“Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Nhưng Chúa Giêsu phán: “Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. - Ðó là lời Chúa.
“Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi”
“Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết”. “Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi” (x. Gc 5, 1-6)
Phát biểu trong giờ chia sẻ Lời Chúa, các anh gia trưởng bàn bạc:
- “Thư Thánh Gia-cô-bê hôm nay có câu mở đầu nghe rợn cả người! Chắc mình không dám ước mơ giàu có đâu. Xin Chúa cho hằng ngày dùng đủ là mừng rồi”.
- “Anh em mình ở đây có ai giàu có gì đâu. Nhưng tôi thì nghĩ mình không nên nói vậy. Đâu phải ai giàu có cũng gặp tai họa đâu. Tai họa nhãn tiền thấy toàn người nghèo. Chị Ba Ốm làm nghề hái dừa, nuôi chồng bịnh hoạn và ba đứa con nhỏ, mới té từ trên cây dừa 13 mét, tiêu cột sống cỏ, tiêu cột sống lưng, nát bét cái xương chậu, BV Chợ Rẫy trả về rồi! Nằm một chỗ.
- “Không phải vậy. Chỉ có con mắt đức tin mới nhìn ra cái tai họa đời này là hồng phúc cho đời sau. Tôi không nghĩ rằng tai họa là sự trừng phạt của Thiên Chúa. Nhưng là sự thanh luyện đức tin chúng ta”.
- “Đúng rồi, Thánh Gia-cô-bê cảnh cáo những ông lớn không biết thương dân chỉ lo tận hưởng khoái lạc, cảnh cáo những người giàu có toa rập với quyền lực sát hại người công chính”.
“Như vậy thì đoạn thư này không dính dáng gì tới chúng ta sao?”
- “Có chứ, chính chúng ta, những gia trưởng, những người làm cha mẹ trong gia đình bao lâu chưa sống công chính, chưa làm gương sáng cho con cái về đời sống đạo đức, thì bấy lâu chúng ta cũng còn phải được cảnh cáo về một “cơn thịnh nộ trong ngày sau hết”
Dừng lại phần chia sẻ, anh trưởng nhóm mời mọi người nghe Đoạn Tin Mừng.
Đoạn Tin mừng đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề. (x. Mc 9, 37-42. 44. 46-47)
Phần thưởng dành cho người biết sống tinh thần bác ái vì Chúa.
“Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
Chúa Giêsu không nói chuyện giàu nghèo, nhưng Chúa hứa chắc cho ai vì Chúa Giêsu mà sống đời công chính. Đời sống công chính ấy là đời sống chan hòa yêu thương nhau, bắt đầu từ sự quan tâm đến nhau, thao thức trăn trở cùng nhau, và cuối cùng là chia sẻ cho nhau chính sự sống của mình để người khác được sống. Thánh Gia-cô-bê cảnh cáo những người giàu có không biết sẻ chia, nhưng lại ích kỷ để tân hưởng khoái lạc riêng cho mình. Họ sẽ bị trả lẽ trước mặt Thiên Chúa trong ngày sau hết.
Phần phạt dành cho những người làm gương xấu
Có ai nói trẻ nhỏ làm gương xấu cho người lớn đâu. Khi nói đến làm gương xấu, ắt phải hiểu ngày “người lớn làm gương xấu cho trẻ nhỏ”. Và phần phạt cho kẻ làm gương xấu nghe mới rợn người làm sao: “kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”.
Liên kết từ ý tưởng phần thưởng Chúa hứa ban, thì thiết tưởng, một gương xấu tối tệ nhất và cũng là thứ tội lỗi tồi tệ nhất mà Chúa muốn nói đến là đời sống ích kỷ, hẹp hòi, không quan tâm đến ai, đời sống vô cảm trước nỗi bất hạnh của con người. Tất cả các thứ tội trong bảy mối tội đầu đều chống lại đường lối yêu thương của Thiên Chúa, chống lại lòng quảng đại bao dung của Thiên Chúa. Kiêu ngạo vì tôn vinh mình, không khiêm nhường nổi để tôn vinh người.. Hà tiện vì chỉ lo cho mình, không rộng rãi để bận tâm tới ai. Mê dâm dục cũng chỉ vì tìm khoái lạc cho mình. Mê ăn uống vì chỉ vì quá chú trọng tới mình mà quên đi niềm vui kiêng bớt, chia sẻ. Ganh tỵ, ghen ghét, vì không muốn ai hơn mình. Làm biếng việc Thờ Phượng Đức Chúa Trời, bởi vì tưởng cuộc sống mình là muôn thuở!
Như thế, bao lâu con người còn chỉ bận tâm lo lắng cho mình mà không nghĩ đến ai, thì có thể xem như là đã gây một gương xấu kinh khủng không? Thiết nghĩ là như vậy.
Chiến đấu quyết liệt với dịp tội, để tránh gây gương xấu.
Mỗi lần tôi nghĩ đến “cái tôi” của tôi, là một lần đứng trước một dịp tội. Tôi càng làm ông lớn trong nhà, trong xã hội, trong Giáo Hội, thì “cái tôi” của tôi càng to. Cái tôi càng to, càng khó dứt bỏ. Tôi không thể đổ thừa cho tay tôi, cho chân tôi, không thể đổ thừa lỗ tai, con mắt hay một phần thân thể của tôi làm tôi sinh tội. Nhưng chắc chắn tội đã sinh ra từ sự đồng thuận của lòng tôi, vì tôi chỉ nghĩ đến tôi.
Chúa Giêsu thật có lý khi bảo: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt…..”. Vì quả thật, tay chân hay phần thân thể tôi chỉ là dịp tội, mà nếu tôi có thể làm chủ được nó, thì hẳn nó phải nghe lệnh của tôi mà làm điều công chính. Ngược lại, nếu tôi không làm chủ được nó, hẳn nó sẽ sai khiến tôi, và hẳn nhiên là sẽ sai khiến tôi làm điều bất chính.
Lạy Chúa, Chúa đã phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết".
Xin cho chúng con kết hiệp mật thiết với Chúa, nên bạn hữu chí thiết của Chúa, để tư tưởng trong lòng con là tư tưởng của Chúa, mắt nhìn của chúng con là mắt nhìn của Chúa…, thân thể của chúng con là thân thể của Chúa, cuộc sống con là họa ảnh của Tình Yêu Chúa trong hành trình Đức Tin của chúng con giữa cuộc đời. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu dạy chúng ta một điều quí giá. Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.
Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi ơn và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho các môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã. Ngài không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cớ cho người khác vấp phạm, dù đó là một trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất.
Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc làm gương mù gương xấu, Ngài bảo rằng: “ Khốn cho kẻ làm cớ cho một người bé mọn phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó ném xuống biển còn hơn…”Vậy gương mù gương xấu là gì? Là lời nói việc làm gây nên sự thiệt hại cho phần linh hồn người khác. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người khác phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho người khác phạm tội nữa.
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do những chuyện đồi bại và thô tục, rồi lấy làm thích thú và cười cách khoái trá. Nhiều người đã lịch sự và khéo léo nhắc nhở để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Ông ta vội leo lên xe nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?” Cha nói với giọng nhẹ nhàng nhưng cứng rắn: “ Ông đã để lại cho hành khách trên toa một ấn tượng hết sức xấu xa”. Người ấy xấu hổ vội bỏ đi xuống ngay. Vậy đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Thật tai hại và nguy hiểm; nên Chúa đã nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ đã phạm.
Chúa Giêsu còn khuyên chúng ta phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội. Chúa đưa ra một ví dụ để giải thich: mỗi chi thể của con người đều quí giá. Chẳng hạn như: tay, chân, mắt… Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì đáng đánh đổi lắm. Ví dụ: như bệnh ung thư chẳng hạn, nếu không giải phẫu cắt bỏ phần đó đi, thì sẽ gây nguy hiểm cho toàn thân thể, và đe doạ đến sinh mạng nữa.
Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn, mà lại chính là sự sống đời đời, thì càng cần thíêt đáng phải đánh đổi hơn nữa. Nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe doạ mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Như vậy, không có nghĩa là ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt thật, nhưng có nghĩa là ta phải dứt khoát với dịp tội. Một người bạn rất thân thiết không thể xa rời, nhưng nếu họ là cớ cho ta vấp phạm thì hãy can đảm cắt đứt tình bạn đó thì hơn, dù có phải đau đớn, tiếc nuối thế nào. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Thà chịu đau khổ theo năm tháng còn hơn phải chịu cực hình trong lửa đời đời.
Bài Tin Mừng hôm nay là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi ngừoi đều có bổn phận và một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường tâm linh ở nơi mình sống. Bởi đó, chúng ta phải tránh xa tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm cũng cần phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta đang có: tiền tài, của cải, chức vị, danh vọng, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp… đều là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc cho đời sống vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn nguyên làm cớ cho ta phạm tội, gây nguy cơ đánh mất Nước Trời, thì vì Chúa Kitô và vì Nước Trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá. Vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?
Xin Chúa cho chúng con biết lánh xa dịp tội và đừng nên duyên cớ gây gương mù gương xấu cho anh chị em chung quanh.
Khi chú giải về Tình Yêu Ki-tô giáo trong chương 13 Thư 1 Cô-rin-tô của Thánh Phao-lô, ông William Barclay, một nhà chú giải Thánh Kinh, đã viết một câu chí lý như sau:
“Khóc với kẻ khóc bao giờ cũng dễ hơn là vui với người vui. Chúng ta thích nghe câu chuyện chê bai kẻ khác hơn là câu chuyện nhằm khen ngợi người khác.”
Tại sao thế? - Tại vì sự ghen tỵ tức “không muốn cho người khác có cái mà họ đang có” ẩn sâu trong đáy lòng của mỗi con người. Nhiều người cho rằng sự ghen tỵ này khá phổ biến giữa các Ki-tô hữu! Thế thì các bài Sách Thánh của Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm B hôm nay còn nguyên giá trị thời sự (actual) tức là không chỉ là chuyện của thời xa xưa mà là chuyện của chính ngày hôm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Ds 11,25-29): “Ngươi phân bì giúm ta làm chi? Uớc gì toàn dân được nói tiên tri” Trong những ngày ấy, Chúa ngự xuống trong đám mây, và phán cùng Môsê, đồng thời lấy thần trí trong Môsê mà phân phát cho bảy mươi vị bô lão. Khi Thần Trí ngự trên các ông, các ông liền nói tiên tri, và về sau các ông không mất ơn ấy.
Vậy có hai vị ở lại trong lều trại, một người tên là El-đad, và người kia tên là Mê-đad. Thần Trí đã ngự trên hai ông: vì hai ông được ghi tên vào sổ, nhưng không đến ở trong nhà xếp. Khi hai ông nói tiên tri trong lều trại, thì có đứa trẻ chạy đến báo tin cho ông Môsê rằng: "El-đad và Mê-đad đang nói tiên tri trong lều trại". Tức thì Giosuê, con ông Nun, tuỳ tùng của ông Môsê, và là kẻ được chọn trong số đông người, liền thưa rằng: "Hỡi ông Môsê, xin hãy cấm chỉ các ông ấy đi". Ông Môsê đáp lại rằng: "Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ".
2.2 Trong bài đọc 2 (Gc 5,1-6): “Của cải các ngươi bị mục nát” Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét, và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi, và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết. Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 9,38-43.45.47-48): « Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi » Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.
"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Ds 11,25-29) là câu truyện Thần Khí Thiên Chúa đậu trên 70 kỳ mục của Ít-ra-en, kể cả trên 2 ông En-đát và Mê-đát là 2 người không tuân thủ chỉ thị của Mô-sê là đến Lều Hội Ngộ mà họ lại ở lại trong trại. Có người thấy thế liền “mách lẻo” với ông Mô-sê để mong ông Mô-sê loại trừ họ. Nhưng chẳng những ông Mô-sê không loại trừ hay khiến trách 2 ông En-đát và Mê-đát mà lại còn tuyên bố một câu làm nhiều người chưng hửng:
"Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!" Vì Đức Chúa đã ban Thần Khí của Người trên họ.”
Qua đoạn Thánh Kinh này chúng ta khám phá ra Thiên Chúa của ông Mô-sê và của dân Ít-ra-en (tức của Ki-tô giáo) là Đấng Thiên Chúa rộng lòng, rộng tay ban phát ơn huệ của Người cho những ai Người muốn. Mọi người khác chỉ có việc cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa và mừng cho những người được ơn ngôn sứ mà thôi.
3.1.2 Bài đọc 2 (Gc 5,1-6) là những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ dành cho những người giầu có mà sống xa hoa, trụy lạc và ích kỷ không biết chia sẻ của cải vật chất mà Thiên Chúa đã ban cho họ, với những người túng thiếu cần đến sự giúp đỡ của họ. Nguyên nhân cũng vì lòng ích kỷ mà ra.
Qua đoạn Thánh Kinh này chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng muốn người giầu dùng của cải vật chất một cách hữu ích không chỉ cho bản thân mình mà cho cả người khác bằng cách chia sẻ của cải ấy với những người túng thiếu.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Mc 9,38-43.45.47-48) có hai phần.
* Phần thứ nhất là thái độ bao dung, rộng lượng và quan điểm quy nạp (chứ không loại trừ) của Chúa Giê-su với lời khẳng định “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” khi ông Gio-an “mách lẻo” với Chúa Giê-su về sự kiện có những người khác không thuộc nhóm môn đệ lại rao giảng nhân danh Người.
* Phần thứ hai là thái độ nghiêm khắc và quyết liệt của Chúa Giê-su đối với những người làm gương mù gương xấu cho người khác cũng như những phần thân thể gây hại cho chính mình.
Qua Bài Tin Mừng trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng bao dung quảng đại và công minh chính trực, không loại trừ những người thiện chí, nhưng quyết liệt với những người làm hại kẻ khác.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh hôm nay là
(1o) Sống tinh thần quy nạp chứ không loại trừ, tức là mở rộng lòng tiếp nhận mọi người chứ không gạt bỏ những người không cùng phe, nhóm với mình.
(2o) Sống tỉnh thức hay cảnh giác kẻo tạo ra gương mù gương xấu gây hại cho kẻ khác cũng như gây hại cho chính bản thân mình.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA & THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là chiêm ngắm Thiên Chúa và học cùng Người để có tinh thần và cách sống theo nguyên tắc quy nạp chứ không loại trừ, vui mừng với điều tốt lành mà không ghen tỵ với bất cứ một ai.
4.2 Thực thi sứ Điệp của Lời Chúa hôm nay là
(1o) Loại bò lòng ghen tỵ ra khỏi tâm hồn mình: vui với người vui, mừng với sự thành công của người khác.
(2o) Tránh không làm gương mù gương xầu cho những người xung quanh.
(3o) Quyết liệt không để cho mình phạm tội bằng thân thể hay một phần thân thể của mình.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ CHO HỘI THÁNH
5.1 «Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người, mọi dân tộc trên thế gian này có được tấm lòng bao dung rộng mở đối với người khác và các dân tộc khác.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông (Mô-sê) mà đặt trên bảy mươi kỳ mục» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Các Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục để các vị ấy được tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả các Ki-tô hữu, nhất là cho giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta, được có Thần Khí Thiên Chúa trong lòng và trong cuộc sống, để mọi người nói lời Thiên Chúa cho tha nhân đồng loại.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người trong xã hội biết mở rộng bàn tay, mở rộng cõi lòng mà giúp đỡ những người thiếu thốn.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Đọc đoạn Phúc âm của Phụng Vụ Chúa Nhất XXVI Thường Niên Năm B (Mc 9,38-43.45.47-48) chúng ta khó mà thấy sự liền lạc giữa các phần (hay nội dung). Vì thế chúng ta có quyền giải thích là tác giả đã tập hợp những phát biều (hay giáo huấn) của Chúa Giêsu trong nhiều hoàn cảnh khác nhau vào cùng một đoạn. Vì thế chúng ta có thể suy niệm và cầu nguyện từ một hay nhiều nội dung của bài Phúc Âm.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 9,38-43.45.47-48:
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.
"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 9,30-37
3.1 Nội dung thứ nhất: Chúa Giêsu đã khuyên các tông đồ biết nhìn xa trông rộng và quảng đãi bao dung: “Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con”
3.2 Nội dung thứ hai: Chúa Giêsu đã tuyên bố những ai nhân danh Chúa mà cho các tông đồ một ngụp nước thì sẽ được Chúa thưởng công: “Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
3.3 Nội dung thứ ba: Chúa Giêsu đã cảnh cáo những kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một người bé mọn có lòng tin vào Người: “Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.“
3.4 Nội dung thứ bốn: Chúa Giêsu đã cảnh cáo các tông đồ về việc để cho tay chân mắt mũi trở thành dịp tội: "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 9,30-37:
4.1 Thực hành thứ nhất: Các Kitô hữu nên tập cho mình một tâm hồn và suy nghĩ bao dung quảng đại, nhìn xa trông rộng và quy nạp chứ không hẹp hòi ích kỷ và loại trừ. Như thế chúng ta mới sống công bằng và bác ái với mọi người.
4.2 Thực hành thứ hai: Các Kitô hữu nên tập cho mình một cách sống chia sẻ và cho đi. Nếu sợ bị thiệt thì hãy nhớ kỹ lời của Chúa Giêsu: “Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
4.3 Thực hành thứ ba: Các Kitô hữu nên tập cho mình một cái nhìn tỉnh táo để làm chủ thân xác và của cải của mình không để những thứ ấy nên dịp tội cho mình hay cho người khác. Lời cảnh cáo của Chúa rất khắt khe và rõ ràng: “thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục - thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục.”
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 9,30-37:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, Người đã dây chúng con biết sống quảng đãi bao dung, biết cho đi và chia sẻ, biết làm điều lành điều tốt cho mọi người, biết dùng thân xác, sức khỏe và sắc đẹp của chúng con cho vinh danh Cha và lợi ích cho chúng con Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho hết mọi người biết sống bao dung quảng đại với người xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị biết sống phục vụ và cống hiến vì tình yêu đối với Chúa Giêsu Kitô.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu biết sống tốt lành thánh thiện và tránh làm gương mù gương xầu cho người khác.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! háp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục - thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho các bạn trẻ nam nữ biết quý trọng thân thể, sức khỏe và sắc đẹp của mình và dùng chúng cho vinh danh Chúa và đem lại phần phúc cho mình.
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giệsu cho chúng con. Người đã dây chúng con biết sống quảng đãi bao dung, biết sống cho đi và chia sẻ, biết làm điều lành điều tốt cho mọi người, biết dùng thân xác, sức khỏe và sắc đẹp của chúng con cho vinh danh Cha và lợi ích cho chúng con.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con lòng tin và sức mạnh để chúng con thực thi những gì Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con, đã dậy chúng con hôm nay. Amen.
Sàigòn ngày 24 tháng 09 năm 2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Con người sống ở đời luôn luôn phải lựa chọn. Làm thế nào để khôn ngoan chọn lựa cho mình những điều tốt đẹp và hạnh phúc lâu dài. Bối cảnh xã hội, cùng với những nguyên nhân, chủ quan và khách quan, nhiều khi làm cho người ta lầm lạc. Có những khi tưởng là chắc chắn vững bền mà thực ra chỉ là đuổi mồi bắt bóng. Đối với người tin Chúa, cuộc sống luôn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và thế gian, giữa Thiên đàng và hoả ngục. Vì con đường hạnh phúc là con đường hẹp, còn con đường hư hỏng lại rộng rãi thênh thang, nên sự chọn lựa này nhiều khi rất cam go, khiến chúng ta phải hy sinh mất mát vật chất cũng như tình cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay như một tổng hợp nhiều bài học giáo huấn trong một đoạn văn ngắn. Tác giả Luca chắc hẳn đã thu góp sưu tập những lời giảng dạy của Chúa, rồi đặt chúng bên cạnh nhau theo một lối hành văn cô đọng có chủ ý gửi gắm những thông điệp cụ thể.
Trước hết, Chúa Giêsu dạy chúng ta về tình liên đới hài hoà để chống lại sự ghen tị chia rẽ. Đây cũng là giáo huấn mà chúng ta đã nghe trong Lời Chúa Chúa nhật trước. Tông đồ Gioan khó chịu khi thấy những người khác nhân danh Đức Giêsu mà trừ quỷ. Lập luận của ông thuần tuý trần tục, với tư tưởng phe cánh: ai không cùng nhóm với các môn đệ Thày thì không thể nhân danh Thày. Gioan cũng như một số môn đệ khác tự cho mình là được ưu tuyển, là chính danh, để coi thường những người khác và muốn phủ nhận những điều tốt lành họ đang làm. Chúa Giêsu không quan niệm như thế. Người khẳng định: Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta. Sự ganh tị cũng được nhắc tới trong Bài đọc I. Ông Giosuê, người sau này sẽ trở thành thủ lãnh kế vị ông Môisen, cũng ghen tương với những người khác và không chấp nhận cho họ nói tiên tri, trong khi chính Chúa ban cho họ khả năng ấy. Điều đó cho thấy sự nhỏ nhen của của người. Họ muốn giành quyền Thiên Chúa để phán xét theo cái nhìn thiển cận và ghen tương của mình. Chúa dạy chúng ta hãy có cái nhìn công bằng hơn. Bất cứ ai làm điều tốt, dù họ thuộc về phe phái chính trị hoặc về tôn giáo nào, đều đáng trân trọng. Thiên Chúa là nguồn gốc của Chân, Thiện, Mỹ, nên những ai làm những thiện hảo và tốt đẹp đều đang hướng về Chúa và mặc dù không ý thức điều đó, họ vẫn đang diễn tả vẻ đẹp và sự tốt lành của Ngài.
Từ khái niệm hài hoà yêu thương, Đức Giêsu nhắc đến tình liên đới của những ai muốn làm môn đệ Chúa. Hình ảnh một chén nước lã quá đơn giản, mà khi được trao tặng với tư cách là môn đệ của Chúa, sẽ mang lại những lợi ích lớn lao. Trong bài giảng về ngày phán xét chung (x. Mt 25,31-46), Chúa Giêsu còn nhắc tới giáo huấn này. Hơn nữa, Người còn đồng hoá mình với những người bé mọn, cô thế cô thân và bất hạnh đau khổ.
Chọn lựa Thiên đàng chính là chọn lựa tình liên đới và yêu thương. Hoả ngục là nơi dành cho những người ghen ghét hận thù. Lời giáo huấn của thánh Giacôbê mang âm hưởng của vị Thẩm phán trong ngày cánh chung. Tác giả nghiêm khắc khiển trách những người giàu, vì họ chỉ lo tích trữ của cải mà vô cảm với những người nghèo xung quanh. Một cách đặc biệt, thánh Giacôbê lên án những người làm giàu bất chính, thu lợi từ những hành vi gian lận của người nghèo. Họ sẽ phải nhận được hậu quả do những việc ác họ đã làm.
Sống ở đời, con người không phải là những ốc đảo riêng rẽ cô đơn, nhưng liên đới với nhau trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ. Mỗi hành vi cử chỉ không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân, mà còn liên luỵ hoặc làm dịp cho người khác vấp phạm. Đối với Chúa Giêsu, những người làm gương xấu thật đáng lên án, đến nỗi thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển. Điều đó có nghĩa những việc xấu gây nên những hậu quả vô cùng tai hại cho những người xung quanh, nhất là đối với những người đơn sơ và trẻ em.
Như đã nói ở trên, cuộc sống là sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, cái thiện và cái ác, sự thánh thiện và tội lỗi, Thiên đàng và hoả ngục. Chân, tay, mắt là ba phương tiện chính yếu để thực thi mối tương giao với người khác. Vì vậy, cần phải có con mắt trong sáng và phải có những hành vi thiện lành. Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta phải chặt chân, chặt tay hay móc mắt, nhưng Chúa muốn chúng ta dành cho Chúa một tình yêu ưu tiên, vượt lên trên mọi tình cảm và quyền lợi trần gian, nhờ đó chúng ta sẽ đạt được gia nghiệp vĩnh cửu Chúa dành cho ai trọn tình yêu mến Ngài.
Một tác giả đã viết: Người quân tử khắt khe với bản thân và rộng rãi với người khác. Ý tưởng này được nhấn mạnh trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Cách nói tạo hình ảnh gây ấn tượng như chặt chân, chặt tay, móc mắt… diễn tả sự chọn lựa cương quyết giữa hạnh phúc đời này với hạnh phúc đời sau, giữa sự thanh thỏa nội tâm với những bổng lộc trần thế. Đây cũng là cách khẳng định mạnh mẽ về sự dứt khoát từ bỏ những nguyên nhân gây nên tội ác, để trung tín với Đấng đã hy sinh mạng sống vì yêu thương chúng ta.
Tương lai của chúng ta là Thiên đàng hay hoả ngục? đó là kết quả do sự lựa chọn của chúng ta.
“Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9, 40), Đức Giêsu cho chúng ta thấy đường vào Nước Trời luôn rộng mở cho mọi người, và muốn chúng ta trở nên những hướng dẫn viên, bạn đồng hành có tâm hồn hào sảng, cởi mở, từ tâm của mọi người trên đường đến gặp Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Khuynh hướng loại bỏ là khuynh hướng sẵn có ở mỗi người, phát sinh từ ích kỷ, khi chỉ nghĩ đến mình và tìm bảo vệ mình cách an toàn nhất, xây dựng cho mình vị thế vững chắc nhất, thu gom cho mình bao nhiêu lợi lộc có thể. Khuynh hướng loại bỏ ấy sẽ nảy mầm và lớn lên tạo thành nếp sống, mà người ta gọi là “văn hoá”, để rồi đạt đến đỉnh cao được gọi là chủ nghĩa loại bỏ.
