Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: “Dọc đàng các con tranh luận gì thế?” Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Những ai đọc tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa đều biết đến nhân vật Chu Du. Ông là một vị TN 25-B151
Những ai đọc tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa đều biết đến nhân vật Chu Du. Ông là một vị tướng giỏi, túc trí đa mưu, nhưng lại có tính ghen tương đố kỵ. Đối thủ của Chu Du là Gia Cát Lượng. Khi bị thua trận cách bẽ bàng, trước khi hộc máu miệng và chết, Chu Du đã thốt lên câu cảm thán và câu này đã trở thành kinh điển: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng!”. Thật thê thảm thân phận một con người nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ngó đâu cũng thấy tai hoạ! Hậu thế không khỏi xót xa cho một nhân tài mà không thắng nổi tính ghen tương của chính mình.
Ghen tương là sợ người khác hơn mình. Ghen tương có từ khi con người hiện hữu trên trái đất. Quả vậy, Cain ghen với Aben là em ruột, nên đã xuống tay đoạt mạng người em cùng huyết nhục. Tính ghen tương cũng hiện hữu nơi mỗi con người ở mọi thời đại, và đó là nguyên nhân gây nên biết bao đổ vỡ, thậm chí án mạng. Tác giả sách Khôn ngoan ghi lại những lời hằn học đố kỵ của những người mà ông gọi là “phường vô đạo” (Bài đọc I). Họ ghen tức với những người sống ngay chính, và những người không a dua theo thói sống mưu mô của họ. Họ bàn mưu tính kế để kết án và giết chết người công chính. Các nhà chú giải Kinh Thánh, dưới nhãn quan Kitô giáo, đã nhận ra đây là hình ảnh của Đức Kitô khổ nạn. Người đã cam lòng chịu chết cách bất công, để nêu gương bài học khiêm nhường, kiên nhẫn và phó thác nơi Thiên Chúa, như chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là lời loan báo cuộc khổ nạn lần thứ hai của Chúa Giêsu. Cũng như các ngôn sứ và những người công chính thời Cựu ước, Chúa sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị giết chết, nhưng Người sẽ sống lại. Lời loan báo này xem ra không gây chút ấn tượng nào nơi các môn đệ. Thánh Mác-cô đã làm độc giả ngạc nhiên khi ghi lại cuộc tranh cãi của các môn đệ xoay quanh đề tài “ai sẽ là người lớn nhất” vào lúc Chúa Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn thập giá. Người ta đặt câu hỏi: làm sao các môn đệ lại vô tâm trước những điều Đức Giêsu vừa nói? Thì ra, kể cả lúc Chúa tiên báo cuộc khổ hình đau thương mà Người sắp trải qua, các ông vẫn còn mơ về thời thiên sai theo nhãn giới phàm tục. Vì vậy, nghe Chúa nói về việc Người sẽ bị bắt bớ và bị giết, các ông “không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người”. Trong tâm trí các ông lúc đó, việc bình bầu ai là người lớn nhất còn đáng quan tâm hơn cả những gì Thày mình vừa nói về cuộc đau khổ và về thập giá.
“Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Đó là lời khẳng định của Chúa, cũng là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ. Chính Chúa đã thực hiện nơi bản thân Người bài học này. Là Thiên Chúa uy quyền cao sang, Chúa Giêsu đã hạ mình mặc lấy thân phận con người để sống cùng và sống cho con người, nhằm mưu cầu hạnh phúc của họ. Qua hình ảnh một em bé, Chúa muốn khẳng định, những ai muốn theo Người cần phải sống đơn sơ, phó thác để có thể trở nên môn đệ đích thực của Người. Lý tưởng của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thông thường của con người. Ở đời, ai cũng muốn nổi hơn người khác về mọi phương diện. Nếu thấy người bên cạnh hơn mình thì họ ghen tương, thậm chí tìm cách gài bẫy để loại trừ. Chúa Giêsu cũng đã là nạn nhân của sự ghen tương của con người, và Người đã phải chết trên thập giá.
Thánh Giacôbê hôm nay nói đến sự ghen tương giữa các thành viên trong cộng đoàn tín hữu (Bài đọc II). Theo tác giả, ghen tương và tà ý là nguyên nhân gây nên mọi điều xấu xa. Điều tác giả đề cập, vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, kể cả trong những cộng đoàn đức tin. Ghen tương đến từ việc người ta không bằng lòng với khả năng và vị trí của mình. Cũng có khi vì thấy người khác thành công, nên muốn “dìm hàng” phê phán và hạ bệ người khác. “Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình” – lời khẳng định của Thánh Giacôbê cho thấy, những gì chúng ta làm với thiện ý và với trái tim chân thành, sẽ đóng góp xây dựng hòa bình nơi trần thế, đồng thời làm cho Vương quốc vĩnh cửu được hình thành ngay trong cuộc sống chúng ta.
“Ai tiếp đón một em nhỏ như em này, vì danh Thày, là đón tiếp chính Thày; và ai tiếp đón Thày, thì không phải là tiếp đón Thày, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thày”. Thật không ngờ, những việc nhỏ mọn lại có ý nghĩa cao cả đến thế. Nhờ những nghĩa cử bác ái đơn sơ, mà chúng ta được gặp Đấng cao cả, là Thiên Chúa và là Cha của chúng ta.
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Ngài, để khi sự TN 25-B152
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Ngài, để khi sự việc xảy ra thì họ sẽ không quá ngỡ ngàng và hoang mang, nhưng họ vẫn không hiểu, hoặc không muốn hiểu. Nói rằng các ông sợ không dám hỏi lại, nhưng đúng hơn, các ông muốn tránh né vấn đề. W. Barclay đã bình phẩm thái độ này như sau: Tâm trí con người vốn có năng khiếu lạ lùng để loại bỏ điều họ không muốn thấy. Chúng ta có khác gì họ đâu? Cũng vậy thôi, chỉ tiếp nhận phần nào mình thích và phù hợp với mình, và từ chối không chịu hiểu phần còn lại.
Có lẽ các môn đệ cũng đoán được Đức Giêsu sắp kết thúc hoạt động rao giảng, nhưng kết thúc một cách huy hoàng bằng cuộc cách mạng tái lập lại Israel. Thế nên giữa các ông bắt đầu có một cuộc tranh chấp về địa vị trong vương quốc mới của Thầy mình. Các ông tranh cãi nhau ngay trong lúc đi đường xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Điều đó cho thấy các ông không hiểu gì về sứ mạng của Thầy mình, nên nằm trong tình cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Khi về đến nhà, Chúa Giêsu bảo các môn đệ ngồi lại, vờ hỏi xem đã bàn chuyện gì khi đi đường. Họ làm thinh không trả lời. Trong bầu khí trầm lắng, Ngài nhẹ nhàng đưa ra cho họ một cách thế để trở nên những con người lớn lao thực sự:“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Lời này có lẽ làm cho các đồ đệ vừa sượng sùng trước cái ham muốn quyền thế, vừa rơi xuống chiếc mặt nạ ảo tưởng về chính mình. Bởi vì người đứng đầu mà phải sống như người đứng cuối, thì có ai muốn đứng đầu nữa không?
Chúa Giêsu còn minh họa bằng một hình ảnh sống động khi đặt đứa bé vào giữa họ rồi ôm lấy nó, và tuyên bố: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”. Khi nói và làm như thế, Chúa Giêsu đã thực hiện một hành động phục hồi mang hai chiều kích: con người và tôn giáo; vừa nhận mình là tôi tớ của mọi người, vừa mở rộng vòng đai khép kín của Giáo hội đến tận những người hèn mọn nhất. Đó chính là sứ vụ của Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ. Để nhấn mạnh thêm bài học quan trọng này, Ngài đã kết luận:“Ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Như vậy, ai đón nhận Ngài trong bản thân những kẻ bé nhỏ là đón nhận chính Thiên Chúa. Lạ thay! Thiên Chúa mang khuôn mặt một con trẻ. Đó là sứ điệp rất mới và rất lạ của đoạn Tin Mừng này.
Quả thật, trước giáo huấn của Chúa Giêsu, việc đua đòi danh vọng trở nên cái gì hàm hồ đối với những ai bước theo Ngài. Nhưng dường như ai cũng háo hức về chức tước, địa vị, quyền thế, vì nó không chỉ thỏa mãn được nhu cầu thể hiện bản thân, mà còn vì được công thành danh toại:“Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”, hoặc “Không công danh thà nát với cỏ cây”.
Chức vụ, địa vị, là điều phải có trong mọi tổ chức xã hội cũng như Giáo hội. Nó xấu là vì người ta quy về mình, lo chiếm hữu cho mình. Nhưng nó lại rất tốt khi người ta coi đó như một phương tiện phục vụ để đem lại bình an và hạnh phúc cho tha nhân. Tuy nhiên, kẻ ham mê quyền cao chức trọng thì không thể nói tốt được. Thực tế, việc ham muốn đứng đầu vẫn là một cám dỗ không ngừng đối với cả đạo đời. Rất ít người mong đứng đầu để phục vụ, mà để hưởng thụ và sống trên người khác. Dù có phục vụ đi nữa thì cũng phục vụ như kẻ có quyền hành. Không mấy ai có được tính cách phục vụ như Chúa Giêsu.
Nếu phải coi ai là “Người lớn nhất”, thì chắc phải là người phục vụ nhiều nhất, với lòng khiêm nhường và tình yêu vô vị lợi. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương; không đứng trên cao để điều khiển, nhưng xuống dưới thấp để hầu hạ. Không phải chỉ Giáo hội, mà bất cứ một tập thể nào cũng rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu của Đức Giêsu. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Ngài là Con Thiên Chúa toàn năng, nhưng không đến trần gian làm bá chủ, mà chỉ đến để hiến thân phục vụ, để đem lại hòa bình cho thế giới, và trở thành giá cứu chuộc cho đời.
Ai cũng muốn mình nên cao trọng, nên chạy theo danh vọng quyền hành, dùng mọi phương kế để đua tranh, đưa đến bao nhiêu chuyện chẳng lành.
Chúa dạy con muốn nên người lớn nhất, phải làm người nhỏ nhất giữa anh em, làm cao phải biết cúi mình phục vụ, làm lớn phải hành động thật khiêm nhu.
Nhìn ngắm tượng ảnh Chúa Giê-su, con thấy tay Ngài không chỉ lên đầu mà chỉ vào trái tim bị đâm thâu, một trái tim bốc lửa vì yêu dấu.
Điều đó đã làm cho con hiểu: đứng đầu phải sống như người hầu, vui lòng đón nhận những thương đau, như chính Chúa đã nên gương mẫu.
Sự phục vụ nào cũng đòi con xả kỷ, không tìm mình và cũng chẳng mong chi, chỉ mong sao ý Chúa được thực thi, và ai cũng thấy mình được yêu quý.
Xin cho con đừng toan tính điều gì, chỉ biết chân thành và phục vụ cho đi, đặt mình làm tôi tớ của mọi người, nhận ra vị trí của mình là ở dưới, để góp phần cho cuộc sống đẹp tươi. Amen
Lời Chúa hôm nay nói nhiều về tính ghen tương hay là ghen tỵ nhau. Ghen tương là một trong bảy TN 25-B153
Lời Chúa hôm nay nói nhiều về tính ghen tương hay là ghen tỵ nhau. Ghen tương là một trong bảy mối tội đầu, nghĩa là tật xấu này sinh ra nhiều nhiều tội khác. Tính ghen tương có thể xuất hiện ở bất người nào và bất cứ hoàn cảnh nào.
Bài đọc I từ sách Khôn Ngoan đề cập đến việc người xấu ghen tỵ với người tốt, phường vô đạo ghen tỵ với người công chính, họ tìm cách gài bẫy và làm hại người công chính. Bởi vì sự hiện diện của người công chính làm cho họ cảm thấy chướng tai gai mắt và chống lại những việc làm xấu xa họ làm. Dưới ánh sáng Tân Ước, những điều này được ứng nghiệm trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Như một người công chính, Người lên án thái độ giả hình và tham vọng của các Biệt Phái và Luật Sĩ, nên họ đã chống lại Người, bách hại và đóng đinh Người trên thập giá vì sự ghen ty và thù ghét Người.
Bài đọc này cũng được ứng nghiệm trong đời sống của tất cả những ai phải chịu đau khổ bởi sự bách hại bất công vì đã sống công chính và ngay thẳng. Giống như Đức Kitô, nhiều lúc, chúng ta bị bách hại bởi những kẻ thù bên ngoài và nhiều lúc bởi chính cả bạn bè, người thân nữa vì chúng ta làm điều gì đó tốt đẹp. Họ có thái độ thù địch và ghen ghét chúng ta. Nhưng chúng ta phải can đảm và bền lòng, vì Thiên Chúa chắc chắn sẽ minh oan cho chúng ta như Người đã làm cho Đức Kitô.
Bài đọc II nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc tập trung sống những điều tốt lành vốn chúng mang lại sự hiệp nhất với nhau hơn là chạy theo những điều làm chia rẽ chúng ta. Đó là anh em hãy “trở nên thanh khiết, hiếu hòa, bao dung, mềm dẻo, đầy lòng từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (Gc 3,17). Tất cả chúng ta đều ước ao một cuộc sống hòa hợp, bởi vì nhiều cộng đoàn Kitô hữu, nhiều gia đình thường xuyên sống trong cảnh chiến tranh, xung đột và xáo trộn.
Những tranh chấp như thế nhiều lúc không thể tránh khỏi trong đời sống, nhưng chúng ta không được phép để cho chúng chia rẽ chúng ta. Thật đáng buồn, gốc rễ của hầu hết các cuộc tranh chấp như thế là do tham vọng ích kỷ. Vì thế, thánh Giacôbê nhắc nhở chúng ta đừng để cho những tham vọng ích kỷ phá hủy những tương quan, gia đình và cộng đoàn chúng ta. Thánh nhân quả quyết:
“Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa… Anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (Gc 3,16.4,2).”
Dĩ nhiên, nhiều gia đình, nhiều vợ chồng, nhiều cộng đoàn và nhiều quốc gia đã bị phá hủy vì những tham vọng và ước muốn ích kỷ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu loan báo về việc Người sẽ bị bắt, bị giết chết và ngày thứ ba, Người sẽ sống lại, thì các môn đệ chỉ có nghĩ đến quyền lợi, địa vị và tranh dành nhau ai lớn hơn ai trong Nước Chúa. Rõ ràng các môn đệ theo Chúa nhưng vẫn còn mang trong mình những “giấc mơ trái mùa” mà họ nghĩ rằng Chúa đến để thiết lập, họ sẽ được thăng quan tiến chức theo kiểu thế gian hơn là đi theo Chúa để phục vụ tha nhân. Như thế, giống như cộng đoàn mà thánh Giacôbê viết thư khuyên bảo, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đã kinh nghiệm về sự tranh dành quyền lực và ganh tỵ nhau.
Đây cũng là điều mà chúng ta thường thấy trong xã hội, Giáo Hội, gia đình và bất cứ nơi đâu mà sự tham vọng cá nhân được xem là quan trọng hơn bất cứ điều gì. Khi đó, chúng ta thấy xuất hiện chiến tranh, ngồi lê đôi mách, dửng dưng, gây hấn, đe dọa mạng sống và tài sản, hiềm thù, và mọi tật xấu tệ đoan. Tất cả những điều này phá hủy hết mọi thiện ích chung và sự sống chung hòa bình.
Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một con đường để vượt thắng sự ghen tỵ. Đó là không nhìn người khác như là đối thủ phải loại trừ trong cuộc cạnh tranh. Tha nhân là đối tượng để chúng ta thăng tiến và phục vụ.
Vì thế, khi Chúa Giêsu bồng một em bé lên như là một mẫu gương cho chúng ta hôm nay, Người đơn giản muốn dạy chúng ta rằng chúng ta phải trở nên giống như trẻ thơ để trở nên người lớn nhất. Dĩ nhiên, đây không có nghĩa là trở nên “ấu trĩ.” Đúng hơn, nó có nghĩa là trở nên giống tinh thần trẻ thơ. Nghĩa là sống cách đơn giản, trong sáng, với tinh thần khiêm tốn, phục vụ Chúa và tha nhân.
Cuối cùng, để trở nên người lớn nhất có nghĩa là người biết tập trung vào người khác chứ không phải tập trung vào chính mình, người biết dùng khả năng mình để phục vụ, đón tiếp, và cộng tác với người khác như các trẻ thơ thường làm. Nó cũng có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận sự thật, tôn trọng sự khác biệt của người khác và hợp tác với nhau một cách tích cực. Để kết thúc, chúng ta nghe lại câu chuyện dân gian Việt Nam về sự nguy hại của sự ghen tỵ, câu chuyện Thiếu Phụ Nam Xương.
Cô là một người phụ nữ có tên là Nguyễn Thị Thiết, lấy chồng họ Chương, sống ở tỉnh Hà Nam. Hai vợ chồng đang yêu thương và chung thủy với nhau, nhưng vì nước, chàng phải đi lính theo lời hiệu triệu của nhà vua. Trước khi ra trận, hai người có con mà không biết. Khi sinh con, mỗi buổi tối, người mẹ ru con ngủ, đứa con trai hỏi mẹ: “Bố con ở đâu?” Người mẹ chỉ vào cái bóng mình in trên vách nhà và nói: “Bố con đó.” Sau ba năm anh trở về, hai mẹ con đi ra đón chồng. Khi anh tới ôm đứa bé, nó liền bảo: “Ông không phải là bố tôi, bố tôi tối mới về kìa.” Nghe vậy chàng Chương bừng bừng nổi giận máu ghen với vợ mình. Đau lòng quá và không thể làm cách gì để giải thích cho chồng hiểu, nàng đành ra sông tự tử. Sau đó, cứ mỗi tối thấy bóng người trên vách nhà, đứa con lại kêu lên: “Bố con đã về kìa!” Hiểu ra vấn đề, chàng Chương ân hận, thương tiếc vợ mình, nhưng mọi sự đã quá muộn. Anh và đứa con liền ra sông lập miếu để thờ nàng.
Câu chuyện trên minh chứng lời này: có yêu thì mới ghen, nhưng quá ghen thì giết chết tình yêu! Xin Chúa giúp chúng ta biết giệt trừ tính ghen tỵ trong lòng chúng ta. Amen!
Sau khi chữa một người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh, Thầy Giêsu cùng các môn đệ ra khỏi TN 25-B154
Sau khi chữa một người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh, Thầy Giêsu cùng các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Thầy trò âm thầm tiến bước, không có đám đông vây quanh, chỉ có Thầy và trò sát cánh bên nhau, vì Chúa Giêsu không muốn cho ai biết về cuộc hành trình này. Lần này, Thầy Giêsu một lần nữa nhắc lại lời loan báo về cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Các môn đệ không hiểu và cũng vì sợ nên chẳng ai dám hỏi lại Người. Một sự thinh lặng đến nghẹt thở. Nhưng trong chính tâm hồn mỗi môn đệ đều đang có một cuộc chiến dữ dội. Cuộc chiến đấu nội tâm ấy là gì thì chỉ mình Chúa và mỗi người biết. Có lẽ, nỗi băn khoăn mà các ông đều cưu mang trong lòng đó là: Ai trong các ông là người lớn nhất?
Hơn ai hết, Thầy Giêsu hiểu rõ con đường mà Người đang dẫn các môn đệ bước đi. Càng ngày, cuộc hành trình càng đến gần thập giá. Đồi Canvê một chiều loang máu như ẩn hiện trong tâm trí Thầy. Những cực hình và cả cái chết treo trên thập giá đang chờ đợi phía trước, nhưng tất cả không ngăn được bước chân của Thầy. Thầy nhận thấy nỗi lo lắng và sợ hãi hiện trên khuôn mặt từng môn đệ, Người cũng hiểu rõ cả những nỗi ưu tư và bao toan tính đang giằng xé tâm hồn họ. Những con người ấy đã chia sẻ với Thầy bao hân hoan và vui mừng, chia sẻ cả những thiếu thốn trên hành trình rao giảng Tin Mừng. Liệu họ có trung thành theo Thầy đến đỉnh đồi Canvê? Thầy Giêsu thấu biết từng người trong các ông, và nhất là Người dành cho các ông một tình yêu trước sau như một, một tình yêu tròn đầy.
Khi cùng Thầy đến thành Caphácnaum, các môn đệ đã cãi nhau. Về đến nhà, Thầy mới hỏi: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”( Mc 9, 33). Câu hỏi của Thầy khiến các ông lặng thinh. Có lẽ, các ông đã cãi nhau kịch liệt nhưng Thầy lại chỉ gọi đó là một cuộc “bàn tán”. Các ông cúi mặt khi bắt gặp ánh mắt trìu mến của Thầy. Dọc đường, có Thầy cùng đi nhưng các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Khi đụng đến quyền lợi, danh vọng, tất cả các ông đều bộc lộ con người mình. Thầy ngồi xuống, gọi các ông lại và nhẹ nhàng dạy bảo: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35). Đó là giáo lý của Thầy Giêsu, một giáo lý hoàn toàn trái ngược với những gì mà con người vẫn suy tính và mong đợi. Lời Thầy dạy bảo như mũi tên đâm trúng tim đen của từng người và làm lộ ra những tham vọng đã chất đầy trong họ. Thầy biết rõ ước muốn của họ. Thầy dạy họ hãy làm mọi việc bằng tình yêu và nhân danh Thầy.
Còn ta, mỗi ngày qua đi, có biết bao điều đã xảy đến với ta. Kìa, Thầy Giêsu cũng đã ngồi xuống, Người đưa mắt mời gọi ta. Ta có mau mắn đến ngồi xuống bên Thầy như các môn đệ lúc này đây? Ta có sẵn sàng để Thầy chạm đến nơi sâu thẳm của tâm hồn mình không? Hãy để Lời Người thức tỉnh ta, đánh một tiếng động lớn trong lòng ta. Chắc chắn, ánh sáng tình yêu của Người sẽ làm lộ ra những gì ẩn khuất nơi tâm hồn ta: đó là những ước muốn bất chính, những đam mê, những ham muốn quyền lực, danh vọng hay cả những ước muốn yêu và được yêu. Người sẽ hướng dẫn ta quay trở về, nối lại những tương quan đã đổ vỡ vì hiểu lầm, xích mích; làm mới lại tình yêu với Chúa trong ta. Hãy nhớ rằng, những nẻo đường ta đang bước đi đều có Thầy hiện diện. Dù Người lên tiếng hay chỉ âm thầm đi bên cạnh, Người vẫn hướng toàn bộ cái nhìn và sự quan tâm dành riêng cho ta.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn bước đi bên con. Dù có lúc con không để ý đến sự hiện diện của Chúa, dù lắm lúc con đã quên mất rằng Người vẫn có đó, hay vì con không thể nhận ra rằng Chúa thật sự đang ở bên con, thì trong ánh mắt của Chúa, trong tâm trí và trái tim của Chúa vẫn luôn ghi khắc hình ảnh của đứa con bé nhỏ và tội lỗi này: “Vì mỗi lần nhắc đến con; Ta lại thấy nhớ thương; Nên lòng Ta bồi hồi thổn thức; Ta thương con, thương con thật nhiều” (x.Gr 31, 20). Amen.
Xin cho con nhỏ bé trước mặt Chúa, đơn sơ, hiền hòa như suối mát. Xin cho con nhỏ bé trước TN 25-B155
“Xin cho con nhỏ bé trước mặt Chúa, đơn sơ, hiền hòa như suối mát. Xin cho con nhỏ bé trước anh em…” Đó là những ca từ rất giản dị, mộc mạc, đơn sơ của một vị linh mục, như muốn gói gọn tâm tình của người môn đệ Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay cũng dạy cho chúng ta bài học về sự nhỏ bé ấy. Đức Giêsu vẫn kiên nhẫn trong việc hướng dẫn các môn đệ của mình.
Dân gian có câu: “Có chuyện gì thì đóng cửa bảo nhau”. Quả thực, đó là sự tế nhị, khôn khéo, bác ái để chúng ta giúp nhau xây dựng hòa khí trong gia đình, nhóm bạn. Sau khi nghe Thầy Giêsu loan báo lần thứ hai về Cuộc Thương Khó của Người, các môn đệ vẫn chưa hiểu và vì sợ nên không dám hỏi lại. Dường như các môn đệ không hiểu điều Thầy đang muốn mạc khải. Đang khi Thầy của mình còn phải đối diện với những khó khăn, với Cuộc Khổ Nạn sắp tới, thì các ông vẫn còn bận tâm đến chuyện ai lớn hơn ai. Nỗi bận tâm đó khiến các ông cãi nhau dọc đường. Biết vậy, về tới nhà, Đức Giêsu mới bắt đầu hỏi các môn đệ của mình: “Dọc đường, anh em bàn tán với nhau chuyện gì vậy? (Mc 9, 33). Các ông làm thinh (Mc 9,34).
Dường như nét mặt của các môn đệ đã nói lên tất cả. Các ông hãy còn đang hằn học với nhau, khuôn mặt vắng bóng nét vui tươi, bình an. Không hẳn vì các ông lo nghĩ đến những điều Thầy loan báo, nhưng có thể vì lòng các ông còn bận tâm đến “cái ghế” – chỗ đứng của mình. Tâm trạng của Thầy Giêsu như thế nào? Chắc hẳn Ngài phiền lòng lắm. Đức Giêsu hành xử thật tế nhị, dễ thương, nhân từ và vô cùng kiên nhẫn. Người ngồi xuống, gọi các môn đệ lại và ôn tồn dạy bảo: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35). Người cũng đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, ôm nó vào lòng. Đoạn Người dạy rằng: “Ai đón tiếp một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy thì không phải là đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37).
Với những ai chấp nhận trở nên bé nhỏ, khiêm tốn trước nhan Chúa, trước anh chị em mình, họ sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Người ấy sẽ được ở trong vòng tay của Thầy Giêsu. Theo giáo huấn của Thầy Giêsu, những ai muốn làm lớn hơn cả phải chấp nhận làm người rốt hết, làm người phục vụ mọi người. Lời dạy bảo của Thầy Giêsu hôm nào cũng dành cho cả chúng ta. Thiết nghĩ, thường chúng ta thích làm lớn nhưng lại không thích phải phục vụ kẻ khác, không muốn trở nên người rốt hết. Nhưng lời Chúa dạy luôn là chân lý. Những ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Thầy Giêsu thì phải chấp nhận đi theo giáo huấn của Người. Bởi chính Người cũng đã trở nên nhỏ bé, khiêm hạ, trở nên người phục vụ mọi người. Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và làm giá chuộc muôn người (x. Mt 20,28).
Là một Kitô hữu, khi đảm trách một công việc hay chức vụ gì, chúng ta được mời gọi sống khiêm tốn, trở nên nhỏ bé, rốt hết và phục vụ mọi người. Khi ý thức sống theo gương của Thầy chí thánh, chúng ta sẽ biết cách hành xử bác ái với nhau, biết cùng nhau xây dựng hòa bình, yêu thương. Nhất là, chúng ta sẽ trở nên nhỏ bé trước cái nhìn yêu thương của Chúa, được Chúa ôm vào lòng. Khi ý thức sự nhỏ nhỏ bé của mình, chúng ta cũng học biết được thế nào là sống tâm tình phó thác vào Chúa, tôn trọng những người ta đang phục vụ, biết dùng tình thương mà đối xử với nhau. Khi chúng ta đón tiếp những con người bé nhỏ như vậy là chúng ta đang đón tiếp chính Thiên Chúa.
Quyền lực là gì? Quyền lực là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ TN 25-B156
Quyền lực là gì? Quyền lực là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình. Tâm lý con người nói chung ai chẳng thích quyền lực, không có gì hấp dẫn, cám dỗ con người bằng quyền lực. Thích làm lớn, hay thích quyền lực là thứ “gây nghiện” bằng tất cả những thứ “gây nghiện” khác cộng lại. Bởi quyền lực làm cho người chưa có khao khát có nó, có chút quyền lực rồi lại muốn quyền lực lớn hơn. Thích quyền, có thể biến người ta thành kẻ tán tận lương tâm, chia rẽ và giết chết nhau. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng không nằm ngoài qui luật thông thường ấy. Các ông có tranh giành nhau cũng là chuyện bình thường. Quyền lực khiến cho hai anh em Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên hữu và bên tả Chúa Giêsu (x.Mc 10 37) và làm cho “Mười môn đệ kia đâm ra tức tối” (Mc 10, 41) sinh ra chia rẽ, bất hòa.
Tranh giành quyền lực
Chuyện xảy ra vào chính lúc Chúa Giêsu loan báo cho các ông về cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Thay vì dừng lại và chia sẻ với Thầy, hoặc nếu chưa hiểu thì trao đổi với Thầy để am tường hơn, đàng này các ông lại ích kỷ, vụ lợi; tưởng thời lập quốc của Ðấng Mêsia sắp đến và ngày tể tướng triều chính phải được cắt đặt đã tới, thế là các ông bắt đầu tranh cãi về địa vị với nhau. Hiểu rõ nhân tình thế sự nơi người môn đệ, Chúa Giêsu nói với họ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi mọi người” (Mc 9, 35). Đã ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc khổ nạn của Người cho các môn đệ, nhưng họ đâu có muốn Chúa nói với họ về khổ đau và thập giá. Họ càng không muốn biết về những thử thách và lo âu. Vì thế, họ tranh luận với nhau xem ai hơn ai, ai là người xuất sắc nhất, thanh sạch nhất, người có quyền được hưởng đặc ân nhiều hơn so với người khác. Thái độ tranh biện về quyền lực và danh vọng là thái độ vô ích, khiến người ta từ tránh khó, ngại khổ, không dấn thân vào việc chung vì ích chung.
Chúa Giêsu đặt em bé ở giữa
Chúa Giêsu biết rõ tư tưởng của các môn đệ, nên Người đề nghị một thuốc giải cho cuộc tranh giành quyền lực và sự từ khước hy sinh của họ; để mang lại tính chất long trọng cho điều Người sắp nói, Chúa “đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37). Bài học khiêm nhường như đứa trẻ nhỏ họ vẫn chưa thuộc.
Trước cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu dạy họ một bài học mà họ sẽ không bao giờ quên được. Chúa đã làm gì?
Trong lúc mọi người đang dùng bữa chung, Chúa Giêsu đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ngoài ra, lấy một chiếc khăn và quấn ngang thắt lưng rồi đổ nước vào chậu. Các môn đệ lúc ấy ngỡ ngàng sửng sốt lắm, Thầy sắp làm gì đây. Trong khi họ quan sát thì Chúa Giêsu đi đến từng người trong trong các ông, cúi xuống rửa chân cho họ. Người dùng khăn lau khô chân họ. Họ cảm thấy bối rối, còn Phêrô thì không muốn để Thày làm công việc phục vụ thấp kém này cho mình (x. Ga 13,1-15).
Ngày nay chúng ta thường không rửa chân cho nhau. Chúa Giêsu đã làm như vậy. Khi làm điều này, Chúa Giêsu dạy các môn đồ một bài học quan trọng là phục vụ lẫn nhau. Người không muốn họ chỉ nghĩ đến mình, cho mình là quan trọng đến độ luôn phải được người khác phục vụ. Người muốn họ sẵn sàng phục vụ người khác.
Phục vụ người khác không khó đâu. Vậy chúng ta đừng bao giờ do dự phục vụ người khác.
Giáo Hội được Chúa Giêsu thiếp lập để phục vụ
Bao lâu xã hội loài người còn, thì bấy lâu bài học Chúa dạy hôm nay vẫn còn giá trị, bởi vì cám dỗ về quyền lực và lạm quyền đã ăn sâu trong mỗi người và trong mọi cơ chế xã hội. Giáo hội cũng không được miễn nhiễm khỏi căn bệnh tìm kiếm chức quyền danh vọng. Não trạng thế gian thì tìm kiếm danh vọng chức quyền, còn tư tưởng của Thiên Chúa là phục vụ và trao ban sự sống.
Những người làm lớn trên thế gian xây dựng những ngai vàng cho quyền bính của họ, Thiên Chúa lại chọn một ngai không tiện nghi, là Thánh Giá, từ ngai đó Người cai trị khi ban tặng sự sống của Người: Chúa Giêsu nói: “Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc 10, 45).
Phục vụ là thuốc giải độc hiệu quả chống lại căn bệnh tìm kiếm địa vị chức quyền. Giáo Hội phải cúi xuống mà rửa những bàn chân của những người rốt hết, để phục vụ họ bằng tình yêu, đơn giản và chân thành.
Chúng ta hãy khẩn cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Người Nữ khiêm nhường luôn gắn bó với thánh ý Chúa, giúp chúng ta vui vẻ bước theo Chúa Giêsu trên con đường phục vụ, con đường chính dẫn đến Thiên Đàng.
Có hai vợ chồng cùng đi mua bàn ghế để trang bị nội thất cho ngôi nhà mới xây. Người vợ thì TN 25-B157
Có hai vợ chồng cùng đi mua bàn ghế để trang bị nội thất cho ngôi nhà mới xây. Người vợ thì thích sắm những đồ mộc thuộc nhóm gỗ kém, nhưng có phủ lớp sơn láng bóng, đẹp mắt; còn người chồng thì muốn chọn loại bàn ghế đóng bằng gỗ quý, chẳng sơn phết gì vì cho rằng “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.” Việc mua sắm bất thành vì mỗi người có một thị hiếu khác nhau, một cách đánh giá khác nhau.
Khi nhận định về giá trị con người cũng vậy, người ta cũng có những cách đánh giá khác nhau, dựa vào những tiêu chí khác nhau.
Cách đánh giá của người đời
Người đời đánh giá con người chiếu theo lớp sơn hào nhoáng bên ngoài.
Lớp sơn thứ nhất là sắc đẹp.
Một số người đánh giá con người tùy theo sắc đẹp ngoại hình. Thần tượng của họ là những ngôi sao điện ảnh, là hoa hậu, là những ca sĩ ăn mặc lố lăng hoặc người mẫu đang ăn khách… Điều nầy khiến khá đông bạn trẻ xem nhẹ việc trau dồi nhân cách, không màng phát huy đạo đức, không lo trau dồi kiến thức hay học tập mà chỉ tìm cách chưng diện, đua đòi y phục hợp thời trang…
Lớp sơn thứ hai là sang trọng, giàu có.
Lắm người đánh giá con người tùy theo tiền bạc, tài sản. Thần tượng của họ là những đại gia nghìn tỷ. Điều nầy thúc đẩy người ta đua tranh làm giàu bất chính, cố tậu cho mình những siêu xe sang trọng, xây cho mình những biệt thự xa hoa hoặc sở hữu những ngôi nhà hoành tráng, những đồ trang sức xa xỉ mắc tiền…
Lớp sơn thứ ba là địa vị xã hội.
Nhiều người cho rằng giá trị con người nằm ở địa vị cao, nên cần phải phấn đấu để đạt được ghế cao trong xã hội.
Ngay cả các môn đệ Chúa Giê-su cũng mang não trạng nầy.
Tin mừng hôm nay cho biết, hôm ấy, các môn đệ vừa đi đường vừa tranh luận với nhau xem giữa các ông, ai là người lớn nhất (Mc 9, 34).
Ngay cả khi các tông đồ cùng Chúa Giê-su ăn tiệc Vượt qua trước khi Ngài nộp mình chịu chết, các vị “cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất” (Lc 22,24)
Và cũng có lần hai môn đệ Gioan và Gia-cô-bê cùng với mẹ mình đến xin Chúa Giê-su cho ngồi bên tả bên hữu Chúa khi đến thời Ngài được hiển vinh (Mt 20, 20-24; Mc 10, 35-37).
Cách đánh giá của Thiên Chúa
Chúa Giê-su đánh giá tùy vào tinh thần hy sinh phục vụ.
Chúa Giê-su phản đối não trạng đánh giá con người dựa vào lớp sơn hào nhoáng bên ngoài. Ngài đánh giá con người không tùy thuộc vào vẻ đẹp ngoại hình, vào tiền tài của cải, vào ghế thấp ghế cao trong xã hội… nhưng đánh giá con người tùy theo tinh thần hy sinh, phục vụ của mỗi người.
Hôm ấy, sau khi Chúa Giê-su nghe các môn đệ vừa đi đường vừa tranh cãi với nhau xem giữa các ông, ai là người lớn nhất, thì về đến nhà, Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người (Mc 9,35).
Và trong Tin mừng Lu-ca, sau khi nghe các môn đệ tranh cãi với nhau về điều nầy, Chúa Giê-su bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy quyền mà thống trị dân… nhưng anh em thì không phải như thế; trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 25).
Qua những lời nầy, Chúa Giê-su tỏ cho thấy giá trị con người được nâng cao khi người ta biết hạ mình phục vụ mọi người.
Nên theo cách đánh giá của ai?
Lối đánh giá con người dựa vào những lớp sơn hào nhoáng bên ngoài gây ra hậu quả tai hại là khuyến khích nhiều người tìm cách đánh bóng mình bằng những lớp sơn phù phiếm, tạo ra những con người thiếu phẩm chất cao đẹp, nghèo đạo đức…
Còn cách đánh giá dựa vào tinh thần phục vụ của Chúa Giê-su sẽ khích lệ con người sống khiêm tốn, biết hy sinh quên mình để giúp ích cho tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su,
Từ bỏ cách đánh giá dựa theo lớp sơn bên ngoài để biết đánh giá con người theo tinh thần hạ mình phục vụ là điều rất khó.
Xin Chúa ban thêm khôn ngoan và soi tâm mở trí, để chúng con biết nhận ra giá trị con người không tùy thuộc vào lớp vỏ bên ngoài nhưng tùy vào lối sống hy sinh, phục vụ và biết thể hiện nếp sống nầy trong cuộc đời chúng con. Amen.
Tin Mừng tuần trước, các tông đồ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúa đã tỏ cho TN 25-B158
Tin Mừng tuần trước, các tông đồ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúa đã tỏ cho các ông biết, Ngài là Đấng Cứu Thế khiêm hạ như lời tiên tri Isaia mô tả.
Tin Mừng tuần này, Chúa nói rõ hơn về cách thức cứu thế của Ngài: Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết, Người sẽ sống lại.
Tuy nhiên, các tông đồ dường như im lặng suy nghĩ về những điều Thầy nói mà họ không hiểu! Khi bị Thầy hỏi:“Dọc đường anh em đã bàn tán chuyện gì vậy?”. “Các ông làm thinh”. Bởi vì “khi đi dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”.
Chân thì đi đàng sau Thầy, nhưng lòng thì đi ngược chiều với Thầy. Điều đáng hỏi Thầy để hiểu thì không hỏi, lại quay ra cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Các ông vẫn nuôi hy vọng về chức tước, địa vị mà các ông nghĩ mình sẽ được nên đã ngấm ngầm bàn cãi với nhau để phân chia chỗ ngồi thấp cao.
Mọi chuyện khác thì Người vừa đi vừa dạy, cả đến chuyện Người sẽ bị nộp, bị giết chết thì Người cũng vừa đi vừa nói. Nhưng chuyện này thì Người long trọng dạy các ông: “Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói…”. Người ngồi xuống trong tư thế thầy dạy và gọi các ông lại trong tư thế môn đệ. Người trả lời thẳng đề tài mà các ông đã cãi nhau dọc đường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Lời dạy thật rõ ràng, thiết thực, không văn hoa bỏng bảy. Rồi Người minh hoạ bằng hình ảnh một trẻ nhỏ. Trẻ nhỏ thường gợi chúng ta nghĩ tới sự đơn sơ, trong sáng, nhưng trong Kinh Thánh thì “trẻ nhỏ không kể”, là số không. Người đưa ra một định luật ngược đời: muốn làm người lớn hơn cả thì phải trở thành số không! Chính Người tự đồng hoá với trẻ nhỏ: “Ai tiếp đón một trẻ nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.(x. tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô. Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).
Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ con đường trở nên lớn lao thật sự. Đó là con đường phục vụ. Con đường phục vụ thay thế cho tham vọng thống trị. Giúp đỡ tha nhân thay cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể. Người lớn nhất, người đứng đầu là người phục vụ hết mình. Chức tước, chức vụ, chức vị, chức quyền chỉ là phương tiện để phục vụ. Ai sống tinh thần phục vụ đó là người lớn nhất. Ai không biết phục vụ thì là người nhỏ nhất. Giá trị của một con người không do địa vị chức tước mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó. Chúa Giêsu mở ra một nền văn minh mới. Người lớn nhất không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng khả năng để phục vụ. Người lớn nhất không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng trái tim để yêu thương.
Để làm gương cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã tự hạ mình: “không phải để được phục vụ mà đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20,25-28). Là Thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là lãnh đạo nhưng Người sẵn sàng hiến mạng sống “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu được thể hiện rõ nét nhất trong cử chỉ rửa chân “Nếu Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em phải rửa chân cho nhau”. (Ga 13,14-15). “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27). Phục vụ lên đến tuyệt đỉnh trong hành vi tự hiến “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Quyền bính và phục vụ gắn liền với nhau làm nên bản chất người môn đệ Chúa Giêsu. Người lãnh đạo theo gương Chúa Giêsu là người có tâm, có tầm, có đức và có tài để phục vụ tha nhân theo tinh thần đức ái mục tử. Mục tử rao giảng chân lý và dám sống chân lý ấy cho dù phải hy sinh tính mạng.
Thánh Phêrô đã thấm nhuần lời dạy của Thầy Chí Thánh nên sau này ngài viết những lời tâm huyết cho các mục tử:“Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi ích thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt tình tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5,1-4). Thánh Phêrô cũng khuyên các tín hữu: “Ơn riêng của Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban.” (1Pr 4, 8-11).
Quyền bính đòi chiếm hữu và kiểm soát. Nhưng trong Giáo hội, quyền bính được xây trên nền tảng tình yêu Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới cần Phêrô xác quyết tới ba lần: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17). Quyền bính được xây dựng trên tình yêu nên người mục tử luôn khiêm tốn phục vụ tha nhân. Dân Chúa mong muốn trước tiên các linh mục của họ phải là các nhà lãnh đạo tinh thần: “Giáo dân mong muốn linh mục của họ là các người lãnh đạo tinh thần, luôn dễ gần, có tình yêu của Đức Kitô và chăm lo cho tất cả mọi người. Giáo dân mong muốn các linh mục dễ thương và ân cần tiếp đón. Giáo dân mong ước các linh mục yêu mến các công việc của các ngài, thi hành sứ vụ được xây dựng trên sự cầu nguyện, ban phát các bài giảng hay, quan tâm đến sự đào tạo tôn giáo cho trẻ em và người lớn, giảng dạy niềm tin Công giáo, là thành viên của giáo xứ nơi các ngài phục vụ hiểu biết và có tài lãnh đạo và các kỹ năng giao tiếp tốt”. (The Repord, 6-6-2006). Lãnh đạo tinh thần cơ bản là “gây ảnh hưởng”, là khả năng một người ảnh hưởng lên người khác qua sự mời gọi, thuyết phục và gương sáng để đưa người khác từ nơi họ đang ở đến nơi mà Chúa muốn họ đến. Linh mục là người giảng Lời Chúa, thi hành các Bí Tích và lãnh đạo cộng đoàn tín hữu. Các ngài là nhà lãnh đạo tinh thần hiệu quả khi trui rèn ba kỹ năng ấy. Mẹ Thánh Têrêxa đã diễn tả các đòi hỏi của thuật lãnh đạo tinh thần một cách hết sức đơn giản qua câu nói: “để giữ cho đèn cháy sáng, bạn phải luôn châm dầu cho nó”.
Lời dạy của Chúa Giêsu đưa nhân loại đi vào nền văn minh của tình thương. Và kể từ đó, hàng triệu vị Thánh được tôn vinh như là những chứng từ sống động cho hình ảnh “Người lớn nhất” trong nền văn minh mới của Tin Mừng. Mẹ Têrêxa Calcutta trở thành vĩ nhân của thời đại bằng con đường yêu thương và phục vụ người nghèo. Phục vụ luôn gắn liền với yêu thương. Đức Cha Gioan Casaigne, sau 15 năm trong cương vị chủ chăn tại Sài Gòn, ngài đã tình nguyện về sống và phục vụ những bệnh nhân phong cùi ở Di Linh trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Ngài đã dành trọn trái tim và cả cuộc đời phục vụ những phận đời khốn khổ.Thánh Augustinô nhận định: Trong đời sống người kitô hữu, có một cuộc chiến đấu giữa hai thứ tình yêu: yêu Thiên Chúa cho đến từ bỏ bản thân mình và yêu bản thân cho đến nỗi chối bỏ Thiên Chúa.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Một vĩ nhân không hệ tại ở địa vị xã hội của người ấy mà là sự cống hiến cuộc đời cho sự phát triển của nhân loại. Giáo hội tuyên phong một người lên bậc hiển thánh chung quy cũng là tuyên dương tinh thần phục vụ của người ấy vì Nước Chúa. Phục vụ để trở nên phong phú, có giá trị, nên hoàn thiện và trở nên gần Chúa Giêsu hơn.
“Nghệ thuật làm lớn” của Chúa Giêsu chính là khiêm tốn phục vụ. Người thật sự cao cả là người dâng đời mình cho lợi ích của cộng đoàn. Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất. Phục vụ một người không đáng kể nhất cũng là phục vụ chính Thiên Chúa. Con đường tự hạ, làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất trước mặt Chúa.
Muốn trở thành người phục vụ đích thực, thánh Giacôbê trong bài đọc 2 khuyên hãy sống: “thanh khiết, hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa trái, không thiên vị, cũng đừng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, đó là người công chính”. Nơi nào có phục vụ, có chăm sóc, có chia sẻ không tính toán, nơi đó người ta sẽ thấy được sự chân thực của tình yêu.
Lạy Chúa, xin cho con biết: Phục vụ là hy sinh, phục vụ là quên mình. Phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không màng. Phục vụ là hy sinh, phục vụ vì Chúa Kitô. (Bài ca phục vụ).
Con gà tức nhau vì tiếng gáy. Còn con người “gáy” nhau nhiều thứ lắm: giàu có, nhà to, xe TN 25-B159
Con gà tức nhau vì tiếng gáy. Còn con người “gáy” nhau nhiều thứ lắm: giàu có, nhà to, xe đời mới, quần áo hàng hiệu, ngoại hình đẹp, bằng cấp cao,… Bất cứ cái gì có vẻ hơn người khác một chút thì người ta đều ra vẻ vênh váo, ngông nghênh, nói năng trịch thượng, hách dịch.
Văn hào William Shakespeare nhận xét chí lý: “Thằng ngốc tự cho mình là thông minh, còn người thông minh biết mình là thằng ngốc.” Bác học Albert Einstein nói: “Cái tôi và sự hiểu biết tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé. Hiểu biết càng ít, cái tôi càng to.” Và ông khuyên: “Ðừng nên cố trở thành một người thành công mà hãy gắng trở thành một người có giá trị.” Cứ là chính mình, không cần tranh giành gì với ai.
Kinh Thánh nói: “Người khôn khéo chẳng khoe điều mình biết, kẻ dại khờ để lộ chuyện ngu si.” (Cn 12:23) Người khôn ngoan là người sống khiêm nhu, người lương thiện là người sẵn sàng thứ tha. Chỉ có kẻ ngu si mới ép người quá đáng, chỉ có kẻ bất lương mới tính toán so đo.
Thuở xưa, vì thấy mình kém cỏi mà ác nhân ghen tức và tạo phe kết đảng với nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo.” (Kn 2:12) Họ hèn nhát vì mù quáng nên dễ mắc chứng ảo tưởng và suy nghĩ lệch lạc. Họ rất ranh mãnh, chúng ta phải thực sự cảnh giác kẻo “sập bẫy” mưu ma chước quỷ. Ngày nay mức nguy hiểm hơn nhiều!
Có đầy mới tràn. Tư tưởng xấu sinh ra ước muốn xấu, dẫn tới hành động xấu. Kẻ xấu cứ tưởng người khác cũng xấu như mình nên họ nghi ngờ người khác, và họ biện luận: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào. Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hòa làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.” (Kn 2:17-20) Chúa Giêsu đã bị những kẻ xấu ghét cay ghét đắng dù họ biết Ngài công minh chính trực.
