Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người. - Ðó là lời Chúa.
Hai anh bạn khiếm thị ngồi trò chuyện vui vẻ. Một anh hớn hở khoe: Tớ mới quen nhỏ kia dễ TN 30-B151
Hai anh bạn khiếm thị ngồi trò chuyện vui vẻ. Một anh hớn hở khoe:
Tớ mới quen nhỏ kia dễ thương lắm. Đẹp nữa? Ừ, đẹp. Sao cậu biết? Nghe giọng nói dịu dàng của nhỏ là tớ biết. Người khiếm thị cảm nhận bằng đôi tay và thính giác của họ rất tốt.
Hôm nay, anh mù Bartimê vẫn ngồi ăn xin bên vệ đường ngoài thành Giêrikhô như mọi ngày. Từ lâu anh đã nghe danh tiếng của Thầy Giê-su và những khao khát mong mỏi được gặp. Bởi thế, vừa nghe nói Đức Giê-su Nadarét đang đi qua, anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,47). Tiếng kêu của anh không át được tiếng đám đông ồn ào. Nghe anh kêu, đám đông chẳng động lòng thương giúp đỡ lại còn quát nạt bắt anh im đi. Càng bị cấm cản, khao khát trong anh càng mãnh liệt, anh tin rằng chỉ có Thầy Giê-su mới cho anh nhìn thấy ánh sáng, vì thế anh càng kêu lớn tiếng hơn. Đám đông thờ ơ với nỗi bất hạnh của anh nhưng Thầy Giê-su thì lưu tâm đến anh. Thầy nghe anh kêu xin tha thiết, Thầy hiểu khát khao cháy bỏng trong anh. Và Thầy đáp lại khát mong của con người đáng thương này. Thầy Giê-su đã đứng lại và nói với đám đông: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10,49). Thầy đã để cho đám đông gọi anh. Đó có phải là những người mới đây thôi đã quát nạt, ngăn cản anh đến với Thầymà nay lại đến với anh mù mà bảo: “Cứ yên tâm đứng dậy, Thầy gọi anh đấy!”. Ở đây ta thấy có một sự thay đổi và đón nhận. Nếu như hằng ngày ta nhìn thấy anh mù cầm gậy mò mẫm trên con đường để đi ăn xin, hẳn ta sẽ phải hết sức kinh ngạc trước phản ứng của anh khi Thầy gọi và “Anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su” (Mc 10,50). Có bao giờ ta dứt khoát vứt bỏ tất cả những gì ta có để đến với Chúa? Khi nghe Tình Yêu gọi mời tha thiết, ta có đứng phắt dậy, rời bỏ lề đường quen thuộc để đến cùng Chúa?
Thầy Giê-su gọi anh mù đến với Thầy. Anh đã đến với Thầy và để cho Thầy thấy tất cả những bất toàn, yếu đuối nơi mình. Anh làm cho Thầy rung động với tất cả con tim. Tâm hồn Thầy cảm thấu nỗi đau, sự bất hạnh mà anh đã gánh chịu suốt bao nhiêu năm qua. Thầy hiểu anh cần điều gì nhưng vẫn hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (x.Mc 10,51). Nỗi khát khao vỡ òa thành lời cầu xin tha thiết. Thầy Giê-su đã chữa lành cho anh không chỉ bằng tình thương và quyền năng mà còn vì lòng tin mãnh liệt nơi anh. Đám đông đã không nhận ra một con người đáng thương đang ở giữa họ nhưng trái tim của Thầy Giê-su đã yêu thương anh từ rất lâu rồi. Thầy đã cho anh được sáng mắt lại còn cho anh đi theo. Có ai hạnh phúc hơn anh? Bây giờ, anh càng xác tín hơn niềm tin vào Thầy Giê-su và “đi theo Người trên con đường Người đi”.
Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Con xin đến với Chúa với tất cả những yếu đuối và bất toàn nơi con: mù lòa, câm điếc, bại tay,… Con để cho Chúa nhìn thấy con đáng thương mà không ngại ngùng xấu hổ. Bởi con tin vào trái tim đầy thương cảm của Chúa, ánh mắt yêu thương của Chúa nhìn con, đón nhận con và chữa lành con. Xin Chúa giúp con sau khi được Chúa xót thương cũng biết yêu thương anh chị em mình, để từng ngày con vui say trên con đường theo Chúa. Amen.
Sự bất hạnh đáng thương của con người chính là mù lòa. Bởi mù, nên họ không thể nhìn thấy những TN 30-B152
Sự bất hạnh đáng thương của con người chính là mù lòa. Bởi mù, nên họ không thể nhìn thấy những vẻ đẹp của thiên nhiên, nhất là vẻ đẹp của những người thân yêu… Thế nhưng, cái đáng thương hơn mù lòa thể xác đó là cái mù lòa nơi tâm hồn. Người mù tâm hồn là họ mù nhưng họ không chấp nhận mình mù. Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của nhưng đam mê thể xác mà không nhận ra cái sai trái của mình để mà sửa đổi. Họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình để rồi gây nên biết bao nhiêu là đau khổ cho những người chung quanh.
Thực tế cho thấy, trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,… chúng ta có thấy thủ phạm là người mù không? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường nghiện ngập ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, chúng ta có bắt gặp bóng dáng những người khiếm thị nào không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham ô, có lẽ chúng ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người có cả hai mắt sáng tỏ!!! Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai đây? Người mù hay người sáng?
Hôm nay, Thánh sử Marcô thuật lại cho chúng ta thấy một người mù tên là Bartimê đang ngồi ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Không biết anh có thuộc nhóm “Hội Người Mù” hay không! Song thiết tưởng anh là một con người chân thành khiêm tốn. Anh biết rõ thân phận của mình, nên anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời của anh thanh thoát an lành. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cuộc đời của anh, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính từ bên trong ra bên ngoài.
Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, ánh sáng niềm tin. Vì thiếu ánh sáng niềm tin nên cả đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu suốt cuộc hành trình đời mình mà không nhận ra Chúa Giêsu là ai. Chỉ có anh mù Bartimê lại “thấy tỏ tường” Chúa Giêsu là ai. Bởi anh biết, cho nên khi anh van xin Chúa không phải danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” – một danh xưng mà cả dân Do Thái đều hiểu đó là tước hiệu Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế. Đám đông càng ngăn cản thì anh càng can đảm kêu to hơn: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”, anh tin chắc rằng chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mới phục hồi sự sáng mắt cho anh. Do đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu cho anh đúng mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu anh không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, thì anh đã không xin Ngài điều này.
Dẫu biết rằng, anh chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được diễm phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta bàn tán nói về con người của Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật “Phúc cho những ai không thấy mà tin“. Cũng vì lẽ đó mà anh được phục hồi sự sáng mắt thể lý, quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn. Điều đã được Chúa Giêsu khẳng định: “Đức tin của anh đã chữa anh”.
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Chúng ta điều có đôi mắt thể lý sáng, đó là hồng ân Chúa ban cho chúng ta nên chúng ta phải biết quý trọng và cảm tạ Chúa. Thế nhưng, nhìn lại cuộc đời của mình, chúng ta thấy hổ thẹn trước anh mù Bartimê,đôi mắt tâm hồn của chúng ta nhiều khi trở nên mù lòa thực sự.
Vì mù lòa mà nhiều người trong chúng ta, nhất là các bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá tự do về giới tính, quan hệ nam nữ cách bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác.
Vì mù lòa mà nhiều người đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen đã hủy hoại thanh danh không chỉ cho bản thân mình, mà còn ảnh hưởng xấu đến gia đình, bạn bè.
Vì mù lòa một chút bổng lộc ở thế gian, mà nhiều người đã bán mình làm tôi cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại tha nhân.
Vì mù lòa cố chấp mà nhiều người sống bất khoan nhượng với gia đình, với sớm làng gây ra biết bao nhiêu là chia rẽ….
Xem ra anh mù Bartimê thật có phúc vì anh ý thức được sự mù lòa của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn năn đích thực, chứ không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy nuối tiếc về sự mù lòa tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình.
Ước gì chúng ta luôn khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng Tin Mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.
Cuộc sống thường có hai mặt, phải và trái. Điều này không có nghĩa là phải trái luôn trái nghịch TN 30-B153
Cuộc sống thường có hai mặt, phải và trái. Điều này không có nghĩa là phải trái luôn trái nghịch nhau. Trong nhiều trường hợp phải trái bổ túc nhau làm cho sự kiện hoặc vật thể trở nên trọn vẹn hơn. Hai mặt phải trái của lá cây, hai mặt phải trái của xấp vải, hai mặt phải trái của tờ giấy. Phúc Âm hôm nay đưa ra nhiều hình ảnh phải trái xem ra có vẻ trái nghịch nhau. Cảnh trái nghịch rõ nhất là ánh sáng và bóng tối, hình ảnh người mù ngồi vệ đường và hình ảnh người sáng mắt theo Đức Kitô, hình ảnh đám đông ngăn cản anh đến gặp Đức Kitô và hình ảnh một mình anh cô đơn giữa đám đông ồn ào. Hình ảnh đám đông coi thường anh và hình ảnh Đức Kitô tỏ lòng xót thương anh. Đa số chúng ta thích chọn theo í kiến của đa số, í kiến của đám đông và bị ảnh hưởng đám đông lôi kéo. Người mù chọn đứng riêng bởi anh biết rõ anh muốn gì. Anh chọn theo thiểu số, thực ra một mình anh một í và điều đó khiến anh tách biệt khỏi đám đông. Đám đông dùng sức mạnh đa số lấn át anh, cấm anh lên tiếng. Anh đã không im tiếng, trái lại, anh còn la to hơn trước. Bị xã hội chê cười, chối bỏ và anh đã sống cảnh đó trong bao năm. Anh nhất quyết gặp Đức Kitô để có đời sống mới tốt lành hơn. Anh biết đám đông không giúp anh, mình anh không đủ khả năng thay đổi kiếp sống đoạ đầy nên anh quyết tâm gặp Đức Kitô xin Ngài giúp. Nghe người ta ồn ào nói về Đức Kitô, anh biết Ngài sắp đi ngang qua và anh lên tiếng nài van: ‘Lậy Đức Kitô, con Vua Đavít, xin thương đến con’ c.47.
Chúng ta không biết bởi đâu anh mù biết Đức Kitô thuộc dòng dõi vua Đavít nhưng vương hiệu hoàng tộc đó đóng vai trò quan trọng vào cuối đời của Đức Kitô. Đám đông đón Ngài vào thành thánh Jerusalem như một quân vương thắng trận trở về. Philatô đối chất Đức Kitô là Vua dân Do Thái và tấm bảng ghi phía trên đầu thập tự ‘Vua Dân Do Thái’. Chúng ta cũng không rõ từ đâu anh mù nhận biết danh tánh Đức Kitô và tin chắc Đức Kitô có thể làm cho anh sáng mắt. Có lẽ anh nghe người ta nói nhiều về Đức Kitô và lòng anh ao ước được gặp Ngài và mong Ngài chữa mắt cho. Anh bị mù mắt, mù thể lí nhưng tâm linh anh không mù, mắt tâm linh anh sáng, nhận biết Đức Kitô, con vua Đavít, tâm anh tỏ bởi anh nhận biết sự thật. Xã hội coi khinh anh nhưng không thể cấm anh đến gặp Đức Kitô, nghe tiếng anh kêu gào Đức Kitô lên tiếng cứu anh. Đám đông trước là rào cản cấm anh lên tiếng, giờ họ lại hỗ trợ khuyến khích anh. Nghe tiếng Đức Kitô mời gọi anh vui mừng nhảy như sáo đến gặp Ngài. ‘Anh muốn ta làm gì cho anh?’ Đức Kitô hỏi thế. Anh biết rõ điều anh cần, anh xin cho được sáng mắt. Lời xin thật rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc. Có người xin được quyền thế, kẻ xin được giầu sang, kẻ xin được chức tước. Anh xin rất thực tế. Xin được sáng mắt và Đức Kitô đã thoả mãn lòng anh mong ước. Hành động vất áo choàng là dấu chỉ từ nay anh sống cuộc sống mới, trong sáng, thanh tao, không còn lệ thuộc vào chiếc áo choàng che nắng, chắn mưa nhưng anh có Đức Kitô dẫn đường, có bầu trời trong xanh bao bọc và đồng hành với môn đệ Đức Kitô. Đức Kitô trên đường vào thành thánh và cũng nơi đây Ngài trải qua đau khổ, cứu độ nhân trần. Người mù giờ sáng mắt chứng kiến những đau khổ Đức Kitô trải qua vì Ngài đến ban hy vọng, ủi an, xoá tan bóng tối. Chính anh cảm nhận điều đó trong đời và tiếp tục chứng kiến lòng nhân từ Đức Kitô qua đau khổ Ngài tự nguyện lãnh nhận.
Chúng ta tự xét mình xem mình là người dẫn người khác đến Đức Kitô hay là rào cản ngăn người khác đến nhận ơn lành Chúa.
Cầu được ước thấy, xin một cho mười, xin vật chất, cho cả tinh thần, xin được yêu thương, cho cả TN 30-B154
Cầu được ước thấy, xin một cho mười, xin vật chất, cho cả tinh thần, xin được yêu thương, cho cả hạnh phúc, thoáng nghe, không khác gì chuyện giả tưởng. Khuynh hướng tự nhiên, nghe chuyện tiếu lâm, chuyện phiếm, người ta dễ vui cười hơn chuyện bi ai. Thực tế lại cho thấy nếu tâm trạng thoải mái, gia đình bình an, hạnh phúc, là người ta vui, và có thể tự tin cười nhỏ cười to được rồi. Không phải đợi đến lúc đói lả, người ta mới cần ăn, cần uống. Chẳng ai áp đặt phải có đèn cao áp, có mặt trời toả rạng, mới xua tan được bóng đêm sợ hãi. Tương quan giữa cha mẹ con cái, không ai quy định phải có bao nhiều tài sản, mới cần báo đáp ơn nghĩa cha mẹ, hay phải trung thành phụng dưỡng mấy năm mới được gọi là con thảo con hiếu.
Cổ nhân có câu: người đã biết nuôi chí thì không nghĩ tới hình. Một trong những nét đẹp của lòng nhân ái là tự do sống lý thật tình ngay, ý thức mình phải chung tay góp sức xây dựng gia đình giầu mạnh. Người mù tên Bartimê đã minh chứng anh không hề ở trong tăm tối mù mịt, dù ngày ngày ngồi bên vệ đường chờ của bố thí nuôi thân, anh vẫn đủ sáng suốt tuyên xưng Đức Giêsu là con vua Đavít, Đấng thiên hạ hằng trông đợi. Cũng như biết bao người bình thường khác, chúng ta hôm nay đang ước mơ hay đang tìm kiếm hạnh phúc ? Lúc này Đức Giêsu xuất hiện, chúng ta sẽ xin ơn thông sáng, xin lòng thương xót, hay chúng ta chưa nghĩ ra nhu cầu cần thiết để xin ?
Tiền nhân chúng ta gợi lên một lý lẽ vô cùng khúc triết: Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên. Niềm tin là một động lực giúp người ta sống giây phút hiện tại, chuẩn bị bước tiếp những bước kế tiếp ở tương lai. Niềm tin chính là sức mạnh nội tại, khai thông mọi bế tắc, hoà hợp giữa lý và tình trong tương quan tin yêu. Tại thành Giêricô năm xưa, cơ hội cho dân thành, cho từng hoàn cảnh, nhưng niềm vui rõ nhất, phép lạ đặc biệt nhất, cũng là niềm tin sáng rõ nhất nơi anh mù Bartimê, được Đức Giêsu thực hiện. Ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn điện, là thứ ánh sáng phổ thông, nhằm giúp người ta bước đi không sợ vấp té. Thứ ánh sáng kỳ diệu và cần thiết mà nơi anh mù Bartimê, Đức Giêsu đã khai mở, đã cho chúng ta biết chính Ngài là sự sáng niềm tin ban ơn cứu độ.
Sở hữu được ánh sáng ban ngày, ban đêm, cảm nhận được nhiều khuôn mặt xinh đẹp, thấu biết được người tài trí, giầu sang, chức quyền, cả người xưa và người hôm nay vẫn chưa thể coi đó là hạnh phúc thật ! Ánh sáng tự nhiên là thứ ánh sáng giúp người ta phân biệt đẹp xấu, cũ mới, dơ bẩn, sạch sẽ. Ánh sáng niềm tin chất chứa sự bình an tâm hồn, giúp ta cảm nhận mình được yêu, thôi thúc ta biết thực thi đức ái, và hướng ta tới hạnh phúc thật trong Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót. Đối tượng của Đức Giêsu tại trần thế này không phải là người mù, người què, câm điếc hay kẻ nghèo đói, Ngài chiếu sáng niềm tin cho cả thành phần thông thái, tội lỗi, đạo đức. Mỗi người cần nghiêm túc nhận biết mình là ai, đang cần gì, chính nhờ ánh sáng niềm tin, chúng ta mới đủ mạnh dạn thưa: “hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót con”.
Danh hoạ Leonardo da Vinci có câu: khi tâm hồn không hợp tác với đôi tay, không thể có nghệ thuật. Khi người kitô hữu không sống niềm tin, việc mến Chúa yêu người và đến nhà thờ cũng chỉ là lý thuyết, giả tạo. Nếu chỉ lập lại lời thưa: “xin Thầy cho con được sáng”, nhiều người sẽ nói tôi đã thưa, tôi đã xin điều đó từ khi còn trẻ. Đức Giêsu không hỏi anh mù có thật lòng muốn được sáng, hay muốn được tiền của, Ngài đã nói cho đám đông hôm đó cùng nghe: “được, đức tin của anh đã cứu chữa anh”. Nói theo ngôn từ hôm nay, anh Bartimê được “cả chì lẫn chài”, dù anh ta chỉ mơ ước được xem thấy, Đức Giêsu đã cho anh ta sáng cả niềm tin, và anh ta đã sống tin yêu theo Ngài làm môn đệ.
Câu hỏi và câu trả lời giữa Chúa Giêsu và anh Bartimê không có gì phức tạp, nhu cầu được xem thấy của bệnh nhân và khả năng chữa trị của thầy thuốc, theo công bằng là tiền trao cháo múc, hoặc ăn có mời làm có khiến. Tình yêu và ơn cứu độ là sứ mạng Chúa Giêsu mời gọi tất cả cùng hiệp thông, nhận lãnh ; nén bạc, hoàn cảnh, mỗi người tuy khác nhau, phần vinh phúc có Chúa làm gia nghiệp sẽ không thay đổi. Người ta không thể trồng cây ở nơi thiếu ánh sáng, thì cũng chẳng ai nuôi dạy trẻ chỉ một chút ít nhiệt tình. Ánh sáng mở mắt người mù tối là nhu cầu thiết thực, thì sự sáng niềm tin là điều kiện không thể thiếu giúp ta tự giác trở nên nhỏ bé, biết thân thưa: “lạy Đức Giêsu Kitô xin thương xót con”. Đức Giêsu vẫn đang hỏi từng người chúng ta: “anh muốn Tôi làm gì cho anh” ? Ngài cần chúng ta minh chứng bằng ánh sáng của niềm tin, cho dù ta không câm điếc thể lý, niềm tin chúng ta vẫn cần lớn lên và rạng rỡ trong tình mến yêu cậy trông. Amen.
Chuyện chúa Giêsu chữa sáng mắt người mù thành Bethsaida (Mc 8:22-26), và người ăn mày TN 30-B155
Chuyện chúa Giêsu chữa sáng mắt người mù thành Bethsaida (Mc 8:22-26), và người ăn mày Bartimaeus (Mc 10:46-52) trên đường rời Jericho là những chuyện quá rõ ràng ở thời Giáo Hội sơ khai ai cũng biết. Nhưng trong Giáo Hội ngày nay, câu chuyện lại có những ý nghĩa đặc biệt khác.
Mù bẩm sinh hay vì bệnh tật, chấn thương không cần chữa trị mà người bệnh vẫn có lại được thị giác, nhìn được sự vật một cách bình thường thì đúng là phép lạ, y khoa hiện đại không thể hiểu nổi.
THEO CHÚA ĐI VÀO JERUSALEM ĐẾN TẬN CHÂN THÁNH GIÁ
Tên người ăn mày mù được chúa Giesu chữa lành mắt (Mc 10:46-52) thực ra không phải là Bartimaeus, mà chỉ là ám hiệu anh ta là “con trai ông Timaeus”. Câu chuyện Bartimaeus là trọng điểm Tin Mừng Mac cô (Mc 8:22-10:52). Chúa Giêsu bắt đầu hành động ở thành Bethsaida và chữa sáng mắt một người mù khác (Mc 8:22-26). Cả hai chuyện này cho thấy phép lạ chúa làm, không chỉ liên quan đến việc phục hồi thị giác mà còn nói lên lý tưởng cao cả của người môn đệ. Bartimaeus đến không phải chỉ để nhìn và tin vào chúa Giêsu, nhưng còn “đi theo Người trên đường về Jerusalem,….đến tận chân Thập Giá”(Mc 10:52).
Câu chuyên Mac Cô kể cũng tương tự như chuyện hai người mù trong Tin Mừng Mathiêu (Mt.20:29-34) và Luca (Lc 18:35-43) lúc chúa Giêsu vào thành Jericho, nhưng hai thánh sử này không nêu tên của người mù.
Qua câu chuyện Mac cô kể, ta thấy Chúa Giêsu đã làm một cuộc hành trình dài và gian khổ từ Bắc Galilée đổ xuống thung lũng phì nhiêu của sa mạc rồi lại trèo lên vùng đồi núi hiểm trở Judea để vào Jerusalem.
TIN THÌ SẼ ĐƯỢC
Khi Chúa Giêsu vừa ra khỏi Jericho, Bartimaeus nghe thấy tiếng xôn xao của đám đông, thì cảm thấy cơ may của mình đã gần. Anh quyết không để mất cơ hội hiếm có này! Từ lề đường, anh kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giêsu, con Vua David, xin thương đến tôi !” Một vài người đang vây quanh Chúa lúc đó cảm thấy bực mình, vì tên ăn mày dơ dáy đã quấy rầy thầy mình, bèn quát anh ta, biểu ‘câm miệng lại’.
Tên ăn mày này đã quấy rầy, làm bực mình gì nhỉ? Bartimaeus đơn giản chỉ muốn mọi người hiểu là anh ta có quyền được nhìn thấy Chúa và tham gia vào cảnh chung vui cùng Chúa. Nếu những người trong đám đông đó đã nghe tiếng đồn về quyền năng làm phép lạ của Chúa thì tại sao họ lại không tử tế với tên ăn mày kém may mắn này là đem hắn lại với Chúa để Chúa chữa lành mắt cho hắn?
Cuối cùng Bartimaeus đã được toại nguyện. Khi nghe thấy lời kêu cầu của tên ăn mày, chúa Giêsu đã không từ chối lời cầu của anh, phá vòng vây các môn đệ và gọi người ăn mày, thì anh ta liền vất bỏ áo ngoài, bước lại gần Chúa.
– Anh muốn tôi làm gì cho anh? Chúa hỏi người ăn mày mù.
– Thưa Thầy, xin Thầy cho tôi được nhìn thấy. Anh ta trả lời.
Ngay lúc đó anh ta liền nhìn thấy được mọi sự. Cái nhìn của anh lúc này không phải chỉ bằng con mắt trần, nhưng với tất cả tâm hồn. Đây là điều rất quan trọng. Dù Bartimaeus mù, không nhìn thấy nhiều điều, nhưng nay anh đã thấy và đã biết chúa Giêsu là ai. Việc “Nhìn biết chúa Giêsu là ai” chính là chủ đích của niềm tin. Nó dẫn chúng ta đến với Chúa và trở thành tín hữu, môn đệ của Chúa. Kết thúc câu chuyện, Bartimaeus -sau khi có lại thị giác- đã lên đường theo Chúa Giêsu. Thánh Mac cô chỉ kể lại là anh ta theo Chúa đi vào Jerusalem, nhưng chúng ta có thể hiểu chắc chắn là Bartimaeus đã theo Chúa tới tận chân Thánh Giá.
Ý NGHĨA NGỤ NGÔN NGƯỜI MÙ: THẤY VÀ TIN
Cảm thông nỗi cô đơn của những kẻ bị người đời hất hủi chính là đặc thù của công tác mục vụ của chúa Giêsu. Những câu chuyện về phép lạ, chữa lành bệnh được kể lại trong Phúc Âm không đơn giản chỉ là lật ngược lại một bất toàn về thể xác. Trong câu chuyện “người mù nhìn được”, chúng ta thấy có một liên đới rõ ràng giữa hai tác động “Nhìn Thấy và Tin”. Phép lạ Chúa làm đã giúp người được khỏi bệnh tăng niềm tin của mình hơn cả mức độ lành bệnh thể xác.
Các môn đệ của Chúa đã không có được một viễn kiến đúng mức. Chúng ta cũng vậy. Qua những câu chuyện ngụ ngôn người mù, chúng ta mới thấy chúng ta thiếu sót trong việc tìm hiểu ý nghĩa những đau khổ mà chúng ta phải chịu. Chúng ta nhìn nhưng như mù không còn khả năng nhận thức sự việc một cách chính xác, giống như nhìn cánh rừng mà không để ý đến cây để hiểu rằng chính cây đã làm nên cánh rừng. Đây chỉ là một cách phân tích đơn giản mà thôi. Sâu xa hơn là chúng ta coi tật mù của chúng ta là tất nhiên, và không cần tìm hiểu gì hơn nữa. Tính kiêu căng, tự cao tự đại chính là nguồn gốc của mọi mù lòa. Chúng ta cần có phép lạ để điều chỉnh lại nhãn quan của chúng ta.
Vậy thì, những khía cạnh nào của Giáo Hội, của xã hội và của vền văn hóa trong thời đại chúng ta hiện nay cần phải điều chỉnh, sửa đổi và canh tân? Đâu là điểm mù lòa của chúng ta? Đâu là những bất toàn chính yếu của những cái nhìn thiển cận và xa vời? Chúng ta có ưa độc thoại hơn là đối thoại, thích phản đối hơn học hỏi nơi người khác dù họ đối nghịch hoặc bất đồng với ta? Chúng ta có thích tẩy chay hơn là tham gia vào những sinh hoạt ở chung quanh ta không? Chúng ta có thường xuyên bực bội, tức giận, ngoan cố và hẹp hòi như hiện nay không? Chúng ta có thường nói chẳng ai có nhận xét, phán đoán và xác định bằng chúng ta? Chỉ có ta là đúng!
Chúng ta có hành sử như những người đã ngăn cản tên ăn mày không cho hắn gặp Chúa không? Vì ngạo mạn, hỗn xược, độc tài, thích chỉ trích của chúng ta, chúng ta có dám đem bạn bè, đồng nghiệp và những người chúng ta không ưa hay ghét bỏ đến trước mặt Chúa không? Tại sao chúng ta không làm được như vậy, khi chúng ta biết đời chúng ta sẽ thế nào nếu không có Chúa Kitô ?
LỜI KẾT: HÀN GẮN, SỬA ĐỔI VÀ CÁCH NHÌN
Lấy một thí dụ, phá thai là một vết thương trầm trọng nhất, ảnh hưởng không những cá nhân người phụ nữ / người mẹ và gia đình họ là nguồn cung cấp nơi trú ngụ cho thai nhi, mà còn ảnh hưởng đến cả một xã hội và nền văn hóa họ đang sống, bởi vì chính người dân là những người tạo dựng nên xã hội và bảo vệ xã hội. Đức thánh cha Biển Đức XVI, dịp khai mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế giới tại Sydney, Úc Châu ngày 17-7-2008 đã nói về việc bảo vệ sự sống như sau:
“…Và vì vậy, chúng ta cần phải suy nghĩ xem những người nghèo và người già, người di dân và những người không có tiếng nói, họ đứng ở vị thế nào trong xã hội chúng ta. Phải chăng là những bạo động trong gia đình đang hành hạ những người vợ, người mẹ và con cái ? Phải chăng bụng người mẹ là vùng không gian thánh nhưng đầy kinh dị của con người đã trở thành nơi bạo hành ghê gớm nhất, không giấy mực nào diễn tả hết được?”
Giáo Huấn Công Giáo đã dạy: “con người và nhân phẩm là thánh thiêng không ai có quyền xâm phạm”. Chúng ta phải có cái nhìn hoàn hảo về điều mà chúng ta phải cố gắng làm hàng ngày nếu chúng ta tuyên nhận chúng ta là người “Phò Sự Sống”.
Chống đối phá thai và rút ống thở cũng như chúng ta không được thờ ơ trước cảnh thống khổ của người nghèo, cảnh bạo động và bất công trong xã hội. Chúng ta phải nhìn tổng quát vấn đề rồi phân tích, không thể hời hợt và khiếm diện được.
Phò sự sống là chống lại bất cứ cái gì đi ngược lại sự sống con người, như giết người, ám sát, hủy giệt sự sống, phá thai, rút ống thở hoặc tự hủy hoại mình…Chúng ta thẳng thắn chống lại bất cứ cái gì gọi là vi phạm phẩm giá con người như phá hủy một phần thân thể, làm tổn thương/hành hạ thể xác hoặc tinh thần, cố tình tuyên truyền ảnh hưởng ý muốn của người khác, bất cứ cái gì xúc phạm đến nhân phẩm, chẳng hạn như điều kiện sống dưới tiêu chuẩn, bắt bớ giam cầm người trái phép, trục xuất người, bắt làm nô lệ, làm gái mãi dâm, buôn người, buôn đàn bà trẻ nít, và những điều kiện làm việc ô nhục trong đó con người chỉ là dụng cụ sản xuất, không phải là con người tự do và có trách nhiệm. Tất cả những điều đó và còn nhiều hơn nữa đang hủy hoại sự sống và đầu độc xã hội loài người.
Đức Hồng Y Tổng Giám mục Boston Sean O’Malley mới đây đã viết: “Khả năng thay đổi lòng người của chúng ta và giúp cho họ hiểu biết phẩm giá mạng sống con người từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết có liên hệ trực tiếp đến khả năng thăng tiến tình yêu và hiệp nhất trong Giáo Hội, bởi vì việc tuyên xưng Sự Thật của chúng ta bị cản trở khi mà chúng ta chia rẽ và đánh phá lẫn nhau.”
Phò sự sống là một trong những phương cách biểu lộ xâu đậm nhất của Bí Tích Thanh Tẩy: Chúng ta dám đứng lên vì chúng ta là con cái sự sáng, chúng ta có lòng bác ái, lại khiêm nhường và đầy xác tín, dám nói sự thật một cách mạnh mẽ và cương quyết trước cường quyền mà không bao giờ để mất niềm vui và hy vọng.
Phò sự sống không phải là hoạt động vì đảng phái chính trị hay một khía cạnh đặc biệt nào đó của một trào lưu. Nó là bổn phận của tất cả mọi người, dù ở bên tả, hay bên hữu hoặc trung lập. Nếu chúng ta phò sự sống, chúng ta phải tham gia tích cực vào nền văn hóa sự sống ở chung quanh ta, không nên coi thường và chê bai nó. Chúng ta nhìn tha nhân như Chúa Giêsu nhìn và, chúng ta phải yêu mến sự sống của mọi người, ngay cả sự sống của những người đối nghịch với ta.
Khi chúng ta ý thức được những vấn đề làm cho ta bị mù quáng, không nhận biết ra Chúa, đồng thời làm tê liệt khả năng hành động hữu hiệu của chúng ta, thì hãy cầu khẩn Chúa xin Người chữa lành chúng ta ! -“Lạy Chúa, xin cho con được nhìn thấy.” Và, khi thị giác của chúng ta đã được điều chỉnh, chúng ta hãy đứng dậy và vui vẻ bước theo Chúa trên bước đường hướng về Vương Quốc Nước Trời.
KINH CẦU CHO ĐƯỢC SÁNG MẮT
Origen (185-253) NTC chuyển ngữ.
Lạy Chúa Giêsu, Xin hãy chạm mắt tôi tớ Chúa, Như Chúa đụng mắt người mù. Chúng con sẽ thấy tỏ rõ… … mọi sự hữu hình và vô hình. Xin Chúa hãy mở rộng mắt tôi tớ Chúa, Để chúng con ngắm nhìn… …Không phải thực tế bây giờ, Nhưng là ơn phúc Chúa ban sắp tới. Xin Chúa hãy mở mắt tâm hồn tôi tớ Chúa Để chúng con chiêm ngưỡng Chúa… Trong Chúa Thánh Linh, Qua Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa Đầy quyền năng và vinh hiển muôn đời. Amen.
Người ta thường nói “đôi mắt” là cửa sổ của tâm hồn. Nếu chúng ta nhìn đời bằng đôi mắt màu TN 30-B156
Người ta thường nói “đôi mắt” là cửa sổ của tâm hồn. Nếu chúng ta nhìn đời bằng đôi mắt màu hồng thì tràn đầy hạnh phúc, bằng ngược lại thì trước mắt ta là cả một bầu trời đen tối. Theo một thống kê đầu năm 2018, ước tính vào năm 2020 thế giới sẽ có khoảng 11,2 triệu người có đôi mắt mù loà do bệnh. Mù đôi mắt nói lên tình trạng khổ cực, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bên cạnh cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của sự mù loà tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh mà trang Tin Mừng hôm nay đề cập tới.
