài, và nhiều khi khinh thường những người nghèo khổ hay ăn mặc nghèo nàn. Chính Chúa Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa, đã tự nguyện sinh ra từ cha mẹ nghèo hèn, chọn nơi hang đá và cuộc sống khó nghèo, chọn chết trần trụi trên Thập Giá. Mục đích vì Chúa yêu thương, muốn cứu độ, và trở thành tấm gương cho chúng ta, để chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa hơn, và trở nên giầu có ơn sủng của Người.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giê-su làm phép lạ chữa lành cho người câm điếc nghe nói được, và chúng ta cần phải chú ý, nhìn vào một sự kiện lạ lùng và quan trọng mà nhiều khi chúng ta không nhìn thấy, đó là, ân sủng của Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Phép lạ Chúa Giêsu chữa người câm điếc dạy chúng ta ít ra 3 bài học quan trọng cho đời sống Kitô hữu. Bài học thứ 1, Chúa cho chúng ta biết Người vẫn còn đang hoạt động và làm phép lạ nơi trần gian, không bằng tay hay bằng miệng của Chúa, nhưng bằng con tim, bàn tay và tiếng nói của chúng ta. Bài học thứ hai mà Chúa muốn dạy chúng ta là trước khi chúng ta trở thành trái tim, bàn tay hay tiếng nói của Chúa, chúng ta cần phải xin Chúa chữa lành trước. Chúng ta cần xin Chúa mở tai chúng ta ra trước, và có tâm hồn khao khát tiếp thu Lời Chúa. Chúng ta phải luôn ý thức, trong xã hội hôm nay có rất nhiều tiếng gọi của mọi thứ vật chất và cám dỗ, không những làm cho chúng ta mù quáng, mất sự sáng suốt để phân biệt tốt -xấu, phải-trái, lành-dữ, mà còn làm cho đời sống đức tin chỉ còn hình thức bề ngoài, và có thái độ thờ ơ, lạnh nhạt lắng nghe Lời Chúa. / Cũng như học một ngoại ngữ vấn để khó nhất là nghe, vì vậy, muốn tiếp thu, nghe Lời Chúa, chúng ta phải làm quen, tập nghe, lắng tai nghe, nghe càng nhiều càng tốt. Không có cách nào khác để nghe rõ Lời Chúa nói, ngoài việc phải chú ý tập nghe, nghe nhiều lần và thường xuyên, cho thấm nhập vào cuộc sống. Một điều chúng ta phải chú ý là có những Lời Chúa dạy, chúng ta nghe và nghe rất rõ, nhưng chúng ta không muốn nghe bởi vì Lời Chúa đó không hợp với sở thích, ước vọng, hay thuận tiện với lối sống của chúng ta. Chúng ta nghe nhưng không muốn nghe, và có nghe cũng như không. Do đó chúng ta rơi vào tình trạng điếc không phải về thể lý vì chúng ta nghe rất rõ, nhưng về tinh thần, vì chúng ta không quen nghe Lời Chúa hay không muốn nghe, nhất là trong thời đại hôm nay và trong xã hội này. / Chúng ta không muốn nghe Lời Chúa kêu gọi thay đổi, từ bỏ để nâng cao đời sống đức tin lên, trở thành tốt lành, thánh thiện và quảng đại hơn, mà chỉ muốn nghe người nói, những lời làm cho chúng ta thích, vui tai và hợp với đời sống thôi. Vì vậy, chúng ta phải xin Chúa Giê-su, vì lòng yêu thương và nhân từ, chữa lành trái tim cứng cỏi, mở tai tinh thần để chúng ta chân thành lắng nghe, tiếp thu và sống lời Chúa dạy.
Bài học thứ 3 mà Chúa muốn dạy chúng ta là hãy can đảm lên, đừng sợ dùng miệng lưỡi, con tim hay dùng cuộc sống của chúng ta để cảm tạ, ca tụng, rao truyền và làm sáng danh Chúa. Tin mừng cho chúng ta biết sau khi được chứng kiến phép lạ, dân chúng thán phục ca ngợi Chúa. Chính người câm điếc sau khi được chữa lành đã đi loan truyền danh Chúa mặc dù Chúa đã căn dặn anh ta phải im lặng.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì có khả năng nói và nghe tốt, do đó chúng ta cố gắng xử dụng lời nói hay miệng chúng ta như thế nào cho đúng ý và đẹp lòng Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta có lòng khao khát lắng nghe Lời Chúa, để chúng ta có can đảm và sức mạnh của Chúa khi phải đối phó với những đau khổ. Và xin Chúa biến đổi chúng ta trở thành khí cụ mang phép lạ và tình yêu của Chúa đến cho người khác. Xin Chúa chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
Ngày nay, cuộc sống của chúng ta không chỉ bị ô nhiễm bởi khói bụi, vệ sinh đường phố, mà TN 23-B178
Ngày nay, cuộc sống của chúng ta không chỉ bị ô nhiễm bởi khói bụi, vệ sinh đường phố, mà còn bị ô nhiễm bởi âm thanh. Có quá nhiều âm thanh : tiếng còi xe, máy nghe nhạc, các thứ loa tuyên truyền, quảng cáo… Những âm thanh đó làm cho con người bị giảm thính lực. Nhiều bạn trẻ mang hearphone trên tai vừa để nghe nhạc vừa để khỏi phải nghe những gì khác, đó cũng là một thứ điếc. Âm thanh bên ngoài tác động đến tai, làm giảm thính lực của con người, có những thứ âm thanh khác, tuy không thành tiếng, nhưng nó làm giảm khả năng lắng nghe của con người, đó là là sự ồn ào trong tâm hồn, là tình trạng ù lỳ và những toan tính, ganh đua trong cuộc sống, đang làm điếc tâm hồn của nhiều người.
Hôm nay, Chúa Giêsu đi ngang qua thành Tia và Siđon. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc. Khi nói đến Tia và Siđon, ta nhớ ngay đó là vùng đất của dân ngoại, của những dân tộc không phải là người Do Thái. Chi tiết này cho thấy Chúa Giêsu thi hành sứ mạng của Ngài không chỉ giới hạn ở đất Do Thái, mà còn lan truyền khắp nơi, cho mọi dân tộc. Những người dân ngoại đã thấy quyền năng nơi Chúa Giêsu, họ đem đến cho Chúa một người câm điếc để xin Người chữa lành. Người đưa anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay trên tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, Ngài cho anh nói được và nghe được.
Việc làm của Chúa Giêsu có hơi khác lạ. Ngài phải tách anh ra khỏi đám đông. Có lẽ Chúa muốn tách anh ra khỏi sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống và sự hiếu kỳ của đám đông để anh có thể dễ dàng gặp gỡ riêng tư với Chúa. Kéo riêng anh về với mình, còn là hành động Thiên Chúa đưa anh câm điếc này ra khỏi thế giới của bóng tối, của tà thần và sự chết để kéo anh về với thế giới của ánh sáng. Đức Giêsu đã đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh, đây là cách chữa bệnh theo các thày thuốc dân gian lúc bấy giờ vẫn làm. Việc đặt tay này còn là sự đụng chạm, tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người, giữa những con người đau khổ tội lỗi với Đấng quyền năng, để thứ tha và chữa lành. Đây là sự đụng chạm giữa Đấng tạo dựng với thụ tạo của Ngài.
Bằng một mệnh lệnh : Êp-pha-ta – hãy mở ra, lập tức tai người điếc mở ra, và miệng lưỡi anh được tháo cởi, anh nói được rõ ràng. Việc làm này thể hiện uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Nếu như trong công trình tạo dựng thuở ban đầu, Thiên Chúa chỉ cần phán : Hãy có, thì mọi sư liền có. Hôm nay, Ngài chỉ cần ra lệnh : Hãy mở ra, thì môi miệng của người câm, tai của người điếc đã được mở ra. Theo Thánh Marcô, Chúa Giêsu ngăn cấm việc người ta loan truyền cho mọi người biết chuyện này, bởi vì, quyền năng của Đấng Mêsia nơi Chúa Giêsu, chỉ được tỏ lộ một cách rõ ràng qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Lúc này, vì dân chúng chưa thể hiểu, nên Đức Giêsu ngăn cấm họ loan truyền những phép lạ Người làm. Dường như Người càng ngăn cấm, thì họ lại càng loan truyền nhiều hơn.
Phép lạ Chúa Giêsu chữa người câm điếc đã khai mở một thời đại mới, thời đại của Đấng Mesia mà tiên tri Isaia đã loan báo : Hãy nói với những kẻ nhát gan, can đảm lên đừng sợ ! Thiên Chúa của ngươi đã đến đây rồi… Khi người đến, mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc nghe được, bấy giờ, người què sẽ nhảy như nai, miệng người câm sẽ reo hò. Như thế, thời của Đấng Mesia đến là thời của sự giải thoát. Chúa Giêsu đến giải thoát con người khỏi xiềng xích trói buộc của tội lỗi và sự chết, khỏi những ràng buộc thể lý cũng như những đau khổ do tội lỗi và ma quỷ gây ra. Qua các phép lạ, Chúa Giêsu minh chứng Ngài là Đấng đem đến thời đại mới cho nhân loại mà những người dân ngoại lại là những người được đón nhận và thừa hưởng ân phúc này. Thánh Phêrô đã nói : Tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng bất cứ ai mở lòng ra đón nhận Đức Giêsu, thì đều được lãnh nhận ơn cứu độ.
Ngày nay, khoa tai mũi họng cho thấy, bệnh câm điếc có nhiều dạng. Bệnh nhân không thể nói được là vì từ nhỏ không nghe được nên không thể tập nói. Nếu phát hiện sớm, có thể cho bệnh nhân mang máy trợ thính, em sẽ có thể nghe và có thể tập nói được. Tuy nhiên về mặt tâm lý thì hoàn toàn khác. Có thể một người tai không bị điếc, nhưng họ vẫn không nghe thấy, vì người đó không lắng nghe hoặc không muốn nghe, có thể họ không bị câm, nhưng vẫn không thể nói được.
Tin Mừng của Đức Giêsu và lời mời gọi của Ngài vẫn liên tục loan báo kêu mời, nhưng vẫn có những người đóng chặt tai lại khiến cho Lời Chúa không đi vào trong tâm hồn được. Một người sẽ bị điếc về mặt thiêng liêng khi người ấy không muốn lắng nghe Lời của Thiên Chúa. Nghe (hearing) thôi chưa đủ, mà cần phải có một thái độ tích cực hơn, đó là lắng nghe (listenning) thì mới có thể nghe được. Ví dụ, mọi người đang ngồi đây nghe giảng, nhưng chắc chắn có những người không để một lời giảng nào lọt vào tai, vì họ ngồi đây mà lòng ở nơi khác, hoặc không chú ý lắng nghe.
Vì không nghe được Lời của Chúa nên ta không thể nói lời của Chúa, không thể nói về Chúa cho người khác được. Vì vậy mà có người mang danh là Kitô hữu nhưng không thể nói được một câu Lời Chúa cho nguyên vẹn. Nhiều Kitô hữu bị điếc vì không biết nghe Lời Chúa, không thể nói về Chúa Giêsu và giáo lý của Người. Nhiều người vì lười biếng hoặc cố tình bị điếc, nên họ chỉ nghe loáng thoáng câu được câu mất, vì vậy mà đời sống đạo của họ như một tấm áo vá víu, lai tạp không có nền tảng hoặc chỉ là một đời sống đạo hời hợt bên ngoài. Cũng có nhiều người đang cố tình bị câm, không dám nói về Chúa cho anh em không dám lên tiếng bênh vực cho sự thật và công lý, vì sợ ảnh hưởng đến công việc, địa vị.
Người ta nói, người câm điếc thường cục cằn nóng nảy. Người câm điếc về đời sống thiêng liêng cũng có những biểu hiện tương tự, dù rằng tai không bị điếc, nhưng vì không muốn lắng nghe, nên không thể thông cảm và đồng cảm với những hoàn cảnh của anh chị em xung quanh. Vì không đối thoại, dẫn đến sự hiểu lầm giận dỗi kéo dài từ năm này qua năm khác, không thể bỏ qua cho nhau được. Nhiều người cố tình điếc vì cả hai bên không thiện chí để lắng nghe, không có những lời ngọt ngào dễ nghe, mà toàn nói với nhau bằng những lời cọc cằn, tục tĩu, chua chát.