Người công chính luôn sống ngay nói thẳng, và thường bị kẻ xấu không ưa. Không phải Thiên Chúa không biết hoặc làm ngơ, nhưng Ngài tôn trọng luật tự nhiên, Ngài chỉ ra tay khi thực sự cần thiết. Những người tín thác vào Thiên Chúa luôn tín nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi. Phường kiêu ngạo nổi lên chống đối, bọn hung tàn tìm hại mạng sống con, chúng không kể gì đến Thiên Chúa. Nhưng này có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ.” (Tv 54:3-6)
Thiên Chúa biết rõ người nào mạnh, người nào yếu, nên Ngài không bắt ai chịu đựng quá sức. Vấn đề quan trọng là người đó nhận biết ơn độ trì của Ngài, như Thánh Vịnh gia thề hứa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo!” (Tv 54:8) Bất cứ ai tin tưởng và hành động nhân danh Thiên Chúa thì chắc chắn sẽ không lầm đường lạc lối, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8:12)
Vấn đề lương tâm vô cùng quan trọng đối với con người. Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính.” (Gc 3:16-18) Lương tâm không ngay thẳng sẽ sinh ra nhiều rắc rối, thậm chí còn ảnh hưởng sức khỏe thể lý.
Đúng là “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng lỗi tại ai. Thánh Giacôbê phân tích: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.” (Gc 4:1-3) Hệ lụy rạch ròi, tất yếu, hiển nhiên!
Cuộc sống không chỉ là bể khổ mà còn phức tạp. Thiện tâm rất quan trọng, ngược lại thì rất nguy hiểm vì là dã tâm: “Lương ngôn nhất cú tam đông noãn, Ác ngữ thương nhân lục nguyệt hàn.” (Thiện tâm một tiếng ấm ba đông, Lời độc lạnh người sáu tháng ròng.) Trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh, đạo binh chư thần đã đồng ca: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.” (Lc 1:14) Điều đó cho thấy sự thiện tâm là điều kiện cần thiết để được Thiên Chúa yêu thương.
Cuộc sống có nhiều thứ trái ngược: xuôi – ngược, phải – trái, hiền – dữ, to – nhỏ, thuận – nghịch, cao – thấp, dài – ngắn,… Trình thuật Mc 9:30-36 cho biết vấn đề so đo và cách Chúa Giêsu giáo huấn để chúng ta nên người.
Ngày hôm đó, Chúa Giêsu và các môn đệ băng qua miền Galilê. Ngài không muốn cho ai biết, nhưng Ngài “bật mí” cho họ biết chuyện rất quan trọng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” Nhưng họ không hiểu gì hết. Có lẽ họ vừa sợ vừa ngại nên không dám xin Thầy cho biết rõ ràng chi tiết hơn.
Rồi Thầy trò cùng đến Caphácnaum. Khi về nhà, Ngài hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Ôi, chỉ rỉ tai nhau thế mà Thầy cũng cũng biết sao? Các ông nhìn nhau mà không dám nói gì, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Thánh sử Máccô cho biết rõ là các môn đệ “cãi nhau” – chứng tỏ vấn đề nghiêm trọng chứ không đơn giản. Họ tranh giành nhau mức “cao – thấp” về chức quyền. Ngày nay vấn đề này có lẽ còn “dữ dội” hơn nhiều, nhất là trong một xã hội coi trọng hình thức và vật chất như Việt Nam.
Lúc đó có lẽ Chúa Giêsu rất buồn khi thấy các đệ tử vẫn vướng vòng tục lụy, vẫn nặng danh lợi như vậy. Ngài ngồi xuống rồi gọi các môn đệ lại và nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” Ngài đề cao đức khiêm nhường. Ý tưởng của Ngài hoàn toàn trái ngược với chúng ta. Sau đó, Ngài đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.” Một chuỗi hệ lụy thật lạ lùng biết bao!
Khi đó ông Gioan nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Nhưng Ngài nói ngay: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”
Có hai vấn đề. Thứ nhất là lớn – nhỏ, hoặc cao – thấp: Muốn làm đầu thì phải hạ mình thành rốt hết. Thứ hai là thuận – nghịch: Không chống lại là ủng hộ. Động thái của chàng trai trẻ Gioan nhắc nhở chúng ta chớ ảo tưởng: Đừng nghĩ hơn người khác về bất cứ lĩnh vực nào. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Tự đề cao mình là coi thường người khác. Đó là mạo nhận, là kiêu ngạo! Tương tự, “khoảng cách” giữa TIN và TƯỞNG rất mong manh: TIN mình được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa yêu thì lại là kiêu ngạo. Đó là đối lập với Đức Kitô, Đấng hiền hậu và khiêm nhường. (Mt 11:29) Thiên Chúa luôn hạ bệ những kẻ tự cao và nâng cao mọi kẻ khiêm hạ. (Lc 1:52; Hc 10:14; 1 Sm 2:7; Tv 147:6; Is 2:12, 17; Is 13:11; Ed 17:24; Ed 21:34)
Khiêm nhường thuộc về Thiên Chúa, kiêu ngạo thuộc về Satan. Thánh Philip Neri nói: “Đức khiêm nhường là người bảo vệ đức thanh sạch. Trong vấn đề thanh sạch, không có nguy hiểm nào tai hại hơn là thái độ không sợ nguy hiểm. Khi một người tự đặt mình vào dịp tội và tuyên bố mình không sa ngã, đó là dấu hiệu gần như xác thực rằng kẻ ấy sẽ sa ngã, với một thương tích trầm trọng cho linh hồn.” Và Thánh Piô Năm Dấu cho biết: “Khiêm nhường, khiêm nhường, và luôn luôn khiêm nhường. Satan sợ hãi và run rẩy trước những linh hồn khiêm nhường. Chúa sẵn lòng thực hiện những việc lớn lao, nhưng với điều kiện là chúng ta phải thực sự khiêm nhường.”
Cái bẫy của ma quỷ rất tinh vi. Thánh Augustinô nói: “Ma quỷ thường dùng hai cách lừa dối: Khi người ta chưa phạm tội, nó dụ dỗ người ta cậy vào lòng thương xót của Chúa mà phạm tội; khi người ta đã phạm tội, nó xúi giục người ta sợ hãi phép công thẳng của Chúa mà ngã lòng trông cậy.” Còn Thánh Catherine Bologna phân tích: “Đôi khi ma quỷ xúi giục các linh hồn ham hố một nhân đức hoặc một việc đạo đức nào đó đến lạ kỳ, để họ thực hiện việc ấy cách cuồng nhiệt, rồi nó làm họ đâm ra chán nản đến độ chểnh mảng với mọi sự vì mỏi mệt và ngao ngán. Chúng ta cần phải thắng vượt cả chiếc bẫy này lẫn chiếc bẫy kia.”
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn làm theo Thánh Ý Ngài bằng mọi giá, không thỏa hiệp với ma quỷ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến xung đột trong cuộc sống, đó là sự ghen tương. Ghen TN 25-B160
Một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến xung đột trong cuộc sống, đó là sự ghen tương. Ghen tương cũng giống như một thứ nghiện. Những người ghen sau cơn giận đều biết mình sai trái, đều xấu hổ với hình ảnh xấu xí của mình, đều ân hận vì đã làm tổn thương những người xung quanh, thế nhưng khi “cơn nghiện” đến họ lại không làm chủ được bản thân. Ghen tương làm cho con người mù quáng, mất hết minh mẫn, và bỗng chốc trở thành tội phạm, gây tổn hại nghiêm trọng đến sinh mạng và tài sản của người khác, đến khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn.
Thánh Giacôbê hôm nay nói đến sự ghen tương giữa các thành viên trong cộng đoàn tín hữu (Bài đọc II). Theo tác giả, ghen tương và tà ý là nguyên nhân gây nên mọi điều xấu xa. Điều tác giả đề cập, vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, kể cả trong những cộng đoàn đức tin. Ghen tương đến từ việc người ta không bằng lòng với khả năng và vị trí của mình. Cũng có khi vì thấy người khác thành công, nền muốn “dìm hàng” phê phán và hạ bệ người khác.
Tác giả sách Khôn ngoan ghi lại những lời hằn học ghen tương của những người mà ông gọi là “phường vô đạo” (Bài đọc I). Họ ghen tức với những người sống ngay chính, và những người không a dua theo thói sống mưu mô của họ. Họ bàn mưu tính kế để kết án và giết chết người công chính. Các nhà chú giải Kinh Thánh, dưới nhãn quan Kitô giáo, đã nhận ra đây là hình ảnh của Đức Kitô khổ nạn. Người đã cam lòng chịu chết cách bất công, để nêu gương bài học khiêm nhường, kiên nhẫn và phó thác nơi Thiên Chúa, như chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Các môn đệ là những người đã theo Chúa ba năm, mà vẫn không tránh khỏi thái độ chèn ép ghen tỵ. Thánh Mác-cô đã làm độc giả ngạc nhiên khi ghi lại cuộc tranh cãi của các môn đệ xoay quanh đề tài “ai sẽ là người lớn nhất” ngay sau khi Chúa Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn thập giá. Người ta đặt câu hỏi: làm sao các môn đệ lại vô tâm trước những điều Đức Giêsu vừa nói? Thì ra, kể cả lúc Chúa tiên báo cuộc khổ hình đau thương mà Người sắp trải qua, các ông vẫn còn mơ về thời thiên sai theo nhãn giới phàm tục. Vì vậy, nghe Chúa nói về việc Người sẽ bị bắt bớ và bị giết, các ông “không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người”. Dường như trong đầu các ông, băn khoăn xem ai là người lớn nhất còn đáng quan tâm hơn cả những gì Thày mình vừa nói về cuộc đau khổ và về thập giá.
“Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Đó là lời khẳng định của Chúa, cũng là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ. Chính Chúa đã thực hiện nơi bản thân Người bài học này. Là Thiên Chúa uy quyền cao sang, Chúa Giêsu đã hạ mình mặc lấy thân phận con người để sống cùng và sống cho con người, nhằm mưu cầu hạnh phúc của họ. Qua hình ảnh một em bé, Chúa muốn khẳng định, những ai muốn theo Người cần phải sống đơn sơ, phó thác để có thể trở nên môn đệ đích thực của Người. Lý tưởng của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thông thường của con người. Ở đời, ai cũng muốn nổi hơn người khác về mọi phương diện. Nếu thấy người bên cạnh hơn mình thì họ ghen tương, thậm chí tìm cách gài bẫy để loại trừ. Chúa Giêsu cũng đã là nạn nhân của sự ghen tương của con người, và Người đã phải chết trên thập giá.
“Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình” – lời khẳng định của Thánh Giacôbê cho thấy, những gì chúng ta làm với thiện ý và với trái tim chân thành, sẽ đóng góp xây dựng hòa bình nơi trần thế, đồng thời làm cho Vương quốc vĩnh cửu được hình thành ngay trong hiện tại. Giữa cơn bão hưởng thụ của cuộc sống hôm nay, người ta ngại dấn thân, chỉ biết sống cho mình. Những khái niệm “phục vụ” được quảng diễn khắp nơi, nhưng đó là thứ phục vụ nhằm tới lợi nhuận. Phục vụ theo tinh thần của Chúa Giêsu, đó là đón nhận thập giá trong đời sống, và vác đỡ thập giá cho anh chị em mình. Tuy vậy, thập giá không phải chặng đường cuối cùng của Chúa Giêsu, trong sứ mạng cứu độ trần gian. Chính Người đã loan báo sự kiện phục sinh, sau khi chịu khổ nạn. Những đau khổ của chúng ta có thể được biến thành ân phúc, nếu chúng ta đón nhận với tinh thần hy sinh mến Chúa yêu người. Nếu chúng ta biết san sẻ cho nhau gánh nặng cuộc đời, sức nặng của thập giá sẽ bớt đi, đau thương sẽ biến thành niềm vui, thập giá sẽ nở hoa, niềm vui phục sinh sẽ rạng rỡ nơi cuộc đời.
“Lòng ghen tuông giống như muối trong thức ăn: một chút có thể tăng thêm vị, nhưng nhiều quá có thể làm mất ngon, và, trong một số trường hợp nào đó, có thể nguy hiểm đến tính mạng” (Sưu tầm).
Đang khi con người đi tìm giải thoát khỏi đau khổ ở cuộc đời này, Chúa Giêsu lại loan báo Con TN 25-B161
Đang khi con người đi tìm giải thoát khỏi đau khổ ở cuộc đời này, Chúa Giêsu lại loan báo Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ, bị bắt, chịu sỉ nhục, chịu chết sau cùng sẽ sống lại. Chẳng thể hiểu và chấp nhận được, Phêrô đã thưa với Chúa: “Làm sao có chuyện ấy được?” Câu trả lời của Chúa vẫn là một cương quyết: “Vác thập giá mình mà theo Chúa!”.
Thập giá, đau khổ.
Chẳng ai muốn đau khổ và thập giá. Đó là điều bình thường, vì sống trong trần thế này đâu phải là để đau khổ mà là hạnh phúc, sung sướng. Con người đi tìm cho mình hạnh phúc, sung sướng ở đời này, nên con người cố gắng tranh thủ thời gian sống để có được nhiều điều kiện nhất để sống sung sướng.
Thông thường những hưởng thụ, hưởng lạc của người này là dựa trên những đau khổ của người khác, như trong lời bài hát: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ về phần ai” (một đời người, một rừng cây, Trần Long Ẩn”. Chẳng ra khỏi những đau khổ nhưng có thể dừa những đau khổ cho kẻ thấp bé, nghèo hèn.
Đau khổ là một phần lớn trong cuộc sống. Sống bi quan, chỉ nhìn vào những đau khổ, con người sẽ sống yếm thế, cố tìm đường trốn thoát nó bằng nhiều con đường đào thoát. Bằng những con đường khổ chế để diệt thân, diệt dục, bằng những con đường hưởng thụ, khoái lạc, chìm đắm trong ma túy, thuốc an thần… Ra khỏi cũng lại phải trở về để đối diện với đau khổ và càng cảm thấy khổ đau hơn, không giải quyết gì được.
Đi tìm một cứu chúa như lòng mình mong ước, một cứu chúa sẽ giải thoát cho khỏi những tai ương, hoạn nạn, áp bức, bóc lột. Một cứu chúa mang lại an bình toàn phần để mọi người được sống yên vui, nhàn hạ, không nhọc nhằn. Ngay Phêrô và các môn đệ cung mong một đấng cứu thế như vậy. Chẳng có vị chúa nào được thế cả. Chúa Giêsu là một con người giữa trần gian, một Thiên Chúa đã làm người, sống như con người, cũng chịu nhiều đau khổ, bị ghen ghét, tẩy trừ và bị giết chết. Chỉ có một điều Chúa Giêsu là Đấng không có tội như con người.
Con đường giải thoát của Chúa.
Đó là con đường vác thập giá mình mà theo Chúa. Không thể trốn tránh, con người cần có một nghị lực can đảm, một sức mạnh trưởng thành, một ý chí lành mạnh để đương đầu với khó khăn, đau thương trở ngại,. Khi dám đương đầu, con người mang theo những suy nghĩ tích cực. Xa điều gian dối, ru ngủ, sống vững mạnh qua đau khổ.
Con đường giải thoát là con đường chiêm niệm và hành động. Chiêm niệm trong những giờ thinh lặng để kín múc nguồn sức mạnh siêu nhiên, đổ rỗng để được đong đầy chính Chúa. Thinh lặng chiêm niệm cũng là phương thuốc tiêu diệt những toan tính và dự tính riêng thuộc con người, để Ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện.
Giải thoát cũng chính là đồng hảnh. Con người không bao giờ cô độc nếu đã kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa. Chúa đã làm người, trong mọi nỗi khốn khổ, gian truân, những khinh miệt hoặc những lúc tưởng chừng bị bỏ rơi. Luôn có Chúa là Đấng âm thầm theo từng bước chân con người đi trên mọi nẻo đường, miễn là người lữ hành có lòng yêu mến Chúa. Còn nhớ câu hỏi sau khi Chúa sống lại, hiện ra và hỏi Phêrô: “Anh có mến Thấy không” (Ga 21, 17). Dù tình yêu ấy nhỏ bé nhưng cũng đủ để cho Chúa luôn hiện diện ở bên.
Con người đến để phục vụ.
Khi lòng mến Chúa được thấm nhuần, người môn đệ mới thấy những sự thúc giục từ bên trong tâm hồn làm nên những hành động, khiệm nhường và phục vu vô vị lợi. Một trái tim biết yêu thương như Chúa đã yêu thương: bênh vực kẻ nghèo hèn, quảng đại với anh chị em, giảm áp lực nhiều mặt cho người khác. Tạo nên những thước đo giá trị, công bằng, bác ái, yêu thương.
Con người có thể chịu nhiều đau khổ nếu như biết rằng “Ơn Ta đủ cho ngươi” (2 Cor 12, 9) và gánh nặng đau thương đó không chỉ là riêng mình mà còn là của anh chị em, những con người đang đau khổ, nghèo khó bên cạnh cuộc sống của ta.
Giải thoát thực sự chỉ có ý nghĩa khi chính mình trở nên con người hiền hậu, khiêm nhường, sống và mang bình an cho người khác. Chia sẻ trong một niềm vui là chính Chúa cho mọi người, an bình và hạnh phúc đích thật chỉ có thể đến từ Chúa.
Đi ngang qua xứ Ga-li, Âm thầm nhắn nhủ, lối đi đường về. Con Người phải gánh nặng nề, Vai TN 25-B162
Đi ngang qua xứ Ga-li, Âm thầm nhắn nhủ, lối đi đường về. Con Người phải gánh nặng nề, Vai mang thánh giá, tư bề bủa vây. Người ta bắt nộp cả Thầy, Đánh đòn phỉ báng, treo thây chết trần. Ba ngày sống lại hóa thân, Vinh quang sự sống, tinh vân rạng ngời. Môn đồ không dám hỏi Người, Khổ đau tiên báo, gọi mời dấn thân. Tông đồ tranh luận công thần, Ai ngồi chỗ trước, chia phần quản cai. Chúa thương dậy dỗ sớm mai, Nêu gương phục vụ, tương lai đích cùng. Không màng danh vọng uy hùng, Theo Thầy kiên vững, thiên cung phúc lành.
Ở đâu có cãi vã và ganh tị, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan. Khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó thì các môn đệ không hiểu chi hết. Các ông không thể tưởng tượng rằng Chúa Giêsu, thầy của mình sẽ phải chịu mọi sự khốn khổ và phải bị giết.
Các môn đệ còn đang tranh luận xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Các tông đồ muốn tránh không bàn luận về sự xui xẻo và chết chóc. Các ông cũng mang tất cả những yếu đuối như chúng ta. Các ông cũng mong có chỗ đứng trong xã hội, cũng mong được có chức, có quyền. Các ông không hiểu đường lối của Chúa.
Chúa Giêsu giải thích về sứ vụ tông đồ: Ai muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm rốt hết và làm đầy tớ mọi người. Làm tông đồ của Chúa là để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Các tông đồ ngây thơ không muốn thập giá nhưng muốn được vinh quang. Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội này giúp các ông hiểu con đường Chúa chọn khác với con đường hư danh của thế gian.
Tin Chúa là chấp lối Chúa đi. Dám làm nhân chứng cho Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Truyện kể ở Nam Mỹ giữa ranh giới Venezuela và Columbia, tại một ngôi nhà thờ nhỏ vào một sáng Chúa Nhật, khi thánh lễ bắt đầu, một nhóm du kích từ trong rừng đi ra với súng ống kè bên bước vào nhà thờ. Cha chủ tế và mọi người sợ hãi tái mặt. Họ bắt vị linh mục ra khỏi nhà thờ và hành quyết. Trưởng du kích trở lại nhà thờ nói: Ai tin vào Chúa bước ra. Mọi người sợ hãi im lặng.
Hồi lâu, một người đàn ông bước ra và nói: Tôi yêu Chúa Kitô. Ông bị đẩy tới cho nhóm du kích và đem ra ngoài xử bắn. Sau đó mấy người tín đồ khác tiếp tục bước ra và tuyên xưng đức tin. Mọi người đều nghe một loạt súng máy. Khi không còn ai giơ tay nhận mình là người Kitô hữu. Trưởng du kích bước vào và hô: Mọi người bước ra khỏi nhà thờ. Ông nói: Các ông các bà không có quyền ở trong nhà thờ. Rồi họ đuổi mọi người ra khỏi. Họ hết sức ngạc nhiên khi thấy cha xứ và những người khác còn đừng đó. Linh mục và nhóm này được lệnh vào nhà thờ tiếp tục dâng lễ. Còn những người kia nhút nhát sợ hãi không dám tuyên xưng đức tin thì ở ngoài. Thật là ngại ngùng!
Chúng ta theo đạo. Chúng ta tin Chúa. Chúng ta muốn được hưởng vinh quang. Chúng ta có dám làm chứng cho Chúa không ? Chúa phán: Có Thầy đây! Các con đừng sợ.
Khi Đức Giêsu loan báo lần nhất cuộc Thương khó và Phục sinh: ”Con Người phải chịu đau khổ TN 25-B163
Khi Đức Giêsu loan báo lần nhất cuộc Thương khó và Phục sinh: ”Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại” (Mc 8,31), Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người đến nỗi Đức Giêsu nặng lời quở trách ông: ”Satan, lui lại đàng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, tư tưởng của Phêrô và của Nhóm Mười Hai hướng tới một nhân vật nổi nang nào đó trong xã hội. Chẳng hạn một chính trị gia có khả năng giải phóng dân tộc khỏi bị lệ thuộc vào đế quốc Rôma.
Đức Giêsu loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó và phục sinh: ”Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” (Mc 9,31). Nhưng các ông không hiểu lời đó và còn sợ không dám hỏi Người. Tại sao lời loan báo không lọt vào tai môn đệ? Điều xẩy ra liền sau đó giúp cắt nghĩa sự kiện. Marcô cho ta thấy các môn đệ bận tâm về điều ngược hẳn lại với cuộc Thương khó của Thầy các ông. Vì thế, trên đường đi Capharnaum, các ông đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả trong Nước mà Đức Giêsu sắp thành lập (Mk 89:34).
Marcô kể tiếp: ”Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: ”Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy? Các ông làm thinh vì khi đi dọc đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,33-34).
Các ông chưa học được những bài học của Thầy. Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, còn các ông thì chỉ nghĩ đến “địa vị cao.” Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Messia. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Messia, một vương quốc trần gian mà các ông đã tranh luận xem ai là người đứng đầu khi Chúa và các ông thắng thế.
Bị Chúa hỏi bất ngờ, các ông hổ thẹn không dám nói sự thật, các ông ngậm miệng làm thinh. Sau đó Người ngồi xuống với tư cách là một vị tôn sư, Người ôn tồn dạy bảo: ”Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người” (Mc 9,35).
Trong xã hội và tập thể con người, người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ tự này: người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chủ” trở nên “đầy tớ.” Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.
Nhưng một lần nữa, đó không phải là làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chủ” mà thôi! Ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người.
Hervieux giải thích thêm: ”Chúa lấy người rốt hết để đối chọi với người đứng đầu, lấy người đầy tớ mọi người đối chọi với người cai quản. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người (Lc 22:27).
Trong xã hội ai cũng muốn cho thân mình được đề cao, được khen ngợi, được kính trọng. Ai lại không muốn ăn trên ngồi trước, không muốn cai trị người khác, không muốn được người ta hầu hạ? Nói chung, ai cũng muốn tranh dành quyền bính trong tay để bắt mọi người phục vụ mình.
Các màn kịch tranh giành quyền bính đã diễn ra từ xưa. Lúc mới dựng nên loài thiên thần, Luxiphe đã tranh ngôi bá chủ với Thiên Chúa. Thiên Chúa buộc lòng phải tống cổ hắn xuống làm bá chủ hoả ngục. Adong Evà cũng đòi đồng hàng với Thiên Chúa và cũng bị tống cổ ra khỏi vườn địa đàng, đến làm vua trái đất khô cằn và chết chóc.
Đến đây chúng ta phải giải đáp một thắc mắc: Người ta có được phép có CAO VỌNG không? Thực ra cao vọng không là gì sai trái cả. Người Anh có một câu tục ngữ: ”My place is at the top”: chỗ của tôi phải ở trên cao. Đấy là câu tâm niệm giúp kích thích mọi người phải biết sống vươn lên, không được sống tà tà trên ngọn cỏ. Thực vậy, sống là phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên, cao vọng có thể vượt qua tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình mong ước. Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh đời sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chỉ cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì? (Lc 9:25).
Các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Bởi đó, Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn. Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vị cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.
Những con người danh tiếng được gọi là vĩ nhân đều có một lý tưởng là phục vụ xã hội. Những nhân vật thực sự vĩ đại, những con người luôn luôn được người đời nhớ ơn vì đã thực sự đóng góp cho đời, là những người đã tự hỏi “Ta phải dùng tài năng mình để phục vụ quốc gia dân tộc mình như thế nào?” Sự vĩ đại của một người không phải là việc người ấy leo được đến tột đỉnh các nấc thang của quốc gia, xã hội, nhưng ở trong sự kiện người ấy sẵn sàng phục vụ quốc gia dân tộc, xã hội, đồng bào mình bất cứ lúc nào và ở đâu. Nhà văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: ”Khi tôi ngủ, tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui.”
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã làm một bài thánh ca để ca tụng tinh thần phục của Đức Giêsu: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã có một tinh thần khác hẳn với tinh thần bình thường của loài người. Bởi vì con người tự nhiên thích ngồi chỗ cao, thích được khen ngợi, thích làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phải chỉ là tật xấu của các môn đệ Đức Giêsu. Tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin Mừng. Tin Mừng chủ trương sống khiêm nhường, quên mình, quảng đại, coi mình không là gì hết, bởi vì hễ ai trở nên bé nhỏ trước mặt loài người, kẻ ấy sẽ được đề cao trước Thiên Chúa (Mt 18:4). Lòng khiêm nhượng ở đời này là điều kiện và là mức đo sự cao trọng trong Nước Trời.
Cha Charles de Foucauld, biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng. Nhưng nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời! Để cho đời mình có ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật. Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem Tin Mừng cho người Phi châu. Trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn về với Chúa.
Chúng ta sống sau những biến cố đau thương của Đức Giêsu, chúng ta suy niệm, học hỏi những biến cố đó. Thế nhưng sau đó chúng ta vẫn còn tranh giành địa vị lớn nhỏ; tranh giành ngôi thứ trong các giáo xứ còn phản ảnh nơi chúng ta cái tâm trạng của các môn đệ xưa kia. Chung qui cũng tại bản năng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị người khác mà thời đại nào cũng thế.
Đức Giêsu đã dạy chúng ta: ”Hãy làm tôi tớ cho mọi người” (Mc 9,35). Đã là tôi tớ thì phải hầu hạ, phục vụ, giúp đỡ. Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ chính mình. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh” (Cv 20,35). Bởi vì, cho tức là trao tặng cho chính mình.
Người Anh có một câu ngạn ngữ tương tự: “Điều tôi tiêu đi thì tôi có. Điều tôi giữ lại thì tôi mất. Điều tôi cho đi thì tôi được.” Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương con người mới thực sự triển nở và gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới tìm được hạnh phúc đích thật và một sự bình an trong cuộc sống: “Thành quả của sự thinh lặng là cầu nguyện. Thành quả của sự cầu nguyện là yêu thương. Thành quả của yêu thương là phục vụ. Thành quả của phục vụ là bình an (Mẹ Têrêsa Calcutta).
Bác sĩ Miki trong phim “Vận mệnh” thấy đời mình thất bại nhiều, chồng chết, muốn tự tử. Tình cờ đỡ đẻ cứu sống được cả mẹ con, lúc ấy Miki bừng tỉnh và thấy đời mình còn có ích cho người khác. Miki quyết định đến một hòn đảo xa phục vụ đồng bào với số ngày còn lại. Và Miki đã thực sự thấy mình được hạnh phúc trong phục vụ.
Để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của bác sĩ Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng hoà nhạc Âu Châu để trở thành một bác sĩ thừa sai phục vụ cho người nghèo khổ ở Phi Châu: “Tôi không biết số phận bạn ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc.”
Trong giới sưu tầm tranh ảnh nghệ thuật có một câu chuyện được lưu truyền lại như sau: Có hai TN 25-B164
Trong giới sưu tầm tranh ảnh nghệ thuật có một câu chuyện được lưu truyền lại như sau: Có hai cha con nhà giầu kia say mê sưu tầm tranh ảnh nghệ thuật quý giá, từ tranh của Picasso tới tranh của Raphael. Trong cuộc chiến tranh, người con đi động viên, và tử trận đang khi anh tiếp cứu một người lính bạn của mình. Người cha rất đau buồn về cái chết của người con yêu quý duy nhất của ông.
Chừng một tháng sau cái chết của con, trước Lễ Giáng Sinh, có một thanh niên trẻ đến gõ cửa nhà ông. Anh ta nói: “Thưa ông, con chính là người lính mà con ông đã hy sinh để cứu mạng sống. Hôm ấy anh đã cứu được rất nhiều người bạn đồng đội. Đang khi anh cõng con trên lưng về nơi an toàn, thì anh bị tử thương. Khi còn sống, anh thường kể cho con nghe về ông. Hôm nay con mang đến cho ông một bức tranh con đã vẽ. Con biết nó không được đẹp lắm, nhưng con tin chắc là con ông rất muốn ông có bức tranh này.”
Người cha mở bức chân dung người con của ông. Ông nhìn chăm chú vào bức tranh. Tất cả cá tính của con ông đã được diễn tả hết nơi đó. Nhạt nhoà nước mắt, ông cám ơn chàng thanh niên và muốn trả tiền cho bức tranh quý này nhưng anh không nhận, vì bức tranh là món quà cho ơn cứu mạng.
Người cha đã treo bức tranh ngay giữa ngôi biệt thự. Tất cả mọi người khách đến thăm ông, việc trước tiên là ông dẫn họ tới chiêm ngắm bức chân dung này, sau đó mới tới những bức vẽ khác. Sau đó, một cuộc bán đấu giá tất cả những bức tranh sưu tầm của ông được tổ chức long trọng. Quan khách giàu sang từ khắp các nơi tụ về với hy vọng mua được một bức nào đó trong bộ tranh sưu tầm quý giá của ông.
Bức tranh người con yêu quý của ông được treo ngay giữa hội trường đấu giá. Ban tổ chức gõ búa tuyên bố: “Trước hết, chúng tôi sẽ bắt đầu cuộc đấu giá hôm nay bằng bức tranh người con của chủ nhân. Ai sẽ trả bức tranh này 200 đô?” Tất cả im lặng! Một giọng nói từ phía sau la to: “Bỏ qua bức này đi! Chúng tôi đến đây vì những bức nổi tiếng!” Người khác thêm vào: “Chúng tôi đã không đến vì bức này. Chúng tôi muốn những bức tranh của Rembrandts và Van Goghs!” Ban tổ chức lại la to: “Người con! Người con! Ai sẽ trả giá người con?” Đám đông la ó, phản đối ồn ào.
Sau cùng một giọng nói từ phía cuối phòng vang lên: “Tôi trả 10 đô cho bức tranh đó!” Đó là ông già làm vườn của hai cha con. Ông rất nghèo, nhưng đó là tất cả số tiền ông có. Ban tổ chức lên tiếng: “Đã có người trả 10 đô! Ai muốn trả 20 đô?” Đám đông lại la ó giận dữ: “Cho hắn bức đó 10 đô đi! Chúng tôi chờ đợi những tác phẩm nghệ thuật thực sự!” Ban tổ chức lại gõ búa tuyên bố: “Một, hai, bán với giá 10 đô!” Một người ngồi ở hàng ghế đầu tiên la lớn: “Bỏ qua đi! Tới phiên bộ sưu tầm!”
Ban tổ chức hạ búa xuống tuyên bố: “Chúng tôi rất tiếc, buổi đấu giá đã kết thúc. Khi chúng tôi được mời đến tổ chức buổi đấu giá này, chúng tôi được cho biết một bí mật phải giữ kín đến giờ phút này: “Bức tranh người con được đấu giá và ai mua bức tranh này sẽ được thừa kế toàn bộ tài sản gồm tất cả những bức tranh sưu tầm của chủ nhân. Ông già làm vườn mua bức tranh vẽ người con, sẽ được tất cả.”
*****
Câu chuyện trên là dụ ngôn thời nay cắt nghĩa đoạn Phúc Âm, Mc 9: 30-37, của Chúa Nhật 25 Thường Niên. Ai chọn Chúa Con sẽ được thừa kế tất cả. Khi Chúa Giêsu tiên báo về việc Con Người sẽ chịu đau khổ và hy sinh mạng sống vì sự cứu rỗi của nhân loại, thì các môn đệ lại đang tranh luận với nhau xem ai trong số họ sẽ là người cao trọng nhất trong Vương Quốc mà Ngài sẽ thiết lập. Chúa Giêsu dạy cho họ thấy con đường dẫn tới sự cao trọng là con đường từ bỏ mình, khiêm tốn, và phục vụ người khác. Không có con đường nào khác cho bất ai muốn theo Ngài.
Các học giả đã nhận xét thấy rằng trong những câu chuyện của Thánh Kinh đã có một loại kiểu mẫu được ưa thích mà người ta gọi là “khuôn mẫu bé nhỏ hơn” – “the younger child motif”. Họ thấy rằng trong những câu chuyện phải giải quyết giữa hai anh em hay hai chị em, thì hầu như người em nhỏ hơn bao giờ cũng trổi vượt lên như một người anh hùng, một người tốt và được chúc phúc. Chẳng hạn khởi đầu Thánh Kinh với câu chuyện của Ca-in và A-ben, Ít-ma-ên và I-xa-ác, Ê-xau và Gia-cóp, Giu-se và các anh, Đa-vít và các anh, A-đô-ni-gia và Sa-lô-môn, người con hoang đàng và người con trưởng, câu chuyện của Mác-ta và Maria. Thật khó cắt nghĩa tại sao khuôn mẫu Thánh Kinh “bé nhỏ hơn” này lại trở nên có ý nghĩa.
Theo Carl Jung, nhân cách của con người được thành hình bởi hai nguồn năng lực mà ông gọi bằng tiếng Latinh là “senex” và “puer eternis”. “Senex” có nghĩa là người lớn, con cả, anh hai. “Puer eternis” có nghĩa là con bé nhỏ, con trẻ, con út. Xin tạm dịch là năng lực con cả và năng lực con trẻ. Nguồn năng lực con cả, anh hai, thì khôn ngoan, thận trọng và tính toán hơn. Vì có khuynh hướng nhìn xa, thấy trước, nên anh hai thường thận trọng và kỹ lưỡng, nhưng sau cùng chẳng dám hành động gì. Trái lại, người con trẻ, hay con út lại thích mạo hiểm và liều lĩnh hơn. Vì có khuynh hướng thích hoạt động, nên dễ phạm lỗi lầm, nhưng lại có nhiều cơ hội. Người con lớn hay bảo thủ và ý thức về sự an toàn hơn. Người con trẻ lại dễ dãi, dễ sống và sẵn sàng thích nghi với mọi hoàn cảnh. Người con cả có khuynh hướng tranh giành quyền lực và sự thành công hơn. Còn người con trẻ lại có khuynh hướng cộng tác, cởi mở, thích bầu bạn hơn. Người con cả sớm trưởng thành và chịu trách nhiệm hơn, trong khi người con trẻ vẫn vô tư. Trong những đại gia đình, cha mẹ thường di truyền những sinh lực con cả cho người con đầu lòng của họ, và những người con kế sẽ kết thúc bằng việc duy trì thêm những năng lực của người con trẻ.
Từ lý thuyết này Carl Jung tiếp tục suy diễn ra rằng khi một trong hai nguồn năng lực này bá chủ hoàn toàn nhân cách của một con người, sẽ gây hậu quả là nhân cách đó dễ bị chết. Để trở thành một con người là con người thực sự, đầy sinh động, cả hai nguồn sinh lực này phải được cân bằng và hài hòa trong một nhân cách.
Nhìn vào hành động của các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy rằng hành động của họ quá nghiêng về nguồn năng lực của con cả. Đây là lần thứ hai, Chúa Giêsu cố gắng nói rõ cho họ biết về sự đau khổ, sự chết và sống lại đang chờ đợi Ngài ở Giê-ru-sa-lem. Họ không hiểu, mà cũng chẳng chịu hỏi lại: “Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người” (Mc 9:32). Đây chính là đặc tính của con cả. Người con cả luôn tỏ ra tự tin nơi chính mình, không muốn bàn hỏi với ai!
Một yếu tố rõ ràng khác của năng lực con cả nơi họ là: “dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất” (Mc 9:34). Điều này chứng tỏ rằng họ liên hệ và làm việc với nhau dựa trên sự cạnh tranh quyền hành hơn là sự cộng tác. Do đó, chúng ta mới hiểu được rằng tại sao Chúa Giêsu đem một em bé đặt giữa các ông, ôm lấy em và nói rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9:37).
Lời tuyên bố có tính cách quyết định nầy quan trọng ở chỗ: để đón tiếp trẻ thơ phải chấp nhận một cái gì khác hơn là sự đơn thuần của một trẻ thơ. Đó là, theo như sự phân tích của Carl Jung, đón tiếp phần năng lực của con trẻ, cái nhân cách của trẻ thơ. Với năng lực con trẻ, chúng ta trở nên ít tính toán, ít quan tâm tới sự tủi nhục hay phẩm giá cá nhân của mình, ít sợ thất bại, đau khổ và sự chết. Và nhất là ít bám víu lấy quyền hành và sự thành công xét dưới con mắt của người đời. Với năng lực của con trẻ, chúng ta dám từ bỏ, ra đi, không bám víu, dám mạo hiểm, chấp nhận bấp bênh và thử thách. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể phó thác, tin tưởng và bước theo Chúa Giêsu được.
Văn hóa ngày nay làm cho chúng ta quá nghiêng về năng lực của người anh cả. Chúng ta giống như các môn đệ chỉ muốn thành công, quyền hành, vinh quang, chiến thắng, và những cảm giác an toàn bảo đảm cho cuộc sống trần gian. Ai muốn mang lấy những năng lực của con trẻ như sự vô tư, tin tưởng, cộng tác, và vui tươi? Ai muốn mạo hiểm ôm lấy những thử thách, đau khổ và khó khăn trong đời mình? Ai muốn đi tìm con đường khiêm tốn và phục vụ người bị lãng quên? Ai muốn đi với những người bé nhỏ, kẻ nghèo hèn, người bệnh tật?
Các tông đồ ở thời điểm này trong cuộc đời của họ, giống như những người đến dự cuộc đấu giá tranh trong câu chuyện ở trên. Họ chú ý đến quyền lực, địa vị, và danh vọng. Họ đã thất bại, vì không hiểu được cái nghịch lý của con đường Chúa Giêsu đi. Con đường khiêm tốn, phục vụ, và từ bỏ bản thân là con đường dẫn đến sự cao trọng.
Thông điệp của câu chuyện đấu giá tranh và câu chuyện của Phúc Âm hôm nay rất giống nhau: Thiên Chúa cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài. Người Con ấy đã hy sinh mạng sống mình để cứu vớt nhân loại. Và ai chọn Người Con, bước theo tinh thần và năng lực của Người Con, cùng con đường phục vụ khiêm tốn của Ngài, sẽ hưởng di chúc của Chúa Cha, thừa kế tất cả mọi sự. “Người Con! Người Con!” Ai bước theo Người Con sẽ thừa kế mọi sự!
Tin mừng Chúa nhật XXV Quanh năm trình bày một nội dung thật ấn tượng đó là phục vụ trong TN 25-B165
Tin mừng Chúa nhật XXV Quanh năm trình bày một nội dung thật ấn tượng đó là phục vụ trong khiêm hạ và phục vụ vô vị lợi. Càng làm lớn, địa vị cao thì phải là người tôi tớ phục vụ mọi người.
Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống băng qua Galilê đến miền Capharnaum. Ngài đã dạy các môn đệ và loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”.
Đa số dân Do Thái cũng như các môn đệ không hiểu về vấn đề Messia đau khổ, Người tôi tớ của Thiên Chúa phải chết thay cho muôn người. Các ông chỉ nghĩ đến một Đấng Messia uy quyền và vinh quang, một nước trần gian vật chất, danh vọng, uy quyền, giàu sang… Vì thế ngay sau khi nghe Chúa nói về cuộc thương khó, thì các ông bàn luận, tranh cãi với nhau về ngôi vị, cấp bậc trong nước mà Chúa sẽ thiết lập: ai sẽ là thủ thướng, là bộ trưởng, là chủ tịch… Nhân dịp này, Chúa Giêsu đã dạy các ông một bài học: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Các quan chức trong một nước, trong xã hội, người đứng đầu lãnh đạo, chỉ huy, cai trị dân và bắt dân phục vụ mình, tùng phục mình. Càng làm lớn, càng giàu sang, danh vọng, uy quyền và được mọi người hầu hạ, đi đâu cũng có kẻ đưa người đón. Trái lại, trong nước Thiên Chúa, người công dân Nước Trời càng làm lớn thì phải là tôi tớ phục vụ mọi người. Quyền bính, chức vụ trong Giáo hội là phục vụ trong khiêm hạ và vô vị lợi. Đức Giêsu đã làm gương về vấn đề này trong bữa tiệc ly: Ngài đã rửa chân cho các môn đệ, làm công việc của người đầy tớ: “Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”. Lần khác, Chúa Giêsu cũng dạy các tông đồ: “Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc cho muôn người”.
Hạnh phúc là phục vụ. Phục vụ là đem lại an vui hạnh phúc cho anh em. Nếu các quan chức mà thực hành bài học phục vụ trong khiêm hạ và vô vị lợi đối với nhân dân thì chắc chắn hòa bình, an vui, hạnh phúc sẽ đến với mọi người, mọi nhà, và không còn chiến tranh khủng bố, bất công trong xã hội.
Một hôm Hồ Khưu Trượng hỏi Tôn Thúc Ngao:
– Có ba điều chuốc oán, ông biết chưa?
– Tôi chưa được biết, họ Tôn trả lời.
Trương Nhân nói: Tước vị cao, người ta ganh. Quyền thế lớn, người ta ghét. Lợi lộc nhiều, người ta oán”.
Tôn Thúc Ngao lắc đầu nói: “Không phải luôn luôn như thế, tước vị tôi càng cao, tôi càng xử nhún nhường; quyền thế tôi càng lớn, tôi càng khiêm cung; lợi lộc tôi càng nhiều, tôi càng chia bớt cho người xung quanh. Như thế thì làm gì bị oán thù của thiên hạ”. Câu trả lời thật chí lý và phù hợp với giáo lý của Chúa Giêsu. Đối với Chúa, người chỉ huy, lãnh đạo, người đứng đầu là người phục vụ tha nhân trong khiêm hạ, hy sinh và hoàn toàn vô vị lợi.
Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ bài học nhớ đời: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37). Đứa nhỏ, trẻ con là mẫu gương của sự khiêm nhường, đơn sơ, tín thác mà các môn đệ và mọi người được mời gọi để thực hành điều đó.
Các trẻ nhỏ là hình ảnh tượng trưng cho những người tầm thường, nghèo hèn, thấp cổ bé họng không đáng kêt trong xã hội. Tiếp nhận và phục vụ các em nhỏ, những người bần cùng trong xã hội không mong họ phục vụ lại, mà phục vụ vô vị lợi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã đồng hóa Ngài với những người bé nhỏ, nghèo hèn. Phục vụ họ là phục vụ chính Chúa. Giúp đỡ và yêu thương họ là giúp đỡ và yêu mến chính Ngài: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn”.
Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy sống khiêm nhường và sẵn sàng phục vụ lẫn nhau, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh, những người hèn kém trong xã hội. Cuộc sống chỉ có ý nghĩa và đáng sống khi con người biết nhiệt tình phục vụ anh em một cách vô vị lợi noi gương Đức Giêsu. Chính khi yêu thương và phục vụ tha nhân là chúng ta đang phục vụ Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần tương đối rõ rệt. Phần thứ nhất Chúa báo trước về cuộc tử TN 25-B166
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần tương đối rõ rệt.
Phần thứ nhất Chúa báo trước về cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Phần thứ hai Chúa đề nghị một lối sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài.
I. Hôm ấy Chúa Giêsu đang đi với các môn đệ. Ngài tránhkhông muốn cho ai biết Ngài. Ngài sợngười ta nô nức đi theo Ngài như chạy theo một “Người lớn”. Và chính trong bối cảnh này Ngài loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn Ngài sắp phải chịu. Đây là lần thứ hai Ngài làm như thế.
Ngài sử dụng lại các từ ngữ hầu như y hệt lần trước (8,31) “Con Người” sẽ bị “nộp” vào tay người ta.
Và cũng như lần trước lời hứa Phục sinh được thêm vào ngay sau đó, thế nhưng lời hứa này xem ra chẳng an ủi được các môn đệ trước viễn ảnh đớn đau của cái chết. Tệ hơn nữa các ông ấy còn tỏ ra hầu như chẳng hiểu gì về những lời giáo huấn của Thầy mình. Lần trước thì Phêrô đã biểu lộ sự phản kháng. Còn lần này tuy không nói ra nhưng thái độ “khép lòng” của họ được ghi nhận qua nỗi sợ hãi không dám “hỏi Ngài” chứng tỏ họ cố tránh né những khó khăn và thử thách đang chờ đợi Chúa.
Đứng trước hoàn cảnh như thế Chúa phản ứng lại như thế nào?
Một lần nữa Marco cho chúng ta thấy Chúa lại kiên trì và nhẫn nại giáo dục dạy dỗ họ.
Ngài khởi đầu công việc dạy dỗ bằng cách kéo các môn đệ về với những gì mới xẩy ra. Ngài hỏi họ về nội dung cuộc tranh luận giữa họ với nhau ở dọc đường. Nghe lời Chúa Giêsu hỏi, họ không trả lời. Thực ra họ đã tranh luận với nhau xem ai là người “lớn” nhất.
Chúa Giêsu cảm thấy có bổn phận phải can thiệp để làm cho các môn đệ mình thoát khỏi cái khuynh hướng đua đòi, chạy theo quyền lực và Ngài cho họ một bài học sống động (9,35).
Marco diễn tả Chúa ngồi xuống để biểu lộ cung cách của một vị sư phụ mà các đệ tử phải chú tâm lắng nghe. Đây là tư thế của một người giảng dạy đầy uy quyền.
Chúa Giêsu nói với họ một cách thật rõ ràng. Trong lời ngỏ với những vị lãnh đạo tương lai của dân Chúa, Chúa Giêsu đã đảo ngược cái phẩm trật thông thường của nhân loại. “Muốn làm đầu thì phải làm cuối, muốn chỉ huy thì phải làm ‘đầy tớ tất cả”.
II. Nhưng thử hỏi sứ điệp của Chúa có được đón nhận hay không?Ngài tin là có. Và để cho lời của Ngài được cụ thể hóa Ngài đặt một em bé giữa các ông, ôm nó vào lòng. Cử chỉ này tạo nên một ảnh hưởng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa họ rồi ôm hôn nó: Đây là một việc làm hoàn toàn trái với tập tục đương thời. Xã hội lúc đó không hề quan tâm đến trẻ em. Người ta coi rẻ trẻ em như một sinh vật vô nghĩa, thậm chí họ còn xua đuổi khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn vì cho rằng chúng ngu dốt không biết gì về lề luật.
Vậy khi đón nhận một em bé như thế Chúa Giêsu đã làm một công việc hết sức quan trọng. Đó là Ngài trả lại giá trị cho những con người bị loại trừ và Chúa còn nhấn mạnh thêm là việc đón tiếp những con người bị khai trừ như thế cũng chính là đón tiếp Ngài. Đây quả thật là một sứ điệp bất ngờ và cũng rất là mới mẻ của những trang Tin Mừng khả ái này.
