Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 27-B Bài 101-124 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly

Thứ bảy - 02/10/2021 08:56
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 27-B Bài 101-124 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 27-B Bài 101-124 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 27-B: Bài 101-124 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ

------------------------------------------
Phúc Âm: Mc 10, 2-12: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?” Người đáp: “Môsê đã truyền cho các ông thế nào?” Họ thưa: “Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị”. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: “Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: “Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”.
{Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.} - Ðó là lời Chúa.


---------------------------------
Mục lục:

TN 27-B101: NÊN MỘT HUYẾT NHỤC.. 2
TN 27-B102: KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY.. 4
TN 27-B103: THỦY CHUNG.. 7
TN 27-B104: HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG, TRONG Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA.. 9
TN 27-B105: KÊ TÌNH.. 11
TN 27-B106: KHI TA YÊU THƯƠNG.. 17
TN 27-B107: HÔN NHÂN, SỰ CHÚC LÀNH CỦA THIÊN CHÚA.. 18
TN 27-B108: ƠN GỌI THỦY CHUNG.. 20
TN 27-B109: HÔN NHÂN.. 22
TN 27-B110: ĐỨC GIÊSU GIẢI THÍCH LỀ LUẬT VỚI UY QUYỀN.. 23
TN 27-B111: PHÉP TÌNH KỲ DIỆU.. 25
TN 27-B112: CHUNG THỦY.. 31
TN 27-B113: NGUỒN GỐC VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA TA.. 33
TN 27-B114: Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp thì loài người không được phân ly. 36
TN 27-B115: Chúa Nhật 27 Thường Niên. 38
TN 27-B116: Trên cả ‘sợi tơ hồng’ 40
TN 27-B117: Chúa Nhật 27 Thường Niên. 42
TN 27-B118: Chúa Nhật 27 Thường Niên. 44
TN 27-B119: Chúa Nhật 27 Thường Niên. 45
TN 27-B120: Chúa Nhật 27 Thường Niên. 48
TN 27-B121: TÌM VỀ Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA.. 54
TN 27-B122: LÀM CHA VỚI SỰ HY SINH TRƯỞNG THÀNH.. 59
TN 27-B123: CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN_B.. 62
TN 27-B124: NGUỒN GỐC VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA TA.. 65

--------------------------------------

 

TN 27-B101: NÊN MỘT HUYẾT NHỤC


Lm. Thái Nguyên

 

 Trong xã hội và Do Thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không có quyền bình đẳng với nam TN 27-B101


Trong xã hội và Do Thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không có quyền bình đẳng với nam giới, vì vợ là một thứ tài sản thuộc sở hữu của người chồng. Chỉ người vợ mới phạm tội ngoại tình đối với chồng, và chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ. Đức Giêsu không chấp nhận như thế, vì “Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ”, nghĩa là có sự bình đẳng giữa đôi bên, và hôn nhân là một khế ước cam kết trọn đời, vì vợ chồng sẽ trở nên một huyết nhục.

Buồn thay, số vụ ly hôn nơi Kitô hữu ngày càng gia tăng đáng kể, và để lại một hậu quả khốn đốn cho thế hệ tương lai. Ở đây, chúng ta có thể lấy làm lạ tại sao việc ly dị đã được luật Môsê cho phép (Đnl 24,1) mà người Pharisêu còn “hỏi thử” Chúa Giêsu có chấp nhận hay không. Nếu đã cho phép thì cứ theo luật mà thực hành, hà tất phải đặt vấn đề? Khoa chú giải Thánh Kinh cho biết trong nội bộ phái Pharisêu bấy giờ quả thực đang có tranh cãi kịch liệt về vấn đề này. Phải chăng tự thâm tâm người ta vẫn ray rứt khi họ “phân ly những gì Thiên Chúa đã kết hợp”? Chúa Giêsu cho biết hiện trạng của luật Môsê chỉ là một sự nhân nhượng, vì “lòng chai dạ đá” của họ. Ngài nhắc lại nguyên lý đã có ngay từ đầu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”, để dứt khoát xoá bỏ quan điểm mập mờ cũng như lối thực hành phóng khoáng của luật cũ, đồng thời cho thấy hôn nhân là điều cao quí và thánh thiện.

Hôn nhân Kitô giáo còn có một ý nghĩa siêu vượt, đó là sự phản chiếu tình yêu thần diệu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở:“Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội Thánh”. (Ep 5, 25). Tình yêu là hy sinh, không hy sinh thì chẳng có tình yêu, hoặc đó chỉ là tình yêu trá hình và vị kỷ.

Cốt lõi của tình yêu còn là lòng trung thành: trung thành khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan; khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu; khi buồn chán và thất vọng về nhau; khi yếu đuối và vấp ngã; khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được… Nhưng không có gì là không giải quyết được trong đời sống vợ chồng: chỉ cần bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương; bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ, thì có thể trung thành với nhau, và đem lại cho nhau an vui và hạnh phúc.

Hôn nhân là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, nhưng con người phải góp phần để gìn giữ và tô điểm thêm luôn. Chính Chúa đã thiết lập giao ước hôn nhân thì chính Ngài cũng ban ơn để vợ chồng có thể “yêu thương và kính trọng nhau suốt đời”. Đó là yếu tố cơ bản để các Kitô hữu có thể tân Phúc-Âm-hoá gia đình mình và đồng thời góp phần Phúc-Âm-hoá các gia đình lương dân.

Để thực hành lời cam kết trong bí tích hôn nhân, vợ chồng cần có thời giờ ngồi lại với nhau để trao đổi những khúc mắc trong cuộc sống hằng ngày. Va chạm với nhau trong đời sống vợ chồng là điều không thể tránh khỏi, nhưng va chạm là điều cần thiết để hiểu nhau hơn, để nhìn thấy sự thật, để biết sửa sai, đưa tới hòa hợp và yêu thương nhau hơn, chứ không phải tìm cách để hơn thua khiến cho nghĩa vợ tình chồng ngày càng thêm sứt mẻ và khó mà hàn gắn.

Cần tìm hiểu lý do sâu xa của vấn đề và đặt mình trong tình cảnh của nhau, để có sự đồng cảm và thương mến nhau hơn sau những lần va chạm và sứt mẻ. Vợ chồng cần ngồi lại với nhau và với Chúa trong giờ kinh tối trong bầu khí giao hòa và nối kết lại yêu thương, xóa bỏ mọi thành kiến và nghi kỵ, để tiếp tục làm mới lại tình yêu ban đầu của mình, với tâm tình tha thiết cầu nguyện cho nhau. Vợ chồng biết sống trung thành với Chúa thì càng biết sống trung thành với nhau. Lòng yêu mến Chúa và quyết tâm xây dựng một gia đình tốt đẹp là động lực để vợ chồng dám vượt qua tất cả để sống cho nhau, vì nhau. Đó là điều kiện thiết yếu để đem lại bình an và hạnh phúc cho gia đình trong cuộc sống xã hội ngày càng có những phức tạp.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Chúng con cảm tạ Chúa sao cho vừa,
về ơn gọi Chúa ban cho tình yêu đôi lứa,
để nâng đỡ nhau trên đường hoàn thiện,
đạt tới thiên đường mơ ước ở cõi Thiên.

Hôn nhân đâu phải là chuyện tình cao hứng,
mà là dấu chứng của tình trời với đất
là khế ước để yêu thương và hợp nhất,
mà Thiên Chúa đã tác hợp cho con người.

Tình yêu vợ chồng có nhiều hoan lạc,
nhưng cũng kèm theo bao thử thách,
và xem ra hạnh phúc thật mong manh,
biết bao nhiêu ước hẹn đã không thành.

Nhưng con tin trong gia đình Kitô hữu,
dù tình yêu có khi nhạt nhòa như nước lã,
thì Chúa Giêsu vẫn làm lại thật đậm đà,
biến nước thành rượu như tiệc cưới Cana.

Ước chi mọi gia đình Kitô hữu,
phản ảnh tình yêu Đức Kitô và Hội Thánh,
như thể bức tranh luôn tươi sáng rạng ngời,
để đem lại cho các gia đình cuộc sống mới,
cuộc sống trọn đời vẹn thuỷ chung,
cuộc sống tín trung đẹp mãi đến vô cùng.