Trong gia đình, vì quá bận rộn với công việc, nên cha mẹ trở nên điếc vì không còn thời giờ chú tâm lắng nghe con cái và lắng nghe nhau. Vì thế, nhiều gia đình trở nên xào xáo bất hòa, cha mẹ chửi bới nhau, anh chị em không còn trật tự trên dưới, không nhường nhịn nhau. Vì không còn khả năng lắng nghe, mà nhiều người đã vô tình biến con cái mình trở thành kẻ cô đơn trong gia đình. Vì vậy, có đứa con bỏ nhà ra đi để tìm người có thể nghe và cảm thông với nó. Nhiều bạn trẻ hôm nay cũng đang cố tình điếc, không đón nhận lời dạy bảo của cha mẹ, để ngoài tai tất cả những lời khuyên dạy. Nhiều người bị câm vì mất thói quen chào hỏi, không thể lên tiếng vì đã tạo nên chiến tranh lạnh trong gia đình, trong nhóm bạn, dẫn đến tình trạng vô tâm, dửng dưng với người bên cạnh.
Xin Lời của Chúa và Thánh Thể Ngài đụng chạm đến tai và miệng lưỡi mỗi người chúng ta, để chữa lành những chứng bệnh câm điếc về phần thiêng liêng nơi mỗi người, giúp chúng ta có thể lắng nghe Lời Chúa và mạnh dạn nói về Chúa cho anh chị em và nói những lời yêu thương với anh chị em. Amen.
Người ta lạc đường sai lối, chỉ vì không thể diễn tả được địa chỉ và cái đích cần tới; người ta sẽ TN 23-B179
Người ta lạc đường sai lối, chỉ vì không thể diễn tả được địa chỉ và cái đích cần tới; người ta sẽ mãi mãi không hiểu nhau vì bất đồng ngôn ngữ, dù lý do gì thì họ cũng đang đối diện với khổ đau. Kinh nghiệm ở đời cho thấy : bệnh tật đi liền với nghèo và khổ đau; mà thực tế đâu phải cứ giầu là không khổ, cứ nhìn người to béo là không có bệnh. Tuy nhiên cuộc đời mỗi chúng ta không thể là mầu xám, nếu như mỗi người ý thức được lời nhắc nhớ của tiền nhân ; hãy cho nhau những gì ta đang có, lỡ mai này không có để cho nhau. Nhất là tình yêu thương, ai cũng có để cảm thông, chia sẻ với anh chị em mình.
Hiện tại thì mắt tinh tai thính, ngôn ngữ lưu loát, chính là điểm nhắm của các doanh nghiệp, vì họ cần người tài giỏi để sản phẩm, thương hiệu của họ đứng vững trên thị trường. Qua các kỳ thi hàng năm xã hội vẫn có nhiều thủ khoa, các bạn trẻ ấy đa phần xuất thân từ hoàn cảnh kinh tế khó khăn, do đó đạt thành tích cũng là dịp tháo gỡ khổ đau cho bản thân và gia đình. Người nghèo thời nào cũng có, khó khăn, đau bệnh ở đâu cũng nhiều; xung quanh ta đầy dẫy những người chẳng bị dị tật nào cả, nhưng họ vẫn không thành công, vẫn cần được nâng đỡ, cần được no thỏa tình yêu để thoát khổ.
Lời Chúa chúng ta vừa nghe, cho thấy Chúa Giêsu không thể im lặng trước tình cảnh một người câm điếc, do đó Chúa đã dùng tình yêu thương và quyền năng để giải cứu anh ta. Dù câm điếc không phải là bệnh, là tội lỗi đưa tới án phạt đời đời, nhưng hiện tại đương sự, gia đình, phải đau khổ, phải chịu thiệt thòi nhiều. Có một thứ câm điếc trong tâm hồn còn đáng sợ hơn, vì tai người bệnh nghe tốt, miệng người ấy có thể nói liên hồi, mà lòng họ lại không nghe tiếng Chúa, không hiểu, không thấy gì cả, như thế phải gọi là tột cùng khổ !
Trên hành trình trần gian, người Kitô hữu cần nhiều phương thế để đạt tới hạnh phúc, còn để được cứu độ, người ta không thể thiếu ơn Chúa giúp. Thực ra thì đâu phải cứ câm điếc là bất hạnh, cũng không phải cứ câm điếc mù lòa, mắt tâm hồn họ cũng tối tăm, câm điếc luôn. Nếu chỉ mù lòa, câm điếc thể lý, Chúa Giêsu xưa kia còn cứu chữa, huống chi câm điếc, tối tăm, về phương diện tâm linh Chúa lại có thể im lặng, không chữa trị cho ta ?
Biết bao các bậc làm cha mẹ hôm nay chăm sóc giáo dục con cháu với hết công suất, họ vẫn cảm thấy thiếu, chưa đủ ! Đầu tư chăm sóc, đâu phải cứ đưa tiền cho con là ổn, sở dĩ người ta thành công, gia đình hạnh phúc là do nghe được, hiểu được, thấy được tình yêu thương Chúa trong cuộc sống của họ. Ở xã hội người mắt tinh tai thính, ăn nói có duyên, nhưng họ bị điếc về tinh thần, câm vì không nói được lời yêu thương, không phải là không có, họ là tầng lớp nghèo khổ, cần được trợ giúp, tháo gỡ những vướng mắc.
Tâm lý tự nhiên, người ta rất thính tai khi nghe những gì liên quan tới tiền của vật chất, lạc thú, danh vọng, người ta lại ngại nói, sợ nghe những gì liên quan tới công bằng tình yêu thương. Mỗi chúng ta ở đây có thể không câm điếc, không bệnh tật, không xấu xí về diện mạo, đó là diễm phúc rồi; nhưng chỉ khi chúng ta no đủ tình yêu, đủ ơn Chúa mới hạnh phúc thật. Câm điếc cũng là nguyên nhân cản trở người ta không thể hiểu nhau : điếc không nghe, câm không nói, tâm hồn sẽ băng giá, cô đơn.
Đối với người Kitô hữu, ai không đau ốm về phần xác đã hiếm rồi, không câm điếc về phần hồn lại càng khó gặp hơn ! No đủ tình yêu, no đủ hạnh phúc, được hiểu là khi người ta không bị câm điếc về tâm hồn, nghe, hiểu, thấy được tình yêu Chúa trong cuộc sống, chính là ta đang no đủ ơn Chúa. Các nhà đạo đức quan niệm chỉ những ai không đau bệnh, không câm điếc về phần hồn, người ấy mới không vướng mắc tội lỗi, mới thực sự không sai lạc đường lối Chúa.
Âm thanh đầy phức tạp hàng ngày đang ầm vang khắp nơi, câm điếc thì chúng ta không, nhưng chẳng biết đôi tai của ta đang chọn lựa và thích nghe loại nào ? Ngôn ngữ phong phú trong tâm trí ta đang phát ra những lời lẽ gì ? Nếu như người câm điếc trong Tin mừng hôm nay nhờ niềm tin của gia đình, người thân tin vào Đức Giêsu, anh ta nghe được, nói được. Không dừng lại ở đó, Đức Giêsu còn muốn mở mắt tâm hồn cho từng người, để rồi chúng ta biết nghe, biết chia sẻ những âm thanh dạt dào tình Chúa tình người cho anh chị em mình.
Tục ngữ có câu : muốn tròn thì phải có khuôn, muốn vuông thì phải có thước; muốn biết mình bệnh tật thế nào nên tới gặp bác sĩ định kỳ. Muốn biết mình có tội hay không, cần chuyên chăm cầu nguyện, xét mình, đó là chúng ta đang nói tới cách phòng bệnh thông thường. Đã phát hiện mình đang ốm đau bệnh tật, phải đến bệnh viện chữa trị, nếu biết nói phòng bệnh hơn chữa bệnh, thì ai cũng cần ăn uống ngủ nghỉ điều độ. Nếu đã biết Chúa Giêsu là thầy thuốc chuyên chữa trị câm điếc tâm linh, đừng ngại gặp gỡ cầu nguyện, xin Ngài ban ơn để ta no đủ tình yêu thương, rồi biết nghe, biết chia sẻ hồng ân Chúa cho anh chị em mình. Amen.
I. Hãy để Thiên Chúa có thể can thiệp vào đời mình
Đức Yêsu đã nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi người vừa điếc vừa ngọng. Ở vào trường hợp của TN 23-B180
Đức Yêsu đã nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi người vừa điếc vừa ngọng. Ở vào trường hợp của chúng ta, chúng ta có để cho Đức Yêsu làm như vậy không? Hay chúng ta cho rằng như vậy quá dơ, mất vệ sinh? Nếu người điếc ngọng này từ chối không để cho Đức Yêsu làm, chắc phép lạ không thể xảy ra được. Để phép lạ có thể xảy ra, con người phải sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời của mình lúc nào Ngài muốn và cách nào Ngài muốn. Con người không thể xác định cách thức và thời điểm buộc Thiên Chúa phải thực hiện được. Thái độ không phê bình, không lấy mình làm chuẩn, không lấy những tiêu chuẩn của mình để ép Thiên Chúa làm điều này điều kia, phải là thái độ của con người trong tương quan với Thiên Chúa. Tương tự vậy, cách thái con người đối xử với Thiên Chúa, cũng phải là cách thái con người đối xử với nhau: không ép buộc xúc phạm người khác.
II. Mầu nhiệm nhập thể giúp hiểu cung cách hành xử của Đức Yêsu
Phải chăng Đức Yêsu không đủ quyền năng nên không thể chỉ dùng lời mà chữa người vừa điếc vừa ngọng được, nên Ngài phải đặt tay vào lỗ tai của anh ta, và phải bôi nước miếng vào lưỡi anh ta? Hay Ngài làm như vậy vì một lý do nào khác?
Mầu nhiệm nhập thể chỉ được hiểu và phát biểu, khi con người biết Đức Yêsu là Thiên Chúa, nghĩa là sau khi Đức Yêsu đã chết và phục sinh. Khi Đức Yêsu còn đang sống đời tại thế, con người không thể hiểu mầu nhiệm nhập thể, vì lúc đó con người chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Người ta kết án tử và giết chết Đức Yêsu, vì cho rằng Ngài phạm thượng, cho rằng Ngài chỉ là một người mà lại dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64).
Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, nghĩa là Ngài nên giống con người mọi đàng trừ tội (Dt.2, 17;4, 15), thế nên cái biết của Ngài cũng tăng trưởng. Vì là người, nên có nhiều điều Ngài không biết. Rồi với thời gian khi Ngài ý thức sứ mạng của Ngài, Ngài đã đi rao giảng; và khi ý thức về chính mình “Ngài là Thiên Chúa” thì Ngài mặc khải điều này cho con người, dù rằng mặc khải đó con người chưa thể chấp nhận được. Cần phân biệt: Ngài vẫn là Thiên Chúa khi Ngài còn là bào thai nơi dạ Đức Mẹ, nhưng việc Ngài ý thức Ngài là Thiên Chúa lại là một điều khác.
Cách hành xử cũng tương tự vậy khi Ngài chữa bệnh cho người ngọng và điếc này: Ngài thấy sao thì Ngài làm vậy. Ngài thấy cần phải đặt tay vào lỗ tai người điếc thì Ngài làm, cần bôi nước miếng vào lưỡi của anh ta thì Ngài làm. Nhưng với hành vi đó của Ngài, con người ngày nay hiểu hơn về bí tích. Bí tích là những dấu chỉ do Đức Yêsu thiết lập để ban ân sủng cho con người. Khi Hội Thánh thực hiện dấu chỉ hữu hình Đức Yêsu thiết lập, thì qua đó Thiên Chúa ban ân sủng cho con người. Ngày nay Hội Thánh vẫn cử hành các bí tích- những dấu chỉ hữu hình Đức Yêsu thiết lập để ban ân sủng cho con người. Những dấu chỉ “bí tích” là những dấu chỉ có lời kèm theo; chẳng hạn bí tích rửa tội là đổ nước và lời “tôi rửa con nhân danh Cha Con và Thánh Thần”; bí tích “Thánh Thể” là bánh rượu và lời truyền phép “này là mình ta... này là máu ta...”.