Kính thưa anh chị em
Tới đây thì ý nghĩa của Bài Tin Mừng đã khá rõ. Điều Chúa Giêsu muốn ở nơi các môn đệ của Ngài ngày xưa cũng là điều mà Chúa muốn đối với chúng ta hôm hay. Vấn đề đặt ra là khi theo Chúa, sống cuộc đời tự hạ phục vụ như thế, Chúa sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu. Câu trả lời tương đối cũng dễ: Đến vinh quang. Đối với Chúa thì vinh quang đã rõ. Đó là sự phục sinh của Ngài. Còn đối với chúng ta thì xem ra vinh quang còn bị che phủ chưa ló dạng. Nhưng chúng ta có cơ sở để tin rằng vinh quang đó sẽ tới.
Xin chứng minh bằng một thí dụ.
Anh chị em biết Mẹ Têrêsa, một con người sống rất gần gũi với chúng ta trong thời gian. Giáo Hội đã phong thánh cho Mẹ. Tại sao thế? Tại vì mẹ xứng đáng được tôn vinh như thế. Một con người khi còn sống chỉ biết phục vụ những người nghèo khó, bệnh tật, bị bỏ rơi….Vậy mà khi qua đời, không biết bao nhiêu danh hiệu cao quí người ta đã đặt ra để ca tụng mẹ.
Ngay khi vừa được tin Mẹ qua đời các báo đã đưa ngay lên trang nhất những bản tin với những những hàng tít thật lớn: “Mẹ của những người nghèo đói đã ra đi” – “Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa” – “Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi”
Bên cạnh những lời ca tụng của báo chí, nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến Calcutta bức điện chia buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới”
Tại Mỹ tổng thống Bill Clinton đã nói: “Mẹ là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này”
Nữ hoàng Elizabeth II nước Anh gửi một bức thư chia buồn với dòng Nữ Tu thừa Sai Bác Ái đã viết: “Mẹ Têrêxa và công Chúa Diana mỗi người một cách đã nói lên tấm gương: Là con người hãy biết đối xử với nhau bằng lòng nhân ái” – Còn thủ tướng Tony Blair đã gửi đến Calcutta lời thương tiếc: “Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn đã ra đi”
Tại Albani quê hương thứ nhất của mẹ, thủ tướng Fatos Nano đã nói: “Đất nước Albani quê hương thương tiếc mẹ vô vàn và muốn đưa thi hài của mẹ về an táng tại quê hương, nhưng ý nguyện này không thành tựu được. Albani sẽ để tang Mẹ trong ba ngày”
Còn tại Châu Á, chính phủ Indonesia bày tỏ lòng thương tiếc và kính phục. Chính phủ Philippin tổ chức lễ tang Mẹ trọng thể tại một trong những quận nghèo nhất ở thủ đô Manila. Tại Singapore thủ tướng Goh Chok Tony đã nói: “Mẹ Têrêxa là một trong những phụ nữ nổi bật nhất của thế kỷ 20” Tại Hàn quốc tổng thống Kim Yong Sam nói: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêxa cho những người bần cùng trên thế giới”
Đó không phải là vinh quang sao kính thưa anh chị em? Là vinh quang chứ! Có rất nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới này thèm được cái vinh quang đó nhưng nào có ai cho! Có nhiều người giầu có muốn được một chút vinh quang như thế nhưng làm sao mà có được.
Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, tôi xin được mượn lời của tờ Báo Lao động để nói lên tâm tư của tôi: “Trong cuộc đời bình thường của mình, Mẹ Têrêsa chỉ sống bên cạnh nhưng người bần hàn cơ cực, sắp chết, lở lói, đói ăn, không nhà, không thân nhân, nhưng ngày thứ bảy vừa qua có đến hai nữ hoàng, bốn vị tổng thống đương nhiệm, ba đệ nhất phu nhân, hai thủ tướng và rất nhiều người cao sang quyền quí đã đến dưới chân bà nghiêng mình tiễn biệt. Kể từ ngày cố thủ tướng Javahartal Nerhu qua đời dến nay, chưa bao giờ người dân Ấn độ chứng kiến được một đám tang vĩ đại như vậy.”
Và lời của Chúa Giêsu: “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.”+” Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”(Ga 12,26).
Hằng năm giải thưởng Nobel được trao tặng cho những nhân vật nào đã đóng góp một cách trổi TN 25-B167
Hằng năm giải thưởng Nobel được trao tặng cho những nhân vật nào đã đóng góp một cách trổi vượt trong lãnh vực: Hoà bình, Văn chương, Kinh tế, Vật lý, Hoá học và Y khoa. Ai nhận lãnh giải thưởng Nobel sẽ được người ta kính nể và khen ngợi là nhân vật vĩ đại.
Phúc Âm hôm nay thuật lại các Tông đồ tranh luận với nhau xem ai là người vĩ đại, tức là người lớn nhất. Nhưng vĩ đại theo cái nhìn của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác, ngược với cái nhìn của con người. Theo Thiên Chúa thì vĩ đại hay có vị thế lớn trong Nước Trời là người biết phục vụ, “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải là ngưòi rốt hết và phục vụ mọi người” (Mc. 9:35).
Phục vụ tức là chấp nhận thiệt thòi và hy sinh để đem ích lợi cho người khác. Hy sinh tiện nghi, sở thích, sự nhàn nhã, ngay cả tiền bạc và thời giờ để cho người khác được hài lòng và hạnh phúc. Người khác có thể là con em chúng ta ở trong gia đình, cũng có thể là giáo dân trong giáo xứ, cũng có thể là đồng sự tại công sở, hay bạn bè tại trường học. Người khác có thể là đồng hương Việt Nam hay bất cứ người ngoại quốc nào. Nói chung là những người cần tới sự giúp đỡ như: già yếu, bệnh tật, trẻ em và những người nghèo khó… Phục vụ luôn có trong tầm tay, trong khu vực chúng ta sống. Đừng mơ tưởng xa xôi hay ước vọng đi truyền giáo ở Phi Châu, Nam Mỹ. Chung quanh chúng ta luôn có những thành phần cần đến sự giúp đỡ. Thời đại chúng ta đã có gương sống động của Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta.
Một bác sĩ giải phẫu hôm đó nhằm ngày nghỉ về miền quê đi dạo. Ông khát nước nên đến gõ cửa một căn nhà xin nước uống. Cô bé trong nhà vui vẻ vắt một ly nước chanh cho ông uống. Uống xong, ông đưa tấm danh thiếp ra trao vào tay cô bé và dặn khi nào có người nhà muốn chữa bệnh thì cầm tấm danh thiếp này đến với ông. Bốn năm sau mẹ cô bé bị bệnh cần được giải phẫu. Họ đưa bà tới nhà thương kèm theo tấm danh thiếp đó. Bà được chữa khỏi bệnh. Lúc trở về, ông bác sĩ giải phẫu trao cho bà một hoá đơn tính tiền rất tốn kém, nhưng bên dưới ông viết chữ: “Đã trả xong bằng một ly nước chanh của con bà.”
Thiên Chúa muốn chúng ta phục vụ tha nhân không mong mỏi được trả ơn ở đời này. Nhưng chắc chắn Thiên chúa đã ghi nhận đầy đủ và ban thưởng cho chúng ta ở đời sau hơn lòng chúng ta ước mơ tới. Vì đó là cách Thiên Chúa đã hứa và thi hành.
Có nhiều loại vòng – cả tốt và xấu, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cái vòng thì hình tròn, tròn thì TN 25-B168
Có nhiều loại vòng – cả tốt và xấu, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cái vòng thì hình tròn, tròn thì cứ lòng vòng, và người ta gọi là “vòng xoay”, nó cũng chính là cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời liên quan chữ Danh. Vòng xoay có khi hóa thành vòng xoáy. Loại “vòng đời” rất đáng sợ, nó được tiền nhân mô tả thế này: “Cái vòng danh lợi cong cong – kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Cứ thế, và cứ thế. Mệt thật! Và từ đó có thể xảy ra chiến tranh – cả lạnh và nóng.
Cuộc đời phàm nhân thật là phức tạp, thế nhưng chắc chắn rằng “cái vòng luẩn quẩn” đó không tại Thiên Chúa, mà tại chính chúng ta. Ngày xưa, trường hợp tháp Babel là đại họa đối với con người, nhưng đó không phải là thiên tai mà là nhân tai, là tội kiêu ngạo và ích kỷ của con người. Ngày nay cũng như vậy, tự con người tạo ra các tai họa, tự tạo ra ngày tận thế – chứ không phải do Thiên Chúa, mà lại cứ đổ lỗi cho Ông Trời và nói là “thiên tai”. Thánh Lm Arnold Janssen (1837-1909, sáng lập Dòng Ngôi Lời – SVD, Societas Verbi Divini) xác định: “Mặc dù ý Chúa KHÔNG PHÙ HỢP với bạn thì vẫn LUÔN ÍCH LỢI cho bạn”.
Với bản chất con người, ai cũng “máu” lắm (nhiều loại máu), thả ra cũng chẳng ai vừa: “Kẻ tám lạng, người nửa cân”. Cứ theo lẽ thường thì chẳng ai hơn/kém ai. Ai cũng thích được khen chứ chẳng ai thích bị chê. Nghĩa là con người rất thích có DANH, gọi là “háo danh”, như chí sĩ Nguyễn Công Trứ (1778–1858, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là nhà quân sự, nhà kinh tế và nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại) đã xác định: “Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”. Chữ DANH đối với nam giới càng “to lớn” hơn!
Kể cũng lạ (mà cũng chẳng lạ), bởi vì có mối liên quan “thân thiết” giữa DANH và LỢI – gọi là Danh Lợi. Chưa có cái “danh” thì tìm cách có, có “danh” rồi thì tìm cái “lợi”. Có những người mê “danh” đến nỗi sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn để “chạy” bằng cấp, chức tước, địa vị,… Thậm chí có người còn dám bán rẻ lương tâm để mua lấy cái “danh”, ngay cả tình nghĩa trong các mối quan hệ cũng chỉ là “chuyện nhỏ”, như người ta “đùa mà thật” thế này: “Tình cảm là chín (chính), tiền bạc là mười”. Điều tất yếu ư? Có thể. Bởi vì “con gà còn tức nhau tiếng gáy” kia mà! Có lẽ dày dạn kinh nghiệm nên cụ Nguyễn Công Trứ mới chua chát nhận định: “Thế thái nhân tình gớm chết thay, Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”, hoặc: “Tiền tài hai chữ son khuyên ngược, Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”. Chua chát lắm!
Thẳng thắn mà nói thì tiền chẳng là gì, chỉ là những tờ giấy có cấp độ giá trị khác nhau theo những con số mà con người quy ước với nhau, chứ tự nó không có giá trị. Thế nhưng người ta coi “tiền là tiên, là Phật, là sức bật của con người, là nụ cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”, do đó mà nó có thể “thay trắng, đổi đen” mọi thứ. Xã hội ngày nay rất rõ nét, đặc biệt là ở Việt Nam. Thật là kinh khủng! Chiến tranh tàn khốc xảy ra cũng chỉ vì danh lợi. Cái lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo, thế nên: Thật thà bị ghét bỏ, nghèo khó bị miệt khinh, thông minh bị trù dập – nhưng gian ác được yêu thương, giàu sang được đề bạt, khoác lác được đề cao. Đời là thế! Than ôi, thế thái nhân tình Cười ra nước mắt nên mình thương ta!
Mọi thời và mọi nơi đều có người lành, kẻ dữ. Thời Cựu Ước, những người dã tâm đã hùa nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo” (Kn 2:12). Họ còn ranh mãnh và mỉa mai: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào” (Kn 2:17). Người chính trực luôn bị ghét, người theo Chúa cũng bị “dè chừng”, thậm chí còn bị sát hại. Và rồi kẻ xấu toan tính: “Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào” (Kn 2:18-19). Cuối cùng, họ quyết định: “Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2:20a). Nhưng đó chỉ là “sai lầm của phường vô đạo” (Kn 2:20b).
Tuy nhiên, người công minh chính trực vẫn chẳng sợ gì. Cây ngay không sợ chết đứng như Từ Hải, vì họ luôn vững tin vào Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi” (Tv 54:3-4). Phường kiêu ngạo có nổi lên chống đối, hay bọn hung tàn tìm hại mạng sống người công chính, dù chúng không kể gì đến Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn độ trì và nâng đỡ những tôi trung và hiền tử của Ngài, vì Ngài là Đấng đời đời thành tín.
Mặc dù vui – buồn, sướng – khổ, hạnh phúc hay bất hạnh, người thật lòng theo Chúa vẫn một lòng một dạ chân thành thân thưa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo” (Tv 54:8). Đó là cách sống của những người thực sự TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH. Ước gì mọi người đều biết sống như vậy!
Thật thú vị với cách phân tích của Thánh Giacôbê: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3:6). Một cách suy luận lô-gích và minh nhiên. Và ngài kết luận: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là THANH KHIẾT, sau là HIẾU HOÀ, KHOAN DUNG, MỀM DẺO, đầy TỪ BI và SINH NHIỀU hoa thơm trái tốt, KHÔNG thiên vị, cũng CHẲNG giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3:17-18). Phàm nhân chúng ta gọi đó là “luật nhân quả”, gieo gì gặt nấy: Tư tưởng ➡ ước muốn ➡ hành động ➡ thói quen ➡ tính cách ➡ số phận. Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã xác định: “Gieo gió thì phải gặt bão” (Hs 8:9). Thánh Phaolô nói: “Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6:8).
Đúng là “XẤU hay làm TỐT, DỐT hay nói CHỮ”. Thế mới rắc rối, thế mới gây xung đột. Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những KHOÁI LẠC của anh em đang GÂY CHIẾN trong con người anh em đó sao?” (Gc 4:1). Và rồi thánh nhân đúc kết một cách vô cùng thẳng thắn: “Anh em HAM MUỐN mà không có, nên anh em CHÉM GIẾT; anh em GANH GHÉT cũng chẳng được gì, nên anh em XUNG ĐỘT với nhau, GÂY CHIẾN với nhau. Anh em không có, là vì anh em KHÔNG XIN; anh em XIN MÀ KHÔNG ĐƯỢC, là vì anh em xin với TÀ Ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4:2-3).
Công bình mà nói thì nhận xét của Thánh Giacôbê “chạm” đến bất kỳ ai, đến bất kỳ cương vị nào, đến tận mọi ngõ ngách sâu thẳm nhất của lòng dạ và tư tưởng con người. Thật vậy, đôi khi chúng ta ÍCH KỶ NGAY TRONG LỜI CẦU NGUYỆN của mình (như dụ ngôn hai người cùng cầu nguyện trong Đền Thờ – Lc 18:9-14), thậm chí còn dám “ngã giá” và “ra điều kiện” với chính Thiên Chúa mà cứ tưởng là mình… đạo đức và thánh thiện lắm. Ôi, nguy hiểm quá chừng!
Thánh Máccô cho biết một lần nọ, Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê, nhưng Ngài không muốn cho ai biết, vì Ngài đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết chết, Ngài sẽ sống lại” (Mc 9:31). Nhưng các ông không hiểu lời đó, vả lại các ông LO SỢ nên KHÔNG DÁM hỏi lại Ngài. Bao tháng ngày theo Thầy đi khắp mọi nơi, tới từng hang cùng ngõ hẻm, ăn dầm nằm dề với Thầy, thế mà các môn đệ vẫn “như người trên cung trăng”, lơ ngơ mà chẳng hiểu Sư Phụ có ý nói gì. Đã không hiểu mà lại không dám hỏi. Lạ thật! Nhưng phàm phu tục tử là thế, chúng ta cũng vậy, chẳng hơn gì đâu! Chúa biết thừa, nhưng Ngài vẫn thông cảm và lại càng thương các “ngu đệ” hơn. Tội lắm, thương lắm, thương tới cùng luôn (Ga 13:1).
Sau đó, Thầy trò cùng đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Sư Phụ Giêsu hỏi các đệ tử: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” (Mc 9:33). Hỏi để mà hỏi, hỏi cho có chuyện, hỏi để họ bớt… run, chứ Ngài biết tỏng, biết rõ mười mươi như “đi guốc trong bụng” từng người! Nhưng các ông nín thinh như ngậm tăm, vì Thầy nói trúng phoóc tim đen rồi. Rõ ràng khi đi đường, các ông đã CÃI NHAU xem ai là người LỚN HƠN. Tranh giành địa vị, tranh chấp ngôi thứ, tranh nhau cái DANH cốt để mong có cái LỢI. Không thể nào biện hộ, dù chỉ nửa lời. Cái “vòng kim cô” Tham-Sân-Si khó gỡ ghê!
Thầy Giêsu biết các môn đệ chưa thể “thoát tục”, Ngài ngồi xuống và gọi họ lại mà nói: “Ai muốn làm người ĐỨNG ĐẦU thì phải làm người RỐT HẾT, và làm người PHỤC VỤ MỌI NGƯỜI” (Mc 9:35). Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9:37).
Một cách so sánh đầy triết lý và thần học, với chuỗi lô-gích: TIẾP NHẬN trẻ nhỏ ➡ TIẾP NHẬN Chúa Giêsu ➡ TIẾP NHẬN Chúa Cha. Hay quá! Nhưng có lẽ chúng ta chưa thể hiểu đúng, hoặc không dám hiểu, thậm chí có thể là không muốn hiểu. Nhưng đừng quên điều này: Chúa Giêsu luôn thực tế, mạch lạc, rất hiếm khi bóng gió xa xôi (khi dùng dụ ngôn). Thế nhưng với “đầu óc bã đậu”, chúng ta cảm thấy khó lĩnh hội thấu đáo để có thể thực hành những bài học “đơn giản” của Ngài là SỐNG YÊU THƯƠNG và PHỤC VỤ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Chính Ngài đã LÀM rồi mới NÓI.
Chẳng dễ gì thoát khỏi vòng danh lợi và vòng kiềm tỏa của nó, nhưng không thoát thì không xong. Làm sao đây? Chỉ có cách làm theo “mẹo” của Chúa Giêsu: “Nếu anh em không TRỞ LẠI mà NÊN NHƯ TRẺ NHỎ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18:3). Danh lợi chỉ là thứ tạm bợ, chóng qua, thế mà người ta vẫn tìm mọi thủ đoạn để giành giật bằng mọi giá. Đó là loại “giàu” khiến người ta khó vào Nước Trời nhất. Cụ Nguyễn Công Trứ nhận định: “Ra trường danh lợi vinh liền nhục, Vào cuộc trần ai khóc trước cười”. Chí lý thay, độc đáo quá, tuyệt vời lắm!
Có mối liên quan kỳ lạ: “Không có TÌNH YÊU và HÀNH ĐỘNG thì người thông thái nhất cũng chẳng là gì” (Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu). Thánh Juliana Norwich phân tích: “Chân lý ngắm nhìn Thiên Chúa, sự khôn ngoan chiêm ngưỡng Thiên Chúa, từ hai thứ đó phát sinh cái thứ ba là niềm vui thánh thiện tuyệt vời nơi Thiên Chúa, Đấng là tình yêu”. Thật chí lý khi Kinh Thánh nhắc nhở: “Làm xong một việc thì tốt hơn mới bắt đầu, nhẫn nại thì tốt hơn huênh hoang tự đắc. Chớ vội để cho lòng mình nổi giận, vì chỉ người ngu mới nuôi giận trong lòng” (Gv 7:8-9).
Lạy Thiên Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con từng giây phút, để chúng con đừng giành nhau những thứ không phù hợp với Tin Mừng của Ngài, trái ngược với Nước Trời. Xin thúc đẩy chúng con không ngừng biết YÊU THƯƠNG và PHỤC VỤ đúng Tôn Ý Ngài. Trong khi phục vụ, đôi khi công việc có thể khiến chúng con cảm thấy cô đơn và nhàm chán, thậm chí còn bị hiểu lầm, xin giúp chúng con kiên tâm và tín thác vào Ngài, xin cho tâm hồn chúng con luôn bình an trong Ngài để ý Ngài nên trọn, tất cả xin vì Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần rõ rệt: 1. Phần đầu, Đức Giêsu dậy các môn đệ của TN 25-B169
Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần rõ rệt:
1. Phần đầu, Đức Giêsu dậy các môn đệ của Ngài một lần nữa: Ngài sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.
Cũng như trong Tin Mừng chúa nhật tuần 24, Đức Giêsu đã công khai dậy: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết và ba ngày sau sống lại” (Mc 8,31), nhưng cũng như lần này, các môn đệ “đã không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người” (Mc 9,32).
Trước viễn cảnh thê lương của đau khổ và chết chóc đang rình rập Đức Giêsu, các môn đệ rất hoang mang, sợ hãi. Các ông không chỉ sợ cho Thầy, mà còn sợ cho an toàn tính mạng và tương lai đen tối của chính các ông. Và một lần nữa các môn đệ của Đức Giêsu cho chúng ta thấy các vị đã không hiểu hoặc đã hiểu rất nông cạn sứ vụ và đường lối cứu thế của Đức Giêsu. Chính vì thế, khi được dậy về cuộc tử nạn sắp tới của Thầy, các ông hoặc đã hoang mang vì sợ, hoặc đã tỉnh bơ vì không tin.
2. Thái độ không quan tâm, không màng tới lời loan báo cuộc tử nạn sắp tới nơi đa số các môn đệ được khẳng định qua cuộc đụng chạm, cãi nhau giữa các ông “xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,34).
Vì không quan tâm đến chuyện Thầy mình sắp bị giết chết “bởi các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư” (Mc 8,31), nên các môn đệ mới hăng say đấu đá về chuyện thứ bậc, trên dưới, cao thấp, to nhỏ. Thế mới biết, đã là con người thì dù ở ngay bên Chúa, là tông đồ cùng sống cùng chết với Chúa, chỉ làm những công việc đạo đức, thánh thiện thuộc về Chúa cũng vẫn bị cám dỗ “vinh thân phì gia”, tìm kiếm vinh danh chính mình, và ganh ghét, kiêu căng không muốn phụ thuộc, dưới quyền ai.
Nhưng tại sao chúng ta tìm kiếm chỗ đứng chỗ ngồi quan trọng, tranh giành thứ bậc, đấu đá tưng bừng để nắm giữ quyền hành trọng yếu? Thưa vì chúng ta muốn được người khác phục vụ và không muốn phục vụ người khác. Vì muốn được phục vụ, nên phải tìm kiếm quyền hành ; vì không muốn phục vụ ai, nên phải tìm cách đứng đầu mọi người, để ai cũng phải tuân lệnh và hầu hạ, phục dịch mình.
Chính vì thế, khi gọi Nhóm Mười Hai lại, Đức Giêsu đã nghiêm nghị nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Khi nhấn mạnh hai chữ Phục Vụ, Đức Giêsu đã đi thẳng vào tim đen của các ông, vì qủa thực, người ta tìm kiếm, tranh giành ngôi thứ, quyền lực chỉ vì ích kỷ, muốn được mọi người nể sợ, hầu hạ, phục vụ nhu cầu và những đòi hỏi hưởng thụ cá nhân. Cám dỗ và nguy cơ không phục vụ, mà chỉ muốn được phục vụ là nguyên nhân của mọi chia rẽ, tỵ hiềm, đấu đá, phủ nhận, loại trừ nhau trong các cộng đoàn, bằng chứng là ngay cả cộng đoàn Nhóm Mười Hai của Đức Giêsu cũng không mấy ngày là không sôi sục, nóng bỏng chuyện “ai là người lớn nhất”, quan trọng nhất, có quyền nhất.
Và để các ông hiểu thấu đáo điều Ngài dậy, Đức Giêsu “đã đặt vào giữa” các ông một em nhỏ, rồi “ôm lấy nó” và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9,36 – 37).
Hình ảnh em bé là hình ảnh không chỉ khiêm tốn, đơn sơ, trung thực, trong sạch, mà còn là hình ảnh của bé nhỏ, yếu đuối, thiếu thốn, luôn cần được giúp đỡ. Đức Giêsu đặt em bé giữa Nhóm Mười Hai, như đặt các tông đồ ở giữa những người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tình thương, thiếu hy vọng, thiếu tương lai, thiếu tất cả. Ngài ôm hôn em bé, như nhắn nhủ các tông đồ phải biết yêu thương, và chạnh lòng trước những người đau khổ, bất hạnh. Và sau cùng Ngài bảo các ông hãy đón tiếp em bé này như đón tiếp chính Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã cho các tông đồ một bài học về phục vụ. Theo Ngài, phục vụ trước hết và trên hết là đón tiếp: đón tiếp với thái độ thân thiện, kính trọng, cởi mở ; đón tiếp với tình yêu thương chân thành ; đón tiếp với tinh thần phục vụ, hy sinh. Người phục vụ không nghĩ cho mình, nghĩ về mình, nhưng nghĩ đến người khác, và để dễ nghĩ đến người khác, dễ làm vì người khác, chúng ta rất cần khiêm tốn để dám chọn chỗ rốt hết, chỗ thấp nhất để phục vụ hữu hiệu. Chẳng thế mà Đức Giêsu đã không làm gương rửa chân mình, nhưng dậy các tông đồ rửa chân cho nhau, tức khiêm tốn cúi mình xuống phục vụ nhau, bởi trong phục vụ, khiêm tốn luôn giữ vai trò quyết định.
Tin Mừng hôm nay cũng làm chúng ta liên tưởng đến đọan Tin Mừng Mátthêu (25,31- 46) mô tả ngày phán xét chung , ở đó, mỗi người đều được Thiên Chúa hỏi về tinh thần và thái độ yêu thương, phuc vụ anh em đồng loại, mà đối tượng được ưu tiên số một phải là “những người bé nhỏ nhất trong anh em”, bởi “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Và ngược lại: “mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,45). “Làm như thế”, nghiã là: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến hỏi han” (Mt 25, 35-36).
Lậy Chúa Giêsu, Chúa biết chúng con sợ thử thách, đau khổ, và không thích dưới quyền ai, cũng không muốn phục vụ ai, nhưng muốn nắm đầu, nắm cổ mọi người và được mọi người phục vụ. Như đã dậy Nhóm Mười Hai ngày xưa, xin Chúa dậy chúng con mỗi ngày và giúp chúng con trở nên người rốt hết, bé như em nhỏ, nhỏ như em bé và làm người phục vụ mọi người.
Chương trình học khiêm tốn và phục vụ với Chúa tuy qúa khó, nhưng vì Chúa đã chọn con đường quên mình để yêu thương, hiến mình để phục vụ, mất mình vì hạnh phúc của mọi người, nên chúng con không thể đi theo Chúa trên những con đường khác. Vì tin yêu, chúng con liều lĩnh lên đường với ơn phù trợ của Chúa. Xin thương xót và đồng hành với chúng con trên đường theo Chúa, phục vụ mọi người.
Ngày xưa, sau khi thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, dân chúng đi theo Người rất đông. Họ đi theo TN 25-B170
Ngày xưa, sau khi thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, dân chúng đi theo Người rất đông. Họ đi theo vì chờ đợi Chúa Giêsu sẽ cho họ bánh ăn mà không cần làm việc. Cũng vậy, các môn đệ theo Chúa Giêsu vì họ ngưỡng mộ một người thầy trẻ trung, năng động, dám lên tiếng bênh vực cho sự thật và công lý. Các tông đồ mong đợi ngày nào đó Chúa sẽ khởi nghĩa thành công, xưng vương, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang và quyền lực với Chúa. Tuy nhiên, khi Chúa nói với mọi người về sứ mạng của Ngài không phải là giành lại ngai vàng và quyền lực tại trần gian, mà là đón nhận cái chết thập giá, thì đã có nhiều người, kể cả các môn đệ dường như thất vọng. Họ không muốn theo một vị Thầy sẽ phải chết trong thất bại đau đớn nhục nhã như vậy, vì thế họ bỏ đi. Không vì bất cứ lý do gì khiến Chúa Giêsu thay đổi chọn lựa của Ngài, Chúa Giêsu chọn đi theo con đường mà Thiên Chúa Cha đã muốn, đó là con đường khiêm hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhân loại.
Bước vào trần gian, Chúa Giêsu đã sống và đi hoàn toàn ngược lại với xu hướng và dòng chảy của thế gian. Người đời tìm kiếm vinh dự, quyền lực, tiền bạc, danh vọng, Chúa Giêsu lại chọn để trở nên một người tôi tớ của Thiên Chúa. Mang thân phận là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không giữ lại cho mình vinh dự nào, Ngài chấp nhận mang lấy thân phận tôi đòi, bị người đời hành hạ nhục mạ, như tiên tri Isaia đã mô tả trong bài ca về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó làm vướng chân ta, cản trở công việc của ta, nó chống lại những việc ta làm. Nếu nó là người công chính, Thiên Chúa chắc chắn sẽ cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó để biết nó hiền lành làm sao, thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Ta hãy kết án cho nó chết nhục nhã, vì như nó nói, Thiên Chúa sẽ cứu nó”. Những lời tiên báo này được nói trước đó năm trăm năm, nay được ứng nghiệm nơi cuộc đời của Chúa Giêsu. Tiên tri Isaia đã thấy trước về sứ mạng Đức Giêsu trải qua trong đau đớn, khổ nhục, bị người đời khinh chê, khạc nhổ, loại trừ.
Các môn đệ cũng giống như những Người Do Thái khác, họ mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng lại là Đấng Cứu Thế theo ý của họ. Hôm nay, vì muốn cho các tông đồ có thể bình tâm đón nhận được sự thật, Chúa Giêsu tách riêng các môn đệ ra khỏi đám đông dân chúng để Ngài dạy họ: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ba ngày sau Người sẽ sống lại”. Tác giả Tin Mừng nhận định: Các môn đệ không hiểu và sợ không dám hỏi lại. Lời mặc khải này, Chúa Giêsu nói về chính bản thân mình. Chúa nói trước cho các tông đồ biết việc Chúa sẽ bị bắt, bị nộp vào tay người đời và bị giết chết. Theo lẽ tự nhiên, đang lúc thành công không ai muốn nói về thất bại, đang lúc khỏe mạnh không ai muốn nói về cái chết. Chúa Giêsu lại làm ngược lại, Ngài nói về thất bại đang lúc rất thành công, Ngài nói về cái chết đang khi mọi người tung hô và các môn đệ đặt hết hy vọng vào Ngài. Điều đó chứng tỏ rằng, Chúa không mị dân, không lấy những thành công bên ngoài để lôi kéo người khác, nhưng Ngài luôn chỉ cho thấy sự thật về sứ mạng của Ngài là phải bị bắt bớ, đau khổ và bị giết.
Chúa Giêsu không dừng lại đó, Ngài còn mặc khải thêm một điều hết sức quan trọng và cũng là mặc khải chính yếu, đó là: Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Sống lại sau cái chết là mục đích của chương trình cứu chuộc của Chúa chứ không dừng lại ở đau khổ. Thập giá, đau khổ và cái chết chỉ là phương thế để đạt đến sự phục sinh. Đó là điều các tông đồ chưa thể hiểu và cũng chưa thể chấp nhận được. Vì thế, các ông sợ không dám hỏi lại Chúa, hay đúng hơn, các ông không muốn hỏi lại vì không muốn đón nhận đau khổ thập giá.
Các tông đồ dường như đang muốn trốn tránh sự thật về mặc khải của Chúa, các ông không muốn nghe, không muốn đón nhận, nên đã bàn qua chuyện khác. Các ông bàn nhau xem trong anh em ai là người lớn hơn, ai sẽ được trao quyền lực nhiều hơn. Thấy các học trò của mình đang tìm cách tránh né sự thật như vậy, khi về đến nhà, Chúa Giêsu đã gọi nhóm Mười Hai lại, yêu cầu các ông ngồi xuống quanh Ngài và Ngài chấn chỉnh lại suy nghĩ và ham muốn tìm kiếm quyền lực và danh vọng nơi các ông bằng bài học phục vụ: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm kẻ phục vụ mọi người”. Khi dạy như thế, Chúa Giêsu đã hoàn toàn đảo lộn suy nghĩ và quan niệm của các tông đồ trước đây. Các tông đồ theo Chúa với mục tiêu tìm kiếm quyền lực và địa vị, thì giờ đây Chúa muốn các ông phải trở thành rốt hết và là những con người dám phục vụ người khác. Đòi hỏi của Chúa Giêsu là một nghịch lý và cũng là một thách thức cho tất cả những người tin theo Chúa.
Kế đó, Chúa Giêsu xác định lại cho các tông đồ biết mục tiêu và thái độ khi đi theo Chúa là gì? Là phải có một tâm hồn đơn sơ, tín thác vào Chúa như một trẻ nhỏ và đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời của mình. Chúa muốn các môn đệ của Chúa phải có một tâm hồn mở rộng để đón nhận người khác, kể cả các em nhỏ là tầng lớp bị coi thường trong xã hội. Trẻ nhỏ là những người không có gì để trả lại, trẻ nhỏ luôn cần sự trợ giúp của người lớn. Khi dám đón nhận người khác giống như đón nhận một em nhỏ tức là đón nhận người khác một cách vô vị lợi không tình toán và còn sẵn sàng để cho người khác làm phiền mình, chiếm thời gian, sức lực của mình. Chúa Giêsu muốn mỗi chúng ta cũng dám đón nhận Chúa như vậy. Khi dám đón nhận Chúa một cách quảng đại và sẵn sàng phục vụ Chúa như đón nhận trẻ nhỏ, Chúa Giêsu kể như đón tiếp chính Thiên Chúa Cha – Đấng đã sai Ngài.
Thưa quý OBACE, người tín hữu chúng ta không đi tìm đau khổ thập giá, mà là đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu lại chấp nhận trải qua con đường đau khổ thập giá để bước vào trong vinh quang phục sinh. Vì vậy, muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta không thể đi đường tắt, cũng không thể đi một con đường nào khác ngoài con đường chúa đã đi. Vì một khi cố tìm kiếm một con đường nào khác, chúng ta sẽ đi lạc, không thể gặp được Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã bước vào con đường thập giá vì lòng yêu mến và sự vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha. Qua hành trình đau khổ và cái chết thập giá, Thiên Chúa đã muốn diễn tả tình yêu tột cùng Ngài dành cho nhân loại; và qua cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng tuyệt đối của Ngài vượt trên sự dữ và sự chết. Do đó, những ai tin và bước theo Chúa Giêsu, tức là dám bước theo Chúa trên hành trình thập giá vì lòng yêu mến và vâng phục thì cũng được chia sẻ vào vinh quang phục sinh với Chúa.
Trong thực tế, chúng ta không dễ dàng để đối diện với đau khổ và chết chóc, chúng ta tìm cách tránh né. Lời Chúa hôm nay cho thấy: một khi tin Chúa, theo Chúa, Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để ta đương đầu với đau khổ và sự chết. Chúng ta không tìm kiếm đau khổ nhưng khi gặp đau khổ, chúng ta dám sống trong phó thác và tin rằng chúng ta không phải đương đầu một mình, nhưng có Chúa cùng đồng hành và trợ giúp chúng ta.
Chúa không hứa hẹn cho chúng ta cuộc sống dễ dãi, nhưng Người chắc chắn những ai dám vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sẽ được cùng chia sẻ vinh quang phục sinh với Chúa. Theo Chúa, không phải để tìm kiếm danh vọng hay địa vị, nhưng là dám học nơi Chúa để cúi mình phục vụ anh chị em như một người tôi tớ. Các linh mục tu sĩ được mời gọi phục vụ cộng đoàn theo bậc sống của mình; các người sống đời gia đình được mời gọi phục vụ trước hết cho gia đình, kế đến là những người chung quanh mình. Cha mẹ, vợ chồng con cái phục vụ nhau, hy sinh cho nhau và cùng vác thập giá vì nhau bước đi cùng với Chúa, Chúa sẽ làm cho từng nhịp sống của gia đình trở thành những cung điệu yêu thương.
Xin Chúa giúp chúng ta dù sống trong bậc nào, là tu sĩ, linh mục hay sống đời gia đình, là người già hay người trẻ, đều biết đón nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh làm gương mẫu và dám vác thập giá cuộc đời của mình bước theo Ngài. Nhờ đó, chúng ta cùng chia sẻ vinh quang phục sinh với Ngài . Amen.
Bé Vân cầm vở toán chạy vào bếp gọi mẹ: Mẹ ơi, bài toán này khó quá! Con ra hỏi bố, bố chỉ TN 25-B171
Bé Vân cầm vở toán chạy vào bếp gọi mẹ:
Mẹ ơi, bài toán này khó quá! Con ra hỏi bố, bố chỉ cho. Bố chỉ rồi mà con không hiểu. Thì con nói bố chỉ lại, chỉ từ từ thôi. Nhưng… con sợ.
Nỗi sợ làm ta không dám hỏi, dù ta chưa hiểu. Hôm nay, khi nghe Thầy Giê-su loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ hai, các môn đệ vẫn không hiểu nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Thầy (x. Mc 9,30-32).
Các ông sợ điều gì vậy? Lần trước khi nghe Thầy loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh, Tông đồ Phê-rô đã kéo riêng Thầy ra mà trách (x.Mc 8, 31-33). Đó là lời trách yêu bởi ông lo lắng cho Thầy nhưng Thầy lại mắng ông là “Xatan, lui lại đằng sau Thầy”. Các ông sợ bị khiển trách hay sợ phải đối diện với sự thật? Theo Chúa, nhiều khi ta cũng chọn cách im lặng không dám hỏi Chúa, để ta được tự do đi theo con đường riêng của mình. Ta vẫn đi theo Chúa nhưng kỳ thực lòng ta lại cách xa Chúa.
Nhìn ngắm hình ảnh đôi bạn cùng sánh bước lúc chiều tà, tay trong tay tỏ niềm tâm sự, ta thấy nó thật đẹp. Có một hình ảnh đẹp hơn mà Thánh sử Mác-cô đã ghi lại nhiều lần: “Đức Giê-su và các môn đệ”, hình ảnh Thầy trò song hành thật đẹp. Thầy đi đâu trò đi theo đó. Hôm nay cung là Thầu đi trước, trò theo sau nhưng dường như bước chân trò có gì đó không cùng nhịp bước với Thầy. Trò không cùng nhịp với Thầy bởi các trò đang bận tâm, theo đuổi những nẻo đường riêng của mình. Người môn đệ vẫn chưa hiểu đường Thầy đi, con đường Thương Khó và Phục Sinh mà Thầy loan báo đến hôm nay là lần thứ hai. Thầy có buồn không khi chẳng có ai hiểu nỗi lòng mình, chẳng có ai san sẻ, làm vơi bớt nỗi ưu tư đang đè nặng tâm hồn? Thầy buồn lắm khi các môn đệ thương mến lại cãi cọ tranh dành nhau chỗ đứng. Bởi không hiểu chương trình của Thiên Chúa dành cho Đức Ki-tô nên các ông đã hiểu sai con đường Ngài sẽ đi. Con đường Ngài đi không phải là con đường đấu tranh chính trị để giải phóng dân tộc, để xưng vương xưng bá nhưng là con đường phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (x. Mc 10,45).
Thầy hiểu rõ lòng người môn đệ còn u tối, bị danh vọng, tiền tài, tham vọng làm đầu chi phối: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” (Mc 9,33b). Câu hỏi nhẹ nhàng của Thầy khiến các ông làm thinh. Các ông xấu hổ vì bị Thầy bắn trúng tim đen hay xấu hổ vì đã làm Thầy khổ tâm? Chắc hẳn các ông nhìn thấy ánh mắt đượm buồn của Thầy. Thầy đã chẳng quát tháo, mắng mỏ hay giận dữ ngăn cản các ông cãi nhau vì các ông làm Thầy mất mặt. Thầy dạy dỗ các ông cách tế nhị, với tình thương nhưng không. Về đến nhà, nơi các ông có thể ngồi lại với Thầy và ngồi lại bên nhau để mọi xích mích, mọi tranh chấp được tháo gỡ, để tình thương nối liền tất cả. Thầy biết lòng người môn đệ đều muốn làm người đứng đầu nên Thầy ân cần chỉ dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Con đường đó chính Thầy đã đi, đang đi và sẽ đi cho đến cùng. Theo Chúa, ta có dám cùng đi với Chúa trọn con đường ấy không? Nếu ta đặt tình yêu vào mỗi bước chân, mỗi việc làm dù nhỏ bé và làm vì Danh Chúa Giê-su là ta đã có Giê-su ở cùng, có Chúa Giê-su ở cùng là ta được chính Chúa Cha ở cùng.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu! Chúa yêu con thật quá lạ lùng. Chúa đã chịu treo mình trên Thánh Giá để cho máu đào tuôn chảy, cho tình yêu gột rửa tội đời, cho Thánh Ý Chúa Cha thể hiện, đó là tình yêu đẹp nhất. Xin cho con cùng đi với Chúa sao cho cùng nhịp bước, cùng nhịp đập trái tim, từng hơi thở mỗi phút giây của đời con đều hòa điệu với Chúa. Nếu có khi nào con lỡ bước, con chưa hiểu điều Chúa muốn, xin ánh sáng Lời Chúa dẫn dắt con để con theo gương Chúa phục vụ vì yêu mến. Amen.
Muốn tỏ ra mình là người có giá trị, hay nói khác đi, muốn tự khẳng định giá trị của mình là một TN 25-B172
Muốn tỏ ra mình là người có giá trị, hay nói khác đi, muốn tự khẳng định giá trị của mình là một nhu cầu hết sức quan trọng của con người và nhu cầu này được biểu hiện bằng nhiều hình thức trong cuộc sống.
Thời Chúa Giê-su, các vị kinh sư và các người biệt phái tự khẳng định mình bằng cách “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” (Mt 23, 5-7).
Ngay cả các môn đệ Chúa Giê-su cũng thường tranh luận với nhau xem ai trong họ là người lớn nhất. Điều nầy đã được ghi lại nhiều lần trong Tin mừng (Mc 9, 33-34; Lc 9, 46; Mt 18,1; Lc 22, 24).
Có lần, hai môn đệ Gioan và Giacôbê cùng với mẹ mình đến xin Chúa Giê-su cho ngồi bên tả bên hữu Chúa khi đến thời Ngài được hiển vinh. Bấy giờ, mười môn đệ kia tỏ ra bất bình với Gioan và Giacôbê vì anh em nhà nầy muốn giành trước hai chiếc ghế mà họ đang mơ ước (Mt 20, 20-24; Mc 10, 35-37).
Khát vọng của con người là thế đó. Ai cũng muốn nổi bật, ai cũng muốn vươn cao; không ai muốn bị lu mờ. Nói chung, ai cũng muốn làm gia tăng giá trị của mình.
Đây là một khao khát tự nhiên. Chính Thiên Chúa đã đặt vào tâm hồn con người khát vọng đó để thúc đẩy họ vươn lên thành những người cao cả. Chúa Giê-su cũng kêu gọi các môn đệ vươn tới đỉnh trọn lành: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
Làm thế nào để trở thành người cao cả thật sự?
Có người cố làm tăng giá trị của mình bằng cách trang điểm và chưng diện. Tuy nhiên, người ta không thật sự trở nên cao cả nhờ nhan sắc, vì “tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”
Có người tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng cách sở hữu thật nhiều vàng bạc của cải, nhưng thực ra, “giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu.”
Có người trau dồi và phát huy tài năng cho người ta nể phục, hoặc cố giành những địa vị cao trong xã hội để nâng giá trị mình lên.
Còn Chúa Giê-su, nhân cơ hội các môn đệ tranh cãi sôi nổi ai là người lớn nhất, Ngài chỉ cho họ một cách để trở thành cao cả thực sự. Đó là “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).
Lời dạy của Chúa Giê-su xem ra trái nghịch với suy nghĩ của người đời. Thông thường, muốn làm lớn thì phải tôn mình lên để thống trị người khác; đằng nầy Chúa Giê-su dạy phải hạ mình xuống làm tôi tớ hầu hạ mọi người. Thật thế ư?
Ngày 5 tháng 9 năm 1997, cả thế giới xúc động, thương tiếc và bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa khi hay tin Mẹ Tê-rê-xa, một nữ tu già nua, thấp bé, nghèo nàn, không có nhan sắc… qua đời tại Calcutta, Ấn-độ ở tuổi 87. Nhà Nước Ấn-độ, một quốc gia phần đông theo Ấn-độ-giáo, đã long trọng tổ chức quốc táng cho Mẹ Tê-rê-xa, một nữ tu công giáo khiêm tốn bình dị, người gốc An-ba-ni! Hơn triệu người dân Ấn-độ tuôn ra đường để tiễn đưa Mẹ Tê-rê-xa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Thật là điều không tưởng tượng nổi.
Tại sao Mẹ Tê-rê-xa lại được vinh dự lớn lao như thế?
Vì Mẹ đã thực hành đến mức hoàn hảo điều mà Chúa Giê-su truyền dạy cho các môn đệ trong Tin mừng hôm nay. Đó là hạ mình làm tôi tớ hầu hạ phục dịch những con người khốn khổ nhất thế gian với lòng yêu thương vô hạn.
Cuộc đời của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta là một bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng giáo huấn của Chúa Giê-su là xác đáng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).
Như thế, phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ chính là con đường đưa tới vinh quang.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con tỉnh táo nhận ra rằng giá trị con người không tuỳ thuộc vào những thứ “phụ tùng” mà người ta khoác vào thân như các loại y phục hợp thời trang hay các đồ trang sức xa hoa, đắt giá; giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào của cải, bạc vàng châu báu hay địa vị công danh… nhưng cốt yếu là tuỳ vào đức hạnh, vào phẩm chất cao đẹp của mỗi người.
Xin dạy chúng con biết làm gia tăng giá trị bản thân bằng cách hiến thân hy sinh phục vụ mọi người như Chúa đã nêu gương.
Như Chúa Nhật trước, Chúa Nhật XXV tuần này nêu bật viễn cảnh về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh TN 25-B173
Như Chúa Nhật trước, Chúa Nhật XXV tuần này nêu bật viễn cảnh về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh được Đức Giê-su loan báo lần thứ hai theo sách Tin Mừng Mác-cô. Ở nơi chủ đề này, ngầm chứa những tranh cãi phàm nhân có thể dẫn đến ghen tuông, thù hận, thậm chí sát hại đối thủ của mình. Người Công Chính (Bài Đọc I và Tin Mừng) là nạn nhân tiêu biểu cho sự ghen tuông và thù hận này.
Kn 2: 12, 17-20
Trong Bài Đọc I trích từ sách Khôn Ngoan, chính vì cuộc sống trọn tình vẹn nghĩa với đạo mà Người Công Chính bị quân vô đạo bách hại cho đến chết.
Gc 3: 16-18; 4: 3
Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê là cuộc bút chiến lên án những ghen tuông tranh chấp xuất phát từ những đam mê và những khuynh hướng xấu. Trái lại, Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa là yêu thương anh em mình cho đến quên bản thân mình.
Mc 9: 29-36
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài, nhưng các ông chẳng những không chịu hiểu mà còn tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm họ. Chúa Giê-su muốn họ hiểu rằng trong Giáo Hội của Ngài người lớn nhất là người hầu hạ mọi người. Đó là bầu khí thân thương của một gia đình trong đó cha mẹ là người lớn nhất lại trở thành người hầu kẻ hạ tận tình phục vụ con cái của mình.
BÀI ĐỌC I (Kn 2: 12, 17-20)
Tác giả sách Khôn Ngoan là một người Do thái sinh trưởng ở thành A-lê-xan-ri-a, ông đã viết tác phẩm của mình vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Thành A-lê-xan-ri-a lúc đó là một trong những trung tâm rực rỡ nhất của văn hóa Hy lạp và đồng thời là một trong những thành phố quan trọng nhất của những người Do thái Hải Ngoại.
