“Con Người đến để ban mạng sống Mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy”. Người hỏi: “Các con muốn Thầy làm gì cho các con?” Các ông thưa: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Chúa Giêsu bảo: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được”. Chúa Giêsu bảo: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định”. Mười môn đệ kia nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”: Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Không ai muốn “chạm trán” đau khổ, nghĩa là ai cũng tìm mọi cách và bằng mọi giá để tránh đau khổ, thế nhưng hầu như ngày nào chúng ta cũng phải đối mặt với đau khổ, dù ít hay nhiều, với các dạng và mức độ khác nhau.
Chính Chúa Giêsu đã từng tỏ cho các môn đệ biết rõ rằng “Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Một câu ngắn mà có tới 2 từ PHẢI và 1 từ BỊ, cả hai đều ở thể thụ động. Não lòng quá! Đau khổ có hệ lụy gần gũi với nước mắt, loại nước đặc biệt mang vị mặn đặc trưng.
Thế nhưng đau khổ như một phần tất yếu của cuộc sống, như “phần cứng” được cài đặt mặc định trong mỗi con người. Một đứa trẻ chưa hề nếm mùi đau khổ, thế mà vừa sinh ra đã bật tiếng khóc để chào đời. Vui sao lại khóc? Đứa trẻ nào không khóc là có vấn đề, cha mẹ lo sốt vó. Như vậy, mặc nhiên người ta đã chấp nhận sự đau khổ là phần tất yếu. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).
ĐAU KHỔ CÓ VỊ ĐẮNG HAY NGỌT?
Bài đọc I hôm nay là một phần của bài thứ tư trong số các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53:10). “Bị nghiền nát vì đau khổ” là để “được trường tồn”. Ngược đời quá! Với con người, như thế thật là chua chát, cay đắng, có thể không còn nước mắt để khóc nữa. Người Tôi Trung đó chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia giải thích: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11).
Đau khổ nào cũng cay đắng, đắng đến tê lòng, nhưng đau khổ vẫn có vị ngọt bùi kỳ lạ. Trong thực tế cuộc sống, khi chịu đau khổ vì tình yêu, có người gọi nỗi đau khổ đó là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm”. Vậy đó, đau thương mà vẫn thú vị, đau khổ mà vẫn dịu êm. Còn nước mắt lại được ví von là “giọt nước mắt ngà”. Thế mới lạ, thế mới cao thượng. Người đời con khả dĩ nhận thức như vậy huống chi những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa! Ai có thể cảm nhận được như vậy chính là người ta đã vượt lên trên nỗi đau khổ. Chắc chắn không ai có thể tránh đau khổ, nhưng muốn tránh đau khổ thì chỉ còn cách đi xuyên qua đau khổ. Đó là cách độc đáo để tự “vượt qua số phận”.
Người can đảm chấp nhận đau khổ mà không than thân trách phận, không so đo với những người may mắn khác, chắc hẳn người đó phải có chiều sâu tâm linh, sống trong niềm phó thác nơi Thiên Chúa quan phòng. Thật vậy, tác giả Thánh vịnh bày tỏ: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Nói được như vậy là biết rõ Chúa là người thế nào: “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:9). Chúng ta không thể nào hiểu hết tình yêu Chúa, cũng không thể cân-đo-đong-đếm Lòng Chúa Thương Xót, vì tình yêu thương ấy hoặc lòng trắc ẩn ấy vẫn triền miên hết ngày dài lại đêm thâu, suốt từ thuở hồng hoang trải dài từ đời nọ tới đời kia (x. Lc 1:50).
Tác giả Thánh vịnh tiếp tục minh định: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-20). Ngay cả khi chúng ta quên Ngài mà Ngài vẫn luôn nhớ đến chúng ta, thậm chí cả khi chúng ta hoàn toàn đối nghịch với Ngài mà Ngài vẫn miệt mài tìm chúng ta để đưa về hưởng an bình nơi “đồng cỏ xanh rì bên suối ngọt lành” [x. Tv 22 (23)]. Vô tri bất mộ. Nhưng đã nếm thử Chúa ngọt ngào thế nào rồi thì không thể giữ riêng cho mình, mà tự lòng mình sẽ thôi thúc chia sẻ với người khác về Chúa: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), đồng thời tin tưởng và vui mừng cầu nguyện liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Và tới lúc này thì sự đau khổ không còn vị đắng nữa mà lại hóa vị ngọt ngào và êm dịu. Nghĩa là người ta có thể cảm nhận sâu sắc thế nào là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm” hoặc “giọt nước mắt ngà”.
Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Niềm tin luôn quan trọng trong cuộc sống đời thường, đức tin càng quan trọng gấp bội trong đời sống Kitô hữu, nhất là chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin (*), đồng thời còn phải lưu ý việc tân Phúc Âm hóa.
Thánh Phaolô vừa giải thích vừa khuyến khích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của cả nhân loại”. Quả thật, nếu Lòng Chúa Thương Xót không lớn lao hơn mọi thứ xấu xa tồi tệ nhất trên đời này thì chúng ta chết ngay lập tức. Tại sao? Không khí là bằng chứng sống động về Lòng Chúa Thương Xót: Nếu không khí loãng hơn một chút hoặc đậm đặc hơn một chút, chúng ta đủ chết ngắc rồi chứ đừng nói chi đến thiếu không khí. Đơn giản về không khí thôi thì chúng ta cũng phải không ngừng tạ ơn Chúa rồi, đừng nói chi đến những thứ khác!
ĐAU KHỔ CÓ ĐÁNG MƠ ƯỚC?
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây” (Mc 10:35). Rào trước đón sau, thậm chí như “ra điều kiện” với Chúa vậy. Và chúng ta cũng thường xuyên có cách cầu nguyện như vậy. Chúa Giêsu hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Các ông thưa ngay, không hề ngại ngùng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37). Rất thẳng thắn, rất thực tế, rất rõ ràng. Đây là cách cầu nguyện vị kỷ và tìm tư lợi. Hai con trai ông Dêbêđê chắc mẩm Sư phụ mình rất “ngon”, nổi tiếng như cồn, quyền phép vô song, uy tín vô cùng, chắc chắn Sư phụ sẽ lên ngôi báu trị vì thiên hạ, làm cận thần của Thầy mình thì còn gì oai hơn chứ? Trên cả tuyệt vời! Nếu là chúng ta, có thể chúng ta không muốn làm cận thần như họ, vì như vậy vẫn “bèo” lắm, mà có thể chúng ta muốn làm phó nguyên soái hoặc thủ tướng, chí ít cũng phải xin làm bộ trưởng.
Tuy nhiên, Đức Giêsu bảo ngay: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38). Chén này không phải là chén mật hoặc chén sữa, cũng chẳng phải là chén cà-phê, càng không phải là chén mật ngọt, mà là chén mật đắng; phép rửa này không rửa bằng nước mà rửa bằng máu tươi. Có lẽ các ông không hiểu ý Chúa nên mạnh dạn đáp: “Thưa được” (Mc 10:39a). Quá ngon!
Đức Giêsu thản nhiên: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10:39b-40). Vế thứ hai trong câu nói của Chúa Giêsu thật đáng lưu ý. Nghe Thầy trò họ đối thoại, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với anh em Giacôbê và Gioan. Đó cũng chính là động thái của chúng ta ngày nay, cũng ghen ăn tức ở chứ chẳng hơn gì ai!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết rằng những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em;ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10:42-44). Và Ngài dẫn chứng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45).
Vấn đề phục vụ là chuyện rất tế nhị, dễ “chạm” vào “phần mềm nhạy cảm” của bất kỳ ai – dù đời hay đạo. Nhưng Lời Chúa quá rõ ràng, không bóng gió, không “nói khéo”, không tránh né. Tuy nhiên, trong sinh hoạt thường nhật, cái mà người ta nói là phục vụ người khác nhưng thực chất có thể lại chỉ là cung cách “phục vụ có điều kiện”.
Phục vụ cũng liên quan đau khổ. Hầu như mọi thứ đều liên đới với nhau, nối kết như mạng nhện vậy, nối kết không trực tiếp thì gián tiếp. Trên một tấm bảng đồng, người ta khắc những dòng chữ này:
Lạy Chúa, con cầu xin được Mạnh Mẽ để thành đạt trong cuộc đời, Chúa lại làm cho con ra yếu đuối để biết vâng lời và khiêm hạ.
Con cầu xin có Sức Khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao, Chúa lại cho con chịu tàn tật để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành.
Con cầu xin được Giàu Sang để sống sung sướng thoải mái, Chúa lại cho con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có Uy Quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi, Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần Chúa.
Con cầu xin cho Có Tất Cả để tận hưởng cuộc đời, Chúa lại cho con cả cuộc đời để tận hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn. Nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết cầu xin, thế mà Chúa vẫn ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hóa ra con lại là người hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được vô vàn ân phúc của Chúa.Toàn những thứ trái ngược nhau. Tuy nhiên, chúng ta khả dĩ nhận thấy rằng đau khổ không là điều đáng nguyền rủa, mà ngược lại, đau khổ là điều đáng mơ ước: Thánh giá Chúa trao – như người ta thường nói với người gặp đau khổ. Vui chịu đau khổ là sống đức tin, là bước qua cửa hẹp (Mt 7:13-14; Lc 13:24), là vác thập giá theo Chúa (Mt 10:38; Lc 14:27), là từ bỏ mình (Mt 10:39; Lc 14:33).
Năm Đức Tin đã khởi đầu, nhắc nhở chúng ta phải nghiêm túc xem lại đức tin của chính mình: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32-33).
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và khôn ngoan để chúng con tuyên xưng Danh Chúa mọi nơi và mọi lúc, đồng thời biết dùng ánh mắt đức tin để nhân biết Thánh Ý Ngài trong từng nỗi đau khổ của cuộc đời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
------------- (*) ĐGH Biển Đức XVI đã ban hành Tông thư Porta Fidei (Cổng Đức Tin) hồi tháng 10-2011, nói về việc mở Năm Đức Tin để kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II (Chân phước GH Gioan XXIII) và 20 năm xuất bản sách Giáo lý Công giáo (Chân phước GH Gioan Phaolô II). Năm Đức Tin đã chính thức khai mạc tại Rôma ngày 11-10-2012, và sẽ kết thúc ngày 24-11-2013 (lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ). Chủ đề của Năm Đức Tin là Tân Phúc Âm hóa.
Giáo hội Công giáo Việt Nam chính thức khai mạc Năm Đức Tin ngày 18-10-2012 tại GP Thanh Hóa, nơi diễn ra Hội nghị thường niên các Giám mục Việt Nam, và các giáo xứ khai mạc Năm Đức Tin ngày 21-10-2012, Chúa nhật Khánh nhật Truyền giáo.
TMĐP- Theo Đức Giêsu, người môn đệ tuy biết chắc sẽ nhận được phần thưởng lớn lao trên trời, biết chắc “sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (M 19,29), nhưng không khỏi băn khoăn trước đòi hỏi: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo” (Lc 9,23)…
Đi theo Chúa, ắt phải trông đợi ở Chúa điều gì. Tin Mừng Máccô kể lại điều mong đợi của hai môn đệ Giacôbê và Gioan. Cả hai đều là con của ông bà Dêbêđê: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10,35-36).
Thực ra, đây không chỉ là câu hỏi của riêng hai anh em nhà Dêbêđê, nhưng là câu hỏi bấy lâu hằng nung nấu tâm can nhiều môn đệ khác, nhưng hầu hết đã không dám nói ra, vì sợ bị anh em ganh ghét, và ngại bị Thầy nghĩ mình là kẻ háo danh, ham quyền.
Tuy thế, khi đã mạnh dạn bộc lộ ước mơ làm quan trong vương quốc của Đức Giêsu, Thầy mình rồi, thì hai ông đã không chút ngượng ngùng, do dự, nhưng dũng cảm bảo vệ đến cùng mơ ước của mình, khi trả lời Đức Giêsu : “Thưa được”, khi Ngài hỏi lại các ông: “Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (Mc 10, 38-39).
Thực ra, tất cả mọi người, trong đó có cả chúng ta, ở bước đầu đi theo Đức Giêsu đều nghĩ mình sẽ được nhiều, rất nhiều, trong đó có vinh quang, nên sau một thời gian làm môn đệ, câu hỏi quen thuộc được đặt ra chính là câu hỏi của Phêrô đã đại diện anh em Nhóm Mười Hai thưa với Đức Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27).
Trả lời các môn đệ, cũng là trả lời chúng ta. Trước hết, Đức Giêsu đã không phủ nhận việc “ngồi bên trái, bên phải trong vương quốc của Ngài”, nhưng khẳng định : Việc đó thuộc quyền Chúa Cha, và Chúa Cha “đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10,40).
Nói như thế Đức Giêsu gián tiếp cho các môn đệ biết: để được Chúa Cha cất nhắc, các ông phải có đủ điều kiện, và điều kiện đó là:
1/ Trở nên tôi tớ phục vụ:
Không như “quan lộ” của thế gian, con đường tiến thân trong Nước Trời đi theo một nguyên tắc hoàn toàn khác: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,43-45).
Phục vụ như người tôi tớ trung tín, dù chịu muôn vàn thử thách của Giavê mà ngôn sứ Isaia đã mô tả: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ”, và “vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của ta sẽ làm cho muôn người nên công chính” (Is 53,10.11).
2/ Trở nên Của Lễ chuộc tội:
Không chỉ trở nên tôi tớ phục vụ, người môn đệ còn phải trở nên “Của Lễ”, khi “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45), như Đức Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Của Lễ đền tội cho nhân loại trên Thánh Giá, mà thánh Phaolô đã vẽ lên chân dung của Ngài: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4, 15-16).
Quả thực, khi đi theo Đức Giêsu, người môn đệ tuy biết chắc sẽ nhận được phần thưởng lớn lao trên trời (x. Mt 5,12), biết chắc tên mình đã được ghi trên trời (x. Lc 10,20), biết chắc “sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (M 19,29), nhưng không khỏi băn khoăn trước đòi hỏi: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo” (Lc 9,23); không khỏi lo âu khi bị đặt trước sự dữ, đau khổ, và sự chết, bởi ngay cả Đức Giêsu cũng đã không nói gì nhiều về đau khổ và cái chết là giới hạn bi thương của con người, ngoài mở ra cánh cửa đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh bằng chính con đường khổ nạn, và cái chết tức tưởi, câm lặng của Ngài trên Thánh Giá.
Vâng, hơn lúc nào hết, giữa đại dịch Covid, giữa những thử thách của đời sống và gọng kìm của sự dữ đang bao vây, xiết chặt, đẩy con người vào cô đơn, bế tắc. Những nỗi đau thiếu thốn vật chất, nỗi khổ cô đơn, cô độc, nỗi lo chết vì lây nhiễm dịch bệnh đang thử thách đức tin của chúng ta, và đức tin ấy sẽ chỉ được tôi luyện, củng cố, nếu chúng ta dám tin rằng: chúng ta đang chung phần đau khổ với Đức Giêsu, và Đức Giêsu đang chia sẻ đau khổ với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa ở với con người, và có mặt giữa con người cho đến tận thế, không một giây phút rời bỏ con người.
Xác tín như thế, chúng ta sẽ được cùng Ngài đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh với Ngài, qua cánh cửa của đau khổ và sự chết là “giá chuộc muôn người ”, giá xóa bỏ tội lỗi và cứu độ chúng ta.
Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước đều mạc khải cho chúng ta thấy dung mạo của Thiên Chúa là Đấng Chữa Lành.
- Có những người được Chúa chữa lành sau một thời bị trừng phạt do tội lỗi của họ, như trường hợp bà Myriam là em gái của ông Môisen (x Dân số 12,1-1).
- Có trường hợp Chúa chữa lành sau một thời gian dài bị thử thách đến mức đau khổ cùng cực, như trường hợp ông Gióp.
- Thiên Chúa chữa lành những cá nhân. - Ngài cũng chữa lành cả một tập thể, như trường hợp người Do Thái trong hành trình sa mạc bị rắn lửa cắn (Ds 21,4-19).
*****
Đức Giêsu là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Người đã đến trần gian như một vị Lang Y chữa lành con người về tinh thần cũng như thể xác.
Các tác giả Phúc Âm đều trình bày với chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa bệnh.
- Người chữa đủ mọi chứng bệnh mà người dân đem đến. - Người cũng đến những nơi bệnh nhân tập trung như bên bờ hồ, ở đó có người đã bệnh 38 năm được Chúa chữa (x. Ga 5,1-16) - Người phá mọi rào cản thành kiến để gặp những người cùi và chữa cho họ lành, đồng thời giúp họ hoà nhập cuộc sống bình thường, xứng với phẩm giá con người. - Người cũng tiếp xúc và lắng nghe nỗi lòng của những cô gái làng chơi, những người thu thuế, để quy phục nhân tâm và giúp họ chỗi dậy khỏi vũng bùn tội lỗi. - Cùng với việc loan báo Tin Mừng giải thoát, Chúa Giêsu chữa lành những thương tổn hồn xác, giúp họ tìm được niềm vui và an bình.
*****
Chúa nhật 17-10 năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã kêu gọi toàn thể mọi tín hữu cầu nguyện cho đại dịch Covid-19 mau chấm dứt.
Đã gần 2 năm, kể từ khi đại dịch bùng phát ở Vũ Hán (Trung Quốc), con virus nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thể thấy, đã làm cho cả thế giới điêu đứng hoang mang. Đại dịch này đã nhanh chóng lan rộng trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, cướp đi sinh mạng của gần sáu triệu người.
Tại Việt Nam chúng ta, đã có trên 20 ngàn người chết vì Covid-19 (theo thống kê đầu tháng 10-2021).
Không thể kể hết những hệ luỵ tiêu cực do dịch bệnh gây ra, trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, gia đình và cả tôn giáo.
Trước sự tàn phá của đại dịch, nhiều người đã đặt ra những vấn nạn.
- Có người cho rằng đây là hình phạt của Thượng Đế. - Người khác lại dựa vào những đau khổ hiện tại để phủ nhận Thiên Chúa. Họ cho rằng, nếu Thiên Chúa hiện hữu thì Ngài phải xót thương nhân loại cùng khổ. Không lẽ Ngài dửng dưng trước nỗi thống khổ của con người. Không chỉ lương dân, mà một số tín hữu cũng băn khoăn khi chứng kiến và gánh chịu hậu quả của đại dịch.
****
Trước hết, chúng ta khẳng định, đại dịch và những sự dữ không phải là hình phạt của Thiên Chúa. Bản chất của Chúa là tốt lành và thánh thiện. Nếu Ngài trừng phạt con người, thì hành động của Ngài sẽ trái nghịch với bản chất.
Sự dữ là do con người gây nên, ví dụ:
- tai nạn giao thông do bia rượu hoặc bất tuân luật lệ giao thông; - tàn phá thiên nhiên gây bão lụt và tác hại đến môi trường; - lòng tham và giận dữ gây nên tội trộm cắp giết người. - Cũng có khi sự dữ không do con người mà đến từ những hiện tượng thiên nhiên như động đất, sóng thần.
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Đức tin Công giáo khẳng định với chúng ta điều đó. Nhưng nếu chữa lành là một ưu phẩm của Thiên Chúa, thì đó không phải là ưu phẩm duy nhất của Ngài.
Nói cách khác, Ngài không phải là một lang y hay một bác sĩ chuyên chữa bệnh.
Nhiệm vụ chính của lang y và bác sĩ là chữa bệnh. Nếu lang y và bác sĩ nào không chữa được bệnh thì uy tín của họ sẽ bị giảm dần và có thể mất đi.
Thiên Chúa là Đấng Chữa Lành tâm hồn và thể xác, nhưng Ngài cũng là Đấng Cứu Độ, Đấng giải phóng con người khỏi ách giam cầm của quyền lực sự ác và dẫn đưa con người đến sự thánh thiện hoàn hảo.
Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu, chữa lành con người qua Bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Hiệu quả của Bí tích này là xin Chúa chữa lành những tổn thương linh hồn và thân xác, để họ thêm sức mạnh và khỏi bệnh, và nếu đã đến lúc họ kết thúc cuộc sống dương thế, thì được vững vàng cậy trông và ra đi trong an vui thanh thản.
*****
Hơn nữa, vẫn biết rằng xin ơn chữa lành là một phần của lời cầu nguyện Kitô giáo, nhưng mục đích của đời sống Kitô hữu không phải để được chữa lành mà thôi. Vì nếu như vậy, thì những ai tin Chúa sẽ không bao giờ phải chết.
- Ông Lagiarô được Chúa cho sống lại, nhưng rồi ông cũng phải chết. - Chàng thanh niên con duy nhất của bà goá thành Na-im cũng vậy (x. Lc 7,11-17).
Khi một người lâm bệnh, bản thân đương sự và người thân cầu nguyện với Chúa, để, nếu Ngài muốn, thì Ngài chữa lành.
Tuy vậy, con người đã có ngày khởi đầu cuộc sống ở trần gian, thì cũng có ngày phải ra khỏi trần gian này.
Đau khổ và sự chết gắn liền với thân phận của con người. Vì vậy, người ta gọi cuộc đời này là “cõi tạm”, là “hành trình dương thế”.
Dựa vào giáo huấn của Chúa Giêsu, Giáo Hội Công giáo dạy rằng: cái chết là một sự biến chuyển, là một cuộc khởi hành mới, vì “chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”.
Như thế, mục đích của đời sống Kitô hữu còn là để được cứu độ. Thiên Chúa là Đấng Cứu độ và Ngài cứu chúng ta với tất cả con người chúng ta. Thiên Chúa cứu chữa con người cách triệt để chứ không chỉ giải quyết những tình huống nhất thời mà thôi.
Đôi khi sự dữ lại là dịp để chúng ta rút ra những bài học cần thiết để nên tốt hơn.
Đã gần 2 năm, Đức Thánh Cha và cả Giáo Hội Công giáo cầu nguyện cho đại dịch chấm dứt. Đặc biệt, tại quảng trường Thánh Phêrô, vào buổi chiều ngày thứ Sáu, 27-3-2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cầu nguyện trong một khung cảnh trầm buồn sâu lắng và hết sức cảm động, xin Chúa thương xót nhân loại.
Dù đã cầu nguyện hết sức, dịch bệnh vẫn lan rộng. Trước hiện tượng này, nhiều người đặt câu hỏi:
- phải chăng Chúa không nhận lời chúng ta cầu nguyện và như thế thì cầu nguyện là vô ích.
Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong bài huấn từ của Đức Thánh Cha trong buổi cầu nguyện vừa nêu: Nhân loại đang đi trên một chiếc thuyền, giống như các môn đệ đi trên chiếc thuyền ở biển hồ Galilê. Sóng gió bão táp nổi lên làm mọi người lo sợ. Chính lúc đó, Chúa Giêsu đang tựa gối mà ngủ. Các môn đệ trách Chúa: chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao? (x. Mc 4,35-41).
Trước sự dữ do đại dịch gây ra, cũng có người trách Chúa như vậy.
Chúa đã quở các môn đệ: sao kém lòng tin! và Người đã ra lệnh cho bão táp phải dừng. Chúa có chương trình của Ngài. Ngài hành động theo ý Ngài muốn, vào lúc Ngài muốn và với phương pháp Ngài muốn. Lịch sử đã chứng minh điều ấy. Vì vậy, lời cầu nguyện không bao giờ vô ích.
Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy và hãy gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Chúng ta hãy xin Chúa đoái thương nhân loại khổ đau, hãy tìm sự công chính và gõ cửa lòng thương xót của Chúa.
*****
Đại dịch gây nên nhiều đau khổ cho cá nhân cũng như cho cộng đoàn. Đại dịch cũng là lúc chúng ta chứng kiến những nghĩa cử bác ái chia sẻ tuyệt vời! không phân biệt tôn giáo, vùng miền, tình nghĩa đồng bào đã vượt lên trên tất cả. Giữa đau thương của đại dịch, chúng ta được nghe những “câu chuyện cổ tích” của thời đại.
Với lăng kính Đức tin, người tín hữu còn nhìn thấy ở đó chính là những phép lạ Chúa làm qua những tấm lòng nhân ái của người Việt Nam đối với đồng bào.
Hôm nay, tại tất cả nhà thờ ở Việt Nam, chúng ta đều dâng thánh lễ cầu nguyện, chúng ta tin rằng lời cầu xin tha thiết của chúng ta sẽ chạm đến trời cao, và quê hương của chúng ta sẽ sớm trở lại an bình, trẻ em lại được đi học, công nhân được đến xưởng, người nông dân tiếp tục ra đồng, niềm vui và hạnh phúc sẽ trở lại với chúng ta.
Không cần phải nhiều kiến thức, chúng ta vẫn hiểu: ăn trên ngồi trốc, là câu thành ngữ nói đến kẻ quyền thế, đối tượng mà xã hội thường né tránh, vì sợ, vì ngại va chạm, lỡ lời có thể: không phải đầu cũng phải tai. Dù không có ý khinh khi người nghèo kẻ khờ, xã hội vẫn xem họ thấp kém, cũng vì danh dự nên mới có câu: làm người có thể nghèo, có thể xấu, có thể hôi, bẩn, hay bất tài, nhưng tuyệt đối không được hèn. Cũng trong cách nói đó: khôn chẳng có tiền, khôn ấy dại; dại có uy quyền, ấy dại khôn ! Con người tự nhiên là mơ ước giầu sang địa vị, túng nghèo, hèn hạ, dẫn đến buồn chán, là sự thật. Dù chỉ bình thường, cha ông ta vẫn biết khuyên con cháu: mọi cố gắng sẽ được đáp đền, hãy chuyên chăm học học tập, để xây dựng tương lai mang tên mình.
“Thưa Thầy, xin cho hai anh em con, một đứa ngồi bên hữu một đứa ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Có phải vừa khôn vừa lanh, nên hai anh em họ đã biết “thủ thỉ”, xin Thầy hai vị trí đặc biệt trong nước trời ? Chắc không phải vì trâu chậm uống nước đục, không phải vì khờ hay chậm, 10 anh học trò kia để vụt mất ước mơ chỗ nhất cho nhì khi Thầy được vinh quang ? Thực ra, mang thân phận người đầy giới hạn, 12 vị chài lưới năm xưa, đã phản ánh đúng thực chất là các ông khôn theo đường lối thế gian, các ông khờ do chưa có khái niệm gì về hạnh phúc thật trong nước Chúa. Qua 21 thế kỷ rồi, người tín hữu chúng ta vẫn đang “nhỏ to” với Thầy Giêsu: xin cho con học giỏi, xin cho con được trúng vé số, xin gia đình con làm ăn phát đạt … Đức Giêsu đang nhắc lại điều quan trọng: các ngươi có uống chén Thầy sắp uống, có chịu phép rửa Thầy sắp chịu không ?
Khôn là biết theo Thầy, khôn là biết hiệp thông với chén Thầy uống, liên đới với phép rửa Thầy sắp chịu, và trở nên khờ dại trước những ảo ảnh thế gian, đó là điều căn bản, khi người tín hữu muốn ở bên Thầy Giêsu trong nước của Ngài. Khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương, dại là chỉ lo tìm danh lợi thú ở đời này, khôn là biết cậy trông vào sức mạnh của Thầy Giêsu. Khôn là biết trở nên nhỏ bé trước anh chị em mình, dại là tìm thoả mãn dục vọng, bắt người khác hầu hạ mình. Đức Khổng Tử dạy các học trò: người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người. Là học trò Đức Giêsu, chúng ta không những phải biết tự lo cho mình, ngoài ra còn có bổn phận phải giúp đỡ anh chị em xung quanh mình. Vì chưng, “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hy sinh mạng sống mình”.