Đức Yêsu là bí tích nguyên thủy, là bí tích nguồn, vì Đức Yêsu là dấu chỉ qua đó Thiên Chúa ban ân sủng cho con người. Hội Thánh cũng là bí tích theo một nghĩa nào đó, vì Thiên Chúa vẫn ban ân sủng cho con người qua Hội Thánh. Tuy vậy theo cách nói bình thường, Hội Thánh tuyên xưng có bảy bí tích Đức Yêsu đã thiết lập để ban ân sủng cho con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ dựa vào Lời Chúa ngày Chủ Nhật:
1. Cách thế bạn đối xử với người giầu và người nghèo có khác nhau không? Nếu khác, thì tại sao vậy? (Gc.2, 1-5).
2. Theo bạn, Đức Yêsu khi còn nhỏ có biết tất cả chưa? Nếu bạn cho là Ngài đã biết tất cả, thì bạn giải thích hai câu trong thư của thánh Phaolô thế nào (Dt.2, 17; 4, 15)?
3. Bạn có biết rằng theo tin mừng Maccô, có nhiều điều Đức Yêsu không biết không? Xin bạn kể một vài trường hợp để chứng minh.
4. Xin bạn kể bảy bí tích, và nói ân sủng đặc biệt của từng bí tích? Bí tích nào ban cho chúng ta chính Thiên Chúa? Xin giải thích.
“Xin cho con được nhìn thấy ơn thánh Chúa trong cuộc đời”
Chúng ta thường nghe nói: “Tôi có mắt như mù, vì tôi đã không sáng suốt, không biết biện phân TN 23-B181
Chúng ta thường nghe nói: “Tôi có mắt như mù, vì tôi đã không sáng suốt, không biết biện phân, không suy nghĩ để nhận ra điều mình cần phải biết, phải tin và thực hành”. Thưa ACE, hồi tâm nhìn lại, chúng ta có hài lòng với những gì mà mình đang có trong cuộc sống hiện tại hay không? Hay nói khác hơn, chúng ta có đang sống tâm tình cảm tạ-chúc tụng Chúa, tri ân mọi người đã cho chúng ta được cuộc sống như hiện nay không? Chắc nhiều người sẽ cười, vì câu hỏi đặt ra như vậy, trong hoàn cảnh đầy khó khăn của đại dịch, bệnh tật, đói khát và chết chóc như hiện nay. Tôi không có việc làm, tôi không có tiền, tôi không có gì để ăn, tôi không được đi đâu, tôi không được làm những gì tôi muốn…khi chúng ta nhìn cuộc sống với cái nhìn bi quan như vậy, thì cuộc sống, dường như toàn là màu đen, không có ánh sáng, không có hy vọng và không thể sống tạ ơn chúc tụng Chúa được. Thưa ACE, nếu có ai trong chúng ta không may mà rơi vào trong những hoàn cảnh đáng thương này, thì Lời Chúa hôm nay chính là ánh sáng soi đường, hầu giúp chúng ta sống tin tưởng, hy vọng để nhìn ra và tin nhận Chúa chính là Đấng đang hiện diện, đồng hành, ban ơn, cứu chữa và biến đổi chúng ta.
Bài đọc một trong sách Ngôn sứ Isaia, như đang soi sáng và mời gọi chúng ta như đã mời gọi con cái Israel năm xưa khi họ đang phải sống trong hoàn cảnh bi thương, đau khổ, đầy thử thách. Vì đang phải sống trong cảnh bị lưu đày tủi nhục, nên dân chúng đã không còn nhận ra ý định và tình thương của Giavê Thiên Chúa cho họ nữa. Tệ hại hơn, là họ chỉ biết sống theo phương cách của mình, họ đã quay ngược lại với Thiên Chúa, khước từ và không còn tin vào Chúa nữa. Chính vì lẽ đó, mà Ngôn sứ Isaia đã được sai đến để loan báo cho họ, khơi dậy trong lòng trí họ niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa. Sứ điệp của Isaia như đã mở con mắt đức tin cho họ để họ nhận ra rằng: Lưu đày, không phải là hình phạt, hay sự trừng trị của Thiên Chúa. Chỉ vì con người đã không nghe theo Lời Chúa, con người đã phạm tội, nên họ tự lãnh lấy hậu quả của tội lỗi mà thôi. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương và dấu chỉ để họ có thể nhận ra là: Chính Chúa sẽ đem họ trở về, Ngài sẽ phục hồi cho họ tất cả những quyền lợi là dân riêng của Thiên Chúa. “Hỡi những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi”. Thế nhưng, chỉ có những ai tin và chấp nhận sứ điệp này thì họ mới có niềm vui thực sự.
Tin để nhận ra, tin để có niềm vui chính là sứ điệp mà bài Tin mừng theo Thánh Marcô (Mc 7, 31-37) soi sáng, mời gọi chúng ta. Tình yêu thương và ơn cứu sống của Thiên Chúa đang được thực hiện cho nhân loại nơi chính con người và sứ vụ của Chúa Giêsu. “Effetha! nghĩa là: Hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi anh ta được tháo gỡ và anh nói được rõ ràng”. Qua việc Chúa chữa lành cho người bị câm điếc, lời tuyên sấm của Ngôn sứ Isaia nay đã được ứng nghiệm cho tất cả những ai tin và đến với Chúa Giêsu. “Mắt người mù sẽ sáng lên và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được”.
Có một điều thú vị nơi việc chữa lành của Chúa Giêsu, đó là: Tại sao Chúa không chỉ phán một lời thôi, hay Chúa chữa liền cho anh ta, nhưng đàng này: “Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta”. Hành động này của Chúa có vẻ khác thường. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, cử chỉ và hành động của Chúa ở đây mang tính biểu tượng. Vì khi Chúa đặt ngón tay vào tai và chạm tay đến lưỡi người này. “Ngón Tay” chính là quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa đã chạm đến con người. Còn việc Chúa bôi nước miếng vào lưỡi, chính là sự tượng trưng cho “hương vị của sự khôn ngoan, là hơi thở, là sự sống của Thiên Chúa” dành cho nhân loại. Thật vậy, khi Chúa Giêsu hành động như vậy, Ngài muốn cho con người nhận biết rằng: Ngài chính là Thiên Chúa đích thực, Ngài là Đấng đến để đem ơn chữa lành và cứu sống, là Đấng đang ban ơn cứu rỗi cho nhân loại.
ACE hãy nhớ lại, trong Thánh Lễ, phần Phụng vụ Lời Chúa, trước khi chúng ta nghe công bố Tin Mừng, chúng ta thưa: “Lạy Chúa, Vinh Danh Chúa, và chúng ta làm dấu Thánh giá trên trán, trên môi miệng và ngực chúng ta”. Đây chính là ý nghĩa của việc chúng ta xin Chúa ban ơn, hướng dẫn, thánh hóa, để cả con người chúng ta từ lòng trí và môi miệng được Chúa chúc phúc. Thật vậy, chỉ những ai khiêm tốn để kêu xin Chúa đến để mở tai, mở mắt, mở miệng và mở lòng mình ra với ơn của Ngài, thì khi đó, con người chúng ta mới thực sự cảm nếm được, mới nhận ra được ơn thánh của Chúa trong cuộc đời của mình.
Thưa ACE, trở lại với cuộc sống hiện nay của chúng ta, đâu là dấu chỉ ơn thánh và tình thương của Chúa, cho dù chúng ta đang phải sống và đối diện với quá nhiều tang thương đau khổ. Hay nói khác hơn, làm sao chúng ta có thể sống trong tâm tình cảm tạ-tri ân được? Bài đọc hai trong thư Thánh Giacôbê khuyên dạy và mời gọi chúng ta. Hãy mở lòng, hãy quảng đại để cho Chúa dùng chúng ta như khí cụ ơn thánh của Ngài cho ACE mình, đặc biệt với những người nghèo, những người đau khổ…hãy tỏ lòng bác ái yêu thương, hãy lấy lòng khoan dung nhân hậu mà đối xử với tha nhân, hãy trở nên con cái của Thiên Chúa tình thương và hãy chiếu tỏa ơn đức tin mà chúng ta lãnh nhận được từ Chúa cho ACE mình.
Lạy Chúa, xin ban thêm sức mạnh và ơn thánh Chúa cho chúng con, xin “Ngón Tay Uy Quyền của Chúa” chạm vào tâm hồn-lòng trí chúng con, để chúng con luôn được nhìn thấy ơn thánh Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời, mà luôn sống tâm tình cảm tạ-tri ân cùng với sự phục vụ trong tin yêu-bác ái với ACE mình. Amen.
Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 mới tổ chức cuộc thi đấu dành cho những người khuyết tật. Lực TN 23-B182
Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 mới tổ chức cuộc thi đấu dành cho những người khuyết tật. Lực sĩ cử tạ Việt Nam Lê văn Công xuất sắc đạt huy chương, thành tích của anh bằng với người doạt huy chương vàng nhưng vì anh cân nặng hơn chỉ 100 gam nên phải nhận huy chương bạc. Chúng ta thấy anh bị khuyết tật ở đôi chân nên khi cử tạ phải nằm. Anh là người Công giáo: khi ngồi xe lăn ra thi đấu, anh làm dấu Thánh giá và khi thi đấu xong anh cũng làm dấu Thánh Giá. Điều đáng nói là anh là vận động viên duy nhất của Việt Nam đoạt được huy chương Olympic trong số rất nhiều vận động viên khuyết tật lẫn cả đoàn vận động viên lành mạnh tranh tài ở kì Thế vận hội năm nay đều ra về trắng tay.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa lành cho một người khuyết tật câm điếc. Câm điếc thường đi đôi với nhau vì điếc không nghe được âm thanh nên từ đó cũng không nói được. Chúng ta hãy tìm hiểu một vài cử chỉ của Chúa Giêsu khi Chúa chữa lành cho người câm điếc này:
- Chúa đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đưa anh ra khỏi đám đông vì Chúa không muốn ồn ào, không muốn làm phép lạ như một cuộc trình diễn. Cũng vậy khi Chúa cho bé gái con ông Giarô, trưởng hội đường được sống lại, Chúa không cho đám đông vào nhà chỉ cho cha mẹ em bé và các môn đệ theo Chúa vào thôi.
Chúa đặt ngón tay vào tai anh. Chúa Giêsu thường có cử chỉ đặt tay để chúc lành hay để chữa bệnh. Chúa đặt ngón tai vào tai anh tay để có sự đồng cảm với anh và để truyền sức mạnh chữa lành của Thiên Chúa tới anh như khi người đàn bà bị loạn huyết đụng tới gấu áo Chúa thì Chúa Giêsu cảm thấy sức mạnh từ Chúa phát ra (Mc 5, 30).
Chúa bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Nước miếng của con người cũng là dược liệu thí dụ khi bị chà sước hay đứt tay chưa kịp bôi thuốc, chúng ta thường có thói quen xoa nước miếng vào chỗ bị trầy sước đó để sát trùng và giúp mau lành. Có lẽ Chúa Giêsu nhổ nước miếng ra tay rồi lấy bôi vào lưỡi anh.
"Đoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: "Eppheta" (nghĩa là hãy mở ra"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Ngước mắt lên trời, thở dài: chúng ta hiểu là Chúa hướng về Chúa Cha và cầu nguyện cũng như trước khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu cũng làm cử chỉ này. Đặc biệt là câu nói của Chúa Giêsu: "Eppheta: Hãy mở ra" lời nói uy quyền của Chúa Giêsu đã làm cho người câm điếc này nói được và nghe được rõ ràng tương tự như khi Chúa Giêsu cho bé gái 12 tuổi chết sống lại, Chúa nói: "Talitha, Koumi": nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay (Mc 5, 36-37).
Phép lạ này của Chúa Giêsu khiến dân chúng thán phục thốt lên: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được". Lời khen ngợi này của dân chúng khiến chúng ta liên tưởng tới lời sách Sáng thế viết sau mỗi đợt tạo dựng: "Thiên Chúa thấy mọi sự người đã làm ra quả là tốt đẹp (St 1, 31)" việc người câm điếc nghe được và nói được là một trong số những dấu chỉ chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai Cứu thế theo tiên tri Isaia (Mt 11, 4).
Nhưng phép lạ Chúa Giêsu làm còn có ý nghĩa thiêng liêng đối với chúng ta hôm nay. Trong nghi lễ Rửa tội cho trẻ em, có nghi thức "Hãy mở ra": Chủ lễ lấy ngón tay cái sờ vào tai và miệng mỗi trẻ và nói: "Nguyện xin Chúa Giêsu Đấng làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói ban cho con sớm có thể đón nghe Lời Người và tuyên xưng đức tin để con ca tụng vinh danh Chúa Cha".