Quả thật, cộng đồng Do thái ở đây gìn giữ nét đặc thù của mình. Tuy nhiên, sức cám dỗ của môi trường ngoại giáo chung quanh là một thực tế hằng ngày: tính đa dạng của những lý luận triết học, sự phát triển của các bộ môn khoa học, tôn giáo tổng hợp, sức hấp dẫn của những tôn giáo bí nhiệm, vân vân. Ở thành phố này, số lượng những người bội giáo càng lúc càng đông. Tác giả viết sách Khôn Ngoan để phòng ngừa những sa ngã mới ở nơi những anh em đồng đạo của ông. Với tâm trí sáng suốt của một hiền nhân, ông ra sức chận đứng sự thù ghét càng ngày càng gia tăng ở giữa họ: từ ước muốn dập tắt những lời trách cứ gây phiền hà cho cuộc sống vô đạo của mình, cho đến ước muốn làm khổ và làm hại người công chính lòng dạ sắc son.
Lập luận cực đoan của quân vô đạo
Đoạn trích sách Khôn Ngoan này không là sấm ngôn trực tiếp liên quan đến cuộc Tử Nạn của Đức Ki-tô, nhưng là một phân tích tâm lý mô tả tình trạng tinh thần của những người Do thái bội giáo trước cuộc sống đạo hạnh của người công chính. Cuộc sống trọn tình vẹn nghĩa với đạo của người công chính khiến quân vô đạo chướng tai gai mắt không thể nào chịu nỗi. Lòng căm tức đã đẩy họ đến lập luận quá khích, dẫn họ đến làm khổ và sát hại người công chính: “Ta hãy gài bẫy hại người công chính, vì nó làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm luật Chúa và hạch ta không giữ lễ giáo. Ta hãy xem những lời nó nói có thật không và nghiệm xem cuối cùng nó sẽ ra sao”. Tiến trình thù ghét này một ngày kia được áp dụng chống lại Người Công Chính tuyệt hảo là Đức Giê-su. Vì thế, sứ điệp này mặc lấy một khía cạnh ngôn sứ.
Người công chính chịu đau khổ
“Nếu người công chính là con Thiên Chúa, thì Người sẽ phù hộ nó”. Tước hiệu “con Thiên Chúa” được dành cho dân Chúa chọn, họ hãnh diện vì Thiên Chúa đã công bố họ là con cái của Ngài. Nhưng trong trường hợp này, tước hiệu “con Thiên Chúa” mặc lấy một sấm ngôn, vì đó sẽ là lý do mà Thượng Hội Đồng Do thái sẽ nại đến để kết án tử Đức Giê-su: “Người này tự xưng mình là Con Thiên Chúa”.
“Ta hãy lên án cho nó phải chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm”. Những lời này nhắc nhớ Tv 22 mô tả người công chính bị bách hại kêu gào nỗi khốn khổ của mình, nhưng cũng đặt niềm cậy trông của mình vào Đức Chúa. Chính Thánh Vịnh này mà trên Thập Giá Đức Giê-su thốt lên cách thống thiết: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”.
Những kẻ thù của Đức Giê-su cũng sẽ trích Thánh Vịnh này để nói với nạn nhân của họ đang hấp hối trên thập giá: “Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 43). Tác giả sách Khôn Ngoan phác họa trước dung mạo Người Công Chính lý tưởng gần một trăm năm sau đó.
BÀI ĐỌC II (Gc 3: 16-18; 4: 3)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Đoạn trích thư hôm nay chứa đựng những lời khuyên bảo theo hình thức châm ngôn gợi nhớ cách thức mà các bậc hiền nhân Cựu Ước đã sử dụng, nhưng mang hơi thở Tin Mừng. Thánh Gia-cô-bê đã nhiều lần khai triển mối phúc thứ nhất: “Phúc thay những người nghèo khổ!”. Đoạn văn trích dẫn hôm nay minh họa một mối phúc khác: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình!”. Đoạn văn này có hai phần đối nghịch nhau:
Những danh thơm tiếng tốt của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa (3: 16-18) Trong phần thứ nhất, tác giả liệt kê những danh thơm tiếng tốt của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa. Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa “làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, mến chuộng điều lành, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình”. Việc liệt kê những phẩm chất của Đức Khôn Ngoan nhắc nhớ bài ca đức mến trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13: 4-7). Nhưng thánh Gia-cô-bê đặt dấu nhấn chủ yếu trên việc xây dựng hòa bình: “người xây dựng hòa bình là người gieo giống trong hòa bình; và hoa trái họ thu hoạch được là cuộc đời công chính”.
Những hận thù, ghen ghét của con người (4: 1-3)
Đối nghịch với những phẩm chất của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa là những xung đột ở bên trong con người, trong đó những ham muốn là nguyên do sâu xa nhất của “những hành động hung ác”. Cung giọng của tác giả trở nên khẩn thiết, văn phong được đẩy cao đến mức ngoa dụ: “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột nhau, gây chiến với nhau”. Cách diễn tả dữ dội này, chúng ta cũng gặp thấy ở nơi thư thứ nhất của thánh Gioan: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân” (1Ga 3: 15). Những từ ngữ và hình ảnh ở đây thuộc thể loại bút chiến.
Là thủ lãnh của cộng đồng tín hữu Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội Mẹ, thánh Gia-cô-bê cảm thấy mình chịu trách nhiệm về những tín hữu ở xa của mình; vì thế, thánh nhân đặt tất cả hồn tông đồ của mình vào những lời kêu gọi sống cuộc đời Ki-tô hữu chân chính.
TIN MỪNG (Mc 9: 30-37)
Trong đoạn trích Tin Mừng hôm nay, ý tình đan quyện vào nhau, tâm tư tình cảm dạt dào cảm xúc. Đức Giê-su thực hiện giai đoạn sau cùng sứ vụ tại miền Ga-li-lê của Ngài. Ngài trở lại lần cuối cùng thành Ca-phác-na-um được xem là bản doanh sứ vụ của Ngài. Từ đó, Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để bước vào con đường Thương Khó và Tử Nạn, Phục Sinh và Lên Trời của Ngài. Chúng ta biết rằng trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần, trong khi Tin Mừng Gioan tường thuật Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần vào các đại lễ trong năm.
Loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh
Khi đi ngang qua miền Ga-li-lê, Đức Giê-su tránh gặp gỡ đám đông; Ngài giới hạn giáo huấn của Ngài chỉ trong vòng các môn đệ của Ngài. Khi Thầy trò đang đi trên đường, Ngài gợi lên lần thứ hai viễn cảnh cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài bằng những ngôn từ hầu như y hệt lời loan báo thứ nhất.
“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”. Động từ “nộp” ở đây có một ý nghĩa rất mạnh, nhưng được dùng ở thể thụ động “bị nộp” muốn nói lên điều gì? Sau này, thánh Mác-cô sẽ vạch mặt chỉ tên những kẻ nộp Đức Giê-su đưa Ngài đến cái chết: đó là ông Giu-đa (14: 10), các thượng tế (15: 1) và quan tổng trấn Phi-la-tô (15: 15). Tuy nhiên, đây cũng là hình thức thụ động thần linh thông dụng mà người Do thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân bằng cách tránh nêu danh Người vì lòng tôn kính. Vì thế, cái chết của Đức Giê-su có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra, nhưng nhất là nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà lời loan báo đầu tiên diễn tả: “Con người phải chịu nhiều đau khổ”. Đây không là cái tất yếu của định mệnh mà Đức Giê-su phải chịu, nhưng là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà Đức Giê-su phải thực hiện.
“Vào tay người đời”, đây là diễn ngữ Kinh Thánh để chỉ những kẻ thù không có lòng xót thương. Ở đây kiểu nói này hình thành nên một sự đối chiếu thống thiết với danh xưng “Con Người”. Qua danh xưng “Con Người”, Đức Giê-su nhấn mạnh nhân tính của Ngài. Như bao nhiêu con người khác, Ngài cũng biết đau khổ và sự chết đang chờ đợi Ngài, nhưng vận mệnh của Ngài được hoàn tất theo thị kiến của Đa-ni-en về Con Người trong vinh quang. Vì thế, như trong lần loan báo đầu tiên, trong lời loan báo thứ hai này, sau khi báo trước cuộc Tử Nạn của mình, Đức Giê-su cũng báo trước cuộc Phục Sinh của Ngài. Như vậy Tử Nạn và Phục Sinh là hai mặt của một thực tại bất khả phân.
Nỗi cô đơn của Đức Giê-su
Mỗi lần Chúa Giê-su loan báo rõ ràng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô đều nhấn mạnh đến “sự ngu muội” chậm hiểu của các môn đệ (8: 32; 9: 32). Các ông không hiểu, nhưng không dám hỏi Ngài; thay vì đó, các ông lại nghĩ đến việc khác. Các ông đinh ninh rằng việc đi lên Giê-ru-sa-lem lần này chắc hẳn Thầy mình sẽ thực hiện sứ mạng của Đấng Mê-si-a, Ngài sẽ thiết lập vương triều của Ngài; vì thế, các ông bắt đầu tranh luận với nhau về những đặc quyền đặc lợi, xem ai là người lớn nhất trong nhóm.
Đức Giê-su không dự phần vào cuộc tranh luận của họ; chắc chắn Ngài đi một mình riêng ra. Không ai trong nhóm Mười Hai, những người đã gắn bó với Ngài suốt ba năm nay, hỏi Ngài về vận mệnh đau thương mà Ngài mời gọi họ dự phần vào. Nói cho cùng, ở nơi họ Ngài không gặp thấy sự đồng hội đồng thuyền đồng sinh đồng tử với Ngài. Đây là khúc dạo đầu cho việc bỏ rơi hoàn toàn mà Ngài sẽ nhận biết vào lúc Ngài bị bắt. Chúng ta cảm thấy nỗi đau đớn của Ngài qua cách trình bày giản dị của đoạn Tin Mừng này.
Bài học về sự phục vụ
Khi đến thành Ca-phác-na-um, vào trong nhà, Đức Giê-su hỏi các môn đệ: “Dọc đường, anh em tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?”. Các ông làm thinh, không ai dám thú nhận điều làm họ bận lòng trên đường. Nhưng Đức Giê-su không cần ai nói với Ngài. Vả lại, bài học mà Ngài sắp cho họ có thể giúp cho họ hiểu một cách gián tiếp những lời của Ngài mà vào giây phút này, họ đã không thể hiểu được: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Với giáo huấn về sự phục vụ này, Đức Giê-su đả đảo ngược cơ cấu phẩm trật thông thường của nhân loại theo đó người đứng đầu là người chiếm những chỗ ngồi danh dự, ăn trên ngồi trước, hưởng những đặc quyền đặc lợi, mà Ngài đã rất dị ứng ở nơi cách sống của giai cấp lãnh đạo Do thái. Có lần Ngài đã nói lên sứ mạng của Ngài: “Con Người đến không để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ”.
Đức Giê-su sẽ đưa ra một mẫu gương rõ ràng hơn nữa vào bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ, khi Ngài rời chỗ ngồi danh dự của Ngài, mặc bộ đồng phục của người hầu và cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của Ngài (Ga 13: 4-16) kèm theo với lời dạy rõ ràng: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 13-15).
Nhưng ngay từ bây giờ, Ngài ban cho họ một bài học đặc biệt, soi sáng mặc khải trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường tiến về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, ở đó Ngài đích thân hiện thực sứ điệp của Ngài: Ngài sẽ bị đối xử như người rốt hết và sẽ chịu khổ hình như kẻ nô lệ. Sau điều đó, Ngài sẽ là người đầu hết, trưởng tử của một nhân loại mới. Ngài ngầm hướng tư tưởng của các môn đệ Ngài về sấm ngôn Người Tôi Trung đau khổ của I-sai-a, chịu thương chịu khó kể cả hy sinh mạng sống mình để đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Bài học về đức khiêm hạ
Để có thể nhổ tận gốc rể tính tự cao tự đại và tự mãn của các môn đệ Ngài, Đức Giê-su đưa ra một ví dụ khác. Ngài đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Chúa Giê-su đối lập thế giới người lớn tự phụ và tham vọng với thế giới trẻ thơ. Trẻ thơ có nhiều đức tính mà người môn đệ của Ngài phải học: chúng biết rõ thân phận nhỏ bé của mình, vì thế, chúng không phô trương sự khôn ngoan và quyền hành của mình, nhưng bày tỏ một niềm tin tưởng đơn sơ và chân thành. Hơn thế nữa, trong Tin Mừng, những người phận nhỏ lại là đoàn chiên của Ngài mà Ngài tận tình chăm sóc và hy sinh mạng sống mình cho chúng (Ga 10: 11-15). Đó cũng là những “chiên con” mà Ngài sẽ trao gởi cho thánh Phê-rô chăm sóc với lời căn dặn đến ba lần phải yêu mến đoàn chiên của Ngài như yêu mến Ngài hơn bất cứ ai (Ga 21: 15-16).
Trang Tin Mừng này là một trong những trang làm chứng về sự chân thật của các tác giả sách Tin Mừng. Các Tông Đồ chẳng có lý do gì để mà tự phụ về mình ở nơi những tình tiết này; tuy nhiên họ đã để lại một mẫu gương cho những thế hệ mai sau, họ khiêm tốn nhận ra tâm trí chậm hiểu và thiếu độ nhạy bén của mình.
Sức hấp dẫn và lôi cuốn của Giáo Hội Đức Ki-tô không phải ở nơi việc phô trương những quyền cao chức trọng, nhưng ở nơi thái độ khiêm tốn hạ mình xuống mà phục vụ những anh chị em bé nhỏ cách đơn sơ chân thành. Nói cho cùng, đây là bầu khi thân thương của một gia đình, ở đó cha mẹ là người lớn nhất nhưng đã tự biến mình thành con sen, đứa ở để phục vụ con cái của mình, con cái càng nhỏ thì cha mẹ càng tận tình yêu thương phục vụ hơn nữa.
Đường tình yêu là con đường mùi mẫm, nhiều người đang đi, đã đi, và sắp bước vào, có người TN 25-B174
Đường tình yêu là con đường mùi mẫm, nhiều người đang đi, đã đi, và sắp bước vào, có người nhận xét đường tình là con đường thơ mộng, vô cùng lãng mạn, tạ ơn trời đất. Không phải là không có những kẻ thất bại, gặp nhiều trắc trở khổ đau, vì thế mà họ rất thâm thuý khi nói về con đường tình: cá trong lờ đỏ hoe con mắt, cá bên ngoài lúc lắc muốn vô. Thực ra thì con đường công danh sự nghiêp, con đường tình ái, con đường giải thoát khổ đau, đều có ý đưa dẫn người ta đến thành công hạnh phúc. Bước vào trường đời, người ta tính toán, vận sức dụng mưu để đạt tới công thành danh toại, đâu phải là không có lý. Con đường có lý tưởng đến đâu, nhưng thiếu bước chân người hùng đi trên đó, con đường và nhân vật anh hùng sẽ mãi chỉ là vô vọng, hão huyền, không bao giờ có thực !
Trên thế giới này, không có con đường nào đáng nói hơn là con đường hạnh phúc, không có lời nào trầm ấm, ngọt ngào, và dễ nghe hơn lời: “tôi yêu bạn”. Giáo huấn của Đức Giêsu xưa kia không phải là hướng người ta tới con đường nhung gấm lụa là, mà đặt giá trị trên con đường đau khổ thập giá, chết đi rồi sống lại vinh quang. Trải qua nhiều sóng gió ở đời, các đấng bậc của chúng ta đã nghiệm ra rằng: có vấp ngã, mắt mới nhìn sáng suốt, có đau thương lòng mới cứng rắn hơn, có thẳng căng như một sợi dây đàn, mới tạo được những âm thanh kỳ diệu. Các môn đệ có sai sót lỗi lầm, mới cho thấy các ông là người phàm trần, các ông làm ngơ trước con đường khổ đau thập giá hoặc còn tranh chấp với nhau về quyền bính, cho thấy, các ông rất cần Thầy Giêsu uốn nắn, sửa dạy, biến đổi nhiều.
Con đường Giêsu là con đường không có danh lợi thú ở đời này, không những vậy, con đường Giêsu chính là con đường từ bỏ chính mình để được mặc lấy con người mới, con người của tình yêu thương tha thứ trong Giêsu, trong tín thác cậy trông. Con đường Giêsu không tín hiệu vàng, đỏ, xanh, không được tính bằng chiều rộng chiều dài của mưu mô quyền lực, chỉ có những gạch nối yêu thương, hiệp thông, để được nên một với Giêsu thuỷ chung, để được gọi Thiên Chúa là Cha. Ngày hôm nay liệu chúng ta có thể hiểu quyền bính là để phục vụ, chỗ nhất, chỗ nhì ? Theo đường lối Giêsu là trở nên bé nhỏ, biết quan tâm đến anh chị em, xây dựng và bảo vệ một đức ái vẹn toàn, nếu bao lâu chưa được biến đổi và thấm nhuần bài ca dâng hiến của Thầy Giêsu.
Con đường khổ đau thập giá là con đường mà Đức Giêsu đã tiên báo, mời gọi các học trò cùng hiệp thông tiếp bước, con đường đó vĩ đại và cao trọng đến độ các học trò “làm thinh”, im lặng, hay vì các ông còn cần thời gian để suy tư, tìm hiểu ? Người xưa cho rằng: con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ. Với mỗi chúng ta hôm nay, không ai muốn mình bị gọi là ngu dại, cũng trong ý chí vươn lên đỉnh cao của khôn ngoan, hạnh phúc, giá trị của tình yêu đều tuỳ thuộc tự do của mỗi người. Con đường mà Đức Giêsu đi và sẽ đi, mãi mãi là một mầu nhiệm của đức ái kitô, chỉ khi mỗi người thực sự tin tưởng, hiệp thông, chúng ta mới đủ hiểu đâu là bình an, niềm vui trong sứ mạng theo Thầy Giêsu dấn thân phục vụ.
Con đường tình nào Thầy Giêsu đã đi, hẳn không khó trả lời với chúng ta hôm nay, tuy nhiên con đường khổ đau thập giá chỉ có thể hoá giải mọi khúc mắc khi con người biết dặt tương quan trong tin yêu phục vụ. Tương quan yêu thương là tương quan vô vị lợi như lời Thầy Giêsu: “ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải là đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Giá trị của tình yêu tuỳ thuộc vào năng lực tin yêu nhiều, và phục vụ bằng cả trái tim và khối óc của người tự do hiến dâng vì đối tượng mình yêu thương. Đức Giêsu gián tiếp cho các học trò thấy giá trị của tình yêu dâng hiến, một tình yêu đi ngược với quy luật tự nhiên: “Con người sẽ bị nộp vào tay người ta, và họ sẽ giết Người”. Hành động yêu thương trong tự do, cũng là sự vâng phục trọn vẹn trước sứ mạng cứu độ Thiên Chúa Cha uỷ thác.
Không có con đường tắt nào mang lại vinh quang và danh dự, không có sự lười biếng, gian dối nào đưa dẫn người ta đến hạnh phúc ; cũng không thể gọi là môn đệ Đức Giêsu, khi người ta từ chối khổ đau thập giá và ngại dấn thân phục vụ. Bản chất và phong cách sống của mỗi người không phụ thuộc vào thân thế sự nghiệp, nhưng hệ tại vào cách sống tin yêu và thực thi đức ái của mình. Con đường lý tưởng hơn cả theo Đức Giêsu không phải là tìm né tránh khổ đau thập giá, cũng không phải như con thiêu thân tự tìm đến cái chết, quả là vô nghĩa lý. Con đường tự hạ, sống tinh thần người môn đệ luôn tín thác và biết thực thi thánh ý Chúa vẹn toàn, hẳn đó là con đường Giêsu, con đường thuần tuý là yêu thương phục vụ, phát xuất từ nguồn cội Giêsu. Amen.
Sau khi làm phép lạ chữa cho một người vừa điếc vừa ngọng (bài Tin Mừng CN XXIII.TN-B TN 25-B175
Sau khi làm phép lạ chữa cho một người vừa điếc vừa ngọng (bài Tin Mừng CN XXIII.TN-B – Mc 7, 31-37), Đức Giê-su không muốn mọi người xôn xao rồi đi báo cho bọn kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu biết để họ có cớ làm hại Người, “Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả.” Tuy nhiên “Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7, 36-37). Sự việc diễn ra đúng như sự tiên liệu của Đức Ki-tô, đó là lý do khiến Người quyết định truyền cho các môn đệ băng qua miền Ga-li-lê một cách âm thầm không cho ai biết.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXV.TN-B – Mc 9, 30-37) trình thuật việc Đức Giê-su muốn tạm gác việc rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh cho dân chúng qua một bên, để có thì giờ dạy dỗ các môn đệ, đặc biệt báo cho các ông biết một viễn cảnh sắp xảy ra mà các ông khó có thể hiểu và chấp nhận. Viễn cảnh đó là “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” (Mc 9, 31). Sở dĩ Người làm vậy là có ý giúp các môn đệ chuẩn bị tinh thần, để khi biến cố đó xảy ra thì các ông không quá ngỡ ngàng và thất vọng, mà sẵn sàng đón nhận nó.
Đây không phải lần đầu tiên Người nói việc ấy với các môn đệ, Người đã từng nói rõ với các ông trước đó không lâu (“Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết. ” – Mc 8, 31), nhưng lúc đó các ông tỏ ra ngán ngại, không tin rằng Thầy mình – một “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mc 1, 22) – lại có thể phải chịu đau khổ đến như vậy. Thái độ không chấp nhận này biểu lộ rõ rệt nhất ở Phê-rô, khi ông “kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”, khiến Đức Giê-su quở trách rất nặng lời: “Xa-tan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 31-33). Chính vì lần trước các ông bị quở trách nặng nề như thế, nên lần này “các ông sợ không dám hỏi lại Người” (Mc 9, 32).
Các môn đệ không dám hỏi lại Thầy về cuộc thương khó Người sắp phải chịu vì sợ bị khiển trách, nhưng trong lòng vẫn nghĩ khi Thầy chết rồi thì ai trong nhóm 12 sẽ lên thay, ai sẽ là người lớn nhất? Ấy thế là “cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”. Đức Ki-tô dư biết các môn đệ bàn tán điều gì, nhưng khi tới thành Ca-phac-na-um, Người vẫn hỏi: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Các môn đệ chỉ còn nước ngậm miệng làm thinh. Cũng chính vì thế nên Đức Ki-tô mới “gọi nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.” (Mc 9, 33-37).
Vấn đề làm lớn, làm bé vẫn là vấn đề muôn thuở của con người. Thường ở đời, con người ai cũng thích làm lớn, thích ăn trên ngồi trước chứ chẳng ai muốn làm bé và thích ngồi ở dưới. Cái ”miếng đinh chung” luôn luôn và mãi mãi là cái hấp lực vô cùng mạnh mẽ. Quan niệm “một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” đã trở nên như một phong tục tập quán (tục ngữ) khiến cho giấc mộng “sống ở làng, sang ở nước” luôn ám ảnh con người. Ngày nay, hủ tục mua quan bán tước hay khao vọng đình đám tuy không còn ồn ào như ngày xưa, nhưng vẫn diễn ra bằng nhiều kiểu, nhiều cách, với đủ thứ mưu ma chước quỷ để tranh bá đồ vương, tiếm quyền tiếm chức, tranh danh đoạt lợi, hầu mong được nổi danh nổi tiếng, tiền hô hậu ủng, xe hơi nhà lầu, võng lọng xênh xang.
Kẻ viết bài này vẫn chưa quên câu chuyện xảy ra ở Việt Nam cách đây không lâu: Giám đốc một công ty cỡ bự, một hôm gửi thiệp báo tang đến toàn thể công ty, cho biết con chó cưng của ông ta vừa “từ trần”! Thế là cả công ty – từ phó giám đốc đến anh bảo vệ quèn – xôn xao “khăn đóng áo dài” đổ xô đi phúng điếu bằng những phong bì đủ kích cỡ, trong đó ít nhất cũng phải “nửa tháng lương”. Ôi chao! Không ngờ trong cái xã hội văn minh ngày nay mà vẫn còn cái cảnh hối lộ bẳng kiểu “báo tang, viếng tang một con chó”. Tiếng chửi “đồ chó chết” không ngờ ngày nay lại mang ý nghĩa tâng bốc hơn là chửi rủa. “Chó chết” lại hoá ra nổi đình nổi đám hơn cả ”người chết”! Oái oăm thật!
Tâm lý chung của con người ai chẳng muốn chọn cho mình phần tốt nhất, ai chẳng muốn làm “đại gia” đi ăn tiệc được ngồi vào “cỗ nhất”. Ngay đến các Tông đồ ở cận kề với Người Thầy luôn dạy dỗ môn đệ phải khiêm nhường, vậy mà cũng có hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an muốn được “một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10, 37). Tin tưởng khi Thầy mình được vinh quang sẽ làm Vua, mà lại xin được ngồi bên tả và bên hữu Người, chính là muốn được ngồi “cỗ nhất”, được hưởng “miếng đinh chung” bảnh nhất là ”Tả hữu Thừa tướng”. Không phải chỉ có 2 môn đệ này đâu, mà các môn đệ khác cũng tỏ ra tức tối (“Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an.” – Mc 10, 41). Tức tối tức là ghen tị, là mong muốn mình phải được coi trọng hơn, và “chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh” xảy ra cũng là điều tất nhiên (“Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau.” – Gc 4, 1-3). Quả thật “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Rõ ràng Đức Ki-tô “nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi” (Lc 14, 7). Vì thế, nên Người mới dạy: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.” (Lc 14, 8-9). Người còn chỉ rõ những người ham ngồi “cỗ nhất”, đó là “những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.” (Lc 20, 46). Ngay đến cả việc đãi khách, mời khách dự tiệc, Người cũng dạy trái ngược với thông lệ của người đời: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có… Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù…” (Lc 14, 12-13).
Lời dạy của Đức Ki-tô mới thoạt nghe sẽ thấy là mâu thuẫn, khó chấp nhận được, chẳng hạn như Người muốn ai đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả, từ của cải vật chất đến cha mẹ anh em họ hàng, kể cả từ bỏ chính mình. Trong khi đó, Người lại dạy phải yêu thương mọi người như yêu thương chính bản thân mình, thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù của mình nữa. Tuy nhiên, suy nghĩ cho thấu đáo, thì thấy Đức Ki-tô chuyên dùng dụ ngôn với những cách nói tương phản, phản đề, cốt ý nhấn mạnh để nêu bật ý chính (chủ đề). Như Lời dạy trên, nếu trích đầy đủ, sẽ là: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14, 12-14). Và như vậy, mục đích nhắm tới của Lời dạy là “ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” Rõ ràng Đức Giê-su chỉ luôn mong muốn Lời dạy của Người có tác động mạnh mẽ, làm cho người nghe hiểu được ý nghĩa sâu xa và cái mục đích tối hậu cần đạt tới.
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, cũng vì thấu hiểu được tâm địa con người như vậy, nên Đức Ki-tô mới dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9, 35). Người chỉ muốn dạy môn đệ đức tính khiêm nhu tự hạ. Và nếu anh biết khiêm nhường chịu lụy, anh sẽ được mời lên ngồi “cỗ nhất”. Anh đừng nghĩ khi được ngồi cỗ nhất là anh sẽ được kẻ hầu người hạ, anh sẽ vênh vang nhìn đời bằng nửa con mắt. Trái lại, “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.” (Hc 3, 18), “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mt 20, 43-44).
Khiêm nhường cũng có nhiều cách thể hiện, có thể thực lòng và cũng có thể màu mè bên ngoài, thậm chí còn có trường hợp giả bộ khiêm nhường để bóng gió móc họng nhau nữa. Và cũng vì thế nên Đức Giê-su Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người khó nghèo và dùng chính cuộc sống của Người minh hoạ cho những Lời dạy dỗ chân tình về đức khiêm nhường. Người đã khiêm nhường vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu để cái tính kiêu ngạo của loài người hành hạ, đánh đòn, sỉ nhục, đóng đinh Người vào thập giá. Người đã thức tỉnh nhân loại bằng cách hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, thử hỏi đã được bao nhiêu người ý thức được tội kiêu ngạo đứng hàng đầu trong 7 mối tội đầu, hiểu được chính tội kiêu ngạo đã đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá? Và chẳng hiểu có được bao nhiêu con người dám hy sinh chỗ ngồi “cỗ nhất” (chưa dám nói hy sinh mạng sống mình) cho anh em, cho đồng loại, để sẵn sàng xuống ngồi “chỗ cuối” mà phục vụ mọi người? Quả thực “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó” (Hc 3, 28).
Lạy Chúa! Cúi xin Chúa luôn soi sáng và hướng dẫn con, để con đừng bao giờ quên dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và người thu thuế” (Lc 18, 9-14). Cũng bởi vì đến ngay như việc thờ phượng Thiên Chúa, con cũng cách này cách khác làm như anh chàng Pha-ri-sêu lên tận cung thánh khoe hết thành tích nọ đến chiến công kia (“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”). Và nếu không tìm ra được chiến công, thành tích (kiểu như rủ nhau đóng góp mua một vài thùng mì tôm, đôi ba bao gạo mốc, năm ba túi quần áo rách, rồi trương biểu ngữ thật hoành tráng đi làm chuyện tế bần, từ thiện), con cũng cố gắng tìm những việc làm thường nhật (đi lễ, đọc kinh sớm tối, bỏ tiền lẻ vào túi kín, hay vênh vang ném từng đồng xu cho những hành khất…) để kể công với Chúa hệt như anh chàng Pha-ri-sêu thủa xưa. Con đã kênh kiệu nhắm tít mắt mà không quay nhìn lại dưới cuốí nhà thờ đang có những ”người thu thuế” quỳ gối đấm ngực than van “Lạy Chúa! Con là kẻ có tội!”
Ôi! “Lạy Chúa! Con là kẻ có tội!” Con biết tội con nặng lắm rồi, vì chỉ thích làm đại gia chớ không thích làm nguời bé mọn, chỉ thích đứng đầu, ăn “cỗ nhất” chớ không thích ngồi sau, ăn cơm thừa canh cặn. Con biết những hành động trên của con đã hàng ngày hàng giờ đóng đinh Chúa, đâm thâu vào Trái Tim Chúa. Cúi xin Chúa không chỉ dạy con mà luôn đồng hành với con để con sẵn sàng thể hiện bằng hành động, bằng chính cuộc sống của con như những kẻ bé mọn, như những “người thu thuế”, như những “bà goá nghèo”, như những “người rốt hết”, để đến ngày sau hết con được Chúa cho đứng bên phải Ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa
“Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình là cuộc đời công chính” (Gc 3,18).
Người sống công chính thì xây dựng hòa bình và người xây dựng hòa bình là người sống công chính TN 25-B176
Người sống công chính thì xây dựng hòa bình và người xây dựng hòa bình là người sống công chính. Người sống công chính thì bình an và người xây dựng hòa bình thì công chính. Hòa bình và công chính, như cặp bài trùng, luôn đi đôi với nhau, có liên hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Cũng như các cặp: hòa bình – công lý; bình an – công bằng; ghen tương – tranh chấp; chiến tranh – xung đột.
Nghĩa là ở đâu có hòa bình, ở đó có công lý. Ở đâu có công lý thì ở đó có hòa bình. Ở đâu có bình an, ở đó có công bằng. Ở đâu có công bằng thì ở đó có bình an. Ở đâu có ghen tương, ở đó có tranh chấp. Ở đâu có tranh chấp, ở đó có ghen tương. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có xung đột. Ở đâu có xung đột, ở đó có chiến tranh.
Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đó có xáo trộn và đủ mọi việc xấu xa. Ở đâu có công chính và hòa bình, ở đó có bình an và có nhiều hoa thơm trái tốt. Tại sao lại có ghen tương và tranh chấp; tại sao lại có chiến tranh và xung đột ? Thánh Gia-cô-bê trả lời, đó là do trong lòng người ta có sự ham muốn.
Thậy vậy, “khi ta ham muốn mà ta không có, ta sẽ chém giết (chiến tranh); ta ghen ghét chẳng được, nên ta xung đột và gây chiến với người khác” (x.Gc 4,2). Nhưng tại sao ta không có ? Không có vì ta không xin, không làm. Ta xin mà không được vì ta xin không đúng; không làm thì đương nhiên ta không có rồi, khỏi bàn. Không có gì từ trên trời rơi xuống cả, trừ nước mưa thôi.
Xin không đúng là xin thế nào ? Là ta xin để hơn người khác; ta xin là người lớn nhất, giỏi nhất thiên hạ; ta xin cho được giàu sang, xin cho được trúng số, để ta khỏi phải vất vả để làm; để trong phút chốc ta lên tiên, ta lên mây; ta thành tỉ phú; ta từ cô bé lọ lem, trở thành cô công chúa, bà hoàng; từ chó ta lên voi. Từ đây ta khỏi phải làm chi cho mệt, cứ ngồi mát mà ăn bát vàng. Xin như vậy có đúng không ? Chúa có cho không ? Chắc là không rồi.
Thấy người ta giàu có, giỏi dang, ta ghen, ta tức; ta ham, ta muốn. Trong khi ta không biết rằng người ta đã phải phải khổ cực thế nào mới có được như thế. Đâu phải tự nhiên mà người ta giàu; đâu phải tự nhiên mà người ta giỏi dang đâu. Ta chỉ nhìn thấy cái ngọn, cái trước mắt mà không thấy cái gốc, cái đã qua. Do đó, ta chỉ ngồi mà xin thôi thì làm gì mà ta có được. Ai mà ban cho ta chứ.
Lại nữa, trong thực tế, có ai trúng số, có ai giàu sang mà hạnh phúc và bình an đâu; lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Nào là sợ người ta đến xin giúp đỡ, đến nhận họ nhận hàng; nào là sợ ăn trộm, sợ bị giết; luôn bất an, ăn không ngon, ngủ không yên. Đó là chưa nói đến việc tập tành các nhân đức. Giàu sang và hạnh phúc như sự xung khắc, không bao giờ đi đôi với nhau. Giàu sang thì không hạnh phúc và hạnh phúc thì không giàu sang.
Có tỉ phú, không để tiền cho con mình trong di chúc, sợ chúng ăn chơi phung phí và hư người. Huống chi là Chúa, làm sao Chúa ban cho ta trúng số được. Nhiều khi ta khôn lỏi, ta xin trúng số để làm việc thiện hay dâng cho nhà thờ một nửa, còn ta được một nửa. Xin gì mà xin khôn thế, thánh thiện thế !!! Thật ra chẳng thánh thiện chút nào cả. Làm việc thiện hay dâng cúng gì thì phải là những gì do mồ hôi, nước mắt mình làm ra thì mới có giá trị; chứ xin Chúa ban, rốt cuộc Chúa mất toi 50%, bộ Chúa không khôn hơn ta sao, Chúa không biết gì sao.
Nếu ta muốn xin kiểu đó thì ta đến xin ông địa, ông ban cho. Chuyện kể rằng, có bà kia đi buôn, đến xin ông địa: xin cho con trúng mẻ này, con sẽ cúng cho ông con 2 chân. Ông địa tưởng rằng chắc sẽ là con gà trống thiến đây, nên cho. Bà ta trúng được mẻ buôn, nên đến tạ ơn ông địa và xin tiếp: xin cho con trúng mẻ này nữa, con sẽ cúng ông con 4 chân. Ông địa nghĩ, chắc sẽ là con trâu, con bò hay con heo đây, nên cho.
Bà ta trúng mẻ tiếp, đến tạ ơn và nói: xin cho trúng mẻ nữa, con sẽ cúng ông 8 chân. Ông địa nghĩ chắc là 2 con bò hay 2 con trâu hoặc 2 con heo, nên cho. Lần này bà ta tiếp tục trúng và đến lạy tạ và nói: xin cho con lần trót, đã thương thì thương cho trót, xin cho con trúng mẻ này nữa con sẽ cúng 10 chân. Ông địa nghe vậy khoái chí, tưởng sẽ là 2 bò, 2 trâu, một gà hay 2 trâu, 2 heo, một gà hoặc 2 bò, 2 heo một gà, nên ban cho. Trúng mẻ này, bà ta hớn hở vui mừng, ra chợ một con cua, đến cúng cho ông địa. Ông địa thấy vậy cười toang hoắc, không ngờ mình bị người ta lừa !!!! Đó là khôn lỏi của con người.
Thiên Chúa không phải là ông địa, nên không bị ta lừa đâu. Chúa biết trước những khi ta xin mà, ta qua mặt Chúa sao được. Ta đâu có khôn hơn Chúa được. Thánh Phao-lô nói “Cái điên rồ của Chúa còn hơn cái khôn ngoan của ta” mà (x. 1 Cor 1,25).
Cái khôn lỏi của con người chỉ là lừa thầy, phản bạn; lừa chủ, phản Chúa; chỉ có ghen tương và tranh chấp thôi. Có bao nhiêu cũng không; được bao nhiêu cũng không đủ. Có voi lại đòi tiên, vì lòng người vô đáy mà. Tốt hơn ta hãy xin sự khôn ngoan của Chúa, cái khôn ngoan từ trời ấy. “Ơn khôn ngoan Chúa ban làm cho ta trở nên trước là thanh khiết; sau là hiền hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt; không thiên vị cũng không giả hình” (x.Gc 3,17).
Sự khôn ngoan này đáng cho ta ao ước, đáng cho ta ham muốn. Ước gì ta ham muốn sự khôn ngoan này như ta ham muốn tiền bạc, danh vọng thì hay biết mấy. Nói sự khôn ngoan này từ trời, chứ thực sự nó lại ở dưới đất; sự khôn ngoan này đang có ở trong Lời Chúa, ta mà siêng năng đọc, suy gẫm và đem ra thực hành thì ta sẽ được. Ta xin Chúa cho ta biết được kho tàng sự khôn ngoan của Chúa ở trong Lời Chúa và ban cho ta có sức để kiên trì đọc, suy niệm và thực hành Lời Chúa hàng ngày trong đời của ta.
Có sự khôn ngoan này, ta sẽ có bình an, ta sẽ nên thánh nên thiện và nên công chính. Trong con người của ta sẽ không còn ghen tương hay tranh chấp nữa; không còn xáo trộn, cũng không còn những việc làm xấu xa nữa; không có xung đột và gây chiến với người khác nữa. Thế giới sẽ có hòa bình, không còn chiến tranh nữa.
Vậy, ta là con Chúa thì ta hãy ham muốn sự khôn ngoan của Chúa; biết siêng năng đọc, suy niệm và sống Lời Chúa hằng ngày, để ta trở nên người xây dựng hòa bình và sống công chính. Như thế, ta sẽ có bình an ở đời này và hạnh phúc ở đời sau.
“Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (9,30-37):
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: “Dọc đàng các con tranh luận gì thế?” Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (9,30-37):
2.1 Các tông đồ của Đức Giê-su Na-da-rét là những tín hữu Do-thái nhiệt thành, nhưng nông cạn TN 25-B177
2.1 Các tông đồ của Đức Giê-su Na-da-rét là những tín hữu Do-thái nhiệt thành, nhưng nông cạn và chưa thấu hiểu Phúc Âm. Suy nghĩ và quan điểm sống của các ông cũng giống như của tất cả những người Do-thái thời bấy giờ và của mọi người trong thế gian này là muốn có nhiều quyền lực, muốn được làm người lớn nhất trong xã hội. Là người lớn nhất hay là người có nhiều quyền lực thì có đủ vinh hoa phú quý, được trọng vọng, được phục vụ tận răng, được ăn trên ngồi trước, được bẩm thưa trước cộng đoàn.
2.2 Nhưng Đức Giê-su Na-da-rét là Thiên-Chúa-làm-người đã giảng dậy một tinh thần và lối sống mới: đó là yêu mến sự khiêm nhường tự hạ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Đức Giê-su Na-da-rét không chỉ dậy các môn đệ như thế mà chính Người còn tự chọn cho mình một nếp sống nhỏ bé, một thân phận ”không ra gì”. Người đã sinh ra trong hang bò lừa ở Bê-lem, đã sống ẩn dật và lao động ở Na-da-rét, đã rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa khắp các làng mạc thành thị Pa-lét-tin, đã bị bắt, bị trói, bị đánh đâp, nhạo báng, xỉ vả, bị tra hỏi và kết án tại Giê-ru-sa-lem, và sau cùng đã bị treo trên cây gỗ ở đồi Gol-go-ta và đã được mai táng trong ngôi mộ mới của người môn đệ cạnh đồi Núi Sọ. Khi suy gẫm về thân phận của Đấng tự nhận/xưng là “Con Người”, chân phước Charles de Foucauld đã đưa ra nhận xét này: “Chẳng ai muốn có một thân phận giống như Người!” Quả là một nhận xét chính xác!
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (9,30-37):
3.1 Suốt hơn hai ngàn năm Hội Thánh Công giáo không ngừng rao giảng một Đấng Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá (Dieu Crucifíé) và mời gọi các Ki-tô hữu (Hồng y, Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân) theo chân Chúa Ki-tô trên con đường khổ nạn (thương khó), noi gương bắt chước Chúa Ki-tô trong nếp sống tự hạ và tự hiến. ”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình vì/cho người mình yêu.” Cũng có thể nói càng hiến dâng cho Thiên Chúa và tha nhân người môn đệ càng chứng tỏ tình yêu của mình với Chúa và tha nhân. Mức độ tự hiến dâng là thước đo tình yêu của người môn đệ.
3.2 Để theo chân Chúa Ki-tô trên con đường khổ nạn hay để noi gương bắt chước Chúa Ki-tô trong nếp sống tự hạ tự hiến, chúng ta cần rất nhiều sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa. Chúng ta cũng rất cần sự nâng đỡ của các Thánh Nam Nữ, nhất là các Thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng ta.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (9,30-37):
Lạy Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Chúa đã tự hạ tự hiến trong thân phận chẳng có ai muốn giống như Người, chúng con vô cùng ngưỡng mộ và bái phục Chúa. Chúng con muốn nên giống Chúa, nhưng chúng con không thể.
Chúng con xin Chúa ban Thần Khí của Chúa cho chúng con, để Người giúp chúng con noi gương bắt chước Chúa và đưa chúng con vào con đường thập giá mà Chúa đã đi.
Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần Amen.
Thánh Mác-cô đã làm độc giả ngạc nhiên khi ghi lại cuộc tranh cãi của các môn đệ xoay quanh đề TN 25-B178
Thánh Mác-cô đã làm độc giả ngạc nhiên khi ghi lại cuộc tranh cãi của các môn đệ xoay quanh đề tài “ai sẽ là người lớn nhất” ngay sau khi Chúa Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn thập giá. Người ta đặt câu hỏi: Làm sao các môn đệ lại vô tâm trước những điều Đức Giêsu vừa nói? Thì ra, kể cả lúc Chúa tiên báo cuộc khổ hình đau thương mà Người sắp chịu, các ông vẫn còn mơ về thời Thiên sai theo nhãn giới phàm tục. Vì vậy, nghe Chúa nói về việc Người sẽ bị bắt bớ và bị giết, các ông “không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người”. Nhân cuộc tranh luận của các môn đệ, Chúa Giêsu muốn dạy các ông bài học về khiêm nhường và phục vụ. “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Chính Chúa đã thực hiện nơi bản thân Người bài học này. Là Thiên Chúa uy quyền cao sang, Chúa Giêsu đã hạ mình mặc lấy thân phận con người để sống cùng và sống cho con người, nhằm mưu cầu hạnh phúc của họ. Qua hình ảnh một em bé, Chúa muốn khẳng định, những ai muốn theo Người cần phải sống đơn sơ, phó thác để có thể trở nên môn đệ đích thực của Người. Lý tưởng của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thông thường của con người. Ở đời, ai cũng muốn nổi hơn người khác về mọi phương diện. Nếu thấy người bên cạnh hơn mình thì họ ghen tương, thậm chí tìm cách gài bẫy để loại trừ. Bài đọc I đã diễn tả điều này. Tác giả sách Khôn ngoan đã ghi lại “lý sự” đầy hằn học của những kẻ gian ác. Họ ghen tương khi thấy người tốt sống đạo hạnh. Những việc làm tốt của người đạo đức lại là một lý do để họ gây chiến. Các nhà chú giải Kitô giáo đã sớm nhận ra người công chính mà sách Khôn ngoan nói đến chính là Đức Giêsu Kitô. Quả vậy, người Do Thái đã phân bì với Chúa và họ vu khống cho Người có âm mưu phản loạn, xách động dân chúng. Kết cục, Chúa Giêsu bị kết án thập giá và Người đã chết cho Chân lý. Chúa Giêsu đã báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Người. Qua lời tiên báo này, Người cũng muốn thanh luyện quan niệm trần tục về Đấng Thiên sai. Vị Thiên Chúa sai đến không phải một chính trị gia hay một người thống trị bằng quyền hành hay bạo lực. Người là Thiên Chúa tình yêu, Người cứu độ con người bằng yêu thương và phục vụ. Người cũng mời gọi con người hãy tiếp nối Người để làm cho tình yêu thương thấm đượm trần gian. Thánh Giacôbê đã phê phán thói ganh tị và cãi vã giữa các thành viên của cộng đoàn tín hữu thời bấy giờ (Bài đọc II). Theo vị Tông đồ, nguyên nhân của những cãi vã và xung đột là sự đam mê ích kỷ của con người, nhất là do thiếu tinh thần siêu nhiên và đời sống nội tâm. Trong tuần lễ vừa qua, ngày 14-9 là lễ suy tôn thập giá Chúa Giêsu. Liền ngày hôm sau, tức là ngày 15-9, Giáo Hội tôn kính Đức Trinh nữ Maria với tước hiệu “Đức Mẹ sầu bi”. Đức Giêsu là Thiên Chúa chí thánh đã trở nên “tội nhân” vì con người. Đức Trinh nữ không hề mắc tội lại mang trên thân mình biết bao đau khổ cay đắng để cộng tác với hy sinh của Đức Giêsu, mang lại ơn cứu độ cho trần gian. Đức Maria đã được tuyên xưng như một vị “tử đạo mà không phải chết”, vì Mẹ đã đón nhận đau khổ trong Đức tin và tâm tình vâng phục. Đau khổ gắn liền với thân phận con người. Vừa lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã chào đời bằng tiếng khóc. Đã sống trên đời, không ai tránh khỏi đau khổ. Hành trình cuộc đời cũng là hành trình thập giá. Dù muốn hay không, đau khổ vẫn luôn kề bên ta. Cây gỗ Chúa Giêsu vác lên đồi Can Vê năm xưa đã trở thành thánh giá, vì mang lấy thân thể của Đấng cứu độ. Những đau khổ của chúng ta có thể được biến thành ân phúc, nếu chúng ta đón nhận với tinh thần hy sinh mến Chúa yêu người. Nếu chúng ta biết san sẻ cho nhau gánh nặng cuộc đời, sức nặng của thập giá sẽ bớt đi, đau thương sẽ biến thành niềm vui, thập giá sẽ nở hoa, niềm vui phục sinh sẽ rạng rỡ nơi cuộc đời.
Người đời có câu: Chính trường cũng là chiến trường. Câu nói đó quả là không sai. Theo dõi các TN 25-B179
Người đời có câu: Chính trường cũng là chiến trường. Câu nói đó quả là không sai. Theo dõi các cuộc chay đua quyền lực của những người làm chính trị, chúng ta có thể thấy đó là một cuộc chạy đua khốc liệt. Người chiến thắng trở thành người nắm giữ quyền lực, kẻ thất bại trở nên tan gia bại sản và có khi mất mạng. Chúng ta đang chứng kiến những sự kiện này trên thế giới. Tại Triều Tiên, vì muốn triệt hạ những người có nguy cơ tạo phản, ông Kim- Jung- Un trong mấy năm cầm quyền vừa qua, đã xử tử hàng trăm người, trong đó có cả những người họ hàng thân thuộc và là người cưu mang ông. Tại Trung Quốc, người ta đang nói đến chính sách “đả hổ diệt ruồi” nhằm thanh trừng lẫn nhau. Điều đó cho thấy, quyền lực vẫn là một cám dỗ hết sức mạnh mẽ và thường xuyên trong con người và quyền lực có thể biến con người trở thành ác thú đối với nhau.