Ngay những trang đầu của Kinh Thánh, khuynh hướng loại bỏ đã được đề cập khi Cain quyết đinh loại bỏ em mình, bằng việc dụ em ra ngoài đồng và “xông đến giết Aben” (St 4,6). Cain đã loại bỏ em khỏi thế giới người sống, không muốn em cùng sống trên cõi đời, vì sự hiện diện của em đang trở thành đe dọa cho anh, khi Thiên Chúa Giavê đã nhận lễ vật của Aben, mà không nhận lễ vật của Cain (x. St 4, 3-5).
Ngày nay, khuynh hướng loại bỏ đã đạt đến đỉnh điểm khi biến thành chủ nghĩa: người ta không còn ngẫu nhiên, ngẫu hứng hay vô ý, vô tình loại bỏ những người chống lại mình, không đồng tình với mình, không cùng đảng phái, phe nhóm, vùng miền, nhưng phần đông đã không còn lấn cấn, do dự, không ngại ngùng, dè dặt, không hối tiếc, ân hận loại bỏ người chung quanh một cách thoải mái, dễ dàng, bởi loại bỏ đã trở thành chủ nghĩa, chủ trương, đường lối để đạt thành công.
Chúng ta hãy nhìn vào đường lối cai trị của những nhà độc tài, toàn trị trên thế giới, như Hitler khi ông loại bỏ không tiếc thương tất cả những con người mà theo ông không còn có lợi cho nước Đức. Họ là những người tàn tật, bệnh hoạn, thiểu năng, đồng tình luyến ái, những người Do Thái mà ông thù ghét, và những ai có ý đồ, hoặc hành vi chống lại chế độ Đức Quốc Xã của ông. Những trại tập trung khổng lồ, và lò hơi ngạt sát sinh đã là phương tiện thực hiện hữu hiệu chủ nghĩa loại bỏ kinh khủng này.
Nhưng chủ nghĩa loại bỏ đã không dừng lại ở bàn tay những nhà độc tài phi nhân. Trái lại, nó len lỏi khắp nơi và đang dữ dội tàn phá xã hội loài người. Len lỏi vào đời sống gia đình, khi người già bị bỏ rơi, không được quan tâm, vì không còn khả năng sinh lời, sản suất; thai nhi bị loại bỏ vì phiền hà, rắc rối; người nghèo, người bệnh, người mù chữ bị loại bỏ, vì là gánh nặng và lực cản đà tiến của xã hội.
Chưa hết, ngay trong sinh hoạt tôn giáo, trong cách cư xử giữa những người đồng đạo, chúng ta cũng bị chủ nghĩa loại bỏ của xã hội thực dụng ảnh hưởng trầm trọng, mà nhiều khi chúng ta không nhận ra.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã không chỉ không đồng tình với khuynh hướng và chủ nghĩa loại bỏ, nhưng còn đi xa hơn, đi rất xa, và điều Ngài nói đã làm sửng sốt các môn đệ có mặt, và đặt ra cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ:
Đức Giêsu không đồng tình với đề nghị “ngăn cản” những người nhân danh Ngài mà trừ quỷ, dù họ không đi theo Ngài của các môn đệ, khi các ông thưa với Ngài: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ qủy. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9, 38).
Các môn đệ cho mình là có lý, và nắm chắc Đức Giêsu sẽ ủng hộ quan điểm và đường lối “loại bỏ” của mình, khi đưa ra lý do được coi là chính đáng: “vì người ấy không theo chúng ta”. Theo các ông, “không theo chúng ta” nên không có quyền nhân danh tập thể của chúng ta, không theo Thầy như chúng con, nên không được phép nhân Thầy như chúng con, nhưng rất tiếc, các ông đã ngỡ ngàng vì câu trả lời bất ngờ của Ngài: “Đừng ngăn cản người ta” (Mc 9, 39).
Các môn đệ còn hết hồn, ngã ngửa khi Đức Giêsu đưa ra lý do: “Vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy” (Mc 9,39).
Lý do Ngài đưa ra rất đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người: vì không ai ngu dốt, dại khờ đến độ nói xấu, hạ nhục người mình vừa mới nhân danh để làm phép lạ, bởi nếu nói xấu người mình “lấy danh nghĩa, cậy đến tên” mà làm một việc tự mình không làm được, thì khác nào tự bôi bác, tự hạ thấp giá trị, và tư phủ nhận chính mình.
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu đặt trọng tâm vào việc “làm vinh danh Thiên Chúa”, nghĩa là đặt “Thánh Danh Thiên Chúa, Tên Thiên Chúa” trên tất cả, trước tất cả, bởi chính Danh Thánh ấy mới là mục tiêu con người phải tìm kiếm, và chỉ nhờ Danh Thánh ấy, phép lạ mới được thực hiện, nên bất cứ con người nào, ở vị thế, hoàn cảnh, giai tầng nào cũng không quan trọng, vì không là yếu tố quyết định, không là sức mạnh thánh thiêng đã làm nên những phép lạ cả thể, phi thường như trừ quủy, chữa các bệnh nan y…
Quả thực, Đức Giêsu trong Tin Mừng đã công khai chống lại chủ nghĩa loại bỏ, chủ nghĩa đang làm tàn úa mùa xuân “Nước Trời đã ở giữa chúng ta”, chủ nghĩa đang phá vỡ không ít công trình cứu độ của Thiên Chúa, chủ nghĩa đang phủ nhận chính Thiên Chúa khi loại bỏ con người, bằng cách dạy chúng ta tinh thần cởi mở đón nhận, cởi mở đồng hành, cởi mở hợp tác với mọi người thiện tâm, bởi khi tâm thiện, khi trái tim mang thiện chí, người ta sẽ tự khắc nhận ra Thiên Chúa, biết tên Ngài và “nhân danh” Ngài, như lời chúc của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh: “Bình an cho người thiện tâm dưới thế” (Lc 2,14).
Khẳng định: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9, 40), Đức Giêsu cho chúng ta thấy đường vào Nước Trời luôn rộng mở cho mọi người, và muốn chúng ta trở nên những hướng dẫn viên, những bạn đồng hành có tâm hồn hào sảng, cởi mở, từ tâm của mọi người trên đường đến gặp Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Câu truyện ngụ ngôn “Bõ đũa”, ít nhiều gì chúng ta cũng đã đọc, đã nghe. Truyện kể về người cha già có 3 người con, chúng không thương yêu nhau, và còn ganh ghét nói hành nói xấu nhau. Một hôm người cha gọi các con lại và nói, đây là bõ đũa, nếu ai bẻ gẫy được, cha sẽ thưởng cho túi tiền này. Và rồi từ người anh cả, đến anh kế, cho đến em út, tất cả đã lấy hết sức mà bẻ bõ đũa, nhưng anh em họ không thể bẻ gãy. Sau đó, người cha đã rút ra từng chiếc đũa và bẻ thì thật dễ dàng, người cha ân cần nói: nếu các con chia rẽ, không yêu thương nhau, chúng con sẽ giống như chiếc đũa riêng lẻ này, sớm bị giông lốc cuộc đời bẻ gẫy mất mà thôi. Biết sống hiệp nhất, yêu thương nhau, chúng con sẽ thành công, chúng con mới thực sự là con của cha.
Cuộc sống quanh ta không thiếu những bài học trân quý: lấy của che thân, không ai lấy thân che của ; hoặc người sống của còn, người chết của hết. Lấy quyền cha mẹ răn dạy con cháu thì đúng rồi, tuy nhiên, sẽ không thích hợp, khi bậc sinh thành dùng uy quyền để hù doạ con cháu. Trong tương quan xã hội: mạnh được yếu thua, nhất thế nhì thân, cậy quyền cậy thế, đã thực sự “làm hỏng” mơ ước của tiền nhân “hậu sinh khả uý” ! Khuynh hướng muốn được nổi danh nổi tiếng, hoặc ghen ăn tức ở với anh chị em mình, nếu bạn có tính xấu xa đó, bạn đã vô tình để công sinh thành dưỡng dục, bị xem là uổng phí. Bởi vì mỗi chúng ta từng được nhắc bảo: đắng cay cũng thể ruột già, dù cay, cay lắm, vẫn là anh em. Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.
Có yêu thầy, mới hy vọng được làm thầy. Có lầm lỡ, sai quấy, có vấp ngã, và phải vất vả khi đứng lên, bạn sớm nhận ra phận người yếu đuối, bạn sẽ khiêm tốn hơn, để hiểu tại sao cha ông ta nói: không thầy đố mày làm nên. Nếu không phải là bậc thầy, không phải vì yêu thương, làm sao Đức Giêsu đủ bình tĩnh khi nghe trò nói: “lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và con đã ngăn cấm y”. Điều Thầy Giêsu mong chờ Gioan và các học trò là họ đủ can đảm, đủ yêu thương, biết ngăn cản người anh em mình đừng làm điều xấu. Điều mà các đấng bậc sinh thành mơ ước, anh chị em hãy sống đoàn kết yêu thương nhau, cùng chung tay xây dựng gia đình, dòng tộc, quê hương đất nước vững mạnh hơn.
Quan sát các hoạt động xã hội thật ý nghĩa, cứ tưởng các đấng bậc ví von cho vui: một cây làm chẳng nên non, 3 cây chụm lại nên hòn núi cao. Trong nông nghiệp, các ngài cũng đề cao xã hội tính: xấu đều hơn tốt lỏi, hay trước tình hình phức tạp giữa các huynh đệ với nhau, bằng một thông điệp, khích lệ nhau: phúc cùng hưởng, hoạ cùng chia. Để được lớn lên, trưởng thành hơn trong hiểu biết, trong tình hiệp thông liên đới trách nhiệm: làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật. Đức Giêsu dẫn đưa các học trò đến một quy luật cơ bản: “ai không chống đối các con là ủng hộ các con”. Đừng ngăn cấm y, đừng ngăn cản người anh chị em mình đang làm điều tốt, yêu thương là thế, làm môn đệ Thầy Giêsu là thế, hãy liên đới tình hiệp thông yêu thương. Kinh nghiệm về tình đoàn kết gắn bó tin yêu, người đời vẫn có câu: ăn cơm có canh, tu hành có bạn.
Quy định nơi cuộc sống, ai cũng có trách nhiệm, bổn phận với gia đình, ai cũng cần nghe, để biết, để hiểu, và thực hành, khởi đi từ sự công bằng: nhận và cho, được ơn ban phải chia sẻ ơn ban. Cũng có những phần tử đang biểu lộ quyền uy: lấy thịt đè người, rung cây nhát khỉ, hù ma Đức giáo hoàng, chẳng qua tiền nhân ta muốn nói đến những kẻ làm điều đó chỉ vô công tốn sức mà thôi. Trên phương diện thực hành đức ái, Đức Giêsu đã chỉ cho thấy tính chất yêu thương, được đặt trong hành động, vô cùng quan trọng. “Ai nhân danh Thầy mà cho các con dù chỉ một ly nước lã, vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Vị chi muốn ứng xử đúng, đẹp, không thể bỏ việc tập luyện ý chí, quyết tâm, muốn có gương sáng đức tin trong thực hành, không thể chỉ cậy dựa vào khả năng riêng lẻ, mà ai cũng phải cậy dựa vào tình yêu Đức Giêsu.
Sống ở đời: sắc vàng, sắc đỏ, rực rỡ có, thuỳ mị có, tất nhiên sắc đen, sắc xám, cũng tồn tại theo. Đừng ích kỷ, hãy khiêm tốn học hỏi, rút kinh nghiệm, để cùng minh chứng với hậu thế: tại sao ta cần phải khôn ngoan, chuẩn mực. Đức Giêsu đã chẳng nghiêm túc, khi nói: “nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”. Chớ trêu ở đời: vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Bao lâu chưa thấm đủ tình yêu thương, người ta dễ để lòng ngờ vực anh chị em mình. Bao lâu ta chưa đặt để tình yêu thương của Đức Giêsu vào tâm hồn, ta dễ có đầu óc bè phái, hoặc nhìn người anh chị em mình bằng ánh mắt hình viên đạn, thật đáng tiếc ! Chúng ta cũng từng nghe: không có phụ nữ nào xấu, chỉ có phụ nữ không biết làm đẹp. Kitô giáo thì quả quyết: không có cá nhân nào hư hỏng đến độ không thể được cứu độ, có chăng là họ chưa có động lực để làm việc tốt, để sống có ý nghĩa. Xin tình yêu của Thầy Giêsu trợ giúp, và hãy ở mãi nơi tâm hồn chúng con. Amen.
Cuộc sống dù trong tập thể nào vẫn luôn có những gương xấu. Gương xấu gây ra một bầu khí ô nhiễm tinh thần. Một trong những khuynh hướng xấu rất thông thường nơi con người là óc bè phái và muốn độc quyền. Sợ người khác hơn mình, làm mất ảnh hưởng và uy tín của nhóm mình, nên có lần các môn đệ cũng đã dùng quyền để hạn chế hoạt động của người khác. Đức Giêsu không chấp nhận điều đó. Ngài đã đưa ra một cái nhìn lạc quan và tích cực để xóa bỏ sự phân biệt, kỳ thị, phe nhóm. “Ðừng ngăn cản người ta… ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Với con tim rộng mở, với cái nhìn siêu thoát, Đức Giêsu chủ trương tiếp nhận tất cả, hòa hợp tất cả, gần gũi tất cả, yêu thương tất cả. Nếu có loại trừ thì loại trừ sự kỳ thị, phân chia, ngăn cách, tranh giành và và chống chọi với nhau.
Có khi chính chúng ta cũng rơi vào não trạng bè phái và muốn chiếm hữu độc quyền trong việc hành thiện. Ngay trong Kitô giáo cũng chia thành nhiều giáo phái. Điều trớ trêu là các giáo phái nói xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn nhau, có khi khủng bố lẫn nhau. Đây quả là một gương xấu quá lớn, một điều mỉa mai cho Đức Giêsu và cho tất cả những ai tin vào Ngài, đồng thời là một phản chứng nặng nề đối với những người ngoài Kitô giáo. Ngay trong Hội Thánh cũng không thiếu những gương xấu, khiến cho nhiều người thất vọng đi tìm con đường khác, đời sống đức tin gặp khủng hoảng. Ðức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với kẻ nào gây ra gương xấu: “… thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn”.
Gương xấu làm cớ cho người khác sa ngã, và có khi là nguyên do gây ra một phản ứng quá đà mang tính xã hội, trong đó có trách nhiệm của chúng ta. Trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Công Đồng cũng đã thú nhận các tín hữu chúng ta có thể chịu trách nhiệm một phần không nhỏ trong việc khai sinh vô thần. Có thể bản thân ta cũng đã từng gây dịp tội khiến cho người khác phải sa ngã. Thân xác ta cũng có thể là dịp tội cho chính mình. Ðức Giêsu đòi chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu những bộ phận đó làm ta phạm tội. Không thể hiểu những điều đó theo nghĩa đen, nhưng cũng không thể coi nhẹ tính chất quyết liệt của những đòi hỏi mà Chúa Giêsu đã nêu lên.
Chúng ta đã biết có nhiều người vì bệnh tiểu đường dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. Loại bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn. Cuộc sống là điều quí giá trên mọi điều quí giá, đáng cho chúng ta loại bỏ một phần thân thể đã bị hoại tử. Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì càng cần hơn nữa một cuộc cắt bỏ những điều hư hại để cứu lấy linh hồn mình.
Chúng ta có thể cắt bỏ một tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh thị, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính… Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn “móc con mắt, chặt cánh tay”. Đau vì nó quá thân thiết với cuộc đời ta; đau vì nó quá gắn liền với bản thân ta; đau vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người mình. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong phẩm cách làm người, đạt tới sự tự do và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Thiên Chúa.
Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng: thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương; thay bộ óc với tầm nhìn hẹp hòi, cạn cợt, bằng bộ óc rộng mở, thoáng đạt và hồn nhiên; thay cái nhìn đầy thành kiến về người khác bằng cái nhìn hiểu biết và cảm thông, để khám phá ra những điều lành thánh nơi họ. Cuộc sống mới sẽ triển nở khi ta đoạn tuyệt với lối sống cũ, không còn phải sống chung với lũ hay ru ngủ đời mình cách ngây ngô.
Chúa Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn, vì nếu ta muốn vươn tới Tuyệt Ðối thì cần hy sinh cái tương đối; muốn đạt tới Thiên Chúa thì phải loại trừ những thần tượng, và những gì gây cản trở cho đời mình.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Vẫn có những gương xấu trong Hội Thánh, không tránh được bè phái và phân tranh, những chia rẽ và lạm dụng quyền hành, đưa tới ganh ghét và tranh giành địa vị.
Gương xấu làm cho nhiều người thất vọng, có khi gây khủng hoảng mất lòng tin, nên có nhiều kẻ đi theo con đường khác, để tìm cho đời mình sự bình an.
Xem ra gương xấu vẫn lan tràn, làm bao người tốt phải hoang mang, nhưng rồi chẳng ai là vô tội, nên bản thân con cần sám hối.
Như cành lá sâu xia cần cắt bỏ, Chúa đòi con làm sáng tỏ đời mình, dám loại ra những gì gây hư hại, để đem lại một sức sống tươi hồng.
Xin cho con thấy mình được khích lệ, bởi biết bao gương sáng không thể kể, dù bóng tối vẫn còn trong Giáo Hội, những vết nhăn vẫn hằn trên khuôn mặt, nhưng Giáo Hội không cần phải che chắn, không sợ phải hạ thấp bản thân mình, để dưới ánh sáng rực rỡ của Tin Mừng, Giáo hội lại được kiên vững và tinh luyện.
Xin cho chúng con luôn xác tín, mình thuộc về đoàn dân thánh thiện, dựng xây một Giáo Hội hoàn thiện, làm chứng về chúa Đấng toàn thiện, cho con người sự sống mới linh thiêng. Amen.
Hôm nay, ông Gioan thưa với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9, 38) nhưng Thầy Giêsu khuyên các ông đừng ngăn cản họ và hãy đón nhận sự ủng hộ của họ, dù họ không thuộc nhóm. Điều Thầy Giêsu muốn nhắn nhủ các ông là đừng làm cớ cho người khác và cho mình sa ngã.
Quả thật, tội lỗi là nguyên cớ làm cho con người rời xa Thiên Chúa và phải đau khổ. Người ta phạm tội do lỗi của mình và một phần cũng do bởi gương xấu. Tình yêu đích thực mà mỗi người cần dành cho nhau đó là cùng nhau nên thánh mỗi ngày. Khi nhận thấy điều gì đó tốt đẹp của người khác, ta hãy vui mừng vì hồng ân họ nhận được. Khi thấy người ngoài nhóm cũng lấy danh Thầy mà trừ quỷ thì các tông đồ đã cố ngăn cản. Thầy Giêsu biết rõ lòng các môn đệ. Khi các ông cãi nhau dọc đường, xem ai mới là người lớn hơn cả, thì về nhà, Thầy Giêsu đã gọi các ông lại mà dạy dỗ. Thầy dạy rằng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 34 – 37). Thầy không muốn giữa các ông có điều bất hòa nhưng phải yêu thương nhau. Các môn đệ lặng nghe lời Thầy dạy. Ngay sau đó, ông Gioan đã đem việc các ông đã cố ngăn cản người ta lấy danh Thầy mà trừ quỷ thì Thầy cũng khuyên các ông hãy giữ hòa khí với họ. “Vì ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Làm sao để chia sẻ vinh dự với người khác đang khi các ông còn dành nhau chỗ lớn nhất? Sứ mạng của Chúa Giêsu là thi hành thánh ý Chúa Cha, là cứu độ nhân loại. Sự thánh thiện của Thiên Chúa không bị giới hạn trong một nhóm người, trong một tổ chức nhưng dành cho tất cả mọi người. Ai cũng được mời gọi rộng mở tâm hồn để đón nhận làn gió của Thánh Thần, để sống thánh thiện. Trong tông huấn “Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ” (Gaudete Et Exsultate) về lời mời gọi nên thánh trong thế giới hôm nay, Đức thánh cha Phanxicô cũng khẳng định rằng sự thánh thiện là ơn gọi nền tảng của mỗi người.
Để sống thánh thiện, mỗi người cần biết phân định và chọn lựa đâu là điều Chúa muốn tôi làm. Chúa muốn tôi hãy yêu thương người bé nhỏ, yêu thương mọi người bằng những cử chỉ yêu thương, ví như một chén nước lã tôi dành cho họ. Mỗi việc tôi làm đều xuất phát từ lòng yêu Chúa, vì ý thức rằng mọi người đều thuộc về Chúa Kitô, rằng tận sâu bên trong những con người yếu đuối và bất toàn ấy vẫn mang một hạt giống của sự thánh thiện, rằng ẩn sau những khuôn mặt hốc hác hay ghê sợ kia, Chúa Kitô vẫn đang hiện diện. Chúa Kitô vẫn đang chịu đau khổ nơi những anh chị em này. “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9, 42). Không ai có thể tự mình sống thánh thiện và cũng không ai nên thánh một mình. Nỗ lực nên thánh và giúp người khác nên thánh luôn đòi hỏi mỗi người phải biết sống theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, dựa vào ơn Chúa để vượt qua những cám dỗ, sống dưới sự soi sáng của Chúa để đón nhận con người yếu đuối của mình, can đảm sống thật với con người mình, can đảm và khiêm tốn nhìn nhận mình yếu đuối. Thầy Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải biết dứt khoát với tội lỗi, xa tránh dịp tội.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã ban cho con ơn được sống trong ân huệ của Chúa. Chúa muốn con sống thánh thiện. Mỗi ngày Chúa vẫn nói với con, chỉ dạy cho con, nhất là những lúc con vấp ngã, Chúa đã nâng con dậy, chỉ dạy con biết lỗi lầm của mình. Xin Chúa tiếp tục đồng hành và giúp con biết can đảm nhận lỗi và sửa lỗi, đó là con đường dẫn con quay về với Chúa, cùng yêu thương anh chị em con. Amen.
Tin Mừng hôm nay chỉ lối cho chúng ta về cách thức để vào được Nước Thiên Chúa. Khi môn đệ Gioan thấy có người lấy danh của Thầy của mình mà trừ quỷ, ông đã cố ngăn cản vì người ấy không thuộc về nhóm của ông. Ông đã kể chuyện đó với Thầy Giêsu nhưng Người mời gọi ông đừng ngăn cản họ làm điều đó. Đoạn, Người khẳng định rằng: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô thì Thầy bảo thật anh em, Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9, 41). Tiếp đến, Người mời gọi những kẻ thuộc về Người phải có thái độ dứt khoát với những gì gây cản trở họ trên đường tiến về Nước Thiên Chúa.
Thiên Chúa có quyền định đoạt và ban phát các ân huệ của Người theo cách Người muốn. Thời Cựu Ước, Đức Chúa không chỉ ban Thần Khí cho một mình ông Môsê mà còn ban Thần Khí cho cả các kỳ mục. Khi thấy các kỳ mục phát ngôn trong trại, một thanh niên chạy đi báo cho ông Môsê biết. Giôsuê, kẻ đã theo hầu Môsê từ hồi còn nhỏ liền thưa: Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ” (Ds, 11, 28). Nhưng ông Môsê trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ! (Ds 11,29). Thời Tân Ước, Thiên Chúa qua Đức Giêsu cũng đã làm điều đó. Ngoài nhóm Mười Hai, Đức Giêsu còn cho phép những kẻ tin ở Ngài có thể nhân danh Ngài mà làm điều tốt đẹp như trừ quỷ. Đối với Thầy Giêsu, “ai không chống lại chúng ta là ửng hộ chúng ta” (Mc 9,40).
“Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô thì Thầy bảo thật anh em, Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9, 41). Khi chúng ta làm bất cứ điều gì tốt đẹp cho ai vì lẽ họ thuộc về Đấng Kitô thì phần thưởng của chúng ta đã được ban. Thực ra trước đó, các môn đệ đã cãi nhau về chuyện ai sẽ là người lớn nhất. Vì chuyện đó, nhóm Mười Hai mất hòa khí với nhau. Bởi vậy, chúng ta thật dễ hiểu vì sao Gioan lại ngăn cản khi thấy người ta dùng danh Thầy mà trừ quỷ. Đức Giêsu mời gọi các ông giữ hòa khí với cả những người “không thuộc về chúng ta”. Nếu nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nơi tha nhân, có thể chúng ta sẽ sẵn sàng thực thi những điều tốt đẹp cho người khác mà không cần đắn đo suy nghĩ. Cũng bởi, tất cả nhân loại đều là con cùng một Cha trên Trời. Họ cũng mang hình ảnh của Thiên Chúa.