Miệng lưỡi và đôi tai là tặng phẩm Chúa ban, chúng ta hãy biết dùng cho nên: dùng tai để nghe Lời Chúa, để lắng nghe những người xung quanh, nghe nỗi đau của người khốn khổ, dùng miệng lưỡi để nói những lời yêu thương, xây dựng anh em, an ủi những người sầu khổ. Thánh Giacôbê dạy 'mỗi người hãy mau nghe, chậm nói, khoan giận và phải biết kiềm chế miệng lưỡi mình'(Gc 1, 19 + 26). Sách Huấn ca cho biết: người phụ nữ ít nói là quà Chúa ban, không chi sánh bằng người có giáo dục (Hc 26, 14).
Chuyện minh họa: Ngày 6/7/2007, Đức Hồng y Giáo phận Seoul Hàn quốc truyền chức linh mục cho thầy Park Minseo, bị câm điếc từ năm mới lên 2 tuổi do uống lầm thuốc. Ngay từ khi còn trẻ đã ao ước được làm linh mục, lớn lên làm thợ sơn và sau được gởi sang Mỹ học Đại học ở phân khoa dành cho sinh viên câm điếc rồi vào Đại Chủng viện. Thầy đã cố gắng học tập suốt 22 năm. Ngày lễ mở tay của tân linh mục, ngoài cha mẹ bà con, còn có nhiều người câm điếc tham dự. Tân linh mục Park Min Seo dùng ngôn ngữ dấu hiệu bằng tay để phát biểu: "Tôi không phải là tài tử nhưng chỉ là một linh mục bình thường mới được Chúa chọn. Xin cầu nguyện cho tôi biết sống khiêm nhường, thánh thiện để chăm lo phục vụ cho anh chị em giáo dân câm điếc như tôi". Cha là cha sở giáo xứ Eppheta ở Seoul. Cha cử hành thánh lễ bằng ngôn ngữ kí hiệu cho 200-250 người vào Chúa Nhật.
Mỗi người chúng ta hãy xin Chúa mở tai để biết lắng nghe Lời Chúa và mở miệng để ca tụng Chúa cụ thể trong Thánh lễ này và khi ra về biết dùng miệng lưỡi cách tốt đẹp để xây dựng Nước Chúa. Amen.
Chuyện ‘nghe mà không hiểu, mở miệng mà chẳng thành câu’ không còn lạ gì khi chúng ta ở đất TN 23-B183
Chuyện ‘nghe mà không hiểu, mở miệng mà chẳng thành câu’ không còn lạ gì khi chúng ta ở đất khách quê người. Có dịp gặp cô tôi sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi: "Sống ở nước ngoài, điều gì khiến cô buồn khổ nhất". Cô nhoẽn miệng cười đáp: "Khổ nhất là sống như người điếc và câm. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, chẳng nói được gì, thành ra không ai hiểu. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, y như người điếc vậy”.
Cảm tạ Chúa vì chúng ta được Ngài ban cho một cơ thể toàn vẹn, mọi chức năng hoạt động đúng vai trò của nó; nhưng đôi khi vì thói quen hay lí do nào đó, mà chúng ta đánh mất, hoặc xáo trộn nó, làm rối tung. Một lần nọ, cô bé Hoa hỏi bà rằng:
“Bà ơi, sao con người có hai tay, hai chân, hai mắt, hai tai, mà chỉ có một miệng và một lỗ mũi hỡi bà?”
Và bà liền trả lời:
“Hai tay để con lao động cật lực, hai chân để con đi xa học rộng, hai mắt để con học hỏi tìm tòi. Còn hai tai mà chỉ một lỗ mũi, một miệng, là để con không xỏ mũi vào chuyện của người khác, nói ít đi và nghe thật nhiều”!
Thật vậy, chúng ta vẫn còn may mắn nhiều hơn anh chàng bị câm điếc được người ta mang đến cho Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta vẫn còn miệng lưỡi để diễn tả những gì muốn nói, muốn trình bày; chúng ta còn cả đôi tai nguyên vẹn, chưa phải bị điếc lác, hay lãng tai, hoặc dùng đến máy trợ thính. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta chẳng may mắn hơn anh ấy, nếu chúng ta ù lì, mê mải trong thói ‘câm điếc tâm linh', thói ‘giả điếc làm ngơ’, hoặc ‘câm điếc làm thinh’, v.v…Vì thà rằng bị câm điếc thể lý, nhưng tâm hồn luôn rộng mở, cảm thông, lắng nghe, thấu hiểu, nói lên tiếng lòng của mình, can đảm đến với người, chia san với đời thì tốt lành thánh thiện biết bao! Vì thà rằng bị câm điếc thân xác, còn hơn bị ‘câm nín, điếc lác’ trước nỗi thống khổ của anh chị em, trước cảnh bất công, với bao cảnh tượng u sầu và khóc than, người người đang van xin sự giúp đỡ của chúng ta!
Từ thời Cựu ước, ngôn sứ I-sai-ah đã tuyên sấm về Con Thiên Chúa “sẽ đến và cứu thoát…Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra…” (x. Is 35, 4-5), và điều này đã thành sự nơi Đức Giê-su Ki-tô. Ngài chữa lành nhiều thứ bệnh tật, trừ quỷ, cho kẻ chết sống lại, cụ thể Ngài đã giải thoát cho anh chàng vừa câm vừa điếc trong bài Tin Mừng: “…đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta,…đoạn ngước mặt lên trời, thở dài và bảo: “Ê-phê-ta!” (nghĩa là "Hãy mở ra!”)” (x. Mc 7, 33-34). Thế nhưng, chúng ta có tự nguyện đến xin Đức Giê-su chữa lành cho thói đời ‘câm nín, điếc lác' tâm linh của mình chăng? Chúng ta sẵn sàng chấp nhận cách Ngài chữa lành như đã làm cho anh câm điếc kia không? Hay vẫn mong muốn Ngài giải thoát, nhưng theo cách thức của chúng ta?
Nếu chúng ta tín thác, cậy trông, vâng phục, giao phó hoàn toàn trong tay Chúa, để Ngài tự ý chữa lành và giải thoát chúng ta, thì chắc chắn lời thán phục của dân chúng không bao giờ sai: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!” (Mc 7, 37). Thật vậy, Chúa thực hiện mọi điều tốt lành nơi chúng ta, nơi gia đình, nơi cộng đoàn, nơi giáo xứ, ngoài xã hội và trong Giáo hội chúng ta theo phương cách của Ngài. Hơn nữa, nếu để Đức Giê-su chữa lành thói đời ‘giả điếc làm ngơ’, ‘giả câm làm thinh’, thì ắt hẳn chúng ta nên thực hành Lời Chúa phán dạy qua thư của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ: “…là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh (chị) em đừng thiên vị” (Gc 2, 1). Nể trọng những ai giàu có, mà khinh khi hoặc xem thường người nghèo khó! Giao du, đối đãi quá mức với đại gia (VIP), dành nhiều thời gian cho họ; nhưng lại chẳng có thời giờ cho người nghèo khổ, người cùng khốn, đang cần đến sự giúp đỡ và nâng đỡ của chúng ta! Một khi sa vào thái độ này, hoặc hành vi này, chúng ta không những trở nên ‘câm điếc’ tâm linh, mà còn “trở thành quan toà xét xử đầy tà tâm” (x. Gc 2, 4). Tóm lại, chúng ta có thể dừng lại nơi tác phẩm “Tự thuật” của Thánh Âu-gus-ti-nô, hòng nhìn nhận đôi tai đã điếc lác trước Lời của Chúa, đôi môi câm nín làm thinh trước bất công xã hội, trước nỗi thống khổ của tha nhân trong thời gian dài. Để rồi chúng ta cùng thánh nhân thốt lên: “Con yêu Chúa quá muộn, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa vừa mới mãi, con yêu Chúa quá muộn ! Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy con cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài…Chúa gọi con, Chúa la to, và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng, Chúa chiếu toả và đã xua tan sự mù loà của con…”
“Ê-phê-ta” - xin mở ra Cho con nhận biết Chúa là chân lý. “Ê-phê-ta” - mở tâm trí Hầu con yêu mến Thánh ý của Ngài. “Ê-phê-ta” - mở đôi tai Cõi lòng tha thiết, ai ai sầu buồn. “Ê-phê-ta” - xin mở hồn Bật tung, mắt mở, khơi nguồn tình yêu. Amen!
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI: QUYỀN NĂNG CHỮA LÀNH KHI CHẠM ĐẾN CON NGƯỜI
Hơn một năm qua, nhiều người không có cơ hội tiếp xúc thể lý và thường xuyên, đây là một TN 23-B184
Hơn một năm qua, nhiều người không có cơ hội tiếp xúc thể lý và thường xuyên, đây là một biện pháp phiền toái nhưng cần thiết để giúp giảm thiểu sự lây lan của Covid-19. Khi tình trạng bình thường dần dần quay trở lại tại một số quốc gia phát triển, thì nhiều người trong chúng ta có thể gặp gỡ, kết nối trực tiếp, do đó đem lại nhiều lợi ích. Bài đọc một và bài Tin mừng nhắc nhớ lại tình thương và sự chăm sóc thân tình của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng như mọi loài thụ tạo. Bài đọc hai lưu ý đặc biệt về cách thức mà chúng ta đối xử với nhau, dù có những khác biệt thể lý.
Bài đọc một trích từ sách ngôn sứ Isaia mô tả thời kỳ đổi mới và phục hồi sau thời gian tàn phá của cuộc lưu đày ở Babylon. Vị ngôn sứ cho biết nhờ quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa mà ơn cứu độ sẽ đến trên mặt đất để khôi phục lại những gì đã bị hư hoại. Không chỉ con người mà toàn thể cộng đoàn trên địa cầu sẽ được đổi mới. Những vùng đất khô cằn sẽ có nước, cây cối sẽ mọc lên và muôn vật sẽ sống hòa hợp với nhau (Is 35,1-2.9). Nhân loại cũng được Thiên Chúa củng cố. Ngôn sứ Isaia mô tả những người đang gặp khó khăn về mặt thể lý có thể nhìn thấy, nghe, bước đi và nói năng được. Những khả năng mới hoặc được đổi mới này là dấu hiệu canh tân bộ mặt trái đất.
Sự đổi mới mà Isaia hình dung không chỉ mang tính thể lý. Vị ngôn sứ này còn liên kết sự canh tân đời sống với sự phát triển tinh thần và tìm kiếm công bình. Chẳng hạn, khi nói về những nhà lãnh đạo lý tưởng, Isaia nói rằng họ giúp dân chúng nhìn và nghe được, có khả năng phán đoán tốt và nói năng lưu loát, và như thế giúp cho sự công bình và chính nghĩa tràn ngập khắp mặt đất (Is 32,1-4). Sau thời kỳ lưu đày, vùng đất này được Thiên Chúa chạm đến, ban ơn, đổi mới và được mời gọi để thăng tiến công bình.
Việc Thiên Chúa chạm đến con người cũng là trọng tâm của bài Tin mừng hôm nay. Cộng đoàn đưa một người thanh niên đến để xin Đức Giêsu chữa lành. Anh bị điếc và phát âm rất khó khăn. Tại thời điểm này trong Tin mừng Máccô, Đức Giêsu đã làm một số phép lạ cũng như chữa lành nhiều người. Một số trường hợp công khai, như khi Đức Giêsu xua đuổi thần ô uế nơi hội đường và cho dân chúng ăn (Mc 1,21-28 ; 6,30-44). Có những trường hợp ít người chứng kiến, như trường hợp Đức Giêsu chữa lành cho bé gái với sự hiện diện của cha mẹ em và ba môn đệ (Mc 5,35-43). Mặc dù đám đông khởi xướng việc chữa lành trong bài Tin mừng, nhưng chính Đức Giêsu mới là người phục hồi người thanh niên nơi riêng tư theo cách thức rất cá vị.
Thánh Máccô nhấn mạnh rằng Đức Giêsu “đã đem anh ta ra khỏi đám đông”. Ngài chữa lành bệnh điếc bằng cách đặt ngón tay của mình vào tai anh và bệnh câm bằng cách bôi nước miếng vào lưỡi anh. Những cách chữa bệnh này cho thấy sự chăm sóc thân tình mà Đức Giêsu muốn trao ban, thậm chí là cho đi một phần bản thân mình để giúp chữa lành người bệnh. Trong Tin mừng, Đức Giêsu thể hiện quyền năng chữa lành của mình bằng nhiều cách thức khác nhau, và việc chữa lành này là một trong những phương cách riêng tư nhất.