Thưa anh chị em, trong quan niệm của người Do thái thời bấy giờ, bệnh tật và mù loà là hậu quả của tội. Quan niệm này đã xua đuổi người mù ra ngoài lề xã hội. Chính vì thế, khát vọng thâm sâu của anh mù Bartimê được bộc lộ ngay trong lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Anh không xin tiền, không xin bánh, nhưng xin sáng mắt để được thấy. Anh xác tín rằng, mù mắt đưa con người vào tình trạng đau khổ tột cùng không chỉ dừng lại trên thân xác nhưng còn xoáy sâu vào trong tâm hồn. Chúa Giêsu, Đấng khai sáng cho anh. Người nói: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn nhìn ra con đường phải đi, công việc phải làm và có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Còn một thứ mù loà khác đáng thương hơn mà Chúa Giêsu đã có lần mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Đây là tai họa của trí năng, của tâm hồn: thứ mù loà này làm cho con người nhìn thấy cái rơm, cái rác của người khác, còn cái xà trong mắt mình lại không thấy. Những người bị mù loà thể xác còn có hy vọng chữa trị được, họ thường được người khác yêu thương, giúp đỡ. Còn những người mù tâm hồn, họ mù nhưng không chấp nhận mình mù, không những khó chữa mà hậu quả của nó là huỷ diệt chính mình và bị người khác tránh xa ghét bỏ.
Có một câu chuyện kể rằng, một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Câu chuyện trên cho thấy thân phận bi đát của người mù. Mù thể xác đã thế, mù tâm hồn còn đáng thương hơn. Ngày nay trước những khám phá kỳ diệu của khoa học kỹ thuật, con người hiện đại lại đang bị mù tối trong tâm hồn vì kiêu căng, tự mãn, không chấp nhận sự hiện hữu của Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng: khoa học càng khám phá ra những điều kỳ diệu lại càng chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa trong vũ trụ, vạn vật. Vì thế, chúng ta hãy bắt chước anh mù Bartimê đặt niềm tin vào Chúa và vào lòng thương xót của Người. Xin Người khai sáng và mở mắt tâm hồn chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tình yêu và bình an của Người.
“Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt. Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi. Con mù lòa, bên vệ đường hành khất. Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài”. Amen.
Phải nói rằng trong chuyến hành hương Đất thánh vừa qua, tôi đã nhớ đến và cầu nguyện cho tất TN 30-B157
Phải nói rằng trong chuyến hành hương Đất thánh vừa qua, tôi đã nhớ đến và cầu nguyện cho tất cả mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ. Tôi cám ơn Chúa đã cho tôi có cơ hội đến viếng thăm nơi Chúa đã sinh ra, sống, chết và sống lại, và Giáo triều Rô-ma. Cuộc hành hương này làm cho đức tin của tôi vững mạnh thêm. Cuộc hành hương Đất thánh có 2 phần. Phần thứ nhất ở khu vực Giê-ru-sa-lem và tôi có dịp viếng thăm và dâng Thánh lễ ở những nơi như hang động nơi Chúa sinh ra, nơi Chúa chịu thương khó và chết cho nhân loại. Tôi có dịp đi đàng Thánh giá trên con đường năm xưa mà chính Chúa đã vác thập giá trên con đường dốc đến đồi Can vê để chịu chết. Như chúng ta đã biết, Chúa đã bị đánh đòn và ngã xuống đất nhiều lần vì đau đớn và khó nhọc. Ngày nay, họ đã xây và lót gạch, nhưng vào thời xưa đây là con đường sỏi đá. Thật sự tôi cảm nghiệm được vì yêu thương và muốn cứu rỗi chúng ta, cho nên Chúa đã hy sinh vác thập giá là tội lỗi của nhân loại chúng ta. Tôi được đến thăm nơi Chúa thương khóc dân thành Giê-ru-sa-lem vì cứng đầu và từ chối ân sủng của Chúa đem đến, nơi Tông đồ Phê-rô đã chối Chúa ba lần, cũng như nơi Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh thể và Chức Thánh, và sau đó chiêm ngưỡng con đường Chúa đã bị lôi đi đến dinh Cai-pha và Hê-rô-đê. Rồi tôi được đến tắm tại Biển Chết.
Phần thứ hai tại Đất Thánh, tôi được viếng thăm Na-za-rét nơi Chúa được sống trong tình yêu thương của Thánh Cả Giu-se và Mẹ Maria, cũng như hội trường nơi Chúa thường đến để thờ phương và giảng dạy. Trong những ngày kế tiếp, tôi đi thăm biển hồ Tiberia nơi Chúa sống với các Tông đồ và làm nhiều phép lạ, cũng như đến hang động Chúa đã cầu nguyện. Tiếp đến, tôi đi thăm viếng đề thờ Thánh Giu-se, dâng giáo xứ và mọi gia đình lên cho Thánh Cả để Ngài gìn giữ che chở như Ngài đã gìn giữ che chở Đức Maria và Chúa Giê-su. Tôi đã đến thăm nơi Chúa làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu để giúp cho đôi tân hôn qua khỏi sự khó khăn, và cũng nơi đây tôi cầu nguyện xin Chúa ban ơn lành cho các gia đình trong giáo xứ luôn yêu thương, hòa thuận và trung thành với giao ước hôn nhân.
Sau đó, tôi đáp máy bay đến thăm Giáo đô Rô-ma nơi có rất nhiều nhà thờ, trong đó có nhà thờ của Đấng đáng kính Hồng y Phan-xi-cô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Chúng ta biết, tại Rô-ma này có rất nhiều dấu tích của những vị thánh, những người như chúng ta, đã sống Lời Chúa và làm chứng cho Chúa. Nhiều người đã chịu bắt bớ, giam cầm, hành hạ cho đến chết vì Chúa Ki-tô. Vì thế, đã sinh ra hoa trái tốt là những người tin vào Chúa, những người có lòng bác ái và quảng đại. Họ đã giúp Giáo hội xây những nhà thờ to lớn và kiên cố để thờ phượng, nhất là làm sáng danh Chúa, và để lại những bằng chứng về lòng xác tín của họ cho chúng ta ngày nay. Và cũng nơi đây, tôi cảm nghiệm được lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội của họ, và lòng hy sinh, bác ái và quảng đại, cũng như công sức và lòng hy sinh phục vụ của họ.
Đây là vài dòng vắn tắt kể lại cho ông bà anh chị em về cuộc hành hương Đất Thánh và Giáo đô của Giáo hội Công giáo chúng ta, với niềm hy vọng nhỏ nhoi là tăng thêm lòng xác tín của chúng ta vào Chúa, để chúng ta can đảm sống Lời Chúa dạy và có lòng bác ái, quảng đại như những tín hữu xưa. Họ đã trở thành những chứng nhân anh dũng cho chúng ta ngày nay noi theo.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết về phép lạ Chúa chữa người mù Ba-ti-mê tại Giê-ri-cô. Thật đáng tiếc vì tôi không được viếng thăm nơi này trong cuộc hành hương. Bình thường thì chúng ta ít để ý tới sự quan trọng và cần thiết của đôi mắt, nhưng khi bị đau mắt hay mờ mắt chúng ta mới thấy sự cần thiết to lớn của đôi mắt. Anh Bartimê là một thanh niên bị mù, bị xã hội ruồng bỏ và ngồi ăn xin ở cổng thành Giêricô. Anh ao ước được nhìn thấy. Thế nhưng năm tháng đi qua, không ai có thể giúp anh được, anh phải lang thang đi xin ăn để sống qua ngày.
Hôm nay nghe biết Chúa Giêsu đi qua, anh mạnh dạn kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh đã nghe được từ những người chung quanh quyền năng của Chúa và anh tin Chúa sẽ cứu chữa anh. / Hôm nay, anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, anh chỉ ao ước một điều là xin Chúa chữa anh được nhìn thấy. Cho nên, khi nghe được tiếng Chúa gọi, anh đã vội vã chạy đến Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ lòng tin sâu xa và mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, và chính vì niền tin này Chúa Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.
Còn chúng ta ngày nay thì sao? Không có người nào hiện diện trong nhà thờ này mù lòa thể xác, thế nhưng chúng ta hãy thành tâm tự hỏi có bị mù về tinh thần không? Trong xã hội hôm nay có rất nhiều cám dỗ lôi cuốn có thể làm cho chúng ta mù, hay có mắt mà không nhìn thấy như cờ bạc, rượu chè, gian lam, ích kỷ, tự cao, lười biếng, cứng lòng, và những điều này có sức tàn phá cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn. Do đó, muốn được chữa lành, phải mau mắn, như người mù trong bài Tin mừng, chạy đến Chúa Giêsu kêu cầu Người thương cứu chữa. Chúng ta tin Chúa Giêsu muốn giúp và chữa lành cho chúng ta như Chúa đã giúp người mù. Không ai có thể cứu giúp chúng ta, ngoại trừ Chúa Giêsu.
Có một câu chuyện về người đàn ông cứng lòng và rất khó tính, luôn phê bình, chỉ trích người khác. Vì ích kỷ, ông không bao giờ giúp đỡ hay quảng đại, và vì tự cao, cho nên ông không bao giờ nhìn thấy điều gì tốt nơi người khác, nhất là những người không đồng ý hay làm theo ý của ông. Bất cứ họ làm một việc gì kể cả việc tốt, thì ông cũng phải cố tìm cho ra một lý do để chỉ trích, phê bình, hay cố tìm một khía cạnh, một nguyên do để chống đối. Ông thường khinh thường và hay bắt lỗi những ý kiến, những công việc của người khác, và tệ hơn nữa còn thường hay rỉ tai nói xấu người khác. Thế rồi một ngày kia, được người vợ thúc đẩy dự buổi tĩnh tâm, và được nghe linh mục cắt nghĩa về đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, ông bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp, không nhận ra được những công việc tốt lành, không nhận ra được tấm lòng của những người khác, và ông đã không sống trong ân sủng của Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta sự can đảm và niềm tin của người mù, thành tâm và nhất quyết tìm đến Chúa để Người hoàn lại ánh sáng, hoàn lại hạnh phúc, hòa thuận cho cá nhân, gia đình và ban cho mọi người trong giáo xứ chúng ta tình yêu thương hiệp nhất, để chúng ta trở thành những nhân chứng của Chúa, có tấm lòng hy sinh, bác ái và quảng đại chân thật xây dựng giáo xứ và làm sáng danh Chúa. Đó là Tin mừng chứa đựng trong Lời Chúa mà chúng cử hành hôm nay.
Thiết tưởng, diễn tả sự đau thương, buồn khổ, phũ phàng…, có xu hướng tiêu cực. Chuyện vui kể TN 30-B158
Thiết tưởng, diễn tả sự đau thương, buồn khổ, phũ phàng…, có xu hướng tiêu cực. Chuyện vui kể rằng:
Việt Nam và Lào là hai nước anh em, thế nhưng một sự thật bi đát là: Cái gì tệ nhất ở Việt Nam cũng gán cho cái mác Lào. Xin đơn cử một vài ví dụ:
Đôi dép mang xấu nhất là đôi dép Lào. Bệnh thì có bệnh lang ben, hắc Lào. Thứ thuốc hút gớm nhất cũng là thuốc Lào. Cơn gió khắc nghiệt nhất cũng gọi là gió Lào…
Có một người Lào sang Việt Nam làm việc, trong chuyến công tác tại “Hà Lội”. Tại trạm dừng xe buýt, người Hà Lội kia phát hiện là đôi dép mình không cánh mà bay. Ông ta la lên: “Thằng lào, thằng lào lấy dép tao?”.
Thưa các bạn!
Lời Chúa Chúa Nhật 30 Thường Niên B mô tả một nhân vật với hoàn cảnh thật bi đát, đó là người ăn xin mù bên vệ đường thành Giêrikhô.
Như diều gặp gió, chỉ nghe nói Đức Giêsu đi ngang qua đây, người ăn xin mù liền kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10,47).
Dân gian có câu: “Khó hai bàn tay, giàu đôi con mắt”. Thật vậy, đôi mắt quý giá và quan trọng vô cùng đối với cuộc sống con người ở mọi thời đại và mọi nơi mọi lúc.
Đối với người khiếm thị cuộc sống của họ thật sự khó khăn, thiệt thòi và bi đát. Đến nỗi tác giả Lâm Bình đã ngậm ngùi và xót xa khi diễn tả bài thơ “HOA TÂM”:
Sinh ra con vốn thua người Nhìn đời chỉ với trái tim dẫn đường Quanh con là bốn bức tường Cuộc đời thong thả giọt vương giọt sầu.
Những ngày cha mẹ buồn rầu Thuốc thang cũng cạn ruột đau thắt hầu Con đành câm lặng chôn sâu Nỗi buồn thăm thẳm mưa Ngâu chờ thời.
Thưa các bạn!
Thế nhưng, rất nhiều người trong số người mù đã không chịu khuất phục trước số phận, mà vẫn vươn lên làm chủ cuộc sống của mình, trở thành người có ích cho Giáo Hội hay xã hội.
Người mù ăn xin đã “vươn lên” bất chấp mọi rào cản, như bị đám đông quát nạt bảo anh ta im đi, và khi Chúa gọi anh thì anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.
“Áo choàng” đối với người ăn xin là tài sản quan trọng nhất, ban ngày làm áo che thân, ban đêm làm mềm đắp, vậy mà “vất đi” nói lên niềm tin vững chắc vào Thầy Giêsu sẽ cho cái mới tốt hơn.
“Đứng phắt dậy” đối với người khiếm thị quả là hiếm có, diễn tả hành vi mau chóng, lanh lẹ và gấp gáp. Tin tưởng sẽ tìm thấy lối đi trong sáng và yên vui nơi Đức Giêsu, vốn là đường, là sự thật, và là sự sống.
Vua Đavít đã mờ mắt với bà Batseva, và được tiên tri Nathan mở mắt cho ông, để rồi vua Đavít thật bi đát ca khen: “Chúa làm cho ngọn đèn của con sáng tỏ, Ngài soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù” (Tv 18,29).
Dù là mù thể lý hay mù tâm trí, xin cho “bạn & tôi” biết “vươn lên” tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, mạnh mẽ vất bỏ “áo choàng” của những gì làm cản trở đến với Chúa, và can đảm “đứng phắt dậy” thoát khỏi con đường tội lỗi, nhất là cái nhìn của đôi mắt khiến con sa ngã, đi vào lối tối tăm mù mịt và bi đát. Amen.
Sống trên trần gian, mỗi chúng ta đang là những người mò mẫm đi tìm Chân lý. Cuộc tìm kiếm TN 30-B159
Sống trên trần gian, mỗi chúng ta đang là những người mò mẫm đi tìm Chân lý. Cuộc tìm kiếm này kéo dài liên lỉ suốt đời. Để đạt được Chân lý, cần phải nhờ Đức tin soi sáng dẫn đường. Nếu không có ánh sáng Đức tin, chúng ta khó nhận ra đâu là con đường giúp ta đạt được đích điểm của cuộc đời. Thiếu Đức tin, cuộc sống này sẽ trở thành tối tăm, vô nghĩa. Anh Bartimê, người thanh niên mù ở thành Giêricô đại diện cho những người đang đi tìm kiếm Chân lý. Dù khiếm thị về thể lý, anh lại tỏ ra sáng suốt khi nhận định người đang đi ngang qua là Đấng có thể giúp anh nhìn thấy: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh đã kêu cầu Đức Giêsu với tước hiệu “con vua Đavít”, là tước hiệu được các ngôn sứ loan báo và muôn dân mong đợi. Đây vừa là lời van xin, vừa là lời cầu nguyện với tâm tình tín thác cậy trông. Người mù thành Giêricô nài xin lòng thương xót của Chúa, vì anh chắc chắn Chúa Giêsu có quyền năng chữa lành và ban cho anh những điều anh đang mong đợi. Là một người ăn xin, hôm nay, khi gặp Đức Giêsu, anh không cầu xin tiền bạc như mọi ngày, mà cầu xin được sáng mắt. Cuộc tìm kiến Chân lý của anh Timê gặp nhiều khó khăn cản trở. Một trong những cản trở đó là đám đông. Anh muốn đến với Chúa, nhưng dư luận quần chúng ngăn cản. Họ nghĩ rằng, người thanh niên mù này không xứng đáng đến gần Chúa. Ước vọng đến với Chúa có nguy cơ bị bóp nghẹt và nhấn chìm bởi đám đông. Anh bị đám đông coi thường vì thân phận của anh là một người mù ăn xin. Dư luận đám đông cũng rất đa chiều và bất ổn định. Họ vừa ngăn cản anh đến với Chúa, nhưng vừa nghe lời Chúa gọi anh mù, họ lại động viên anh hãy vững tin, vì Người gọi anh. Để đến được với Chúa, chúng ta phải thận trọng tỉnh táo trước những trào lưu khác nhau của môi trường xung quanh. Anh Bartimê đã vượt lên những rào cản của đám đông và cuối cùng, anh đã đạt được những điều anh xin. Không chỉ được chữa lành về thể xác, anh còn được cảm hóa và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu và đi theo Người. Chúa Giêsu đến trần gian để đem ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ này được diễn tả như sự khai sáng tâm hồn để chiêm ngưỡng vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia diễn tả ơn cứu độ bằng hình cảnh một cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ lầm than và trở về cố hương. Trên con đường trở về này, mọi người đều tưng bừng ca hát và nhảy múa để tôn vinh Thiên Chúa và thể hiện niềm vui. Họ gồm đủ các thành phần, kể cả những người bị bỏ rơi và khinh thường trong xã hội (Bài đọc I). Tâm tình vui mừng vì được giải phóng, phải là tâm tình của mỗi tín hữu chúng ta, mặc dù đang phải trải qua nhiều mất mát, gian truân của gánh nặng cuộc đời. Thiên Chúa quyền năng đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài là nguồn mạch hạnh phúc và bình an. Lòng tín thác vào Chúa sẽ đem lại cho chúng ta niềm hân hoan phấn khởi. Cuộc sống trần gian là một cuộc kiếm tìm Chân Lý. Mỗi ngày sống ở đời giúp ta gần Chúa hơn. Tuy vậy, nếu thiếu kiên định, chúng ta sẽ bị dao động bởi đám đông cuộc đời, giống như cây sậy phất phơ trước gió, nghiêng ngả trước những dư luận và tin đồn, chao đảo niềm tin. Xung quanh chúng ta, có nhiều anh Bartimê đang mù lòa thể lý và tâm linh, rất cần được chúng ta nâng đỡ và chỉ cho biết con đường kiếm tìm Chân lý. Mỗi Kitô hữu đều có bổn phận nói về Chúa cho những ai đang đi tìm kiếm Ngài. Xin Chúa mở con mắt tâm hồn chúng ta, để nhờ đó, chúng ta nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài giữa cuộc đời. Xin Ngài ban cho chúng ta ánh sáng Đức tin. Amen.
Ngày nay, người ta hay nói đến hai chữ “tầm nhìn”. “Tầm nhìn” hình như nó đã trở thành mốt của TN 30-B160
Ngày nay, người ta hay nói đến hai chữ “tầm nhìn”. “Tầm nhìn” hình như nó đã trở thành mốt của những người thích ăn to nói lớn, muốn chứng tỏ mình là người nhìn xa trông rộng.
Thực ra, người xưa cũng đã có khái niệm về hai chữ tầm nhìn, nhưng dùng đơn giản là từ “lo xa”. Một người nông dân biết dự trữ lương thực cho tháng ba ngày tám, biết dành tiền tới tháng 9 để cho con cái đến trường, biết tiết kiệm phòng lúc ốm đau, biết lo chuyện cưới vợ gả chồng cho con cái sau này… chính là người biết lo xa mà ngày nay gọi là có tầm nhìn.
Không lo xa thì nước tới chân chạy chẳng kịp. Người biết lo xa là người khôn ngoan. Người biết nhìn xa trông rộng là người không bao giờ thất bại. Nhưng lo xa hay tầm nhìn đôi khi cũng sai lầm, cũng thất bại. Biết lo xa, hay có tầm nhìn đúng phải là người có lý trí sáng suốt, có mưu lược khôn ngoan thì mới định liệu trước sự việc. Điều nào cần làm và điều nào không nên làm.
Cuộc đời con người thành công hay thất bại đều dựa trên “tầm nhìn” đúng hay sai. Điều quan yếu phải có tầm nhìn trong sáng để không bị tham sân si làm mờ con mắt. Đừng thấy cái lợi trước mắt mà không thấy cái hại liền sau. Nhiều người làm ăn gian dối thì có lợi trước mắt nhưng công việc lại chẳng bền lâu. Nhiều người chỉ biết nghĩ cho mình nên chẳng có bạn bè trợ giúp khi gặp hoạn nạn. Con người cần phải có cái nhìn đắc nhân tâm để sống có ích cho cuộc đời.
Chúa Giê-su luôn có tầm nhìn vì ích lợi của con người. Cuộc đời Ngài luôn nhìn thấy nhu cầu khốn khổ của tha nhân để chạnh lòng thương xót và làm xoa dịu nỗi đau cho con người. Phúc âm nhiều lần nhắc đến 2 từ “Ngài nhìn” thấy và chạnh lòng thương. Từ cái nhìn chạnh lòng đầy thương cảm ấy mà Ngài đã làm tất cả để xoa dịu nỗi đau cho những ai mà Ngài gặp gỡ trên đường.
Bài phúc âm hôm nay tường thuật về việc làm đầy tình thương của Chúa Giê-su. Ngài chạnh lòng thương và ban lại ánh sáng cho đôi mắt mù lòa của người thanh niên tên là Bartime. Chúa đã nhìn thấy thiện chí của anh, hay có thể nói Chúa đã nhìn thấy đức tin của anh, nên Chúa đã chữa khỏi bệnh mù lòa cho anh. Từ nay anh có thể thấy mọi sự, nhất là anh thấy cả quyền năng của một vì Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn con người.
Con người mù lòa thể xác thì khổ cho bản thân, nhưng mù lòa tâm hồn thì gây thiệt thòi không chỉ cho bản thân mà còn cho tha nhân. Lãnh đạo mà mù quáng thì làm nghèo đất nước. Cha mẹ không lo xa thì con cái lầm than. Bản thân thiếu tầm nhìn thì không có tương lai.
Thế nên, chúng ta cần xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng của chân lý, của sự thiện để chúng ta sống với cái nhìn trong sáng, chân thật về cuộc đời. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.
Anh chàng mù Ba-ti-mê ngồi bên vệ đường thành Giê-ri-cô đã xin Đức Giê-su điều gì, câu hỏi TN 30-B161
Anh chàng mù Ba-ti-mê ngồi bên vệ đường thành Giê-ri-cô đã xin Đức Giê-su điều gì, câu hỏi thật ngớ ngẩn! Vì rõ ràng anh ta xin được sáng mắt chứ còn điều gì nữa: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”! Thế nhưng ta cũng nên lưu ý: trước cả khi mở miệng xin được nhìn thấy, anh đã khẩn khoản kêu xin một điều khác còn quan trọng hơn nhiều: “Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vit, xin rủ lòng thương tôi!” Được nhìn thấy là ngọn, là kết quả của được xót thương là gốc, là nguyên nhân!; chỉ vì tranh thủ được lòng trắc ẩn của thầy Giê-su mà anh mù mới đạt được điều anh hằng mơ ước là được nhìn thấy. Vì cho tới lúc đó, anh thực sự chưa biết nhiều về ông thầy Giê-su đang đi qua; thiên hạ đồn rằng: ông rất đáng kính và hay làm phép lạ, tuy nhiên, cho dầu có là bậc thầy đáng kính tới mấy, nhưng nếu ông không đoái hoài, không xót thương mình thì cũng kể bằng không! Anh chưa hề có bất cứ một bằng chứng nào về đức độ từ nhân của thầy; nếu Ngài không rủ thương thì mọi sự đâu vẫn hoàn đó, và ước vọng cháy bỏng của anh sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực; chính vì lẽ đó mà anh kêu gào cho bằng được lòng thương xót, bất chấp nhiều người “quát nạt bảo anh im đi”.
Tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa là điều căn bản nhất của niềm tin Ki-tô hữu, chứ không phải tin vào sự hiện hữu của Ngài (điều này không may đã trở thành nỗi ám ảnh trước trào lưu vô thần của một số người). Biết bao lần chúng ta được Giáo Hội dạy cho biết: Thiên Chúa yêu thương nhân loại nói chung, yêu từng người nói riêng vô ngần; Người yêu từ ngàn xưa, yêu bất chấp các yếu đuối tội lỗi của con người. Về phần mình, Ki-tô hữu có trong tay bằng chứng không thể chối cãi về tình yêu tuyệt đối đó: cái chết Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. Lý thuyết là như thế, nhưng ta vẫn cần tra vấn mình như sau: Ki-tô hữu chúng ta thường có thái độ nào trong cầu nguyện?
Nhiều người xưng mình là Ki-tô hữu, nhưng lại thường xuyên hoài nghi, ngờ vực tình yêu nhân ái vô bờ bến của Thiên Chúa! Điều này đôi khi được diễn tả qua việc bề ngoài xem ra rất ư là đạo đức: họ cầu khẩn van xin Đức Mẹ và các Thánh cầu bầu cho, với hậu ý là: chưa chắc Chúa đã thật sự hết lòng xót thương mình. Tiến trình cầu nguyện của nhiều ‘người có đạo’ thông thường vẫn theo trình tự như sau: tới trước mặt Chúa qua trung gian một vị quan thầy quyền thế nào đó, nếu dọn trước được một số lễ vật lót đường thì càng tốt, hay ít nhất cũng sửa sang lại trong ngoài sao cho xứng đáng hơn, rồi khẩn khoản trình bày chi tiết điều mình muốn xin… Trong trình tự này, ít có ai dành thời giờ để gợi nhớ cho mình điều Đức Giê-su đã từng khảng định: “Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước cả khi anh em cầu xin” (Mt 6:8). Nói cách khác, nếu có một tiền đề nào cần phải làm trước khi quì gối cầu nguyện thì đó chính là: xin được con gia tăng tin tưởng tín thác vào Thiên Chúa nhân ái và hay xót thương! Hãy dành cho việc này nhiều thời giờ và nỗ lực hơn để chính mình xác tín, rồi loan báo cho mọi người biết về lòng nhân lành và hay thương xót của Chúa Cha; nhất là khi những gì đang xảy ra quanh ta hầu như muốn bịt miệng không cho phép ta gào lên điều đó! Nói cách khác, noi gương chàng Ba-ti-mê mù lòa, hãy can đảm và kiên định kêu gào cho bằng được điều căn bản nhất của niềm tin chúng ta: ‘Xin cho con thấu hiểu và xác tín được lòng Chúa từ nhân, bất chấp những tang thương đang tràn ngập quanh con’.
Trong cùng triền tư tưởng đó, lời cầu xin “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được…” sẽ còn mang một nội dung khác nữa: xin cho được thấy, được nhận ra ‘lòng nhân lành của Chúa’ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong những biến cố rất là phi lý và bất công, nơi mà ta không thể nhận thấy bất cứ một biểu hiện nào của từ nhân và yêu thương.
Sau hết câu nói của Đức Giê-su “lòng tin của anh đã cứu anh” cũng hé cho thấy niềm tin đó hệ tại điều gì: tin Đức Giê-su là mạc khải về Chúa Cha từ nhân, và tin Thiên Chúa hay xót thương đứng đàng sau mọi biến cố cuộc đời. Tin đây phải hiểu là tin tưởng phó thác; cầu nguyện với lòng tin tưởng như thế thật có sức mạnh biết bao!
Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy con biết cầu nguyện trong Người, vì con “không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng rên siết khôn tả! Và Thiên Chúa, đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8:26-27). Vâng! Con xin Người biến mọi lời cầu nguyện của con thành diễn đạt một niềm tín thác tuyệt đối vào Chúa Cha từ nhân và hay xót thương. Xin cho con mãi duy trì được thái độ này, bất chấp mọi nghịch cảnh có thể xảy đến. A-men.
Năm 1945, khi cuộc chiến thế giới kết thúc, những người lính trẻ từ chiến trường phương xa lần TN 30-B162
Năm 1945, khi cuộc chiến thế giới kết thúc, những người lính trẻ từ chiến trường phương xa lần lượt trở về cố hương. Tại nhà ga Verona bên Ý, một đám người đang tụ tập để nóng lòng chờ mong những cuộc hội ngộ. Giữa đám đông, có một bà cụ đứng đó một mình. Bà cũng đang ngong ngóng đợi chờ người con thân yêu sau nhiều năm tháng biền biệt đi xa. Lúc đoàn tầu cập bến, người ta thấy có một chàng thanh niên mù cũng đang quờ quạng kiếm tìm một ai đó. Cuối cùng người lính mù cũng lần mò tìm được người mẹ thân yêu, đang đứng co ro ngóng đợi. Chàng trai ôm chầm lấy bà cụ òa khóc nức nở và nói: “ Mẹ ơi, đôi mắt con đã bị mù hoàn toàn rồi. Con không còn thấy gì nữa, nhưng con đã tìm thấy mẹ bằng trái tim của con”. Người mù thành Giêrikhô mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại cũng đã tìm đến với Đức Giêsu không phải bằng đôi mắt của thân xác, nhưng với đôi mắt của cõi lòng.
Giêrikhô, chặng đường tiến vào đất hứa
Giêrikhô được mệnh danh là thành phố mặt trăng, nơi tôn thờ một vị thần của đêm đen. Trong thuật ngữ thánh kinh, Giêrikhô còn là biểu tượng của cuộc hành trình sa mạc tiến vào đất hứa. Ngày xưa, Giôsuê đã đánh chiếm Giêrikhô để mở đường đưa dân Do Thái đi vào miền đất mà Đức Chúa Giavê đã hứa ban. Đức Giêsu chữa lành anh chàng mù thành Giêrikhô hôm nay cũng diễn bày quyền năng và lòng thương xót của Ngài trước khi đi thụ nạn, khai mở cho chúng ta một vùng đất hứa mới, đó là ơn cứu độ và ánh sáng vĩnh cửu. Ngài sẽ đẩy lùi bóng tối tội lỗi của đêm đen để đưa dẫn chúng ta tiến vào bình minh của một ngày mới, đó là ngày ‘Thiên Chúa viếng thăm dân Người’. Đức Giêsu là nguồn sáng vĩnh hằng. Ngài đến để giải cứu chúng ta thoát khỏi sự mù lòa trong tội lỗi và sự chết. Đây là sứ điệp mà trình thuật phép lạ hôm nay gợi mở.
Sau những lần được loan báo về viễn ảnh Thập giá cùng với những bài học về sự từ bỏ và về tinh thần khiêm tốn phục vụ, các học trò của Đức Giêsu dường như vẫn chưa hiểu. Con mắt đức tin của họ vẫn còn đóng khép lại khi đối diện trước Thập giá và cái chết. Chúa Giêsu hôm nay muốn khải thị sâu xa hơn về chân dung cứu thế của Ngài qua việc chữa lành anh mù. Ngài muốn vạch dẫn con đường rộng mở để các môn sinh có thể trở nên những môn đệ Ngài cách đích thực và tiếp tục dấn bước theo Ngài.
Bóng tối và sự mù lòa
Có một bài thơ được khắc trên ngôi mộ của một người mù xấu số. Bài thơ viết như sau : “Đôi mắt tôi mù lòa tựa đêm đen. Thế giới ánh sáng đã vĩnh viễn khép lại. Chung quanh tôi chỉ còn bóng tối đầy kinh khiếp. Tôi như một phế nhân bị vất bỏ hoàn toàn. Hằng ngày tôi chẳng còn làm được gì, ngoài việc ngồi xếp chân trên đất với đôi tay giang rộng để van nài sự bố thí của những người qua lại. Cuộc sống tôi như một chuỗi đêm đen bất tận. Thật khốn khổ thân tôi.” Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng có dịp đến thăm những mảnh đời bất hạnh tại các mái ấm dành cho người khiếm thị, như mái ấm Nhật Hồng ở Thủ Đức, mái ấm Thiên Ân ở quận Bình Tân… Thế giới của người mù là cả một thế giới huyền bí, nhưng đầy ắp bi thương và xót xa. Thầy Nguyễn Quốc Phong là một cựu tu sĩ dòng Don Bosco cũng bị mù từ năm ba mươi tuổi và đã lập mái ấm Thiên Ân để đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thầy chia sẻ: “Tôi bị tai nạn và trở nên mù lòa hoàn toàn, giữa tuổi xuân đang hừng hực sức sống. Tôi đã từng rơi vào tuyệt vọng chán chường và khá nhiều lần bị cám dỗ toan tính tự tử. Nhưng giữa đêm đen kinh hoàng, tôi đã nghe được tiếng Chúa gọi, giống như Ngài đã gọi anh mù năm xưa ở Giêrikhô. Hằng ngày, tôi vẫn lập đi lập lại lời thánh thi giờ kinh tối để diễn bày niềm tin vào Chúa: ‘Khi ánh sáng chìm vào đêm tối, lời kinh dâng tiến Chúa càn khôn’. Thầy đã mở mái ấm Thiên Ân để sẻ chia bất hạnh với những con người sống trong nghiệt ngã giống như Thầy. Quả thật, sự mù lòa luôn gắn liền với bóng tối và sự khốn cùng.
Đó là sự mù lòa thể lý. Nhưng còn nhiều dạng thức mù lòa khác còn khiếp sợ hơn rất nhiều. Chúa Giêsu từng cảnh báo: “ Người mù mà dắt người mù sao được, cả hai sẽ rơi xuống hố” (Mt 15, 14), hoặc “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi, để ngươi thấy rõ, mới có thể thấy cái rác trong mắt người anh em ” (Mt 7, 3-4 ). Đây là những dạng mù lòa thiêng liêng mà chúng ta dễ thường hay mắc phải.