Để vào được Nước Trời, Đức Giêsu còn mời gọi chúng ta có một thái độ dứt khoát với những gì gây cản trở ta trên con đường tiến về Quê Trời. Có thể nói, đó là một trận chiến khốc liệt ngay trong chính mỗi người. Cuộc chiến khốc liệt, đau đớn và để lại những khiếm khuyết. “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục” (Mc 9, 45). Cũng như tay hay mắt của ta làm cớ cho ta sa ngã thì cũng vậy. Hạnh phúc thiên đàng quan trọng đến độ ta phải chấp nhận “chặt”, “móc” đi những gì cản trở ta và chấp nhận khiếm khuyết để được vào Nước Trời. Nhưng thử hỏi, ai trong chúng ta có đủ nhuệ khí, đủ dũng cảm để tự chặt tay chân hay móc mắt của mình? Điều đó thật đau đớn nhưng chúng ta luôn luôn phải dứt khoát với tội lỗi. Lời Chúa cho chúng ta thấy: Nước Thiên Chúa là tất cả. Đời sống này là hành trình để ta tiến về Nước Thiên Chúa, quê hương đích thực của mỗi chúng ta. Đang khi sống đời này, chúng ta không thể tránh khỏi những cản trở đó. Những cản trở đó có khi xuất phát từ chính chúng ta. Thêm nữa, chúng ta cũng đừng bao giờ trở nên cớ vấp phạm cho người khác.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa về tình thương Chúa dành cho chúng con. Nước Thiên Chúa là phần thưởng cho mỗi người chúng con, là quê hương đích thực của mỗi người chúng con. Để tiến về quê hương ấy, chúng con rất cần đến ơn Chúa. Xin giúp chúng con hiểu rằng, mỗi người trên thế giới này đều là con cái của Chúa. Chúa có quyền ban ơn cho những ai Ngài muốn. Xin giúp chúng con biết bước ra khỏi hàng rào của “phe nhóm” để bước ra vùng ngoại biên, đối thoại với mọi người. Chúa đang ở vùng ngoại biên và Người chờ chúng con nơi hình ảnh của những anh chị em đang đau khổ. Chúa sẽ giúp chúng con biết sống hoà thuận, yêu thương và trở nên gương sáng cho nhau. Nhất là, xin cho chúng con biết can đảm chấp nhận mất mát, chấp nhận đau đớn để chiếm được Nước Thiên Chúa. Amen.
Công đồng Vatican II đã mở ra cho Giáo hội một cái nhìn mới về mối tương quan giữa người Công giáo với những anh chị em Tin Lành và cả những người thuộc các tôn giáo khác nữa.Những văn kiện của Công đồng, đặc biệt là sắc lệnh Đại kết (Unitatis redintegratio) và tuyên ngôn Tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra aetate), đã giúp chúng ta nhìn anh chị em ngoài Giáo Hội với thái độ cởi mở, thân thiện và đoàn kết hơn. Công đồng đã đưa chúng ta trở về nguồn cội của bình an và hòa thuận là Thần Khí của Thiên Chúa và tinh thần của Chúa Giêsu, như được diễn tả trong bài đọc Cựu Ước và bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay.
Bài đọc 1 kể chuyện, thời ông Môsê dẫn dân Ítraen ra khỏi Aicập. Thiên Chúa đã lấy một phần Thần Khí Người ban cho ông Môsê để chia sẻ cho các kỳ mục. Có hai kỳ mục tên là Enđát và Mêđát không có mặt tại Lều hội ngộ lúc Thần Khí xuống trên bảy mươi kỳ mục kia, nhưng Thần Khí vẫn ngự xuống trên hai ông đang khi họ ở trong trại. Được đầy Thần Khí, hai ông bắt đầu nói tiên tri trong trại. Người ta báo cáo việc này cho ông Môsê và ông Giôsuê còn lên tiếng xin ông Môsê hãy ngăn cản hai kỳ mục kia. Ông khuyên họ hãy nhận biết đó là việc Thiên Chúa làm và việc hai kỳ mục thi hành tác vụ ngôn sứ là điều đẹp lòng Thiên Chúa. Bản thân ông Môsê không coi việc Thiên Chúa “lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục” là một sự thiệt hại cho ông. Trái lại, ông còn vui mừng ước mong Thần Khí không những xuống trên ông và các kỳ mục, mà còn xuống “trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ nữa”. Đối với ông, hai kỳ mục kia đã làm công việc của Thiên Chúa,vì thế ông không được “ngăn cản” họ chỉ vì họ không cùng có mặt với ông và bảy mươi kỳ mục khác. Đúng như Chúa Giêsu sẽ nói sau này: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Bài Tin Mừng thuật chuyện, khi thấy một số người mặc dù không thuộc nhóm các môn đệ của Chúa Giêsu mà lại ra tay trừ quỷ, ông Gioan tìm mọi cách để cản ngăn. Ông hãnh diện về việc này và kể công với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cấm, vì người ấy không theo chúng ta”. Ông Gioan đã cùng với các bạn cố “ngăn cản” người nhân danh Chúa mà trừ quỷ, vì người ấy “không theo chúng ta”. Ông Gioan và các bạn tông đồ không muốn nhìn nhận tác vụ trừ quỷ của người kia chỉ vì người ấy không cùng phe với họ. Các ông quên mất rằng việc trừ quỷ là do Thiên Chúa đã ban đặc ân cho người trừ quỷ. Chúa Giêsu đưa ra một Nguyên tắc cởi mở: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô. Lm Giuse Nguyễn Công Đoan). “Chúng ta” là chính Ngài và những người đi theo Ngài, vốn sẽ làm nên Giáo Hội. Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ các môn sinh: bất cứ ai làm công việc của Thiên Chúa thì đương nhiên là “theo chúng ta” rồi! Làm công việc của Thiên Chúa không lệ thuộc vào phe nhóm hoặc nhờ cái nhãn hiệu. Trừ quỷ là nhờ “dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ” (Mt 12,28), chứ đâu phải dựa vào phe nhóm. Tinh thần phe nhóm là khí giới ma quỷ sử dụng thường xuyên nhất để tạo nên ganh ghét hận thù.
Chứng kiến điều kỳ diệu, đó là Danh Thầy Giêsu được tuyên xưng vượt khỏi giới hạn nhóm của mình, và Danh Thầy Giêsu có sức mạnh trừ quỉ, nhưng thay vì tạ ơn Chúa, ca tụng Thầy và chúc mừng người ta, thì môn đệ Gioan và các môn đệ khác lại “cố ngăn cản”, vì “người ấy không theo chúng ta”. “Không theo chúng ta”, nhưng họ đang làm việc trừ quỷ, tức là họ đang làm được những việc tốt lành, việc thiện. Mà mọi điều tốt lành phải từ Thiên Chúa mà đến. “Họ không theo chúng ta”, nhưng họ đều được Thiên Chúa tạo dựng và có quyền gọi Thiên Chúa là cha như “ chúng ta”. Chúa cũng muốn các tông đồ bao dung tha thứ. “Họ đã lấy danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ”, cho dù chưa được sự cho phép của Chúa Giêsu, nhưng chứng tỏ Danh Chúa đã được họ tôn trọng yêu mến. Điều đó chứng tỏ họ cũng được Thiên Chúa trao cho bổn phận loan báo hồng ân cứu độ nơi Chúa Giêsu một cách nào đó.Do vậy “chúng ta” không được phép ngăn cản, ghen tị hay tự đắc độc quyền với việc loan báo hồng ân ấy.
Ngày nay người ta lên án mọi hình thức độc quyền: độc quyền về điện nước, xăng dầu, sách giáo khoa… Những thứ độc quyền này đã và đang làm suy yếu nền kinh tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực khác nữa. Trong đời sống tôn giáo, cũng có một thứ độc quyền mà Chúa Giêsu mạnh mẽ đả phá, đó là độc quyền về ơn sủng, độc quyền làm điều thiện.Đàng sau sự độc quyền là lòng kiêu căng, tham danh, hám lợi. Chỉ có ta hay phe nhóm chúng ta mới là duy nhất đúng, vì thế chỉ có ta hay phe ta mới có quyền giáo dục, mới có quyền lãnh đạo… và rồi chỉ có ta, phe ta mới được hưởng lợi lộc và được tôn vinh. Hậu quả của thái độ độc tôn, độc quyền thật đáng sợ mà lịch sử cho thấy qua những cuộc chiến tranh, đàn áp bất công, loại trừ tha nhân cách này cách khác…
“Nguyên Tắc Cởi Mở”của Chúa Giêsu là việc tốt, việc thiện, việc lành do bất cứ ai làm nhân danh Ngài đều có giá trị.Hơn thế nữa, một việc tốt, việc lành, nhất là việc phục vụ anh chị em đồng loại, dù nhỏ bé tầm thường đến mấy vẫn không mất công phúc: “Thầy bảo thật anh em, ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9,41). Ta có thể cho nhiều hay cho ít, điều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là ta đã cho “như thế nào”, bao nhiêu tình yêu mến được đặt vào nghĩa cử mà ta làm cho người khác. Ðôi khi chỉ cần cho một chén nước lã mà lại được ghi công. “Cho một chén nước lã” là một cử chỉ tầm thường, nhỏ bé, song lại lớn lao trước mắt Thiên Chúa khi được thực hiện nhân danh Người, khi thực hiện với tình thương. Giá trị của nó còn nằm ở chỗ : “Làm cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa” (Mt 25,40).
Những người sống “Nguyên Tắc Cởi Mở” thì sẵn sàng đón nhận những khác biệt, nhất là những khác biệt có thể mang lại ích lợi chung. Điều này càng đúng cho thời đại hôm nay, vì thế giới ngày càng đa cực, đa diện hơn trong cách ứng xử, tiếp cận chân lý. Đừng sợ sự khác biệt, hãy bao dung đón nhận những người không thuộc phe nhóm với mình, nhưng cùng hoạt động cho thiện ích chung của xã hội, Giáo hội. Chúng ta hãy tỉnh táo phân định xem mục tiêu của công việc, những phương thế để đạt mục tiêu, ngõ hầu cùng hợp tác làm việc chung. Không nên vội vàng hấp tấp loại trừ họ chỉ vì họ không phải “phe ta”! Dấu chỉ để nhận ra bàn tay của Thánh Thần thúc đẩy là sự hiệp nhất, yêu thương và xây dựng. Phá đổ, nói xấu, dèm pha, ngăn cản điều tốt là do ma quỷ. Việc của ma quỷ đôi khi đội lốt đạo đức, đó là khi người ta lấy Danh Chúa mà cản trở việc tốt của anh em.
Người Công giáo chúng ta đang sống trong một xã hội đa tôn giáo, nên cần phải loại bỏ tinh thần độc tôn, không nên nghĩ rằng chỉ có người trong đạo mình mới làm được những việc tốt đẹp, rồi đánh giá thấp những công việc tích cực của anh chị em thuộc các tôn giáo bạn. Thật ra, Chúa không chỉ muốn những người Công giáo làm việc tốt, mà Chúa còn muốn cho tất cả mọi người đều làm việc tốt, để nhân loại được hưởng nhờ, vì thực thi việc tốt là bổn phận không của riêng ai. Hãy loại bỏ tinh thần độc tôn, đừng cho rằng Đoàn Thể của mình là quan trọng nhất, đừng nghĩ rằng chỉ có Nhóm của mình là có đặc ân tối ưu, rồi xem thường những người không “cùng hội cùng thuyền” với mình. Bởi lẽ, trong việc nên thánh, không ai có thể nên thánh một mình, cũng không ai được độc quyền khi nên hoàn thiện.
Tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, sứ mạng của Giáo Hội là làm cho Nước Thiên Chúa được loan báo đến cho mọi người. Trong một thế giới đa nguyên về ý thức hệ, văn hóa và tôn giáo, sống tinh thần bao dung của Chúa Kitô thật quan trọng. Thay vì loại trừ người khác chỉ vì họ không thuộc về nhóm của mình, chúng ta được mời gọi để nhận ra trong thế giới đầy dẫy khác biệt này vẫn có đông đảo những người đứng về phía sự thật, họ là những người ủng hộ Chúa Kitô bởi vì họ không chống lại Ngài.
Khi thường nhìn người khác một cách nghi kỵ và khắt khe: “Họ không ủng hộ tôi tức là họ chống đối tôi”, nếp sống của con người trở nên bi quan và khép kín. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta một cái nhìn rất bao dung và rất lạc quan với “Nguyên Tắc Cởi Mở”: Ai không chống đối các con là ủng hộ các con. Chắc chắn với cái nhìn này đời chúng ta sẽ vui tươi hơn và sẽ làm việc thoải mái hơn.
Ông Môisê mệt mỏi vì phải giải quyết qúa nhiều vấn nạn của dân chúng đang phải đối diện trong cuộc sống. Ông đã chọn 70 vị bô lão trong dân để cùng chia sẻ trách nhiệm này. Các vị bô lão được lãnh nhận Thần Trí của Chúa đã nói tiên tri. Xảy ra là có hai vị bô lão tên là Elđađ và Mêđađ vẫn ở trong lều trại của mình cũng nhận được Thần Trí. Có đứa trẻ báo tin cho ông Môisê rằng hai ông này cũng đang nói tiên tri, vì quyền lợi nên ông Giôsuê đã lên tiếng nói rằng: Ông Giôsuê con ông Nun, từng theo hầu ông Môisê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Môisê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ! (Ds 11, 28). Ông Môisê bình tĩnh và không bị phiền hà. Ông nhận biết được các ơn đặc sủng tùy theo ý Chúa ban cho từng người. Gió muốn thổi đâu thì thổi, Thần Khí của Chúa cư ngụ nơi những tâm hồn chân thiện.
Khi ra rao giảng tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu phải đối diện với mọi tầng lớp trong xã hội. Chúa đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo trong xã hội dân sự và các phẩm trật trong tôn giáo truyền thống. Chúa đi vào đời sống cộng đồng đang bị ràng buộc bởi nhiều luật lệ, phong tục tập quán, truyền thống, tục lệ của cha ông và thói quen vốn có. Những điều này đã kết dệt nên những quan niệm và cách sống thường ngày của người dân. Chúa Giêsu rao giảng tin vui của đạo mới đã đụng chạm đến các thói tục cố hữu này. Có nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo bị đụng chạm quyền lợi và bị thách thức thay đổi não trạng, nên đã gây những làn sóng chống đối, tẩy chay và thù oán. Chúa Giêsu giầu lòng nhân ái đã mở rộng cửa đón nhận nhiều người bằng những lời rất chân tình: Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta (Mc 9, 40). Chúa biết có nhiều tâm hồn rất đơn sơ và chân thành. Họ không lên tiếng nhưng vẫn âm thầm bước theo Chúa như ông Nicôđêmô.
Chúa Giêsu đưa ra một loạt những ngăn ngừa dịp tội qua quan năng bên ngoài. Giác quan là những cửa ngõ tiếp xúc với môi trường và tha nhân. Chúng ta phải phòng hộ sáu giác quan của mình là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Mỗi một giác quan như người lính gác canh giữ thành quách. Chỉ cần một anh lính canh ngủ gục, giặc có thể xâm nhập vào thành. Cũng thế, dù chỉ một giác quan lơ là, thì sự xấu và tội lỗi cũng có thể xâm nhập vào tâm. Không phải chúng ta cứ nhắm mắt, bịt tai, ngậm miệng là có thể tránh được các cơn cám dỗ. Chúng ta phải ý thức tự căn và tu tâm khởi giác. Cám dỗ đến từ tâm lòng qua cửa ngõ là giác quan bên ngoài khởi động.
Chúa Giêsu đã dùng từ ngữ mạnh như chặt chân, chặt tay và móc mắt, ám chỉ sự từ bỏ và hy sinh một cách dứt khoát những dịp tội. Ai cũng có những kinh nghiệm bản thân về sự chiến đấu với các cơn cám dỗ. Đôi khi chúng ta chủ quan nghĩ mình có đủ bản lãnh để dễ dàng vượt qua các cơn cám dỗ. Con người chúng ta yếu đuối, mỏng dòn và dễ chiều sa ngã lắm. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh rằng các con hãy cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ. Sự dữ, kẻ xấu và tội lỗi luôn luôn mang những vẻ mặt rất quyến rũ và dễ thương. Dịp tội luôn là lời mời mọc nhẹ nhàng giúp thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của những ước muốn. Cám dỗ đáp ứng những đam mê thèm khát của lục giác: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Các dịp tội dẫn chúng ta đi vào sự thỏa mãn không bao giờ cùng tận. Nếu không biết dừng lại đúng lúc, chúng ta sẽ rẽ vào con đường lầm lạc lúc nào mà không hay biết.
Thánh Giacôbê tông đồ kinh nghiệm cuộc sống rất rõ: Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại (Gc 5,5). Có những người bước vào con đường lầm lạc nhưng không biết mình đang bị lạc, nên họ dễ bị ngập chìm trong tội lỗi và trụy lạc. Một cách tốt nhất là chúng ta phải hồi tâm luôn và quay đầu là bờ. Xét mình để biết mình đang ở đâu, làm gì và đang sống trong tình trạng nào. Chúng ta thường không muốn nhìn nhận những sai trái và sự lầm lạc của mình. Chúng ta luôn nại vào những lý do riêng tư, tự bào chữa và chối từ (denial). Có thể vì ngại ngùng, xấu hổ, phán đoán lệch lạc và sợ hãi, chúng ta xuất hiện bằng sự giả dối và đóng kịch.
Muốn nên thánh, chúng ta phải nên người trước. Muốn làm người, chúng ta phải học làm người. Để trở thành một người tốt, chúng ta phải tu thân tích đức và luyện tập miệt mài các nhân đức. Muốn có triều thiên vinh quang hay thành qủa sống đạo, chúng ta phải kinh qua những tháng năm kiên trì rèn luyện và nhiệt tâm tu tập. Không ai có thể cắt ngắn, rút gọn hay đi đường tắt đạt tới sự tốt lành thánh thiện. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, niềm tin phải được tôi luyện như lửa thử vàng. Đừng khi nào tự phụ để mình rơi vào hoang tưởng là đã đạt tới viên mãn của sự thánh thiện.
Lạy Chúa, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Vì không có Chúa chúng con không thể làm gì được. Xin cho chúng con biết mở lòng tin đạo, sống đạo và hành đạo với hết tâm tình, phần còn lại Chúa sẽ bù đắp.
Cuộc sống có nhiều cấp độ – từ thấp tới cao, từ nhỏ tới to, từ đơn giản tới phức tạp, từ chậm chạp đến mau chóng. Cấp độ từ nhỏ tới to có thể khiến người ta từ lo tới mừng, hoặc từ lo tới sợ. Nói đơn giản, cấp độ là mức độ hoặc trình độ nào đó trong các lĩnh vực của cuộc sống – đời thường hoặc tâm linh.
Cuộc sống không đơn giản như người ta tửng. Có những thứ to mà nhỏ, có những cái nhỏ mà to. Té bào là thứ nhỏ bé và giản dị nhưng lại thực sự rất cần thiết. Lỗ nhỏ làm đắm thuyền. Cấp độ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực, như cái vòng lẩn quẩn xoay tít theo thời gian và trong không gian.
Cấp độ về tinh thần hoặc thể lý đều có những lúc tăng hoặc giảm, thậm chí là khựng lại – level off, không tăng cũng chẳng giảm. Theo nghĩa xấu, đó là mức tồi tệ; theo nghĩa tốt, đó là mức ổn định. Xã hội Việt Nam có những cấp độ “kỳ lạ” lắm! [*]
Cấp độ có thể liên quan cấp số. Cấp số có thể là cấp số cộng hoặc cấp số nhân. Giữa các cấp số cộng hoặc cấp số nhân cũng khác nhau, khác ít hay nhiều tùy vào mức độ to hay nhỏ của công sai – đối với cấp số cộng, và của công bội – đối với cấp số nhân. Cuộc đời thực sự vô cùng nhiêu khê!
Tỷ lệ thuận và tỷ lệ nghịch cũng có khi tốt, có khi xấu. Tỷ lệ thuận TỐT: “Càng gần Thiên Chúa càng trở nên giản dị.” (Thánh TS Teresa Avila) Tỷ lệ thuận XẤU: Càng ngu dốt càng độc ác, kẻ đó có chức quyền càng cao thì cấp độ nguy hiểm càng tăng. Cấp độ đáng sợ: “Tất cả vạn vật đều hữu hạn, chỉ có cái ngu là vô hạn.” (Bác học Albert Einstein) Tỷ lệ nghịch TỐT: “Càng là bạn tốt của nhau chừng nào, anh em càng nói thẳng với nhau chừng nấy.” (Thánh Phanxicô Xaviê) Tỷ lệ nghịch XẤU: “Hiểu biết càng ít, cái tôi càng to.” (Bác học Albert Einstein) Tội lỗi càng tăng, nhân đức càng giảm.
Sự thật thường phũ phàng, khiến người ta thất vọng. làm chúng ta đau lòng, nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ nên khôn, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát con người đúng nghĩa mà thôi. (x. Ga 8:32)
Kinh Thánh cho biết: “Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Môsê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa.” (Ds 11:25-26) Thần Khí đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài thường xuất hiện trong các dạng Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu. Ngài không ngừng tác động nơi mỗi chúng ta, ngay từ trong ý nghĩ, dù ngày hay đêm.
Lúc đó có hai người ở lại trong trại – Enđát và Mêđát. Cả hai đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng họ đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên họ và họ bắt đầu phát ngôn trong trại. Một thanh niên chạy đi báo tin cho ông Môsê: “Ông Enđát và ông Mêđát đang phát ngôn trong trại.” (Ds 11:27) Ông Giôsuê, con ông Nun, từng theo hầu ông Môsê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Môsê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ.” (Ds 11:28) Nhưng ông Môsê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ.” (Ds 11:29)
Chắc chắn ai cũng muốn được lãnh nhận Thần Khí, ông Môsê cũng đã mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều có ba thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả. Đây là lĩnh vực thần học, như Công đồng Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10) Đại ý: Thiên chức Tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người; Tiên tri (hoặc Ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời; Thiên chức Vương giả (hoặc Vương đế) là để phục vụ dân riêng của Thiên Chúa. Mọi tín nhân đều có trách nhiệm loan báo Tin Mừng về Nước Trời.
Tất cả các Kitô hữu (giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân, thành viên của các hội đoàn) đều được Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG mà xây lên NGÔI ĐỀN THỜ THIÊNG LIÊNG, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm HÀNG TƯ TẾ THÁNH, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô.” (1 Pr 2:5)
Trong những năm qua, chúng ta thấy xuất hiện nhiều “vấn đề lạ” như Sứ Điệp Từ Trời, Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ, Nhóm trừ quỷ Bảo Lộc,… nếu cứ “chạy đua” theo các “sự lạ” như vậy, coi chừng sẽ lạc giáo.
Do đó, đừng ham chạy “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà chỉ thấy họa mà thôi. Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (Thánh Gianuariô, Thánh Martin de Porres, Thánh Faustina, Thánh Piô Năm Dấu,…), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thương, không có gì gọi là “lạ” hoặc khác thường. Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng.
Ngay cả Thánh GH Gioan XXIII, Thánh GH Gioan Phaolô II, Thánh GH Phaolô VI, Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, Bậc đáng kính HY P.X. Nguyễn Văn Thuận,… là những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì liên quan cái gọi là “sự lạ,” có chăng là “cách sống lạ” – tức là thâm tín, chịu đựng, hy sinh, dấn thân,… vì mến Chúa và yêu người.
Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ,” nhưng cách sống của họ không có gì khác. Quả là chí lý khi tiền nhân cảnh báo chúng ta: Cẩn tắc vô ưu! Chắc hẳn Thánh Vịnh gia cũng sống đời thường như chúng ta, nhưng có “cái lạ” là biết giữ trọn Luật Chúa và ý thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8) Nhận thức được như vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo, không tính toán: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh.” (Tv 19:10)
Thánh Vịnh gia thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ ĐƯỢC NHIỀU LỢI ÍCH. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài KHỎI KIÊU NGẠO, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽ NÊN VẸN TOÀN, không còn vương trọng tội.” (Tv 19:12-14)
Chúa Giêsu là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Ngài đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15:15) Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ có ngu xuẩn mà ảo tưởng, tự cho mình là “ông kia, bà nọ,” hoặc đòi phải thế nọ, thế kia.
Thánh Giacôbê vừa nhắc nhở vừa cảnh báo: “Giờ đây, hỡi NHỮNG KẺ GIÀU CÓ, các người hãy THAN VAN RÊN RỈ về NHỮNG TAI HỌA sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này.” (Gc 5:1-3)
Giàu sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “CỘI RỄ SINH RA MỌI ĐIỀU ÁC LÀ LÒNG HAM MUỐN TIỀN BẠC, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10) Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo dân nữa kìa, dù họ là giám mục hoặc linh mục. Cụ thể như Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014, Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem chuyện tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles, Hoa Kỳ, hồi tháng 06-2015, Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài tháng qua vì lem nhem tiền bạc. Sự thật quá bẽ bàng!
Những chiếc “phong bì” bình thường mà rất đáng quan ngại. Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,…” Thật ngu xuẩn đối với những người xếp hàng để được vào gặp “quan lớn” như vậy! Thánh TS Tôma Aquinô cho biết: “Nhận ra những ai là người chúng ta phải tránh, đó là phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.”
Tiền nhân nhận xét chí lý: “Tin ĐẠO chứ KHÔNG tin NGƯỜI CÓ ĐẠO.” Vâng, Thánh Giacôbê nói thêm: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người.” (Gc 5:4-6) Tiền nhân cũng xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân” vì đó là tiêu chí hàng đầu.