Khôn ăn người, dại người ăn. Khôn làm cột cái, dại làm cột con. Khuynh hướng tự nhiên, ai cũng muốn khôn, muốn giầu sang chức trọng, ví như quy luật ngầm, kẻ nghèo hèn phải phục vụ hầu hạ giai cấp thượng lưu. Tìm kiếm vị trí trong xã hội, người ta cũng muốn có luôn chỗ nhất chỗ nhì trong Nước Chúa. Người ta xin làm lớn, xin chức quyền ở đời này, đời sau hy vọng vẫn có kẻ hầu hạ mình. Đức Giêsu đã thẳng thắn với Giacôbê và Gioan: “các ngươi không biết điều các ngươi xin…”. Vâng, ở đời người ta vẫn nói: hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra bóc trần ai cũng như ai. (ca dao). Ở trong tình liên đới hiệp thông với Đức Giêsu, người tín hữu kitô chắc chắn phải được thấm nhuần giáo huấn yêu thương và phục vụ.
Khôn hay khờ, giỏi hay dại, thông thái hay hèn kém, tất cả đều dừng lại khi nhắm mắt xuôi tay, giầu nghèo, cùng đinh hay quý tộc, cũng phôi phai theo thời gian. Ngồi bên tả bên hữu, có vị trí nhất nhì khi Thầy được vinh quang, Đức Giêsu không coi đó là vấn đề chính, hãy uống chén đắng, hãy chịu phép rửa với Thầy, đó là điều cần thiết. Theo Thầy Giêsu làm môn đệ, một quá trình vừa học vừa hành, dù là gia trưởng hiền mẫu, là tu sĩ, giáo sĩ, ai cũng có cơ hội để thông phần cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô. Ở đời này, ta có thể chậm hay khờ, có thể nghèo hoặc đen đủi xấu xí, chẳng phải do thân phận bọt bèo mà Chúa quên, Chúa không cho hưởng hạnh phúc đời đời. Phần thưởng cao quý ở thiên quốc, không hệ tại nhà giầu hay con quan, mà tuỳ thuộc cách sống của mỗi người.
Khôn hay khờ, ngồi ghế nhất hay ghế nhì, đúng là vinh dự cho bản thân, gia đình, dòng tộc, nơi cuộc sống này. Đội cũng vào chợ, gánh cũng vào chợ, có chức quyền, hoặc chỉ là dân đen, đều được mời gọi theo Đức Giêsu đi hết hành trình đời người, khi ta uống chén Thầy uống, chịu phép rửa Thầy chịu. Nhân loại sẽ không lý giải được, tại sao có người giầu ăn không hết, có người lần chẳng ra ? Tại sao có kẻ khôn người khờ, tại sao có kẻ tài giỏi, sung túc, nhưng họ không hạnh phúc ? Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta: uống chén Thầy uống, chịu phép rửa Thầy chịu, chính là chiếc chìa khoá mở ra những nút thắt ở đời. Khôn hay khờ, ở bên tả bên hữu trong nước trời, đều cao quý, nhưng tin theo Chúa phải sống thánh ý Chúa, giầu sang, tài giỏi, chức quyền là để phục vụ, là để thực thi đức ái kitô. Xin tình yêu Chúa ở mãi trong ơn gọi và nén bạc của từng người trong chúng ta. Amen.
Trong lễ này, Giáo Hội đặt bài Tin Mừng kể lại trận cuồng phong nổi lên, khi Chúa Giêsu và các Tông đồ đang trên thuyền đi qua “bờ bên kia”. Trước cơn sóng dữ ập vào thuyền, các Tông đồ hoang mang, sợ hãi, các ông hốt hoảng chạy đến đánh thức và kêu cứu Thầy. “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Có gì đáng sợ bằng đứng trước cái chết, nó cho ta một cảm giác kinh hoàng. Lời kêu cứu của các tông đồ xem ra cũng là lời trách móc, có vẻ như Thầy quá vô tư hững hờ trước mạng sống của các đồ đệ. Nhưng có lẽ cần phải như thế để các ông nhận ra sự yếu đuối và bất lực của con người mình.
Ðức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Thế là sóng yên biển lặng như tờ. Lúc đó, Đức Giêsu mới trách lại các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy. Có Thầy mà cũng như không. Mặc dù các ông đã từng chứng kiến những phép lạ lớn lao Thầy làm, nhưng hôm nay các ông mới thực sự kinh ngạc và thốt lên: “người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Nhìn các Tông đồ đối mặt với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời.
Thế giới mà nhiều người ảo tưởng là vĩnh cửu dường như sắp sa chìm trong biển cả của sự dữ. Chỉ cần nhìn lại một năm rưỡi nay (từ 2020), ta đã thấy nhiều thảm họa xảy ra: trước tiên là cuộc cháy rừng ở Úc, hơn 10 triệu ha bị phá hủy; khoảng 1.400 ngôi nhà ở bang New South Wales bị thiêu rụi. Tiếp đến là trận “lụt hồng thủy” 40 ngày đêm ở Trung Quốc nhấn chìm hàng trăm ngàn ngôi nhà, khiến cho hàng ngàn người chết, đó là chưa kể đến lũ lụt ở các tỉnh miền Trung Việt Nam làm chết hàng trăm người, và cuộc chiến tàn sát nhau vì màu da sắc tộc trên nước Mỹ. Vượt lên trên các thảm họa kia là thảm họa Covid 19. Cơn đại dịch này làm cho thế giới kinh hoàng, làm tê liệt nền kinh tế và các hoạt động xã hội. Số người chết vì Covid 19 tính tới thời điểm này đã lên đến 10 triệu người ([1]). Thảm họa này làm cho con người điên đảo, cạn kiệt niềm hy vọng vào một thế giới tươi sáng.
Có nhiều người nghĩ đây đúng là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Nó làm cho nhà nhà, người người phải chia ly, kẻ ở người đi không một lời trăn trối. Bao gia đình tan tác, bao người thân chết không thấy xác, bao thương đau về tinh thần và đói khát về thể xác; thời gian héo hắt phai tàn, và không gian im lìm chìm vào hoang vắng; nhà thờ và chùa chiền không bóng người. Mỗi ngày ở Việt Nam có hàng ngàn người phải cách ly, họ đang phải chiến đấu để giành giật lấy từng hơi thở, không biết ngày mai mình còn có mặt ở trên đời nữa không,… Tất cả mọi người đều rơi vào hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, và rồi những khó khăn lại nối tiếp như thất nghiệp, nghèo đói, không nơi nương tựa… Bao người tự hỏi: liệu Thiên Chúa có hay không? Nếu có thì Ngài ở đâu trong biến cố này? Ngài có nghe thấy tiếng con cái đang ngày đêm kêu cầu lòng thương xót của Ngài không? Có khi chúng ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa: Chúng con chết đến nơi rồi mà Chúa không ra tay cứu chữa! Ngài còn chờ gì nữa đây?
Nếu cứ loay hoay tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó thì không bao giờ thỏa đáng, nhưng nếu ta nhớ lại câu chuyện Ladarô trong Tin Mừng Gioan, thì ta sẽ có được tia sáng đầy hy vọng về cách hành động của Thiên Chúa. Mặc dù Chúa Giêsu rất yêu quí Ladarô nhưng Ngài không đến cứu ngay, mà để chết rồi mới đến cứu. Điều này cho ta thấy “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa cứu thoát cho bằng một Thiên Chúa cứu chuộc. Ngài không can thiệp để cứu ta khỏi nhục nhã, đau khổ và chết chóc, nhưng Ngài cứu chuộc ta khi ta đã qua nhục nhã, đau khổ và phải chết cách nào đó” (Ronald Rolheiser). Thật không dễ để hiểu được điều này nếu thiếu cảm nghiệm dưới ánh sáng đức tin.
Tuy nhiên, câu chuyện Chúa ngủ trên chiếc thuyền đang bị bão bùng năm xưa vẫn còn nguyên giá trị. Ngài vẫn ở đó, vẫn bên cạnh các Tông đồ, nhưng lo sợ đã làm các ông quên mất sự hiện diện của Chúa. Lúc này cũng vậy, Chúa đang ở đây, đang đau niềm đau của con người, đang khổ nổi khổ của nhân loại. Nhưng vì quá hoảng sợ, ta không còn nhận ra Chúa. Ngài vẫn ở bên chúng ta, “cho dù người mẹ có quên đứa con của mình, phần Ta, Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).
Thập giá là điều tất yếu của cuộc sống con người. Đau khổ cũng là lẽ tất nhiên trong thân phận làm người. Chúng ta không thể trốn chạy hay đổ lỗi cho Thiên Chúa, mà trái lại, thực tế lại thường là hậu quả của tội lỗi loài người. Mỗi người đều phải vác thập giá của mình, và những đau khổ chúng ta đang chịu lúc này đều liên hệ với những những đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúa đảm nhận tất cả những đau khổ ấy để thánh hóa mọi người chúng ta. Ta đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy thắp lên một ngọn lửa của niềm tin và hy vọng; cần vác đỡ thập giá cho nhau. Được như vậy, thập giá sẽ trở nên Thánh giá, vì nó được đón nhận từ trái tim chúng ta trong sự kết hiệp với trái tim Chúa Giêsu, Đấng đã đổ máu để cứu chuộc chúng ta.
Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng kiêu căng, ích kỷ, tham lam, hận thù, ghen ghét, nhất là chủ nghĩa bá quyền đang bành trướng dưới nhiều hình thức. Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch này, con người mới biết mình là ai? Làm được cái gì? Quả thật, nếu không có Chúa, thiếu Chúa, vắng Chúa, thế giới sẽ trở thành “ngôi nhà ma”, và biển cả của sự dữ là mồ chôn tất cả. Hãy nhìn mọi sự dưới cái nhìn đức tin để thấy Chúa đang hành động, và hành động cụ thể qua những con người đầy thiện chí, đầy nhiệt tình, đang xả thân cho anh em đồng loại ở mọi góc độ của cuộc sống hôm nay. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống của thế giới giờ đây có nhiều thay đổi, có thể mọi người phải tiếp tục sống chung với lũ, nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).
Ước gì nạn Covid không làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa bị “phong tỏa” bằng những suy nghĩ tiêu cực, bi quan, nhưng mở rộng tâm hồn ta để tiếp nhận ánh sáng, tình yêu và ân sủng, mà Thánh Thần Chúa đang tiếp tục tuôn đổ xuống cho những kẻ tin.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Cuộc đời như biển cả mênh mông, có những khi đầy sóng gió chập chùng, với dịch bệnh, tai ương và nghèo túng, biết bao người phải lâm cảnh khốn cùng, chúng con thấy hoang mang và nao núng, lại thấy Chúa như xa cách muôn trùng.
Cuộc sống với đau khổ không thể tránh, bao lần con ưu phiền và than trách, nhưng thử thách lại là phương cách, Chúa muốn tôi luyện đời sống con, qua những đau thương thêm vững vàng, qua những nguy nàn thêm tin cậy.
Thử thách như cơ hội triển nở, giúp con khai mở những tiềm năng, để con khai sáng cuộc đời mình, theo như chương trình tình yêu Chúa.
Thử thách như thập giá hằng ngày, cho con biết luôn kề vai vác lấy, trong an vui và hy vọng tràn đầy, vì thấy mình được nên giống Chúa hơn.
Trong thử thách con thấy mình chới với, nhưng tin rằng Chúa có mặt ở mọi nơi, luôn yêu thương và hành động kịp thời, không để đời con phải chơi vơi,
Thuyền đời con chẳng bao giờ êm ả, chỉ êm ả khi về tới bến quê, chỉ mong sao con giữ vẹn lời thề, biết sống đức tin giữa cuộc đời trần thế, Xin cảm tạ và tôn vinh danh Chúa, trong gian nan thử thách của đời con. Amen.
Đi theo Chúa, ắt phải trông đợi ở Chúa điều gì. Tin Mừng Máccô kể lại điều mong đợi của hai môn đệ Giacôbê và Gioan. Cả hai đều là con của ông bà Dêbêđê: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10,35-36).
Thực ra, đây không chỉ là câu hỏi của riêng hai anh em nhà Dêbêđê, nhưng là câu hỏi bấy lâu hằng nung nấu tâm can nhiều môn đệ khác, nhưng hầu hết đã không dám nói ra, vì sợ bị anh em ganh ghét, và ngại bị Thầy nghĩ mình là kẻ háo danh, ham quyền.
Tuy thế, khi đã mạnh dạn bộc lộ ước mơ làm quan trong vương quốc của Đức Giêsu, Thầy mình rồi, thì hai ông đã không chút ngượng ngùng, do dự, nhưng dũng cảm bảo vệ đến cùng mơ ước của mình, khi trả lời Đức Giêsu : “Thưa được”, khi Ngài hỏi lại các ông: “Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (Mc 10, 38-39).
Thực ra, tất cả mọi người, trong đó có cả chúng ta, ở bước đầu đi theo Đức Giêsu đều nghĩ mình sẽ được nhiều, rất nhiều, trong đó có vinh quang, nên sau một thời gian làm môn đệ, câu hỏi quen thuộc được đặt ra chính là câu hỏi của Phêrô đã đại diện anh em Nhóm Mười Hai thưa với Đức Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27).
Trả lời các môn đệ, cũng là trả lời chúng ta. Trước hết, Đức Giêsu đã không phủ nhận việc “ngồi bên trái, bên phải trong vương quốc của Ngài”, nhưng khẳng định : Việc đó thuộc quyền Chúa Cha, và Chúa Cha “đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10,40).
Nói như thế Đức Giêsu gián tiếp cho các môn đệ biết: để được Chúa Cha cất nhắc, các ông phải có đủ điều kiện, và điều kiện đó là:
1/ Trở nên tôi tớ phục vụ:
Không như “quan lộ” của thế gian, con đường tiến thân trong Nước Trời đi theo một nguyên tắc hoàn toàn khác: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,43-45).
Phục vụ như người tôi tớ trung tín, dù chịu muôn vàn thử thách của Giavê mà ngôn sứ Isaia đã mô tả: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ”, và “vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của ta sẽ làm cho muôn người nên công chính” (Is 53,10.11).
2/ Trở nên Của Lễ chuộc tội:
Không chỉ trở nên tôi tớ phục vụ, người môn đệ còn phải trở nên “Của Lễ”, khi “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45), như Đức Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Của Lễ đền tội cho nhân loại trên Thánh Giá, mà thánh Phaolô đã vẽ lên chân dung của Ngài: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4, 15-16).
Quả thực, khi đi theo Đức Giêsu, người môn đệ tuy biết chắc sẽ nhận được phần thưởng lớn lao trên trời (x. Mt 5,12), biết chắc tên mình đã được ghi trên trời (x. Lc 10,20), biết chắc “sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (M 19,29), nhưng không khỏi băn khoăn trước đòi hỏi: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo” (Lc 9,23); không khỏi lo âu khi bị đặt trước sự dữ, đau khổ, và sự chết, bởi ngay cả Đức Giêsu cũng đã không nói gì nhiều về đau khổ và cái chết là giới hạn bi thương của con người, ngoài mở ra cánh cửa đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh bằng chính con đường khổ nạn, và cái chết tức tưởi, câm lặng của Ngài trên Thánh Giá.
Vâng, hơn lúc nào hết, giữa đại dịch Covid, giữa những thử thách của đời sống và gọng kìm của sự dữ đang bao vây, xiết chặt, đẩy con người vào cô đơn, bế tắc. Những nỗi đau thiếu thốn vật chất, nỗi khổ cô đơn, cô độc, nỗi lo chết vì lây nhiễm dịch bệnh đang thử thách đức tin của chúng ta, và đức tin ấy sẽ chỉ được tôi luyện, củng cố, nếu chúng ta dám tin rằng: chúng ta đang chung phần đau khổ với Đức Giêsu, và Đức Giêsu đang chia sẻ đau khổ với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa ở với con người, và có mặt giữa con người cho đến tận thế, không một giây phút rời bỏ con người.
Xác tín như thế, chúng ta sẽ được cùng Ngài đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh với Ngài, qua cánh cửa của đau khổ và sự chết là “giá chuộc muôn người ”, giá xóa bỏ tội lỗi và cứu độ chúng ta.
Dịch bệnh- phong tỏa là những từ ngữ ám ảnh và sợ hãi nhất của người Miền Nam lúc này. Dịch đến ai, thì người đó phải đi cách ly chịu trăm ngàn khó khăn, rồi ngay cả những người trong gia đình và cả khu xóm lại bị phong tỏa, rào chắn đến nỗi “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, sống thiếu thốn và đầy lo âu sợ hãi.
Có những nơi bị phong tỏa kéo dài 3-4 tháng trời! Cuộc sống hoàn toàn sống nhờ và chờ sự bố thí. Nhưng chính trong hoàn cảnh khó khăn của thời thế lại tạo anh hùng. Anh hùng ở đây là những người hùng đã chẳng quản ngại gian nan, hiểm nguy để dấn thân làm thiện nguyện cứu giúp đồng bào mình. Rất nhiều những hình ảnh đẹp nơi các thiện nguyện viên nhiệt thành đi kiếm rau, kiếm gạo, kiếm mì tôm để tiếp tế cho anh em mình đang trong vùng phong tỏa. Rất nhiều những thiện nguyện viên cúi xuống chăm sóc cho các bệnh nhân f0 đang thoi thóp với mớ hỗn động của dây thở oxy . ..
Họ chẳng màng đến danh vọng, quyền lợi. Họ chỉ làm vì một điều duy nhất là theo bản năng thấy người ta đói thì cho ăn, ai nỡ để anh em mình đói khổ? Họ thuộc đủ mọi thành phần. Cócác linh mục, tu sĩ, giáo dân, người khác đạo thiện nguyện, với nhiều hình thức: Giúp bệnh nhânvà những người bị phong tỏa, họ quyên góp cung cấp lương thực, thuốc men, bình oxy…
Nếu được hỏi về động cơ để dấn thân thì ai cũng nói là vì Chúa, vì Giáo hội mà dấn thân nên chẳng nề gian nan vất vả, hiểm nguy. Có nhiều các bạn trẻ đã can đảm xông pha vào tâm dịch dầu biết rõ rủi ro, hiểm nguy, và đã không ít người cũng đã bị lây nhiễm bệnh sau ít ngày xông pha.
Đây là điều mà Chúa Giê-su luôn mời gọi những người môn đệ là phải sống phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ. Dầu phải hy sinh, phải nằm gai nếm mật mà Chúa bảo đó chính là “chén đắng” vẫn can trường đón nhận: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu”. Vì chưng “ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Đời người ky-tô hữu phải trở nên dấu chỉ cho tình yêu thương mới xứng danh là môn đệ Chúa. Tình yêu thương không dừng lại ở sự xót thương những mảnh đời bất hạnh mà còn phải làm điều gì đó để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Cuộc đời người ky-tô hữu không có yêu thương thì cũng như cây khô héo mà Chúa bảo sẽ mang chất thành củi khô mà đốt. Như muối đã lạt quăng ra đường cho đời dẫm nát. . .
Hôm nay Giáo hội Việt Nam cùng chung một tâm tình là cầu nguyện xin ơn Chúa chữa lành cho nhân loại, và mời gọi từng người tín hữu cũng hãy làm điều gì đó giúp cho anh em đang khổ đau. Giáo Hội Việt Nam đang mời gọi mọi người tín hữu hãy cùng hát lên tâm tình đầy yêu thương như cha Kim Long đã từng viết: “ Xin hãy thương yêu nhau, vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu . Để tình yêu bừng cháy tiên diệt sự chết. Tình yêu bền vững, tháng năm chẳng tàn phai. Vì tình yêu là chính giới luật của Chúa, tình yêu tuyệt đối. Chính Chúa là tình yêu.
Thiên Chúa có thể chữa lành dịch bệnh nhưng Ngài lại rất cần con người cúi xuống băng bó cho nhau. Xin chúng ta luôn là cây lúc chịu nát tan để cánh đồng lúa của Giáo Hội luôn nặng trĩu hạt yêu thương và hy sinh. Amen
Phải khiêm tốn nhìn nhận rằng trong mỗi người chúng ta, đâu đó cũng ước muốn có địa vị thật cao trong xã hội. Mình phải làm sao để dưới một người, trên vạn người mới gọi là thành công. Tiếc là hấp lực ấy đã khiến nhiều người lao vào tìm kiếm và tranh dành như con thiêu thân. Hậu quả là chính họ và nhiều người khác bị tổn hại vì sự cao ngạo và cách lãnh đạo hà khắc của họ.
Thực ra vấn đề trên đây không mới. Trong Tin Mừng[1], không ít lần chúng ta thấy các môn đệ xin cho mình được nổi tiếng với Đức Giêsu. Suốt ba năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã chiếm được cảm tình của dân chúng. Không ít người tung hô và muốn Đức Giêsu lên làm vua của họ, nghĩa là trở thành người lãnh đạo. Là các môn đệ thân tín với Đức Giêsu, các ông phần nào cũng được thừa hưởng “hào quang” này. Bởi thế mà trong Tin Mừng Chúa Nhật 29 hôm nay, chúng ta hiểu được tại sao hai muôn đệ là Giacôbê và Gioan lại xin với Đức Giêsu cho mỗi người một bên, khi Đức Giêsu vinh thắng. Có lẽ vì ý hướng không ngay lành trong lời xin này của hai ông, nên Đức Giêsu mới trách rằng: “Các anh không biết các anh xin gì!” (Mc 10,36). Nếu có mặt trong lúc này, chúng ta cũng thấy hai ông chỉ muốn ngồi mát ăn bát vàng. Hai ông chỉ muốn đi thẳng đến giai đoạn phục sinh mà bỏ qua con đường đau khổ.
Tôi tin ai cũng biết đi theo Đức Giêsu là có ngày được hưởng vinh quang, được vào Nước Trời. Tiếc là trước đó, Đức Giêsu luôn đòi mỗi người phải trải qua con đường thập giá, phải uống chén đắng mà cuộc đời mang lại cho người môn đệ. Nhiều lúc tôi và bạn cũng hăng hái xin uống, như hai môn đệ trong câu chuyện này: “Thưa thầy, chúng con sẵn sàng uống.” (x. Mc 10,39). Nhưng trên thực tế lại khác hoàn toàn. Gặp gian nan thử thách, nhất là đối diện với cái chết, thử hỏi mấy ai dám một lòng tín trung với Thiên Chúa. Điều thú vị là ai bước với Đức Giêsu trong đau khổ, thì cũng được ở với Người trong vinh quang. Đó vừa là lời hứa bảo đảm của Thiên Chúa, nhưng cũng là thách đố cho mỗi người chúng ta.
Dẫu sao chúng ta thử lắng nghe, nhìn vào nhóm môn đệ lúc này, điều gì đang xảy ra? Số là hai môn đệ kia xin mỗi người một bên thầy Giêsu, những người còn lại đâm ra tức tối. Lòng ganh tị của họ là nguyên nhân gây ra chia rẽ. Đành rằng một nhóm phải có người lãnh đạo, nhưng nếu hai môn đệ này được ngồi bên tả, bên hữu thầy Giêsu, trong hoàn cảnh này, tự nhiên những thành viên khác bị xem thường, trở nên những người bị trị. Vì suy diễn như thế, nên họ mới tranh cãi xem ai là người lớn nhất trong nhóm.
Đang hăng máu tranh dành địa vị, Đức Giêsu cho các ông một bài học về thế nào là người lãnh đạo theo đúng ý Chúa. Đức Giêsu xác nhận rằng các thủ lãnh thế gian thường bị rơi vào vòng xoáy quyền lực này (Mc 10,42). Họ sẵn sàng đấu đá, tranh dành để vươn lên chức cao nhất bao nhiêu có thể. Trên đó, họ lấy quyền mà cai trị dân. Đó là chuyện của chính trị, của xã hội từ cổ chí kim, hiện tại cũng thế. Nhìn tới nhìn lui thử tìm được mấy nhà lãnh đạo dân sự vì nước vì dân? Thay vào đó, người làm lớn theo phong cách của thầy Giêsu phải là:
– Làm người phục vụ: Theo cách hiểu của Công giáo, người phục vụ tốt là người hết lòng theo một lý tưởng cao cả nào đó. Ở đây Đức Giêsu muốn các ông phải hạ mình, cúi xuống rửa chân cho nhau (Ga 13, 1-15). Để phục vụ tốt, người ta phải chú trọng đến tình yêu như là động cơ thúc đẩy mọi ý hướng và hành động của họ hướng đến người khác. Trong tâm thế này, người phục vụ hẳn nhiên không tìm sự nổi tiếng, lời tung hô, nhưng trong sự khiêm tốn, như một người thợ được đặt làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa.
– Làm người đầy tớ: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mc 10,44) Đây là một nghịch lý mà không phải người lãnh đạo nào cũng dám chấp nhận. Bởi đầy tớ là người vô danh tiểu tốt, làm những việc tầm thường, không đáng để người đời tán dương ca tụng. Điều này hợp lý, nhưng với Thiên Chúa lại hoàn toàn khác. Khi phục vụ bằng cái tâm, với nhiều tình yêu, người đầy tớ của Thiên Chúa biết mình chỉ là công cụ trong tay Ngài. Nếu Thiên Chúa dùng họ trong công việc gì, thì họ sẵn lòng quảng đại để đáp lời xin vâng[2]. Trong sự vâng phục này, tuy họ phục vụ trong cương vị là người đầy tớ, nhưng người đời sẽ nhận ra họ là chứng tá của Thiên Chúa[3]. Nhờ vậy, qua người đầy tớ này, danh Thiên Chúa được cả sáng, và dĩ nhiên, người này cũng chung phần vinh quang với Chúa. Bởi thế mà suốt dòng lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy biết bao vị Giáo hoàng, các vị thánh thực sự là đầy tớ trung thành của Thiên Chúa và con người. Tình yêu của họ cảm hóa được tha nhân, cung cách phục vụ của họ chiếm được lòng dân. Họ là những anh hùng, là nhà lãnh đạo tài đức, bởi họ đã thuộc lòng bài học của thầy Giêsu dành cho những ai muốn lãnh đạo theo Ngài.
– Hiến mạng vì anh em: Nhà lãnh đạo là người đứng mũi chịu sào. Họ phải là người mục tử sống chết vì đoàn chiên. Chúng ta còn nhớ mẹ Têrêsa thành Calcutta, một phụ nữ chân yếu tay mềm, nhưng cả đời xả thân phục vụ những con người khốn cùng. Mẹ không tử đạo theo nghĩa đen[4], nhưng mẹ đã trao hiến thời gian, sức lực, ước mơ và tình yêu cho công cuộc loan báo tin mừng nơi những người nghèo. Phải chăng vì phong cách lãnh đạo này mà mẹ đã trở nên “vị thánh, người hùng và là người lãnh đạo” không chỉ trong lòng chúng ta, nhưng còn cho rất nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới[5]. Lý do: Mẹ không dùng vũ lực để đáp trả bạo lực, nhưng dùng tình yêu, hiến thân để cảm hóa lòng người.
Các bạn trẻ thân mến,
Những lời chia sẻ trên đây tôi muốn dành tặng cho các bạn và cho chính tôi. Chúng ta đang học tập để trở nên nhà lãnh đạo. Trước là lãnh đạo trong gia đình, sau là Giáo xứ, Giáo hội và xã hội. Hãy mạnh dạn học với thầy Giêsu để trở nên nhà lãnh đạo tài đức. Xin đừng quen ra lệnh, hoặc chỉ trỏ quát tháo. Hãy khiêm hạ phục vụ anh em như người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Gương lành và đời sống thánh thiện sẽ là bằng chứng để cảm hóa mọi người. Rồi khi có địa vị và quyền lãnh đạo trong tay, tinh thần phục vụ sẽ chi phối cho bạn biết cách giúp người khác thăng tiến trên con đường sự thật và tình yêu.