Xin cho các bạn đang hướng đến hôn nhân,
chuẩn bị cho mình một hành trang tinh thần,
biết siêng cầu nguyện và tìm hiểu học hành,
biết lãnh trách nhiệm và sống trưởng thành,
để xây dựng một Hội Thánh tại gia,
theo mô mẫu của gia đình thánh Cả.

Xin Thánh Thần luôn soi đường dẫn lối,
để gia đình nên hình ảnh Chúa Ba Ngôi. Amen.

--------------------------

 

 TN 27-B102: KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY


Lm Vũđình Tường

 

 Kết hợp hôn nhân giữa một người nam và một người nữ được hiểu là hôn nhân. Mối liên kết TN 27-B102


Kết hợp hôn nhân giữa một người nam và một người nữ được hiểu là hôn nhân. Mối liên kết bền vững, thánh thiện này Thiên Chúa thiết lập cho toàn thể nhân loại. Ngày nay đã bớt nhiều nhưng chưa hết hẳn cảnh coi thường nàng dâu. Hôn nhân bị lạm dụng khi người ta mang phong tục, văn hoá ra bào chữa cho việc đúng ra không nên làm. Đối xử tàn tệ, tàn nhẫn với nàng dâu, dưới bất cứ hình thức nào, cũng hoàn toàn trái nghịch í Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng mối liên kết thánh trong hôn nhân. Thiếu tôn trọng người phối ngẫu, thiếu bình đẳng trong hôn nhân, lợi dụng thân xác người khác là sai, trái, nghịch í định của Thiên Chúa trong chương trình tạo dựng xã hội nhân loại.

Li dị vì bất cứ lí do gì, trước khi li dị thực sự xảy ra, người ta đã li dị trong tâm hồn. Thiên Chúa liên kết hôn nhân, con người mai táng hôn nhân. Nhóm Pharisiêu thử Đức Kitô khi họ hỏi Ngài cho biết í kiến về li dị. Đức Kitô bảo họ, từ nguyên thủy Thiên Chúa tạo dựng hôn nhân. Mối liên kết vĩnh cửu này không hề thay đổi, và sẽ không bao giờ thay đổi. Họ đáp lại Ngài. Vậy tại sao tổ phụ Môisen cho phép li dị trong trường hợp ngoại tình (Mc 10:4). Đức Kitô vạch rõ cho họ biết,

‘Chính vì các ông lòng chai, dạ đá nên Môisen mới viết điều răn đó cho các ông’ Mc 10:5
Lí luận luật pháp cho li d ị. Điều này hợp pháp nhưng không hợp lí. Luật pháp không liên kết hôn nhân. Đôi tân hôn liên kết hôn nhân. Làm thế nào luật pháp có thể cho phép điều nó không liên kết.

Rõ ràng Môisen không hỗ trợ việc li dị, mà chính là do sức ép của một số cá nhân có thế lực, buộc Môisen làm điều ông không muốn. Có lẽ Môisen muốn giữ hoà khí chung trong cộng đồng nên đành chấp nhận thoả mãn yêu sách của một số, để tránh chia rẽ, đổ vỡ trong hành trình về Đất Hứa.

Mối liên kết hôn nhân vừa thánh thiện vừa bền vững. Thánh thiện bởi do lòng thành cầu xin Chúa thánh hiến mối tình của hai người. Bền vững bởi hai người ở tuổi trưởng thành, cả hai đều chân thành, tự do tuyên thề sẽ sống chung, nâng đỡ, hỗ trợ trong mọi hoàn cảnh vui buồn của cuộc sống.

Li dị chính là:

a/ Đòi tháo bỏ mối liên kết thánh thiện, bền vững.
b/ Từ chối đón nhận điều thánh thiện, tốt lành.
c/Không chấp nhận tính bền vững liên kết trong hôn nhân.
d/Phản lại điều chính họ đã tự do, long trọng tuyên.
e/Chối bỏ chính lời mình thề hứa.
f/Sống trái với í định khởi đầu của Thiên Chúa trong hôn nhân.
g/Chấp nhận sai, trái, nhưng từ chối, trốn tránh hậu quả của sai lầm. Sai đây có thể là sai trong chọn lựa, cũng có thể do lơ là, sai trong việc không chăm sóc, nuôi mối tình cao đẹp của hai người.

Đức Kitô hướng dẫn thêm cho các tông đồ về hôn nhân. Ngài nói,
‘Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình’ Mc 10:12

Cả hai cùng chung trách nhiệm nói lên, vợ chồng bình đẳng về trách nhiệm, cũng như bình dẳng về quyền lợi, không ai hơn ai. Tình trạng chồng ‘chúa’, vợ ‘tôi’ là hình thức lạm dụng, trái nghịch với giáo huấn Chúa ban. Bởi chung trách nhiệm nên chung quyền lợi.
Những gì Thiên Chúa kêu gọi con người thực hiện, Thiên Chúa ban cho con người ân sủng, và khả năng thực hiện điều Chúa mong muốn. Từ chối ơn Chúa, từ chối ân sủng Ngài, nghi ngờ khả năng của bạn. Không gì tồn tại.

Nhiều cuộc hôn nhân tổ chức mừng lễ bạc, lễ vàng, kim cương kỉ niệm ngày cưới cho thấy họ sống trung thành trong hôn nhân, cố gắng giữ trọn lời thề nguyền. Cuộc sống hôn nhân của họ cũng có niềm vui, nỗi buồn, có thuận buồm xuôi gió, có chao đảo, có chung í, có bất đồng, có hãnh diện, có ê chề. Trong hoàn cảnh như thế, cả hai cùng hỗ trợ nhau, biết ca tụng, ngưỡng mộ khi thành công. Khi thất bại không cắn cấu, chì chiết, nhưng ân cần nâng đỡ, ủi an, làm cho sầu khổ vơi đi, cùng ước mơ một ngày mai tươi sáng.

Không phải sắc đẹp, danh giá, thế lực, bảo lãnh di dân, cầm giữ hôn nhân; tình yêu chân thành giúp hôn nhân bền vững. Tình yêu chân thành cần được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ bằng nguồn tình yêu không bao giờ cạn là tình yêu Chúa. Cuộc sống hôn nhân gia đình trở nên thánh thiện, bền vững.

Khi có tranh biện quyền riêng hay trách nhiệm cá nhân. Đó là dấu chỉ của rạn nứt. Chậm chạp, chần chờ sửa chữa là cửa ngõ đến đến cửa toà.

Tất cả là nạn nhân, đôi hôn nhân, gia đình, thân nhân. Con cái dù vô tội cũng là nạn nhân không phải do lỗi của chúng mà của cha mẹ chúng. Đức Kitô đặt trẻ nhỏ vào hôn nhân cho biết xáo trộn, đổ vỡ gia đình biến con cái thành nạn nhân.

Không phải luật thành văn bảo vệ hôn nhân, mà chính là luật không thành văn. Luật đó ở trong tim. Tình yêu có sức mạnh vượt thắng mọi nghịch cảnh trong đời. Hãy dâng mối tình của bạn cho Thiên Chúa, xin sống giữ trọn lời thề.

------------------------

 

 TN 27-B103: THỦY CHUNG


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

 Các bài đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXVII TN B dường như xoáy trọng tâm vào đời sống TN 27-B103


Các bài đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXVII TN B dường như xoáy trọng tâm vào đời sống hôn nhân mà chủ đề chính là sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu phụ. Tuy nhiên điều ta cần ngạc nhiên đó là sau khi tường thuật việc Chúa Giêsu khẳng định về sự chung thuỷ vợ chồng, đạo nhất phu nhất phụ thì Tin Mừng Maccô lại kể tiếp chuyện Chúa Giêsu chúc lành cho các trẻ em, dù cho các Tông đồ phản đối kịch liệt. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nhân sự kiện ấy để dạy cho các môn đệ và chúng ta hôm nay về cách thế vào Nước Trời là hãy nên giống như trẻ thơ.

Hình ảnh trẻ thơ trong vòng tay bố mẹ hay các bé đang chập chững tập đi của tuổi lên hai, lên ba không chỉ gợi cho chúng ta nét đơn sơ trong sáng mà đặc biệt cho chúng ta thấy một sự tin tưởng vào tình yêu. Trong vòng tay mẹ, bé không hề hãi sợ. Trong bàn tay của bố, trẻ vững tin tiến bước. Trẻ thơ chính là kết quả của tình yêu đôi lứa, là hoa trái của đời sống hôn nhân. Cái hình ảnh đẹp này hẳn phải được dệt xây trong một mái gia đình mà ở đó nghĩa tình vợ chồng mãi sắt son và chung thuỷ.