Tiền bạc rất phức tạp, chuyện nhỏ mà to, thêm lo chứ chẳng an tâm. Thánh Phêrô nói: “Anh em hãy sống TIẾT ĐỘ và TỈNH THỨC, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8)
Với những người giàu, Thánh Phaolô đưa ra lời khuyên để Thánh Timôthê truyền đạt lại: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ ĐỪNG tự cao tự đại, cũng ĐỪNG đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ PHẢI làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, PHẢI ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật.” (1 Tm 17:19) Khác nhau là giàu hoặc nghèo ở đời này hay đời sau.
Trình thuật Mc 9:38-48 cho biết rằng môn đệ Gioan nói với Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Gioan hơi bị vô duyên, vì cứ tưởng không ai khác được quyền trừ quỷ. Cái ảo tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người trong chúng ta ngày nay. Nhưng Chúa Giêsu nói ngay: “ĐỪNG ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”
Chúa Giêsu xác định: “Ai cho anh em uống MỘT CHÉN NƯỚC vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ KHONG MẤT PHẦN THƯỞNG đâu.” Dù là nước gì thì một chén nước cũng chẳng đáng chi, thế mà vẫn thực sự quan trọng, và được Chúa Giêsu “chấm công.” Hành động nhỏ mà được thực hiện với tình yêu lớn thì càng tuyệt vời hơn gấp bội. Đức ái rất quan trọng, hầu như ở cấp độ tuyệt đối: “Nếu KHÔNG có đức ái thì KHÔNG có bất kỳ đức hạnh nào, giống như nếu KHÔNG có mặt trời thì cũng KHÔNG có một tinh tú nào cả.” (Thánh LM TS Tôma Aquinô) Về phương diện tỷ giảo cấp, đó là cách so sánh cực cấp – superlative.
Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” Cách so sánh rất “nặng nề,” nhưng Ngài nói thật chứ chẳng giỡn chơi hoặc hù dọa. Trẻ nhỏ ở đây không hẳn chỉ là trẻ thơ, trẻ em, hoặc con nít, mà còn là những người chân chất thật thà – dù đã trưởng thành hoặc cao niên. Càng đơn sơ giản dị càng dễ vào Nước Trời. Thánh Nicholas Flue nói: “Hãy tỉnh táo và chăm chỉ, hãy tránh mọi thứ hào nhoáng trong cách ăn mặc, đó là cái sẽ loại trừ anh em ra khỏi Thiên Đàng.”
Và rồi Chúa Giêsu còn nói mạnh hơn: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.” Thật đáng sợ biết bao!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận diện và ý thức chính mình, giúp con làm những việc bình thường với cách thức phi thường; xin cứu con thoát mọi dạng ảo tưởng và ảo giác, giúp con biết tự thu nhỏ lại để Ngài lớn mạnh lên, biết tự hạ thấp xuống để Ngài cao vút lên. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
[*] Một đất nước NHỎ có một thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ , báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập thể). Cứ thế và cứ thế…
Phe cánh, kỳ thị, bè phái, cùng “một ben”, cùng “một ê-kíp”, nghe đến những cụm từ như thế, mấy ai không “dị ứng” ! Tính phe nhóm, tâm địa xấu xa, đầu óc hẹp hòi, ích kỷ, chính là nguyên nhân gây nên biết bao phiền toái, chia rẽ, ngờ vực, bất hoà, khổ đau. Cho dù mọi người đều hiểu ý nghĩa của câu thành ngữ: một sự nhịn, chín sự lành. Trong kinh doanh buôn bán, các đấng bậc tự tin cho rằng: trăm người bán, vạn người mua ; có mợ thì chợ cũng đông, không mợ, chợ vẫn đông như thường. Trong gia đình, con cái chăm học, chăm làm, đâu phải vì tiếng khen, vì muốn lập công, có chăng là vì hạnh phúc ở tương lai, là thao thức góp chút công sức làm rạng danh dòng tộc, thể hiện được tình yêu quê hương đất nước.
Ở đời muôn sự của chung, quý nhau một tiếng anh hùng mà thôi. Sự nhiệt thành nơi Gioan bị xem là khuynh hướng xấu, phe nhóm, khi ông cản ngăn người anh em làm việc tốt, ông còn lầm tưởng đang góp công gìn giữ thanh danh cho Thầy và cho anh em mình. Không phải người môn đệ Gioan, mà cả nhóm 12, cả chúng ta hôm nay đều cần được ơn biến đổi, cần được lớn lên và trưởng thành trong tình yêu thương của Thầy Giêsu. Chuẩn mực cuộc sống không hệ tại cao sang nghèo hèn, học rộng hiểu sâu, cho đi nhiều hay ít, mà là tuỳ thuộc mỗi người đang sử dụng “món quà” mình có thế nào. Lập trường theo Đức Giêsu là tất cả được nên một tình yêu, mọi người, mọi thời, biết ca tụng Danh Cha cả sáng: đừng ngăn cản “việc tốt”, “ai không chống đối các con là ủng hộ các con”.
Tiền nhân chúng ta nói: ở cho có đức có nhân, mới mong thừa tự được ăn lộc trời. Đức Giêsu cũng truyền dạy: “ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đức Kitô, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Sống có tâm, có đức, có tình Chúa, tình người, đúng là một chọn lựa khôn ngoan, là một hành động yêu thương thuộc về Đức Kitô, đang làm vinh Danh Chúa, đang làm rạng rỡ tình yêu ta lãnh nhận. Các môn đệ, và tất cả chúng ta hôm nay, đều có chung một tình yêu, một sứ mạng, đó là nhờ Đức kitô, ở trong Đức kitô, khi ta trân trọng niềm tin, Thiên Chúa gieo vãi hạt giống tốt lành vào tâm hồn, và nhờ Danh Đức kitô, hạt giống sẽ trổ sinh bông hạt.
Tình yêu và cuộc sống vẫn luôn mách bảo chúng ta rằng: tất cả mọi người đều là “thiên tài” trong lãnh vực riêng của họ, nhưng nếu ta đánh giá “con cá” qua khả năng leo cây của nó, thì cả đời con cá sẽ nghĩ nó ngu dốt và đần độn. Vì thế, chúng ta nên đánh giá khả năng bơi lội của nó. Trong tương quan xã hội, nhiều khi chỉ vì thiếu thiện cảm, người ta đã “nghĩ cong” về việc làm của anh chị em mình rồi, chỉ vì không “cùng hệ” với ta, nên rất khó lòng ta đủ khách quan về đức độ và tâm tính của người đang sống sát gần mình. Cũng không phải là khó hiểu khi người ta sống vô tình với nhau: tưởng rằng chị ngã em nâng, ai ngờ chị ngã em bưng miệng cười ! Nghĩ tốt, cư xử tốt với nhau, thương nhau, yêu nhau, biết đồng sức, đồng lòng, như anh chị em một nhà chỉ xảy ra khi trái tim và khối óc của ta có Đức Giêsu.
Lấy Danh Chúa mà trừ quỷ, chia sẻ đức yêu thương cho kẻ đói nghèo là giúp người, đó là sứ mạng chung cho ơn gọi làm môn đệ Đức kitô. Lấy Danh Chúa hại người, làm việc xấu, chắc chắn không thể gọi là thần dân của Đức kitô, dù người đó vịn lý do thiếu hiểu biết hoặc vô tình, đều bất xứng, không đủ thuyết phục. Được phần thưởng cho hành động bác ái dù bé nhỏ, cũng là một nỗ lực xây dựng Nước Cha trị đến. Phải khiển trách bởi làm ngơ trước nhu cầu cần được yêu thương giúp đỡ, luôn hệ tại cách sống của mỗi người đang chia sẻ hoặc khép kín. Không ai có thể lấy Danh Thầy trừ quỷ, sau đó lại nói xấu Thầy, vì kết quả của việc làm luôn phát xuất từ tình yêu và vinh danh tình yêu thương.
Các chuyên viên “gỡ rối” tơ lòng cho chúng ta kinh nghiệm, nếu số phận cho ta những quân bài rời rạc, không như ý, hãy cậy nhờ sự khôn ngoan ở sâu thẳm trong tâm hồn biến bạn thành người chơi bài giỏi như câu tục ngữ: cái khó, ló cái khôn. Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan dung đối với kẻ làm gương mù, không sống đức ái Chúa trao: “thà buộc cối đá mà xô xuống biển thì hơn”. Thực tế thì người nói hay chưa chắc đã làm giỏi, người biết Chúa, tin Chúa, và biết hành động vì tình yêu Chúa, làm sáng Danh Chúa, hoàn toàn khác nhau. Người môn đệ, người thuộc về Chúa, phải là người có Đức kitô trong suy nghĩ và hành động, mới thực sự là người đang góp công sức xây dựng tình yêu thương của Nước Cha hiển trị hôm nay và mai sau. Amen.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc thánh Gioan, một trong số các Tông Đồ, kể lại với Chúa Giêsu sự kiện họ đã chứng kiến một người không thuộc nhóm các môn đệ nhưng đã lấy danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ và các ông đã ngăn cản không cho người đó làm như thế. Nghe những điều này, Chúa Giêsu liền bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9,39-40).
1- Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ?
Đây là một chủ đề rất quan trọng hiện nay. Chúng ta nghĩ gì về những ai ở ngoài Giáo Hội, những người cố gắng làm những việc tốt lành và chứng tỏ một tinh thần cao cả, dẫu họ không tin vào Chúa Kitô và gia nhập vào Giáo Hội. Họ có được cứu độ không?
Ngày xưa, trong một lá thư gửi chống lại lạc giáo, thánh Ciprianô (+258) có một câu nói nổi tiếng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ.” Khi quả quyết như thế, thánh nhân muốn chống lại những người theo lạc giáo chủ trương không cần phép rửa của Giáo Hội và ngài xác tín rằng ai chịu phép rửa từ những người lạc giáo là không thành sự.
Tuy nhiên, câu nói này đã được giải thích cách giảm thiểu, nếu không muốn nói là méo mó về dụng ý của ngài. Thường khi trích lại câu nói này, người ta thường nhấn mạnh việc phải ở trong Giáo Hội Công Giáo hữu hình để được cứu độ. Quan niệm này đã tồn tại trong Giáo Hội rất lâu, hàng thế kỷ. Phải đợi đến Công Đồng Vaticanô II, chúng ta mới có một cái nhìn quân bình và mới mẻ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo Hội. Dĩ nhiên, sự thay đổi này là kết quả của một quá trình suy tư thần học, sau những khám phá về những vùng đất mới và nhờ những khả năng liên lạc với các dân tộc khác trên thế giới. Người ta thấy rằng có vô số con người chưa bao giờ được nghe loan báo Tin Mừng, không phải vì lỗi lầm của họ, hoặc đã được truyền giáo theo một cách thế không phù hợp từ những nhà truyền giáo thực dân, nên làm cho họ gặp khó khăn trong việc đón nhận Tin Mừng.
Thật vậy, với sự thay đổi này, thần học quả rằng đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể. Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người, cụ thể, Người cũng muốn cứu độ cả những người ở ngoài Giáo Hội, khi họ chưa có đức tin vào Chúa Kitô, chưa được rửa tội và không phải là thành viên của Giáo Hội. Cái nhìn này có nền tảng Kinh Thánh và thần học rất vững chắc: “Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ” (x 1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ và ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia, nhưng mang tính phổ quát, cho hết mọi người. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai. Trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 22, Công Đồng Vaticanô còn thêm: “Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người khả năng để được kết hợp với mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô theo một cách thức mà chỉ Thiên Chúa mới biết và vì thế, họ được cứu độ.”
2- Họ là ai và làm gì?
Một cách cụ thể, Hiến Chế Lumen Gentium, Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo Hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người như là Đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do Thái Giáo và Hồi Giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo Hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, họ có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo Hội.
Như thế, đức tin Kitô Giáo chúng ta đã thay đổi chăng? Không. Cũng như xưa, chúng ta tiếp tục tin vào hai điều: Thứ nhất, rằng một cách khách quan và quả thật Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian duy nhất và là Đấng Cứu Độ của toàn thể nhân loại, và rằng những ai không biết Người, nếu họ được cứu độ, thì được cứu nhờ Người và nhờ cái chết cứu độ của Người.
Thứ đến, chúng ta tin rằng những ai chưa thuộc về Giáo Hội hữu hình, nhưng họ đang hướng về Giáo Hội một cách thực tế, họ cũng làm thành viên của Giáo Hội rộng lớn hơn, mà chỉ có Thiên Chúa mới biết.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xem ra yêu cầu hai điều từ những người ở ngoài Giáo Hội: điều thứ nhất là họ không “chống lại Người,” nghĩa là họ không chống lại một cách chủ động đức tin và các giá trị Tin Mừng, nghĩa là họ không đặt mình chống lại Thiên Chúa. Họ có thể được cứu.
Thứ đến, nếu họ không thể phục vụ và yêu mến Thiên Chúa, ít ra họ phục vụ và yêu mến hình ảnh của Người, là con người, tha nhân, đặc biệt những người nghèo. Họ cũng được cứu. Quả thậy, điều này được Chúa Giêsu quả quyết ở câu kế tiếp như nói về những ai ở ngoài Giáo Hội: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bỏa thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9,41; x. Mt 10,42).
3- Chúng ta phải làm gì?
Tuy nhiên, sau khi đã giải thích giáo huấn này, tôi tin rằng cũng cần thiết để chúng ta điều chỉnh điều gì đó nữa, là thái độ bên trong chúng ta, tâm lý chúng ta xét như là những người tin. Ngày nay tư tưởng và thái độ Giáo Hội đã thay đổi, nhưng nhiều người Công Giáo trong chúng ta không muốn thay đổi; nhiều lúc chúng ta muốn độc quyền về chân lý và ơn cứu độ, tỏ ra hơn người khác, hơn tôn giáo khác một cách thái quá vì mình tin vào Chúa Kitô và là thành viên của Giáo Hội. Trái lại, có những người lại thắc mắc trước những thay đổi này khi nói: “Như thế, trở thành người Kitô hữu tốt để làm gì?”
Một cách tích cực, chúng ta phải thực sự vui mừng vì những sự cởi mở mới mẻ này của thần học Công Giáo khi biết rằng những anh chị em chúng ta ở ngoài Giáo Hội cũng có khả năng để được cứu độ. Điều này là điều đang giải phóng và đang khẳng định sự quảng đại vô biên của Thiên Chúa và ý định của Người là muốn cho “mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4) đó sao?
Chúng ta phải làm cho khát khao của Môsê trở thành khát khao của chúng như bài đọc I hôm nay diễn tả: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ! Vì Đức Chúa đã ban Thần Khí của Người trên họ” (Ds 11,29).
Hiểu như thế, phải chăng chúng ta nên dừng việc truyền giáo, cứ để cho mọi người trong bình an, trong xác tín riêng của họ, và thôi việc giới thiệu Chúa Kitô, bởi vì người ta cũng có thể được cứu độ theo cách thế riêng của họ? Dĩ nhiên không! Chúng ta phải tiếp tục thực thi lệnh truyền của Chúa là làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Nhưng điều mà chúng ta phải làm là nhấn mạnh lý do tích cực hơn là tiêu cực. Lý do tiêu cực là: “Bạn hãy tin vào Chúa Giêsu Kitô, vì ai không tin vào Người thì sẽ bị luận phạt đời đời.” Còn lý do tích cực là: “Bạn hãy tin vào Chúa Kitô, bởi vì thật tuyệt vời khi tin vào Người, biết Người, và có Người bên cạnh như là Đấng Cứu Độ, khi chúng ta sống cũng như khi lìa đời.” Điều đó tạo nên sự khác biệt và có sức thuyết phục hơn là dọa dẫm. Amen!
Thiên Chúa hằng chăm sóc mọi người và mời gọi chúng ta cũng biết quan tâm đến những người chúng ta có trách nhiệm. Ngài có toàn quyền tự do ban phát ân huệ của Ngài cho những ai tuỳ ý. Tuy nhiên, Ngài muốn loài người sống tình liên đới chia sẻ và không được độc chiếm. Bài trích sách dân số hôm nay thuật lại những biến cố quan trọng xảy ra từ núi Sinai đến đồng bằng Moab trên đường vào đất hứa của dân Do thái xưa. Ông Môsê không thể gánh chịu một mình mọi công việc nên Thiên Chúa truyền lệnh cho ông chọn 70 vị bô lão để chia sẻ việc phục vụ dân chúng. Thiên Chúa đã lấy thần khí trong ông Môsê mà phân phát cho 70 vị bô lão đó. Kết quả là họ có khả năng nói tiên tri, kể cả 2 vị không đến trong nhà xếp. Sự kiện này gây bất bình nơi Giôsuê, và ông thưa rằng: “Hỡi ông Môsê, xin hãy cấm chỉ các ông ấy đi”. Với tài lãnh đạo khôn ngoan và độ lượng, không muốn giữ độc quyền ân huệ Thiên Chúa ban cho mỗi người để họ cùng tham dự vào công việc theo thánh ý Thiên Chúa, Môsê đáp lại rằng: “Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần khí Ngài cho họ”.
Thưa anh chị em, vào thời Chúa Giêsu chúng ta thấy Gioan cũng có thái độ và não trạng của ông Giôsuê khi ông thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Đây là thái độ độc quyền và phân biệt kẻ trong người ngoài, kẻ theo người chống. Chúa Giêsu muốn phá vỡ những thái độ đó như những bước tiến đầu tiên trong việc xây dựng tình huynh đệ đại đồng, Người nói: “Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy”. Chúa còn khẳng định thêm: “Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con”. Khuynh hướng muốn độc chiếm Đức Kitô của họ đối nghịch trực tiếp với thái độ của Chúa Giêsu đang tiến dần đến cái chết cứu độ để đem lại ơn giải thoát cho hết thảy mọi người, không phân biệt kẻ trong người ngoài, không phân biệt tự do hay nô lệ, không phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ. Hai đề nghị của Giôsuê và Gioan đã nói lên sự tham vọng của loài người: muốn độc chiếm ơn huệ, độc quyền ơn Chúa, không muốn người khác được như mình. Đây là biểu hiện tính kêu ngạo cố hữu nơi loài người mà Lời Chúa hôm nay muốn phá vỡ.
Có câu chuyện kể rằng, một ni cô nọ có một tượng bộc bằng vàng. Cô rất quý pho tượng nên đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa mà cô chủ trì có nhiều tượng Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt. Thậm chí lúc đốt hương trước tượng Phật của mình, cô còn muốn không cho làn khói bay qua những tượng khác. Cô xoay xở để sao cho làn khói bay thẳng vào pho tượng của mình. Kết quả là lâu ngày, pho tượng vàng trở nên đen xì xấu xí bởi những làn khói này.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Lòng quá ích kỷ cũng vậy, sẽ làm chúng ta trở nên nhỏ mọn như khói. Thánh Gia-cô-bê trong bài đọc 2 hôm nay cảnh cáo nghiêm khắc đối với những người giàu có mà sống xa hoa, trụy lạc và ích kỷ, không biết chia sẻ của cải vật chất mà Thiên Chúa đã ban cho họ với những người túng thiếu cần đến sự giúp đỡ của họ. Người Kitô hữu được mời gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu không phải chỉ là việc mình thuộc về nhóm này hay nhóm khác, mà chính là sống và hành động như Chúa Giêsu đã làm, biết quảng đại: Ơn Chúa ban cho để phục vụ chứ không để hưởng thụ, để độc quyền. Đồng thời, biết biểu dương và tán đồng với những ai được ơn huệ nào của Chúa, ơn tự nhiên hay ơn siêu nhiên.
Nguyện xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng ta biết ra khỏi chính mình, để chúng ta được lớn lên trong ân tình của Chúa và đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa hứa ban. Amen.
Một nhà tâm lý nổi tiếng đã viết một cuốn sách có tựa đề là: “Cái gì trở thành tội?” “Whatever Became of Sin?” Luận đề chính của cuốn sách là: “Xã hội ngày nay đã mất đi ý thức về tội.” Ông bắt đầu cuốn sách bằng một câu chuyện về một người đàn ông đứng ở ngã tư đường giữa thành phố Chicago. Người đàn ông này cao, gầy và trông rất nghiêm nghị quan sát những người qua lại trên đường. Thỉnh thoảng ông chỉ vào một người và nói: “Phạm tội.” Ông cho rằng có lẽ những người bị chỉ tay thầm nghĩ: “Làm sao ông biết được. Hay không biết ông này nói gì?”
Trong cuốn sách, bác sĩ tâm lý này cho biết ngày nay tội đã không biến mất đi như nhiều người lầm tưởng, nhưng vẫn còn hiện diện. Ông cho rằng tội đã trở nên một vấn đề nghiêm trọng to lớn trong xã hội, bởi vì ngày nay người ta vô tư, không còn ý thức, quan tâm hay dửng dưng trước thực tại của tội lỗi.
Chúng ta thấy tội cũng là đề tài mà những bài Kinh thánh hôm nay đề cập đến. Tội, như thánh Gia-cô-bê khẳng định trong bài đọc 2 hôm nay, là sự tham lam, gian dối, ích kỷ và thờ ơ trước những đau khổ và sự bất công trong xã hội. Bài đọc một cho chúng ta thấy tội ganh tị của ông Giô-suê muốn ông Môi-sen ra lệnh ngăn cấm 2 người phục vụ Chúa. Nhưng ông Môi-sen đã trả lời với ông Giô-suê: “Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ.” Phần đầu của bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải từ bỏ tính ganh ghét và chia rẽ bè nhóm để hiệp nhất và can đảm làm những gương sáng tốt lành, rao giảng Tin mừng và làm sáng danh Chúa. Trong phần hai, Chúa nói hãy buộc cối xay vào cổ mà sô xuống biển, hay chặt tay, chặt chân và móc con mắt bỏ đi nếu những cái đó làm cớ cho chúng ta phạm tội và sẽ bị ném xuống hỏa ngục.
Chúng ta phải chú ý đây chỉ là những dụ ngôn mà Chúa dùng để dạy chúng ta những bài học quan trọng cho cuộc sống Ki-tô hữu. Chúa không có ý định dạy chúng ta chặt chân, chặt tay hay móc mắt vất đi, vì căn nguyên của tội lỗi không từ đó mà ra, nhưng từ trong tâm trí chúng ta mà ra. Tội là một quyết định làm những gì nghịch lại giáo huấn của Chúa hay không làm những gì Chúa dạy chúng ta phải làm, hay nói một cách khác, không sống theo những giới răn, giáo huấn của Chúa.
Thật sự khi Chúa Giê-su đưa ra những sự kiện này là muốn chúng ta biết rằng Người yêu thương, quan tâm và muốn chúng ta sống trong an bình và ân sủng của Người. Chúa cho chúng ta biết rõ rằng nếu chúng ta muốn có hạnh phúc vĩnh cửu đời sau thì húng ta phải gìn giữ một sự liên hệ mật thiết với Chúa hơn tất cả mọi vật chúng ta có và chiếm giữ ở đời này. Và Chúa nhấn mạnh đến việc làm gương xấu cho trẻ em, con cái, cháu chắt. làm cho chúng xa Chúa, hay lấy lý do này lý do kia, bận việc này hay việc kia không chú tâm dạy dỗ, hướng dẫn con cái. Vì thế là những bậc làm cha mẹ, chúng ta hãy tự hỏi: “Chúng ta có làm điều gì hay không làm điều gì trở thành gương xấu cho con cái lánh xa Chúa hay trở thành cớ cho người khác vấp phạm?” “Lời nói, việc làm của chúng ta có gây ra những sự tranh chấp, ghen ghét, chia rẽ không? Chúng ta hãy hình dung Chúa Giê-su, một Đấng đầy lòng yêu thương, nhân từ và hay thương xót và cũng là Đấng tuyên bố với chúng: “Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.” Chúng ta biết Chúa Giê-su rất nhân từ và luôn tha thứ, nhưng Người không vô tư, không nhẹ nhàng với tội lỗi hay cho tội lỗi là tầm thường.
Chúng ta thấy tội lỗi được phơi bày trên phim ảnh, báo chí, trên TV, internet hay facebook. Đối với nhiều người, tội lỗi hình như đã biến mất hay không còn chỗ trong đời sống của họ. Nhưng đối với chúng ta, những người có đức tin, những người tin vào Chúa, được nghe Lời Chúa dạy trong Thánh lễ hàng tuần thì tội là những điều chúng ta phải chú ý và cố tránh. Nếu chúng ta có tội, thật sự tất cả chúng ta đều là những người có tội, thì lời Chúa hôm nay không có chủ đích là lên án chúng ta hay làm cho chúng ta xấu hổ, nhưng vì lòng yêu thương, Chúa kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức và biết ăn năn cải thiện đời sống, đồng thời nhắc nhở chúng ta về sự hiện hữu, thực tế của tội trong xã hội. Nếu chúng ta làm ngơ trước thực tại của tội lỗi, thì chúng ta cũng làm ngơ, vô tư hay lạnh nhạt với Lời Chúa. Chúa Giê-su đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống của Người. Người đã khiêm nhường mặc lấy bản tính hèn mọn của con người, trừ tội. Chính Chúa cũng đã sống một cuộc đời hy sinh, quảng đại phục vụ và yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình trên thập giá để tha thứ tội lỗi. Tình yêu thương tha thứ đó Chúa trải rộng trên tất cả mọi người, người lành kẻ dữ và người có tội.