Chắc đến lúc chúng ta phải nghĩ khác: thay vì lãnh đạo theo kiểu “quyền lực cứng”, hãy bắt chước Đức Giêsu, hướng dẫn người khác bằng việc lành phúc đức, bằng tinh thần của người phục vụ vì Thiên Chúa và vì anh em đồng loại (quyền lực mềm). Được như thế, chắc rằng chúng ta sẽ có cơ hội làm lớn!
------------------------------ [1] Mt 20,20-23; Lc 22,24-27; Mc 10,35-45
[2] “Ðối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (x. Lc 17,7-10)
[3] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nhắn với mỗi người chúng ta, với các nhà lãnh đạo Công giáo: “Con người hôm nay cần chứng nhân hơn thầy dạy” (x.Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 41).
[4] Tử vì đạo là làm chứng cho đức tin, làm chứng cho Đức Kitô bằng cái chết của chính mình. Chẳng hạn ở Việt Nam, chúng ta có 117 vị thánh tử đạo.
[5] Ngày 6/9/1997, Mẹ Têrêsa qua đời ở tuổi 87 tại Calcutta. Chính phủ Ấn Độ đã tổ chức lễ quốc tang trọng thể cho Mẹ với sự có mặt của hơn 400 chính khách quan trọng của hơn 20 nước, trong đó có 3 nữ hoàng và 3 tổng thống.
Đức Kitô dậy môn đệ lối sống mới. Lối sống mới khác biệt rất nhiều so với lối sống cũ. Cuộc sống hiện tại thay đổi ít, lối sống thay đổi nhiều. Trưởng thành trong lối sống mới, cuộc sống còn thay đổi nhiều hơn nữa. Trong thời kì chuyển tiếp này môn đệ Đức Kitô thường lúng túng, khi xử thế theo lối cũ, lúc lại xử thế theo lối mới. Khác biệt chính do cách làm việc khác nhau giữa khối óc và con tim. Lối cũ hướng dẫn bởi khối óc. Khối óc hành xử cách cứng rắn, sắt thép, tính toán hơn thiệt trước khi đưa ra hành động. Lối sống mới nghe tiếng nói của tim. Sống tình cảm, theo nhịp rung của con tim để hành xử. Đối xử, giúp đỡ anh em ít hay nhiều đều lệ thuộc vào mức rung động, cảm nhận, bén nhậy của con tim. Thiên Chúa đối xử với tha nhân bằng con tim Ngài. Môn đệ Đức Kitô rất thích lối sống mới, sống tình cảm. Tuy nhiên các ông cần thời gian để học hỏi, làm quen với lối sống tình cảm.
Lẫn lộn giữa mới và cũ. Có lần trên đường đi Capernaum các ông tranh biện ai là người khá nhất, xứng đáng trở thành thủ lãnh, lãnh đạo nhóm. Về nhà, Đức Kitô hướng dẫn các ông. Phong cách trong lối sống mới, lãnh đạo chính là khiêm nhường phục vụ.
‘Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người Mc 9,35.
Được Đức Kitô chọn làm tông đồ là một đặc ân lớn. Giacôbê và Gioan vẫn ước mong được hơn anh em. Học từ kinh nghiệm lần trước, các ông không tranh cãi ai lớn, ai nhỏ nữa. Lần này hai anh em trực tiếp gặp Đức Kitô xin Ngài ban cho điều các ông mong đợi.
‘Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang Mc 10,37
Ba lần Đức Kitô tiên đoán Ngài sẽ bị bắt, chịu đóng đanh, chết và sau ba ngày sống lại. Môn đệ Đức Kitô tin vào sự thông minh, tài trí, cách thoát hiểm siêu quần của Thầy. Các ông tin Thầy luôn có cách tự giải thoát khỏi mọi tai họa. Không ai có thể ám hại được Thầy. Môn đệ tin điều Đức Kitô tiên đoán về cái chết của Ngài sẽ không xảy ra. Nếu tin điều đó thực sự xảy ra, các ông không xin được ngồi bên tả, bên hữu Đức Kitô. Mười môn đệ kia ghen tức khi nghe điều hai anh em Giacôbe và Gioan xin vì các ông không tin Đức Kitô sẽ chết. Trường hợp các ông tin Đức Kitô chết, ba ngày sau sẽ sống lại, các ông đã không chán nản, chạy trốn sau khi Đức Kitô bị bắt. Điều các ông ghen tức cho biết sống theo tiếng gọi của con tim quả chưa bén rễ sâu trong tâm hồn các ông. Đức Kitô không khiển trách các ông nhưng hướng dẫn thêm cho các ông. Ngài nói với các ông hy sinh, tận hiến là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Chính Ngài tự chọn đi con đường đó để đến với Chúa cha. Chính Đức Kitô tự chọn thì việc Ngài để cho bị bắt, đóng đinh, sống lại là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Vì thế Ngài mới xác nhận Ngài đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn dân.
‘Ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ mọi người. Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người’. Mc 10,45
Môn đệ Đức Kitô cũng học từ Thầy Chí Thánh. Các ông cũng tự nguyện hy sinh, chấp nhận đau khổ, vui lòng hiến thân với mục đích duy nhất là làm Vinh Danh Thiên Chúa. Thiên Chúa được vinh danh không phải vì hy sinh, đau khổ của môn đệ, mà chính là lòng yêu mến, lòng tín trung môn đệ dành cho Thiên Chúa mạnh hơn cả đau khổ và sự chết.
Đức Kitô không ban cho hai anh em điều họ xin, nhưng ban cho chén Ngài sắp chịu, cũng như phép rửa Ngài sắp lãnh nhận. Hai anh em đồng í nhưng không hiểu rõ đó là chén gì và phép rửa đó ra sao. Đức Kitô sống lại từ chõi chết cho biết: Cái ác thắng nhất thời, sự thiện thắng muôn đời. Đi theo con đường Đức Kitô hướng dẫn chính là chọn thua để thắng, chọn hy sinh, đau khổ để được vinh quang. Chọn chết nhất thời để sống muôn đời.
Ba lần Đức Kitô nói về cái chết của Ngài. Ba lần đồng nghĩa với nhiều lần. Trong trường hợp Đức Kitô, ba lần còn có nghĩa là điều đó chắc chắn xảy ra. Kẻ chống đối Đức Kitô hành xử bằng lí chí, bằng phán đoán của khối óc. Họ tin là sức mạnh của họ có thể triệt tiêu lối sống tình cảm Đức Kitô rao giảng. Đúng thế hành động ác độc gây đau khổ có khả năng phá hoại thân xác con người, nhưng không thể xác định ác độc lay chuyển nội tâm, thay đổi tâm tính nạn nhân. Lòng xót thương gây thiện cảm, hoán cải. Đây chính là đường lối Chúa.
Roi đòn làm rách nát thân thể Đức Kitô. Thập giá tàn phá hình tượng Ngài, lưỡi đòng đâm thấu tim. Trong khi đó tâm tư Ngài dành cho Chúa Cha không lay chuyển. Tình yêu Ngài dành cho muôn dân trong sáng hơn. Ngài chết trong thinh lặng làm người sĩ quan lãnh đạo quân lính hành hình đấm ngực ăn năn vì hành động tàn bạo, hối lỗi vì lời nói tục tĩu, thô lỗ. Bạo lực đã thua. Khiêm nhu đã thắng. Tình yêu chân chính luôn đi chung với hy sinh. Đức Kitô trở thành vĩ đại cho muôn dân. Môn đệ Đức Kitô chọn đi con đường đó để làm Vinh Danh Chúa. Đức Kitô chết như người nô lệ vô danh. Ba ngày sau, Ngài sống lại, Danh Ngài vang lừng cho toàn thể nhân loại. Kitô hữu sống là sống cho Đức Kitô và chết là chết trong Đức Kitô để được chia sẻ vinh quang Danh Ngài.
Hôm nay, hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu để xin Người một ân huệ. Họ muốn được ngồi một người bên hữu, một người bên tả Thầy khi Thầy được vinh quang. Nghe vậy, cả mười môn đệ khác đều tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Thầy Giêsu đã gọi tất cả các ông lại mà dạy cho biết người làm đầu phải là người hầu hạ và trở nên đầy tớ mọi người.
“Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Chúa Giêsu đã lắng nghe hai ông cầu xin. Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Họ mạnh dạn cầu xin: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10, 37). Các ông ước muốn quyền lực, danh vọng và giàu sang. Các ông nuôi hy vọng Thầy sẽ làm vua. Các ông theo Thầy bấy lâu cũng vì những mộng ước ấy. Thế nhưng, đó không phải là mục đích của Người khi đến trần gian. Trước lời cầu xin đầy táo bạo và đầy toan tính của hai ông, Thầy Giêsu không trách mắng hai ông, không nổi giận với hai ông nhưng chỉ thốt lên: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Trước câu hỏi của Thầy, hai ông mau mắn đáp lại: “Thưa được”. Các ông còn chưa hiểu chén của Thầy là chén đắng Cha trao, phép rửa mà Thầy sẽ chịu chính là hiến tế chính mình trên cây thập giá. Người hứa với các ông: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được” (Mc 10, 39-40). Người đã muốn các ông được chung phần với mình.
Trong thời đại hôm nay, có rất nhiều Kitô hữu cũng đã chạy đến với Chúa và thưa lên cùng một cách thế như vậy. Mỗi người đều xin Chúa thực hiện cho mình điều mình muốn, dù nhiều khi chính họ không hiểu mình đang xin gì. Họ ít bận bân đến việc đâu mới là điều Chúa muốn họ làm, hay đâu mới là điều làm đẹp lòng Chúa. Chúa thấu biết mỗi người cần gì trước khi họ cầu xin, Người sẽ ban cho mỗi người mỗi cách.
Mười môn đệ kia có nuôi hy vọng giống hai anh em này không? Các ông tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Các ông đang bước đi cùng Thầy nhưng chưa cùng chí hướng với Thầy. Về phần mình, Thầy Giêsu biết rõ con đường Thương Khó mà mình sắp bước vào, biết rõ phép rửa mà Người sẽ thực hiện bằng việc hiến tế chính mình. Người khao khát đến cháy bỏng mong cho được hoàn tất phép rửa ấy, để dâng lên Thiên Chúa Cha hy lễ tình yêu. Đã hai lần Người thẳng thắn loan báo cho các môn đệ về cuộc Thương Khó và Phục Sinh nhưng các môn đệ không hiểu, không chia sẻ được tâm tư của Thầy. Các ông sợ hãi nhưng mỗi người cũng bận tâm cưu mang trong mình những toan tính về địa vị và quyền lực. Các ông tranh cãi nhau để dành chỗ nhất, các ông tức tối với nhau, không còn một lòng một chí như trước nữa. Người hiểu rõ các ông đầy những giới hạn như thế nhưng Người vẫn một lòng yêu thương các ông. Đức Giêsu đã gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 42-44). Chính Người đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mc 10,45). Đó mới là chỗ đứng của người môn đệ, là tâm tình và ước muốn mà người môn đệ cần cưu mang.
Lạy Chúa Giêsu! Đã bao lần con khẩn thiết dâng lời cầu nguyện, nhưng cũng bấy nhiêu lần con đã chỉ xin Chúa làm điều con muốn. Con xin lỗi Chúa về cách hành xử của mình. Con cũng tạ ơn Chúa vì tình thương mà Chúa dành cho con. Chúa đã sửa dạy con, nâng đỡ con. Người không quay mặt làm ngơ khi con lỗi lầm nhưng rộng tình tha thứ. “Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, xưa Chúa đã làm cho mạch nước tuôn trào từ tảng đá để nuôi dân được no thỏa khỏi cơn khát. Xin Chúa cũng ban cho con dòng lệ ăn năn sám hối chảy ra từ trái tim khô cằn, chai cứng của con, cho con biết đón nhận tình thương và ơn tha thứ của Chúa”. Để khi được Chúa xót thương, con cũng biết dùng tình thương mà đối xử với anh chị em con. Amen.
Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về việc hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin Thầy Giêsu cho họ được ngồi bên tả và bên hữu Thầy, khi Thầy đợc vinh quang. Đức Giêsu trả lời: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Các ông trả lời: “Thưa được” (Mc 10,39). Đức Giêsu dạy rằng, phép rửa và chén Ngài sắp chịu, sắp uống các ông cũng sẽ được chung phần, còn việc ngồi bên hữu hay tả thì Ngài không có quyền cho, Chúa Cha đã định cho ai thì kẻ ấy được. Mười môn đệ kia nghe thấy vậy đâm ra tức tối với các ông. Bấy giờ, Đức Giê su mới dạy các ông về thuật lãnh đạo.
Theo Thầy bấy lâu, các môn đệ chưa hiểu được sứ mạng thật sự của Thầy mình. Các ông mơ tưởng về một tương lai với quyền bính của thế gian. Bởi đó, các ông mới đến “xí chỗ” trước. Đức Giêsu nói thẳng cho các ông biết là các ông không biết mình đang xin gì. Quả thực, nếu các ông thật sự biết chén và phép rửa của Thầy sắp chịu thì chắc hẳn các ông đã không dám xin Thầy điều đó. Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Tôi Trung của Thiên Chúa. Ngài đến thế gian, sống giữa nhân loại tội lỗi nhưng không phạm tội. Ngài là vị Thượng Tế, là Đấng cảm thương với những yếu hèn của ta (x. Dt 4, 15). Ngài là vị tôi trung, nếm mùi đau khổ để làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của muôn người (x. Is 53,11). Sau khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng, phục sinh vinh hiển, các tông đồ lần lượt được cùng uống chén với Thầy.
Trong khi các môn đệ khác đang tức tối với hai anh em nhà Giacôbê thì Đức Giêsu mới gọi các ông lại, ôn tồn chỉ bảo. “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người (Mc 10, 42-44). Đức Giêsu không chỉ nói không không. Chính Ngài đã trở nên người phục vụ giữa mọi người. Người đã nói rõ: “Vì Con Người đến không phải để người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 10, 45). Quả thực, những ai đi theo Thầy Giêsu đều học được bài học về việc lãnh đạo mà Thầy đã dạy. Họ phải là những người phục vụ, là đầy tớ giữa mọi người. Người phục vụ luôn chủ động chăm lo cho mọi người. Họ không dùng uy quyền để thống trị hay điều khiển người khác. Những người lãnh đạo theo tinh thần của Đức Kitô phải là những người biết dùng tình thương để phục vụ.
Sự khác biệt giữa cách lãnh đạo của Đức Kitô và những người theo tinh thần thế gian là một thách đố lớn. Trong khi người đời tìm kiếm quyền lực, danh vọng và “ghế ngồi” thì người môn đệ Đức Kitô được mời gọi tìm cho mình một chỗ rốt hết, là người phục vụ, là đầy tớ của mọi người. Bao lâu ta còn muốn dùng quyền lực để điều khiển và chi phối kẻ khác thì bấy lâu ta chưa thấm được bài học của Thầy Giêsu. Bao lâu ta muốn người khác phục vụ mình thì bấy lâu ta chưa thể là nhà lãnh đạo đích thực. Ngời lãnh đạo theo gương Đức Giêsu phải là người biết họa lại cuộc sống của Thầy, phải chấp nhận nhỏ bé và rốt hết. Nếu ai cũng trở nên nhỏ bé, coi người khác hơn mình thì cuộc sống sẽ bớt đi sự tranh giành cắn xén lẫn nhau. Đổi lại, cuộc sống là sự yêu thương ngập tràn. Đó là cách lãnh đạo Đức Giêsu đã thực hiện.
Tương tự nhiều vấn đề “tế nhị” khác, Phục Vụ là vấn đề muôn thuở. Phục Vụ đối lập với Hưởng Thụ. Cả hai đều có vần Ụ nên cả hai đều khó thực hiện, vì cái gì bị “đắp ụ” đều gây rắc rối, và ai cũng thích mình là ông CỤ chứ không khoái là thằng CU. Cả chữ Phục Vụ và Hưởng Thụ đều quan trọng ở dạng động từ hơn là danh từ, nghĩa là phải hành động cụ thể chứ không nói suông. Vì Chúa Giêsu truyền lệnh: “Hãy phục vụ, đừng hưởng thụ.” (Mc 9:35)
Ý Chúa hoàn toàn khác hẳn ý phàm nhân. Người ta muốn làm lớn thì Ngài bảo phải làm nhỏ, người ta thích khoác lác thì Ngài cấm khoe khoang, người ta ưa an nhàn thì Ngài bắt phải làm việc, người ta khoái vơ vét vào thì Ngài bảo phải chia sẻ. Cứ thế và cứ thế: Phục vụ.
Nhưng phục vụ là thế nào? Phục vụ là giúp đỡ mọi người – có thể đó là những việc PHẢI LÀM theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có thể là việc MUỐN LÀM vì tự ý, tình nguyện. Tinh thần phục vụ không làm cho người ta thấp kém mà làm cho người ta nên cao quý, vì phục vụ là dâng hiến chính con người bé nhỏ của mình cho Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Phục vụ người khác là phục vụ Thiên Chúa – phục vụ Ngài qua tha nhân. Đó là điều thực sự khó!
Trong xã hội loài người, hằng ngày các công ty, siêu thị, cửa hàng hoặc quán xá luôn có những đợt tuyển nhân viên phục vụ. Công việc của người phục vụ rất bình thường, đôi khi bị coi là tầm thường, nhưng thật ra lại rất cần thiết. Có thể nói rằng không có họ thì các sinh hoạt xã hội khó tồn tại. Không có các công nhân thì giám đốc chỉ bó tay, và xã hội sẽ không có sản phẩm để tiêu thụ. Cách phân biệt “cao – thấp” là do quan niệm của những người thiển cận, nông cạn – tương tự dạng “thiểu não” mà thôi. Chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu, cũng không có nghề nào hơn nghề nào.
Thật vậy, tiền nhân nhận xét chí lý: “Nhất sĩ, nhì nông; hết gạo chạy rông… nhất nông, nhì sĩ.” Ảnh hưởng “cao – thấp” là do quan niệm xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Kẻ sĩ được coi là “dân ngon lành.” Thế nhưng hết gạo ăn thì “ngon” cái nỗi gì? Ai hơn, ai kém? Liệu còn sức để vênh cái mặt lên? Còn trong gia đình, ai to hay nhỏ mà phân biệt việc giặt giũ, đi chợ, nấu ăn, rửa chén, quét nhà,…?
Trong cuộc sống, mọi người đều phục vụ lẫn nhau, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc bằng cách nào đó. Đừng tưởng tôi tớ mới phải phục vụ chủ nhân, mà chính chủ nhân cũng phải phục vụ tôi tớ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có nhân viên mới phải phục vụ giám đốc, mà chính giám đốc cũng phải phục vụ nhân viên bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có đệ tử mới phải phục vụ sư phụ, mà chính sư phụ cũng phải phục vụ đệ tử bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có giáo dân mới phải phục vụ linh mục quản xứ, mà chính linh mục cũng phải phục vụ giáo dân bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có bề dưới mới phải phục vụ bề trên, mà chính bề trên cũng phải phục vụ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có người nhỏ mới phải phục vụ người lớn, mà chính người lớn cũng phải phục vụ người nhỏ bằng cách nào đó; v.v…
Rất nhiều mối quan hệ trong xã hội, mọi mối quan hệ đều liên đới với nhau. Vợ chồng đối với nhau, cha mẹ và con cái đối với nhau, anh chị em đối với nhau, bạn bè đối với nhau,… nói chung là con người đối với con người. Chúa Giêsu đã có nguyên tắc sống: “Ai làm đầu phải hầu thiên hạ.” (x. Mt 20:25-28; Mc 10:40-45) Đó là luật.
Kinh Thánh cho biết rằng, sau khi được Chúa Giêsu chữa khỏi chứng sốt nặng, nhạc mẫu của ông Phêrô liền chỗi dậy PHỤC VỤ Người. (x. Mc 1:29-31; Lc 4:38-39) Chính Chúa Giêsu đã từng minh định: “Thầy sống giữa anh em như MỘT NGƯỜI PHỤC VỤ.” (Lc 22:27) Quả thật, ngay tại Bữa Tiệc Ly, trước khi bị bắt, chính Chúa Giêsu đã đích thân hạ mình bằng cách quỳ xuống mà rửa chân cho các môn đệ, Ngài muốn làm gương và dạy về tầm quan trọng của sự phục vụ (x. Ga 13:3-20) cho mọi người, nhất là những ai muốn trở nên hoàn thiện.
Vấn đề phục vụ có liên quan thái độ “chảnh” – vì phục vụ trái ngược với kiêu căng. Người ta thường thích “sai” người ta làm cái này, việc nọ, và phải như thế mới oai. Chỉ là ảo tưởng và ngu xuẩn, vì đi ngược lại đường lối của Chúa mà lại dám hãnh diện. Một hành động mà hai tội: khinh người và kiêu ngạo. Việc phục vụ rất bình thường mà lại quá nhiêu khê. Phục vụ là dấn thân, rất cần phải khiêm nhường thật lòng mới có thể phục vụ hết mình. Nếu không thì thêm tội chứ chẳng thấy phúc đâu!
Thật lạ, vấn đề phục vụ còn liên quan nịnh bợ, tâng bốc, ranh mãnh, mưu thâm kế độc. Cứ thấy “ông to, bà lớn” thì họ tìm mọi cách đưa đón, đâm thọt, đãi bôi, gièm pha,… cốt để tỏ ra mình có uy, tìm mọi cách “bợ trên, đạp dưới.” Lũ sai nha bất nhân đó chỉ là “cáo mượn oai hổ,” chứng tỏ đầu óc kém cỏi, ngu dốt với cái đầu rỗng tuếch. Họ chỉ trích người khác mà lại tự thú sự ngu xuẩn xấu xa của chính mình, ngu dại mà cứ tưởng mình giỏi giang.
Thời nay có những người rất dị hợm, không muốn phục vụ mà chỉ muốn hưởng thụ. Việc nhỏ không làm vì chê là nhỏ nhặt, việc lớn cũng không thể làm vì không đủ năng lực. Tiến sĩ, giáo sư, giảng viên,… nhưng lại chưa học hết trung học phổ thông. Tục ngữ Đức có câu nói thú vị: “Người ta bắt thỏ rừng bằng chó săn, bắt đàn bà bằng bạc tiền, và bắt kẻ ngu si bằng lời khen dối trá.” Mắc bẫy mà cứ tưởng mình hay. Thật kinh khiếp!
Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu.” (Is 53:10) Nghe chừng rất lạ, vì có vẻ rất… “ngược đời,” nhưng như vậy mà lại không như thế. Nghịch mà thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.
Rất đơn giản với lý do vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.” (Is 53:11) Bất cứ ai chân thành theo Chúa sẽ được tha thứ tội lỗi, được “giải án, tuyên công,” được công chính hóa, vì chính Thiên Chúa “bù lỗ” cho họ. Ôi, hạnh phúc vô cùng!
Thật diễm phúc khi chúng ta nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Nkm 9:6; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10-13; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20) giàu lòng thương xót, (Ep 2:4) công minh chính trực, (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7) không thiên vị bất cứ ai. (1 Pr 1:17; Gl 2:6; Cv 10:34) Đặc biệt là mọi lời Ngài nói đều nên trọn: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5)
Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối. (Rm 3:4) Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài “không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Ngài cũng không cám dỗ ai.” (Gc 1:13) Thánh Vịnh gia đã minh chứng: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi NGƯỜI LUÔN CHE CHỞ PHÙ TRÌ.” (Tv 33:18-20) Lòng thương xót và lòng trắc ẩn vĩnh viễn có nơi Thiên Chúa, vì Ngài là Tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16)
Phàm nhân chúng ta có biết yêu thương cũng bởi nhờ Ngài, bắt nguồn từ Nguồn Yêu Thương của Ngài. Thiếu tình yêu, chắc chắn con người sẽ chết sớm, thậm chí chết ngay khi còn thở. Vì thế, chúng ta phải biết không ngừng cầu xin Ngài: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Thiên Chúa hiện diện nơi những con người thật, sinh động bằng xương bằng thịt.
Có yêu thương thì mới sẵn sàng phục vụ, không yêu thương thì người ta không muốn phục vụ – dù có thể họ vẫn biết cách phục vụ. Nhưng để có thể phục vụ, người ta phải biết yêu thương; để có thể yêu thương, người ta phải biết lắng nghe nhau, đặc biệt là lắng nghe Thiên Chúa. Ước gì mọi người đều biết sẵn sàng và mau mắn như cậu Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1 Sm 3:9) Cuộc sống là thực tại, không là chiêm bao hay mộng ảo.
Thật vậy, Chúa Giêsu là vị Thượng Tế biết cảm thương, luôn chạnh lòng thương xót người khác, luôn động lòng trắc ẩn trước những con người khốn khổ. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin.” (Dt 4:14) Tuyên tín là điều cần thiết, nhưng lại không đơn giản, vì đơn giản và cụ thể như việc làm dấu Thánh Giá mà nhiều người vẫn e ngại, nhất là khi có người khác tôn giáo hoặc ở nơi công cộng. Họ lý luận bằng cách phát âm là “làm dấu” thành “làm giấu.” Chúa Giêsu nói: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 10:32-33) Đó là phương trình công bằng.
Thánh Phaolô dùng phủ định cách để làm nổi bật sự xác định: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4:15-16) Không đến với Lòng Chúa Thương Xót không chỉ là dại dột mà là ngu xuẩn. Tuy nhiên, nếu ảo tưởng thì chúng ta chỉ “lợi dụng” Lòng Chúa Thương Xót mà thôi, bởi vì TIN mình được Chúa thương thì KHÔNG LÀ KIÊU NGẠO, nhưng TƯỞNG mình được Chúa thương thì lại LÀ KIÊU NGẠO!
Người ta kiêu ngạo vì ảo tưởng, vì ảo tưởng nên không yêu thương – mà yêu thương rất thực tế, cần hành động cụ thể. Do đó, không yêu thương thì không thể phục vụ. Sự phục vụ đối lập với quyền hành, địa vị, chức tước, vì người có chức quyền không muốn phục vụ, chỉ muốn “chỉ dạy” và muốn được phục vụ. Chúng ta khó phục vụ bởi vì chúng ta ÍCH KỶ, Ỷ LẠI, NGẠI KHÓ, SỢ HÈN, QUEN “CHẢNH.” Thánh Tiến sĩ Thần bí Têrêsa Avila nhận xét: “Chúng ta quá tự ái, quá vận dụng tài trí trần gian để khoe khoang mình, đó là SỰ DỐI TRÁ to lớn và NGÔNG CUỒNG, các thánh nhân không như thế.”
Trình thuật Mc 10:35-45 là câu chuyện đầy kịch tính về vấn đề phục vụ – lúc cũng là thời sự nóng bỏng. Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và “lấy lòng” Ngài bằng cách rào trước đón sau: “Thưa Thầy, chúng con MUỐN THẦY THỰC HIỆN cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Họ không ngần ngại vào thẳng vấn đề: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.”
Chúa Giêsu trách mắng họ và nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Họ có vẻ “vô tư” khi trả lời Ngài: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì THẦY KHÔNG CÓ QUYỀN CHO, nhưng Thiên Chúa đã CHUẨN BỊ CHO AI thì kẻ ấy mới được.” Lời Chúa Giêsu luôn gây sốc cho nhiều người, khiến họ thực sự thấy “ngại” lắm. Đó cũng là tâm trạng của mỗi tín nhân thời nay vậy.