Ngày xưa, khi theo Chúa Giêsu, các môn đệ cũng không tránh khỏi cám dỗ tìm quyền lực và danh vọng. Mặc dù đã được tận mắt thấy Chúa Giêsu sống một cuộc sống hết sức thanh bần khó nghèo, được nghe những bài giảng về tinh thần phục vụ, nhưng dường như, những điều đó vẫn chưa thay đổi được suy nghĩ trong các tông đồ.
Tin Mừng tuần trước, các tông đồ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúa đã tỏ cho các ông biết Ngài là Đấng Cứu thế khiêm hạ như lời tiên tri Isai mô tả, chứ không như các ông tưởng tượng ra. Hôm nay, Chúa nói rõ hơn về cách thức cứu thế của Ngài: Con người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết, Người sẽ sống lại. Tuy nhiên, các tông đồ dường như bỏ ngoài tai những lời tiên báo của Chúa Giêsu, vì các ông vẫn nuôi hy vọng về chức tước, quyền lực mà các ông nghĩ mình sẽ được. Vì thế, các tông đồ đã ngấm ngầm bàn cãi với nhau để phân chia quyền lực xem ai là người lớn hơn.
Trước suy nghĩ sai lạc của các tông đồ, Chúa Giêsu đã ngồi xuống, gọi các ông lại để “cảnh cáo” các ông. Đây là lần đầu tiên Kinh Thánh kể lại việc Chúa ngồi xuống, gọi các ông lại để dạy bảo. Điều đó chứng tỏ rằng, đây là vấn đề hết sức quan trọng. Vì nếu trong tâm trí các ông còn tìm kiếm địa vị hơn thua, thì các ông sẽ không thể đi theo con đường của Chúa được. Chúa đã chỉnh lại để các ông rõ quan điểm của Chúa: Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm kẻ phục vụ mọi người.
Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để mang thân phận con người trong vâng phục Ý Chúa Cha và để phục vụ con người bằng đời sống và bằng đôi tay của mình. Vì thế, các môn đệ của Chúa cũng phải đi theo đường lối phục vụ như thế. Chúa muốn các môn đệ của Chúa cũng phải phục vụ không tính toán thiệt hơn, không chọn nơi phục vụ, cũng không chọn lựa đối tượng để phục vụ. Vì thế, Ngài đưa một em bé để làm ví dụ: Ai tiếp đón một em nhỏ vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Đón tiếp và phục vụ một em nhỏ thì không được lợi gì cả. Phục vụ trẻ nhỏ là công việc không tên, lại bận rộn suốt ngày, mà trẻ nhỏ thì không có gì đền trả. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại kể những việc phục vụ nhỏ bé, không tên, tầm thường ấy như là phục vụ cho chính Ngài và hơn thế nữa là phục vụ chính Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu đến cứu độ trần gian, Ngài phục vụ và đem hạnh phúc cho tất cả mọi người, Ngài không tranh giành quyền lực với trần gian. Tuy nhiên, các vua chúa và chính quyền trần gian vẫn cứ sợ Ngài gây ảnh hưởng hoặc sợ Ngài chiếm chỗ của mình, nên họ tìm mọi cách để loại trừ Ngài. Sách Khôn Ngoan đã nhìn thấy sự đối nghịch giữa hai lối sống của thế gian và của người công chính: Phường vô đạo lên tiếng nói: Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, nó trách ta vi phạm lề luật.
Các thủ lãnh thế gian thù ghét người công chính chỉ vì người công chính đã sống khác họ, không a dua, đồng lõa với thế gian trong những điều xấu xa và không làm ngơ trước những sai trái của thế gian. Người công chính mà sách Khôn Ngoan nói đến chính là Đức Giêsu. Ngài đã đến ở giữa thế gian, nhưng Ngài đã rao truyền một lối sống khác với thế gian, nên thế gian thù ghét Ngài. Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh cáo lối sống gian tham, buông thả và kêu gọi sống từ bỏ, hy sinh tiết chế. Ngài kêu gọi giũ bỏ mọi sự gian dối, giả trá để sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Vì thế, thế gian, cụ thể là các nhà lãnh đạo Do Thái, đã tìm cách giết Ngài.
Cho đến ngày nay, các thế lực trần gian vẫn thù ghét Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài, bởi vì họ vẫn cho rằng, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài đang tìm cách gây ảnh hưởng hoặc lật đổ họ. Vì vậy, họ tìm cách loại trừ Chúa Giêsu và môn đệ của Ngài. Thế nhưng, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không hề nhắm gây ảnh hưởng, cũng không tìm kiếm quyền lực chính trị trần gian, trái lại, chỉ muốn phục vụ mọi người, mọi thành phần như một người tôi tớ. Chúa Giêsu đã biết trước điều đó nên từ bài học và lời dạy đầu tiên cho đến bài học cuối cùng của Ngài vẫn là bài học phục vụ trong khiêm hạ, không đòi hỏi, không tính toán. Bài học cuối cùng để lại cho các tông đồ, là Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các ông và căn dặn: Anh em hãy rửa chân cho nhau, hãy làm như Thầy vừa làm cho anh em.
Thánh Giacôbê trong bài đọc hai đã giải thích thêm về tinh thần phục vụ mà Chúa Giêsu đã dạy: Người môn đệ của Chúa, trong mọi công việc, cần loại bỏ sự ghen tương và tranh chấp. Vì ghen tương, tranh chấp sẽ dẫn đến thù oán và nhiều việc xấu xa khác. Người phục vụ cần học nơi Chúa để biết sống thanh khiết, hiền hoà, khoan dung, là những đức tính làm trổ sinh hoa trái tốt lành. Thánh Giacôbê cũng cho thấy, các cuộc chiến tranh đang diễn ra trên thế giới từ xưa đến nay bắt nguồn từ tham vọng cá nhân của con người. Hoàng đế Neron ngông cuồng đã đem đến chết chóc cho bao nhiêu người, một Napoleon muốn sơn cả thế giới cùng một màu, một Hitle muốn biến thế giới trở thành một dân tộc duy nhất, một cường quốc muốn dùng vũ khí để giữ vai trò làm chủ thế giới… Tất cả là do tham vọng trong con người, từ đó đã nổ ra những cuộc chiến tranh giết chóc.
Tham vọng, quyền lực là cám dỗ chung của mọi người. Vì thế, âm thầm phục vụ luôn là một mời gọi và là thách đố, khiến người môn đệ của Chúa luôn bị giằng co. Tham vọng quyền lực đang diễn ra ngay trong tôn giáo và xã hội, nơi gia đình và nơi mỗi người. Ngoài xã hội, có nhiều người bị say men quyền lực và họ tìm mọi cách, kể cả mọi thủ đoạn, để đạt được quyền lực và giữ được quyền lực. Trong tôn giáo, có các linh mục, tu sĩ không dễ dàng từ bỏ nhiệm vụ, nhiệm sở của mình khi được thuyên chuyển. Trong gia đình, nhiều bậc cha mẹ đã đánh mất tinh thần phục vụ, sự tận tuỵ của người cha người mẹ, thay vào đó là thói gia trưởng gia mẫu trong cách cư xử với vợ chồng con cái, khiến cho gia đình luôn căng thẳng, con cái sợ hãi mỗi khi gặp bố mẹ. Nhiều gia đình, vợ chồng đùn đẩy trách nhiệm giáo dục con cái cho nhau, kể công tính toán với nhau. Cuối cùng, con cái trở thành những kẻ bị đẩy ra ngoài đường chỉ vì cha mẹ tranh chấp nhau.
Không chỉ tham danh, tham địa vị, nhiều người còn bị cám dỗ bởi tham tiền bạc của cải, tham công việc đến độ bỏ qua lề luật giới răn Thiên Chúa. Có những người vì một chút địa vị, họ sẵn sàng từ bỏ ơn gọi Kitô hữu của mình để đạt được một cái danh, một chỗ đứng ngoài xã hội. Họ lao vào công việc nghề nghiệp để ganh đua với mọi người hơn là để phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống.
Nhiều bạn sinh viên ngày nay lao vào con đường học, chỉ với một mục đích duy nhất, là tìm được một chỗ đứng trong xã hội và kiếm được nhiều tiền cho mình, mà không mấy người nghĩ đến việc học tập của họ, sẽ giúp họ phát triển bản thân, phục vụ cộng đồng một cách hiệu quả hơn. Vì háo danh, nên nhiều bạn trẻ đã biến mình trở thành nổi tiếng bằng những hành động thiếu văn hoá, thiếu đạo đức.
Bài học khiêm nhường phục vụ và tấm gương cúi mình phục vụ của Chúa Giêsu vẫn mãi là lời mời gọi cho tất cả chúng ta. Xin Chúa tẩy rửa khỏi chúng ta mọi thứ tham vọng quyền lực, để cho Lời Chúa uốn nắn, chúng ta trở nên những học trò theo sát bước Chúa Giêsu và học nơi Chúa tinh thần phục vụ của Ngài. Amen.
Vào khoảng 300 năm trước Công nguyên hay trước Chúa Cứu Thế sinh ra, hoàng đế Hy Lạp là TN 25-B180
Alexander trị vì toàn cõi từ Ai cập cho đến Ấn độ. Và trong khoảng 250 năm, các vua Hy lạp đã cai trị và kiểm soát tất cả vùng Trung đông kể cả Đất thánh. Họ bắt buộc dân của các quốc gia dưới quyền phải chấp nhận theo văn hóa, phong tục và tôn giáo của họ. Người Do thái lúc đó cũng bị cưỡng ép chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa. Những người không tuân theo thì bị bách hại và giết chết. Một số người Do thái đã bỏ đạo và thờ thần của Hy lạp. Và bài đọc 1 trích sách Khôn ngoan hôm nay, đề cập đến những người Do thái bỏ đạo này. Họ gài bẫy để tìm cách hãm hại những người trung thành với Thiên Chúa và chế diễu gọi là những người trung thành với Thiên Chúa là “những người công chính.”
Bài đọc một nối kết với bài Tin mừng diễn tả Chúa Giê-su là “Người Công Chính” thật, và tiên báo về sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu để trung thành với Thiên Chúa Cha và với sứ mệnh của mình. Bài Tin mừng có 2 phần. Phần thứ nhất, Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết về sự đau khổ và cái chết của Ngài. Đây là lần thứ 2 Chúa cho các môn đệ biết về vấn đề này. Trong phần thứ 2 của bài Tin mừng, Chúa hỏi các môn đệ về cuộc tranh luận giữa các ông khi đi đường, sau đó Chúa dạy các ông và tất cả chúng ta một bài học quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu.
Như chúng ta vừa nghe, trong lúc Chúa muốn cho các môn đệ biết về sứ vụ, một điều quan trọng, thì các môn đệ lại không chú ý, không quan tâm. Họ tranh luận về danh vọng và đưa đến sự ghen ghét, ganh tị lẫn nhau. Sau đó, khi bị Chúa hỏi các môn đệ cũng đã nhận ra điều sai trái, và làm thinh. Chúng ta thấy đối với Chúa, Ngài không buồn hay chán nản vì thái độ của các ông. Ngài đã chọn các ông với tất cả thực chất con người: tham vọng và yếu đuối. Nhưng chắc chắn, Chúa sẽ dạy dỗ và giúp các ông vượt thắng những trở ngại đó. Vì thế nhân dịp này Chúa đã dạy các môn đệ một bài học về ý nghĩa, giá trị đích thực của người môn đệ chân chính, và sự kiện làm cho trở thành lớn hơn, quan trọng hơn. Đó là sự khiêm nhường và phục vụ mọi người.
Sau lời dạy bảo ngắn gọn này, Chúa kêu gọi một em nhỏ đến, đặt em đứng giữa các môn đệ và nói: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy.” Đến đây, tôi xin, thứ nhất, chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong chương trình giáo lý và Việt ngữ, đã lắng nghe lời Chúa kêu gọi, hy sinh thời giờ phục vụ các em nhỏ học sinh, để hướng dẫn và dạy dỗ để các em hiểu biết về giáo lý và đến gần với Chúa hơn. Tôi cũng cám ơn phụ huynh, cha mẹ giúp đỡ trong mọi công việc, và thành tâm kêu gọi tất cả mọi người, hy sinh, khiêm nhường hợp tác với các thầy cô để phục vụ giúp đỡ con em. Và điều thứ hai, như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng, đón tiếp, phục vụ và giúp đỡ các em là phục vụ và đón tiếp chính Chúa Giê-su. Ngoài ra, em nhỏ là hình ảnh tượng trưng cho những người tầm thường, nghèo khổ và yếu kém trong xã hội, tiếp đón và phục vụ những người này là phục vụ và tiếp đón chính Chúa.
Thật vậy, đối với Chúa, người môn đệ chân chính phải là người có tinh thần phục vụ tha nhân. Và đối tượng phục vụ là những người nhỏ nhất, những người hèn kém và những người nghèo khổ. Chúng ta phải luôn ý thức, phục vụ họ là phục vụ Chúa. Như vậy nếu chúng ta phục vụ trong sự yêu thương và với lòng khiêm nhường chính là vì chúng ta muốn phục vụ Chúa Giê-su trong họ, và nếu ai phục vụ chúng ta thì cũng chỉ vì họ muốn phục vụ Chúa Giê-su trong chúng ta. Cho nên, điều quan trọng không phải là làm lớn, làm nhỏ, mà là chúng ta có tinh thần, lòng nhiệt thành phục vụ và phục với thái độ như thế nào.
Ông bà anh chị em thân mến. Tâm lý thông thường của con người là tự ái, là tự cao, muốn được chú trọng, thích được khen ngợi, làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phài chỉ là tật xấu của các môn đệ Chúa Giê-su. Thế nhưng những tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin Mừng, cho nên Chúa dạy chúng ta muốn trở thành môn đệ, Ki-tô hữu chân chính phải cố gắng loại bỏ, và sống khiêm nhường, quảng đại, biết dùng đời sống và những ơn lành Chúa ban để phục vụ Chúa và anh chị em, cũng như biết sống yêu thương và hiệp nhất.
Trong bài đọc 2, thánh Gia cô bê cho chúng ta biết ở đâu có ganh ghét, ganh tị thì sẽ sinh ra chia rẽ, bất hòa và mọi thứ xấu xa. Những người có tính ganh ghét thì sẽ làm hại không những cho người khác, mà còn cho chính mình vì tự nung nấu một sự xấu trong con người, trở thành bất an, sẽ sinh ra nhiều bệnh tật, và tự giảm giá trị con người của mình. Ganh ghét còn làm hại đến cộng đoàn vì người ganh ghét như một con sâu, một con vi trùng độc hại, âm thầm mà hiểm độc phá hoại tập thể, làm cho tập thể mất đoàn kết, mất bình an, mất hăng hái. Cho nên thật là tai hại cho tập thể nào có một vài người ganh ghét. Ngược lại, thánh Phao-lô cho chúng ta biết, ở đâu có hiền lành, chính trực thì có an hòa và hạnh phúc. Cho nên, là những Ki-tô hữu, lời Chúa kêu gọi chúng ta phải cố gắng kiến tạo sự hiệp nhất trong yêu thương và hy sinh phục vụ lẫn nhau. Đây là phương cách chúng ta vinh danh và làm sáng danh Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Hai Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng lời sinh xuống trần và khiêm nhường phục vụ chúng ta là những người tội lỗi và yếu hèn như thánh Phao-lô đã nói: “Người là Thiên Chúa nhưng đã chịu lấy xác phàm và trở thành nô lệ.” Trong thời gian rao giảng Tin mừng, Chúa đã chịu chỉ trích và chế diễu, chịu đánh đòn, đóng đinh và chết trên thập giá để hoàn thành sứ mệnh cứu rỗi nhân loại. Tóm lại, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy noi gương Ngài, sống khiêm nhường và sẵn sàng hy sinh phục vụ lẫn nhau. Sứ mênh của người Ki-tô hữu chúng ta là sống để phục vụ Thiên Chúa trong mọi người. Thật vậy, khiêm nhường và hy sinh phục vụ là con đường Chúa đã đi, và cũng là con đường Chúa kêu gọi chúng ta, những người tin và được Chúa yêu thương, hãy can đảm bước đi theo Chúa, để hợp tác với Chúa trong sứ mệnh đem ơn cứu độ và tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Xin Chúa ban nhiều ơn lành cho chúng ta.
Ở trường học, người ta truyền đạt cho các học trò bài học lịch sử, nhằm khơi dậy ý chí anh hùng TN 25-B181
Ở trường học, người ta truyền đạt cho các học trò bài học lịch sử, nhằm khơi dậy ý chí anh hùng của các bậc tiền nhân sẽ ở mãi nơi cộng đồng xã hội hôm nay. Bài học được ghi chép từ sách vở, bài học truyền khẩu từ dân gian, đều được xem là những kiến thức, những kinh nghiệm bổ ích, quí báu, góp phần làm phong phú nền văn minh đất nước. Ở trường đời, bài học thu hút hơn cả, đó là bài học mang lại chức quyền, mang lại kinh tế cho gia đình, bài học giúp người ta sớm nổi danh nổi tiếng…..
Bài học ở trường đạo hôm nay, cho thấy tâm trí của các học trò Đức Giêsu đang bị đè nặng bởi tính hơn thiệt, không bận tâm về lời Thầy dạy, các ông còn tranh luận sôi nổi với nhau về quyền bính, chức lớn, chức nhỏ trong tương lai. Thật ra thì sống trên đời quyền cao chức trọng bao giờ cũng là một vấn nạn không nhỏ. Sinh ra làm người, phấn đấu để có kiến thức khả năng, được coi là một nửa thành công; một nửa thành công còn lại chính là biết sống những khả năng hiểu biết của mình. Sống không lỗi với đạo trời, không thẹn với đạo trong tâm, luôn là bài học thiết thực.
Quan niệm dân gian : một người làm quan cả họ được nhờ. Có chức thì có bổng lộc; giầu, giỏi, thì quyền theo sau, vì vậy mà có câu : miệng người giầu sang có gang có thép. Hiểu biết về khả năng của mình, sống đúng với chức quyền mình đang có, chỉ đáng nói khi ta đã trải qua bài học làm người. Cổ nhân để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho con cháu : làm người mà không có nhân cách, mai này sẽ thành độc ác. Làm người mà thiếu nghĩa tình, sẽ thành kẻ bội bạc. Làm người mà không có lễ giáo, sẽ thành kẻ vô phép. Làm người mà không có lý trí, chỉ là kẻ ngu ngốc. Làm người mà không có chữ tín, mai này cũng chỉ kẻ giả dối.
Tâm lý tự nhiên, ai chẳng khao khát hạnh phúc, thích nghe tin vui, nhìn ngắm vẻ đẹp, và rất mong được mãi sở hữu quyền bính, địa vị, bổng lộc vật chất. Các thầy chân chính hay giả hiệu đều chỉ có thể thu hút các học trò bằng khả năng, kiến thức thực thụ của mình, không thể có người thầy cổ vũ, gieo rắc những thất bại, những bế tắc ở phía trước. Khuynh hướng chung chung là hòn đất ném đi, hòn chì ném lại. Thầy giỏi cũng cần có trò ngoan, đầu tư nhiều, có thành quả cao, dù cái đích ai ai cũng hướng về niềm an vui hạnh phúc.
Đức Giêsu không chủ trương sống dị biệt, đi ngược với quan niệm tiền nhân, điều chân thật cao quý được Ngài qui chiếu về bài học : “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã giết Người, ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Làm sao các môn đệ có thể hiểu : chỗ nhất, chỗ trọng, không phải là chỗ của người tài giỏi chức quyền, mà là chỗ dành cho những ai dám trở nên người dốt hết, và làm tôi tớ phục vụ mọi người.
Đức Giêsu không thể trao chức quyền cho các học trò, khi mà đạo làm người các ông chưa thông, khi mà sứ mạng làm môn đệ các ông chưa tỏ ! Quyền làm người là để hiệp thông, để sống phục vụ với những khả năng hiểu biết của mình. Quyền làm con Chúa đâu phải là để thụ hưởng, để thống trị kẻ khác, quyền làm con Chúa là để thông chia niềm vui, tình yêu, và ơn cứu độ đã được ban. Đạo làm người, đạo làm con Chúa không thể phân tách khỏi tâm trí và trái tim mỗi người. Quyền làm con Thiên Chúa và quyền để phục tha nhân, chính là bài học mến Chúa yêu người mà không ai có thể cắt xén, lọc lựa.
Lời mạc khải về Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại không phấn khởi cho các học trò, lời giải thích về chức quyền, người làm lớn, quả là một thách thức đối với ơn gọi làm môn đệ. Người làm lớn phải là người biết sử dụng con tim khối óc của mình để phục vụ, khác hẳn với quan niệm quyền để thống trị. Người môn đệ theo Đức Giêsu, phải là người biết dùng lý trí để yêu thương, dùng khả năng, quyền bính của mình để tổ chức, lãnh đạo, khơi dậy tinh thần phục vụ anh chị em trong Đức Kitô.
Từ xa xưa, người ta vẫn quan niệm : trong đạo đức cũng như trong nghệ thuật, vấn đề không ở lời nói mà là ở việc làm. Nhiều người trong chúng ta thuộc lòng câu nói của người xưa : cây cao bóng cả, thuyền to sóng lớn. Không bậc làm cha mẹ nào nuôi dạy con cháu nên người hữu ích mà không trải qua vất vả, ưu tư, lo lắng. Chẳng ai hiểu theo nghĩa đen : tu là cõi phúc, tình là giây oan; đại đa số người theo Chúa Kitô đều hiểu : đau khổ thập giá và vinh quang phục sinh không thể tách khỏi người môn đệ theo Chúa Kitô.
Quan niệm mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, xưa lắm rồi, người ta chỉ nhắc lại sự việc ấy xảy ra thời phong kiến mà thôi. Bao lâu con người còn lữ hành trần thế, bấy lâu chúng ta còn mang trong mình sự bất toàn, thích an nhàn, thích được thống trị kẻ khác. Với thời đại hôm nay, người ta chỉ tâm phục khẩu phục khi công bằng tình yêu thương được thực thi, dễ đón nhận việc làm và lời nói không bất nhất. Chúa Giêsu lưu ý các học trò, và đang nhắc nhớ chúng ta bài học về quyền bính là bài học phục vụ, chỗ nhất, chỗ trọng trong đạo làm người, làm con Chúa, chính là mỗi người biết thực thi sứ mạng yêu thương, giúp nhau sử dụng đúng nén bạc Chúa trao. Amen.
“Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". “
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Tôi không có ý nhắc đến một bộ phim về chiến tranh Việt Nam có tên là “Con đường đã chọn TN 25-B182
Tôi không có ý nhắc đến một bộ phim về chiến tranh Việt Nam có tên là “Con đường đã chọn” sắp được trình chiếu trên màn hình Tv; điều mà tôi muốn nói đến là “Con đường đã chọn” của Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô đã chọn con đường này không chỉ cho bản thân mình mà còn cho tất cả những ai muốn làm môn đệ Người. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, con dường khổ nạn và phục sinh, con đường tự hạ, tự hủy (như hạt lúa) và tự hiến, con đường cứu chuộc nhân loại. Bài Phúc âm Chúa Nhật XXV Thường Niên năm B hôm nay mời chúng ta đọc, suy niệm, cầu nguyện và thực hành “con đường đã chọn” ấy.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 9,30-37: Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.
Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 9,30-37
3.1 Con đường mà Chúa Giêsu Kitô đã chọn cho mình là con đường Khổ Nạn và Phục Sinh: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Chúa Giêsu đã đi hết con đường này từ ngày thành thai trong dạ Đức Maria cho đến sáng ngày thứ nhất trong tuần khi Chúa sống lại từ cõi chết.
3.2 Con đường mà Chúa Giêsu Kitô đã chọn cho các môn đệ là con đường hạ mình và phục vụ tha nhân: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người" Chúa Giêsu đã không ngừng kêu mời các môn đệ và dân chúng đi vào con đường hẹp, hy sinh từ bỏ và hiến mình cho tha nhân. Cả sách Tin Mừng chứa đựng những lòi mởi gọi tha thiết ấy.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 9,30-37:
4.1 “Con đường đã chọn” của Chúa Giêsu Kitô và của các Kitô hữu là con đường độc đáo và cách mạng: Không nhà hiền triết hay lãnh tụ nào trong lòai người đã chọn con đường Chúa Giêsu Kitô và các môn đệ Người đã chọn. Người ta chọn con đường chiếm hữu quyền lực, địa vị, giầu sang phú quý và hưởng thụ.
4.2 “Con đường đã chọn” của Chúa Giêsu Kitô là con đường dẫn tối hạnh phúc thật: vì những cái chúng ta mất khi đi vào con đường ấy sẽ được ban lại cho chúng ta, - ban lại gấp chục gấp trăm - bởi chính Thiên Chúa là Đấng giầu sang và quảng đại.
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 9,30-37:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, Người đã chọn con đường tự nguyện, tự hạ, tự hủy và hy sinh từ bỏ để cứu chuộc chúng sinh. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết" Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho ngày càng có nhiều người biết Chúa Giêsu Kitô là Ai và Người từ đâu tới.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị noi gương bắt chước Chúa Giêsu Kitô mà tin vào con đường Người đã chọn.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu biết sống khiêm nhường tự hạ và quảng đại phục vụ theo gương húa Giêsu Kitô.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! háp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả các vị lãnh đạo trong Đạo ngoài đời học được bài học mà Chúa Giêsu Kitô để lại cho loài người nói chung, cho những người có chức có quyền nói riêng.
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giệsu cho chúng con. Người đã chọn con đường tự hạ, tự hủy, tự hiến và hy sinh từ bỏ để cứu chuộc chúng con và nhân loại tội lỗi. Người đã mời gọi chúng con làm môn đệ Người bằng cách đi vào con đường Người đã chọn..
Chúng con xin Cha ban cho chúng con lòng tin và sức mạnh để chúng con bước theo chân Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con. Amen.
Tương quan là một trong những điều cần thiết trong cuộc sống của con người. Nhà thần (bí) học TN 25-B183
Tương quan là một trong những điều cần thiết trong cuộc sống của con người. Nhà thần (bí) học chuyên về tu đức và đời sống thiêng liêng rất nổi tiếng bên Mỹ, tên là Thomas Merton đã nói một câu thật chí lý như sau: “Không ai là một hòn đảo.” Có nghĩa là chúng ta chỉ thật sự sống như một con người khi biết sống nối kết với người khác. Người khác đó không ai khác hơn là người sống chung quanh ta, những người ta gặp hàng ngày, thậm chí có thể là những người không cùng ‘phe’ mình. Nói chung, người khác mà chúng ta đề cập ở đây là tất cả mọi người trong cộng đòan.
Còn gì hạnh phúc hơn khi chúng ta được sống trong một cộng đòan, nhỏ bé như gia đình hoặc rộng lớn như Giáo hội, mà trong đó mọi thành viên đều biết sống cho nhau. Và điều đó không tự nhiên hoàn thành. Tất cả mọi thành viên trong cộng đòan đều có trách nhiệm và bổn phận xây dựng và hoàn thành mục tiêu sống và nghĩ đến nhu cầu của nhau. Trái lại, nếu các thành viên trong cộng đoàn chỉ nghĩ và sống cho quyền lợi riêng, thì không cần đi tìm ‘hỏa ngục’ đâu xa nữa; nó hiện diện ngay trong môi trường và lối sống ích kỷ mà chúng ta đang dành cho nhau đó. Và chúng ta cũng chẳng ngạc nhiên khi nhìn thấy những va chạm, bất hòa hay đổ vỡ tại các cộng đòan có lối sống như thế. Một thực tế đáng buồn là chúng ta quá dễ dàng hòa hợp với lối sống đó. Và như cơn bịnh ung thư, nó cứ thế lan rộng và ăn dần vào từng bộ phận và giết dần giết mòn các chức năng khác của thân thể.
Những nguyên nhân gây ra tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn thì nhiều. Thật đáng buồn nhiều lúc mầm mống của sự chia rẽ lại xẩy ra trong giới lãnh đạo. Điều này cũng đã xẩy ra trong hàng ngũ của các Tông đồ. Trong thân phận con người, các ngài cũng bị cám dỗ về quyền lực, và điều này đã được thể hiện qua lời cầu xin với Chúa của Gio-an và Gia-cô-bê: “Xin cho hai anh em chúng con, một người đuợc ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả của thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mk 10:37) Có nghĩa là nếu Chúa là chủ tể (Tổng Thống) thì một ông là Thủ Tướng và ông kia là Tổng trưởng quốc phòng. Còn vị trí nào cao hơn điều mà các ông xin. Các tông đồ kia cũng có tham vọng như thế, nhưng không ‘nhanh miệng’ bằng hai anh em ông Gio-an, vì thế đâm ra tức tối (Mk: 10:41). Nói tóm lại, dựa vào các chứng cứ và các hiện tượng đã xẩy ra trong quá khứ, chúng ta nhận ra rằng quyền bính hay quyền lực thường là những nguyên nhân khiến cộng đòan - dù nhỏ bé như gia đình, hay rộng như Giáo hội - bị chia rẽ và phân tán.
Anh chị em đều có kinh nghiệm này: Gia đình ít khi bị đổ vỡ vì con cái, chúng có thể là nguyên nhân gây ra sự bất đồng trong việc giáo dục. Nhưng nguyên nhân chính yếu thường xẩy ra bởi cha mẹ. Thay vì dùng khả năng, ân phúc để xây dựng và phục vụ lẫn nhau, nương tựa và cùng giúp nhau chu toàn nghĩa vụ được trao ban; trái lại chúng ta lạm dụng uy quyền để áp bức và thống trị nhau. Thậm chí có những tình huống bạo lực xẩy ra trong gia đình. Chỉ vì không ai chịu thua ai. Ai cũng dành phần thắng, phần nhất về cho mình. Trong khi dùng quyền bính để sai bảo người khác, chúng ta đã quên đi một điều là ai nói lại không đuợc, ai cũng bảo vệ lập trường và lý luận của mình. Lắng nghe nhau mới là điều khó mà chúng ta cần học.
Nói tới đây, tôi nhớ lại những lời khuyên của các bậc trưởng thượng, trải qua bao thử thách trong cuộc sống chung. Các ngài đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm trong việc xây dựng gia đình của họ như sau. Họ nói rằng, thua là nghệ thuật sống chung trong gia đình. Khi bạn thua là lúc bạn thắng. Thắng chính mình để sống cho nguời khác hầu đem lại bầu khí an vui và hạnh phúc cho gia đình.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể nào loại bỏ các khuynh hướng xấu đang lan tràn và ảnh hưởng cuộc sống của chúng ta, đó là lối sống thống trị, ăn trên ngồi trốc. Trước hoàn cảnh đó, đặc biệt để giải quyết các tranh cãi của các Tông đồ hôm nay, Đức Giê-su đã đưa ra một giải pháp luôn luôn mới lạ và vô cùng hiệu quả nếu chúng ta biết áp dụng, và đây cũng là một thách đố cho Giáo Hội trong mọi thời đại.
Trong quá khứ quyền bính của các vị lãnh đạo Giáo Hội được công nhận về mặt thế quyền nữa. Thần quyền và thế quyền hòa trộn với nhau. Các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội quá nhiều quyền bính và được tôn vinh quá mức. Vinh quang mà họ thụ hưởng phản ảnh quyền lực của thế gian hơn là cách thức mà Chúa Giê-su dậy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người.” Không chỉ có thế, sau đó Người đem một em nhỏ đến và đặt cháu đứng giữa các môn đệ, rồi ôm lấy cháu rồi nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy.”
Như anh chị em đã biết, vào thời Đức Giê-su, thân phận của người phụ nữ và trẻ con không được tôn trọng và quí mến. Đối với họ thì hai hạng người này bị coi là không đáng kể, là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội. Theo luật thì các cháu phải chờ đến lúc lên mười hai tuổi mới đuợc tham dự các nghi thức phụng vụ tại Đền Thờ.
Đối với Đức Giê-su thì khác, khi đem em nhỏ đến và đặt giữa các ông là lúc Người muốn căn dặn các ông và chúng ta rằng: em nhỏ này là hình ảnh tượng trưng cho những người thấp cổ bé miệng, nghèo hèn, bị coi thường và không có tiếng nói về mặt đạo cũng như mặt đời. Như vậy, qua cử chỉ đón tiếp thật ân cần mà Đức Giê-su dành cho em bé hôm nay, Người muốn dậy các ông bài học quan tâm và đón tiếp nhau.
Không ai trong chúng ta là người giầu có hết. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là người nghèo. Chúng ta chẳng có gì trao cho nhau cả. Tất cả đều lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng trao vào tay chúng ta những món quà cho người khác. Vì thế, khi chúng ta đón tiếp người nghèo, người tất bạt, người đói khát, trần truồng, bịnh hoạn, những người không có địa vị như trẻ em thì đó không phải là một hành vi bố thí, thương xót về thân phận của họ bị coi thường, cho bằng nhận ra sự hiện diện của Đức Chúa nơi những người đó. Chúa hiện diện trong con người và cuộc sống của họ, cho nên khi chúng ta đón tiếp, yêu thương và giúp đỡ những người như thế là giúp đỡ và yêu thương chính Chúa.
Lời khuyên của Chúa được kèm với việc làm của Người. Cử chỉ của Đức Giêsu khi ôm em nhỏ vào lòng là lúc Người biểu lộ lòng quí mến, yêu thương và tiếp nhận. Tiếp nhận một em nhỏ như thế chắc chắn không phải để em nhỏ phục dịch mình, nhưng là cơ hội mà Người muốn dậy cho các môn đệ bài học phục vụ. Hãy nhớ lại Lời Người đã nói “ai phục vụ ta thì hãy theo Ta”. Chúng ta đã là môn đệ của Người, vì thế chúng ta không còn chọn lựa nào khác hơn là chọn lối sống phục vụ. Đó chính là lẽ sống và niềm vui cho cuộc sống dấn thân.
Như vậy, điều Chúa khuyên: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải là người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” quá rõ ràng. Có nghĩa là ai muốn làm lớn, theo tinh thần của Đức Ki-tô, phải là người phục vụ trước. Phục vụ là chìa khóa, là nguyên tắc của quyền lãnh đạo. Uy quyền có được trao ban cũng là do Thiên Chúa. Địa vị, quyền cao chức trọng cốt để phục vụ mọi người, chứ không phải để thống trị, như Chúa phán: "Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ." Chính Chúa mới là ông chủ, còn tất cả chúng ta chỉ là những người thừa hành. Nói cách khác, cuộc sống của những kẻ có niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh là cuộc sống phục vụ, sẵn sàng hiến mạng mình vì ích lợi của người khác. Amen! mục lục
Sau khi tổ tông loài người ta nghe lời dụ dỗ của ma quỷ: “[Cứ ăn đi] chẳng chết chóc gì đâu TN 25-B184
Sau khi tổ tông loài người ta nghe lời dụ dỗ của ma quỷ: “[Cứ ăn đi] chẳng chết chóc gì đâu! Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3:4-5) thì từ lúc đó trở đi, con vi khuẩn độc hại có tên là GHEN TƯƠNG bắt đầu sinh sôi nảy nở trong cơ thể của tất cả loài người ta. Sức tàn phá và phạm vi hoạt động của con vi khuẩn GHEN TƯƠNG này độc hại và rộng lớn vô cùng cho nên từ người cân đai áo mão đến kẻ khố rách áo ôm, ai cũng đều giận dữ, ghen tương …rồi hận thù cãi cọ (Hc 40:4). Thật vậy!
• Vì ghen tương cho nên vua Sa-un mới trở nên điên dại, mất cả lý trí đến độ ông tìm cách dùng cây giáo ghim ông Đa-vít vào tường (1 Sam 19:10).
• Vì ghen tương cho nên các thượng tế và kỳ mục mới sách động đám đông đòi quan Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba …[và đòi]… "Đóng đinh [Chúa Giê-su] vào thập giá!” (Mc 15:11-13).
• Vì ghen tương cho nên những người Do Thái mới có những hành động gian ác, họ sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ (Cv 13:50).
Ngày xưa cũng như ngày nay, con vi khuẩn GHEN TƯƠNG vẫn còn đang tàn phá cơ thể của con người ta, trong đó có bạn và có tôi nữa. Sức tàn phá của con vi khuẩn GHEN TƯƠNG này kinh khủng lắm!
• Nó làm cho bộ não của người ta bị tê liệt cho nên người ta mới đâm đầu vào đi vay tiền với giá lời cắt cổ để mua nhà to hơn, rộng hơn, sang trọng hơn…xe mới hơn, xịn hơn, nổi tiếng hơn, sang trọng hơn…để rồi sau đó họ đi cày ngày đêm, tối mặt tối mày, bảy ngày một tuần để trả tiền lời cho ngân hàng, trả tiền thuế đất và trả tiền cho bảo hiểm.
• Nó khiến lưỡi của người ta bị lở loét, cho nên người ta không thể nói được những lời nói có tính xây dựng, tử tế, lịch sự, tế nhị, nhỏ nhẹ, ngọt ngào và dễ thương.
• Nó làm cho tính kiêu ngạo trong con người ta mỗi ngày mỗi lớn lên. Họ mua cái này, sắm cái nọ, tậu cái kia … cốt chỉ để khoe khoang và mong đợi những lời khen tặng.
Tắt một lời, con vi khuẩn GHEN TƯƠNG vô cùng nguy hiểm cho nên thánh Gia-cô-bê mới quả quyết: “Ở đâu có [vi trùng] ghen tương và tranh chấp, thì ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (3:16). Con vi khuẩn GHEN TƯƠNG nguy hiểm lắm là bởi vì nó sẽ gây ra cho tôi và cho bạn sự mệt mỏi, hận thù, kiêu căng, băn khoăn, lo lắng, cãi cọ, phiền não, bất an, đau khổ, và bất hạnh.
Bạn thân mến,
Nếu bạn nhận ra và đồng ý với tôi rằng, con vi khuẩn GHEN TƯƠNG vô cùng nguy hiểm, để cho con vi khuẩn GHEN TƯƠNG ở trong cuộc đời của chúng ta thêm ngày nào thì cuộc đời của bạn và tôi sẽ đầy bất hạnh và đau khổ thêm ngày ấy, thì ngay hôm nay, chúng mình phải kiếm cách tiêu diệt cái con vi khuẩn GHEN TƯƠNG ra khỏi cuộc đời của chúng mình ngay lập tức, không thể chần chờ thêm được nữa, dù chỉ là một giờ!
Để có thể tiêu diệt tận gốc con vi khuẩn GHEN TƯƠNG thì bạn và tôi cần phải đi gặp Bác sĩ Giê-su ngay lập tức. Chạy đến với Chúa Giê-su bằng ba phương cách tuy rất cổ điển nhưng vô cùng lợi hại sau đây:
• CẦU NGUYỆN: Là phương cách giúp cho tôi và bạn liên lạc và trình bày với bác sĩ Giê-su những triệu chứng do con vi khuẩn GHEN TƯƠNG gây ra.
• XƯNG TỘI: Mỗi tháng một lần để bác sĩ Giê-su có cơ hội đặt tay chữa lành bịnh kiêu ngạo, hay khoe khoang và phô trương do con vi khuẩnGHEN TƯƠNG gây ra.
• RƯỚC LỄ: Đi tham dự Thánh Lễ và rước lễ sốt sắng hàng ngày bởi vì qua thánh lễ, chúng mình nhận được những lời khuyên cùng những liều thuốc rất bổ ích của bác sĩ Giê-su, những lời khuyên và những liều thuốc của Ngài có khả năng khống chế và tiêu diệt con vi khuẩn GHEN TƯƠNG đang ở trong cơ thể của chúng mình.
Bạn có muốn tiêu diệt con vi khuẩn GHEN TƯƠNG trong cơ thể của bạn không? Nếu muốn thì hãy đi gặp Dr. Jesus ngay đi! Phòng mạch của Ngài mở cửa 24/7 đó, đừng chần chờ nữa! mục lục
Bài Tin Mừng hôm nay ghi dấu một giai đoạn quan trọng: Chúa Giêsu đang từ phía tiến về Giêrusa TN 25-B185
Bài Tin Mừng hôm nay ghi dấu một giai đoạn quan trọng: Chúa Giêsu đang từ phía tiến về Giêrusalem. Tại thủ đô Giêrusalem, khổ hình thập giá với tất cả nỗi nhục nhằn, tang thương, đau xót đang chờ đợi phía trước.
Suốt hành trình tiến về phía thập giá cứu chuộc, có đến ba lần Chúa mạc khải cho tông đồ đoàn về những thương đau đang chờ đợi Thầy trò phía trước. Nhưng thật lạ lùng, các tông đồ không một chút đón nhận hay cảm biết lời dạy ủa Chúa. Các ông như người xa lạ, đứng ngoài tất cả mọi tâm tư mà Chúa muốn mạc khải.
Nội dung Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một trong những lần mạc khải ấy của Chúa Giêsu. Nội dung này có thể chia làm ba phần: 1- Chúa Giêsu loan báo cuộc tử nạn của Chúa. 2 - Nhưng ngay sau những lời loan báo tử nạn, thái độ mà Chúa nhận được nơi các môn đệ là sự tranh giành ngôi thứ: ai là người lớn, ai là người bé. Nghĩa là ai ngồi trên ai, ai có quyền nắm đầu ai; 3 - Chúa Giêsu dạy người đứng đầu phải là người phục vụ.
I. SỰ TƯƠNG PHẢN GIỮA TÂM TƯ CỦA CHÚA VÀ THÁI ĐỘ CỦA CÁC TÔNG ĐỒ.
Đọc cả ba nội dung trong đoạn Tin Mừng này, ta thấy nổi lên sự tương phản hết sức lớn giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Chúa:
- Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng lãnh đạo tối cao thì lại chấp nhận chịu thiệt thòi, chấp nhận hy sinh, chấp nhận bị giết chết. Các môn đệ chỉ là những kẻ hèn mọn, dốt nát, kém cỏi thì lại muốn ăn trên ngồi trước, muốn nên bậc nhất nhì trong thiên hạ.
- Đây là hành trình cuối đời của Chúa Giêsu. Thời gian thụ nạn chẳng còn bao lâu. Chắc chắn Chúa đang cảm nghiệm sâu xa hình ảnh thập giá, những khổ đau mà người đời dành cho Chúa. Các môn đệ lại hết sức vô tâm. Các ông vô tâm đến nỗi không một chút mảy may nhận ra tâm tư của Thầy để mà đồng cảm, để mà sớt chia. Dù chỉ một chút ưu tư của Thầy, các ông cũng không thể chia sẻ. Sự vô tâm của các ông thật đáng trách.
- Đường đi của Chúa Giêsu là đường đi một mình. Có cả một đoàn tông đồ bên cạnh, có cả một đám đông được Chúa chữa lành, được Chúa nhiều lần làm phép lạ giúp đỡ, hay dạy dỗ…, nhưng chẳng một ai hiểu được nỗi lòng của Chúa. Chỉ có Chúa vò vỏ một mình vâng phục thánh ý Chúa Cha, một mình đón nhận thập giá, một mình đi đến cùng trong sự hiến dâng chính mình.
- Đối với Chúa, người làm lớn phải là người cúi xuống phục vụ, còn các tông đồ, một khi thích “ăn trên ngồi trước” thì chắc chắn chẳng bao giờ nghĩ mình phải phục vụ ai. Ngược lại, hình như các ông đang nuôi mộng thống trị thì đúng hơn.
Tất cả các ông đều như thế, chứ không riêng hai anh em Giacôbê và Gioan (kẻ đã xin cho được ngồi bên hữu, bên tả khi “Thầy vinh quang”). Bởi mười người còn lại đã “tức tối với Giacôbê và Gioan”. Sao lại tức tối, nếu không phải là kẻ cũng đồng một ý nghĩ hám danh, hám lợi như Giacôbê và Gioan.
- Chúa không bao giờ nhắm đến việc chính trị. Không bao giờ Chúa dạy các môn đệ về quyền hành trần thế. Không bao giờ Chúa nghĩ đến việc phải tiêu diệt chính quyền, để Chúa xưng vương xưng bá. Bao nhiêu năm rồi mà các môn đệ vẫn chưa thuộc bài. Các ông vẫn mang não trạng về một Đấng Thiên Sai trần thế uy quyền thống lãnh sơn hà.
Vì thế, hình như các ông theo Chúa là để tìm lợi lộc trần thế cho các ông hơn là tìm sáng danh Thiên Chúa. Các ông chưa thể hiểu được rằng, Thầy Giêsu của các ông sẽ là Đấng cứu chuộc con người về mặt tâm linh chứ không phải trần thế.
II. BÀI HỌC NÀO CHO CHÚNG TA?
Chúng ta cũng giống các tông đồ, chỉ biết tìm kiếm những cái phụ hệ, nào là hào nhoáng bên ngoài, là vinh quang cho bản thân, là quyền hành trên mọi người, là tìm cách tự tạo cho mình vỏ bọc của kẻ có uy, có danh…
Thói tìm kiếm những trang bị ích kỷ để cốt sao vinh thân, phì da ở trần thế không bao giờ có trong giáo huấn của Chúa Giêsu, vì thế, chẳng những không bao giờ phù hợp mà còn đi ngược với giáo huấn ấy.
Giáo huấn của Chúa không chỉ qua đời sống, qua lời dạy, mà còn cụ thể qua việc Chúa chấp nhận hiến dâng chính mình làm giá cứu chuộc. Nói cách khác, giáo huấn đó, đòi phải có đức mến lớn lao, trào tràn, đồng thời trong một nỗ lực quyết sống, quyết chết cho tình yêu một cách liên lỉ mới thực hiện được.
Nhiều người tài được ca tụng nhất thời, sau đó tên tuổi bị phai nhạt với thời gian! Trái lại, những “Tôi tớ Nước Trời” được ghi danh lưu truyền chẳng những ở trần gian mà trên thiên quốc. Vì việc họ làm là để sáng danh Chúa và mưu cầu lợi ích thiêng thiêng cho các linh hồn, chứ không nhắm vinh danh mình.
Chúng ta hãy mang lấy tâm tư của Chúa Giêsu, để sống giống như Chúa, và nếu cần, chết như Chúa. Tâm tư đó thể hiện qua lời dạy: “Ai muốn làm lớn, phải làm người phục vụ. Ai muốn đứng đầu thì phải làm đầy tớ”.
Một trong những trang sử của các thánh là cuộc đời của Charles E. Foucauld, biệt danh là người hùng sa mạc Sahara. Trước đây, Foucauld là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng.
Tuy nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, dần dần Foucauld cảm nhận sự rỗng tuếch trong tất cả những điều tưởng chừng rất vinh quang ấy. Thăm thẳm trong cõi lòng, người đàn ông vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời!
Đến một ngày, bức phá nhằm tìm kiếm cho mình một ý nghĩa tròn đầy, người sĩ quan lừng danh rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong tu viện ở làng Nagiaret. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật.
Rồi Chúa lại dẫn lối Foucauld. Một lần, ông đi tĩnh huấn trong sa mạc. Ông khám phá ra ý Chúa muốn ông ra đi đem Tin Mừng cho Phi Châu. Từ đó, Charles E. Foucauld gắn mình hết sức nhiệt thành, trung tín với lục địa đen nghèo khổ. Ông tìm thấy lẽ sống trong chính môi trường nghèo mà ông đang chọn dấn thân.
Xưa trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai. Nhưng giờ đây, trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn về với Chúa...
Đó là bài học cho bạn và tôi. Chỉ có con đường hy sinh phục vụ như Chúa Kitô mới là con đường phù hợp nhất với ơn gọi Kitô hữu.