Giữa hai bài đọc nói về sự phục hồi này, chúng ta nghe một phần thư thánh Giacôbê hướng dẫn cách đối xử với những người có dáng vẻ bề ngoài khác biệt. Thánh Giacôbê nhắc nhở cộng đoàn không được tỏ ra thiên vị dựa trên sự giàu có hoặc dáng vẻ bên ngoài của con người. Lời cảnh báo đó cho thấy một số thách đố cũng như những thiếu sót nơi cộng đoàn của ngài, trong đó có lẽ nhiều người đã tỏ ra coi thường những người đang thiếu thốn. Để chống lại điều này, thánh Giacôbê nhắc nhở cộng đoàn về việc Thiên Chúa quan tâm đến người nghèo và dễ bị tổn thương nhất.
Mỗi bài đọc Chúa nhật hôm nay có thể thôi thúc chúng ta cầu nguyện và hành động. Bài đọc một và bài Tin mừng cho thấy quyền năng của Thiên Chúa trong việc đổi mới chúng ta, ngay cả trong và nhất là sau những giai đoạn đau khổ. Các bài đọc này cũng nhắc nhở chúng ta quan tâm đến nhu cầu thể lý và tinh thần của cộng đoàn, lấy Đức Kitô làm mẫu gương cho chúng ta. Ngoài ra, bài đọc hai nhắc nhở chúng ta không nên phân biệt đối xử khi chăm sóc cho nhau, hãy đối xử với mọi người cách trân trọng và xứng với nhân phẩm.
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Trang Tin Mừng hôm nay cho ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc.
Thông thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có TN 23-B185
Thông thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.
Với trang Tin Mừng hôm nay, ta thấy Thánh Máccô trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa câm vừa điếc. Câm là không nói được. Điếc là không nghe được. Như vậy, người vừa câm vừa điếc thì không còn khả năng để sống chung với người khác, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu đối với họ. Và người câm điếc sống trong gia đình nào, thì họ sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình đó. Do đó, hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc thể hiện lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.
Những gì Isaia loan báo mấy trăm năm trước đã ứng nghiệm. Đó là Đấng Cứu Thế ngự đến giữa dân người, cho người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại... và hơn xa mức con người trông đợi nữa là người đến không chỉ để tỏ lòng xót thương những người đau khổ đời này, mà nhắm chương trình xa hơn, rộng lớn hơn là cứu chuộc loài người khỏi khổ đau đời đời.
Điều này ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; Chính Người sẽ đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (Is 35, 4-7).
Tuy nhiên, có lẽ chúng ta lấy làm lạ là tại sao Chúa Giêsu không chữa cho anh câm điếc này trước đám đông mà lại đem anh ta riêng ra để chữa và còn cấm những người chứng kiến cao rao phép lạ này.
Người câm điếc được nhắc đến trong Tin mừng hôm nay đã phải mang nỗi khổ và có lẽ phải sống một thế giới riêng, tách biệt với mọi người. Chắc anh phải khổ sở và cô đơn lắm vì anh không hiểu được ai, cũng như không có mấy ai hiểu được anh. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất hiểu rõ nỗi khổ của anh và sẵn sàng cứu giúp anh thoát khỏi cảnh ngộ đáng thương này.
Ta vừa chứng kiến một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào tai và lưỡi anh. Người còn bảo: "Hãy mở ra" Lập tức lưỡi và tai anh được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.
Người câm điếc Chúa Giêsu chữa lành, theo một cách nào đó cũng là hình ảnh của nhiều trong chúng ta. Bởi vì, chúng ta không bị câm ngọng điếc về mặt thể lý, nhưng bị câm điếc về mặt thiêng liêng. Đã có biết bao người trở nên, ngọng nghịu, điếc lác về mặt tâm linh. Họ không tha thiết cầu nguyện và ngại ngùng đến với Thiên Chúa. Họ cảm thấy khó khăn tâm sự, đối thoại với Chúa và cũng cảm thấy khó khăn trong việc để lắng nghe Chúa nói với họ.
Chúng ta điếc đặc trước Lời Chúa, ù loà trước tiếng lương tâm, lãng tai trước những nhu cầu của anh chị em chung quanh khi chúng ta thoả hiệp với tội lỗi, nhân nhượng với ích kỷ và sống chung với hèn nhát. Chính lúc đó, chúng ta vô tình chuốc lấy cái bệnh trụt lưỡi và cái khiếm thính mãn tính. Chúng ta sợ đối diện với Lời Chúa nên ngại đặt mình trước mặt Ngài. Vì Lời Chúa là gươm hai lưỡi, thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can. Lời Chúa thẳng băng, luôn mới mẻ, sẵn sàng phanh phui, không nể vì, cũng chẳng thoả hiệp. Chúng ta sợ những phút trầm tư, run rẩy, khi phải lặn sâu xuống lòng mình, bởi lẽ ở đó, tiếng Chúa đang mời gọi, tiếng lương tâm đang kêu réo ới ời.
Không chỉ khoái điếc, chúng ta còn thích ngọng. Trước bao gương mù gương xấu, chúng ta ú ớ không nói được chi, không dám sửa bảo cũng không còn tự tin để chấn chỉnh con cái, bạn bè và đồng nghiệp... vì lẽ chúng ta chưa làm gương tốt đủ, ngôn hành bất nhất, chúng ta không hơn chi các người khác; chúng ta giống hệt các biệt phái ham chuộng bề ngoài mà quên mất nội tâm: miệng thì nam mô, bụng thì mưu mô; lời thì bác ái, lòng thì bái ác; ngoài thì thương yêu nhưng dạ thì ưa thiêu; hết lòng với kẻ ở xa mà đoạn tình với người ở gần, rất gần, ngay trong nhà mình, trong cộng đoàn mình. Vì thế, chúng ta ù ù cạc cạc trước bao điều chướng tai gai mắt. Bên cạnh đó, chúng ta sợ liên luỵ, ngại dấn thân và thích an phận...
Ta và nhiều người có thể không bị câm điếc thật sự về mặt thể lý, nhưng chúng ta đang bị câm điếc về mặt tinh thần. Chúng muốn biến chúng ta thành những hòn đảo. Chúa muốn chúng ta phải chia chia sẻ và cho đi. Vì con người thường chuộng giầu và dễ khinh giầu. Lời Chúa dạy chúng ta thực hiện những dấu chỉ của ơn cứu độ khi chúng ta biết quan tâm tới người khác, biết giúp đỡ những người khó nghèo, biết tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Thực hiện được những điều Chúa dạy là chúng ta đã biểu lộ những dấu chỉ của ơn cứu độ.
Có những người câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng vv...Còn điếc thiêng liêng là những người không muốn nghe Lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình vv...Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi...như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản.
Trong trường hợp này chúng ta phải làm gì đây? Thưa chúng ta đã có sẵn lời đáp trong bài Tin Mừng: hãy bắt chước người câm điếc trong bài Tin Mừng của thánh Máccô, hãy đi tìm kiếm Đức Kitô, hãy cùng Ngài ra khỏi đám đông và hạnh phúc ở bên Đấng có đầy uy quyền trên sinh mạng của mọi người. Hãy để Chúa mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, hãy để Ngài khai thông đôi tai điếc lác nặng nề của chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta hãy nói chuyện, hãy đối thoại với Ngài, nghĩa là chúng ta phải siêng năng cầu nguyện để Chúa thực hiện nơi chúng ta điều Chúa đã làm cho người câm điếc. Chúng ta hãy để Chúa chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng của chúng ta.
Trang Tin Mừng hôm nay cho ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi nữa! "Epphatha- Hãy mở ra" là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân. Amen.
Một tác giả nào đó đã nói, đại ý: điểm khác biệt nổi bật nơi con người là có ý chí. Không có ý TN 23-B186
Một tác giả nào đó đã nói, đại ý: điểm khác biệt nổi bật nơi con người là có ý chí. Không có ý chí, con người chỉ là khúc gỗ buông trôi theo dòng chảy cuộc đời. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, dù ở bất kỳ bậc sống nào, chúng ta cũng cần có ý chí và nghị lực để vươn lên. Thời nào cũng có những cậu ấm cô chiêu cậy vào cha mẹ có chức có của, ỷ nại người khác. Những người này, dù có được nâng đỡ cũng không thể thành nhân và thành đạt, nếu bản thân không có ý chí. Vì thiếu nghị lực, một số người, trong đó có những người còn rất trẻ, đã dễ dàng quyên sinh khi gặp bế tắc. Giữa dòng đời ngược xuôi bôn ba, đầy những cạm bẫy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy can đảm lên!
Bài đọc I đưa chúng ta về lại thời lưu đày của dân Do Thái. Họ bị bắt đi đày ở Ba-by-lon vào năm 587 trước Công nguyên. Vua nước Giu-đa và các quan lại và hầu hết dân chúng đều phải rời quê cha đất tổ, sống cảnh tha hương nhục nhã ê chề. Họ thường hướng về quê hương, tưởng nhớ quá khứ hào hùng của dân tộc. Họ cầu nguyện xin Chúa giải thoát. Và, Chúa đã báo tin vui qua môi miệng ngôn sứ I-sai-a. Vị ngôn sứ khẳng định: “Can đảm lên đừng sợ! chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em”. Thực vậy, vào năm 538 trước Công nguyên, Thiên Chúa đã dùng vua Ba Tư là Ky-rô cho người Do Thái hồi hương để phục hồi xứ sở. Thiên Chúa đã giải phóng dân Ngài. Nhờ quyền năng của Ngài, sa mạc sẽ nở hoa, miền khô cạn sẽ thành ao hồ. Con người sẽ được tự do.
Sống trên trần gian, hết thảy chúng ta đang là những người lữ hành. Theo nhãn quan Ki-tô giáo, đích điểm của cuộc lữ hành này là Quê Trời, hay còn gọi là Thiên Đàng. Người Ki-tô hữu tin rằng, họ không đơn lẻ trong hành trình này. Họ luôn có Chúa đồng hành để nâng đỡ chở che. Lịch sử cuộc đời cá nhân mỗi người ít nhiều đã chứng minh điều ấy. Thiên Chúa không để con người ngã quỵ trên dòng đời. Ngài nâng đỡ những ai kêu cầu và tín thác vào Ngài.
Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian để khẳng định: con người là tạo vật được Chúa yêu thương. Ngài săn sóc họ chu đáo, đến nỗi mọi sợi tóc trên đầu đã được Ngài đếm cả (Lc 12,7). Trong Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô kể lại việc Đức Giê-su làm phép lạ cho người vừa điếc vừa ngọng nói được. Phép lạ của Chúa Giê-su đã ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a trong Bài đọc I: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò”.
Tại sao đôi khi trong Tin Mừng, Chúa Giê-su lại cấm không cho mọi người kể lại? Các chuyên viên chú giải Kinh Thánh gọi đây là “Những bí mật thiên sai”. Đức Giê-su không muốn cho công chúng biết rộng rãi về Người, vì chưa đến thời của Người. Hơn nữa, Người không muốn cho người ta nghĩ Người như một nhà ma thuật phù phép, cũng không muốn cho họ mang quan niệm trần tục về sứ vụ Thiên sai. Người muốn dần dần mạc khải cho công chúng, để họ đón nhận sứ điệp của Người và để họ nhận biết Chúa Cha là Đấng đã sai Người đến trần gian.
