: “Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”. Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa. - Ðó là lời Chúa.
Yêu là cốt lõi của cuộc sống. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài. Tình yêu của Đấng Tạo Hóa được thông ban tới mọi loại thụ tạo. Mỗi loài thụ tạo đều có dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Con người có linh hồn, trí khôn, tự do và tình yêu. Mọi sinh vật đều chìm đắm trong biển tình liên đới với nhau. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Đấng Vô Hình, chúng ta có thể nhận biết Người qua muôn hình vạn trạng của vũ trụ vạn vật và con người. Người là Thiên Chúa hằng hiện hữu và là Chúa của kẻ sống.
Những chỉ thị và huấn lệnh được tóm kết trong Mười Điều Răn và mười điều này thu gọn thành hai điều quan trọng là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Như thế, tất cả luật lệ và các giới răn đều xoay quanh chữ ‘Yêu’. Yêu là ái, bác ái, đức ái, nhân ái và tâm ái. Yêu là nền tảng của mọi sinh hoạt. Yêu phát khởi từ tâm. Tâm thiện làm thăng hoa cuộc đời nên cao thượng và thành tựu.
Chúng ta có thể suy về trái tim yêu thương qua bốn điều: Từ, Bi, Hỉ và Xả. Tâm từ là lòng thương xót. Thương tất cả mọi loài. Thương yêu không chỉ những người trong gia đình mà tình yêu lan trải ra mọi người chung quanh. Yêu cả người ân, kẻ oán. Yêu cả người gây thù dù chuốc oán. Tâm bi là xót thương trước những khổ đau của người khác. Biết cảm thông và xoa dịu những nỗi đau và sầu khổ của tha nhân. Tâm hỉ là vui vẻ trước sự hạnh phúc và thành công của người khác. Biết chung vui và chúc mừng những thành đạt và sự may mắn của người. Người có tâm hỉ thì không ích kỷ, hạn hẹp, ghen tương và đố kỵ. Tâm xả là không luyến ái hay chấp nhất. Giữ thái độ thanh thản và an vui tự tại trong tâm hồn. Từ bi hỉ xả sẽ giúp cho tình yêu tha nhân được triển nở và hoan lạc.
Trong bài phúc âm, Chúa Giêsu lập lại hai giới răn nồng cốt của đạo: Yêu Chúa và yêu người. Thiên Chúa hiện diện nhưng con người không thể diện kiến và đụng chạm bằng giác quan trần tục. Để biểu hiện tình yêu, Chúa mở một cửa ngõ để chúng ta cùng cảm thông: Yêu tha nhân như chính mình. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại được gắn liền với nhau như đồng tiền hai mặt. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà ghét đồng loại. Vì mỗi con người được tác tạo đều mang hình ảnh của Thiên Chúa. Yêu người cũng như yêu chính mình.
Thánh Marcô so sánh tình yêu cao quí hơn của lễ dâng. Đối với chúng ta, yêu người thân cận như chính mình là một đòi hỏi quá khó. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng thấy tình yêu có mức độ. Trong cuộc sống dân gian, trái tim yêu thương được diễn tả theo hình trôn ốc, từ trong cốt lõi ra ngoài. Yêu vợ chồng, con cái, gia đình, họ hàng thân tộc, đồng môn, bạn bè, người thân, kẻ nghĩa, yêu người cùng nhóm hội, cùng chí hướng, cùng tôn giáo, yêu đồng bào cùng quê hương xứ sở và yêu đồng loại… Chúng ta có thể cảm nhận thế nào là tình yêu khi chúng ta xa vắng, tam biệt, ly biệt hay vĩnh biệt người mình yêu. Càng yêu nhiều càng nhớ thương nhiều. Chỉ có những tâm hồn đại ái biết quên mình mới có thể yêu người thân cận như chính mình một cách vô điều kiện.
Trong thơ gởi tín hữu Do-thái, tác giả đã diễn tả hình ảnh hiến tế của Chúa Giêsu linh mục thượng phẩm. Ngài đã dâng hy lễ đền tội cho dân bằng chính sự sống của mình. Tình yêu dâng hiến trọn vẹn để đền tội thay cho dân. Các linh mục thay mặt Chúa dâng lễ tế hy sinh là một việc cử hành thánh thiện, nhưng có nhiều khi bị lợi dụng và lạm dụng. Có nhiều linh mục đã cử hành thánh lễ rất nghiêm trang sốt sáng, nhưng cũng có linh mục cử hành theo thói quen chỉ để chu toàn bổn phận hoặc vì thọ ơn trả nghĩa cho ai đó tại tư gia. Linh mục không chịu đau khổ và không đổ máu, vậy mà đôi khi còn nóng nảy và bực bội chỉ vì vài sơ xót nho nhỏ trong khi cử hành. Các linh mục hãy hòa trộn tình yêu trong việc cử hành thánh lễ để sinh ích lợi cho mình, cho mọi người và cho các linh hồn đang chờ mong ân phúc.
Đức mến là nòng cốt. Mọi sự trên trần gian sẽ qua đi, chỉ có tình yêu tồn tại mãi. Xin cho chúng con biết chia sẻ và sống dấn thân trong tình yêu. Để khi mãn cuộc đời dưới thế, chúng con sẽ được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa, vì Chúa là tình yêu.
Có người đã nhận định một cách khôi hài: từ miệng đến bàn tay, khoảng cách không bao xa, mà phải mất nhiều thời gian đến thế! Cũng từ miệng đến bàn tay, chẳng bao xa, mà lời nói đã phôi phai nhạt nhòa. Điều đó có nghĩa, việc làm cụ thể phù hợp với lời nói thật khó biết bao. Người ta thường nhắc đến những mỹ từ, những công thức văn chương, như những câu thuộc lòng, nhưng ít khi người ta chú trọng đến việc thực hiện những ngôn từ ấy trong cuộc sống cá nhân của mình. Trung tín và làm theo những gì đã nói, quả thật là một điều thật khó khăn. Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta suy tư về điều này, đồng thời nhắc ta hãy cố gắng làm cho lời nói đi đôi với việc làm.
Lâu nay, trong quan niệm truyền thống, các ngành nghề như bác sĩ, giáo viên luôn được tôn trọng, vì họ là những người làm việc theo lương tâm nhà nghề. Tuy vậy, nhiều sự kiện xảy ra gần đây cho thấy, những người mang danh hiệu cao quý này cũng đánh mất niềm tin, có nghĩa là lời nói của họ không đi đôi với việc làm. Đáng buồn hơn nữa, giữa những cộng đoàn đức tin hoặc những người lãnh đạo tinh thần của các cộng đoàn, việc làm của họ cũng không phản ánh trung thực như những gì họ thường tuyên xưng. Đó chính là một rào cản lớn cho sự phát triển của Giáo Hội và cho công cuộc truyền giáo. Làm sao mà chứng từ của chúng ta có tính khả tín, khi giữa cộng đoàn đức tin còn nhiều tranh chấp, chia rẽ, khi lối sống của chúng ta hoàn toàn đi ngược với những gì chúng ta nói và rao truyền?
“Hỡi Israen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy, anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em”. Qua những lời này, ông Môi-sen muốn khẳng định với những người Do Thái: những mệnh lệnh Chúa truyền dạy không thể chỉ được lắng nghe, nhưng phải được thực hành. Một số người Do Thái đạo đức quá chú trọng đến tuân giữ Lề luật một cách tỉ mỉ, mà lại lãng quên việc thực thi tinh thần của Lề luật. Vì vậy, Chúa đã khiển trách họ: “Dân này chỉ tôn kính Ta bằng môi bằng mép, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6). Thực hành lời Chúa dạy là bảo đảm cho chúng ta được hạnh phúc đời này và đời sau. Lời hứa miền đất tràn trề sữa và mật, trong truyền thống Do Thái, là niềm hy vọng nuôi dưỡng niềm tin của dân riêng Chúa đã chọn. Đối với người Ki-tô hữu, đó chính là hạnh phúc đời đời Thiên Chúa ban cho những ai thực thi lòng mến Chúa yêu người.
Mến Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Có thể nói, hai vế của giới luật này bao gồm lý thuyết và thực hành. Bởi lẽ, yêu mến Chúa chỉ được thể hiện qua những công thức hoặc qua những lời cầu nguyện tôn vinh, còn yêu tha nhân thì phải được thực hành bằng những việc làm cụ thể. Nói mến Chúa xem ra không khó, nhưng yêu người thực sự là vô cùng khó khăn. Những ai chỉ khẳng định mình mến Chúa, mà trong thực tế, không thực hiện đức yêu người, xem ra họ chỉ dừng lại ở lời nói, mà chưa thể hiện qua việc làm.
Trước câu hỏi của ông kinh sư: “Đâu là giới răn hàng đầu?”, Chúa Giê-su muốn nhắc lại giới răn quan trọng của Cựu ước, là giới răn mến Chúa yêu người. Theo nội dung Tin Mừng, dường như Chúa Giê-su muốn kết hợp hai giới răn này thành một, khi Người gọi vế thứ nhất là “điều răn đứng hàng đầu, và sau đó Người tuyên bố: “Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều đó”. Như thế, giáo huấn của Chúa thâm sâu hơn giáo huấn của Cựu ước. Lời kinh được ghi trong sách Đệ nhị luật (Bài đọc I) được gọi là “Shema Israel – Nghe đây, Israel” được coi như kinh Lạy Cha của các Ki-tô hữu hôm nay. Đó là lời kêu gọi hãy mến Chúa một cách trọn vẹn. Giáo huấn của Chúa Giê-su không chỉ dừng lại ở tâm tình mến Chúa, mặc dù đó là tình mến “hết lòng, hết dạ, hết sức”, nhưng thúc đẩy mọi người chứng tỏ tình mến ấy qua những hành động cụ thể với những con người bằng xương bằng thịt đang sống xung quanh.
“Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu!”. Đây vừa là lời tán thưởng, và cũng là lời cảnh báo. Chúng ta không biết rõ ông kinh sư có thực thi những gì Chúa dạy, hay ông chỉ học thuộc lòng như một cái máy. Tác giả Mác-cô kết luận: “Không ai dám chất vấn Người nữa”. Đây là cách diễn tả rất độc đáo của Thánh Mác-cô, vì dưới ngòi bút của tác giả, lời giảng dạy của Chúa Giê-su luôn có sức thuyết phục ngay cả những đối phương của Người, vì Người là vị Ngôn sứ cao cả và uy quyền.
Lời nói phải đi đôi với việc làm, mến Chúa phải được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân. Đó là thông điệp quan trọng mà Lời Chúa muốn nhắn gửi chúng ta. Thành tâm đón nhận và chuyên cần thực thi Lời Chúa sẽ giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc trong tâm hồn, và hân hoan tin tưởng hướng về đời sau.
Hàng ngày đọc tin tức ta sẽ thấy chán ngán thế sự mà thốt lên như Nguyễn Du đã từng than rằng:
“Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Vâng”, mạng xã hội chúng ta sẽ thấy gì?
Tôi đã thấy mộtbác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.
Tôi cũng thấy những nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt, những sinh viên ra trường phải trao thân mới có việc làm. Tôi còn thấy bộ trưởng gíao dục mặc nhiên cho phép sinh viên bán dân 3 lần, nếu lần thứ tư mới bị đuổi học!
Tôi còn thấy những bảo mẫu đánh trẻ không chút nương tay. Những nghịch tử bất hiếu ra tay độc ác với đấng sinh thành.
Tôi không chỉ thấy một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc,màcả người vợ ân ái lại chặt chồng thành nhiều khúc vất vương vãi trên đường.
Tôi thấy người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp… Còn rất nhiều tin.
Đây là những hình ảnh đáng buồn của con người Việt Nam hôm nay. Sự hoà khí, hoà hợp giữa con người với nhau đang mất dần mà thay vào đó là bạo động, là tranh chấp, thù hận. . . Ngày nay, người ta có thể đánh nhau, thậm chí giết người vì những nguyên nhân nhỏ nhặt. Chuyện đi đường va chạm giao thông, va chạm không xin lỗi, nhìn đểu, nói lớn tiếng, nặng lời,…đều dẫn đến ẩu đảgây thương tích cho nhau.
Không chỉ bạo lực trong sinhhoạt thường ngày mà ngay cả những nơi thánh thiêng của lễ hội Chùa chiền vẫn có những thảm án đẫm máu bởichen lấn, giành giựt . . . như ở Đền Trần hay Đền Gióng , . . .
Các chuyên gia tội phạm cho rằng đây là hệ lụy của sự vô cảm, thái độ sống ích kỷ, chỉ biết mình, tâm lý chụp giật, tôn thờ vật chất, sống thực dụng… dẫn đến thái độ sống thơ ơ trước nỗi đau đồng loại, vô cảm trước việc làm sai trái xảy ra hàng ngày.
Xã hội là vậy nhưng còn người Công giáo thì sao? Liệu chúng ta có thể sống làm chứng cho tình yêu như Thiên Chúa mời gọi hay không?
Trong những dịp bác ái cứu trợ tôi thấy người Công giáo ít ra không vô cảm với khổ đau của tha nhân. Ai cũng rộng lòng của ít lòng nhiều cùng chia sẻ với những người bị thiên tai. Tôi cũng thấy rất nhiều những cá nhân tự nguyện dấn thân để đem tình thương đến cho người nghèo, người tâm thần, người bất hạnh qua những chén cơm, chén cháo đầy tình nghĩa. Tôi cũng thấy nhiều giáo xứ, nhiều đoàn hội bao bọc cho một cô nhi viện hay một nhà dưỡng lão dành cho người vô gia cư.
Đây là nét đẹp của người Công giáo. Đây là điểm son mà chúng ta cần phát huy hơn nữa. Vi chưng “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta là người ky-tô hữu phải biết sống yêu thương. Yêu thương là lẽ sống của người tín hữu. Yêu thương cũng là nét đẹp của người tín hữu. Yêu thương là trở nên giống Thầy Giê-su. Vì Thầy đã từng làm gương về một đời sống yêu thương.
Cuộc đời Chúa Giê-su luôn yêu thương. Ngài yêu thương nhân loại nên luôn xả thân cứu người. Từng hơi thở. Từng bước chân của Ngài luôn là những nhịp cầuyêu thương. Ngài đã trở nên khuôn mẫu cho mọi tình yêu, vì “không có tình yêu nào cao quý hơn, tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”.
Hôm nay Chúa bảo người biệt phái: “ông không còn xa Nước Trời bao nhiêu”. Từ ngữ không còn xa như muốn nói tình trạng của ông hiểubiết luật nhưng chưa thực sự sống yêu thương. Ông hiểu luật. Ông biết luật mến Chúa yêu người. Nhưng cái biết còn phải đi đến thực hành mới vào được Nước Trời.
Là người ky-tô hữu Chúa cũng bảo “không phải ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu”. Điều quan yếu là thực hành những điều Chúa dạy mới được ở bên Chúa trong Nước Trời.
Ước gì chúng ta hãy noigương ThầyGiê-su để trở thành con người đẹp, con người có nhân cách, có nghĩa khí trước mặt mọi người. Xin cho chúng ta được vào Nước Trời khi sống những điều mình tin bằng việc mang ra thực hành lời Chúa dạy. Amen
Lòng nhân ái liên quan đến lòng mến Chúa, như là thước đo của lòng mến. Nhân ái là một thành phần quan trọng của con người vốn có và có thể mất đi nếu không chuyên lo bồi dưỡng và thực luyện. Chúa Giê su dạy: Mến Chúa hết lòng hết sức và tha nhân cũng yêu mến như vậy. Luyện lòng nhân ái thế nào như Chúa muốn?
Nuôi dưỡng tâm tình tạ ơn từ buổi sớm:
Lòng nhân không ở bên ngoài mà ở bên trong tâm hồn của chính mình. Thế nên, nuôi dưỡng lòng nhân trước tiên là nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng cách nhìn ra những hồng ân Chúa ban. Tạ ơn vì một ngày mới, một sự sống mới của ngày bắt đầu, những bạn bè, những công việc, biết bao điều tốt lành Chúa ban. Nuôi dưỡng là bơm vào tâm hồn mình những điều tích cực để sống ngày vui tươi. Chúa Giê su cũng đã thực hiện như thế mỗi buổi sớm lên núi cầu nguyện và dâng lên tâm tình tạ ơn: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Mt 11, 25)
Nuôi dưỡng tâm hồn cảm thông.
“Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36). Ai trong chúng ta đều cần có sự cảm thông, vì mỗi người đều có những nỗi niềm riêng và cả những lúc bồng bột trong lời nói, việc làm làm phiền lòng người khác. Lắm lúc chẳng hiểu về chính mình tại sao lại như thế! Cảm thông là một điều cần thiết tạo nên tính hiệp thông, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn, san sẻ những lo âu, buồn phiền, giúp nhau sống tốt hơn qua những thăng trầm.
Thực hành cảm thông
Cảm thông xuất phát từ lòng nhân ái và từ trong lòng sẽ xuất hiện cần làm gì cho người khác vơi bớt đau khổ. Trong nhiều trường hợp, Chúa Giêsu chữa người què, cho người mù được thấy, chữa những tâm hồn tan nát bằng lòng thương xót… Chính lòng nhân sẽ chỉ làm gì tốt nhất, từ lời nói, việc làm. Khi thực hành lòng nhân, chính mình sẽ thấy nhu cầu chung của mọi người, dù giàu sang hay thấp hèn là đi tìm hạnh phúc và hạnh phúc chỉ tìm thấy được khi sống niềm vui với người khác.
Tình yêu cao quý là tình yêu chết cho người mình yêu, mang lấy thập giá cuộc đời của nhau. “Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1Pt 2, 21 – 24)
Nguyên Tắc Vàng
“Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12)
Một điều rất đơn giản trong cuộc sống tương quan, thế nhưng cũng đã bao lần làm cho những người khác điều không thích cho mình. Có nhiều nguyên nhân:
Biết nghĩ cho mình mà không biết nghĩ cho người. Biết tốt cho mình mà không biết tốt cho người… Chung quy cũng vì cái tôi ích kỷ mà đánh mất người khác trong trái tim mình. Bao nhiêu điều sống phiền lòng anh chị em cũng vì cái tôi ích kỷ.
Để sống như Chúa dạy, đôi khi làm ơn mắc oán, đôi khi bị hiểu lầm, hoặc mình hiểu lầm người khác…
Nuôi dưỡng đức ái.
Bằng những thực hành cụ thể, Thánh Phaolô phác họa con đường đức ái: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1 Cor 13, 4 – 7)
Dành buổi tối kiểm lại đời sống.
Những gì đã làm được và chưa làm được. “Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4, 26). Quyết tâm hơn mỗi ngày “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48)
Xin Chúa dạy chúng con có lòng thương cảm như Chúa, biết đem ra thực hành Lời Chúa mỗi ngày và sửa lại những lỗi lầm với anh chi em mà chúng con đã vấp phạm.
Các thầy Luật Sĩ hỏi rằng: Điều nào trọng nhất, giới răn luật truyền. Hỡi Is-ra-él nghe khuyên, Hãy yêu Thiên Chúa, tinh tuyền trí khôn. Hết lòng, hết sức linh hồn, Giới răn tiếp nối, kính tôn mọi người. Yêu thương như chính mình ngươi, Hai điều trọng nhất, gọi mời thực thi. Thưa Thầy, đúng lẽ ai bì, Ba Ngôi duy nhất, từ bi vô ngần. Mến yêu Thiên Chúa, tha nhân, Thì hơn lễ vật, ân cần dâng lên. Toàn thiêu hy lễ trong đền, Quan tâm nghi thức, để trên bàn thờ. Lòng thành tâm thiện mong chờ, Thương yêu bác ái, đơn sơ chân thành.
Giới răn trọng nhất chính là: Yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh chị em như chính mình. Hai giới răn gồm tóm tất cả điều luật Chúa truyền. Chúng ta có thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, nhưng khó mà yêu anh chị em. Thiên Chúa vô hình làm sao chúng ta có thể đo lường được tình yêu của chúng ta dành cho Chúa. Nếu chúng ta nói chúng ta yêu Chúa mà ghét anh em mình, chúng ta là những kẻ nói dối.
Anh chị em là những người ngay bên mà chúng ta không yêu thương được, thì làm sao chúng ta có thể yêu thương Đấng mà chúng ta không thấy và không cảm được. Chúa mời gọi chúng ta không những yêu thương anh chị em mà còn yêu cả kẻ thù. Yêu anh chị em không dễ đâu, vì ngay cả những người trong gia đình đôi khi còn khó thương.
Yêu tha nhân bao gồm mọi thành phần và không phân biệt. Không chỉ yêu những người chúng ta quen biết hay giầu sang phú qúi hoặc có danh vọng. Yêu mọi người không trừ một ai. Chúa đã yêu thương nhân loại. Chúa yêu thương chúng ta trước. Ngài hạ thân làm người cũng chỉ vì yêu. Chúa đã yêu đến nỗi đã hy sinh mạng sống vì người yêu. Một tình yêu vô điều kiện. Chỉ có tình yêu mới có thể làm những việc vĩ đại như thế. Đôi khi người ta nói yêu như điên rồ.
Tại sao mẹ Têrêxa và các Nữ tử Bác Ái dám ôm những kẻ cùi hủi, bệnh hoạn, vết thương hôi thối vào trong lòng ? Các Dì đã nhìn thấy gì nơi những người hấp hối, nếu không phải là hình ảnh của Chúa Kitô. Làm sao các Dì dám động sờ vào vết thương lở loét hôi thối và bẩn thỉu đó? Tình yêu của Chúa phủ trùm tất cả.
Tình yêu dẫn chúng ta đến việc hy sinh và phục vụ tha nhân. Chúa ẩn náu nơi những kẻ nghèo hèn và nơi những mảnh đời bất hạnh. Mỗi lần chúng ta bày tỏ tình yêu thương với họ là chúng ta đang bày tỏ tình yêu thương chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đồng hóa chính mình với những kẻ bần cùng nhất. Phục vụ tha nhân là phục vụ chính Chúa
Yêu Chúa, yêu người sẽ hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh. Lạy Chúa, chúng con yêu mến Chúa. Xin cho chúng con biết chia xẻ tình yêu Chúa nơi anh chị em chúng con.
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Những gì Chúa muốn nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta cũng dư biết. Ở đây tôi chỉ xin được đưa ra một vài nhận định để rồi sau đó chúng ta cố rút ra một vài bài học thực tế cho chúng ta.
Trước hết là vấn đề được đặt ra với Chúa hôm nay. Đây là vấn đề vốn được bàn cãi rất nhiều trong giới Rabbit Do thái.
Vào thời của Chúa Giêsu thì Luật được coi là chính thức gồm 613 điều trong đó có 248 điều buộc phải làm và 365 điều cấm không được làm.
Vấn đề mà người luật sĩ đặt ra với Chúa hôm nay không phải là vấn đề con số nhưng là giá trị. Trong số những khoản luật đó, khoản nào là quan trọng nhất?
Để trả lời, Chúa Giêsu đã trưng ra hai điều luật tương đối được nhiều người cho là quan trọng. Điều thứ nhất như sau:
“Hỡi Israel, hãy nghe đây, Giavê Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất“
Đây là điều mà người Do thái coi là hết sức quan trọng. Chính vì thế mà
+ họ phải được đọc câu này lên mỗi khi khởi sự giờ thờ phượng trong nhà hội,
+ những người Do thái ngoan đạo còn ghép câu này lại trong các thẻ bài bằng da rồi đeo trên trán và trên cườm tay để đọc mỗi khi cầu nguyện
+ Rồi còn được chép lên một tấm bảng đặt vào trong một hộp nhỏ hình trụ gọi là Mezuzah để treo lên trước cửa nhà cũng như trên cửa các phòng trong nhà, để nhắc cho người ta nhớ đến Chúa lúc đi ra cũng như đi vào.
Khi Chúa Giêsu trích dẫn câu này và coi như một điều răn quan trọng, thì ai cũng thấy điều đó là quá đúng rồi, không còn phải bàn cãi chi nữa.
+ Tiếp đến Chúa trưng ra một câu thứ hai. Câu này được trích từ sách Lêvi 19,18.”Hãy yêu thương người lân cận như chính mình” Trong câu này, Chúa Giêsu có sửa đổi lại một chút. Sách Lêvi xác định rất rõ kẻ lân cận là người Do thái, chứ không bao giờ bao hàm cả những người ngoại bang, là kẻ mà dân Do thái được phép thù ghét. Còn Chúa khi trích dẫn câu này thì Ngài không xác định, cũng không giới hạn đối tượng của nó. Như vậy Ngài đã lấy một điều luật cũ rồi đổ vào đó một ý nghĩa mới.
Và sau đây mới là điều hoàn toàn mới: Chúa ghép chung hai điều răn này lại với nhau. Trước đó chưa hề có một rabbit nào dám làm như vậy. Với việc ghép chung lại như thế, Chúa muốn xác định một cách dứt khoát đạo của Chúa là đạo Tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Và Ngài cũng ngụ ý dạy rằng phương pháp duy nhất để người ta chứng minh được mình yêu mến Thiên Chúa là yêu thương người khác.
Ông kinh sư hôm nay quả là một người rất thông minh. Ông nắm bắt được ý của Chúa một cách rất nhanh. Ông cũng là người biết tôn trọng sự thật, dám công khai nhìn nhận những điều Chúa dạy là đúng là phải trước mặt mọi người.
Nội dung câu chuyện đơn sơ như vậy, nhưng nó cho chúng ta thấy cốt lõi đạo của Chúa nằm ở chỗ nào: Nằm trong hai tiếng yêu thương. Thánh Gioan Tông đồ viết: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu. (1Ga 1, 7- 8).
Albert Camus một nhà văn lớn của Pháp tuy không có cảm tình gì mấy với Chúa Giêsu nhưng ông cũng đã nói một cách rất chân thành: “Nếu tôi phải viết một cuốn sách về luân lý, thì cuốn sách ấy sẽ dài 100 trang, mà 99 trang để trống, trên trang cuối cùng, tôi sẽ viết: tôi chỉ biết có một nghĩa vụ, và nghĩa vụ đó là yêu thương.”
Pascal cũng đã từng nói: “Tất cả những gì không dẫn đến yêu thương đều là giả tạo.”
Léon Bloy “Bạn sống như thế nào đối với người bạn thân của bạn mỗi ngày: kính trọng hay khinh khi? Nào bạn không biết rằng Đức Kitô ở giữa mọi người, Ngài đảm nhiệm tất cả, gánh chịu tất cả, đau khổ vì tất cả. Bởi thế, xúc phạm đến một người là xúc phạm đến Ngài, hạ nhục một người là hạ nhục chính Ngài, nguyền rủa một người là nguyền rủa chính Ngài, giết hại một người là giết hại chính Ngài.”
Mục tiêu của toàn bộ Kinh thánh cũng chính là lòng bác ái yêu thương.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô viết: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, trừ phi là tình mến, vì kẻ yêu người là chu toàn lề luật.”
Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, mà là để kiện toàn. Và Ngài kiện toàn lề luật bằng cách qui mọi giới răn và lệnh truyền vào giới răn: mến Chúa yêu người. Luân lý Kitô-giáo do đó không phải là một hệ thống gồm những điều phải làm và những điều không được làm, mà thiết yếu là con đường dẫn đến sự sống và hạnh phúc thật.
Không có tình yêu cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa nhưng sống yêu thương điều đó mới đẹp làm sao! Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:
– Bằng vào dấu chỉ nào người khác nhận ra các con là người Công giáo?
Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất chợt một ứng viên trả lời:
– Đó là “Tình yêu”.
Hãy nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con thương yêu nhau”.
Tại đất nước Bangladesh, một trong những nước nghèo nhất thế giới, có một người đàn ông nọ đi bộ về nhà sau một ngày làm việc cực nhọc tại xưởng thợ.
Vì quá mệt mỏi, ông dừng lại ngồi nghỉ dưới bóng cây ven đường và ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Khuôn mặt tiều tụy của ông khiến người đi đường tưởng ông là một người hành khất kiệt sức và ngất xỉu. Và người ta chạnh lòng thương, ai đi qua cũng bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu.
Khi thức giấc người công nhân già hết sức ngạc nhiên thấy chiếc mũ cũ kỹ của mình đầy những đồng xu. Số tiền đếm được còn nhiều hơn một ngày công thợ của ông. Ông mỉm cười tự nghĩ mình đã là một người hành khất bất đắc dĩ.
Trên đường về nhà, ông nhìn thấy nhiều người ăn mày đui mù tàn tật, ông lặng lẽ chia đều cho họ số tiền vừa mới nhận được. Và hơn ai hết, người công nhân nghèo ấy hiểu được: được nhận lãnh và được chia sẻ cũng đều là một niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách, những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật, công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng cả trong tinh thần, bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“ Điều các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em là các con làm cho chính Ta”.
Do Thái giáo là đạo có rất nhiều lề luật, nhiều đến độ đi đâu, ở đâu, tín đồ cũng bị luật xâm xoi, xét nét; làm gì cũng bị luật trói buộc, đe loi, ngăm nghe trừng phạt. Người Do Thái giáo nói về luật như thực thể thần thiêng và chu chắm giữ từng đòi hỏi rất chi tiết của mọi điều luật. Chính vì tinh thần vị luật và trong bầu khí nặng nề, ngột ngạt vị luật này, câu hỏi đã được đặt ra cho Đức Giêsu hôm nay trong Tin Mừng Máccô: “Giới răn nào là giới răn trọng nhất ?” (Mc 12, 28).
Nhiều người đã muốn hỏi Đức Giêsu câu hỏi này, vì tận thâm tâm, tất cả đều mong đợi một cải cách để đời sống đạo nhẹ nhàng, dễ thở hơn; để gánh lề luật từ nay sẽ bớt trì nặng đôi vai, nên khi nghe viên ký lục đặt câu hỏi, ai nấy đều vui mừng, thở phào nhẹ nhõm.
Trả lời trước đám đông, Đức Giêsu đã rất vắn gọn trình bầy Luật mới của Ngài: “Giới răn thứ nhất là: Hãy lắng tai nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa của chúng ta là Chúa độc nhất và ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi và hết cả sức lực ngươi. Thứ đến là ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Hẳn không có giới răn nào khác lớn hơn các điều ấy” (Mc 12, 29-31).
Đức Giêsu đã chính thức công bố đạo mới của Ngài là Đạo yêu thương: Yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất và thương mến anh em đồng loại như chính mình.
Yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất: Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng độc nhất, là Đấng Cứu Độ độc nhất, là Đấng Quan Phòng độc nhất luôn gìn giữ, chăm nom các thụ tạo của Ngài, trong số đó, con người là thụ tạo được Thiên Chúa dấu yêu đặc biệt.
Tính độc nhất nơi Thiên Chúa nói lên Thiên Chúa là Đấng toàn năng và tất cả chúng ta đến từ Ngài, thuộc về Ngài, quy chiếu về Ngài, và sẽ trở lại với Ngài. “Thuộc về Thiên Chúa” là căn tính và hạnh phúc của con người. Thuộc về một Đấng toàn năng, chúng ta còn sợ ai, sợ gì ? Thuộc về một Đấng yêu thương, chúng ta còn lo lắng chi, xao xuyến nỗi gì ? Thuộc về một Đấng nắm toàn quyền sinh tử của mọi thụ tạo, chúng ta còn băn khoăn, hoang mang gì trước tương lai ?
Sở dĩ chúng ta chưa “toàn tâm, toàn ý, toàn thân” yêu mến Thiên Chúa, chưa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực yêu mến Chúa; chưa yêu mến Chúa hết mình, yêu mến Chúa bằng cả đời sống, yêu mến Chúa bằng hết con người, là vì chúng ta chưa xác tín: Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất.
Vì chưa đủ tin Thiên Chúa là Đấng tạo dựng độc nhất, nên chúng ta vẫn chờ ở đâu đó một sức mạnh dự phòng, để giúp chúng ta, nếu Thiên Chúa chơi không đẹp , khi không nghe lời ta cầu xin. Vì chưa đủ tin Thiên Chúa là Đấng cứu độ độc nhất, nên chúng ta vẫn giấu giếm ở ngõ ngách nào đó trong cuộc sống một hình bóng thần linh khác với Thiên Chúa độc nhất, để hy vọng được cứu mạng, nếu chẳng may Thiên Chúa nổi giận bỏ rơi ta. Vì không dám đặt để trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa là Tình Yêu độc nhất tuyệt đối, nên phiá sau con tim, ta vẫn giữ những dáng dấp khác Thiên Chúa, với chút hy vọng sẽ được ủi an, vỗ về ngày Chúa nổi cơn lôi đình xua đuổi ta xa khỏi mặt Ngài.
Tóm lại, trong tương quan với Thiên Chúa, ta vẫn muốn đi nước đôi, vừa thân thiết với Thiên Chúa độc nhất, vừa thân thiện với những đối tượng không thân thiết, thân thiện với Thiên Chúa. Và tâm hồn ta sẽ ở trong tình trạng bị giằng co, căng thẳng, mâu thuẫn, cho đến khi ta thực sự và quyết tâm thuộc trọn về Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất.
Như thế, điều kiện để có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, nghiã là yêu một mình Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất của đời ta từng giây phút của cuộc sống, yêu Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm , yêu Thiên Chúa mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, tình huống, thì tiên vàn chúng ta phải xác tín Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất, và tuyên xưng: ngoài Ngài ra, không còn một thiên chúa nào khác.
Thương mến anh em đồng loại như chính mình: Giới răn thứ hai chỉ là mặt sau của giới răn thứ nhất: Yêu mến Thiên Chúa, bởi một khi đã “toàn tâm toàn ý, toàn thân” yêu mến Thiên Chúa độc nhất rồi, chúng ta sẽ tự động nhận ra hạnh phúc được thương mến anh em đồng loại như mình, bởi chính tình yêu Thiên Chúa thúc bách, lôi cuốn, hướng dẫn chúng ta đến với anh em, đi vào trái tim người khác bằng chính con đường tình yêu của Chúa.
Như chúng ta biết, định luật tự nhiên và căn bản của tình yêu là thông ban hạnh phúc của mình cho người khác, do căn tính của tình yêu là: ước mơ và làm cho người khác được hạnh phúc. Vì thế, khi đã thuộc trọn về Thiên Chúa là Tình Yêu rồi, khi đã hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực yêu mến Thiên Chúa rồi, chúng ta không thể không thương mến anh em mình, bởi Tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa thúc bách chúng ta trao ban hạnh phúc mình đang có trong tình yêu với Thiên Chúa cho mọi người chung quanh, bởi mọi người đều là đối tượng của một Tình Yêu độc nhất tuyệt đối là Thiên Chúa.
Kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy: tình yêu rất năng động và không bao giờ chịu ngưng nghỉ. Chẳng thế mà khi đã thực sự yêu ai, ta yêu đến cùng, yêu đến chết, yêu bất chấp mọi chống đối, rào cản, hoàn cảnh khó khăn. Tình yêu dâng hiến cho Thiên Chúa cũng vậy, sẽ không nằm yên hưởng thụ, không đóng cửa gài then, nhưng bung ra xa, mở rộng mãi, phóng tới những đối tượng mới, những đối tượng không chỉ của tình yêu trong ta, mà còn là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa . Nói cách khác, khi đã yêu Thiên Chúa rồi, ta không thể không yêu anh em đồng loại, vì lúc đó, ta không còn yêu anh em bằng tình yêu nhỏ bé, bất toàn của mình, nhưng bằng tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, Đấng sẽ dìu ta đến gặp tha nhân, bởi Ngài cũng yêu thương họ như yêu thương chúng ta.