Nghe vậy, mười môn đệ kia ĐÂM RA TỨC TỐI với ông Giacôbê và ông Gioan. Bản tính ghen tỵ trong con người luôn muốn chỗi dậy, sẵn sàng vùng lên bất cứ lúc nào, nhất là khi cảm thấy mình “lép vế” hơn người khác. Ghen tỵ vì tự ái, vì “cái tôi” luôn ích kỷ, không muốn thua thiệt. Tính ghen tỵ có ở mọi nơi và trong mọi người, dễ nhận ra trong các cộng đoàn – cả xã hội và tôn giáo. Trong các giáo xứ, đoàn thể, cộng đoàn tu trì, nhóm từ thiện, thậm chí ngay trong gia đình, chúng ta vẫn thấy có tính ghen tỵ – với các mức độ khác nhau. Con gà còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà! Tự ái và ghen tỵ là “chướng ngại vật” khiến chúng ta khó “từ bỏ mình” theo ý của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu biết các đệ tử đang hậm hực với nhau vì muốn tranh giành quyền hành, Ngài gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” Rõ ràng quá, không có gì khó hiểu, nói ngắn gọn là “ai muốn làm đầu phải hầu người khác.”
Sao “ngược đời” vậy? Chúa Giêsu minh chứng cụ thể: “Con Người đến KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC NGƯỜI TA PHỤC VỤ, nhưng là ĐỂ PHỤC VỤ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10:45) Chúng ta không thể viện cớ với bất cứ lý do gì để tự biện hộ nữa. Thật vậy, cứ “xem quả thì biết cây.” (Mt 12:33; Lc 6:44) Rất rõ ràng.
Lúc này, và hơn bao giờ hết, thiết tưởng chúng ta phải suy tư và cố gắng nhiều, đồng thời chân thành cầu nguyện như Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.” Lời cầu này mệnh danh là Kinh Hòa Bình vì đậm chất phục vụ theo Ý Chúa – phụng sự Chúa TRONG mọi người. Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã xác định khi “phân loại” Chiên và Dê: “Mỗi lần các ngươi LÀM cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã LÀM cho chính Ta, mỗi lần các ngươi KHÔNG LÀM cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã KHÔNG LÀM cho chính Ta.” (x. Mt 25:31-46)
“Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành, và hãy bước theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người.” Đó là lời nhắn nhủ của Thánh Pôlycarpô (+155), giám mục tử đạo. Vâng, lỗi tại tôi mọi đàng!
Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm can đảm thu mình lại để Ngài lớn lên. Con chỉ là kẻ vô dụng bất tài, nhưng vì Tôn Danh Ngài, xin biến con thành khí cụ của Ngài. Xin cho con thấy Ngài trong tha nhân, và họ cũng thấy Ngài con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Hôm 7/10/2021, Thủ Tướng gửi công điện hoả tốc yêu cầu các tỉnh thành hợp tác tạo điều kiện cho những ai muốn có thể trở về quê an toàn, bình an trong mùa dịch này! Xem các hình ảnh, clip người dân chở nhau về quê trên những chiếc xe hai bánh, có khi còn là xe đạp hay đi bộ nữa, với quãng đường hàng trăm, có khi hàng ngàn cây số, mà thương dân mình quá! Và tôi ngạc nhiên: tại sao tình hình như vậy mà các vị lãnh đạo phải chờ đến thủ tướng ra lệnh mới làm. Làm lãnh đạo phải dự đoán được làn sóng dân trở về quê lần này, vì trước đó ít lâu đã có lần dân muốn về quê mà không được phép, nên lần này phải chuẩn bị cho việc này chứ, tại sao lại chặn dân lại như vậy?!
Ngoài tài năng, còn cần đến tấm lòng nữa mới làm lãnh đạo được! Mà phần tấm lòng này lại rất cần, nếu không, tài năng kia chỉ được sử dụng nhằm tìm lợi ích cá nhân, phe nhóm thôi!
Ngày 11.10, Giáo hội mừng lễ Thánh Giáo Hoàng Gioan 23, tôi nhớ ngay đến tên mà người ta đặt cho ngài “người cha tốt bụng” (buon papa). Ngài là con người rất bình dị và gần gũi với người bình dân, ngay cả khi là giám mục, Hồng Y và giáo hoàng nữa! Tấm lòng mục tử khiến ngài trở nên liều lĩnh, dấn thân giải quyết những vấn đề khó khăn của Giáo Hội khi làm sứ thần, nhất là liều lĩnh khi mở công đồng Vaticanô II, đưa đến những chuyển biến vô cùng quan trọng cho Giáo Hội trong cách hiện diện và trong sứ mạng với trần thế. Sự liều lĩnh này khởi đi từ cảm nhận của người cha tốt bụng: không muốn Giáo Hội sống trong sự đối đầu với xã hội trần thế! ( Lm Giuse Nguyễn Trọng Sơn, suy niệm Lễ Thánh Giáo Hoàng Gioan 23, ngày 11.10.)
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bài học “làm lớn”, “làm đầu” cho các Tông Đồ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Đây là nẻo đường duy nhất đưa tới uy tín và sự cao cả thật sự. Phục vụ là tiêu chuẩn giúp đánh giá sự cao cả và thành công đích thực. Ai là người tôi tớ của mọi người, ai phục vụ nhằm mưu ích cho kẻ khác, với trọn tâm hồn, với tất cả sức lực, người ấy thật sự là người đứng đầu mọi người.
Đọc kỹ câu chuyện Tin Mừng, ta thấy hai anh em nhà Dêbêdê có vẻ như thấy mình được “cưng” cách riêng nên dám đến nói nhỏ với Đức Giêsu, và xin Người “ừ” trước rồi mới nói ra điều mình xin: “Thưa Thầy, chúng con xin Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Người cũng có vẻ gật đầu trước: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Họ nói rõ điều họ muốn. Có vẻ như họ nghĩ phen này lên Giêrusalem là Thầy lên làm vua đây. Đến phiên Đức Giêsu cũng đòi họ “vâng” trước: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nỗi chén Thầy sắp uống không, hay chịu được Phép Rửa mà Thầy sắp chịu không?”. Các ông không biết mình xin gì và cũng chẳng hiểu “chén Thầy sắp uống”, “Phép Rửa Thầy sắp chịu” là gì, nhưng hiểu rằng hễ chịu điều kiện ấy thì sẽ được như ý, nên trả lời ngay: “Thưa được”. Điều kiện thì Người cho ngay: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. Còn điều họ xin thì sao?. “Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”.
Thế là hai anh em chưng hửng! Nhưng không hiểu sao mười ông kia cũng biết chuyện hai anh em “đi cửa hậu” và phản ứng: “Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Sự hục hặc giữa các ông làm sao qua mắt Đức Giêsu được. Người dùng dịp này dạy dỗ các ông: Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Vẫn là chuyện các ông tranh dành địa vị với nhau. Lần trước thì Người đem một em bé làm mẫu. Lần này Người phân biệt cung cách của các môn đệ với cung cách của người đời. Môn đệ thì phải theo gương Thầy chứ đừng theo kiểu người đời. (Lm Giuse Nguyễn Công Đoan, Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Maccô.)
Rõ ràng, sự ganh đua quyền thế gay gắt đến nỗi làm các môn đệ từ một “Nhóm Mười Hai” lại chia thành phe cánh: “mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó”. Họ ganh tỵ, xét cho cùng, họ cũng đầy cao vọng. Họ cũng cao vọng bằng hai anh em nhưng họ không đủ can đảm để xin như anh em nhà Dêbêdê. Như một bậc thầy cao thượng và một nhà giáo dục khôn ngoan, Đức Giêsu vẫn bình tâm. Người đón nhận sự im lặng vô tâm của Nhóm Mười Hai. Người ân cần lắng nghe lời thỉnh cầu. Người cho họ biết rằng, những chỗ danh dự trên trời không dành cho những kẻ bè phái, nịnh hót, xin xỏ, nhưng dành cho những người xứng đáng. Người thẳng thắn đặt anh em nhà Dêbêdê trực diện với vấn đề và trực tiếp chất vấn các ông: “Các con không biết các con xin gì! Các con có uống nỗi chén Thầy sắp uống không?”. Người đưa ra xác quyết nhưng lại mở ngỏ cho lời đáp trả bằng cách ‘kéo Chúa Cha vào cuộc’: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”.Và nhất là, Người qui tụ các môn đệ trở lại vào nhóm, bên cạnh Người để có những lời rỉ tai, những lời của con tim thổ lộ với con tim: “Anh em biết… Giữa anh em thì không được như vậy…”. Chúa Giêsu dạy các ông lối hành xử của Người: muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ phục vụ mọi người. Chọn con đường cứu chuộc bằng thập giá, Người đã muốn sống tinh thần phục vụ.
Chúa Giêsu thanh luyện các môn đệ không chỉ bằng thái độ và lời nói, mà còn bằng chính đời sống gương sáng của Người. Sự đối lập giữa “làm đầy tớ” và “làm đầu” đòi hỏi một sự hoán cải trọn vẹn. Các môn đệ muốn làm đầu, Chúa Giêsu bảo: muốn làm đầu phải làm tôi tớ phục vụ mọi người. Đây là việc phục vụ của người hiến dâng bản thân, luôn quan tâm đến tha nhân vì yêu thương.
“Ai muốn làm lớn”, “Ai muốn làm đầu”, Chúa Giêsu không nói: “Ai được đặt làm lớn; ai được đặt làm đầu”, nhưng nói đến ý muốn, và ý muốn này đang có nơi các môn đệ và cũng đang có nơi tất cả chúng ta. Chính Chúa đã nói ý muốn của mình: “Con Người đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x.Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x.Is 53,10-11).Vì thế, phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của người môn đệ. Phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của những ai theo chân Chúa. Phục vụ là giúp đỡ, là làm đầy tớ, là bạn đồng hành chăm lo người khác và quan tâm đến những nhu cầu thiết thực của họ.Trong gia đình, ông bà cha mẹ phục vụ con cháu, anh chị em phục vụ lẫn nhau, con cháu phụng dưỡng ông bà cha mẹ. Ngoài xã hội, mỗi người là một thành phần đóng góp công sức phục vụ nhân quần xã hội. Trong Hội thánh, trong cộng đoàn lớn nhỏ, mỗi người là một chi thể sống và làm việc vì lợi ích cho tập thể.Vậy thì ai cũng là một người phục vụ. Nhưng để trở thành người phục vụ tốt, gương mẫu, xứng đáng cần hội đủ một số đức tính căn bản như khiêm tốn, quảng đại, tế nhị, tận tâm và hy sinh quên mình.
Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).
Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thịnh vượng hay không, Giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không, chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ – tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này. (Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa, suy niệm Chúa nhật 29 TN B: Làm đầy tớ.)
Chúng ta theo Chúa, chỉ mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa. Bên phải bên trái là sát bên Thầy. Mà Chúa đồng hóa mình với người tôi tớ, người bé nhỏ, người hèn mọn, cho nên càng là người tôi tớ, càng phục vụ, càng được ở gần Thầy.
Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đã nói: “Hoa quả của đức tin là tình yêu, hoa quả của tình yêu là phục vụ và hoa quả của phục vụ là bình an”. Một tình yêu đích thực sẽ luôn làm nảy sinh sức sống mãnh liệt giúp cho việc phục vụ đạt tới cùng đích cuối cùng.
Sống ở đời ai cũng ước mong có địa vị, mong được người khác đề cao và trong tay có nhiều đầy tớ, có nhiều thuộc hạ. Tuy nhiên, cách Chúa Giêsu dạy các môn đệ và con người lại khác,Ngài nói:” Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống làm giá cứu chuộc cho nhiều người “ ( Mc 10, 10 ). Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cà mọi tín hữu.
Phục vụ đối với Chúa là điều cao cả nhất bởi vì tiếng phục vụ ở đây là làm người đầy tớ. Chúa Giêsu nói “ con người đến để hầu hạ chứ không phải được hầu hạ “. Chúa là Thiên Chúa nhưng Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài làm gương cho các môn đệ. Chúa muốn dạy các môn đệ :” lãnh đạo chính là đầy tớ của các đầy tớ “ . Các Đức Thánh Cha bao giờ cũng ghi ở cuối các bài huấn dụ, thông điệp vv…là tôi tớ của các tôi tớ. Đó là sự khiêm nhượng theo gương Đức Kitô. Các môn đệ một cách nào đó, cứ tưởng Chúa là vua đến khôi phục nước Israen, và như thế, các Ngài được chia chác chức vụ trong Vương Quốc Chúa khôi phục lại. Mẹ của Giacôbê và Gioan đã xin cho hai con của bà, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả của Chúa trong Vương Quốc của Ngài…Thực tế, cho tới giờ phút này và ngay lúc này, các môn đệ và ngay cả bà mẹ của Gioan và Giacôbê vẫn không hiểu rằng Nước của Chúa không thuộc thế gian này, nghĩa là Ngài đã không đăng quang lên ngôi theo cung cách các vua quan thế trần để cai trị, để thống lãnh con người, mà Ngài đã bước lên thập giá để hiến dâng mạng sống làm giá chuộc loài người, con người, để yêu thương nhân loại, yêu thương cho đến cùng. Chúa Giêsu đã đề cập đến cái chết của Ngài lần này là lần thứ ba để các môn đệ hiểu con đường của Chúa là con đường vinh quang thập giá. Con đường này đòi hỏi các môn đệ phải hy sinh, can đảm, quảng đại, dấn thân. Con đường của Chúa là con đường phục vụ, con đường quả cảm hiến bản thân để cứu chuộc nhân loại. Các môn đệ cần phải được thanh luyện, nghĩa là phải có Chúa Thánh Thần mới có thể nhận ra con đường mà Ngài muốn các môn đệ đi. Chết là định luật tất yếu của con người. Chúa Giêsu nhập thể làm người, nên Ngài cũng không nằm ngoài định luật ấy. Do vậy, khi loan báo về cái chết, Chúa Giêsu muốn nối kết nó với sứ mệnh của mình. Sứ mệnh của Chúa chỉ thực sự được hoàn thành bằng cái chết. Bọn Pharisêu, Kinh sư, Tư tế đã ghen ghét Ngài, chống báng và giết chết Ngài chỉ vì lời nói, việc làm, và cuộc sống của Ngài đã tố cáo sự gian các, bất chính, tự mãn của họ.Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu hãy noi gương bắt chước Chúa : phục vụ và hiến dâng mạng sống của mình vì tha nhân. Gia đình là cái nôi để tỏa sáng sự thương yêu, bác ái và từ nơi gia đình yêu thương, bác ái sẽ lan tỏa ra nhiều người xung quanh, đặc biệt tỏa sáng nơi những người nghèo, bệnh tật, cô đơn vv…Thực tế, nếu chúng ta chưa nên giống Chúa được thì chúng ta cũng hãy cố gắng giống như Đức Cha Jean Cassaigne ở giữa người cùi, phục vụ và chết chôn giữa họ, chúng ta hãy bắt chước bác sĩ phụ sản người Congo lo cho hàng 1000 trường hợp các cô gái bị hãm hiếp và đấu tranh cho nhân phẩm của họ. Chúng ta hãy sống hết mình, âm thầm phục vụ những người thân yêu, những người Chúa trao phú cho mình trong gia đình và những người sống xung quanh chúng ta. Cha sở họ Ars bên Pháp đã tàn tạ, già trước tuổi vì phục vụ không biết mệt mỏi ngày đêm cho phần rỗi các linh hồn và Ngài đã ra đi về với Chúa vì kiệt quệ, phục vụ các con chiên và các linh hồn với con tim rộng mở, hết sức quảng đại. Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã hết mình phục vụ cho người nghèo, cho những người hấp hối, nên Chúa đã tôn vinh Mẹ.
Con người chỉ hơn nhau khi người ta biết sống quảng đại, biết chia sẻ và biết cho đi.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim quảng đại để chúng con biết phục vụ người khác mà không hề so đo, tính toán.Amen,
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Con đường Chúa muốn chúng ta đi là con đường nào ? 2. Tại sao Chúa nói người lãnh đạo là người phục vụ ? 3. Tại sao các Đức Giáo Hoàng luôn ký dưới các Tông Huấn, Thông điệp, Tự sắc , Văn kiện là “ tôi tớ của mọi tôi tớ ?”. 4. Chúa đã làm gương gì cho nhân loại hiểu Ngài là Đấng phục vụ ? 5. Tại sao Chúa nói :” Đến để hầu hạ chứ không để được hầu hạ ?
Giá chuộc không chỉ đo bằng vật chất, tiền chuộc mà giá trị nhất ở chính mạng sống. Tình yêu làm giá chuộc cho muôn người, đó là một tình yêu ra khỏi chính mình, một tình yêu không ngừng trao tặng cho người mình yêu trải dài trong thời gian. Tình yêu giá chuộc đó có nhiều người chết cho con cái, chết cho bạn bè thân hữu…Một tình yêu trở nên giá chuộc cho muôn người, không chỉ cho một hoặc vài mà cho tất cả nhân loại, chỉ có duy nhất tình yêu của Thiên Chúa.
Tình yêu ra khỏi chính mình.
Khi yêu thương, ít nhất là cần có hai và tình yêu ấy cần có cả hai ra khỏi chính mình để gặp gỡ người mình yêu. M. Blondel nói rằng: “chính tình yêu làm cho hiện hữu” vì biết mình đang yêu và được yêu. Còn nhớ bao nhiêu người trẻ đi tìm cái chết bởi vì thấy thiếu tình yêu, mất đi ý nghĩa hiện diện ở cuộc đời.
Tình yêu làm cho sống và sống có ý nghĩa, tình yêu làm thành niềm vui, sáng tạo. Tình yêu cần có một đòi hỏi thật sự ra khỏi chính mình, hiệp thông, chung số phận với con người mình yêu, đi chung con đường người mình yêu cho đến tận cùng của sự sống và chết.
Một tình yêu đích thật luôn gánh vác mọi buồn vui, hạnh phúc, đau khổ, thanh xuân đến già nua, mạnh khỏe cũng như đau yếu. Tình yêu vô vị lợi, quảng đại, sẵn sàng tha thứ, yêu thương và đón nhận tất cả. Một tình yêu như Chúa dạy: “Hết lòng, hết sức, hết trí khôn” (Mc 12, 32). Một tình yêu như thế không dễ, thường thấy ở nơi tình yêu cha mẹ dành cho con cái. Tình yêu với cộng đồng lớn hơn lại đòi hỏi nhiều người hơn, bắt nguồn từ mỗi người. Một tình yêu cộng đồng nhỏ xây dựng hiệp nhất, gặp gỡ, chia sẻ, hy sinh, đón nhận, tha thứ, bỏ ích kỷ, chiếm hữu, lớn lên trong một cộng đồng lớn hơn, đa dạng hơn và phong phú hơn.
Nỗi khổ tình yêu
Tình yêu và nỗi khổ thường đi chung với nhau như hai mặt đồng tiền. Hy sinh, đón nhận đau khổ là những khía cạnh làm tình yêu dễ chịu thất bại. Có những nguyên nhân thất bại của tình yệu:
Sở hữu, chiếm hữu. Tình yêu như người ta nói “trao trái tim cho nhau, chứ đừng nắm giữ tim nhau”. Một sự trao nhận, tình yêu cần có tôn trọng nhau, không xét đoán, không coi mình là trung tâm, tiêu chuẩn để đánh giá. Cũng không phải là tình yêu bao che cho nhau trong lỗi phạm. Tình yêu cần có sự chữa lành, giữ cho nhau phẩm giá… Tình yêu không chiếm hữu, không lấy vật chất làm giá trị để nắm giữ tình yêu. Tình yêu mời gọi việc làm hơn là lời nói suông…
Vô ơn: Bội bạc trong tình yêu là không nhận ra nhau là món quà vô giá của nhau. Tìm nhau, gặp nhau, như một vật sở hữu, nhàm chán và bỏ đi. Mỗi người là một tặng vật vô giá của tình yêu. Không do ngẫu nhiên mà do từ bản chất “muốn yêu và được yêu”. Lời cám ơn xuất phát từ cõi lòng của người yêu nói với người mình yêu. Lời cám ơn ấy là nhận ra nhau, cần có nhau, cùng nhau chia sẻ, làm gia tăng giá trị cuộc đời của nhau và làm phát sinh hoa trái cho nhiều người.
Chối bỏ: Không có đau khổ nào bằng đau khổ của tình yêu bị chối bỏ. Dĩ nhiên không phải là một tình yêu cuồng si bị chối bỏ mà một tình yêu chân chính bị chối bỏ. Cách nói của người thời nay thường là “say nắng” một người khác, làm tình yêu bao năm gắn kết với người mình yêu bị chối bỏ. Tình yêu ngã rẽ bao giờ cũng là một tình yêu gây nên nhiều đau khổ, cho người mình yệu, cho các con của mình, cho người thân, bạn hữu…
Tình yêu giá chuộc.
Tình yêu giá chuộc cho một người hay vài người hay nhiều người cũng là tình yêu đáng ghi nhận.Bởi tình yêu đó, có cha mẹ đã hy sinh tất cả cho con cái mình. Có người hy sinh cho cộng đồng, cho quê hương đất nước. Một tình yêu hy sinh mạng sống mình đổi lấy an bình, hòa bình. Đó là một tình yêu để cho cuộc đời thấy ý nghĩa bình yên, hạnh phúc.
Một tình yêu chết cho mọi người lại là một tình yêu không thuộc về con người nhân thế này. Chỉ có tình yêu của Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi thời gian, trên mọi loài, Đấng là Tình yêu Tuyệt Đối: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3, 16 – 17). Tình yêu nên giá chuộc cho muôn người là tình yêu vâng phục của Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, xuống thế làm người, mang lấy tất cả con người nhân loại, chỉ trừ tội lỗi và chịu chết thay cho tội lỗi nhân loại chúng ta.
Một tình yêu tuyệt đối mới có thể làm giá chuộc cho muôn người mà thôi. Con người chúng ta chỉ xin một phần nào có thể để làm cho gia đình, cộng đồng nhỏ thấy niềm vui và hạnh phúc khi mình tham dự và sống với nhau là khá rồi.
Môn đồ yêu dấu nài van, Hai ông hai chỗ, sẻ san quyền hành. Vinh quang tỏa sáng danh thành, Xin điều không biết, sẽ dành cho nhau. Ngồi bên tả hữu trước sau, Phải qua phép rửa, khổ đau chất chồng. Uống phần chén đắng được không? Chén Thầy sắp uống, mặn nồng sầu thương. Các con vững bước can trường, Dõi theo lối bước, trên đường Thầy đi. Việc ngồi phải trái là chi, Cha Thầy quyết định, thực thi công bình. Tông đồ theo Chúa bực mình, Đua chen ganh tị, bất bình nhỏ nhen. Các con ánh sáng muối men, Hiến thân phục vụ, sang hèn xá chi.
Ai muốn làm lớn thì hãy phục vụ mọi người. Qua câu truyện của hai anh em Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên tả, bên hữu Chúa. Lời cầu xin chân thành nhưng đầy tham vọng. Chúa đã dạy cho chúng ta một bài học về sự khiêm nhường và phục vụ. Những điều Chúa dậy đi ngược lại với quan niệm người đời. Đối với người đời, ai làm lớn thì có quyền sai khiến và được cung phụng. Ai làm hạ cấp thì phải hầu hạ và phục vụ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng hạ mình mang thân phận mỏng dòn như chúng ta. Qua sự khiêm hạ, Chúa đã đến với mọi người. Chúa lấy tình yêu chữa lành các vết thương lòng. Trước khi chịu khổ hình, Chúa đã qùy xuống rửa chân cho các môn đệ. Đây là một sáng kiến hoàn toàn mới lạ. Xưa nay chỉ có đầy tớ mới rửa chân cho chủ. Một thái độ khiêm nhu sâu thẳm.
Trong Giáo Hội, quyền bính được trao ban không phải cho kẻ ham muốn kiếm tìm. Giáo Hội chọn và trao cho những người có thiện chí và có khả năng phục vụ trong các chức bậc của Giáo Hội. Giáo Hội không có vận động tranh dành tìm hậu thuẫn, gây ảnh hưởng nhưng dựa vào sự phán đoán khách quan và dựa vào đời sống đạo hạnh để chọn lựa. Vì chức vị càng cao thì trách nhiệm càng nặng nề. Những ai có địa vị trong Nước Chúa, thì họ phải phục vụ chứ không hưởng thụ.
Chúng ta đến với tha nhân, không phải tìm danh vọng nhưng là để phục vụ tha nhân. Phục vụ tha nhân với niềm vui ơn cứu độ. Truyện kể mẹ Têrêxa mỗi ngày trước khi sai các Dì đi thăm viếng, mẹ ban phép lành. Có ngày kia, nhìn thấy một chị mặt mày ủ rũ. Mẹ đã giữ chị ấy lại ở nhà. Chị hỏi: vì sao? Mẹ nói: Người ta đã đau khổ và chán nản, nếu nhìn thấy người chị em đến với mình mặt mày khổ sở, chỉ làm cho họ khổ thêm.
Chúa mời gọi chúng ta đến để phục vụ anh chị em. Mỗi người trong một chức bậc và hoàn cảnh khác nhau. Các bề trên thường khuyên dạy các anh chị em khi ra đi làm nhân chứng, có ba điều cần thiết là hãy khoan dung, độ lượng và nhân từ. Ba điều này sẽ thắng được tâm hồn kẻ khác.
Được phục vụ là một hạnh phúc tuyệt vời. Hạnh phúc của niềm vui cho đi. Đây là niềm vui của tâm hồn, không ai có thể lấy mất. Thánh Gioan và Giacôbê đã hiểu được sứ mệnh phục vụ. Các ngài đã hiến trọn cuộc đời theo Chúa, hiến thân vì Chúa và phục vụ tha nhân. Xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng con ra đi phục vụ anh chị em trong niềm vui ơn cứu rỗi.
Đau khổ thế trần đầy khắp chốn Phúc vinhTthiên quốc chỉ một nơi
Cuộc đời có nhiều mùi vị. Theo nghĩa bóng, không ai thích vi cay đắng, chua chát,… mà ai cũng thích ngọt bùi. Còn theo nghĩa đen, ai cũng ưa vị cay nồng, đắng chát,… Mà cũng lạ, những gia vị cay đắng lại tốt cho sức khỏe hơn so với vị ngọt ngào. Hảo ngọt là chết chắc – dù nghĩa đen hay nghĩa bóng. Phải chăng đó là một dạng tự mâu thuẫn của con người?
Kể ra cũng khó có thể xác định, nhưng chắc chắn không ai muốn “chạm trán” với đau khổ – nghĩa là ai cũng tìm mọi cách và bằng mọi giá để tránh né đau khổ, thế nhưng hầu như ngày nào chúng ta cũng phải đối mặt với đau khổ, dù ít hay nhiều, với đủ dạng và đủ mức độ khác nhau. Càng tránh khổ càng khổ thêm, càng diệt khổ càng tăng khổ. Vô ích mà thôi! Tại sao? Bởi vì “ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).
Có lần chính Chúa Giêsu đã từng tỏ cho các môn đệ biết rõ rằng “Ngài PHẢI đi Giêrusalem, PHẢI chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi BỊ GIẾT CHẾT, và ngày thứ ba sẽ SỐNG LẠI” (Mt 16:21). Một câu ngắn mà có tới 2 từ PHẢI và 1 từ BỊ, cả hai đều ở thể thụ động. Não lòng quá! Đau khổ luôn có hệ lụy gần gũi với nước mắt, loại chất lỏng đặc biệt mang vị mặn đặc trưng khác hẳn với các vị mẳn khác.