Có một anh chàng bị mù từ nhỏ. Mắt anh không thấy gì. Người ta kể cho anh những chuyện xảy ra ở trong xóm hay ngoài phố, anh không tin vì anh không thấy. Một vị lương y thương tình chữa cho anh. Anh dần dần thấy được lờ mờ những cảnh vật chung quanh, thấy con đường làng nho nhỏ trước mắt, thấy được cánh đồng bát ngát xa xa. Người ta nói với anh còn nhiều cảnh tượng hùng vĩ khác, còn có cả những rặng núi trùng trùng cao ngất, còn có cả biển rộng mênh mông xa tít chân trời… anh vẫn nhất định không tin, vì anh chưa thấy. Vị lương y buồn bã và thở dài nói với anh: “Này anh bạn, con mắt thân xác anh đang từ từ mở ra, nhưng con mắt tâm hồn của anh vẫn còn khép chặt lại, do sự kiêu ngạo và cố chấp nơi anh.”
Đây là dạng thức mù lòa của những người biệt phái năm xưa mà Chúa nói khá nhiều lần khi Ngài gọi họ là ‘những kẻ dẫn đường mù quáng’ (Mt 23, 16; 17; 19; 24). Sự mù quáng tăm tối nơi đầu óc họ chính là con đẻ của tính kiêu ngạo, luôn coi mình là nhất, luôn lấy mình làm thước đo để định giá người khác. Tính phê bình chỉ trích và hay kết án người này người nọ, nhất là qua những xì xầm to nhỏ chẳng khác gì thái độ của năm chàng mù đi xem voi mà chắc hẳn chúng ta đều biết. Đức Thánh Cha Phanxicô từng nói trong đại hội tu sỹ trẻ thế giới tháng Chín vừa qua rằng, việc chỉ trích và xầm xì (gossip) như thế chẳng khác gì khủng bố, khi người ta đang âm thầm thả những trái bom để tàn phá danh dự lẫn nhau. Người Pharisiêu ngày xưa cũng hay làm thế. Anh chàng biệt phái lên đền thờ cầu nguyện chỉ để khoe những thành tích đạo đức cá nhân mình và chê bai mọi người: “Lạy Chúa, con không như người thu thuế tội lỗi kia, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con đóng góp một phần mười huê lợi của con…” Sự mù lòa được thể hiện rất rõ nơi thói kiêu ngạo và thích kết án tha nhân giống như vậy. Có lần một phóng viên trên máy bay hỏi Đức Thánh Cha về quan điểm của Ngài đối với những người đồng tính, Ngài trả lời rất khôn ngoan: “Tôi là ai mà dám phán xét họ”. Mù lòa tâm linh chính là tự đóng khung mình trong pháo đài kiêu ngạo để phán xét mọi người. Thiên hạ vẫn thường nói “Điếc hay ngóng, ngọng hay nói. Người dốt lại thích khoe chữ”. Càng nói nhiều khoe khoang nhiều, càng lộ cái dốt của mình ra cho người ta thấy. Tính kiêu ngạo và sự mù lòa tâm hồn đi đôi với nhau.
Cần được chữa lành
Chúng ta hãy học thái độ của anh chàng mù trong bài Tin mừng hôm nay. Tiến trình được chữa lành nơi anh gồm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là anh ý thức sự mù lòa nơi bản thân. Anh chàng đã cảm nhận rất sâu thân phận bi thương của mình nên đã nhiều lần gào thét thật to giữa đám đông: “Lạy ông Giêsu, xin thương xót tôi – Kyrie eleison”. Cũng vậy, chúng ta cần phải ý thức về tình trạng tội lỗi và sự mù lòa nơi tâm hồn chúng ta. Người mù hôm nay đã kiên nhẫn la to lên khá nhiều lần đến độ dân chúng bực bội và quát nạt bảo anh ta câm mồm lại. Nhưng không, lời kêu cứu đó được lặp đi lặp lại và đã chạm đến cõi lòng của Đức Giêsu. Nỗi bất hạnh lớn nhất của người mù là mình bị mù nhưng cứ tưởng người khác cũng mù giống như mình. Cần phải biết và ý thức sâu xa sự mù lòa nơi chính bản thân chúng ta. Giai đoạn thứ hai, Chúa Giêsu gọi anh ta lại. Anh đã đứng lên và vất bỏ áo choàng anh đang mặc. Đây là một hình tượng tuyệt đẹp nói lên quyết tâm của chúng ta trong cuộc hành trình đức tin, một thái độ cương quyết dứt bỏ quá khứ tội lỗi. Chúng ta sẽ không được chữa lành nếu chúng ta vẫn còn đeo bám vào những gì cũ kỹ, như chiếc áo choàng của anh mù năm xưa, làm cản che tầm nhìn chúng ta hướng về Đức Giêsu. Giai đoạn cuối cùng là anh mù đã đến với Chúa và mở lòng ra với Ngài: “Thưa Thầy, xin cho tôi được nhìn thấy.” Chúa Giêsu đã chạm đến anh và chữa lành cho anh. Đây là mô thức cho cuộc hành trình đức tin của chúng ta đến với Đức Giêsu. Chúng ta nghe tiếng Ngài gọi. Chúng ta hãy can đảm đứng dậy vứt bỏ đi tấm áo choàng sờn cũ. Chúng ta mạnh dạn đi đến để tiếp cận Ngài, để gặp gỡ Ngài. Ngài sẽ sờ chạm đến và chữa lành cho chúng ta.
Kết luận: Sự ghê sợ của gương mù
Trong một buổi hội thảo về gia đình, vị linh mục nọ đã chia sẻ một kinh nghiệm quý báu. Ngài nói với cử tọa rằng Ngài được mời đi xức dầu cho một em bé ở cô nhi viện. Sau khi lãnh nhận bí tích, em đã tâm sự với Ngài như sau: “Thưa Cha, xin Cha gửi tới mẹ con những lời trăn trối sau cùng của con. Con không nguyền rủa mẹ con cho dù con chỉ có một người mẹ trác táng và hư hỏng. Con cũng không biết bố con là ai. Con ra đời chỉ là kết quả những phút giây truy hoan tội lỗi của mẹ con với một người đàn ông nào đó. Mẹ con thay tình nhân như thay áo. Bà đã gượng gạo nuôi con đến khi con được 8 tuổi và vất con vào đây như một cục nợ. Những năm tháng ở với mẹ, con chỉ thấy nơi bà một con người độc ác, ích kỷ, thích ăn chơi và hưởng thụ, luôn nói những lời đay nghiến, nhiều khi còn muốn con chết quách đi cho xong. Giờ đây con sống cô đơn ở cô nhi viện. Con không oán trách bà ấy, cũng không nguyền rủa cha con. Con chỉ tiếc là con không có được những người cha người mẹ tốt lành và có được một mái ấm gia đình đơn sơ như bao đứa trẻ khác”.
Đứa bé thều thào trong sự nghẹn ngào đau xót. Vị linh mục nhìn thấy những giọt nước mắt vọt trào từ đôi mắt đẫm lệ của đứa trẻ thơ, và vài giọt máu từ từ bắt đầu rỉ ra. Thằng bé lịm chết dần, mang theo bao nỗi xót xa còn vương đọng nơi tâm hồn của một đứa bé thơ vô tội nhưng cuộc đời đầy ắp những bất hạnh.
Cả hội trường thổn thức và xúc động lắng nghe. Vị linh mục kết luận: “Hỡi các bậc làm cha làm mẹ, mỗi ngày quý vị hãy quỳ gối xuống trước mặt Chúa để sám hối và thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin Chúa trợ giúp để chúng con đừng bao giờ trở nên gương mù cho con cái mình.”
Ai làm cớ cho một người bé mọn đây phải sa ngã, thà cột cối đá vào cổ nó mà xô xuống biển còn hơn”. Mù lòa thân xác đã là ghê sợ, nhưng trở nên gương mù cho người khác phạm tội còn kinh tởm hơn rất nhiều. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ nói như thế. Ước gì lời Chúa hôm nay lay động con tim mọi người, nhất là những người làm cha làm mẹ trong các gia đình, để chúng ta đừng bao giờ trở thành người mù dẫn đường cho những người mù khác, đặc biệt cho con cái chúng ta.
Trong âm nhạc có những giai điệu đẹp khiến lòng người mê say. Điệu thức là hệ thống âm thanh TN 30-B163
Trong âm nhạc có những giai điệu đẹp khiến lòng người mê say. Điệu thức là hệ thống âm thanh kết hợp với nhau theo một quy luật nhất định, trong đó có âm thanh ổn định và không ổn định, âm thanh ổn định nhất gọi là chủ âm. Có hai loại điệu thức: điệu thức trưởng và điệu thức thứ, với “màu sắc” khác nhau. Chỉ bảy nốt, nhưng liên kết khéo léo sẽ có giai điệu đẹp, điều này tùy vào tài năng âm nhạc của nhạc sĩ.
Như đã nói, có những giai điệu đẹp, nghe hoài không chán; ngược lại, có những giai điệu không muốn nghe lại lần thứ hai. Giai điệu có thể đẹp hơn nếu được hòa âm khéo léo, tính tế.
Tuy nhiên, giai điệu đẹp nhất và tuyệt vời nhất chắc chắn chỉ có giai điệu yêu thương, giai điệu của lòng thương xót. Giai điệu đó sẽ đẹp hơn khi nó trở nên hòa điệu, và nó còn là Mối Phúc thứ năm trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương ” (Mt 5:7).
Ngôn sứ Giêrêmia loan báo: “Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Israel! Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo” (Gr 31:7-8). Hành động của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, hành động phát xuất từ lòng thương xót vô biên của Ngài. Điều này không là chế độ “xin – cho”, mà là hành động của sự động lòng trắc ẩn, cũng không phải là lòng thương hại mà là tình thương xót vô điều kiện mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Đầu óc “bã đậu” của chúng ta không thể nào suy thấu!
Ai có đi tù rồi mới biết thế nào là hạnh phúc khi được ra tù, được trả tự do. Niềm vui đó khó tả vì nó quá lớn lao. Dân Israel cũng không thoát khỏi cảm giác kỳ lạ đó, họ sung sướng đến nỗi phải bật khóc. Ngôn sứ Giêrêmia nói trước: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng” (Gr 31:9). Và tất nhiên, điều tiên báo đó đã được ứng nghiệm chính xác.
Tác giả Thánh Vịnh cũng mô tả cảnh tượng kỳ diệu đó: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:1-2). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó được, thế nên chính họ đã hân hoan thốt lên: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3).
Tác giả Thánh Vịnh cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:4-6). Giống như “luật nhân quả” vậy, ai cười rồi sẽ khóc, ai sướng trước sẽ khổ sau. Ngược lại, ai khóc trước sẽ cười sau, ai vất vả rồi sẽ được hưởng kết quả. Một trong Bát Phúc cũng đề cập vấn đề này: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Vâng, Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí minh và chí công!
Còn chúng ta là phàm nhân đầy tội lỗi vì quá yếu đuối, hứa rồi quên, hối rồi phạm, đứng rồi lại ngã. Cứ thế, cứ thế,… Chu kỳ của chúng ta là những chuỗi sám hối và đền tội. Tuy nhiên, vì bất xứng nên Thiên Chúa tuyển chọn một số người thay chúng ta dâng của lễ đền tội. Người đó được chọn không phải vì xứng đáng, mà vì Thiên Chúa muốn hành động theo kế hoạch thương xót của Ngài. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:1-5).
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:4-6). Được CHỌN thì cũng được TRAO trọng trách, vì không phải được chọn để ung dung tự tại, tìm sự an nhàn cá nhân mà “vô tư” bỏ quên những người khác, nhưng phải quên mình, dấn thân, hy sinh vì những người khác. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Với tinh thần đó, trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ Tư theo thông lệ vào ngày 15-5-2013, ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở các giáo sĩ mục phải cẩn thận tránh xa cám dỗ để có thể trở nên mục tử hữu hiệu, và phải bảo vệ đàn chiên khỏi nguy hiểm. Sử dụng từ ngữ rất “mạnh”, ví von thực tế, thậm chí có thể gây “sốc” với một số người, ĐGH Phanxicô nói: “Nếu chúng ta đi với người giàu, là chúng ta đang đi về phía hư vô, chúng ta sẽ trở thành chó sói, chứ không phải người chăn chiên. Ngài cũng thúc giục tín hữu Công giáo cầu nguyện cho giám mục và linh mục”.
Phải vậy thôi, bởi vì ngày xưa chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo mà không sợ “đụng chạm” bất cứ ai: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Ngài cảnh báo để thức tỉnh những người “tai to, mặt lớn” (đại diện mà!), và đặc biệt là để thương xót những “con chiên”, không muốn chúng bị sập bẫy của lũ sói hoặc cáo!
Trình thuật Mc 10:46-52 (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43) nói về anh mù Ba-ti-mê ở Giê-ri-khô, liên quan hệ lụy thương xót với Đức Kitô.
Hôm đó, Chúa Giêsu và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Thầy với trò và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Có thể vì anh ta quá khổ sở vì mù lào, cuộc đời chỉ là đêm đen dày đặc, nên anh ta muốn thoát khỏi cảnh khổ đó, nhưng không phải anh ta “cầu may” theo kiểu “có bệnh thì vái tứ phương”, mà chắc chắn anh ta thực sự có lòng tin thật lớn đối với Chúa Giêsu. Anh ta chỉ nghe người khác nói về Ngài chứ anh ta có biết gì đâu. Vậy mà anh đã tin, tin thật, không chút hồ nghi.
Thấy anh ta la lối om sòm, kêu gào nhức tai quá, nhiều người đã quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng với điệp khúc van xin: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Những người quát nạt anh ta chỉ là những người chảnh, xấu bụng, không hề biết chạnh lòng thương trước cảnh khổ của người khác. Họ đã không thương anh ta thì thôi, lại còn đâm bị thóc, chọc bị gạo. Quá chảnh!
Nhưng mặc kệ, anh ta vẫn tin tưởng và van nài. Anh ta mù mắt mà sáng hồn, kiên trì cầu nguyện. Còn chúng ta, tuy mắt sáng (và còn đẹp nữa), thế mà lại mù hồn. Đã vậy thì chớ, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà như “ra lệnh” cho Chúa vậy. Thật thế, cầu xin mãi không được thì nản lòng, bỏ cuộc, chứng tỏ đức tin chúng ta quá mong manh. Cầu nguyện kiểu như vậy chỉ là ích kỷ!
Nghe tiếng cầu xin chân thành, Chúa Giêsu đứng lại và bảo gọi anh ta lại. Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”. Chỉ chờ có thế thôi, anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh. Anh ta nói ngay: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Thế là ngay lập tức, anh ta nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Anh ta XIN và ĐƯỢC, Chúa Giêsu LẮNG NGHE và ĐÁP LẠI. Chúa Giêsu và anh mù Ba-ti-mê đã cùng hòa điệu thương xót. Thật tuyệt vời biết bao!
Mỗi người trong chúng ta đều là một nốt trong bản tổng phổ thương xót. Một nốt nhỏ đó không là gì, nhưng thiếu nốt đó thì không thể hòa điệu trọn vẹn. Tương tự, mỗi nhạc công trong một dàn nhạc cũng chẳng là gì nếu tách riêng, nhưng họ vẫn thực sự quan trọng khi hoàn tất nhiệm vụ của mình trong dàn nhạc. Cuộc sống thật kỳ lạ, có những điều bé nhỏ, xem chừng quá đỗi bình thường, nhưng chính những điều bé nhỏ đó lại chứng tỏ một tình yêu thương lớn lao.
Lạy Thiên Chúa, xin mở mắt đức tin cho con để con nhìn thấy Ngài trong tha nhân, nhất là những con người hèn mọn và đau khổ. Xin giúp con biết thể hiện lòng thương xót để con làm trọn bổn phận của một nốt nhỏ trong bài Trường Ca Yêu Thương của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta và mong muốn chúng ta luôn sống bình an, vui mừng TN 30-B164
Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta và mong muốn chúng ta luôn sống bình an, vui mừng, hạnh phúc và trong ân sủng của Chúa mãi mãi. Nhưng chúng ta thành tâm thú nhận rằng nhiều khi chúng ta mù quáng chạy theo những cám dỗ của vật chất, thú vui thế gian, sống trong sự lầm lạc, tội lỗi theo ý của chính con người chúng ta. Để đưa con người chúng ta quay trở về, hay để mở con mắt tâm hồn chúng ta, Chúa muốn chúng ta hãy thành tâm lắng nghe lời kêu mời của Chúa, nhận ra sự bất an và đau khổ mà chúng ta tự tạo cho mình, thành tâm đến với Chúa để được Chúa chữa lành. Các Bài Đọc lời Chúa hôm nay biểu lộ quyền năng, và tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người chúng ta, qua những trường hợp và hoàn cảnh khác nhau, để chúng ta nhận được ơn sủng và chữa lành của Chúa.
Trong Bài Đọc I, khi dân Do thái mù quáng sống trong lầm lạc, và không chịu nghe lời các ngôn sứ dạy bảo, quay trở về sống trong tình yêu và ân sủng của Chúa, họ đã bị ngoại bang xâm lăng và giày xéo. Kết quả là dân Do thái đã bị mất nước và bị đưa đi lưu đày nô lệ. Nhưng tình yêu thương của Thiên Chúa không bao giờ cạn cho dân Do thái, dân riêng của Chúa, cho dù họ phản bội và tội lỗi đến đâu, Chúa đã sai các ngôn sứ tới để khuyên bảo và kêu gọi họ giữ vững niềm tin và trông cậy, và Ngài sẽ giải thoát, đưa họ về quê hương làm lại cuộc đời. Là những Ki-tô hữu, chúng ta tin một cách vững chắc vào tình yêu thương và lòng nhân từ của Chúa cũng sẽ không bao giờ cạn cho chúng ta, dù chúng ta sống trong hoàn cảnh và tình trạng nào.
Trong bài đọc 2, chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Ngài chọn và gởi các thượng tế đến để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Các thượng tế thay Thiên Chúa lo lắng và chăm sóc phần hồn cho dân qua mọi thời đại. Nhưng vị Thượng Tế cao cả nhất là chính Người Con Một của Ngài, là Chúa Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người, và sứ mạng của Chúa Giê-su Ki-tô là mang ánh sáng và tình yêu thương của Thiên Chúa Cha đến cho con người trần gian chúng ta đang sống trong tội lỗi và tối tăm. Và qua Người Con Một này, Thiên Chúa muốn con người chúng ta đón nhận tình yêu của Chúa, để sống trong an mạnh, vui mừng và hạnh phúc hồn và xác.
Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giê-su Kitô đã chữa lành cho một người mù thành Giê-ri-cô. Với một niềm tin mạnh mẽ, anh mạnh dạn vượt qua mọi trở ngại, đến xin Chúa chữa lành cho anh được thấy. Tin mừng còn cho chúng ta biết anh bị mù chứ không điếc, cho nên anh đã được nghe người ta nói về Chúa Giêsu và quyền năng của Ngài, và anh có lòng tin mạnh mẽ Ngài là Đấng có thể cứu chữa anh. Chúng ta thấy anh đã không chút ngần ngại và biết nắm lấy cơ hội để lên tiếng cầu xin với Chúa: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”
Ông bà anh chị em thân mến. Qua câu chuyện chữa lành sự đui mù thể xác, Chúa Giê-su cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta biết Ngài cũng có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn.
Có một câu chuyện về người đàn ông cứng lòng và rất khó tính, luôn phê bình, chỉ trích người khác. Vì ích kỷ, ông không bao giờ giúp đỡ hay quảng đại, và vì tự cao, cho nên ông không bao giờ nhìn thấy điều gì tốt nơi người khác, nhất là những người không đồng ý hay làm theo ý của ông. Bất cứ họ làm một việc gì kể cả việc tốt, thì ông cũng phải cố tìm cho ra một lý do để chỉ trích, phê bình, hay cố tìm một khía cạnh, một nguyên do để chống đối. Ông thường đưa ra những lý lẽ: Người đó phải có ý đồ đen tối hay dấu diếm gì, hay được cái gì lợi trong đó. Và ông thường khinh thường và hay bắt lỗi những ý kiến, những công việc của người khác, và tệ hơn nữa còn thường hay rỉ tai nói xấu người khác.
Thế rồi một ngày kia, được người vợ thúc đẩy dự buổi tĩnh tâm, và được nghe linh mục cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, ông bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp, không nhận ra được những công việc tốt lành, không nhận ra được tấm lòng của những người khác, và ông không sống trong ân sủng của Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác, vì sự đui mù tâm hồn này ngăn cản chúng ta không nhìn thấy sự thật, không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy những điều tốt đẹp của những người chung quanh, và không nhận ra tình yêu, ơn sủng của Chúa. Tật đui mù này lại thường hay lây lan. Chính vì thế là những Ki-tô hữu, mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: “Tôi có bị đui mù về tâm hồn hay không?” Nếu có, thì chúng ta hãy thành khẩn kêu cầu Chúa cứu chữa chúng ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúng ta nhận thấy người mù có một sự ao ước, khát vọng mãnh liệt và mong chờ được đối diện với Chúa để được Chúa chữa lành. Sự khát vọng này đã giúp anh vượt qua mọi trở ngại để được gặp Ngài. Chúng ta cũng tự hỏi “Chúng ta có một sự ao ước, một khát vọng mãnh liệt được gặp Chúa Giêsu như anh không?” “Chúng ta có sẵn sàng vượt mọi trở ngại trong cuộc sống để được đối diện và gặp Chúa không?”
Qua cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và anh mù, chúng ta cũng còn thấy được quyết tâm và niềm tin vững mạnh của anh. Anh không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa. Khi Chúa Giêsu đứng lại và nói với người ta gọi anh mù đến. Phản ứng của anh mù ra sao? Chúng ta thấy phản ứng của anh rất rõ ràng và quyết liệt: “Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.” Và khi nghe Chúa Giêsu hỏi: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Anh mù đáp không một chút do dự và mạnh mẽ thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy.” Tức khắc, anh nhìn thấy được, cũng như nhìn thấy con đường Chúa đang đi, và cũng từ lúc đó, anh quyết định đi theo con đường Chúa đi.
Chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy được con đường Chúa đi, và nhất là thấy được tình yêu thương bao la của Chúa cho chúng ta, để chúng ta có một niềm tin vững chắc vào Chúa, và can đảm đi theo con đường con đường Chúa chỉ bào, để chúng ta trở thành ánh sáng Chúa Ki-tô, dẫn dắt người khác đến với Chúa, và luôn sống trong an mạnh, hạnh phúc và trong ân sủng tình yêu thương của Chúa.
Có nhiều thắc mắc chúng ta khó trả lời. Tại sao Chúa lại để cho người này, người kia mù lòa TN 30-B165
Có nhiều thắc mắc chúng ta khó trả lời. Tại sao Chúa lại để cho người này, người kia mù lòa, câm điếc hay bất toại? Nếu chỉ nhìn vào cuộc sống tự nhiên, chúng ta không tìm được câu trả lời thích đáng. Chính vì thế, nhiều người cảm thấy bất hạnh. Chúa Giêsu đã đến như một nguồn ánh sáng làm cho chúng ta nhận biết được giá trị của những bất toàn trong đời sống.
Phúc âm hôm nay tả cảnh Chúa chữa lành cho người mù ăn xin vệ đường. Anh mù đến van xin Chúa rằng: Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu đáp: Được, đức tin của anh đã chữa anh. Anh đã được thấy và thấy rõ hơn cả những người nghĩ mình có mắt sáng. Biết bao người có mắt sáng chung quanh anh. Họ trông thấy Chúa nhưng họ không nhìn biết Chúa. Họ đâu có nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ đâu có tin Chúa có quyền phép vô cùng. Anh mù đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, Đấng có thể chữa anh. Chúa đã chữa mắt thể xác và cả mắt tinh thần cho anh.
Chúng ta có mắt sáng nhưng không phải chúng ta nhìn thấy mọi sự. Có nhiều điều xảy ra chung quanh mà chúng ta không thấy. Đôi khi mắt chúng ta bị che khuất bởi sự ích kỷ, lòng hẹp hòi, sự ghen tương, lòng hận thù, chúng ta không nhận ra được sự tốt lành nơi người khác. Chúng ta có những điểm mù trong cuộc sống. Điểm mù của con mắt tinh thần làm chúng ta không nhận ra nhân phẩm xứng đáng của anh chị em.
Truyện kể người ta thấy một em bé gái mù lòa, mặt mày hốc hác, quần áo rách rưới đứng co ro ở một góc đường để xin ăn. Cô bé trông bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, ốm o bệnh hoạn. Lúc ấy, một ông ăn mặc sang trọng lái xe ngang qua đó trông thấy cô bé nhưng ông chẳng thèm nhìn đến lần thứ hai. Khi lái xe về đến nhà, thoải mái trong căn hộ ấm cúng với vợ con. Trước mâm cơm thịnh soạn, hình ảnh cô bé bỗng hiện ra rõ rệt trong đầu ông. Ông thở dài và phàn nàn cùng Chúa: Tại sao Chúa để cho những hoàn cảnh đáng thương như thế xảy ra trên cõi đời này? Hình ảnh cô bé cứ ám ảnh ông, không chịu được sự dằn vặt ông trách Chúa: Chúa phép tắc vô cùng, tại sao Chúa không làm cái gì để giúp cô bé nghèo khổ đáng thương ấy. Lúc ấy, tự thâm tâm ông nghe tiếng Chúa phán cùng ông rằng: Ta đã làm rồi chứ sao lại không. Điều này Ta dành cho con đó. Ta đã dựng nên con mà.
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con quan chiêm những kỳ công của Chúa. Xin cho con mắt đức tin của chúng con mở sáng để chúng con nhìn được hình ảnh Chúa nơi anh chị em của chúng con.
Hôm thứ bảy, ngày 3/10/2015, trước ngày khai mạc Thương Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, Toà TN 30-B166
Hôm thứ bảy, ngày 3/10/2015, trước ngày khai mạc Thương Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, Toà thánh đã sa thải một Đức Ông người Balan tên Charamsa, là nhân viên trong Bộ Giáo Lý Đức Tin. Ông đã công khai nhận mình chung sống với một người bạn trai đồng tính. Ông tổ chức họp báo lên tiếng chống đối quan điểm của Giáo hội về vấn đề đồng tính, đồng thời gây sức ép lên Thượng Hội Đồng đang họp bàn về gia đình. Sự việc một linh mục phá giới vẫn thường xảy ra, tuy nhiên sự kiện linh mục Charamsa lại được báo chí thế giới và Việt nam khai thác triệt để. Các báo chí đã chạy những tựa bài giật gân để đánh lạc hướng sự kiện kiểu như: “linh mục bị cắt chức vì đồng tính”. Giáo hội chưa bao giờ kỳ thị người đồng tính, nhưng luôn thông cảm và tìm ra đường hướng mục vụ để giúp đỡ họ sống tốt, sống thánh ngay trong tình trạng của mình.
Sự thật của việc Toà thánh sa thải vị linh mục Chamasa không phải vì quan điểm của ông, cũng không phải vì ông đồng tính, nhưng là vì ông đã vi phạm lời hứa sống độc thân khiết tịnh, ông hãnh diện giới thiệu bạn tình của mình với báo chí. Ông lớn tiếng cáo buộc Vatican “dối trá” nhưng thực ra chính ông là kẻ dối trá. Ông đã không sống theo lời cam kết khi thụ phong linh mục, ông vừa muốn nổi danh trong giáo hội, vừa muốn sống như một người ngoài Công giáo, vừa muốn là linh mục lại vừa muốn có bạn tình. Vì thế ông đã biến mình trở thành con cờ của truyền thông.
Sống trong một xã hội thật giả lẫn lộn cùng với truyền thông vô lương tâm, thiếu trách nhiệm, nhiều người như bị lạc lối, bị hoang mang, chúng ta cần tỉnh táo sáng suốt để nhìn thấy sự thật.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, thì có một người mù tên là Bartimê đến xin với Chúa Giêsu: Lậy Thầy, xin cho tôi được nhìn thấy. Câu chuyện trên mang nhiều ý nghĩa. Trước hết, Giêricô là một thành phố được nhắc đến như một chốn tối tăm tội ác, là hang ổ của gian dối và tội phạm. Chúa Giêsu là ánh sáng, là chân lý và sự thật đã đi ngang qua nơi ấy để đem ánh sáng đến cho vùng này.
Anh mù ngồi bên vệ đường là hình ảnh của những con người bị mù thể xác và bị mù tối cả trong tâm hồn. Tình trạng của anh hết sức tồi tệ: rách rưới bẩn thỉu, ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng dường như không ai quan tâm. Khi nghe biết Đức Giêsu Nazareth đi ngang qua, anh đã kêu lên: Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Lời kêu xin này cho thấy con mắt đức tin của anh đã bắt đầu hé mở. Anh gọi Đức Giêsu là con vua Đavít, tức là anh đã tin Ngài chính là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo, là Đấng cứu thế. Đức tin của anh vừa hé mở thì đã bị bóng tối của những người chung quanh lấn lướt. Họ quát nạt anh, cấm không cho anh nói, nhưng anh vẫn kiên trì kêu to hơn: Lạy con vua Đavít xin dủ lòng thương tôi.
Dù những người khác cố tình dập tắt đức tin của anh, nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy anh, ánh sáng của tình thương và ơn cứu độ đã dừng lại trên anh. Chúa Giêsu đã đứng lại và truyền gọi anh đến với Ngài. Anh vất chiếc áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Vất lại đàng sau chiếc áo choàng, có nghĩa là anh đã chấp nhận vứt bỏ lại đang sau quá khứ mù tối của mình, vứt bỏ chiếc áo hôi hám bẩn thỉu là con người cũ để bước đến với Chúa Giêsu là ánh sáng và chân lý.
Mặc dù biết được sự thiện chí, sự khao khát trong tâm hồn của anh, nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn để anh phải công khai nói lên ước nguyện của mình, khi Ngài hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Người mù đáp lại: Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được. Anh không xin được thấy một cách chung chung, nhưng anh xin cho tôi thấy được, và Chúa đã cho anh được thấy. Anh thấy Chúa Giêsu và anh tin vào quyền năng của Ngài. Chúa đã mở mắt thể lý để anh có thể thấy mọi vật mọi loài, nhưng quan trong hơn, Chúa đã mở mắt tâm hồn để anh nhận biết Ngài không chỉ là con vua Đavít mà còn là chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban lại cho anh không chỉ ánh sáng cho đôi mắt, nhưng Ngài còn cho anh ánh sáng chân lý đức tin. Tác giả kết luận câu chuyên bằng lời nhận xét: Anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
Con đường Chúa Giêsu đi là con đường sự thật và chân lý: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Anh Bartimê đã bước theo con đường và giáo huấn của Ngài là bước theo sự thật và sống theo cách sống của Ngài, trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Con đường Chúa Giêsu đi là con đường lên Gierusalem để hoàn tất thánh ý của Thiên Chúa Cha muốn. Thiên Chúa muốn Ngài yêu thương tới cùng, phục vụ cho tới cùng và đón nhận thập giá với tình yêu mến và vâng phục Chúa Cha trọn vẹn, để quy tụ và đưa mọi người về với Thiên Chúa.
Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc một đã nói trước về niềm vui hân hoan khi Đấng Cứu thế con vua Đavít sẽ đến, nay đã ứng nghiệm. Ngài là đấng quy tụ mọi kẻ tản mác trở về, đem lại niềm vui hân hoan cho họ. Ngài sẽ cứu họ khỏi cảnh tối tăm cùng cực của nô lệ và giải thoát họ khỏi sự ràng buộc bởi đau khổ bệnh tật xác hồn: Ngày ấy kẻ đui mù què quặt, kẻ mang thai, người ở cữ đều được Thiên Chúa quy tụ về, Ngài sẽ dẫn họ trên đường ngay nẻo chính họ sẽ không còn bị vấp ngã nữa.
Ngày hôm nay chúng ta đang sống trong thời đại của ánh sáng văn minh, sự tiến bộ của khoa học, nhưng có rất nhiều người vẫn đang bị mù loà. Không chỉ mù mắt, mà người ta còn nói đến nhiều tình trạng mù khác: mù chữ, mù thông tin. Nhưng điều đáng nói hơn là mù chân lý, mù sự thật và mù tối trong đức tin. Noi gương anh Bartimê, chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin Ngài: Lậy Thầy, xin cho con thấy được.
Xin, để thấy được con người thật của mình- Vì nhiều người ngày này đang sống với cái mặt nạ tốt đẹp bên ngoài, nhưng bộ mặt thật thì lem luốc. Họ hào nhoáng rộng rãi vui vẻ với bạn bè nhưng lại hẹp hòi với cha mẹ, vợ con trong gia đình. Xã hội ngày nay trọng hình thức thì cũng đồng thời tạo ra những con người sống hình thức bên ngoài nhưng giả dối bên trong. Nhận ra con người thật của mình để biết mình đang đi con đường nào, đúng hay sai, để cùng với ơn Chúa mỗi người tự điểu chỉnh bản thân cho đúng hướng hơn.
Xin thấy được tình trạng của gia đình mình, thấy những nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Nhiều người vì bận rộn với cuộc sống với cơm áo gạo tiền, khiến họ bỏ rơi việc chăm sóc cho các thành viên của gia đình. Nhiều gia đình đang bị bóng tối của bạo lực, của bất trung bao trùm khiến cho gia đình không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Nhiều bậc cha mẹ đã để gia đình mình sống trong bóng tối của gian dối, qua những kiểu làm ăn thiếu lương thiện.
Noi gương anh Bartimê, xin Chúa mở mắt để mỗi người nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa trong cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện và chờ đợi chúng ta mở cửa lòng để cho Ngài bước vào. Ngài vẫn kề bên mỗi người để giúp chúng ta giải gỡ những khó khăn và giúp chúng ta thành công. Vì thế đừng bao giờ tỏ ra vô ơn trước ân huệ của Thiên Chúa.