Hơn thế nữa, khi yêu ai, ta muốn họ hạnh phúc, bằng làm vui lòng họ, nên ta sẽ qúy người họ yêu, thương người họ mến. Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi người yêu mến Thiên Chúa sẽ mến thương anh em mình, bởi đó là ý muốn của Thiên Chúa, bởi đó là điều làm vui lòng Thiên Chúa hơn cả. Sở dĩ Ngài muốn chúng ta yêu anh em đồng loại như chính mình, vì Ngài đã tạo dựng mọi người, yêu thương mọi người, muốn cứu độ mọi người, trao ban hạnh phúc cho mọi người , bằng cớ là Ngài đã chết cho mọi người được sống, cũng như làm mưa nắng trên cả người lành, kẻ dữ, không loại bỏ, ruồng rẫy một ai.
Vâng, Đức Giêsu đã đến trong thế giới, không để loan báo khơi khơi một sứ điệp, và lập ra một tôn giáo mới với giáo lý và lề luật nặng nề, gò bó; nhưng vạch rõ con đường Tình Yêu Chúa đã đến với con người và hành trình Tình Yêu con người đến với Thiên Chúa. Trên con đường tình này, Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau cách sống động, cụ thể, trong mọi sinh hoạt của đời sống con người.
Tóm lại, Thiên Chúa của Kitô giáo không xa vời, huyền hoặc nhưng ở giữa con người để yêu thương. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu không còn là tình yêu chỉ để súyt xoa chiêm ngưỡng, nhưng là tình yêu hiện diện, chia sẻ cứu sống về phiá Thiên Chúa, đồng thời về phiá con người, tình yêu ấy làm rạo rực tim người, làm phấn khởi đời người, và mang về hạnh phúc cho con người biết yêu mến Thiên Chúa và mến thương anh em mình.
Tin Mừng là Lời Thiên Chúa, và Lời Thiên Chúa là chân lý vĩnh cửu, nên chúng ta sẽ không còn thắc mắc như những người Do Thái xưa: Giới răn nào là giới răn trọng nhất ? Bởi chỉ có một giới răn duy nhất dành cho những người đi theo Đức Giêsu, đó là yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất, và thể hiện tình yêu ấy bằng làm theo ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, ý muốn vừa đẹp lòng Ngài, vừa đem lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta là thương yêu anh em như chính mình.
Khi nói tới điều răn mến Chúa yêu người thì ai cũng cho là một đề tài quá quen và cũ kỹ rồi, nhưng nếu biết cầu nguyện, suy gẫm, tìm hiểu và nghiên cứu thì đây là một đề tài phong phú, nó sẽ gợi mở ra một chân trời rộng rãi và còn nhiều điều mới lạ. Hầu hết chúng ta mới học thuộc lòng điều răn ấy chứ chưa hiểu hết nội dung, nên chưa thực hành đầy đủ điều răn ấy.
Cốt yếu của đạo Công giáo của chúng ta là Đức ái “Mến Chúa yêu người” vì Đức Giêsu đã khẳng định: “Ngoài ra không còn điều răn nào khác quan trọng hơn hai điều răn đó” (Mc 12,31).
Thánh Phaolô nói:”Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,13). Thánh Tông Đồ còn khẳng định thêm:”Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người… được ơn nói tiên tri… đem hết gia tài ra bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1Cr 13,1-3). Thế mới biết tầm quan trọng của Đức Ái.
Điểm đặc biệt trong đạo chúng ta là Đức Giêsu đã nâng giới răn yêu người lên ngang tầm với giới răn mến Chúa và gắn liền hai giới răn đó chặt chẽ với nhau đến nỗi mến Chúa mà không yêu người thì chưa giữ trọn luật Chúa, và ngược lại cũng vậy. Hôm nay chúng ta suy niệm về luật mến Chúa yêu người nhưng chúng ta chú trọng hơn đến luật yêu người để thúc giục chúng ta thi hành luật Chúa cho đầy đủ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Đnl 6,2-6
Ông Maisen nhắc nhở cho dân Do thái phải thi hành luật cao trọng nhất là:”Kính mến Thiên Chúa hết lòng hết sức”. Lòng yêu mến Chúa trong Đệ nhị luật truyền dạy bao hàm trong sự trung thành thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ các giáo huấn của Ngài.
Dân Do thái tuân giữ giới răn này qua bao thế hệ. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Cựu ước còn thiếu sót vì chỉ chú trọng tới việc yêu mến Giavê, Thiên Chúa duy nhất, mà chưa nói đến việc yêu thương tha nhân.
Sự thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc trong bài Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2: Dt 7,23-28
Thư gửi tín hữu Do thái ca ngợi chức Tư Tế của Đức Giêsu. Chứùc Tư tế của Đức Giêsu Kitô ưu việt trên chức tư tế của dòng họ Lêvi. Nếu so sánh hai chức tư tế ấy chúng ta sẽ thấy:
– Chức tư tế của Do thái chỉ có một đời người, khi chết thì hết; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu thì vĩnh viễn.
– Các tư tế Do thái là những người phàm, vướng mắc nhiều tội lỗi; còn Đức Giêsu là vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn.
– Các tư tế Do thái phải dâng lễ nhiều lần; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
+ Bài Tin mừng: Mc 12,28b-34
Một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất. Câu hỏi xem ra bình thường nhưng là câu hỏi hóc búa. Lý do vì trong 613 khoản luật không nói đến điều răn nào trọng nhất, tùy theo ý chủ quan của mỗi luật sĩ, thích điều răn nào thì cho là điều răn ấy trọng nhất.
Nhưng Đức Giêsu đã nối kết hai khoản luật ở Đệ nhị luật và ở sách Lêvi trả lời rõ ràng cho luật sĩ đó là hãy yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Hai giới răn trọng nhất
I. GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.
Giới răn trong Cựu ước. Ông Maisen là nhà lập quốc và lập pháp đã truyền lại cho dân Do thái mười điều răn của Thiên Chúa. Qua bao thế hệ người ta vẫn trung thành giữ các điều răn ấy.
Hằng ngày người Do thái sốt sắng cầu nguyện với kinh Shema tựa như kinh Lạy Cha của chúng ta. Trong đó có câu:”Hãy nghe, hỡi Israel, Giavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lặp lại cho con cái ngươi”.
Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Tuy mọi người tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất nhưng chưa đồng ý với nhau trong một rừng luật như vậy, giới răn nào là quan trọng nhất. Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ trong Tân ước.
Nhân dịp này chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào là sách Đệ nhị luật hay Thứ luật. Ôâng Maisen đã ra luật cho dân nhưng còn tổng quát và ngắn gọn, sau này luật được diễn dịch rồi tổng hợp thành bộ luật Thorab. Sách Đệ nhị luật không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó cũng không phải là tác phẩm trong thời Maisen. Nó lấy lại luật Maisen, suy đi nghĩ lại và cùng với lịch sử của dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của sách này. Thế nên nó được gọi là Đệ nhị luật hay Thứ luật, tức là luật đến sau luật trước, luật bổ khuyết và diễn giải luật pháp Sinai.
Giới răn trong Tân ước.
Trong thời Đức Giêsu, các luật sĩ là những chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh và luật pháp. Chắc chắn họ phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh vì đó là lãnh vực chuyên môn của họ. Thế mà có một luật sĩ nêu ra cho Đức Giêsu một câu hỏi kể cũng hơi lạ !
Nhưng thực ra, vào thời ấy, các luật sĩ đều sôi nổi tranh luận xem giới răn này hay giới răn nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê ra một rừng giới răn, cả một cánh rừng mù mịt đối với người Do thái. Như vậy, luật Do thái có 613 khoản luật, chia ra 248 việc phải làm và 365 việc không được làm. Xét về sự quan trọng, người ta lại chia các điều luật đó ra nhiều hạng: khinh giới và trọng giới, đại giới và tiểu giới. Nhưng các người biệt phái lại không đồng ý với nhau về giới răn nào trọng nhất. Vì thế, người luật sĩ mới đến dò xem Chúa cho biết điều răn nào là trọng nhất.
Đức Giêsu đã trả lời cho ông bằng cách đọc lại những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do thái. Đó là kinh Shema “Hỡi Isrel, hãy lắng nghe” trích trong Đệ nhị luật 6,4-5:”Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.
Nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai là phải yêu mến anh em:”Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”(Lv 19,18-34).
Trong văn chương Do thái thời ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu quả là bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Marcô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều:”Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó”(J. Hervieux)
* Hãy yêu tha nhân. Tha nhân là ai ? Trong Cựu ước chỉ có nghĩa là người gần gũi với người Do thái về huyết thống và chủng tộc. Nhưng “tha nhân” mà Đức Giêsu dùng ở đây có ý hiểu về hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, người nghĩa thiết hay kẻ thù.
* Như chính mình ngươi. Không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải đối xử với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi. Đó là một nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, thứ tình yêu đạp đổ mọi hàng rào ngăn cách chủng tộc, mầu da, vượt lên trên óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi hiềm khích hay những thành kiến cá nhân hoặc cổ truyền.
II. NÓI VỀ HAI GIỚI RĂN ĐÓ
Liên hệ giữa hai giới răn.
Điều mới lạ mà Đức Giêsu làm là ghép chung hai giới răn này lại với nhau. Từ trước cho đến thời Đức Giêsu chưa có ai nhập chung hai giới răn ấy thành một. Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này chúng ta cũng chẳng gặp được người kia.
Nhưng cần phải phân biệt rõ hai giới răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai giới răn này làm một, như thể “yêu Thiên Chúa là đủ” hay “yêu thương anh em” cũng đủ. Giới răn thứ hai không thể thay thế cho giới răn thứ nhất được. Hai giới răn này chỉ là hợp nhất và song hành thôi, chứ giới răn thứ hai không đồng nhất với giới răn thứ nhất được.
Nếu so sánh tình yêu đối với Chúa và anh em thì có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm cho chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục, hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai (Phạm văn Phượng).
Tình yêu và hành động. Nếu thánh Giacôbê nói:”Đức tin không có hành động là đức tin chết”, thì chúng ta cũng có thể nói:”Tình yêu không được thể hiện bằng hành động là thứ tình yêu giả dối, chỉ có trên đầu môi chót lưỡi như người ta nói:
Thương thương nhớ nhớ thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào
a) Mến yêu Chúa.
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Chúng ta hãy nghe những lời Chúa dạy:
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy… Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23).
b) Yêu tha nhân.
Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này:”Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy”(Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn:”Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa; vậy yêu người thì cũng phải làm như vậy cho người.
Có lần một người mới gia nhập Do thái giáo yêu cầu thầy Hillel dạy ông ta toàn thể thông điệp của luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân. Câu trả lời của thầy Hillel là “Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích, hãy đi và học lấy”.
Ngay bên Đông phương, trước Đức Giêsu, Đức Khổng Tử đã để lại một câu nói để đời:”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Sau này ngài cũng nói một câu khác tương tự nhưng với khía cạnh tích cực:”Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Tư tưởng của ngài cũng giống như ở trên.
c) Tình yêu tha nhân bắt đầu từ đâu ?
Tình yêu tha nhân phải bắt đầu từ gần đến xa. Nhưng bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế. Khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.
Chúng ta hãy đặt một câu hỏi cho mình: Chúng ta đã dành tình thương cho những người trong gia đình mình thế nào ? Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể yêu mến Chúa nồng nạn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quí mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quí người hàng xóm, và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.
Trong ý nghĩa đó, Thomas Merton đã nói:”Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”.
Thành quả của hai giới răn đó. Nhờ hai tình yêu đó mà con người có thể tìm lại được chính mình. Các tác giả tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Ngài đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa. Hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không thương yêu anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn yêu mến Thiên Chúa nữa. Có một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau:
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu, Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu. Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài, Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi, Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba.
Chúng ta có thể quả quyết: Bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.
III. THỰC HÀNH GIỚI RĂN CHÚA.
Chúng ta không còn thắc mắc gì nữa. Lệnh truyền của Chúa thật rõ ràng. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng đồng thời cũng phải thương yêu anh em như chính mình. Yêu anh em như mình là chuyện khó vì anh em là những con người cụ thể với biết bao những khuyết điểm, dễ va chạm, nhiều khi tha nhân bị coi như kẻ thù của ta.
Nhìn rõ thực tế đó nên thánh Gioan Tông đồ đã viết: ”Nếu anh em cụ thể mà không yêu được thì làm sao có thể yêu mến Chúa được”(1Ga 4,20)..
Theo lời thánh Giêrônimô khi Thánh Tông Đồ về già, ngài nguyên giảng về bác ái:”Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”. Giáo hữu thưa với thánh nhân: ”Sao cha giảng điều ấy hoài” ? Thánh Tông Đồ đã trả lời: ”Vì đó là điều luật Chúa dạy, và nếu thi hành được duy một điều đó là đủ rồi”.
Đức Giêsu đã phán:”Các con muốn được người ta làm cho các con thế nào thì các con hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31). Ngài còn phán thêm:”Hãy cho đi thì các con sẽ được người ta cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc đầy tràn tóe ra mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào thì cũng sẽ đong trả bằng đấu ấy”.
Napoléon tuyên bố không thèm thân với ai, thì ông đã chết đơn độc trong đảo Sainte Hélène
Hitler, con hùm xám Đức quốc xã, chủ trương dùng bạo lực thì đã chết trong khói lửa đúng theo lời Thánh Kinh “cái ác giết ác nhân”(Tv 33,22).
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, nghe Đức Giêsu trả lời, vị luật sĩ rất tâm đắc với ý kiến rất khôn ngoan của Ngài và diễn tả tâm tình thiện cảm và xác tín của ông đối với tuyên phán của Đức Giêsu về giới răn trọng nhất:”Mến Chúa và yêu người thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và lễ vật hy sinh”. Việc mến Chúa yêu người có giá trị làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn những lễ hiến dâng có tính cách hy lễ và vật chất.
Lời phát biểu của vị luật sĩ phát xuất từ sách 1 Samuel 15,22 (bản văn này kêu gọi sự vâng lời). Lời ấy được lấy lại trong Ôâsê 6,6 (Ta thích lòng nhân từ chứ không thích lễ tế). Người ta có thể nhận biết trong lời đó sự quở trách mà Thiên Chúa, qua các tiên tri, đã ngỏ với dân Ngài: dân chỉ thực hiện những nghi thức nhưng kèm theo bóc lột và những bất công.
Truyện: Bỏ tội thiếu tình thương
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: ”Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm” ? Anh đáp lại: ”Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó” ?
Một nguy hiểm lớn cho tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần. Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người sống chung với mình… Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau (Theo Flor McCarthy).
Mở đầu sách giáo lý Tân Định có một câu hỏi rất hay: Hỏi:”Ta sống ở đời này để làm gì” ? Thưa: “Ta sống ở đời này để nhận biết thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời”.
Như vậy, cuộc đời con người là phải mến Chúa và yêu người thì mới mong được hưởng hạnh phúc đời đời. Chính vì thế nữ tu Rosalie mới nói:”Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.
Dân Do thái được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn giữa bao dân tộc khác. Ngoài việc thiết lập Giao ước, Thiên Chúa còn ban cho họ Mười Điều Răn được khắc trong hai Bia Đá, qua đại diện ông Môisê trên núi Sinai. Đó là luật căn bản, nhưng với thời gian, trải qua nhiều thế hệ, giới lãnh đạo Do thái đã giải thích thêm thành 613 điều, chia ra 248 điều tích cực phải làm, và 365 điều cấm làm. Khi đặt ra nhiều luật lệ như thế, thì họ không biết điều nào quan trọng hơn cả.
Chính vì thế, có một nhà luật sĩ tìm đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?”. Đức Giêsu đưa ra hai điều: một trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Đnl 6,5). Và một trong sách Lêvi: “Ngươi hãy yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv 19,18). Đó là hai điều căn bản, quan trọng nhất , thật rõ ràng và đầy đủ. Chỗ khác Chúa nói: toàn bộ Thánh kinh và các lời ngôn sứ đều qui tóm lại hai điều đó là: Mến Chúa yêu người thôi.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Thánh Gioan tông đồ nói rằng: nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét tha nhân là kẻ nói dối, vì tha nhân là những người cùng chung sống mà chúng ta không yêu thương, thì làm sao yêu mến Đấng vô hình được .
Thật vậy, Đức Chúa Trời ban 10 điều răn, nhưng chỉ dành 3 giới đầu trong việc thờ phượng kính mến Chúa, còn lại 7 giới răn sau, Chúa dành cho việc đối xử với tha nhân. Như vậy, Chúa coi việc đối xử với tha nhân là thước đo lòng yêu mến Chúa. Thế thì, tại sao ta phải thương yêu tha nhân? Thưa vì:
Tha nhân là hình ảnh của Chúa (St 1, 26). Ta yêu Chúa thì phải yêu những gì thuộc về Chúa.
Tha nhân là chi thể của Chúa. Nói theo tư tưởng của thánh Phaolô về mầu nhiệm hiệp thông. Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể, còn tất cả chúng ta là chi thể của nhau (1Cr 6,15).
Tha nhân là giá máu cứu chuộc của Đức Kitô. Đức Kitô đã trả giá rất cao để cứu độ từng người chúng ta, nên chúng ta cũng phải biết kính trọng tha nhân.
Tha nhân là đền thờ Chúa Thánh Thần. Ngày chúng ta lãnh Bí tích rửa tội, đã trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi ngự trị, vậy ta phải tôn kính đền thờ sống động này (1Cr 6, 19).
Ấy thế mà thưa anh chị em, thế giới càng văn minh thì dường như phần đông nhân loại trái tim lại hẹp hòi ích kỷ hơn, do chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ. Vì thế, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận định: “Đó là nền văn minh của sự chết “.
Mặc dầu thế giới văn minh, nhưng vẫn còn rất nhiều nơi thiếu thốn lương thực. Đức Chúa Trời tạo dựng nên vũ trụ này tốt đẹp và ban cho con người trí óc thông minh. Thế mà tại sao vẫn còn tình trạng thiếu thốn đói khát như vậy?. Thưa bởi vì con người thiếu tình liên đới quan tâm đến nhau.
Phần lớn của cải được cất giữ trong ngân hàng, trong két sắt, tủ áo của những nhà tỉ phú, của những đại gia kếch sù.
Người ta bỏ ra hàng bao nhiêu tiền của để đầu tư vào những vũ khí tối tân, những thiết bị y tế, nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống con người, nhưng trong khi đó người ta sẵn sàng giết chết những đứa con ngay từ trong dạ mẹ.
Người ta bỏ bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu tiền bạc, thời giờ đi du lịch nước này nước nọ chơi được, nhưng lại khó lòng dành ra một chút thời giờ đi thăm viếng những người đau yếu, bệnh tật, những người neo đơn bị con cháu bỏ rơi trong những khu ổ chuột ngay trong làng xóm ngỏ chúng ta.
Có khi người ta không chết vì chén cơm manh áo, nhưng người ta chết vì đói lòng thương xót, đói tình người, đói sự quan tâm chia sẻ với nhau. Cho nên, thế giới ngày nay con người rất cần những tấm lòng yêu thương, đồng cảm, chia cơm xẻ áo cho nhau.
Xin anh chị em nhớ cho rằng: Ngày nhắm mắt lìa đời, khi đối diện trước mặt Thiên Chúa là người Cha nhân lành. Chúa không hỏi chúng ta mỗi ngày con đi mấy lễ, con vào mấy hội đoàn, con đọc mỗi ngày bao nhiều kinh…. Nhưng chỉ hỏi một điều duy nhất là con có yêu mến Ta không?. Mà thước đo lòng yêu mến Chúa được căn cứ vào đức bác ái đối với tha nhân mà thôi.
Cầu mong cho mỗi chúng ta, ngày sau hết được nghe những lời Chúa mời gọi: “Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp là sự sống đời đời mà Cha Ta đã dành sẵn cho các ngươi, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta bệnh tật các ngươi viếng thăm… hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”(Mt 25, 34-35). Amen.
Trong Thánh lễ sáng Thứ Năm (23/3/2018), Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã nói về Tình Yêu Thiên Chúa: “Tình yêu của Thiên Chúa thì giống như tình yêu của một người mẹ. Ngài không bao giờ lãng quên chúng ta. Không bao giờ. Ngài trung thành với giao ước của Ngài. Điều này mang lại cho chúng ta sự an toàn và ngay cả trong những thời khắc khó khăn thì chúng ta cũng có thể chắc chắn rằng Ngài đã không lãng quên chúng ta.” (nguồn: Đài Vatican).
Tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Vì tình yêu, Người đã dựng nên loài người có nam có nữ; cũng vì tình yêu, Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn dạy: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.” (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 15).
Quả thật tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người là vô cùng vô tận. Ngay khi dựng nên vũ trụ, Đấng Sáng Tạo đã vì tình yêu bao la (tình bác ái) mà dựng nên con người theo hình ảnh Người, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất (St 1, 28). Tuy vậy, nhưng Thiên Chúa vẫn không quên con người là vật thụ tạo (được dựng nên), để tồn tại và phát triển thì vẫn rất cần đến một thứ tình yêu giới tính (tình ái), và vì thế nên “Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.” Và rồi Thiên Chúa phán với con người có nam có nữ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất” (St 1, 27-28).
Trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Đức Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI đã lý giải rất rõ ràng về Tình Yêu Thiên Chúa. Luận điểm của ĐGH đã đi từ Cựu Ước tới Tân Ước theo “nhãn quan tôn giáo” (thần học – triết lý siêu nhiên) để nhận định và lý giải Tình Yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Tuy nhiên, ĐGH vẫn không quên “nhãn quan triết học” (triết lý nhân sinh), khi ngài viết: “Chiều kích triết học đáng nêu ra trong hình ảnh Thánh Kinh này, và tầm quan trọng từ quan điểm lịch sử các tôn giáo, là một mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng Thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. “Eros” (tình ái) vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với “agape” (bác ái).” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est”, số 19).
Thời Cựu Ước, Luật Mô-sê đuợc ban bố cho dân thi hành có tới 613 điều (trong đó có 365 điều xấu cấm làm và 248 điều tốt dạy phải làm). Tuy nhiên, giới luật của Thiên Chúa được ghi trên bia đá và trao cho ngôn sứ Mô-sê trên núi Si-nai (Xh 20, 1-21) chỉ có 10 điều, trong đó bao gồm 3 điều về yêu mến Thiên Chúa và 7 điều còn lại là yêu thương đồng loại. Như vậy, rút gọn lại, chỉ còn 2 điều cơ bản: Mến Chúa + yêu người. Và để tìm ra 2 giới luật căn bản này thì lại thấy ở 2 sách khác nhau trong Cựu Ước: Điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng, hết dạ, hết sức của anh (em)” (Đnl 6, 5); điều răn sau trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Đến thời Tân Ước thì chính Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu – giảng dạy: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31).
Tuy rằng Đức Ki-tô vẫn nói đó là 2 điều răn, nhưng thực chất giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là “Tình Yêu” được thể hiện bằng 2 chiều kích: Mến Chúa + yêu người. Hai chiều kích đó vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau, đan quyện vào nhau, không thể tách rời. Thật vậy, không thể yêu Thiên Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại, không thể yêu tha nhân mà lại không yêu Thiên Chúa được. Vì thế ngay sau Lời dạy của Đức Ki-tô, thì chính kẻ đã thắc mắc – một kinh sư – cũng phải thốt lên: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12, 32-33); và được Thầy Chí Thánh chúc phúc: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34).
Thánh Gio-an đã xác quyết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20). Và thánh Phao-lô cũng đã viết: “Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5, 14); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2). Ấy là chưa kể chính Đức Ki-tô trong lời dạy về ngày cánh chung cũng khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Muốn yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức lực, thì phải yêu tha nhân như yêu chính mình. Và chỉ có yêu tha nhân như yêu chính bản thân mình mới thực sự là yêu mến Thiên Chúa.
Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Cúi xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Nhờ có tình yêu Chúa ban mà chúng ta có thể sống trọn vẹn hạnh phúc, tạo được mối giây liên kết mật thiết với Chúa, với tạo vật và với tha nhân. Tình yêu con người thường ích kỉ và có điều kiện. Chúng ta yêu mến thân nhân, thân thuộc và thân hữu và những ai yêu mến ta. Ngoài những người đó ra người khác ta hoặc không có cảm tình hoặc làm ngơ, coi như họ không tồn tại. Tình yêu Chúa giúp ta nhìn thấy Đức Kitô trong mọi người và như thế yêu mến Đức Kitô một cách chân thành là yêu mến tất cả mọi người, không phân biệt ai. Chính sự phân biệt này khiến người Kinh Sư gặp khó khăn làm thế nào để yêu tất cả, nên ông đến hỏi Đức Kitô
Điều răn nào quan trọng hơn cả c.28
Ông hỏi thế bởi phong tục của ông hướng dẫn là có những điều răn tối quan trọng và có những điều cấm kị vì thế họ chia lề luật ra thành nhóm bắt buộc phải tuân thủ và nhóm cần thực hành trong cuộc sống. Điều này gây tranh cãi trong lịch sử dân tộc và đưa ra nhiều giải thích, luật buộc khác nhau. Người Kinh Sư mất nhiều giờ nghiên cứu, tìm hiểu và ông không đồng thuận với những khác biệt kia vì thế ông đến gặp Đức Kitô xin sự khôn ngoan nơi Ngài.
Sau khi nghe Đức Kitô giảng giải ông hiểu rõ điều các tiên tri dậy, điều ông từng nghiên cứu nhưng không hiểu thấu đáo, nay được Đức Kitô khai sáng.
Điều Ta muốn là tình yêu chứ không phải hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là của lễ toàn thiêu Hs 6,6 Chúa yêu mến công bình, nhân nghĩa và tâm hồn khiêm nhường Mk 6,6-8
Đức Kitô nói với người Kinh Sư
Đức Chúa,Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình c.32
Đức Kitô đã dùng những điều dậy trong Cựu Ước để giải thích cho người Kinh Sư hiểu rõ hơn về giáo huấn của Chúa. Câu trả lời của Đức Kitô tóm tắt tinh thần giáo huấn của sách Deuteronomy 6,4-5 và sách Levi 19,18. Trong đó hướng dẫn yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân luôn đi chung với nhau. Điều này không thể tách biệt. Tình yêu phải thể hiện qua hành động cụ thể. Chính hành động cụ thể biến tình yêu thành hiện thực. Không ai chứng minh được tình yêu nhưng qua hành động cụ thể con người có thể cảm nhận, nhận biết hành động yêu thương. Nếu chỉ yêu mến người khác bằng cảm nghiệm thì tình yêu đó vừa mông lung vừa trống rỗng bởi nó không có hành động giúp đỡ kèm theo. Yêu người khác bằng hành động cụ thể như giúp đỡ, che chở, bảo bọc trong khả năng của mình chính là làm cho tình yêu Chúa trong ta trở nên thực tế hơn với người cần ta giúp đỡ.
Điều Đức Kitô hướng dẫn người Kinh Sư là giải thích mới mẻ, thực tế và mang tính cách đổi mới. Thời đó người ta tin việc hiến tế súc vật là dấu chỉ lòng yêu mến thần thánh vì thế người ta không thể nào hiểu được làm thế nào không hiến tế súc vật mà có thể lòng yêu mến. Điều này hiện nay vẫn còn xảy ra qua hình thức dâng cúng gia súc, đốt vàng mã. Đức Kitô dậy Ngài muốn tình yêu chứ không phải hy lễ. Ngài muốn nhân nghĩa và khiêm nhường. Chính nhữn giáo huấn mới mẻ này làm cho người Kinh Sư kinh ngạc và nhận ra giáo lí mới của Đức Kitô. Mặc dù rất khâm phục giáo lí và sự khôn ngoan của Đức Kitô nhưng không thấy bằng chứng nào cho biết người Kinh Sư trở thành môn đệ Đức Kitô. Kính trọng và thán phục chỉ là bước đầu dẫn đến tin theo. Để có thể dấn thân, tin theo cần con tim yêu mến chân thành. Chính tình yêu chân thành phát xuất tự tim thúc đẩy chúng ta bước theo Đức Kitô. Tin theo được thể hiện bằng hành động phục vụ Giáo Hội Chúa và phục vụ tha nhân. Thiếu dấn thân phục vụ chỉ là tin nửa vời.
Điệu lý là thể loại âm nhạc liên quan quê hương – gọi là dân ca. Các điệu lý có khi rất đơn giản nhưng luôn có sức hút kỳ lạ. Tuy nhiên, trong tất cả các điệu lý hẳn là chẳng có điệu lý nào hấp dẫn và cần thiết bằng Điệu Lý Yêu Thương – đặc biệt là trong lĩnh vực tâm linh.
MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI là toát yếu của Thập Giới – tóm lược Thánh Luật của Thiên Chúa. Chỉ có hai điều và bốn chữ (theo Việt ngữ), nhưng có thể rút gọn thành Yêu Thương (hai chữ), và cũng có thể cô đọng thành Yêu (một chữ) – gọi là Luật Yêu. Nghe chừng rất đơn giản, và cũng quá quen thuộc, thế mà sao khó thể hiện quá chừng. Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.
Có một sự trùng hợp rất kỳ lạ: Luật Chúa gồm hai điều – liên quan chiều dọc (mến Chúa) và chiều ngang (yêu người), Thập Giá cũng gồm hai nhánh – nhánh dọc (hướng tới Thiên Chúa) và nhánh ngang (hướng tới tha nhân). Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai KHÔNG yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì KHÔNG THỂ yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.
Chính Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, và nói thẳng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật và rất thẳng thắn: “Dân này tôn kính Ta BẰNG MÔI BẰNG MIỆNG, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng VÔ ÍCH, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là GIỚI LUẬT PHÀM NHÂN” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng liên quan “luật yêu”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21). Ôi, nghe mà “nhột” quá chừng, chắc hẳn ai cũng thấy giật mình vì ai cũng thấy mình… “có tật”!
Chúa có cách nói nghe chừng “nhẹ nhàng” thế mà “nặng nề” lắm, giản dị mà phức tạp, nhẹ như “xoa” mà “đau” thấm thía! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”. Thường là thế, vì cái quyền (hành) luôn gây phiền (toái)!
Kinh Thánh cho biết rằng Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một THẦN KHÍ SIÊU PHÀM, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách BẮT LỖI ông Đanien về việc triều chính. Bới lông tìm vết, bới bèo ra bọ. Vì ghen ghét mà con người thường nhỏ nhen và hèn hạ như thế đấy.
Tương tự, người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “ngứa” tai và “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong cách nhìn của người khác. Những người ghen ghét cũng chẳng ai xa lạ vì đó là chính những người thân thiết nhất của mình, như Chúa Giêsu đã nói thẳng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4 ≈ Mt 13:57; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, CHỈ CÓ NGƯỜI GIỎI MỚI KHẢ DĨ CÔNG NHẬN TÀI NĂNG CỦA NGƯỜI GIỎI. Thật đáng sợ, bởi vì “người ta có thể phạm tội chỉ vì một mẩu bánh” (Cn 28:21).
Không ưa dưa cũng có giòi. Ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét. Quái gở thật! Ông Đanien bị ghét chỉ vì ông “trổi vượt” hơn người khác, âu cũng là lẽ thường. Ngày xưa, trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế thôi. NGƯỜI ĐỜI “KÈN CỰA” NHAU ĐÃ ĐÀNH, NGƯỜI THEO ĐẠO CHÚA CŨNG CHẲNG HƠN GÌ, thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều. Vậy làm sao có thể truyền giáo?
Họ ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cái cớ nào hoặc một sai sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Do đó, những người ấy mới cùng nhau bày mưu lập kế: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Ác nhân quá thâm độc, thật đáng sợ tà tâm!
Ngày nay, con người cũng vẫn đã và đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo cách thức tân kỳ hơn, kỹ xảo hơn, vậy mà vẫn “hãnh diện” về cái mưu thâm kế độc của mình, rồi biện hộ là “đúng quy trình”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo Hội biết phải khuyến khích việc Tân Phúc Âm hóa, xem xét lại đức tin của chính mình trước rồi mới nói chuyện liên quan người khác. Cứ ảo tưởng và ảo giác thì không thể thay đổi được gì. Nguy hiểm lắm!
Rõ ràng ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”, sống nghiêm túc. Dù hoàn cảnh có thế nào, những con người ấy vẫn một lòng kiên cường tín thác vào Thiên Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và không ngừng tin cậy Thiên Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4). Chắc chắn rằng “người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Gl 3:11).
Trong con mắt của người đời, họ là những kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm tin tưởng cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ không ngần ngại xác định: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn hiên ngang tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như Thánh Vịnh gia đã chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51). Đích thực là người của Chúa mới đáng tin, chứ “đừng mong gì nhiều nơi những người quyền thế của thế gian này – vì hầu hết họ đều bỏ mặc những người nghèo khó trong cảnh bần hàn, họ vừa hèn hạ vừa thiếu quảng đại, giả điếc làm ngơ trước tiếng kêu than của những người yếu đuối và bất lực” (Chân phước Placid Riccardi, 1844-1915).
Vừa phân tích vừa xác định, Thánh Phaolô cho biết: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến, với các đặc tính cần thiết: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).
Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái có những điều xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Thế nhưng lại vẫn “ăn nhập” lắm đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên thôi! Vì thế, Chúa Giêsu đã hỏi ngư phủ Phêrô không chỉ một lần mà ba lần: “Anh có mến Thầy HƠN các anh em này không?” (Ga 21:15). Và đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn đặt ra cho mỗi chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thật lòng trả lời và nghiêm túc thực hiện, để chứng tỏ đức tin của chính mình – và cũng chia sẻ niềm tin đó cho tha nhân.
Chắc hẳn là rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Thế nhưng vấn đề không chỉ là “thuộc lòng” và “đọc như vẹt”, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Ôi chao, chẳng hề dễ dàng chút nào!
Như để giải thích, Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).
Chính Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta không thể làm khác – nghĩa là cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành “tấm bánh” để nuôi sống chúng ta, thế thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho tha nhân, nhất là đối với những con người bé mọn, yếu đuối, nghèo khổ, lạc loài, cô độc,…
Một hôm, có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu ôn tồn: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi PHẢI yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi PHẢI yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31). Hai điều răn quan trọng nhất với hai động từ PHẢI mạnh mẽ và dứt khoát – không thể không thi hành.
Nghe Đức Giêsu nói vậy, ông kinh sư thấy “đã tai” nên liền nói với Ngài: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là ĐẤNG DUY NHẤT, ngoài Ngài ra KHÔNG CÓ ĐẤNG NÀO KHÁC. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trạng như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa, vừa hẹp vừa rộng. Trách nhiệm mỗi chúng ta là “lấp đầy” khoảng cách đó.
Có lẽ Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên khi thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, và Ngài xác nhận: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Quả thật, không khó gì khi nói “mến Chúa” và “yêu người”. Chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi. Nhưng vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN một cách cụ thể. Tại sao? Bởi vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Nói được – đó chỉ là “chuyện nhỏ”. Làm được – đó mới là “chuyện lớn”, và là điều cần thiết mà Thiên Chúa muốn thấy nơi mỗi chúng ta.