Nói tóm lại, lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta là những Ki-tô hữu sống với nhau, thờ phượng với nhau và phục vụ bên nhau, phải cố gắng tránh những lời nói, hành động trở thành những gương mù, gương xấu cho ai, nhất là cho con cái. Đồng thời phải đề cao, cảnh giác trước thực tại và những cám dỗ của tội lỗi. Chúng ta phải lắng nghe và sống Lời Chúa dạy, có lòng bác ái, quảng đại, hy sinh, phục vụ làm gương sáng cho người khác và làm sáng danh Chúa.
Vì yêu thương và với lòng nhân từ thương xót, Chúa đã dùng những hình ảnh và phương cách để nhắc nhở và dạy dỗ chúng ta cẩn thận tránh xa tội lỗi, vì tội lỗi có thể gây ra những sự chia rẽ, bất hòa, hủy diệt đức tin và sự liên hệ mật thiết với Chúa, lấy đi ân sủng bình an đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta.
1. Bạn biết gì về ông Gioan trong Tin Mừng Máccô? Đọc Mc 1,19.29; 3,17; 5,37; 9,2.38; 10,35.41; 13,3; 14,33. Đọc thêm Lc 9,51-56.
2. Bạn có thấy gì lạ khi đọc Mc 9,14-29 và Mc 9,38 không?
3. Đọc Mc 9,38. Bạn thấy ông Gioan và các môn đệ có khuyết điểm gì? Đọc thêm sách Dân số 11,26-30.
4. Đọc Mc 9,39-40. Cho biết hai lý do Đức Giêsu đã đưa ra để sửa sai ông Gioan và các môn đệ.
5. So sánh Mc 9,40 với Mt 12,30. Hai câu này có mâu thuẫn với nhau không?
6. Đọc Mc 9,42. “Những kẻ bé mọn” ở đây để chỉ ai vậy? “Làm vấp ngã” nghĩa là gì? Câu nói này của Đức Giêsu có kinh khủng không?
7. Đọc Mc 9,43-48. Trong những câu này, nguyên nhân làm vấp ngã đến từ đâu? Các câu 43, 45, và 47 có gì giống nhau không?
8. Đọc Mc 9,42-48. Có phải hiểu các câu này của Đức Giêsu theo nghĩa đen không? Tại sao không? Nếu không hiểu theo nghĩa đen, thì qua những câu kinh khủng này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì?
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Đọc Mc 9,43.48. Trong hai câu trên, hỏa ngục được mô tả như thế nào? “Bị ném vào hỏa ngục” khác với được “vào cõi sống” hay “vào Nước Thiên Chúa” như thế nào? Bạn tin có hoả ngục không? Tại sao?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Gioan là một trong bốn ngư phủ đầu tiên theo Đức Giêsu, là con ông Dêbêđê và là anh em ruột với Giacôbê (Mc 1,19.29). Hai anh em này nằm trong Nhóm Mười Hai tông đồ, và cả hai được Thầy Giêsu đặt cho biệt danh là Bôanêghê, nghĩa là “những đứa con của thiên lôi” (3,17; xem thêm Lc 9,51-56). Phêrô và Giacôbê và Gioan là ba môn đệ thân tín thường được Thầy Giêsu dẫn đi riêng. Chỉ ba ông này được đến nhà ông trưởng hội đường và được dẫn vào phòng cô con gái mới chết để chứng kiến phép lạ (5,37). Chỉ ba ông này được Thầy dẫn lên núi cao để thấy Thầy hiển dung (9,2). Chỉ ba ông này được đi theo Thầy và ở gần Thầy hơn các ông khác trong vườn Dầu (14,33). Nhưng Gioan cũng là người có nhiều tham vọng trần tục, thích chức quyền (9,38-40; 10,35-40).
2. Ở Mc 9,14-29, Thầy Giêsu xuống núi cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chín môn đệ còn lại trong Nhóm Mười Hai không có khả năng trừ quỷ khi được người cha của một cậu bé yêu cầu (Mc 9,18). Ngược lại, ở Mc 9,38, một người không thuộc nhóm Mười Hai lại có thể trừ được quỷ, nhân danh Đức Giêsu!
3. Qua câu nói của ông Gioan ở Mc 9,38, ta thấy nhóm Mười Hai (“chúng con”) tỏ ra bực tức khi thấy có người “không theo chúng ta,” nghĩa là không thuộc về nhóm môn đệ Đức Giêsu, mà lại dám “nhân danh Thầy mà trừ quỷ”. Cả nhóm đã cố gắng ngăn cản người này, vì họ muốn độc quyền sử dụng Danh của Thầy. Họ không chấp nhận để người ngoài nhóm được dùng Danh này, như thế họ cũng muốn độc quyền trong việc trừ quỷ. Trong Cựu Ước, Giosuê cũng đã từng xin Môsê ngăn cản để hai ông Enđát và Mêđát đừng nói tiên tri nữa, chỉ vì họ không thuộc nhóm 70 kỳ mục ưu tuyển (Ds 11,26-30).
4. Đức Giêsu không chấp nhận phản ứng tiêu cực của Nhóm Mười Hai. Ngài đưa ra hai lý do. Lý do 1: Đức Giêsu cho rằng ai làm phép lạ đuổi quỷ nhân danh Ngài thì cứ sự thường, ngay sau đó người ấy sẽ không trở mặt mà nói xấu chống lại Ngài (Mc 9,39). Khi nhân danh Đức Giêsu mà trừ quỷ hay làm phép lạ, người ấy hẳn phải có lòng tin vào Danh của Ngài rồi. Lý do 2: Đức Giêsu khẳng định rằng ai không chống lại chúng ta thì coi như đứng về phía của chúng ta (Mc 9,40). Đây là một thái độ cởi mở đối với những ai không thuộc nhóm của mình, nhưng không chống đối nhóm. Ngài đòi các môn đệ coi họ như bạn.
5. Trong Mc 9, 40 Đức Giêsu nói: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” Còn trong Mt 12,30, Đức Giêsu nói một câu có vẻ ngược lại: “Ai không với tôi là chống lại tôi…”. Hai câu trên không mâu thuẫn, nhưng khác nhau vì được nói trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong Mt 12,30, khi những người Pharisêu cố chấp không tin Đức Giêsu, thậm chí cho rằng Ngài dựa vào quỷ lớn để trừ quỷ nhỏ, thì Ngài đòi họ phải dứt khoát chọn theo Ngài, nếu không họ sẽ thuộc phe chống lại Ngài. Còn trong Mc 9,40 Ngài cho thấy ai dùng Danh của Ngài mà đuổi quỷ, ai không chống lại nhóm của Ngài (= chúng ta) thì coi như đã đứng về phía nhóm rồi.
6. “Những kẻ bé mọn” ở Mc 9,42 để chỉ những người tin vào Đức Giêsu, nhưng không có vai vế trong cộng đoàn tín hữu. Đây cũng có thể là các trẻ em hay những người yếu đức tin. “Làm ai vấp ngã” nghĩa là làm cho ai đó phạm tội, hay khiến họ mất đức tin. Đối với Đức Giêsu, tội này rất nặng, vì ảnh hường đến sự sống đời đời của một người, dù là người bé nhỏ trong cộng đoàn. Hình phạt kinh khủng Ngài dành cho người gây gương mù cho thấy sự trầm trọng của tội này: cột cái cối lớn (cối kéo bởi con lừa) vào cổ mà quăng người ấy xuống biển.
7. Trong Mc 9,43-48 nguyên nhân làm một người vấp ngã không đến từ bên ngoài, nhưng từ chính thân xác của người đó như tay, chân, mắt. Cả ba câu 43, 45 và 47 có cấu trúc giống nhau: “Nếu… làm cớ cho anh vấp ngã, thì…; thà… mà được vào cõi sống/Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ… mà phải vào hỏa ngục”. Đây là lối nói giàu hình ảnh gây ấn tượng của Đức Giêsu. Nói cho cùng, tay, chân hay mắt không phải là nguyên nhân chính khiến ta phạm tội, nhưng những dục vọng và tư tưởng xấu xa mới là nguyên nhân chủ yếu. Bởi đó chặt tay chân hay móc mắt cũng không đủ để làm ta tránh được sa ngã.
8. Chúng ta không nên hiểu lời Chúa dạy trong Mc 9,42-48 theo nghĩa đen. Đây chỉ là lối nói cường điệu của Đức Giêsu. Ta không được cột cối đá vào cổ người gây dịp tội rồi ném xuống biển, hay chặt tay chân, móc mắt chính mình nếu chúng làm cớ cho ta phạm tội. Qua lối nói mạnh mẽ này, Ngài dạy ta phải cương quyết dứt khoát loại bỏ những nguyên nhân trong ngoài khiến ta vấp ngã phạm tội, dù làm như thế đòi ta phải hy sinh đau đớn như người mất một phần thân thể. Chỉ với thái độ từ bỏ quyết liệt ấy, ta mới được “vào cõi sống” (Mc 9,43.45), “vào Nước Thiên Chúa” (Mc 9,47), và thoát khỏi “hỏa ngục” (geenna, Mc 9,43.45.47).
Đức Giêsu cho chúng ta thấy đường vào Nước Trời luôn rộng mở cho mọi người, và muốn chúng ta trở nên những hướng dẫn viên, bạn đồng hành có tâm hồn hào sảng, cởi mở, từ tâm của mọi người trên đường đến gặp Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Khuynh hướng loại bỏ là khuynh hướng sẵn có ở mỗi người, phát sinh từ ích kỷ, khi chỉ nghĩ đến mình và tìm bảo vệ mình cách an toàn nhất, xây dựng cho mình vị thế vững chắc nhất, thu gom cho mình bao nhiêu lợi lộc có thể. Khuynh hướng loại bỏ ấy sẽ nảy mầm và lớn lên tạo thành nếp sống, mà người ta gọi là “văn hoá”, để rồi đạt đến đỉnh cao được gọi là chủ nghĩa loại bỏ.
Ngay những trang đầu của Kinh Thánh, khuynh hướng loại bỏ đã được đề cập khi Cain quyết đinh loại bỏ em mình, bằng việc dụ em ra ngoài đồng và “xông đến giết Aben” (St 4,6). Cain đã loại bỏ em khỏi thế giới người sống, không muốn em cùng sống trên cõi đời, vì sự hiện diện của em đang trở thành đe dọa cho anh, khi Thiên Chúa Giavê đã nhận lễ vật của Aben, mà không nhận lễ vật của Cain (x. St 4, 3-5).
Ngày nay, khuynh hướng loại bỏ đã đạt đến đỉnh điểm khi biến thành chủ nghĩa: người ta không còn ngẫu nhiên, ngẫu hứng hay vô ý, vô tình loại bỏ những người chống lại mình, không đồng tình với mình, không cùng đảng phái, phe nhóm, vùng miền, nhưng phần đông đã không còn lấn cấn, do dự, không ngại ngùng, dè dặt, không hối tiếc, ân hận loại bỏ người chung quanh một cách thoải mái, dễ dàng, bởi loại bỏ đã trở thành chủ nghĩa, chủ trương, đường lối để đạt thành công.
Chúng ta hãy nhìn vào đường lối cai trị của những nhà độc tài, toàn trị trên thế giới, như Hitler khi ông loại bỏ không tiếc thương tất cả những con người mà theo ông không còn có lợi cho nước Đức. Họ là những người tàn tật, bệnh hoạn, thiểu năng, đồng tình luyến ái, những người Do Thái mà ông thù ghét, và những ai có ý đồ, hoặc hành vi chống lại chế độ Đức Quốc Xã của ông. Những trại tập trung khổng lồ, và lò hơi ngạt sát sinh đã là phương tiện thực hiện hữu hiệu chủ nghĩa loại bỏ kinh khủng này.
Nhưng chủ nghĩa loại bỏ đã không dừng lại ở bàn tay những nhà độc tài phi nhân. Trái lại, nó len lỏi khắp nơi và đang dữ dội tàn phá xã hội loài người. Len lỏi vào đời sống gia đình, khi người già bị bỏ rơi, không được quan tâm, vì không còn khả năng sinh lời, sản suất; thai nhi bị loại bỏ vì phiền hà, rắc rối; người nghèo, người bệnh, người mù chữ bị loại bỏ, vì là gánh nặng và lực cản đà tiến của xã hội.
Chưa hết, ngay trong sinh hoạt tôn giáo, trong cách cư xử giữa những người đồng đạo, chúng ta cũng bị chủ nghĩa loại bỏ của xã hội thực dụng ảnh hưởng trầm trọng, mà nhiều khi chúng ta không nhận ra.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã không chỉ không đồng tình với khuynh hướng và chủ nghĩa loại bỏ, nhưng còn đi xa hơn, đi rất xa, và điều Ngài nói đã làm sửng sốt các môn đệ có mặt, và đặt ra cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ:
Đức Giêsu không đồng tình với đề nghị “ngăn cản” những người nhân danh Ngài mà trừ quỷ, dù họ không đi theo Ngài của các môn đệ, khi các ông thưa với Ngài: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ qủy. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9, 38).
Các môn đệ cho mình là có lý, và nắm chắc Đức Giêsu sẽ ủng hộ quan điểm và đường lối “loại bỏ” của mình, khi đưa ra lý do được coi là chính đáng: “vì người ấy không theo chúng ta”. Theo các ông, “không theo chúng ta” nên không có quyền nhân danh tập thể của chúng ta, không theo Thầy như chúng con, nên không được phép nhân Thầy như chúng con, nhưng rất tiếc, các ông đã ngỡ ngàng vì câu trả lời bất ngờ của Ngài: “Đừng ngăn cản người ta” (Mc 9, 39).
Các môn đệ còn hết hồn, ngã ngửa khi Đức Giêsu đưa ra lý do: “Vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy” (Mc 9,39).
Lý do Ngài đưa ra rất đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người: vì không ai ngu dốt, dại khờ đến độ nói xấu, hạ nhục người mình vừa mới nhân danh để làm phép lạ, bởi nếu nói xấu người mình “lấy danh nghĩa, cậy đến tên” mà làm một việc tự mình không làm được, thì khác nào tự bôi bác, tự hạ thấp giá trị, và tư phủ nhận chính mình.
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu đặt trọng tâm vào việc “làm vinh danh Thiên Chúa”, nghĩa là đặt “Thánh Danh Thiên Chúa, Tên Thiên Chúa” trên tất cả, trước tất cả, bởi chính Danh Thánh ấy mới là mục tiêu con người phải tìm kiếm, và chỉ nhờ Danh Thánh ấy, phép lạ mới được thực hiện, nên bất cứ con người nào, ở vị thế, hoàn cảnh, giai tầng nào cũng không quan trọng, vì không là yếu tố quyết định, không là sức mạnh thánh thiêng đã làm nên những phép lạ cả thể, phi thường như trừ quủy, chữa các bệnh nan y…
Quả thực, Đức Giêsu trong Tin Mừng đã công khai chống lại chủ nghĩa loại bỏ, chủ nghĩa đang làm tàn úa mùa xuân “Nước Trời đã ở giữa chúng ta”, chủ nghĩa đang phá vỡ không ít công trình cứu độ của Thiên Chúa, chủ nghĩa đang phủ nhận chính Thiên Chúa khi loại bỏ con người, bằng cách dạy chúng ta tinh thần cởi mở đón nhận, cởi mở đồng hành, cởi mở hợp tác với mọi người thiện tâm, bởi khi tâm thiện, khi trái tim mang thiện chí, người ta sẽ tự khắc nhận ra Thiên Chúa, biết tên Ngài và “nhân danh” Ngài, như lời chúc của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh: “Bình an cho người thiện tâm dưới thế” (Lc 2,14).
Khẳng định: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9, 40), Đức Giêsu cho chúng ta thấy đường vào Nước Trời luôn rộng mở cho mọi người, và muốn chúng ta trở nên những hướng dẫn viên, những bạn đồng hành có tâm hồn hào sảng, cởi mở, từ tâm của mọi người trên đường đến gặp Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Con người thích liên kết với nhau thành nhóm, khi có chung một ngành nghề, một sở thích, một lý tưởng… Các quốc gia cũng thích lập những liên minh để giúp nhau bảo vệ lợi ích của đất nước mình. Khi có những người gắn bó với nhau trong một nhóm thì tự nhiên có những người đứng ngoài nhóm đó. Ta dễ coi những ai ở ngoài nhóm là người xa lạ. Ông Gioan và cả Nhóm Mười Hai thật sự không vui khi thấy có một người lấy danh Thầy Giêsu mà trừ quỷ. Họ khó chịu vì tại sao người này dám làm như vậy. Chỉ ai ở trong nhóm của Thầy Giêsu mới có quyền đó. Bởi thế họ đã cấm anh ta và mách với Thầy chuyện này. Thầy Giêsu hiểu nỗi ấm ức của cả Nhóm, nhưng Thầy coi đây là một cơ hội để giúp họ mở lòng. Các ông chỉ thấy anh trừ quỷ là người ở ngoài Nhóm, nhưng họ lại không thấy anh này có sự gắn bó với Thầy. Anh ấy đã tin vào sức mạnh của Danh Giêsu trên ma quỷ, và đã thành công trong việc trừ quỷ cho người ta, điều mà trước đây chín môn đệ không làm được (Mc 9,18). Thầy Giêsu bảo các môn đệ cứ để anh ta yên. Anh ấy không phải là kẻ thù, nói xấu chống lại Thầy. Anh ấy là bạn của cả Nhóm, dù không ở trong Nhóm. Thầy Giêsu đã phá vỡ nơi trái tim của các môn đệ những hẹp hòi, độc quyền, những tự hào kiêu hãnh. Thầy mở họ ra trước một thế giới bạn bè đông vô kể. Có bao người không phải là kitô hữu hay công giáo mà vẫn làm được những điều tốt đẹp lớn lao nhờ được Thánh Thần Chúa âm thầm ban ơn soi sáng. Chúng ta phải coi những người ấy là bạn. Có người ngoài Nhóm trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu, cũng có người ngoài cho anh em uống một chén nước, vì anh em thuộc về Đấng Kitô, vì anh em là kitô hữu. Đức Giêsu nói người ấy sẽ được Thiên Chúa thưởng. Như thế có nhiều người tốt ở ngoài Công giáo. Ta sẽ gặp lại họ trên thiên đàng, những người này được thưởng vì họ đã gắn bó với Giêsu, theo những cách thức mà chính họ không hề biết. Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những người bé nhỏ. Họ là những người không có vai vế hay học thức cao. Họ dễ bị lôi kéo, bị tổn thương hay bị quên lãng. Đức Giêsu đặc biệt quan tâm đến họ. Ngài đòi không ai được khinh những người bé nhỏ, vì họ cũng có thiên thần riêng của mình (Mt 18,10). Ngài mời mọi người đón tiếp trẻ nhỏ (Mc 9,37), và cho những người anh em bé nhỏ nhất của ngài được ăn uống viếng thăm, được ân cần săn sóc (Mt 25). Chính thái độ này sẽ định đoạt cuộc sống vĩnh hằng, sẽ khiến họ được Chúa cho đứng bên hữu hay bên tả. Đức Giêsu còn mạnh mẽ bảo vệ người bé nhỏ. Không ai được làm cớ cho một người bé nhỏ vấp ngã, nghĩa là làm họ mất đức tin hay phạm tội (Mc 9,42). Người gây cớ sẽ phải chịu hình phạt rất nặng nề, vì đã làm một người yếu đuối mất ơn cứu độ. Thầy Giêsu mở rộng tầm nhìn của Nhóm Mười Hai, để họ thấy những người ở ngoài và tín hữu ở trong, những người đang làm phép lạ và đang cho họ ly nước, những thiểu số bị phân biệt đối xử trong cộng đoàn. Nhóm Mười Hai sẽ là những người lãnh đạo Giáo Hội. Thầy mời họ đón nhận và không loại trừ một ai, để vòng tay Giáo Hội mở ra đến vô cùng, để từ bây giờ, mọi người đã bắt đầu vào Nước Thiên Chúa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Cha của gia đình nhân loại, Chúa đã sáng tạo mọi người bình đẳng về nhân phẩm. Xin hãy đổ vào lòng chúng con tình huynh đệ, và gợi lên nơi chúng con ước mơ làm mới lại các cuộc gặp gỡ, đối thoại, công lý và hòa bình. Xin hãy thúc đẩy chúng con tạo ra những cộng đồng lành mạnh hơn, và một thế giới cao quý hơn, thế giới không có đói nghèo, chiến tranh hay bạo lực. Xin cho trái tim của chúng con mở ra trước mọi dân tộc và quốc gia trên mặt đất. Xin giúp chúng con nhận ra sự thiện mỹ mà Chúa đã gieo nơi lòng từng người chúng con, nhờ đó chúng con rèn đúc mối dây hiệp nhất, chia sẻ những dự án và những giấc mơ chung. Amen. Đức Thánh Cha Phanxicô
Ơn Chúa không dành cho riêng ai. Thiên Chúa là của mọi người. Thế nhưng vẫn có nhiều người làm như độc quyền trên Thiên Chúa, làm như Thiên Chúa là của riêng họ. Đó là thái độ của phái Pharisêu, và ông Gioan, môn đệ của Chúa Giêsu cũng lây nhiễm thứ tinh thần độc quyền đó.
Nhiều người tín hữu thiện chí cũng bị ảnh hưởng của thái độ độc quyền đó. Chúng ta cũng dễ bị giam tù trong những nếp sống đạo đức lỗi thời, những cái nhìn hẹp hòi, tưởng rằng phải bảo vệ chân lý, bảo vệ đạo Chúa, đừng để lây nhiễm những căn bệnh của thời đại. Sự khôn ngoan của loài người không bảo vệ được Thiên Chúa. Thiên Chúa là sự sống. Ngài không nằm trong những khuôn mẫu của loài người. Chúng ta không thể giam hãm Thiên Chúa trong những nguyên tắc khoa học hay trong bất cứ khuôn mẫu nào.
Chúa Giêsu là đường chứ không là một phiến đá. Ngài là tương lai, Ngài luôn lôi kéo chúng ta về tương lai của Ngài. Ngài là cùng đích của mọi sự. Ngài gồm tóm nơi Ngài tất cả mọi thiện hảo. Thánh Thần của Ngài là một ngọn gió, muốn thổi đâu thì thổi. Chúng ta không ngăn cản gió bằng bàn tay nhỏ bé của chúng ta.
Hãy chăm chú tìm thấy dấu vết của Ngài trong mọi sự, trong nụ cười trẻ thơ, trong màu sắc của hoa, của mây, của nước. Mọi thiện hảo là của Chúa. Chúng ta đừng ngăn cản người ta trừ quỷ, nhưng hãy cùng với mọi người thiện chí, chống lại tất cả những gì là gian ác, xấu xa.
Sự thiện được phản chiếu trong mọi tạo vật. Thiên Chúa là ánh sáng, Ngài phản chiếu sự huy hoàng của Ngài trong mọi người, trong mọi giọt sương long lanh, trong những mặt nước phẳng lặng, trong từng ánh mắt.
Hãy tẩy sạch những vướng mắc trong ánh mắt chúng ta để có thể nhìn thấy những gì tốt đẹp nơi mọi người, trong từ cố gắng âm thầm của họ. “Ai không chống chúng ta là ủng hộ ta”.
Chúa Giêsu đã đột nhập vào thế gian để tẩy sạch tất cả những gì xấu xa, để canh tân tất cả, để cứu vớt tất cả. Ngài mang lại cho thế gian tăm tối nầy ánh sáng của Ngài. Ánh sáng đó phản chiếu trong mọi người thiện chí dù không đồng tín ngưỡng với chúng ta. Ngài phá đổ tất cả những gì là óc bè phái, cực đoan, quá khích.
Lắm lúc chúng ta phải hỗ thẹn vì những người khác quảng đại hơn chúng ta. Một linh mục nói một cách mỉa mai: “Người Công giáo chúng ta được dạy dỗ từ nhỏ, vì thế họ tính kỷ lắm!”
Chúa Giêsu đã gieo mầm tình yêu ròng rã hai mươi thế kỷ, nhưng các Kitô hữu vẫn chia rẽ, bè phái và thậm chí hận thù nhau. Vẫn còn những hẹp hòi, vẫn còn những tự mãn kiêu căng, vẫn còn những mù lòa đáng tiếc? Tại sao?
Tìn Mừng tình yêu chưa thấm vào xương thịt chúng ta. Ánh sáng đã lu mời rồi chăng? Muối đã lạt đi rồi chăng? Không. Chúng ta phải cùng với Ngài làm một cái gì đó cho anh em chúng ta. Đừng loại trừ. Phải gom những gì tốt nơi anh em chung quanh chúng ta. Hãy hiến dâng nhiều hơn. Nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta cũng dám hi sinh để làm cho thế giới nầy tốt hơn, nhân đạo hơn. Khuôn mặt của Chúa Giêsu ẩn hiện trong những hy sinh đó.
Chúa Giêsu nói đến một ly nước lã cho một người thuộc về Ngài, vẫn được phần thưởng. Ngài muốn nói gì?