Sống trong một xã hội bị ảnh hưởng bởi truyền thông xấu, bị tuyên truyền nhồi nhét sai lạc, gian dối, khiến cho nhiều người lầm lẫn, hồ nghi về chân lý đức tin, về giáo hội của mình. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để nhìn thấy sự thật và dám lên tiếng bênh vực cho sự thật. Xin mở mắt đức tin để chúng ta nhận ra chân lý và giáo huấn của Chúa, giúp chúng ta biết dùng Lời Chúa và giáo huấn của Ngài để đánh giá mọi sư việc xảy đến trong xã hội cũng như cho bản thân.
Tiền bạc của cải và sự ích kỷ cũng đang làm cho nhiều người trong chúng ta trở nên mù loà, khiến nhiều người không còn nhìn thấy sự hiện diện và những nhu cầu của anh em đang cần chúng ta giúp đỡ. Xin Chúa mở mắt để chúng ta có thể nhìn thấy những nỗi thống khổ của anh em để biết chia sẻ và trao tặng. Xin đừng bao giờ để chúng ta mù loà làm ngơ trước nỗi bất hạnh của họ.
Sau cùng xin Chúa mở mắt tất cả chúng ta để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Lời Chúa và bước đi theo Chúa trên con đường thập giá, nhờ đó chúng ta có thể trở nên môn đệ đích thật của Chúa Giêsu. Amen.
Truyện dân gian “Mù xem voi”, miêu tả 5 ông mù đi xem voi thật đáng thương. Ông mù nào TN 30-B167
Truyện dân gian “Mù xem voi”, miêu tả 5 ông mù đi xem voi thật đáng thương. Ông mù nào cũng muốn khẳng định khả năng tiên đoán của mình ! Dù mắt không sáng, mỗi ông thầy bói ấy, nhất quyết giữ lập trường của mình về hình ảnh chú voi, vì thế mà đã xảy ra xung đột cãi vã, đánh nhau…. Truyện “mù xem voi” gợi lên giá trị sâu sắc về việc đánh giá sự vật, hiện tượng, không nên chủ quan, cứng ngắc. Tính sâu sắc của ngụ ngôn còn cho thấy : con người luôn giới hạn, cần được yêu thương hơn là oán trách, mọi người hãy đón nhận nhau, giúp nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề hơn là độc tài, bảo thủ ý kiến riêng của mình.
Sáng mắt mà sống như mù lòa, không nhìn thấy gì nhưng lại cho mọi người cảm nhận “anh ta” thật sáng suốt, đúng là nghịch lý mà Tin mừng hôm nay nói tới. Sống trên đời, ai cũng vận dụng đôi tai để nghe, đôi mắt để nhìn, nhằm giúp tâm trí phân biệt tốt xấu, phải trái. Nhờ nghe, nhìn, hiểu, người ta phát hiện ra ai cũng cần được yêu thương. Giữa đám đông đầy xáo trộn, nhiều người sáng mắt nhưng họ chỉ nhận biết Đức Giêsu là Vị Thầy thỉnh thoảng làm phép lạ. Anh mù Bartimê tuy không có lợi thế nhìn, nhưng nhờ nghe, anh ta tin, và anh tuyên xưng “Đức Giêsu là Con Vua Đavit” !
Người xưa nói rằng : người ta bà con vì tình vì nghĩa, không ai bà con vì tiền vì bạc. Trong khi ai cũng muốn bà con với Thầy Giêsu, chẳng thấy ai bà con tình nghĩa gì với người mù bên vệ đường, còn có nhiều người la mắng “hãy im đi”. Kinh nghiệm cho thấy : già cần sức khỏe, trẻ cần kiến thức, đói nghèo cần cơm bánh để sống, anh mù Bartimê cần được sáng mắt, chứ không tiền của. Thực tế thì hôm nay ai trong chúng ta đây cũng là bà con của Chúa Giêsu rồi. Chúng ta đầy tình nghĩa, đầy tình yêu thương, mỗi chúng ta còn đang thiếu một thứ, có thể là hạnh phúc, là bình an, là Nước Thiên Chúa.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu đến trần gian để thực thi sứ mạng yêu thương cứu độ, Ngài muốn là bà con, là anh chị em với mọi người không phân biệt sang hèn, đau ốm khỏe mạnh, tội lỗi thánh thiện. Đám đông dân chúng ở Giêricô hôm nay không thể hiện được mơ ước họ đang cần Đức Giêsu đáp ứng điều gì ! cũng trong những con người tội nghiệp ấy, anh mù là đại diện kẻ cần được yêu thương kêu xin Chúa ban cho ơn được sáng, được thấy.
Ngày hôm nay, có thể người ta từng cười châm biếm những ông mù diễn tả hình thù con voi, từng coi thường đám đông Do-thái cản đường cản lối anh mù Bartinê ! Thực ra, mù không nhìn thấy là đau khổ, mắt tinh tai thính mà không thấy, không biết, Đức Giêsu là ai có gì là phúc đâu ? Nhưng để thế hệ sau không cười, không khinh thường chúng ta là những kẻ “mờ mờ ảo ảo”, trước hết mỗi chúng ta phải chứng minh được con người ai cũng cần được tình yêu thương. Dù không mù lòa câm điếc, không ích kỷ hồ đồ với anh chị em sống bên cạnh mình, không giả điếc làm ngơ trước sự hiện diện của tình yêu, Ngài cũng không thể chấp nhận ta lấp lửng với hạnh phúc chân thật được rộng rãi ban.
Hiện tại Đức Giêsu không vào thành Giêricô, nhưng môn đệ của Ngài vẫn vào thành, vào từng giáo xứ, từng gia đình, từng tâm hồn. Đức Giêsu không thích chúng ta ngốc nghếch kiểu “hỏi sư mượn lược, vào chùa xin thịt chó” ! Đức Giêsu hôm nay chúng ta có thể gặp ở mọi nơi, điều đáng quan tâm là ta có nghe, có biết, có nhìn thấy Chúa Giêsu vẫn là Thầy là Chúa, như anh mù Bartimê tuyên xưng không ? Đúng hơn, Đức Giêsu vẫn đang hỏi từng người chúng ta : “anh muốn Ta làm gì cho anh” ? Vì Ngài biết, tuy ta không mù, không điếc, không câm, nhưng ta vẫn cần được chăm sóc yêu thương!
Triết lý cuộc đời vẫn gợi lên nhiều bài học : bạn có thể tìm được sức mạnh ngay cả trong những khiếm khuyết của bạn. Anh mù Bartimê đã khiến đám đông bừng tỉnh, khi mắt tâm hồn anh không hề mù tối, tai anh ta thính đến độ biết Đức Giêsu là ai, miệng anh ta hoàn toàn tự do tuyên xưng niềm tin của mình. Có một ước mơ gặp Đức Giêsu không khó, giữ được mơ ước Đức Giêsu sẽ chữa lành cho những khiếm khuyết của ta, và quyết tâm thực hiện mơ ước của mình như anh mù Bartimê quan trọng hơn nhiều.
Thành ngữ có câu : khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giầu nghèo ba mươi tết mới hay. Mỗi chúng ta nên chứng minh cho mọi người biết mình là con cái Chúa, không thể sống mà thiếu tình yêu thương, không thể im lặng khi tai mắt và tâm hồn ta hoàn hảo không khiếm khuyết. Anh mù được sáng mắt không phải vì anh ta giầu, hay gặp may, mà chính là do anh ta biết thưa với Đức Giêsu điều cần thưa : “hỡi Ông Giêsu Con Vua Đa-vít, xin thương xót tôi”. Và Chúa đã trả lời cho anh bằng một ngôn ngữ cụ thể : “được, đức tin của anh đã cứu chữa anh”. Các bạn hãy cùng tôi gặp Đức Giêsu, hãy thể hiện niềm tin, hãy thực hành khao khát của mình đi, Ngài sẵn lòng đáp ứng điều ta kêu cầu đó. Amen.
Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXX Thường Niên, năm B hôm nay TN 30-B168
Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXX Thường Niên, năm B hôm nay kể lại cho chúng ta câu chuyện người mù ăn xin được sáng mắt. Trước hết, chúng ta được mời gọi tạ ơn Chúa, vì đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng, và cùng cầu xin Chúa cho đôi mắt của chúng ta, nhờ lòng tin, không chỉ nhìn mọi sự như những sự vật « tự nhiên », chẳng hạn thế giới sáng tạo, hay chỉ nhìn mọi sự có trong cuộc sống như những sự vật để hưởng thụ tùy thích, nhưng còn như những dấu chỉ nói cho chúng ta về những kì công của Thiên Chúa, về sự hiện diện của Thiên Chúa, về tình yêu và lòng thương xót của Chúa, như lời Thánh Vịnh diễn tả :
Chỉ có Người làm nên những kỳ công vĩ đại, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
(Tv 136, 4)
Một người mù đang ngồi ăn xin Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô tương đối ngắn, nhưng lại có nhiều chi tiết về lí lịch và hoàn cảnh của người mù ăn xin :
Anh tên là Ba-ti-mê Anh là con ông Ti-mê. Anh ngồi bên vệ đường, gần thành Giê-ri-cô Người mù ăn xin ở bên vệ đường, gần thành Giê-ri-cô có một tên riêng, anh có cha có mẹ, anh thuộc về một gia đình. Như thế, nỗi bất hạnh và khốn khổ của anh liên quan đến nhiều người, nhất là của những người thân yêu. Và chúng ta có thể nói, nỗi bất hạnh và khốn khổ của anh cũng là nỗi bất hạnh và khốn khổ của những người thân nữa, bởi vì cuộc sống của chúng ta tất yếu có sự liên đới.
Nơi phép lạ chữa lành dành cho anh mù Ba-ti-mê, chúng ta hãy nhận ra, để cho mình được đánh động và được cuốn hút bởi sự liên đới của Thiên Chúa dành cho loài người bệnh tật và đau khổ, trong đó có chính chúng ta và những người thân yêu của chúng ta, nơi trong Đức Giê-su Ki-tô và nhất là nơi Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh.
* * *
Bài Tin Mừng còn nêu bật lên lòng khao khát được sáng mắt, và chắc chắn đó cũng là lòng khao khát của bất cứ người mù nào trong cuộc đời này. Và cùng với lòng khao khát, là lòng tin, lòng tin nơi Đức Giê-su, là Đấng có thể làm cho anh sáng mắt, vì Người là Ánh Sáng, là Đường Đi và là Sự Sống, như sau này anh sẽ nhận ra Chân Lý toàn vẹn về Người.
Khi nghe nói, Đức Giê-su đang đi tới, anh kêu lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Và anh càng kêu lớn tiếng bất chấp bị người ta quát nạt bảo im đi: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Lòng khao của anh đã làm cho Đức Giê-su chạnh lòng: “Gọi anh ta lại đây!” và cũng làm cho nhiều người cảm thương: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến với Đức Giê-su. Và khi nghe Người hỏi đích thân: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được. Anh mù Ba-ti-mê đã trở nên sáng mắt, nhờ lời sau đây của Đức Giê-su: « Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh ». Về phương diện thể lí, đây là một biến cố lạ lùng, gây ấn tượng. Nhưng lời của Đức Giê-su mời gọi chúng ta vượt qua sự lạ lùng thể lí ở bên ngoài, để hiểu và cảm nếm ơn chữa lành của Chúa ở mức độ đức tin và ơn cứu độ. Xin Chúa Thánh Thần cũng khơi dậy nơi chúng ta lòng khao khát được chữa lành và lòng tin mạnh mẽ nơi Ngôi Vị của Đức Giê-su và thưa với Người :
Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con ! Lạy Chúa, xin cho con thấy được !
Ơn gọi của đôi mắt Sáng mắt là điều quan trọng, nhưng để sống bình an và hạnh phúc với người khác, và nhất là với những người thân yêu và với Chúa, anh còn phải sáng lòng nữa, để nhìn ra nhận ra ân huệ, tình bạn và tình yêu của người khác và của Chúa, nhận ra sự hiện diện của người khác và của Chúa. Bởi vì, chúng ta sống không chỉ bằng những vẻ đẹp bên ngoài, nhưng còn bằng sự hiện diện của nhau, bằng vẻ đẹp của tâm hồn, bằng vẻ đẹp và những điều cao quí đến từ Thiên Chúa nữa và của chính Chúa nữa. Sáng mắt rồi, nhưng đôi mắt sáng của anh Ba-ti-mê có đi tìm Chân, Thiện, Mỹ là chính Chúa hay không, hay lại đi tìm những điều gì khác chóng qua, gian dối, sự dữ, sự xấu, làm cho mình trở nên mù quáng. Hơn nữa, con người đâu có nhìn thấy mãi, vì anh mù được sáng mắt trở lại, một ngày kia, mắt anh sẽ khép lại mãi mãi. Và đôi mắt của chúng ta cũng sẽ như thế. Bằng chứng là, từ tuổi trung niên trở đi, mắt chúng ta không còn sáng như xưa !
Ngoài ra, anh mù Ba-ti-mê được Chúa chữa cho sáng mắt, nhưng đâu phải để đứng đó mà nhìn, nhưng còn phải bước đi nữa, còn phải lựa chọn đường đi nữa. Và anh sẽ phải lựa chọn và bước đi trên con đường nào : con đường của Chúa dẫn đến sự sống hay những con đường khác, dẫn đến đau khổ cho mình và cho người khác, và cuối cùng là sự chết đời đời ?
Đức Giê-su nói với anh : « Anh hãy đi. Lòng tin của anh đã cứu anh ». Như thế, lòng tin làm cho anh thấy được và bước đi, không phải chi thấy được mọi sự như những sự vật để thụ hưởng hay loại bỏ, nhưng như là quà tặng, là kỉ niệm nói lên sự hiện diện của ai đó, là ơn huệ của Thiên Chúa, là dấu chỉ nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa. Lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy được những con người ở vẻ bề ngoài và như đối tượng để thỏa mãn nhu cầu của lòng ham muốn, nhưng như là những ngôi vị tự do, như là hình ảnh của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa, là anh chị em của mình, có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng. Và lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy sự thật trần trụi ở bình diện hành vi, nhưng còn nhìn ra sự thật về ngôi vị, sự thật về một con người bất hạnh đang đau khổ. Bởi vì, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có ơn gọi không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng là nhận ra những thực tại vô hình.
Đi theo Đức Ki-tô Chính vì thế mà, ngay sau khi được chữa lành, nhìn thấy được, anh Ba-ti-mê liền đi theo Đức Giê-su:
Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
(c. 52)
Điều này cho thấy, đức tin không chỉ làm cho anh nhận được chữa lành đôi mắt, để thấy sự vật, nhưng còn làm cho anh « thấy được » những điều vô hình ; vì nhờ đức tin, anh nhận ra Đức Ki-tô là ánh sáng, là đường, là sự thật và là sự sống, là ơn cứu độ.
Và ở bình diện này, mọi người chúng ta được mời gọi đón nhận ngay hôm nay hiệu quả chữa lành và cứu độ của đức tin : nhờ tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, và nhất là nơi Đức Ki-tô chịu đóng đinh, chúng ta được giải thoát khỏi sự nghi ngờ tình thương và lòng bao dung của Thiên Chúa, mặc cảm tội lỗi, gây chết chóc và hay bị ma quỉ lợi dụng để nhận chìm chúng ta trong bóng tối của tuyệt vọng.
* * *
Xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, để lòng chúng ta cũng được chữa lành bởi Lời Chúa, khỏi những sự nghi ngờ, ray rứt, và khỏi bệnh mù quáng, không nhận ra Chúa là ánh sáng, và là đường dẫn đến sự sống, không nhận ra anh em, chị em của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, là người thân của Đức Ki-tô, là người anh chị em của mình trong Gia Đình Mới, nơi đó chúng ta đã được ơn sinh ra, lớn lên và được ban ơn kêu gọi dâng hiến cuộc đời để xây dựng.
Tin Mừng Máccô kể chuyện Đức Giêsu chữa hai người mù. Một người ở Bếtsaiđa, khi Ngài và TN 30-B169
Tin Mừng Máccô kể chuyện Đức Giêsu chữa hai người mù. Một người ở Bếtsaiđa, khi Ngài và các môn đệ bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem (Mc 8,22-26). Người kia, ở cuối cuộc hành trình này (Mc 10,46-52), khi Ngài ra khỏi Giêricô để chuẩn bị vào Giêrusalem. Anh mù ở Bếtsaiđa được người ta dẫn tới xin chữa. Còn anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng ta vừa nghe thì ngồi ăn xin bên vệ đường ở Giêricô để kiếm sống. Chắc anh nghĩ hôm nay sẽ là một ngày như mọi ngày. Anh sống nhờ lòng tốt của những khách hành hương lên đền thờ Giêrusalem qua ngả Giêricô. Bỗng anh nghe những bước chân của một đám đông lớn, và anh vui khi nghe biết có Đức Giêsu trong đoàn người. Anh đã biết tiếng của vị ngôn sứ ở vùng Nadarét này. Ngài có thể chữa bệnh, trừ quỷ và hoàn sinh kẻ chết. Ngài đã dùng mấy ổ bánh để nuôi cả đám đông. Từ lâu anh mong có dịp gặp Ngài, hy vọng Ngài cho đôi mắt anh được sáng. Bây giờ Ngài đang đi ngang, trước mặt anh. Cơ hội cho một cuộc hạnh ngộ đã đến gần, dù Ngài không thấy anh, và anh cũng không thấy Ngài. Làm sao báo cho Ngài biết là anh đang chờ Ngài? Anh chỉ có một thứ vũ khí là tiếng kêu. Anh tin rằng chỉ cần Ngài nghe được tiếng kêu của anh là Ngài biết có một người đang cần trợ giúp. Anh đã cố kêu thật to, gọi tên riêng của Ngài, tuyên xưng Ngài là Đấng Mêsia, Con vua Đavít. Anh chẳng xin gì, chỉ xin Ngài dủ tình thương xót. Tiếng kêu thống thiết của anh chứa niềm tin và hy vọng. Càng bắt anh im đi, anh càng kêu to hơn. Tiếng kêu kiên trì đã chạm đến trái tim Đức Giêsu, làm Ngài dừng chân, khiến cả nhóm cũng dừng chân. Anh mù đã gọi Đức Giêsu, bây giờ đến lượt Ngài gọi anh. Rõ ràng Ngài muốn gặp anh, dù chưa biết anh là ai. Khi nghe biết Đức Giêsu gọi mình, anh vội vã đứng dậy, vất lại chiếc áo choàng vướng víu để đến với Ngài. Đức Giêsu biết anh cần gì, nhưng vẫn hỏi câu Ngài từng hỏi Giacôbê và Gioan: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10,36). Anh không xin được ngồi ghế cao trong vinh quang, anh chỉ xin được thấy, đôi mắt thoát cảnh mù lòa, để khỏi phải sống bằng tiền bố thí. Không thấy nói Đức Giêsu đã làm gì để chữa mắt anh. Chỉ biết anh nhìn thấy được, ngay sau khi Ngài nói: “Anh hãy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!” “Anh hãy đi!”: Đức Giêsu đã nói như thế với anh nhà giàu. Anh hãy đi, bán, cho, rồi trở lại và theo tôi (Mc 10,21). Ngài mời anh nhà giàu theo Ngài làm môn đệ, nhưng anh không buông bỏ được của cải để theo. Giờ đây Đức Giêsu cũng bảo anh mù hãy đi, nhưng không thấy Ngài mời anh theo làm môn đệ. Vậy mà ngay sau khi được sáng mắt, anh đã đi theo Ngài lên Giêrusalem. Anh không ngồi ở vệ đường nữa, nhưng nhập với đám đông theo Ngài trên đường. Có một cuộc đổi đời chỉ sau một lần gặp gỡ. Không rõ sau này anh có vào nhóm của Thầy không, có theo Thầy Giêsu đến hết cuộc Khổ nạn không. Điều quý nơi anh là lòng khao khát muốn gặp Thầy. Xưa nay chẳng ai gặp được Thầy mà không cần nỗ lực. Ông Dakêu đã phải chạy và phải leo lên cây. Anh mù phải kêu to, át tiếng đám người quát nạt. Xin cho mắt và lòng tôi bừng sáng, nhờ gặp được Giêsu.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Ai trong chúng con cũng có những điểm mù, những vùng tối, nơi chúng con không thấy về mình, nhưng người khác lại thấy rõ. Chính vì thế chúng con cần nhau để ra khỏi sự mù lòa, cần lắng nghe để biết về mình nhờ người khác, cần cởi mở để cho người khác biết về mình.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh sáng, Chẳng ai trong chúng con muốn mình bị khiếm thị, nhưng chúng con vẫn hay ở lại trong bóng tối, vì bóng tối cho chúng con sự yên ổn, và che giấu điều chúng con không muốn thấy nơi mình. Xin cho chúng con dám mở ra để gặp ánh sáng nơi những người khác ý kiến, khác lập trường, nhờ đó những góc khuất được vén mở.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khát mong ánh sáng của sự thật hơn người mù mong sáng mắt. Xin cho chúng con cùng nhau tìm kiếm ánh sáng Chúa với trọn cả tâm hồn, để ánh sáng Chúa giải phóng chúng con.
Con đường Chúa Giêsu đang đi là đường tiến về Giêrusalem để cử hành Bữa Tiệc Vượt Qua cuối TN 30-B170
Con đường Chúa Giêsu đang đi là đường tiến về Giêrusalem để cử hành Bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng. Trước khi gặp anh mù, Chúa đã loan báo cuộc thương khó lần thứ ba. Sau khi "Nhìn thấy được", anh mù đã theo Chúa trên con đường của Người. Chúng ta cùng dừng lại một chút để khám phá hành trình bước đi niềm tin của anh mù hôm nay.
Trong hoàn cảnh của kiếp mù lòa, anh Báctimê ngồi ở vệ đường. Ngồi cho chúng ta thấy một trạng thái tĩnh và thụ động. Trong Kinh Thánh, ngồi là lúc người ta học hỏi, thụ huấn, suy tư và chiêm niệm. Anh mù ngồi ở vệ đường có thể là đánh động lòng trắc ẩn của bá tánh. Nhưng anh ngồi đó cũng là để suy nghĩ về những gì đang xảy đến chung quanh cuộc sống của những kẻ bất hạnh như anh, liên quan đến một nhân vật có tên gọi Giêsu. Một điều đặc biệt, Giêrikhô là vùng đất dân ngoại, vậy tại sao anh mù lại biết Đức Giêsu là Con Vua Đavít, một danh xưng mà chỉ những người dân Do thái thuộc Kinh Thánh mới biết? Bởi đó, việc anh ngồi bên vệ đường không chỉ đơn thuần là ăn mày lòng thương xót của người sáng mắt, mà đó còn là những ngày tháng anh tìm hiểu và đem niềm tin đặt vào Đức Giêsu, Đấng anh chưa nhìn thấy nhưng đã tin. Vì thế thánh sử Mác-cô tường thuật: "Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nazarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" (Mc 10, 47) Niềm tin vào Đức Giêsu trong anh đã được thai nghén và cưu mang theo dòng thời gian. Niềm tin ấy sẽ được diễn tả bằng việc: Càng la to hơn, tung áo choàng, đứng phắt dậy. Những hành động dứt khoát và cương quyết phát xuất từ một niềm tin mãnh liệt.
1. Kêu to hơn.
Mỗi loài có một thứ ngôn ngữ. Ngôn ngữ đó là tiếng kêu của chúng. Tiếng kêu giúp chúng nhận ra đồng loại. Con chim kêu gọi bầy. Con sói hú gọi nhau. Tiếng gà gáy để thị uy một góc sân vườn. Tiếng kêu cũng giúp chúng nhận ra hoàn cảnh hiện tại của nhau. Khi nghe được tiếng kêu, tùy theo âm thanh, những con vật cùng chủng loại sẽ kéo đến tiếp cứu hoặc biết mình có đồng loại đang ở gần.
Hôm nay, tiếng kêu của anh mù không đánh động được lòng thương xót của người đồng loại. Tiếng kêu của anh khiến họ khó chịu và bực mình. "Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi."(Mc 10,48) Tiếng kêu của anh không gợi lên trong những người đồng loại một chút xót xa. Tai họ nghe thấy, nhưng đôi mắt tâm hồn họ khép chặt. Dường như họ không muốn nhìn và nghe thấy tiếng kêu của anh. Trong nhãn giới của họ, bất hạnh của anh là hệ quả do tội lỗi, không của anh thì cũng bởi những người đã sinh thành ra anh: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2) Khi quát nạt và ngăn anh kêu, những người đồng loại gián tiếp nói với anh rằng: "Lẽ ra mày không nên có mặt trên đời. Mày là đồ chúc dữ. Mày là gánh nặng của cuộc đời." Người ta muốn phủi tay trước nỗi thống khổ của người anh em.
Tuy nhiên, anh mù không chấp nhận đầu hàng số phận "Nhưng anh càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" Anh kêu to vì anh biết trong đoàn hành hương có Đấng mà anh chờ đợi. Anh kêu to vì anh hy vọng vào cơ may này trong đời mình. Anh kêu to cho thấy những dự cảm của anh về Đấng mà anh mong chờ hoàn toàn chính xác. Anh kêu to cũng là để diễn tả niềm tin mãnh liệt của anh vào Đức Giêsu, con vua Đavít. Anh cũng tin vào lòng thương xót của Chúa mà anh đã nghe truyền tụng. Điều này khẳng định với chúng ta về niềm tin của anh đã được nung nấu theo thời gian, không phải chỉ lúc ngồi bên vệ đường, nhưng từ khi anh có trí khôn. Vâng, niềm tin của anh không làm anh thất vọng, vì Chúa đã gọi anh.
Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng đã từng rơi vào hoàn cảnh như anh mù. Nhiều lần tiếng kêu, lời thanh minh, ý kiến của chúng ta bị những thế lực, những con người áp đảo. Tiếng kêu của chúng ta như rơi vào cõi thinh không. Ngay cả lời cầu nguyện của chúng ta dường như Chúa cũng chẳng nghe thấy. Lúc ấy, phản ứng của chúng ta như thế nào? Niềm tin của chúng ta vào lòng thương xót của Người có còn bền đủ? Và cũng nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta cũng lạnh lùng như đám đông, bỏ qua, không nhìn, không nghe và thậm chí quát nạt tiếng kêu than từ những thân phận nhỏ bé trong cuộc sống. Tôi hỏi lại mình: Trái tim tôi còn đủ bén nhạy trước những lời kêu, những tiếng than của những anh chị em mình hay không?
2. Vứt áo choàng.
Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!" Hành động đầu tiên thể hiện niềm tin của mình là thoát khỏi chiếc áo choàng. Chiếc áo choàng là cơ nghiệp duy nhất của anh. Chiếc áo ấy là tài sản gắn liền với đời sống tự nhiên của anh. Chiếc áo là căn nhà che nắng, che nóng ở vùng đất khô cháy da người. Áo choàng cũng là cái chăn cho anh hơi ấm duy nhất còn lại trong cuộc sống khi màn đêm buống xuống. Áo choàng cũng có thể là chiếc áo quan, bọc xác khâm liệm đời anh! Tóm lại, chiếc áo choàng là tài sản duy nhất của thân phận một người hành khất mù lòa. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận đánh rơi tất cả tài sản đời anh. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận giã từ tất cả dĩ vãng, dù chưa biết tương lai mình ra sao. Tung chiếc áo choàng, anh chấp nhận giũ bỏ mọi ràng buộc của cuộc đời. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận phó mặc đời mình theo tiếng gọi. Cuộc đời mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi từ bỏ mọi sự để theo Chúa và đấy là điều kiện tiên quyết: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23). Hình ảnh anh mù tung chiếc áo choàng về đằng sau gợi lên cho tôi nhiều suy nghĩ. Tôi nghĩ đến những tài sản vật chất mình đang sở hữu hay hưởng dùng. Tôi suy nghĩ về những mối tương quan của tôi trong cuộc đời. Tôi cũng nghĩ đến những địa vị mà tôi đang đảm trách... Càng suy nghĩ, tôi càng cảm thấy mình yếu đuối và tầm thường hơn cả anh mù. Hành động của anh đẹp cả hình thức bên ngoài lẫn nội dung niềm tin bên trong. Anh chấp nhận thoát khỏi cái kén tối tăm để trở thành cánh bướm bay tới vùng ánh sáng mới. Điều này được thể hiện qua việc đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.
3. Đứng phắt dậy.
Đây là một hành động dứt khoát, không trì trệ, không chút do dự, tiếc xót. Đứng phắt dậy như một cú bật của lò xo. Điều này diễn tả một nội lực bên trong rất mạnh. Đứng phắt dậy là không nấn ná thêm chút nào nữa. Mấy chục năm làm người, những buồn tủi đè nặng trên thân phận! Miếng cơm, manh áo và tương lai cuộc sống như bóng ma vô hình cứ xiết lấy tâm hồn anh; phân mù lòa tù túng như cảnh chim lồng cá chậu vây hãm anh; tiếng xì xầm, lời ong tiếng ve tủi nhục ngày nào cũng phải nghe. Tất cả như những tảng đá vô hình muốn đè bẹp niềm tin bé nhỏ của anh. Đứng phắt dậy là cú đập cánh của niềm tin để bay vào bầu trời của tự do; là cái quẫy đuôi của kình ngư thoát ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp, chật chội để xuôi về biển lớn.
Và bước nhảy của anh là hành động đáp trả sau cùng. Anh không dò dẫm nữa mà anh nhảy. Đây là hành động rất đơn sơ, nhưng diễn tả một sự tự do nhẹ nhàng. Nhảy là lao mình về phía trước. Cặp mắt thể lý của anh mù lòa đi lại cũng đầy khó khăn huống hồ là băng mình về phía trước. Anh mù không nhảy tới mục tiêu phía trước bằng ánh sáng tự nhiên, nhưng bằng tất cả niềm xác tín của niềm tin. Anh để đời mình rơi cách tự do vào vòng tay quan phòng và lòng thương xót của Chúa. Anh tin là phía trước Đức Giêsu đã chờ và đón anh. Như Thánh Phaolô nói: "Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều là quên đi chặng đườn đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. Song dù đạt tới đâu đi nữa, chúng ta cũng cứ theo hướng ấy mà đi"(Pl 3, 13-14.16)
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con. Xin mở con mắt đức tin cho chúng con biết nhận ra Chúa, nghe được tiếng Chúa, mau mắn đến với Chúa và bước theo Chúa trên con đường Chúa đã đi. Amen.
XIN CHO THẤY TOÀN DIỆN VẺ ĐẸP CỦA CHÚA, THA NHÂN VÀ THIÊN NHIÊN
Thiền gia tên là Unađa kể về những anh khiếm thị đi sờ voi và đoán xem con voi nó như thế nào TN 30-B171
Thiền gia tên là Unađa kể về những anh khiếm thị đi sờ voi và đoán xem con voi nó như thế nào. Anh rờ trúng ngay cái đầu thì bảo con voi giống như cái nồi. Anh rờ trúng cái đuôi thì bảo nó giống như cái chổi. Anh trúng cái tai thì bảo voi như cái quạt. Qua câu chuyện này tác giả muốn nói rằng khiếm thị là không có khả năng nhìn thấy và không có khả năng nhận diện sự thật toàn diện về một đối tượng nào đó. Đối tượng bị xé thành những mãnh vụn. Chúng ta có mắt rất tốt vì nhìn thấy toàn diện nhưng không chừng rơi vào những tình trạng khiếm thị bởi có những khi mình không nhận diện sự thật toàn diện một đối tượng mà mình chỉ thấy được một khía cạnh của đối tượng.
Bài Tin mừng hôm nay cảnh báo cho chúng ta điều đó. Đối tượng là Chúa Giêsu và Ngài đang trên con đường đi tới Giêrusalem, có nghĩa là đang tới đồi Canvê, tới thập giá nhưng tiếc thay mọi người chẳng nhìn ra sự thật về Chúa Giêsu, kể cả các môn đệ của Ngài nữa. Cụ thể, Tin Mừng kể Thầy trò đang đi, thì họ tranh cải với nhau ai là kẻ lớn nhất trong vương quốc của Thầy. Cho nên, hai anh em con ông Dêbêđê chạy đến Chúa Giêsu để xin được ngồi bên tả bên hữu. Chứng tỏ các môn đệ không hiểu gì và cũng không thấy hết được toàn diện con người Giêsu Nagiarét, là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, Đấng cứu độ trần gian. Cho nên, nói cho cùng không chỉ một mình anh Batimê mù mà là tất cả đám đông vây quanh Chúa Giêsu bấy giờ đều ở trong tình trạng khiếm thị, ngược lại, anh chàng khiếm kia hóa ra lại sáng nhìn ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia nên anh ta gọi Chúa Giêsu là con vua Đavít một tước hiệu trong Thánh Kinh dành cho Đấng Mêsia, đang khi đó những người khác thì không nhận ra.
Có lẽ cuộc sống hôm nay chúng ta bị phân tán đủ mọi thứ đối tượng đang khi đó đối tượng căn bản nhất là Thiên Chúa, tha nhân, thiên nhiên mà mình không biết, hay có thấy cũng chỉ thấy một phần cho nên dễ dàng đánh mất Chúa, tha nhân và hủy hoại môi trường nhiên nhiên. Chúng ta đã có ánh sáng là đức Giêsu Kitô, Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là ánh sáng để nhờ ánh sáng ấy mọi người khám phá ra Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên muôn loài muôn vật, đặc biệt còn cứu chuộc loài người khi con người sa ngã. Vì vậy, tác giả Thánh vịnh ca rằng: “Lạy Chúa trong ánh sáng của Người, xin cho con nhìn thấy ánh sáng”.