Chỉ có một thái độ duy nhất, đó là noi gương Chúa Kitô để nếu sống thì sống cho anh chị em; nếu cần phải chết, thì chết cho con người mới là con đường đẹp, hoàn hảo và vinh quang. mục lục
Hình ảnh người công chính trong sách khôn ngoan nơi bài đọc 1 hôm nay dựa trên bài ca người TN 25-B186
Hình ảnh người công chính trong sách khôn ngoan nơi bài đọc 1 hôm nay dựa trên bài ca người đầy tớ số 4 (Is 52:13-53:12) và sách Isaiah 42:1 cũng như thánh vịnh 12:8. Dù sách Khôn Ngoan không được các thầy cả / rabbis ở Palestine công nhận là Kinh Thánh, nó cũng đã ảnh hưởng đến các tác giả của Tân Ước, đặc biệt hình ảnh Đức Giêsu là người công chính bị kết án bất công.
Cách thức kẻ dữ mai phục người công chính thật lạnh lùng và đầy mưu toan: “Hãy coi điều nó nói có thật không, hãy xét nghiệm xem những gì sẽ xẩy đến cho nó và chờ xem chung cuộc đời nó sẽ thế nào. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ giúp nó, giải thoát nó khỏi tay kẻ thù. Chúng ta hãy nhục mạ và làm cho nó khổ sở thử xem nó có hiền lành và nhẫn nhục không. Chúng ta hãy kêu án tử hình cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói thì người ta sẽ cứu nó!” (Kn 2:12,17-20)
TẠI SAO NGƯỜI CÔNG CHÍNH BỊ KẾT ÁN?
Người công chính bị tấn công vì đã dám phê phán cách sống của kẻ ác: “Nó trách chúng ta là phạm luật” (Kn 2:12). Người công chính được bảo vệ vì lòng trung thành, không chết vì đã chia sẻ cộng đoàn với Thiên Chúa. Đặc điểm của người công chính là dịu hiền và nhẫn nhục, dù bị kẻ xấu đem ra thử nghiệm, truy kích và giết chết. Chúng quyết định thử người công chính xem mức công chính đạt tới đâu (c.17-20). Cuối cùng, lời nói và việc làm của người công chính đã chứng minh lời tố cáo của kẻ xấu là sai lầm (Kn 2:12-16). Kẻ xấu đã giết chết người công chính bằng những mưu mô quỉ quyệt.
KHÔN NGOAN KITÔ GIÁO
Câu hỏi về khôn ngoan mở đầu thư thánh Giacôbê (Gc 3:13) đã nói lên ý nghĩa cuộc bàn luận: “Ai là kẻ khôn ngoan và hiểu biết, hay thế nào là đức khôn ngoan?” Thánh Giacôbê đã đưa ra những dấu hiệu của sự khôn ngoan (Gc 3:13-4:3), gồm khôn ngoan của Thiên Chúa, khôn ngoan của thế gian và của kẻ dữ (Gc 3:15). Thánh Giacôbê đã nêu rõ sự khác biệt giữa khôn ngoan thật và giả bằng cách so sánh người khôn ngoan thật là “kẻ thù của thế gian” và người khôn ngoan giả là “kẻ thù của Thiên Chúa” (Gc 4:4). Xem vậy đức khôn ngoan Kitô giáo mà Chúa ban làm cho “con người trở nên, trước là thanh khiết sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm mỏng, đầy lòng từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái ngọt, không thiên vị không giả hình nhân đức.” (Gc 3:17)
Đức khôn ngoan thực của Kitô Giáo thì có tính hướng ngoại, hiến tặng cho tất cả mọi người, trong khi khôn ngoan giả là tham lam, ghen tương, hận thù, cãi lộn, ích kỷ, có tính hướng nội, coi mình là nhất. Vậy chúng ta nên bắt chước khôn ngoan thật, không theo khôn ngoan giả là danh vọng tiền tài phù du của thế gian bằng những âm mưu bất chính và thất đức.
NHỮNG YẾU TỐ CỦA KHÔN NGOAN
Bài Tin Mừng Marcô hôm nay (Mc 9:30-37) tiên đoán về cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu lần thứ hai. Chúa báo tin này đã chẳng giúp các môn đệ hiểu biết hơn chút nào. Họ lại bàn tán xem ai sẽ là người quan trọng nhất trong đám họ. Giống như bài Tin Mừng tuần trước, các mộn đệ đã hiểu lầm về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và giáo huấn của Người về tình nghĩa và bổn phận của người môn đệ.
Giữa khung cảnh này Marcô đã nêu ra những yếu tố của khôn ngoan Kitô giáo. Bài Tin Mừng (Mc 9:30-37) đưa ra một loạt những lời Chúa nói về tình môn đệ qua ba hình ảnh:
Trước hết, sau khi thất bại, các môn đệ rút ra bài học “phải bền chí”. Ngay trước đó các môn đệ đã không thể chữa được một đứa trẻ bị quỉ ám (Mc 9:14-29) đã bị Chúa quở trách nặng lời: “Ôi! Thế hệ cứng lòng, Ta còn phải ở lại với các ngươi bao lâu nữa đây?” (Mc 9:19). Tuy nhiên sự yếu đuối đó đã không làm các ông mất nhuệ khí mà còn quyết tâm sửa để đổi chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trên vương quốc Thiên Chúa.
Thứ đến, các môn đệ nhận ra lời Chúa nói quá ghê sợ. Đây là lần thứ hai Chúa nói trước về số phận của Người ở Jerusalem, nhưng các môn đệ cũng không hiểu mà không dám hỏi Chúa (Mc 9:32) cho đến khi Chúa làm bộ hỏi các ông bàn bạc cái gì trên đường đi thì các ông luống cuống nói là “không có gì cả”. Các môn đệ có thể đã không hiểu lời Chúa nói nên đã bàn bạc ngoài đề. Các ông rất xấu hổ vì bị hạ nhục. Nhưng Chúa chưa tha các ông đâu….
Thứ ba là các môn đệ đã học được bài học bổn phận của người đầy tớ. Khi Marcô dùng tiếng “đầy tớ”, ông dùng từ Hy Lạp có nghĩa là deacon tức phó tế hay thừa tác viên. Từ này lúc đầu được dùng để chỉ người bồi bàn, hầu nước và rượu trong tiệc cưới ở Cana (Ga 2:5). Mátthêu dùng nó để chỉ đầy tớ của các vua chúa trong dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22:13). Thánh Phaolô tự ví mình như như là đầy tớ của Phúc Âm (Cl 1:23; Ep 3:7), đầy tớ của Giáo Hội (Cl 1:25), đầy tớ của tân giao ước trong Chúa Thánh Thần (2Cr 6:4). Gioan dùng nó để nói về những ai có liên hệ với Chúa Giêsu một cách tổng quát, và gọi các phó tế/thừa tác viên là đầy tớ của Chúa Giêsu (Ga 12:26).
AI LÀ NGƯỜI LỚN NHẤT?
Quan niệm về tiếng Lớn Nhất đã được Chúa Giêsu tái định nghĩa cho các Tông đồ hiểu. Quan niệm mới này cũng để xác định thành công hay thất bại, thắng hay thua, hoàn thành hay không hoàn thành bổn phận. Chúa Giêsu lấy một đứa trẻ làm thí dụ. Đứa trẻ này không phải là đứa ngây thơ, đáng tin cậy, hay đùa nghịch, nhưng là đứa trẻ chậm hiểu đang ở dưới quyền coi sóc của người lớn. Chúa Giêsu đưa ra một hệ thống liên hệ mới: “Ai đón nhận đứa trẻ này nhân danh Ta tức là đón nhận Ta. Ai đón nhận Ta là đón nhận Thiên Chúa, đấng đã sai Ta (Mc 9:37). Đây là tình hiệp thông giữa đứa trẻ, Chúa Giêsu và Thiên Chúa.
Đứa trẻ là biểu tượng của vô quyền lực và hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Marcô dạy chúng ta phải chào đón những kẻ yếu kém, nghèo khổ và mất hết tự do. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu làm nổi bật đặc tính của đứa trẻ. Chúa ôm đứa trẻ trong lòng cho thấy Chúa chẳng mong gì nơi đứa trẻ, nhưng luôn luôn che chở ấp ủ nó.
Môn đệ phải trở thành gương mẫu để cho mọi người noi theo. Thất bại của các môn đệ, không hiểu hoặc làm sai Lời Chúa vô tình hay cố ý đều là hình ảnh của họ nơi các thế hệ môn đệ tương lai, di sản của những thế hệ đi trước đáng nguyền rủa. Những thế hệ tương lai sống trong sa đọa, gương mù gương xấu là vì đã nhận những di sản xấu của những thế hệ đi trước. Chế độ độc tài tàn ác bất chính và những “tôi tớ Chúa” đã hùa theo nó, nịnh bợ để được an thân, có danh lợi, chắc chắn đã tạo ra những di sản xấu.
KHÔN NGOAN VÀ NHÂN ĐỨC
Một trong những bài học phổ quát và sâu xa nhất để đạt đức khôn ngoan là bài học do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đưa ra tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York ngày 05-10-1995. Lời ngài nói giờ này vẫn còn văng vẳng trong tâm trí chúng ta:
“Phải vượt thắng mọi sợ hãi về tương lai. Nhưng chúng ta sẽ không thể nào lướt thắng nó một cách trọn vẹn trừ khi chúng ta cùng nhau làm. ‘Giải quyết’ nỗi sợ hãi đó không phải là lừa đảo, dụ dỗ hay ép buộc, cũng không phải là áp đặt một xã hội ‘khuôn mẫu’ trên toàn thế giới. Giải quyết nỗi sợ hãi đó -đang làm đen tối loài người ở cuối thế kỷ XX này - phải là cố gắng chung cùng nhau xây dựng văn minh tình thương, trên nền tảng giá trị phổ quát của hòa bình, đoàn kết, công bằng và tự do. Và, ‘linh hồn’ của văn minh tình thương là văn hóa của tự do: tự do cá nhân và tự do quốc gia, sống trong tình liên đới đoàn kết tự hiến và trách nhiệm.
“Đừng sợ tương lai. Chúng ta đừng sợ con người. Không phải bất ngờ mà chúng ta hiện hữu. Mỗi người và tất cả mọi người đều được tạo dựng nên theo ‘hình ảnh và giống như’ Đấng là nguồn gốc của tất cả mọi sự đang có. Chúng ta có những khả năng về khôn ngoan và nhân đức. Với tặng phẩm này và với sự trợ giúp của ân sủng Thiên Chúa, chúng ta có thể xây dựng, ở thế kỷ tới và thiên niên kỷ sau, một nền văn minh tình thương xứng đáng của loài người, một văn hóa đích thực của tự do. Chúng ta có thể và phải làm được như vậy! Trong khi thực thi như vậy, chúng ta sẽ nhận ra rằng những giọt nước mắt của thế kỷ này đã sửa soạn đất cho một mùa xuân mới của tình nhân loại.”
Chúng ta hãy nguyện cầu xin Thiên Chúa ban cho mùa gặt có nhiều hạt giống công chính, khôn ngoan và nhân đức được gieo vào lòng con người. Không có những tặng phẩm đó, văn minh tình thương và văn hóa tự do mà tất cả chúng ta mong đợi sẽ không thể có được. mục lục
Đọc ba đoạn sau đây: Mc 8,31-38; 9,30-50; 10,32-45. Hãy cho biết ba đoạn này có gì giống nhau TN 25-B187
1. Đọc ba đoạn sau đây: Mc 8,31-38; 9,30-50; 10,32-45. Hãy cho biết ba đoạn này có gì giống nhau về hình thức (cấu trúc hay dàn bài).
2. Trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu ba lần loan báo cuộc khổ nạn và phục sinh cho ai? Vì sao Ngài loan báo cho họ như vậy?
3. Ai là người đã “nộp” Đức Giêsu? Đọc Mc 9,31; 14,18; 15,1; 15,15; Cv 2,23; Rm 8,32.
4. Tại sao các môn đệ không hiểu lời loan báo trên của Đức Giêsu? Đọc Mc 4,13; 7,18; 8,18.21.
5. Khi các môn đệ cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm, Đức Giêsu đã làm gì để dạy các ông? Đối với văn hóa của người Do Thái thời Đức Giêsu, các em nhỏ tượng trưng cho điều gì?
6. Đọc Mc 9,36-37. Đức Giêsu đã đón tiếp một em nhỏ như thế nào?
7. Đọc Mc 9,35. Đức Giêsu mời các môn đệ phục vụ “mọi người”, nhưng cụ thể là ai?
8. Đọc chậm Mc 9,33-37. Bạn học được gì về khoa sư phạm của Thầy Giêsu trong đoạn văn này?
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Tại sao ở đời người ta thích làm người lớn nhất, người đứng đầu, người lãnh đạo? Theo ý bạn, giá trị đích thật của một người nằm ở chỗ nào?
Nếu người đứng đầu phải phục vụ mọi người, thì bạn có thích làm người đứng đầu không?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Cả ba đoạn văn này đều có hình thức (cấu trúc hay dàn bài) như nhau: A. Đức Giêsu tiên báo 3 lần cho các môn đệ về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài (8,31-32a; 9,30-32; 10,32-34). Các lời tiên báo càng lúc càng rõ hơn. B. Thái độ của các môn đệ sau những lời tiên báo (8,32b-33; 9,33-37; 10,35-41). Họ thường tỏ ra không hiểu, không đón nhận hay không muốn đi vào con đường hẹp mà Thầy sắp đi. C. Lời giáo huấn của Đức Giêsu là lời mời các môn đệ đi vào con đường Thầy đi (8,34-38; 9,38-50; 10,42-45).
2. Trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu ba lần loan báo cuộc khổ nạn và phục sinh cho các môn đệ (8,27.31; 9,31; 10,32). Các môn đệ ở đây là Nhóm Mười Hai (9,35; 10,32.41). Ngài loan báo cho họ để chuẩn bị họ đón nhận những biến cố kinh hoàng sắp xảy đến cho Thầy mình.
3. Có nhiều người “nộp” Đức Giêsu. Người đầu tiên chúng ta thường nghĩ đến là Giuđa Ítcariốt (Mc 3,19; 14,10.18.21.42). Anh là một người trong Nhóm Mười Hai. Kế đến là các nhà lãnh đạo Do Thái giáo. Họ đã nộp Đức Giêsu cho quan Philatô, vì họ muốn nhờ tay Philatô mà đóng đinh Đức Giêsu (Mc 15,1.10). Cuối cùng là Philatô, kẻ đã nộp Ngài cho quân lính đóng đinh (Mc 15,15). Tuy nhiên, vì việc trao nộp này nằm trong kế hoạch cứu độ từ trước của Thiên Chúa (Cv 2,23), nên thánh Phaolô dám nói rằng Thiên Chúa đã trao nộp chính Con của mình vì chúng ta (Rm 8,32).
4. Các môn đệ không hiểu lời loan báo cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy Giêsu (Mc 9, 32). Họ không hiểu vì họ có một hình ảnh khác về Đấng Kitô/Mêsia. Đối với họ, Đấng Kitô/Mêsia phải là Đấng mạnh mẽ oai hùng, có khả năng giải phóng dân tộc Ítraen, chứ không phải là Đấng chịu thất bại, chịu đau khổ và chịu chết. Họ cũng không hiểu được chuyện Thầy báo sẽ sống lại sau ba ngày, vì đối với Do Thái giáo, người ta chỉ sống lại vào ngày tận thế. Trong Tin Mừng Máccô, các môn đệ vẫn thường không hiểu lời Thầy dạy (Mc 4,13; 7,18; 8,18.21).
5. Trên đường đi, các môn đệ tranh cãi xem ai là người lớn nhất. Khi về nhà, Đức Giêsu đã giảng dạy về sự phục vụ khiêm hạ. Ngài còn dùng một em nhỏ để minh họa cho bài học của Ngài. Trong văn hóa thời Đức Giêsu, một em nhỏ không tượng trưng cho sự ngây thơ, trong sáng, nhưng tượng trưng cho sự lệ thuộc: em không có chỗ đứng trong xã hội, không thể tự sống một mình, và phải tùy thuộc vào người lớn về mọi phương diện.
6. Đức Giêsu đã đem một em nhỏ, đặt em vào giữa các môn đệ, và ôm em ấy trong cánh tay (Mc 9,36). Cử chỉ này cho thấy Ngài quý em, dù trong văn hóa Do Thái thời đó, trẻ em không được người ta coi trọng. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố em có giá trị cao quý, vì đón tiếp bất cứ em nhỏ nào như em này, nhân danh Thầy, là đón tiếp chính Đức Giêsu. Mà đón tiếp Đức Giêsu là đón tiếp chính Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài (Mc 9,37). Như thế cũng có thể nói, không đón tiếp một em nhỏ là không đón tiếp Đức Giêsu và Chúa Cha. Một em nhỏ bị coi thường trong xã hội lúc bấy giờ, lại được Đức Giêsu coi như hình ảnh cụ thể của Thiên Chúa đang cần sự đón tiếp. Đức Giêsu không chỉ ở nơi người đói khát, trần trụi, yếu đau (Mt 25) mà còn ở nơi một em nhỏ yếu đuối, không được quý trọng, không có vị thế trong xã hội.
7. Khi các môn đệ tranh nhau làm người đứng đầu, Đức Giêsu mời gọi họ làm người đứng cuối mọi người, và làm người phục vụ mọi người (Mc 9,35). Mọi người ở đây chẳng trừ ai, nhưng đặc biệt là những người yếu thế, như phụ nữ, trẻ em, người nhập cư, bệnh nhân, người nghèo, người bị đẩy ra ngoài lề xã hội…Trong cộng đoàn luôn có những người bị bỏ rơi vì yếu kém mặt này mặt khác. Đức Giêsu đòi các môn đệ quan tâm đến những người không được ai quan tâm.
8. Sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ hai, trên đường về Caphácnaum, các môn đệ đã cãi nhau xem ai là người lớn nhất (Mc 9,34). Điều này cho thấy tim họ không đập cùng một nhịp với Thầy của mình trong những ngày cuối đời. Họ vẫn sống trong mộng tưởng về chức quyền và chỗ đứng trong nhóm. Dù biết họ cãi nhau, nhưng Đức Giêsu đã không mắng họ ngoài đường. Chỉ khi về đến nhà, Ngài mới tế nhị giả vờ hỏi xem họ bàn chuyện gì trên đường đi. Dù sao Đức Giêsu đã không ép các ông phải trả lời câu hỏi này, Ngài chấp nhận họ làm thinh (Mc 9,33-34). Sau đó Ngài mới ngồi xuống, gọi họ lại và dạy các ông một bài học rất sống động. Qua những phản ứng trên, ta thấy Đức Giêsu là một nhà sư phạm khôn ngoan, tự chủ, biết cách truyền đạt sống động một bài học.
Chúa Giêsu đã đến trần gian, nhập thể, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, nhưng TN 25-B188
Chúa Giêsu đã đến trần gian, nhập thể, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, nhưng Ngài không giống ai cả. Ngài làm nổ tung tất cả những suy nghĩ, những lý thuyết của chúng ta.
Hôm nay, chúng ta nghe Ngài dạy các tông đồ một bài học lạ lùng. Đang lúc danh tiếng Ngài lừng lẫy, dân chúng nô nức theo Ngài để nghe Ngài giảng và cũng vì thấy dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài lại thông báo: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người”. Đó là một tin buồn. Thánh Maccô ghi lại: “Các môn đệ không hiểu lời đó và các ông không dám hỏi Người”
Họ không thể hiểu và cũng không dám hỏi gì cả. Tại sao?
Thực ra họ hiểu nhưng theo chiều hướng của họ. Đây là lần thứ hai Ngài loan báo cái chết của Ngài. Thế nhưng họ vẫn không dám hiểu. Nếu ai báo cho chúng ta một tin như thế, chúng ta hiểu thế nào? Chắc hẵn chúng ta sẽ hoài nghi và sợ. Các môn đệ cũng thế thôi, họ hiểu nhưng nghĩ rằng chuyện đó không thể xảy ra. Lần trước, khi Chúa loan báo như thế, Phêrô đã phản ứng mãnh liệt, lần nầy thì sợ không dám hỏi Thầy. Có lẽ họ nghĩ rằng không đến nỗi thê lương đến như vậy. Hơn nữa, họ đang nuôi hy vọng là sẽ có ngày làm lớn, được vinh dự với Thầy. Những ước mơ đẹp đã lấn át những lo âu của hôm nay.
Về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi: “Dọc đường anh em đã bàn tán điều gì?” Các ông không dám trả lời vì họ đang cãi nhau xem ai sẽ là người lớn nhất.
Chúng ta nhận thấy rằng, tâm hồn họ đang hướng về một hướng khác. Họ đang mơ mộng và không mấy chú ý đến lời Thầy loan báo tai nạn đang gần kề.
Về đến nhà. Đây là lúc thuận tiện để cho họ một bài học để đời. Ngài ngồi xuống như một vị tôn sư giữa một đám môn đệ ngơ ngác. Và từng tiếng Ngài dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”.
Một câu nói đơn giản đã quét sạch tất cả những mơ mộng “làm lớn”của các ông. Họ nghĩ gì khi nghe Thầy nói như thế? Chắc các ông đã cúi mặt xấu hổ. Và chúng ta nghĩ gì khi nghe Chúa nói như thế?
Ai trong chúng ta đều ước mong làm vua thiên hạ, muốn “nổ” và chúng ta đã làm hết khả năng để có “một chỗ đứng trong mặt trời”. Chúng ta nhìn quanh xem người ta đang làm gì? Người ta đang tranh nhau, chà đạp lẫn nhau vì một mối lợi, vì đồng tiền, vì danh giá. Người mạnh đè bẹp người yếu…
Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ và chúng ta một bài học đáng giá: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”. Những lời nói làm đảo lộn tất cả đường lối của con người. Chúng ta có thể chấp nhận không? Đây có phải là ngu ngốc không? Có mấy người trong chúng ta dám làm người rốt hết, làm đầy tớ cho mọi người?
Chúa Giêsu không đòi buộc gì cả. Ngài chỉ đưa ra một đường lối.
Nhìn vào Chúa đi, chúng ta thấy gì? Chúng ta nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa, là Đấng nắm chủ quyền trên trời dưới đất, nhưng Ngài đã làm người, “mặc lấy thân nô lệ… Ngài đến không phải để được phục vụ mà để phục vụ và… ban mạng sống làm giá chuộc cho muôn người.
Đó là khuôn mặt của Thiên Chúa và Thiên Chúa Tình Yêu. Cuộc đời của Ngài là cuộc đời cho không, phục vụ và yêu thương đến tận cùng. Ngài là Tình Yêu tuyệt đối. Trước khi lên thập giá để biểu lộ tình yêu của Ngài, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ và căn dặn: “Anh em hãy rửa chân cho nhau”.
Và cuối cùng Ngài đã chấp nhận chết cho con người, “ban mạng sống làm giá chuộc cho muôn người”. Hành động chứng minh cho lời Ngài nói. Cha Huvelin đã nói: “Chúa Giêsu đã chọn chỗ rốt hết đến nỗi không ai dành được chỗ đó của Ngài”.
Hãy nhìn vào khuôn mặt của Chúa để thấy rõ khuôn mặt của chúng ta, để thấy sự khác biệt.
Sự tranh đua, giành giựt trở thành luật của con người. Ngay cả trong gia đình, anh em ganh ghét nhau, hãm hại nhau… Bệnh ganh tị trở thành một thứ dịch bệnh tràn lan khắp nơi, kể cả trong những tu viện. Thế giới hôm nay trở thành một bức tranh thê thảm chỉ vì người ta không biết bài học của Chúa chúng ta.
Chúng ta dám trở thành những khuôn mặt của Chúa trong trần gian không? Những con người xả thân vô điều kiện? Làm người rốt hết và phục vụ vô điều kiện là vũ khí Chúa dùng để chinh phục các linh hồn. Chúng ta hãy trở thành những chiến sĩ của khiêm tốn và phục vụ.
Chúa lại nói đến việc tiếp đón trẻ nhỏ. Ở đây chúng ta có thể hiểu rằng, trẻ nhỏ là những kẻ không có tiếng nói, không vũ khí, những người chỉ có sự yếu kém làm hành trang. Tiếp đón một em bé là tiếp đón Thầy. Chúng ta có hiểu được tầm quan trọng của sự tiếp đón đó không? Ngài đang khốn khổ trong những người khốn khổ, Ngài làm như đang cần đến chúng ta: “Làm một điều gì cho một người anh em bé nhỏ của Thầy là làm cho chính Thầy”.
Thiên Chúa đến với chúng ta hôm nay, không phải trong sấm sét hay lửa hỏa hào như trên đỉnh núi Xinai thuở nào, mà trong khuôn mặt của người anh em thống khổ, bị chà đạp, bị bóc lột tận xương tủy, nằm trên giường bệnh mà không ai biết đến… Sự thống khổ hôm nay dâng trào như một làn sóng thần, phủ lấp mọi nơi trên thế giới. Chúng ta, những người tin Chúa, Thiên Chúa Tình Yêu, chúng ta đã, đang và sẽ làm gì? Chúng ta là tập thể, tại sao chúng ta không cùng nhau dấn thân phục vụ như Chúa? Phục vụ không chỉ bằng tiền bạc, bằng công khó mà thôi mà phải bằng con tim, bằng cầu nguyện, bằng cố gắng hằng ngày để sống yêu thương thực sự. Một hành động yêu thương là một viên gạch xây dựng Nước Trời.
Chúa Giêsu tiếp tay với chúng ta. Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài vẫn ở với chúng ta trong phép Thánh thể, nuôi dưỡng chúng ta, phục vụ chúng ta dưới hình thức khiêm tốn nhất. Ăn lấy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm tốn mỗi ngày, sao chúng ta không thành Chúa? Bữa tiệc tình yêu của Ngài không mang lại lợi ích gì cho chúng ta sao? Ăn lấy Tấm bánh Tình yêu nầy, chúng ta phải trở nên tình yêu sống động, nhiệt thành, không mệt mỏi mới có thể đáp lại tình yêu vô biên của Ngài. “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, độc giả có lúc cười lúc khóc, có khi cảm nhận được sự xoa dịu ủi TN 25-B189
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, độc giả có lúc cười lúc khóc, có khi cảm nhận được sự xoa dịu ủi an hay thôi thúc tỉnh thức, có lúc cảm thấy bị chói tai, bị cay cú…Tin Mừng luôn nói lên những chân lý và dạy những bài học thích đáng.
Suy niệm trang Tin Mừng (Mc 9,42-48), Lm. Nguyễn Hồng Giáo dùng cụm từ “Tin Mừng dữ dội”.
Đầu đề “Tin Mừng dữ dội” chắc sẽ làm cho nhiều người ngạc nhiên thắc mắc. Tin Mừng của Chúa Giêsu mà dữ dội sao? Chẳng phải là Tin Mừng toát ra một bầu khí yêu thương, hiền hoà, bao dung, yêu chuộng hoà bình và bất bạo động bao trùm đó sao? Tôi đồng ý như thế, tôi vẫn biết là có vố số những người đã tìm thấy trong lời dạy về tình thương và thái độ bất bạo động nguyên lý cho sự dấn thân xã hội, chính trị của họ, ví dụ như ba khuôn mặt còn khá quen thuộc với nhiều người trong chúng ta là Mẹ Têrêxa Calcutta, mục sư Tin Lành Martin Luther King và nhà anh hùng Ấn Độ Mahatma Gandhi. Dầu vậy, tôi cứ vẫn thấy Tin Mừng của Chúa là dữ dội, ngay cả hay đúng hơn nhất là Bài giảng trên núi (Mt các chương 5, 6, 7) mà Gandhi lấy làm một nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh hoà bình của mình chống lại thực dân Anh, dành độc lập cho đất nước. Tin Mừng dữ dội với các đòi hỏi gắt gao: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà vào cõi sống còn hơn là có đủ hai hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18, 8-9; x. Mt 5, 19-20). Cần hy sinh những gì đưa chúng ta tới tội trọng và phải biết dám liều mình, hy sinh đến cả mạng sống mình để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. (x.nguoitinhuu.com)
Lời Chúa hôm nay cho thấy tính chất “dữ dội” của Tin Mừng. Phải tránh gương mù gương xấu “Nếu ai làm cớ cho người khác phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn”. Phải quyết liệt và dứt khoát với dịp tội “chặt tay, chặt chân, móc mắt” khi những chi thể này là nguyên nhân phạm tội. ĐGM Arthur Tonne gọi đó là những lời đẫm máu và rùng rợn. Noel Quesson nói: dù là những kiểu nói vùng Sêmít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó. M. Quesnel tự hỏi: Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu (Mc 7,21-22). Chúa Giêsu bảo là hãy dứt khoát “chặt đi” bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của điều mà Phúc Âm gọi là “từ bỏ chính mình” (x. Mc 8,34). Tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hai tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe (Fiches Dominicales). Tay mắt và chân tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. “Chặt bỏ” một tật xấu một thói quen, “cắt đứt” một mối liên hệ nguy hiểm. Tính dữ dội biểu lộ nơi thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt với tội lỗi.
Cũng như người bệnh, phải phẫu thuật, phải cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo chúng ta phải quyết liệt với tội lỗi cho dù phải “chặt tay, chặt chân, móc mắt”. Chúa muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, đó là tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người. Biết bao nhiêu người đã chịu thiệt thòi, thậm chí dám chấp nhận cái chết vì trung thành với tất cả các đòi hỏi “dữ dội” của Tin Mừng.
Đời sống Kitô hữu cần được cắt xén, gột rửa, từ bỏ để tăng trưởng, sinh nhiều hoa trái “Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa chặt bỏ, còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn” (Ga 15,1-2).
Có những lời dạy của Tin Mừng, mới nghe qua thì rất “nhẹ nhàng”, nhưng gẫm sâu hơn lại thấy vô cùng dữ dội, ví dụ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24); “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: ‘Chớ giết người’; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 21-22); “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: ‘Chớ ngoại tình’. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 27-28); “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Đức Giêsu đáp: ‘Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy'” (Mt 18, 21-22); “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: ‘Mắt đền mắt răng đền răng’. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài…” (Mt 5, 38-40). Hoặc: “Anh em đã nghe Luật dạy: ‘Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù’. Con Thầy. Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em...” (Mt 5, 43-44).
Tin Mừng dữ dội là do sự đòi hỏi vô cùng của sự hoàn thiện và tình thương của Cha trên trời mà các môn đệ Chúa Giêsu, vốn là những con người yếu đuối và tội lỗi, phải noi theo (x. Mt 5, 48 và Lc 6, 36). Giáo lý Tin Mừng không hề kêu gọi bạo lực nhưng nó đòi hỏi người tín hữu phải quyết liệt với mình, làm mạnh với mình, dám dùng “bạo lực” với mình, nếu nói được như thế, bởi lẽ nó bắt ta đi ngược với xu hướng tội lỗi vốn ăn sâu trong ta, đi ngược với sự khôn ngoan thế gian nữa. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Trước những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, người ta sẵn sàng chấp nhận cắt bỏ một phần chi thể để cứu cả mạng sống. Khi nói “thà cụt một tay, thà mất một mắt” mà được vào cõi sống, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh tính quyết liệt, không khoan nhượng trong cuộc chiến chống lại tội lỗi, sự ác. Quả vậy, hoả ngục, điểm đến của tội lỗi, là tình trạng còn tồi tệ hơn cả cái chết. Vì thế, để được vào cõi sống muôn đời, Chúa dạy chúng ta không chỉ tránh tội, những điều tự bản chất là xấu, mà ngay cả những gì thiết thân nhất với mình, những gì tự chúng vốn không xấu, nhưng một khi chúng trở thành dịp tội, chúng ta cũng phải dứt khoát loại bỏ. Gương xấu và làm dịp tội cho người khác gây tai hại và nguy hiểm vô cùng. Các nhà tu đức đã đúc kết thành câu châm ngôn: “Càng tránh dịp tội càng ít phạm tội”.
Có câu chuyện ngụ ngôn “Đại hội cái búa” kể về nỗi lo sợ của các loại cây trong rừng, từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều sợ Cái Búa của người đốn cây. Hễ búa đi đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến đó.
Một hôm cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó với Cái Búa. Để chứng tỏ rằng việc làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa cũng được mời tham dự Đại hội này.
Sau một lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết luận: Cương quyết không cho Búa bất kỳ một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà không có cán thì làm được việc gì bây giờ. Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều hoan hỉ về quyết định này. Dù một khúc gỗ cũng không cho!
Bấy giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài nỉ đáng thương: Xin quý vị niệm tình, thân tôi mà không có cán như người tật nguyền không tay chân, xin hãy cho tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa vào những việc tốt, tôi chỉ chặt những gai góc làm vướng chân quý vị mà thôi!
Trước lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại hội liền có sự chia rẽ vì khác quan điểm. Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết lại. Kết quả là đa số bằng lòng cấp cho Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng hỡi ôi! Khi Búa đã có cán rồi, nó bèn lần lượt đốn hết những cây trong rừng, từ cây non cho đến cây cổ thụ.
Bạn chỉ cần cho tội ác một cơ hội thôi là bạn sẽ hối tiếc cả cuộc đời! Tội lỗi huỷ hoại đời người như sự hung hãn của núi lửa. Tội lỗi tàn phá cơ thể như bệnh ung thư. Tội lỗi gây hậu quả lâu dài như những đổ vỡ trong Gia đình, hầu như không bao giờ hàn gắn được!
Bạn đừng cho tội ác một cơ hội nào hoành hành, dù chỉ là một một sự dễ dàng cỏn con. Hãy chống trả, hãy cự tuyệt và tránh xa nó! “Đừng để ma quỷ lợi dụng!” (Ep 4, 27).
Cái xấu có khả năng lây lan rất nhanh. Tiếp cận với lời “dữ dội” của Tin Mừng sẽ giúp bạn tránh xa dịp tội và gương xấu. Nhờ đó, bạn sẽ làm chủ những đam mê như vui, buồn, sợ, giận, yêu, ghét, ham muốn trong mọi mối tương quan. Cái đẹp, cái tốt, cái chân thật thường loan truyền theo chiều rộng và chiều xa. Sống Tin Mừng giúp bạn đem đến cho cuộc đời những nét đẹp, cuộc sống thêm ý nhị đậm đà và nhiều niềm vui hạnh phúc hơn.
Đức Thánh Cha Phanxicô khi suy niệm về việc Đavít phạm tội đã nói: “Điều nghiêm trọng nhất là… Đavít đã mất cảm thức tội lỗi” mà chỉ coi đó là “một sự cố phải giải quyết” (Bài giảng 31/01/2014). Con người ngày nay đang đánh mất cảm thức tội lỗi: người ta không gọi tội lỗi là tội lỗi, mà khoác cho chúng những mỹ từ, thậm chí coi đó là những việc chính đáng, được phép làm (như hợp pháp hoá mại dâm, phá thai…). Để tân phúc âm hoá đời sống xã hội, người Kitô hữu phải có cảm thức nhạy bén trước tội lỗi và loại trừ chúng ngay khi chúng mới xuất hiện dưới dạng một cơn cám dỗ hay một dịp tội.
Chúng ta hãy noi gương thánh Đaminh Saviô trung thành suốt đời với quyết tâm khi rước lễ lần đầu: “Thà chết chứ không phạm tội”.
Xã hội Việt Nam chúng ta rất chuộng chức quyền, nhiều người ước muốn làm quan, làm lớn TN 25-B190
Xã hội Việt Nam chúng ta rất chuộng chức quyền, nhiều người ước muốn làm quan, làm lớn để có địa vị, có lợi lộc để được vinh thân phì gia, nhưng rất ít người mong có chức quyền để phục vụ dân chúng.
Hôm nay Chúa Giêsu dạy các môn đệ và cũng là dạy mỗi người chúng ta: "Ai muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".
Người làm lớn nhất phải tự làm người rốt hết và làm đầy tớ cho những người dưới quyền mình. Người đầy tớ là người phục vụ, người đầy tớ trong nhà là người phải hầu hạ phục vụ ông bà chủ và mọi người trong nhà, ngày nay chúng ta có danh từ mới là làm ô-shin nhưng có điều khác ở Lời Chúa dạy là tình nguyện làm người đầy tớ. Mình ở địa vị cao nhưng lại tự nguyện làm người tôi tớ tức là dùng chức quyền của mình như là phương tiện để phục vụ.
Chúng ta nhìn vào gương Chúa Giêsu: Chúa nói với các môn đệ: "Vậy nếu Thầy là Thầy, là Chúa mà còn Rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải Rửa chân cho nhau (Ga 13,14)" Chúa sống giữa các môn đệ với tinh thần của người tôi tớ vì thế Chúa quả quyết :"Con người đến không phải để cho người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người"(Mt 20, 28).
Thánh Phêrô tiếp nhận được bài học Chúa dậy nên Ngài khuyên các mục tử chăn dắt đoàn chiên Chúa: "Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa giao phó cho anh em nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên (1 Pr 5,3) - Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban (1Pr 4,10-11).
Tinh thần của người làm lớn như Chúa dạy rất cần thiết cho thế giới ngày nay. Đức Giáo hoàng là chức vị lớn nhất trong Giáo hội Công giáo, nhưng các ngài tự nhận là: "Đầy tớ của các đầy tớ Thiên Chúa".
Ông Tôn Thúc Ngao nói: "địa vị càng cao thì càng phải khiêm tốn. Lợi lộc càng nhiều thì càng phải biết chia sẻ".
Chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa một em bé ra làm gương mẫu cho các môn đệ. Chúa nêu lên sự khiêm tốn của trẻ em và cũng dạy mọi người phải biết đón nhận trẻ nhỏ. Trong gia đình chúng ta thấy nhiều khi cha mẹ sẵn sàng đóng vai đầy tớ để chăm sóc lo lắng cho con cái nhất là các em bé. Như vậy có thể tóm kết bài học Chúa dậy cho những người làm lớn là phải có tinh thần yêu thương, khiêm tốn và phục vụ.
Có thời gian bên phần đời cũng đưa Lời Chúa dậy vào việc hành chánh như nói: "Công chức là đầy tớ của dân" nhưng thực tế người dân lại đưa ra nhận xét ngược lại : Hành Chánh tức là Hành là chính. Ước chi lời nói phải đi đôi với việc làm cả bên đạo lẫn bên phần đời.
Câu chuyện: Có một vị tu sĩ già đã suốt đời tu trì, làm các việc đạo đức và giữ kỉ luật trong tu viện. Ông thường cầu xin Chúa hiện ra để củng cố đức tin của mình nhưng chẳng được, chờ lâu quá ông hoàn toàn thất vọng thì một ngày kia Chúa hiện ra với ông và ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Nhưng giữa lúc ông đang tâm sự với Chúa thì một hồi chuông vang lên báo tới giờ phát gạo cho người nghèo và hôm nay là phiên của ông. Ông tự nhủ những người nghèo sẽ đói nếu tôi không đi phát gạo cho họ, nên ông xin lỗi Chúa để đi phát gạo. Sau hơn một giờ làm xong công tác, ông trở về mở cửa phòng thì thấy Chúa vẫn chờ ông. Ông quì gối cảm tạ Chúa và Chúa nói: "Giả như con không đi phát gạo thì Ta chẳng ở đây chờ con đâu!" Qua đó ông hiểu phục vụ anh em là phục vụ chính Chúa.
Nhưng trước khi Chúa Giêsu dạy về bài học tinh thần người làm lớn cần phải có thì Chúa đã loan báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn và Phục sinh của Chúa. Trong lời loan báo lần thứ nhất Chúa cho biết :"Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ". Như vậy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu phải thực hiện là đi qua con đường đau khổ của Thập giá, nhưng liền sau đó cả hai lần Chúa đều loan báo: sau khi bị giết chết ngày thứ Ba Người sẽ sống lại. Cho nên Khổ nạn và Phục sinh là hai mặt của một thực tại: có khổ nạn thì mới có Phục sinh và phục sinh làm cho cuộc khổ nạn của Chúa trở nên tròn đầy ý nghĩa và mới có sức đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. Chúa loan báo lần thứ nhất thì ông Phêrô can ngăn Chúa đừng chịu như vậy nên Chúa đã qưở trách ông. Lần này các ông làm thinh và tỏ ra chậm hiểu, sợ không dám hỏi Chúa. Hơn thế nữa các ông còn bỏ ngay ngoài tai lời loan báo này để sôi nổi tranh cãi với nhau về đặc quyền đặc lợi: ai là người lớn nhất trong các ông. Chắc chắn Chúa Giêsu cảm nghiệm được nỗi cô đơn khi các môn đệ không hiểu, không thương cảm Chúa qua lời loan báo này để khi đến giờ khổ nạn, các ông sẽ bỏ rơi Chúa.
Chúng ta được sống trong thời kì sau lễ Hiện Xuống, chúng ta xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí chúng ta để chúng ta đón nhận Lời Chúa Giêsu dạy và đem ra thực hành: Chúa cho ta có được chức vị gì, ta hãy dùng như phương tiện để phục vụ anh em tốt hơn, Chúa gởi đến đau khổ Thập giá, ta hãy xin vui lòng vác theo chân Chúa đến cùng. Amen.
Sống trong một xã hội, chúng ta không thể tránh khỏi những ảnh hưởng, chi phối tốt đẹp cũng TN 25-B191
Sống trong một xã hội, chúng ta không thể tránh khỏi những ảnh hưởng, chi phối tốt đẹp cũng như xấu xa của nó. Đã là con người, ai cũng muốn khẳng định giá trị của bản thân. Tuy nhiên, chúng ta thường rời xa giá trị thật sự của mình. Vì giá trị con người không bao giờ hệ tại bởi những gì chúng ta sở hữu hay nắm giữ, cho bằng chính sự hiện hữu của bản thân.
Do đó, cách nhìn về vai trò lãnh đạo hay làm lớn của chúng ta dường như bị lệch lạc. Là người lãnh đạo, người dẫn đầu, người làm lớn mà chỉ dựa trên quyền hành, quyền bính, cậy có quyền, có tiền…điều khiển, sai khiến, ‘làm chủ’ người khác. Ngoài thế giới rộng lớn kia, và trong xã hội đa dạng này, lối nhìn, cũng như thực trạng trên đã-đang diễn ra cách rõ ràng hơn. Tuy nhiên, dưới nhãn quan của Đức Giê-su, vai trò lãnh đạo và người muốn làm lớn lại khác hẳn, lắm khi trái ngược, “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35). Lời dạy của Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai đang nắm giữ vai trò lãnh đạo, đang muốn làm đầu; nhất là đòi hỏi chúng ta - môn đệ của Ngài.
Nhớ lại thời gian đào tạo trong chủng viện Chúa Chiên Lành, tôi được tiếp xúc và sinh hoạt chung với Đức Hồng y Lu-is An-tô-ni-ô G. Tag-lê 5-6 năm (khi ấy ngài là Giám mục và Giám đốc chủng viện). Tuy bận rộn với sứ vụ Giám mục, giảng dạy tại các học viện-chủng viện, tham dự nhiều hội nghị, cuộc họp trong và ngoài nước, nhưng Ngài luôn luôn trở về chủng viện cho dù tối khuya. Có một lần, tôi còn nhớ rõ như hôm qua. Khi cả chủng viện vừa mới ăn tối xong, thì ngài liền về tới. Lúc ấy, tổ chúng tôi đang hì hục từng công đoạn rửa bát (tráng dĩa, bát, xoong nồi, muỗng nĩa bằng nước nóng - rửa bằng bột rửa chén - rửa với nước lạnh - rửa với nước nóng - lau khô trước khi xếp vào tủ), thì ngài len vào muốn phụ chúng tôi. Dĩ nhiên, ai trong chúng tôi đều không đồng ý và nói: “Đức Cha nhiều việc rồi, với lại mới về, nên xin Đức Cha lên phòng nghỉ ngơi…” Mặc dù nghe vậy, nhưng ngài vẫn nán lại rửa bát, thử chờ đến giây phút mà chúng tôi có thể đổi ý. Tuy nhiên, ai ai cũng năn nỉ ngài về phòng nghỉ ngơi vì cũng khuya rồi, nên ngài đành rửa tay và đi ra ngoài nhà bếp. Tưởng chừng, ngài lên phòng; nhưng ngài vẫn muốn nán lại chỗ lau bát chén và cùng trò chuyện nói cười vui vẻ với tổ lau-cất. Một hình ảnh và nhân chứng sống cụ thể khó tìm thấy nơi môi trường đào tạo; nhưng thiết nghĩ là mẫu gương thiết thực trong vai trò lãnh đạo với tinh thần mà Đức Giê-su răn dạy các Tông đồ và chúng ta là những người đã-đang-sẽ bước theo Chúa.
Theo nhãn quan của Thầy Giê-su, trước hết, lãnh đạo là phục vụ khiêm hạ. Tin Mừng hôm nay thuật lại biến cố trên đường đi tới Ca-pha-na-um, các môn đệ tranh luận “ai là người lớn nhất?” (x. Mc 9, 34), cho dù sau khi được nghe Đức Giê-su tiên báo về thân phận của Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31). Các ông chẳng hiểu và cũng không nghĩ Đức Giê-su sẽ phải chịu như vậy, cho nên vẫn cứ tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất! Mặc khác, trên bước đường bôn ba theo Thầy Giê-su đây đó, chắc hẳn họ cũng được nghe nhiều điều mà Ngài giảng dạy liên quan đến vai trò lãnh đạo này: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23, 11; Lc 22, 26). Hơn hết, các ông tận mắt chứng kiến Thầy mình trong Bữa tiệc ly trước khi tử nạn, đã cúi xuống rửa chân cho các ông, rồi lau khô. Gương phục vụ khiêm hạ ấy lên tới đỉnh điểm trên cây thập giá nơi Ngài chịu đóng đinh. Đây chẳng phải là câu chuyện hư cấu hòng thu hút sự chú ý độc giả như tin giật gân chạy những tít lớn trên báo chí giấy cũng như báo mạng hoặc những phương tiện truyền thông! Đây không phải là truyền thuyết, hay chuyện tranh Nhật Bản (manga), hoặc chuyện cổ tích Giáo hội dựng nên! Mà chính là Con Thiên Chúa đã mặc lấy xàm phàm, ở giữa chúng ta, sống tận cùng với lời Ngài giảng dạy. Có lẽ chính vì thế, trải qua bao đời triều đại Giáo hoàng, đặc biệt Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II lúc còn sống, ngài đã dùng tước hiệu “Tôi tớ của các tôi tớ Chúa” (Servus Servorum Dei), hầu trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Ki-tô chí thánh một cách trọn vẹn nhất có thể. Còn chúng ta, những người đang bước theo Chúa, hay muốn trở thành môn đệ đích thật của Thầy Giê-su thì con đường phục vụ khiêm hạ là nẻo chính hằng mong.
Thứ đến, lãnh đạo là phục vụ yêu thương. Nhờ nhân đức khiêm nhường, chúng ta mới có thể yêu thương hết tình. Quả thật, khi kiêu căng, ngạo mạn phình to trong cái bản ngã to tướng của mình, thì chúng ta không thể nào phục vụ với vai trò lãnh đạo được. Vả lại, khi không có lòng mến, thì như Thánh Gia-cô-bê chỉ ra “ở đó hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”; dĩ nhiên sinh ra thói ganh tị, cãi vã, tranh chấp (x. Gc 3, 16). Như thế, chẳng thể nào ‘cúi xuống rửa chân” phục vụ như Đức Giê-su mời gọi cũng như đòi hỏi được. Tình mến khiến chúng ta cảm thông, đặt mình vào vị trí người khác, tha thứ và bao dung đúng mực; nhờ đó, chúng ta mới dám hy sinh, bước ra khỏi ‘chốn loang phòng chăn ấm nệm êm’ của bản thân mà đến với tha nhân, chẳng phải đòi người khác phục vụ, cung phụng, mà chỉ mong chia san, phục vụ anh chị em như Thầy Giê-su “…và Ngài yêu thương họ đến cùng”(Ga 13, 1), “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (x. Pl 2, 8).