Người ta không thể cho cái gì mà mình không có. Làm sao có được những người con an bình trong vòng tay bố mẹ khi mà sự thuỷ chung trong hôn nhân không được đặt lên hàng đầu? Các thống kê xã hội cho chúng ta con số về trẻ hư hỏng thì đại đa số là xuất từ hoàn cảnh gia đình không ấm êm hoặc bị chia đàn xẻ nghé.

Không khi nào hơn lúc này, những nhà xã hội học, các nhà đạo đức học, những người đứng đầu các tôn giáo, các quốc gia lại quan tâm cách đặc biệt về sự bền vững trong hôn nhân gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là cộng đồng cơ bản của Hội Thánh. Vai trò của gia đình luôn có tầm quan trọng mà không có tổ chức hay đoàn thể nào có thể thay thế cách hữu hiệu. Một xã hội mà đời sống hôn nhân thiếu bền vững, thì có thể nói là đang trên đà băng hoại. Chính vì thế thông điệp gìn giữ sự thuỷ chung trong hôn nhân luôn mang tính thời sự và cấp thiết.

Làm sao để gìn giữ sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu thê giữa một xã hội đầy biến động và chóng đổi thay như hôm nay? Một trong những cách thế gìn giữ sự thủy chung, trước sau như một của đời hôn nhân, đó là nhìn vào trẻ thơ. Một sinh linh luôn sống trong sự tín thác vào tình yêu. Không chỉ biết xây dựng lòng tin vào tình yêu của nhau mà còn hướng tâm trí của mình về hoa trái của tình yêu, đó là một trong những cách thế tuyệt vời để gìn giữ mối dây liên kết bất khả phân ly giữa vợ chồng. Điều gì Thiên Chúa đã liên kết thì con người không được phân ly. Họ không còn phải là hai nhưng là một xương một thịt. Cái sự nên một xương một thịt này được hiện thực hóa nơi chính người con, một kết quả hữu hình của tình yêu đôi lứa. Nói đến điều này chúng ta mới hiểu được tình trạng dù không phải là “đáng buồn” theo nghĩa luân lý nhưng vẫn kém vui theo nghĩa tâm lý của những cặp vợ chồng đang lâm vào tình cảnh hiếm muộn.

Văn hào Saint Exupéry từng nói:“yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng”. Dĩ nhiên giữa vợ chồng có nhiều cái hướng nhắm, thế nhưng không có hướng nhắm nào quan trọng cho bằng những đứa con. “Có vàng, vàng chẳng hay phô. Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe”. Câu ngạn ngữ tuy mộc mạc, nhưng tượng hình và đượm nghĩa. “Ba thương con, vì con giống mẹ. Mẹ thương con, vì con giống ba…” Một ca từ không chỉ thi vị mà còn đủ ý tình. Chính qua đứa con mà người cha thêm khắng khít với người mẹ và người mẹ càng gắn bó với người cha và nghĩa tình hôn nhân ngày thêm bền chặt. Khi cùng nhìn về một hướng thì người ta sẽ biết nỗ lực vượt qua những dị biệt, để rồi có sự hiệp thông, hiệp nhất cách vững bền.

Với truyền thống Á đông, để làm người thì cần rèn luyện các nhân đức nền tảng là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Dù được xếp vào hàng thứ năm, nhưng “chữ tín” như là điều kiện đủ, hầu giúp cho các đức nhân, nghĩa, lễ, trí được chính hiệu. Cần khẳng định rằng chữ tín phải được gìn giữ trước hết ngay trong đời sống hôn nhân gia đình. Trong cuộc thi “hoa hậu áo dài” lần đầu được tổ chức tại Việt Nam năm 1989, chính nhờ câu trả lời trong phần thi ứng xử đã đưa cô Maria Nguyễn Thị Kiều Khanh, một nữ tín hữu giáo xứ Vườn Xoài, giáo phận Sài Gòn, lên ngôi hoa hậu. Các thí sinh vào vòng chung kết đều được ban giám khảo hỏi câu: em yêu cái gì nhất và em ghét cái gì nhất? Kiều Khanh đã vượt qua các bạn bằng câu trả lời: “điều em ghét nhất là sự phản bội”.

Quả thật, khi sự bất trung, bất tín xuất hiện và lan tràn như chuyện cơm bữa, trở thành chuyện thường tình, thì mọi mối tương quan giữa các cá nhân cũng như tập thể chắc chắn bị gãy vỡ. Nay ký kết hôn ước, mai đường ai nấy đi thì còn gì là hôn nhân! Nay ký hợp đồng, mai lại tùy tiện hủy bỏ thì còn gì là thương mại, bán mua! Nay ký hiệp ước, mai lại đơn phương rút, hủy thì còn gì là quan hệ đối tác! Tuy nhiên, cũng cần chân nhận rằng “nhân bất thập toàn”. Phận người thì khó tránh khỏi những sai lầm đáng trách hoặc có thể lượng thứ. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nhận định: “Chúa Giêsu một đàng đưa ra lý tưởng rất cao cả về đời sống hôn nhân và gia đình; đàng khác Người chạnh lòng thương những người đau khổ trong đời sống hôn nhân như trường hợp người phụ nữ xứ Samaria hoặc người nữ phạm tội ngoại tình” (Thư Mục Vụ 2018). Không kể các trường hợp cố tình và cố chấp, thì để gìn giữ sự thủy chung thì phía người lỗi phạm cần có sự khiêm nhu, chân thành nhìn nhận sai sót và phía còn lại cần có sự quảng đại, bao dung, tha thứ.

Xin nhớ rằng sẽ không bao giờ là muộn đối với người khiêm nhu, chân thành muốn bắt đầu lại như “thưở ban đầu đầy lưu luyến ấy” (x.Kh 2,4). Bí tích Thánh Thể, tòa cáo giải là những phương thế Chúa tạo cho chúng ta cơ hội lại bắt đầu. Ước gì mỗi người chúng ta biết trao cho nhau những cơ dịp thuận lợi để giúp nhau lại bắt đầu sống tình thủy chung và giữ chữ tín trong đời sống gia đình và xã hội, giữa chúng ta với nhau và với Thiên Chúa.

---------------------------

 

 TN 27-B104: HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG, TRONG Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Để con người hạnh phúc

 

 Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế chúng ta sẽ khám phá ra ý định tuyệt vời của TN 27-B104


Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế chúng ta sẽ khám phá ra ý định tuyệt vời của Thiên Chúa khi tạo dựng Evà cho Adong là để con người hạnh phúc. Thiên Chúa đã tạo dựng Adong, thấy Adong ở một mình không tốt. Thiên Chúa khiến cho Adong ngủ say, và khi ông đang ngủ, Ngài lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại làm thành người đàn bà, rồi dẫn đến Adong, Adong thấy Evà, mắt ông sáng lên, tim ông thổn thức, lòng ông dâng trào hạnh phúc và ông kêu lên: “Wa, đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi” (x. St 2,18-23).

Adong và Evà được Thiên Chúa tạo dựng và thiết lập thành vợ thành chồng thật là đẹp. Đẹp về cách mai mối: Tạo dựng Evà xong, Thiên Chúa dẫn Evà đến mai mối với Adong. Chu đáo về cách chuẩn bị cho một gia đình mới: Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Chính Thiên Chúa đứng ra tổ chức và cử hành hôn phối cho Adong và bà Evà. Có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao là những thứ Thiên Chúa đã chuẩn bị. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận: Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2, 24). Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mc 19, 6). Hôn nhân một vợ một chồng trong ý định của Thiên Chúa thật tuyệt vời. Đúng là, đẹp thay cái thủa ban đầu.

Sự cứng lòng của các ngươi

Tình yêu của Adong và Evà, tình vợ tình chồng dành cho nhau là một thứ tình phát xuất từ tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chia sẻ tình này cho con người. Ngài đã cho con người biết về dự án yêu thương này: “Chúng ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh chúng ta” (St 1,26). Do đó, khi đáp lại tiếng gọi con tim của nhau trong ơn gọi hôn nhân là con người chia sẻ thứ tình yêu cao cả của Thiên Chúa cho nhau. Luật một vợ một chồng không phải do con người đặt ra để áp đặt trên con người. Đây là luật của Thiên Chúa, mà những gì Thiên Chúa làm thì tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho mọi loài thụ tạo trong đó có con người.