Cuộc sống con người chúng ta được đan kết các mối quan hệ: với Thiên Chúa, với mọi người và với thiên nhiên. Chúng ta nhìn thấy rõ sự cần thiết của các mối quan hệ này nhưng nhiều khi chúng ta bị khiếm thị tức là thấy không toàn vẹn Thiên Chúa và Lời của Ngài, không thấy con người là quý giá vô vùng và môi trường thiên nhiên là mái ấm, là ngôi nhà chung của nhân loại. Cho nên, chẳng lạ gì, khi chúng ta đến với Chúa, nghe lời Ngài, rước Ngài vào lòng nhưng trong cuộc sống chúng ta vẫn phạm tội, vẫn đi coi bói và có khi bỏ Chúa nếu gặp khó khăn khốn đốn. Rồi đối với tha nhân, vào Facebook, chuyện gì xảy ra trên thế giới này chúng ta cũng thấy thế nhưng thấy cũng như không, vì thấy mà không cảm thông gì, không chia sẻ gì hay giúp được gì cho những người cùng khổ đang thống thiết kêu gì. Cuối cùng, đối với môi trường thiên nhiên, chúng ta thấy và biết rằng môi trường thiên nhiên ô nhiễm là gây tác hại đến con người như thế nào, nhưng chúng ta vẫn phá hoại, vẫn gây ô nhiễm môi trường sống của mình một cách vô trách nhiệm. Vì vậy, trong thông điệp đang “hot”, “Laudato si” (chăm sóc ngôi nhà chung), Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi toàn thể nhân loại: “Hãy có cái nhìn mới về sự vật, hãy thực hiện cách mạng văn hoá triệt để. Chúng ta đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng cấp bách, khi mà, vì những hành động của chúng ta, trái đất đã bắt đầu ngày càng trở nên một bãi rác khổng lồ. Chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, rằng chúng ta có thể nỗ lực cả về phương diện cá nhân lẫn cùng nhau hợp tác để thay đổi tình hình. Chúng ta phải thức tỉnh tâm hồn và hướng tới một hoán cải về sinh thái, trong đó chúng ta thấy được sự liên kết mật thiết giữa Thiên Chúa và mọi sinh vật, để sẵn sàng lắng nghe tiếng kêu cứu của trái đất và tiếng khóc than của người nghèo” (số 49).
Có lần các môn đệ đến gần hỏi Đức Giê-su rằng: "Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng? Chúa Giêsu nói rằng bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13,10-16). Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời.
Lạy Chúa Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con nhận ra Chúa và bước theo Ngài là sự thật và là Sự Sống của con đồng thời nhìn ra Chúa trong mọi người để chúng con hy sinh phục vụ họ trong yêu thương nhất nữa là biết gìn giữ và bảo vệ môi trường thiên nhiên nơi chúng con đang sống. Amen.
Tin mừng Mc 10: 46-52: khi Chúa Giêsu và đám đông dân chúng đi theo Ngài qua thành Giêricô tiến lên Giêrusalem. Một thế giới huyên náo, sinh động đang diễn ra trước mặt anh mù, nhưng anh vẫn ngồi đó, không thấy gì, ngoài những tiếng ồn ào vọng đến tai anh và cát bụi tung bay vào mặt anh.
Ngày 15 tháng 10 hằng năm được gọi là "ngày cây gậy trắng". "Cây gậy trắng" là dấu hiệu của TN 30-B172
Ngày 15 tháng 10 hằng năm được gọi là "ngày cây gậy trắng". "Cây gậy trắng" là dấu hiệu của người mù. "Cây gậy trắng" giúp người mù dò đường đi. "Ngày cây gậy trắng" hằng năm được lập ra để nhắc mọi người nhớ đến những người mù đang sống trong thế giới loài người, nhưng lại xa cách và chìm sâu trong một thế giới tăm tối, không ánh sáng, cô độc và ngừng trệ, không ai ngó ngàng tới…
Đó cũng là tình cảnh của anh mù có tên là Bartimê, ngồi ăn xin bên vệ đường, khi Chúa Giêsu và đám đông dân chúng đi theo Ngài qua thành Giêricô tiến lên Giêrusalem. Một thế giới huyên náo, sinh động đang diễn ra trước mặt anh mù, nhưng anh vẫn ngồi đó, không thấy gì, ngoài những tiếng ồn ào vọng đến tai anh và cát bụi tung bay vào mặt anh.
Nhưng cảnh tượng tương phản đó đã chấm dứt và bị đảo ngược nhờ sự xuất hiện của Chúa Giêsu. Ngài đã dừng lại trước tiếng kêu thống thiết của anh mù. Ngài đã khơi lên một niềm tin kiên vững và sáng suốt nơi anh mù, đảo ngược vị trí giữa anh mù và đám đông kể cả các môn đệ đi theo Ngài. Thật vậy, đám đông chạy theo Ngài ồn ào bên ngoài, nhưng bên trong họ lại rất hờ hững, xa lạ với Chúa. Họ chỉ là những người nhập bọn chạy theo người khác. Thấy người ta đông đảo thì cũng hùa theo chứ không hiểu hiện tượng gì đang xảy ra và cũng chẳng cần quan tâm tìm hiểu điều gì sâu xa đằng sau hiện tượng đó. Cả một đám đông, tuy sáng mắt nhưng tâm hồn lại mù tối hơn cái mù của người hành khất ngồi thu mình bên vệ đường, mất hút giữa dòng người rầm rộ bước đi. Còn người hành khất, tuy mù mắt nhưng tâm hồn lại sáng suốt. Anh lắng nghe đám đông và biết được có ông Giêsu, người Nagiarét đi ngang qua, anh liền kêu lớn át tiếng ồn ào của đám đông: "Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!" Đám đông vô tâm với Chúa lại vô tình với anh. Họ quát mắng anh câm mồm. Họ muốn bịt miệng anh lại. Nhưng bất chấp, anh càng kêu to hơn: "Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!". Chúa Giêsu dừng lại và bảo người ta gọi anh lại. Lúc đó đám đông mới chú ý đến anh. Vừa nghe được Chúa gọi, anh vui mừng đứng dậy, vứt bỏ tấm áo choàng dùng để nhận của bố thí, chạy nhào đến với Chúa. Thấy vậy, Chúa Giêsu hỏi anh: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh mù liền đáp: "Thưa Thầy, xin cho con được thấy". Chúa Giêsu nói với anh: "Cứ về đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh thấy được và theo Chúa lên đường.
Thưa anh chị em,
Qua lối diễn tả ngắn gọn và linh động, Thánh sử Marcô đã cho chúng ta thấy một biến chuyển lớn lao diễn ra trong tâm hồn anh mù. Từ tình trạng mù tối, ngồi ăn xin bên vệ đường, đến hạnh phúc được nhìn thấy và đi theo Chúa lên Giêrusalem. Đám đông sáng mắt háo hức theo Chúa nhưng lại tối lòng, chẳng nhận ra Chúa là ai. Trái lại, anh mù thì lại sáng mắt và sáng cả lòng. Trước kia anh chẳng thấy gì, đành chịu ngồi nép bên vệ đường. Khi nghe người ta kháo láo với nhau về Chúa Giêsu, anh liền nhận ra Ngài là Con Vua Đavít, Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Mãi cho đến khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, đám đông mới tung hô Ngài với danh hiệu "Con Vua Đavít", Đấng Thiên Chúa sai đến, Đấng muôn dân trông đợi.
Người ta kể lại rằng: Năm 1945, tại nhà ga Verona ở Italia, dân chúng đang náo nức chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Một người lính trẻ hai mắt đã mù lòa, đang lần mò từng bước trên sân ga tiến về chỗ một bà già đang đứng dõi mắt trông chờ. Anh la lên: "Mẹ!" và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Bà mẹ xót xa hỏi: "Làm sao một người mù lòa như con mà vẫn tìm về được với mẹ?" Người lính trả lời: "Con không nhìn thấy mẹ bằng mắt, nhưng trái tim đã hướng dẫn con".
Người mù thành Giêricô cũng đã tìm đến với Chúa Giêsu bằng trái tim. Anh không được nhìn thấy Chúa, nhưng đức tin của anh đã dẫn anh đến với Ngài. Và Chúa đã chữa anh bằng một lời khen ngợi: "Lòng tin của anh đã cứu anh!". Đức tin quả là giác quan thứ sáu để người kitô hữu có thể tiếp xúc với thế giới siêu nhiên vô hình. Cặp mắt đức tin được coi như một thứ giác quan thứ sáu, nó cho chúng ta thấy được chiều kích siêu nhiên của cuộc sống con người ở trần gian mà những người không có đức tin không thể thấy được. Người kitô hữu là người đã được Chúa Giêsu mở mắt, được nhìn thấy ánh sáng chân lý, đọc được ý nghĩa của cuộc sống con người. Do đó, người kitô hữu tự nhận lãnh sứ mạng soi đường dẫn lối cho những người anh em "chưa trông thấy", những người còn "ngồi trong bóng tối", những anh mù Bartimê hôm nay. Chính anh mù khi được Chúa cho trông thấy đã đem cho đám đông ánh sáng của anh, ánh sáng của lòng tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại câu chuyện về một người đàn ông phong cùi, sống trơ trọi trong túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù xã hội cũng như mọi người. Một ngày nọ mẹ đến thăm và đưa ông ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cạnh cửa, nơi ánh sáng mặt trời chiếu qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mẹ không bao giờ quên được: ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, ông ta đã kêu lớn tiếng: "Tôi thấy, tôi đã thấy". Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập xuống trên cuộc đời, thì hôm nay thật sự là lần đầu tiên ông ta cảm nghiệm được có ánh sáng trong cuộc đời.
Anh chị em thân mến,
Có những người tự giam mình trong bóng tối, có những người bị giam hãm trong phòng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy biết bao người vào trong bóng tối. Một cuộc sống không muốn làm chứng tá, một khước từ giúp đỡ, đó có thể là hành động xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, và dĩ nhiên khi xô đẩy người khác vào bóng tối, chúng ta cũng tự giam mình vào bóng tối, hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.
"Anh em là ánh sáng thế gian". Người kitô hữu chỉ là kitô hữu khi họ là ánh sáng cho người khác. Ánh sáng sẽ trở thành tăm tối khi không còn khả năng chiếu sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói khích lệ, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành, đó là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh đang chờ đợi nơi chúng ta, và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ thì càng được đốt sáng lên.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa như anh mù đã xin: "Lạy Chúa, xin cho con được thấy". Xin cho con được thấy hình ảnh Chúa nơi những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, đui mù chung quanh con, để con biết yêu thương và nâng đỡ. Xin tha thứ cho con, vì biết bao lần, vô tình hay hữu ý, con đã xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn và tội lỗi. Xin cho con luôn biết chia sẻ ánh sáng của Chúa trong mọi người. Xin cho con niềm vui vì được biết rằng mỗi lần thực thi một nghĩa cử cho người anh em là chúng con được lớn lên trong ánh sáng của Chúa. Amen.
Tin mừng Mc 10: 46-52: Con mắt đức tin chỉ thực sự sáng tỏ khi người ta nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu, để cho Người biến đổi tận căn bản thân và rồi từ bỏ tất cả để đi theo Chúa.
Con mắt đức tin chỉ thực sự sáng tỏ khi người ta nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu, để cho Người TN 30-B173
Con mắt đức tin chỉ thực sự sáng tỏ khi người ta nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu, để cho Người biến đổi tận căn bản thân và rồi từ bỏ tất cả để đi theo Chúa.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 10,46-52
Chúa Giêsu chữa người mù Bartimê tại Giêricô, trên đường Người lên Giêrusalem. Cùng với đức tin của anh mù khi được sáng đã dứt khoát đi theo Chúa, bản văn Tin mừng này như là một lời mời gọi tin và bước theo Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, Con Vua Đavít. Theo Người là chấp nhận tiến vào Giêrusalem chịu tử đạo.
1. Người mù nhưng sáng con mắt đức tin: Việc anh mù Bartimê kêu xin Chúa Giêsu với tước hiệu "Con Vua Đavít", một tước hiệu của Đấng Mêsia, là một lời tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia muôn dân đang mong đợi. Trong khi ấy, đám đông dân chúng đi theo Chúa ai cũng sáng mắt nhưng lại không ai nhận ra Người là "Con Vua Đavít".
2. Một trình thuật mang đậm những nét đối lập: Hình như Máccô không chủ ý tường thuật chi tiết việc Chúa Giêsu chữa lành cho bằng nêu lên sự đối lập giữa người mù và đám đông dân chúng, để rồi từ đó, cho thấy được một hành trình tiến tới trong đức tin. Một bên là anh mù Bartimê, đang ngồi bất động bên vệ đường đối lại với đám đông sáng mắt đang ồn ào đi theo Chúa. Một con người bị khai trừ khỏi cộng đoàn. Anh kêu cầu Chúa liền bị người ta quát nạt bắt im đi. Thế nhưng, con người bị loại trừ ấy, bị mù lòa ấy lại nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Đám đông gần Chúa hơn, nhưng lòng họ xa Chúa. Anh mù ngồi xa Chúa nhưng lòng lại cận kề với Chúa. Anh được ơn và biết từ bỏ để đi theo Chúa. Được Chúa gọi, anh liệng áo choàng, đứng dậy và cuối cùng anh thấy được và đi theo Chúa. Anh mù Bartimê hoàn toàn khác hẳn với đám đông đang theo Chúa, họ sáng mắt nhưng không nhận biết Chúa Giêsu là ai. Họ kéo nhau đi theo Chúa nhưng đức tin của họ không lớn mạnh đủ để can đảm bước theo Người trên đường Thương khó. II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Tin mừng hôm nay gợi lên hình ảnh Chúa Giêsu, Con Vua Đavít, một tước hiệu của Đấng Thiên Sai. Anh mù đã nhạn ra thiên tính của Chúa Giêsu và được chữa lành để rồi vững bước theo Người. Kitô hữu hôm nay, cũng được mời gọi khám phá, chiêm ngưỡng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Thiên Sai đích thực để can đảm dấn bước theo Người trên đường tiến tới Giêrusalem, chịu khổ hình.
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Đức tin của anh mù Bartimê là mẫu gương cho chúng ta:
Anh mù là hình ảnh của những người nghèo khó, những người thấp hèn, bị loại trừ, thế nhưng đức tin của anh lại trở nên khuôn mẫu cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa. Nhìn đến anh, chúng ta thấy rõ cả một hành trình đi lên của đức tin. Khởi đầu là nghe biết về Chúa, kêu cầu Chúa; khi được Chúa gọi liền liệng áo choàng, đứng dậy theo Chúa. Một bước tiến mới trên hành trình đức tin: Từ bỏ để đi theo tiếng gọi của Chúa; và cuối cùng được sáng mắt và theo Chúa. Cao điểm của đức tin là được biến đổi (từ mù nên sáng) và lên đường với Chúa. Mỗi người chúng ta, Kitô hữu của ngày hôm nay, cần nhìn vào anh Bartimê để nghiệm xét lại chính mình, xem mình đang ở đâu trên hành trình đức tin.
2. Thế nào là sáng mắt đức tin?
Hình ảnh đối lập giữa anh mù Bartimê và đám đông dân chúng, khiến cho chúng ta phải nghiêm túc nhìn lại bản thân, nhìn lại đời sống đức tin của mình. Tôi có thật sự là con người sáng con mắt đức tin hay mù lòa? Tin và theo Chúa sẽ đưa tới kết quả là được biến đổi. Tin vào Chúa là chân thành tìm kiếm khám phá ra dung mạo của Người trong cuộc sống đời thường, chứ không phải đổ xô đi tìm một điều kỳ lạ, một phép lạ… Con mắt đức tin sáng hay mù hệ tại ở việc chính nội tâm của mỗi người có nhạy cảm nhận ra ý Chúa, nhận ra Chúa đang hiện diện giữa đời thường nơi Giáo hội, nơi xã hội và nơi anh chị em chung quanh cũng như qua các biến cố của cuộc sống. Nhận ra Chúa chưa đủ mà còn phải biết từ bỏ để đi theo Chúa. Cần cảnh giác, Chúa Giêsu thường được vây quanh bởi những con người mù lòa, còn vệ đường Người đi qua lại đầy những người mù sáng mắt.
III. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, nhờ tin vào Đức Giêsu, anh mù Bartimê đã được sáng mắt và đổi đời. Tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Nhiều người đi theo Đức Giêsu nhưng lại không sáng mắt đức tin bằng anh mù Bartimê. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần Hội thánh, nhất là những vị mục tử luôn có đức tin vững vàng để dẫn dắt dân Chúa đi theo đúng đường lối Chúa.
2. Khi lên tiếng kêu cầu Chúa, anh mù đã bị nhiều người ngăn cản. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những nhà lãnh đạo quốc gia, những người có trách nhiệm trong xã hội luôn biết hướng dẫn dân chúng đi theo con đường công lý và hòa bình.
3. Nhờ tin mà anh mù đã được sáng mắt, chúng ta cùng cầu nguyện cho anh chị em trong cộng đoàn phụng vụ chúng ta luôn được Chúa ban ơn nâng đỡ để gia tăng đức tin, hầu nhận thấy Chúa và can đảm bước theo Người trên đường thập giá.
Lời kết: Lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ban Đức Giêsu đến cứu độ chúng con và cho chúng con được làm con cái Chúa. Xin thêm ơn đức tin cho chúng con để chúng con can đảm vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Tin mừng Mc 10: 46-52: Đoạn Tin Mừng hôm nay khi nghe biết Chúa Giêsu đang đi ngang qua, thì liền lớn tiếng kêu Người. Những người trong đám đông mắt sáng, đầy học thức và có công ăn việc làm, còn anh Bartimê chỉ là kẻ mù ăn xin lòng thương hại của mọi người...
Suy niệm:
Những lần đi mục vụ thăm viếng trong chương trình đào tạo tại Đại Chủng viện thánh Giuse Saigon TN 30-B174
Những lần đi mục vụ thăm viếng trong chương trình đào tạo tại Đại Chủng viện thánh Giuse Saigon, các Chủng sinh được dịp đặt chân tới địa chỉ Mái ấm Nhật Hồng, nơi những người khiếm thị sinh sống. Vừa bước vào, khi thấy những bạn nơi đây đang làm việc lúc trời chập choạng tối, một bạn trẻ bất chợt hỏi: “Sao anh không bật đèn lên cho sáng dễ làm”. Nói xong mới biết mình bị hố. Vâng, người bị mù thường được Chúa bù lại bằng khả năng nghe, cảm nhận rất tốt. Vì thế, có những việc người mắt sáng không thấy và nhận ra nhưng những người khiếm thị thì lại rất nhạy.
Chàng mù thành Giêrikhô trong đoạn Tin Mừng hôm nay khi nghe biết Chúa Giêsu đang đi ngang qua, thì liền lớn tiếng kêu Người. Những người trong đám đông mắt sáng, đầy học thức và có công ăn việc làm, còn anh Bartimê chỉ là kẻ mù ăn xin lòng thương hại của mọi người. Thế nhưng trong khi hầu hết mọi người xem Chúa là ông Giêsu Nazaréth, một người giảng dạy nổi danh thì chàng mù lại kêu lên cách xác tín với danh xưng khác hẳn: “Hỡi ông Giêsu con Vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đó là một lời tuyên xưng của người mù giữa đám người mắt sáng về danh tính Mêssia của Chúa Giêsu.
Niềm tin là sự thể hiện giữa con người với nhau và có thể kiểm chứng bằng con mắt thể lý, còn đức tin là dựa vào con mắt thiêng liêng để cảm nhận, để xác tín. Anh mù nhận ra người mà mọi người vây quanh chính là Đấng mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, anh bất chấp đám đông ngăn cản cũng như mắng anh im đi, anh càng hô to xác tín. Với những hành động của người mù được liệt kê trong Tin Mừng như kêu lên, rồi càng kêu lớn hơn, liệng áo choàng, đứng dậy, bước đến cùng Chúa Giêsu cho thấy từ một niềm tin vào một người mà anh nghĩ rằng có khả năng chữa khỏi bệnh mù thể lý đến một thái độ thể hiện đức tin rõ nét vào Đấng Thiên Sai được hứa ban xuất thân từ dòng dõi Đavid. Nhờ Đức tin ấy, chẳng những anh được chữa bệnh mù thể lý mà còn được sáng trong đức tin. Thánh sử Marcô đã ghi rõ tên người mù Bartimê vì anh sẽ là một trong những chứng nhân đức tin đầu tiên cho Chúa Kitô.
Vậy mới nói: “Mù không phải là bất hạnh; mà bất hạnh là có mặt như mù”. Con mắt sáng thể lý có khi lại là rào cản người ta đến với Chúa Giêsu vì sự mù lòa trong tâm hồn. Đây mới chính là dạng thức mù lòa khiếp sợ hơn rất nhiều. Một trong những cách biểu hiện của sự mù lòa tâm hồn là không nhận ra chân lý, không nhìn thấy tình thương, chẳng cảm nhận được những ơn lành trong cuộc sống mình được Chúa ban cho, và bị che mắt bởi những điều tốt đẹp của người xung quanh. Đây là dạng thức mù lòa của những người Biệt phái năm xưa mà Chúa nhiều lần sửa dạy. Nơi họ, vì tính tự kiêu, ganh tỵ, ý nghĩ chủ quan đầy thiển kiến, lời nói thiếu ý thức, sự phê bình chỉ trích kết án gây sứt mẻ mối tương quan, luôn lấy mình làm thước đo để định giá người khác khiến con người ta bị che mắt. Tật đui mù này có khi lại trở nên bệnh truyền nhiễm hay lân lan thêm do lời gièm pha, nói xấu sau lưng. Vậy cùng nhìn lại chính mình xem trong từng lời ăn tiếng nói, cách cư xử, đời sống của chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa không? Và bản thân chúng ta có là rào cản hay là một nhịp cầu, qua đó giúp người khác đến với Chúa và Chúa đến được với anh chị em?
Trên phi thuyền Apolo 15, đại tá không quân James Irwin đổ bộ xuống mặt trăng cuối tháng 09/1971, ông đã sống trên nguyệt cầu suốt 78 giờ và trở về trái đất an toàn. Ngày 29/10/1972 phi hành gia James Irwin đến thăm Việt Nam trong chuyến du hành vòng quanh thế giới của ông để truyền giảng Tin Mừng. Xin trích một phần phỏng vấn phi hành gia James Irwin do phóng viên Nguyễn Văn An thực hiện: Một trong những câu hỏi: Chương trình không gian của Hoa Kỳ có đem lại tia sáng nào về sự sáng tạo vũ trụ không? James Irwin đáp: Tôi không biết câu nói đùa mà người ta nói về thuyết tiến hóa và thuyết sáng tạo, và tôi cũng không thể phát biểu cho các nhà khoa học gia khác. Tôi chỉ phát biểu cho chính cá nhân tôi là: James Irwin với kinh nghiệm của tôi, tôi không thể nào tin rằng tất cả trật tự hiện hữu trong vũ trụ là do tiến hóa mà có. Bất cứ một điều gì có thể nói tên, điều đó phải được hoạch định, phải được sáng tạo bởi Thiên Chúa trước đã.
Lạy Chúa, xin cho mỗi lần hợp dâng Thánh lễ với cộng đoàn, con ý thức hơn để khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối và lầm lỗi của mình, cũng như cần đến lòng thương xót của Chúa chữa lành khỏi những u mê nơi tâm hồn con. Xin Chúa khai sáng cặp mắt của tâm hồn con, để con biết sống tốt và nhận ra điều tốt nơi anh chị em con. Amen.
(Suy niệm của Msgr. Edward Peter Browne - Lm. Gioan Trần Khả chuyển dịch)
Như tôi đã nhiều lần nói với anh chị em trước đây là có nhiều cách cầu nguyện - cầu nguyện lớn TN 30-B175
Như tôi đã nhiều lần nói với anh chị em trước đây là có nhiều cách cầu nguyện - cầu nguyện lớn tiếng, cầu nguyện thầm lặng trong tâm trí, và một trong các khía cạnh của cầu nguyện trong tâm trí là suy ngắm. Một cách thức trong cầu nguyện suy ngắm là dùng một trường hợp thuộc về Chúa Giêsu trong Tin Mừng hay đời sống của một vị thánh, đọc, suy nghĩ về những gì đã xảy ra và áp dụng vào đời sống của anh chị em. Bài Tin Mừng hôm nay là một thí dụ hay để suy ngắm.
Cái Điếc Trần Tục
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, anh chị em phải trở lại những bài Tin Mừng của mấy Chúa Nhật trước. Bài Tin Mừng theo Thánh Sử Ma-cô kể rằng khi Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi lên núi với Chúa Giê-su và Chúa Giê-su đã biến hình trước mặt họ. Phê-rô đã qúa vui và mến phục nói, “Thưa Thầy, xin hãy để chúng tôi dựng ba lều ở đây, một cái cho Thầy, một cái cho Mai-sen và một cái cho E-li-a.” Khi Chúa Giê-su đi xuống núi, Ngài đã nói với họ là Ngài sẽ đi Giê-ru-sa-lem và chịu đóng đinh, nhưng họ đã không hiểu điều Ngài nói, họ không muốn biết.
Một trường hợp khác, như anh chị em nhớ về bài Tin Mừng vài tuần lễ trước đây, người thanh niên giầu có đến với Chúa Giê-su và hỏi Ngài, “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được cứu rỗi?” Khi Chúa Kitô bảo điều anh phải làm, anh đã buồn rầu bỏ đi bởi vì anh đã thích những của cải trần thế đời này.
Sau đó, Chúa Giê-su đã nói một lần nữa là Ngài sẽ đi Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh. Ở một trường hợp khác khi Ngài chữa cho một người bệnh, sau khi đã chữa xong, Ngài nói với các môn đệ, “Thầy đang trên đường đi Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh.”
Chúa Giê-su đang trên đường đi Giê-ru-sa-lem nhưng người ta dường như không hiểu là Ngài đang đi chịu đóng đinh để hoàn tất việc cứu chuộc nhân loại. Người ta chỉ nghĩ đến bây giờ và lúc này, giống như Gia-cô-bê và Gio-an đã tranh luận xem ai sẽ là người cao trọng nhất trong Nước Thiên Chúa khi Chúa Giêsu đến trong vinh quang của Ngài. Người ta đã chờ đợi một Đấng Cứu Thế trần tục, một người sẽ đến Giê-ru-sa-lem và trở nên Vua của Người Do Thái, giải thoát họ khỏi xiềng xích nô lệ. Đó là điều mà họ mong đợi tìm kiếm, bây giờ và lúc này.
Tiếng Kêu Của Anh Mù
Khi Chúa Giêsu đi lên Giê-ru-sa-lem, ngài đã dừng lại và thấy một người mù ngồi bên vệ đường. Người mù đó kêu la, “Lạy Ngài xin thương xót tôi.” Đám đông dân chúng ngăn cản ông, “Im đi, tránh ra. Chúng tôi đang trên đường đi về Giê-ru-sa-lem nơi mà Ngài sẽ lên làm vua.” Họ đang mong đợi một cuộc diễn hành chiến thắng vào thành Giê-ru-sa-lem nơi dân chúng sẽ tôn Chúa Giê-su lên làm vua. Ngài đã nhắc bảo họ thêm một lần nữa, “Ta đang trên đường vào Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh.” Nhưng người mù lại kêu lên và nói, “Lạy Ngài xin thương xót tôi.” Và không màng chi đến đám đông, không màng chi đến việc người ta đang xua đuổi người mù đó đi, Chúa Giê-su đã gọi anh đến và nói, “Hãy tiến lại đây và Ta sẽ chữa cho ngươi.” Anh mù đã tiến đến. Ngài đã nói cách rõ ràng, “Đức tin của anh đã cứu chữa anh.” Người mù đã xin tình thương, bởi vì anh biết anh có thể nhận được tình thương. Anh đã kêu đến Thiên Chúa để được sáng mắt, để anh có thể nhìn thấy được.
Chúng ta, một cách nào đó, cũng đang ở trong tình trạng giống như thế ngày nay. Luôn luôn có những người nói là, “Tránh ra, đi chỗ khác chơi, đừng làm ồn ào, đó không phải là cách làm việc trong những ngày này.” Ngay cả trong Giáo Hội cũng có những người nói, “Chúng tôi không đi tìm Nước Thiên Chúa, chúng tôi đi tìm sự thỏa mãn bây giờ và lúc này. Đây là những cái chúng tôi muốn, do đó đừng la lối, đừng đòi hỏi nữa. Chúng tôi mong xót thương và tha thứ, chúng tôi muốn thay đổi Giáo Hội, cải cách Giáo Hội để chúng tôi co thể có những điều chúng tôi muốn bây giờ và lúc này.” Bất cứ điều gì họ đòi hỏi, anh chị em đã nghe hết cả rồi.
Nhưng người mù đã không quan tâm đến đám đông, anh đã la lên. Anh đã nhận ra sự mù lòa và bệnh trạng của anh, và anh biết là Chúa Giê-su Kitô có thể cứu chữa cho anh đo đó anh đã kêu cầu Chúa Giê-su. Và dĩ nhiên khi Chúa Giêsu được kêu đến, thì Ngài luôn luôn đáp lại.
Tiếng Kêu của Chúng Ta
Tất cả mọi người chúng ta đều có đức tin ở mức độ nào đó. Anh chị em đã không đến nhà thờ nếu anh chị em không có chút niềm tin, có thể là tin ít hay cũng có thể là tin nhiều. Nhưng chúng ta tất cả đều có đức tin, nhiều hay ít, và biết rằng chúng ta có những yếu đuối, có những mù quáng, và những khuyết điểm trong đời sống thiêng liêng. Đám đông quần chúng tiếp tục bảo chúng ta rằng, “Đừng lo lắng chuyện đó, thời gian sẽ thay đổi, sẽ không còn luân lý đạo đức, qúi vị không cần quan tâm đến những điều đó.” Đám đông quần chúng tiếp tục đẩy anh chị em ra. Nhưng chúng ta phải kêu cầu đến Chúa Kitô. Ngài ở đó, đang chờ chúng ta, chúng ta phải kêu cầu đến Ngài và nói, “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa xin bảo vệ chúng con, xin tha thứ cho chúng con.”
Lúc khởi đầu mỗi Thánh Lễ, chúng ta nhìn nhận tình trạng tội lỗi của chúng ta và kêu xin tình thương xót của Chúa, rồi chúng ta nói, “Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.” Chúng ta xin Chúa thương xót nhưng nếu chúng ta không thực kêu xin tình thương xót, Ngài không thể nghe thấy. Trong đời sống, chúng ta có những mù tối, có những bất toàn, những thái độ hững hờ. Chúng ta đi theo dòng thời gian mỗi ngày làm theo thói quen như chúng ta đã làm tuần trước và chẳng bao giờ kêu cầu tới Chúa Kitô, “Lạy Chúa xin thương xót chúng con. Xin giúp chúng con thắng vượt sự yếu hèn này, sự mù tối này trong đời sống của chúng con.” Anh chị em biết là nếu anh chị em kêu cầu với Chúa Kitô Ngài sẽ đáp lại lời kêu xin, nhưng nếu anh chị em không kêu xin, Ngài sẽ không trả lời.
Chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta có rất nhiều điểm mù quáng trong cuộc sống. Một số người cho rằng điều đó không sao cả, không phải lo đến những cái mù quáng đó, không phải lo đến những hững hờ đó. Nhưng, giống như người mù đã kêu lên với Chúa để xin được sáng mắt, chúng ta cũng phải xin Chúa Kitô lấy đi sự mù quáng của chúng ta để chúng ta có thể nhìn thấy phần thưởng Ngài dành cho chúng ta trên nước trời. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em.
Tin mừng Mc 10: 46-52: Khi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành khất mù, tên là Bactimê, con ông Timê, đang ngồi bên vệ đường.
Giêricô là một trong những thành phố nổi tiếng nhưng cũng là một thành phố “thấp nhất” thế giới TN 30-B176
Giêricô là một trong những thành phố nổi tiếng nhưng cũng là một thành phố “thấp nhất” thế giới, vì thấp hơn mặt biển 250 mét. Nó nằm gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấy thấp thoáng bóng dáng thần chết. Bất cứ ai đi từ bên kia sông Giođan vào Israen đều phải đi ngang qua Giêricô.
Chúa Giêsu trên đường đi Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc khổ nạn cũng đi qua thành này.
Thật là trùng hợp một cách vô cùng ý nghĩa, vì chữ Giêricô trong tiếng Do Thái có nghĩa là “thành phố mặt trăng”. Đây là một thành phố được dâng kính cho vị thần của ban đêm. Nó lại càng mang một ý nghĩa hơn nữa khi Chúa Giêsu làm một “dấu lạ” cuối cùng: Người đã tháo cởi tăm tối cho một người mù thành Giêricô và Người cũng mang lại ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mỗi người chúng ta.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, thánh Marcô đã kể lại một cách chi tiết: “Khi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành khất mù, tên là Bactimê, con ông Timê, đang ngồi bên vệ đường”.
Trong những xứ nghèo ở Đông Phương, thường có nhiều người mù. Họ chẳng biết làm gì để kiếm sống ngoại trừ việc ngồi ăn xin trên các vệ đường. Nhưng thật ngược đời, ở giữa đám đông những người sáng mắt rầm rộ theo Chúa Giêsu, anh mù lại là người sáng mắt nhất.
Tại sao vậy?
Bartimê không thấy Chúa Giêsu bằng con mắt, nhưng anh đã thấy Chúa bằng con tim như anh lính mù trong Đệ Nhị Thế Chiến:
Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, một đám đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã, thì một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù, bà mẹ liền hỏi: “con ơi, mắt con bị mù làm sao con thấy mẹ giữa bao nhiêu người tấp nập như thế này?