Ngài muốn chúng ta nhìn người anh em là hiện thân của Ngài. Họ không là người xa lạ mà là người nhà của Thiên Chúa, người đã được cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. chỉ một ly nước mát thôi cũng được ân thưởng, nhưng… Nếu chúng ta làm cớ cho họ vấp phạm thì sao?
Không lúc nào chúng ta thấy Chúa Giêsu đanh thép đối với những người làm gương mù gương xấu, làm cớ vấp phạm cho những người bé mọn như thế. “Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn”.
Chúng ta thấy Chúa quí chuộng những người bé mọn như thế nào! Còn chúng ta?
Chúa Giêsu đã trở thành người bé mọn nhất. Máng cỏ, Nadaret, những con đường nắng cháy và cuối cùng Giếtsêmani và đỉnh đồi Canvê thống khổ…
Sống cho ai? Cho những người bé mọn như Ngài. Ngài đến để cứu vớt. Ngài trả giá cho hạnh phúc của nhân loại. Ai làm cho một người bé mọn mất đi hạnh phúc mà Ngài đã chuộc lại bằng cả cuộc đời và đau khổ của Ngài, thì đương nhiên, không thể tránh hậu quả. Và nếu chúng ta làm cho chính mình mất đi hạnh phúc đó thì sao? Hậu quả cũng rất tai hại. Vậy nếu cần, phải dám móc mắt, chặt tay…
Đây chỉ là một cách nói nhưng là một cách nói hết sức đanh thép.
Hạnh phúc Chúa ban quí hơn cả mạng sống huống chi một phần thân thể! Tác giả thánh vịnh cũng nói: “Tình yêu Chúa quí hơn mạng sống, môi con ca ngợi Chúa muôn đời”.
Vì hạnh phúc của chúng ta, Chúa Giêsu đã trả một giá rất đắt. Chúng ta không dam trả giá sao? Nghe Chúa nói chúng ta ngao ngán sao?
Chúng ta chưa biết được vinh quang Chúa dành cho chúng ta sau cuộc sống nầy. Thánh Phaolô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta”. Các thánh đã hiểu được điều đó, vì thế các ngài đã dám từ bỏ mọi sự để theo Ngài. Các thánh tử đạo dám liều mạng. Chúng ta làm gì?
Chúa cũng nói: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Chúa đòi buộc gắt gao, nhưng phần thưởng Nước Trời thì không gì so sánh được. Con đường núi Sọ đau đớn thật, nhưng nó dẫn tới phục sinh và trường sinh.
Chúa còn đòi buộc hơn nữa: “Anh em hãy làm nhân chứng cho Thầy”. Chúng ta hiểu được không? Muốn như thế, phải móc mắt, chặt tay… Nghĩa là dám hi sinh đến mức cuối cùng và nếu cần chết cho Ngài.
Điều nầy xem ra như mơ mộng, nhưng là thực tế mỗi ngày là dám chống lại tội lỗi và gian ác dưới bất cứ hình thức nào. Cần hi sinh những cái nhỏ bé để đạt được những điều vĩnh cửu.
Chúa Giêsu đã làm gương suốt đời Ngài, một mẫu gương sống động, rõ ràng. Hiện nay vẫn còn hiển hiện trước mắt chúng ta qua cây thập giá mà chúng ta vẫn thấy hằng ngày mà chúng ta không còn chú ý.
Làm chứng cho Chúa là ơn gọi của mọi người chúng ta. Làm chứng bằng một cuộc sống yêu thương như Ngài, yêu thương đến mức độ liều mạng. Chúa vẫn đi trước và vẫn còn đồng hành với chúng ta qua bí tích Tình Yêu. Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Ngài khi chúng ta mặc lấy những tâm tình của Ngài, như thánh Phaolô đã dạy. Ăn lấy Chúa để nên một với Ngài, yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Con đường còn dài, cứ tin cậy và bước tới, vì cuối đường vẫn có Ngài ở đó.
Một trong những tình bạn đẹp mà Linh mục Cao Vĩnh Phan (1924 - 2011) có được với các Đại đức và Thượng tọa phải kể đến tình bạn giữa Đại đức Thích Thiện Hiền và Thích Huệ Tánh. Đại đức Thích Thiện Hiền trụ trì tại chùa Phú Sơn gần nhà thờ giáo xứ Thánh Mẫu, nơi Lm Cao Vĩnh Phan làm Cha xứ từ 1975 đến 1991. Hai người đã kết nghĩa anh em với nhau; Lm Phan là anh và Đại đức là em, bởi vì ngài lớn tuổi hơn. Hai anh em thường gặp nhau, động viên nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Lúc Đại đức đau ốm, Lm Phan đến thăm nom săn sóc, và ngược lại. Thân nhau đến nỗi nhiều lần Đại Đức đã nhờ Lm Phan cạo đầu cho mình.
Giữ lời đã nói với Đại đức: “Thầy tịch trước tôi không quên, thầy tịch sau tôi nhớ mãi”. Lm Phan thường đến thăm viếng Đại đức Thích Thiện Hiền trong thời gian bệnh nặng và có mặt lúc lâm chung cũng như đã tham dự đám tang. Tiếp theo sau nghi thức tôn giáo nhà Phật, Lm Phan cũng đọc Điếu văn phân ưu và một lời nguyện theo đức tin Công giáo.
Sau lễ an táng của Đại đức nhiều người nói với nhau rằng: “Đám tang của Thầy Hiền là đặc biệt hơn cả, vì có Linh mục và bổn đạo giáo xứ Thánh Mẫu tham dự một cách tích cực và có lời phân ưu nồng nhiệt chân tình chưa từng có.” Bà con họ hàng của Đại đức Thiện Hiền cũng đến giáo xứ Thánh Mẫu để cám ơn Cha xứ. Có mấy người ôm lấy ngài và khóc. Họ nghẹn ngào nói: “Như vậy là Thầy chúng tôi đã viên tịch, Cha không còn có dịp mà đến với chúng tôi nữa, nhưng chúng tôi luôn coi Cha như người thân thay thế Đại đức Thích Thiện Hiền. Xin Cha thương chấp nhận lời khẩn cầu nầy!”
Từ ngày ngài bị bệnh phải nghỉ hưu tại Viện Dưỡng Lão Chí Hòa (cuối năm 1992), nhiều Đại đức, Thượng tọa và đạo hữu Phật giáo vùng Phan Thiết và Mũi Né thường xuyên vào thăm ngài. Có nhiều khi họ đi cả phái đoàn vài ba chục người. Dịp lễ Giáng Sinh năm 1993 có mấy Đại Đức đã đưa các đệ tử và đạo hữu vào thăm cha Phan. Họ nói rằng: “Muốn vào thăm Cha vào dịp lễ Noel vì từ khi Cha đi không còn ai mời đi dự lễ Noel nữa”. Hiểu được nguyện vọng của họ, sau khi trò chuyện thăm hỏi, Lm Phan mời họ vào nhà nguyện viếng hang đá. Sau một lúc quì cầu nguyện, ngài giải thích cho họ về ý nghĩa lễ Giáng Sinh, dựa vào câu Kinh Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Kết thúc buổi gặp gỡ thăm viếng, ngài bộc phát nguyện: “Lạy Chúa, đây là những vị Tăng Ni Phật tử thân thương từ Phan Thiết vào thăm con tại nhà hưu dưỡng nầy. Các vị thật là những “người thiện tâm”, các ngài muốn nghe Chúa nói. Vậy con tha thiết cầu xin Chúa nói cho các ngài hiểu biết về Chúa. Con muốn nói và nói nhiều lắm, nhưng con không đủ sức, và các ngài cũng không đủ thì giờ, vì phải về. Con tin Chúa thiêng liêng quyền phép. Xin Chúa hãy tỏ mình ra cho các vị như xưa Chúa đã tỏ mình ra cho ba Vua và các mục đồng. Con xin dâng tất cả các vị cho Chúa. Xin Chúa chúc lành cho các vị đi về bằng yên. Con xin Chúa ở với các vị luôn mãi và ban ơn cho các vị và gia quyến để chúng con cùng được làm con Chúa như nhau. Con cầu xin như vậy nhân danh Chúa Giêsu là Chúa của chúng con. Amen!” (Lm Phêrô Đan-Minh, Lm GBT Cao Vĩnh Phan Với Định Hướng Truyền Giáo Mới)
Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu hoàn toàn bác bỏ thứ đạo “pháo đài” độc quyền, độc tôn, độc trị, mà rộng cửa đón nhận những người thiện tâm. Điển hình như cố Linh mục GBT Cao Vĩnh Phan thấm nhuần Lời Chúa, đã gần gũi với quý tu sĩ Phật giáo, cùng đồng hành trên đường hy vọng.
Để có thể đến với tha nhân, nhất là đến với anh em ngoài Kitô giáo, Đức Giêsu yêu cầu xả kỷ, bỏ đi chính bản thân, thậm chí chặt tay, chặt chân, móc mắt, bỏ đi những chướng ngại vật, ngăn cản, hay chệch đường đến với Nước Chúa. Rồi Người còn khuyến khích tích cực cho đi, hy sinh, dấn thân phục vụ vì danh Chúa.
Bỏ đi
Dĩ nhiên chẳng có ai ngây ngô hiểu theo nghĩa đen những ngôn từ gay gắt về xả kỷ của Đức Giêsu. Điều quan trọng là Người chẳng ngại biểu lộ một cách cứng rắn, thậm chí quá khích, kịch liệt chống lại tà tâm, tính tham lam và thói bạo lực của con người.
Con mắt vốn là cửa sổ tâm hồn, mà làm dịp tội, chính là con mắt tà tâm, dục vọng, đam mê hưởng lạc, ham muốn xác thịt, sẽ dẫn dắt bản thân lụy vào cạm bẫy nguy hiểm, chìm vào bùn lầy nhầy nhụa, sa đọa, không còn lối thoát. “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt 5, 28) Do đó, cần dứt khoát đoạn tuyệt với tội lỗi, tựa như móc mắt bỏ đi. “Hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục.”
Còn bàn tay tham lam vơ vét chiếm đoạt bao nhiêu cũng chưa đủ. Bàn tay thủ đoạn, chia rẽ, cướp giật, đánh đấm, gian lận, nhám nhúa, tham ô, rút ruột, móc ngoặc, trừ khử, xô đẩy, xua đuổi, khước từ. Đức Giêsu nghiêm khắc cảnh cáo thói tham lam vụ lợi: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12, 15) Vì thế, “thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt.”
Hơn nữa, cái chân cứng rắn, đấu đá, tranh giành, bạo lực, bất nhân, vô liêm sỉ, leo lên đầu lên cổ thống trị thiên hạ, áp bức người lành, ức hiếp người yếu, chà đạp nhân phẩm. Tuy nhiên những người khốn khổ, bị đàn áp đó lại là chính Đức Kitô ẩn mình, nên đừng để Chúa phải lên tiếng cảnh cáo như với Saulô: “Khốn cho ngươi là kẻ dám đem chân đạp mũi nhọn.” (Cv 26, 14) Thế thì, cần can đảm loại bỏ, chặt đứt đi, “thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục.”
Tóm lại, Đức Giêsu khuyên người Kitô hữu hãy buông xả tất cả những gì dính líu, dây mơ rễ má, tham sân si, ngăn chận, cản trở con đường theo Người và đến với anh chị em: “Vậy ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. (Lc 14, 33)
Cho đi
Loại bỏ được những rào chắn, ngăn cách, bất đồng, chia lìa, hay dửng dưng, xa lạ với tha nhân, mới có thể trao cho nhau cái nhìn dịu dàng, nụ cười tươi tắn, câu chào hỏi thương mến. Trước hết đến với nhau bằng tấm lòng chân tình, thái độ cởi mở, thân thiện. Rồi mới có thể quan tâm đến nhau, cư xử lễ độ, lịch sự và tử tế với nhau, thân ái trao nhau một chút quà mọn, một tấm bánh, hay một ly nước, công khai thể hiện tình người và tình yêu Chúa: “Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
Ly nước chẳng đáng giá chi, nhưng tràn đầy tình yêu Đức Kitô, đang ẩn mình trong hình hài tha nhân tầm thường, nghèo khó, bệnh hoạn, cơ nhỡ, côi cút, bị bỏ rơi, đau khổ. Một việc nhỏ, xoàng xĩnh như cho một ly nước còn được khen thưởng hậu hĩnh, huống chi những việc ý nghĩa hơn càng đẹp lòng Chúa biết bao!
Cho đi tương thân tương ái, không đòi hỏi phải làm những việc bác ái, từ thiện hào phóng, quy mô, vĩ đại, mà thường nhật chỉ là những việc trong tầm tay, như chia sẻ, an ủi, khích lệ, giúp đỡ những người gần gũi, khi họ đang có nhu cầu cấp bách và chính đáng, như chăm lo kẻ khốn khó, thất nghiệp, đau yếu, hoạn nạn.
Cho đi tấm gương sáng chứng nhân, chứ đừng cho đi gương mù gương xấu, kẻo làm méo mó, lệch lạc dung nhan Đức Giêsu. Cố gắng cho đi con người đổi mới, nhân ái, tốt lành đã được Đức Giêsu giải thoát khỏi xiềng xích của xác thịt, ma quỷ và thế gian. Cho đi không chỉ tấm lòng mà còn cả thân xác, sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người, mọi lúc và mọi nơi. “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” (Rm 14, 7-8) Mà Thiên Chúa luôn hiện hữu trong tha nhân, nên sống hay chết cho Chúa, cũng là sống hay chết cho tha nhân vậy.
Cho đi thì sẽ được lãnh thưởng bội hậu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."(Lc 6, 38)
“Chính lúc hiến mình, con tập biết hiến mình. Vì nói hiến mình dễ, thực sự hiến mình khó; giảng khuyên hiến mình dài, tình nguyện hiến mình ngắn; hô hào hiến mình đông, bền đỗ hiến mình hiếm.” (Đường Hy Vọng, số 609)
Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình. (Kinh Hòa Bình)
Lạy Mẹ Maria nhân lành, Mẹ đã bỏ đi tất cả ý riêng, để hoàn toàn “Xin Vâng” theo Thánh Ý Chúa. Mẹ đã dấn thân sống cho Chúa và cho tha nhân. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, để luôn vinh dự được Chúa ở cùng. Amen.
Thái độ dứt khoát trong mỗi quyết định rất ư cần thiết. Sống ở đời, biết bao lần chúng ta phải đắn đo suy nghĩ đưa ra sự lựa chọn dù khó khăn, nhưng lại hết sức cần sự dứt khoát, kiên vững!
Nhiều người đã trải qua kinh nghiệm chữa trị khi bị rắn cắn hay bị kiến ba khoang đốt rất hiểu rõ về sự dứt khoát này. Một khi nộc độc của rắn hoặc độc tố của kiến ba khoang loang ra từ vết cắn hay vết đốt thì việc dứt khoát hy sinh cắt đi bộ phận bị nhiễm độc hầu tránh hoại tử và dẫn tới tử vong quả thật rất hệ trọng.
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, thái độ dứt khoát với tội lỗi, với thói quen xấu xa tồi tệ của chúng ta không thể thiếu được. Tuy Đức Giê-su dùng lối diễn tả mạnh mẽ, và có thể khiến ai đó cảm thấy lo sợ, nhưng Ngài chủ yếu nhắm tới thái độ, hành động dứt khoát với tội lỗi như thể thà mất đi một bộ phận, còn hơn toàn thân bị huỷ hoại: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục…” (x. Mc 9, 43-47). Lẽ dĩ nhiên, muốn có được thái độ dứt khoát này, chúng ta phải khởi sự từ trong tư tưởng, tâm trí và tâm hồn của chúng ta. Lời nói không hay, hành vi hoặc hành động không tốt đều bắt đầu từ tư tưởng đen tối của mình. Để dứt khoát, cắt đi cơn đau nơi thân thể, chúng ta nên chặn đứng mọi điều khiến mình sa ngã, lạc lối ngay trong lối suy nghĩ bất chính, mưu mô, v.v…
Hơn nữa, thái độ dứt khoát này khiến chúng ta năng chạy đến với Chúa, kín múc ân sủng của Ngài, rồi vui vẻ cộng tác, xét mình mỗi ngày và từng giây phút trong đời sống thường nhật. Nếu chúng ta quên đặt mình trước Chúa, nhìn lại bản thân, thì chắc hẳn thời gian ấy dường như dành cho việc ‘nhận xét người khác, hơn là xét mình’, mà tệ hơn là ‘xét đoán’. Chuyện này cũng đã xảy ra thời ông Mô-sê, được sách Dân Số kể lại: “…có hai vị ở lại trong lều trại, một người tên là El-đad, và người kia tên là Mê-đad. Thần Trí đã ngự trên hai ông: vì hai ông được ghi tên vào sổ, nhưng không đến ở trong nhà xếp…Tức thì Gio-suê, con ông Nun, tuỳ tùng của ông Mô-sê, và là kẻ được chọn trong số đông người, liền thưa rằng: “Hỡi ông Mô-sê, xin hãy cấm chỉ các ông ấy đi”…Ông Mô-sê đáp lại rằng: "Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Ngài cho họ”” (x. Ds 11, 26. 28-29). Thái độ kiên quyết dứt khoát với tội lỗi thường gắn liền với tâm tình ăn năn sám hối tận căn (metanoia), thú nhận tội lỗi mình và thật lòng quay về với Thiên Chúa như Thánh Gia-cô-bê đã chỉ ra một phần nào đó trong bài đọc II: “Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi…Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính…” (x. Gc 5, 4-6).
Sau cùng, để có thái độ dứt khoát với tội lỗi, chúng ta không thể gây cớ hoặc tạo dịp cho người khác vấp phạm đươc. Đúng hơn, chúng ta thật sự phải sống gương mẫu, hân hoan thực thiện những gì Đức Giê-su truyền dạy, chứ không trở nên gương mù gương xấu cho người khác, vì “nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn” (Mc 9, 42). Trong gia đình, bố mẹ sống làm gương cho con cái chăng? Nơi hàng xóm láng giềng, chúng ta là những người Công Giáo có ý thức sống yêu thương, tha thứ, sống chứng tá cho Chúa không? Nơi cộng đoàn dòng tu, giáo xứ lớn nhỏ, chúng ta có sống hợp nhất, và làm gương chia san, hiệp thông với nhau chăng? Với vai trò, trách vụ và bậc sống của mỗi người, chúng ta đã nỗ lực, cộng tác sống như Chúa dạy và làm gương lành gương tốt trong môi trường xã hội chung quanh mình chưa? Khi nhìn lại bản thân một cách kỹ lưỡng, chúng ta thấy mình thường làm những gì ngược lại với Chúa dạy, hoặc chúng ta chưa dứt khoát ‘gạn khơi đục trong’, và chưa hết lòng kiên vững theo Chúa! Vì vậy, biết bao nhiêu sự cố đã diễn ra vô tình hay hữu ý, gây tổn hại cho nhau, cho gia đình, cho cộng đoàn!
Với ơn Chúa và nhờ ơn Ngài, chúng ta chạy đến van nài được luôn kiên vững trong đức tin, dứt khoát với mọi điều khiến mình xa lìa Chúa và anh chị em!
Chúa yêu con nồng nàn Chẳng một lời than van Hy sinh trót xác hồn Tận hiến cùng trao ban. Xin cho con theo Ngài Chân tiến bước không ngại Dứt khoát và vững chãi Không hề xét đoán ai…Amen!
Câu hỏi mà rất nhiều người trong chúng ta, không biết bao nhiêu lần đã thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa có thương con không?” Tôi tin chắn rằng, tận trong cõi thâm sâu của lòng trí mình, với tiếng lương tâm, lần nào chúng ta cũng nghe được lời đáp trả của Chúa: “Ta rất thương con!” Thiết tưởng, chúng ta cũng sẽ không bao giờ thỏa mãn, nên luôn lại hỏi Chúa: “Lạy Chúa, hãy chỉ cho con thấy tình thương của Chúa, hay làm sao để cho con biết được là Chúa đang thương con!”
Trong lời nguyện nhập lễ của cả tuần này, chúng ta sẽ thân thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng Chúa tỏ tường hơn cả”. Vậy thưa AEC, quyền năng của Chúa là gì nếu không phải là tình yêu thương, quyền năng của yêu thương này, giúp cho con người chúng ta đạt đến và cảm nghiệm được niềm vui-hạnh phúc thực sự mà Chúa muốn trao ban và cũng là điều mà mỗi người chúng ta đang hết lòng tìm kiếm, mong đợi. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay, đang soi sáng và giúp chúng ta hướng lòng về Thiên Chúa với quyền năng yêu thương của Ngài.
Trong bài đọc một (Ds 11, 25-29), quyền năng tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua vai trò lãnh đạo của ông Môisê và qua Môisê, ơn ban của Thánh Thần lại được trao ban đến cho các kỳ mục, để nhờ đó mà toàn thể dân chúng đều có thể nhận biết, cảm nếm được những huấn lệnh và thánh ý Chúa. Thật vậy, nhờ qua những huấn lệnh này, mà mọi người có thể sống tốt, sống đẹp lòng Giavê Thiên Chúa, sống đúng với phẩm giá là dân riêng của Chúa. Thế nhưng, khi con người không biết mở lòng và khiêm tốn để đón nhận, thì họ lại sinh lòng ghen tức, ganh tị, thế nên họ đã đi báo cho Môisê để ngăn cấm những người được trao ban sứ vụ ngôn sứ này. Chúng ta hãy gẫm suy điều mà Môisê nói với dân chúng: “Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ”. Thật vậy, thay vì phân bì, ghen tức, con người phải biết cảm tạ và tri ân, vì Đức Chúa đã yêu thương dân Ngài mà ban Thần khí và quyền năng của Chúa cho những con người được chọn này, để họ thay mặt Chúa mà chuyển tải, rao truyền thánh ý tình thương của Chúa cho mọi người.
Thật vậy, trước ơn ban của tình yêu, con người chúng ta phải biết khiên tốn để tìm kiếm và tin nhận. Đây chính là sứ điệp mà bài đọc hai (Gc 5, 1-6) đã mời gọi chúng ta suy niệm. Tại sao chúng ta phải tìm kiếm thánh ý và tình thương của Chúa? Tại sao Chúa không tỏ ra cho chúng ta thấy cách tỏ tường luôn? Thật ra, vì trong cuộc sống chúng ta luôn chạy theo và tìm kiếm của cải vật chất, tiền bạc, danh vọng và địa vị ở trần gian này. Không những thế, thay vì tìm kiếm Chúa, chúng ta chạy theo để tìm những thú vui, khoái lạc, đời sống sa hoa, để làm sao mình có thể vui sướng thỏa thích những nhu cầu trần tục tạm bợ của cuộc sống này. Và kết cục mà con người nhận lại được là gì, nếu không phải là những đau khổ, hận thù, chia rẻ, tai họa, tội lỗi và sự chết. Thế nên, thay vì chạy theo những nhu cầu tạm bợ và hư vô, rồi phàn nàn than trách Chúa không thương, thì chúng ta hãy nỗ lực để tìm kiếm và tinh nhận tình thương và quyền lực của Chúa qua những hành động bác ái yêu thương, qua những việc tốt lành đem lại ơn ích cho ACE mình.
Hãy tìm kiếm Chúa qua các điều lành, điều thiện, hãy làm điều tốt cho tha nhân, chính là sứ điệp mà bài tin mừng hôm nay (Mc 9, 37-47) Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ và mỗi người chúng ta. Khi các môn đệ, thấy một vài người nhân danh Chúa để trừ quỷ thì các ông muốn ngăn cấm và trình báo với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Nếu đọc lại bài đọc một, chúng ta cũng sẽ thấy cách hành xử của các môn đệ giống như những người đến báo với Môisê. Chúng ta hãy cùng nhau suy gẫm lời dạy của Chúa cho các môn đệ: “Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Chúa Giêsu khuyến khích mỗi người chúng ta hãy làm điều tốt, điều lành, vì mỗi người chúng ta, trong vai trò và sứ vụ của người con cái Chúa, mỗi người chúng ta luôn được Thánh Thần ban cho những ân sủng khác nhau. Thế nên, nhận ra được những ơn ban, những đặc sủng riêng biệt từ Chúa là để yêu thương và phục vụ Chúa qua tha nhân, đây thật là điều mà Chúa đang mong muốn nơi chúng ta.
Tuy nhiên, trong khi thi hành sứ vụ, Chúa cũng khuyến cáo mỗi người chúng ta là hãy khôn ngoan và khiêm tốn dưới sự linh ứng của Thánh Thần, vì bản tính yếu đuối của con người, nên nhiều khi, chúng ta mang danh Chúa, thay vì để làm đều tốt-điều thiện, chúng ta lại gây nên những gương mù-gương xấu. Do đó, nếu lời nói, cử chỉ, hành động hay việc làm của chúng ta mà không giúp ích cho ACE mình, để họ cũng nhận ra được tình thương và ơn thánh Chúa thì sẽ luôn bị lên án: “Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”. Thật vậy, quyền năng và tình thương của Chúa luôn trao ban để cho chúng ta làm mà tôn vinh danh thánh Chúa, làm để trở nên gương sáng, nên ơn ích giúp cho tha nhân. Thánh Têrêxa HĐ. Giêsu chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta mỗi khi làm bất cứ điều gì: “Lạy Chúa, con làm việc này, vì con yêu mến Chúa và vì muốn cứu rỗi các linh hồn”.