Có không ít người trong cũng như ngoài Giáo Hội Công giáo cho rằng, Giáo Hội khe khắt, đòi hỏi, không bắt kịp trào lưu tư tưởng của con người thời đại. Họ đặt ra các vấn nạn: làm gì mà phải chung thủy? Tại sao phải sống chết với một người, nhất là người ấy gây sầu khổ cho mình? Thiên hạ ly dị đầy đường có chết chóc ai đâu? Tại sao mình lại không thử một lần để may ra đổi đời thay mệnh? Đúng là tình trạng ly dị hiện nay không còn được coi là trọng tội đối với đời sống hôn nhân; nó đã được chấp thuận và hợp pháp hóa tại nhiều quốc gia trên thế giới. Nói như vậy không có nghĩa là luật “một vợ một chồng” trở nên lạc hậu và Thiên Chúa cũng đã lỗi thời! Điều mà Giáo Hội gọi là “Ơn Gọi Hôn Nhân”, chung thủy, một vợ, một chồng mới là cái làm cho đời sống hôn nhân trở nên hạnh phúc. Ly dị không phải là giải pháp cuối cùng và tốt nhất cho đời sống hôn nhân. Chính Chúa Giêsu đã xác định với những người Do Thái khi họ hỏi Người về vấn đề ly dị. Trước biện chứng của người biệt phái về việc Môisê cho phép làm giấy tờ ly dị và họ ly dị, Người đã trả lời : “…lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ” (Mc 10,…..). Môisê chỉ làm điều chẳng đừng mà Thiên Chúa làm ngơ cho phép xảy ra theo sự cứng lòng của con người. Tại sao vậy? Thưa: Vì Thiên Chúa muốn hạnh phúc cho con người.

Hôn nhân ngày hôm nay

Con người và thế giới hiện đại của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng về nhiều mặt: văn hóa, xã hội, kỹ thuật, cũng như thông tin điện toán toàn cầu… Sự thay đổi ấy tác động trực tiếp đến lễ nghĩa gia phong, tôn giáo, nhất là các gia đình, đặc biết các cặp hôn nhân trẻ.

Hơn bao giờ hết, gia đình trên thế giới đang bị đe dọa đến tận nền tảng như: nạn ly dị lan tràn, chấp nhận sống chung mà không hôn phối, khước từ con cái hoặc hủy diệt con cái từ trong trứng nước. Kết hôn giữa người cùng giới tính, một số quốc gia chấp thuận. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô XVI nhận định rằng, việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ở nhiều quốc gia là “sự bóp méo lương tâm” con người, là “mâu thuẫn với tất cả các nền văn hóa của nhân loại đã tiếp nối nhau cho đến nay, và do đó biểu thị một cuộc cách mạng văn hóa chống đối toàn bộ truyền thống của nhân loại cho đến tận ngày nay”. Để duy trì nòi giống phải là sự kết hợp giữa người nam và người nữ từ nguyên thủy cho đến hôm nay.

Đức Bênêđíctô XVI lưu ý rằng dường như ngày nay con người không còn tin tưởng vào việc sinh sản từ quan hệ luyến ái phu phụ “mà là lên kế hoạch và sản sinh ra con người một cách hợp lý”. Do đó, con người không còn là một ân sủng để đón nhận mà là “một sản phẩm do chúng ta lập kế hoạch”. Ngài đặt câu hỏi: Con người là ai? Liệu có một Đấng Sáng tạo hay không, và phải chăng tất cả chúng ta chỉ là những sản phẩm do chính con người sản xuất ra?

Là người tín hữu ai cũng biết: đơn hôn và vĩnh hôn là hai đặc tính trong hôn nhân Công giáo. Đơn hôn nghĩa là hôn nhân chỉ giữa một người nam và một người nữ. Vĩnh hôn có nghĩa là đã kết hôn thành sự và đã hoàn hợp thì hai người bị ràng buộc, phải chung thuỷ với nhau với nhau cho đến chết. Đặc tính vĩnh hôn loại trừ ly dị. Giao ước Hôn nhân bắt đầu bằng lời hứa thuỷ chung cho đến chết. Một Giao ước mang tính Bí tích, lấy Chúa ra mà thề, lấy cộng đoàn Giáo hội ra để làm chứng.

Chúng ta hãy cầu xin cho các cặp hôn nhân ngày hôm nay trung thành với giao ước hôn nhân, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào hay gặp gian lao thử thách nào vẫn mãi mãi bền chặt, thủy chung và son sắt.  Amen.

-------------------------

 

 TN 27-B105: KÊ TÌNH


Trầm Thiên Thu

 

 Thật chí lý khi ca dao Việt Nam đưa ra nhận định về tình yêu thương trong mối quan hệ phu TN 27-B105


Thật chí lý khi ca dao Việt Nam đưa ra nhận định về tình yêu thương trong mối quan hệ phu thê: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.”

Quan trọng là biết cách “kê” cho hết chênh vênh, bập bênh. Chắc chắn phải khéo léo lắm. Vợ chồng là hai con người hoàn toàn khác nhau về mọi thứ, cái mà người ta gọi là “giống nhau” hoặc “hợp nhau” cũng chỉ mang tính tương đối. Không bao giờ có hai chiếc lá giống nhau, chắc chắn cũng chẳng bao giờ có hai con người giống nhau – dù là song sinh. Chỉ là bề ngoài, hai người sinh đôi cũng vẫn có điểm khác để có thể nhận biết ai là anh (chị) và ai là em. Đối với người Công giáo, cách “kê” tuyệt vời nhất là khiêm nhường, tha thứ, nhịn nhục,…

Bất kỳ phàm nhân nào cũng có một gia đình, cho nên chẳng ai lạ gì, thế nhưng để cho “vuông tròn” một gia đình đúng nghĩa thì lại là chuyện không hề đơn giản. Vả lại, ngày nay người ta không còn đề cao vai trò gia đình, vì thế mà tỷ lệ ly thân và ly hôn đang ở mức báo động đỏ! Tình yêu – hôn nhân – gia đình là ba vấn đề, nhưng không thể tách rời nhau. Có tình yêu chân thành thì mới dẫn tới hôn nhân tốt lành, nhờ đó mà có một gia đình an bình.

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã truyền Mười Điều Răn cho ông Môsê. Đó là rường cột vững chắc của Đạo Chúa. Trong đó có điều răn thứ tư đề cập gia đình – tế bào gốc của xã hội và Giáo Hội. Gia đình như chiếc kiềng ba chân: Cha – Mẹ – Con. Ba “chân” này giúp giữ vững “chiếc kiềng” gia đình, trong đó có hai mối quan hệ chính: Phu thê, Mẫu tử hoặc Phụ tử. Đó là gia đình nền tảng. Gia đình còn hàm ý “đại gia đình” – bao gồm mọi thành phần trong Giáo Hội.

“Thảo kính cha mẹ” là điều răn thứ tư, được truyền cho con cái trong mối quan hệ với cha mẹ, vì mối quan hệ này phổ biến nhất. Ngĩa vụ đối với cha mẹ được đề cập chi tiết trong Hc 3:1-16, với câu kết này: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa.” Chương 7 của sách Huấn Ca có những lời khuyên về các vấn đề khác liên quan gia đình và xã hội. Gia đình thực sự quan trọng vì mọi sự bắt đầu từ đó – đặc biệt là các nhân đức. Tuy nhiên, có điều cần phải lưu ý: “Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc luôn ở đó.” (Thomas Fuller, 1608-1661, sử gia Anh quốc)

Điều răn thứ tư không chỉ quan tâm mối quan hệ thân thuộc giữa các thành viên gia đình và dòng tộc, mà còn đòi hỏi lòng kính trọng, yêu thương, biết ơn tổ tiên và những người lớn tuổi. Tuy nhiên, điều răn này còn mang tầm vóc rộng lớn hơn: trách nhiệm của học sinh đối với thầy cô giáo, nhân viên đối với chủ nhân, người dưới đối với người trên, công dân đối với tổ quốc và những người lãnh đạo. Nghĩa vụ đa dạng, không hề đơn giản.

Thật vậy, Giáo lý Công giáo (số 2199) cho biết: “Điều răn này bao gồm nhiệm vụ của cha mẹ, người hướng dẫn, người dạy dỗ, người lãnh đạo, quan tòa, người lãnh đạo, người có quyền trên người khác hoặc cộng đồng.” Từ hệ lụy gia đình dẫn tới các hệ lụy khác, vì xã hội là một tổng thể mang tính liên đới.