Tuy nhiên, kinh nghiệm sống cho thấy rằng đau khổ như “phần cứng” được cài đặt mặc định trong mỗi con người, thậm chí còn như một chương trình “đóng băng” (DeepFreeze) về lĩnh vực máy vi tính, và người ta không thể thay đổi theo ý mình được. Thật vậy, đau khổ như một phần tất yếu của cuộc sống, không đau khổ cũng hóa “buồn tẻ” lắm, có đau khổ thì mới phải cố gắng, cố gắng khiến người ta vươn lên – tức là tự đổi mới chính mình. Chí lý lắm đấy chứ!
Chắc hẳn là thế. Này nhé, một đứa trẻ chưa hề nếm mùi đau khổ, thế mà vừa sinh ra đã bật tiếng khóc để chào đời. Vui sao lại khóc? Đứa trẻ nào không khóc là có vấn đề, cha mẹ lo sốt vó lên ngay. Như vậy, mặc nhiên người ta đã chấp nhận sự đau khổ là phần tất yếu. Người đời chia sẻ kinh nghiệm: “Đời là bể khổ”. Kinh Thánh đặt vấn đề: “Chuyện gì xảy ra cho con người sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời? Phải, đối với con người ấy, TRỌN CUỘC ĐỜI CHỈ LÀ ĐAU KHỔ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!” (Gv 2:22-23). Thật thê thảm!
VÌ KHỔ MÀ ĐAU
Việt ngữ thường ghép hai chữ Khổ và Đau thành Khổ Đau hoặc Đau Khổ – đảo qua đảo lại mà chẳng thấy khác chi ráo trọi. Đúng là khổ thật! Trình thuật Is 53:10-11 là một phần của bài thứ tư trong số các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu”. Tình trạng thê thảm là “bị nghiền nát”, nhưng lại là để “được vĩnh tồn”. Thật lạ lùng và ngược đời quá! Đối với phàm nhân, tình trạng đó thật đáng sợ vì quá chua chát và cay đắng, có thể không còn nước mắt để than khóc nữa. Người Tôi Trung đó chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Và thật kỳ diệu, ngôn sứ Isaia giải thích: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”. Ôi, lòng thương xót của Thiên Chúa bao la vô tận, chúng ta không thể nào hiểu được!
Nhìn thấy người ta đau khổ mà rợn cả người rồi chứ nói chi chính mình phải chịu. Đau khổ nào cũng cay đắng, đắng đến tê lòng, thế nhưng đau khổ vẫn có vị ngọt bùi kỳ lạ. Thật diệu kỳ mầu nhiệm của sự đau khổ. Trong thực tế cuộc sống, khi chịu đau khổ vì tình yêu, có người gọi nỗi đau khổ đó là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm”. Vậy đó, đau thương mà vẫn thú vị, đau khổ mà vẫn dịu êm. Còn nước mắt lại được ví von là “giọt nước mắt ngà”. Thế mới lạ, thế mới cao thượng. Người đời con khả dĩ nhận thức như vậy huống chi những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa! Ai có khả năng cảm nhận được như vậy chính là người đã vượt lên trên nỗi đau khổ, đi xuyên qua nỗi đau khổ. Chắc chắn không ai có thể tránh đau khổ, nhưng muốn tránh đau khổ thì chỉ còn cách chiến thắng nó và làm chủ nó. Đó là cách độc đáo để tự “vượt qua số phận”. Vị đắng chợt hóa ngọt ngào.
Những người chấp nhận đau khổ là những người can đảm, họ can đảm nên không hề than thân trách phận, không so đo với những người may mắn khác, chắc hẳn người đó phải có chiều sâu tâm linh, luôn sống trong niềm tín thác vào Thiên Chúa quan phòng. Thật vậy, Thánh Vịnh gia bày tỏ: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Nói được như vậy là xác định Thiên Chúa là ai và biết rõ Ngài như thế nào: “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:9). Chúng ta không thể nào hiểu hết tình yêu Chúa, cũng không thể cân-đo-đong-đếm Lòng Chúa Thương Xót, vì tình yêu thương hoặc lòng trắc ẩn ấy vẫn triền miên hết ngày dài lại đêm thâu, suốt từ thuở hồng hoang trải dài từ đời nọ tới đời kia (x. Lc 1:50). Thật vậy, “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (1 Sbn 16:34; 1 Sbn 16:41; 2 Sbn 5:13; 2 Sbn 7:3; 2 Sbn 7:6; Er 3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4, 29; Tv 136:1-26).
Tiếp tục minh định về Đấng-Xót-Thương, Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-20). Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng ngay cả khi chúng ta quên Ngài mà Ngài vẫn luôn nhớ đến chúng ta, thậm chí cả khi chúng ta hoàn toàn đối nghịch với Ngài mà Ngài vẫn miệt mài tìm chúng ta để đưa về hưởng an bình nơi “đồng cỏ xanh rì bên suối ngọt lành” (x. Tv 23). Vô tri bất mộ, “tri” rồi thì không thể không “mộ”. Ai đã nếm thử Chúa ngọt ngào thế nào rồi thì không thể giữ riêng cho mình, mà tự lòng mình sẽ thôi thúc chia sẻ với người khác về Ngài: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), đồng thời tin tưởng và vui mừng cầu nguyện liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Và như vậy, cho tới lúc đó thì sự đau khổ không còn vị đắng cay nữa mà lại hóa vị ngọt ngào và êm dịu. Nghĩa là người ta có thể cảm nhận sâu sắc thế nào là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm” hoặc “giọt nước mắt ngà”. Quả là điều kỳ diệu, là mầu nhiệm về sự đau khổ.
Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Niềm tin luôn quan trọng trong cuộc sống đời thường, đức tin càng quan trọng gấp bội trong đời sống Kitô hữu, nhất là chúng ta đang sống trong Thời Cánh Chung, đồng thời còn phải lưu ý trách nhiệm chung là truyền giáo và tái truyền giáo.
Thánh Vịnh gia nói: “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118:9). Thật vậy, Chân phước LM Placid Riccardi (OSB, 1844-1915) cũng khuyên: “Đừng mong gì nhiều nơi những người quyền thế của thế gian này – vì hầu hết họ đều bỏ mặc những người nghèo khó trong cảnh bần hàn, họ vừa hèn hạ vừa thiếu quảng đại, giả điếc làm ngơ trước tiếng kêu than của những người yếu đuối và bất lực”.
Vừa giải thích vừa khuyến khích, Thánh Phaolô cho biết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã CHỊU THỬ THÁCH về MỌI PHƯƠNG DIỆN cũng như ta, nhưng KHÔNG PHẠM TỘI. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của cả nhân loại” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1485). Quả thật, nếu Lòng Chúa Thương Xót không lớn lao hơn mọi thứ xấu xa tồi tệ nhất trên đời này thì chúng ta chết ngay lập tức. Tại sao? Không khí là bằng chứng sống động về Lòng Chúa Thương Xót: Nếu không khí chỉ loãng hơn một chút hoặc đậm đặc hơn một chút, chúng ta đủ chết ngắc rồi chứ đừng nói chi đến thiếu không khí. Chỉ cần minh chứng đơn giản về không khí thôi, chúng ta cũng đủ để phải không ngừng tạ ơn Chúa rồi, đừng nói chi đến những thứ khác. Vì thế, “Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và ca tụng lời Người” (Tv 56:5 và 11).
VÌ ĐAU MÀ KHỔ
Người ta thường nói: “Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ, vậy thà chịu khổ hơn chịu lỗ”. Nhưng phải xác định được mình CẦN gì, MUỐN gì và LÀM gì. Yêu thì khổ, khổ thì đau. Ai cũng được quyền tự do chọn lựa và quyết định.
Trình thuật Mc 10:35-45 nói về chuyện “chạy chọt” chức vụ của hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan. Họ thưa với Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Rào trước đón sau, rất đúng “bài bản”, thậm chí còn như “ra điều kiện” với Chúa vậy. Tương tự, chúng ta cũng thường xuyên có cách “cầu xin” như vậy. Chúa Giêsu hỏi họ: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Họ khoái chí thưa ngay, không hề ngại ngùng chi cả: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Rất thẳng thắn, rất thực tế, rất rõ ràng. Nhưng đó là cách cầu nguyện vị kỷ và tìm tư lợi. Hai con trai ông Dêbêđê chắc mẩm Sư Phụ rất “ngon”, nổi tiếng như cồn, quyền phép vô song, uy tín quá chừng luôn, chắc chắn Sư Phụ sẽ lên ngôi báu trị vì thiên hạ, làm cận thần của Thầy mình thì còn gì oai hơn chứ? Thật là trên cả tuyệt vời! Nếu là chúng ta, có thể chúng ta không muốn làm cận thần như họ, vì như vậy vẫn “bèo” lắm, mà có thể chúng ta muốn làm phó nguyên soái hoặc thủ tướng, chí ít cũng phải xin làm bộ trưởng. Xin cho ra xin mới bõ công!
Thế nhưng Đức Giêsu thẳng thắn nói luôn: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38). Chén này không phải là chén mật hoặc chén sữa, cũng chẳng phải là chén cà-phê, dĩ nhiên không phải là chén mật ngọt, mà là chén mật đắng; phép rửa này không rửa bằng nước mà rửa bằng máu tươi. Có lẽ các ông không hiểu ý Chúa nên mạnh dạn đáp: “Thưa được” (Mc 10:39a). Nếu thế thì quá ngon. Rất OK!
Rất điềm đạm và thản nhiên, Chúa Giêsu ôn tồn: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy KHÔNG có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. Vế thứ hai trong câu nói của Chúa Giêsu thật đáng lưu ý. Nghe Thầy trò họ đối thoại, mười môn đệ kia cảm thấy “nóng gáy” nên tỏ vẻ tức tối với anh em Giacôbê và Gioan. Đó cũng chính là động thái của chúng ta ngày nay, cũng ghen ăn tức ở chứ chẳng hơn gì họ ngày xưa, thậm chí còn kèn cựa nhau rất tinh vi theo dạng công nghệ “bốn chấm” ngày nay.
Sau đó, Chúa Giêsu gọi các đệ tử lại và nói: “Anh em biết rằng những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn LÀM LỚN giữa anh em thì phải LÀM NGƯỜI PHỤC VỤ anh em; ai muốn LÀM ĐẦU anh em thì phải LÀM ĐẦY TỚ mọi người”. Và Ngài dẫn chứng: “Vì Con Người đến KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC NGƯỜI TA PHỤC VỤ, nhưng là để PHỤC VỤ, và HIẾN MẠNG SỐNG làm giá chuộc muôn người”. Có thể tóm lại một câu ngắn gọn có vần điệu thế này cho dễ nhớ: “Làm đầu PHẢI hầu thiên hạ”.
Xưa cũng như nay, đối với con người, vấn đề phục vụ là chuyện rất tế nhị, dễ “chạm” vào “phần mềm nhạy cảm” của bất kỳ ai – dù đời hay đạo. Nhưng Lời Chúa quá rõ ràng, không bóng gió, không văn hoa, không tránh né. Tuy nhiên, trong sinh hoạt thường nhật, cái mà người ta nói là phục vụ người khác thì thực chất có thể lại chỉ là cung cách “phục vụ có điều kiện”. Rất đáng quan ngại!
Phục vụ là động từ, nghĩa là phải hành động cụ thể, chứ không là danh từ suông hoặc một mỹ từ để “trang trí” theo chức vụ, tất nhiên liên quan đau khổ. Hầu như mọi thứ đều liên đới với nhau, nối kết như mạng nhện vậy – không trực tiếp thì gián tiếp. Trên một tấm bảng đồng, người ta thấy khắc những dòng chữ tuyệt vời này:
Lạy Chúa, con cầu xin được Mạnh Mẽ để thành đạt trong cuộc đời, Ngài lại làm cho con ra YẾU ĐUỐI để biết VÂNG LỜI và KHIÊM HẠ.
Con cầu xin có Sức Khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao, Ngài lại cho con chịu TÀN TẬT để chỉ làm NHỮNG VIỆC NHỎ TỐT LÀNH.
Con cầu xin được Giàu Sang để sống sung sướng thoải mái, Ngài lại cho con NGHÈO NÀN để học biết thế nào là KHÔN NGOAN.
Con cầu xin có Uy Quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi, Chúa lại cho con THẤP HÈN để con biết CẦN NGÀI.
Con cầu xin có Tất Cả để tận hưởng cuộc đời, Ngài lại cho con CẢ CUỘC ĐỜI để TẬN HƯỞNG MỌI SỰ.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết cầu xin, thế mà Ngài vẫn ban cho con THẬT DƯ ĐẦY từ lâu.
Lạy Chúa, hóa ra con lại là người hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được VÔ VÀN ÂN PHÚC của Ngài. Con xin lỗi Ngài, xin tha tội cho con!
Ôi chao! Toàn là những thứ trái ngược nhau. Tuy nhiên, qua đó chúng ta khả dĩ nhận thấy rằng đau khổ không là điều đáng nguyền rủa, mà ngược lại, đau khổ lại là điều đáng mơ ước, vì đó là “thánh giá Chúa trao” – như người ta thường nói với những người chịu đau khổ. Vui chịu đau khổ là sống đức tin, là bước qua cửa hẹp (Mt 7:13-14; Lc 13:24), là vác thập giá theo Chúa (Mt 10:38; Lc 14:27), là từ bỏ chính mình (Mt 10:39; Lc 14:33). Hợp lý lắm!
Chúa Giêsu đã chịu đau khổ tới mức tột cùng, với nhân tính thì Ngài cũng vô cùng đau đớn. Thiết tưởng rằng mỗi chúng ta đều phải nghiêm túc xem lại đức tin của chính mình: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32-33).
Cuộc sống hầu như luôn TRÁI Ý chứ KHÔNG NHƯ Ý của mình, thế nên Chúa Giêsu mới bảo “vác thập giá” mà theo Ngài. Nhiều vị thánh đã có những lúc phải sống trong vùng tăm tối của linh hồn, nhưng các ngài vẫn một lòng trung tín. Đấng đáng kính Charles de Foucauld nói: “Đôi khi Thiên Chúa để chúng ta chìm trong tăm tối đến độ bầu trời của chúng ta không có một vì sao chiếu sáng. Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta sống trên trần gian để chịu đau khổ, trong khi vẫn bước theo Đấng Cứu Độ dịu hiền trên con đường tăm tối và chông gai. Chúng ta là những người lữ hành và những người xa lạ trên trần gian. Những người lữ hành ngủ trong những túp lều và nhiều lúc phải băng qua hoang mạc, nhưng khi nghĩ đến quê nhà là họ quên hết mọi sự khác”.
Lạy Thiên Chúa, chúng con thật là vô tích sự mà vẫn “chảnh”, xin biến đổi chúng con. Xin ban thêm đức can đảm và đức khôn ngoan để chúng con sống đức tin, không ngừng tuyên xưng Danh Thánh Ngài mọi nơi và mọi lúc, xin giúp chúng con biết dùng ánh mắt đức tin để nhận biết Thánh Ý Ngài trong mọi nghịch cảnh ở đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen
Hầu hết các thông tin quan trọng, kinh nghiệm quý báu, hoặc kiến thức khoa học xã hội, muốn truyền lại cho con cháu, người ta đều cần phải có chút nghệ thuật, dù tình yêu thương dành cho hậu thế luôn lai láng. Mơ ước thụ hưởng, nghĩ tới được làm con quan, giầu sang phú quý, hoặc được kẻ trên người dưới nể trọng, hoàn toàn phù hợp với lý lẽ tự nhiên. Vì thao thức được vinh dự, người ta phấn đấu để có danh phận, xả thân vì quê hương đất nước, với hy vọng được đứng vào hàng ngũ các anh hùng dân tộc, cũng vì thế họ có một sức mạnh khá đặc biệt để lướt thắng cả nguy hiểm sợ hãi. Đồng ý rằng, tiến thân vì mục đích riêng tư, hành động vì tình sâu nghĩa nặng, gia đình vẫn ghi nhận, tổ quốc hằng nhớ ơn, nghiêm túc mà nói, đó cũng chỉ là hạnh phúc thế gian ban tặng.
Tinh thần yêu mến, bản chất truyền giáo, đối với người kitô hữu có phải là lời mời gọi tự giác, hay chỉ là tiếng “phèng la” âm vang một chút rồi mặc kệ ? Ơn làm con Chúa và Hội thánh có phải là một vinh dự, chúng ta có dám nhìn lại mình để thấy Thiên Chúa yêu thương, và chúng ta đang sống vì mục đích gì không ? Con người đúng là giới hạn đầy mâu thuẫn, tiền nhân chúng ta đã từng chia sẻ: ốc chẳng mang nổi mình ốc, lại còn phải mang cọc cho rêu ! Sống yêu mến, loan truyền niềm vui ơn cứu độ cho thân nhân, cho anh chị em xóm ngõ, trước hết phải bằng gương sáng, bằng sự hiểu biết và sự năng động của mỗi người, rồi kết tiếp là bằng niềm tin, quyền năng, phép lạ, Chúa sẽ thực hiện.
Sau khi hoàn tất sứ mạng tại trần gian, Chúa Giêsu căn dặn các học trò, hãy loan truyền về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và Ngài hứa với các ông: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Có Chúa ở cùng, có dấu hiệu của tình yêu, là có sự sống và quyền năng bao phủ trên kẻ tin yêu, mến Ngài. Có Chúa ở cùng các tông đồ, có Chúa ở cùng các gia đình, ở cùng mọi tâm hồn, không phải sẽ hết đau khổ, hết nguy nan sợ hãi, mà đúng hơn là những ai sống tin tưởng cậy trông, người ấy không bao giờ “cô đơn”. Có Chúa ở cùng, là có đau khổ thập giá, và có sức mạnh đỡ nâng, có tình yêu bất tử đi đến cùng tận bến bờ hạnh phúc.
Người tín hữu hôm nay có nhiều điều kiện thuận lợi, có sự linh thánh chảy tràn trong tin yêu, có bề dày kinh nghiệm của tiền nhân để lại cách sống đạo, giữ đạo, hầu phát huy truyền thống xây dựng đức tin và đức ái. Xã hội cũng cho thấy sự cao quý nơi tình người: sống trong bể ngọc kim cương, không bằng sống giữa tình thương bạn bè. Nếu thiếu vắng đức yêu thương, không đủ sự liên đới hiệp thông giữa tình Chúa tình người, ai dám bước theo Đức Giêsu, ai dám tự hào cho mình có gương sáng đạo đức cho gia đình, lối xóm ? Chúa làm được mọi sự, biết rõ tâm tính từng học trò của Ngài, nhưng Chúa vẫn gọi mời các môn đệ, và chúng ta hôm nay tiếp tục làm chứng nhân Tin mừng, cộng tác xây dựng Nước Chúa tại trần gian, tất cả là hồng ân, là tình yêu.
Công bằng mà nói, được cha mẹ yêu thương, con cháu phải có nghĩa vụ sống yêu thương, chu toàn phận vụ mình như một quy luật trước gia đình xã hội. Cứ công bằng mà nói, được lãnh nhận dồi dào nguồn ơn bí tích, người kitô hữu không thể ngồi im, thụ hưởng, cần phải chia sẻ, sống ơn ban, sống tinh thần tông đồ, phản ánh đức tin kitô giáo. Khuôn vàng thước ngọc mà các đấng bậc nhắn gởi: hãy trung thực khi nghèo khó, giản dị khi giầu có, lịch sự khi có uy quyền, và im lặng khi giận dữ. Người có Chúa ở cùng, là người luôn ý thức sống tinh thần: có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ ; có ơn Chúa ban, và sẽ chia sẻ ơn ban cho anh chị em mình. Các môn đệ hôm xưa có Chúa ở cùng, các ông đã hoàn tất được sứ mạng Chúa trao phó, đâu ai nghi ngờ là các ông đã biết sống kết hiệp với ơn Chúa.
Người có Chúa ở cùng là người khôn ngoan, biết cậy dựa vào tình yêu và sức mạnh của Chúa, họ sẽ thấy rõ ràng hơn thế nào là phép lạ theo cùng. Chúng ta hôm nay sẽ có Chúa cùng hành động, vì mỗi kitô hữu chính là hạt giống đức tin trổ sinh bông hạt do giá Máu cứu độ của Đấng đã chết vì yêu. Người xưa có nhiều kinh nghiệm rất đáng để chúng ta suy xét về cách sống của mình: ở không là mẹ các tật xấu, hay nhàn cư vi bất thiện. Người kitô hữu không thể ngồi yên chờ thời, không thể thủ thân thủ thế với nén bạc chúng ta đã nhận lãnh, dù là ơn vật chất hay tinh thần. Người có Chúa ở cùng, không phải là người “lỳ hay liều”, họ sẽ không chờ đợi “là thánh”, hoặc hoàn toàn “nên giống Chúa”, họ đủ khôn ngoan để ơn gọi truyền giáo như sứ mệnh vô cùng cấp bách Chúa mời gọi. Amen.
Một tác giả đã viết: hạnh phúc lớn lao nhất mà ta đạt được, đó là khi làm cho người khác được hạnh phúc. Quả vậy, khi chúng ta quảng đại dấn thân để đem lại niềm vui cho một người nào, thì chính chúng ta đạt được niềm hạnh phúc lớn lao cho chính mình. Chúa Giêsu đã dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Chúa đã làm gương cho chúng ta khi vui lòng chấp nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương con người. Chúa Giêsu đóng đinh là trung tâm đời sống của Giáo Hội. Luật Phụng vụ quy định, khi dâng thánh lễ luôn phải có tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, đặt ở vị trí mọi người dễ thấy cạnh bàn thờ. Sự hy sinh hiến mình của Chúa Giêsu là nguồn gợi hứng và là linh hồn cho mọi hoạt động của đời sống Kitô hữu. Thánh Phaolô đã khẳng định, niềm vinh dự của ngài chính là Đức Giêsu chịu đóng đinh. Chính nơi thập giá, thánh nhân đã kín múc sức mạnh, sự can đảm và niềm vui, mặc dù phải đối diện với bao gian nan thử thách trong sứ mạng tông đồ. Lời Chúa hôm nay diễn tả Đức Giêsu dưới khía cạnh của một người Tôi tớ Chúa chịu khổ nạn vì yêu thương con người. Ngôn sứ Isaia đã thương cảm trước hình ảnh của Đấng bị hành hạ, là nạn nhân của bạo lực và ghen ghét. Tuy vậy, nếu vị Tôi tớ Chúa chấp nhận những khổ đau, là để cho con người được hạnh phúc trường tồn. Một hậu duệ thiêng liêng sẽ được phát sinh từ thương tích của Ngài. Truyền thống Kitô giáo đã nhận ra nơi người Tôi tớ đau khổ của Chúa mà Isaia loan báo là hình ảnh tiên báo Chúa Giêsu. Con Thiên Chúa đã mang trên mình mọi tội lỗi của muôn dân. Người chịu đóng đinh trên thập giá như một tội nhân, mặc dù người Do Thái không tìm được lý do gì để kết án. Cái chết của Chúa là sự tự hiến, vì yêu thương đến cùng. Chúa Giêsu khẳng định, Người đến thế gian không để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống vì yêu thương con người. Chúa Giêsu là Mục tử, lãnh đạo bằng tình yêu thương phục vụ, khác với những nhà lãnh đạo trần thế, là những người lãnh đạo bằng quyền lực và thủ đoạn. Suốt bề dày lịch sử, có nhiều cái nhìn lệch lạc về sứ mang của Chúa Giêsu. Điều đó không có gì lạ, bởi lẽ ngay những môn đệ của Chúa cũng hiểu lầm như vậy. Giacôbê và Gioan là hai anh em đã có một thời gian theo Chúa làm môn đệ Người, vậy mà các ông vẫn mang quan niệm trần tục về sứ mạng thiên sai của Đức Giêsu. Không riêng gì hai anh em này, mà cả mười môn đệ còn lại cũng có tâm trạng như thế. Các ông bực tức và xầm xì với nhau trước việc Giacôbê và Gioan xin ngồi bên tả và bên hữu Chúa. Các ông tỏ ra là những người đầy tham vọng và ghen tương ngày cả với những người anh em mình. Chúng ta đừng vội trách móc hoặc phê phán các môn đệ. Bởi lẽ chính chúng ta cũng có lối sống Đức tin theo kiểu trần thế, ưa thích những gì hào nhoáng bên ngoài. Qua cách sống của nhiều người tín hữu, hình ảnh của Chúa Giêsu và của Giáo Hội bị biến dạng và mang tính thế tục. Thật vậy, khi người tin Chúa nói một đàng lại làm một nẻo, họ sẽ gây nhiều ngộ nhận về đời sống Đức tin. Nhiều anh chị em lương dân có thành kiến với người có Đạo, bởi họ không sống những điều họ tuyên xưng. Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn làm môn đệ của Chúa thì phải dấn thân sống tinh thần phục vụ như Người. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thày, là anh em thương yêu nhau” (Ga 13,35). Giới răn yêu thương là cốt lõi của Đạo Chúa, là con đường giúp chúng ta đạt được Nước Trời.
Như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay, khi hai người con ông Dêbêđê, và cũng là những người trong nhóm môn đệ đi theo Chúa Giê-su, là Gioan và Giacôbê, đến xin Chúa cho mình được hai chỗ bên tả và bên hữu Chúa, nghĩa là những người có địa vị, danh vọng và uy quyền trên những người khác, và chúng ta cũng được biết, khi 10 môn đệ khác tỏ thái độ bực tức và ganh tị với hai người con ông Dêbêđê, vì họ cũng muốn có địa vị, danh vọng và uy quyền, Chúa Giê-su đã từ chối, và nhân đó Người dạy các môn đệ và chúng ta bài học về đời sống hy sinh phục vụ.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã từ chối vì 2 lý do. Lý do thứ nhất là trong các tổ chức chính trị, hành chánh và xã hội, những người lãnh đạo đều thích và dùng mọi phương cách để có uy quyền, chức vụ trên người khác. Nhưng trong các cơ cấu tổ chức mà họ lãnh đạo người dưới quyền không được hạnh phúc gì cả, trái lại còn phải đau khổ. Lý do thứ hai là trong tổ chức mà Chúa Giê-su thành lập, tức là Giáo Hội, không có người trên kẻ dưới, không có người lớn kẻ nhỏ, mà tất cả đều bình đẳng với nhau vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng là con của một Cha trên trời. Cho nên mọi người đều có bổn phận, trách nhiệm và giúp nhau để làm theo ý Cha trên trời, và làm danh Cha cả sáng. Bởi vậy trong Giáo Hội, địa vị và quyền bính được trao không phải cho kẻ ham muốn kiếm tìm nó, mà trao cho những người nào có thiện chí và hy sinh phục vụ.
Có một câu chuyện ngụ ngôn được kể như sau. Một chiếc đồng hồ đeo tay một hôm đi dạo ở công trường trước một nhà thờ. Nó nhìn lên tháp nhà thờ thấy một chiếc đồng hồ rất lớn nên ganh ghét. Đồng hồ nhỏ nói: “Anh tưởng là anh ngon lắm hả. Thực ra cái mặt anh to quá khổ chẳng đẹp chút nào, hai cánh tay thì dài thượt coi chẳng đẹp gì cả. Giọng nói thì khàn khàn.” Chiếc đồng hồ lớn chỉ mỉm cười và nói: “Hãy lên đây.” Chiếc đồng hồ nhỏ leo lên. Khi đứng bên chiếc đồng hồ lớn nhìn xuống thì nó mới hoảng sợ. Thì ra ở trên cao này nguy hiểm quá té xuống tan xác như chơi. Rồi lúc nào cũng bị bao nhiêu cắp mắt nhìn lên, và lại còn cô đơn nữa. Khi đó chiếc đồng hồ lớn khều nó nói: “Ở dưới có người muốn biết giờ kìa. Em đưa mặt ra cho họ xem đi.” Chiếc đồng hồ nhỏ đáp: “Không được, từ đây xuống dưới xa quá mà mặt em nhỏ quá ở dưới xem không thấy đâu.” “Vậy thì em nói giờ cho họ nghe đi.” “Cũng không được, vì tiếng em nhỏ quá.” Khi đó chiếc đồng hồ lớn mới ôn tồn giải thích: “Đó em thấy chưa. Em cũng không thể làm việc của anh, mà anh cũng không thể làm việc của em. Mỗi người chúng ta ai làm việc nấy, chỉ để phục vụ cho người ta thôi. Từ này về sau mình đừng chỉ trích và ganh ghét nhau nữa nhé.”