Lạy Thiên Chúa toàn năng chí thánh, thật hạnh phúc khi chúng con được nhận biết và tin vào Ngài nhờ Đức Kitô mặc khải, xin cảm tạ Ngài và xin giúp chúng con sống đức tin qua từng động thái hằng ngày, xin giúp chúng con biết chạnh lòng thương trước nỗi đau của tha nhân và dân tộc, nhất là những con người nhỏ bé và yếu đuối vì bất công xã hội. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
Tiền nhân chúng ta có nhiều suy tư hết sức khúc triết: vàng thời thử lửa thử than, chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời. Đúng, muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Không thể có chuyện sinh ra là làm thầy thiên hạ, là được quyền giám sát, ra lệnh. Không phải hết tất cả mọi người dám tự hào về sự sáng suốt của mình, cũng như chẳng ai lại vô duyên đến độ tự vạch áo cho người xem lưng. Cuộc sống ồn ào, nhiều người lạc quan cho rằng, đó là sự hỗn loạn cần thiết cho sự phát triển. Tâm lý bất ổn, ít nhiều cũng gây đến phiền phức cho cách ứng xử nơi gia đình, người thân. Thao thức chung, hạnh phúc cụ thể là người ta tìm được một nơi cư ngụ mà ở đó người người ý thức sống tốt, sống đẹp, xem nhau như anh chị em và có nghĩa vụ nâng đỡ nhau.
Trải qua nhiều vướng mắc cho việc chọn lựa, một Luật sĩ đến gặp Đức Giêsu để trình bày về thao thức của ông: “trong giới răn, điều nào trọng nhất” ? Và chúng ta cũng có quyền đặt vấn đề, có phải vì muốn hiểu biết để các ông sống tốt, sống đẹp, trước bổn phận làm cha, làm chồng, làm một chức sắc lo cho các tín đồ, hay vì ông hỏi cho vui ? Sự cầu tiến hay mưu mô tính toán vụ lợi trước ưu tiên 1, ưu tiên 2, thường không có kết quả đối với những tâm hồn thiếu quảng đại. Bậc làm cha mẹ, bình thường sẽ không dạy dỗ con cháu: sống ở đời này là để ăn, để hưởng thụ. Những người làm con sẽ chẳng ai đặt vấn đề: cần phải sống đức thảo hiếu bao lâu thì công bằng với các ngài.
“Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và người hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết sức ngươi”. Lời nhắc nhớ đó không có gì mới lạ, cũng chẳng phải là một tổng hợp số lý thuyết được rút gọn, so với niềm tin Thiên Chúa của dân tộc Israel. Sống tốt với cha mẹ, sống đẹp trong các tương quan với Chúa và tha nhân, không thể được công nhận nếu con tim, khối óc của chúng ta hẹp hòi, tính toán. Kẻ “yêu cha, ghét mẹ”, không ai gọi là con thảo con hiếu. Người đã từng đầu tư tiền của xây chùa, xây nhà thờ, nhưng luôn khép kín, đóng cửa lòng với anh chị em đói nghèo ở xung quanh, ai dám trao tặng cho họ danh hiệu: đây là người có lòng từ bi nhân hậu ?
“Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Đức Giêsu đã nối kết mọi liên hệ bằng tình yêu thương, Ngài gián tiếp phủ nhận các lý do: “mắt thịt xác phàm” không nhìn thấy Chúa ở đâu làm sao yêu mến, tư tưởng phàm nhân, ai có thể hiểu Chúa đang hiện nơi anh chị em mình mà yêu với mến ! Sống tốt sống đẹp, mến Chúa yêu người, sẽ không trừu tượng lý thuyết, khi hàng ngày chúng ta có thời giờ suy xét giữa lời nói việc làm của chúng ta đang mẫu thuẫn hay phù hợp ? Cách nói của xã hội hôm nay là cha mẹ hãy “truyền cảm hứng” cho con cháu, thầy cô hãy “truyền lửa” cho học trò, nhưng thực tế nhất vẫn là “gương sáng về đức ái” phải được gia đình, nhà trường quan tâm, ý thức sống.
Ca dao có câu: chim khôn cốt ở tiếng hót, người khôn cân nhắc nói cười đúng nơi. Khả năng, điều kiện hoàn cảnh mỗi người mỗi thời rất khác nhau, nhưng nơi mỗi người: nét đậm, nét mờ, thành hay bại, đều tuỳ thuộc vào tự do và ý chí quyết tâm sống của họ. Một người có tư duy ổn định, biết mình là ai, họ sẽ đủ tự tin để sống đẹp, sống đúng, với điều kiện của họ mà không thế lực nào có thể làm lung lay lập trường sống của họ. Ít nhiều gì chúng ta cũng đã nghe lời người xưa day: ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai. Chúa Giêsu qua cuộc đối thoại với người Luật sĩ, Ngài cũng lưu ý đến sự cần thiết của lập trường sống mến yêu: “ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
Mến Chúa yêu người, sống tốt sống đẹp, sẽ không cũ xưa, nhất định không phải chỉ thích hợp cho một số đối tượng cấp cao: hàng giáo sĩ, tu sĩ, hay giới tri thức, đại gia. Giới luật yêu thương, đối nhân xử thế đúng, đẹp, đã có nơi tâm hồn mỗi người, đó là hạt giống đức tin Thiên Chúa đã gieo trồng, nay Đức Giêsu vẫn đang là chuẩn mực, làm sống động chân lý đức tin đó trổ sinh bông hạt. Nếu thầy thuốc ý thức mình là người chữa bệnh, thì bệnh nhân lại luôn cần thầy thuốc giỏi, biết lắng nghe, biết nhiệt tình quan tâm đến nhu cầu sống đúng, sống đẹp, sống hết tình với niềm tin của cộng đồng xã hội. Mến Chúa yêu người, sống đúng sống đẹp, không phải chỉ là lời mời gọi của chúa nhật 31 hôm nay ; phần thưởng nước trời rộng lớn, nhưng cơ hội, thời gian, không chờ đợi ai bao giờ cả. Không nên nói ra những lời khó nghe khi tâm trạng bạn không tốt, đừng hành động khi “trí lòng” bạn mách bảo điều đó là do ghen ghét, ngược với đức ái Thiên Chúa dạy. Xin tình Chúa yêu thương, chúc lành cho tất cả nhân loại chúng ta. Amen.
Dân tộc Israel được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Thiên Chúa giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ nhà Ai cập, dẫn đưa họ vào hoang địa đến núi Sinai gần chóp đỉnh của một bán đảo, một nơi vắng vẻ và kinh hoàng. Chính nơi đây đã diễn ra một biến cố, một sự kiện làm nên tính tôn giáo, hơn nữa nó là trung tâm của lịch sử cứu độ mà muôn đời dân Israel phải ghi nhớ, đó là Giao Ước Sinai. Thiên Chúa đã ký kết với họ một giao ước do Môsê làm trung gian. Giao ước này được ký kết vào khoảng thế kỷ 13 trước công nguyên có nội dung như sau: Thiên Chúa là Đấng nhận Israel làm dân riêng của Ngài và luôn yêu thương phù trợ họ; Israel nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất họ phải tôn thờ. Chính trong bối cảnh đó, ông Môsê kêu gọi họ: các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Ngài để được sống lâu, được hạnh phúc trong miền đất chảy sữa và mật.
Thưa anh chị em, trang Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu nhắc lại một lần nữa tính ưu việt của lề luật khi trả lời người Luật sĩ: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng; ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình”. Đó là giới răn quan trọng nhất làm nền tảng cho cuộc sống tôn giáo đã được ghi chép cẩn thẩn với 613 khoản luật Do thái, và Chúa Giêsu xác định: “không giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Nói cách khác, yêu mến là giới răn lớn nhất: yêu mến Thiên Chúa và yêu mến đồng loại. Cựu ước cũng đã đòi hỏi dân chúng yêu thương đồng loại. Nay Chúa Giêsu tái xác nhận. Điều này không có gì mới. Tính mới mẻ của giáo huấn Chúa Giêsu chính là nối kết hai giới răn đó nên một luật lớn nhất, một giới răn duy nhất nhờ tình yêu không chỉ bằng lời nói suông, nhưng bằng hành động thực sự. Đây là một kết luận tuy đơn sơ nhưng rất sắc bén của thánh Gioan: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?”. Một tình yêu chân thật đối với Thiên Chúa thôi thúc chúng ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác.
Có một câu chuyện kể rằng, người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ tôi đọc một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”. Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại Kinh Lạy Cha.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua Kinh Lạy Cha. Hãy sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái. Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân này còn được Chúa Giêsu đẩy xa hơn nữa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Chúa Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em”. Chính trong khung cảnh này mà tính mới mẻ của giáo huấn Chúa Giêsu đạt tới đỉnh cao: “như Thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng hãy yêu mến nhau. Chính nơi điều này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau”. Tựu trung, tình yêu làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô: yêu mến Thiên Chúa thì phải yêu mến tha nhân và muốn yêu mến tha nhân thì cũng phải tôn thờ Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa xin giúp chúng ta biết yêu mến Chúa bằng chính cuộc sống thương yêu chia sẻ của chúng ta đến với anh chị em đồng loại, để chúng ta luôn thi hành lệnh Chúa truyền cách trọn hảo trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Nhiều người cho rằng xã hội tiêu thụ, hưởng thụ ngày nay được cộng thêm với chủ nghĩa duy vật vô thần đang hủy hoại trầm trọng tâm hồn con người. Đời sống đạo của nhiều người chỉ còn là hình thức, họ tính toán với Chúa trong việc dâng lễ, cầu nguyện, dâng cúng như tính toán làm ăn. Nhiều người chỉ đến với Chúa mỗi khi cần giống như đi xin giấy tờ vậy. Trong xã hội Việt Nam: Lòng tốt của con người bị lợi dụng, lừa dối, khiến cho nhiều người không dám tốt với người khác. Trong công việc nhiều người vì lợi nhuận, sẵn sàng đầu độc người tiêu dùng bằng các loại hóa chất. Trong cuộc sống thường ngày người ta dễ dàng cư xử với nhau bằng bạo lực, côn đồ, ăn nói với nhau bằng những lời thô tục. Tình trạng này xảy ra hầu hết nơi mọi lứa tuổi, từ người lớn đến học sinh, trẻ em, từ dân thường cho đến quan chức. Trầm trọng hơn nữa là con người đánh mất niềm tin vào nhau, sống với nhau bằng sự ngờ vực; các thành viên trong gia đình cư xử với nhau không bằng tình yêu mà thay vào đó là bằng tiền… vv.
Vào những ngày cuối năm, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại hai giới răn quan trọng nhất của Chúa: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình, để chúng ta có dịp rà soát lại đời sống của ta với Chúa và cách cư xử của ta với anh chị em. Mến Chúa – Yêu người là hai giới răn chúng ta đã thuộc lòng. Tuy nhiên, từ việc thuộc lòng đi đến việc thực hiện vẫn là một khoảng cách thật xa. Mến Chúa, yêu người có dễ không?
Phải mến Chúa như thế nào? Đã nói đến tình yêu thì không bao giờ có giới hạn, vì thế việc yêu mến Chúa sẽ không bao giờ có tận cùng. Tin Mừng kể lại: “Một thầy thông luật đến hỏi Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong các điều răn, điều nào đứng hàng đầu?”Là một người thông luật, chắc chắn người này thông thạo các giới răn và lề luật. Sau một thời gian, Mười Điều răn của Chúa đã bị các thầy thông luật và biệt phái giải thích và thêm quá nhiều chi tiết, khiến cho nhiều người không biết đâu là điều chính yếu. Hơn nữa, vì chỉ lo giữ luật để khỏi vi phạm luật, nên người Do thái đã giữ luật theo hình thức bên ngoài mà không có tâm tình yêu mến bên trong. Vì vậy, đời sống đạo của họ trở thành như một cái máy được lập trình, như một con rô-bốt vô hồn. Do đó, khi trả lời cho người thông luật, Chúa Giêsu khẳng định: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức mình người”.
Với câu trả lời này, Chúa Giêsu cho thấy giới răn yêu mến Thiên Chúa là giới răn quan trọng nhất, và Ngài còn cho thấy phải yêu mếu Chúa như thế nào cho tương xứng. Chúa Giêsu trả lời thầy thông luật bằng việc trích lời kinh Shema trong sách Đệ Nhị Luật chúng ta nghe trong bài đọc một, để đưa ông về với thuở ban đầu thời ông Môsê. Lúc đó, dân vừa được giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, ông Môsê đòi họ phải yêu mến Thiên Chúa với lòng biết ơn. Môsê cũng cho dân Israel thấy, họ yêu mến, biết ơn Thiên Chúa thì sẽ được trường thọ, hạnh phúc và được vào đất hứa.
Yêu mến với lòng biết ơn, không phải là một cảm xúc nhất thời, hoặc theo hứng, mà phải là trọn vẹn cả con người với hết khả năng, sức lực, trí tuệ và tình cảm. Đòi hỏi đó được diễn tả qua kiểu nói: “Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức mình”.Việc yêu Chúa vừa là một đòi hỏi của Chúa vừa là thái độ đáp trả của con người với Thiên Chúa; của một người biết mình được yêu đối với đấng yêu mình, là ân nhân cứu mạng. Yêu hết lòng, hết linh hồn, là dành trọn vẹn cho Chúa tất cả trái tim, đặt Chúa vào vị trí thứ nhất trên tất cả tiền bạc, công việc, kể cả gia đình, không so đo tính toán thiệt hơn với Chúa. Yêu Chúa hết trí khôn và hết sức mình là dành cho Chúa hết mọi khả năng sức lực, mọi toan tính. Yêu hết lòng là yêu với một sự tự nguyện tự do và ý thức, tự giác đón nhận và thực hành những gì Chúa muốn vì biết mình được Chúa yêu. Khi dám yêu và dành trọn vẹn cho Chúa, Chúa không lấy đi những gì của chúng ta, nhưng trái lại Chúa thánh hóa, biến đổi và ban tặng lại cho chúng ta bằng tình yêu thương và phúc lành của Chúa. Tuy nhiên, nơi nhiều người lòng yêu mến Chúa đã vơi cạn, chỉ còn là một bổn phận bắt buộc. Vì thế họ đến với Chúa cho qua lần để đánh lừa lương tâm. Họ sống đạo chỉ theo thói quen hoặc hình thức bên ngoài mà không có tâm tình thảo hiếu biết ơn.
Cùng với đòi hỏi dành ưu tiên tuyệt đối cho Chúa, Chúa Giêsu còn chỉ cho người thông luật điều răn thứ hai: “Ngươi hãy yêu mến anh em như chính mình ngươi”.Ai cũng yêu mến bản thân, không ai ghét bản thân mình bao giờ. Ai cũng mong mình đạt được những điều tốt nhất, thoải mái nhất, ai cũng muốn mình hạnh phúc. Chúa muốn chúng ta cũng phải yêu người khác như vậy. Mỗi khi chúng ta làm gì sai, chúng ta thường tìm cách biện hộ cho bản thân, dễ thông cảm tha thứ cho mình, nhưng ta lại quá khắt khe, thiếu bao dung thông cảm với anh chị em. Trong cuộc sống, ai cũng muốn mình được nhìn nhận và tôn trọng, thế nhưng nhiều khi chúng ta đã không tôn trọng anh chị em, nhiều người còn sẵn sàng dìm anh chị em mình xuống để mình được leo cao trong bậc thang xã hội.
Thư Do Thái cho thấy, Chúa Giêsu chu toàn cách vuông tròn hai giới răn này và còn chu toàn một cách trọn vẹn, tuyệt vời, trở nên gương mẫu cho chúng ta. Vì yêu mến và vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa, Chúa Giêsu mang phẩm vị của một Thượng tế, chu toàn việc thờ phượng tế tự Thiên Chúa. Trong vai trò là Thượng tế, Chúa Giêsu đã hiến tế chính thân mình làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ vĩnh viễn cho toàn thể nhân loại. Khi còn sống ở trần gian, mang thân xác con người, Chúa Giêsu đã hết lòng yêu thương và phục vụ nhân loại tội lỗi, như những người anh em ruột thịt. Ngài ôm lấy những người đau khổ vào lòng, chữa lành bệnh tật thể xác và tâm hồn con người; cảm thông và an ủi những người đau khổ, những người bị xã hội loại trừ, không một người nào bị rơi ra ngoài sự quan tâm và tình yêu thương của Chúa.
Chúa Giêsu khi tóm gọn giới răn lề luật của Thiên Chúa vào hai điều Mến Chúa – Yêu người, Ngài muốn mỗi người chúng ta học nơi Ngài để biết yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo làm con và yêu mến, phục vụ anh chị em cho trọn tình vẹn nghĩa. Mỗi người được mời gọi làm mới lại tương quan của mình đối với Chúa. Chúa muốn chúng ta yêu Chúa một cách cụ thể từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài. Cho dù xã hội có nhiều lôi kéo, cho dù cuộc sống thường ngày trong gia đình, trong công việc có nhiều thứ chúng ta phải quan tâm, thế nhưng, giữa những sự lôi kéo và các mối bận tâm ấy, chúng ta vẫn phải dành cho Chúa chỗ ưu tiên trước hết và trên hết. Hãy để cho mình bận tâm vào việc chu toàn trước tiên bổn phận làm con cái của Chúa với lòng thảo hiếu, tôn kính và biết ơn. Cần phải bận tâm, lo lắng cho mình và các thành viên trong gia đình có được một đời sống đạo đức trưởng thành, một đức tin vững chắc. Trong mọi hoàn cảnh dám đặt Chúa và đời sống đức tin là quan trọng nhất.
Đồng thời chúng ta cũng phải chu toàn giới răn yêu thương đối với anh chị em. Chúng ta cần bắt đầu sống và thực hành yêu thương từ trong gia đình; dành sự kính trọng, thảo hiếu, biết ơn đối với cha mẹ, chăm sóc an ủi các ngài khi đau yếu, tuổi già. Cha mẹ, vợ chồng cần làm mới lại tình yêu thương với nhau, có thể sau thời gian sống chung tình nghĩa đã bị mai một, phai nhạt. Có nhiều người vợ đang bị hắt hủi ghẻ lạnh trong gia đình, có nhiều người chồng đang bị coi thường, ghét bỏ, họ đang cần được sự thăm hỏi quan tâm nhiều hơn. Hãy thể hiện giới răn yêu thương với con cái, những đứa ngoan và cả những đứa ngỗ nghịch. Nhờ việc cảm nhận được tình yêu, chúng sẽ được biến đổi. Điều khó, là thực hiện giới răn yêu thương đối với xóm giềng và những người chung quanh. Như đã nói ở trên, xã hội đang làm cho nhiều người mất đi sự nhạy bén của trái tim, khiến họ không còn biết nghĩ điều tốt, nói điều tốt và làm điều tốt cho anh chị em, mà chỉ biết nghĩ đến bản thân. Nhiều khi chúng ta vô tình hay cố ý gieo điều ác, điều xấu, điều gian dối cho người khác, mà lương tâm không chút áy náy.
Xin Chúa cho chúng ta không chỉ thuộc, mà còn biết thực hiện hai giới răn mến Chúa và yêu người này mỗi ngày trong đời sống, để mọi người nhìn vào những việc làm yêu thương của ta, biết ta thuộc về Chúa Kitô. Amen.
Cứ mỗi lần nghe bài Tin Mừng hôm nay, câu hỏi đến trong đầu óc tôi vẫn là tại sao Chúa Giê-su lại bảo ông kinh sư rằng ông ta không còn xa Nước Thiên Chúa đâu. Câu truyện bắt đầu từ việc ông hỏi Chúa điều răn nào đứng hàng đầu trong mọi điều răn. Trả lời ông, Chúa Giê-su không chỉ kể ra một “điều răn đứng hàng đầu”, mà Người còn kể ra thêm một điều răn khác cũng đứng hàng đầu! Ông kinh sư không phản đối câu trả lời của Chúa, trái lại ông hoàn toàn đồng ý với Chúa. Hơn thế nữa, ông còn giải thích thêm lý do tại sao cả hai giới răn mến Chúa và yêu tha nhân lại chiếm vị trí hàng đầu: bởi vì hai giới răn này “quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Đây là cách hiểu hoàn toàn đi ngược lại với lối suy nghĩ và thực hành của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư. Như thế, ông đã bước ra khỏi thế giới của nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư, để đón nhận lối suy nghĩ của Chúa Giê-su. Nói khác đi, ông bắt đầu bước vào Nước Thiên Chúa do Chúa Giê-su rao giảng và thiết lập!
Chúng ta hãy trở lại với câu chuyện Tin Mừng để hiểu diễn tiến thay đổi lối suy nghĩ của ông kinh sư. Trước hết là câu hỏi của ông: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Khi hỏi “điều răn nào”, tức là chỉ có một điều răn thôi, ông vẫn theo cách suy nghĩ của các kinh sư là chủ trương rằng chỉ có điều răn mến Chúa mới là điều răn đứng hàng đầu. Chúa Giê-su đồng ý với ông về vị trí “đứng hàng đầu” của điều răn này, như chúng ta đọc thấy trong bài đọc 1 về vị trí của điều răn ấy. Tuy nhiên Chúa đã làm cho ông quá bất ngờ khi Người kể thêm một điều răn hàng đầu nữa, là điều răn yêu thương tha nhân; cuối cùng Người kết luận: Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó. Đối với Chúa Giê-su, không có điều răn “đứng hàng đầu”, mà chỉ có những điều răn “quan trọng nhất”. Nếu Chúa Giê-su làm cho ông kinh sư phải ngạc nhiên thì đến lượt ông lại làm cho Chúa Giê-su vô cùng bỡ ngỡ khi ông trích dẫn Kinh Thánh để giải thích tại sao hai điều răn ấy là quan trọng nhất: vì chúng quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ. Đây là điều cả hai người, Chúa và ông kinh sư, đồng quan điểm với nhau. Như chúng ta biết, nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư quá câu nệ Lề Luật đến độ coi thường cả việc thực thi bác ái và yêu thương. Dụ ngôn Chúa Giê-su kể về người Sa-ma-ri nhân hậu cho thấy điều ấy. Vì muốn giữ luật thanh tẩy, thầy tư tế và thầy Lê-vi không muốn dừng lại cứu giúp người bị cướp đánh và bỏ nằm bên lề đường. Cả hai người đã quý trọng việc dâng lễ toàn thiêu và hy lễ hơn cả việc băng bó vết thương cho người bị nạn. Đối với họ, phải lên thẳng Giê-ru-sa-lem để dâng lễ tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa là “điều răn đứng hàng đầu”, còn việc tỏ lòng yêu thương tha nhân bằng cách dừng lại cứu giúp người khác chỉ là hàng thứ yếu. Nhưng ông kinh sư này khác hẳn với những kinh sư khác. Nếu ông là người trên đường lên Giê-ru-sa-lem gặp người bị nạn thì chắc chắn ông sẽ dừng lại giống như người Sa-ma-ri nhân hậu và sẽ làm cùng những điều người này làm rồi! Đây cũng là điều Chúa Giê-su đã từng giảng dạy và hôm nay Người xác nhận lại một lần nữa: mến Thiên Chúa và yêu tha nhân là hai điều không thể tách rời, có tầm quan trọng như nhau và cùng “đứng hàng đầu” như nhau.
Chúa Giê-su đã chu toàn cả hai điều răn đứng hàng đầu này như thế nào? Người là Con Một được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ nhân loại. Giả như Chúa Giê-su hành động theo lối suy nghĩ của nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư, thì Người sẽ coi việc yêu mến Chúa Cha là “hàng đầu”, còn việc cứu nhân loại là “hàng thứ”. Nhưng không phải vậy đâu, vì Người yêu thương chúng ta giống như Người yêu mến Chúa Cha. Chính vì yêu thương chúng ta, Người đã chấp nhận làm “một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời”, chịu chết trên thập giá để “đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa” (bài đọc 2). Với Chúa Giê-su, vâng lời Chúa Cha vì yêu mến Người và chịu chết để cứu chuộc nhân loại đều là những hành vi quan trọng, là hai “điều răn đứng hàng đầu”! Người đã lấy hai điều răn này để đặt nền móng cho Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng và thiết lập vậy.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúa Giê-su là gương mẫu sống hai điều răn quan trọng nhất mến Chúa yêu người. Chính vì thế, thánh Phao-lô, vị tông đồ của Chúa và cũng là người rất am hiểu mầu nhiệm Chúa Ki-tô, đã cầu xin cho chúng ta và mời gọi chúng ta hãy mang lấy những tâm tình của Chúa Ki-tô, hoặc hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô. Lời cầu nguyện của ngài là: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ê-phê-xô 3:17-19).
Ước chi lời cầu nguyện này cũng là lời khích lệ chúng ta hãy tiến sâu hơn mãi vào trong Nước Thiên Chúa, mang lấy não trạng của Vua Giê-su mà yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh chị em “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” chúng ta.
Gần đây, trên các báo thế giới, các khoa học gia phát hiện điều gì mới mẻ nhất?
Đầu tiên, người Nhật đăng tin: “Họ đã đào sâu 100m xuống lòng đất và phát hiện sợi cáp đồng 1000 năm tuổi, chứng tỏ 1000 năm trước người Nhật đã xài điện thoại để bàn ???!!!”.
Vài ngày sau, người Mỹ lại đăng: “Họ đã đào sâu 200m xuống lòng đất và phát hiện sợi cáp quang 2000 năm tuổi, chứng tỏ 2000 năm trước người Mỹ đã xài truyền hình cáp !!!???”.
Chỉ sau đó một ngày, người Việt Nam cũng đăng tin: “Họ đã đào sâu 500m xuống lòng đất và chẳng phát hiện ra gì cả, nhưng tuyên bố 5000 năm trước Việt Nam đã xài mạng wifi!!!”.
Một mẩu chuyện khác hấp dẫn hơn.
Có ba người: Pháp, Anh và Việt ngồi nói về công nghệ của nước mình, ai cũng cho rằng công nghệ của mình là chuẩn nhất thế giới.
Người Pháp nói: “Ở nước tôi có thể làm đường ray xe lửa chạy dưới đáy biển”. Người Anh liền nói: “Dưới đáy biển gồ ghề thế sao làm đường ray được”. Người Pháp trả lời: “Sai số 20cm”.
Đến lượt người Anh nói: “Nước tôi có thể làm đường ray xe lửa trên mặt trăng”. Người Pháp cãi: “Trên mặt trăng gồ ghề thế sao làm đường ray được”. Người Anh liền nói: “Sai số 20cm”.
Người Việt ngồi im lặng nãy giờ nghe hai người kia nói vậy liền lên tiếng: “Như vậy thì nhằm nhò gì, ở nước tôi người phụ nữ có thể sinh con bằng lỗ rốn”.
Hai người kia nghe vậy thật ngỡ ngàng và ngạc nhiên vội kêu lên: “Sao lại sinh con bằng lỗ rốn được”. Người Việt tủm tỉm và nói rằng: “Sai số 20cm”.
Thưa các bạn!
Phải chăng, hạng nhất, số một, number one, đứng đầu, hảo hạng, vô địch hay quán quân là mơ ước của từng người, hay dân tộc mình?
Thiết tưởng, để đạt được thành tích cao nhất và nhận giải quán quân, đòi hỏi “bạn & tôi” phải nỗ lực, cố gắng, trau dồi, học hỏi, không ngừng luyện tập và cọ sát.
Tin Mừng Chúa Nhật 31 thường Niên B, Đức Giêsu cũng yêu cầu ông kinh sư về điều răn quan trọng nhất, với bốn chữ “hết”: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực.
Điều răn thứ nhất đó là yêu mến Đức Chúa và điều răn thứ hai là yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn hai điều răn đó (Mc 12,30-31).
Có lẽ, “mến Chúa” thì dễ hơn “yêu người”. Vì Chúa thì vô hình, vô hạn, không thấy được, không sờ tới… còn người thì hữu hình, giới hạn, xem thấy, chạm được, lại yếu đuối, mỏng giòn, tội lỗi…
Có thể nói, tuân giữ những điều răn Chúa dạy, được xem là mến Chúa. Như thánh Gioan tông đồ đã xác định bằng chứng việc yêu Chúa là giữ các giới răn của Ngài (x. 1Ga 5,3).
Chân thật mà nói, yêu người mà mình thích thì đơn giản, còn yêu người mà mình ghét, hoặc yêu người mà ghét mình thì quả là khó khăn và nhiêu khê vô cùng.
Thưa các bạn!
Người Hoa đã dùng hình ảnh “quỷ & chó” để diễn tả sự phức tạp này. Họ cho rằng: “Vẽ quỷ thì dễ, vẽ chó thì khó”.
Thật vậy, quỷ thì khó thấy hoặc chẳng thấy, nên vẽ sao cũng được, chẳng ai trách là vẽ không giống quỷ; còn chó ai cũng biết, nếu vẽ không đẹp sẽ bị chê là xấu.
Nếu dùng từ Hán – Việt để nói lên mức độ “mến Chúa” và “yêu người”, thì gói gọn trong bốn chữ “toàn”. Đó là “toàn tâm, toàn linh, toàn ý, và toàn lực”. Xem ra, “toàn” và “hết” là hai lãnh vực chỉ dành cho Thiên Chúa thôi.
Thiết nghĩ, nếu không có ơn Chúa, không có sức sống của Chúa, và không có quyền năng của Chúa…, thì con người chẳng làm được gì, mà chỉ xem “mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” quý hơn tình yêu.
Ước gì, chỉ có tình yêu là động lực cao nhất sẽ giúp “bạn & tôi” xích lại gần nhau và không còn xa Nước Thiên Chúa nữa. Amen
Trong luật Môsê, có rất nhiều điều luật, trong 613 điều luật, có 248 điều buộc làm và có 365 điều cấm làm. Giữa một “rừng luật” như thế, nhiều lúc người ta không biết điều răn nào là quan trọng nhất. Đây là lý do tại sao người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”
Để hiểu được bối cảnh bài Tin Mừng, trước hết chúng ta cần biết rằng vào thời Chúa Giêsu, trong Do Thái giáo, có hai khuynh hướng đối nghịch nhau. Một khuynh hướng muốn nhân rộng các khoản luật và quy định tỉ mỉ mọi chi tiết của đời sống. Khuynh hướng khác lại muốn rút ra từ “đống luật” điều chính yếu và quan trọng mà Thiên Chúa muốn hơn là quá chú trọng đến các chi tiết luật và những điều thứ yếu. Người thông luật này thuộc khuynh hướng thứ hai. Chúa Giêsu dùng cơ hội này để cống hiến một sự mới mẻ khi tóm tắt mọi lề luật vào trong hai giới răn: “Mến Chúa, yêu người, như là cốt lõi của lề luật.”
1- Mến Chúa, giới răn quan trọng nhất
Trước hết, Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của người thông luật: “Nghe đây, hỡi Ítraen, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12,29-30).
Đối với người Do Thái, câu trả lời này không có gì mới mẻ cả, bởi lẽ, những điều này được nói ở trong Cựu Ước mà họ rất quen thuộc. Cụ thể, trong sách Đệ Nhị Luật mà bài đọc I trích dẫn nói về giới răn này: “Nghe đây, hỡi Ítraen! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4). Ở đây, Chúa Giêsu vừa kế thừa vừa kiện toàn luật Cựu Ước khi nhắc lại điều quan trọng và chính yếu của lề luật.
Vậy thì “người phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” có nghĩa là gì?
Trong Mátthêu, từ có từ “hết” được lặp lại ba lần, còn trong Máccô, từ “hết” được lặp lại bốn lần để nhấn mạnh rằng con người phải yêu mến Thiên Chúa với toàn vẹn và trọn vẹn con người mình. Nghĩa là yêu mến Thiên Chúa đòi hỏi một sự dấn thân toàn bộ và trọn vẹn con người: cả con tim, tâm hồn, lý trí và cả thể lý chúng ta. Đây là giới răn quan trọng nhất. Điều này có nghĩa Thiên Chúa phải ở chỗ quan trọng nhất, vị trí số một trong cuộc đời tôi. Vì thế, mọi chọn lựa, suy nghĩ, tâm tư tình cảm và hành động của tôi phải được chi phối từ hệ giá trị này.
Như thế, Chúa Giêsu muốn thiết lập lại tương quan nền tảng thứ nhất của con người với Thiên Chúa. Theo đó, con người hiện hữu nhờ Thiên Chúa. Con người được tạo dựng để yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Con người chỉ tìm được ý nghĩa và hạnh phúc cuộc sống khi sống kết hợp và yêu mến Người. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi đó là điều răn quan trọng nhất.
2- Yêu người, giới răn thứ hai
Kitô giáo không phải là một tôn giáo “duy thiên” hay “duy linh” mà là một tôn giáo nhập thể và nhập thế. Con người không chỉ có tương quan chiều dọc với Thiên Chúa, nhưng còn có tương quan chiều ngang với tha nhân. Con người sống là sống bởi, sống với, sống vì tha nhân.
Chúa Giêsu tóm tắt đạo lý này trong giới răn thứ hai: “Người phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác trọng hơn các điều răn đó” (Mc 12,31). Đây chính là sự mới mẻ mà Chúa Giêsu mang đến. Người tóm tắt mọi lề luật vào trong hai giới răn. Người liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai lại với nhau. Theo Chúa, người ta không thể đối lập Thiên Chúa với con người, cũng không thể đối lập con người với Thiên Chúa. Cũng không có sự mâu thuẫn giữa hai tình yêu. Yêu mến Thiên Chúa thì phải yêu thương tha nhân. Yêu thương tha nhân là bằng chứng yêu mến Thiên Chúa, và hơn thế nữa, yêu thương tha nhân là yêu mến Thiên Chúa (x. Mt 25,45; 1 Ga 4,20). Và mọi tội chống lại con người là chống lại Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta cần phải phân tích giới răn thứ hai với cụm từ “yêu người thân cận như chính mình.” Ở đây, chúng ta để ý chữ “như chính mình” làm tiêu chuẩn đo lường cho tình yêu đối với tha nhân. Theo tiêu chuẩn này, nơi khác Chúa Giêsu nói: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12). Bởi lẽ, ai cũng mong muốn và làm điều tốt, điều lành cho mình; không ai muốn làm những điều xấu cho mình (trừ người điên)… Chẳng hạn, không ai trong chúng ta lại muốn mình đau khổ, thất bại và gặp tai họa, nhưng ai cũng muốn mình được bình an, thành công và hạnh phúc; ai cũng muốn được người khác tôn trọng, đối xử công bằng và quý mến mình. Từ đó, chúng ta hãy mong muốn và làm cho người khác những điều tương tự như thế.
Như vậy, yêu mến Thiên Chúa hướng chúng ta tới việc yêu mến tha nhân như chính mình và ai yêu thương là chu toàn lề luật.
3- Những mẫu gương mến Chúa yêu người
Tuy nhiên, mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình là hai điều rất khó khăn. Để thực thi điều đó, chúng ta cần ơn Chúa giúp. Vì với ơn Chúa giúp, mọi sự đều có thể. Chúng ta còn phải cố gắng không ngừng để vượt lên những rào cản là tính ích kỷ, kiêu ngạo và quy ngã. Vì thế, nhiều lúc chúng ta cảm thấy mến Chúa thì dễ hơn yêu người; nhiều lúc mến Chúa và yêu người là điều không thể. Khó khăn lắm!
Chúng ta tìm thấy những mẫu gương sáng chói soi sáng và giúp chúng ta sống. Xin kể ra đây một số gương mặt nổi bật.
Trước hết, phải kể đến mẫu gương Chúa Giêsu. Người đã sống trọn lý tưởng mến Chúa và yêu người một cách hoàn hảo. Người hoàn toàn vâng phục Chúa Cha và đã hiến thân chịu chết vì loài người. Người không chỉ yêu những kẻ yêu thương mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù địch với mình.