Gia đình rất quan trọng, dù đó là gia đình nhỏ hay to, giàu hay nghèo, thế nên người ta gọi gia đình là “Tổ Ấm” và là “tế bào gốc” của xã hội và Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức Kitô. Khi xuống thế làm người, chính Chúa Giêsu cũng có một gia đình, và Ngài rất yêu quý gia đình.

Khởi đầu một gia đình là khởi đầu đời sống hôn nhân chân chính. Sau khi tạo dựng con người đầu tiên trên thế gian, Thiên Chúa đã xác định: “Con người ở một mình thì không tốt.” (St 2:18a) Thế nên Ngài quyết định: “Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.” (St 2:18b) Và gia đình đầu tiên đã được tạo dựng. Ađam nghĩa là “con người” và Êva là “mẹ của chúng sinh” chứ không là tên gọi như chúng ta ngày nay.

Trình thuật St 2:19-22 cho biết rằng Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, tên nó sẽ là thế. Con người được Thiên Chúa trao quyền đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa đã biết trước “nỗi niềm” của con người như vậy, Ngài biết con người sẽ “khắc khoải” vì cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tình cảm. Và rồi Ngài cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Lúc đó, Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút ra từ con người, làm thành một phụ nữ và dẫn đến “ra mắt” con người. Chua choa, vừa lạ vừa đẹp!

Nhìn thấy “sinh vật lạ,” giống mình mà vẫn khác mình, chắc là lúc đó con người bối rối lắm. Chuyện đời xưa nay là thế. Con người thích thú và nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” (St 2:23) Việt ngữ gọi “sinh vật lạ” đó là nàng, là em, là phụ nữ, là nội tướng, là vợ,… Kinh Thánh xác định: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2:24) Nam châm khác dấu thì hút nhau mạnh lắm, đến nỗi “bỏ” cha mẹ mà theo nhau kia mà. Vì là xương thịt của nhau nên vợ chồng ngày xưa gọi nhau là “mình ơi!” Việt ngữ thật là độc đáo!

Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu, vấn đề quan trọng là về lâu về dài. Ngày cưới là ngày hạnh phúc nhất, nụ cười tươi nhất, y phục đẹp nhất, nhưng đó chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Chuyện vợ chồng là chuyện ăn đời ở kiếp chứ không chỉ vài tháng hoặc vài năm, trong khi vốn dĩ “đời là bể khổ.” Cái khó là chỗ đó. Lâu ngày dày kén, liệu vợ chồng còn có thể cười với nhau và cười với người khác hay không?

Chuyện cũ mà không bao giờ xưa. Vào giữa năm 2015, có một phiên tòa ly hôn kỳ lạ và hy hữu tại Đăk Mil, Đăk Nông. Phiên tòa này phân xử chuyện ly hôn của hai vợ chồng Đặng Văn Đó (sn 1985) và Phạm Thị Lụa (sn 1987), người dân ở Đăk Rla (Đăk Mil, Đăk Nông) quá đỗi bất ngờ. Tại sao? Đôi uyên ương ấy đã từng yêu nhau tới gần 5 năm, cố gắng vượt qua sự ngăn cấm của hai bên gia đình để có thể được ở bên nhau. Thế nhưng, ở với nhau chưa đủ “ấm hơi” đã vội dẫn nhau ra tòa ly dị. Nguyên nhân là việc tranh giành giữ của hồi môn và thùng tiền cưới, mâu thuẫn xảy ra ngay trong đêm tân hôn chỉ vì… tiền. Thảo nào người ta gọi là tiền tệ!

Hạnh phúc không thể tự dưng mà có hoặc “ngẫu nhiên” như trái sung rụng, mà nó phải được vun xới bằng hy sinh, mồ hôi, nước mắt, và từ hai phía. Cây cảnh chỉ có thể tươi đẹp nếu nó được chăm sóc, vun tưới. Hạnh phúc gia đình cũng vậy. Hạnh phúc kỳ diệu ở ngay bên chúng ta chứ không cần tìm kiếm ở nơi nào xa lắc xa lơ: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may!” (Tv 128:2) Hạnh phúc vô hình mà thực tế, đừng ảo tưởng mà đứng núi này trông núi kia! Nam nữ đến với nhau vì hạnh phúc của nhau – vừa vị kỷ vừa vị tha. Đó là hạnh phúc chung – của chính mình và của người bạn đời.

Sự thật không mơ hồ, mà rất minh nhiên: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là PHÚC LỘC Chúa dành cho kẻ kính sợ Người.” (Tv 128:3-4) Đó là ước mơ không của riêng ai, nhưng khó là mỗi thành viên trong gia đình đều phải cố gắng để có thể biến ước mơ đó thành sự thật ngay trên cõi đời này. Thánh Vịnh gia cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu.” (Tv 128:5-6)

Có được hạnh phúc gia đình không phải dễ, chúng ta sẽ chẳng làm nên trò trống gì nếu thiếu ơn Chúa. Ơn Chúa luôn dồi dào, nhưng vấn đề là chúng ta có thành tâm đón nhận hay không. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện cho chúng ta: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.” (Ga 17:17) Chính sự thật sẽ tạo nên hạnh phúc gia đình, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. (x. Ga 8:32)

Có câu chuyện về Con Muỗi và Ba Giọt Máu thế này: Người chồng hết lòng thương yêu vợ, nhưng người vợ lại có thói trăng hoa, cứ nhân tình nhân ngãi với người kia, kẻ nọ. Một hôm, bỗng dưng người vợ lăn ra chết.

Người chồng buồn rầu, ôm xác vợ và bỏ xứ ra đi. Một hôm, anh ta gặp một đạo sĩ và cầu xin cứu sống vợ. Chạnh lòng thương cảm, đạo sĩ bảo người chồng chích vào ngón tay rồi nhỏ ba giọt máu lên xác vợ. Người chồng làm theo và người vợ hồi sinh.

Hai vợ chồng cùng nhau trở về quê cũ. Người chồng tưởng rằng người vợ hồi tâm và sẽ sống đời với mình, nhưng ngựa quen đường cũ, người vợ bỏ đi theo một tay lái thương giàu có. Hết lời khuyên can không được, người chồng nói: “Nàng có thể ra đi nhưng xin trả lại tôi ba giọt máu.” Người vợ chích ngón tay lấy máu hoàn trả. Nhưng lạ thay, máu vừa chảy ra thì nàng cũng tắt thở.

Chết đi, nàng hóa thân thành con muỗi, tìm người để lấy lại ba giọt máu, và mong được hồi sinh. Nàng bay tới đâu cũng bị xua đuổi, nên luôn miệng vo ve than vãn. Do đó, chỉ có Muỗi Cái mới hút máu động vật.

Duy trì tiếng cười trong gia đình là duy trì hạnh phúc, chắc chắn Thiên Chúa sẽ chúc lành và hứa ban Nước Trời mai sau. Cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày cũng là cách “tử đạo liên lỉ.” Có vẻ đơn giản vậy chứ không hề dễ dàng! Thánh Phaolô cho biết: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.” (Dt 2:9) Gia đình nhỏ có hạnh phúc thì gia đình lớn mới có hạnh phúc.

Tất cả chúng ta, không phân biệt gì, đều là thành viên trong Đại Gia Đình của Thiên Chúa. Gia đình nhỏ cần có hạnh phúc để vui sống và phát triển, gia đình lớn cũng vậy. Thánh Phaolô xác định: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em.” (Dt 2:10-11) Chúng ta chỉ là tội nhân mà được Thiên Chúa nhận là huynh đệ thì quả là trên cả tuyệt vời rồi!

Gia đình được mệnh danh là tổ ấm, nhưng gia đình không có hạnh phúc thì chỉ là tổ lạnh và bất hạnh. Gia đình thiếu hạnh phúc sẽ dẫn đến cảnh vợ chồng ly thân hoặc ly hôn. Dù là dạng “ly” nào cũng là “chia ly,” dạng nào cũng tệ hại vì gây bất hạnh – cho chính hai vợ chồng, nhất là bất hạnh cho con cái, vì chúng sẽ bị ảnh hưởng xấu về tâm sinh lý.