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện rất ý nhị và nói lên được ý nghĩa bài học Chúa Giê-su dạy chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay. Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta có bổn phận, trách nhiệm và cũng có một ơn gọi để phục vụ người khác. Kẻ ở địa vị cao thì phải phục vụ nhiều hơn. Và ở địa vị cao thì càng gặp khó khăn nhiều hơn, có khi còn cô đơn hơn nữa. Bởi vậy, khi hai người con ông Dêbêđê xin địa vị, Chúa Giêsu đã hỏi: “Chúng con có uống nổi chén đắng không?”
Chúng ta nhận thấy phục vụ và đau khổ là hai đường rầy của đường xe lửa. Ở đâu có phục vụ, ở đó có đau khổ. Phục vụ luôn đi kèm với chén đắng, tức là những hy sinh và đau khổ vì 3 lý do sau đây.
Thứ nhất, phục vụ luôn đi đôi với đau khổ, vì chúng ta không thể phục vụ, không thể giúp đỡ người khác, mà chúng ta không phải hy sinh cách nọ cách kia, lớn hay nhỏ, nhiều hay ít, về thời giờ, khả năng hay tài chánh. Lý do thứ hai phục vụ luôn đi đôi với hy sinh và đau khổ bởi vì Thiên Chúa luôn kêu mời những ai có những sự đau khổ hãy đặt sự đau khổ của mình trong sự phục vụ người khác. Thiên Chúa kêu mời họ dùng sự đau khổ của chính mình để hy sinh phục vụ người khác về mặt tinh thần. Hay nói một cách khác, Chúa kêu mời họ hãy dùng sự đau khổ của mình để kết hợp với sự đau khổ của Chúa Giê-su. Và lý do thứ ba, phục vụ luôn đi đôi với hy sinh và đau khổ, mà chúng ta thường không để ý, không chú ý tới là: hy sinh phục vụ lấy bớt đi những sự đau khổ của kẻ khác. Đó chính là đường lối mà chính Chúa Giê-su đã phục vụ anh chị em đau khổ của Người. Vì thế mà Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, nói với các môn đệ rằng “Con người cũng không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.”
Ông bà anh chị em thân mến. Vậy thì, là những Ki-tô hữu, chúng ta phải xây dựng một tinh thần hy sinh phục vụ người khác, và cách riêng, những người cùng trong một cộng đoàn giáo xứ người Việt chúng ta sống trong thành phố Tulsa này, như thế nào? Trước hết, chúng ta phải chú ý đến một điều ngăn cản chúng ta xây dựng một tinh thần hy sinh phục vụ người khác, đó là sự chia rẽ và lạnh cảm. Hay nói một cách khác, chúng ta muốn người khác chú ý đến, phục vụ chúng ta, nhưng chúng ta muốn sống ích kỷ, riêng rẽ cá nhân, không muốn chú ý đến những người chung quanh, hay trong cùng một cộng đoàn giáo xứ, và không hy sinh phục vụ ai hay tham gia vào một điều gì trong giáo xứ. Thứ nhất, chúng ta cố gắng tạo một tinh thần hy sinh phục vụ người khác như của Chúa Giê-su, bằng cách duy trì một đời sống cộng đoàn hiệp nhất, và chú ý đến những khó khăn, những điều cần thiết trong đời sống của người khác, thay vì chú ý đến đời sống của chính mình. Và thứ hai, chúng ta xây dựng một tinh thần hy sinh phục vụ người khác bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện giúp chúng ta ý thức đến những khó khăn và đau khổ của người khác hơn bất cứ một phương cách nào khác.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta cùng cầu xin Chúa trong lời kinh của thánh Phan-xi-cô. Lạy Chúa từ nhân, xin cho chúng con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể chúng con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Ðể chúng con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy chúng con: Tìm an ủi người hơn được người ủi an. Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết. Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Xem ra Nhóm Mười Hai, nhóm môn đệ nòng cốt, lại là những người có nhiều tham vọng về quyền lực. Sau khi Thầy Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ hai, họ đã tranh cãi xem ai là người lớn nhất (Mc 9,33-34). Sau khi Thầy loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ ba, họ vẫn bất hòa về chuyện ghế ngồi (Mc 10,35-41). Thầy Giêsu không dạy học trong lớp, với phấn và bảng. Thầy dạy từ những chuyện xảy ra hàng ngày trong nhóm. Thầy uốn nắn các môn đệ với một sự tinh tế lạ lùng và một sự kiên nhẫn đáng thán phục. Giacôbê và Gioan là hai môn đệ được Thầy ưu ái. Họ được thấy khuôn mặt Thầy sáng láng trên núi cao, và xao xuyến âu lo trong Vườn Dầu (Mc 9,2; 14,33). Có phải vì thế mà họ muốn vận động để xin Thầy những vị thế cao hơn anh em chăng? Chưa bao giờ Thầy trò đối thoại dài đến thế (Mc 10,35-40). Thầy Giêsu hẳn rất thất vọng vì câu hỏi của hai ông. Rõ ràng họ đang đắm mình trong một thế giới trần tục, mê mải với những mộng tưởng về vinh quang. Họ còn đứng ngoài, chưa vào được thế giới của Thầy. Tuy giận, nhưng Thầy vẫn điềm đạm khi hỏi: “Các anh muốn Thầy làm cho các anh điều gì?” vẫn rất tự chủ và bao dung khi trách: “Các anh không biết các anh xin gì?” Thầy không đáp lại lời xin ngồi hai bên tả hữu, Nhưng thầy lại đưa ra một thách đố cho hai ông: Các anh có dám uống chung một chén với Thầy, và chịu chung một phép rửa với Thầy không? Chén ấy là chén đắng của khổ nhục và cái chết mà Thầy muốn tránh né ở Vườn Dầu (Mc 14,36). Chén ấy là chén máu Thầy trên bàn Tiệc Ly, khi Thầy trao cho các môn đệ cùng uống (Mc 14,23-24). Thầy Giêsu mời hai ông đi vào cuộc Khổ nạn của Thầy. Thầy mời họ chịu chung phép rửa Thầy sắp chịu. Cùng được dìm xuống nước với Thầy trong phép rửa mà lòng thầy khắc khoải chờ mong (Lc 12,50). Nếu không cùng Thầy uống chung chén đắng, và chịu chung phép rửa của cái chết với Thầy, thì họ không thể được hưởng niềm vui Phục sinh. Thầy giúp họ thông hiệp Mầu nhiệm Vượt Qua của Thầy, mầu nhiệm của khổ đau, cái chết và sống lại. Rồi họ sẽ đi vào con đường của Thầy, còn chuyện ghế ngồi tả hữu, họ không nên bận tâm. Thầy Giêsu chẳng những dạy Giacôbê và Gioan, Thầy còn dạy cho cả Nhóm Mười Hai cách lãnh đạo. Có cách lãnh đạo của các người làm lớn ngoài đời. Họ dùng uy, dùng quyền mà thống trị và cai quản dân. “Nhưng giữa anh em, thì không như vậy!” Có một kiểu lãnh đạo khác trong cộng đoàn tín hữu, lãnh đạo kiểu phục vụ cho anh em. Người làm lớn, làm đầu thì phải là đầy tớ cho mọi người. Như thế Thầy Giêsu đã cho ta thấy hình ảnh của Hội thánh mà chúng ta cần xây dựng. Nơi đây trẻ em được đón tiếp, phụ nữ được tôn trọng. Nơi đây không có thèm muốn về quyền lực, chức tước, vì biết rằng đó chỉ là phương tiện để phục vụ. Nơi đây có những mục tử hiến mình cho đàn chiên. Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh tính đồng nghị. Ngài mời mọi thành phần dân Chúa cùng nhau lắng nghe, đối thoại, cầu nguyện và phân định, can đảm để nói, khiêm tốn để nghe, vượt qua thành kiến. Nhờ đó Hội Thánh có được sự hiệp nhất và niềm vui, lôi kéo được nhiều người đến gia nhập.
LỜI NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa, nơi con có biết bao ước mơ, bao khát vọng mong chờ. Có những ước mơ đã thành hiện thực. Cũng có những ước mơ mãi chưa tròn. Nhưng dù được toại nguyện hay không, con vẫn luôn hy vọng nơi Chúa. Con biết rằng Chúa chẳng bao giờ để con một mình, và thế nào Chúa cũng vuông tròn những điều Chúa hứa. Ngay cả khi mọi chuyện có vẻ không đi theo đường của con, con tin chúng vẫn đi theo đường của Chúa, và rốt cuộc đường của Chúa là đường tốt nhất cho con.
Lạy Chúa, xin củng cố niềm hy vọng nơi con, nhất là khi những ước mơ của con không thành hiện thực. Xin cho con đừng quên rằng Tên của Chúa là Tình Yêu. Amen.
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa Nhật XXIX Thường Niên, năm B (chúng ta nên đọc thêm c. 32-34), có thể phân ba đoạn, có tương quan đối xứng như sau:
(A) Mầu nhiệm Vượt Qua (c. 32-34)
(B) Tham vọng làm lớn (c. 35-40)
(A’) Ý nghĩa mầu nhiệm Vượt Qua: trao ban sự sống, diễn tả tình yêu đến cùng, làm nên căn tính thần linh (c. 41-45).
Vấn đề trung tâm của bài Tin Mừng là “tham vọng làm lớn” (B), như chính Đức Giê-su làm rõ năng động thầm kín này, đang hoành hành nơi các môn đệ (c. 42-43); tham vọng này không chỉ có nơi hai môn đệ Gia-cô-bê và Gioan, nhưng cả mười môn đệ còn lại, vì các ông “tức tối” với hai môn đệ này; và tham vọng này không chỉ lộ ra một lần, nhưng nhiều lần (x. Mc 9, 30-37).
Được đặt ở giữa lời của Đức Giê-su nói về mầu nhiệm Vượt Qua và ý nghĩa của mầu nhiệm này (A và A’), tham vọng làm lớn vừa cho thấy sự tương phản tuyệt đối với mầu nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta nhận ra rằng, tham vọng này chỉ có thể được vượt qua bằng mầu nhiệm Vượt Qua mà thôi; nghĩa là bằng hành trình hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô trên con đường của Ngài.
Mầu nhiệm Vượt Qua (c. 32-34)
Để hiểu hết mức độ nghiêm trọng của câu chuyện, chúng ta cần khởi đi từ lời của Đức Giê-su nói riêng với các môn đệ về những gì sắp xẩy ra cho mình. Đó là lần thứ ba và cũng là lần cuối Đức Giêsu nói về cuộc thương khó và phục sinh của Người ; và lần này, Ngài nói rất chi tiết về cuộc thương khó: « Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người ». Như thế, chính Ngài cũng nhận ra từ từ con đường mình phải đi và điều gì sẽ xẩy ra trên đường.
Qua lời loan báo này, chúng ta thấy rất rõ rằng, cuộc thương khó (passion) của Đức Giê-su là hành động (action) của con người: các thượng tế và kinh sư lên án xử tử Đức Giê-su ; họ nộp Ngài cho dân ngoại, dân ngoại nhạo báng, khạc nhổ, đánh đòn và giết chết Người. Nhưng rốt cuộc, cũng không phải hoàn toàn là hành động của con người, bởi vì chính Xa-tan hành động nơi những con người cụ thể (x. Ga 13, 27 và Lc 23, 34). Nhưng tại sao Thiên Chúa, nơi Đức Giê-su, có sự chọn lựa điên rồ, là để mình chịu sỉ nhục đến như thế ? Là sỉ nhục và điên rồ đối với con người và cả các môn đệ nữa, vì các ông lúc nào cũng sợ hãi và kinh hoàng khi nghe nói về thương khó (x. Mc 8, 32 ; 9, 32 và 10, 32), nhưng đối với Thiên Chúa, đó lại là sức mạnh và khôn ngoan. Bởi vì, nơi Đức Giê-su, khi Thiên Chúa để cho Sự Dữ, hành động nơi những con người cụ thể, phô bày thân thể của Người trên thập giá ngất cao, thì chính Người phô bày bộ mặt thật của Sự Dữ.
Phô bày, để mọi người nhận ra ở khắp nơi, ngang qua thân thể nát tân của Người, Sự Dữ và tội lỗi dẫn đến sự chết ; và Người không chỉ phô bày nhưng còn chiến thắng, không phải bằng sức mạnh, nhưng bằng sự hiền lành.
Phô bày, nhưng Người không lên án, nhưng tha thứ và chữa lành loài người chúng ta. Bởi vì, Thiên Chúa không thể tha thứ cho chúng ta, mà không giải thoát khỏi Sự Dữ. Và để giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ, Người phô bày bộ mặt thật của Sự Dữ cho chúng ta nhìn thấy. Một bộ mặt hoàn toàn không phù hợp với lòng ước ao và căn tính đích thật của chúng ta, vốn là hình ảnh của Thiên Chúa.
Và đồng thời nơi Thập Giá, Người bày tỏ (cũng là một cách phô bày) khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, Người là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi. Thập Giá là hệ quả tất yếu của cách thức Đức Giê-su sống căn tính thần linh của mình ở giữa loài người chúng ta.
Tất cả là để, như chính Đức Giê-su mặc khải: « phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người ».
Tham vọng làm lớn (c. 35-40)
Hai anh em Gia-cô-bê và Gioan đến xin với Đức Giê-su: «Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang». Như thế, dường như đối với hai môn đệ, việc đi theo Đức Giêsu là một con đường, một cách thức để có được vinh quang, ngang qua việc ngồi bên cạnh Đức Ki-tô vinh quang. Khi đó, người ta sẽ có quyền bính! Và khi có quyền bính, thì sẽ có tất cả.
Một đàng Đức Giê-su đang hướng tới con đường Thập Giá để trở nên nhỏ bé, để tự xóa mình đi, để dâng hiến và phục vụ ; đàng khác, nơi các môn đệ, lại tồn tại một tham vọng làm lớn, và điều này tất yếu kéo theo sự ganh tị, tranh chấp và loại trừ. Có lẽ chúng ta không có « tham vọng làm lớn » như thế, nhưng chắc chắn, chúng ta có những vấn đề khác đi ngược với con đường Thập Giá của Đức Ki-tô. Chúng ta được mời gọi ở lại với Đức Ki-tô và có tương quan thiết thân với Ngài, ngang qua việc không ngừng chiêm ngắm Ngài trong các Tin Mừng, để hiểu sâu xa, thấm nhuần và yêu mến con đường Thập Giá của Ngài.
Đức Giêsu không quan tâm đến điều họ xin, thậm chí Ngài cũng không có quyền, hay ít nhất, quyền bính không thuộc về lẽ sống của Ngài. Ngài chỉ quan tâm đến chén Ngài sắp uống. Chắc chắn, hai môn đệ chưa hình dung ra hết được chén Đức Giê-su sắp uống là chén nào, nên trả lời nhanh nhẹn: « Thưa uống được ». Đúng là Ngài sẽ có quyền bính, sau khi đi đến cùng con đường Thập Giá và được Thiên Chúa Cha tôn vinh. Nhưng cách thi hành quyền bính của Ngài không phải là cách thức của con người: « thủ lãnh thế gian thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền cai quản dân ». Bởi vì quyền bính của Đức Giêsu là quyền bính của ánh sáng, của sự thật và của sự sống ; và ánh sáng, sự thật và sự sống được diễn tả tốt nhất bởi sự hiền lành, tương quan phục vụ, bởi hy sinh, bởi dâng hiến và trao ban tất cả. Ý nghĩa mầu nhiệm Vượt Qua: hiến mạng sống (c. 41-45) Khi nghe hai môn đệ kia xin với Đức Giê-su như vậy, mười môn đệ khác tỏ ra tức tối ; điều này có nghĩa là, các ông có cùng một tham vọng. Trong bài Tin Mừng này, chỉ trong vài chữ, Lời Chúa cho chúng ta nhận ra lòng ham muốn quyền bính, tham vọng làm lớn tác hại như thế nào trong tương quan với Chúa và với nhau. Nhưng Đức Giêsu thật kiên nhẫn khi đối diện vấn đề rất nghiêm trọng này nơi các môn đệ: « Đức Giêsu gọi các ông lại và nói ». Ngài nêu ra một cách thức thi hành quyền bính giữa các môn đệ hoàn toàn ngược hẳn với cách thức bình thường: « ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người ». Và Đức Giêsu không nêu ra một nguyên tắc xuông, nhưng Ngài luôn luôn nói điều Ngài sống: «Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.»
* * *
Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.
Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác. Và đó cũng là con đường của tấm bánh.
Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.
Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào, để qua đó, Ngài thông truyền cho chúng ta niềm xác tín, con đường Vượt Qua là con đường của sự sống, của niềm vui, của hạnh phúc trong sự hiệp thông trọn vẹn và mãi mãi với Chúa và với nhau.
Tin mừng Mc 10: 35-45: Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ...
Trong một cộng đoàn, đăc biệt là Giáo hội luôn cần một cơ chế, một thể chế lãnh đạo. Vì thế, vai trò của người lãnh đạo rất cần thiết, tuy nhiên, lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải theo cách hiểu và sự hành xử quyền bính của thế gian. Lãnh đạo trong Giáo hội là một thừa tác vụ, một chức vụ để phục vụ làm phát triển con người và cộng đồng.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 10,35-45
Ngay sau lời loan báo về cuộc Thương khó, xem ra các môn đệ chưa hiểu và chưa lãnh hội được mạc khải của Chúa Giêsu, các ông đã vội vàng cầu xin một địa vị, một chỗ tốt trong vinh quang Nước Chúa. Nhân đấy, Chúa Giêsu dạy một bài học về tinh thần phục vụ của người lãnh đạo.
1. Lời thỉnh cầu của anh em Giacôbê: Sau lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, Thánh Máccô tường thuật tiếp câu chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin được ngồi bên hữu và bên tả Chúa trong vinh quang. Rõ ràng lời thỉnh cầu của hai ông thật phi lý và ngây ngô trong bối cảnh này. Chúa Giêsu đã trách cứ các ông: không biết điều các ông xin. Điều các ông xin là quá lớn, không thuộc quyền Chúa Giêsu ban mà thuộc quyền Chúa Cha. Điều các ông xin quả là vô tâm và vô ích, trong khi Thầy đang nói đến cuộc khổ nạn, các ông chưa hiểu, chưa cảm thông, chưa can đảm theo Thầy mà đã vội đòi hỏi vinh quang, đòi chỗ tốt.
2. Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Trước yêu cầu của hai anh em Giacôbê, Chúa Giêsu mời gọi họ uống chén Người sắp uống và chịu cùng phép Rửa Người sắp chịu. Hai hình ảnh Chúa Giêsu dùng "chén và phép Rửa" có nghĩa là chấp nhận đau khổ, chấp nhận tử đạo. Do đó, vinh quang chỉ có thể có, nếu biết can đảm đi vào con đường thập giá với Thầy mình.
3. Con Người đến để phục vụ, chứ không phải để được người ta phục vụ: Lời thỉnh cầu của hai anh em Giacôbê đã tạo nên sự khó chịu nơi các môn đệ khác và cũng lộ ra tính ham địa vị, sự tranh dành địa vị giữa các ông. Chính các ông khi đi đường cũng đã từng tranh luận xem ai là người lớn nhất trong số họ. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, mọi chức tước, quyền bính, địa vị đều nhằm mục đích duy nhất là phục vụ. Các thủ lãnh trong cộng đoàn Giáo hội của Chúa phải hiểu chức vụ của mình là một sự phục vụ. Làm lớn là làm đầy tớ của anh chị em, của mọi người. Như Chúa Giêsu, Người đến để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người chứ không phải để thống trị, để bắt người khác phục vụ mình.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu:
Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu lại phác họa và đòi hỏi các môn đệ của mình một khuôn mẫu ngược lại. Người lãnh đạo phải là người tôi tớ, người phục vụ. Chính Chúa Giêsu khi nói lên điều ấy, Người đã đi trước, đã thực hiện trọn vẹn điều Người giảng dạy. Người đã hiến mạng, đã phục vụ sự sống nhân loại. Chúa Giêsu là con người phục vụ.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Quyền bính trong Giáo hội đến từ sự phục vụ:
Các môn đệ xin Chúa được ngồi bên hữu và tả Người trong vinh quang, nghĩa là xin có một địa vị cao trọng, quyền thế trong Nước Chúa, trong cộng đoàn. Các ông cũng đã từng tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong số họ. Sự kiện này phản ánh não trạng tham chức, ham quyền, hám lợi danh của con người. Chỉ muốn mình được ở trên người khác, được người khác cung phụng, phục vụ. Lời dạy của Chúa Giêsu chỉ ra cách thế để có địa vị, để được làm lớn, làm lãnh đạo đó là hạ mình xuống làm đầy tớ phục vụ mọi người. Một lời dạy, một cách thế nghịch lý, nếu không muốn nói là phi lý. Đối với Chúa, điều làm nên môn đệ của Người không phải là quyền bính, chức tước mà là sự phục vụ. Quyền bính chỉ có thể đến với những ai biết phục vụ và chân thành phục vụ anh chị em mình. Ai càng biết hạ mình phục vụ, càng có uy thế trước cộng đoàn, trước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đi trước thực hiện trọn hảo điều Người dạy. Người đến để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại. Môn đệ Đức Kitô cũng phải đi vào con đường khiêm hạ phục vụ của Thầy mình. Ngày nay, là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta đã và đang hạ mình phục vụ như thế nào? Hay đang là những người mơ ước và tìm mọi cách ngay cả cách bất chính, bất công để tìm kiếm danh vọng địa vị trần thế.
2. Để trở nên đầy tớ mọi người:
Chức quyền danh vọng, địa vị, tự thân nó không xấu. Trong một cộng đoàn, một xã hội luôn cần có người đứng đầu để điều hành, lèo lái thì cộng đoàn ấy, xã hội ấy mới có thể vận hành tốt và tiến tới. Việc làm hết sức mình vì lợi ích chung, vì mọi người của người lãnh đạo là thái độ phục vụ chân thành. Ngày nay, người ta cũng đã nhận thức được lãnh đạo là phục vụ: nào là "đầy tớ của nhân dân"; quan chức là "nô bộc của dân"… Nhưng để sống tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải là chuyện dễ dàng. Theo tinh thần của Lời Chúa dạy, sự phục vụ có nghĩa là làm cho cộng đoàn được chăm sóc, mọi người được chăm lo, được lớn lên. Do đó, Kitô hữu trở nên người đầy tớ phục vụ anh chị em mình là làm cho họ được yêu thương, được quan tâm, được khơi dậy những tiềm năng phát triển đời sống toàn diện. Ngai vàng, quyền bính mà Chúa Giêsu hứa và mời gọi mọi người là hãy yêu mến như Người, hãy thí mạng sống vì tha nhân như Người. IV. Lời cầu chung:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đến trần gian để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại chúng ta. Trong tâm tình tri ân, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Mọi quyền bính, phẩm trật trong Giáo hội đều là các thừa tác viên của Chúa, nghĩa là nhằm để phục vụ Giáo hội, con người và thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và Linh mục luôn thấm nhuần và sống đúng tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người như Chúa Giêsu đã sống và dạy dỗ.
2. Ai muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh chị em. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia được tràn đầy ơn thánh, luôn ý thức trách nhiệm phục vụ của mình để hết lòng tận tụy phục vụ, làm cho dân nước ngày càng phát triển, được thịnh vượng, tự do và hạnh phúc.
3. Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu thương phục vụ lẫn nhau trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ bằng sự hy sinh và sự giúp đỡ nhau chân thành.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để phục vụ nhân loại chúng con bằng việc hy sinh chết trên thập giá để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho mỗi người chúng con đây luôn biết mang lấy tinh thần phục vụ của Chúa để sống và đối xử chân thành với nhau trong cuộc sống hằng ngày. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Đây là câu chuyện vạch rõ cho chúng ta thấy được nước Hungari từ 1848 đến 1916, một triều đại TN 29-B124
Đây là câu chuyện vạch rõ cho chúng ta thấy được nước Hungari từ 1848 đến 1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử, cũng là triều đại tiến bộ nhất. Francis Joseph là người nghiêm khắc nhưng ông trị vì rất khoan dung. Khởi đầu triều đại ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Người ta xin Francis rời Vienna để lánh nạn sang Salzburg cho tới khi tai nạn qua đi.
Hoàng đế hỏi: "Ở Salzbugr có đủ phòng cho các con ta không?" Quan cố vấn trả lời: "Chắc chắn, tâu Hòang Thượng, có nhiều phòng cho tất cả hoàng gia".
"Có thực sự đủ phòng cho các con ta?" Vừa chỉ tay qua cửa sổ lâu đài, về phía đám đông dưới, hoàng đế vừa nhắc lại: "Hãy nhìn đám dân này. Chúng là con của ta. Cha của chúng bỏ mặc chúng trong nguy hiểm sao? Không, những người thành Viena yêu quí luôn chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu".
Chúng ta vừa nghe: Hai môn đệ Đức Kitô. Giacôbê và Gioan muốn được địa vị vinh dự và uy quyền trong Nước Chúa, Chúa Giêsu nhắc họ rằng: "Những người cai trị thế gian thì sai khiến con dân mình. Nhưng đó không phải là đường lối của Nước Chúa. Trong Nước Chúa ai có quyền bính phải là đầy tớ của người dưới quyền mình". Francis Joseph là một tấm gương về điều ấy.
Ngày nay, người ta tranh luận nhiều về quyền bính và tự do. Một chân lý nền tảng cho cuộc tranh luận này là: Trong mọi xã hội, loài người đều phải có người nắm quyền bính, một người có quyền và có bổn phận ra lệnh, một người có quyết định tối hậu. Bạn không thể có một quốc gia không người thủ lĩnh. Bạn không thể có một đội banh không huấn luyện viên, một chiếc tàu không có thuyền trưởng, một quân đội không tướng, một bộ lạc không tù trưởng, một xí nghiệp không giám đốc. Mỗi tập thể loài người đều phải có "ông Bầu" hoặc chỉ định hoặc bầu lên.
Chúa Giêsu biết cần phải có quyền bính. Người chỉ than phiền là nhiều người lạm quyền, lạm dụng quyền bính. Người ta ích kỷ, bất công, có khi còn tàn bạo nữa. Trong Nước Chúa Kitô, người lãnh đạo phải là đầy tớ của mọi người.
Bây giờ chúng ta tìm câu trả lời cho vấn đề quyền bính và tự do. Người chỉ huy phải dự tính và hành động vì lợi ích của tập thế. Cùng lúc người dưới phải được tự do góp ý, có khi còn phải phê bình nữa. Tóm lại, mọi người phải hành động theo quyết định của người có trách nhiệm với đoàn thể. Cũng vậy trong một thể chế dân chủ, người lãnh đạo được bầu lên có bổn phận phải quyết định.
Đây cũng là đường lối trong đơn vị xã hội nhỏ bé nhất và quan trọng nhất: gia đình. Nhiều gia đình bàn luận về mọi vấn đề và quyết định như một tập thể. Rất nhiều gia đình không có ai chịu trách nhiệm tối hậu. Đó cũng là tình trạng của nhiều tổ chức như trường học và xứ đạo. Do đó chúng ta thường thấy: đáng lý những người phải vâng lời lại ra lệnh cho người có trách nhiệm.