Anh lính trẻ liền đáp: “thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo cho con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp được mẹ như mẹ thấy đó”.
Quả thật như Helen Keler, một người mù, câm và điếc, đã phát biểu nhân ngày ra trường tốt nghiệp đại học: “thà bị mù và nhìn bằng con tim còn hơn là có hai con mắt và chẳng nhìn thấy gì cả.”
Giữa một đám đông sáng mắt mà chỉ có anh mù nhận ra Đấng đang đi qua là “con vua Đavit”, là Đấng Messia mọi người trông đợi. Anh đã kêu lên:”lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10,47). Người ta nạt nộ bảo anh im đi, nhưng anh càng kêu lớn hơn: “lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”, cho đến khi Đức Giêsu dừng lại bảo người ta: “gọi anh ta lại đây”. Thật lạ lùng, tiếng gọi của Chúa có kết quả ngay tức khắc: “người mù liền vứt bỏ áo choàng, đứng phắt dậy mà đến với Đức Giêsu”.
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “áo ngoài” là biểu tượng cho quyền lực con người (1Sm 18,4; 24,6; 2V 2,14; R 3,9). Việc người mù vứt bỏ áo choàng của mình muốn nói một sự đoạn tuyệt với quá khứ. Anh được khỏi mù và đã đi theo Người trên đường Người đi, con đường lên Giêrusalem, con đường dẫn đến Thập Giá.
J.Hervieux đã chia sẻ như sau: “ở đây nghệ thuật kể của thánh Maccô đạt đến đỉnh toàn thiện. Hai hình ảnh thật trái ngược nhau: hoàn cảnh bắt đầu của Bactimê (ngồi ở vệ đường, mù lòa, ăn xin) và hoàn cảnh kết thúc (đứng dậy, đi trên đường, nhìn thấy và đem Tin Mừng).
Không còn nghi ngờ gì nữa, tác giả đặt trình thuật này vào lúc Chúa Giêsu lên Giêrusalem, dẫn theo bạn bè và đám đông dân chúng tiến về “ánh sáng” để thấy rõ hơn thân thế và sứ mạng của Người.
Câu chuyện này là một minh họa cho thấy nhờ đâu, người mù trở nên “người môn đệ đích thực”. Người môn đệ cần phải để Thầy mình dẫn đến sự giác ngộ đức tin. Phép lạ chữa người mù ở Bétsaiđa đã thúc đẩy các môn đệ Chúa Giêsu khám phá ra Người là Đấng Messia. Giờ đây, Chúa Giêsu lại mời gọi họ - những kẻ muốn đi theo Người - hãy mở rộng đôi mắt tâm hồn để đón nhận Đấng Messia đau khổ và khải hoàn trong đức tin.
Maccô không thể đặt trình thuật này vào lúc nào tốt hơn là lúc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem: người ta nhận ra thân thế của Người, và những gì Người đã làm không? Đấng đến cứu loài người theo đuổi hai mục đích: vừa trả lại cho họ quyền lợi trong xã hội họ đang sống, vừa giúp họ hội nhập vào cộng đoàn yêu thương mà Người sáng lập”.
Thánh Marcô đã có một câu kết thật tuyệt vời cho bài Tin Mừng hôm nay: "tức thì anh ta thấy được và đi theo Người".
Chúng ta cũng hãy tha thiết nài xin Chúa cho chúng ta được sáng mắt, để chúng ta thấy được tình thương của Chúa, biết can đảm vứt bỏ chiếc “áo choàng”, tức là biết mạnh dạn đoạn tuyệt với quá khứ, một quá khứ mù lòa, một quá khứ tội lỗi, để đi theo Chúa trên con đường Người đi, con đường lên Giêrusalem, con đường dẫn đến Thập Giá. Amen.
Khi hành hương, chúng ta thường đi thành đoàn: như đoàn hành hương tới La vang, Lộ Đức, Fatima TN 30-B177
Khi hành hương, chúng ta thường đi thành đoàn: như đoàn hành hương tới La vang, Lộ Đức, Fatima ... Hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu dẫn đầu đoàn hành hương từ Giêricô lên Giêrusalem có các môn đệ và dân chúng cùng đi với Chúa.
Trên đường hành hương, Chúa Giêsu làm phép lạ cho anh mù Bartimê được sáng con mắt. Chúng ta hãy xem quá trình anh được sáng mắt và nhất là được ơn đức tin diễn ra như thế nào?
- Cảm nhận: Tuy anh chưa được gặp Chúa Giêsu lần nào nhưng chắc chắc anh có nghe bà con bạn bè nói về Chúa, nên anh linh cảm rằng Chúa sẽ chữa cho anh được sáng con mắt. Lòng ao ước cùng với niềm tin khiến anh đã kêu lên: "Hỡi ông Giêsu, con Vua Đavít, xin thương xót tôi". Lời kêu xin này của anh rất đặc biệt vì anh xưng ra Chúa Giêsu với tước hiệu là con Vua Đavit, tước hiệu này ngầm nói lên Chúa Giêsu Đấng Thiên sai Cứu thế trong khi dân chúng chỉ gọi Chúa là ông Giêsu thành Nazareth mãi sau này khi Chúa long trọng vào thành Giêrusalem thì họ mới xưng ra Chúa Giêsu là Con Vua Đavit. Chúa chấp nhận tước hiệu này và chính lời tuyên xưng Chúa Giêsu, Con Vua Đavit này là một sự chuẩn bị cho dân chúng để họ cũng tung hô Chúa như vậy.
- Lòng tin: Anh mù Batimê biểu lộ một lòng tin vững chắc khi mà lời anh kêu xin Chúa Giêsu làm đám đông khó chịu vì thế có nhiều người mắng anh bảo anh im đi nhưng anh không nản lòng mà lại càng kêu to hơn: "Hỡi Con Vua Đavit, xin thương xót con". Chính vì thế mà lời kêu xin của anh được Chúa chấp nhận nên Chúa dừng lại và truyền gọi anh đến. Chúa chiếu cố đến anh nên đám đông dân chúng cũng thay đổi thái độ lúc này họ không la mắng anh nữa mà còn nói lời rất tử tế khích lệ anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh".
Anh tin Chúa sẽ cho mình được thấy nên anh đã vứt bỏ chiếc áo choàng. Áo choàng này luôn luôn đồng hành với thân phận mù lòa và ăn xin của anh. Với chiếc áo choàng này anh dùng để đắp ban đêm, che nắng ban ngày và trải ra trước mặt để nhận của bố thí khi anh ngồi bên vệ đường ăn xin. Nhưng bây giờ anh vứt bỏ đi nếu anh không tin Chúa Giêsu cho anh được sáng mắt thì tất nhiên anh vẫn còn luyến tiếc cái áo choàng đó. Nên cử chỉ anh vứt bỏ áo choàng vừa nói lên lòng tin của anh vừa chứng tỏ anh tin mình sẽ có một cuộc sống mới.
Anh đến cùng Chúa Giêsu. Chúa hỏi anh: "Anh muốn ta làm gì cho anh", mặc dầu biết rõ ý muốn của anh, nhưng Chúa vẫn hỏi để anh có dịp nói lên ý nguyện và lòng tin vào Chúa. Anh thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa nói: "Được. đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người. Như vậy không những Chúa Giêsu cho anh được sáng con mắt mà còn cho biết nhờ lòng tin anh sẽ được ơn Cứu độ và đó là ơn còn lớn lao hơn ơn được sáng con mắt nữa.
- Theo Chúa Giêsu. Sau khi được ơn đức tin và sáng con mắt anh đã đi theo Chúa Giêsu. Anh nhập vào đoàn hành hương để lên Giêrusalem, và chuyến lên Giêrusalem này Chúa Giêsu sẽ chịu thương khó và Phục sinh như vậy theo Chúa Giêsu còn có nghĩa là anh sẽ đi theo con đường tử nạn và Phục sinh cùng Chúa.
Được ơn sáng mắt cùng với ơn đức tin và đi theo Chúa Giêsu cũng là con đường của mọi người kitô hữu chúng ta. Tuy nhiều người không bị đui mù thể lý nhưng chúng ta cần nói lên như anh mù Bartimê: "Lạy Chúa xin cho con được thấy" Chúng ta xin Chúa mở con mắt tâm hồn chúng ta để chúng ta thấy được những điều kì diệu Chúa thực hiện nơi vũ trụ và nơi môi trường chúng ta sống. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII muốn chúng ta phải nhìn ra những dấu chỉ của thời đại như là những điềm triệu Chúa gởi tới cho chúng ta trong thời điểm này.
Anh mù khi được sáng mắt đã theo Chúa trên đường đi Giêrusalem, chúng ta cũng theo Chúa Giêsu trên con đường Chúa đã đi là qua thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh. "Per Crucem ad Lucem".
Chúng ta noi gương Chúa Giêsu quan tâm tới những người đau khổ thiệt thòi trong xã hội như người mù, người què, người điếc, người câm... Có những dòng tu mở trường cho người câm điếc, trường cho người khiếm thị, trường cho người khuyết tật, nhà thương cho người phong cùi, nhà hưu cho người già cả, nhà tình thương dạy trẻ em nghèo ... Giúp đỡ họ: Chúa Giêsu nhận là giúp đỡ Chúa và làm cho chính Chúa.
Cùng với nhạc sĩ Thành Tâm, chúng ta hát lên bài ca "Epheta Hãy mở ra": Lạy Chúa xin mở mắt con biết nhìn ... kì công của Ngài. Trời xanh, tinh tú long lanh, hoa ngàn cùng muôn muôn thú.
Đồi kia ai đắp nên non, sông dài, trùng dương mênh mông.
Biết rằng, Ngài đã thương con. Thế mà con đâu có hay.
Lạy Chúa xin mở môi con ca ngợi tình thương của Ngài. Ngài ơi, xin mở tai con nghe Lời ... hằng ban sự sống. Lạy Chúa, xin hướng chân con lên đồi ngày xưa Canvê nẻo đường... Ngài đã đi qua, có Ngài con đâu lẻ loi.
"Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh" (Mc 10,52)
Câu chuyện người mù Bactimê được sáng mắt cho thấy sức Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui TN 30-B178
Câu chuyện người mù Bactimê được sáng mắt cho thấy sức Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê mạnh của niềm tin nó sẽ cứu chữa chúng ta khỏi đau khổ và bất hạnh. Chúa Giêsu đến để kêu gọi mọi người hãy tin vào Ngài, chính Ngài sẽ giải thoát, cũng như chính Ngài khơi gợi niềm tin trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai tin vào Ngài thì được cứu khỏi tội lỗi và được hạnh phúc.
Trong Tin Mừng có rất nhiều câu chuyện diễn tả về sức mạnh của niềm tin như câu chuyện đầy tớ của một đại đội trưởng Rôma (Mt 8, 5-13) với việc Chúa Giêsu chỉ phán một lời là được cứu sống và người đàn bà bị băng huyết mười hai năm khi chỉ nghĩ rằng đụng vào tua áo của Chúa Giêsu là được khỏi (Mt 9, 20-22), thật sự bà được chữa khỏi mà không cần một hành động hay lời nào của Chúa Giêsu hay người con gái của bà góa ngoại giáo xứ Canana (Mt 15,21-28), khi Chúa Giêsu thử thách bà bằng cách làm ngơ trước sự van xin tha thiết nhưng cuối cùng con gái bà cũng được chữa khỏi...còn rất nhiều câu chuyện khác trong Tin Mừng nói lên sức mạnh của niềm tin.
Ở đây, anh mù Bactinô được sáng mắt do sự kêu cứu quyết liệt và kiên nhẫn của anh ta. Anh không thấy nhưng anh nghe được, anh nghe người khác bàn tán về một ông Giêsu nào đó có khả năng làm nhiều chuyện lạ, có thể nói anh kêu cứu Chúa Giêsu một cách cầu may. Cái mù đã làm anh đau khổ một thời gian dài và hiện tại dù có nhiều người quát mắng, cản trở mình nên anh gào lên thống thiết và mãnh liệt hơn khi nghe tin Chúa Giêsu đã gần đến mình vì bây giờ là cơ hội anh được giải thoát. Chúa Giêsu đã đoái đến và cứu chữa anh.
Nơi Chúa Giêsu, khi thực hiện một việc cứu chữa, Ngài có nhiều cách để thực hiện, bằng lời nói, hành động hay ngay cả một sự thách thức để thử thách. Đó là quyền của Ngài nhưng Ngài luôn biết nhu cầu, ước muốn và suy nghĩ của con người. Ngài đến là để cứu chữa khỏi mọi bệnh tật, tội lỗi của con người, điều còn lại là nơi mỗi người chúng ta có muốn, kiên nhẫn và tin vững vàng vào quyền năng và tình thương của Chúa hay không?
Chúa Giêsu không cho thấy Ngài đã làm gì để cứu chữa anh mù này, Ngài chỉ kêu gọi hãy để anh đến gần mình và người khác đừng cản trở anh chỉ với một câu xác nhận đơn giản "lòng tin của anh đã cứu anh", anh mù Bactimê được sáng mắt, một cuộc sống mới đầy ánh sáng đã đến với anh.
Chúa luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người, nơi vũ trụ vạn vật này và sâu xa hơn là Ngài ở trong chính thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta. Làm sao nhận ra, để tin, để xác tín và sống trọn vẹn với Chúa, Chúa vẫn ở ngay trước mặt chúng ta với những gì chúng ta đang có và đang sống hôm nay. Chúa cũng nói với chúng ta niềm tin của con đã cứu con, tin như nào thì được như thế ấy nhưng tất cả điều xuất phát từ nơi Chúa, ơn của Chúa và chính Chúa là Đấng ban ơn. Ơn Chúa luôn dư đầy cho những ai luôn biết mở rộng lòng mình để đón nhận, tin vào Chúa thì cuộc sống sẽ thay đổi tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Niềm tin có sức mạnh giải thoát nhưng chúng ta phải tin vào điều gì và tin vào ai? Đó là điều quan trọng.
Lạy Chúa xin cho con có được niềm mạnh mẽ và sâu xa vào Chúa để đời sống của con được biến đổi và được cứu chữa khỏi mọi tội lỗi.
THIÊN CHÚA GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI KHỎI SỰ DỮ CÁCH TRIỆT ĐỂ VÀ TOÀN DIỆN
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý anh chị em,
Lịch sử thế giới ghi nhận hai cuộc giải phóng vĩ đại nhất: giải phóng người nô lệ và giải phóng phụ TN 30-B179
Lịch sử thế giới ghi nhận hai cuộc giải phóng vĩ đại nhất: giải phóng người nô lệ và giải phóng phụ nữ. Hai cuộc giải phóng đã đem lại quyền bình đẳng, tôn trọng nhân phẩm con người trong mối tương quan xã hội.
Chế độ nộ lệ tạo ra sự phân cực giữa chủ và tớ. Người nô lệ bị coi như một thứ đồ vật, người chủ mua về để làm việc, mọi sự đều do chủ định đoạt, ngay cả đến mạng sống cũng thuộc về chủ.
Người phụ nữ trong các chế độ xưa kia cũng không khá hơn. Cuộc sống của họ hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn ông, tệ hơn, còn bị coi như một thứ đồ vật, một thứ đồ chơi của người đàn ông.
Khổng Tử, trong Đạo Đức Kinh, dạy: người phụ nữ tốt phải giữ luật tam tòng “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
Tạ ơn Chúa vì lịch sử đã sang trang. Nhân loại biết ơn những vị anh hùng, đã làm cách mạng thành công, giải phóng nô lệ, giải phóng người phụ nữ.
Ngày nay, chế độ nô lệ chỉ còn được biết qua sử sách, nhân phẩm người phụ nữ được nâng cao, quyền bình đẳng nam/nữ đang được cải thiện cách triệt để và phổ quát.
Tuy nhiên, giải phóng về phương diện thể lý chưa phải là tất cả, nó mới chỉ đạt được một phần cho “hữu thể người” có linh hồn và thân xác.
Thiên Chúa, không chỉ được mạc khải là Đấng giải phóng Israel khỏi nhà tôi mọi Ai-cập, khỏi kiếp lưu đày bên Ba-bi-lon, nhưng còn giải phóng dân khỏi tội lỗi và sự chết. Đây mới thật là cuộc giải phóng triệt để, toàn diện muôn dân mong đợi, vì lẽ, hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội và phải chết.
Chỉ một mình Thiên Chúa giải phóng con người khỏi tội, ban ơn hòa giải, để họ được sống và sống dồi dào. Công trình giải phóng toàn diện này được thực hiện trong Chúa Giê-su, Đấng xóa bỏ tội lỗi trần gian, cho con người được hưởng tự do thần thiêng trong sự thông hiệp với Thiên Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày dung mạo Giê-su, Đấng cứu thế muôn dân mong đợi, thực hiện công trình giải phóng bằng cuộc trao đổi kỳ diệu, diễn ra nơi chính mình. Giê-su chấp nhận nghèo, để chúng ta được giầu có mọi sự, chấp nhận thương tích để chúng ta được chữa lành, chấp nhận tù tội để chúng ta được giải phóng, được tự do, chấp nhận mang thân tội để chúng ta nên công chính, chấp nhận chịu chết để chúng ta được sống muôn đời.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, loan báo niềm vui ngày Thiên Chúa viếng thăm, giải thoát dân khỏi ách nộ lệ bên Ba-bi-lon, đưa về miền đất hứa, miền đất sung túc và tự do.
Đức Chúa sẽ chủ động làm tất cả để dân được sống trong an bình, hạnh phúc. Trên đường trở về, Chúa đi giữa dân, dẫn dắt từng người và số đông, không bỏ sót người nào, cho dẫu họ yếu đuối đủ loại: ốm đau, mù lòa, què quặt, mang thai, già lão...
Ngôn sứ còn loan báo: Chúa các đạo binh sẽ thiết tiệc trọng thể trên núi Sion để thiết đãi muôn dân. Thịt béo, rượu nồng, khăn tang sẽ vĩnh viễn được tháo cởi, giọt lệ vắn dài sẽ được Chúa lau khô và dân Ta hưởng an bình thư thái.
Đó là những lời an ủi, dẫy tràn yêu thương, Chúa dành cho dân ngay trong cảnh lưu đày và vẫn cứ tiếp tục đeo đuổi họ trong suốt hành trình tới tận phần đất Chúa hứa cho Abraham.
Chúa giải phóng Israel khỏi cảnh lưu đày là có thật, là sự kiện lịch sử, nhưng còn nhắm tới một cuộc giải phóng thiêng liêng trổi vượt, hoàn hảo gấp bội: giải phóng dân khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết.
Công cuộc giải phóng thứ hai cho phép con người hòa giải với Thiên Chúa, trở nên con rất yêu dấu của Người, nhất là được hưởng trọn vẹn tình yêu và sự sống muôn đời.
Tác giả thực hiện cuộc giải phóng thiêng liêng là Đức Kitô, được Cha sai đến làm Đấng cứu thế và chuộc tội.
Thánh Marco, trong bài Tin Mừng, tường thuật phép lạ Chúa chữa người mù thành Giê-ri-cô. Cuộc đối thoại cho thấy Giê-su lắng nghe lời kêu cứu của con người trong cơn hoạn nạn, nhất là những kẻ bé mọn kêu xin. Nghe tiếng Chúa, anh vùng dậy, vứt tấm áo choàng, chạy đến gặp Chúa. Anh có những hành động dứt khoát và quyết liệt, bất chấp sự cản ngăn của người khác. Anh đã gặp Chúa và lời thỉnh cầu đã được Chúa chấp nhận. Anh được chữa lành con mắt. Từ nay, anh có thể ngắm nhìn thiên nhiên, những kỳ công Chúa tác tạo mà lớn tiếng ngợi khen danh Chúa. Anh được chữa lành bởi lòng thương xót Chúa và sự bền đỗ trong đức tin: “Đức tin của con đã cứu chữa con” (Mc 10, 52).
Qua câu chuyện chữa lành người mù thành Giê-ri-cô, chúng ta có sẵn sàng tuyên xưng Thiên Chúa cứu độ: “Lạy ông Giê-su, con vua Đavid, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10, 48), có thành tâm bền đỗ trong đức tin, để khi Chúa đến vẫn thấy chúng ta đang tỉnh thức và vững dạ đợi chờ. Nếu chúng ta tin vững vàng, thì mọi sự sẽ trở thành có thể, vì đức tin của con sẽ cứu chữa con.
Tin trong lòng thì được nên công chính, tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ.
Bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái, đề cao địa vị tư tế trổi vượt của Đức Kitô, Đấng tế lễ, không phải đền tội cho riêng mình, nhưng cho toàn dân. Nguồn gốc tư tế của Ngài do Thiên Chúa ấn định, nên viên mãn, trường tồn. Hy tế của Ngài luôn làm đẹp lòng Cha và sinh ơn cứu độ cho cả thế gian.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
* Một là: Thâm tín rằng Đức Kitô đã chết vì tội lỗi trần gian và Người đã sống lại để chúng ta được sống muôn đời. Đây chính là ơn giải phóng triệt để và phổ quát. Cố gắng sống như con cái tự do của Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng niềm vui và ơn chúc lành của Trời.
* Hai là: kiên trì trong tỉnh thức và cầu nguyện liên lỉ, người môn đệ sẽ mau mắn nhận ra ý Chúa, rồi cố gắng đem ra thực hành bằng một đời sống đượm tình mến thương, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen!
Chúa Nhật 17/10 vừa qua, là ngày toàn quốc cầu nguyện xin ơn chữa lành trong mùa đại dịch TN 30-B180
Chúa Nhật 17/10 vừa qua, là ngày toàn quốc cầu nguyện xin ơn chữa lành trong mùa đại dịch, tin chắc rằng, ai trong chúng ta cũng đã hy sinh cầu nguyện rất nhiều với Chúa để xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng ta và cho anh chị em mình. Nhưng thực ra, trong tận cõi thâm sâu lòng trí của từng người, ACE đã xin ơn gì với Chúa, hay muốn Chúa ban điều gì cho chúng ta? Phải chăng là xin Chúa ban cho sức khỏe, cho có công ăn việc làm được tốt đẹp, cho gia đình được bình an…tất cả đều hợp tình, hợp lý. Thế nhưng, trên tất cả, điều mà Lời Chúa hôm nay soi sáng cũng như mời gọi đó chính là: Đâu là tâm tình, là thái độ và cung cách của mỗi người khi chúng ta đến với Chúa trong cầu nguyện và kêu xin Ngài thương giúp?
Tin mừng hôm nay (Mc 10, 46-52) thuật lại cho chúng ta việc một người bị mù đến xin Chúa cứu giúp. “Con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Điều thú vị ở Tin mừng Marcô là: Người bị mù này có tên, không những nêu tên anh ta mà còn nói rõ tên của cha anh ta nữa. Một người bị mù ngồi ăn xin ở vệ đường, tại sao lại được nhắc đến tên và nguồn gốc của anh ta cách rõ ràng như vậy? Ở đây, Tin mừng đang muốn nhấn mạnh và mời gọi chúng ta chú tâm vào chứng tá của một con người dẫu rất bình thường, dẫu là người nghèo, người bị bỏ rơi, thế nhưng anh Bartimê con ông Timê lại được trở nên mẫu gương trong đời sống đức tin. Qua thái độ và cung cách của anh Bartimê khi đến với Chúa và kêu xin Chúa giúp, cũng phải là cách sống của mỗi người chúng ta đặc biệt trong cuộc sống hiện nay.
Thưa ACE, chúng ta được mời gọi để nhìn lại cung cách và hành trình sống đức tin của anh mù Bartimê, cũng như những ơn lành mà Chúa Giêsu đã thương ban cho anh. Trước hết, từ trong đám đông, chắc chắn có rất nhiều người, nhiều tiếng ồn ào, mặc dù bị mù, thêm vào, anh lại chỉ ngồi bên vệ đường nữa…với nhiều điều bất tiện và cản trở như vậy, thế nhưng, anh Bartimê đã cố gắng để biện phân và nhận ra là: Trong số những người đang đi ngang qua đây, có một Đấng rất đặc biệt. Thật vậy, với một đôi tai rất nhạy bén, với chỉ ít thông tin ít ỏi có được, anh đã tận dụng cơ hội để tin chắc rằng, đây phải là Ông Giêsu, người mà bấy lâu nay anh đã nghe nói về, Người mà anh mong đợi, ước nguyện cầu xin để làm sao gặp được Ngài. Thêm vào đó, khi đã tin chắc là có Chúa Giêsu đi ngang qua, anh mù Bartimê đã biết vận dụng hết khả năng để kêu lên thật to. “Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Vì anh muốn rằng, tiếng kêu của mình phải thật to, đủ lớn để Chúa có thể nghe được. Mặc dầu, bị người ta ngăn cấm không cho anh kêu la, nhưng không vì thế mà anh bỏ cuộc. Nếu đây là một con người nhụt chí, nhát đảm hay sợ sệt, thì chắc chắn anh ta đã im lặng và co cụm mình lại, thế nhưng, không phải như vậy, anh lại càng kêu to hơn nữa. “Nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”.
Không những thế, Tin mừng đang muốn chúng ta chú tâm hơn vào điều mà anh mù Bartimê đang cầu xin với Chúa. “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Anh đã cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, anh kêu xin đến chính tình yêu thương đích thực của Thiên Chúa. Cốt lõi ở đây là: Anh mù đã kêu xin đúng với điều mà Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đang muốn trao ban và minh chứng cho nhân loại. Thế nên, việc anh mù cầu xin đã chạm đến lòng thương xót, sự bao dung nhân hậu của Chúa. Sau khi Chúa Giêsu nghe được tiếng kêu cầu của anh, Ngài đã cho gọi anh đến với Ngài. Chúng ta sẽ thật ngạc nhiên để nhận ra rằng, thái độ và cung cách của một con người có niềm tin mạnh vào Chúa thật dứt khoát, mạnh mẽ và kiên cường. “Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu”. Liệng áo choàng, đứng thẳng dậy và tiến bước đến với Chúa, đây thật là cung cách và hành động của một con người được biến đổi nhờ lòng tin, thái độ quyết tâm dứt bỏ với những rào cản của cuộc sống hiện tại để đến với Chúa. Cho dù con mắt thể lý không thấy được, nhưng con mắt đức tin sáng tỏ đã soi đường chỉ lối cho anh tiến bước đến với Chúa.
Và sau hết, khi Chúa Giêsu bảo anh: “Anh muốn Ta làm gì cho anh? Người mù thưa: Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu đáp: Ðược, đức tin của anh đã chữa anh. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.” Chính Chúa Giêsu đã khen ngợi lòng tin mạnh của anh Bartimê. Lòng tin của con người này chính là sự đáp trả trước ơn ban cao quý mà Thiên Chúa dành riêng cho những ai biết tin tưởng, cậy trông vào tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa. Không những thế, Tin mừng còn thuật lại, khi anh Bartimê được sáng mắt, thì anh quyết tâm dấn thân đi theo Chúa Giêsu trong hành trình loan báo và minh chứng cho sứ vụ yêu thương phục vụ của Ngài.
Thưa ACE, khi suy niệm và nhìn vào mẫu gương thực hành đức tin và cách sống đức tin tuyệt vời của anh Bartimê, chúng ta như được mời gọi để phản tỉnh và nhìn lại chính cung cách, thái độ và đời sống đức tin của mỗi người chúng ta với Chúa và với tha nhân. Tôi cần phải học từ anh mù Bartimê điều gì đây? Hay nói khác hơn, cái gì, điều gì đang là rào cản mà làm tôi không thể nghe, phân biệt để nhận ra tiếng Chúa và sự hiện diện của Ngài? Đâu là chướng ngại vật đang ngăn cản tôi không thể làm cho tôi đứng lên để tiến bước đến với Chúa? Và trên hết, chúng ta đang cần, đang muốn cầu xin Chúa ban cho chúng ta điều gì để chúng ta được ơn cứu chữa và biến đổi mà trở nên người phục vụ Chúa và tha nhân?
Chúa đang muốn chúng con phải học theo gương mẫu của anh mù Bartimê, là hãy cố gắng, nỗ lực để đến kêu xin Chúa với lòng tin. Xin cho chúng con từ nay, dù trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống, vẫn luôn một lòng tín thác vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Lạy Chúa, chúng con tín thác vào lòng thương xót của Ngài. Amen.
Thánh Marcô kể về Bartime: Anh mù bẩm sinh, ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh nhận ra sự TN 30-B181
Thánh Marcô kể về Bartime:
Anh mù bẩm sinh, ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nazareth và kêu lớn tiếng: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi” dẫu người ta mắng anh hãy im đi. Chúa Giêsu dừng lại và gọi anh ta đến với Chúa. Người ta bảo anh: “Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”. Anh ta vứt áo choàng, nhảy lên đến với Chúa. Chúa hỏi anh ta xin gì. Anh đáp xin cho được thấy. Chúa đã chữa anh ta sáng mắt. Và anh ta theo Chúa lên đường.
Người mù ăn xin
Người mù ăn xin, ta vẫn thường gặp trong đời thường.
Ở Việt Nam, một số người mù từ thuở mới sinh được may mắn sống tại một số trường, nhà dành cho người mù. Hầu hết là những tổ chức Công Giáo đảm nhận. Một niềm vui đáng kể cho cho sự dấn thân, phục vụ của những người tình nguyện, từ thiện và cũng là niềm vui cho Giáo Hội. Ở đó, người mù được cấp dưỡng và nuôi dạy tốt. Có người học đọc, học viết, học vi tính, học ngoại ngữ, và học các ngành nghề đặc biệt dành cho họ.
Nhưng cũng còn có rất nhiều người mù đang ăn xin ở các TP, hoặc còn đang ở trong tình trạng khó khăn ở các miền quê. Họ thật bất hạnh. Nhưng, vì mù, nên tạo hóa bù đắp cho họ một khả năng nghe thật tuyệt, thật chính xác. Dẫu là họ đang ăn xin cái qua ngày vì họ không thể lao động kiếm sống như người bình thường được, nhưng chắc chắn rằng, nỗi khát khao duy nhất trong đời của họ là được nhìn thấy.
Xin Chúa thương xót
Giống như những người mù mà ta thường gặp, nhưng chàng mù Bartimee có một điểm khác nổi bật hơn là: khi nhận ra Chúa Giêsu hiện diện, chàng không xin cái ăn qua ngày, mà chàng đã ăn xin “lòng thương xót Chúa”. “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”. Chàng biết xin cái quí nhất trên đời: lòng thương xót Chúa. Chàng đã xin, bất chấp mọi cấm đoán và với tin tưởng mãnh liệt rằng lòng thương xót Chúa có thể cho chàng được thấy. Và lòng thương xót Chúa đã cứu anh, dựa vào đức tin mãnh liệt của chàng.
Xin lòng Chúa thương xót, có thể nói là đã đủ cho một đời người.
Người mù không thể biết điều mình xin là cao quý như thế, nếu chàng không có một lòng khiêm tốn thẳm sâu. Có thể chàng chưa dám xin cho được thấy, vì tự cảm thấy mình bất xứng, hoặc vì chàng đã chấp nhận cảnh mù lòa như một sự trừng phạt của Thiên Chúa theo như quan niệm của thời bấy giờ. Chàng xin lòng thương xót vì chàng có niềm tin: lòng thương xót của Chúa sẽ mở cho chàng tất cả lối ngõ vào các ước muốn theo ý Chúa.
Ấy vậy, khi lòng thương xót của Chúa đã đáp lại nguyện vọng của chàng qua cung cách yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu, chàng ta mới dám nói: Xin cho con được thấy.
Và chàng đã được thấy.
“Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Tôi đặc biệt nghĩ đến chi tiết của những người đi theo Chúa Giêsu. Họ đã thay đổi thái độ la mắng và cấm đoán anh ta la hét, thành lời mời gọi rất dễ thương: “Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Những người theo Chúa, trước đó họ cũng mù, nhưng họ được mở mắt ra, khi nhìn thấy Chúa Giêsu dừng lại trước người mù đau khổ. Thái độ của Ngài đã biến đổi thái độ của họ. Họ mời anh đến với Chúa. “Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Giáo Hội của Chúa Kitô phải là GH của những người đau khổ, cùng khốn. Những người theo Chúa Kitô cũng là những người đứng về phía người đau khổ cùng khốn. Và thân thiện mời người đau khổ đến với Chúa để được an vui.
Nhưng, đứng về phía những người đau khổ vì nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, đại dịch, áp bức, khủng bố, ngược đãi… thì dễ, còn đứng về phía những người đau khổ tâm hồn vì tội lỗi, vì mù lòa tâm linh, thì không dễ chút nào, vì họ không dễ nhận mình là tội lỗi, không dễ biết mình đang mù lòa, và có thể họ cũng không cần đến Giáo Hội. Vâng, khi nghèo đói, bịnh hoạn, lầm than, thì con người dễ nhận ra sự thấp kém của mình. Còn khi, đầy đủ sung túc, khỏe mạnh thì lầm tưởng giá trị của cuộc sống của mình lớn lao biết bao. Sự mù quáng không miễn trừ một ai, có học hay vô học, trí thức hay mù chữ… tất cả đều có thể mắc bệnh mù quáng do chủ quan đã làm hỏng đôi mắt tâm linh.
“Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Thiết nghĩ, đây là lời mời gọi của Giáo Hội dành cho tất cả chúng ta, những người sống trong u tối vì bệnh mù lòa tâm linh, mù quáng do chủ quan, mù mờ về chân lý, mù tịt về đời sau….
Thấy người, có người mù bẩm sinh, nhưng cũng có người mù do thương tật, lại nghĩ đến ta, có người mù do tự mình làm hỏng đôi mắt tinh tuyền của mình bằng vô số cách tự hủy hoại đáng tiếc.