Sau cùng, vai trò lãnh đạo không những phục vụ trong khiêm hạ và yêu thương hết tình, mà còn biết đón nhận mọi người, đặc biệt ‘những ai bé mọn’ như Đức Giê-su “đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy…” (x. Mc 9, 36-37). Nhưng sao lại là ‘một trẻ thơ’? Như chúng ta biết, đàn bà và con trẻ không được tôn trọng, thường bị gạt bỏ trong xã hội Do Thái thời đó. Vì thế, Đức Giê-su đưa một đứa trẻ ra, hầu dạy các môn đệ và chúng ta biết đón nhận những người bị bỏ rơi, những ai là nạn nhân của sự ganh ghét, nội chiến sắc tộc, những người ‘thấp cổ bé miệng”, không có tiếng nói, v.v…như thể Ngài ‘lội ngược dòng’ với ‘văn hoá bỏ rơi, xã hội lãng quên’ đang chảy xiết trong cơn xoáy của chính nó. Đón nhận mọi người, nhất là những người bé mọn cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, không chỉ ở lời nói thôi, mà còn hành động ‘ôm lấy họ, ôm trọn con người hiện hữu của họ’, chẳng một lời than van, trách móc hoặc đổ lỗi hay ‘mãi tìm nguyên nhân, đánh mất, lãng quên và rồi đưa họ vào một thời dĩ vãng’. Nói đến đây, chúng ta không thể không nhớ đến mẫu gương tận tâm của Thánh Tê-rê-sa miền Cal-cút-ta. Khi còn sống, Mẹ đã từng gặp gỡ trực tiếp, ôm trọn hết tất cả những nỗi đau khổ, khốn khó của kiếp phàm trần nơi anh chị em cô thế cô thân, đang hấp hối. Mẹ đã đón nhận và chứng kiến từng người ra đi với phẩm giá cao quý của họ, cho dù phẩm giá của họ bị chà đạp, bị cướp mất lúc họ còn sống đi nữa. Về phương diện này, không thiếu tấm gương soi chiếu, nhưng điều chúng ta cần ngay bây giờ là đứng dậy, tiến bước và thực hiện.
Lạy Chúa, giữa dòng xoáy đời trôi Bao thăng trầm giăng lối Ngài ơi! Nguyện lòng con luôn mãi rạng ngời Khiêm nhu phục vụ người anh em Hằng đón nhận êm đềm, vui sướng Hay khổ đau tan thương mỗi ngày Ôm trọn người anh em quý thay. Amen!
Một vị vua tuổi tác muốn nhường ngôi cho một người xứng đáng. Tiêu chí đầu tiên là sự trung thực TN 25-B192
Một vị vua tuổi tác muốn nhường ngôi cho một người xứng đáng. Tiêu chí đầu tiên là sự trung thực. Để trắc nghiệm tính thật thà, vua cho gọi một số thanh niên, trao cho mỗi người một dúm hạt giống, dặn họ về gieo chăm sóc trong vòng 3 tháng. Chậu của ai nhiều hoa đẹp, thì sẽ được thừa kế ngai vàng.
Tới hẹn, mỗi người mang chậu hoa của mình, màu sắc rực rỡ. Lại có một thanh niên, cầm tới một chiếc chậu không hoa.
Vua thẩm vấn: “Tại sao con chỉ đem tới một cái chậu không?”
Buồn rầu, cậu thưa: “Con chăm sóc những hạt giống đúng theo chỉ dẫn, không hiểu tại sao chúng không nảy mầm?”
Tỏ vẻ đắc ý với câu trả lời, Vua tuyên bố: “Người trúng cử là thanh niên có chậu không hoa”, vì vua đã cho luộc chín số hạt giống trước khi giao cho họ chăm sóc. Người thanh niên được tuyển chọn vì tính trung thực, thật thà. Anh xứng đáng được ban thưởng địa vị cao quý.
Chúa Giê-su tuyên bố: “Hãy hành động theo sự thật và sự thật sẽ giải phóng các con” (Jn 8, 32).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao sự trung thực, coi nó như phương thế, như con đường giải phóng dứt điểm và toàn diện mọi vấn đề nhân sinh.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, so sánh cách giải quyết vấn đề của hai loại người: phường gian ác và bậc chính nhân.
Phường gian ác dùng mọi mánh lới, thủ đoạn để được kết quả tức thời. Chúng gài bẫy, giăng lưới, nhằm bắt chợt, bứng khỏi đất kẻ sống những người chúng ghét ghen. Sự ganh tỵ làm cho đôi mắt đui mù, trí phán đoán vẩn đục, hành động bất công, dẫu biết đó là tội ác, chúng cũng chẳng mảy may hối hận, dừng tay.
Kết cục hành vi gian ác không thoát khỏi lưới trời, chúng thường phải nhận một kết cục bi đát do chính tội mình gây nên.
Hai tên trưởng lão vu khống, cáo gian bà Su-san-na phạm tội ngoại tình, nghĩ rằng bà sẽ bị ném đá, nhưng Thiên Chúa đã gieo thần khí khôn ngoan cho Daniel minh oan cho bà. Sau hồi xét xử, toàn dân nhận ra tội ác của hai ông, họ quyết định ném đá kẻ vu khống, ngày ấy, máu kẻ vô tội khỏi bị đổ oan.
Người công chính hành động ngược với kẻ ác nhân. Họ sống chuẩn chỉ giới răn Chúa, không hùa theo lối sống biến thái của số đông, dẫu có bị thiệt thòi, bách hại. Noi gương Chúa, họ sống hiền lành, khiêm nhường, phó thác, cậy trông trong mọi hoàn cảnh. Không đối đầu với kẻ gian ác, vững lòng chờ đợi Chúa viếng thăm, giải thoát.
Sự chờ đợi Thiên Chúa giải án, tuyên công của người công chính không mang tính thụ động, cam chịu, nhưng năng động, hữu hiệu, quyết tâm thiết lập công lý, tình thương, sự thật trên thế gian. Lối sống của họ, tự thân, là ánh sáng bừng lên giữa bóng tối tiêu cực tù hãm chân lý. Họ bị người đời, yêu sự tối tăm hơn ánh sáng, khước từ, bách hại, giết chết là điều tất yếu phải xảy ra.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, cũng bị thế lực sự dữ, núp dưới vỏ bỏ: bảo vệ luật Chúa, liên minh hãm hại. Người tiên liệu sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị giết chết cách dữ dằn bằng khổ hình thập giá.
Giê-su phải chết là đương nhiên, bởi phong cách sống và lời giảng dạy của Người đối nghịch với “thói đời”, vốn yêu chuộng sự tối tăm hơn ánh sáng chân thật.
Tuy nhiên, Tin Mừng, không bị khống chế bởi ngày thứ sáu thảm thương, mà bừng lên rực rỡ vào ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su sống lại từ trong kẻ chết. Hai biến cố: tử nạn/phục sinh luôn phải đi đôi với nhau, mới làm thành Tin Mừng, thành ơn cứu độ phổ quát cho những ai suy phục chân lý. Đây là lý do giải thích tại sao người công chính chỉ chờ đợi Chúa viếng thăm, giải phóng khỏi mọi áp lực thế gian.
Giê-su thi hành sứ vụ Cha ủy thác, trong sự tự hủy tuyệt đối, vâng lời cho đến chết trên thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho cả nhân loại.
Chúa dạy các môn đệ tinh thần thần phó thác, cậy trông, can đảm sống và làm chứng cho sự thật, dẫu thuận lợi hay trong nghịch cảnh. Làm thế, họ cứu chính mình và tha nhân, bởi tin rằng: “Sự thật sẽ giải phóng” (Jn 8, 32).
Để có được tâm tư của Chúa, người môn đệ phải gạt bỏ tinh thần thế tục: óc địa vị, kẻ cả, ham hố danh lợi thấp hèn, một phải đổi mới nên giống “trẻ thơ”, nghĩa là: không mưu mô, xảo trá, gian dối, nhằm có được lợi thế giữa cộng đoàn.
Thánh Gia-cô-bê, trong bài đọc II, chỉ ra nguyên nhân của sự dữ là do lòng tham lam vô độ. Lòng tham sinh ra ghen tương, đố kỵ, cạnh tranh, bất công và mọi hành vi gian ác, xấu xa, cũng bởi đó mà ra. Người tham lam giống như cái thùng không đáy: danh lợi, thú, bao nhiêu cũng không lấy làm vừa, làm đủ.
Đối với thánh Gia-cô-bê, chấp nhận sự thật về mình, bằng lòng với những gì mình có là liều thuốc đặc trị chữa tính tham lam. Và chỉ nơi điều này, các đức tính nhân bản mới được kitô hóa, mới trở nên hương thơm của Chúa, mới có giá trị giải phóng, chữa trị và cứu độ phổ quát.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta:
* Một là: Chuyên chăm lắng nghe, thực hành lời Chúa dạy, cụ thể, dốc quyết sống trung thực trong mọi hoàn cảnh: “có thì nói có, không thì nói không, kỳ dư là tự ác quỷ mà ra!” (Mt 5, 37).
* Hai là: Luôn ý thức mình là kitô hữu, phải trở nên giống Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm: từ bi, nhân hậu, khiêm nhường, nhẫn nại, tha thứ, hiệp thông.
Thực hành những điều đó, chân lý và sự thật Tin Mừng sẽ giải phóng chúng ta!
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen!
Sống trên đời, được làm người có địa vị lớn nhất, người có quyền cao chức trọng, người được nhiều TN 25-B193
Sống trên đời, được làm người có địa vị lớn nhất, người có quyền cao chức trọng, người được nhiều người trọng vọng, kính nể…Thiết tưởng, có rất nhiều người trong chúng ta đã, đang và sẽ mong muốn làm sao để đạt được. Tệ hại hơn, cũng có lắm người, còn dùng cả những mưu mô thủ đoạn, xảo trá, đê hèn để làm sao đạt cho bằng được những danh phận phù du trong cuộc đời tạm bợ chóng qua này. Trong khi đó, là người phận nhỏ, người nghèo, người không địa vị, không danh phận hay không có tiếng nói, người bị gạt ra bên lề xã hội…thì chắc chắn không ai muốn. Còn với mỗi người chúng ta, là con cái Chúa, là Kitô hữu, là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta thực sự mong muốn trở nên người như thế nào, hay chúng ta đã, đang và sẽ phấn đấu, quyết tâm làm gì để trở nên mẫu người mà mình mong muốn?
Tin mừng hôm nay (Mc 9, 29-36) thuật lại cho chúng ta biết, các môn đệ của Chúa, mặc dầu đã theo Chúa, sống với Chúa, đã được Chúa chỉ dạy và huấn luyện, thế nhưng, các ông vẫn còn có những cung cách suy nghĩ và thái độ sống rất thế tục của con người, nên họ đã tranh luận với nhau, xem thử ai trong các ông là người lớn nhất. Vì biết rõ những tư tưởng, ý định sai lệch của các ông, nên Chúa Giêsu đã giải thích: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Thật vậy, cách thức, hành động mà Chúa Giêsu mong muốn cũng như đã sống để làm gương, chỉ dạy cho các môn đệ và cho chúng ta, thì hoàn toàn trái ngược với cung cách suy nghĩ, hành động và mong muốn của con người. Thế thì, thử hỏi, có ai trong chúng ta muốn sống và làm theo cách của Chúa không? Chúng ta sẽ tự bào chữa, Chúa dạy khó và trái ngược như vậy, thì ai mà thực thi được, ai mà muốn trở nên, hay ai khờ dại gì mà làm theo.
Thưa ACE, thật đúng vậy, sống và làm theo những gì Chúa dạy, thì thật là khó, đúng ra là không thể đối với con người chúng ta. Vì sức của chúng ta hạn hẹp, vì bản tính con người thường tự kiêu, vị kỷ, vì chúng ta không muốn chịu thua kém ai, vì không muốn trở nên người phận nhỏ bao giờ. Thế nhưng, tại sao Chúa biết rõ bản tính, khả năng của con người là như vậy, mà Chúa vẫn muốn dạy chúng ta làm theo cách của Chúa? Thưa vì, Chúa muốn chúng ta được trở nên giống như Người, muốn chúng ta trở nên người con sống đẹp lòng Chúa Cha, thế nên, Chúa Giêsu đã không những chỉ dạy mà còn đi bước trước để làm gương cho chúng ta. “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Là Thiên Chúa thật, là Đấng đầy uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động, thế mà, Chúa Giêsu đã tự hạ, để chấp nhận cung cách và lối sống của con người phận nhỏ. Thêm vào đó, qua cách thế, hành động này của Chúa, những ai chấp nhận, tin và làm theo, thì chính Chúa là Đấng sẽ ban ơn giúp sức cho và chính Ngài sẽ làm thay cho chúng ta, mỗi khi chúng ta khiêm tốn để cho Chúa có toàn quyền trên cuộc sống của chúng ta.
Trên một bình diện khác, Chúa còn mời gọi chúng ta hãy đi xa hơn, làm điều tốt hơn, đó chính là hãy đón tiếp, yêu thương và giúp đỡ ACE của mình, đặc biệt những con người phận nhỏ, người nghèo. “Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”. Thật ra, không dễ dàng chút nào để thực thi điều này, bởi lẽ, theo suy nghĩ tính toán hơn thiệt của con người, chúng ta thường muốn lãnh nhận thật nhiều, chứ không muốn cho đi. Vì thật ra, khi đón tiếp và giúp đỡ những người phận nhỏ này, chúng ta thường sợ mình không thu được ích lợi gì nhưng đôi lúc chúng ta còn phải chuốc vào thân những sự phiền hà, rắc rối…
Xin được chia sẻ một chút kinh nghiệm, niềm vui trong đời sống mục vụ; lúc tôi còn làm việc tại Tòa Giám Mục, tôi thường có một “vị khách đặc biệt” hay đến thăm, vì cứ khoảng vài ba tháng một lần, mỗi lần nghe báo “Cha có khách” thì tôi đều biết là mình sẽ gặp ai. Mỗi lần gặp anh, tôi thường hỏi đùa, “Anh đi đâu?” Thì anh thường trả lời: “Thưa Cha, lâu ngày rồi, nên hôm nay con lại đến thăm Cha” và sau khi chào hỏi thì anh nói: “Hôm nay, con có chút quà mới mua biếu Cha, khi thì bó đũa, lúc thì con dao, lần khác là cái chổi… tôi không nhận quà, mà trái lại, biếu tặng lại cho anh ít tiền và gạo để đem về cho gia đình. Vị khách này là người dân tộc thiểu số, nên thú thật, mỗi lần anh ta chào tôi ra về, lòng tôi dường như cảm nhận được niềm vui, bình an, thật khó tả trong lòng. Giờ đây, trong vai trò là Linh mục quản xứ, tuần nào, tôi cũng có những vị khách đến muốn gặp tôi: “Thưa Cha con đang đau, con của con đang bị bệnh, con không có đủ tiền mua thuốc-khám bệnh, nhà con hết gạo, con thế này, thế kia…con không biết chạy đi đâu, nên con vô Cha, xin Cha thương giúp”. Nhiều lúc gặp đi gặp lại “những vị khách đặc biệt” này, thú thật, một đôi lúc, có vài người đã làm tôi không hài lòng, nhưng tôi chợt giật mình và nhớ lại, tại sao mình lại không vui hay bực mình, mình đang bỏ lỡ một cơ hội để gặp và tiếp đón Chúa. Thế nên, khi đã hồi tâm và giúp chút xíu gì cho họ xong, khi khách ra về, tâm hồn tôi thực sự lại đón nhận được sự bình an và cảm thấy có niềm vui. Thật đúng vậy, tiếp đón người phận nhỏ nhân danh Chúa, chính là phần thưởng, ơn ban cao quý mà Chúa luôn dành riêng cho chúng ta. Chúng ta không phải thương hại hay bố thí, làm phúc cho những con người phận nhỏ, người nghèo này, nhưng khi chúng ta tin rằng, chính họ là cũng là con cái Chúa, là người mà Chúa gởi đến và khi tiếp đón Chúa qua họ, thì thật vậy, những con người này lại trở nên quà tặng và ơn ích mà Chúa dành cho chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con luôn biết sống khiêm tốn, đơn sơ, và trở nên những người phận nhỏ như Chúa muốn. Đồng thời, xin Chúa cũng thương ban cho chúng con những trái tim biết yêu thương, trái tim biết rung cảm trước những người phận nhỏ và những nhu cầu cần thiết của họ, vì nhờ họ mà chúng con có thể dấn thân, hy sinh, quên mình để yêu mến và phục vụ Chúa. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
MUỐN BIẾT ĐỨC GIÊSU? HÃY TIẾP ĐÓN ANH CHỊ EM ĐỒNG LOẠI.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta chỉnh đốn và cải tiến cung cách sống và lãnh đạo. Bài đọc TN 25-B194
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta chỉnh đốn và cải tiến cung cách sống và lãnh đạo. Bài đọc hai và bài Tin mừng đề ra hướng dẫn để ứng xử với nhau, đề cao lòng khiêm nhường, phục vụ và hiếu khách như những hành động đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô.
Trong bài đọc hai trích thư của thánh Giacôbê Tông đồ, sự khôn ngoan và hành động được liên kết với nhau. Tương tự như trong đoạn Cựu ước trích từ sách Khôn ngoan mà chúng ta nghe ở bài đọc một, sự khôn ngoan được thể hiện qua các hành vi chứ không chỉ qua sự hiểu biết và trí thông minh. Thánh Giacôbê lưu ý những hành vi như ganh tị, ích kỷ và bạo lực không phải là khôn ngoan vì gây tổn hại cho bản thân và người khác. Thay vào đó, khôn ngoan đích thực đòi hỏi ôn hòa, bao dung và tha thứ. Lá thư này gửi cho một cộng đoàn đang có mâu thuẫn, nhằm phê bình những bất hòa, áp bức và thiếu quan tâm với các nhóm dễ tổn thương. Vào thời điểm mà các cộng đồng dường như rất đối lập nhau, thánh Giacôbê hôi thúc chúng ta mưu cầu công ích cho tất cả mọi người nhằm củng cố cộng đồng thế giới hiện nay.
Bài Tin mừng theo thánh Máccô đưa ra những nhận thức quan trọng về sứ vụ lãnh đạo trong cộng đoàn đức tin. Âm vang lại bài Tin mừng tuần trước, Đức Giêsu loan báo lần thứ hai về cuộc Thương khó, và các môn đệ vẫn còn mù tối về ý nghĩa của nó. Theo cách thức đặc trưng của thánh Máccô, các môn đệ - những nhà lãnh đạo thời kỳ đầu thường tỏ ra thiếu hiểu biết.
Sau khi tới Caphácnaum, Đức Giêsu hỏi các môn đệ lý do các ông tranh luận dọc đường. Tưởng rằng cuộc tranh luận liên quan đến lời tiên báo của Đức Kitô nhưng thay vào đó, các ông lại bàn tán xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Việc các môn đệ tập trung vào chính mình hơn là vào tầm quan trọng của Đức Kitô và việc Ngài sắp bị đóng đinh cho thấy những thiếu sót của các nhà lãnh đạo thời kỳ này.
Để điều chỉnh khuynh hướng này, Đức Giêsu dạy các Tông đồ về việc lãnh đạo khi bảo rằng người lớn nhất phải là người rốt hết và phải phục vụ mọi người. Ngài đã minh chứng lời giảng dạy này qua sứ vụ chữa lành và những phép lạ như việc hóa bánh và cá cho hàng ngàn người ăn. Thế nhưng, những môn đệ thân tín nhất dường như không thể hoặc không sẵn lòng nhận ra tầm quan trọng của khiêm nhường và phục vụ khi thi hành sứ vụ. Điều đáng chú ý là Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến lòng hiếu khách. Ngài đem một em bé lại giữa họ và nói: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy”. Việc Đức Kitô đưa đứa trẻ vào làm gương mẫu trong câu chuyện cho thấy phạm vi của Tin mừng, và gợi ý một sự cởi mở cũng như dịu dàng trong việc tiếp cận cộng đoàn.
Ngày nay, chúng ta được lưu ý để thăng tiến công ích, sống khiêm nhường, phục vụ tha nhân và đón nhận mọi người vào cộng đoàn đức tin. Các nhà lãnh đạo tôn giáo nên lưu tâm và suy gẫm những lời gợi ý này của Đức Kitô. Thật đáng tiếc, một số vị đã không luôn là mẫu mực của sự khiêm tốn, phục vụ và lòng hiếu khách. Tất cả chúng ta đều được mời gọi sống gương mẫu với những nguyên tắc của Tin mừng, và khi những vị lãnh đạo không thực hiện được yêu cầu này thì điều quan trọng là chúng ta, những người còn lại, phải thành lập và xây dựng một Giáo hội mà chúng ta mong đợi, đó là một Giáo hội được đặt nền trên tình yêu chứ không phải là loại trừ.
Kiểu nói “bị nộp trong tay người đời” có chi đáng lưu ý. Nó thay đổi viễn tượng của lời loan TN 25-B195
1. Kiểu nói “bị nộp trong tay người đời” có chi đáng lưu ý. Nó thay đổi viễn tượng của lời loan báo như thế nào?
2. Chúa Giêsu có trả lời thẳng vấn đề tranh luận của các môn đồ không (cc.33-35)? Cuộc tranh luận của các ông là duy âm của những vấn đề nào?
3. Đâu là ý nghĩa của cử chỉ Chúa Giêsu bồng em bé (c.36) xét như độc lập với cuộc tranh luận (cc.33-35) và với lời chú giải cử chỉ (c.37)?
4. Lời Chúa Giêsu chú giải cử chỉ của mình (c.37) bao hàm mấy giáo huấn?
5. Mc đặt lời loan báo Khổ nạn và cuộc tranh luận trên đường, rồi đặt trong nhà lời giáo huấn về việc đón tiếp và phục vụ . Việc ấy có ý nghĩa chi?
Đoạn văn Tin Mừng Chúa nhật hôm nay bao gồm lời loan báo thứ hai về cuộc Khổ nạn và phần đầu của một diễn từ tạp lục kéo dài cho đến Mc 9,50. Đoạn gom góp các lời nói của Chúa Giêsu cách giả tạo này, chắc hẳn có trước khi Mc biên soạn, được thấy lại nơi “diễn từ về cộng đoàn” của Mt (18) trong lúc Lc hoàn toàn phân tán nó. Mc đã cố gắng duy nhất hóa nó bằng cách chen vào một vài chi tiết đặc biệt. Chẳng hạn chúng ta nhận thấy bút pháp của Mc nơi các câu 30 sự bí mật), 3 (việc dạy dỗ), 32 (tính đần độn và sợ hãi của các môn đồ), 33 (nhà đối chòi với đường), 34 (tranh luận). Sau khi đã chú giải các yếu tố khác biệt nhau của đoạn văn, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của đoạn tom góp đó và quan niệm thần học mà nó diễn tả.
I. LỜI LOAN BÁO THỨ HAI VÈ CUỘC KHỔ NẠN
Những lời loan báo về cuộc Khổ nạn đặt ra hai vấn đề quan trọng: vấn đề xác thực tính của chúng (phải chăng Chúa Giêsu đã nói những lời đó hay người ta đã gán cho Người về sau), và về vấn đề ý nghĩa Người đã mặc trước cho cái chết thoáng thấy của Người [Sách Bài đọc cho ta nghe lời loan báo thứ nhất cả 3 năm ABC; thành thử lời này có cơ hội được chú giải dồi dào theo ba bản văn Nhất lãm. Ngược lại, lời loan báo thứ hai chỉ được đọc trong năm B theo Mc, còn lời thứ ba thì hoàn toàn bị loại bỏ. Vì những lý do đó, chúng tôi bắt buộc phải đề cập sơ sơ các bản văn không được sách bài đọc dùng đến}
Thế mà lời loan báo thứ hai nằm trong một vị thế đặc biệt đối với hai vấn đề trên. Chắc hẳn đây là lời loan báo sơ khai nhất, vắn gọn nhất và cũng kém rõ ràng nhất (so sánh Mc 8,31 ; 9,31; 10,32-34):
Mt 17,22: Con Người sắp bị nộp trong tay người đời và họ sẽ giết Người và ngày thứ ba
Mc 9,31: Con người sắp bị nộp trong tay người đời và họ sẽ giết Người và ngày thứ ba
Lc 9,44: Con Người sắp bị nộp trong tay người đời và họ sẽ giết Người và ngày thứ ba
Người ta còn nhận thấy lời loan báo thứ hai có đặc điểm riêng là kiểu nói: “bị nộp trong tay người đời”; kiểu nói này cũng xuất hiện trong lời loan báo về sự bội phản (Mc 14,21) và trong cuộc vây bắt (Mc 14,41) {Luca bỏ câu “bị nộp…” trong cuộc vây bắt (22,46) mà đem vào trình thuật các phụ nữ viếng mộ: 24,7]. Tuy nhiên, công thức mà chúng ta gặp ở đây xem ra đáng lưu ý nhất vì có những điểm: thì hiện tại để chỉ tương lai gần, cách chơi chữ “Con Người / người đời” và nhất là ngữ điệu thụ động để chỉ hành động của Thiên Chúa. Tất cả đều nói lên nguồn gốc Aram của cái lời mạnh mẽ và bí ẩn ấy, một lời đúng là trong cách nói của Chúa Giêsu. Thành thử ta có thể xem nó như là xác thực.
Nhưng khi nói lên câu đó, Chúa Giêsu đã muốn mặc cho cái chết của Người ý nghĩa nào? Việc nghiên cứu chữ “bị nộp” có thể giải đáp câu hỏi.
Từ ngữ “bị nộp” này xuất hiện trong vài bản văn Phaolô (Rm 4,25; 8,32; Ep 5,2) và khiến ta liên tưởng đến công thức Thánh Thể (x. Lc 22,19; 1Cr 11,24). Tuy nhiên, ngược với Mc 9,31, các bản văn đây luôn luôn có tiếng xác định “vì chúng tôi”, “vì tội lỗi chúng tôi” là tiếng ám chỉ chương 53 của Isaia khá rõ rệt cùng hướng tư tưởng về khía cạnh hy tế và cứu chuộc của cái chết Chúa Giêsu.
Nhưng thành ngữ “bị nộp trong tay” không xa lạ gì với Kinh Thánh. Người ta gặp nó chẳng hạn như trong đoạn nói về vụ án Giêrêmia (26,24). Và nếu vị ngôn sứ đã thoát chết, thì trình thuật về vụ án của ông xem ra vẫn không kém được dùng, đặc biệt nơi Mc, như đường canh cho trình thuật Khổ nạn của Chúa Giêsu. Thành ngữ này còn xuất hiện trong các thánh vịnh của “người công chính đau khổ” kêu cầu “được giải thoát khỏi bàn tay kẻ tàn bạo, vô nghì” (Tv 71,4; 140,5) và cuối cùng trong Đanien 7,25, nơi người ta thấy, các thánh của Đấng Tối Cao “bị nộp vào tay” Antiôkô êpiphanê vua bách hại, nhưng “sẽ chiếm được vương quốc” (Đn 7,22), cái vương quốc được trao ban cho nhân vật bí mật là Con Người (Đn 7,14).
Người ta bàn cãi về lai lịch của Con Người không ngớt (cá nhân đặc thù hay biểu tượng tập thể?). Nhưng dù sao đi nữa, thì đây vẫn là nguồn gốc trực tiếp của công thức Tin Mừng của lời loan báo thứ hai; tuy nhiên Chúa Giêsu kết hợp trong Người số phận tập thể của chư thánh Đấng Tối cao và đàng khác, Người lần lượt lãnh lấy, trong cuộc sống riêng tư, hai khía cạnh xem ra tách biệt là bách hại và vương quyền. Ở đây, Người xuất hiện như vị tử đạo tuyệt hảo, phải chịu khổ đau trước khi Vương triều đến.
Như vậy, câu “Con Người bị nộp trong tay” mặc khải cho ta một khía cạnh vô cùng quý giá của cuộc Khổ nạn và cái chết Chúa Giêsu: cuộc Khổ nạn này đúc kết và hoàn tất trọn hảo nỗi đau khổ của những người công chính, sự bách hại các ngôn sứ đã trải qua và cái chết của các vị tử đạo; việc sử dụng động từ “nộp” nhiều nơi trong các trình thuật Khổ nạn có lẽ đã muốn gợi lên điều này trước tiên, đây là hạn từ chuyên môn của sự phản bội: Giuđa “nộp” Chúa Giêsu cho các thượng tế (Mc 14,10); đến lượt các thượng tế “nộp” Người cho Philatô (15,1.10); cuối cùng Philatô “nộp” Người cho bọn lính (15,15). Chúa Giêsu lần lượt bị trao cho quyền năng của mọi tà lực; Người thật đã “bị nộp trong tay”, theo tự nghĩa “bị nhồi”: “Chúng đã làm cho Người những gì chúng muốn” (Như Chúa Giêsu đã nói về Elia – Gioan Tẩy giả để cho thấy ông thực sự là Tiền hô ở chỗ nào; vì thế mà Mc mới đem hạn từ của cuộc Khổ nạn áp dụng cho ông: “Sau khi Gioan đã bị nộp”(1,14). Tất cả những điều này đều được đề cập cách chi tiết trong lời loan báo thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế … và họ sẽ nộp Người cho dân ngoại”; nét cuối cùng đây tạo nên sự ô nhục lần nhất: một người Do thái bị các người Do thái nộp cho dân ngoại, một sứ giả Thiên Chúa bị các tư tế nộp cho lương dân! (Người ta thấy nét này lại được đề cập đầu tiên trong các diễn từ sách Cv 2,23; 3,13, và nó là đặc điểm của lời loan báo thứ 3 trong Luca).
Nhưng xem ra lời loan báo thứ hai đề ra một viễn tượng khác. Trong viễn tượng thứ nhất, như công thức của lời loan báo về sự bội phản chỉ rõ (Mc 14,21): “Khốn thay kẻ làm cho Con Người bị nộp”, người ta còn đứng trong bình diện các sáng kiến và trách nhiệm của loài người. xem Ga 19,11: kẻ nộp tôi cho ông thì mắc tội nặng hơn”, mặc dầu trong Tin Mừng thứ 4, tất cả mọi sáng kiến ấy đều được Satan xúi giục. Ta có thể nhận xét rằng Gioan có một cách thức sử dụng độc đáo động từ “nộp trước tiên 8 lần cho Giuđa từ ch.6 đến ch.18, rồi cho nhiều nhân vật trong 18,30-36 và 19-16]. Thế mà chúng ta đã bảo: ngữ điệu thụ động của lời loan báo thứ hai là một cách ám chỉ hoạt động của thiên Chúa; thành ra phải hiểu như sau: “Thiên Chúa sắp nộp Con người cho người đời”, và có thể, việc đối chiếu “Con Người / người đời” mới hoàn toàn nổi bật. Đây là một khẳng định làm ta ngạc nhiên, và đảo lộn mọi viễn tượng, vì chẳng còn vấn đề sự ác đang tác động và chiến thắng, nhưng là ý định của Thiên Chúa đang thực hiện qua các mâu thuẫn. Thiên Chúa không bị đánh úp và càng không bị thất bại. “Con Người bị nộp” từ đây chẳng còn là một ô nhục, một cớ vấp phạm nữa, nhưng là chính mầu nhiệm của Thiên Chúa chiến thắng nhờ những phương thế lạ lùng, chính lúc mà sự dữ xem ra được hơn: “Ngài đã không tha cho chính Con của Ngài, nhưng đã phó nộp Người vì chúng ta hết thảy” (Rm 8,32); “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con của Ngài” (Ga 3, 16).
“Ý định của Giavê sẽ nhờ Người mà nên trọn”, Isaia đã nói thế (53,10) về người tôi tớ bị nộp (bởi Thiên Chúa?) “vì tội lỗi chúng ta”, chứ không phải “vào tay kẻ tội lỗi”. Nhưng với điều kiện là đừng quan niệm cách quá hệ thống cái chết như một hy tế đền tội, thì người la mới có thể thấy hai viễn tượng đó kết hợp lại với nhau.
Để kết thúc, chúng ta có thể phác họa một câu trả lời cho hai câu hỏi mà ngay từ đầu đã được đặt: Chúa Giêsu, đứng trước diễn tiến các biến cố, đã dễ dàng đoán trước cái chết dữ dội của Người; nhưng điều quan trọng đối với chúng ta là ý nghĩa mà Người gán cho cái chết đó. Thế mà tất cả cho chúng ta thấy: dưới ánh sáng và theo gương các tiền nhân của lịch sử thánh, Chúa Giêsu đã ý thức sống cuộc Tử nạn này như biến cố trung tâm của chương trình cứu rỗi.
II. CÁC CẢNH TIẾP THEO VÀ LỜI CHÚ GIẢI VỀ CHÚNG
Tiếp theo lời loan báo Khổ nạn là hai cảnh nhỏ tương phản nhau, mỗi cảnh diễn tiến trong hai thì: chính sự kiện và một câu nói của Chúa Giêsu; trước tiên là cuộc tranh luận giữa các môn đồ về kẻ lớn nhất và câu Chúa Giêsu đáp trả. Về người đầu hết / cuối hết; đoạn đến cử chỉ Chúa Giêsu bồng một em bé và lời nói (về việc đón tiếp) chú giải cử chỉ này.
Phải công nhận là có một rời rạc trong sự kế tiếp các yếu tố khác nhau đó. Nơi c.33, Chúa Giêsu ở trong nhà với các môn đồ; rồi nơi c.35, Người ngồi xuống, gọi nhóm Mười hai và ngỏ lời với họ. Gọi những kẻ đã có mặt sẵn đó, những kẻ đang cùng trò chuyện, rồi lại phân biệt các môn đồ với nhóm Mười hai: xem như thể có hai nhập đề cho lời Chúa Giêsu nói.
Các môn đồ tranh luận về kẻ lớn nhất; câu giải đáp của Chúa Giêsu không lấy lại chữ này, nhưng nói về kẻ đầu hết và cuối hết.
Cảnh bồng em bé đáng lý ra phải minh họa cho giáo huấn vừa được ban; thế mà lời nói kế tiếp không còn ám chỉ chủ đề người lớn hơn, chủ đề kẻ đầu hết / cuối hết hay chủ đề tôi tớ nữa, nhưng nói đến việc đón tiếp.
Ngoài ra, lời nói nầy về việc đón tiếp các trẻ nhỏ, ở số nhiều, giả thiết có một nhóm trẻ và trông phù hợp hơn với giai thoại kể ở 10,13-16, vì ở đây Chúa Giêsu chỉ bồng một em nhỏ thôi (tình cờ đứng đó hay trong nhà ?).
Phải thêm rằng qua hai từ ngữ “vì danh Ta”, “một trong các trẻ nhỏ này”, lời nói về việc đón tiếp liên hệ hẳn với đoạn đi sau (cc.38-39 “nhân danh Ta”; c.42 “một trong những trẻ nhỏ này”) [Hãy để ý: nơi c.37, từ ngữ được dùng là paidion: trẻ nhỏ, trong khi nơi c.42, đó lại là mikros, một tiếng không đặc biệt chỉ trẻ em]. Trong Mc, người ta có cảm tưởng: giai thoại đứa trẻ là khởi đầu cho một loạt bản văn hơn là kết luận của việc tranh tụng. Thứ tự được Mt và Lc chọn xem ra thỏa đáng hơn:
1. Tranh luận (Lc) hay câu hỏi (Mt); 2. Đứa bé; 3. Lời Cilúa Giêsu đáp trả trực tiếp vấn đề.
Tuy nhiên hai thánh sử này đặt khác nhau lời nói về việc tiếp đón: Luca đặt trước câu trả lời về kẻ lớn nhất, và Mt đặt sau. Những khác biệt này khiến ta nhận thấy là khó giải thích cảnh tượng đứa trẻ, một cảnh xem ra đã được sửa đổi nhiều lần. [Vì vậy cha Boistnard đã thử tái dựng một bản văn nguyên thủy như sau: “Họ đã đến Capharnaum, và các môn đồ tới gần Chúa Giêsu mà nói: Ai là kẻ lớn nhất? Bồng lấy một đứa bé Người đặt nó giữa họ và bảo: Kẻ nhỏ nhất chính là kẻ lớn nhất”, Benoit-boismard, Synopoe des qua tre évangiles en francais, 1l, paris, 1972, tr.264. Nhưng ta cũng có thể nhìn sự việc cách khác và xem bản văn Mc như một tập hợp giả tạo song nguyên thủy và bản văn Lc hay Mt như một nỗ lực duy nhất hóa các yếu tố. Trong chiều hướng này, x. Legasse, Jésus ét l’enfant, Paris, 1969, tr.17-36). Thành thử tốt hơn nên xem các yếu tố của bản văn Mc như những tiểu đơn vị độc lập, đồng thời ý thức rằng có lẽ chúng là kết quả của một cuộc tiến hóa phức tạp.
1. Cuộc tranh luận giữa các môn đồ và câu trả lời của Chúa Giêsu.
Mc trình bày một cách rất độc đáo cuộc tranh luận về ngôi thứ. Điều đó không có nghĩa là ông đã dựng nên sự kiện. Chắc hẳn Mt đã bỏ hay đúng hơn biến cuộc tranh luận này thành một câu hỏi chung chung về kẻ lớn nhất trong Vương quốc, (Mt 18,1), và loại ra chuyện các môn đồ; nhưng ông đã cần có câu hỏi này để soi sáng đề tài được bàn đến trong chương 18 của ông; và ta dễ tưởng tượng rằng ông đã loại bỏ cảnh tượng cụ thể. Luca, trong bản văn song song (9,46-47) có vẻ giảm tầm quan trọng của giai thoại khi bảo đây chỉ là “một cuộc tranh luận bên trong mà Chúa Giêsu đoán biết (x.TOB, Le Nouveau Testament, tr.226, chú thích c. Về hai câu này TOB dịch rất đúng: “Một câu hỏi đã xảy đến trong trí họ”. Chúa Giêsu biết được câu hỏi họ đã tự đặt ra”); thật ra đoạn song song đích thực với Mc được tìm thấy nơi khác: nó nằm trong khung cảnh bữa tiệc cuối cùng (Lc 22,24) và được gọi dưới cái tên (duy nhất trong Tân ước) là “tranh chấp”, và vì thế nó mang một tầm mức mới mẻ.
Cuộc tranh luận xem ai lớn nhất có lẽ là dư âm của nhiều vấn đề trong cộng đoàn sơ khai về chức tước các sứ đồ (x Ga 21; Cv: những đoạn về Phêrô và Gioan; 1Cr 1-4) hay của một xu hướng tìm kiếm danh dự và phẩm chức nơi một vài người lãnh đạo, hay hơn nữa là dư âm của nhiều tranh luận hoặc lạm dụng xảy ra trong việc cử hành Thánh Thể: điều mà Lc hình như nhắm đến khi đặt cuộc tranh luận của các môn đồ chính giữa trung tâm bữa Tiệc ly như Giacôbê 2, 1-4 là chứng nhân của một thái độ phân biệt ngôi thứ trong các buổi cử hành phụng vụ). Xã hội cổ thời và đặc biệt xã hội Do thái tỏ ra khá băn khoăn về đẳng cấp và không có gì đáng ngạc nhiên khi Giáo Hội sơ khai đã vấp phải nhiều khó khăn phát sinh tôi một quan niệm về sự vật và từ những phong tục mà Tin Mừng thẳng thắn đả kích. Nhưng cũng có thể là vấn đề đã được đặt ra (một cách khác) trong nhóm các môn đồ trước ngày phục sinh. Điều này được xác nhận qua giai thoại (khá gần đó.) về lời cầu xin của hai con Giêbêđê (Mc 10,35-40) mà truyền thống chắc đã không thể dựng đứng, cũng như vô số lời khác nhau của Chúa Giêsu về sự cần thiết phải khiêm nhường và phục vụ (x. Lc 9,48b; Mc 10,43.44; Mt 20,26-27; 23,11; Lc 22,26).
Thánh ngôn mà Mc trình bày ở 9,35 nổi bật hơn hết. Nó không trả lời thẳng câu hỏi vì không đối chiếu “lớn/ nhỏ” như thấy trong Lc 9,48 và Mt l8,4; những lời khác đưa ra sự đối chiếu kém sít sao: “lớn / tôi tớ” (Mt 20,26; 23, 11 ; Mc 10,43) hay “cầm đầu / nô lệ” (Mt 20,27; Mc 10,44) hay “lần hơn / trẻ hơn” (Lc 22,26). Duy chỉ Mc 9,35 trình bày sự đối nghịch căn bản “đầu hết / cuối hết”, sự đối nghịch diễn tả đúng việc đảo lộn các giá trị mà Chúa Giêsu thực hiện và việc thay đổi thái độ mà Người’ đòi hỏi. Chắc chắn đó là một lời đích thực của Chúa Giêsu, được đưa vào ở đấy (và được móc thêm chữ “tôi tớ mọi người”) để cúp ngang vĩnh viễn mọi ao ước chỗ nhất: sự lớn lao đích thực hệ tại trở nên tôi tớ, và muốn trở nên tôi tớ phải là kẻ rốt cùng. [Ta có thể đối chiếu lời đang nói với một lời khác tương tự ở số nhiều mà lần này diễn tả một sự kiện chứ không còn diễn tả một lời khuyên; Do xuất hiện dưới hai hình thức đảo ngược, hình thức đầu tiên (Mc 10,21; Mt 19,30) nói đến sự đảo lộn vị thế đối với kẻ giàu người nghèo do việc Thiên chúa xét xử; hình thức thứ hai (Lc 13,30; Mt 20,16) được áp dụng cho vấn đề lương dân thế chỗ tuyển dân trong Vương quốc. Vài tác giả nghĩ rằng chính Mc đã soạn 9,35 từ các câu song song trên đây].
2. Cử chỉ của Chúa Giêsu và lời chú giải.
Trong sự trình bày hiện thời của Mc, giai thoại về đứa trẻ được đặt giữa các môn đồ không minh họa cuộc đối thoại đi trước. Hai lời nói (về việc tiếp đón) vốn chú giải giai thoại một cách bất ngờ xác nhận sự thiếu liên lạc giữa giai thoại với mạch văn; cử chỉ của Chúa Giêsu ở đây đã là đối tượng của nhiều lối giải thích, và phải tự hỏi đâu là ý nghĩa của cử chỉ này, xét như độc lập với cuộc tranh luận và với lời chú giải theo sau.
Trước hết, tự nhiên người ta muốn đem giai thoại vắn này đặt gần một cảnh dài hơn (10,13-16) mô tả môn đồ la rầy các trẻ nhỏ hoặc những kẻ đem chúng đến với Chúa Giêsu xin lưu ý: trong giai thoại thứ hai này, câu trả lời của Chúa Giêsu cũng được tiếp theo bằng một câu nói về việc đón tiếp mà đối tượng khác hẳn; cũng nên lưu ý là trong cả hai trường hợp, Mc đều nói Chúa Giêsu “bồng ẵm” các em bé}. Hiển nhiên, sự lưu tâm của Chúa Giêsu đối với các trẻ nhỏ là một nét khá đặc biệt của thái độ Người, một thái độ đã làm cho các môn đồ ngạc nhiên và có lẽ đã khiến kẻ đương thời khó chịu. Thật vậy, trẻ nhỏ không mấy có chỗ đứng trong xã hội bấy giờ; chúng chẳng phải là kiểu mẫu về sự vô tội hay đơn sơ đâu, nhưng chính là điển hình của cái không quan trọng, không đáng kể, vì thế chẳng cần lưu ý. Việc Chúa Giêsu quan tâm đến các trẻ nhỏ có thể đem đối chiếu với thái độ của Người đối với hạng thu thuế và gái đĩ: thái độ đó mặc khải một điều về Thiên Chúa. Điều đó là: Vương Quốc được trao ban cách nhưng không cho tất cả những gì bị bỏ rơi, khinh bỉ, mà không để ý đến nhân đức công lao; và lời mời dự tiệc được dành cho kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, cho hết những ai không có gì trả lại (Lc 14,13-14.21). Đó là ý nghĩa sơ nguyên của cử chỉ Chúa Giêsu (x. Mc 14,10), độc lập với mọi lời chú giải.
Nhưng từ đó phát xuất một giáo huấn được ngụ ý qua câu nói đầu tiên về việc đón tiếp (c.37a). Câu nói này bao hàm vừa lời mời gọi tiếp đón trẻ nhỏ, vừa lời xác quyết sự đồng nhất giữa đứa trẻ được tiếp đón và Chúa Giêsu. “Tiếp đón một trong những trẻ nhỏ này” chắc phải được hiểu không như một thái độ thuần tâm lý, bên trong, nhưng một cách cụ thể (theo nghĩa thông thường trong Tân ước của động từ déchosthai: tiếp đãi nồng hậu) là tiếp đón chúng, thu nhận chúng; có nghĩa là tiếp đón những đứa trẻ khó nghèo, mồ côi hay bị bỏ rơi. Lo lắng cho những trẻ nhỏ này là một công việc bác ái được Lề luật rất khuyến khích và được thực hành trong Do thái giáo. Chúa Giêsu lấy lại công việc nhưng thêm vào một yếu tố mới rất quan trọng: “Chính Ta mà họ tiếp đón”. Như thế, trong Mc 9,37a đã phác họa giáo huấn được ban ra trong cảnh phán xét sau cùng (Mt 25): Chúa Giêsu đồng hóa với trẻ nhỏ, với kẻ nghèo, vì thái độ của Người đối với họ hoàn tất cách toàn hảo việc mặc khải về Thiên Chúa như Đấng bênh vực người nghèo khó và “Cha kẻ mồ côi (Tv 68,6). Thành thử việc đưa lời nói trên vào chỗ này tạo nên một lời giải thích mới về cử chỉ của Chúa Giêsu vậy.
Sau đó, người ta còn thêm một lối giải thích thứ ba nữa. Câu 37b cũng bàn đến việc đón tiếp, nhưng bây giờ là một chuyện khác hoàn toàn. Câu “Ai đón tiếp Ta là đón tiếp Đấng đã sai Ta” tự nhiên gợi lại văn mạch diễn từ truyền giáo (Mt 10, 40) mà trong đó nó đi sau câu chú giải “Ai tiếp đón các ngươi là tiếp đón Ta”, hay gợi nhớ lúc 10,16 (“Ai nghe các ngươi là nghe Ta, ai thảy bỏ các ngươi là thảy bỏ Ta, ai thảy bỏ Ta là thảy bỏ Đấng sai Ta”) và nhất là Ga 13,20 (“Ai tiếp nhận kẻ Ta sai đến là tiếp nhận Ta, ai tiếp nhận Ta là tiếp nhận Đấng đã sai ta”). Tất cả những chỉ thị truyền giáo này đều được nói cho các môn đồ. Vậy một câu như thế xen vào làm gì trong giai thoại nói về các trẻ nhỏ? Nếu tách riêng, câu 37b không còn chỉ các trẻ nhỏ được; phải chăng nó chỉ các “kẻ nhỏ” mà người ta không nên gây cớ vấp phạm (x. 42) nghĩa là những tín hữu yếu đuối trong đức tin, mỏng dòn, cần được bản vệ hơn và vì thế có thể gọi là “trẻ nhỏ”? (x. Mt 18). Tuy nhiên, ta không thể quên công thức truyền giáo: chính những thừa sai cuối cùng được gọi như những kẻ nhỏ, hay đúng hơn và phải công nhận là lạ lùng, như những trẻ nhỏ; cho nên đây chính là vấn đề đón tiếp nhà thừa sai. Các bản văn Phaolô cho thấy động từ déchesthai cũng được dùng trong văn mạch truyền giáo: 2Cr 7,15; Gl 4,14; Cl 4,10].