Thứ đến là mẫu gương của cha Maximilianô Maria Kolbe, ngài là một sĩ dòng Phanxicô, người Ba Lan. Ngài bị bắt và bị nhốt ở trại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã. Cuối tháng 7 năm 1941, có ba tù nhân trốn khỏi trại, khiến phó chỉ huy trại bắt 10 người đàn ông chết thay bằng cách bỏ đói trong hầm ngầm để răn đe việc trốn trại. Một trong những người bị chọn có Franciszek Gajowniczek, anh này kêu lên: “Tôi còn vợ tôi! con tôi nữa!” Kolbe động lòng thương và tình nguyện chết thay cho anh này. Đó là nghĩa cử thể hiện cách tuyệt hảo về lòng mến Chúa và yêu người.
Mẫu gương cuối cùng có thể kể ra đây đó là Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ là một nữ tu người gốc Albani, nhưng vì được thúc đẩy bởi tình yêu Chúa và lý tưởng phục vụ tha nhân, Mẹ đã sang Ấn Độ để hiến trọn cuộc đời phục vụ người nghèo, đặc biệt là người bất hạnh nhất. Mẹ đã lập dòng Thừa Sai Bác Ái để cùng với các nữ tu chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối ở Ấn Độ và nay khắp nơi trên thế giới đều có sự hiện diện của dòng này. Sứ mạng của Mẹ và dòng này là phục vụ Chúa trong người nghèo. Mẹ đã được cả thế giới biết đến với lòng kính trọng như là biểu tượng của lòng bác ái Kitô giáo đương thời. Mẹ đã sống trọn vẹn hai giới răn mến Chúa và yêu người cách tuyệt hảo noi gương Chúa Giêsu.
Và trong lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều vị thánh khác, nhiều con người và các tổ chức, dòng tu đã dân thân phục vụ con người theo tinh thần của Phúc Âm. Đó chính là những mẫu gương sáng chói của việc thực thi giới răn mến Chúa yêu người.
Noi gương các ngài, chúng ta được mời gọi sống triệt để hơn hai giới răn quan trọng và chính yếu này trong đời sống hằng ngày, là mến Chúa và yêu người. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận, thì đó là bằng chứng chúng ta đang sống theo giáo huấn của Chúa Giêsu. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta chỉ chọn một trong hai, hoặc đối lập chúng, thì chúng ta đã quên điều chính yếu mà Chúa Giêsu hôm nay giới thiệu và nối kết, vì mến Chúa và yêu người là cốt lõi của Kitô giáo chúng ta. Amen!
Tin mừng cho chúng ta biết có nhiều cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với những người chống đối thù nghịch với Ngài. Cuộc tranh luận trong bài Tin mừng hôm nay do nhóm kinh sư, luật sĩ đặt ra về điều luật nào trong Kinh thánh quan trọng nhất. Chủ đích của nhóm luật sĩ này không phải để học hỏi hay trao đổi, mà họ muốn gài bẫy để kết án Chúa Giêsu. Và cũng nhờ cuộc tranh luận này mà Chúa đã mạc khải cho chúng ta một chân lý. Chúa Giêsu đã tóm tắt tất cả luật cũ vào một giới răn, đó là giới răn: Mến Chúa Yêu Người.
Có một giáo lý viên đang dạy giáo lý cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi: “Cốt lõi, điểm đặc biệt nhất của Ðạo Công Giáo là gì?” Giáo lý viên đáp: “Là Yêu Thương.” Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói. Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau, những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương, và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau.” Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ. Thứ nhất, đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo. Thứ hai, chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương.” Thế là giáo lý viên bí!
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim, trong tâm hồn của mọi người. Vì thế không cần đạo Công giáo dạy, không cần Chúa Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết và trân trọng tình cảm yêu thương. Nhưng câu hỏi là: chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác sao? Chẳng lẽ Chúa Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao? Vì thế chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.
Trước hết, tình thương của con người có nhiều cấp bực khác nhau. Thương một người bạn hay hàng xóm thì không bằng thương anh chị em ruột. Thương anh chị em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Thương mình chứ không thể nào thương kẻ thù. Và thứ hai, đối với một người có đạo thì họ nghĩ phải yêu Chúa trên hết, kế đó mới yêu thương những người khác. Còn Chúa Giêsu thì dạy phải mến Chúa yêu người đồng hành và khắng khít với nhau. Phải đặt yêu người và mến Chúa ngang nhau. Có nghĩa là không thể mến Chúa mà lại thù ghét anh chị em hay ngược lại. Nghĩa là chúng ta mến Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, chúng ta phải coi người khác như Chúa vậy, và phải thương người khác như yêu mến Chúa. Ðó chính là điểm độc đáo của giới răn Yêu Thương Công Giáo.
Thành thật mà nói thì yêu Chúa dễ hơn. Vì sao? Vì Chúa dễ yêu lắm, ai cũng có thể nói yêu Chúa được. Thế nhưng chúng ta hãy thành tâm tự hỏi: Chúng ta có chân thành yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức chúng ta không? Chúng ta có thể cho mình là yêu mến Chúa nhưng nhiều khi chỉ yêu ngoài môi miệng, hay bằng đọc dăm ba câu kinh, hay đến nhà thờ xem lễ một tuần một lần nhưng tâm trí thì lại để ở đâu đó. Yêu Chúa rất dễ vì Chúa chẳng phản ứng gì cả với thái độ yêu bề ngoài của chúng ta.
Còn yêu người thì sao? Chắc chắn là khó hơn và chúng ta cũng đã nghe nhiều về vấn đề này, nhưng có thể nói chẳng bao giờ nghe đủ. Vì thế ở đây tôi xin được chia sẻ một vài điều. Điều thứ nhất, yêu người là một giới luật, một mệnh lệnh của Chúa, không phải là một đề nghị hay một lời kêu gọi. Và cũng là thước hay tiêu chuẩn thực tế để đo lường và đánh giá tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Nghĩa là nếu chúng ta nói chúng ta yêu Chúa mà chúng ta sống ích kỷ, thu hẹp, sống không công bằng, gian dối hay lừa dối người khác, bất kể người đó là ai, thì chúng ta là người nói dối. Thánh Gioan khẳng định rằng: “Nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình, người ấy là kẻ nói dối.”
Điều thứ nhì, yêu người không phải chỉ là yêu thương theo tình cảm, có nghĩa là chỉ yêu thương những người thương mến chúng ta, còn đối với những người khác thì không. Nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu thương chúng ta đó là chuyện bình thường và thường tình vì ai cũng làm điều đó, không cần phải đề cập tới và không có gì để nói. Yêu người theo giới luật của Chúa là yêu thương cả những người không có liên hệ gì với chúng ta, kể cả người thù ghét, làm hại chúng ta. Điều thứ ba, yêu người không phải chỉ ngoài môi miệng mà bằng hành động cụ thể như sẵn sàng, hy sinh, có lòng bác ái, quảng đại giúp đỡ bằng việc làm tinh thần hay vật chất. Và điều sau hết rất quan trọng mà chúng ta phải ghi nhớ: tới ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét thưởng phạt về giới răn yêu thương: yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn và linh hồn và yêu thương người khác như chính mình.
Đạo của Chúa và của chúng ta là đạo tình yêu, vì chính Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế, Ngài mời gọi tất cả mọi người sống trong tình yêu của Ngài. Ngài đã hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta những người không xứng đáng, những người tội lỗi, vô điều kiện và ban cho chúng ta ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu đời sau. Chúa Giê-su vì yêu thương đã chịu chết trên thập giá cho chúng ta, và Chúa còn hiện diện trong Bí tích Thánh Thể để trở thành của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu cao cả của Chúa cho chúng ta. Như vậy, nếu sống giới răn Yêu Thương của Chúa thì sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa.
Xin cho tình yêu của Chúa trong Thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nhận lãnh ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, đến cộng đoàn và đến những người sống chung quanh chúng ta.
Một trong những tranh luận thường được đặt ra trong cuộc sống là: chọn Thiên Chúa hay chọn con người? Những người theo khuynh hướng duy nhân bản chủ trương rằng ngày hôm nay phải hoàn toàn dấn thân cho sự thăng tiến con người, và đối với họ, Thiên Chúa chẳng có ích gì cả, như những người Mácxít thường nói. Ngược lại, những người theo khuynh hướng duy đạo đức, chủ trương phải hoàn toàn dấn thân cho Thiên Chúa bằng đời sống siêng năng đọc kinh, cầu nguyện, nhưng lại bỏ bê bổn phận bác ái đối với tha nhân. Phải chăng khi thờ phượng Thiên Chúa, con người có được phép lãng quên tha nhân chăng? Đó là câu hỏi mà con người mọi thời đại đặt ra như được diễn tả qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay khi một người thông luật đến hỏi và thử Chúa Giêsu:
“Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất” (Mt 22,36)?
Chúa Giêsu dùng cơ hội này để cống hiến một sự mới mẻ khi tóm tắt mọi lề luật vào trong giới răn: “Mến Chúa, yêu người, như là cốt lõi của lề luật” (x. Mt 22,37-40). 1. Điều răn quan trọng nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi” Trong luật Môsê, có 613 điều luật, trong đó, có 248 điều buộc làm và có 365 điều cấm làm. Giữa một “rừng luật” như thế, điều nào là quan trọng? Câu hỏi của người thông luật là một câu hỏi hóc búa! Nhưng với sự khôn ngoan thần linh, Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất” (Mt 22,37-38). Câu trả lời này không phải là mới mẻ đối với người Do Thái, đặc biệt với Biệt Phái, bởi vì, đây là giới răn trong kinh Shema mà một người Do Thái đạo đức phải đọc hai lần sáng tối mỗi ngày để cầu nguyện (x. Đnl 4,5-9). Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giêsu lấy lại lề luật Cựu Ước vừa để tái khẳng định điều chính yếu vừa để kiện toàn lề luật. Vì thế, chúng ta cần dừng lại tìm hiểu giới răn quan trọng nhất này. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” có nghĩa là gì? Trong câu này, từ “hết” được lặp lại ba lần để nhấn mạnh và diễn tả rằng con người phải yêu mến Thiên Chúa với toàn vẹn và trọn vẹn con người mình. Tình yêu Thiên Chúa đòi hỏi sự dấn thân toàn bộ con người: Cả con tim, tâm hồn và lý trí. Nghĩa là tình yêu đó không chỉ ở trên bình diện lý trí, hay con tim, nhưng còn bao gồm cả thân xác, sức lực, các giác quan, tình cảm và đam mê của con người. Ba từ “hết” đó cũng muốn nói rằng tình yêu dành cho Thiên Chúa khiến con người phải từ chối mọi ngẫu tượng: như tiền bạc, tính dục, quyền lực, tư lợi và danh vọng… Yêu mến Thiên Chúa như thế có nghĩa Thiên Chúa luôn là giá trị lớn nhất trong bậc thang giá trị; Người ở chỗ quan trọng nhất trong cuộc đời này. Vì thế, tất cả cuộc sống, nơi ở, cách sống, cách ăn mặc, sinh hoạt, vui chơi giải trí, và những gì còn lại đều diễn tả rằng Thiên Chúa là Đấng duy nhất trong đời chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi đó là điều răn quan trọng nhất. 2. Điều răn thứ hai: “Yêu thương tha nhân như chính mình” Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,39-40). Chúa Giêsu đã liên kết lại hai giới răn một cách thật cảm động. Người ta không thể đối lập Thiên Chúa với con người, cũng không thể đối lập con người với Thiên Chúa. Đối với Chúa Giêsu, không có sự mâu thuẫn giữa hai tình yêu. Yêu mến Thiên Chúa, thì phải yêu thương tha nhân. Yêu thương tha nhân là bằng chứng yêu mến Thiên Chúa, và hơn thế nữa, yêu thương tha nhân là yêu mến Thiên Chúa (x. Mt 25,45; 1 Ga 4,20). Liên quan đến điều này, bài đọc I của Chúa Nhật này nhắc nhở chúng ta:
“Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức… Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu” (Xh 22,20-22). Như thế, chống lại con người là chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu mang đến sự mới mẻ cho giới răn này khi nói: “Yêu người thân cận như chính mình.” Ở đây, chúng ta để ý chữ “như chính mình” làm tiêu chuẩn đo lường cho tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu không nói: “Anh em hãy làm cho người ta những gì mà họ đã làm cho anh em.” Nếu như thế, luật báo oán “lex talionis” “mắt đền mắt, răng đền răng” vẫn còn hiệu lực. Nhưng Chúa Giêsu nói ở đây rất khác:
“Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).
Bởi lẽ, ai cũng mong muốn làm điều tốt, điều lành cho mình; không ai muốn làm những điều xấu cho mình (trừ người điên)… Từ đó, chúng ta hãy mong muốn và làm cho người khác những điều tương tự như thế. Hơn nữa, Chúa Giêsu coi tình yêu tha nhân như là “giới răn mới của Thầy,” một giới răn thâu tóm hết toàn bộ lề luật:
“Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). 3. Việc bác ái từ lòng bác ái Khi nói về tình yêu tha nhân, ngay lập tức chúng ta nghĩ về “những việc bác ái,” đó là những việc phải làm cho tha nhân như: Cho ăn, cho uống, thăm viếng họ… Tóm lại, là giúp đỡ họ. Nhưng đây là việc làm bác ái, chưa phải là lòng bác ái. Trước khi làm việc bác ái, cần phải có lòng bác ái. Việc làm bác ái phải gắn liền với lòng bác ái. Vì thế, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta làm việc bác ái với lòng chân thành, vui vẻ mà không “khoe khoang,” không “giả hình đạo đức” (x. Rm 12,9); hay làm phúc “với một con tim trong sáng” (x. 1 Pr 1,22). Bởi lẽ, nhiều lúc, người ta làm việc bác ái không phải vì người nghèo và vì Chúa, nhưng là để vinh danh chính mình, hay để rửa tiền bất công, rửa lương tâm khỏi áy náy, hoặc để được người khác giúp đỡ… Người ta lỗi bác ái ngay lúc làm việc bác ái! Tuy nhiên, có những người sai lầm khi chủ trương rằng yêu thương tha nhân thì cứ để trong lòng, cầu nguyện cho họ là đủ, mà không hề có một hành động nào cụ thể. Về điểm này, thánh Giacôbê Tông Đồ nói rất chí lý rằng:
“Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no,’ nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15-16). Thánh Gioan thêm rằng: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3,18). Vì thế, không được coi thường những việc bác ái cụ thể và phải làm với tấm lòng chân thành vui vẻ. Bác ái luôn có tính hoàn vũ, không phải là việc làm của một số người giàu và người khỏe mạnh có thể làm cho người khác, còn người nghèo và người bệnh tật chỉ có thể đón nhận. Không phải thế. Tất cả mọi người có thể cho và đón nhận. Hơn nữa, lòng bác ái phải được thể hiện ra một cách cụ thể. Nghĩa là chúng ta bắt đầu nhìn những hoàn cảnh và những người đang sống với chúng ta bằng cặp mắt mới. Cặp mắt mới nào? Rất đơn giản: Đó là cặp mắt giống Thiên Chúa khi Người nhìn chúng ta: Cặp mắt của tha thứ, cặp mắt của lòng nhân hậu, cặp mắt của thấu cảm! Lúc đó mọi sự sẽ thay đổi, tất cả mọi tương quan cũng thay đổi, mọi động lực phòng thủ, thù ghét đã ngăn cản chúng ta yêu thương một ai đó cũng biến mất như một phép lạ. Và chúng ta bắt đầu nhìn thấy người khác như họ thực sự là họ: Một thụ tạo đáng thương đang đau khổ vì yếu đuối cũng như giới hạn của kiếp người, giống ta và giống mọi người. Đó là khi mọi mặt nạ chúng ta đeo sẽ rớt xuống, và người ta cũng sẽ nhìn thấy bạn đúng như bạn thực sự là, một hình ảnh lung linh của Thiên Chúa rất đáng yêu mến. Vâng, như thế, Chúa Giêsu đã nhân bản hóa tình yêu Thiên Chúa và thần linh hóa tình yêu tha nhân. Nếu đối với bạn, yêu mến Thiên Chúa gắn liền với yêu thương người thân cận, thì đó là bằng chứng bạn đang sống theo giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng ngược lại, nếu bạn chỉ chọn một trong hai, hoặc đối lập chúng, thì bạn đã quên điều chính yếu mà Chúa Giêsu hôm nay giới thiệu và nối kết, là mến Chúa và yêu người, cốt lõi của Kitô giáo chúng ta. Amen! Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đi đến đâu là dân chúng ùn ùn kéo đến đó (x Lc 12,1). Không những vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền (x.Mc,2,22) mà cách cư xử đối đáp của Ngài quá hay khiến tất cả đối phương phải kính nể (x.Mc 12,28). Ngay cả các kinh sư là những nhà thông luật. hôm nay cũng tiến đến gần Ngài để hỏi về giới răn nào quan trọng nhất. Ngài đã cho ông ta và toàn bộ cử tọa đầy thán phục với câu trả lời rất chí lý và đầy ý nghĩa. Ngài cho họ thấy giới răn quan trọng, đứng đầu trong mọi giới răn là “giới răn yêu thương”. Bởi nó gói trọn hai điều răn quan trọng là yêu mến Chúa và yêu thương người.
Ta thấy trong Tin Mừng nói về cuộc trao đổi thân tình và cởi mở giữa Chúa Giêsu và một kinh sư về một chủ đề thần học rất quan trọng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo. Câu hỏi được vị kinh sư đặt ra là “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu? tức điều răn nào quan trọng nhất?” Chúa Giêsu trả lời cho ông biết một điều cốt lõi của luật đó là: “Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây hỡi Israen, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là Đức Chúa duy nhất. Người phải yêu mến Đức Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó”.
Vì sao chúng ta lại phải “yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”. Địa lý Do Thái nằm trong vùng lưỡng hà địa, cái nôi của những nền văn minh và các tôn giáo lớn. Vì thế người Do Thái thời Cựu Ước tiếp cận với rất nhiều tư tưởng, triết thuyết và nhiều thần giáo, họ dễ bị lẫn lộn giữa Giavê Thiên Chúa với các vị thần khác. Người kinh sư đặt ra một câu hỏi thật xác đáng và Chúa Giêsu cũng đã chỉ rõ điều luật quan trọng nhất đó là “Kính mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”.
Đây là điều răn quan trọng và cũng là điều khó thực hiện. Vì bản tính con người là thích chạy theo tà thần với vẻ hào nhoáng bên ngoài, những vị thần của quyền lực, tiền bạc, dục vọng …có khả năng làm thỏa mãn những nhu cầu của con người. Đòi hỏi của Thiên Chúa có tính quyết liệt, dứt khoát phải tôn thờ Thiên Chúa trọn cả con người với mọi ước muốn thâm sâu trong tâm hồn và thể xác. Con người thường có thái độ “chân trong chân ngoài”, nghĩa là theo Chúa nhưng còn tìm kiếm và chạy theo những vị thần khác. Những vị thần có hình tướng và cả những vị thần vô hình vô tướng, đó là một thứ thần nguy hiểm và đáng sợ.
Đó là thần tham lam dối trá, ghen ghét, thù hận, đam mê xác thịt, hưởng lạc và nhiều những thói hư tật xấu khác. Đó là những thứ thần ngấm ngầm ăn sâu vào tận xương tủy con người. Hơn ai hết Chúa Giêsu hiểu được rằng con người dễ chạy theo những quyến rũ của thế gian mà lãng quên hoặc tôn thờ Chúa một cách nửa vời, đó là một mối nguy hiểm.
Điều thứ hai không kém phần quan trọng đó là “yêu người thân cận như chính mình”. Chúng ta phải kính mến Thiên Chúa vì Người là Đấng sáng tạo và làm chủ muôn vật muôn loài, trong đó con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, được Thiên Chúa cứu chuộc bằng giá máu và mạng sống của Đức Giêsu Con Một yêu dấu của Thiên Chúa. Kính mến Thiên Chúa cụ thể là yêu thương tôn trọng con người. Cả cuộc đời của Đức Giêsu chỉ canh cánh có một điều là yêu thương và cứu chuộc loài người. Thiên Chúa là Đấng quyền năng đã hạ mình xuống mang thân phận con người để cứu chúng ta khỏi ách tội lỗi và sự chết.
Yêu người một cách “sơ sơ” thì dễ nhưng “yêu như chính mình” thì thật khó. Yêu thương những người nổi tiếng, lịch sự, xinh đẹp, giàu có thì dễ, nhưng thật khó biết bao khi yêu thương những người nghèo khổ, dốt nát, người hay gây phiền toái cho ta. Yêu thương những người mang lợi lộc đến cho ta thì dễ nhưng khó mà yêu thương kẻ thù của ta, những người hàng xóm khó tính, keo kiệt, những người nghèo lang thang đầu đường xó chợ…Đòi hỏi của Chúa thật quá khó, điều răn ấy đụng chạm và cứa vào cái tôi ích kỷ của con người. Chỉ với ơn Chúa giúp chúng ta mới sống được điều răn Chúa dạy.
Với người Do Thái, họ giữ luật rất chặt chẽ theo bộ luật Tora gồm 613 điều. Trong đó, 248 điều phải làm và 365 điều cấm không được làm. Họ cố gắng học thuộc, đeo nó trong mình, dán lên trán, trên tua áo (x.Mt 23,5), tuân giữ rất chi li từng chấm, từng phết. Họ cố gắng làm những gì luật dạy và tránh những gì luật ngăn cấm. Nhưng tất cả đều cho thấy họ giữ luật vì luật. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã lấy câu kinh thánh trong sách Đệ Nhị Luật để nhắc nhở họ cũng như những ai muốn theo Ngài thì tuân giữ luật Ngài với một tâm hồn yêu mến thật sự “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết
sức lực ngươi.”(Dnl 6,4 ;Mc 12,29-30)
Chúng ta phải yêu mến Chúa bởi vì Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu (IGa 4,8). Ngài yêu thương chúng ta đến nỗi chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta (x Ga 3,16;19,17-18). Ngài là Mục tử Nhân lành (Ga 10, 14), là con đường dẫn lối chúng ta, là sự thật, chân lý bảo vệ chúng ta và là sự sống vĩnh cửu của chúng ta (xGa 14,6). Cho nên, chúng ta cần phải yêu Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực nghĩa là yêu Ngài với một tấm lòng chân thành, tuân giữ, thi hành lời Ngài (Mc3,35) cách trọn hảo cho dù phải từ bỏ mình, hoặc gặp gian truân, thử thách, bắt bớ, hiểm nguy,hy sinh, …hay bất cứ sức mạnh, quyền lực nào, loài thọ tạo nào thì vẫn một lòng thủy chung với Ngài (x.Rm 8, 31-39).
Nhưng yêu mến Chúa thôi thì chưa đủ (x.Mt 21-23), vì vậy, Chúa Giêsu tiếp tục trưng dẫn kinh thánh trong sách Lê vi để khuyên chúng ta “phải yêu người thân cận như chính mình”(Lv 19,18; Mc 12, 29-31). Đây cũng chính là “hệ quả” phải có nơi con người có lòng yêu mến Chúa. Vi mỗi người chúng ta là hình ảnh sống động của Chúa.Hơn nũa, nếu chúng ta nói chúng ta yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình là kẻ nói dối; vìai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy được (1 Ga 4,20)và "kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết"(1Ga 3,14)
Yêu người như chính mình là biết thông cảm chia sẻ với người. biết đón nhận họ như chính họ là. Yêu người là sống đời phục vụ yêu thương. Vì đức tin không hành động là đức tin chết (Gc 2,17). Yêu người còn là quảng đại tha thứ khi tha nhân xúc phạm đến mình “không những tha thứ bảy lần mà là bảy mươi lần bảy”. Yêu người còn là chấp nhận hy sinh,chịu thiệt thòi về mình để cho tha nhân hạnh phúc. Thế mà Chúa Giêsu, Ngài còn đòi hỏi triệt để hơn nũa là phải yêu người như Chúa yêu (x.Ga 15,12) Tức là yêu cả kẻ thù.và dám chết cho người mình yêu. Một tình yêu hy hiến nhưng không.
Là người môn đệ Chúa, những người bước theo Chúa, chúng ta không thể yêu Chúa mà lại ghét tha nhân. Hay chỉ yêu tha nhân mà không yêu Chúa. Hai điều này phải được thực hiện song hành với nhau.
Mến Chúa – Yêu Người là cốt lõi của đạo Công Giáo chúng ta. Từ thời Cựu Ước, sách Đệ Nhị Luật cho chúng ta thấy, ông Môsê đã dạy cho dân biết điều răn trọng nhất là yêu mến Chúa: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)” (x. Đnl 6,5). Từ điều luật quan trọng đó, trải qua dòng thời gian, các luật sĩ, biệt phái đã chú giải thêm thắt thành 613 điều luật khác Vì thế, người Do Thái không biết điều nào là chính điều nào là phụ. Chính vì vậy, hôm nay một luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?"(Mc 12,28) Mặc dầu biết ông ta hỏi như vậy là để thử Ngài, nhưng Chúa Giêsu không chấp mà còn dạy cho ông và mọi người biết : "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." (Mc 12, 29-31). Chúa Giêsu xác nhận cách rõ rằng rằng điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Giống như cây thập giá có chiều ngang và chiều dọc: chiều dọc hướng về Thiên Chúa, chiều ngang vươn tới tha nhân. Cũng vậy, mến Chúa yêu người là hai chiều kích của tình yêu, phải luôn đi đôi với nhau. Không thể giữ điều này mà bỏ điều kia, như Thánh Gioan tông đồ đã nói: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.”(1Ga 2,9). “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Và Ngài khẳng định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). 1. Yên mến Thiên Chúa
Thiên Chúa là tình yêu. Vì yêu thương nên Ngài tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong đó có con người là hình ảnh của Ngài. Tình yêu đó còn được thể hiện qua sự quan phòng kỳ diệu. Vì yêu thương nên Ngài đã ban chính Con Một để ai tin vào Người Con ấy thì được sống muôn đời (x. Ga 3,6). Tình yêu đó còn được thể hiện trong công trình cứu chuộc. Tột đỉnh của tình yêu là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Người đời thường nói: Có đi có lại mới toại lòng nhau. Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài đó là lẽ thường tình. Chúng ta có thể đáp lại tình yêu của Chúa bằng nhiếu cách thế khác nhau: Tuân giữ mười giới răn của Chúa; Đọc và suy gẫm Lời Chúa; Cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích...Thực hành những việc đó với cả tấm lòng: Yêu mến hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức chúng ta. Có nghĩa là chúng ta phải luôn đặt Chúa lên chỗ nhất: Trên cha mẹ, trên vợ chồng, trên anh chị em, trên của cải, chức quyền danh vọng và mọi thứ khác.
Rất có thể chúng ta đã yêu mến Chúa nhưng có nhiều lúc chúng ta vẫn chưa yêu mến hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Đó là khi chúng ta chỉ dành cho Chúa một chỗ trong tâm hồn như những thứ khác, thậm chí là kém hơn những thứ khác. Đó là khi chúng ta chỉ yêu mến Chúa lúc bình an hạnh phúc. Đó là khi chúng ta chỉ yêu mến Chúa, chạy đến kêu xin Ngài lúc chúng ta gặp thử thách, đau khổ. Rồi, chúng ta sẵn sàng bỏ Chúa vì chức quyền, danh vọng, vì thú vui trần thế, vì lợi lộc thấp hèn, vì của cải vật chất, giống như Giuđa đã bán Chúa 30 đồng bạc. Hãy can đảm xét mình để thấy được tình yêu của chúng ta dành cho Chúa lâu nay như thế nào? Hãy quyết tâm yêu Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, để có thể nói được như Thánh Phaolô tông đồ “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”(Rm 8,35). Đừng để như thánh Augustinô, hối tiếc vì đã yêu Chúa quá muộn màng.
2. Yên thương anh em
Về mặt tiêu cực, chúng ta yêu thương tha nhân là không làm cho tha nhân những gì chúng ta không muốn họ làm cho mình. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Về mặt tích cực, chúng ta làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho mình. Đây cũng là lời dạy của Chúa Giêsu: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).
Để thực hiện giới răn Yêu Người, trước hết, cần phải yêu thương những thành viên trong gia đình: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em ruột thịt, chú bác, cô dì. Sau đó, phải yêu thương những người thân cận: Bạn bè, làng xóm láng giềng, những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Từ đó, chúng ta mới có thể yêu thương những người khác, những người xa lạ, những kẻ làm hại chúng ta. Bởi vì, nếu không yêu thương những người có liên hệ với chúng ta thì làm sao chúng ta có thể yêu thương những người xa lạ, làm sao chúng ta có thể yêu thương kẻ thù của chúng ta? Vì Chúa Giêsu đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em mình (x. Lc 6,27). Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta khi Ngài tha thứ cho kẻ đóng đinh mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm."(Lc 23,34). Noi gương Chúa, nhiều vị thánh đã sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Chẳng hạn, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào tù thăm kẻ ám sát mình; thánh Maria Goretti đã sẵn sàng tha thứ cho kẻ giết mình.
Yêu thương là phải hy sinh, trao hiến: Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã hy sinh vì nhân loại. Cao điểm của sự hy sinh đó là trao hiến chính mạng sống mình trên thập giá vì nhân loại. Noi gương Chúa Giêsu, biết bao vị thánh đã hy sinh, trao hiến đời mình để phục vụ tha nhân như Mẹ Têrêxa Cacutta, thậm chí đã chết thay cho người mình yêu như Thánh Maximilianô Kolbe.
Yêu thương phải bằng những việc làm cụ thể qua cử chỉ thăm viếng, giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho những kẻ bé mọn. Đến ngày chung thẩm, Chúa Giêsu dựa vào tiêu chuẩn này để phán xét chúng ta. Ai thương yêu giúp đỡ những kẻ bé mọn là giúp đỡ chính Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”(Mt 25, 35-36). Ngược lại, ai không giúp đỡ những kẻ bé mọn là không giúp Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống;43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." (x. Mt 25, 42-43).
Xét mình lại, có lẽ không ai trong chúng ta đã chu toàn trọn vẹn luật yêu thương. Cách này cách khác, chúng ta lỗi đức yêu thương đối với tha nhân trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Ước mong rằng, mỗi chúng ta luôn cố gắng thể hiện bổn phận yêu thương trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nhờ đó người khác sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa. Câu chuyện sau đây dạy chung ta bài học yêu thương hết sức thiết thực:
Một hôm trên đường trở về nhà xứ, vị linh mục già của thị trấn Picardie, vừa đi vừa đọc thầm kinh nhật tụng. Có hai viên sĩ quan trẻ cũng về chung đường. Khi rảo bước ngang qua, cả hai đều tỏ ý mỉa mai chế nhạo ông cha đạo vì từ lâu họ đã mất niềm tin nơi Giáo Hội Công giáo. Sẵn đang vui chuyện, họ tiếp tục chủ đề chỉ trích các tu sĩ, mặc kệ ông cha xứ già bị bỏ rơi lại phía sau một đoạn khá xa.
Chợt có một người hành khất ngồi bên vệ đường lên tiếng: “Các anh ơi, xin giúp kẻ nghèo này với.” Nghe vậy, một trong hai sĩ quan trẻ lục túi tìm cho người ăn mày mấy đồng bạc, trong khi anh kia cũng chợt nẩy ra một ý. Anh nói với bạn: “Ông cha già hồi nãy thế nào cũng sẽ đi ngang qua đây. Tôi dám cá độ với anh là ông ta sẽ chẳng thí cho lão ăn mày này đến một xu ! Cái bọn tu sĩ đạo đức giả ấy chỉ thích làm phúc trước đám đông mà thôi. Không tin thì ta cứ rình ở đây mà xem !” Cả hai nhất trí trốn vào một bụi cây gần đó.
Ít phút sau, quả nhiên vị linh mục già chậm rãi đi tới. Ngài đứng lại nhìn người hành khất, đưa tay lục hết túi trên túi dưới, rồi hết sức ái ngại nói với ông ta: “Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc là ta chẳng có lấy một xu dính túi để chia sẻ cho ông bạn.”
Anh lính trong bụi nghe thế thì rúc rích cười: “Đấy, anh thấy chưa ? Tôi nói có sai đâu !” Trong khi ấy, người ăn mày lại tiếp tục nài van, xin vị linh mục rộng lượng bố thí, còn ngài thì tỏ ra áy náy bứt rứt vì bó tay. Chợt, ngài nhìn kỹ bộ quần áo rách tả tơi của người ăn mày, động lòng trắc ẩn, suy nghĩ một thoáng rồi ngài bảo ông ta, giọng vui hẳn lên: “Ông bạn đợi ta một chút nhé, ta sẽ trở lại ngay !”
Dứt lời, ngài nhìn trước trông sau rồi chui tọt vào bụi cây ngay cạnh chỗ hai anh sĩ quan đang núp. Loay hoay một hồi rồi ngài lại bước ra, ngài ân cần đưa cho người ăn xin chiếc quần dài đã cuốn gọn lại: “Đây, ông bạn hãy cầm đỡ chiếc quần của ta nhé, tuy nó hơi cũ, lại đang mặc dở, nhưng có lẽ nó cũng giúp phần nào cho ông bạn. Nhớ đừng có kể cho ai nghe. Nếu có định cám ơn ta thì ông bạn cứ cầu nguyện với Chúa cho ta một điều tốt lành gì đó cũng được. Thôi ta đi nhé.” Vị linh mục quản xứ già xốc lại chiếc áo chùng thâm cho ngay ngắn, tay lại mở trang sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ đang đọc dở dang rồi tiếp tục đoạn đường.
Hôm sau, có hai người khách lạ tìm đến bấm chuông nhà xứ rất sớm. Vị linh mục già nhận lời ra ngồi tòa giải tội ngay. Và tất cả đầu đuôi câu chuyện đã được lần lượt thuật lại từ miệng hai anh sĩ quan trẻ tuổi ngày hôm qua, lòng hối hận, dạ chân thành ăn năn. Cha xứ ngẩn ngơ thốt lên: “Ôi Thiên Chúa nhân lành, chỉ với một chiếc quần cũ của con mà Ngài đã đem về cho con những hai linh hồn sao ?” (Theo lời kể của Đức Ông DE SÉGUR)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã nói lên điểm cốt lõi của lề luật là mến Chúa và yêu người. Đây là hai mặt của một thực tại là tình yêu nên cả hai không thể tách rời nhau nhưng hòa quyện vào nhau, tác động trên nhau để cùng nhau tồn tại và phát triển: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22, 37 – 40).
Quả vậy, thánh Gioan tông đồ đã khẳng định: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20). Do đó, không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em mình và ngược lại cũng không thể yêu thương anh em mình cách chân thành nếu không yêu mến Thiên Chúa cách chân thực. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân có tác động hỗ tương trên nhau. Vì thế càng gắn bó với Thiên Chúa ta càng biết yêu thương và phục vụ tha nhân, và càng yêu thương phục vụ tha nhân ta càng cảm nhận sâu sa tình yêu của Thiên Chúa. Trong thông điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu số 18, đức thánh cha Bênêđictô XVI đã nói: Tình yêu lớn lên nhờ tình yêu. Trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa tôi có thể yêu người khác cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Bởi vì khi đã gặp gỡ Thiên Chúa, kết hợp thâm sâu với Ngài, ta sẽ nhìn tha nhân bằng cái nhìn của Ngài và do đó có thể cống hiến cho tha nhân nhiều hơn những gì họ cần. Còn nếu không có sự kết hợp sâu xa thân tình với Thiên Chúa, ta sẽ không nhìn thấy bất cứ điều gì ngoài chính họ. Cũng vậy nếu ta chỉ sống với Thiên Chúa, chỉ lo thi hành các việc thờ phượng mà không quan tâm, không lắng nghe người khác thì mối liên hệ của ta với Thiên Chúa cũng sẽ trở nên cằn cỗi, vô vị. Vì thế chỉ khi nào ta gặp gỡ tha nhân, cho họ thấy tình yêu của mình bấy giờ ta mới cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ khi nào ta phục vụ tha nhân, bấy giờ mắt ta mới mở ra để thấy được những gì Thiên Chúa làm cho ta và Ngài đã yêu thương ta chừng nào.