Việc phượng tự chung của gia đình Chúa là một điển hình tập thể nghĩ tưởng và hành động với nhau. Thánh lễ có thể dạy chúng ta ra lệnh thế nào và tuân lệnh làm sao. Xin Chúa chúc lành bạn.
Bài Tin Mừng bàn về một chủ đề quan trọng – sự thực. Người bắt các tông đồ phải nhớ lại một TN 29-B125
Bài Tin Mừng bàn về một chủ đề quan trọng – sự thực. Người bắt các tông đồ phải nhớ lại một bài học mà Người đã dạy họ trước đó, tức là bài học quyền bính đối với họ là một hình thức của sự phục vụ. Thế nên trong tâm trí các tông đồ không còn chút mơ hồ, nghi hoặc về những lời Đức Giêsu muốn nói: “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Ngày nay, thường có một hố sâu ngăn cách giữa những người cai trị và những người bị cai trị. Đặc biệt một số tổn hại là do những điều sau đây. Những người ở địa vị thấp cảm thấy không được những người ở địa vị cao đánh giá đúng. Họ thấy những người này xa cách và coi thường họ. Những người đã cố sức leo lên địa vị cao rất dễ quên lúc mình còn dưới “đất đen” thì sự việc ra sao. Nhớ lại chính là hiểu biết. Cha mẹ tốt nhớ lại sự việc như thế nào khi mình còn nhỏ như con mình bây giờ.
Giá mà những người quyền cao chức trọng theo được tấm gương của Đức Giêsu đã đưa ra trong Bữa Tiệc Ly. Hãy để cho anh cảnh sát bị bắt; linh mục xuống ngồi ở hàng ghế dành cho giáo dân; ông thầy giáo xuống ngồi ở bàn học trò, đốc công xuống con mương; cai ngục bị nhốt vào xà lim; bác sĩ bị bệnh nặng; quan tòa ngồi vào ghế bị cáo; ông tướng phải ra tiền tuyến; người có công việc ổn định phải đứng xếp hàng nhận trợ cấp… hẳn chúng ta sẽ có sự quan tâm và nhạy cảm nhiều hơn trong việc thực thi quyền bính?
Dĩ nhiên trường hợp ngược lại cũng xảy ra – những người cấp trên không được người cấp dưới hiểu, và những lời phê phán khó nghe đôi khi được truyền cho nhau nghe.
Một ngày nọ một đồng hồ đeo tay đi ngang qua quảng trường tháp đúng lúc đồng hồ lớn trên tháp chuông gõ mười hai giờ trưa. Chiếc đồng hồ đeo tay nhìn lên đồng hồ lớn và nói: “Có phải ông tưởng rằng mình tốt hơn chúng tôi sao? Ông hãy nhìn lại chính mình xem. Khuôn mặt ông thì thường quá, tay ông thì vụng về, lóng ngóng, còn giọng nói của ông thì thô lỗ?”
Nhưng đồng hồ lớn bình tĩnh đáp lại: “Chú em nhỏ của tôi hãy lên đây và anh sẽ chỉ cho chú em cái này”.
Đồng hồ đeo tay leo lên những cầu thang dài và sau cùng đứng bên cạnh đồng hồ lớn. Phong cảnh nhìn từ nơi này đẹp làm sao! Nhưng chẳng mấy chốc, nó nhận thấy ngất ngưởng trên này thật nguy hiểm và cũng luôn cô độc.
“Này chú em, có một người ở dưới kia muốn biết giờ. Tại sao chú em không nói cho người đó biết?”
“Ôi, tôi không thể nào làm cho người đó nghe và thấy tôi từ chỗ này. Đồng hồ đeo tay đáp.
“Thế thì chú em không thể nói cho người đó biết”, đồng hồ lớn đáp: “Nhưng tôi có thể làm được. Mỗi người chúng ta có một việc phải làm. Việc tôi làm được thì chú em không thể, việc chú em làm được thì tôi không làm được. Vì thế, chúng ta không nên phê phán lẫn nhau. Trái lại, mỗi người hãy theo cách của mình và từ vị trí của mình để nói cho người ta biết thời giờ. Bằng cách đó, chúng ta không những bình đẳng mà còn là anh em của nhau”.
Đức Giêsu phá bỏ khoảng cách giữa ông chủ và tôi tớ. Trong Người hai bên đã trở nên một.
Đọc đoạn Tin Mừng thánh Maccô hôm nay, chúng ta nhận ra bầu khí giữa các môn đệ Chúa Giêsu TN 29-B126
Đọc đoạn Tin Mừng thánh Maccô hôm nay, chúng ta nhận ra bầu khí giữa các môn đệ Chúa Giêsu. Cùng sống với Thầy, đi theo Thầy trên khắp mọi nẻo đường, nhưng đường ai nấy đi, mỗi người nuôi tham vọng riêng, tranh đua nhau giành chỗ nhất trong khi Thầy báo trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay kẻ dữ. Họ sẽ hành hạ Ngài và giết Ngài…” Và đây là lần thứ ba họ nghe những lời tiên báo như thế.
Những lời trang trọng và bi đát như thế bị rơi vào lãng quên, không ai chú ý. Họ đang theo đuổi những giấc mộng riêng, họ không thể chú ý đến điều gì khác. Tham vọng cá nhân đã chiếm hết khoảng không trong tâm hồn họ. Có lúc chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu tỏ ra bực bội: “Thầy phải chịu đựng chúng con đến bao giờ nữa?”
Đối với Phêrô Ngài chặt ngang: “Satan, hãy lui ra đàng sau!”
Hôm nay, trong giờ phút này, chúng ta có chú ý đến những gì Chúa nói không? Hay chúng ta đang bực bội vì thánh lễ kéo dài?
Vài phút nữa, Chúa Giêsu sẽ có mặt nơi bàn thờ, chúng ta sẽ chú ý đến Ngài thực sự hay chỉ nhìn mà lòng trí bay xa về nhà với những công việc đang chờ đợi, với con cái, với những chuyện vặt vãnh hằng ngày?
Chúng ta có giống các môn đệ kia không?
Những gì Chúa làm cho chúng ta, chúng ta không thấy. Tình thương của Ngài, chúng ta biến thành chán buồn, ngao ngán! Chúng ta chỉ cần “ngồi bên hữu bên tả Thầy thôi” Chúng ta thật ích kỷ và dại khờ, chạy theo ảo ảnh mà không nhận ra những gì quý báu hơn.
Chúa Giêsu bình thản đặt lại vấn đề. Không phải chỉ lo chiếc ghế tương lai mà phải sống giây phút hiện tại.
Không phải chỉ “ngồi bên hữu bên tả Thầy” mà phải uống chén với Thầy, chịu cùng một phép rửa như Thầy: “Các anh không biết các anh xin gì”.
Chúng ta ngớ ngẩng như thế đấy. Xin những gì theo sở thích mình, không cần biết đến ai khác. Chúng ta tưởng mình khôn ngoan, lanh lợi. Lấn át anh em mình là khôn ngoan. Chúng ta chỉ biết đòi hỏi cho mình. Hãy kiểm tra lại những gì chúng ta cầu xin. Mấy khi chúng ta thực sự cầu “cho danh Cha cả sáng?” Quyền lợi cá nhân, gia đình là trên hết. Chúng ta đòi ưu tiên. Thế gian là như thế. Chúa Giêsu hoàn toàn khác, Ngài chọn chỗ rốt hết.
Ngài cho hai môn đệ đầy tham vọng kia biết những gì Ngài sắp làm: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống và chịu phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa Thầy được”.
Chắc chắn các ông không hiểu những gì Thầy nói, và nếu có hiểu đi nữa thì cũng chỉ mập mờ. Có lẽ họ cũng hiểu rằng uống chén với Thầy là cùng chịu một số phận với Thầy, đau khổ với Thầy nhưng số phận đó như thế nào? Làm sao họ có thể hình dung được? Chịu phép rửa với Thầy, chắc họ cũng hiểu mù mờ đó thôi. Đầu óc họ chỉ nghĩ đến cái ghế bên hữu bên tả Thầy thì dù gì đi nữa, mộng ước của họ cũng “thành”. Họ đồng ý. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng câu hỏi của Thầy cũng cho họ biết rằng điều Thầy nói cũng không đơn giản như họ nghĩ. Ngài nói: “Các anh có uống nổi không, có chịu được không?” Nghĩa là các anh có đủ sức uống chén và chịu phép rửa với Thầy không? Họ đồng ý. Thật là liều lĩnh! Nhưng họ vẫn tin chắc rằng Thầy sẽ chiến thắng, Thầy sẽ vinh quang, Thầy không thể thất bại.
Mặc dù biết các môn đệ không hiểu rõ lắm nhưng Chúa Giêsu vẫn chấp nhận: “Được, chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho…”
Câu trả lời của Ngài là một sự từ chối. Ngài cho thấy vinh quang mai sau là do Cha trên trời chứ không do Ngài.
Các môn đệ khác tức tối. Điều này không lạ gì. Các ông vẫn tranh nhau chỗ đứng, địa vị. Mỗi lần như thế, Chúa Giêsu dạy họ một bài học mới.
Lần này, Ngài dạy họ bài học phục vụ. Ngài so sánh quyền bính của các lãnh đạo thế gian và quyền bính trong nhóm anh em.
Ở đời ai có quyền thì dùng quyền và sai khiến hay đè bẹp người khác. Giữa anh em, kẻ có quyền lại là người phục vụ. Ngài cho họ thấy sứ mệnh của Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. “Tất cả mọi dân tộc phải phủ phục trước mặt Người”, nhưng Ngài đã trở thành một người hèn mọn nhất: “Ở giữa anh em, Thầy là người tôi tớ”. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Nhiều gia đình tan vỡ chỉ vì người ta không biết yêu, không biết phục vụ.
Nhiều cộng đoàn giáo xứ hay tu trì trở thành một bãi chiến trường của lòng ích kỷ, không còn niềm vui, chỉ vì tranh giành nhau chỗ đứng trong mặt trời, không biết phục vụ.
Phục vụ chính là khuôn mặt khả ái của Chúa Giêsu. Chúa chúng ta, “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa… Ngài mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…”
Trong một thế giới mà con người không còn biết phục vụ là gì, việc phục vụ của chúng ta trở thành một ánh sáng, một Tin Mừng cho mọi người.
Trong một thế giới con tim bị khô cằn, chúng ta hãy bền bỉ phục vụ, chúng ta tin rằng chúng ta không cày trên mặt biển. Chúng ta có một môi trường rộng lớn để phục vụ, mỗi người một công việc.
Chúa Giêsu, Chúa chúng ta đã trở thành người tôi tớ của mọi người để cứu vớt mọi người, chúng ta không thể đi con đường nào khác nếu chúng ta muốn tự cứu mình và cứu anh em chúng ta.
Nhìn lâu giờ khuôn mặt “phục vụ” của Ngài, chúng ta vẫn muốn ăn trên ngồi trước hay sao? Vẫn muốn làm cha thiên hạ sao?
Hãy nhìn nơi bàn thờ. Chúa Giêsu vẫn còn đây. Ngài đến để tiếp tục công việc phục vụ của Ngài cho đến tận thế, không những ban mạng sống mà ban cả Thịt Máu mình để nuôi chúng ta trên con đường lữ hành. Hình thức phục vụ này phải được tiếp nối qua cuộc sống của mỗi người. Chúa Giêsu chỉ ước mong bao nhiêu đó.
THẬP GIÁ ĐỨC KITÔ: HY TẾ TUYỆT HẢO TÔN VINH THIÊN CHÚA VÀ CỨU CHUỘC THẾ GIAN
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý anh chị em,
Thập giá, đối với thế gian là cớ vấp phạm, là sự tủi nhục, vì nó là dụng cụ hành hình, trừng phạt TN 29-B127
Thập giá, đối với thế gian là cớ vấp phạm, là sự tủi nhục, vì nó là dụng cụ hành hình, trừng phạt tội nhân, nhưng đối với người công giáo, nó là sự khôn ngoan của trời, là tuyệt mỹ thần linh, nhằm tôn vinh Thiên Chúa và cứu chuộc thế gian. Thánh giá đồng hành với người kitô, vừa mang chiều kích lịch sử, vừa mang đặc tính thần thiêng, đó là sự tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Về phương diện lịch sử, ở đâu có người kitô hữu, ở đó có thánh giá: đeo trên cổ, trên tai, xăm vào thân thể, dựng trên tháp nhà thờ, gắn trên các ngôi mộ...
Về phương diện thần thiêng: thập giá là sự “tự hủy” của Thiên Chúa “tình yêu và sự sống”, Đấng đã vâng lời cho đến chết trên thập giá, trở nên hy tế cứu độ trường tồn, đẹp lòng Cha mọi đàng, vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh, phục sinh Người từ trong cõi chết, để nên nguồn cứu rỗi cho cả thế gian.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay xoay quanh chủ đề “hy tế cứu độ” được thực hiện trong tình yêu tự hiến, vâng phục đến cùng kiệt của Chúa Giê-su, cốt vì vinh danh Chúa và vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, nói về người tôi tớ đau khổ của Đức Yahvé. Đau khổ phát xuất từ ý Chúa muốn, nghĩa là: vì một lòng tuân giữ lề luật, sống công chính thánh thiện, mà bị thiệt thân, bị người đời yêu sự tối tăm hơn sự sáng ghét bỏ, bách hại.
Người công chính tìm niềm vui, tìm ơn giải thoát trong sự nương tựa, cậy trông vào Chúa hơn tin tưởng, cậy trông người đời, nên họ làm đẹp lòng Chúa và đau khổ, hy sinh, có sức làm cho nhiều người nên công chính.
Lời sách thánh không coi đau khổ như cốt lõi của hy tế cứu chuộc, nghĩa là, tự thân, đau khổ chẳng có giá trị gì, chẳng thể làm cho nạn nhân trở nên công chính, nó chỉ có giá trị khi người tôi trung một mực sống cho Chúa mà bị thiệt thân vì cớ người đời.
Các ngôn sứ đã từng bị ngược đãi, bị bách hại, bị giết chết, nhưng chính những đau khổ họ phải gánh chịu, đã làm chứng lời rao giảng là chân thật, làm cho kẻ nghe tỉnh ngộ, hoán cải và được sống.
Isaia hiểu thấu đáo nguyên lý của đau khổ thập giá trong yêu thương, nên đã diễn tả đúng giá trị hy tế của người công chính, bị bách hại vì danh Đức Chúa.
Người tôi trung chịu đau khổ ghi nhận trong sách ngôn sứ là hình ảnh tiền trưng của Chúa Giê-su, Đấng, vì yêu thương, vâng phục, chịu nạn, chịu chết và sống lại để công chính hóa muôn người.
Bài Phúc Âm vừa tuyên đọc là lời mời gọi những ai muốn từ bỏ chính mình vác thập giá theo Chúa phải quả cảm dấn thân.
Giê-su muốn môn đệ phải nên đồng hình đồng dạng, đạt tầm vóc viên mãn của Ngài, nên khi họ xin cho được quyền cao chức trọng theo kiểu thế gian, Chúa mời gọi họ dấn thân cho Tin Mừng trong sự tự hủy khiêm hạ: “Chúng con sẽ uống chén Thầy sắp uống và chịu phép rửa Thầy sắp chịu” (Mc 10, 39), để trở nên con yêu quý của Cha trên trời. Được Thiên Chúa làm gia nghiệp là phần thưởng cao quý bội phần hơn tất cả những gì lòng người dám ước mong. Đó chính là vị trí hai bên tả hữu Chúa trong vinh quang, không chỉ dành riêng cho hai môn đệ, mà còn cho tất cả những ai trung thành vác thập giá mình hàng ngày theo Chúa.
Bởi vậy, con đường thập giá Giê-su luôn đồng hóa với tinh thần phục vụ trong khiếm tốn: “Ai muốn làm đầu, hãy là người phục vụ anh em” (Mc 10, 44). Giê-su đến, không phải để cho người ta phục vụ, nhưng phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Tác giả thư Do Thái, trong bài đọc II, ca ngợi Đức Giê-su, vị Thượng Tế siêu phàm băng qua các tầng trời, nghĩa là: tự hủy đón nhận thân phận tôi đòi như chúng ta, để cảm thông với những yếu hèn của con người.
Thành ngữ: “Băng qua các tầng trời” là cách diễn tả thập giá thấm vào cuộc đời Giê-su dưới muôn vàn thử thách về mọi phương diện, nhưng không phạm tội, vì thế, Người cảm thương mọi nỗi yếu hèn, tặng ban ân sủng, để chúng ta được dạn dĩ đến cùng Thiên Chúa lãnh nhận ơn giao hòa.
Những lời sách thánh gieo vào lòng chúng ta sức mạnh của niềm tin, cậy, mến, vì nhờ Đức Giê-su, chúng ta được tràn đầy Thánh Thần, trở nên “con yêu dấu”, vui sướng gọi Thiên Chúa là “Cha” và cùng Giê-su, chúng ta vang lời cảm tạ, tri ân: “Con cảm tạ Cha, vì Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn” (Lc 10, 21).
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta biện phân các thực tại trần gian dưới cái nhìn “biện chứng”: vét cạn để được đong đầy, chết đi để được vui sống muôn đời. Thập giá được loan báo giúp con người hòa giải với Chúa và với nhau.
Đón nhận và sống mầu nhiệm thánh giá, giúp chúng ta gạn đục, khơi trong cuộc đời theo Chúa, giúp chúng ta can đảm loại bỏ lối sống giả hình, chia rẽ, bất công dưới mọi hình thức, đồng thời, cũng giúp người môn đệ nhẫn nại sống tình liên đới hiệp thông, đoàn kết yêu thương nhau hơn, cùng nhau “bồi đắp nền văn minh tình thương”, góp phần làm cho danh Cha vinh hiển, Nước Cha trị đến dưới đất cũng như trên trời.
Hoài bão lớn lao, sức con người lại yếu đuối, mỏng dòn, luôn cần ơn Chúa trợ giúp, đồng hành.
Lạy Chúa, xin ban cho con đức khôn ngoan của Ngôi Lời nhập thể, để con biết thực hành “Lời”, hầu làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Amen!
VỊ THƯỢNG TẾ BIẾT CẢM THƯƠNG, PHỤC VỤ VÀ HIẾN MẠNG SỐNG MÌNH LÀM GIÁ CHUỘC MUÔN NGƯỜI
Còn nhớ thuở còn học giáo lý Rước Lễ Lần đầu, tôi thường được dạy rằng: Nếu con làm điều gì TN 29-B128
Còn nhớ thuở còn học giáo lý Rước Lễ Lần đầu, tôi thường được dạy rằng: Nếu con làm điều gì sai, điều gì tội thì Thiên Chúa sẽ ra tay trừng phạt, còn khi con làm điều gì hay, điều tốt thì được Ngài khen, tán dương. Rồi dần dần lớn lên, tư tưởng đó cứ theo tôi và đến lúc được đọc bài trích thơ gửi tín hữu Do thái (Dt 4, 14-16) như bài đọc II trong Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXIX Thường Niên hôm nay, tâm hồn tôi dường như được Chúa uốn nắn, hân hoan vui mừng giống như được Ngài mặc khải điều gì đó. Mà quả thật, kính thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến! Chúng ta được bổ sức, được động viên, khuyến khích và được an ủi vô cùng khi chúng ta được biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là vị Thượng Tế biết cảm thương những yếu hèn của chúng ta; Ngài đến trần gian không phải để phán xét, sửa phạt chúng ta, nhưng Ngài đến để hy sinh phục vụ, dẫn đường chỉ lối cho chúng ta tiến tới cùng Thiên Chúa Cha và hiến mạng sống mình cho tha nhân.
Trong các bài đọc Phụng vụ hôm nay, tôi thiết nghĩ: chúng ta không cần phải giải thích nhiều lời, mà nên đọc đi đọc lại, rồi suy gẫm, và xin Chúa ban cho mỗi chúng ta lòng can đảm từ bỏ lối suy nghĩ cũ kỹ, cách cư xử xét đoán anh chị em mình, mà hướng đến tư tưởng mới, lối sống hòa nhã, chan chứa niềm cảm thông và thấu hiểu cho tha nhân, cho thành viên trong cộng đoàn, trong giáo họ và trong giáo xứ. Giờ đây, chúng ta cùng nhau đọc lại, suy niệm một số điểm trong các bài đọc hôm nay. Thoạt tiên, bài trích sách Tiên Tri I-sa-ia (Is 53, 10-11) thuật lại bài ca thứ tư về Người Tôi Tớ “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ…Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ…” (Is 53, 10a. 11). Con Thiên Chúa vốn dĩ là Đấng quyền quý cao sang, Đấng tối thượng, Đấng quyền năng, nhưng Ngài luôn vâng phục, sống trọn vẹn đức vâng lời Thiên Chúa Cha, thực hiện kế hoạch cứu độ yêu thương của Cha là: nhập thế, chịu nhập Thể, bước qua cuộc Thương khó, Tử nạn và Phục sinh, lên trời, ban Thánh Thần xuống tiếp tục sứ mạng yêu thương nhân loại.
Thế nhưng, không ít anh chị em chúng ta còn nghĩ rằng: Thiên Chúa là Đấng quyền năng nhưng rất xa vời với con người. Ngài ở đâu đâu xa trên kia, chứ chẳng am tường, hiểu thấu lòng con người! Ngài ở chốn cao vời, cực lạc, chứ không gần gũi, đỡ nâng chúng ta! Đặc biệt, khi chúng ta gặp khó khăn, trắc trở, Thiên Chúa dường như ở đâu xa xa kia, chứ không cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng của ta, v.v…! Nếu ông bà, anh chị em còn mang lối nhìn, tư tưởng như vậy, thì xin quý vị đọc thật kỹ lại bài trích thơ gửi tín hữu Do thái (Dt 4, 14-16) và suy đi ngẫm lại: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4, 15-16). Nói làm sao cho hết niềm vui khi chúng ta có được một vị Thượng tế luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu mọi ngõ ngách cuộc đời ta, bao nỗi niềm trong tâm hồn ta! Nói đến đây, tôi chợt nhớ tới thời gian mới được thụ phong Linh mục. Lần đầu tiên, con ngồi nghe giải tội. Sau khi nghe hối nhân xưng thú tội lỗi của mình, con không cầm được nước mắt và cứ thế nước mắt tự nhiên trào ra. Trong lúc nghẹn ngào, con thưa chuyện với người xưng tội: “không chỉ ông bà (anh chị) phạm những tội lỗi ấy đâu, nhưng tôi đây cũng vấp phạm vì những tội ấy nữa. Nhưng Thiên Chúa rất lòng lành vô cùng, Ngài dùng Giáo hội, qua thân phận yếu hèn của vị Linh mục này mà ban ơn tha thứ cho ông bà (anh chị). Vì vậy, chúng ta cùng nhau cảm tạ ơn Ngài và sống hết mực trung thành với tình yêu Ngài ban cho chúng ta…”
Niềm vui được nhân lên gấp bội khi chúng ta được nhận ra: chúng ta có một vị Thiên Chúa luôn gần gũi, cảm thông, cảm thương hết mọi nỗi yếu hèn của ta. Về phần mình, chúng ta nên làm gì để xứng đáng với Đấng hằng bao bọc, chở che, yêu thương và hiến mạng sống mình cho ta? Dĩ nhiên, chúng ta nên học theo Đức Giê-su, biết cảm thông với anh chị em mình, biết khiêm tốn đóng góp những ơn huệ, những tài năng mà Chúa ban cho mình để xây dựng gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Hơn nữa, chúng ta cũng nên biết cảm thương với sự yếu hèn của tha nhân, biết nhìn nhận những yếu đuối của bản thân, hầu cùng nhau tiến lại gần ngai Thiên Chúa để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp (x. Dt 4, 16). Thứ đến, noi gương Đấng luôn cảm thương, gần gũi, chúng ta biết phục vụ tha nhân, biết cộng tác với nhau vì lợi ích của anh chị em, phục vụ một cách như không, không đòi đáp trả. Phục vụ vì Con Thiên Chúa đã đến “để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (x. Mc 10, 45). Phục vụ vì lợi ích của cộng đoàn, giáo xứ, Giáo hội, chứ không vì lợi ích nào khác. Hãy dùng phận vụ, trách nhiệm của mỗi chúng ta như một phương thế quý giá, một cơ hội ngàn vàng để sống tinh thần phục vụ đích thực. Hãy nâng đỡ nhau khi phục vụ, hơn là than phiền, cằn nhằn, vì nếu cứ quen thói than thở, than van, trách móc…thì làm sao mà còn thời giờ để phục vụ nữa! “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 45)
Xin Thiên Chúa chúc lành cho những cố gắng nhỏ bé, những nỗ lực bền bỉ của mỗi chúng ta trong đời sống hằng ngày; để rồi nhờ ơn Chúa, chúng sinh hoa kết trái, trở nên ích lợi gấp bội cho gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, Giáo hội và xã hội.
Giữa muôn vàn thượng tế Được chọn giữa loài người Đặt lên lo việc Chúa Hiến lễ dâng mỗi ngày. Dù Thượng Tế tối cao Mặc lấy xác phàm trần Cảm thông với thanh tao Đền thay bao tội lỗi. Ngài tử nạn một lần Cho muôn người tại thế. Vẫn bước đi ân cần Với con hèn đam mê. Ngài chẳng là ai khác Đức Giê-su Ki-tô. Không tự mình phán quyết, Nhưng vâng phục Chúa Cha. “Con là Con yêu dấu, Nay Cha sinh ra Con”. “Tư tế đến muôn đời Phẩm hàm Men-(ki)-xê-đê”. Xin cho con bền bỉ Hằng chạy đến náu nương Năng nguyện cầu liên lỉ Chứa chan bao yêu thương. Amen!
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Ban Học tập Sao Biển chuyển ngữ từ America Magazine)
Bài đọc một và bài Tin mừng của Chúa nhật 29 Thường niên năm B nói với chúng ta về tầm TN 29-B129
Bài đọc một và bài Tin mừng của Chúa nhật 29 Thường niên năm B nói với chúng ta về tầm quan trọng của việc phục vụ, dựa trên chủ đề của các bài đọc Chúa nhật tuần trước. Hôm nay, chúng ta được thôi thúc suy gẫm về những cách thức phục vụ lẫn nhau, cũng như bị thách đố để đề cập đến những đau khổ ở giữa chúng ta.
Bài đọc thứ nhất là một trong những bài ca về người tôi trung đau khổ trích từ sách Isaia. Bài ca này miêu tả Thiên Chúa chọn một người nào đó để chịu đau khổ thay cho kẻ khác. Sự đau khổ của người tôi trung có những nét tương đồng với của lễ thanh tẩy xá tội, mà điển hình là việc hiến tế con vật tại đền thờ dành cho việc thanh tẩy hoặc tha thứ tội lỗi. Dù phải chịu đau khổ, nhưng người tôi trung được an ủi khi biết rằng đau khổ của mình có thể giúp ích cho người khác. Vì ngôn ngữ diễn tả của sự đau khổ và hình ảnh dân chúng được cứu chuộc, nên bài ca này và những bài ca khác về người tôi trung đau khổ đã được giải thích dưới ánh sáng sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu.