Việc chuyển vị thật là ý nghĩa: đến một lúc nào đó, người ta không còn áp dụng trực tiếp cho giai thoại các trẻ nhỏ nữa; ngược lại, người ta đứng trước một hoàn cảnh truyền giáo gây nhiều tận tâm: một giáo huấn mới phát xuất từ việc đối chiếu trẻ nhỏ – nhà truyền giáo. “Trẻ nhỏ trở nên biểu tượng và được dùng để chỉ, trong thực tế những sứ giả khiêm nhu của Tin Mừng, những người mà Cứu Chúa không những ủy thác cho lòng bác ái của các kẻ cho họ lưu trú, nhưng còn tán dương khi đề cao phẩm giá và quyền lợi của họ, quyền được lắng nghe như các ngôn sứ của ơn cứu rỗi thiên sai. Tình cảnh thiếu thốn của những người này, và có lẽ một khuynh hướng khinh dể nào đó đối với họ, có thể đã là lý do cho một lời nhắc nhở đặc biệt như thế trong giáo lý của cộng đoàn sơ khai” (Legasse, sđd, tr.102-103. Tất cả đoạn của chúng tôi đây lệ thuộc nhiều vào tác phẩm này. Cũng xin xem các trang 326-336. Có một điểm đáng lưu ý là sự tiến triển nhận thấy trong thánh ngôn của Mc hình như cũng có trong Mt 25, nơi c.40: các anh em hèn mọn nhất này của Ta”. Xem Légasse, tr.85-100)
III. ĐƯỜNG CỦA CON NGUỜI, ĐƯỜNG MÔN ĐỒ PHẢI THEO
1. Bản gom góp mà chúng ta vừa nghiên cứu các yếu tố trên đây xem ra giả tạo: bất quy tắc trên phương diện văn chương, thiếu mối dây liên lạc trên bình diện lịch sử. Bản văn này, vốn móc nối nhiều sự kiện và câu nói với lời loan báo cuộc Khổ nạn, chắc phải có trước Mc: cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều có; hơn nữa kiểu móc nối ý nghĩa này luôn theo sau mỗi lời loan báo cuộc Khổ nạn: – Lời loan báo Khổ nạn, – Cảnh các môn đồ không hiểu (Phêrô không chấp nhận các đau khổ của Đấng Messia, tranh luận về việc Giacôbê và Gioan xin ngồi chỗ nhất).
– Giáo huấn của Chúa Giêsu về điều kiện của môn đồ (được liên kết cách này hay cách khác với cuộc Khổ nạn).
Loại gom góp này, ba lần được lặp lại, không thể là kết quả của tình cờ nhưng của một chủ ý đã có từ trong truyền thống; chủ ý này dễ dàng đoán ra: khi sự nghịch lý của của Thập giá được mặc khải thì con người xa lạ với ý định của Thiên Chúa tức khắc phản đối; thế nhưng y vẫn được mời gọi đi vào một thế giới mới đòi hỏi một thái độ hoàn toàn khác hẳn; và chính cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô vừa đòi hỏi vừa làm cho thái độ mới đó có thể có được.
2. Khi đem vào trong tác phẩm mình bảng gom góp đã được tổ chức đó, Mc sử dụng nó một cách khá độc đáo theo ý định mà ông đeo đuổi trong cuốn Tin Mừng của ông.
Trước hết, có bầu khí nặng nề chung quanh lời loan báo Khổ nạn, gây nên cho việc đề cập đến ý muốn ẩn mình của Chúa Giêsu, do sự đần độn của các môn đồ và việc các ông sợ không dám hỏi. Bầu khí này cũng bao bọc quanh cuộc tranh luận của các ông: câu Chúa Giêsu tra vấn về chuyện dọc đàng và như thế liên kết cách chặt chẽ lời loan báo với cuộc tranh luận, đã tạo nên một cảnh hồi hộp mà sự lặng thinh của các môn đồ càng làm tăng thêm. Sau cùng, việc đối chiếu đường và nhà, hai nơi tương ứng với hai hoạt động khác nhau, hai giáo huấn khác nhau (dọc đường Chúa Giêsu đi và nói về mình; trong nhà Người ngồi và dạy dỗ các môn đồ) mới làm dịu lại bầu khí.
Như thế, nơi Mc, lời loan báo thứ hai về cuộc Khổ nạn với những gì theo sau, đánh dấu một giai đoạn của một hành trình vừa có tính cách địa lý, vừa có tính cách thiêng liêng. Thật vậy, chủ đề con đường đã xuất hiện trong 8,22 khi xảy ra việc tuyên xưng ở Caisaria và lần loan báo đầu hết, để rồi được lặp lại trong hai lần loan báo còn lại (9,30-34 và 10,32) và kết thúc với việc chết ra lành người mù ở Giêricô mà chủ đề đóng khung (10,46-52): đầu tiên Bartimê (người mù Giêricô) “ngồi bên vệ đường” và lúc cuối “theo Chúa Giêsu trên đường” dẫn đến Giêrusalem. Chỉ duy Mc đã đặt ba lần loan báo Khổ nạn “trên đường đi”, trong khung cảnh một cuộc hành trình dẫn Chúa Giêsu với các môn đồ từ Caisaria của Philipphê ở cực bắc, xuống Galilê, đến Giêrusalem ngang qua Giêricô.
Chắc hẳn ông muốn dạy: từ việc tuyên tín của Phêrô, kết điểm của phần nhất cuốn sách và là mặc khải còn mơ hồ và khiếm khuyết về tư cách Messia của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu bắt đầu thực hiện cách đích thực ý định của Thiên Chúa và mặc khải dứt khoát bản phân cùng công việc của Người, bằng cách dấn thân trên một con đường mới sẽ đưa Người đến cái chết. Con đường ấy của Con người, đường khổ nạn, luôn là một nghịch lý nhiệm mầu chỉ được mặc khải trong bí mật thôi nhưng vẫn khó hiểu và gây bối rối. Tuy nhiên, chính trên con đường này mà Chúa Giêsu muốn kéo các bạn hữu của người đi; trong lần loan báo thứ ba, ta sẽ thấy Người đi trước một mình, có các môn đồ theo sau đầy sợ hãi; chính Người sẽ hỏi đầu tiên (như thường thấy trong Mc), nhưng họ im lặng. Rõ ràng là họ khổ sở đi theo Người trên đường ấy và do đó không phải ngẫu nhiên mà cuộc tranh luận xảy ra ở dọc đường: con đường tạo nên sân khấu cho cuộc hành trình của Chúa Giêsu tiến dâng số phận, và cũng tạo nên khoảng cách giữa người với các môn đồ Người.
Thành ra các bạn đường của Chúa Giêsu phải trải qua một cuộc khai tâm khó khăn mới trở thành môn đồ đích thực. Chủ đề nhà, riêng của Mc, cũng gắn liền với cùng một kiểu phối trí hình ảnh ấy. Thường thường, nhà này không tìm thấy ở đâu, nhưng nó đóng một vai trò rõ rệt: Chúa Giêsu đem vào cho nhóm môn đồ mà mới đây Người đã gầy dựng, đã tách riêng ra để tạo nên gia đình mới của người (3,31-35); đó là nơi chuyện trò thân mật, giải thích riêng tư (7,17; 9,28; 10,10. x 4,10.34) xa hẳn đám đông và địch thủ. Nhưng lần này, nghi nhà được xác định rõ: đó là nhà ở Capharnaum: phải chăng Mc còn nghĩ đến nhà của Simon (1,21-29; 2,1)? Nếu thế thì toàn thể diễn từ này (phát sinh do câu hỏi mà các môn đồ nhãn giới trần tục đặt ra và bắt đầu với lời dạy về kẻ đầu hết.Cuối cùng kết thúc bằng một câu bí nhiệm: hãy có muối nơi các ngươi và hãy sống hòa thuận với nhau) muốn dạy cho chúng ta hiểu: môn đồ được khai tâm để sống thái độ tôi tớ trong và nhờ cộng đoàn: trong cộng đoàn, người môn đồ sẽ học cách thay thế mối ưu tư chiếm chỗ nhất là cái luôn chia rẽ và gây chống đối, bằng việc kiếm tìm chỗ rốt hết, là phương thế duy nhất để tạo khắp nơi an bình; và như vậy, người môn đồ ấy mới có thể thực sự theo Chúa Giêsu trên đường đi Giêrusalem. Jean Brière, Assemblées du Seigneur 56, tr. 42-52.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ngày nay ai dám nghiêm trang tuyên bố rằng mình chỉ có một tham vọng là sống một đời sống thánh thiện, phù hợp với thánh ý Thiên Chúa với bất cứ giá nào Mọi người sẽ cười vào mặt, sẽ cho là điên và rồi thương hại kẻ đó. Muốn hướng đời ta vào sự hiền lành, nhưng không, tha thứ, khiêm tốn, lưu tâm đến tha nhân và thánh ý Chúa, chính là dấn thân đi ngược dòng, chính là trở nên khiêu khích và sẽ bị chống đối từ phía những người mà thái độ này là một lời tố cáo họ. Hiện tượng này không chỉ xảy ra vào thời đại ta: ở Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu, ở Alexandria vào thế kỷ I trước Chúa Giêsu cũng đã như vậy. Và trong Hội Thánh, sẽ luôn có hiện tượng này. Nhưng đó lại là chính từ, đôi khi rất anh hùng, mà mỗi tín hữu chân chính phải có. Cần phải sống cái thế giới mới trước khi rao giảng nó. Cần phải sống nó để thế giới mới trở thành thực tại, với bất cứ giá nào. 2) Chúa Giêsu được sai đến để tái tạo vũ trụ như ngày đầu tiên từ tay Thiên Chúa. Người đến không phải để thay đổi các cơ cầu xã hội đương thời, nhưng dể chiến thắng trên một bình diện sâu xa và nội tâm hơn. Người đến để chỉ cho ta con đường giải thoát khỏi những ham muốn, vị kỷ, ghen tương. Con đường đó chính là con đường thập giá, con đường đi ngược chiều với chuyển động tự nhiên của ta. Tất cả chúng ta dầu muốn làm lớn, không chỉ làm lớn, mà còn lớn hơn, lớn hơn xứ nọ, lớn hơn người kia. Bằng một giọng vừa dịu dàng nhưng cương quyết, Chúa Giêsu nói: Nếu ai muốn làm lớn, hãy làm người nhỏ nhất. Để được vậy, cần phải có một tâm hồn thanh thoát, vô vị lợi. Ta thường có khuynh hướng đón tiếp, thân cận với những ai có thể giúp ích cho ta tiến lên địa vị xã hội. Chúa Giêsu lại nói: Hãy đón tiếp các trẻ em. Đón tiếp trẻ em là một việc làm vô vị lợi, vì thường chúng chẳng đem lại lợi ích cho ta. Chúa Giêsu nói đó là con đường giải thoát nội tâm và là con đường xây dựng một thế giới mới phải hợp với chương trình của Chúa. 3) Chúng ta không luôn luôn thấy rõ đức tin sẽ dẫn ta đến chỗ nào, nhưng chúng ta vẫn đi theo, không dám hỏi Chúa hoặc cố gắng đào sâu; đó là thái độ của các môn đồ khi Chúa nói với họ những lời khó nghe, khó chấp nhận. Đối với chúng ta ngày hôm nay, có nhiều biến cố trong đời ta hoặc đời kẻ khác mà ta thấy khó hiểu, khó chấp nhận. Ta không thấy Thiên Chúa muốn dẫn ta đi đâu, đâu là những nẻo đường mà Ngài đang muốn ta phải trải vượt. Đời sống Kitô hữu là thế: có lúc là một đại lộ thẳng tắp với đèn báo hiệu dọc đường, nhưng thường là một ngõ hẹp quanh co mà ta không biết sẽ dẫn tới chỗ nào cả. Nhưng dù có bao nhiêu chướng ngại khó khăn, ta vẫn được bảo đảm rằng có một con đường và con đường đó dẫn đến một cùng đích: “Ta là đường đi”. 4) Tụ họp lại để cùng dâng lễ, ta hãy để cộng đoàn và Lời Chúa chất vấn về cái làm nên cuộc sống của ta. Bởi vì đế việc dâng Thánh lễ có ý nghĩa đích thực, ta phải khởi hành từ đời sống của ta. Trước khi đặt một dấu chỉ hữu hình giữa các môn đồ, Chúa Giêsu đã chất vấn và mời gọi họ hãy vượt thắng mình, hãy hồi tâm trở lại: “Đang khi đi đường, các ngươi đã tranh luận gì với nhau thế?”. Ở giữa cộng đoàn, ta cũng được mời gọi nhìn lại cuộc đời ta với những cái tốt và không tốt, và rồi Lời Chúa sẽ làm sáng tỏ cuộc đời ta. Bao giờ mối dây mật thiết này không có giữa cuộc đời ta và việc dâng lễ, Thánh Thể sẽ mất tất cả ý nghĩa của nó. 5) Chúng ta phải vượt qua các phản ứng nhân loại, các tranh chấp của ta, để đón nhận Chúa vào cuộc đời ta, và đón nhận anh em ta nhân danh Người, như người ta đón nhận một trẻ nhỏ. Chính lúc chúngs ta để mình bị Lời Thiên Chúa chất vấn, chúng ta mới có thể đón nhận dấu chỉ của Chúa ban cho ta: đối với các môn đồ, đó là một đứa trẻ; đối với chúng ta hôm nay, đó là chiếc bánh được bẻ ra. Để đón nhận các dấu chỉ của vương quốc Thiên Chúa hôm nay, cần có một sự hồi tâm, một cuộc đoạn tuyệt. Chúng ta được kêu mời tự chất vấn về cách thức chúng ta đón nhận kẻ khác, với tất cả bản tính của họ, với những mối ưu tư, công việc, sáng kiến, ý tưởng của họ. Tất cả những điều ấy thật là cụ thể và tầm thường... nhưng chính giữa cái tầm thường ấy mà Chúa tỏ mình ra cho ta chính trong mức độ ta niềm nở với tha nhân mà ta có thể thực sự tiếp đón Chúa.
Tin mừng Mc 9: 30-37: Trang Tin mừng này gợi lên một hình ảnh rất đẹp của Chúa Giêsu: Ngài ôm lấy em nhỏ. Những cái ôm trong cuộc sống thường mang nặng ý nghĩa tình cảm.
Trang Tin mừng này gợi lên một hình ảnh rất đẹp của Chúa Giêsu: Ngài ôm lấy em nhỏ. Những cái TN 25-B196
Trang Tin mừng này gợi lên một hình ảnh rất đẹp của Chúa Giêsu: Ngài ôm lấy em nhỏ. Những cái ôm trong cuộc sống thường mang nặng ý nghĩa tình cảm: cái ôm thân tình của bạn bè hay người thân lâu ngày gặp lại, cái ôm yêu thương của các cặp tình nhân… Cái ôm của Chúa Giêsu không chỉ diễn tả sự yêu mến nhưng còn nhấn mạnh đến sự đón nhận.
Chúa Giêsu đã mở rộng vòng tay để đón nhận tất cả mọi người. Em nhỏ là hình ảnh của những người bé mọn, yếu ớt, bất hạnh, bệnh tật, khổ đau… và cũng là chính chúng ta. Thiên Chúa đón nhận chúng ta với tất cả những gì chúng ta có và những gì chúng ta là. Ngài không chê con người tầm thường với vô số thiếu sót và tội lỗi. Chính Ngài đã Nhập Thể để ôm lấy tất cả những yếu đuối nhất của thân phận loài người.
Và Chúa Giêsu thấy những đặc tính của con trẻ là tín nhiệm, đơn sơ và chân thành. Trẻ con thường không có tham vọng và không tự phụ. Ðón nhận trẻ em có nghĩa là đón nhận những người giống như trẻ con: người khiêm tốn, người thấp hèn, người nghèo đói, người đau yếu, người yếu thế, người bị bỏ rơi.. Nếu phân tích, ta thấy người khiêm tốn có nhiều đức tính của trẻ con. Người khiêm tốn là ngưòi biết nhận ra mình yếu hèn, tội lỗi và tuỳ thuộc vào Chúa trong mọi sự, và hành động theo sự xác tín của mình: không giả tạo, không đóng kịch. Người khiêm tốn là người biết tuỳ thuộc vào quyền năng của Chúa, vào ơn khôn ngoan và chương trình quan phòng của Chúa.
Với tất cả những điều đó, ta thấy Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta mở rộng vòng tay để cảm thông, đón tiếp những người như em nhỏ trong Tin mừng. Cử chỉ ôm gồm hai động tác: dang cánh tay ra và vòng cánh tay lại. Dang cánh tay ra để đi đến với những người đang cần sự quan tâm, yêu thương và che chở. Vòng cánh tay lại để ôm lấy tất cả những gì thuộc về họ, bao gồm cả sự hôi hám, nhuốc nhơ của bệnh tật hay thái độ cọc cằn, xua đuổi của họ…Thật ra, không phải chỉ hơi ấm tình thương từ hành động của chúng ta an ủi họ, mà chính họ cũng là nguồn sưởi ấm cho trái tim của chúng ta. Bởi lẽ, khi chúng ta đón nhận họ, chính là lúc chúng ta đón nhận Chúa Giêsu và đón nhận chính Thiên Chúa là suối nguồn yêu thương chúng ta.
Nói như vậy không có nghĩa là Chúa Giêsu ngăn cản người ta làm lớn. Trong xã hội cũng như trong Giáo hội phải có những người làm lớn, những người nắm giữ địa vị nọ kia để điều hành guồng máy tổ chức trong Giáo hội và xã hội. Tuy nhiên Chúa bảo làm lớn là để phục vụ chứ không phải chỉ vì ham chức tước. Làm lớn còn có nhiều cơ hội và phương tiện để phục vụ như có ngân khoản, có người thừa hành. Chúa bảo ta chỉ tìm được sự bình an và hạnh phúc thực sự khi sống trong gương mẫu khiêm tốn phục vụ. Chúa chỉ cho ta thấy việc làm vĩ đại thật, không phải là việc phô trương cho người khác biết đến, nhưng được tìm thấy trong việc quên mình để phục vụ tha nhân. Và đó là một nghịch lý của Kitô giáo. Ðể nhắc nhở cho mình và cho hàng giáo sĩ và giáo dân lời Chúa dạy về việc khiêm tốn phục vụ, các Ðức giáo hoàng thường thêm châm ngôn La tinh Servus servorum, có nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ vào trước chữ kí tên.
Chính Chúa Giêsu đã đến để dạy ta bài học phục vụ trong khiêm tốn. Người là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình xuống, mặc lấy thân xác yếu hèn của loài người, sinh sống giữa nhân loại. Trong bữa tiệc li, Chúa nêu gương phục vụ trong khiêm tốn bằng cách rửa chân cho các tông đồ và dạy ta rửa chân cho nhau nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Như vậy ta thấy Chúa Giêsu đến để đổi ngược lại những giá trị của loài người. Theo lời Chúa dạy thì người ta không bao giờ thỏa mãn trong việc tìm kiếm địa vị và vinh dự, nếu chỉ vì ham muốn vinh dự và địa vị.
Cội rễ của sự dữ là ghen tương và kiêu ngạo như trong bài trích sách Khôn ngoan hôm nay nêu ra những ý định cuả người kiêu ngạo định làm để gài bẫy, nhục mạ, tra tấn và lên án người công chính. (Kn 2, 1-20). Ðó cũng là điều mà thánh Giacôbê tông đồ nhận xét trong thư gủi giáo đoàn: Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi việc xấu xa (Gc 3, 16).
Chúa Giêsu triệt hạ tính tự kiêu tự đại của những người kiêu ngạo bằng cách dạy họ về đức khiêm tốn: Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người (Mc 9, 35).
Theo lời Chúa dạy thì tính tự kiêu tự đại là một nết xấu mà người môn đệ Chúa phải xa tránh và loại trừ để luyện tập nhân đức khiêm tốn để làm người rốt hết. Một vài hậu quả của tính tự kiêu mà ta đọc thấy trong thánh kinh là các thần dữ, vì không vâng lời phụng sự Thiên Chúa, nên đã bị đày ải xuống âm phủ. A-đam và E-và đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, cũng vì nghĩ rằng mình có thể trở nên ngang hàng với Thiên Chúa, khi ăn trái cấm.
Làm thế nào để trở thành người cao cả thật sự
Có người cố làm tăng giá trị của mình bằng cách trang điểm thân xác. Tuy nhiên, người ta không thật sự trở nên cao cả nhờ nhan sắc, vì "tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người".
Có người tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng của cải vàng bạc, nhưng thực ra, "giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu".
Có người trau dồi và phát huy tài năng cho người ta nể phục, hoặc cố giành những địa vị cao trong xã hội để nâng giá trị mình lên.
Còn Chúa Giêsu, nhân cơ hội các môn đệ tranh cãi sôi nổi ai là người lớn nhất, Người chỉ cho họ một cách để thực sự trở thành cao cả: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" (Mc 9,35)
Đức Trinh nữ Maria nêu gương mẫu cho ta về đức khiêm tốn. Trinh nữ không mơ ước địa vị làm mẹ Ðấng cứu thế như giới phụ nữ Do thái thời bấy giờ. Thiên Chúa nhìn thấy lòng khiêm tốn của trinh nữ Maria nên đã chọn trinh nữ làm mẹ Ðấng cứu thế. Khiêm tốn thực sự là sống trung thực với lòng mình và nhìn nhận sự thực về mình: ưu điểm cũng như khuyết điểm. Vì nhìn nhận sự thực về mình nên trinh nữ Maria đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa về những việc trọng đại Người đã thực hiện nơi mình trong kinh Magnificat.
Xin cho chúng ta nhìn lên Mẹ và noi gương Mẹ sống đơn sơ và khiêm hạ.
Ăn ngon mặc đẹp, né tránh được khổ đau, sống vui sống khoẻ, có ai cấm chúng ta mơ ước như TN 25-B197
Ăn ngon mặc đẹp, né tránh được khổ đau, sống vui sống khoẻ, có ai cấm chúng ta mơ ước như thế không ? Bậc hiền tài biết ý thức: văn ôn võ luyện, đấng bậc sinh thành sống tốt, sống gương sáng cho con cháu, những học sinh chăm ngoan, trau dồi kiến thức, hẳn đó phải là khao khát chính đáng. Cho dù con người giới hạn đủ điều, nhưng ai cũng có cơ hội để vươn lên, hãy nghe để hiểu, hãy biết mình được yêu thương, để sống tốt, sống đúng, sống đẹp. Người ta không gieo trồng tri thức khi còn trẻ, làm sao có bóng râm lúc về già ! Con đường đến thành công, không thể có bước chân kẻ lười biếng. Sợ già, sợ xấu, sợ ốm đau bệnh tật, sợ chết, đó không phải là tội, chúng ta sẽ bị quở trách, khi sống vô kỷ luật, chưa có ý sẽ làm điều lành xa điều xấu.
Người xưa cho rằng: cha mẹ giầu thì con có, cha mẹ khó thì con không, thực tế thì gia đình, xã hội, đang huấn luyện nên những con người có tâm có tầm, hầu xây dựng đất nước quê hương phồn thịnh. Thầy tài giỏi đức độ, trò sẽ tiếp thu được những lời hay ý đẹp, nhân loại mới hy vọng nhìn thấy một tương lai: người người, nhà nhà, hạnh phúc. Hành trình Thầy trò Đức Giêsu đi Giêrusalem, để lại cho chúng ta nhiều nghịch lý: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Lẽ nào Đức Giêsu quyền năng, lại sẵn lòng để người ta bắt trói, tại sao Đấng đã từng làm nhiều phép lạ, chữa trị đủ thứ bệnh cho muôn dân, rồi sẽ chấp nhận để người ta giết chết ? Vâng, Đức Giêsu là hiện thân lòng thương xót, là tình yêu cứu độ, ta luôn có tự do, có sứ mạng riêng, hãy bày tỏ niềm tin của mình.
Thánh sử Marcô cho rằng, các môn đệ hôm đó vì không hiểu, vì sợ, mà không ai dám hỏi, hoặc thắc mắc về điều Thầy vừa truyền dạy. Nếu hiểu các môn đệ theo nghĩa tiêu cực: chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, chưa thấy chết chưa sợ. Nếu hiểu theo cách tích cực: các ông rất khôn ngoan, biết đánh lừa cảm giác, nói chuyện thực tế về quyền bính, về chức vụ lớn nhỏ, làm vơi đi nỗi sợ hãi trước sứ mạng theo Thầy. Đồng ý rằng, con người có sinh, ắt có tử, đó là quy luật; kẻ ngu dốt, phải nhận lấy khổ đau, sự chết, là do bê trễ, thiếu cố gắng, là không tin vào lòng tốt của cha mẹ và người thân. Đau khổ thập giá là điều kiện trở nên môn đệ Đức Kitô, khiêm tốn phục vụ minh chứng ta là học trò Đức Kitô, tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu ta lãnh nhận và chia sẻ.
Nên một tình yêu, là sức mạnh của liên đới hiệp thông, là “kháng thể” giúp ta thắng vượt thứ viêm nhiễm kiêu căng, biết xả thân phục vụ theo ơn gọi đặc biệt của mình. Ở trong Đức Kitô, người môn đệ sẽ hiểu: con đường tới vinh quang, phải trải qua thập giá, tình yêu chân chính không thể bị bào mòn bởi thời gian, cũng không bị lung lay bởi hoàn cảnh. Nên một tình yêu, nên một trong Đức Kitô, không phải là tìm cách né tránh khổ đau, sự chết, cũng không phải cậy dựa vào sự thông thái của mình để tìm đến vinh quang, đúng hơn, hãy khiêm tốn đặt trọn niềm tin nơi Thầy Giêsu. Tất cả mọi người muốn đến với nhau, đều phải bước đi trên đôi chân của mình, không thể nhờ ai bước thay ta, tất cả muốn trở nên môn đệ Đức Kitô, phải tự bỏ mình, sống tín thác vào tình yêu Giêsu.
Nên một tình yêu, nên một với khổ đau thập giá Đức Kitô, không phải là lời mời gọi nên một trên lý thuyết môi miệng, đúng sai, chức quyền hay dân đen, tất cả đều có chung sứ mạng sống vâng phục thánh ý Chúa Cha. “Ai muốn làm lớn, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Làm lớn, làm người đứng đầu, đâu phải là ăn trên ngồi chốc, nhưng phải là người hầu hạ, phục vụ, hết mình vì tình yêu, chỉ khi có tình hiệp thông với Đức Kitô, ta mới thực sự là môn đệ của Thiên Chúa yêu thương. Ngày hôm nay, Đức Giêsu sẽ không chỉ đưa ra hình ảnh em bé mà nhắc nhớ ta đón nhận chúng, Ngài sẽ còn lưu ý ta về người già neo đơn, về hoàn cảnh túng nghèo đang sống sát gần chúng ta.
Nên một tình yêu, còn gọi là nên một gia đình nhân loại trong yêu thương, muốn trở nên môn đệ Đức Kitô, không phải chỉ lưu ý tập luyện, được người ta gọi là linh mục tu sĩ là đủ. Người học trò Đức Giêsu, phải thực hành đức ái kitô, phải khao khát nên giống Thầy Giêsu trong tinh thần khiêm tốn phục vụ. Tình yêu thương là chìa khoá mà Đức Giêsu hoá giải khổ đau thập giá, sự chết, hoàn thành sứ mạng cứu độ nhân loại, hiệp thông liên đới niềm vui nên một trong tình yêu Ba Ngôi. Nên một tình yêu, là trở nên môn đệ, trở nên cộng tác viên thực sự cho việc gieo trồng niềm tin, xây dựng nền móng vững chắc của vương quốc yêu thương hiện tại và tương lai. Muốn được trở thành môn đệ Đức Kitô, người ta không thể ngồi một chỗ đời chờ cơ hội, dù tiền nhân có nói: thời thế tạo anh hùng. Giầu sang nghèo hèn, khổ đau thập giá, không phải đó là lỗi tội, đôi khi vì hoàn cảnh, có thể cản trở người anh chị em mình không thể phát huy được tinh thần nên một trong tình yêu Giêsu. Xin tình yêu Chúa, giúp mỗi người luôn biết sống tín thác với Đấng là Thầy là Chúa, sống nhạy cảm hơn với ơn ban mà mình đang có. Amen.
“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9,31).
Thưa anh chị em,
Chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ về cuộc thương khó của Ngài. Khi nghe lời TN 25-B198
Chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ về cuộc thương khó của Ngài. Khi nghe lời loan báo về cuộc thương khó này, một câu hỏi mà anh chị em và tôi có thể đặt ra: Tại sao Chúa Giêsu tốt lành, thánh thiện, đi đến đâu Ngài cũng gieo rắc những điều tốt lành cho người ta, vậy mà lại bị bắt bớ và giết chết?
Nếu chúng ta để ý thì câu trả lời nằm ngay ở trong bài đọc thứ nhất (x. Kn 2,12.17-20). Ở câu 12, chúng ta thấy những kẻ gian ác nói với nhau rằng: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo”. Hóa ra, người công chính bị hại là bởi vì đối với những kẻ gian ác họ thấy ngứa mắt, thấy bực bội khó chịu, giống như là đang đau mắt mà bị một luồng ánh sáng chiếu vào.
Để diễn tả cụ thể hơn, anh chị em nhớ lại câu chuyện của Thánh Gioan Tẩy giả. Mỗi năm vào dịp lễ Giáng sinh, chúng ta nghe Thánh Luca kể chuyện Chúa Giêsu được sinh ra ở Bêlem dưới thời của vua Hêrôđê đại đế. Ông có tới mấy người con trai, và sau này là ông chia phần cho mỗi người con coi sóc một phần lãnh thổ, trong đó cũng có một người con tên là Hêrôđê Antipas. Hêrôđê Antipas có một người anh trai tên là Philíp. Hêrôđê Antipas này thấy vợ của anh mình xinh đẹp, mà bà vợ của ông anh thì cũng lại đồng tình với ông này. Thành thử ra, hai người toa rập với nhau, rồi thì Hêrôđê Antipas quyết định cướp vợ của anh mình. Thánh Gioan Tẩy giả bảo không được làm như thế. Kết quả là ngài bị cho vào tù luôn. Và đến một ngày thuận tiện, Hêrôđê Antipas ra lệnh chém đầu thánh Gioan Tẩy giả (x. Mc 6:17-29).
Đấy là một minh họa rất cụ thể người công chính bị sát hại, bởi vì đối với kẻ gian ác, họ thấy chướng mắt họ, ngăn cản họ, và nếu chúng ta đọc Kinh Thánh thì sẽ thấy không chỉ có một chuyện đâu, mà nhiều chuyện tương tự như thế, và cũng không chỉ trong Kinh Thánh, mà lịch sử của Giáo hội và trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta vẫn gặp đi, gặp lại những trường hợp như vậy. Chẳng hạn như trong lịch sử của Giáo hội mà anh chị em nghe đến ông vua Henry VIII. Ông ấy cũng là Công giáo! Bà vợ của ông ấy làm sao đó, hoặc là không sinh con cho ông ấy được, thế là ông muốn cưới một người vợ khác, nên làm đơn xin phép Đức giáo hoàng. Đức giáo hoàng không cho. Ông quyết định không theo Công giáo nữa và lập Anh giáo riêng, mà khi đó có những vị quan lớn ở trong triều ngăn cản, không những không được mà bị cho vào tù luôn. Thế cho nên, những chuyện đó đó nó là cái minh họa rất cụ thể để giúp cho chúng ta hiểu Lời Chúa ngày hôm nay.
Vậy thì thưa anh chị em, tôi nghĩ có hai câu hỏi mà cho chính chúng ta khi đọc lời Chúa hôm nay có thể tự chất vấn mình.
Câu hỏi thứ nhất đó là: Có bao giờ anh chị em và tôi muốn sống thoải mái trong tội lỗi, và vì thế chúng ta gạt bỏ lời Chúa ra bên ngoài giống như ngày xưa người ta gạt bỏ Chúa Giêsu, thì bây giờ chúng ta gạt bỏ lời Chúa ra bên ngoài, để mình có thể sống thoải mái trong tội lỗi của mình?
Thánh Augustinô, như anh chị em biết, lúc còn trẻ ông cũng bê bối lắm, có bà mẹ là Thánh Monica lúc nào cũng ở bên cạnh để mà khuyên can, nhắc nhở. Ông khó chịu lắm! Lúc đó hai mẹ con đang ở bên châu Phi. Rồi Augustinô quyết định đi Italia ở thành phố Milano để lập nghiệp. Mẹ Monica cũng muốn đi theo, ông đành phải chiều thôi. Đưa mẹ ra tận bến cảng ban đêm, lúc bà đang thiếp ngủ, ông trốn mất. Monica thức dậy không thấy con trai đâu nữa, vì ông muốn sống thoải mái theo theo đam mê của mình, đành gạt mẹ sang một bên, không muốn bà mẹ ở bên cạnh để mà nhắc nhở khuyên can gì cả. Chúng ta cũng có thể những lúc như thế. Mình sống trong tội lỗi, mình biết rõ như vậy nhưng không bỏ được cái tội đó, cho nên mình muốn gạt bỏ lời Chúa. Tôi không muốn đến nhà thờ để khỏi phải nghe giảng. Tôi không muốn gặp ông Linh mục nào đó để khỏi phải nghe khuyên bảo này nọ, có khi tôi còn đặt vấn đề về nội dung Đức tin, nó đúng hay sai. Sâu xa là để tôi biện hộ cho cái đam mê xấu của mình, cái câu hỏi đó chúng ta có thể đặt ra cho chính mình.
Câu hỏi thứ hai đó là theo gương của Chúa Giêsu và các Thánh, anh chị em và tôi có can đảm để mà sống theo lời Chúa, nói lời Chúa cho dù mình phải chịu thiệt thòi không?
Chúng ta đọc ở trong Kinh Tám Mối Phúc, những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Mình có dám chấp nhận bị thiệt thòi, chứ đừng có nói gì bị bắt bớ, hay là bị bách hại, vì mình can đảm sống theo lời Chúa không? Đấy cũng là một câu hỏi rất quyết liệt cho chúng ta, thưa anh chị em.
Tôi gợi một vài ý suy niệm văn tắt như thế để tất cả chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau. Chúa biết là chúng ta yếu đuối. Xin Chúa thêm sức cho chúng ta để có sự can đảm nội tâm, sự can đảm từ phía bên trong để dám sống trung thành với lời Chúa, cho dù có thể vì vậy mà chúng ta phải chấp nhận những thiệt thòi trong đời sống. Nhờ vậy, một cách nào đó, chúng ta góp phần để làm chứng cho chân lý của Tin mừng mà Chúa mời gọi chúng ta. Amen.
Khi nhận định về đời người, một tác giả đã viết: “Thông thường, chúng ta dành nửa đầu cuộc đời TN 25-B199
Khi nhận định về đời người, một tác giả đã viết: “Thông thường, chúng ta dành nửa đầu cuộc đời để đấu tranh để vượt qua người khác, và nửa đời còn lại để đấu tranh vượt qua chính bản thân mình”. Xem ra nhận định này khá chính xác đối với đa số chúng ta. Ở một tuổi nào đó, chúng ta không còn tham vọng chiến đấu để chạy đua với người khác, mà đối diện với chính bản thân. Khi nhận định một cách công tâm và trung thực, chúng ta nhận ra, đối thủ lớn nhất chính là bản thân mình. Đối thủ ấy luôn thường trực trong chính chúng ta. Đó là sự cố chấp, ích kỷ, bao biện, hiếu thắng và đam mê. Những nết xấu này, nếu không được kiểm soát, sẽ gây nhiều hậu quả tai hại, phá vỡ mối tương quan với người khác. Một chiến sĩ trẻ sẵn sàng xông pha nơi chiến trường, gắn bó yêu thương như ruột thịt với đồng đội; khi lớn tuổi về hưu, cũng con người ấy lại không vượt qua được những tranh chấp và quyền lợi nhỏ nhoi, để rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn. Kẻ thù lớn nhất, chính là bản thân chúng ta. Ki-tô hữu được mời gọi hãy nhận ra điều ấy, để biết mình, biết người, hầu uốn nắn cuộc đời mình nên giống Đức Giê-su. Người đến trần gian để hiến mạng sống phục vụ con người. Trên thập giá, Người đã trở nên người nghèo nhất trong số những người nghèo ở thế gian.
Sự ghen tương ích kỷ là nguyên nhân của những xung đột, bạo lực, chia rẽ và cãi vã. Thánh Gia-cô-bê đã lập luận một cách dễ hiểu. Ngài cho biết, để có một cuộc sống tương thân tương ái, trước hết phải làm chủ cái tôi trong chính con người của mình (Bài đọc II). Vị tông đồ cũng viết trong phần kế tiếp: “Anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật, thì anh không còn là kẻ vâng giữ, mà là kẻ xét đoán Lề Luật. Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?” (Gc 4,11-12). Quả thật, ngày nay người ta thích đưa ra kết luận như sau: “mọi tội lỗi đều từ bởi miệng mà ra; mọi bệnh tật lại từ miệng mà vào”.
Thanh luyện tâm hồn để sống khiêm tốn và sống vì người khác, đó là thông điệp chính mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ với chúng ta trong Chúa nhật này. Thánh Mác-cô làm chúng ta ngỡ ngàng, khi thuật lại cuộc cãi vã tranh giành của các môn đệ, và cuộc cãi vã này xảy ra ngay khi Chúa vừa nói với các ông về cuộc khổ nạn của Người. Sự việc đã bị Chúa Giê-su bắt “quả tang” và nhân dịp này Người đã cho các ông một bài giáo huấn, trong đó Người nêu nguyên tắc bất di bất dịch cho tất cả những ai muốn làm môn đệ Người: Muốn làm lớn, thì phải phục vụ; Hãy có tâm hồn đơn sơ như trẻ em. Chúa Giê-su không nói suông, mà chính Người làm gương cụ thể cho chúng ta, như tác giả Mác-cô ghi lại lời tuyên bố của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).
Muốn chiến thắng bản thân, phải nhận diện và gọi tên những nết xấu thường trực trong con người mình. Vì trong lòng chất chứa những dụng vọng và ý đồ ghen tỵ, nên người ta muốn làm hại người khác. Tác giả sách Khôn Ngoan đã gọi đó là “Phường vô đạo” (Bài đọc I). Dường như những người này cũng tin vào Thiên Chúa, nhưng ghen tương đố kỵ đã làm cho lòng họ trở nên chai đá. Họ thù ghét những người tốt bụng và lập mưu để triệt hạ những người công chính.
Đối diện với sự dữ, người tin vào Chúa luôn không hoảng loạn và nhất là không lấy ác báo ác. Người công chính tin vào đức công minh của Thiên Chúa. Tác giả Thánh vịnh đã diễn tả niềm xác tín cậy trông của người tín hữu, khi gặp gian nan hoạn nạn và khi bị người đời khinh ghét. Ai tin vào Chúa, chắc chắn sẽ không phải thất vọng, vì Người là Đấng trung thành.
Trong khi con người luôn quy hướng về bản thân, thì Chúa Giê-su lại hướng chúng ta đến với người khác. Khi phục vụ, chúng ta tìm được niềm vui. Khi sống khiêm nhường, chúng ta nên giống Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Đích điểm của đời sống Ki-tô hữu là cố gắng mỗi ngày để giảm thiểu những đam mê, bớt đi những ích kỷ. Lúc đó, kẻ thù lớn nhất nơi chúng ta sẽ bị tiêu diệt, và chúng ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Thomas Merton, nhà thần học chuyên về tu đức và đời sống thiêng liêng rất nổi tiếng người Mỹ TN 25-B200
Thomas Merton, nhà thần học chuyên về tu đức và đời sống thiêng liêng rất nổi tiếng người Mỹ, đã nói một câu thật chí lý như sau: “Không ai là một hòn đảo.” Có nghĩa là chúng ta chỉ thật sự sống như một con người khi sống nối kết với người khác. Người khác đó không ai khác hơn là những người ta gặp hàng ngày, thậm chí có thể là những người không cùng ‘phe’ mình. Nói chung, người khác mà chúng ta đề cập ở đây là tất cả mọi người trong cộng đòan.
Còn gì hạnh phúc hơn khi chúng ta được sống trong một cộng đòan, nhỏ bé như gia đình hoặc rộng lớn như Giáo hội, mà trong đó mọi thành viên đều sống cho nhau, vì nhau và thương yêu nhau. Muốn được như thế thì mọi thành viên trong cộng đòan cần có trách nhiệm xây dựng và hoàn thành mục tiêu sống và nghĩ đến nhu cầu của nhau.
Trái lại, nếu các thành viên trong cộng đoàn chỉ nghĩ và sống cho quyền lợi riêng, thì chúng ta không cần đi tìm ‘hỏa ngục’ đâu xa nữa; nó hiện diện ngay trong môi trường và lối sống ích kỷ mà chúng ta đang dành cho nhau đó. Và hậu qủa của lối sống ích kỷ là những va chạm, bất hòa và đổ vỡ. Một thực tế đáng buồn là chúng ta quá dễ dàng hòa hợp với lối sống đó. Và như cơn bịnh ung thư, nó cứ thế lan rộng và ăn dần vào từng bộ phận và giết dần giết mòn các chức năng khác của thân thể.
Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn, nhưng một trong những nguyên nhân gây ra chia rẽ trong cộng đoàn lại xẩy ra bởi lòng ước muốn của những người lãnh đạo. Như các Tông đồ, các nhà lãnh đạo cũng bị cám dỗ về quyền lực.
Hẳn anh chị em vẫn còn nhớ lời cầu xin của Gia-cô bê và Gio-an. Các ông chỉ xin Chúa cho ngồi hai bên Chúa mà thôi. Điều đó có nghĩa là nếu Chúa là chủ tể (Tổng Thống) thì một ông là Thủ Tướng và ông kia là Tổng trưởng quốc phòng. Còn vị trí nào cao hơn điều mà các ông xin. Các tông đồ kia cũng có tham vọng như thế, nhưng không ‘nhanh miệng’ bằng hai anh em ông Gio-an, vì thế đâm ra tức tối (Mk: 10:41).
Nói tóm lại, nhìn lại các chứng cứ và các hiện tượng đã xẩy ra trong quá khứ, chúng ta nhận ra rằng quyền bính để thống trị, quyền lực để áp bức thường là những nguyên nhân khiến cộng đòan - nhỏ bé như gia đình, hay rộng như Giáo hội - bị chia rẽ và phân tán. Ai trong chúng ta cũng có trải nghiệm này.
Anh chị em thân mến,
Gia đình ít khi bị đổ vỡ vì con cái. Các cháu có thể là nguyên nhân gây ra sự bất đồng trong việc giáo dục. Nhưng nguyên nhân chính yếu thường xẩy ra bởi cha mẹ. Thay vì dùng khả năng, ân phúc để xây dựng và phục vụ lẫn nhau, nương tựa và cùng giúp nhau chu toàn nghĩa vụ được trao ban; trái lại chúng ta lạm dụng uy quyền để áp bức và thống trị nhau.
Thậm chí có những tình huống bạo lực xẩy ra trong gia đình. Chỉ vì không ai chịu thua ai. Ai cũng dành phần thắng, phần nhất về cho mình. Trong khi dùng quyền bính để sai bảo người khác, chúng ta đã quên đi một điều là ai nói mà chẳng đuợc, ai cũng bảo vệ lập trường và lý luận của mình. Lắng nghe nhau mới là điều khó mà chúng ta cần học.
Nói tới đây, tôi nhớ lại những lời khuyên của các bậc trưởng thượng, trải qua bao thử thách trong cuộc sống chung. Các ngài đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm trong việc xây dựng gia đình của họ như sau. Họ nói rằng, thua là nghệ thuật sống chung trong gia đình. Khi bạn thua là lúc bạn thắng. Thắng chính mình để sống cho nguời khác hầu đem lại bầu khí an vui và hạnh phúc cho gia đình.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể nào loại bỏ các khuynh hướng xấu đang lan tràn và ảnh hưởng cuộc sống của chúng ta, đó là lối sống thống trị, ăn trên ngồi trốc. Trước hoàn cảnh đó, đặc biệt để giải quyết các tranh cãi của các Tông đồ hôm nay, Đức Giê-su đã đưa ra một giải pháp luôn luôn mới lạ và vô cùng hiệu quả nếu chúng ta biết áp dụng, và đây cũng là một thách đố cho Giáo Hội trong mọi thời đại.
Trong quá khứ quyền bính của các vị lãnh đạo Giáo Hội được công nhận về mặt thế quyền nữa. Thần quyền và thế quyền hòa trộn với nhau. Các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội quá nhiều quyền bính và được tôn vinh quá mức. Vinh quang mà họ thụ hưởng phản ảnh quyền lực của thế gian hơn là cách thức mà Chúa Giê-su dậy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người.” Không chỉ có thế, sau đó Người đem một em nhỏ đến và đặt cháu đứng giữa các môn đệ, rồi ôm lấy cháu rồi nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy.”
Như anh chị em đã biết, vào thời Đức Giê-su, thân phận của người phụ nữ và trẻ con không được tôn trọng và quí mến. Đối với họ thì hai hạng người này bị coi là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội. Theo luật thì các cháu phải chờ đến lúc lên mười hai tuổi mới đuợc tham dự các nghi thức phụng vụ tại Đền Thờ.
Đối với Đức Giê-su thì khác, khi đem em nhỏ đến và đặt giữa các ông là lúc Người muốn căn dặn các ông và chúng ta rằng: em nhỏ này là hình ảnh tượng trưng cho những người thấp cổ bé miệng, nghèo hèn, bị coi thường và không có tiếng nói về mặt đạo cũng như mặt đời. Như vậy, qua cử chỉ đón tiếp thật ân cần mà Đức Giê-su dành cho em bé hôm nay, Người muốn dậy các ông bài học quan tâm và đón tiếp nhau.
Không ai trong chúng ta là người giầu có hết. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là người nghèo. Chúng ta chẳng có gì trao cho nhau cả. Tất cả đều lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng trao vào tay chúng ta những món quà cho người khác. Vì thế, khi chúng ta đón tiếp người nghèo, người tất bạt, người đói khát, trần truồng, bịnh hoạn, những người không có địa vị như trẻ em thì đó không phải là một hành vi bố thí, thương xót về thân phận của họ bị coi thường, cho bằng nhận ra sự hiện diện của Đức Chúa nơi những người đó. Chúa hiện diện trong con người và cuộc sống của họ, cho nên khi chúng ta đón tiếp, yêu thương và giúp đỡ những người như thế là giúp đỡ và yêu thương chính Chúa.
Lời khuyên của Chúa được kèm theo việc làm của Người. Cử chỉ của Đức Giêsu khi ôm em nhỏ vào lòng là lúc Người biểu lộ lòng quí mến, yêu thương và tiếp nhận. Tiếp nhận một em nhỏ như thế chắc chắn không phải để em nhỏ phục dịch mình, nhưng là cơ hội mà Người muốn dậy cho các môn đệ bài học phục vụ. Hãy nhớ lại Lời Người đã nói “ai phục vụ ta thì hãy theo Ta”. Chúng ta đã là môn đệ của Người, vì thế chúng ta không còn chọn lựa nào khác hơn là phục vụ. Đó chính là lẽ sống và niềm vui của người môn đệ.
Như vậy, điều Chúa khuyên: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải là người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” quá rõ ràng. Có nghĩa là ai muốn làm lớn, theo tinh thần của Đức Ki-tô, phải là người phục vụ trước. Phục vụ là chìa khóa, là nguyên tắc của quyền lãnh đạo. Uy quyền có được trao ban cũng là do Thiên Chúa. Địa vị, quyền cao chức trọng cốt để phục vụ mọi người, chứ không phải để thống trị, như Chúa phán: "Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ." Chúa đã đảo ngược cách hiểu thông thường về sự vĩ đại, vị trí của người làm lớn. Trong Nước Trời, người lớn nhất không phải là người có quyền lực, địa vị cao, mà là người hạ mình, phục vụ người khác.
Như vậy, qua trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta đảo ngược những giá trị mà thế gian thường đề cao, thay vào đó là tấm lòng phục vụ và quan tâm đến những người yếu thế trong xã hội. Bởi vì, chỉ có Chúa mới là ông chủ, còn tất cả chúng ta chỉ là những người thừa hành và phục vụ lẫn nhau. Nói cách khác, cuộc sống của những kẻ có niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh là cuộc sống phục vụ, sẵn sàng hiến mạng mình vì ích lợi của người khác. Amen!