Và lời mời gọi của Giáo hội “Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”, vẫn văng vẳng bên tai ta hằng ngày. Điều quan trọng là:
- chúng ta biết mình đang mù. - chúng ta dứt khoát với bóng tối tội lỗi. - chúng ta khát khao được nhìn thấy chân lý. - chúng ta tin tưởng mảnh liệt và quyết tâm sống với chân lý. Chân lý của chúng ta là tinh thần của Chúa Giêsu Kitô. Tôi nhớ một bài hát thiếu nhi: “Trong tim Chúa Giêsu, đang có những người đau khổ. Trong tim Chúa Giêsu đang có anh em bạn bè. Trong tim Chúa Giêsu em thấy có cả em nữa. Đang ca hát hân hoan vui trong tình yêu vô biên”
Ước gì trong tim Chúa Giêsu, thấy có cả tôi và bạn, những người mù ăn xin lòng thương xót Chúa.
Lạy Chúa, chúng con là người sáng mắt, nhưng mù tối tâm hồn, mù mờ đức tin, mù quáng trước những cuốn hút của cái tôi kiêu ngạo. Chúng con rất cần đến lòng thương xót Chúa. Chỉ có lòng thương xót vô điều kiện của Chúa mới có thể tha thứ được sự hư đốn trong tâm hồn, sự u tối trong lý trí chúng con, và biến đổi chúng con nên hoàn hảo nhờ được thấy và bước đi trong ánh sáng chân lý của Chúa. Amen.
Một cụ già mù lòa ăn xin ngồi bên đường, ông ta chờ người qua lại bố thí cho những đồng xu TN 30-B182
Một cụ già mù lòa ăn xin ngồi bên đường, ông ta chờ người qua lại bố thí cho những đồng xu để kiếm sống qua ngày, và ông ghi trên một tờ giấy với dòng chữ như sau: “Tôi bị mù lòa, xin mọi người thương giúp đỡ tôi”. Thế nhưng, Những người qua đường chẳng ai thèm nhìn ngó và chạnh lòng thương bố thí cho ông ta. Một cô gái xinh đẹp đi ngang qua, cô ta nhìn thấy ông ta vẫn chưa có đồng xu nào, cô thấy thương cho ông lão. Thế là, cô ngồi xuống và viết lại thành một dòng chữ khác: “Bầu trời hôm nay rất đẹp, nhưng tôi không thể nhìn thấy nó”, cô gái bỏ đi. Sau đó, nhiều người qua đường nhìn thấy dòng chữ này cảm thương và bố thí cho lão ăn xin.
Việc làm của cô gái rất đơn giản, nhưng đã làm thay đổi nhiều người qua đường. Sức mạnh của ngôn ngữ thật là kỳ diệu, nó có thể làm thay đổi cả thế giới xung quanh. Những gì xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày, đó chính là ngôn ngữ của lời nói. Lời nói diễn tả cảm nghĩ, tư tưởng và hành động. Câu chuyện của lão ăn xin đã xẩy ra, khi cô gái thay đổi dòng chữ, và thay đổi cách nhìn, cảm xúc và lối suy nghĩ của người qua đường. Cũng vậy phép lạ của người mù trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy anh chàng mù kêu xin lớn tiếng: "Lạy Con Vua Đavít xin thương xót tôi." Nhiều người đã la mắng anh ta im đi, nhưng anh ta lại gào to hơn: "Lạy Con Vua Đavít xin thương xót tôi." Hành động của anh mù này làm cho nhiều người chung quanh bực mình. Nhưng đối với Chúa Giê-su, đó là một hành động đức tin chân thành nhất, nó xuất phát từ lòng khao khát mong được Chúa chữa đôi mắt mù lòa của anh ta.
Rồi điều gì đã xẩy ra cho anh ta? Chúa Giê-su hỏi anh ta, "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Được, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người." Đức tin đã cứu chữa con, đức tin đó không chỉ thể hiện qua lời nói kêu xin của người mù. Cho dù bị nhiều người la mắng, anh ta vẫn tin vào Chúa Giê-su có thể chữa lành đôi mắt cho anh ta bởi lòng tin. Đó là một điều rất cần cho cuộc sống ngày hôm nay khi chúng ta đang gặp thử thách, đau khổ, bệnh tật ốm đau..., chúng ta có kêu xin như anh chàng mù này không? Lẽ thường, chúng ta dễ tin vào những gì bác sỹ nói và chỉ dẫn hơn những gì điều Lời Chúa dạy: "Đức tin sẽ cứu chữa con", đây là lời Chúa Giêsu nói với chúng ta, Ngài là Bác sỹ tuyệt vời nhất cho chúng ta. Thế nhưng, chúng ta lại quên đi bởi vì chúng ta chưa có niềm tin vào Thiên Chúa. Sống trong thế giới thực dụng hôm nay, chúng ta chỉ chấp nhận những gì hiện hữu, nhìn thấy bằng con mắt xác thịt, bằng những thứ mà chúng ta có thể nhìn thấy, sờ mó, đụng chạm và chiếm hữu nó trong thế giới hữu hình này. Trong khi đó, phép lạ vẫn xẩy ra hàng ngày, nhưng chúng ta không thấy. Phép lạ là một mầu nhiệm khởi đi từ đức tin. Ngài cần lòng tin của chúng ta. Chúa Giê-su làm phép lạ không chỉ là cho con người khỏi các bệnh tật của thể xác mà còn là chữa lành đời sống tâm linh cho chúng ta.
Lạy Chúa, xin Ngài ban cho chúng con có con mắt đức tin, để chúng con biết nhìn và khám phá ra những điều kỳ diệu trong thế giới này. Và chính nhờ con mắt đức tin giúp co để nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa trong cõi lòng chúng con, và biết nhìn đến những người chung quanh. Họ là cụ già ăn xin bên đường, là người đang mang căn bệnh ung thư cần được chăm sóc và an ủi, là những người già nua ốm đau bệnh tật, là những người đang gặp thử thách, đau khổ, thất nghiệp và nghèo khó. Nhất là ban cho ánh sáng đức trong đôi mắt mù của con. Lời Chúa đã chỉ dạy con qua anh chàng mù hôm nay và kêu xin lên lòng thương xót Chúa: "Lạy Ngài xin thương xót chúng con". Amen.
Một câu tiếng Pháp khá quen thuộc chúng ta thường nghe, “Aide-toi, le Ciel t’aidera!”, “Hãy TN 30-B183
Một câu tiếng Pháp khá quen thuộc chúng ta thường nghe, “Aide-toi, le Ciel t’aidera!”, “Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy một thanh niên, tuy mù loà, nhưng tính cách của anh thật mạnh mẽ đúng như câu nói ấy, “Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp!”. Và không chỉ Trời sẽ giúp, mà cả người cũng sẽ giúp; đó là những kẻ trước đó, mắng anh, bảo anh im đi, vì anh quấy rầy họ, quấy rầy Chúa Giêsu; nhưng sau khi Ngài dừng lại, họ nói với anh, “Kìa, Ngài gọi anh!”.
Đó là Bartimê, một người ngồi ăn xin bên cổng thành, nơi Chúa Giêsu và một đoàn người vừa đi ra. Là một người ăn xin, Bartimê đủ nhạy bén để nhận ra rằng, việc làm phiền những người anh cần cầu xin là điều không tốt; tuy nhiên, khi Chúa Giêsu đi qua, anh không thể im lặng. Ngay cả khi bị ‘khách hàng’ của anh quở mắng, anh vẫn la lên, “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi!”. Bartimê được thúc đẩy bởi một niềm tin chắc chắn rằng, con người có tên Chúa Giêsu ấy có thể thay đổi rất nhiều điều trong cuộc sống của anh. Vì vậy, không ai và không gì có thể ngăn anh khỏi mục tiêu gặp gỡ bằng được Ngài; họ càng cản ngăn, tiếng anh càng lớn, “Hỡi Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”. Đức Thánh Cha Phanxicô nói, “Đây là một lời cầu nguyện tuyệt vời hơn bất cứ lời qua tiếng lại nào của bất kỳ một cuộc thảo luận nào! Đó là tiếng nói của một trái tim nhân loại đang kêu lên; và tất cả chúng ta đều có tiếng nói này tự bên trong mình. Một tiếng nói phát ra tự nhiên mà không cần ai phải tác động, một tiếng nói tự hỏi về ý nghĩa cuộc hành trình của mỗi người trên trái đất, nhất là khi chúng ta thấy mình đang ở trong bóng tối, “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con! Xin thương xót con”. Quả đây là một lời cầu nguyện đẹp nhất!”.
Với tiếng la inh ỏi của anh mù, có hai thái độ hoàn toàn khác nhau trước và sau đó nơi những người tháp tùng Ngài. Trước đó, “nhiều người mắng anh, bảo anh im đi”; nhưng khi Chúa Giêsu dừng lại, truyền gọi anh, họ đổi ngay thái độ, “Hãy vững tâm đứng dậy. Kìa, Ngài gọi anh!”.
“Kìa, Ngài gọi anh!”; một lời mách bảo giàu ý nghĩa trong Chúa Nhật, Khánh Nhật Truyền Giáo. Đó là những lời mà tất cả chúng ta, những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, phải nói cho anh chị em mình. Trong bài đọc thứ nhất, Giêrêmia đã thấy trước ngày hân hoan ấy khi Chúa dẫn dân Ngài về lại thánh đô, “Này, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất Bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất!”. Chính Israel dân Chúa, sẽ nói cho những người thuộc dân ngoại rằng, “Kìa, Ngài gọi anh!”; và tất cả sẽ hân hoan trong Ngài khi cảm nhận được lòng thương xót Chúa, như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca, “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui!”.
Anh Chị em,
“Kìa, Ngài gọi anh!”. Như Bartimê bên vệ đường cổng thành, biết bao nhiêu người giờ đây đang ngồi ‘bên lề cuộc đời’ của chính họ, hay bên lề xã hội, cần lắng nghe những lời động viên phấn khích và hy vọng ấy! Đó là những bệnh nhân ung thư, những người trầm cảm, những con người vô danh không có tiếng nói mà Đặng Hoàng Giang vừa nói thay cho họ trong cuốn “Đại Dương Đen” của anh; đó là hàng triệu người đang xác xơ tất tưởi sau những tháng ngày dịch bệnh; những người thất nghiệp, những người tuyệt vọng; những người đang lung lạc đức tin hay những người đang đắm chìm trong tội lỗi… và Anh Chị em, quan trọng hơn, đó cũng có thể là mỗi người chúng ta, những kẻ cần lắng nghe hơn ai hết những lời thiết tha này, “Kìa, Ngài gọi anh!”. “Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp!”. Như anh mù, chúng ta hãy tự giúp mình bằng cách la lên, “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con!”, và vứt lại ‘những chiếc áo vướng bận’ của mình để đến với Ngài; và chắc chắn, cũng sẽ hưởng nhận những gì cần thiết để tạo nên một sự khác biệt! Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin thương xót con, xin chữa lành con! Nhờ đó, con có thể bước đi trên đường Chúa đi; và có thể giúp cho những anh chị em đang tổn thương biết rằng, “Kìa, Ngài gọi anh!””, Amen.
Chúa Giêsu đi ngang qua nơi một anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh hỏi thăm vì nghe đám TN 30-B184
Chúa Giêsu đi ngang qua nơi một anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh hỏi thăm vì nghe đám đông đang đi qua. Khi biết là Chúa Giêsu, anh đã kêu xin. Chúa Giêsu cũng đi ngang qua cuộc đời chúng ta, chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài không?
Anh mù không thấy nhưng anh đã tìm hỏi và nhờ đó anh đã biết ai đang đi qua. Chúng ta không cần hỏi ai cả, chúng ta biết quá nhiều rồi, nhưng chúng ta có nhận ra được không? Nhiều người than thở rằng họ không thấy Chúa trong cuộc đời của họ, Chúa làm như vắng mặt trong cuộc sống của họ, nhất là khi họ bị khủng hoảng, đau buồn. Chúa vẫn có mặt nhưng chúng ta không thấy được. Có lẽ con mắt tâm hồn chúng ta mù chăng?
Anh mù đã kêu xin Chúa bằng một tước hiệu mà không ai ngờ: “Con Vua Đavít”. Những người đang đi với Chúa trên đường đã không nghĩ rằng Chúa Giêsu là con vua Đavít. Họ chỉ xem như một ngôn sứ nào đó. Anh mù, tuy không thấy nhưng anh đã nghe đọc Kinh thánh trong hội đường. Anh cũng trông chờ Đấng Cứu Thế được gọi là con vua Đavít như mọi người thiện chí ở Itraen. Hôm nay, anh đã nghe biết và tin rằng ông Giêsu Nadaret là con vua Đavít, là Đấng anh trông đợi.
Có lẽ anh nghe nhiều về những gì ông Giêsu đã làm cho bao nhiêu bệnh nhân và anh tin. Anh mù sáng suốt hơn những người thấy được. Anh kêu xin lớn tiếng làm cho nhiều người bực bội. Họ quát nạt anh, nhưng anh vẫn cứ kêu xin. Một anh ăn xin ngoài đường là cái gì mà dám làm rầy một vị tiên tri như thế? Nhưng không vì thế mà anh nản lòng. Anh tiếp tục kêu xin.
Đây là một bài học cầu nguyện thực tế và sống động. Thế gian cản trở chúng ta, không để cho chúng ta yên để nhớ đến Chúa. Những công việc bề bộn hằng ngày, những lo toan cho cuộc sống, những tiếng ồn ào của truyền hình, những bực bội do người chung quanh làm cho chúng ta quên đi sự hiện diện của Chúa. Hãy làm như anh mù, cứ kêu xin giữa những chướng ngại bên ngoài.
Lời cầu bền bỉ của anh mù đã có kết quả. Chúa Giêsu dừng lại và bảo gọi anh mù đến. Chúng ta thấy rằng, khi đi ngang qua anh mù, nghe tiếng anh cầu khẩn, nhưng làm như Ngài không chú ý. Có lẽ Ngài muốn xem anh phản ứng ra sao. Thấy anh bền tâm cầu khẩn, Ngài dừng lại, chú ý đến anh.
Người ta không la rầy anh nữa mà lại khuyến khích: “Yên tâm, Ngài gọi anh đấy.”
Quá vui mừng anh đứng phắt dậy, vứt bỏ ào choàng, cái áo choàng rách bẩn của anh và đến với Chúa. Thánh Maccô để ý ghi nhận chi tiết đó. Chi tiết nầy được ghi lại không phải là vô ý, và nhiều người đã xem đó như một hành vi có ý nghĩa. Đến với Chúa, niềm vui đã xóa bỏ hết sự nghèo cực của anh. Anh đến với Chúa, vứt đi hết mọi lo âu, bỏ cả cái thực tại mù lòa của anh. Giờ đây anh là người được gọi, là người được tuyển chọn.
Chúng ta cũng thấy một người khác là cô Maria, chị của Ladarô, khi nghe chị Matta nói: “Thầy đến và gọi em”. Maria đang ngồi khóc em với mấy chị bạn trong nhà đã đứng phắt dậy và chạy đến với Thầy.
Chúng ta có vui mừng chạy đến với Chúa khi Chúa đến gặp chúng ta không? Chúng ta có mau mắn lắng nghe tiếng Chúa mời gọi chúng ta không? Chúng ta có cảm thấy rằng sự hiện diện của Chúa trong đời là một cái gì quan trọng không?
Anh mù đã nghe tiếng gọi anh mong chờ. Hãy chăm chú lắng nghe tiếng Chúa gọi âm thầm trong chúng ta từng lúc và nhanh chóng đáp trả. Giữ đạo không chỉ là đọc kinh, dự lễ hay giữ một số luật lệ mà là luôn gần gũi với Chúa, gắn bó với Chúa trong cuộc sống, lắng nghe tiếng Ngài trong các biến cố vui buồn của chúng ta.
Chúa Giêsu hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Xem ra là một câu hỏi thông thường, nhưng chứng tỏ sự tế nhị của Chúa Giêsu. Ngài không cho anh những gì Ngài muốn mà cho anh những gì anh đang mong đợi.Và anh mong đợi gì? “Thưa Thầy, xin cho con được nhìn thấy được”. Một lời xin có thể nói là vô lý. Vì ai có thể cho anh được điều đó? Hiện nay, nền văn minh kỹ thuật tiến rất nhanh và rất xa, nhưng chưa chắc có thể làm cho một người mù thấy được. Phải công phu lắm và phải nhờ những phương tiện tối tân mới có thể chữa được một số bệnh mắt. Thế nhưng anh mù nầy không xin tiền mà chỉ xin thấy được.
Trong lời xin của anh mù, chúng ta có thể thấy tiềm ẩn một cái gì trong đó. Đó là niềm tin. Anh tin rằng ông Giêsu đó, con vua Đavít kia, có thể cho anh hồng ân tuyệt diệu đó. Anh tin rằng ông Giêsu đó chính là Đấng Thiên sai như anh đã nghe nói đến nhiều lần trong hội đường: “Chúa mở mắt cho kẻ mù lòa…”
Và đúng thế, Chúa Giêsu chấp nhận lòng tin mộc mạc đó: “Lòng tin của anh đã cứu lấy anh”. Thánh Maccô nói: “Tức khắc, anh mù nhìn thấy được và đi theo Người. Chúng ta gặp từ tức khắc nầy trong Tin Mừng thánh Maccô rất nhiều lần, để nói rằng Chúa không cần thời gian. Việc Chúa làm luôn vượt xa những gì con người có thể nghĩ tới. Chúa Giêsu không cần một kỹ thuật nào. Quyền phép của Ngài vượt xa mọi khả năng của con người. Ngài cho thấy,Ngài là Đấng Thiên sai mọi người đang mong đợi, Ngài là Thiên Chúa. Ngài đến để mang ánh sáng cho trần gian u tối nầy. Ngài đến để mở mắt cho chúng ta nhìn thấy Chúa Cha và tình yêu vô biên của Người. Chúng ta là những người mù ngồi bên vệ đường cuộc sống. Chúng ta nói rằng chúng ta tin Chúa, nhưng đức tin chúng ta mù mờ. Chúng ta giữ một thứ đạo buồn chán, nặng nề, oi ngợp. Chúng ta vẫn còn trong tăm tối. Chúng ta giống như mấy ông Pharisêu, thuộc Kinh thánh, giữ rất đúng luật, nhưng mù lòa. Mù lòa đến nỗi đứng trước những phép lạ cả thể của Chúa, họ vẫn không thấy và không tin.
Chúng ta cũng thế thôi. Chúng ta mù vì kiêu căng, vì tự mãn, tưởng mình đã đạo đức lắm rồi không cần phải làm gì hơn. Chúa Giêsu đã cảnh báo mấy ông Pharisêu: “Vì mấy ông nói mấy ông sáng mắt nhưng kỳ thực các ông mù”.
Hãy cầu xin như anh mù kia, xin cho chúng ta sáng mắt để chúng ta nhìn thấy tình thương Chúa trong cuộc sống chúng ta, cho chúng ta nhìn thấy chính bản thân mình đang mù lòa cần ánh sáng của Chúa, cho chúng ta nhìn thấy anh em chúng ta đang đau khổ hồn xác. Xin cho chúng ta trở thành những con cái ánh sáng, luôn sống trong ánh sáng, mặc lấy khí giới của ánh sáng như thánh Phaolô đã nói để không ai trách cứ chúng ta về một điều gì, và nhìn thấy những việc lành chúng con làm mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời.
Trên hết, xin cho chúng ta được niềm tin sáng suốt và vững mạnh để thấy được sự hiện diện của Chúa trong cả cuộc đời, trong gian nan thử thách cũng như trong mọi tình huống vui buồn của chúng ta. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta thấy được những thực tại thiêng liêng, những thực tại của tình yêu Chúa, nhất là trong bí tích Thánh Thể. Đây là một quà tặng cao quí nhất mà Chúa có thể ban cho chúng ta. Nhưng nhiều người rước Chúa mà không bao giờ thấy Chúa. Ngài đã cho chúng ta một của ăn trường sinh mà chúng ta không hay biết. Ăn Chúa mà không biết Chúa. Biết mới có thể yêu, yêu mới có thể vì người yêu hi sinh tất cả.
“Xin cho con thấy được”. Chúng ta cũng cần thấy được, thấy Chúa trong Thánh Thể. Hằng ngày chúng ta ăn lấy Chúa mà có thấy Chúa đâu ! Chỉ có cái nhìn đức tin thành thật và khiêm tốn mới giúp chúng ta thấy được Chúa, thấy được tình yêu của Ngài thể hiện qua một tấm bánh nhỏ. Giáo Hội cũng cho chúng ta biết rằng Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin. Và mầu nhiệm đòi hỏi đức tin, một đức tin chân thật. Chúng ta chỉ có thể tin khi chúng ta cầu khẩn như anh mù kia. Dù ai ngăn cản vẫn cứ bền tâm. Đến với Chúa hãy vứt bỏ cái áo choàng rách của chúng ta, chiếc áo choàng của tự mãn, của ích kỷ để chỉ nhìn thấy Chúa thôi, vì chỉ một mình Chúa mới ban cho chúng ta niềm vui và ánh sáng.
Cuộc sống con người là một chuỗi những khát vọng. Có những khát vọng chính đáng, nhưng cũng TN 30-B185
Cuộc sống con người là một chuỗi những khát vọng. Có những khát vọng chính đáng, nhưng cũng có những khát vọng không chính đáng. Khát vọng làm lớn của Giacôbê và Gioan (ngồi bên tả, bên hữu Chúa Giêsu) là không chính đáng. Khát vọng được nhìn thấy của người mù Bartimê trong Tin mừng là rất chính đáng.
Những khát vọng chính đáng mà không khả thi thì cũng chỉ là mơ mộng hão huyền. Khát vọng của anh chàng mù Bartimê đã trở thành hiện thực vì anh đã gõ đúng cửa, tìm đúng nơi để tỏ bày khát vọng của mình. Và Chúa Giêsu đã đong đầy khát vọng chính đáng của anh nhờ lòng tin vào Chúa vững mạnh của anh. Con mắt tâm hồn sáng tỏ sẽ mở ngỏ cho niềm tin đi về và làm lớn mạnh niềm tin ấy.
Có thể nói, trước khi gặp Chúa, con mắt thể xác của anh chàng Bartimê bị mù, nhưng con mắt tâm hồn, con mắt đức tin của anh là rất tốt và rất sáng. Anh đã nhìn thấy được Chúa Giêsu là Con Vua Đavit và là Con Thiên Chúa, Đấng có thể đông đầy khát vọng chính đáng nơi anh: "Lạy Con Vua Đavit, xin cho tôi được thấy". Với con mắt đức tin sáng tỏ như thế khiến cho anh có sức mạnh để đến được với Chúa Giêsu dù bị ngăn cản bởi những người khác. Như vậy, chúng ta có thể nói được rằng: con mắt đức tin quan trọng hơn con mắt thể xác vì khi con mắt đức tin đã sáng rồi thì mọi chuyện cũng trở nên sáng. Con mắt đức tin sẽ giúp cho con người tin nhận Thiên Chúa, Đấng là nguồn Aùnh sáng và nguồn Hạnh phúc của con người trong cuộc đời này. Cho nên, điều quan trọng trong cuộc đời chúng ta là làm sao giữ cho con mắt đức tin của mình đừng bao giờ bị mù hay bị che khuất bởi những dục vọng đen tối của mình.
Nhưng trong thực tế, có rất nhiều người dù con mắt thể xác vẫn sáng, vẫn đẹp nhưng con mắt đức tin của họ đã bị mù. Vì thế, họ không nhận ra được Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, không nhìn thấy người khác là anh em của mình. Mù mắt đức tin sẽ dẫn đến những hậu quả đáng sợ như:
- Thấy mình là tất cả nhưng không thấy Thiên Chúa. Họ không cần ai làm người chỉ đường cho họ trong cuộc đời này. Vì thế, họ bước đi trong cuộc đời này mà không biết mình đi đâu. Nói cách khác là họ không thấy và không biết con đường mình đang đi. Chỉ biết mình đang đi nhanh, đi hết tốc độ. Và vì không biết đường cũng không thấy đường nên họ không đi tới được nơi mình muốn tới, hoặc sẽ bị sa xuống vực thẳm. Có thể nói, tâm hồn của nh?ng ng??i có tâm hồn mù tối như ly nước đã đầy, không thể rót gì thêm vào đó được nữa. Chúa có ban ơn cho họ thì cũng bằng thừa. Thiên Chúa cũng hãy còn xa lạ với họ lắm!
- Không nhìn thấy tha nhân là anh em của mình nên họ sống ích kỷ, tham lam, độc ác với đồng loại của mình. Họ sẽ nhìn người khác theo kiểu: người với người là chó sói của nhau. Ai mạnh thì thắng, ai yếu thì thua. Không có vấn đề tình yêu trong cuộc đời này. Anh mù Bartimê cũng đang bị người ta ngăn cản trong việc anh đến với Chúa Giêsu. Họ cho rằng anh mù này không đáng được xót thương. Nhưng với Chúa Giêsu thì mọi sự đã thay đổi.
- Bất mãn và hay buông xuôi với những gì xảy ra không đúng với ý muốn của họ. Vì họ không thấy được ý nghĩa của những gì mà họ gọi là "đau khổ". Đối với họ, thập giá là điều ô nhục, là dấu chỉ của sự suy tàn trong vô vọng. Họ không thể thấy và không thể hiểu hiểu: " Con đường từ Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang phục sinh huy hoàng".
Chúng ta hãy xét lại xem con mắt đức tin của mình có được sáng hay chưa? Xin Chúa ban cho chúng ta luôn có được con mắt đức tin luôn cháy sáng, để chúng ta biết nhận ra những điều quan trọng trong cuộc đời này là Kính Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Nếu đôi mắt tâm hồn của chúng ta có bị lu mờ hay mù tối thì chúng ta hãy mau chạy đến với Chúa để được Người chữa lành cho chúng ta để chúng ta biết khao khát những chuyện đẹp lòng Chúa trong cuộc đời này, vì Chúa đã phán: "Phúc cho biết khao khát nhân đức trọn lành, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho no đầy". Amen.
Thử tìm văn mạch tổng quát và văn mạch trực tiếp của trình thuật. 2. Chủ đề chính của bản văn TN 30-B186
1. Thử tìm văn mạch tổng quát và văn mạch trực tiếp của trình thuật. 2. Chủ đề chính của bản văn này là gì? 3. Đâu là phép lạ chính của bản văn? (Nghiên cứu cuộc đối thoại và cử chỉ của kẻ mù). 4. Bản văn này định nghĩa thế nào về đức tin?
Trong bản văn này, chỗ đứng của việc chữa lành rất nhỏ bé: không một lời hay một cử chỉ thần thông này cả. Phải chăng Mc muốn quên để nhấn mạnh đến một phép lạ thuộc loại khác, phép lạ mà ông sẽ cho thấy đặc tính trong ngôn ngữ riêng ông? Đó là vấn đề mà công việc nghiên cứu này thử giải đáp.
1. MC 10,46-52 TRONG TOÀN BỘ DIỄN TỪ CỦA MAC-CÔ
Để hiểu rõ hơn đoạn văn hôm nay, cần đặt nó lại vào trong văn mạch chung và văn mạch trực tiếp của nó: mỗi một văn mạch tương ứng với một mức độ riêng biệt trong hoạt động biên soạn của Mc.
a. Trong sự phối trí chung của tác phẩm
Được đặt lại trong toàn bộ Tin Mừng thứ hai, cuộc chữa lành người mù ở Giêricô có dáng như là thành phần của một bộ ba song song với cuộc chữa lành người mù ở Betsaiđa (8,22-26). Bản văn cuối này đi ngay trước việc tuyên xưng của Phêrô tại Caisaria (8,27-30) và việc tuyên xưng này lại được kéo dài bởi lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn (8,31-33). Cũng thế, Mc .10,46-52 được tiếp nối bởi việc tung hô Chúa Giêsu là Đấng Messia khi Người vào Giêrusalem, đoạn bởi trình thuật về cuộc Khổ nạn.
Một cách nào đó, Mc 8, 22-26 và 10,46-52 làm nên những trình thuật chuyển tiếp. Hình như chúng dẫn độc giả đến chỗ tuyên xưng đức tin cách công khai vào thiên sai tính của Chúa Giêsu: đức tin và thiên sai tính giả thiết biến cố Tử nạn. Trong viễn ảnh thần học này, việc mở mắt người mù mặc một giá trị dấu chỉ.
b. Trong văn mạch trực tiếp
Tiết tường thuật trong đó chen vào việc chữa lành Bartimê, khởi đầu từ Mc 10,32:
“Bấy giờ họ đang đi trên đường (en tôi hodôi) lên Giêrusalem, và Chúa Giêsu bước đi trước họ, và họ kinh hoàng; còn những kẻ theo sau thì sợ hãi…”
Nhiều sợi dây mà chúng ta sẽ tách ra khỏi “khung dệt” của Mc 10,46-52, một cách nào đó, còn nằm lộn xộn trong câu này. Con đường được xác định: đường lên Giêrusalem, trên đó Bartimê sẽ đi theo Chúa Giêsu sau khi được chữa khỏi (c.52).
“Và hắn đã theo người trên con đường” (c.52): câu này là một sự khai mở. Bi kịch cá nhân và sứ mệnh của Bartimê (“Hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi“) mở màn bi kịch tập thể và nhiệm mầu sắp trình diễn. Mátcô trình bày bi kịch này trong trình thuật tiến vào Giêrusalem tiếp theo. Số “nhiều kẻ” đã chống đối thái độ của Bartimê (10,8), nghĩa là những kẻ, cho đến lúc đó “còn kinh hoàng và sợ hãi” (10,32) thì nay nhận ra Đấng Messia (11,8-10). Họ cao rao tư cách thiên sai dòng Đa-vít của Chúa Giêsu mà trước đó họ đã từ chối. Tất cả, chẳng trừ ai, không còn công bố tước hiệu thiên sai nữa (“Con Đa-vít”) nhưng công bố chính nội dung chính xác của tước hiệu này: “Họ kêu lên: Hosana! Chúc muôn lành cho Đấng …” (11,9). Người ta gặp lại động từ “kêu lên” ở thì bán khứ, y như trong trường hợp của người mù (c.48: “nhưng hắn càng kêu to hơn nữa…”) sau việc can thiệp thù nghịch cũng của đám đông trên. Việc đi từ số ít sang số nhiều của cùng một hình thức động từ này mang nhiều ý nghĩa.
Thành thử Mc 10,32-11,10 xem ra giới hạn phạm vi biên soạn của đoạn văn chúng ta. Từ điểm bản lề này của Tin Mừng Mc nổi bật lên vật tranh dành tối hậu của sứ mệnh Chúa Giêsu: việc tạo lập dân tín hữu. Thật vậy, việc chữa lành Bartimê biểu lộ một quyền lực mới mẻ và kỳ lạ trên thực tại nhân loại đến nỗi kéo theo một sự gắn bó hoàn toàn và dứt khoát vào Chúa Giêsu, Đấng Messia. Sự gắn bó này lấp đầy mọi khoảng cách bởi vì nó đã đem tất cả các khoảng cách về con đường duy nhất tnà từ đây có tính cách giải phóng (“con đường”, con đường lên Giêrusalem); nó cũng xếp đặt mọi giây phút vào trong một “thời gian” duy nhất (được biểu thị theo văn phạm bởi thì bán khứ: “hắn kêu lên”, “họ kêu lên”) thời gian bao gồm toàn thể các biến chuyển; cuối cùng, sau khi đã cấu tạo và tổ chức con người (được tiêu biểu qua Bartimê), sự gắn bó nói trên cũng cấu tạo và tổ chức đoàn người vốn tượng trưng và tiên báo một nhân loại sẽ chiếm hữu mãi mãi những tiềm thể năng động của sự thành tựu của nó.
c. Mc 10,46-52 và dấu vết của Mátcô
Bảng sau đây cho thấy ở đây Mátcô để lộ đến mức này các phản ứng mà ông đã khá gọt dũa khi biên soạn Tin Mừng của ông:
*** Mc 10, 46 – 52 Hắn đang ngồi bên đường Hắn bắt đầu kêu to Chúa Giêsu ngừng lại Với một cái nhảy, hắn đến cùng Chúa Giêsu Con Đavít. ….. Rabbuni, xin cho tôi thấy được ….. Hãy đi đức tin ngươi đã cứu ngươi Và tức khắc hắn thấy được
*** Mc 5, 1 – 20 Hắn Có Chỗ Trong Mồ Mả Thấy Giêsu Đằng Xa Người Đang Đi Ra (Từ Xa) Hắn Chạy Lại Bái Lạy Trước Người …. hắn van xin Người cho hắn ở với Người ….. Hãy đi về nhà Và hắn ra đi…
Giữa việc chữa lành tại Giêricô và việc trừ quỷ ở Gêrasa, có một sự giống nhau rõ rệt, đáng được nghiên cứu xa hơn: các phân tích sau đây sẽ đóng góp một phần.
2. THỬ NHÌN MỘT CÁCH TỔNG QUÁT
Chủ đề “con đường” (hê hodos) với tất cả những gì liên hệ đến nó (đi, dừng lại…) rất quan trọng trong Mc 10,46-52. Đọc lần đầu tiên, tất cả các yếu tố của bản văn hình như quy chiếu về đấy cả cử chỉ lẫn ngôn từ.