Như thế tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là những gì bất khả phân ly, chúng làm nên một giới luật duy nhất là tình yêu. TÌnh yêu ấy chỉ xuất phát từ Thiên Chúa vì vậy Đức thánh Cha Bênêđictô mời gọi chúng ta noi gương Chân Phước Têrêsa Calcutta, hằng liên lỷ canh tân khả năng yêu thương tha nhân của mình từ việc gặp gỡ Chúa Giêsu Thánh Thể và cuộc gặp gỡ này sẽ đạt được chiều sâu của nó nhờ việc phục vụ tha nhân (x.Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 18).
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Chúng ta phải thừa nhận rằng, sở dĩ chúng ta còn gặp nhiều khó khăn trong tương quan với tha nhân, chưa tìm được hạnh phúc trong cuộc đời hiến dâng, phục vụ là vì những hoạt động của chúng ta chưa phát xuất từ lòng yêu mến Thiên Chúa, chưa phải là hoa trái của việc kết hợp thâm sâu với Ngài. Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu dạy: “ Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin Mừng của chúng ta”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con rằng mến Chúa, yêu người là giới răn độc nhất. Xin cho chúng con năng chạy đến với Chúa, sống gắn bó mật thiết với Chúa để tình yêu Chúa thúc đẩy con đến với tha nhân, nhận ra hình ảnh cao đẹp của Chúa nơi họ để con yêu thương, tôn trọng và phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương và hiến mình vì con. Xin cho chúng con đừng dừng lại nơi chính mình với những toan tính hẹp hòi, ích kỷ nhưng biết mở ra với tha nhân trong những hành động cụ thể, hầu đời sống của con được triển nở mỗi ngày trong tình yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. A men.
Cốt lõi của Ki-tô giáo là 4 chữ vàng “MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI”. Bốn chữ ấy tóm gọn 10 điều/giới răn mà Thiên Chúa đã ban cho dân riêng Israel qua ông Môsê: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.”
Sau này chính Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã khẳng định lại tầm quan trọng và sự liên kết của 2 điều răn ấy và lấy giới răn yêu người làm “giới răn riêng” của mình: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra chúng con là môn đệ của Thầy là chúng con yêu thương nhau.”
Đề đời sống Đức Tin của các Kitô hữu được phong phú và đầy ý nghĩa, chúng ta hãy thực thi Lời Chúa nói chung và giới răn “mến Chúa yêu người” nói riêng, trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1 (Đnl 6,2-6): “Hỡi Israel hãy nghe đây: Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng ngươi” Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài. “Hỡi Israel, hãy nghe đây mà tuân hành các điều Chúa truyền dạy cho ngươi, thì ngươi được phần phúc và sinh sản ra nhiều hơn, như lời Chúa là Thiên Chúa tổ phụ ngươi đã hứa ban cho ngươi phần đất chảy sữa và mật. “Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng”.
2.2 Bài đọc 2 (Dt 7,23-28): “Vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu” Anh em thân mến, có nhiều người làm tư tế (của Giao Ước cũ), vì lẽ sự chết ngăn trở họ tồn tại lâu bền. Còn Đức Kitô, vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu. Bởi đó, Người có thể cứu độ cách vĩnh viễn những ai nhờ Người mà đến với Thiên Chúa, vì Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta. Phải, vì chúng ta cần một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Người không cần phải như các tư tế hằng ngày dâng lên của lễ trước là đền tội lỗi mình, sau là đền tội lỗi dân chúng, vì Người làm việc ấy chỉ có một lần khi hiến dâng chính mình. Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng tế đến muôn đời.
2.3 Bài Tin Mừng (Mc 12,28b-34): “Đó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất” Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”.
Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Đnl 6,2-6): là những lời truyền dậy của ông Môsê dành cho con cái Israel là những người vừa mới được Thiên Chúa giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ Ai-cập và đang trong hành trình vào Đất Hứa là Canaan. Dân Chúa không có cách nào để diễn tả hết tấm lòng và mối tương quan của mình với Thiên Chúa Tạo Dựng và Cứu Độ cho bằng lòng kính sợ và sự thờ phượng Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn và hết linh hồn.
3.1.2 Bài đọc 2 (Dt 7,23-28): là những lời của Thánh Phaolô trong thư Do-thái, nói về vai trò thượng tế của Chúa Giêsu Kitô. Vì Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa hằng sống nên tước vị thượng tế của Người tồn tại muôn đời. Và vì Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người cảm thông với con người phải vất vả khổ đau nên Người đáng chúng ta yêu mến, tin tưởng và cậy dựa.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Mc 12,28b-34): là trích đoạn Tin Mừng Máccô trong đó Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của một kinh sư: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Thật ra người Do-thái đã đặt ra quá nhiều điều luật khiến người bình dân phải bối rối, không biết đâu là chính, đâu là phụ nữa. Nhưng tự bản chất và ngay từ lúc đầu, luật của Thiên Chúa rất vắn gọn và dễ hiểu: kính sợ & yêu mến Thiên Chúa bằng/với tất cả sức lực của mình và yêu thương người khác như chính bản thân mình.
– Kính sợ và yêu mến bằng/với tất cả sức lực vì Người là Thiên Chúa duy nhất và vì đó là bổn phận của con người đối với Đấng tạo dựng nên mình. Và đó cũng chính là con đường đạt được hạnh phúc.
– Yêu thương đồng loại như chính bản thân mình vì mọi người đều là tạo vật, là hình ảnh của Thiên Chúa, là thành viên trong đại gia đình của Thiên Chúa, là anh em chị em của nhau.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp mà ba bài Sách Thánh dành cho chúng ta hôm nay là sống/thực thi giới răn Tình Yêu là “mến Chúa yêu người” của Thiên Chúa. Mến Chúa là kính sợ, yêu mến, thờ phượng và sống theo mệnh lệnh của Người. Yêu người là làm cho những người sống xung quanh được hạnh phúc và nhận biết Thiên Chúa là Cha.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian để mọi người được sống nhờ tin vào Con của Cha. Thiên Chúa cũng là Đấng muốn mọi người thực thi giới luật yêu thương “mến Chúa yêu người” để được bình an và hạnh phúc.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Ðể thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy dành cho Thiên Chúa những tâm tình kính sợ, yêu mến và làm những việc tốt lành, ích lợi cho tha nhân, nhất là cho những người cần đến tình thương và sự quan tâm chăm sóc của chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời» Chúng ta hiệp dâng lời cầu nguyện cho hết mọi người và mọi dân tộc trong thế giới này để họ biết kính sợ Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên mọi người và muốn cứu vớt mọi người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác:… Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ!» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các Linh Mục và Phó Tế để các vị ấy luôn noi gương bắt chước Chúa Giêsu Kitô là Vị Thượng Tế hoàn hảo, là Đấng Trung Gian tuyệt diệu giữa Thiên Chúa và loài người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Điều răn đứng đầu là: … Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta, để mọi người thực thi giới răn “mến Chúa yêu Người” trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của mình.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho những người thành tâm thiện chí và những người mộ đạo, để họ nhận ra giá trị cao quý của việc kính sợ Đấng Tối Cao và yêu thương con người. Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigòn ngày 27/10/2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Chúng ta luôn nói và khẳng định rằng Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Đó là một chân lý, sự thât. Nhưng còn chúng ta có yêu Chúa hay không? Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa có thực sự là trên hết mọi sự, hết linh hồn hết trí khôn không hay vẫn còn đó sự “bắt cá hai tay”? Tình yêu của Chúa dành cho chúng ta vô bờ bến còn tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và tha nhân vẫn còn đó những toan tính thiệt hơn?
Chúng ta thử quan sát thái độ sống Đạo của chính mình và các tín hữu chung quanh chúng ta sẽ thấy: nhiều khi chúng ta theo Đạo nhưng chỉ dừng lại ở việc tham dự lễ ngày Chúa nhật đầy đủ là yên tâm vì đã chu toàn bổn phận với Chúa. Nhưng đa phần là chúng ta chỉ đi xem chứ không dự vì xác ở nhà thờ còn tâm hồn của ta ở bên ngoài đủ mọi lo toan sự đời nhân tình thế thái. Có những người đi lễ còn cố tình đi muộn để đứng ở ngoài, để tìm chỗ khuất để vừa dự lễ vừa điều khiển công việc qua điện thoại. Có những người đi nhà thờ, tham gia các đoàn thể xem ra rất tốt nhưng ở đời họ vẫn còn đó những đam mê tội lỗi, những mê tín dị đoan. Họ sống thiếu công bình bác ái. Họ vẫn chồng nọ vợ kia, vẫn ngoại tình, vẫn cờ bạc, vẫn rượu chè bê tha, tham sân si. Có những người cho rằng theo Đạo là Đạo tại tâm nên chẳng chịu lãnh nhận các bí tích. Thực ra Đạo Công Giáo vừa bên trong vừa bên ngoài, tức là tin Chúa, yêu Chúa thì phải sống Lời Chúa dạy cho nên kính mến thờ phượng Thiên Chúa hết lòng hết sức thì phải yêu người như Chúa yêu ta thể hiện qua đời sống đức tin: sống thánh thiện, công bình và bác ái.
Cho nên Chúa Giêsu dạy: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. Yêu mến Chúa trên hết mọi có nghĩa rằng siêng năng tìm hiểu lời Chúa và thực hành Lời ấy trong cuộc sống. Vì chưng, Chúa Giê-su đã từng nói không phải những ai kêu “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Thiên đàng đâu! Mà là những ai thực hành lời Chúa mới được vào Thiên đàng”. Tựa như hai người yêu nhau thì luôn lắng nghe nhau, lắng nghe những nhu cầu của nhau và luôn làm điều gì đó cho người mình yêu hài lòng. Vì thế, nếu chúng ta yêu mến Chúa thực sự thì chúng ta cũng phải lắng nghe Lời Chúa và sống điều Chúa truyền để làm vui lòng Chúa. Điều mà chúng ta có thể làm vui lòng Chúa là sự trung thành với Chúa và sống thương mến nhau. Sự trung thành với Chúa đòi hỏi chúng ta phải để cho Chúa vị trí số 1 trong tâm trí, trong cuộc sống của chúng ta. Sự trung thành đó được thể hiện qua việc chúng ta luôn chọn Chúa hơn là những danh lợi thú trần gian vì chưng Thánh vịnh chúng ta vừa đáp ca rằng: “Con yêu mến Ngài, lạy CHÚA là sức mạnh của con; lạy CHÚA là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ”.
Tại sao yêu mến Chúa cũng đòi phải yêu mến tha nhân? Bởi tha nhân là hình ảnh của Chúa, con cái Thiên Chúa và anh em với nhau. Thánh Gioan nói rằng ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến anh em là kẻ dối gian. Sở dĩ chúng ta phải yêu mến tha nhân vì chúng ta đều là con một Cha trên trời, là anh em với nhau, và chính Chúa Giê-su đã từng đồng hóa mình với những mảnh đời bất hạnh để những ai giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa. Vì thế giới răn yêu người cũng là giới răn quan trọng mà Chúa đã để lại cho các môn đệ như một chúc thư phải thi hành: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau”.
Để được như thế, mỗi người tín hữu phải là một Kitô khác để có thể hiểu và cảm thông với tha nhân. Một Kitô khác có nghĩa rằng chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống thiếu vắng tình yêu trong lời nói và việc làm của chúng ta. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống thiếu sự quan tâm với những anh em nghèo đói, với những mảnh đời bất hạnh bên đường. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống trong bùn nhơ của tội lỗi, của sự thiếu trong sạch, thiếu công bình và bác ái với tha nhân. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta hà khắc, kết án anh em một cách đoạn tuyệt và thiếu lòng bao dung. Chúng ta hãy nên giống Chúa Kitô khi chúng ta hiện diện với ai, là chúng ta đem đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Chúng ta hãy nên giống Chúa Kitô để chúng ta có thể gieo vãi yêu thương, hạnh phúc vào cho nhân thế qua việc phục vụ và dấn thân quảng đại của chúng ta. Chúng ta hãy nên đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô để có thể tha cho kẻ làm hại chúng ta, để có thể quên đi lỗi lầm của anh em và dám hy sinh quên mình mà vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Chẳng hạn, Thánh nữ Têrêxa Calcutta là Nhà Truyền Giáo của Tình Thương Bác Ái, đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời, để phục vụ những anh chị em nghèo cùng nhất, với sức mạnh múc lấy từ tình thương đối với Chúa Kitô. Sứ mạng của Mẹ Têrêsa bắt đầu mỗi ngày, trước lúc rạng đông, trước Bí Tích Thánh Thể. Trong thinh lặng của sự chiêm ngắm, Mẹ đã lắng nghe vang dội lời nói của Chúa Giêsu trên thập giá: Ta khát. Lời Kêu Vang nầy, được đón nhận trong cõi thâm sâu của tâm hồn, đã thôi thúc Mẹ tiến đi trên các đường phố Calcutta và khắp nơi trên thế giới, để đi tìm Chúa Giêsu trong người nghèo, người khuyệt bệnh bệnh hoạn, người bị bỏ rơi, người hấp hối sắp chết.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay trong tháng Các đẳng linh hồn này, xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu người một cách chân tình và thật lòng. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa một cách trân quý nhật và khi chúng ta trao ban bình an cho nhau một cách chân tình nhất. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống việc sống thánh thiện và thương yêu hết mọi người khi còn sống hay đã qua đời bằng hành động cụ thể hằng ngày của chúng ta. Amen.
Tin mừng Mc 12:28-34: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm Biệt Phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một cú đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Chữ “Lề Luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu Ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật vì trong Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật phải làm.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Người, vì nếu Người trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel nào cũng đều phải biết và ghi nhớ.
Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ Nhị Luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Chỉ có một điều đặc biệt ở chỗ là Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau. Có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác.
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, bề ngoài như có vẻ là hai giới răn, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là «yêu», đối tượng của động từ «yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy «tuy hai mà một», tương tự như hai mặt của một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Chính vì thế, thánh Gioan mới nói: «Nếu ai nói: “tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình» (4,21)
Vậy chúng ta đã thực hiện giới răn “mến Chúa” và nhất là “yêu người” như thế nào?
Có câu chuyện kể rằng: Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một hòn đá vào cánh cửa chiếc xe.
Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó - chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
“Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?”.
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe...
Cậu bé lắp bắp sợ hãi: “Em xin lỗi! Nhưng em... em... không biết làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại...Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng”.
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên kia đường.
“Có một người... anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã theo. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá”. Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ: “Anh có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không? Anh ấy ngã bị chảy máu, chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà.
Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình. Sự giận dữ trong anh biến mất. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc nhở anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé. Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có một ai đó ném một hòn đá vào xe mới làm anh dừng lại. Amen.
Bài Tin mừng hôm nay, Thánh Máccô trình thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Luật sĩ về giới răn quan trọng nhất. Chúa Giêsu đã minh nhiên xác nhận tình yêu là căn bản trong cuộc sống tôn giáo. Là người Kitô hữu, từ lời nói đến hành động, cả đến việc phụng sự cũng thảy đều toát ra từ lòng yêu mến. Tuy nhiên vẫn còn có những người luôn toát ra và thể hiện vẻ lạnh nhạt với tha nhân. Cuộc sống của họ luôn tôn thờ cái tôi và cứ để ai chết mặc ai. Lòng dạ họ luôn cuốc, cào vào cho mình, không hề cảm thông đến người khác. Chúng ta gọi đó là phường giả hiệu.
Qua cuộc đối thoại giữa Chúa và người Luật sĩ cho chúng ta thấy được những gì?
1.- Nhìn vào Chúa Giê su:
a/ Xem việc Người làm:
Nét rõ nhất ở Chúa là cho chúng ta thấy được việc Chúa cảm hóa được người Luật sĩ, với thái độ khôn ngoan và dịu hiền của một vị hướng dẫn đường lành. Ngài tiếp cận với đủ loại, đủ hạng người, từ tội lỗi đến khô khan. Cả những kẻ được mệnh danh là “mất lửa mến”, gần như đã lìa bỏ cả Chúa. Ngài cũng đã đưa họ đổi hướng, quay về đường ngay nẻo chính. Họ thật sự thăng tiến.
Xem việc Ngưới làm, chúng ta cùng mau mắn chạy đến với Chúa trong những giờ cầu nguyện và lắng nghe giáo huấn của Giáo hội. Để hầu sau khi kín múc và đón nhận, chúng ta tiếp tục phát sáng để cảm hóa tha nhân, dù họ là ai, thân hay thù địch, ưa hoặc chẳng thích.
b/ Xem Lời Chúa nói:
- Chúa Giê su khích lệ vị Luật sĩ khi nhận thấy ông có những ý kiến khôn ngoan. Qua sự việc này, chúng ta thấy được Chúa tăng ơn, giúp sức khi ta biết sử dụng ơn Chúa.
- Chúa nói; “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí và hết sức ngươi”. Chúa muốn tình yêu chúng ta dành cho Chúa với toàn diện con người, nghĩa là dùng toàn cuộc sống mình để qui hướng về Chúa, phụng sự Người 2.- Nhìn vào người Luật Sĩ:
a/ Ông đã cảm phục giáo huấn của Chúa, ông đã học hỏi ở Chúa qua những điều mình thắc mắc. Chúng ta cũng còn có nhiều thắc mắc và uẩn khúc trong cuộc sống đời thường và cả tâm linh. Hãy chạy đến với Chúa để gặp gỡ Ngài và bầy tỏ nỗi lòng cho thỏa lòng mong ước qua những giờ phút cầu nguyện, suy niệm, nghe sự hướng dẫn của giáo hội là những đại diện hữu hình của Chúa để được hướng dẫn và giải đáp cho chúng ta.
b/ Với thiện chí đón nhận giáo huấn nơi Chúa của người Luật sĩ. Chúa đã khen ông rằng không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúng ta đang được diễm phúc đón nhận Chúa trong đức tin của Phép rửa. Hãy sống và thực hành theo điều mình tin là đón nhận được Nước Trời.
c/ Đặt mình vào vai trò người Luật sĩ, chúng ta sẽ được ơn soi sáng để nhận biết tình yêu là sức mạnh của tâm hồn. Nếu thực hành tình yêu Chúa qua việc yêu mến tha nhân, những hiện thân của Chúa cách thật tình với tinh thần nhân hậu, không ghen tương, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không nóng giận, nhưng hết lòng tha thứ, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy và hết lòng kiên nhẫn.
Vì thế, Tin mừng hôm nay là cơ hội tốt để cho mỗi người xét mình xem đã sống giới răn yêu thương đang ở mức độ nào? Những ai đang thờ ơ, tăng tốc để hoàn thiện lại. Những ai đang yêu mến, càng nồng thắm mến yêu hơn nữa để chiếm trọn vẹn được Chúa. Những ai cảm thấy hầu như mất thật sự, đang để tình cảm, của cải, uy quyền chiếm hữu khiến lòng không còn chút gì cảm nghĩ đến tha nhân, cũng vẫn còn kịp, bắt đầu từ bây giờ quay trở lại để hầu lái cuộc sống và linh hồn vào đoạn kết của Thập Giới: “ Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như vậy. Amen.
Câu chuyện minh họa:
Một vị vua không có con để nối dõi ngai vàng, ông đã cho truyền rao khắp nước để mời người đàn ông nào ưu tú đến để tuyển trạch xứng đáng cho lên ngôi thay nhà vua. Nhưng tiêu chuẩn của nhà vua đưa ra là người ấy thật sự phải có lòng “ mến Chúa và yêu người”.
Một thanh niên thấy mình có đều kiện nhưng lại quá nghèo khổ, đến độ ngay cả quần áo mặc đi đường còn rách rưới va con kiếm ra riền mua lương thực trong hành trình để đi lên hoàng cung hầu được tham dự cuộc thi. Anh trước hết ngửa mặt lên trời cầu nguyện cùng Chúa. Kế đến anh đi ăn xin quần áo và tiền bạc để chuẩn bị cho cuộc hành trình.
Trong hành trình tiến đến cung điện, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh:
- Tôi đói lạnh quá! Xin cậu thương tơi.
Anh nhìn ông lão lòng vô cuvng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, và trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Thế rồi anh lững thững đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua. Anh cúi đầu su cho ngi. Khi ngước mặt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên:
- Thế ra bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy? - Đúng vậy. Nhà vua đáp.
Anh ta ngạc nhin hỏi:
- Sao bệ hạ làm thế?
- Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng “mến Chúa và yêu người” không.
Câu chuyện trên minh họa Lời Cha trong Tin mừng hôm nay, khi một kinh sư đến hỏi Người điều răn nào đứng đầu. Ngưới đáp: “ Điều răn đứng đầu là ngươi phải yêu mến Đức Cha hết lòng và hết trí khôn ngươi. Điều răn thứ hai: ngươi phải yêu người như chính mình, chẳng có giới răn nào khác hơn 1 các giới răn đó. (Mc 12,29-31).
Xin Cha ban cho mỗi người chúng con chứng minh tỏ tường và răn nhất vế thứ hai để chứng minh tình yêu thể hiện trong vế thứ nhất là yêu mến Cha.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dồn đổ tình yêu v việc lm của Mẹ trong việc Mẹ thăm viếng, tận tình gip đỡ người chị họ của Mẹ l bà Elisabeth trong lúc cần sự trợ giúp nhất. Ước chi mỗi người chng con sẽ nhận Mẹ l bản sao sống động đức i trong hành trình trần thế của chúng con.
Trước khi đọc lời nguyện trên lễ vật linh mục thường mời gọi:
Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận.
Anh chị em trong nghĩa này bao gồm tất cả mọi người hiện diện trong thánh đường lúc đó. Trong KinhThánh Đức Kitô dùng chữ anh chị em với nghĩa rộng hơn bội phần. Anh chị em hiểu là tất cả mọi người, bao gồm người chúng ta biết, người ta không biết và ngay cả người không bao giờ có cơ hội gặp. Tất cả đều là anh chị em, không trừ một ai. Nghe thì có vể hơi khác thường làm sao người không quen, không biết có thể là anh chị em của nhau. Thực tế là tất cả mọi người đều là anh chị em của nhau vì cùng là con cái Thiên Chúa, được Ngài tạo dựng nên và do chính Ngài cứu chuộc.
Vì là anh chị em nên Đức Kitô dậy chúng ta phải yêu mến Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn và yêu thương người khác như chính mình. Những ai yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương tha nhân thì chỉ yêu Chúa trên lí thuyết mà thiếu thực hành. Những ai yêu vật thụ tạo mà không yêu mến Thiên Chúa chính là thờ phượng ngẫu thần bởi người đó yêu loài thụ tạo do Chúa tạo thành mà lại không thờ phượng chính Đấng tạo thành loài thụ tạo. Vì thế thờ phượng loài thụ tạo là tự nguyện làm nô lệ cho loài thụ tạo, dù đó là sắc đẹp hay tài trí hay sự thông minh, tất cả đều là loài thụ tạo. Một khi thờ phượng nó chính là làm nô lệ cho nó. Bởi làm nô lệ cho nó nên không còn thời gian cho Đấng tạo thành nó và cho tha nhân. Đức Kitô dậy chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa vì Ngài là nguồn mọi sự yêu thương.
Tình yêu hoạt động hữu hiệu nhất khi tình yêu đó được cho đi đúng lúc, đúng hoàn cảnh, đúng nơi chốn. Còn gì hạnh phúc bằng khi bạn cần người lắng nghe người đó sẵn sàng giúp, bạn thấy hạnh phúc hơn. Bạn đang cô đơn nhận được cú điện thoại của người bạn tốt. Bạn đang buồn sầu, ảm đạm nhận được lời cổ võ chân thành. Bạn đang khát có người cho li nước. Bạn đang lạc đường có người chỉ lối, dẫn đường. Có lẽ bạn thắc mắc khi nào biết người đó cần để mà cho. Nghe có vẻ hợp lí nhưng đôi khi không thực tế vì hầu như khi bạn nghe người bạn cần giúp đỡ thì lúc đó sự việc đã qua mất rồi, hoặc có kẻ khác may mắn hơn. Vì thế không cần phải đợi đến khi biết tin mới cho. Tốt nhất cứ cho để tình bạn được nảy nở, phát triển. Không phải chỉ lúc u sầu mới cần tình bạn mà ngay cả khi vui cũng cần. Bạn có niềm vui cần người chia sẻ. Bạn có tiệc mừng cần người tham dự. Bạn có chuyên vui cần người lắng nghe. Bạn cầu kinh cần người xướng hoạ.
Mọi người đều là anh chị em trong Chúa và mọi người đều được mởi gọi cho đi những gì mình nhận từ Chúa. Kẻ thì cho tài năng, kẻ khác cho vật chất, kẻ khác cho thời gian. Tất cả những món quà đó đều quí, không có món nào cao trọng hơn món nào. Cho đi để thế giới hôm nay tốt đẹp hơn và ngày mai tươi sáng nhiều hy vọng hơn.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta sống với nhau như anh em, Ngài yêu mến chúng ta và sẵn sàng tha thứ lỗi lầm chúng ta. Chúng ta học từ Ngài, tha thứ cho nhau. Chúng ta được mời gọi sống thực hành đức tin, thể hiện bác ái qua tha nhân. Hãy tập cho đi, tập sống rộng lượng từ gia đình rồi từ đó lan ra sở làm và xã hội và cộng đoàn chúng ta đang sống.
Đừng nghĩ rằng cứ cho đi thì lấy gì mà cho, sẽ nghèo đi mất. Thực tế không phải vậy, càng cho càng giầu nhân ái. Càng tồn trữ, cất giữ càng nghèo tình lân ái. Nghèo tình lân ái sẽ sống cô đơn và thiếu hạnh phúc. Cho đi để hưởng hạnh phúc mà vật chất, tiền của, danh vọng không khi nào mua được hạnh phúc ấy.
Tin mừng Mc 12:28-34: Với và qua trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất...
Với và qua trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.
Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.
Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi...” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy... “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất... Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.
Chúa Giêsu đã không hề bối rối trước 613 khoản luật của các thầy Rabbi. Chỉ trong một khoảnh khắc, Ngài đã dạy rằng tất cả Lề Luật tóm tắt trong một điều luật lớn nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã không dừng lại ở đây, mặc dù câu hỏi là: “Điều luật nào trọng nhất?”. Thay vì chỉ có một câu trả lời, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm câu thứ hai: “Ngươi sẽ yêu mến tha nhân như chính mình”, luật này không phải Người trích từ sách Đệ nhị luật nhưng là từ sách Lêvi.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.
Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu, cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.
Việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến Thiên Chúa một cách nồng nàn được.
Kitô hữu chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.
Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của
Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v...
Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết... Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu... được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.
Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ.
Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân...
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa: Ai giúp đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Ta hãy sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh. Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót. Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt. Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa của chúng ta.
Đức Yêsu đã đến kếp nạp một dân tín hữu là dân mới của Thiên Chúa. Việc này đã được các bài Thánh Kinh trong Chúa nhật trước gợi lại. Hôm nay hình như Phụng vụ muốn tiếp nối tư tưởng lần trước và nói lên quy chế, hay luật pháp của dân mới. Đó là luật cũ được kiện toàn. Vì thế chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng bổ khuyết cho bài Thứ luật, luật yêu anh em được đính vào luật mến Chúa. Rồi cũng như trong dân cũ có hàng tư tế, thì vị Thượng tế của đạo mới sẽ vượt xa các Thượng tế xưa, để dân mới luôn luôn đẹp lòng Thiên Chúa.
Tất cả những tư tưởng này rất rõ ràng trong ba bài Kinh Thánh hôm nay mà chúng ta cầu xin ơn Chúa giúp để đọc lại.
1. Ngươi Sẽ Yêu Mến Yavê
Bài sách Thứ luật hôm nay ghi lại lời kinh hằng ngày của người Dothái. Họ đọc lên không phải để thưa với Thiên Chúa nhưng để nhắc nhở cho mình nhiệm vụ căn bản nhất của người dân trong Nước Người. Đó là lời của Môsê, vị lập quốc và lập luật. Lời vô cùng quan trọng vì sẽ đem phúc đến cho dân khi họ nắm giữ và sẽ làm cho dân nên lớn trong đất chảy sữa và mật. Tương lai và số mệnh của dân tùy ở việc thi hành những lời Môsê truyền hôm nay.
Ông dạy rằng: Hãy nghe, hỡi Israel, Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lập lại cho con cái ngươi.
Phân tách những lời này, người ta sẽ phải kính phục con người nào đã biết diễn tả như thế. Chắc chắn nội dung là của Môsê rồi, nhưng hình thức của các câu văn có thể phải là kết quả của nhiều thế hệ trung thành với truyền thống của Môsê. Quả vậy, chúng ta biết: sách Thứ luật đã không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó càng không phải là tác phẩm của thời Môsê. Nó lấy lại luật Môsê, suy đi nghĩ lại và cộng với kinh nghiệm lịch sử của Dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của cuốn sách này. Họ suy niệm Luật Chúa đêm ngày rồi viết ra để khuyên nhủ đồng đạo. Thế nên nó được gọi là Thứ luật, tức là Luật đến sau Luật trước; luật bổ khuyết và diễn giải Luật pháp Sinai. Nó được công bố vào những năm có nguy hiểm nhất cho dân. Nước nhà phân đôi, miền Bắc đã bị xâm lấn, miền Nam đang ngấp nghé vực sâu. Ông vua yêu nước đã chạy đến truyền thống của dân tộc, đưa sách Thứ luật ra, mưu lập một cuộc canh tân cứu nước... nhưng đã không kịp về mặt chính trị, mà chỉ phục hồi được truyền thống Môsê.
Đó là truyền thống độc thần, Israel chỉ được thờ một Chúa. Ngài là Yavê. Chính Ngài đã mạc khải danh xưng này cho Môsê trên núi Thánh. Có lẽ trong thời gian đầu Môsê tưởng Ngài chỉ là Chúa của Israel như những vị thần khác là Chúa của các lân bang và chỉ khác ở một điểm: trong khi các dân này thờ nhiều thần và vì thế gọi là đa thần; thì Israel chỉ thờ một mình Yavê và do đó được gọi là dân độc thần.
Sự khác biệt này nhiều khi thật khó giữ. Luôn luôn Israel bị cám dỗ thờ thêm thần khác, nhất là những thần của các sắc dân mạnh hơn, giàu hơn vì tưởng rằng chính các thần ban sự giàu sang sức mạnh cho dân của mình. Các tiên tri phải mạnh mẽ ngăn cản dân đi vào đường lối đó và nhắc đi nhắc lại dân phải trung thành với Yavê. Làm khác đi, thờ thêm thần khác, là "đánh đĩ" và ngoại tình.
Chúng ta không ngại nhắc đến những từ ngữ này. Chúng giúp chúng ta hiểu quan niệm tôn giáo của các tiên tri một cách sâu sắc. Người ta hay nói dân Israel chỉ có một lòng kính sợ Yavê, theo nghĩa họ khiếp sợ Ngài đến nỗi chẳng còn dám xưng danh của Ngài ra nữa. Họ dùng những kiểu nói vòng vo, gọi Ngài là Chúa, là Đấng Tối Cao... chứ không dám xưng Ngài là Yavê nữa. Thật ra đó chỉ là một diện. Còn nhiều diện khác trong vấn đề này, đặc biệt còn có quan niệm sâu sắc của các tiên tri. Các ngài luôn luôn đề cao lòng yêu mến. Hôsê chẳng hạn đã táo bạo coi tôn giáo là hôn nhân giữa Yavê và Israel; một bên như "chồng" với một bên như "vợ", và tư cách căn bản của lòng đạo đức là nghĩa tín trung. Những tiên tri khác cũng đi vào chiều hướng đó; và trong ngữ vựng của các ngài mới có những từ ngữ như trên để nói đến thái độ thất tín đối với Yavê. Chúng ta phải hiểu quan niệm của các tiên tri như thế mới ý thức được hết sức mạnh của lời sách Thứ luật hôm nay, truyền cho Israel: hãy yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi; nghĩa là phải yêu Ngài với tất cả khả năng và như quên hết mọi sự khác, giống như khi đôi bạn khắng khít yêu thương nhau, mặc cho cuộc đời bể dâu và nước chảy đá mòn.
Cho được đi đến một lòng yêu mến như vậy, Israel đã được dần dần dạy cho biết: Yavê không phải chỉ là Chúa của dân, hoặc chỉ là Chúa trên các Chúa, nhưng Ngài còn là Chúa độc nhất và duy nhất trong tất cả hoàn vũ. Các thần của các lân quốc, chỉ là ngẫu tượng và Yavê phải thống trị địa cầu. Tôn giáo độc thần của Israel sẽ là tôn giáo độc thần của mọi dân nước. Thế nên câu sách Thứ luật hôm nay nói: Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Yavê độc nhất, câu ấy có một ý nghĩa sâu sắc trong lòng các tiên tri, Yavê không phải chỉ là Chúa duy nhất của Israel, mà còn phải là Chúa độc nhất của mọi dân tộc. Và những điều này Israel phải ghi nơi lòng và lặp lại nơi con cái. Chính nhờ sự ghi nhớ và lập lại này mà có truyền thống Môsê, truyền thống độc thần, truyền thống sách Thứ luật chúng ta đọc hôm nay.
Chúng ta cảm mến Thiên Chúa đã mạc khải chân lý độc thần này sớm sủa như vậy và nơi một dân nhỏ bé như thế. Nhiều lý luận loài người còn vấp phải sự kiện lịch sử này. Và chúng ta còn phải kiểm điểm về lòng tin của mình, xem mình có thờ ngẫu tượng naò ở bên cạnh Thiên Chúa hay không (như tiền, tình, quyền...)? Và biết đâu đã không có lúc chúng ta nao núng về niềm tin nơi Thiên Chúa chúng ta thờ? Như vậy chúng ta chưa "gần Nước Thiên Chúa" như người ký lục trong bài Tin Mừng hôm nay đâu.
2. Người Phải Yêu Mến Đồng Loại
Thánh Marcô thuật câu chuyện này xảy ra trong khoảng thời gian giữa ngày Đức Yêsu khải hoàn vào Yêrusalem và hôm Người bị nộp. Đó là thời gian địch thủ tìm cơ hội bắt Người. Họ thay lượt nhau đến gài bẫy, hết các Thượng tế đến các Biệt phái, rồi phe cánh Hêrôđê và những người thuộc bè Sađóc. Hôm nay một ký lục đến hỏi Chúa Yêsu: "Giới răn thứ nhất trên hết là giới răn nào?". Ông không hỏi giới răn nào "trọng nhất", để chúng ta nghĩ đó là điều ông thắc mắc thật sự. Là vì ở thời đó luật Dothái có tới 613 khoản, và phân làm những khoản nặng và nhẹ, trọng và tùy; và sự sắp xếp nhiều khi có thể rõ ràng và dứt khoát. Ở đây, dường như người ký lục không muốn đi vào vấn đề chi tiết tỉ mỉ, ông chỉ muốn đánh giá quan điểm của Đức Yêsu, xem Người có "chính thống", tức là có ở trong và tôn trọng truyền thống của đạo Môsê hay không? Và đó là điều mà các địch thủ với Người muốn biết.