Theo trình thuật Mc 10:2-12, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi người chồng có được phép rẫy vợ hay không. Họ hỏi thế là để thử Ngài thôi, tâm địa của họ thế nào thì còn ai lạ gì nữa! Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng họ nên Ngài trả lời họ bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ nói rằng ông Môsê đã cho phép chồng viết giấy ly dị mà rẫy vợ. Ngài nói: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ LÌA cha mẹ mà GẮN BÓ với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, SỰ GÌ THIÊN CHÚA ĐÃ PHỐI HỢP, LOÀI NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY.”

Có nhiều dạng ơn gọi. Hôn nhân là một ơn gọi. Vợ chồng được mời gọi diễn tả tình yêu phối ngẫu qua 3 chữ T: Thân mật, Thủy chung và Thanh tịnh (khiết tịnh). Với 3 chữ T đó, cả vợ và chồng đều phải tự nhủ: “Tôi Trung Thành.” Đó không chỉ là lời hứa với nhau mà chính là hứa với Thiên Chúa: “Anh/em nhận em/anh làm vợ/chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em/anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian lao, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời anh/em.” Lời đó không là lời hứa bình thường theo nghi thức, mà là lời “thề độc,” vày không ai có thể “giải” được.

Hôm đó, khi về đến nhà, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu về vấn đề phu thê. Ngài cho biết: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình.” Tội lỗi có tính liên đới, hệ lụy, và các “cấu trúc tội” cũng có căn nguyên trong trách nhiệm của tội cá nhân. Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách thức chúng ta có thể phạm tội. Đó không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên lụy các tội do người khác phạm trực tiếp.

Tình trạng đó gọi là liên lụy tội lỗi. Các thánh nói gì về tội lỗi? Thánh Piô Năm Dấu khuyên: “Hãy tiến bước một cách đơn sơ trên đường lối Chúa, và đừng làm khốn khổ trí lòng mình. Hãy học cho biết gớm ghét tội lỗi, nhưng hãy gớm ghét một cách điềm tĩnh.” Thánh Cyril, người Giêrusalem, phân tích: “Tội lỗi là sự dữ đáng kinh sợ, nhưng với người biết sám hối thì rất dễ chữa lành.” Thánh Moses, người Ethiopia, cho biết: “Thiên Chúa sẽ KHÔNG nhậm lời chúng ta cầu nguyện nếu chúng ta KHÔNG nhận mình là tội nhân. Chúng ta thực thi điều ấy khi chúng ta suy xét về tội lỗi của chính mình, chứ không suy xét tội lỗi của tha nhân.” Lòng thương xót của Chúa vẫn bao la, chỉ cần tội nhân thành tâm sám hối mà thôi. Hãy đứng dậy ngay, đừng bao giờ thất vọng!

Điều cần chú ý: Chúng ta đang sống thời cuối, thời mà ma quỷ tấn công mạnh về các giá trị gia đình. Thánh Piô Năm Dấu nhắc nhở: “Hãy yêu mến Đức Mẹ và hãy lần chuỗi Mân Côi, vì chuỗi Mân Côi là vũ khí chống lại sự dữ trong thế giới ngày nay. Mọi ân sủng đều được Thiên Chúa trao ban qua Đức Mẹ.”

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con nhận thức và ý thức về giá trị gia đình, nhờ vậy mà nỗ lực tuân giữ Luật Ngài truyền là bảo vệ gia đình, nhân phẩm và luân lý. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

--------------------------

 

 TN 27-B106: KHI TA YÊU THƯƠNG


Bông hồng nhỏ

 

 Con người gắn bó với nhau bởi hai chữ tình yêu. Có tình yêu, người ta sẽ cùng nhau vượt qua TN 27-B106


Con người gắn bó với nhau bởi hai chữ tình yêu. Có tình yêu, người ta sẽ cùng nhau vượt qua muôn vàn trở ngại, muôn nỗi đau thương và cả biết bao khó khăn sóng gió gặp trên đời. Để có thể yêu nhau và cùng nhau đi hết cả đời trong mối tình phu thê, người ta phải làm gì? Nếu hết yêu nhau thì chỉ còn cách đường ai nấy đi hay sao? Hôm nay, khi các người Pharisêu hỏi Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” họ hỏi thế chỉ để thử Người, Người đã khẳng khái tuyên bố: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9).

Thầy Giêsu biết rõ tâm địa của họ nên hỏi lại: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10, 3-4). Rõ ràng, họ đã biết luật dạy nhưng vẫn dò hỏi ý của Người. Người chỉ cho họ thấy rằng, ông Môsê làm thế chỉ vì bất đắc dĩ, vì dân chúng kêu ca phàn nàn, vì họ cứng lòng cứng dạ mà ông đành phải nhượng bộ. Thầy Giêsu nói rõ quan điểm của mình, chỉ cho dân chúng thấy rằng khởi đầu công trình tạo dựng ý định của Thiên Chúa là tạo dựng con người có nam có nữ để họ gắn bó nên một với nhau trong tình yêu (x. Mc 10, 6-8). Khi hai người yêu nhau, đến với nhau để nên vợ nên chồng, họ được Thiên Chúa chúc phúc. Tình yêu của họ diễn tả tình yêu mà Thiên Chúa dành cho dân người. Đó là một tình yêu luôn dâng hiến, duy nhất và bất khả phân ly. Đó cũng thực sự là một cam kết vĩnh viễn, một tình yêu chung thủy đến cùng. “Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).

Ta tự hỏi: “Điều gì đã giúp bố mẹ của ta có thể gắn bó với nhau cả đời, yêu thương nhau cả đời?” Các ngài đã luôn sống đức tin của mình, tình yêu của các ngài không được diễn tả qua những lời mật ngọt nhưng là sự chân thành và bằng khả năng cho đi, dâng hiến và bằng sự tự hạ, bằng những hy sinh âm thầm mà liên lỉ, và bằng những dấu chỉ của sự thánh thiện. Các ngài có xảy ra mâu thuẫn và cãi cọ không? Có, rất nhiều và cả những tổn thương. Nhưng giữa các ngài luôn có sự kính mến Thiên Chúa. Các ngài ý thức rõ giao ước mà mình đã ký với nhau trước mặt Chúa và Hội thánh. Các ngài đã dâng lên Chúa những biến cố xảy ra trong đời, những hiểu nhầm hay cả những đau thương, những nỗi lo toan mà các ngài phải trải qua. Tình yêu mà các ngài dành cho nhau được đan dệt qua muôn thăng trầm của cuộc sống, được đặt trọn trong đức tin và lòng kính sợ Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong tông huấn Gaudete Et Exsultate rằng: “Bạn được gọi sống đời thánh hiến? Hãy nên thánh bằng việc vui tươi sống trọn lời cam kết của bạn. Bạn kết hôn? Hãy nên thánh bằng việc yêu thương và chăm sóc vợ hay chồng của bạn, như Đức Kitô yêu thương và chăm sóc Hội thánh” (số 14). Và đây là lời Thầy Giêsu đã dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu thương đến nỗi hy sinh cả tính mạng mình vì người mình yêu.

Tình yêu đích thực không dừng lại ở sự ngưỡng mộ người mình yêu, không chỉ là những lời nói ngọt ngào êm ái nhưng là khả năng cho đi chính bản thân mình, khả năng bắt chước lối sống của Thầy Giêsu. Chỉ khi nhìn lên Đức Kitô trên thập giá, được Ngài lôi cuốn và thúc đẩy, ta mới dần học được cách yêu như Ngài, và chỉ khi ta thực sự đụng chạm đến vết thương của Người nơi những nỗi đau khổ của những người anh chị em, khi ta săn sóc, phục vụ họ, tâm trí ta luôn đau đáu một nỗi niềm là mang lại cho người ta yêu thương niềm hạnh phúc. Mỗi lần ta bỏ đi ý riêng, không còn chỉ nghĩ đến nhu cầu và quyền lợi của mình, ta đang dần cho phép Thiên Chúa làm trên ta những điều kỳ diệu, những dấu chỉ của tình yêu dâng hiến. Chính lúc ấy, Đức Kitô đang chi phối và làm chủ đời ta, đang yêu thương trong ta.