Ngoài cách đọc rõ ràng theo hướng Kitô học, bài ca về người tôi trung cũng đưa ra một suy tư phức tạp về đau khổ. Đối với Isaia, người tôi trung đau khổ có thể là một nhân vật cụ thể là chính ông hoặc cộng đoàn Do Thái đang lưu đày ở Babylon. Lời tiên báo mang đến niềm hy vọng là những người đau khổ “sẽ được nhìn thấy một dòng dõi trường tồn … sẽ thấy và sẽ được thỏa mãn.” Nó mời gọi những ai đau khổ hãy biết định hướng, nhận ra sự an ủi tiềm ẩn, cũng như những tác động tích cực trong tương lai. Tuy nhiên, chúng ta không nên theo đó mà nghĩ rằng con người nên chịu đau khổ chỉ vì hy vọng là những kết quả thuận lợi cuối cùng sẽ đến. Kinh thánh cũng mời gọi chúng ta làm giảm bớt sự đau khổ, chứ không chỉ đương đầu với nó.
Bài Tin mừng hôm nay làm nổi bật quan điểm này với điểm nhấn là việc phục vụ. Sách bài đọc cho chúng ta tùy chọn đọc bài ngắn hoặc bài dài. Bài đọc dài hơn cung cấp thêm nền tảng và bối cảnh cho sự tương tác giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Giacôbê và Gioan hỏi Đức Giêsu làm cách nào để có thể được ngồi bên hữu bên tả Ngài, điều đó cho thấy họ muốn có một địa vị và quyền lực cao hơn. Đức Giêsu nhấn mạnh, “ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em; và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.” Sau đó, Đức Giêsu cho thấy chính Ngài đến để phục vụ và hiến thân cho muôn người, vang vọng lại ngôn ngữ diễn tả của bài đọc một.
Một lần nữa, chúng ta nghe thấy sự cần thiết của việc phục vụ tha nhân. Rõ ràng cả hai bài đọc đều cho thấy sự phục vụ quên mình có thể cần có đau khổ, và Đức Giêsu còn tiến xa hơn nữa khi kêu gọi các môn đệ phục vụ, và quả quyết rằng việc lãnh đạo thực sự đòi hỏi sự phục vụ.
(Suy niệm của Lm. Stephen Rocker - JB. Đào Ngọc Điệp, chuyển ngữ - Nguồn: https://www.hprweb.com/)
Thật đáng buồn khi thấy ứng cử viên trong các cuộc bầu cử quốc gia cứ cố gắng tự nâng mình lên TN 29-B130
Thật đáng buồn khi thấy ứng cử viên trong các cuộc bầu cử quốc gia cứ cố gắng tự nâng mình lên và hạ thấp đối thủ của mình xuống. Cuối cùng, chúng ta phải tự trách mình vì đã dung thứ cho và thậm chí còn mong mỏi một thái độ tự phóng đại của họ nữa. Chúng ta phải luôn nhận ra rằng các nhà lãnh đạo khi phục vụ cộng đồng luôn mang một trọng trách cũng như một cám dỗ đặc biệt. Cám dỗ về quyền lực, của cải, danh dự và danh giá có thể rất mạnh, vì vậy tất cả chúng ta đều phải rèn luyện bản thân để cống hiến và trân trọng việc phục vụ trong khiêm tốn.
Bằng lời nói và gương sáng, Chúa triệt hạ tính kiêu căng của chúng ta và dạy chúng ta cách phục vụ tha nhân. Người rửa chân cho các môn đệ. Người nói với họ, "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em," và "khi anh em đã làm tất cả những gì anh em đã được truyền lệnh, hãy nói rằng" chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. "
"Tại sao người ta không nhìn nhận mọi việc tôi làm quanh đây?" hoặc "tại sao tôi phải làm công việc của người khác?" Chúng ta không nên làm cớ cho sự biếng nhác hoặc thiếu suy nghĩ của người khác, bởi vì, vì lợi ích của chính họ, họ cần phải có trách nhiệm. Nhưng thực tế là, tại nhà, tại nơi làm việc, ngoài xã hội và trong Giáo hội, không bao giờ có sự phân bổ lao động một cách công bằng. Vậy tất cả chúng ta hãy làm phần việc của mình, và đôi khi còn làm hơn thế nữa, bởi vì “Con Người không đến để được phục vụ mà là để phục vụ”. Vì đó là điều Chúa đã làm, nên chúng ta cũng phải làm như vậy.
Gợi lên câu hỏi này trong hoàn cảnh còn rất nhiều khó khăn, đau khổ vì đại dịch, đặc biệt hơn TN 29-B131
Gợi lên câu hỏi này trong hoàn cảnh còn rất nhiều khó khăn, đau khổ vì đại dịch, đặc biệt hơn, hôm nay là Chúa Nhật Truyền Giáo và cũng là ngày toàn quốc cầu nguyện xin ơn chữa lành mùa đại dịch, thiết tưởng rằng, ai trong chúng ta cũng sẽ có rất nhiều ước nguyện cầu mong: Cầu mong xin Chúa thương ban, cho dịch bệnh sớm chấm dứt, cho nhiều người được mau chóng lành bệnh, cho nhiều người có công ăn việc làm lại, cho các sinh hoạt như tôn giáo-tín ngưỡng, học hành, vui chơi, giải trí được sớm ổn định trở lại, cho chúng ta được đi đây-đi đó, được thăm người này-người kia, được ăn món này-món nọ…chắc không thể nào mà có thể kể ra cho hết những điều mà chúng ta đã và đang muốn xin Chúa thực hiện và ban cho chúng ta. Thế nhưng thưa ACE, liệu rằng, sau biết bao nhiêu lần nguyện ước cầu xin, chúng ta vẫn còn vững tin để tín thác vào tình thương của Chúa với những chương trình và hành động của Ngài? Hay chúng ta vẫn còn có niềm hy vọng để tiếp tục cầu xin với Chúa, để xin Chúa hãy làm cho chúng ta theo như thánh ý tốt lành của Ngài hay không? Thưa ACE, chúng ta hãy lắng đọng và hãy để cho Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay soi sáng hầu giúp chúng ta ý thức hơn, trước những biến cố của cuộc đời đó là: Chúng ta nên cầu xin gì với Chúa và cần phải hành động ra sao trước thánh ý nhiệm mầu của Ngài?
Bài đọc một trong sách Ngôn sứ Isaia (Is 53, 10-11) “Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ”. Chúng ta không thể nào hiểu được, tại sao, Thiên Chúa lại muốn để cho “Người Tôi Trung của Giavê” lại phải chịu đau khổ, phải hiến thân để trở nên như của lễ đền tội? Có người sẽ tự hỏi: Phải chăng Chúa ưa thích sự đau khổ hay cực hình, thì mới làm cho Chúa được thỏa lòng hay sao? Thưa, hoàn toàn không phải như vậy. Thật ra, sự đau khổ và những cực hình cùng các hệ lụy của nó là kết quả của tội lỗi mà con người vì ích kỷ, hẹp hòi, vì những hành động bất chính mà con người tạo nên cho nhau. Thế nhưng, vì tình yêu thương, Thiên Chúa lại dùng những điều mà chính con người gây nên, để Ngài thánh hóa, ban ơn, biến đổi và cứu sống con người. “Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ”.
Chúa đã gánh lấy tội lỗi của nhân loại để tha thứ, để thánh hóa và để ban ơn ích cho chúng ta, cho những ai tin và chấp nhận cách thế cứu độ của Ngài. Đây cũng chính là sứ điệp mà trong bài đọc hai (Dt 4, 14-16) mời gọi chúng ta hãy đặt trọn niềm tín thác vào chương trình cứu độ cũng như thánh ý nhiệm mầu của Chúa được thực hiện cho chúng ta qua Ðức Giêsu, là Con Một Thiên Chúa. Vì thật ra, nơi Con Người và sứ vụ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đang sống và làm một với chúng ta, để cùng cảm thông, để chia sẻ những yếu đuối và bất toàn của kiếp người chúng ta, ngõ hầu để cho chúng ta cảm nhận rằng, chính Chúa thật là người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu thật sự. “Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Vậy chúng ta hãy cậy trông vững vàng mà tiến đến trước toà ân sủng, ngõ hầu lãnh nhận lòng từ bi và tìm kiếm ân sủng để gặp được ơn phù trợ kịp thời”. Thế thì giờ đây, khi đối diện với những hoàn cảnh thách đố và những đau khổ trong cuộc đời, chúng ta có còn vững tin vào Chúa, có còn muốn theo Chúa, muốn Chúa làm cho chúng ta theo như ý Ngài, hay chúng ta chỉ muốn Chúa làm theo cách của chúng ta?
Tin mừng hôm nay (Mc 10, 35-45) tường thuật lại cho chúng ta những gì mà các môn đệ của Chúa muốn Ngài làm cho họ. “Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy. Người hỏi: Các con muốn Thầy làm gì cho các con? Các ông thưa: Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Không chỉ có hai người này đến xin Chúa để được ngồi vào hai vị trí này mà thôi đâu, vì thật ra, các ông cũng đã bàn tán và tranh luận với nhau nhiều lần về việc: “Ai là người lớn nhất trong nước Chúa?” Được Chúa ban ơn cho để trở nên là người lớn nhất, cao trọng nhất, có địa vị, uy quyền nhất… là những điều mà con người hằng mong ước nguyện xin. Thế nhưng thưa ACE, những khao khát, ước nguyện, những điều mà chúng ta cầu xin Chúa, thì dường như không được Chúa ban cho, mà trái lại, chúng ta được Chúa cho trở nên giống như Ngài trong mọi cách cung cách, hành động và sứ vụ của Chúa. “Chúa Giêsu bảo các môn đệ: Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu”. Thật ra, cung cách, con đường và sứ vụ mà Chúa muốn ban cho chúng ta và Chúa rất mong muốn chúng ta được trở nên đó là: “Con người phục vụ trong yêu thương”. Vì chính Chúa Giêsu đã sống, đã trở nên gương mẫu cho chúng ta noi theo. “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Thưa ACE, giờ đây, liệu rằng, chúng ta có còn vững tin để xin Chúa ban cho chúng ta được như thánh ý Chúa muốn chăng, đó là muốn được trở nên giống như Chúa Giêsu, muốn được trở nên người tôi trung đau khổ của Giavê, người phục vụ và hiến thân vì yêu thương” hay không? Lời Chúa hôm nay, như sao sáng hầu giúp chúng ta hãy vững tin, tín thác vào chương trình tình thương và thánh ý cứu độ nhiệm mầu của Chúa cho chúng ta.
Lạy Chúa, khi phải đối diện và gánh lấy những khó khăn, thử thách, đau khổ trong cuộc sống, chúng con không thể hiểu được đường lối, sứ mạng và thánh ý mà Chúa đang muốn cho chúng con. Dẫu rằng, tài sức của chúng con thì hạn hẹp và yếu đuối, nhưng xin cho chúng con luôn biết tín thác và cậy trông vững vàng vào kế hoạch tình thương mà Chúa muốn cho chúng con được thông phần cộng tác và trở nên nhân chứng tình thương cứu độ của Chúa cho tha nhân. Lạy Chúa, xin ban ơn giúp sức và xin hãy thực hiện cho con theo như thánh ý Ngài. Amen.
QUYỀN BÍNH TRONG CỘNG ĐOÀN, VÀI QUY TẮC TỔ CHỨC CỘNG ĐOÀN
CÂU HỎI GỢI Ý
Phải hiểu như thế nào chữ “vinh quang” ở c.37 ? 2. “Chén” và “phép rửa” (cc.38-39) Chúa Giê-su TN 29-B132
1. Phải hiểu như thế nào chữ “vinh quang” ở c.37 ?
2. “Chén” và “phép rửa” (cc.38-39) Chúa Giê-su nói đây là gì?
3. Theo cc.41-45, các thủ lãnh cộng đoàn Ki-tô hữu phải quan niệm chức vụ của họ ra sao? Câu 45 cho thấy một sự phục vụ đúng nghĩa phải như thế nào ?
1. Những tương phản thật là mãnh liệt giữa cảnh này với cảnh đặt trước (10,32-34). Lời loan báo Khổ nạn được tiếp nối bằng câu hỏi phi lý và ngây ngô của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an. Với một thái độ gần như trẻ con, hai ông muốn được chấp thuận ngay cả trước khi trình bày thỉnh nguyện (10,35). Trước câu hỏi lại của Chúa Giê-su (10,36), họ trả lời bằng cách nói lên tham vọng được tham dự vào quyền điều hành trong “vinh quang”, trong quyền tối thượng thiên sai của Chúa Giêsu (10,37). Phải hiểu chữ “vinh quang” như trong bản văn nguyên thủy của Mt (20,21) là “vương quốc sắp được thiết lập tại Giê-ru-sa-lem theo kỳ vọng của các môn đồ.
Trong quyền tối thượng được quan niệm theo kiểu Đa-vít đó, hai anh em muốn được người ta dành cho những vinh dự lớn nhất và uy quyền tối cao. Khi nói với họ “các ngươi chẳng biết điều các ngươi xin” (10,38), Chúa Giêsu muốn bảo lời thỉnh cầu của họ thật ngây ngô khờ khạo. Rồi, bằng hai hình ảnh chén uống và phép rửa, Người giải thích rằng sự sẵn sàng và khả năng chịu tử đạo và điều kiện cho việc “đồng quyền tối thượng ” đó. Uống chén (x. 14,36) và “được rửa bằng một phép rửa” có nghĩa là chấp nhận đau khổ và sỉ nhục. Sự sẵn sàng của hai anh em, mà Chúa Giêsu không phủ nhận, có lẽ phản ảnh vai trò của hai con ông Giêbêđê trong cộng đoàn sơ khai: uy thế của các ông đặt cơ sở không phải trên một trách nhiệm điều khiển (như đối với Phêrô) nhưng trên cái chết tử đạo của hai ông; vì ít nhất đối với Gia-cô-bê, cái chết tử đạo của ông được lịch sử minh chứng. Nhưng 10,40 nói tiếp: mặc dù họ sẵn sàng, điều đó chẳng bảo đảm gì về vai trò tương lai của họ. Chỉ Thiên Chúa mới có quyền thẩm định điều này (câu văn ở thể thụ động chứng tỏ chủ từ là Thiên Chúa, x. 4,11; 8,12; 9,31; 10,33). Tuy nhiên, đoạn tiếp sẽ cho thấy tư tưởng đầy tham vọng của hai môn đồ không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Giê-su nói chung. Vì thế cho nên chi tiết “những ai mà điều đó đã được tiền định” có mục đích đặt toàn bộ vấn đề đi ra ngoài những tính toán nhân loại và chẳng tỏ lời thỉnh cầu chẳng thích hợp chút nào hết.
2. Câu 41 mở đầu phần giáo huấn cho các môn đồ với một chủ đề mới mẻ; nhưng sự kiện phần này được nối kết với phần trước nhấn mạnh cách mới mẻ sự phi lý của một tranh luận nhằm chiếm “địa vị” trong Vương quốc Thiên Chúa. Đề tài bây giờ là trật tự hiện thời giữa các môn đồ. Cộng đoàn cần phải bảo toàn trong phạm vi của mình cách thức suy tưởng của Chúa Giê-su và đừng để bị lôi cuốn vào những tranh chấp vì một cấp cao và một cấp thấp như lề lối các phẩm trật trần gian. Câu 42 nhắc nhở cho hay (“các ngươi biết…”) các hệ thống phẩm trật trần gian sẽ như thế nào nếu không được điều chỉnh bằng tình huynh đệ Ki-tô giáo. Giữa các môn đồ với nhau, cần phải áp dụng những biện pháp khác hẳn ( 10.43-44). Các thủ lãnh cộng đoàn (“ai muốn làm lớn … ai muốn đứng đầu”) phải hiểu chức vụ mình là một sự phục vụ, và “phải làm tôi tớ mọi người”. Tính cách đáng tin của một Tin mừng, vốn nhằm thanh luyện và phế bỏ những tương quan phi nhân. Tùy thuộc vào sự đảo ngược phẩm trật tự nhiên đó. 10,45 biện minh cho sự cần thiết của thái độ đảo ngược các quy tắc “nhân loại” như vậy, và giải thích bằng cách quy chiếu vào Chúa Giê-su, Đấng đã hoàn thành sứ mạng bằng cách thay thế cho tất cả, đến độ chấp nhận một cái chết đớn đau và bởi đó đã chứng tỏ mức độ mà một sự phục vụ đúng nghĩa phải đạt tới. Việc c.45 quy chiếu về hình ảnh Người Tôi tớ đau khổ, cứu chuộc của Isaia (53), đem lại cho giá trị mẫu mực của tư tưởng này một uy thế thần học đặc biệt.
Ingo Hermann, Levangile de Saint Marc, II, tr 48-50.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đây là một bản văn mà các anh em phản chứng thường nhắc nhở và chú giải cách nhiệt thành: Chúa Kitô đã không bao giờ tán dương người trên, linh mục hoặc thủ lãnh. Đối với Người, điều làm nên môn đồ, chẳng phải là quyền bính, sự thông thái, nhưng là sự phục vụ. Chính Người đã từ chối dứt khoát cám dỗ của Satan là thống trị các dân tộc với các phép lạ lẫy lừng. Thầy ở giữa các con như một người phục vụ.
2. Thế nhưng ta đều bị cám dỗ sử dụng những phương tiện điều hành, bởi vì đối với ta chúng có vẻ hữu hiệu để hướng dẫn con người hơn là sự thuyết phục, sự tự do và lòng yêu thương. Giacôbê và Gioan đã mong ước thực thi việc tông đồ ở trên ngai, và Chúa Giêsu đã cho hai ông biết sẽ thực thi việc đó ở trên thập giá.
3. Chúa Kitô là thủ lãnh và là Thầy tuyệt hảo; muốn biết quyền bính trong Hội Thánh phải được thực thi như thế nào, hãy xem Chúa Giêsu dã sử dụng quyền năng Người ra sao. Đối với Chúa Giêsu, Vương quốc Thiên Chúa là một xã hội hoàn toàn khác với các quốc gia trần thế; nó không tự áp đặt cho con người do chính bản chất của mình, nhưng hằng tự do lương tâm. Lời mời gọi của Chúa luôn luôn là tự do: "nếu anh muốn làm tông đồ Ta... Nếu anh muốn trở nên hoàn hảo... hạnh phúc cho các anh nếu các anh làm như vậy...". Quyền bính Kitô giáo phải được thực thi bằng thuyết phục, bằng cảm hóa, soi sáng, dạy dỗ.
4. Nhưng những thí dụ và lời giáo huấn của Chúa Giêsu quá trái nghịch với những tham vọng tự nhiên của các môn đồ, nên khó mà không gặp phản ứng thái độ ngây ngô của Giacôbê và Gioan vẫn còn là thái độ của nhiều người trong Giáo Hội. Ngày nay, người ta khám phá rằng quyền bính trong Hội Thánh không phải là quyền áp đặt những quyết định của thủ lãnh cho các cấp dưới, nhưng là khả năng khơi dậy sự hiệp thông. Vấn đề không phải là truyền lệnh hay là thanh trừng, nhưng là kêu gọi lương tâm và xác tín. Vị thủ lãnh không phải là người ra lệnh nhưng là người tạo nên một bầu khí tin tưởng, thương yêu, tôn trọng, một cộng đoàn cùng chung những quan điểm và khát vọng đến nỗi giải đáp của các vấn đề sẽ được thể hiện bằng một sự nhất trí luân lý.
5. Chúa Giêsu đã không nói đến nguy hiểm và trật tự trọng Hội Thánh Người, nhưng Người đã nói nhiều đến nguy hiểm của một quyền bính tôn giáo được thực thi như một quyền bính trần thế. Chúa Giêsu đã không nói rằng các thủ lãnh phải cai trị bằng sự công bình và lòng nhân từ; Người đã nói rõ ràng rằng các thủ lãnh không được cai trị, nhưng hãy sống như các nô lệ và tôi tớ; người nào phục vụ nhất, người đó là thủ lãnh đích thực.
6. Chỉ có một tinh thần Tin Mừng, chỉ có Thánh Thần của Chúa Giêsu mời có thể linh ứng cho các người có trách nhiệm phương thức thi hành sứ mạng tôn giáo. Để thực thi tốt quyền bính, cũng như để sử dụng tốt của cải, cần phải nói như Chúa Kitô: "Đối với con người là điều không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì tất cả đều làm được".
7. Ngai vàng duy nhất, uy quyền duy nhất, quyền bính duy nhất mà Chúa Kitô đã hứa cho Giacôbê và Gioan, là hãy yêu mến như Người, uống chén đắng, thí mạng sống và yêu anh em như Người.
Tin mừng Mc 10: 35-45: Chúa Giêsu sẵn sàng cho hai môn đệ thân yêu được chia sẻ chén đắng và phép rửa của Ngài, nhưng còn việc ngồi bên tả bên hữu thì lại không thuộc quyền Ngài. Cái nhìn của Chúa Giêsu về quyền hành chức vị khác người đời quan niệm rất nhiều....
Nhìn vào thực tế đời sống xã hội, người ta thường quan niệm việc làm lớn hay trở nên cao trọng TN 29-B133
Nhìn vào thực tế đời sống xã hội, người ta thường quan niệm việc làm lớn hay trở nên cao trọng luôn gắn liền với quyền bính, chức tước, danh vọng. Như vậy, làm lớn đồng nghĩa với việc được phục vụ, được ca tụng, được ngưỡng mộ. Biết bao người đã xử dụng mọi thời giờ, vận dụng mọi tài sức, chấp nhận mọi hy sinh và lắm khi không từ nan mọi thủ đoạn đê hèn để thực hiện ước muốn đạt được danh vọng, chức tước, quyền bính trong nhiều lãnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn nghệ, thể thao...và cả tôn giáo nữa!
Ta bắt gặp Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng làm giá chuộc con người. Ngài trở nên giống con người mọi đàng, Ngài chia sẻ những giới hạn của con người. Có thể nói: ai bị cám dỗ thử thách như thế nào thì Chúa Giêsu ít nhất cũng bị cám dỗ và thử thách như vậy.
Thật thế, quyền hành không quan trọng bằng phục vụ. Nếu chọn giữa chức quyền địa vị và việc phục vụ, thiết tưởng tôi sẽ chọn việc phục vụ, vì phục vụ làm mình lại gần con người, làm mình có "trọng lượng thật" hơn, làm mình có công phúc hơn, làm mình triển nở và hạnh phúc hơn. Quyền hành địa vị so với việc phục vụ, là như tiếng thanh la vang dội, như phù vân giả tạo, như hình bóng so với cái thực. "Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và làm giá cứu chuộc nhiều người".
Chúa Giêsu sẵn sàng cho hai môn đệ thân yêu được chia sẻ chén đắng và phép rửa của Ngài, nhưng còn việc ngồi bên tả bên hữu thì lại không thuộc quyền Ngài. Cái nhìn của Chúa Giêsu về quyền hành chức vị khác người đời quan niệm rất nhiều. Với người đời, những người có chức có quyền được người khác phục vụ; còn đối với Chúa Giêsu và cả những người theo Đức Giêsu, những người muốn làm lớn nhất giữa anh em mình, thì phải làm người phục vụ anh em, phải là tôi tớ anh em, phải là người "tùy thuộc" anh em để mưu lợi ích cho anh em mình.
Chúa Giêsu trở thành tôi tớ phục vụ con người! Tại sao Ngài phải sinh trong chuồng chiên cừu nghèo hèn như vậy? Tại sao Ngài phải lang thang rong ruổi hết nơi này nơi kia để rao giảng Tin Mừng? Tại sao Ngài phải bữa đói bữa no? Tại sao Ngài phải ngủ bờ ngủ bụi "chồn cáo có hang chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu"? Tại sao Ngài phải nói sự thật để phải chết? Tại sao bây giờ Ngài vẫn tự hủy nơi bí tích Thánh Thể? Tất cả là để phục vụ con người, để con người biết sự thật về Thiên Chúa, về tình yêu Thiên Chúa đối với con người đến độ nào. Và Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người nhận ra sự thật, được giải phóng và hạnh phúc.
Lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34) với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu, ngừơi ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết...
Trong lúc Chúa Giêsu tự chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. "Vì Con Người không đến để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn dân". Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.
Chúa Giêsu đưa ra hai mẫu người làm lớn, người cầm đầu thiên hạ, người thủ lãnh: mẫu người thứ nhất dùng uy quyền để thống trị và cai quản dân, mẫu người thứ hai đối nghịch với mẫu người thứ nhất là phục vụ và là đầy tớ của mọi người:"Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người".
Nhìn lại ngôn sứ Isaia, ta thấy ngôn sứ Isaia đã tiên báo về Đấng sẽ đến, người tôi tớ trung tín và công chính sẽ chịu khổ hình để gánh tội: "Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ" (Is 53, 11).
Làm người ai cũng muốn sống an vui và hạnh phúc, chẳng mấy ai muốn đời mình bị đau khổ. Thực ra, chỉ có đau khổ mới hoá giải được khổ đau. Nếu chúng ta không gặp đau khổ, chúng ta không biết thế nào là vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta không có đau đớn bệnh hoạn, chúng ta không biết mình đang an khang khoẻ mạnh. Người tôi tớ công chính đã lãnh chịu mọi thống khổ ở đời để biến đổi nó thành hoa trái tốt lành của ơn cứu độ.
Người Tôi Trung của ngôn sứ Isaia là hình ảnh của Đấng Được Xức Dầu, Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã chấp nhận thân phận con người yếu đuối, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chọn con đường thánh giá để giao hoà. Thư gửi tín hữu Dothái đã viết: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 14,15). Con đường Chúa đi là con đường ngược chiều, có nhiều đau thương và chông gai. Thư Do Thái gọi Ngài là Thượng Tế để gắn kết với hy tế mà chính Ngài đã hiến dâng. Hy lễ đền tội cho nhân loại hiến dâng lên Thiên Chúa Cha một lần là đủ.
Các môn đệ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu vì vốn nghĩ Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai và Đấng Thiên Sai đầy quyền bính trong lời nói và hành động. Như thế, chắc hẳn sẽ có ngày Người đạt tới một thứ vinh quang cao trọng nào đó, như Thánh Vương Đavít năm xưa chẳng hạn. Và chắc chắn họ sẽ được chia sẻ vinh quang với Người. Như để nắm chắc được phần thưởng tương lai, hai anh em con Ông Giêbêđê trong Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn đến bày tỏ với Chúa Giêsu ước muốn thầm kín xưa nay của họ: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy" (Mc 10, 37).
Chúa Giêsu không trách mắng các ông vì sự mê muội của các ông, nhưng Người nhẹ nhàng hướng các ông về mầu nhiệm Thập Giá khi nói các ông: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng phép rửa Thầy sắp chịu không?" (Mc 10, 38).
Các tông đồ khi theo Chúa Giêsu cũng còn có tham vọng tương tự. Họ có ao ước lớn muốn giải phóng Israel khỏi ách thống trị của người Roma, nhưng cũng ao ước có chức có quyền. Điều này được thấy khi hai anh em Giacôbê và Gioan xin cho được ngồi bên tả bên hữu thầy khi thầy được vinh quang. Các tông đồ khác tức giận khi biết hai ông xin điều đó; sở dĩ vậy vì các ông cũng ao ước cùng một điều. Gioan và Giacôbê quá khôn nên muốn "qua mặt" các ông.
Ta lại thấy Chúa Giêsu mở con đường phục vụ trong khiêm hạ: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10, 45). Một lời mời gọi phục vụ chân tình đối với tất cả các phẩm trật trong Giáo Hội. Đặc biệt trong các giờ phụng vụ thánh lễ và các nghi lễ, linh mục và các thừa tác viên có những trách nhiệm và bổn phận riêng phải chu toàn. Chúng ta hãy ý thức tôn trọng lẫn nhau, đừng dẫm chân lên nhau, đừng lớn tiếng phàn nàn, đừng tỏ thái độ cau có và xúc phạm danh dự của nhau. Chúng ta cùng đến để phục vụ cộng đoàn, chứ không phải được phục vụ.