Nhưng họ chỉ phải bẽ bàng; vì Đức Yêsu đã có lần tuyên bố: Người không đến để hủy bỏ Luật pháp dù chỉ là một cái chấm hay một cái phẩy, nhưng là để kiện toàn và hoàn tất. Thế nên không có câu trả lời nào chính thống hơn câu của Người hôm nay: "Giới răn thứ nhất là: hãy nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Phải yêu mến Người hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi". Người đã đọc lại kinh Thứ luật. Người có thể dừng lại ở đó. Và người ký lục kia nhất định phải thỏa mãn với câu trả lời.
Nhưng Đức Yêsu đã không dừng lại. Người không phải như một người học trò thuộc bài và chưa phải là người bị hạch hỏi. Người muốn đóng vai Thầy dạy muôn dân. Thế nên, Người đã thêm: Thứ đến là ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Người cũng chỉ nhắc lại một câu trong sách Lêvi. Không ai có thể bảo Người không chính thống. Nhưng Người đã nhắc lại cho người ta một điều rất quan trọng mà thường khi họ sống đạo mà vẫn quên. Họ tưởng đạo chỉ là nhà thờ, kinh kệ và dâng lễ. Không, đạo còn là yêu mến đồng loại như chính mình tức là yêu người khác như bản thân. Điều này, trong thực tế, nhiều người giữ đạo "rất chính thống" mà vẫn quên và có ý quên vì nó khó giữ. Đức Yêsu không đến để nguyên dạy người ta yêu mến Thiên Chúa. Người còn luôn bảo họ phải thi hành ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ trần gian. Hơn nữa Người còn nói rõ không có giới răn nào khác lớn hơn hai việc mến Chúa yêu người này.
Người ký lục tỏ ra rất thông minh, chấp nhận ngay câu trả lời và bài học của Đức Yêsu. Ông còn phụ họa thêm và nói rằng mến Chúa yêu người như vậy "ắt vượt quá các toàn thiêu và lễ tế thay thảy". Đức Yêsu không thể không mừng khi gặp kẻ hiểu ý Người như vậy. Người tuyên bố: "Ông không xa Nước Thiên Chúa đâu!"
Lời khen này có thể trở thành một câu chất vấn lương tâm chúng ta. Chúng ta có thường coi các hành vi yêu người như toàn thiêu và lễ tế không? Chúng ta vẫn phải thi hành các nhiệm vụ mến Chúa, vì đó là lẽ sống của chúng ta như lời sách Thứ luật hôm nay nói: Đó là giới răn thứ nhất, nhưng thứ đến còn phải yêu mến đồng loại như chính mình, điều mà Đức Yêsu đã đính vào điều răn mến Chúa để làm nên như giới răn của Người. Chúng ta có thi hành không để chứng tỏ mình đang ở trong đạo mới? Để thâm tín thêm, chúng ta hãy đọc tiếp bài thư Hipri.
3. Người Là Vị Thượng Tế Thích Hợp
Tác giả so sánh các Thượng tế đạo cũ với vị Thượng tế đạo mới. Họ thì bị sự chết ngăn cấm lưu tồn mãi mãi; còn Ngài thì tồn tại đời đời nên giữ một tế vụ bất hủ. Đó là sự khác biệt quan trọng. Càng quan trọng hơn nếu ta tìm hiểu sâu về ý nghĩa sự chết theo Thánh Kinh.
Đối với các tác giả thánh, chết không phải chỉ là một hiện tượng thể lý, giết sức sống trong cơ thể, nhưng còn là hậu quả và hình phạt do tội lỗi. Sự chết không những hủy diệt thân xác, nhưng nhất là còn nói lên sự mâu thuẫn cùng cực với Thiên Chúa là sự sống. Chết và sống khác nhau hơn lửa với nước, nên ai đụng vào tử thi tức khắc đã trở nên ô uế, không được đến gần bàn thờ khi chưa chịu thanh tẩy. Chính điểm nay ngăn cấm các Thượng tế đạo cũ còn lưu tồn mãi mãi. Họ không tiếp tục làm tư tế được không những vì sự chết thể lý, nhưng nhất là vì đã trở thành tử thi, họ xa hẳn Thiên Chúa. Còn Đức Kitô thì ngược lại. Chính sự chết đã đưa Người vượt qua về với Thiên Chúa và trở thành vị Thượng tế đời đời, sống luôn mãi để chuyển cầu cho nhân loại.
Tư tưởng trên đây dẫn sang một kết luận khác: tế vụ của các Thượng tế đạo cũ khi họ còn sống cũng không hoàn toàn. Vì muốn hoàn toàn, vị Thượng tế phải có khả năng ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng sinh, tức là phải vô tội. Thế mà có ai trong loài người được điều kiện này? Ngược lại Đức Yêsu là Đấng vô tội và vô tì, Người cao siêu vượt các tầng trời, nên Người ở gần Thiên Chúa và có khả năng chuyển cầu cho chúng ta...
Có lẽ đối với chúng ta không cần phải nói thêm về sự khác biệt giữa các Thượng tế đạo cũ và vị Thượng tế đạo mới. Nhưng điều quan trọng hơn cho chúng ta là hãy ghi nhớ bản chất của tế vụ mà Đức Kitô đang thi hành. Người đang ở nơi Thiên Chúa và đứng gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng ta. Người đang nối trời với đất, Thiên Chúa với loài người. Lễ tế của Người vừa để tôn thờ Thiên Chúa vừa để cứu độ chúng ta. Chúng ta giữ đạo của Người, chúng ta vẫn đến nhà thờ dâng lễ và cầu nguyện trong chức tư tế của Người. Lẽ nào chúng ta không nhận ra rằng: một người đạo đức thật như có hai vai phải mang hai nhiệm vụ: mến Chúa và yêu người; phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân?
Vậy nếu chúng ta đã sốt sắng ở nhà thờ đối với Chúa, thì chúng ta hãy nhiệt tình với tha nhân ngoài xã hội. Khẩu hiệu kính Chúa và yêu nước, tốt đời và đẹp đạo có thể được sáng thêm trong phụng vụ hôm nay. Chúng ta hãy tận tâm thi hành trong niềm tin.
Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận.
Anh chị em trong nghĩa này bao gồm tất cả mọi người hiện diện trong thánh đường lúc đó. Trong KinhThánh Đức Kitô dùng chữ anh chị em với nghĩa rộng hơn bội phần. Anh chị em hiểu là tất cả mọi người, bao gồm người chúng ta biết, người ta không biết và ngay cả người không bao giờ có cơ hội gặp. Tất cả đều là anh chị em, không trừ một ai. Nghe thì có vể hơi khác thường làm sao người không quen, không biết có thể là anh chị em của nhau. Thực tế là tất cả mọi người đều là anh chị em của nhau vì cùng là con cái Thiên Chúa, được Ngài tạo dựng nên và do chính Ngài cứu chuộc.
Vì là anh chị em nên Đức Kitô dậy chúng ta phải yêu mến Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn và yêu thương người khác như chính mình. Những ai yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương tha nhân thì chỉ yêu Chúa trên lí thuyết mà thiếu thực hành. Những ai yêu vật thụ tạo mà không yêu mến Thiên Chúa chính là thờ phượng ngẫu thần bởi người đó yêu loài thụ tạo do Chúa tạo thành mà lại không thờ phượng chính Đấng tạo thành loài thụ tạo. Vì thế thờ phượng loài thụ tạo là tự nguyện làm nô lệ cho loài thụ tạo, dù đó là sắc đẹp hay tài trí hay sự thông minh, tất cả đều là loài thụ tạo. Một khi thờ phượng nó chính là làm nô lệ cho nó. Bởi làm nô lệ cho nó nên không còn thời gian cho Đấng tạo thành nó và cho tha nhân. Đức Kitô dậy chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa vì Ngài là nguồn mọi sự yêu thương.
Tình yêu hoạt động hữu hiệu nhất khi tình yêu đó được cho đi đúng lúc, đúng hoàn cảnh, đúng nơi chốn. Còn gì hạnh phúc bằng khi bạn cần người lắng nghe người đó sẵn sàng giúp, bạn thấy hạnh phúc hơn. Bạn đang cô đơn nhận được cú điện thoại của người bạn tốt. Bạn đang buồn sầu, ảm đạm nhận được lời cổ võ chân thành. Bạn đang khát có người cho li nước. Bạn đang lạc đường có người chỉ lối, dẫn đường. Có lẽ bạn thắc mắc khi nào biết người đó cần để mà cho. Nghe có vẻ hợp lí nhưng đôi khi không thực tế vì hầu như khi bạn nghe người bạn cần giúp đỡ thì lúc đó sự việc đã qua mất rồi, hoặc có kẻ khác may mắn hơn. Vì thế không cần phải đợi đến khi biết tin mới cho. Tốt nhất cứ cho để tình bạn được nảy nở, phát triển. Không phải chỉ lúc u sầu mới cần tình bạn mà ngay cả khi vui cũng cần. Bạn có niềm vui cần người chia sẻ. Bạn có tiệc mừng cần người tham dự. Bạn có chuyên vui cần người lắng nghe. Bạn cầu kinh cần người xướng hoạ.
Mọi người đều là anh chị em trong Chúa và mọi người đều được mởi gọi cho đi những gì mình nhận từ Chúa. Kẻ thì cho tài năng, kẻ khác cho vật chất, kẻ khác cho thời gian. Tất cả những món quà đó đều quí, không có món nào cao trọng hơn món nào. Cho đi để thế giới hôm nay tốt đẹp hơn và ngày mai tươi sáng nhiều hy vọng hơn.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta sống với nhau như anh em, Ngài yêu mến chúng ta và sẵn sàng tha thứ lỗi lầm chúng ta. Chúng ta học từ Ngài, tha thứ cho nhau. Chúng ta được mời gọi sống thực hành đức tin, thể hiện bác ái qua tha nhân. Hãy tập cho đi, tập sống rộng lượng từ gia đình rồi từ đó lan ra sở làm và xã hội và cộng đoàn chúng ta đang sống.
Đừng nghĩ rằng cứ cho đi thì lấy gì mà cho, sẽ nghèo đi mất. Thực tế không phải vậy, càng cho càng giầu nhân ái. Càng tồn trữ, cất giữ càng nghèo tình lân ái. Nghèo tình lân ái sẽ sống cô đơn và thiếu hạnh phúc. Cho đi để hưởng hạnh phúc mà vật chất, tiền của, danh vọng không khi nào mua được hạnh phúc ấy.
“NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN ĐỨC CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI”
Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng TN 31-B133
ROME - Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng vụ ngày Chúa Nhật 31 thường niên B như sau:
Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào đứng đầu và Chúa Giêsu trả lới, trưng những lời trong luật: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Nhưng Chúa Giêsu liền nói thêm có điều răn thứ hai giống như điều răn đó, là phải “yêu người thân cận như chính mình.”
Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa câu hỏi của vị kinh sư và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần ghi nhớ điều sau đây. Trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu có hai khuynh hướng đối nghịch.
Một đàng có một khuynh hướng nhân số mãi những điều răn và những lời giáo huấn của luật, tạo ra những qui tắc và những bắt buộc cho mọi chi tiết nhó nhất của sự sống. Đàng khác có sự ước muốn tím gặp dưới đống lộn xộn ngạt thở những qui tắc, những điều thật sự có giá trị cho Thiên Chúa, tinh thần của tất cả các điều răn.
Câu hỏi của kinh sự và câu trả lời của Chúa Giêsu được đặt gần những điều thiết yếu của luật, trong sư ước muốn không để mất trong hàng ngàn những giáo huấn tùy thuộc khác. Chính bài học này về phương pháp mà hơn hết chúng ta phải học từ bài tin mừng này. Có những sự trong đời sống là quan trọng nhưng không khẩn cấp (có nghĩa là không gì sẽ xảy ra nếu chúng ta để chúng qua một bên); và ngược lại, có những sự khẩn cấp mà không quan trọng. Nguy hiểm là chúng ta muốn hy sinh cách có hệ thống những điều quan trọng để theo đuổi những điều khẩn cấp nhưng thường là thứ yếu.
Làm sao chúng ta tránh được nguy hiểm này? Một câu truyện sẽ giúp chúng ta hiểu cách nào. Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.
Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện: “ cái bình xem ra đầy đối với các anh phải không?” và họ trả lời “Phải!” Ong chờ một lúc và sau đó hỏi: “Các anh chắc không?”
Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: “ Lần này cái bình có đầy không?”
Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: “Có lẽ chưa.” Rất tốt!” vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Càt nhét đầy những không gian giữa những viên đá và những viên sạn.
Rồi ông hỏi lại: “Bây giờ cái bình đầy không?” Và tất cả mọi người trả lời không do dự: “Không!” “Chắc chắn là thế,” vị giáo sư già nói và, như họ trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.
Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: “ “Thí nghiệm này dạy chúng ta chân lý lớn nào?” Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường lối hành động--sự quản lý thời gian-- trả lời: “ Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm.”
“Không,” giáo sư trả lời, “Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau.”
Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.
Giáo sự nói tiếp: “Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên, trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn thành điều gì gần tâm hồn các anh?
“Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.
“Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh: 'Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?' hãy đặt những sự này trên đầu chương trình nghị sự của các anh.”
Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính giả của mình và rời phòng.
Với 'những viên đá lớn” do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình, các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.
Thật vậy, yêu mến Thiên Chúa, còn hơn một giới răn, là một ưu tiên, một sự nhượng bộ. Nếu một ngày chúng ta gặp Người, chúng ta sẽ không thôi tạ ơn Chúa đã truyền chúng ta phải yêu mến Người và chúng ta sẽ không muốn làm gì khác hơn là bối đấp tình yêu này.
(Suy niệm của Lm. Stephen Rocker - JB. Đào Ngọc Điệp, chuyển ngữ)
Thế giới chúng ta bị bao phủ dầy đặc những luật lệ, nhưng quả thật không phải tất cả mọi giới TN 31-B134
Thế giới chúng ta bị bao phủ dầy đặc những luật lệ, nhưng quả thật không phải tất cả mọi giới luật đều có tầm quan trọng như nhau. Đó là trường hợp của dân Do Thái vào thời Chúa Giêsu liên quan đến 613 điều luật trong Lề Luật Môi-sê. Cho nên đương nhiên nó trở thành một đề tài tranh luận giữa các giáo sĩ Do Thái về luật nào trong số những điều luật này là quan trọng nhất. Có điều lạ là khi được hỏi điều nào trong các giới răn là trọng đại nhất, thì Chúa Giêsu lại trả lời rằng có hai giới răn. Như thế xem ra Chúa Giêsu muốn dạy rằng hai giới răn này liên hệ mật thiết với nhau và không thể tách rời, vì vậy được coi như là một.
Cựu Ước nói về một Thiên Chúa ghen tương, giống như sự ghen tuông của người chồng hoặc người vợ đòi hỏi người phối ngẫu phải hết lòng chung thủy – tức là đòi người phối ngẫu phải yêu thương mình bằng tất cả trái tim, linh hồn, trí khôn và sức lực. Dùng cách diễn đạt ngắn gọn của tiếng Latinh, thánh Augustinô đã có câu nói nổi tiếng về tình yêu: amor meus, pondus meus "tình yêu của tôi là gánh nặng cho tôi." Hãy nghĩ về những người mà bạn thân thiết. Bạn không cần phải ở bên cạnh người ấy lâu mới biết được điều gì quan trọng đối với họ - Điều quan trọng chính là điều thu hút họ. Đó là những điều họ thường nghĩ và nói tới, dành thời gian, năng lực và tiền bạc cho chúng.
Chính Thánh Augustinô là người đã nhận diện chính xác những đam mê vô trật tự của chúng ta và chỉ cho chúng ta biết sắp đặt tình yêu của mình một cách đúng đắn. Người ta phải tìm kiếm những cái tốt không trọn vẹn hoặc chóng qua khi chúng có thể dẫn đến cái tốt hoàn hảo và vững bền. Ở đây chúng ta thấy tình yêu thương tha nhân có ý nghĩa như thế nào. Tình yêu có nghĩa là tìm kiếm điều tốt đẹp của người mình yêu. Do đó, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải loại bỏ lòng ác độc, gian dối, tham lam, đố kỵ và ham muốn, vì tất cả các điều ấy trái với phẩm giá của tha nhân và của chính tôi.
Hơn nữa, ngay cả những điều tốt đẹp về mặt luân lý cũng có thể bị đặt sai chỗ. Chúng ta đang sống trong thời đại Thiên Chúa và những điều thuộc về Người không còn được quan tâm đến nữa. Chúng ta bận rộn với gia đình và bạn bè, nghệ thuật, thể thao, sở thích và thăng tiến công ăn việc làm. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả những điều tốt đẹp đó không được tìm kiếm và tận hưởng trong mối tương quan với điều là cùng đích? Vậy, nếu mến Chúa và yêu tha nhân chỉ là một điều răn, thì chúng ta có thể chỉ yêu tha nhân mà không yêu Thiên Chúa không? Liệu chúng ta có thể có đời sống văn minh mà không nhận ra sự chân thật và thiện hảo còn cao quý hơn chính bản thân mình là điều chúng ta hướng tới không? Liệu chúng ta có văn hóa mà không cần việc thờ phượng không?
Đức Kitô đã đến làm ánh sáng cho thế giới. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tha nhân là chúng ta tuân giữ mười điều răn và giáo huấn luân lý của Hội Thánh. Làm như vậy, chúng ta chiếu tỏa ánh sáng Đức Kitô trong một thế giới luôn cần ánh sáng đó, ngay cả khi thế giới coi thường hoặc cản trở nó. Mến Chúa và yêu tha nhân là hai điều răn, nhưng về cơ bản chúng được kết hợp với nhau, vì chúng ta không thể thực hiện đầy đủ điều răn này mà không thực hiện điều răn kia.
Năm 1987 một trận động đất lớn xẩy ra ở Ar-mê-ni, nhiều căn nhà bị đổ sập, nhiều người bị chôn TN 31-B135
Năm 1987 một trận động đất lớn xẩy ra ở Ar-mê-ni, nhiều căn nhà bị đổ sập, nhiều người bị chôn vùi trong đống đổ nát. Mẹ con chị Su-san-na bị mắc kẹt giữa các bức tường. Bé gào khóc đòi uống nước! Chị biết nếu không có nước con chị sẽ chết! Tình mẫu tử mách bảo, chị sờ soạng trong bóng tối tìm được một mảnh kính vở, cắt vào ngón tay, bảo con mút, chị bị hôn mê! Mọi người đều coi việc cắt ngón tay lấy máu cho con uống là anh hùng, nhưng chị trả lời đơn giản: “Tôi chỉ muốn con tôi sống, nên tôi hành động như vậy!”.
Tôi chỉ muốn con tôi sống là mệnh lệnh đối với rất nhiều các bà mẹ trong lịch sử, là luật bất thành văn, mạnh mẽ phi thường giữa đời thường bình dị.
Tình yêu là cốt lõi của cuộc sống, cho phép con người chu toàn nghĩa vụ đối với Chúa và tha nhân.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cái cốt lõi, nền tảng chi phối mọi sinh hoạt theo luật trong đời sống cộng đoàn.
Bài đọc I, trích sách Đệ Nhị Luật, đề cao việc thực hành điều luật dạy, để được Chúa chúc lành và cho sống hạnh phúc lâu dài.
Vấn nạn đặt ra: phần thưởng cho một người hệ tại việc tuân giữ luật hay do Thiên Chúa yêu thương ban tặng?
Nếu nói, do sống đạo đức, công chính, thánh thiện tự nhiên, thì ơn Chúa ban sẽ giữ vai trò nào, còn nếu nói, do ơn Chúa ban nhưng không, thì việc tuân giữ luật Chúa là thừa thãi, vô ích!
Giữa nhiều học thuyết cực đoan, bất cập, mạc khải chọn giải pháp quân bình theo mô hình Ngôi Lời nhập thể, nghĩa là: sự công chính hóa do Thiên Chúa yêu thương ban tặng cách nhưng không, tuy nhiên, rất cần sự mở lòng của con người, được xem như điều kiện cần và đủ, để ơn Chúa hoạt động hữu hiệu: “Ta đứng ngoài cửa mà gõ, ai nghe tiếng Ta, mở cửa ra, Ta sẽ vào nhà người ấy, dùng bữa tối với nó, và nó sẽ dùng bữa tối với Ta” (Kh 3, 20).
Mô-sê, trong bài đọc I, dạy dân tìm kiếm hạnh phúc và sự sống trong Đức Chúa qua việc tuân giữ những mệnh lệnh và huấn dụ của Người. Ông không phải là hạng người vụ luật, nhưng nhấn mạnh tâm tình yêu mến đối với Đấng ban phát mọi ơn lành. Đoạn kết của bài sách thánh như bản tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa tình yêu và sự sống: “Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết sức anh em...” (Dnl 6, 4 – 5).
Đối với Mô-sê tuân giữ luật Chúa phát xuất từ trái tim, từ lòng yêu mến, chứ không phải là hình thức giữ những lề luật bề ngoài.
Tâm tình yêu mến làm kẻ tin nên công chính, vì đó là sự đáp trả bằng tình yêu đối với Đấng tạo hóa. Sự tuân giữ giới răn Chúa là đức hiếu thảo phát xuất từ lòng biết ơn nên đáng được Chúa chúc phúc và ban thưởng hạnh phúc lâu bền.
Lời sách Đệ Nhị Luật trích đọc hôm nay cho phép chúng ta hòa vào dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa để “ngộ” ra ý nghĩa của việc tuân giữ lệnh truyền. Tất cả là tình yêu và mọi hành vi đều phải do tình yêu chi phối mới đẹp lòng Chúa và sinh ích lợi cho kẻ có lòng yêu mến.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, trao cho vị kinh sư bản tóm kết tất cả lề luật và các ngôn sứ, hai giới răn: “Mến Chúa - yêu người” và Chúa kết luận: “Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12, 31).
Ông luật sỹ tỏ ra thông minh tiếp nhận lời dạy của Chúa. Ông tâm đắc lời Chúa Giê-su: Thầy dạy rất hay, rất đúng! Ông cũng rút ra bài học cho chính mình: mến Chúa hết lòng, hết sức lực, hết trí khôn và yêu tha nhân như chính mình, thì hơn mọi lễ vật hy sinh và mọi lễ vật toàn thiêu.
Như vậy, việc sống đạo đức, thánh thiện luôn tùy thuộc vào ơn Chúa và việc thực thi ý Chúa. Lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành đưa người môn đệ vào chiều sâu nội tâm, chứ không hời hợt hình thức bề ngoài, môi miệng, giả hình.
Vị kinh sư là học trò tốt, bởi đã trả lời đúng và nhất là, quyết tâm đem ra thực hành, nên Chúa khen ông khôn ngoan, cho phép ông gia nhập Nước Thiên Chúa.
Thật hạnh phúc cho ông và cho tất cả những ai nhiệt tâm sống giới luật yêu thương như Giê-su đã dạy, để luôn nắm giữ chìa khóa sự khôn ngoan, là điều kiện cần và đủ trở thành công dân Nước Trời.
Bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái, ca tụng Đức Kitô, vị tư tế độc nhất được Thiên Chúa tuyển chọn, phẩm hàm tư tế của Ngài viên mãn và tồn tại muôn đời, bởi vì Ngài thi hành chức vụ trong tình yêu lớn lao tuyệt đối dành cho Cha và cho thế gian.
Giê-su thông truyền ơn cứu rỗi và sự sống đời đời cho những ai nhờ Người mà đến cùng Thiên Chúa, nghĩa là sống tình yêu cách vô vị lợi như Người đã sống.
Đức Giê-su, nhờ vâng phục trong yêu thương, trở nên “Con yêu dấu của Cha” và Chúa Cha chứng tỏ tình yêu đối với “Con” qua việc đón nhận lễ hy sinh trên bàn thờ thập giá, rồi phục sinh Người từ trong cõi chết, nên hy tế của Ngài tồn tại đến muôn đời, nhờ đó Người chuyển cầu, thông ban ân huệ thần thiêng cho thế gian đến muôn đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta cũng hãy vui mừng, phấn khởi đón nhận giáo huấn “yêu thương” của Chúa Giê-su và nhất là đem ra thực hành bằng một cuộc sống đượm tình mến thương.
Hãy xin Chúa dạy chúng ta biết sống yêu thương như Giê-su, vốn hằng yêu thế gian đến cùng. Ngài sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì yêu mến Cha và vì hạnh phúc trần gian.
Thực hành sống yêu thương để chu toàn trọn vẹn lề luật Chúa ban, bắt đầu bằng sự dịu dàng, nhân ái, hiền lành, khiêm tốn trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta phải thâm tín mạnh mẽ rằng: khi chu toàn việc bổn phận trong yêu thương, sẽ được Thiên Chúa ban thưởng hơn những gì mà lòng người dám ước mơ: trở nên con yêu dấu của Cha trên trời, xứng đáng hưởng niềm vui và hạnh phúc Nước Trời.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta. Amen!
Hôm nay Chúa Nhật ngày 31/10, chúng ta sẽ chuẩn bị bước vào tháng 11 với hai Thánh Lễ rất TN 31-B136
Hôm nay Chúa Nhật ngày 31/10, chúng ta sẽ chuẩn bị bước vào tháng 11 với hai Thánh Lễ rất quan trọng đó là: Lễ Các Thánh Nam Nữ và Lễ Các Đẳng Linh Hồn. Tại sao Giáo hội lại muốn chúng ta cử hành và mừng lễ như vậy? Thưa vì, đây chính là lẽ sống, là mục đích và là hiện trạng sống của con người chúng ta trong trần thế này. Ai trong chúng ta cũng muốn sống tốt, muốn trở nên những con người thánh đức, con người sống đẹp lòng Chúa và đem lại ơn ích cho tha nhân. Thế nhưng, con người với tự bản chất mỏng giòn, yếu đuối, bất toàn, nhiều giới hạn và tội lỗi…những thứ chướng ngại này đã ít nhiều gây cản trở, lôi kéo, xúi giục và làm cho chúng ta không tiến đến được mục đích, lẽ sống và ơn gọi mà Chúa ban cho chúng ta. Thế nên, ba bài đọc Lời Chúa hôm nay như soi sáng và giúp cho chúng ta định hướng lại, đâu là những thái độ, cung cách cũng như hành động của chúng ta với Chúa và với ACE của mình để giúp chúng ta tiến tới sự sống trọn hảo.
Làm sao để có thể trở nên người tốt, người hoàn thiện và thánh đức như thánh ý Chúa; đây là điều mà vị tiến sĩ luật đang mong mỏi tìm kiếm và tin chắc rằng ai trong chúng ta cũng đang mong muốn có những lời khuyên, hướng dẫn, hay cách nào để giúp chúng ta có thể thực thi và đạt được. Chúng ta cứ thử hình dung, một người thành thạo, thông tường mọi lề luật, thế nhưng, đâu là căn tính của lề luật, đâu là phương thế để giúp cho mình trở nên con người hoàn thiện, thì ông ta lại không ý thức và không biết thực hành. Thế nên, hiểu biết lề luật với trí khôn và sự suy luận, cũng chẳng giúp ích được gì cho ông ta. Do đó, Tin mừng (Mc 12, 28b-34) chính Chúa Giêsu đã chỉ dạy cho tiến sĩ luật và cho tất cả chúng ta một phương cách hay bí quyết rất súc tích, đơn giản, mà kết quả thì tuyệt vời đó là: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi và hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”.
Thưa ACE, với phương cách và bí quyết “Mến Chúa, yêu người” này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rất hay, rất hợp tình hợp lý, ai cũng muốn thực thi, thế nhưng, để phải sống và thực thi với “Hết cả lòng trí, linh hồn và sức lực” là điều rất khó, đúng ra không tưởng với con người chúng ta. Với những khó khăn của cuộc sống dịch bệnh như hiện nay, có người sẽ tự biện hộ và thưa: “Lạy Chúa, con đang phải lo toan mọi thứ, phải suy nghĩ nát đầu-nát óc để tìm kế sinh nhai cho bản thân, gia đình và những người thân, con phải chịu đựng không biết bao khó khăn, vất vả, cực nhọc, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới mong kiếm được vài đồng tiền-bát gạo…như vậy, điều con đang sống và làm chưa đạt được như cách mà Chúa muốn và chỉ dạy hay sao?
Thưa ACE, chỉ khi tâm hồn được lắng đọng trong cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra rằng, nơi cung cách, thái độ và công việc chúng ta đang làm, Thiên Chúa và tha nhân, dường như chưa có một vị trí hay chỗ đứng ưu tiên nào cả. Chúng ta chỉ đang tự cho bản thân và cái tôi của mình là trung tâm và đang tìm kiếm tư lợi cho riêng mình. Thế nên, bài đọc một (Đnl 6, 2-6) như diễn giải và minh chứng cho chúng ta về kinh nghiệm và bí quyết mà Chúa Giêsu đã dạy: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người”. Vậy thì, “Sống kính sợ Thiên Chúa” thì cần phải sống như thế nào? Thưa đó là: mỗi khi chúng ta làm việc bổn phận, chúng ta cần ý thức rằng: Thiên Chúa đang ở bên tôi, Ngài đang yêu thương, chăm sóc tôi, Ngài đang nghe lời tôi nói và thấy việc tôi làm; tôi đang làm điều Chúa muốn, để tôn vinh danh Ngài và để đem lại ơn ích cho tha nhân. Chỉ khi nào chúng ta ý thức và xác tín vào ơn ban cũng như sự phù trợ của Chúa như vậy, chúng ta thật là người khôn ngoan và là người thực thi được bí quyết mà Chúa ban cho, vì Chúa sẽ là Đấng trung tâm điểm của đời sống chúng ta, chính Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên người được Chúa chúc phúc. Thật vậy, điều mà sách Đệ Nhị Luật dạy hôm nay, như là kim chỉ nam, là tinh hoa, là bí quyết khôn ngoan được lưu truyền và loan báo cho hết thế hệ này đến thế hệ khác.
Bài đọc hai trong thư gởi tín hữu Do Thái cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy tin nhận sự khôn ngoan qua những cung cách, thái độ tuân giữ và thực hành thánh ý của Thiên Chúa của những người được Chúa chúc phúc. Qua các Tổ phụ, đến các Tiên tri và thời sau hết, chính Đức Giêsu Kitô-là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho tất cả mọi lề luật được kiện toàn và được trở nên thiện hảo, tốt lành. Chúa Giêsu không những chỉ hướng dẫn hay dạy dỗ cho chúng ta, mà Ngài còn trở nên một gương mẫu vẹn toàn qua việc tự hạ, vâng phục thánh ý Chúa Cha để dấn thân hy sinh cho con người chúng ta là những kẻ yếu đuối, tội lỗi. Chính nhờ sự tự hiến qua cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh mà chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, chữa lành, sự bình an và ơn tái sinh, biến đổi.
Chính vì lẽ đó, nếu chúng ta muốn trở nên những con người thánh đức, hoàn thiện, tốt lành, thì không có con đường, cung cách hay phương thế nào khác ngoài con đường và sứ vụ mà Chúa Giêsu đã sống và nêu gương cho chúng ta. Thế nên, điều còn lại là tùy thuộc nơi chúng ta có muốn mở lòng để đến với Chúa, chúng ta có dám tín thác vào Chúa, có dám dấn thân để sống theo những gì mà Ngài đã dạy và đã nêu gương cho chúng ta. Thật là hạnh phúc và khôn ngoan cho những ai có lòng tin, lòng mến vào Chúa và ơn thánh .
Lạy Chúa, “Kính mến Chúa, yêu thương người” để có sự sống đời đời, để có niềm vui và hạnh phúc đích thực, không phải là những kiến thức hay sự suy luận, nhưng phải là cung cách, là thái độ và đời sống thực hành trong bác ái và yêu thương của mỗi người chúng con. Xin ban ơn giúp sức, để trong mọi nơi mọi lúc, chúng con luôn biết chọn Chúa để yêu mến và làm vinh danh Ngài, hầu sinh ơn ích cho tha nhân. Amen.
KHI ĐAU BUỒN VỀ NGƯỜI ĐÃ KHUẤT, CHÚNG TA CÓ THỂ NHỚ ĐẾN CÁCH HỌ ĐÃ TRUYỀN CẢM HỨNG CHO CUỘC SỐNG CỦA CHÚNG TA
Hạn từ “tam nhật” Vượt qua (triduum) thường được dùng vào cuối mùa Chay để chỉ khoảng thời TN 31-B137
Hạn từ “tam nhật” Vượt qua (triduum) thường được dùng vào cuối mùa Chay để chỉ khoảng thời gian ba ngày, bắt đầu vào chiều thứ Năm tuần Thánh đến cao điểm là Chúa nhật Phục Sinh. Ngoài ra, lịch Phụng vụ còn có một tam nhật khác (gọi là Tam nhật Các Thánh) bắt đầu từ ngày 31/10, mặc dù người ta ít khi gọi thời điểm này là tam nhật.
Lễ trọng Các Thánh Nam Nữ (All Saints) vào ngày 01/11 cùng với lễ vọng Các Thánh Nam Nữ (Halloween - All Hallows’ Eve: đêm 31/10) [1], và lễ Các Đẳng (02/11) tạo nên “tam nhật”. Vì nhiều lý do, lễ vọng Các Thánh (Halloween) gần như đã trở thành một lễ hội thế tục, nhưng mối liên hệ lịch sử của ngày này với lễ Các Thánh và lễ Các Đẳng vẫn có ý nghĩa. Tam nhật Các Thánh tưởng nhớ đến những người đã qua đời, bao gồm các vị thánh, các vị tử đạo và cuối cùng là tất cả những ai đã qua đời.
Bài Tin mừng hôm nay đặc biệt có nhiều bài học khi được đọc trong dịp cầu nguyện và tưởng nhớ những người đã khuất. Bài Tin mừng này diễn ra vào gần cuối sứ vụ của Đức Giêsu theo thánh Máccô, tức sau khi Ngài vào thành Giêrusalem và trước Bữa Tiệc Ly. Theo tường thuật của Tin mừng, cuộc tử nạn của Đức Giêsu gần đến và Ngài dành những ngày cuối cùng để giảng dạy những chủ đề như cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Trong một lần trò chuyện với các kinh sư, khi được hỏi điều răn nào trọng nhất, Đức Giêsu đã đưa ra câu trả lời gồm ba phần trích từ Đnl 6,4–5 và Lv 19,18. Từ sách Đệ Nhị Luật, Đức Giêsu đã trích dẫn kinh Shema Yisrael (Nghe đây, hỡi Israel). Đây là lời cầu nguyện của người Do Thái để bày tỏ đức tin của cộng đồng vào Thiên Chúa – một Thiên Chúa duy nhất. Sau đó, Đức Giêsu diễn tả sự cần thiết của việc yêu mến Thiên Chúa với trọn con người. Từ sách Lêvi, Đức Giêsu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc yêu thương người thân cận.
Ở những thời điểm khác nhau trong Tin mừng Mátthêu và Luca, Đức Giêsu cũng tuyên bố tầm quan trọng của những điều luật này. Trong Tin mừng Mátthêu, Đức Giêsu khẳng định: “Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,40). Trong Tin mừng Luca, Đức Giêsu kể dụ ngôn người Samari tốt lành và nhấn mạnh rằng: người thân cận là người thực thi lòng thương xót đối với người đang gặp khó khăn. Trong Tin mừng Máccô, cuộc đối thoại kết thúc với nhận định rằng: người tuân giữ những điều răn ấy sẽ không xa Nước Thiên Chúa, đây là một kết luận mang âm hưởng cánh chung.