Qua phép lạ Chúa Giê-su đã làm, người bệnh được giải phóng khỏi mọi ràng buộc. Thánh Mác-cô đã nói đến việc anh này được chữa khỏi, giống như có một sợi dây vô hình nào đã buộc lưỡi anh ta lại, và nay lưỡi được mở ra. Cách nói này muốn diễn tả Đức Giê-su là Đấng đến để giải thoát con người. Người dẫn đưa họ không phải chỉ thoát khỏi bệnh tật, mà còn thoát khỏi tội lỗi, khỏi những đam mê lôi cuốn và ràng buộc con người trong vòng cương tỏa của quyền lực ác thần.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, Ki-tô hữu cùng chết và phục sinh với Đức Giê-su. Bí tích này làm cho Ki-tô hữu trở thành tạo vật mới, thoát khỏi hậu quả của tội Nguyên tổ. Trong suốt cuộc lữ hành trần thế, Đức Giê-su là người chỉ đạo, người Thầy và người Bạn hướng dẫn chúng ta. Tin vào Đức Giê-su, chúng ta phải thực hành lời Người giáo huấn. Thánh Gia-cô-bê (Bài đọc II) đã khuyên các tín hữu: anh chị em đã tin vào Đức Giê-su thì đừng đối xử thiên tư, trọng người này và khinh người nọ. Những gì thánh Gia-cô-bê viết trong thư phản ánh cho thấy vào thời của ngài, đã có sự chia rẽ phân biệt giữa người giàu và người nghèo ngay trong các cộng đoàn đức tin. Ngày hôm nay, trong xã hội và trong các cộng đoàn giáo xứ của chúng ta, sự phân biệt ấy vẫn tồn tại. Những chia rẽ và ghen tỵ này làm ảnh hướng không tốt đến hình ảnh của Giáo hội. Đức tin vào Chúa Giê-su phải giúp chúng ta đối xử thân thiện với hết mọi người, vì tất cả là anh chị em của cùng một Cha trên trời, như Chúa Giê-su đã nhiều lần khẳng định.
Giữa cuộc sống còn nhiều âu lo trăn trở trước những khó khăn, thất bại và lo toan cơm áo gạo tiền, xin cho chúng ta biết can đảm phó thác vào Chúa, là Đấng Quan phòng yêu thương chúng ta. Hãy can đảm lên! Chúa Giê-su đã dạy: Cha trên trời quyền năng và nhân ái vượt xa những người cha trần thế. Ngài sẵn sàng lắng nghe và phù trợ chúng ta (x. Mt 7,7-12).
Niềm vui có Chúa". Hỏi: Niềm vui có Chúa đến từ nơi nao? Thưa: Chúa là nguồn vui, có Chúa TN 23-B187
"Niềm vui có Chúa". Hỏi: Niềm vui có Chúa đến từ nơi nao? Thưa: Chúa là nguồn vui, có Chúa sẽ có niềm vui ngập tràn. Theo Thánh Phaolô, niềm vui này "xuất phát từ mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, từ sức mạnh phục sinh của Người". Đức Thánh Cha Phanxicô thì nói: "Niềm vui Kitô giáo đến từ chính Thiên Chúa". Đức cố Giáo hoàng Bênêđictô XVI khẳng định: Niềm vui đến từ đức tin: "Tôi được yêu mến. Tôi có một vai trò trong lịch sử. Tôi được đón nhận, được yêu thương".
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta niềm vui của dân Israel, niềm vui của kẻ điếc người câm, nay cả hai kẻ nghe được, người nói được. Vui quá !
Niềm vui cho dân Israel
Thấy cảnh cùng cực của dân Chúa thời Cựu Ước khi phải đi đầy, lâm vào cảnh nước mất nhà tan, quê hương bị ngoại bang chiếm đóng, phần lớn dân chúng bị bắt đem đi phục dịch và nô dịch cho đế quốc xâm lược, thời gian lưu đày dường như muốn kéo dài đến vô tận. Bỗng ngôn sứ Isaia loan báo về triều đại của Thiên Chúa ngự trị. Mọi người sẽ sống hạnh phúc trong vương quốc của Người; nơi đó người câm nói được, kẻ điếc nghe được, người què nhảy nhót… mọi người rạo rực niềm vui.
Đến thời Chúa Giêsu, vùng Tia tới sion, bao kẻ mù què, câm điếc được chữa lành, họ tràn nghiệp niềm vui.
Tóm lại: có Chúa sẽ có niềm vui, Chúa là niềm vui cho dân Chúa.
Niềm vui cho dân Israel
Trong lúc dân Israel thời Isaia đang ở trong tình trạng bi đát. Quê hương bị ngoại bang chiếm đóng. Phần lớn dân chúng bị bắt đem đi phục dịch và nô dịch cho đế quốc xâm lược. Thời gian lưu đày dường như muốn kéo dài đến vô tận.
Đang lúc lối tận, đường cùng, quẫn bách như thế, những lời lẽ dịu dàng của Thiên Chúa phán qua miệng Isaia mang đến cho Dân Chúa đang bị xao xuyến trong cảnh lưu đày lòng tràn ngập niềm vui: "Can đảm lên, đừng sợ ! Này đây Thiên Chúa các người đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các người" (Is 35, 4). Chúa sai ông đến với những kẻ lòng đang "hốt hoảng" và bảo họ: hãy phấn khởi lên, đừng sợ; này Chúa đang đến trả oán (kẻ cường bạo); nhưng với dân của Israel thì đó là thời gian cứu độ. Mắt kẻ mù sẽ mở, tai kẻ điếc sẽ thông, lưỡi người câm sẽ nói; và nước sẽ phun trong sa mạc.
Thật ủi an biết bao, bởi dân Chúa cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, mình là đối tượng của lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy nay thể hiện cụ thể nơi lời nói cũng như việc làm của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người.
Niềm vui cho con người thời Chúa Giêsu
"Effatà - Hãy mở ra"(Mc 7,34). Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa Cha tình yêu, đến để hoàn tất lời hứa, mang lại niềm vui cho con người. Lời Chúa Giêsu hô to sau hơi thở dài trước mặt người câm điếc, với bàn tay đưa ra đụng vào tai và lưỡi anh ấy, "tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng"(Mc 7, 37). Ta đặt mình vào địa vị của những người được Chúa Giêsu chưa mới thấy được họ vui biết chừng nào.
Từ việc chữa lành người câm điếc "mở ra" cho cho thế giới chúng ta một sự khởi đầu với các quan năng nghe Lời Chúa và cất lời ca tụng những điều kỳ diệu của Chúa. Chúa đã làm người để con người bị câm điếc bên trong do tội lỗi có khả năng nghe tiếng Chúa, tiếng của tình yêu nói với con tim, và dạy con người học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền cho nhau những công trình tốt đẹp Chúa đã làm trong niềm vui ơn cứu độ.
Thế giới đang cần niềm vui của Chúa
Ngày nay nhiều người mất khả năng nghe lời Chúa và tiếng nói của đồng loại. Có người mất khả năng nói ngôn ngữ của tình yêu, hòa bình và xây dựng với chính mình cũng như tha nhân. Có người mù không nhìn thấy những điều kỳ diệu của Đấng Sáng Tạo mà ca tụng Chúa, cũng như không thấy được sự tốt đẹp nơi tha nhân. Đời chẳng mấy vui.
Isaia loan báo, sẽ đến ngày Thiên Chúa đến đem lại niềm vui khi mở mắt người mù, mở tai người điếc, cho người què đi được và người câm nói được. Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu đã thực hiện lời Isaia tiên báo năm xưa là chữa lành cho người câm điếc để anh nghe và nói được. Hành động Chúa kéo anh ta ra khỏi đám đông hỗn độn gồm cả dân ngoại lẫn dân Do Thái để anh thuộc về Chúa chứ không còn thuộc về loài người nữa. Chúa Giêsu đặt tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh chứng tỏ Chúa không chỉ đụng chạm đến tai, đến miệng của anh, mà Chúa còn chạm đến trọn con người, gồm trái tim và tâm hồn anh nữa. Chúa Giêsu không chỉ chữa anh khỏi câm, ngọng, Chúa còn mở tai, mở mắt tâm hồn để anh có thể nhận ra Người là Thiên Chúa quyền năng và lắng nghe Lời của Chúa.
Ngày nay, có quá nhiều tiếng ồn bên ngoài và cả bên trong ta, như âm thanh của tiền bạc, danh vọng và các thú vui, làm giảm khả năng nghe, nhìn và nói về Thiên Chúa, lời Chúa không thấm vào tâm hồn chúng ta được khiến chúng ta mất vui. Nhiều người mất khả năng lắng nghe nhau bởi họ không muốn nghe người khác hay họ nói nhiều hơn nghe. Nguy hiểm hơn là tình trạng câm điếc trong tâm hồn đang xảy ra nơi chúng ta, khiến ta không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, không nhìn thấy những việc tốt đẹp Chúa làm trong đời ta. Có người điếc vì làm ngơ trước lời kêu cứu của anh chị em đang gặp khổ đau. Có người câm vì sợ hãi không dám nói lên sự thật và không dám bênh vực sự thật. Có nhiều người vì quyền lợi, địa vị hoặc vì một thứ bổng lộc nào đó của xã hội, mà chấp nhận biến mình thành kẻ câm, điếc hoặc mù lòa. Thế giới thiếu vắng niềm vui.
Lạy Chúa, xin đến chạm vào tai, môi miệng và mắt con, để con nghe được tiếng Chúa, thấy được tha nhân và ca tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể rằng “Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với TN 23-B188
Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể rằng “Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Chúa Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh” (Mc 7: 32). Người này bị điếc hoàn toàn; không thể nghe thấy gì cả. Hơn nữa, điếc và câm thường liên quan với nhau vì con người học nói bằng cách nghe. Một người không thể nghe giọng nói của chính mình hoặc giọng nói của người khác, nhất là bị điếc từ khi mới sinh hoặc mất khả năng nghe khi còn nhỏ tuổi, thì hầu như không thể nói gì được, hoặc chỉ nói ú ớ, ngọng nghịu, không làm cho ai hiểu được, vì mọi người đều sử dụng thính giác của mình trong sinh hoạt hàng ngày mọi nơi mọi lúc. Vào thời mà ngôn ngữ ký hiệu và các phương tiện trợ thính không có như ngày nay, người vừa điếc vừa ngọng như thế này bị hạn chế rất nhiều trong giao tiếp cộng đồng, dễ bị bỏ rơi, cách biệt, cô lập và trở nên cô đơn, buồn bã, “căng thẳng tâm lý – stressed” theo cách nói ngày nay.
1. Điếc lác tâm linh
Sự điếc lác tâm linh cũng không khác gì: khi chúng ta không thể nghe hoặc từ chối nghe Lời Chúa, chúng ta tự gây ra rất nhiều nguy hiểm cho mình. Khi không nghe lời Chúa, qua các cảnh báo của các mục tử của Chúa, nhằm chống lại các cơn cám dỗ và sự lôi cuốn của tội lỗi cùng những hậu quả đáng xa tránh của chúng, người ta cũng trở nên điếc lác và tự cô lập mình khỏi những ân sủng ban bình an và sự sống dành cho những “tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1 Samuel 3:9). Sự điếc lác về thể chất là một khuyết tật gây ra những hạn chế trong nhận thức, vì không thể nghe được suy nghĩ và ý kiến của những người khác. Dẫu sao nó không gây ra cái chết thể lý, nhưng sự điếc lác tâm linh thì tệ hại vô cùng. Nó không còn khả năng nghe ra những thực tại tâm linh, mà chỉ còn nghe được những tiếng kêu réo của nhu cầu bản năng, hưởng thụ thực dụng. Nó nhấn chìm nghĩ suy và cõi lòng vào những cảm giác và cảm xúc nhất thời hay thay đổi, rồi cứ lầm tưởng đó là tất cả sự thật ở đời, không còn gì sâu sắc và cao vời hơn nữa. Nó làm cho người ta suy nghĩ, nói năng, hành động và sống không có chuẩn mực đạo đức vững vàng. Dù bệnh tật, tuổi già và cái chết dần đến, nhưng người điếc lác tâm linh vẫn không tìm được cho đời mình một giá trị và ý nghĩa siêu việt nào. Đó mới là cái chết thật sự.
Lại có một số người lại bịt đôi tai tâm linh của họ. Họ làm mọi thứ để không nghe thấy sự thật, mặc dù họ biết rằng sự thật vẫn có đó. Vì sự thật không giống như cách nhìn của họ về bản thân nên họ bịt đôi tai tâm linh để khỏi nghe thấy sự thật đó. Điều khiến họ bịt đôi tai tâm linh là ý muốn chống lại, không chấp nhận nghe sự thật về cõi lòng nhiều tăm tối của họ, như ngôn sứ Êdêkiel cảnh báo: “Nhà Israel không muốn nghe lời ngươi, bởi vì chúng không muốn nghe lời Ta: quả thật cả nhà Israel đều mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá...bởi vì chúng là nòi phản loạn” (Êdêkiel 3:7-9).