Lạy Thiên Chúa tình yêu! Chúa đã chẳng bao giờ từ chối con, chẳng bao giờ quay mặt làm ngơ trước nỗi thống khổ của con. Con cảm tạ Chúa đã luôn đốt lên trong con ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu, ngọn lửa thiêu rụi đi sự cứng cỏi nơi con, thiêu rụi sự khô khan và cả lớp vỏ của sự ích kỷ. Chúa làm cho con biết cất bước ra khỏi mình, đôi lúc chỉ để làm một việc hy sinh rất nhỏ mọn nhưng con tin, để làm được một việc bé mọn đó, con cũng đã phải cậy nhờ đến ơn Chúa. Nếu không có Chúa, tình yêu trong con sẽ dần héo mòn và có thể chết đi nếu Chúa không trợ giúp và làm cho sống. Xin Chúa cho tất cả chúng con biết để cho Thánh Thần tình yêu của Chúa hướng dẫn, để khi yêu thương nhau, tình yêu của chúng con phản ánh rõ nét hơn tình yêu của Chúa. Amen.

----------------------------

 

 TN 27-B107: HÔN NHÂN, SỰ CHÚC LÀNH CỦA THIÊN CHÚA


Thiên San

 

 Trong số những người đến nghe Đức Giêsu giảng dạy, có không ít người đến vì yêu mến, lòng ham TN 27-B107


Trong số những người đến nghe Đức Giêsu giảng dạy, có không ít người đến vì yêu mến, lòng ham thích, sự tò mò, hay được chữa lành nhưng cũng không thiếu những người đến chỉ để gài bẫy, để thử Người. Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về việc những người Pharisêu đến gặp Đức Giêsu để thử Người. Họ hỏi Người về vấn đề li dị (x.Mc 10, 2-16). Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta thấy, từ ban đầu, hôn nhân đã được Thiên Chúa chúc lành.

Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện rất thường tình của con người. Khi đôi bạn trải qua việc tìm hiểu, yêu thương nhau và đi đến việc muốn làm bạn đời của nhau, họ cùng nhau đăng ký kết hôn, chịu phép bí tích Hôn phối đối với những ai thuộc về đạo Công Giáo. Việc kết hôn mới chỉ là bước khởi đầu của đời sống hôn nhân, còn việc làm sao để duy trì tình yêu, hạnh phúc trong đời sống gia đình là cả một hành trình dài đến khi nhắm mắt lìa đời. Hôn nhân Công Giáo mời gọi đôi bạn chung thủy với nhau suốt đời, một vợ một chồng. Tuy nhiên, để gìn giữ hạnh phúc ấy và để chung thủy với nhau trọn đời không phải là điều dễ dàng. Bởi đó, chúng ta thấy nhan nhản các câu chuyện về việc ly dị của các cặp vợ chồng. Việc li dị không phải chỉ mới xuất hiện gần đây, nhưng vào thời Đức Giêsu đã có.

Đức Giêsu cho chúng ta một trả lời thích đáng bằng việc dẫn chúng ta trở về nguồn gốc của tạo dựng. Thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ, người nam sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình cả hai thành một xương một thịt (x.St 2, 24). Khi trả lời sự chất vấn của những kinh sư, Đức Giêsu còn nhấn mạnh cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sự nên một ấy khi nói: “ Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9). Thiết nghĩ, việc kết hôn của người nam và người nữ không còn là chuyện của con người nhưng là một điều luật tốt đẹpThiên Chúa dành tặng cho con người. “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người” (St 2, 22). Đó là cuộc hôn nhân đầu tiên của nguyên tổ con người, được Thiên Chúa chúc phúc. Từ đó, Thiên Chúa chúc phúc cho tất cả các cặp vợ chồng, mời gọi họ chung thủy với nhau.

Lần mở lại sách Sáng Thế, chúng ta sẽ đọc thấy cuộc hôn nhân tốt đẹp giữa Ixaac và Rêbêca. Theo lời của gia đình cô Rêbêca thì đó là cuộc hôn nhân do Thiên Chúa xe định: “Việc này Đức Chúa đã xe định, chúng tôi không thể nói thuận hay không thuận nữa. Rêbêca đang đứng trước mặt ông đây, ông cứ đưa nó về. Nó sẽ thành vợ của con trai chủ ông, như Đức Chúa đã phán” ( St 24, 50). Đối với người Công Giáo, việc kết hôn không chỉ đơn thuần theo luật đời, phải đăng ký kết hôn nhưng cao trọng hơn đó là một bí tích. Họ cùng nhau cử hành bí tích Hôn Phối trước sự chúc lành của Thiên Chúa và sự chứng kiến của cộng đoàn. Đôi vợ chồng được cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng khi sinh thành và dưỡng dục con cái. “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9). Đó là điều luật Thiên Chúa ban cho con người qua Đức Giêsu. Nhưng đời sống hôn nhân gặp nhiều khó khăn, việc chung thủy trọn đời là một thách đố lớn cho các cặp vợ chồng. Chung thủy nghĩa là bên nhau trọn đời, yêu thương, tôn trọng, tha thứ và đón nhận, cùng chia sẻ trách nhiệm sinh thành và dưỡng dục con cái theo giáo huấn của Chúa. Khi không thể chu toàn những đòi hỏi này, không ít các đôi vợ chồng đã quyết định chia tay. Khi chọn giải pháp li dị, vô hình dung con người đã vi phạm điều luật của Thiên Chúa.

Chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, Thiên Chúa đã làm một việc thích đáng là cho Đức Giêsu trải qua nhiều đau khổ, cam chịu tử hình, trở thành vị lãnh đạo thập toàn và để cho muôn người được ơn cứu độ (x. Dt 2, 10). Qua đời sống hôn nhân, chúng ta được mời gọi noi gương Đức Giêsu, vị lãnh đạo thập toàn, can đảm vượt qua mọi khó khăn, thách đố trong đời sống hôn nhân để cùng nhau đạt đến nguồn ơn cứu độ. Khi trung thành tuân giữ lời cam kết trong đời sống hôn nhân, chúng ta đang cùng giúp nhau đạt đến ơn cứu độ trong bậc sống của mình. Đời sống hôn nhân là lời cam kết thánh thiêng, bởi nó được Thiên Chúc chúc lành, thánh hóa. Đó cũng là cách Thiên Chúa mời gọi vợ và chồng diễn tả tình yêu cao trọng giữa Đức Kitô và Hội Thánh.

-------------------------

 

 TN 27-B108: ƠN GỌI THỦY CHUNG


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

 Đời sống khấn hứa trong ơn gọi linh mục, tu sỹ hay hôn nhân đều đã kết ước bằng mối dây chung TN 27-B108


Đời sống khấn hứa trong ơn gọi linh mục, tu sỹ hay hôn nhân đều đã kết ước bằng mối dây chung thủy. Thủy là khởi đầu, chung là cuối cùng. Như vậy, thủy chung nghĩa là trước sao thì sau vậy, vẫn một lòng khăng khít, ngày càng bền chặt trong ơn gọi dấn thân. Chung thủy ví vậy không là một tình cảm nhất thời mà là một kết ước dài lâu. Biết bao nhiêu thay đổi sẽ đến, rồi cả những lần trượt ngã, giữ được chung thủy luôn cần có những nguyên tắc cơ bản.

Thủy chung cần có đời sống đạo đức.

Tình yêu có nhiều cung bậc, nhưng khi đến với nhau để kết ước hôn nhân, luôn luôn là một lời hứa: Sẽ “yêu nhau mãi mãi”, một tình yêu dành cho nhau bền chặt để nên một gia đình. Một lời cam kết rất tự nhiên để đi đến siêu nhiên, trong ơn gọi bí tích hôn nhân. Là một ơn gọi nên thánh nên đời sống hôn nhân cũng cần đến chất liệu của tâm hồn đạo đức, không làm gì sai trái trong luân thường đạo lý.

Thủy chung cần đón nhận nhau.

Đón nhận nhau là một hành vi liên tục được thực hiện trong ơn gọi hôn nhân. Có những điểm sáng, tốt lành nơi mỗi người. Nhưng cũng có cả những khuyết điểm, lỗi lầm có thể nhiều lý do xảy đến. Chung thủy cần yêu thương cả điều tốt lẫn điều xấu. Cả những khi mạnh khỏe và đau yếu, khi thịnh vượng cũng như khi gian nan. Lời kết ước này là cơ bản cho việc đón nhận nhau một cách chân thành, để nhận ra mỗi người một phẩm vị cao quý hơn và tôn trọng nhau nhiều hơn.

Duy trì lời cam kết.