Khi tưởng nhớ những người đã khuất, chúng ta có thể suy gẫm cách họ sống và hy sinh đã ảnh hưởng và truyền cảm hứng cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cũng có thể dùng thời gian này để lượng giá cách chúng ta đang sống. Bằng cách sống thờ phượng Thiên Chúa hết lòng và yêu mến tha nhân, cuối cùng chúng ta sẽ đến gần Nước Thiên Chúa hơn.
--------
Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ từ America Magazine (16/9/2021)
[1] Tại Anh quốc, các thánh (saints /holy people) còn được gọi bằng một hạn từ khác cũng có nghĩa là thánh “hallowed = holy”. Từ đó, có tên gọi Lễ Các Thánh (All Hallows’ Day). Thông thường, đêm trước ngày lễ cũng được gọi là Đêm vọng lễ Các Thánh (Hallows’s Eve [evening] hay ngắn gọn là Hallowe’en). Nhiều người cho rằng lễ hội Halloween bắt nguồn từ lễ hội mùa thu hoạch của người Ái Nhĩ Lan cổ và được Giáo hội biến đổi thành lễ nghi tôn giáo.
Năm 1484, Đức Thánh cha Sixtô IV thiết lập Lễ Các Thánh Nam Nữ (01/11) là ngày lễ nghỉ buộc, gồm có lễ vọng và tuần bát nhật để mừng lễ Các Thánh Nam Nữ. Lễ vọng này đã bị hủy bỏ vào năm 1955. Thay vì tổ chức lễ vọng tách rời với lễ Các Thánh Nam Nữ thì lễ trọng Các Thánh nam Nữ được phép cử hành từ chiều ngày 31/10.
Trong thời gian mục vụ của tôi, biết bao lần anh chị giáo dân đến hỏi han cũng như tâm sự: Cha TN 31-B138
Trong thời gian mục vụ của tôi, biết bao lần anh chị giáo dân đến hỏi han cũng như tâm sự: Cha ơi! Cho con hỏi: con vẫn đi lễ hằng ngày, siêng năng lần chuỗi Mân Côi, đọc kinh Lòng Chúa thương xót…, nhưng sao con chẳng thể yêu mến người con không ưa hoặc người không ưa con!!!??? Tương tự, không ít giáo dân cũng than thở, đặt câu hỏi cho tôi: Cha ơi! con đi làm từ thiện nhiều, con đi giúp đỡ người này người kia, nhưng sao con vẫn không thể nào yêu mến giáo xứ con, chưa cảm thấy thích thú đến với Chúa qua Thánh lễ, cầu nguyện và những hoạt động chung của giáo xứ!!!???
Đối với vấn đề trên, có thể tôi không đưa ra lời giải đáp thoả đáng nhất được, nhưng thiết nghĩ, qua các bài đọc hôm nay, đặc biệt bài Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy điều gì thiếu thốn, chưa đủ đầy trong đời sống đạo, đời sống đức tin của chúng ta!
Chắc chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng biết nội dung chính của các bài đọc hôm nay, đó là: giới răn yêu thương, cụ thể: Mến Chúa và yêu người. Từ nhỏ được học kinh bổn (giáo lý vỡ lòng), ai trong chúng ta đều thuộc nằm lòng câu tóm gọn sau khi đọc kinh Mười điều răn: ‘…Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà chớ, trước kính mến một Chúa trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen!’ Lời kinh thật vắn tắt, gãy gọn, dễ nhớ, giúp chúng ta thực hành mỗi ngày trong đời; thế nhưng, trên thực tế, chúng ta thường có khuynh hướng tách biệt hai điều răn này ra. Cho nên, nhiều người Công Giáo vẫn nghĩ: ‘yêu mến Chúa hết lòng qua việc đi tham dự Thánh lễ hằng ngày, siêng năng đọc kinh cầu nguyện là đủ rồi, không cần yêu thương anh chị em nữa. Vả lại, việc thương yêu tha nhân, làm việc bác ái chỉ là một lựa chọn, làm cũng được, mà không làm cũng chẳng sao!’. Chúng ta thường nghĩ: ‘giới răn yêu mến Chúa thì phải giữ, phải sống; còn giới răn yêu thương tha nhân chỉ là phụ, là thứ hạng, chẳng phải là đòi hỏi của Tin Mừng!’ Tương tự, chúng ta nại vào lí do: đạo tại tâm, nên không cần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, không cần tham gia các sinh hoạt chung của giáo xứ, cộng đoàn, không cần đọc kinh cầu nguyện nhiều, mà chỉ tập trung vào giúp đỡ người khác, đi làm từ thiện là đủ đầy cho đời sống đạo của chúng ta!
Chính vì chúng ta tách rời giới răn yêu thương mà Chúa dạy, chỉ chú trọng hoặc đánh giá cao một giới răn, mà bỏ qua hoặc lãng quên giới răn kia, nên mới dẫn đến những vấn đề, cũng như hiện tình đời sống đức tin của chúng ta, được nêu ra ở đầu bài suy niệm này. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, Chúa Giê-su dạy rất rõ ràng bằng cách trích dẫn Cựu ước (sách Kinh Thánh mà hầu hết người Do Thái nào cũng biết rõ, nhất là các nhà thông luật, Biệt phái, kinh sư): “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Is-ra-el, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi (x. Đnl 6, 5). Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi (x. Lv 19, 18). Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12, 29-31). Đây tuy là hai giới răn, nhưng thực chất là một. Chúa Giê-su đã đồng hình đồng dạng giới răn yêu người (tha nhân) với giới răn mến Chúa. Ngài đặt tầm quan trọng của giới răn yêu thương tha nhân ngang bằng với giới răn yêu mến Thiên Chúa, như chính Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu thuật lại: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa ngươi…Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (x. Mt 22, 37-39). Lẽ dĩ nhiên, Thiên Chúa luôn luôn cao trọng, quyền năng, chúng ta phải tôn thờ, tôn kính hơn con người, hơn tha nhân; nhưng không bởi vậy mà việc sống bác ái đối với anh chị em bị cho là phụ phần, chẳng cần thực hành. Trái lại, giới răn ‘yêu mến tha nhân như chính mình’ có một vị thế quan trọng như việc chúng ta dành trọn con người mình để kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực vậy.
Nếu biết thực thi song hành giới răn mến Chúa yêu người, chứ không tách biệt hoặc xem trọng một điều, lại bỏ mặc điều kia, thì có lẽ rất nhiều người Công Giáo sẽ sẵn sàng sống chia san, sống bác ái, yêu thương, tha thứ, trở nên chứng nhân (đây là những biểu hiện cụ thể của việc thực thi giới răn yêu người thân cận như chính mình), đồng thời năng đến với Chúa qua Thánh lễ, tham dự các sinh hoạt chung của giáo xứ, siêng năng cầu nguyện hằng ngày, hăng say tìm hiểu-sống Lời Chúa, yêu mến Giáo Hội và giáo xứ của mình (đây là những biểu hiện cụ thể của việc thực thi giới răn mến Chúa). Nếu thực hành giới răn mến Chúa yêu người song song thế này, thì chúng ta sẽ được cảm nghiệm sâu sắc tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, cho mỗi người; và nhờ tình yêu này mà chúng ta càng mến yêu Chúa hơn vì ‘chỉ có tình yêu đáp lại tình yêu mà thôi’. Hơn nữa, nhờ cảm nghiệm này mà chúng ta dám ra đi chia san, dám tha thứ, dám yêu thương tha nhân như thương yêu bản thân vậy. Cũng nhờ tình yêu này, chúng ta đủ nhạy cảm, tinh tế nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa nơi anh chị em. Vì Chúa yêu thương tôi, tha thứ cho tôi, mời gọi-chờ đợi tôi những lúc tôi sa ngã, đón nhận tôi quay về với Ngài, nên cảm nghiệm sống động này thúc giục tôi cũng biết sống chan hoà yêu thương, tha thứ anh chị em, biết nhẫn nại, biết rộng lượng cho người khác cơ hội ‘trở nên tốt hơn’, biết chấp nhận con người yếu đuối của tha nhân, biết sống bác ái, làm việc bác ái đúng nghĩa, chứ không chỉ dừng lại ở công tác từ thiện. Theo lẽ thường tình, chúng ta nghĩ tưởng: làm việc từ thiện cũng chính là làm việc bác ái! Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy được sự khác biệt lớn lao; cũng nên nói ở đây: nhận ra sự khác biệt này chẳng phải để đánh giá thấp công tác từ thiện, hay bác bỏ việc làm từ thiện. Đúng hơn, nó giúp chúng ta hiểu đúng, sống đúng và làm những việc mà Chúa Giê-su mời gọi, cũng như đòi hỏi mỗi người Ki-tô hữu chúng ta.
Thoạt nhiên nhìn qua cách thức hoạt động, những tổ chức bác ái khắp thế giới trên phương diện Giáo Hội hoàn vũ như Caritas Internationalis (Tổ chức Bác ái Thế giới), ở cấp Giáo hội địa phương như Caritas Việt Nam, Caritas Nhật Bản…, tại mỗi Giáo phận như Caritas Hưng Hoá, Caritas Tô-ky-ô..., và xuống các giáo xứ như Caritas Gx. Tân Phước (thuộc Địa phận Sài Gòn), Caritas Gx. Ishigaki (thuộc Giáo phận Naha, Nhật Bản)…dường như giống với những tổ chức từ thiện quốc tế như NGO (tổ chức từ thiện phi chính phủ), NPO (tổ chức từ thiện phi lợi nhuận), v.v…Nhưng thật ra, công tác từ thiện xuất phát từ tình người, từ tình tương thân tương ái, tương trợ lẫn nhau căn bản chỉ dựa trên mối dây yêu thương giữa người với người. Còn công việc bác ái không đơn thuần chỉ xuất phát từ con tim, từ tình người, từ mối tương quan gắn kết con người với nhau, mà là một ơn gọi, một lời cam kết dấn thân phục vụ-chia san với tha nhân theo khả năng cụ thể của bản thân. Hơn nữa, tôi sống bác ái, thực thi công việc bác ái không chỉ vì tình người, mà vì Chúa yêu tôi, thương tôi đến nỗi tự hiến mạng sống của Ngài để cứu rỗi tôi, vì Ngài mời gọi tôi sống trọn vẹn như Ngài, nên tôi vui vẻ, sẵn sàng, can đảm đến với người khác, chia sẻ với tha nhân không chỉ vật chất, hiện vật, hiện kim (theo khả năng của mình), mà còn cho đi những gì quý giá nhất của bản thân mà không tính toán, đòi hỏi trả công như sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí lực, nguồn liệu, ân sủng được lãnh nhận từ Chúa (như ơn tha thứ, lòng vị tha, nhẫn nại, điều độ, khôn ngoan, đặc biệt ba nhân đức đối thần: tin - cậy - mến…). Không chỉ dừng lại ở việc từ thiện, từ tâm, làm việc phước đức…, mà chúng ta hăng hái, nhiệt thành làm việc và sống bác ái vì chính tình yêu Chúa thúc giục tôi như Thánh Tông đồ Phao-lô đã từng quả quyết: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (x. 2Cr 5, 14). Tuy nhiên nhìn vào thực tế, có lẽ vẫn còn không ít người Công Giáo chưa dám cho đi theo khả năng, chưa sẵn sàng chia san và sống bác ái như Chúa mong muốn. Chúng ta thường nại vào lí do: tôi chẳng có gì để cho cả, tôi vẫn còn túng thiếu, chưa dư giả gì để chia sẻ với người khác, tôi chỉ có thể cầu nguyện cho những ai cần giúp đỡ, mà nếu tôi không giúp, thì khối người ngoài kia sẽ giúp đỡ họ thôi…! (rất rất nhiều lí do khác nữa). Quả thật, Chúa nào nỡ bắt chúng ta phải cho hết như bà goá nghèo, Chúa nào khắc khe buộc chúng ta phải bán hết tài sản của mình mà cho người nghèo, giúp đỡ những ai túng thiếu, cần hỗ trợ đâu! Chúa chỉ vui thích, hài lòng khi nhìn thấy chúng ta đến với Chúa chân thành, trung tín sống lời cam kết khi được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, hăng say làm chứng tá yêu thương, sống bác ái, biết tha thứ, chia san với anh chị em khác theo khả năng và lòng quảng đại của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con đã thuộc nằm lòng giới răn yêu thương ‘mến Chúa, yêu người’, nhưng lắm lúc chúng con chưa nỗ lực thực hành. Xin cho chúng con biết dùng thời gian, tài năng, nguồn lực, trí lực, những của cải chóng qua này, mà hân hoan sống giới răn ‘mến Chúa, yêu người’ như lòng Chúa mong muốn. Xin cho chúng con ý thức thực hiện giới răn yêu thương này, chẳng phải tách ra làm đôi, nhưng luôn thực thi song hành ‘mến Chúa, yêu người’ một cách cụ thể trong đời sống thường nhật, nơi công sở, giữa hàng xóm láng giềng với nhau, trong gia đình, giáo xứ, hội dòng, Giáo hội, và xã hội. Amen!
Chúng ta có thể đánh giá sự thông minh và tài giỏi của một người qua những câu trả lời của TN 31-B139
Chúng ta có thể đánh giá sự thông minh và tài giỏi của một người qua những câu trả lời của người ấy trong một cuộc phỏng vấn. Chúa Giêsu đã phải đối mặt với nhiều câu hỏi về những vấn đề khúc mắc thời đó trên nhiều lãnh vực: tôn giáo, lề luật, thuế má... và chúng ta thấy không những Chúa không bị động lúng túng mà Chúa còn trả lời rất chính xác và mở ra một viễn tượng mới mẻ cho những người chất vấn Chúa. Có những câu hỏi chủ ý để gài bẫy, để bắt bẻ Chúa, nhưng hôm nay chúng ta thấy một kinh sư hỏi Chúa cách chân tình. Trước hết vì ông thấy Chúa vừa trả lời rất thỏa đáng và tài tình câu hỏi về vấn đề kẻ chết sống lại, đàng khác đây cũng là điều ông băn khoăn ôm ấp trong lòng từ lâu, nên ông hỏi Chúa như sau: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất"? Cựu Ước Do thái giáo có rất nhiều luật. Chắc chắn ông đã học biết có 613 điều luật chia ra 365 luật cấm và 248 luật phải làm, nhóm kinh sư các ông người thì tìm cách thu gọn lại, người thì lại triển khai rộng ra khiến người dân không biết đâu là chính đâu là phụ và nhất là khó nhớ được tất cả cái mối bòng bong luật lệ đó nên kinh sư này chân thành hỏi để xin ý kiến của Chúa Giêsu. Để trả câu hỏi của kinh sư, trước hết Chúa đã trích kinh Shema được coi như là kinh Tin kính của Do thái giáo ghi trong sách Đệ nhị luật như sau: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi (Đnl 6, 4-5)" Rồi Chúa Giêsu thêm lời trong sách Lê vi mà Chúa cho biết đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi"(Lv 19,18). Chúa cho biết:"Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Điều mới mẻ trong câu trả lời của Chúa Giêsu là Chúa nối kết hai giới răn Mến Chúa Yêu Người với nhau và đặt tầm quan trọng ngang nhau. Như thế tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không chia lìa nhau, hơn nữa lại còn nâng đỡ nhau. Nghe câu trả lời của Chúa Giêsu, kinh sư tỏ ra rất đồng tình và ông còn phụ họa thêm khi hướng về lễ tế đền thờ Giêrusalem: "Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Chúa Giêsu thấy ông tỏ ý kiến khôn ngoan nên bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu thường có những nhận xét khá tiêu cực về các kinh sư, biệt phái, thế mà ở đây Chúa có lời khen ông kinh sư này và Chúa cũng có lời nhắn bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu", tức là Chúa cho biết ông đã hiểu, đã nhận thức đúng về giới răn Mến Chúa Yêu người là trọng nhất nhưng để được vào Nước Thiên Chúa thì Chúa dạy ông và cũng là dạy chúng ta ngày nay là phải đem ra thực hành trong đời sống nữa. Nhận thức đúng mới là bước một và thực hành là bước hai. Chúa Giêsu không dạy điều gì mà Chúa không sống trước và làm gương. Thực vậy Chúa Giêsu đã sống đến tận cùng lòng yêu mến Chúa Cha và yêu thương loài người: Chúa sống để yêu và chết vì yêu như lời Chúa nói: "Không có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người hi sinh mạng sống vì bạn hữu"(Ga 15,13) Vậy chúng ta hãy noi gương Chúa để hết lòng yêu mến Chúa và trọn tình yêu đối với tha nhân. Tình yêu tha nhân Chúa Giêsu dạy đây là ta phải mở rộng hơn quan niệm của người Do thái không phải chỉ yêu bà con bạn bè anh em đồng đạo mà còn mở rộng đến cả những người ngoại đạo và cả kẻ thù nữa. Trong dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu Chúa cho biết người anh em là bất cứ người nào không phân biệt tôn giáo, trong nước hay nước ngoài cần được ta giúp đỡ khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống. Thánh Phaolô nói: "Yêu mến là chu toàn lề luật (Rm 13,10). Còn thánh Gioan dạy: "Ai yêu mến Chúa thì cũng yêu anh em mình (1 Ga 4,21) Thánh Augustinô đã phàn nàn là mình yêu Chúa quá muộn. Vậy nếu ta chưa yêu mến Chúa hết lòng hay tình yêu ta đối với Chúa và với anh em còn ít ỏi, hời hợt hoặc muộn màng thì ta hãy sửa chữa lại và bắt đầu ngay đi như thánh Augustinô và hãy gia tăng lòng yêu mến! Chúa đòi ta phải có sự quyết liệt và cường độ cao trong lòng mến Chúa yêu người; Chúa đã nói cho Hội thánh Laodikia là phải nóng hẳn hoặc lạnh hẳn đừng có hâm hâm dở dở! (cf Kh 3, 14) Chúng ta nhớ lời thánh Gioan Thiên Chúa: "Nơi nào không có yêu thương thì chúng ta hãy gieo tình yêu để sẽ gặt được tình yêu". Nhà văn Trường Long có kể một câu chuyện: Sau khi li hôn, người chồng phải dọn đồ ra khỏi nhà. Đứa con gái nhỏ hỏi mẹ; "Sao mẹ đuổi bố đi?" Mẹ đáp: Tại bố hư. Rồi để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chụp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên đòi bắt đền. Mẹ nó dỗ: Anh mày hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần. Đứa bé phụng phịu: "Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố?" Bà mẹ nhìn xa xôi rồi thở dài: Ừ thì mẹ cũng hư! Câu chuyện cho thấy cả hai vợ chồng cùng hư cho nên dẫn tới li dị. Hư đây chắc chắn là hư về tình yêu vợ chồng và hư về lòng chung thủy. Chúng ta nhớ lời thánh Augustinô "Ama et fac quod vis" Bạn hãy yêu rồi bạn hãy làm điều bạn muốn. Lòng mến Chúa yêu Người phải đi trước mọi hành động của chúng ta. Nguyện xin Chúa Thánh Thần gia tăng lòng mến cho chúng con. Amen.
Giống như trong Mc 2,1–3,6, phân đoạn 11,27–12,37 này có năm truyện kể lại những tranh luận TN 31-B140
Giống như trong Mc 2,1–3,6, phân đoạn 11,27–12,37 này có năm truyện kể lại những tranh luận giữa Đức Giêsu với các đối thủ tại Giêrusalem: quyền của Đức Giêsu (11,27-33); dụ ngôn về vườn nho (12,1-12); nộp thuế cho Xêda (12,13-17); kẻ chết sống lại (12,18-27) và điều răn đứng đầu (12,28-34). Còn câu hỏi của Đức Giêsu về con vua Đavít (12,35-37) không còn là một tranh luận nữa, mà là một vấn đề Người nêu ra để gián tiếp giới thiệu về bản thân Ngài.
Cuộc tranh luận thứ tư liên quan đến điều răn đứng đầu trong số 613 điều (trong đó có 365 điều cấm và 248 điều buộc làm) thuộc luật Cựu Ước. Đây là một đề tài thường được đề nghị cho những vị thầy Do Thái lỗi lạc.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể phân chia thành bốn đơn vị:
1) Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (12,28); 2) Đối thoại về điều răn đứng đầu (12,28c-31); 3) Lời bình về điều răn đứng đầu (12,32-33); 4) Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (12,34).
3.- Vài điểm chú giải
- điều răn nào đứng đầu (28): Trong Mt 22,35, câu hỏi là “điều răn nào lớn nhất?”. Vì viết cho người ngoại, Mc đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa “ưu tiên”.
Dường như nền văn chương Do Thái coi tội thờ ngẫu tượng, tội loạn luân và tội sát nhân là ba tội nặng nhất. Do Thái giáo chưa nhận ra được tính ưu tiên của điều răn yêu thương, bởi vì toàn thể đời sống thiêng liêng của người Do Thái bị ám ảnh bởi một khoa giải nghi vị luật và hết sức chi li. Thật ra, vào khoảng 20 năm trước Đức Giêsu, kinh sư Hillel đã dạy về tình yêu đối với tha nhân như sau: “Điều gì con không thích, thì đừng làm cho tha nhân; đó là tất cả Lề Luật. Phần còn lại là phần giải thích”. Phải nói là Đức Giêsu đã lấy lại y nguyên công thức này (Mt 7,12). Nhưng linh đạo Do Thái giáo vẫn mang nặng dấu ấn của khuynh hướng khử ngoại (exclusivism): “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Khi hỏi về điều răn đứng đầu, vị kinh sư muốn biết về điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước mọi sự và làm tận căn.
- Nguơi phải yêu mến Đức Chúa … (29): Đức Giêsu đã trích Đnl 6,4-5, là một trong ba bản văn được những người Do Thái mộ đạo đọc mỗi ngày 2 lần (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds 15,37-41).
- lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực (30): Đnl 6,5 nói đến lòng/tim, linh hồn sức lực (LXX: kardia, psychê, dynamis). Mc lại nêu ra bốn từ lòng/tim (kardia), linh hồn (psychê), trí khôn (dianoia = sức mạnh của trí tuệ; thay vì dynamis) và sức lực (ischys = tất cả sức mạnh của tâm hồn). “Tim” là khả năng ý chí; “linh hồn” là khả năng trí thức; ngoài ra “sức lực” được nhắc đến tổng quát. Thật ra, đây không phải là một danh mục kể ra các năng khiếu khác nhau rõ rệt, hoặc kể rốt ráo; danh mục này chỉ muốn nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Thiên Chúa với mọi tài nguyên có thể có được: chúng ta lưu ý là đi với mỗi năng khiếu là tính từ “tất cả” (holês; “hết; trọn”). Yêu mến vị Thiên Chúa duy nhất với tất cả sức mạnh và khả năng ban cho con người là tổng hợp tối hậu về ý muốn của Thiên Chúa.
- Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận … (31): Được hỏi về điều răn đứng đầu, Đức Giêsu thêm “điều răn thứ hai”. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Trong TM Mc, điều răn thứ hai này không được đồng hóa với điều răn thứ nhất như trong Mt 22,39 (homoia autê), nhưng việc đăt hai điều răn này ở bên nhau chuẩn bị cho việc lượng giá giống nhau. Đây là câu trích Lv 19,18. Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận là như một giải thích cô đọng hai bia đá Mười Điều Răn.
- Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng… Yêu mến Thiên Chúa … yêu người thân cận… (32-33): Vị kinh sư diễn tả sự đồng ý với Đức Giêsu bằng hai công thức hoàn toàn mang màu sắc Hy Lạp (“hay lắm”, kalôs; “rất đúng” [= thể theo sự thật], ep’ alêtheias). Rồi ông diễn tả cách khác và tóm tắt câu trả lời của Đức Giêsu. Khi làm như thế, ông cũng nhấn mạnh trên hết tính duy nhất của Thiên Chúa (LXX Đnl 4,35; Xh 8,6; Is 45,21). Ông cũng tổng hợp tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân và diễn tả liên hệ đặc biệt giữa hai điều răn này còn mạnh mẽ hơn nữa.
- hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực (33): Ở trên, câu trích Đnl 6,5 đã xa bản văn Hy Lạp với nhóm bốn từ; nay vị kinh sư lại trở lại với nhóm ba từ, nhưng cũng khác bản Hy Lạp (“lòng”: kardia; “trí khôn”: synesis [thay thế psychê và dianoia ở c. 30), “sức lực”: ischys), qua đó khía cạnh trí tuệ vẫn được nêu bật.
- quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ (33): Lời của vị kinh sư khiến ta nghĩ đến Hs 6,6 và 1 Sm 15,22. Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị triệt tiêu, nhưng đã bị tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê bình nền phụng tự như thế: 1 Sm 15,22; Tv 51,20t; 40,7; Cn 21,3; đặc biệt với các ngôn sứ: Hs 6,6; x. Is 1,11. Nhưng ở đây, điều đáng nói là một nhà thần học Do Thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giêrusalem (x. 11,27), nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.
- Ông không còn xa Nước Thiên Chúa (34): Vị kinh sư đã tỏ ra hiểu biết đúng đắn (nounechôs, “theo trí thông minh”, “biết theo lẽ phải”) điều gì là quan trọng trong luật Cựu Ước. Nhờ đó, ông đã ở gần Nước Thiên Chúa đang đến và ông đã sẵn sàng để đón tiếp Nước Thiên Chúa cách đúng đắn (x. 10,13-16).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (28)
Câu 28ab nối với phần trước khi nói rằng một kinh sư đã nghe “họ” (Đức Giêsu và nhóm Xađốc) tranh luận với nhau và ông này thấy Đức Giêsu đối đáp hay. Những gì ông đã nghe gây ấn tượng mạnh cho ông, bây giờ thúc đẩy ông đăt cho Đức Giêsu một câu hỏi, nhưng không phải để thử Người (như trong Mt 22,35). Câu hỏi liên hệ đến điều răn quan trọng nhất, nhưng được đặt theo kiểu một người ngoại muốn tòng giáo đăt ra cho hai vị trưởng trường kinh sư là Shammai và Hillel: Shammai từ chối trả lời, còn Hillel, đến từ Hải ngoại, sẵn sàng trả lời. Trong số 613 điều làm nên tôrah, các kinh sư phân biệt ra các điều dễ và điều khó, nhưng yêu cầu tuân giữ tất cả. Shammai từ chối tổng hợp Lề Luật vào một điều răn tối hậu. Một câu hỏi phát xuất từ huấn giáo của Do Thái giáo Hải ngoại đã được chuyển đến cho vị kinh sư Do Thái. Ông không hỏi điều răn nào đứng đầu trong Lề Luật (= lớn nhất, như Mt 22,36), nhưng điều răn nào đứng đầu trong mọi điều răn (Trong Lc 10,25, câu hỏi hoàn toàn khác). Ông muốn biết là người ta có thể chăng nhận ra được yếu tính của những gì làm nên thánh ý Thiên Chúa.
* Đối thoại về điều răn đứng đầu (29-31)
Đức Giêsu đã trả lời bằng cách nối kết Đnl 6,5 với Lv 19,18. Khi nhắc lại trọn vẹn câu trả lời của Đức Giêsu với giọng chuẩn nhận và bình giải bằng cách quy chiếu về các hy lễ, vị kinh sư chứng tỏ tất cả tầm quan trọng của câu trả lời của Đức Giêsu. Ở 12,30 (= Đnl 6,4t), Người khẳng định bốn phận đầu tiên và quan trọng nhất, đó là yêu mến Thiên Chúa hết sức lực có được. Chúng ta, với trọn vẹn bản thân, phải quay hướng về Người với lòng yêu thương cách cương quyết và trọn vẹn. Chúng ta không hướng về bất cứ quan niệm nào về Thiên Chúa, nhưng là về Thiên Chúa trong thực tại của Ngài. Vậy, Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất, nhưng Ngài đã tỏ mình ra trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu chỉ được hỏi về điều răn đứng đầu, nhưng sau điều răn thứ nhất, Người nói đến một điều răn thứ hai: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Tình yêu chúng ta có cho chính mình được đề ra như tiêu chuẩn để đánh giá tình yêu phải có đối với người thân cận. Yêu thương chính mình là chấp nhận bản thân, theo ý muốn của Thiên Chúa Tạo hóa. Tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta.
* Lời bình về điều răn đứng đầu (32-33)
Khi bày tỏ quan điểm, vị kinh sư đã biểu đồng tình với Đức Giêsu. Nhưng ông đã diễn tả ý kiến như là một lời bình nhằm triển khai vấn đề bằng cách thêm vào một ý tương gán cho tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận một giá trị cao hơn mọi lễ toàn thiêu và các hy lễ đẫm máu. Bằng câu trả lời của mình, ông đã gián tiếp nhìn nhận lỗi của các đồng nghiệp, của nhóm Pharisêu và Hêrôđê.
* Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (34)
Khi khen ngợi vị kinh sư, Đức Giêsu đã tỏ ra là vị Thầy có uy quyền và được quyền nhận định như thế. “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu”: Phải chăng Đức Giêsu muốn nói rằng vị kinh sư đã sống trong chiều hướng giáo huấn của Người, bởi vì trong TM Mc, Nước Thiên Chúa là một thực thể hiện tại, gắn liền với bản thân Đức Giêsu (x. 4,11)? Chúng ta hẳn là chờ đợi Đức Giêsu gọi ông đi theo Người. Nhưng ở đây, mối bận tâm là cho thấy quan niệm của Đức Giêsu và các mệnh đề căn bản của đức tin Do Thái hài hòa với nhau. Không hề có một trở ngại quan trọng nào ngăn cản người Do Thái gắn bó với Đức Giêsu.
+ Kết luận
Điều răn đứng đầu chính là điều quan trọng trong mọi trường hợp, điều mà chúng ta phải dấn thân theo với tất cả sức lực. Bởi vì chúng ta phải trả lẽ với Thiên Chúa và bởi vì Ngài sẽ quyết định về giá trị của đời sống chúng ta, cách thức đời sống chúng ta có thể nhận được một ý nghĩa thức sự, trường tồn, tùy thuộc câu trả lời cho câu hỏi về điều răn đứng đầu. Bởi vì điều răn này cho biết Thiên Chúa thực sự muốn chúng ta sống thế nào, chúng ta phải đi theo con đường nào để cho cuộc đời chúng ta có ý nghĩa, có chiều hướng cách tuyệt đối chắc chắn.
Đức Giêsu đã cho thấy điều quan trọng nhất là yêu thương. Vị kinh sư đã hiểu, và đã diễn tả sự hiểu biết đó chính xác bằng một lời bình luận.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ai có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực? Chúng ta có hy vọng chu toàn được nhiệm vụ này chăng? Ai có thể nói rằng mình đã yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn như thế? Cách thức chúng ta cư xử với Thiên Chúa như thế nào? Lại không phải là chẳng mấy khi chúng ta nghĩ đến Ngài, chúng ta không có giờ cho Ngài, chúng ta cứ ở trong tình trạng bất ổn và ngờ vực sao? Với lại, yêu thương mà lại theo lệnh được và muốn yêu là yêu sao? Thật ra, với điều răn này, Đức Giêsu không nêu ra một công việc có thể làm ngay bằng một hành vi nào đó, nhưng nêu ra một bổn phận kéo dài suốt đời. Yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn là mục tiêu của cuộc đời chúng ta.
2. Nếu chúng ta chỉ dâng các hy lễ, nếu chúng ta chỉ nói lên những công thức cầu nguyện, nếu chúng ta chỉ dâng những điều khác với bản thân chúng ta, và không hề có bản thân chúng ta dấn thân vào đó thực sự, chúng ta không yêu mến, và chúng ta đánh mất ý nghĩa/chiều hướng của đời sống chúng ta.
3. Tình yêu trước tiên không phải là một tình cảm, một cảm xúc của con người, nhưng là tất cả bản thân chúng ta hiến dâng lên Thiên Chúa cùng với các sức lực và khả năng. Yêu mến là ra khỏi tình trạng thụ động, trơ ì, lãnh đạm, tìm thoải mái riêng tư, hời hợt, ngờ vực, để hướng về Thiên Chúa cách năng động mạnh mẽ và cương quyết, với một sự quan tâm sâu xa, tha thiết, sống động. Yêu mến Thiên Chúa là vận dụng tất cả năng lực trí tuệ và ý chí để hiếu biết Ngài, gặp gỡ Ngài, đón tiếp Ngài trọn vẹn, để được Ngài nắm lấy và lấp đầy. Nói cho cùng, yêu mến Thiên Chúa là luôn cố gắng mở ra với Ngài mãi.
4. “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en”. Đức Giêsu nhắc lại một lời kêu gọi của Cựu Ước, nhưng ở bên trong sứ điệp của Người, đây cũng là một lời mời gọi lắng nghe chính Người và hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, là Đấng đến tỏ mình ra cho ta nơi Đức Giêsu (x. 9,7). Đối với chúng ta, vì muốn yêu mến Thiên Chúa, trong khi đì tìm Thiên Chúa, để có thể yêu mến vị Thiên Chúa chân thật, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu.
5. Nói rằng tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta, có nghĩa là chúng ta chấp nhận người thân cận trong tính riêng tư độc đáo của họ, chúng ta nhìn nhận họ cũng được Thiên Chúa muốn có và tạo thành như chúng ta. Điều răn yêu thưong người thân cận có nền tảng và diễn tả ra là chúng ta – tôi và người thân cận – chúng ta đều mắc nợ tình yêu Thiên Chúa như nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa cũng là một tiếng “xin vâng” thưa với sự bố trí của Thiên Chúa.
6. Thật ra, điều răn này không có ý san bằng mọi người. Điều răn này phát xuất từ giả thiết là mọi khác biệt đều phụ thuộc; rằng mọi người về căn bản đều ở trên một bình diện như nhau, đều có tầm quan trọng, có giá trị, phẩm giá như nhau.
Thiên Chúa là tình yêu: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu TN 31-B141
Thiên Chúa là tình yêu: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8). Yêu là cốt lõi của cuộc sống. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài. Tình yêu của Đấng Tạo Hóa được thông ban tới mọi loại thụ tạo. Mỗi loài thụ tạo đều có dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Con người có linh hồn, trí khôn, tự do và tình yêu. Mọi sinh vật đều chìm đắm trong biển tình liên đới với nhau. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Đấng Vô Hình, chúng ta có thể nhận biết Người qua muôn hình vạn trạng của vũ trụ vạn vật và con người. Người là Thiên Chúa hằng hiện hữu và là Chúa của kẻ sống.
Những chỉ thị và huấn lệnh được tóm kết trong Mười Điều Răn và mười điều này thu gọn thành hai điều quan trọng là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Như thế, tất cả luật lệ và các giới răn đều xoay quanh chữ ‘Yêu’. Yêu là ái, bác ái, đức ái, nhân ái và tâm ái. Yêu là nền tảng của mọi sinh hoạt. Yêu phát khởi từ tâm. Tâm thiện làm thăng hoa cuộc đời nên cao thượng và thành tựu.