Những ai tự làm mình điếc về mặt tâm linh là tù nhân của những dối trá mà họ chất chứa trong chính họ. Họ ngầm nghĩ rằng Thiên Chúa không hiểu biết hơn họ về những gì là tốt nhất cho họ. Giống như Ađam và Eva trong vườn địa đàng, khi chúng ta bịt tai tâm linh của mình, chúng ta “đã chọn mình hơn Thiên Chúa và qua đó đã khinh thường Thiên Chúa: con người đã chọn chính bản thân chống lại Thiên Chúa, chống lại những đòi buộc của thân phận thụ tạo của mình, và do đó chống lại cả lợi ích riêng của mình” ( GLGHCG số 398 ). Chúng ta coi lời Chúa chỉ là một tiếng nói thích thì nghe, không thích thì thôi, chứ không thực sự là tiếng nói của Thiên Chúa. Nhiều người ngày nay cố gắng giản lược mọi điều thánh thiêng trong Kinh thánh thành một điều gì đó thuần túy con người, và do đó không cần thiết phải tin, như Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI đã nói trong Verbum Domini: “...bất cứ chỗ nào xem ra có sự hiện diện của một yếu tố thần linh, thì đều phải được giải thích cách khác và phải giản lược mọi sự vào chiều kích nhân loại. Hậu quả là người ta đề nghị những cách giải thích phủ nhận tính lịch sử của các yếu tố thần linh. Một lập trường như thế chỉ có thể gây ra những tác hại trong đời sống Giáo Hội, vì gieo rắc sự hoài nghi đối với các Mầu nhiệm căn bản của Kitô giáo và giá trị lịch sử của chúng, chẳng hạn việc thiết lập phép Thánh Thể và sự Phục Sinh của Đức Kitô” (Tông Huấn Verbum Domini - Lời Chúa, của Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, ngày 30-11-2010, số 35, b-c).
Giáo hội vẫn tiếp tục nói những lời của Chúa Giêsu, và những lời đó vẫn còn khó nghe lắm. Chúng ta cần chấp nhận những lời dạy của Chúa Giêsu qua Giáo hội như Thánh Luca viết: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10: 16). Cách duy nhất để chúng ta “trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Ngài đã hứa cho những ai yêu mến Ngài” (Gc 2:5) là lắng nghe những lời của Chúa Giêsu, qua Giáo hội. Chúng ta phải để Chúa Giêsu rửa sạch đôi tai tâm linh của chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi tình trạng điếc lác tâm linh.
2. Chúa chữa lành bệnh câm điếc, một dấu chỉ cứu độ
Người vừa điếc vừa ngọng này không phải là không thể phát ra bất cứ âm thanh nào nhưng anh ta rất khó nói ra thành lời rõ ràng để có thể giao tiếp với người khác. Anh ta bị coi gần như câm hoàn toàn, ngoại trừ một vài âm thanh ú ớ vô nghĩa. Chúa Giêsu vừa trừ quỷ cho con gái một bà gốc Phênixi xứ Xyri, ở vùng Tia và Siđon (Mc 7:24-30), sau đó, vượt qua biển hồ Galilê, đi về phía Đông, đến miền Thập Tỉnh, ngay giữa vùng dân ngoại giáo: “Chúa Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Siđon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh” (Mc 7:31). Nhưng danh tiếng là một người chữa bệnh thần kỳ đã lan truyền đến vùng đó trước khi Ngài đến. Chính vì thế “Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Chúa Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh” (Mc 7:32). Tuy nhiên, thay vì làm những cử chỉ đơn giản như thường khi, hôm nay Ngài lại hành động khác lạ: “Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: Épphatha, nghĩa là: hãy mở ra!” (Mc 7:33-34). Thánh Máccô muốn chúng ta nhìn xa hơn việc chữa lành thể xác đơn thuần. Thánh sử muốn chúng ta nhận ra nơi việc chữa lành này một dấu chỉ: Chúa Giêsu nói và hành động như Đấng Mêsia đến từ Thiên Chúa. Ngài khai mở Nước Trời của Thiên Chúa, Cha Ngài. Ngài đến vùng đất ngoại giáo, vì sứ mạng và Ơn Cứu Độ của Ngài là dành cho mọi người, kể cả những người ngoại giáo, không chỉ dân Do Thái. Thánh Máccô là môn đệ của thánh Phêrô và soạn sách Tin Mừng của mình cho các Kitô hữu ở Rôma, nhiều người trong đó có gốc gác ngoại giáo. Chúa Giêsu nhìn thấy nơi người câm điếc này khuyết tật của của dân tộc Israel, cũng là của tất cả những người ngoại giáo không nhận biết Thiên Chúa. Như vậy Tin Mừng và Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu cũng dành cho tất cả chúng ta. Chúa Giêsu chạm vào tai và lưỡi của người câm điếc, “ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: Éppha-tha” (Mc 7:34). Chúa Giêsu như muốn chạm vào toàn bộ con người của người ấy, cả thể lý và tâm linh, và cả mỗi người chúng ta, bằng sự kiên nhẫn và quan tâm, tìm cách đánh thức đức tin của từng người vào Thiên Chúa, là Cha trên trời, dù tâm trí của từng người có chậm chạp và do dự thế nào. Hơn cả sự chữa lành thể xác, phép lạ này đích thực là sự thức tỉnh đức tin, như ngôn sứ Isaia khuyến khích: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Ngài sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được” (Is 35:4-5).
Hậu quả của việc câm điếc tâm linh là nhận thức của chúng ta về sự thật bị suy yếu. Nếu cuộc sống của chúng ta không có khả năng “nghe” tiếng Chúa và “nói” với Chúa thì mọi nỗ lực của chúng ta không có điểm tựa vững chắc. Mọi tri thức chúng ta có được từ khoa học, xã hội học, lịch sử, tâm lý học, đạo đức học… sẽ bị bóp méo nếu chúng ta không lắng nghe và thực thi Lời Thiên Chúa như chuẩn mực quy chiếu. Mối liên quan giữa việc điếc và câm cho thấy các tác động của tội lỗi trên toàn bộ con người. Những người điếc Lời Chúa khó mà nói về các vấn đề tâm linh sao cho đúng. Ngay cả những người có nhiều kiến thức khoa học mà điếc Lời Chúa thì cũng bộc lộ ra những vấp váp lúng túng khi nói về các sự thật tâm linh. Tuy nhiên nếu người ấy mở tai, mở lòng để tiếp nhận sự thật tâm linh thì khả năng diễn đạt về các vấn đề tâm linh của người ấy sẽ tiến triển nhiều. Cũng như người câm đã được Chúa Giêsu chữa lành về thể lý để anh ta có thể nói, thì chúng ta phải được Chúa Giêsu chữa lành về tâm linh để chúng ta có thể rao truyền Lời Chúa, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động chia sẻ yêu thương.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Trình thuật Tin Mừng này nhấn mạnh đến nhu cầu chữa lành song song. Trước hết là chữa lành bệnh tật và đau khổ về thể xác, để phục hồi sức khỏe thể xác; mặc dù mục tiêu này không hoàn toàn có thể đạt được trên cõi trần gian, bất chấp nhiều nỗ lực của khoa học và y học. Nhưng có một cách chữa lành thứ hai, có lẽ khó khăn hơn, đó là chữa lành khỏi nỗi sợ hãi. Chữa lành khỏi nỗi sợ hãi vốn thúc ép chúng ta gạt bỏ người bệnh, gạt bỏ người đau khổ, người khuyết tật. Và có nhiều cách để gạt bỏ, thậm chí bằng cách thể hiện lòng trắc ẩn giả tạo hoặc bằng cách phớt lờ vấn đề; chúng ta vẫn điếc và câm trước nỗi đau của những người bị bệnh tật, đau khổ và khó khăn. Quá thường xuyên, người bệnh và người đau khổ trở thành vấn đề, đang khi họ nên là dịp để chúng ta thể hiện sự quan tâm và liên đới xã hội với những người yếu thế nhất” (Kinh truyền tin, quảng trường Thánh Phêrô, 09 tháng Chín, năm 2018).
Thánh Giacôbê khuyến cáo chúng ta: “Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Ngài đã hứa cho những ai yêu mến Ngài hay sao?” (Gc 2:5).
Đại hội Thanh niên Thế giới (hay Ngày Quốc tế Giới trẻ) lần thứ 15 (15-20/8/2000) tại Rô-ma đã TN 23-B189
Đại hội Thanh niên Thế giới (hay Ngày Quốc tế Giới trẻ) lần thứ 15 (15-20/8/2000) tại Rô-ma đã kết thúc hết sức tốt đẹp, ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Trong khi Ủy ban tổ chức dự trù chỉ có 400.000 bạn trẻ tham dự ngày khai mạc, con số đã lên tới hơn 700.000 người đứng chật kín quảng trường thánh Phê-rô và đại lộ Via della Conciliazione (Đường hòa giải). Trong những ngày tiếp theo, hơn 350.000 bạn trẻ đã lãnh nhận bí tích giải tội. Hàng triệu bạn đã kính viếng các nhà thờ và theo các buổi học giáo lý do 300 hồng y, giám mục phụ trách. Trong nghi thức Đi đàng Thánh giá tại hí trường Colosseo, ban tổ chức dự trù chỉ có khoảng 300.000 người tham dự, con số thật sự đã lên đến hơn nửa triệu. Vào những ngày chính thức của đại hội (19-20/8) đã có hơn 2 triệu bạn trẻ tuốn về. Đông đảo như thế mà chỉ có hai bạn bị lấy cắp đồ, mà chẳng có cành cây nào bị bẻ gẫy, thùng bia nào bị dẫm đạp. Các bạn trẻ đa phần chỉ dùng nước suối. Họ cũng ca hát, nhảy múa, trình diễn như tính cách của người trẻ, song toàn là hát thánh ca, trình diễn những hoạt cảnh lấy từ Tin Mừng. Nhớ lại năm 1969, vẫn ngày 15/8, Woodstock Festival (Liên hoan nhạc rock tại Hoa Kỳ) cũng đã quy tụ được 400.000 bạn trẻ. Nhưng ở đó chỉ có hoan hô đả đảo, ăn mặc lố lăng, thoải mái dùng ma túy và tự do cảm nghiệm tình dục (theo CD Encarta 98). Nhưng điều đáng phấn khởi nhất trong Đại hội Giới trẻ lần này là ngay sau ngày bế mạc, 5,000 bạn trẻ thuộc phong trào Tân Dự Tòng đã quyết dâng mình cho Chúa trong đời tu (theo các bản tin VietCatholic). Người ta bảo đây là một phép lạ Thiên Chúa ban cho nhân loại đầu thiên niên kỷ, một phép lạ đã mở mắt cho nhiều người, bên trong cũng như bên ngoài Giáo Hội. Gọi thế cũng chẳng ngoa, vì phép lạ đích thực không phải là biến đổi vật chất song là biến đổi tâm hồn, không phải là chuyện Thiên Chúa làm theo ý con người mà là con người làm theo ý Thiên Chúa..
Mở Đôi Mắt Để Thấy Các Phép Lạ
Phép lạ hôm nay là phép lạ mở tai và lưỡi một người ngọng điếc, nhưng thật ra nhắm mở mắt các Tông đồ. Thật vậy, câu chuyện nằm trong một văn mạch mà ngay từ đầu đã nói đến sự ngu muội của họ trước các phép lạ Đức Giê-su thực hiện (x. Mc 6,52) và sẽ kết thúc với trình thuật chữa lành người mù ở Bết-xai-đa và trình thuật Phê-rô tuyên tín sau câu hỏi: “Anh em bảo Thầy là ai?” (x. Mc 8,22-30).
Thành thử trong câu chuyện chữa kẻ ngọng điếc này, thiết tưởng phải nhấn mạnh đến vai trò giáo huấn của các phép lạ. Sau khi đã hết sức khoái chúng, nay có lẽ ta hờn dỗi chúng (thời đại khoa học mà!) và thích các trang diễn từ hơn, vì coi các trang này dễ chịu hơn với óc phê bình và bổ dưỡng hơn cho việc suy niệm. Nếu thế thì quả là không am hiểu chẳng những về các phép lạ mà còn về chính ý nghĩa của Tin Mừng.
Trong toàn bộ hành vi và lời nói làm nên Tin Mừng, tất cả đều có giá trị giáo huấn, tất cả phải khiến dâng lên trong ta câu hỏi của Mác-cô, câu hỏi số một về Đức Giê-su: “Thầy là ai? Thầy mang đến cho chúng con những gì?” (x. Mc 8,29).