Lạy Chúa, xin ban thêm sức mạnh ơn thánh Chúa cho chúng con, để với tình thương và quyền năng Chúa, chúng con luôn sống và làm mọi việc, hầu làm lan tỏa tình thương và ơn thánh Chúa cho tha nhân. Amen.
kiểm tra trước” (Pre-Check). Tôi không hiểu tại sao lại như vậy, nhưng tôi vô cùng biết ơn khi đi vào lối kiểm soát an ninh nhanh hơn và không phải trút bỏ hầu hết áo bên ngoài mình. Tôi nhớ đã nói điều này với bạn tôi, người đã trả tiền cho đặc quyền kiểm tra trước này, và anh ấy không lấy gì làm vui. Anh ấy nhắc đi nhắc lại với tôi rằng tôi đã được hưởng quyền lợi mà không cần phải là thành viên. “Hội viên có đặc quyền” là khẩu hiệu cũ của thẻ tín dụng American Express. Bài đọc I và bài Tin Mừng thách thức não trạng coi đặc quyền chỉ dành riêng cho những ai là thành viên.
Trong bài đọc I trích sách Dân Số, chúng ta gặp hai người là En-dat và Mê-đat, những người đã nhận được đặc ân của Thần khí và bắt đầu nói tiên tri, mặc dù các ông đang ở bên ngoài trại, nơi 70 bô lão đang tụ tập. Bực tức và có phần ghen tị vì hai người này đang nói tiên tri, Giô-suê chạy đến ông Mô-sê để xin ngăn cản họ. Chúng ta nhớ rằng Gio-suê từ khi còn trẻ là phụ tá của ông Mô-sê, nên ông ta cảm thấy có quyền đặc biệt, muốn kiểm soát Thần khí và kiểm soát ai là người được nói tiên tri. Nhìn thấy toàn bộ vấn đề và không muốn cản trở Thần khí, ông Mô-sê khuyên Giô-suê đừng ngăn cản điều gì là tốt lành và ân phúc. Ông Mô-sê thốt lên: Chớ gì toàn dân Chúa đều là những nhà tiên tri! Ông còn nhắc Giô-suê rằng Thần khí Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho những thành phần có đặc quyền.
Qua đến bài Tin Mừng, ở đây ngay cả Gio-an cũng có thái độ tương tự như Giô-suê. Gio-an đến gặp Chúa Giêsu và thưa: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Gio-an ghen tị và tức giận vì ai đó không thuộc nhóm môn đệ Chúa lại có thể xua đuổi ma quỷ. Điều trớ trêu ở đây là chỉ vài câu Kinh Thánh trước đó, Gio-an và các môn đệ Chúa đã không thể xua trừ một tên quỷ ra khỏi một cậu bé (Mc 9, 14ff). Chúa Giêsu quở trách Gio-an và dạy ông rằng ai không chống chúng ta là ủng hộ chúng ta. Người lại còn xác nhận bài học là công việc của Thiên Chúa không dành riêng cho người thuộc phe nhóm.
Các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta là những người có đức tin, phải chú ý đến những điều quan trọng. Cả Giô-suê lẫn Gio-an đều không nhận ra được điều cốt yếu, đó là sứ mệnh của Thiên Chúa trên thế giới. Chúa Giêsu không thắc mắc về những việc lành người ta làm nhân danh Người, Người cũng chẳng quan tâm ai làm những việc đó. Trong khi Gio-an bận tâm đến những đặc quyền đặc lợi của nhóm môn đệ, thì Chúa Giêsu lại nhắc nhở các môn đệ rằng đi theo Người là phải phục vụ.
Giáo huấn của Chúa Giêsu là “ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” đặc biệt phù hợp cho thế giới ngày nay. Đó là lời kêu gọi hiệp nhất và lời kêu gọi lòng bao dung giữa dân Thiên Chúa. Khi chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng mình có danh nghĩa và quyền năng của Chúa Giêsu, thì Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mở rộng tầm nhìn của mình xa hơn. Bất cứ khi nào chúng ta chứng kiếnnhững việc làm của tình yêu, tha thứ, bác ái, công lý, chữa lành, giải phóng, xây dựng hòa bình, lòng thương xót, và những việc tương tự - bất kể từ đâu đến – thì những việc làm ấy đều là công việc của Chúa Kitô.
Chúng ta không biết tại sao người đó trừ được quỷ, nhưng chúng ta biết rằng việc trừ quỷ là một điều tốt. Người đó có ý tốt khi ý thức rằng thực sự có một quyền nhân danh Đức Giêsu, và quyền năng này luôn phải được sử dụng để mở mang Nước Thiên Chúa. Xin cho chúng ta là những người theo Chúa Kitô đừng bao giờ trở thành chướng ngại vật cho công việc của Thiên Chúa trên thế gian. Nguồn: The Homiletic & Pastoral Review – (hprweb.com)
Lời Thiên Chúa là lời sống động hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người (Heb 4, 12). Chúng ta có thể thấy điều này nơi lời Chúa Giêsu hôm nay.
Tin mừng cho chúng ta thấy có những lời của Chúa Giêsu được gọi là tin mừng dữ dội như câu: "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: Thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".
Cha Nguyễn Hồng Giáo gọi những lời này và cả bài giảng trên Núi là Tin Mừng dữ dội. Còn Đức Giám mục Athur nói đó là những lời đẫm máu và rùng rợn. Chúng ta có thể hiểu đây là lối nói ngoa dụ vùng Sêmit quá mạnh mẽ và điều chắc chắn là Chúa Giêsu không bắt ta hiểu theo nghĩa đen, chẳng vậy thì các Kitô hữu đều là những người cụt tay cụt chân và chột mắt hết, đàng khác mất đi một chi thể nếu không quyết tâm chừa bỏ, người ta vẫn có thể phạm tội được như khi có đủ cả hai chân hai tay và hai con mắt, nhưng Chúa cũng muốn chúng ta không được làm nhẹ ý nghĩa của Lời Chúa dạy vừa rồi.
Về phương diện y khoa, nhiều khi chúng ta phải chấp nhận giải phẫu cắt bỏ khối u, cắt đi một bên ngực, tháo khớp đi một cái chân do biến chứng bệnh tiểu đường để cứu lấy sự sống của toàn thân thế nên ở đây khi dạy phải chặt tay chặt chân và móc mắt là Chúa muốn chúng ta phải có thái độ quyết liệt với tội lỗi và cố gắng tránh xa dịp tội để không đánh mất sự sống đời đời.
Về phương diện tu đức: Càng biết tránh dịp tội thì càng ít phạm tội. Vậy khi có dịp tội, ta cần phải khước từ kể cả những gì ta rất yêu quí như lời kinh Ăn năn tội: "thì con sẽ lánh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen". Giáo hội phong thánh cho Maria Goretti, một thiếu nữ mới 13 tuổi vì cô đã hi sinh mạng sống để bảo vệ đức trinh khiết và tha thứ cho kẻ giết mình cầu mong anh ta sám hối để được lên Thiên đàng với cô. Thánh thiếu niên Đa minh Saviô ngày Rước lễ lần đầu đã viết vào nhật kí: "Tôi thà chết chứ không phạm tội".
Tinh thần bao dung: Ông Gioan thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỉ, kẻ đó không theo chúng ta, và con đã ngăn cấm y" Chúa Giêsu không đồng ý với việc làm có tính cách cục bộ hẹp hòi như vậy của Gioan khi ông chỉ muốn dành độc quyền cho nhóm mình được nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỉ, nên Chúa nói: "Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà trừ quỉ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con".
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta cũng thấy ông Môsê cũng có quan niệm rộng mở tương tự: Các vị bô lão được tuyển chọn có trong danh sách đều tới lều Hội Ngộ để được tấn phong nhưng có 2 vị không biết vì lí do gì không tới được mà cứ ở lại trong lều của mình, và khi Thiên Chúa lấy thần trí của Môsê mà phân phát cho các vị bô lão kia thì hai người có tên là El-đad và Mê-đad mặc dù ở trong lều mình vẫn được ơn nói tiên tri. Giosuê thấy vậy thì không bằng lòng nên bá cáo với ông Môsê và xin ông Môsê hãy cấm chỉ hai ông ấy. Nhưng ông Môsê đáp lại: "Ngươi phân bì dùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần trí Người cho họ".
Quan niệm rộng mở của Môsê là đúng với đường hướng của Chúa Giêsu và Giáo hội sau này. Cho nên chúng ta thấy ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống tràn đầy không những trên Đức Mẹ và các tông đồ mà còn trên tất cả mọi người hiện diện lên tới con số 120 trong phòng họp trên lầu (Cvtđ 1,15). Thánh Phaolô nói: "Không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa mà người ấy không ở trong Thần khí (1Cr 12,32) Và phàm ai được Thần khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa (Rm 8,14)" Chúa Giêsu đã nói về sự tự do hoạt động của Thần khí Thiên Chúa với ông Nicôđêmô qua hình ảnh: "Gió muốn thổi đâu thì thổi" (Ga 3,8). Công đồng Vatican II nối tiếp quan niệm rộng mở đó nên đã canh tân Phụng vụ rất nhiều như không buộc làm lễ bằng tiếng la tinh như trước mà được làm lễ bằng ngôn ngữ địa phương, giáo dân được lên cung thánh đọc sách thánh, các tu sĩ và ngay cả giáo dân cũng có thể cho Rước lễ... rồi Công đồng còn tái lập chức Phó tế vĩnh viễn cho những người đàn ông có khả năng và đạo đức đã sống đời sống hôn nhân gia đình.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói trong ngày lễ Đăng quang: "Các bạn đừng sợ nhưng hãy mở rộng tâm hồn cho Chúa Kitô". Chúng ta đón nhận lời Chúa dạy về việc quyết liệt tránh dịp tội và sống theo tinh thần rộng mở bao dung của Chúa Giêsu: không hẹp hòi kì thị, cục bộ nhưng hãy để Chúa Thánh Thần thổi luồng gió mới canh tân tâm trí chúng ta để trở nên con người mới như Chúa mong muốn. Amen.
1. Bản văn này bàn đến mấy vấn đề tất cả? Mc đã dùng cách nào mà liên kết chúng? 2. Tiếng “theo chúng tôi” (2 lần) nơi c.38 có gì lạ? 3. Câu 41 nói lên mấy khía cạnh của thiên chức Kitô hữu? 4. “Kẻ nhỏ đã tin” nơi c.42 phải chăng là tiếng chỉ các em bé? 5. Phải chăng nơi cc.43-48, Chúa Giêsu muốn bảo rằng việc cắt bỏ tứ chi là cách thức hay nhất để vĩnh viễn loại trừ các dịp tội?
I. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU NÓI VÀ SỰ DUY NHẤT CỦA BẢN VĂN
Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Mc 9,38-38 bàn đến nhiều vấn đề có vẻ rất khác biệt. Câu Gioan hỏi và lời Chúa Giêsu đáp về kẻ trừ quỷ xa lạ với nhóm Mười hai làm nên một khối duy nhất (cc. 38-40. Nhưng với câu nói về ly nước cho môn đồ (c.41), chúng ta thay đổi đề tài cách đột ngột mặc dầu có chữ gar Hy lạp nối câu nói này với câu nói trước). Và đoạn văn nơi c.42 về gương xấu “cho một trong các kẻ nhỏ đang tin này” (các kẻ nhỏ nào?) cũng thấy sao sao. Bắt đầu từ c.43, vẫn còn vấn đề gương xấu hay dịp tội, nhưng trong một viễn ảnh luân lý cá nhân hoàn toàn.
Cảm tưởng lộn xộn này càng tăng thêm nếu ta đặt lại cc 38-48 vào trong văn mạch của chúng. Chúng là thành phần của cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu với nhóm Mười hai (Mc 9,33-50) mà mở đầu là một tranh luận về kẻ lớn nhất (cc. 33-35), rồi tiếp theo là lột giáo huấn về việc tiếp đón “một trong các trẻ nhỏ này” (cc. 36-37). Sự liên quan giữa hai chủ đề này không rõ gì lắm: câu 35 kết thúc cuộc tranh luận đang làm cho các môn đồ xôn xao, nhưng cách Chúa Giêsu nắm lấy một em nhỏ, đặt em vào giữa nhóm Mười hai và xiết chặt em trong cánh tay Người (c.36) làm nổi bật việc tiếp đón một trẻ nhỏ (c 36) thay vì củng cố bài học về sự khiêm nhường trong nghĩa của c.35 (x. Mt 18,3-4). Ta không thấy làm sao cảnh này lại có thể đưa đến việc Gioan khai báo (c.38) mà từ đó, các lời của Chúa Giêsu kế tiếp liên tục cho tới c.50. Bản văn phụng vụ bỏ qua đoạn kết của cuộc đàm thoại (cc.49-50); nơi đoạn kết này, sự duy nhất cũng càng khó thấy.
Một bản văn như thế làm cho ta vất vả vô cùng khi muốn tìm sự mạch lạc. Nhưng kết cấu và vị trí của nó trong Tin Mừng Mc bảo đảm cho nó một sự duy nhất nào đó.
a. Kết cấu
Nhiều “tiếng móc” nối kết, một cách hoàn toàn trên ngôn từ, nhiều ý tưởng thoạt trông rất rời rạc. Rõ ràng hơn hết là trong cc.48-50: “lửa của chúng” của c.48 gọi “lửa” của c.49; “ướp muối” của c.49 gọi “muối” của c.50. Nhưng trước đó động từ “nên cớ vấp phạm” đã bảo đảm cho sự mạch lạc của cc 42-48. Và thành ngữ “nhân danh” làm công việc liên kết cc 37 (“nhân danh Ta”), 38-39 (“nhân danh Thầy”, “nhân danh Ta”) và c.41 (“vì danh nghĩa là các ngươi thuộc về Chúa Kitô” theo tiếng Hy lạp là ononomati hoti, “nhân danh sự kiện” công thức che đậy một đặc ngữ sêmita). Ta còn có thể nêu lên sự tương ứng giữa “một trong các trẻ nhỏ này” của c.37 và “một trong các kẻ nhỏ đã tin này” của c.42, dầu cho những chữ : dịch ra là “trẻ nhỏ” và “kẻ nhỏ” có khác nhau và chỉ các nhân vật khác nhau đi nữa.
Cách thức kết cấu này cấm ta đi tìm trong bản văn sự mạch lạc của một diễn từ hay của một khai triển có luận lý, và càng không được coi nó như bản trần thuật của một cuộc đàm thoại đã diễn tiến như đang được ghi lại dưới mắt ta. Ở đây, người ta đã quy tụ, theo một phương pháp ký ức, nhiều lời Chúa Giêsu đã thốt lên trong nhiều trướng hợp khác nhau, được truyền thông lưu truyền và được nối kết với nhau tàng tạm, để đáp ứng những nhu cầu giáo lý trong Giáo Hội sơ khai. Dù việc tập hợp này là công trình của Mc hay của Mt nguồn có trước đi nữa, thì điều đó vẫn không thay đổi gì vấn đề ý nghĩa của nó. Ý nghĩa này phải được minh giải từ mỗi một yếu tố sau khi lưu ý đến cách dùng mà vì đó truyền thống đã giữ chúng lại. Qua chính sự hiện hữu của nó, một bản văn được cấu tạo như thế chứng tỏ rằng các Kitô hữu đã cảm thấy có liên hệ với những giòng tâm sự của Chúa Giêsu cùng các môn đồ và với hoàn cảnh của những kẻ đã theo Người trong thời gian Người còn tại thế.
b. Văn mạch
Trong sách Mc, toàn bộ này có dáng như là một đơn vị văn chương mà vị trí đã chẳng được chọn một cách may rủi. Đây là một cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với nhóm Mười hai; Chúa Giêsu ngồi xuống (cử chỉ của vị thầy đang dạy dỗ, x c 35; 4,1 ; Mt 5,1; Lc 4,20; 5,3 …) và gọi họ lại Người sẽ chỉ đứng dậy khi kết thúc (10,1 anastas). Cuộc đàm thoại xảy ra “tại nhà” (c.33), căn nhà mà chẳng ai biết vị trí và sớ hữu chỉ. Ở đây căn nhà được định vị tại Capharnaum, nhưng người ta cũng có thể tìm thấy nó nơi khác, mỗi khi Mc cần đến nó để gợi lên sự thân mật của những giáo huấn chỉ dành riêng cho các môn đồ, xa hẳn đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Với cách “xếp đặt vị trí” này, Mc cho các tín hữu của Giáo Hội sơ khai thấy tầm quan trọng mà ông gán cho các lời Chúa Giêsu nói.
Đàng khác, cuộc đàm thoại bắt đầu và kết thúc với một kiểu cách phản ảnh một bận tâm lớn lao. Câu 50: “Các ngươi hãy sống hòa thuận với nhau” trở lại cuộc tranh luận giữa các môn đồ (cc. 33-34) mà câu 35 đã chấm dứt. Kết luận này cho thấy đặc tính của cách Mc giải thích lời nói về muối (x. Mt 5, 13 ; Lc l4,34-35). Cho dù Mc có sử dụng một nguồn liệu thì người ta cũng nhận ra ngòi bút của ông trong nhiều chi tiết của cc. 33-34 (x. S. Legasse, Jésus ét l’enfant, Paris, 1970, tr.23-25. Đặc biệt nên lưu ý sự khó khăn trong việc hòa hợp 35a với 33-34). Rõ ràng Mc muốn nhấn mạnh đến mối nguy mà cộng đoàn có thể gặp phải do vấn đề chọn lựa ngôi thứ giữa các môn đồ. Dĩ nhiên đó không phải là chủ đề duy nhất của cuộc đàm thoại, nhưng vị trí của nó ảnh hưởng đến việc hiểu rõ toàn thể bản văn.
Sau hết, Mc 9,33-50 nằm sau lời tiên báo thứ hai về cuộc Khổ nạn. Người ta biết rằng ba lời tiên báo về cuộc Khổ nạn tạo nên nhịp điệu cho cả một tiết của Tin Mừng thứ hai (8,31-10,45); mỗi một lời tiên báo đó, kèm theo nhiều giai thoại minh họa sự ngu độn của các môn đồ, gây nên một giáo huấn của Chúa Giêsu về sự hiệp thông số phận mà Người muốn thiết lập giữa họ và Người. Trong lần tiên báo thứ nhất, Phêrô phản đối, nhưng ông đã bị coi như là Satan (8,32-33), và các môn đồ với đám đông đã được cảnh giác rằng người ta không thể theo Chúa Giêsu nếu không bỏ mình và vác thập giá (8,34tt). Lời tiên báo thứ hai cho thấy các môn đồ không hiểu chi cả (9,32) và mối lo âu về địa vị chứng tỏ họ chẳng có khả năng đi vào trong nhãn giới của Thiên Chúa, đồng thời, theo Mc, nó gây nên cuộc đàm thoại mà chúng ta đang nghiên cứu đây (cc 33-34). Xa hơn, sau lời tiên báo thứ ba về cuộc Khổ nạn, nỗi sợ hãi của các môn đồ đang theo Chúa Giêsu xa xa trên đường tới Giêrusalem (10,32) và lời thỉnh cầu đầy tham vọng của hai con Giêbêđê (10,35tt) cho thấy họ cũng chẳng có khả năng hiểu đường lối của Chúa Giêsu, con đường mà dù vậy họ phải theo đuổi. Do đó, phải đọc 9,38-48 dưới ánh sáng mà Mc đã chiếu trên bản văn này.
II. KẺ TRỪ QUỶ XA LẠ VỚI NHÓM MUỜI HAI (cc. 38-40)
Người ta có thể hiểu giai thoại này trong bối cảnh cuộc sống Chúa Giêsu cũng như trong bối cảnh cuộc sống Giáo Hội sơ khai. Chúa Giêsu và các môn đồ Người trừ quỷ, như bao người Do thái khác (Mt 12,27; Lc 11,19). Quyền năng trừ quỷ của Chúa Giêsu là lý do khiến nhiều người Do thái đã cậy nhờ danh Người để xua đuổi quỷ. Thành thử lời khai báo của Gioan (c.38) phản ảnh một vấn đề có thể đã đặt ra vào thời Chúa Giêsu. Vả lại, sự kiện lời khai báo được gán cho Gioan cho thấy đây là một dữ kiện xưa của truyền thống; người ta không thể cắt nghĩa cách nào khác hơn việc đề cập đến tên của môn đồ này trong trình thuật.
Nhưng cách khai báo của Gioan có dẫu thuộc về truyền thống của Giáo Hội sơ thủy: nó giả thiết rằng nhóm môn đồ đã giới hạn và gọi kẻ trừ quỷ ngoài nhóm như một người không đi theo “chúng tôi” (2 lần trong c.38). Lối sử dụng động từ “theo” này chỉ có trong các Tin Mừng, nơi nói người ta theo Chúa Giêsu, chứ không theo các môn đồ Chúa Giêsu (Lc 9,49 loại bỏ đặc điểm này bằng cách viết: “Vì hắn không theo với chúng tôi”. Nên kiểu nói trên chỉ hiểu được trong giai đoạn mà Giáo Hội hậu phục sinh được thiết lập quanh nhóm các môn đồ.
Ngoài ra, hình thức của đoạn văn cho thấy là nó đã được dùng trong Giáo Hội. Loại đoạn văn này, trong ấy việc trình bày một sự kiện (hay một vấn đề) khêu lên một câu trả lời dứt khoát của Chúa Giêsu, năng gặp trong các Tin Mừng Nhất lãm. Nó phát xuất từ một quá trình hệ thống hóa: để tìm ra giải đáp thực tiễn cho bao vấn đề cụ thể trong các Giáo Hội, người ta nhắc lại những lời nói của Chúa Giêsu, và giá trị quy tắc của chúng xác định dần dần hình thức văn chương của chúng.
Công vụ 19,13-16 trích dẫn trường hợp của những người trừ quỷ Do thái ở Ephêsô đã thử dùng danh Chúa Giêsu để chống lại ma quỷ, vì họ đã thấy thánh Phaolô làm mà thành công (Sử gia Do thái Josèphe xác nhận rằng người ta có dùng tên Salomon trong các công thức trừ tà hay chữa bệnh, Ant. 8,45tt). Sự thất bại của họ làm tăng thêm vinh quang cho Chúa Giêsu vì danh Người không thể được sử dụng như một công thức phù chú.
Trường hợp được Gioan trích dẫn hẳn liên can tới những kẻ trừ quỷ xa lạ với nhóm các môn đồ, nhưng việc họ cậy dựa vào Chúa Giêsu chứng tỏ một đức tin nào đó. Câu Chúa Giêsu trả lời cũng giả thiết như vậy: nếu nhân danh Người mà họ đã thực sự trừ được quỷ, thì ngay sau đó họ không thể nói xấu Người. Một câu trả lời như thế phù hợp với thái độ của Chúa Giêsu, Đấng đã không cưỡng bách thính giả phải gia nhập vào nhóm những kẻ Người gọi theo Người (x. 5,19). Kỷ niệm này vẫn tồn tại trong Giáo Hội như một lời cảnh giới đề phòng thái độ bất khoan dung hay cơn cám dỗ muốn độc chiếm niềm tin vào Chúa Giêsu và độc chiếm quyền năng của Người. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Thành thử có rất nhiều cách thế để liên kết với Chúa Giêsu và với cộng đoàn các môn đồ Người, và bao lâu mà người ta không tách rời cách cố ý, thì mối liên kết vẫn tồn tại.
Dĩ nhiên, vấn đề biết ai tham gia hoặc chẳng tham gia vào cộng đoàn không chỉ giải quyết bằng truyền thống này mà thôi đâu. Và tiếng xác định “ngay sau đó” cho thấy rằng sự thành công của những cuộc trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu không dứt khoát bảo đảm tất cả những điều mà các kẻ trừ quỷ đó có thể nói về Chúa Giêsu. Khi loại bỏ câu 39b của Mc phải chăng Lc đã cảm thấy các giới hạn của tiêu chuẩn phân biệt này, hoặc cảm thấy cái khó khăn phải dùng tiêu chuẩn ấy ở ngoài bối cảnh mà Chúa Giêsu có thể đã thốt ra lời đó? Dù sao, các hiện tượng dị thường mà Giáo Hội sơ khai đã biết đến không phải tất cả đều là dấu chỉ của Thần khí và của sự thông hiệp với Chúa Giêsu. Thánh Phaolô đã nhắc nhở cho các tín hữu Côrintô rằng những người ngoại giáo cũng biết đến các kinh nghiệm như thế và rằng việc tuyên xưng Giêsu như Chúa mới là tiêu chuẩn cho thấy có Thần Khí hoạt động (1Cr 12,1-3). Theo Mt 7,15-22, để được Chúa Giêsu thừa nhận trong ngày Thẩm xét, thì không phải chỉ cần nhân danh Người mà nói tiên tri, xua trừ ma quỷ, làm phép lạ là đủ, nhưng phải thực thi ý Cha trên trời (cũng nghĩa đó trong Dedaché 11,8-12). Và chính việc tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, theo 1Ga 4,1-3, mới là tiêu chuẩn phân biệt ngôn sứ thật và ngôn sứ giả.