Chúng ta có thể suy về trái tim yêu thương qua bốn điều: Từ, Bi, Hỉ và Xả. Tâm từ là lòng thương xót. Thương tất cả mọi loài. Thương yêu không chỉ những người trong gia đình mà tình yêu lan trải ra mọi người chung quanh. Yêu cả người ân, kẻ oán. Yêu cả người gây thù dù chuốc oán. Tâm bi là xót thương trước những khổ đau của người khác. Biết cảm thông và xoa dịu những nỗi đau và sầu khổ của tha nhân. Tâm hỉ là vui vẻ trước sự hạnh phúc và thành công của người khác. Biết chung vui và chúc mừng những thành đạt và sự may mắn của người. Người có tâm hỉ thì không ích kỷ, hạn hẹp, ghen tương và đố kỵ. Tâm xả là không luyến ái hay chấp nhất. Giữ thái độ thanh thản và an vui tự tại trong tâm hồn. Từ bi hỉ xả sẽ giúp cho tình yêu tha nhân được triển nở và hoan lạc.
Trong bài phúc âm, Chúa Giêsu lập lại hai giới răn nồng cốt của đạo: Yêu Chúa và yêu người. Thiên Chúa hiện diện nhưng con người không thể diện kiến và đụng chạm bằng giác quan trần tục. Để biểu hiện tình yêu, Chúa mở một cửa ngõ để chúng ta cùng cảm thông: Yêu tha nhân như chính mình. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại được gắn liền với nhau như đồng tiền hai mặt. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà ghét đồng loại. Vì mỗi con người được tác tạo đều mang hình ảnh của Thiên Chúa. Yêu người cũng như yêu chính mình.
Thánh Marcô so sánh tình yêu cao quí hơn của lễ dâng. Đối với chúng ta, yêu người thân cận như chính mình là một đòi hỏi quá khó. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng thấy tình yêu có mức độ. Trong cuộc sống dân gian, trái tim yêu thương được diễn tả theo hình trôn ốc, từ trong cốt lõi ra ngoài. Yêu vợ chồng, con cái, gia đình, họ hàng thân tộc, đồng môn, bạn bè, người thân, kẻ nghĩa, yêu người cùng nhóm hội, cùng chí hướng, cùng tôn giáo, yêu đồng bào cùng quê hương xứ sở và yêu đồng loại… Chúng ta có thể cảm nhận thế nào là tình yêu khi chúng ta xa vắng, tam biệt, ly biệt hay vĩnh biệt người mình yêu. Càng yêu nhiều càng nhớ thương nhiều. Chỉ có những tâm hồn đại ái biết quên mình mới có thể yêu người thân cận như chính mình một cách vô điều kiện.
Trong thơ gởi tín hữu Do-thái, tác giả đã diễn tả hình ảnh hiến tế của Chúa Giêsu linh mục thượng phẩm. Ngài đã dâng hy lễ đền tội cho dân bằng chính sự sống của mình. Tình yêu dâng hiến trọn vẹn để đền tội thay cho dân. Các linh mục thay mặt Chúa dâng lễ tế hy sinh là một việc cử hành thánh thiện, nhưng có nhiều khi bị lợi dụng và lạm dụng. Có nhiều linh mục đã cử hành thánh lễ rất nghiêm trang sốt sáng, nhưng cũng có linh mục cử hành theo thói quen chỉ để chu toàn bổn phận hoặc vì thọ ơn trả nghĩa cho ai đó tại tư gia. Linh mục không chịu đau khổ và không đổ máu, vậy mà đôi khi còn nóng nảy và bực bội chỉ vì vài sơ xót nho nhỏ trong khi cử hành. Các linh mục hãy hòa trộn tình yêu trong việc cử hành thánh lễ để sinh ích lợi cho mình, cho mọi người và cho các linh hồn đang chờ mong ân phúc.
Đức mến là nòng cốt. Mọi sự trên trần gian sẽ qua đi, chỉ có tình yêu tồn tại mãi. Xin cho chúng con biết chia sẻ và sống dấn thân trong tình yêu. Để khi mãn cuộc đời dưới thế, chúng con sẽ được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa, vì Chúa là tình yêu.
Dù có ăn khoẻ mấy, bạn cũng chỉ ăn tới mức no bụng. Khôn hay khờ, địa vị hay bần cùng, bạn TN 31-B142
Dù có ăn khoẻ mấy, bạn cũng chỉ ăn tới mức no bụng. Khôn hay khờ, địa vị hay bần cùng, bạn vẫn tuân theo quy luật, sinh tử. Bốn mùa xuân hạ thu đông, tự bản chất đã phảng phất tính lãng mạn đầy yêu thương của tháng năm, dù điều kiện, phong cách, địa vị, mỗi người mỗi khác. Nói đến yêu và thương, thật dễ nghe, ngay cả lão gia đến trẻ nhỏ, gợi lên hai từ ghét và thù, đúng là chẳng ai hào hứng làm chi ! Đại đa số chúng ta rất chuẩn khi nói ăn để sống, có chăng hành động của ta mơ hồ đến độ không còn biết mình sống ở đời này để làm gì ? Không ai khôn tới mức bất cần đến thầy dạy, chẳng ai ngớ ngẩn để mặc thời gian trôi qua, rồi thở ngắn than dài tại sao mình phận bạc duyên đen ? Không ngừng học hỏi là hành vi giúp ta ngộ ra mình được yêu ngay từ thuở nhỏ, là nguồn gốc của đức hạnh thúc giục ta nói lời yêu thương.
Thời tiết bốn mùa nồng ấm đáng yêu khác nhau, được cao sang quyền quý hay vô duyên bất tài, có phải bạn vẫn muốn trải lòng cho mọi đối tượng, tôi luôn cần được mọi người mến yêu ? “Thưa Thầy, trong giới luật, đâu là điều quan trọng nhất” ? Điều muốn biết của người luật sĩ vô tình hay cố ý thử tài Đức Giêsu, đúng là có chút tự nhiên vương vấn nơi tâm tư mỗi người từ khi có trí khôn. Đức Giêsu không từ chối, không lòng vòng, trước thao thức của ông tiến sĩ luật, của tâm tư mỗi người, Ngài đã cho thấy hai từ mến – yêu không thể tách nhau. Thời khắc nào người ta cũng có nhu cầu ăn ngon ngủ yên, bình an hạnh phúc, được yêu để biết yêu, quan trọng ở chỗ yêu người và mến Chúa sao cho đúng, đẹp. Là đừng mến Chúa yêu người trên môi miệng, lý thuyết.
Mùa nào cũng yêu, mùa nào cũng say, là quá cường điệu trong tình yêu đôi lứa, nhưng sẽ không thừa, không dư, nếu ta hiểu và sống tinh thần người môn đệ Đức Giêsu: mến Chúa yêu người. Mùa nào cũng yêu, ngày nào cũng yêu, tuổi nào cũng yêu, sẽ không bao giờ là sai, là trệch, khi chúng ta tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, và tất cả mọi người có cùng Một Cha trên trời. Đức Phật dạy các học trò: hãy sống tốt, sống đẹp, đừng quan tâm đến người khác nghĩ về mình. Đức Giêsu trả lời cho những ai ưu tư đến cụm từ đâu là hạnh phúc: “hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn; hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Trọng tâm của đời người không phải chỉ là tiền, mà còn phải có tình. Hạnh phúc ở đời người, không phải là tình yêu đôi lứa, tình yêu gia đình, đúng, đủ, phải có mến Chúa yêu người.
Nhạc sĩ Phạm Duy đã thổi hồn vào nhạc phẩm “Phượng Yêu”, đã làm ngây ngất biết bao con tim đang rạo rực “vì yêu”. Yêu người, yêu Phượng, yêu hoa đầu mùa, yêu mầu rực rỡ, yêu em mù loà, yêu bằng tiếng nói đơn sơ. … Yêu người, yêu có một lần thôi, xin yêu dù gian dối, xin yêu tôi, dẫu nghi ngờ, trong bơ vơ còn nhiều, thì đâu chối bỏ tình yêu. Người tiến sĩ luật trong tin mừng hôm nay, quả đã “thấm đậm” khi được Đức Giêsu gói gọn giới luật bởi cụm từ “mến Chúa yêu người”. Kinh nghiệm của các bậc khôn ngoan, chỉ rằng: ăn có thể ăn nửa bữa, ngủ có thể lúc nửa đêm, nhưng không ai có thể đi nửa đường chân lý, yêu bằng nửa con tim. (Ngạn ngữ Anh). Người luật sĩ đã hiểu phần nào trong tình Chúa phải có tình người, mới trọn vẹn đúng, đủ, đẹp. Đức Giêsu vô cùng hạnh phúc, khi bộc lộ niềm vui: “anh không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
Mùa nào cũng yêu, tình nào chẳng là tình đẹp, yêu mến tha nhân cũng là lời gọi mến yêu đồng loại, là điều quan trọng trước giới luật yêu thương mà Thiên Chúa đặt để vào tâm tư mỗi người nhân thế. Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con người. Đức Giêsu là mặt trời công chính đã soi chiếu vào thế gian, song Ngài chính là Vị Thầy thuốc tài giỏi, chữa khỏi tật bệnh mọi tâm hồn, đủ khả năng định hướng cho từng người đạt tới đỉnh cao yêu thương. Mến Chúa yêu người là căn bản trong toàn thể lề luật, Đức Giêsu cô đọng lại giúp tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài, chỉ cần sống trọn vẹn với Chúa và tha nhân: mùa nào cũng yêu, người nào cũng dễ mến, dễ thương.
Dù nắng hay mưa, mùa đông hay mùa xuân, tình yêu vẫn cứ đong đầy kỷ niệm. Già hay trẻ, thông thái hay chậm hiểu, vẫn được yêu thương, nếu biết chọn sống theo nhịp đập rất linh thiêng của trái tim mình. Cả một quá trình dài, người tiến sĩ luật mới gặp được Vị Thầy mà anh hết sức nể phục, anh sung sướng nhận ra “đích đến thành công” của đời người trong bốn chữ: mến Chúa – yêu người. Thấy người luật sĩ khôn ngoan trước sự thông sáng của mình, Đức Giêsu tỏ cho anh biết: “anh không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Quả thực, điều tốt nhất, tuyệt vời nhất, trên thế giới này không thể nhìn hay nghe, mà phải cảm nhận bằng trái tim. (Helen Keller). Đức Giêsu ghi nhận thế nào là mến Chúa yêu người của người thông luật, của mỗi chúng ta, nhạy cảm hơn một chút, Ngài sẽ kiểm đếm hành vi yêu thương của nhân loại bằng lòng thương xót của Thiên Chúa nhân từ. Amen.
Bình thường thì ít thấy; nhưng mỗi khi “hữu sự” thì Người Việt Nam chúng ta cũng thuộc “dân tộc TN 31-B143
Bình thường thì ít thấy; nhưng mỗi khi “hữu sự” thì Người Việt Nam chúng ta cũng thuộc “dân tộc có hạng” trong thể hiện “nghĩa tình huynh đệ”, chia sẻ bác ái; hay gọi nôm na là “văn hóa bí bầu” hay “văn minh lá lành đùm lá rách” ! Trong thời cao điểm đại dịch vừa qua, hay trong biết bao cơn bão lũ thiên tai xé nát thôn làng khắp miền đất nước, nhất là Miền Trung dấu yêu, người ta dễ dàng nhận ra những chứng minh hùng hồn và cụ thể cái “văn hóa ứng xử” đặc biệt trên, một “loại hình văn hóa, văn minh” mà người ta đang lo lắng sẽ dần bị mai một, khan hiếm bởi sự lên ngôi của “chủ nghĩa cá nhân”, của “văn minh ích kỷ”, của “văn hóa vô cảm”…
Hèn chi, đã là người Việt Nam, lớn bé trẻ già, giàu sang trí thức hay mạt rệp cùng đinh, ai mà không thuộc câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; hay câu tục ngữ mang âm hưởng của lời Sách Thánh Lêvi trong tín ngưỡng Do Thái: “Thương người như thể thương thân” = “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” (Lv 19,18).
Thật ra, đối với phần đông người Do Thái, ít ra cho tới thời Chúa Giêsu cách đây 2000 năm, câu Sách Thánh Lêvi trên chỉ là “điều răn thứ hai”, “điều luật phụ”, mà có thể họ ít lưu tâm và dấn thân thể hiện. Với họ, điều răn quan trọng nhất phải là lời của sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn người” (Đnl 6,5). Theo truyền thống tín ngưỡng của họ, họ đã chép nguyên đoạn sách Đệ Nhị Luật (6,4-6) làm thành Kinh SHEMA để đeo trên trán, nơi cườm tay, trước cửa nhà… để nhắc nhớ niềm tin kính và việc phượng thờ Chúa mọi phút giây trong đời sống của họ: “Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng” (Bđ 1). Vâng, đối với tâm thức tín ngưỡng của họ: nội dung cốt lõi của việc thể hiện niềm tin chính là quy chiếu và thực hiện giới răn nầy: Mến Chúa bằng lễ lạc, phụng tự, luật lệ… sao cho nghiêm túc, và bất cần đến những nỗi đắng cay, lầm than của anh em đồng loại xung quanh.
Khi thoáng thấy cách ứng xử “khá bất thường” của Thầy Giêsu, và cũng có thể, để dằn mặt và “trắc nghiệm bản lãnh đức tin” của anh chàng thợ mộc đến từ Nadarét, như Tin Mừng hôm nay vừa kể, những người Biệt phái muốn Chúa Giêsu bày tỏ thái độ có “mến Chúa trên hết mọi sự” như họ không; và họ đã dàn dựng một màn phỏng vấn: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?”. Ngoài dự đoán của họ dành cho một kẻ “hạ tiện” dốt nát Lề Luật, Chúa Giêsu, như một người đạo đức bình thường trong truyền thống đức tin của cha ông, đã trả lời đúng phóc bằng chính câu Lời Chúa của sách Đệ Nhị Luật: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.
Và câu chuyện đã mang họ đi xa hơn điều họ mong đợi ! Ngài đã “móc” lại một điều luật được ghi trong một sách Thánh Kinh khác, sách Lêvi, mà có lẽ, những ông biệt phái, những thầy ký lục ít khi đọc đến hoặc xem thường, như chính cách sống của họ đã “bỏ rơi hay xem thường con người”: “Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” (Lv 19,18). Và có lẽ câu phán quyết “xanh rờn” tiếp liền sau đó đã làm họ ngỡ ngàng và chưng hửng: “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Vâng “Hai” chứ không chỉ có “một”; hay nói cách khác, hai khoản luật trên quy về cùng một đích điểm duy nhất, một giới răn duy nhất: YÊU MẾN.
Như vậy đã quá rõ ràng, với lập trường sống đạo và quan niệm đức tin của Chúa Giêsu, trong giới răn “mến Chúa trên hết mọi sự” phải bao hàm “yêu thương anh em như chính mình”; và bằng chính cuộc sống và cả cái chết của đời mình, Tin Mừng đã thuyết minh cụ thể lập trường và quan niệm đó của Ngài: – Chen chân giữa đám dân đen để cùng họ lội xuống dòng sông Giođan cho ông Gioan làm phép rửa, chọn kẻ thu thuế làm môn sinh và ăn uống với họ…, một điều xem ra quá xa vời và lố lăng đối với những người “Biệt Phái”, những kẻ vẫn tự hào là những người “mến Chúa trên hết mọi sự”. – Đụng chạm, đón tiếp những người cùi hủi đáng thương, để người phụ nữ tội lỗi hôn chân, xức dầu; chữa các bệnh nhân trong ngày Sabat, ăn uống mà chẳng cần rửa tay… những việc bác ái yêu thương mà những người tự xưng mình vỗ ngực tự xưng là “công chính” sẽ kết án là gương mù, gương xấu. – Tỏ thái độ cảm thông và kính trọng người phụ nữ ngoại tình bị bắt tại trận để cuối cùng trao ban một phán quyết đầy nhân ái yêu thương: “Phần Ta, Ta cũng không kết án chị đâu”; hay nói với người bất toại bằng lời mang tính thẩm quyền của Thiên Chúa “Tội con đã được tha”… những hành động và lời nói mà những người vẫn tự hào về niềm tin “trung thành với Thập Điều Sinai” sẽ kết án là phá luật cha ông, là ngược dòng truyền thống, là “lộng ngôn phạm thượng”… – Sẵn sàng quỳ xuống rửa chân cho các môn sinh để dạy họ bài học cụ thể yêu thương phục vụ, một hành vi xem ra không thích hợp chút nào đối với tác phong ăn trên ngồi trước của các vị tư tế đương thời, những người luôn miệng giảng rao về luật “mến Chúa trên hết mọi sự”… – Và sau cùng, Ngài đã sẵn sàng chịu chết giữa hai tên trộm cướp để hoàn thành lời chứng cuối cùng: chết vì yêu thương anh em chính là của lễ đẹp nhất để tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa; và chính đây lại là kết quả của một bản án mà những người Do Thái có chức quyền và sùng đạo đã nhân danh luật “mến Chúa” mà kết án Ngài: “Nó đã nói lộng ngôn !”…
Và xem ra sứ điệp về giới răn “Mến Chúa Yêu người” mà Lời Chúa hôm nay khơi gợi lại là câu chuyện miên viễn của loài người chúng ta; câu chuyện xoay quanh mối tương quan giữa con người với Thượng Đế và con người với nhau. Và lịch sử nhân loại luôn minh chứng rằng: hai mối tương quan nầy luôn đan quyện, khăng khít với nhau và tác dụng hổ tương gần như tuyệt đối: phủ nhận Thiên Chúa thì cũng đánh mất con người; cuồng tín với Thượng Đế hay đặt con người lên bệ thờ đều dẫn đến đại họa. Chúng ta biết đó, sau chủ trương “giết chết Thượng Đế của Nietzch” là những cuộc đại chiến kinh hoàng giết chết hàng bao nhiêu triệu người; cũng vậy, sau chủ trương “vô thần” để con người không còn nô lệ cho “thuốc phiện tôn giáo” của Marx-Engel-Lenin-Mao Trạch Đông-Stalin-Polpốt…, con người trở nên đao phủ để chém giết nhau không thương tiếc ! Cũng vậy, đức tin cuồng tín với Đấng Alah đã khiến những chiến binh IS Hồi Giáo cực đoan trở thành “máu lạnh” sẵn sàng “đánh bom tự sát” mặc kệ những người dân vô tội phải chết chóc đau thương. Trong khi đó, với trào lưu “nhân bản cực đoan” (Humanisme) đang dẫn dắt nhân loại tới con đường tự do phóng túng, phá bỏ những giềng mối luân lý nền tảng mà Thiên Chúa đã thiết lập để tự tung tự tác thỏa mãn những dục vọng đớn hèn…
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn trình bày cho chúng ta một Tin Mừng trọn hảo để thể hiện niềm tin qua chân dung và lời dạy của chính Đức Kitô, “một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời”(Bđ 2); nhưng cũng là “một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,17-18). Vì là “Người Con vẹn toàn của Thiên Chúa” nên Đức Kitô đã trở thành “Người Anh Cả của muôn vạn người em” !
Là môn sinh của Đức Kitô, những con người như linh mục Maximilien Kolbe, như Mẹ Têrêsa Calcutta hay bao nhiêu vị Đại thánh khác trong lịch sử hai ngàn năm của Giáo Hội…, để có được sức mạnh và lòng can đảm yêu thương con người đến cùng, đã phải nhờ đến sự đắm chìm cầu nguyện kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa.
Vâng, bao lâu còn ngưỡng vọng lên trời, bấy lâu còn trung thành với trái đất ! Đó lài hai điều bất khả phả phân ly: MẾN CHÚA – YÊU NGƯỜI; hay nói một cách dí dỏm: “mình với ta” tuy hai mà một; một TÌNH YÊU, một ĐỨC MẾN. Amen.
Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta trung tâm của niềm tin Do Thái Giáo, đó là Shema Israel TN 31-B144
Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta trung tâm của niềm tin Do Thái Giáo, đó là Shema Israel. Một cách cụ thể, Môsê nhắc nhở con cái Israel phải có thái độ nào trước Thiên Chúa: “Anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh em, và anh em sẽ được sống lâu” (Đnl 6:2). Môsê nói những lời này cho những người Israel đã chứng kiến kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện khi đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập. Để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, con cái Israel phải có lòng kính sợ Ngài và tuân giữ các mệnh lệnh của Ngài. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta đến tâm tình cần phải có khi nhìn lại cuộc sống của mình với những ơn lành Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời chúng ta. Đi trong đường lối của Thiên Chúa mang lại sự sống muôn đời và được hưởng niềm vui trong đất hứa. Bên cạnh đó, Môsê còn nhắc nhở dân Israel về niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, bên cạnh Ngài không có thần nào khác: “Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất” (Đnl 6:4). Những lời này khẳng định vị trí tối thượng và duy nhất của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất được tôn thờ, nên con cái Israel “hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6:5). Là Đấng tối thượng duy nhất nên Đức Chúa phải được yêu mến trên hết mọi sự và với trọn con người của chúng ta. Chúng ta đã ghi lòng tạc dạ điều này như Môsê đã nhắc nhở con cái Israel chưa? – “Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ” (Đnl 6:6).
Đề tài về sự khác biệt giữa chức vụ thượng tế của Chúa Giêsu và các thượng tế khác được tác giả thư Do Thái tiếp tục trong bài đọc 2 ngày hôm nay: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình, và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28). Theo tác giả thư Do Thái, Chúa Giêsu là mẫu gương thánh thiện và thập toàn cho chúng ta. Ngài không phạm tội như các thượng tế phàm nhân, nhưng Ngài chấp nhận hiến thân mình làm của lễ đền tội cho mọi người. Con chúng ta thì sao? Chúng ta có đủ can đảm để hiến thân làm của lễ đền tội cho những người làm chúng ta đau khổ, những người xúc phạm chúng ta không? Những ai nói “xin lỗi” sau khi phạm lỗi là những người sống theo bổn phận và đức công bằng. Những người nói “xin lỗi” khi người khác xúc phạm đến mình vì không muốn đánh mất mối tương quan đã được xây dựng là những người sống theo tình yêu và con tim của Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục khẳng định vị trí cao trọng của tình yêu trung thành và vô điều kiện qua việc Chúa Giêsu cho biết tình yêu là điều răn đứng đầu. Bài Tin Mừng nói lên cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với một kinh sư. Đây chính là cuộc tranh luận thứ tư của Chúa Giêsu với các kinh sư. Tuy nhiên, thái độ chân thành và khao khát học hỏi của vị kinh sư biến sự kiện đó thành một cuộc trao đổi để học hỏi hơn là một cuộc tranh luận như thường xảy ra giữa Chúa Giêsu và các kinh sư. Chúng ta thấy có một sự tương đồng và hợp lý trong bài Tin Mừng. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng ra làm hai phần: phần 1 (Mc 12:28b-31) là câu hỏi thưa – đáp giữa vị kinh sư và Chúa Giêsu, phần 2 (Mc 12:32-34) là phần nhận định hay phản ứng của vị kinh sư và Chúa Giêsu trên câu trả lời của người kia.
Phần 1 là câu hỏi-đáp về sự cao trọng của điều răn yêu thương: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?” (Mc 12:28b). Chúa Giêsu trích Đnl 6:4-5 để trả lời cho câu hỏi trên: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Câu này đứng vị trí đầu tiên trong ba bản văn Kinh Thánh mà người Do Thái phải đọc hai lần mỗi ngày. Điều răn yêu Chúa có nguồn gốc trong chính bản chất của Ngài như là Thiên Chúa duy nhất. Bốn danh từ “lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực” không ám chỉ những phần khác nhau của con người, những nói lên tính toàn bộ của con người. Nói cách khác, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa với trọn con người của chúng ta. Chúng ta có đang yêu Chúa với trọn con người của chúng ta không hay tình yêu của chúng ta đã bị phân mảnh cho những tạo vật khác? Chúa Giêsu không dừng lại ở việc yêu Chúa, Ngài thêm vào tình yêu dành cho người thân cận: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:31). Tuy nhiên, chúng ta cần cẩn trọng trong việc đồng hoá hoặc gắn hai điều răn này với nhau. Hai điều răn được nối kết với từ “yêu” và chúng được đặt song song với nhau chính là “hành động mang tính thần học” của chính Chúa Giêsu. Khi phân tích câu trả lời của Chúa Giêsu từ khía cạnh Kitô học, chúng ta nhận ra nét đặc biệt sau: Trong câu trả lời của Ngài, Chúa Giêsu không chỉ nói đến vị trí tối thượng của tình yêu dành cho Thiên Chúa, của Shema Israel, nhưng Ngài còn khẳng định vị trí cao trọng của tình yêu dành cho người khác. Hai điều răn này đi với nhau không thể tách rời. Điều này xảy ra vì sự nhập thể của Ngài. Nói cách khác, qua mầu nhiệm nhập thể, Chúa Giêsu đã mang tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người lại với nhau trong Ngôi Vị của Ngài: Ngài là Thiên Chúa thật [tình yêu dành cho Thiên Chúa] và là người thật [tình yêu dành cho người thân cận]. Chỉ có trong Chúa Giêsu, hai giới răn yêu Chúa và yêu người trở nên một. Ngài đã mang trời hoà giải với đất, giới hạn với vô hạn, tương đối với tuyệt đối, thời gian với vĩnh cửu. Như vậy, chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới có thể yêu Chúa và yêu người khác cách trọn vẹn.
Phần thứ hai trình bày cho chúng ta sự nhận định của vị kinh sư về câu trả lời của Chúa Giêsu và sau đó là nhận định của Chúa Giêsu về nhận định của vị kinh sư. Trong nhận định của mình, vị kinh sư đồng ý với những gì Chúa Giêsu trình bày mà không tỏ thái độ chống đối bằng cách nhắc lại những gì Chúa Giêsu nói. Nhưng như Chúa Giêsu thêm giới răn yêu người thân cận vào giới răn yêu Chúa, vị kinh sư cũng thêm “hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Lc 12:33). Lời này của vị kinh sư vọng lại lời của Ngôn sứ Hôsê (6:6) và lời trong sách Samuen quyển thứ nhất (15:22). Trong câu trả lời của vị kinh sư, chúng ta nhận ra nguyên lý nằm sau mọi lễ toàn thiêu và hy lễ là tình yêu dành cho Thiên Chúa và người thân cận. Có phải tình yêu Thiên Chúa và người thân cận là động lực thúc đẩy tất cả những lời nói và việc làm của chúng ta không?
Đứng trước câu trả lời khôn ngoan của vị kinh sư, Chúa Giêsu “khen” ông ta và khẳng định rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Câu nói của Chúa Giêsu không mang tính “tương lai,” nhưng là hiện tại. Nước Thiên Chúa là một thực tại mà vị kinh sư đang đứng rất gần, ngay bên cạnh. Chính tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân sẽ chuẩn bị cho ông đón nhận Nước Thiên Chúa. Đây cũng chính là điều Chúa Giêsu nhắc nhở mỗi người chúng ta: chúng ta chỉ có thể vào Nước Thiên Chúa khi tình yêu dành cho Chúa và cho tha nhân là động lực duy nhất của đời sống chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu không chỉ dạy ta về lòng yêu mến đối vời Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu TN 31-B145
Hôm nay Chúa Giêsu không chỉ dạy ta về lòng yêu mến đối vời Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”, mà còn đòi phải yêu thương đồng loại: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
1. Về tình yêu đối với Thiên Chúa, Câu trả lời của Chúa Giêsu không mới, bởi đây là giới răn trong kinh Shema mà một người Do Thái đạo đức phải đọc hai lần sáng tối mỗi ngày để cầu nguyện (x.Đnl 4, 5-9).
Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giêsu lấy lại lề luật Cựu Ước vừa để tái khẳng định điều chính yếu vừa để kiện toàn lề luật. Vì khi lặp đi lặp lại từ “hết” nhiều lần, Chúa đòi từng người phải yêu mến Thiên Chúa bằng trọn vẹn con người mình, trọn vẹn cả thân xác và trọn vẹn linh hồn mình.
Đúng hơn, tình yêu dành cho Thiên Chúa đòi sự dấn thân toàn bộ con người: Cả con tim, tâm hồn và tư tưởng. Nghĩa là tình yêu đó không chỉ trên bình diện lý trí, hay tình cảm, nhưng còn bao gồm cả thân xác, sức lực, các giác quan, đam mê, thậm chí chính sự sống và mạng sống của con người.
Đàng khác, từ “hết” đặt trước những cơ quan cao quý được xem là thượng đẳng của con người: cõi lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực còn muốn nói rằng, tình yêu dành cho Thiên Chúa khiến con người phải từ chối mọi ngẫu tượng: tiền bạc, tính dục, quyền lực, tư lợi và danh vọng… Bởi chỉ có Thiên Chúa là Chúa mọi sự, trên tất cả mọi sự.
Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nơi Ngài, tình yêu luôn tràn đầy, luôn trao ban, luôn sẵn sàng nên chốn yên bình để ta tìm về. Bởi Thiên Chúa yêu ta trước, Ngài muốn ta đáp lại tình yêu của Ngài bằng chính tình yêu của ta, không phải để Thiên Chúa thêm gì, nhưng là để ta được chiếm ngự chính sự sống và hạnh phúc viên mãn nơi lòng Chúa êm ái và dịu ngọt.
Nhưng chỉ yêu một mình Chúa thôi chưa đủ. Chúa đòi ta phải cụ thể tình yêu mà ta dành cho Chúa bằng cách yêu thương anh chị em. Không phải yêu anh chị em bằng lời nói suông chung chung, nhưng phải yêu họ như yêu chính bản thân ta vậy.
2. Thực hành tình yêu anh chị em, là thể hiện tình yêu của ta dành cho Chúa. Nói cách khác, ta yêu Chúa nơi anh chị em. Trao dâng tình yêu của mình dành cho anh chị em là cách ta chứng minh cụ thể lòng yêu mến Chúa. BỞI YÊU CHÚA THÌ PHẢI YÊU ANH CHỊ EM. YÊU ANH CHỊ EM LÀ BIỂU HIỆN CỦA LÒNG YÊU MẾN CHÚA.
Câu chuyện sau đây giúp ta hiểu và sống tình yêu đối với anh chị em, qua đó, thể hiện lòng yêu mến dành cho Thiên Chúa. Câu chuyện như sau:
Trong túi một cậu bé chỉ còn đúng một đô-la. Cậu đến cửa hàng bên đường hỏi: “Thưa bác, bác có bán Thượng Đế không ạ?”. Người chủ cửa hàng không nói gì, lo ngại cậu bé quấy rối nên mời cậu ra khỏi cửa hàng.
Trời lại sắp tối, cậu bé lần lượt đi hết cửa hàng này đến cửa hàng khác. Cuối cùng, nơi cửa hàng thứ 29, cậu được người chủ tiếp đón nhiệt tình. Đó là một ông lão hơn 60 tuổi, tóc bạc phơ, gương mặt hiền từ. Ông lấy làm lạ vì cậu bé không ra dáng một đứa bé hư hỏng, quậy phá, đồng thời cũng tò mò về “món hàng Thượng Đế” mà cậu muốn mua, nên hỏi lại: “Hãy nói cho ông biết, cháu mua Thượng Đế để làm gì?”.
Cậu khẽ khóc rồi nói: “Cháu là Tony. Cha mẹ cháu mất từ khi cháu còn rất bé. Chú Leo của cháu nuôi dưỡng cháu từ nhỏ đến giờ. Chú của cháu là công nhân xây dựng. Mới đây, chú ngã từ trên cao xuống và đang hôn mê. Cháu nghe được lời của một trong các bác sĩ nói, chỉ có Thượng Đế mới cứu được chú của cháu. Như vậy Thượng Đế chắc phải là một thứ vô cùng kỳ diệu nên cháu muốn mua về để cho chú của cháu ăn. Cháu rất mong chú Leo của cháu nhanh chóng khỏi bệnh ạ!”.
Ông lão đỏ hoe mắt hỏi: “Vậy cháu có bao nhiêu tiền nào?”.
Cậu bé nhanh nhảu đáp: “Cháu có một đô-la ạ!”.
Ông lão vội nói: “Thật may! Giá của Thượng Đế đúng một đô-la cháu ạ!”.
Nói xong, ông vào lấy một chai nước có nhãn hiệu “Nụ hôn của Thượng Đế” và đưa cho Tony. Ông nói: “Cầm lấy đi cháu! Chú của cháu uống hết chai này là sẽ khỏi bệnh!”.
Tony vô cùng mừng rỡ, ôm chai nước vào ngực tức tốc chạy nhanh về bệnh viện. Vừa bước vào phòng bệnh, cậu vui vẻ la to: “Chú ơi! Cháu đem Thượng Đế đến rồi đây! Chú sẽ chóng khỏe lại thôi!”.
Vài ngày sau, một nhóm chuyên gia y học trình độ cao nhất đã đến bệnh viện tiến hành hội chẩn cho chú Leo của cậu bé Tony.
Họ sử dụng kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới để chữa bệnh. Cuối cùng, điều kỳ diệu đã xảy ra, chú Leo của cậu bé hoàn toàn hồi phục. Ngày chú của Tony ra viện, nhìn số tiền viện phí quá lớn ghi trên hóa đơn, anh như suýt ngất xỉu.
Nhưng bệnh viện cho chú của Tony biết: “Mấy hôm trước, có ông lão đến thanh toán hết tiền viện phí cho anh. Ông là một tỷ phú. Trước đây, ông làm chủ tịch một tập đoàn đa quốc gia nhưng bây giờ đã về nghỉ ngơi và ẩn cư bằng cách mở một cửa hàng tạp hóa bán qua ngày. Nhóm chuyên gia y học kia cũng là do ông lão bỏ ra một số tiền lớn để mời đến chữa trị cho anh”.
Sau khi nghe xong câu chuyện, Leo cảm kích vô cùng. Anh mang ơn ông lão vì chính ông đã hoàn lại cho anh sự sống. Lập tức anh cùng cháu trai của mình đến tạ ơn ông. Nhưng ông lão lại chỉ vào Tony, khẽ nói: “Trước hết, tất cả chúng ta đều phải cám ơn Thượng Đế. Ngài ban cho anh cháu Tony. Chính tình yêu đơn sơ nhưng cháy bỏng của cháu đã kéo Thượng Đế vào cuộc, và Ngài đã trao quyền năng, lòng xót thương của Ngài trên sự sống của anh và cuộc đời chúng ta. Kế đến, chúng ta cám ơn cháu Tony. Chính sự hiền lành và tình cảm dạt dào của cháu đã khiến tất cả những ai nghe biết đều phải mềm lòng trước nỗi đau của đồng loại.
Chúng ta cám ơn những người đã được Thượng Đế dùng như dụng cụ của Ngài để cứu sống anh.
Chúng ta cám ơn nhau, vì mỗi chúng ta đều cần đến nhau. Tôi tặng anh chút tiền trong khối tài sản của mình, nhưng anh đã cho tôi niềm vui trọn đời. Vì từ nay, chỉ cần nhìn thấy anh hạnh phúc bên cháu Tony nhỏ bé là tôi hạnh phúc vô cùng. Chắc chắn sẽ không còn nỗi buồn nào xâm chiếm tâm hồn tôi.
Tôi cám ơn anh. Căn bệnh của anh càng lúc càng khiến tôi tin mãnh liệt vào Thượng Đế. Nơi cái chết mà anh trải qua và sự sống kỳ diệu của anh hôm nay là bằng chứng của tình yêu mà Thượng Đế ưu ái dành cho chúng ta.
Cuối cùng, tôi tin rằng, trong cuộc sống này, NẾU TÌNH NGƯỜI ĐỦ LỚN, thì dù chỉ một đô-la, vẫn đủ sức cứu sống một con người, anh ạ…”.