Chính Đức Giê-su đã trả lời khi Gio-an Tẩy giả còn ngập ngừng: “Phải chăng Thầy chính là Đấng người ta trông đợi?” Và câu trả lời là cả một chuỗi những phép lạ, là cả một đoạn lấy lại từ bản văn I-sai-a. Bắt đầu bằng một tin tức đầy an ủi nhưng còn mơ hồ: “Chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em”, I-sai-a đã vội vàng cụ thể hóa nó: “Mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc được nghe, kẻ què sẽ nhảy nhót, người câm sẽ reo hò, nước sẽ vọt lên cho những ai chết khát” (Is 35,4-6).
Vừa rất cụ thể vừa rất biểu tượng! Qua các ví dụ này, I-sai-a muốn mô tả tất cả cảnh khổ của con người và lòng nhân từ mạnh mẽ của Thiên Chúa. Như thế ông cung cấp cho ta chìa khóa để hiểu đúng các phép lạ của Đức Giê-su. Người đã thực sự hoàn tất nhiều cuộc chữa lành và nhiều hành vi kỳ diệu, nhưng như những dấu chỉ cho thấy chính Thiên Chúa, qua Người, đang đến cứu chúng ta: mọi khốn khổ thể lý và tinh thần sắp lùi bước. Mỗi phép lạ là một kiểu áp-phích: Thiên Chúa cứu các bạn, Người có khả năng làm điều đó, và Người đang làm qua Đức Giê-su Con của Người. Hành vi ngoạn mục này thành thử chẳng phải là một điều kỳ diệu cần tranh cãi xem có thể hay không có thể. Ai có thể áp đặt các giới hạn khả năng cho Đấng Tạo Hóa? Đó là một hành vi hết sức có thực nhưng đặc biệt mang giá trị dấu chỉ, cần được chiêm ngắm như dấu chỉ.
Đã chẳng có ai biết đọc các phép lạ của Đức Giê-su khi Người hoàn tất chúng. Bằng chứng là chính các đám đông từng khâm phục Người sẽ đẩy Người đến thập giá, các thủ lãnh tôn giáo đã giải thích chúng như do quyền lực ma quỷ và họ vẫn mãi cứng lòng, còn môn đệ Người thì cho đến cùng vẫn không hiểu. Việc chữa lành kẻ ngọng điếc đúng là nằm trong một nhóm văn bản nói về sự không hiểu của họ, và toàn bộ này kết thúc bằng một trận la mắng om sòm: “Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh em ngu muội thế? Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8,17-18).
Nhưng chỉ có thể nhìn phép lạ như sự bày tỏ cách lẫy lừng lòng nhân hậu và sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa sau ngày Phục sinh thôi. Lúc đó, người ta mới hiểu Đức Giê-su là chính sức mạnh cứu rỗi ấy đến độ nào: “Ngài là ai, lạy Chúa? Là những gì các phép lạ nói về Ta.”
Chúng ta có hiểu không? Có biết đọc các phép lạ không? Khắp trong thế giới, Đức Giê-su phục sinh đang hành động, nhiều người điếc đang nghe, nhiều người câm đang nói, nhiều cuộc sống hồi sinh, như qua ĐH Thanh niên Thế giới nói đầu bài. Song phải có mắt mới thấy được.
Mở Đôi Tai Để Nghe Chúa Và Người
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải mở tai nữa. Mở tai để lắng nghe. Người ngọng điếc là biểu tượng của Ki-tô hữu chưa thực sự là Ki-tô hữu. Vì chính với ta mà Đức Giê-su nói: “Hãy mở ra”. Chúng ta quá điếc đặc! Được dựng nên để mở ra trước các sứ điệp của Thiên Chúa và của anh em mình, tai chúng ta đã đóng kín. Tại sao?
Đôi khi vì có một phản ứng nghi ngờ. Tôi hết sức yên ổn trong các tư tưởng và các xác tín của tôi. Nay bạn, kẻ khéo nói, bạn sắp làm tôi rối loạn. Thông thường hơn, nhưng thật khó để lôi nó ra ánh sáng, thái độ khinh bỉ kẻ khác làm chúng ta điếc đặc. Đúng ra chúng ta vội nói và vội bịt tai vì nghĩ rằng điều mình nói ý vị hơn các diễn từ của anh em mình. Còn nếu là một thủ lãnh cộng đoàn, thì những thành kiến và óc độc tài của chúng ta dễ khiến chúng ta không muốn nghe những cấp dưới nói thật nói thẳng. Tệ hơn nữa là có lúc tìm cách bịt miệng những anh em đó.
Chắc chúng ta đã từng tham gia vào một nhóm linh đạo Thánh Kinh, suy niệm Tin Mừng, nơi đó các buổi họp có thể khởi sự bằng một vòng phát biểu. Ai nấy phải nói và ai nấy phải nghe! Và có lúc chúng ta cảm thấy bầu khí thật nặng nề, vì một số (trong đó có chúng ta) phải hết sức cố gắng lắng nghe dẫu rất ngứa ngáy muốn cắt ngang, để bổ túc và nói ngược lại. Nhưng im lặng thì có lợi! Ta khám phá niềm vui đón nhận tư tưởng và tâm lòng kẻ khác. Điều đó sẽ giúp chúng ta, khi đến lượt mình, sẽ nói với ý thức rằng mình không đem đến tất cả. Cung giọng chúng ta sẽ khiêm tốn hơn, những người khác có thể mở tai lắng nghe, đang khi thói tự phụ của chúng ta làm họ bịt tai lại. Chính khi tai của kẻ ngọng điếc mở ra mà lưỡi anh ta cũng nói được. Chính khi đã lắng nghe kỹ, chúng ta mới có những câu phát biểu đi vào lòng người.
Nhưng lắng nghe không có nghĩa là để cho ai đó cứ độc quyền nói. Là ngôn sứ của Tin Mừng, chúng ta phải đòi (chứ chẳng phải xin) cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội được lên tiếng trong xã hội, Lời hằng sống được tự do ngân vang trên sách báo, các phương tiện truyền thông; chúng ta phải làm sao cho mọi con người, mọi công dân đều có quyền phát biểu, nhất là những kẻ “thấp cổ bé miệng”; chúng ta phải làm sao cho mọi ý kiến chính đáng không bị phớt lờ, giải thích một chiều hay bị trấn áp cấm đoán, mọi khát vọng cao đẹp nhất của tâm hồn và những cảm hứng đúng đắn nhất của tinh thần được tôn trọng và thỏa mãn; chúng ta phải làm sao để những kẻ nắm quyền chẳng còn coi mọi phương tiện thông tin là công cụ của riêng họ, cho những kẻ độc tài chẳng còn dám khẳng định mình cũng “dân chủ”, cũng “nhân đạo”, cũng “có tình có lý” khi chỉ bố thí chút quyền “kiến nghị” cho ai đã hết sức quỵ lụy hay chịu thỏa hiệp. Phải biết mở miệng, vì cất tiếng nói cách tự do là một đặc tính của con người!
Nơi trang Tin mừng mà chúng ta vừa cùng nhau lắng nghe, thánh sử Marcô kể lại cho chúng ta TN 23-B190
Nơi trang Tin mừng mà chúng ta vừa cùng nhau lắng nghe, thánh sử Marcô kể lại cho chúng ta biết về một phép lạ chữa lành mà Đức Giêsu đã thực hiện, đó là người đã chữa lành cho một người vừa bị điếc, vừa bị ngọng, có thể nghe được hiểu được, và có thể nói một cách rõ ràng. Qua phép lạ chữa lành này chúng ta được mời gọi nhận ra điều gì?
Trước hết, chúng ta được mời gọi nhận ra đó chính là tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người chúng ta. Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta và mãi yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không điều kiện, không phân biệt biên giới khoảng cách. Chúng ta có thể thấy được tình yêu thương này nơi chính khung cảnh của trang Tin mừng ngày hôm nay, đó là Đức Giêsu đã chữa lành cho người vừa điếc, vừa ngọng này nơi miền thập tỉnh, đó là miền đất của dân ngoại, để rồi bằng chính khung cảnh ấy, tình yêu thương của Thiên Chúa đã được biểu lộ nơi Đức Giêsu, tình yêu thương ấy luôn được mở rộng ra đến với tất cả mọi người, cho dù họ là người Do Thái hay dân ngoại, cho dù họ là người tội lỗi, hay công chính. Hơn thế nữa, tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người chúng ta không chỉ được mở rộng mà thôi, nhưng luôn chủ động để đi bước trước đến với mỗi người, và từng người chúng ta. Chúng ta có thể thấy được điều này nơi những cử chỉ của Đức Giêsu chữa lành cho người mắc bệnh, đó là Người đã kéo riêng anh ta ra một nơi đặt ngón tay trên lỗ tai, nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi, rồi ngước mắt lên trời và cầu khẩn cùng Thiên Chúa cho người mắc bệnh. Đó là những cử chỉ đến từ cõi lòng của Thiên Chúa, một cõi lòng luôn chạnh lòng thương đối với con người, và nhất là đối với những người đau yếu bệnh tật.
Điểm thứ hai mà chúng ta được mời gọi nhận ra qua phép lạ chữa lành này, đó chính là chúng ta được mời gọi nhận ra sự thật nơi con người của chính mình. Hình ảnh của người vừa điếc, vừa ngọng rất có thể là hình ảnh của mỗi người chúng ta hôm nay, cho dẫu không bị điếc, không ngọng về mặt thể lý, nhưng rất có thể chúng ta đang bị điếc, đang bị ngọng về mặt tâm hồn.
Bị điếc khi chúng ta khép lòng mình lại trước lời của Thiên Chúa, và bị ngọng khi chúng ta không thể nói lời của Thiên Chúa, không thể sống lời của Thiên Chúa ngay trong chính cuộc sống của mình.
Bị điếc khi chúng ta đánh mất khả năng để lắng nghe người khác, và bị ngọng khi chúng ta chỉ muốn nói những gì mà chúng ta muốn, chứ không phải những gì mà người khác muốn nghe.
Bị điếc khi chúng ta luôn cảm thấy an tâm với những gì là tối thiểu nhất trong bổn phận là một người Kitô hữu, và bị ngọng khi chúng ta không dám ra khỏi chính mình để làm triển nở những ơn lành đã được Thiên Chúa tặng ban, để sinh hoa kết trái những khả năng đã được Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta.
Bị điếc khi chúng ta chiều theo những Cám Dỗ của tiền tài, danh vọng, lạc thú, và bị ngọng khi chúng ta dần dần đánh mất chính cảm thức về tội nơi con người của chính mình. Thế nhưng, điều đó lại cho chúng ta thấy được tình yêu thương của Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta biết là dường nào! Bởi vì nơi Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể làm người, Thiên Chúa ấy đã đến trong thế gian chính là để chữa lành cho chúng ta về căn bệnh này, căn bệnh vừa điếc ngọng về mặt tâm hồn. Thế nhưng, điều quan trọng là chính là mỗi người chúng ta có dám đủ can đảm để cho Đức Giêsu giúp cho chúng ta chữa lành căn bệnh ấy hay không? Để cho Ngài giúp chúng ta chữa lành căn bệnh này, nghĩa là chúng ta dám để cho lời của Người đi vào đôi tai của chính mình, đi qua trái tim của bản thân, và đi ra đôi tay của chúng ta.
Làm được như thế nghĩa là chúng ta đang để cho lời của Đức Giêsu chạm đến con người của mình, chữa lành những thương tích trong tâm hồn của mình, và làm mới lại tâm hồn ấy bằng cách thắp sáng lên trong chúng ta ngọn lửa của tin yêu và hy vọng.
Làm được như thế nghĩa là chúng ta có khả năng mở lòng mình ra trước lời của Thiên Chúa. Chúng ta lắng nghe lời ấy và mang lời ấy vào trong chính cuộc sống thường ngày của bản thân chúng ta, và làm được như thế nghĩa là chúng ta có khả năng đón nhận người khác như họ là, chứ không phải như ý muốn của chúng ta.
Đó chính là những khác biệt, đó chính những giới hạn, đó chính là những khả năng riêng đã được Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người.
Ước gì mỗi chúng ta luôn biết mở lòng mình ra trước lời của Thiên Chúa, để nhờ đó chúng ta không chỉ khám phá ra được tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho chính mình, nhưng chúng ta còn có thể nhận ra được sự thật nơi chính con người của bản thân chúng ta. Amen.