Thành thử nguyên một lời của Chúa Giêsu không đủ để giải quyết một vấn đề có thể được đặt ra trong nhiều hoàn cảnh khác biệt nhau. Các lời của Chúa Giêsu tự chúng mang dấu vết của thời đại Người và của cử tọa đầu tiên của Người. Không được quên điều đó khi so sánh hai xác quyết: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9,40) và “Ai không đi với Ta tức là chống lại Ta, và kẻ không cùng Ta thu họp tức là làm tan tác” (Mt 12,30 = Lc 1 l,23). Vì không biết trong trường hợp rõ ràng nào các lời tuyên phán đây đã được thốt lên, nên chúng ta phải nghe chúng trong văn mạch Tin Mừng hiện tại. Trong cả hai trường hợp, đều là vấn đề trừ quỷ. Nhưng lời tuyên phán thứ nhất biện minh cho những kẻ trừ quỷ mà khi cậy dựa vào danh Chúa Giêsu, đã nhận rằng quyền lực của Người đến từ Thiên Chúa. Lời tuyên phán thứ hai trái lại bác bỏ luận cứ của nhúng kẻ gán cho Satan quyền lực của Chúa Giêsu trên ma quỷ. Hơn nữa có một tiểu dị giữa chữ “chúng ta” của lời tuyên phán đầu và chữ “Ta” của lời sau. Người ta có thể nói: kẻ trừ quỷ xa lạ thu họp với Chúa Giêsu, chỉ có vấn đề là ông ta không thuộc nhóm các môn đồ. Nhưng theo lời Chúa, không nhất thiết phải thuộc về nhóm ấy (hay, ở giai đoạn trước tác của Mc, thuộc về cộng đoàn Kitô hữu) mới thực sự nhờ cậy được danh Chúa Giêsu và mới hành động được với quyền lực của Người.
Trong văn mạch của Mc, câu trả lời của Chúa Giêsu tố cáo các môn đồ có óc hẹp hòi, không thể hiểu được Thầy họ. Ngay khi người vừa tiên báo cuộc Khổ nạn của Người lần thứ hai (9,30-32), thì họ liền hỏi nhau xem ai là người lớn nhất (9,33-34). Khuynh hướng muốn độc chiếm Chúa Giêsu của họ và tham vọng ngăn cản kẻ ngoài nhóm cậy dựa vào người biểu lộ một ý chí quyền lực đối nghịch trực tiếp với thái độ của vị Thầy đang tiến dần đến cái chết, và với câu nói không chịu tranh luận lẫn điều đình của Người sau đây: “Ai muốn làm đầu, thì hãy ở cuối hết tất cả và làm tôi tớ tất cả” (9,35). Khi lự đồng hóa với đứa trẻ được tiếp nhận vì danh Người (c.37), Chúa Giêsu cũng nhắm đến ý nghĩa đó: quyết liệt phản đối các tư tưởng con người về sự cao trọng. Mc sẽ còn trở lại chủ đề này nơi ch.lo nữa: lời thỉnh nguyện của hai con Giêbêđê (cc.35-40) đối nghịch với lời tuyên báo Khổ nạn thứ ba (10,32-34), và những bất hòa xảy ra giữa các môn đồ vì lời xin ấy là cơ hội để xác quyết sự đòi hỏi phải phục vụ đến hy sinh và bài bác những quan niệm quá ư trần tục về quyền bính (cc 41-45).
Hiển nhiên là ngày nay, vấn nạn của Gioan về việc trừ quỷ và làm phép lạ hẳn được đặt ra bằng những lời lẽ khác. Nhưng vấn nạn đó vẫn luôn hiện thực: ai là môn đồ hoặc không phải là môn đồ của Chúa Giêsu, và quyền năng của Người hoạt động ra sao giữa con người? Với ít nhiều chuyển dịch, câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn giữ tất cả sự trẻ trung của nó. Trong Giáo Hội, ai có thể tự cho mình thoát khỏi những lời cảnh giới của Mátcô?
III. LY NƯỚC CHO MÔN ĐỒ (c.41)
Đừng đi tìm kiếm một mối dây chặt chẽ giữa lời này với các lời trước, trừ ra là chuyện các môn đồ và những hoàn cảnh khác nhau mà các ông có thể gặp. Nơi cc.39-40, người ta đã nói rõ thái độ của các ông đối với những người xa lạ với nhóm các ông. Bây giờ là cách thức mà “một kẻ nào đó” sẽ tiếp nhận các ông. Bởi vì các ông là môn đồ, nên cử chỉ nhỏ mọn nhất được làm để giúp đỡ các ông cũng có giá trị trước mặt Thiên Chúa (“phần thường”).
Phải đối chiếu xác quyết này với xác quyết của c.37 trong đó việc tiếp nhận một đứa trẻ nhân danh Chúa Giêsu được đồng hóa với việc tiếp nhận chính Chúa Giêsu và Cha Người. Hai lời này, theo Mc, còn soi sáng thấu hơn nữa vì Chúa Giêsu nói đến đứa trẻ bằng những hạn từ thích hợp hơn với một thừa sai, với một nhà truyền giáo. Thật có ý nghĩa việc truyền thống Tin Mừng đã nới rộng ra các môn đồ những lời và cử chỉ của Chúa Giêsu liên hệ đến các trẻ em: người ta dễ dàng đi từ trẻ em sang môn đồ được mời gọi trở thành bé nhỏ (Mt 18,2-5; Mc 9,33-37 thì nói ngược lại) hay “kẻ nhỏ đang tin” nghĩa là xa người môn đồ xem ra yếu kém nhất hay vô giá trị nhất (Mc 9,42; Mt 18,6). Câu 37, nói đến việc tiếp nhận trẻ nhỏ nhân danh Chúa Giêsu, nghĩa là hợp với tinh thần và giới răn của Người, xem ra nối kết hai lời tuyên bố trong hai trường hợp khác nhau, một (c.37a) về các em bé. một (câu 37b, cũng có trong Mt 10,40; x. Lc 10,16; Ga 13,20) về sứ giả của Chúa Giêsu như được phát biểu nơi Mc, c.37 phù hợp cách tự nhiên với người môn đồ được tiếp đón với tư cách là môn đồ. Sở dĩ ly nước cho môn đồ có giá trị lớn lao như thế, đó là vì Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với môn đồ Người, như Người đã tự đồng hóa với kẻ hèn mọn nhất trong các anh em Người nơi Mt 25,35-45.
Những lời như thế đã cắm sâu vào các Kitô hữu đầu tiên cái ý thức rằng họ thuộc về Chúa Kitô và có nhiều trách nhiệm gắn liền với sự liên đới đó: qua các môn đồ người, Chúa Giêsu vẫn luôn hiện diện trong thế giới ta đây. Thành thử người ta không ngạc nhiên khi thấy lời Người được phát biểu theo ngôn ngữ giáo lý; vì xét cho đúng ra Chúa Giêsu đã chẳng có thể bảo: “Kẻ nào cho các người uống một bát nước vì danh nghĩa là các ngươi thuộc về Chúa Kitô”. Nhưng Phaolô thì lại nói vậy (Rm 8,9; 1Cr 1,12; 3,23; 2Cr 10,7) để nhấn mạnh, sau khi Chúa Giêsu ra đi, đến mối dây đặc biệt mà Chúa Kỉtô đã thiết lập giữa Người với kẻ tin Người cùng làm cho Người hiện diện trên trái đất.
IV. CỚ VẤP PHẠM CHO NHỮNG KẺ NHỎ ĐANG TIN (c.42)
Trong giai đoạn biên soạn Tin mừng, không có vấn đề những trẻ nhỏ, nhưng là những “kẻ tin”, những Kitô hữu còn nhỏ” vì có lẽ còn yếu kém, ít am hiểu hay gặp nhiều nguy hiểm hơn. Thánh Phaolô cho ta biết có nhiều loại Kitô hữu trong các giáo đoàn và ảnh hưởng của họ trên nhau: những người có “trí tri” có thể trở thành cơ hội sa ngã cho những kẻ yếu kém muốn bắt chước họ dù không có trí tri như họ (x. 1Cr 8.,7-13; 9,22; 10,24-29; Rm 14,1-23). “Khi phạm đến người anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ như thế, tức là anh em có tội phạm đến Chúa Kitô” (1Cr 8,12). Xác quyết ấy của Phaolô nhấn mạnh một cách khác sự liên đới nối kết Chúa Giêsu với kẻ nhỏ nhất trong các tín hữu theo Mc 9,42. Mt 18,6 nói rõ: “Những kẻ nhỏ đã tin vào Ta này” nhưng văn mạch của Mc đủ để gợi lên điều đó. Trước đấy trong câu 37, đứa trẻ mà Chúa Giêsu tự làm cho mình nên liên đới, đã được chọn như là khuôn mẫu của môn đồ. Thành thử tính cách trầm đọng của gương xấu tố giác ở đây phát xuất từ phẩm giá của người tín hữu lu mờ nhất. Và sự nghiêm khắc của Chúa Giêsu đủ nói lên lòng kính trọng và mối ưu tư phải dành cho kẻ ấy. Bất hạnh lớn nhất có thể xảy tất cho một người là lôi kéo phạm tội một trong các kẻ nhỏ này: một bất hạnh lớn hơn việc bị xô xuống lòng đại dương với một cối xay lớn cột nào cổ.
Các hạn từ mà Mc và Mt sử dụng cho thấy cộng đoàn Kitô hữu đã áp dụng lời của Chúa Giêsu cho những tín hữu có vẻ đơn sơ nhất. Hình thức nguyên thủy xem ra không xác định các kẻ nhỏ là các tín hữu (x. Legasse, sđd, tr.104tt). Xác định này vắng bóng trong Lc 17,2 nghiêng thành ngữ “một trong các kẻ nhỏ này” mà người ta chỉ thấy trong Tin Mừng, xem ra là âm vang trực tiếp của lời Chúa Giêsu. “Các kẻ nhỏ ấy này chắc là những người hèn kém của các giai cấp hạ lưu, ít học, bị coi thường, không thuộc một giới ưu tú nào, ngay cả giới ưu tú tôn giáo, giới này, trong Do thái giáo, có khuynh hướng khinh bỉ họ. Việc cảnh giác đề phòng sự làm gương xấu cho các kẻ nhỏ này có lẽ đặc biệt nhắm đến các thủ lãnh tôn giáo mà Chúa Giêsu, nơi khác, tố cáo là đã độc quyền chiếm đoạt “chìa khóa của trí tri”, chiếm đoạt sự giải thích Thánh Kinh. Là đóng cửa không cho những kẻ muốn vào (Lc 11 ,52). Trên mức độ lời giáo huấn của Chúa Giêsu, các dụ ngôn về hai người mù (Lc 6,39; Mt 15,14) và dụ ngôn về con chiên lạc (Lc 15,3-7; Mt 18, 12, 14) có thể được đọc trong cùng một ý nghĩa đó.
Khi thích trong giáo huấn này và giáo lý cho các Kitô hữu của thế kỷ XX trong Giáo Hội, ta không được giới hạn tầm mức của nó. Ngày nay hon bao giờ hết. Các “kẻ nhỏ” mà người ta coi thường và dễ bị nguy hiểm hư mất, không phải tất cả đều ở trong các cộng đoàn Kitô giáo của chúng ta đâu.
V. CHỐNG LẠI NHỮNG DỊP TỘI (cc.43-48)
Sự trầm trọng của gương xấu giờ đây được xác định theo mối nguy mà nó gây ra cho mỗi người. Bất cứ ai đều có thể tìm thấy trong chính bản thân một cơ hội gây gương xấu và như thế liều mình đánh mất sự sống (vĩnh cửu). Vật tranh giành quá quan trọng đến nỗi người đó, nếu cần, phải chấp nhận hy sinh một phần thân thể. Để hiểu những lời này của Chúa Giêsu, phải lưu ý đến lối nói cụ thể và thường nghịch lý trong cuộc nói chuyện của Người. Thật vô ích khi tìm xem những tội nào mà bàn tay, bàn chân hay con mắt có thể là cơ hội. Vả lại việc cắt bỏ chúng không loại trừ được nguy hiểm đâu. Chúng tượng trưng tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể tìm thấy trong chính bản thân hay trong những tương giao với bên ngoài. Và chúng cho thấy sự trừ tuyệt được đòi hỏi thật là đắt giá. Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Vương quốc Thiên Chúa”, tiêu chuẩn dứt khoát của mọi lựa chọn của con người (x. Mc 8,35-37ss; 10, 23-27ss; Mt 13,44-45 v.v…).
“Sự sống” đối nghịch với “hỏa ngục”, được gọi rõ ràng như là nơi khổ hình dành cho các tội nhân tự tách lìa khỏi “sự sống”. Lời trích dẫn nơi c.48 khiến ta liên tưởng đến Is 66,22-24, bản văn gợi lại vinh quang của Giêrusalem, thủ đô tôn giáo thế giới, trong lúc lên ngoài thành, xác chết của những kẻ đã nổi lên chống lại Thiên Chúa bị giòi bọ găm nhắm và lửa hủy diệt. Đó là thung lũng (tiếng hy bá là gô) Hinnom (được Hy lạp hóa thành Géhenna), gần các cửa phía nam của thành, mà ở đây dùng làm khung cảnh cho óc tưởng tượng của thi sĩ. Giêrêmia cũng đã chọn nó làm nơi mà hình phạt của con cái Giuđa phải bị bày ra trong tất cả vẻ nghiêm khắc; vì tội lỗi của họ (tế xác các trẻ nhỏ) đã đạt đến cực điểm ghê tởm nói đó (Gr 7,30-8,3; 19,7; 32,35). Luồng tư tưởng về hy vọng cánh chung tiếp đó đã lấy êhinnom để chỉ hình phạt không phải của các thây ma bất động nữa mà là của các tội nhân được phục sinh (Hênóc 22,10-11 ; 90,26-27; x.Dn 12,2). Lửa và giòi bọ trước đây là hai lại gia hình dành cho các thây ma, trở thành biểu tượng cho số phận kinh khủng dành cho những ai từ chối tiếng mời gọi hoán cải và những lời cảnh giác của Thiên Chúa (Gđ 16, 17; Hc 7,17) (giòi bọ : G 25,5, Lc 7, 17; Hênóc 46,3; lửa: Hênóc 90,26-27; Mt 13,42.50; 18,8; 25,41 ; Gđa 7; 7 ; Kh 19,20). Như trong Mt 5,29-30 đề cập rõ ràng đến thân xác, viễn ảnh mở ra trong Mc 9,43-48 là viễn ảnh của cuộc phán xét cuối cùng. Cũng cần thêm rằng các bản văn này không phải để nuôi dưỡng những suy tư suông về thế giới bên kia nhưng là để soi sáng và củng cố việc chọn lựa con đường dẫn đến sự sống (x.Mt 7, 13-14 so sánh với 24-27).
KẾT LUẬN
Tuy xem ra không ăn khớp với nhau, các lời nói trên đây của Chúa Giêsu vẫn luôn có khả năng bồi dưỡng giáo lý cho các Kitô hữu. Thánh Mc trình bày chúng như những huấn lệnh cho các môn đồ, những kẻ đã dấn thân trên con đường đưa Con Người đi từ đau khổ đến vinh quang. Ánh sáng này giúp ta hiểu rõ và thích ứng cho các thế hệ mới điều đã được nói theo thời Chúa Giêsu hay theo cuộc sống của những Kitô hữu ban đầu. Có rộng mở đón nhận những biểu lộ quyền năng của Chúa Giêsu ngay cả ở ngoài biên giới của những cộng đoàn của chúng ta, có ý thức sứ mệnh đại diện Người trên trần thế, chúng ta mới tiếp xúc được với “người nào đó”, đặc biệt mới lo lắng cho những người yếu kém hơn; và sự sống” mà chúng ta được mời gọi đến, rất đáng giá mọi hy sinh phải chịu.
Có một điều đập vào mắt là trong toàn bộ cc.33-50, chẳng có một sự phân biệt nào giữa các thủ lãnh cộng đoàn và những người khác. Chỉ những kẻ hèn kém được nói đến như một hạng người riêng biệt song là để được gửi gấm cho trách nhiệm của mọi người. Cách thức nhóm Mười hai được đồng hóa với các môn đồ (cc.31.33.35) và các độc giả (“các ngươi” c 41) được coi như thuộc về Chúa Kitô, cho thấy rằng mọi Kitô hữu phải biết lợi dụng bài giáo lý hôm nay. Sở dĩ cc.35 và 38 đặc biệt nhắm đến các thủ lãnh, đó là để phản kháng cao vọng của họ muốn đặt mình trên kẻ khác (c.35) hay muốn độc chiếm quyền năng của Chúa Giêsu (c.38). Cuộc nói chuyện rõ ràng hướng tới lý tưởng một cộng đoàn trong đó hết thảy sống an hòa với nhau (c.50b) vì biết phục vụ lẫn nhau (cc.33-35). Điều kiện để được như thế là sự từ bỏ, được diễn tả qua hình ảnh muối (c.50), mà nếu không có thì người môn đồ chẳng phải là môn đồ đích thực. Nếu phải gán một tiêu đề cho toàn thể cc.33-50, thì ta có thể đề nghị: “Vài chỉ thị về cách thức đích thực để trở nên môn đồ .
Jean Delornle, Assemblées du Seigneur 57, tr.53-62.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Vấn đề mà Tin Mừng nói hôm nay (cc.38-40) vẫn còn đang nóng bỏng. Trong Giáo Hội, cần có một nhóm nào đó xem mình như có độc quyền sử dụng Tin Mừng để rồi lên án mọi việc làm của các Kitô hữu khác không. Chắc chắn một nhóm như thế không cần phải có. Như trong thực tế, đây đó vẫn có những nhóm quá khích tự xem mình như những nhà chú giải Tin Mừng đúng với ý Chúa mà thôi. Nhóm người này không thể dùng chiêu bài được ở gần Chúa Giêsu như thánh Gioan và các sứ đồ thuở xưa để mà biện hộ. Chung chung họ chỉ lập luận dựa trên cát nhìn một chiều của họ về Giáo Hội, khi thì (dựa trên thái độ tiêu cực đối với mọi trào lưu biến hoá, khi thì trên cách thế diễn giảng Tin Mừng theo chiều hướng chính trị. Tất cả đều có điểm chung là không muốn đi vào chiều sâu của Giáo Hội. Thần ác đã xui khiến các loại nhóm này “dứt phép thông công" lẫn nhau, đến độ một phần tử quá khích của một "trào lưu” mệnh danh là mới mẻ không muốn cùng chung bàn tiệc thánh với một phần tử của trào lưu khác.
2. Thời đại chúng ta, vì phải chịu nhiều ảnh hường tệ hại khoa thần học có khi đã bị sa lầy trong những cuộc tranh luận có tính cách ý thức hệ hoặc trong những cuộc tranh chấp chính trị; do đó, người Kitô hữu cần phải khôn ngoan nhận ra thế nào là trung thành đích thực với Tin mừng, thế nào là không. Thực tế, vẫn có nhiều cách trung thành đích thực đã được các vị trọng trách trong Giáo Hội đảm bảo, do đó họ cũng cần phải chấp nhận có sự khác biệt trong cách trung thành. Một trong nhũng tiêu chuẩn căn bản giúp ta nhận ra tính cách đích thực, đó là dấu cổ võ sự hiệp thông.
3. Sau khi công bố phẩm cách cao quí của những kẻ bé mọn (Mc 9,37), giờ đây Chúa Giêsu mặc khải phẩm cách cao quí của môn đồ. Người môn đồ nhỏ bé nhất vẫn tượng trưng Chúa Kitô (xem cuộc Chung thẩm trong Mt). Kitô hữu là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần thế. Đây là một danh dự và một trách nhiệm nặng nề. Có bao giờ ta ý thức như thế để sống xứng đáng không? "Nếu các Kitô hữu sống đạo thật thì dân An chúng tôi đã theo Chúa Kitô cả rồi" (lời thánh Gandhi).
4. Hãy nghĩ đến những người mà ta có thể gây cớ vấp phạm bằng những thay đổi hiện thời trong Giáo Hội, những thay đổi quá táo bạo, không tôn trọng các truyền thống cũng như hãy nghĩ đến bao người thất vọng, bị cám dỗ rời bỏ Hội Thánh hay cảm thấy không muốn vào vì sự thụ động của ta, vì thái độ của nhiều Kitô hữu không chịu cải cách, đổi mới.
5. Lời Chúa bảo phải tróc nã, tiêu diệt sụ ác tận gốc của nó, tiêu diệt dịp tội trong chúng ta và ngoài chúng ta. Đời sống Kitô hữu không thể hiện bằng sự cắt xén hủy bỏ, nhưng bằng sự lớn lên. Để có thể lớn lên, tăng trưởng, mang hoa trái, phải cắt tỉa, gột rửa, từ bỏ... vì danh Chúa Giêsu, vì vương quốc Thiên Chúa. Xem của 15,1-2: Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa chặt vứt bỏ: còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn.
Tin Mừng Mc 9: 38-43.45.47-48: Tâm tình mà Tin Mừng hôm nay gợi lại cho mỗi người chúng ta là người môn đệ phải sẵn sàng chịu mất một tay, một chân, một mắt nếu những chi thể này làm cản trở cho phần rỗi linh hồn.
Tâm tình mà Tin Mừng hôm nay gợi lại cho mỗi người chúng ta là người môn đệ phải sẵn sàng chịu mất một tay, một chân, một mắt nếu những chi thể này làm cản trở cho phần rỗi linh hồn. Khi Chúa nói thà vào nước Trời với một tay, một chân, một mắt còn hơn là sa hoả ngục với hai tay, hai chân và hai mắt là nói theo nghĩa ẩn ý, nhấn mạnh đến giá trị của nước trời hơn một phần chi thể, chứ không nhất thiết phải hiểu theo nghĩa đen.
Ta có thể cảm thấy khó tin lời Chúa, bởi vì đường lối của Chúa khác với đường lối loài người, và những giá trị siêu nhiên khác với những giá trị trần thế. Tuy nhiên lời Chúa vẫn là sự thật, và lời Chúa là lời ban sự sống. Chúa đến để làm đảo lộn những giá trị của loài người vì hệ thống giá trị của loài người đã bị tội lỗi làm nhiễm độc. Do đó mà Chúa đã ban cho loài người Mười Giới răn và những giáo lí Phúc âm nêu ra những gì phải làm, những gì phải tránh để được vào nước Trời.
Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quí giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.
Chúa Giêsu ví tác động của gương xấu ảnh hưởng lên những người chung quanh y như men trong bột. Chỉ cần một nhúm men nhỏ cũng đủ sức làm dậy lên cả một thúng bột lớn. Một ít men rượu làm cho cả nồi cơm nên rượu; chút ít men dấm làm cho cả hũ nước nên dấm chua; men thối thì làm cho lương thực nên thối; men độc thì làm cho đồ ăn nên độc...
“Nếu tay ngươi nên dịp tội cho ngươi, thì hãy chặt nó đi vì thà rằng cụt một tay vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục”. Lời dạy của Đức Giêsu cho thấy lập trường dứt khoát của Ngài đối với tội. Ngài coi cái gây ra tội nguy hiểm đến thế nào!
Nơi vườn dầu, Đức Giêsu đã nói với Phêrô và các tông đồ: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Thân xác có những nặng nề của thân xác, người ta khó có thể vượt qua những nặng nề của thân xác nếu người ta không cầu nguyện; hơn nữa, người ta khó có thể không phạm tội nếu người ta không tránh dịp tội. Trường hợp Phêrô ở vườn dầu: sau khi đã ăn thịt chiên vượt qua và uống rượu, thì khó ai có thể chống lại cơn ngủ; đó là lý do tại sao Phêrô đã “không thể thức với thầy được một giờ”. Những lề luật, thường là những gì bảo vệ đời sống ơn gọi của tu sĩ, giúp tu sĩ khỏi sa vào những dịp tội mà không thể tránh khỏi; ai không giữ lề luật thì đôi khi cũng là liều mình ở vào dịp tội.
Chúa Giêsu xem thái độ giả dối của những người biệt phái cũng như tâm địa độc ác của vua Hêrôđê là những thứ men độc hại có thể khiến cho những người chung quanh bị tiêm nhiễm y như men ảnh hưởng lên bột nên Người cảnh báo các môn đệ phải đề phòng: "Anh em phải coi chừng men biệt phái và men Hêrôđê" (Mc 8, 15).
Chính vì gương xấu của người nầy gây ảnh hưởng tai hại lên nhiều người khác nên Chúa Giêsu kịch liệt bài trừ. Người muốn nhổ bỏ thói xấu tận gốc rễ, muốn tẩy trừ gương xấu bằng mọi giá.
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời.
Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”.
Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.
Gương xấu và làm dịp tội cho người khác gây tai hại và nguy hiểm vô cùng. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau. Phải tránh gương mù gương xấu. Mỗi người có thể gây dịp tội khiến người khác sa ngã, và đôi khi thân xác mình lại có thể là dịp tội cho chính mình. Càng tránh dịp tội, càng ít phạm tội.
Có ai đó nói rằng: "Nếu cứ áp dụng luật "mắt đền mắt" thì mọi người đều trở nên mù lòa". Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu thiếu lòng bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi cái tôi để đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay.
Hôm nay Chúa nói với mỗi người chúng ta: Nếu tay, hay chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, ta đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chúng ta nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.