Người ta ghi nhận sự đó, ngay từ những chữ đầu tiên: “họ đến” (c. 46a, erchontai). Động từ ở thì hiện tại này không chủ từ minh bạch. Vẫn biết trong một thì thứ hai, người ta gặp lại, lúc ra khỏi Giêricô, các môn đồ, một đám dân đông đảo cùng Chúa Giêsu (c.46b). Và qua câu dẫn nhập rườm rà này người ta thấy được, nơi Mátcô, cái ưu tư đích thực muốn trình bày tất cả những ai ông đã cho “đến” Giêricô mà không chỉ định họ cách rõ rệt. Nhưng, được đặt một mình ở ngay đầu trình thuật, hình thức động từ “họ đến” nhất thiết mang một ý nghĩa khác với ý nghĩa tường thuật hoàn toàn: cú pháp sâu xa của trình thuật sẽ xác định hình thức động từ đó. Lúc này, người ta có thể bảo nó đang tìm kiếm một chủ từ và một thì thích hợp, hơn nữa còn đòi hỏi một hạn từ thích đáng để chỉ còn là một dấu chỉ đường phải theo (“Khi Người ra khơi Giêricô”); nhưng theo mục tiêu nào?
Trong câu cuối cùng của trình thuật: “Và hắn theo Người trên con đường” (on tôi Ịhodôi), động từ ở thì bán khứ ám chỉ sự liên tục. Liên lục trong sự di động bởi vì là đi trên con đường”, nhưng cũng liên tục trong sự cận kề, bởi vì Người ta đi sau và đi theo một kẻ ý tưởng chủ chốt của công thức đó là sự hiện diện dứt khoát “trên con đường” hay hơn nữa “trống con đường”. Mà vị thế này lại đối nghịch với vị thế (bên khỏi của Bartimê (c.46): “Hắn đang – ngồi bên đường” (para tôn hođon). Đây là một dáng điệu cố định, tự bản chất coi như dứt khoát. Thì bán khứ của động từ cho thấy điều đó. Hơn nữa, việc đề cập đến nghiệp ăn xin (Bartimê được gọi là prosaitôs) và tật mù lòa càng làm nổi bật thêm dữ kiện vừa nói. Ở đây nghiệp ăn xin hàm súc sự cố định và tật mù lòa hàm súc sự xa cách. Phải chăng một người mù không càng xa cách các thực tại mà về phương diện thể lý càng gần gũi chúng?. Do đó “mù lòa” và “ăn xin” thuộc về cùng một sổ như “con đường”, “đến”, “ngồi” hay “đi theo”. Thành thử “bên đường” có nghĩa là “ngoài con đường” và trong trường hợp của người mù là “xa con đường”. Bị loại khỏi con đường, đó là điều đánh dấu tình trạng của Batimê ngay đầu trình thuật. Vì mù lòa, hắn vĩnh viễn xa cách con đường bình thường của mọi kẻ sáng mắt. Vì ăn xin, hắn nằm trong tình thế bị khai trừ, trong sự cố định để có thể tồn tại trong sự xa cách ấy.
“Dừng lại” (c.49). một việc gây kinh ngạc: Chúa Ki-tô dừng bước. Làm thế, Người tự tách mình khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người cắt ngang một chuyển động mà Người là động lực chính. Sự cắt ngang này phát sinh một hậu quả bất ngờ. Người ta rất ngạc nhiên thấy kẻ mù quăng áo khoác, nhảy chồm dậy và đến gần Chúa Giêsu (“Hắn đến cùng Chúa Giê-su, ôlthen pros ton lôsoun). Mọi sự xảy ra như thể Bartimê không còn mù lòa nữa! Động từ “nhảy chồm dậy” khá nói lên điều đó: nó đánh dấu một phản đề lớn đối với các dữ kiện tiên khởi của trình thuật.
Điều lạ là Bartimê được gọi là: người mù” (ho typhlos, cc 49.51) sau sự can thiệp của Chúa Ki tô. Vì chính từ giây phút đó hắn xem ra được Chúa Giêsu và đám đông quan tâm (Gọi người ấy… Hãy vững lòng! Đứng dậy…) và hắn xử sự (“với một cái nhảy…”) như một người sáng mắt. Nếu Mátcô chỉ gọi hắn là “người mù”, phải chăng ông muốn nói rằng hắn không còn là “kẻ ăn xin” nữa ? Việc ném chiếc áo áo choàng (mà những người ăn xin Đông phương thường dùng để nhận tang vật) biểu thị việc chấrn dứt sự cố định, y như, dưới một khía cạnh nào đó, tiếng gọi của Chúa Giêsu mà đám đông lặp lại theo. Điều quan trọng, đó là cách người mù đột nhiên đạt được sự di động, trong khi hắn, để sống còn, đã bị kết án nằm trong sự bất động vĩnh viễn (“Hắn đang ngồi.. Sự di động hay, hắn biểu lộ một cách rất rực rỡ nhất. Động từ “đến”, vốn mở đầu trình thuật. Họ đến đã tìm được chủ từ của nó: trước tiên bị từ khước đối với Bartimê giờ đây động từ được dành cho hắn, nhưng ở thì aoriste (“Hắn đến”, ôlthon). Đây là một động tác duy nhất, quyết định in vào thái độ này một đặc tính tuyệt đối. Nó dẫn đến Chúa Giêsu và, do đó, đưa vào “trong con đường”. “Chúa Giê-su và “con đường” đồng hóa với nhau, hay nói cách khác, “sự kế cận” và “sự di động” kết hợp nhau: con đường mở ra cho người mù.
Tất cả các yếu tố mà chúng ta đã liệt kê, được xếp đặt cách chặt chẽ trong một màng lưới gồm những đối lập và tương quan đầy ý nghĩa; các đối lập và tương quan này hoạt động bên trong một hệ thống sát sao. Thế mà, một phần lần của trình thuật được cấu tạo bởi cuộc đối thoại giữa Bartimê và Chúa Giêsu. Thành thử điều quan trọng là tìm xem chính cuộc đối thoại này có thể được tích hợp vào trong một cơ cấu như thế, để tăng cường cách diễn tả của cơ cấu đó không?
3. “TIẾNG KÊU” VÀ “CÁI NHẢY” CỦA ĐỨC TIN
Khi đi tìm các thành phần chủ yếu của cuộc đối thoại, người ta sẽ biết rõ hơn cái động lực bên trong.
Đám đông dân chúng can thiệp nhiều lần. lần đầu tiên, họ báo hiệu sự hiện diện của “Giêsu người Nadarél” (.c.). Bartimê nhận được từ này do thính giác (“sau khi nghe”), điều nhắc đến tật mù lòa của hắn và mọi cái mà tật mù lòa bao hàm, đặc biệt là sự xa cách. Tiếng “Giêsu người Nadarét” chỉ Chúa Giêsu, không liên hệ gì với bất cứ mặc khải độc đáo nào về bản thân và sứ mệnh của Người. Sự kế cận của Người, hoàn toàn nhân loại, xem như đã đạt được. Nhưng phải chăng đấy là một sự kế cận đích thực? Một điều chắc chắn là: việc trần thuật diễn tả sự xa cách.
Vả lại người mù từ khước loại kế cận này. Người ta biết hắn không thể đến với “Giêsu Nadarét” vì tật mù lòa cái nhân tố chia cách và triệt để cắt đứt hắn khỏi tất cả những gì kế cận và rất kế cận hắn. Nhưng, với một tiếng kêu (“Hắn bắt lầu kêu kêu”), điều hàm súc sự xa cách, Bartimê gọi Chúa Giêsu như “Con Đa-vít”. Làm thế, hắn gán cho Người tước hiệu Messia của Israel. Nếu hắn hiểu và công bố như vậy cái khoảng cách chia cách hắn thực sự với Người, thì bù lại, sự hiểu biết bất chợt và không thể giải thích vừa nói về Chúa Giêsu trong tận thâm sâu hữu thể Người cho thấy cái bước nhảy trọn vẹn ra khỏi sự xa cách ấy. Lời tuyên bố này xác nhận, trong một “tiếng kêu” duy nhất, cái ý thức đau khổ về một khoảng cách không thể rút ngắn (c.46: “đang ngồi”) và xác nhận sự hiểu biết trực tiếp và chính xác về đối trọng con Đavít; đây là một thái độ tổng hợp cách lạ kỳ hay kinh nghiệm tương phản nhau, kinh nghiệm về sự xa cách (thể lý) và kinh nghiệm về sự cận kề (đích thực).
Trong lời tuyên bố hay thỉnh nguyện thứ hai của kẻ mù, sự can thiệp của “nhiều người” (c.48) kéo theo ý tưởng cường độ. Ý tưởng này được nhấn mạnh qua trạng từ “càng mạnh hơn” và qua-lối dùng thì bán khứ kêu lên c.48), thì ám chỉ tính cách liên tục trong cường độ ấy. Hơn nữa, tiếng “Giêsu” đã biến mất khỏi lời van xin. Chỉ tước hiệu “cứu Đavít” còn lại. Vậy là sự xa cách đã trọn vẹn và sự hiểu biết về đối tượng đã hoàn toàn; chướng ngại là đám đông biểu thị mạnh mẽ điều đó.
Chính nơi đây, xảy ra sự cắt đứt được đánh dấu bởi việc Chúa Giêsu dừng lại (c.49): một sự cắt đứt dứt khoát là ta biết là sắp ban cho người mù ăn xin sự di động và cho anh ta đạt được sự cận kề. Việc dừng chân này hình như tạo thành cái trục nối kết cách có hệ thống hành động và cuộc đối thoại của trình thuật.
Tiếng “Rabbuni” (xuất hiện hai lần trong Tân ước, ở đây và Ga 20,16), tiếng diễn tả sự tôn kính và thân tình, xác nhận sự kề cận nói trên. Nhưng nó cũng ngụ ý một sự cố định mới (nghỉ chân để gặp gỡ đương nhiên làm phương hại sự cận kề mới được phát sinh và củng cố bởi sự di động. Chữ Rabbum nằm giữa hai lời của Chúa Giêsu: một lời mời gọi (“Hãy gọi người ấy và một lời sai đi (“Hãy đi”, thường được Mc và một dùng trong khung cảnh một sứ mệnh do Chúa Giêsu ủy thác : Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13). Mỗi một lời ăn khớp đi sự dừng lại của Chúa Giêsu và sự cắt đứt có tính cách “sáng tạo” mà việc dừng lại này tượng trưng.
Việc dừng lại, vốn cho phép Chúa Giêsu và anh mù cả hai dấu bị bắt buộc nằm trong tình trạng cố định – gặp nhau, gây nên hai mệnh lệnh song song và bổ túc nhau: một mệnh lệnh kéo theo sự di động (x. c.49): “Hãy gọi người ấy”) và sự kế cận bất ngờ (“Với một cái nhảy, hắn đến cùng Chúa Giêsu”), và một mệnh lệnh (“Hãy đi, đức tin ngươi đã cứu ngươi”) làm cho sự kế cận này được dứt khoát thủ đắc và được củng cố trong một sự di động bắt buộc (“Hãy đi”) mà nếu không có thì sự kế cận không thể trường tồn: vì thế mệnh lệnh đưa tới việc thình lình cho thấy (“lập tức hắn thấy được”, ở thì aoriste, giống như: “với một cái nhảy, hắn đến”). Cái nhìn cho phép ta được gần dù còn đứng xa, nó bảo đảm an toàn trong việc di động.
Sự kiện khôi phục lại thị giác làm nên dấu chỉ của việc ban đức tin (“Đức tin của ngươi đã cứu ngươi”), vì đức tin là cái nhìn cách khoảng, là khả năng đi đường và là sự đòi hỏi phải lên đường. Tật mù lòa bắt phải xa cách trong sự gần gũi; vì thế tự nhiên nó là dấu chỉ sự thiếu vắng đức tin (đám đông biết “Giêsu Nadarét” ở đó, nhưng họ không biết đấy là “Con Đavít”; sự mù lòa đích thực thật ra nằm nơi đám đông đang đi, chớ không phải nơi Bartimê, người mù bất động). Từ đó ta dễ hiểu rằng, trong một trình thuật mà Mc cho thấy ngay từ những chữ đầu tiên đức tin của một người mù, thì kẻ mù này được coi như không mù và cư xử như không mù hay không còn mù nữa, mặc dầu việc chữa lành anh ta chưa được thực hiện. Các điểm bất mạch lạc trong việc tường thuật này lồng trong một sự hợp lý đích thực, sự hợp lý của tác phẩm.
Thành thử người ta hiểu được rằng phép lạ của đức tin – sự gần gũi trong xa cách – được biểu thị qua việc mở mắt. Một việc mở mắt cho phép ta trở nên kế cận dù cách khoảng. Câu nói “hãy đi” bao hàm một sự cắt đứt (mà “Rabbuni” có vẻ muốn khước từ), một sự cắt đứt gây nên sự di động cần thiết cho kẻ “thấy” trong đức tin, nghĩa là kẻ đi theo Chúa Giê-su trên con đường của Người: điều giả thiết phải có “cái nhìn” của đức tin và có khoảng cách (khoảng cách chứ không còn xa cách) cần thiết cho việc thi thố đức tin đó; vì đức tin lấp đầy khoảng cách này, một khoảng cách mà đức tin, một cách nghịch lý, đòi hỏi phải có.
KẾT LUẬN
Việc phân tích các điểm đối lập và tương quan khác nhau trong Mc 10,46-52 đã dẫn chúng ta đến chỗ phân biệt trong đó việc đi từ một vị thế bị khai trừ, cố định và xa cách sang một vị thế hội nhập, di động và gần gũi. Việc Chúa Giêsu dừng chân “lên đường” đóng một vai trò trung tâm trong quá trình đó. Việc nghiên cứu cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và Bartimê lại đến tăng cường lẫn xác định công việc trên. Các ý niệm xa cách và cận kề được nổi bật đặc biệt: thật vậy chúng xem ra chế ngự mọi ý niệm khác. Trong thực tế, “sự mù lòa” và “việc nhìn thấy” – cái thứ nhất biểu trưng sự xa cách trong kế cận, cái thứ hai sự kế cận trong xa cách – là những ý tưởng nổi bật của toàn thể bản văn. Tất cả đều xem ra xoay quanh chúng.
Một tia sáng bắn ra ngay từ c.47. Người ta khám phá ra trong câu đó điểm nghịch thường hiển nhiên này: “người mù” (nghĩa là kẻ thực sự xa cách mặc dầu kề cận về phương diện thể lý) “thấy” Chúa Giêsu là ai, trong một sự hiểu biết trọn vẹn (“Con Đa-vít”) khiến cho hắn ta thực sự cận kề (qua “tiếng kêu” hay “cái nhảy” của đức tin) trong khi hắn hãy còn xa cách về phương diện thể lý (do sự ngăn cách bởi mù lòa). “Phép lạ” của đức tin vì vậy được thủ đắc, như trình thuật về việc chữa lành biểu thị một cách rõ rệt (việc chữa lành này chỉ được ám thị, chứ không được mô tả trong thực tế).
Thế mà sự kế cận (của đức tin) phải kéo dài. Sự di động là nhân tố duy nhất của sự kéo dài ấy (“Hắn theo Người trên đường”, ở thì bán khứ); vì thế sự di động đòi hỏi sự hội nhập cần thiết vào “trong con đường”. Sự kế cận đã được thủ đắc cuối một chuyển động được phát khởi do một sự cắt đứt Chúa Giêsu dừng lại”) và được thúc đẩy do một lời mời “Hãy gọi hắn”). Việc chiếm hữu dứt khoát sự kế cận này tùy thuộc vào một sự cắt đứt khác (“Hãy đi”), một sự cắt đứt đưa nó vào một động lực từ đây có tính cách trường kỳ, “trên con đường” (hay “trong con đường”) con đường cần thiết và duy nhất, dành cho kẻ “thấy”, cho kẻ có thể kề cận dù cách khoảng, cho kẻ “tin hay nói một cách khác, cho kẻ có khả năng quán triệt trực tiếp toàn thể đối tượng vượt trên mọi xa cách.
Không thể có việc gián đoạn “cái nhìn” này: hai sự cắt đứt (“Chúa Giêsu dừng lại” và “Hãy đi”) tạo nên cái nút thường xuyên của kinh nghiệm người tín htĩu. Thành thử “tin” (1) là “thấy” (2) nhưng nhất là “đi theo Chúa Giê-su (3) (“với một cái nhảy, hắn đến cùng Chúa Giê-su (1), “và tức khắc hắn thấy” (2), “và hắn đi theo Người” (3). Điều này đòi hỏi động lực của một thái độ tự ý vốn không ngừng lấp đầy một khoảng cách cần thiết cho việc tự do chiếm hữu sự kế cận duy nhất, sự kế cận của đức tin vào Giêsu, Đấng Ki-tô.
André Paul, Assemblées du Seigneur 61 , tr. 44-52.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phép lạ chữa người mù được sáng là phép lạ cuối cùng mà Maccô kể lại trước bài tường thuật tấn bi kịch được kết thúc bằng khổ hình thập giá. Một cách nào đó, thánh sử muốn đúc kết những gì xảy ra ở trước đây: Biến cố Chúa Giêsu đi qua, có những người không muốn nhìn thấy, nhưng cũng có nhiều người khác, như người mù thành Giêricô, dã muốn Chúa Kitô mở con mắt tâm hồn họ và đã ra đi bước theo con đường của Người. Họ là những người biết nhạy cảm với ánh sáng nội tâm, một thứ ánh sáng soi chiếu tất cả mọi người ở trong thế gian; họ đã không dập tắt ánh sáng đó vì tư lợi, vì mưu toan ganh tị, vì quan niệm sống, vì thành kiến; họ đã ra di theo Chúa Kitô.
2. Mặt khác, phép lạ chữa người mù được sáng và đi theo Chúa còn báo cho chúng ta biết một điều luật quan trọng của Tin Mừng: nhận ra chân lý mà thôi chưa đủ, còn phải sống chân lý đó nữa. Nhận thức đức tin không phải chỉ là một hoạt động thuần lý trí mà còn đòi hỏi một sự dấn thân toàn vẹn con người. Khi trí khôn đã hiểu rõ khía cạnh nào của đức tin, thì con tim và ý chí phải theo để đem ra thực hành trong đời sống điều mà lý trí đã thấy. Chúng ta chỉ đọc và hiểu thật đúng Tin Mừng sau khi đã xếp sách lại, chúng ta cố gắng đem ra thực hành. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mình theo ý lời kinh của Giáo Hội: "Lạy Chúa, xin biến cải chúng con thành những môn đồ của ánh sáng và thành những người kiến tạo chân lý". 3. Người mù tin tưởng, gương mẫu của môn đồ Chúa Giêsu. Con người này, sống trong một tình thế nguy kịch, là hình ảnh kẻ nghèo khó mà chúng ta phải trở nên; anh nhận ra Chúa Kitô chư vị cứu tinh của anh và đến cùng Người với tâm hồn đơn sơ trong sáng. Đau khổ luôn luôn có nguy cơ làm cho chúng ta mù lòa, nổi loạn; nên ta hiểu ngày nay Giáo Hội đề ra phép Xức dầu không như bí tích để dọn mình chết cho bằng như sự giúp đỡ cho thời gian tật bệnh. Chẳng cần phải gần gũi nhiều bệnh nhân mới biết là vào một vài lúc, cuộc sống họ thật là khó khăn: làm sao giữ niềm tin vào vị Thiên Chúa tình yêu khi người ta đau khổ? Thân phận bệnh nhân hay tật nguyền có những "cám dỗ" riêng của nó. Vẫn biết đối với một vài người, thử thách gây nên một phản ứng đạo đức và tin tưởng. Nhưng khi đau khổ quá mức, lòng tin cũng dễ bị lung lay. Tuy nhiên, cuộc sống tín hữu không nên là một chuỗi hành vi tin tưởng chớp nhoáng. Phép Thánh Thể phải rèn đúc chúng ta từ Chúa nhật này sang Chúa nhật khác một tâm hồn tin tưởng, chứ không chỉ là một con người đạo đức. Chúng ta phải khám phá từng tí rằng Chúa Kitô mỗi ngày ở trên con đường chúng ta và trên con đường anh em ta.
Anh mù này bạo gan thật! Anh quên rằng anh chỉ là một tên ăn xin, ngồi bên vệ đường, mong chờ TN 30-B187
Anh mù này bạo gan thật! Anh quên rằng anh chỉ là một tên ăn xin, ngồi bên vệ đường, mong chờ lòng thương xót của khách qua đường. Khi nghe biết ông Giêsu Nadareth đi ngang qua, anh lớn tiếng kêu cầu: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Nhiều người quát nạt anh bảo anh im đi. Trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, những người ăn xin, đui mù tàn tật đều bị liệt vào số những người bên lề, và bị khinh miệt. Anh lớn tiếng như thế có thể bị người ta la mắng và có khi bị đánh đập. Trong số những người bảo anh im đi có lẽ cũng có một vài môn đệ của Chúa, không muốn cho Thầy bị quấy rầy.
Thế nhưng, người ta càng bảo anh im thì anh lại càng la to hơn.
Mọi người lúc này chú ý đến anh và bảo: “Cứ yên tâm! Đứng dậy, Người gọi anh đấy”. Anh đứng dậy, vất áo choàng và đến với Chúa Giêsu. Đối với một số người, cử chỉ vất bỏ áo choàng mang một ý nghĩa khác, là từ bỏ dĩ vãng của anh, nhưng chúng tôi thấy ý nghĩa ấy có vẻ gượng ép. Đây chỉ là dấu hiệu của niềm vui đang rộn lên trong anh. Trong giây phút ấy, không có gì còn ý nghĩa đối với anh. Chỉ cần một tiếng gọi. Có lẽ có một vài người hướng dẫn anh đến với Chúa. Anh mù bị khinh miệt kia trở thành nhân vật chính được chú ý.
Chúa Giêsu hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúng ta nhớ lại, câu hỏi này cũng đã được nói với hai môn đệ con ông Dêbêđê “xin Thầy cho chúng con điều chúng con xin Thầy”.
Hai môn đệ kia xin điều họ ước mong, và đó chỉ là một mơ mộng hão huyền. Anh mù này thực tế hơn, anh chỉ xin một điều cần thiết mà thôi: “Xin cho tôi nhìn thấy được”.
Lời xin của anh xem ra vô lý. Tại sao anh dám xin một điều phi lý như thế? Anh xem Ngài là ai mà dám xin được sáng mắt. Làm cho một người mù sáng mắt đâu phải là việc mà một người phàm có thể làm được, dù người ấy có là một thầy thuốc giỏi đi nữa.
Anh này là một người mù, chỉ nghe nói đến ông Giêsu Nadareth và đã nghe biết những phép lạ Ngài làm đó đây, nhưng làm sao anh dám chắc rằng ông Giêsu này có thể cho anh sáng mắt? Hay đây chỉ là cầu may?
Không, đây chính là niềm tin mộc mạc nhưng rất thành thật và vững chắc. Hơn nữa, anh đã gọi Chúa Giêsu bằng tước hiệu Con Vua Đavít. Tại sao?
Đối với người Do Thái thời bấy giờ, đang sống trong sự chờ đợi Đấng Cứu Thế, và Kinh Thánh đã cho họ biết rằng, Đấng ấy sẽ là dòng tộc vua Đavít. Tước hiệu này chính là tước hiệu của Đấng Cứu Thế. (xem 2Sm 7; Tv 110…) Theo những gì anh nghe kể về ông Giêsu này, anh tin chắc rằng, Ngài là Đấng Cứu Thế mà toàn dân đang mong đợi.
Hơn nữa, anh đã từng đến Hội đường và đã nghe đọc Kinh Thánh. Anh vẫn nhớ rằng “khi thời Thiên Sai đến, người mù sẽ được sáng mắt, người điếc được nghe, người què sẽ nhảy như nai…” Vì thế anh tin chắc rằng ông Giêsu này sẽ cho anh sáng mắt vì Ông ấy chính là Đấng Kitô, và anh đã được phần thưởng của niềm tin: “Lòng tin của anh đã cứu lấy anh”.
Chúng ta đã được nghe Chúa nói như thế với người đàn bà Xyrô-Phênixi, có đứa con gái bị quỷ ám, với viên sĩ quan Rôma có người đầy tớ đau nặng, với người đàn bà bị bệnh loạn huyết, những người đã tin Chúa vô điều kiện. Tất cả tập trung vào một điểm duy nhất: Niềm tin. Tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Ngài đến cứu chữa chúng ta khỏi tật nguyền phần xác và những tật bệnh tâm hồn. Ai tin tuyệt đối vào Ngài sẽ không thất vọng.
Lời cầu xin của anh mù cũng đáng cho chúng ta chú ý. Anh đã cầu xin “hết mình”, bất chấp sự ngăn cản của những người chung quanh. Càng bị cản trở, anh càng la to hơn. Anh đã van xin với tất cả sức lực và tâm hồn. Một lời van xin như thế, làm sao Chúa có thể làm ngơ được! Một niềm tin mãnh liệt như thế làm sao không mang kết quả!
Trước mặt Chúa, chúng ta chỉ là những người ăn xin bên vệ đường của cuộc sống. Chúng ta đang chờ ánh sáng đến từ Đấng là Ánh Sáng thế gian.
Nhưng chúng ta có cảm thấy cần ánh sáng của Ngài không?
Chúng ta đã tin Chúa, chúng ta tưởng mình đã thấy rõ. Mấy người Pharisêu tự cho mình là sáng mắt, kỳ thực họ đui mù đến nỗi họ không nhìn ra Đấng họ đang trông đợi. Họ mù lòa vì kiêu căng, vì tự mãn. Họ tưởng rằng họ đã nắm được sự thật, nhưng họ chỉ nắm trong bàn tay một sự từ chối khiến họ giết Đấng Cứu Thế.
Chúa Giêsu mới đưa chúng ta đến ánh sáng và sự sống. Ngài đang đi ngang qua con đường cuộc sống, chúng ta có nhận ra bước chân của Ngài không? Chúng ta có nhận ra Ngài là Con Vua Đavít, Đấng được sai đến để cứu chúng ta khỏi ngục tù tội lỗi, đưa chúng ta đến tình yêu và hạnh phúc không? Chúng ta có thực lòng kêu van Ngài như anh mù kia không. Chúng ta có tin vào Ngài vô điều kiện không?
Lời cầu xin của anh mù được chấp nhận ngay, vô điều kiện. Anh đã tin Ngài vô điều kiện, Ngài cũng chấp nhận anh vô điều kiện. Đó mới là đức tin đích thực. Và Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy mãnh lực của đức tin: “Lòng tin của anh đã cứu lấy anh”.
Nơi khác Ngài đã cho thấy: “Nếu đức tin của anh em bằng hạt cải mà thôi, anh em có thể chuyển núi dời non. Trong những lúc đau đớn chán nản nhất, Ngài bảo chúng ta: “Đừng sợ. Hãy tin thôi”, như Ngài đã nói với ông Giairô khi nghe tin con gái ông chết.
Trên đường lữ hành đầy lao nhọc và cạm bẫy, chúng ta còn một bảo đảm duy nhất: Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Tin vào Ngài, chúng ta sẽ “không đi trong tăm tối, nhưng có ánh sáng ban sự sống”. Thế giới này có tàn lụi đi hay chìm ngập trong biển lửa hận thù, niềm tin chúng ta vẫn trong sáng.
Chúa Giêsu vẫn có mặt nơi bàn thờ. Dù Ngài mặc lấy hình thức thật nhỏ bé, Ngài vẫn là Thiên Chúa toàn năng. Ngài cho chúng ta ăn lấy Ngài, và chúng ta ăn lấy ánh sáng để trở nên ánh sáng trong một thế giới đang yêu bóng tối của mình hơn ánh sáng.
Qua mọi thử thách của cuộc sống, chúng ta hãy nhìn về nguồn sống duy nhất là Ngài để có can đảm bước tới trong ánh sáng của tình yêu. Xin cho chúng ta nhìn thấy được, thấy tình thương đang rộng mở đón tiếp chúng ta và “bước theo Ngài…”.
Tin mừng Mc 10: 46-52: Qua cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và anh mù, chúng ta cũng còn thấy được quyết tâm và niềm tin vững mạnh của anh. Anh không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương TN 30-B188
Qua trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con người. Nếu ai đã từng bị sống trong tăm tối hay quan sát người mù, sẽ thấy bị mù cực khổ như thế nào! Phải ăn xin cũng là một nỗi khổ, và hơn nữa phải tùy thuộc người khác trong nhiều lãnh vực: đi lại và những nhu cầu tối thiểu của con người. Không phải chỉ có bệnh mù về thể lý, nhưng còn có mù về thiêng liêng nữa. Mù thể lý ngăn cản người ta thấy những gì là vật chất, còn mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật. Mù làm khổ mình và khổ cả người khác nữa.
Tình trạng của anh hết sức tồi tệ: rách rưới bẩn thỉu, ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng dường như không ai quan tâm. Khi nghe biết Chúa Giêsu Nazareth đi ngang qua, anh đã kêu lên: Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Lời kêu xin này cho thấy con mắt đức tin của anh đã bắt đầu hé mở. Anh gọi Chúa Giêsu là con vua Đavít, tức là anh đã tin Ngài chính là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo, là Đấng cứu thế. Đức tin của anh vừa hé mở thì đã bị bóng tối của những người chung quanh lấn lướt.
Anh đã kêu cầu Đức Giêsu với tước hiệu “con vua Đavít”, là tước hiệu được các ngôn sứ loan báo và muôn dân mong đợi. Đây vừa là lời van xin, vừa là lời cầu nguyện với tâm tình tín thác cậy trông. Người mù thành Giêricô nài xin lòng thương xót của Chúa, vì anh chắc chắn Chúa Giêsu có quyền năng chữa lành và ban cho anh những điều anh đang mong đợi. Là một người ăn xin, hôm nay, khi gặp Chúa Giêsu, anh không cầu xin tiền bạc như mọi ngày, mà cầu xin được sáng mắt.
Những người đang hiện diện ở đó đòi người mù im lặng, nhưng anh ta lại càng la to hơn. Tại sao những người ở đó đòi anh mù im lặng? Có thể họ nghĩ tiếng kêu của anh mù vô ích, vì chẳng ích lợi gì? Chúa Giêsu làm gì có tiền mà bố thí cho anh mù! Và hơn nữa, làm sao Chúa Giêsu có thể chữa cho anh mù thấy được? Có lẽ không phải họ không thương anh mù cho bằng họ nghĩ Chúa Giêsu chẳng giúp gì được cho anh mù. Anh ta nên im đi thì tốt hơn.
Dù bị ngăn cản và phản đối, anh mù vẫn la, và càng la to hơn. Anh ta hy vọng tiếng kêu của anh ta tới tai Chúa Giêsu và được Ngài thương xót: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Anh ta là người tin vào Chúa Giêsu, chờ đợi và hy vọng nơi Đức Giêsu hơn bất cứ ai trong trường hợp này. Và tiếng kêu của anh ta đã lọt vào tai Chúa Giêsu, và Ngài đã bị “đáng động” bởi tiếng kêu này. Chúa Giêsu rung động trước nỗi khổ của con người.
Chúa Giêsu nói với anh: “Anh hãy đi. Lòng tin của anh đã cứu anh”. Như thế, lòng tin làm cho anh thấy được và bước đi, không phải chi thấy được mọi sự như những sự vật để thụ hưởng hay loại bỏ, nhưng như là quà tặng, là kỉ niệm nói lên sự hiện diện của ai đó, là ơn huệ của Thiên Chúa, là dấu chỉ nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa. Lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy được những con người ở vẻ bề ngoài và như đối tượng để thỏa mãn nhu cầu của lòng ham muốn, nhưng như là những ngôi vị tự do, như là hình ảnh của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa, là anh chị em của mình, có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng.
Và lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy sự thật trần trụi ở bình diện hành vi, nhưng còn nhìn ra sự thật về ngôi vị, sự thật về một con người bất hạnh đang đau khổ. Bởi vì, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có ơn gọi không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng là nhận ra những thực tại vô hình.
Qua cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và anh mù, chúng ta cũng còn thấy được quyết tâm và niềm tin vững mạnh của anh. Anh không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa. Khi Chúa Giêsu đứng lại và nói với người ta gọi anh mù đến. Phản ứng của anh mù ra sao? Chúng ta thấy phản ứng của anh rất rõ ràng và quyết liệt: “Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.” Và khi nghe Chúa Giêsu hỏi: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Anh mù đáp không một chút do dự và mạnh mẽ thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy.” Tức khắc, anh nhìn thấy được, cũng như nhìn thấy con đường Chúa đang đi, và cũng từ lúc đó, anh quyết định đi theo con đường Chúa đi.
Con đường Chúa Giêsu đi là con đường sự thật và chân lý: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Anh Bartimê đã bước theo con đường và giáo huấn của Ngài là bước theo sự thật và sống theo cách sống của Ngài, trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Con đường Chúa Giêsu đi là con đường lên Giêrusalem để hoàn tất thánh ý của Thiên Chúa Cha muốn. Thiên Chúa muốn Ngài yêu thương tới cùng, phục vụ cho tới cùng và đón nhận thập giá với tình yêu mến và vâng phục Chúa Cha trọn vẹn, để quy tụ và đưa mọi người về với Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn thương cảm trước nỗi khổ của con người. Ngày xưa dân Do Thái khi bị nô lệ cực khổ bên Aicập, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã thương giải phóng họ khỏi Aicập. “Những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt 11, 28): Chúa Giêsu cũng luôn thương cảm trước nỗi khổ của con người.
Thật thế, nhìn vào thực tại của cuộc đời, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời. Con đường đó là con đường Chúa Giêsu đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến sự sống vinh quang và vĩnh cửu.
Noi gương anh Bartimê, xin Chúa mở mắt để mỗi người nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa trong cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện và chờ đợi chúng ta mở cửa lòng để cho Ngài bước vào. Ngài vẫn kề bên mỗi người để giúp chúng ta giải gỡ những khó khăn và giúp chúng ta thành công. Vì thế đừng bao giờ tỏ ra vô ơn trước ân huệ của Thiên Chúa.