Để luôn nhắc nhớ về nhau cũng cần có nhiều thời gian dành cho nhau, không chỉ ở giai đoạn đầu của thời mới cưới nhau. Một đời sống nhạt trong tình yêu như Chúa nói: “Lấy gì ướp cho mặn lại” (Mt 5, 13). Nuôi dưỡng tình vợ chồng bằng những lần tâm sự, trao đổi, cùng nhau tận hưởng những kỳ nghỉ, những giây phút như xưa đã từng hẹn hò, mang đầy thi vị, dịu êm từng câu hát yêu nhau. Thông thường, khi đã có con, chuyện tiền nong, chuyện cơm nước, chuyện con cái … làm mất đi những gì cần thiết nuôi dưỡng tình vợ chồng.

Sẵn sàng tha thứ và làm mới lại.

Cuộc sống luôn có những sai làm và trượt ngã. Có những vấp ngã không thể đứng dậy, tàn phế suốt đời; nhưng cũng có những trượt ngã để có thể làm mới lại bằng tình yêu tha thứ. Chúa nói tha thứ đến bảy mươi lần bảy, có nghĩa là tha thứ ngay cả khi không thể nối lại như xưa. Tha thứ để thấy thời gian là phương thuốc chữa lành, tha thứ để chính mình cũng được tha thứ. Tha thứ để chính lòng mình được nhẹ nhàng khỏi những buồn đau. Nếu không thể, hãy tìm đến Lòng Chúa Thương Xót để nghiệm thấy tình yêu chữa lành của Chúa và nhờ chính Chúa chữa lành vết thương nhói lòng đau.

Đón nhận khoảnh khắc cô đơn

Giống như tiệc cưới Cana đang vui và thiếu rượu. Không chỉ đời sống độc thân mới cảm thấy đôi khi lạc lõng cô đơn. Chẳng ai hiểu mình và ngay cả lúc mình cũng chẳng hiểu mình. Đời sống tình yêu, hôn nhân cũng vậy! Đi bên nhau mà chẳng ai hiểu ai, lặng lẽ, nặng trĩu cô đơn. Buồn chẳng thể nói, im lặng trong nỗi cô đơn. Cuộc sống bỗng như thiếu đi sức sống và có lúc muốn phá đi tất cả, chẳng cần gì…

Có những khi cuộc sống đang suôn sẻ công ăn việc làm, nhà cửa gia đình an lành, bỗng đâu bất hạnh ập tới, chẳng phải tại ai mà do duyên cớ hoàn cảnh xã hội, tai nạn ập tới, đau bệnh ùa đến. Những bất trắc chẳng ai chờ vụt đến mang nhiều đau buồn.

Thiếu rượu, thiếu tình yêu, thiếu nhiệt huyết để sống, thiếu người hiểu được mình, bị cướp mất sự an lành… Giữa những lúc ấy, như muốn nhắn nhủ, có một nơi cậy trông bền vững là Chúa. Như đôi uyên ương có Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các tông đồ đến dự tiệc vui ngày cưới. Chúa muốn được mời vào dự bàn tiệc cuộc đời ta, những lúc cuộc đời đang vui, những khi khởi đầu cho những điều mới, và cả khi gia đình đang bước vào hạnh phúc. Đón Chúa vào cuộc đời mình, để có thể tìm thấy những thứ rượu ngon của cuộc sống qua mỗi lần thất vọng, cô đơn, chán chường.

Thủy chung vẫn là một tình yêu kết ước, từ khi bắt đầu cho đến kết thúc. Một tình yêu cho nhau, vì nhau, dấn thân cùng nhau. Biết nuôi dưỡng tình yêu, để biết vượt qua để tìm thấy hạnh phúc mình đã lựa chọn, để sống với lời thề ước.

Xin Chúa trợ giúp chúng con trong lời nguyện thủy chung.

------------------------------

 

 TN 27-B109: HÔN NHÂN


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

 Mọi loài có cặp có đôi, Có nam có nữ, chung nôi sống đời. Con người đáng quý cao vời, Hóa công TN 27-B109


Mọi loài có cặp có đôi,
Có nam có nữ, chung nôi sống đời.
Con người đáng quý cao vời,
Hóa công phú bẩm, rạng ngời thế nhân.
Nữ nam kết hợp góp phần,
Hôn nhân khế ước, nên thân vợ chồng.
Sống đời hạnh phúc tơ hồng,
Chung tình tín nghĩa, đả thông mọi bề.
Yêu thương gắn kết lời thể,
Xin đừng ly dị, ê chề phá tan.
Khởi đầu Tạo Hóa thương ban,
Một chồng một vợ, hỉ hoan sống đời.
Đông con nhiều cháu nối đời,
Hưởng vui cuộc sống, tuyệt vời biết bao.
Chúa ban ân lộc dồi dào,
Chúc lành Hôn Phối, tuôn trào hồng ân.

 Thiên Chúa tạo dựng loài người có nam, có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho xã hội loài người. Thiên Chúa đã kết hợp hai người nam nữ Ađam và Evà thành đôi vợ chồng đầu tiên. Người nữ Evà là bạn đồng hành gắn bó với Ađam làm nên một gia đình. Thế rồi hôn nhân này nối tiếp hôn nhân kia làm thành một gia đình nhân loại. Thiên Chúa đã tạo dựng con người trong sự bình đẳng để nâng đỡ nhau.

Con người phát triển dần theo năm tháng. Theo lệnh truyền của Thiên Chúa, con người phải sinh xôi nẩy nở cho đầy mặt đất. Biết bao đời đã trôi qua, con người không phụ lòng ủy thác của Thiên Chúa. Con người đã tìm được hạnh phúc trong đời sống gia đình. Mỗi cặp vợ chồng là một cuộc tình dài và là cuộc lữ hành song đôi. Có những cuộc sống gia đình không đơn giản. Nhiều gia đình đã phải đối diện với những vấn đề mâu thuẫn nội bộ. Họ cũng phải trải qua muôn vạn sầu đắng cay. Tình yêu phải phấn đấu không ngừng và phải xây đắp hạnh phúc từng ngày.

Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại: Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân rẽ. Có nhiều cặp vợ chồng phải đối diện với những chua cay và xót xa cuộc đời. Họ bị gẫy gánh dọc đường. Họ thất bại trong sự tín trung. Họ thiếu kiên nhẫn chịu đựng lẫn nhau để rồi gây nên những mối nghi ngờ và tạo nên bầu khí gia đình như hỏa ngục. Họ muốn ly thân hoặc ly dị nhau. Đây là những thất bại trong đời sống hôn nhân. Họ muốn thoái thác trách nhiệm.

Trong đời sống gia đình phải có yêu thương, tha thứ và trung tín với nhau. Cần có sự thông cảm và hiểu được ý nhau thì mọi sự sẽ xuôi chảy. Nhớ câu truyện của một cặp vợ chồng đã cao niên. Họ đã mừng 40 năm ngày thành hôn. Ngày đó, sau tiệc mừng kỷ niệm, vợ chồng về nhà và trước khi đi ngủ muốn có gì ăn lót dạ. Vợ lấy Ham, Mustard và cà chua để lên bàn, trong khi chồng lấy bánh mì lát. Làm xong bánh kẹp, ông cắt đôi và trao cho vợ miếng bánh mì ngoài biên. Bà hậm hực nói : Đã 40 năm, tôi không nói. Tôi đã chịu đựng ông. Tại sao tới hôm nay, ông còn cho tôi miếng vỏ bánh mì mà tôi không hề thích. Còn ông thì qúa ngại và nói rằng: Tôi lại thích nhất những miếng bánh mì ngoài bìa. Một sự hiểu lầm!!!

Còn sống chúng ta còn phải phấn đấu không ngừng. Gia đình chúng ta đã phải phấn đấu rất nhiều nên mới có được hạnh phúc như ngày hôm nay. Ngày hôm nay lại cứ tiếp tục như dòng nước vẫn cứ trôi. Cuộc đời vắn gọn, chúng ta hãy sống và sống hạnh phúc từng giây phút trong cuộc đời. Hạnh phúc đang trong tầm tay. Cố gắng mỗi ngày sẽ đưa chúng ta lên cao và sống hạnh phúc hơn. Càng lên cao, càng thanh thản. Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta những giây phút tuyệt vời bên nhau.

-----------------------

 

 TN 27-B110: ĐỨC GIÊSU GIẢI THÍCH LỀ LUẬT VỚI UY QUYỀN


Lm. Phêrô Lê văn Chính

 

 Chủ đề ly dị là chủ đề nóng bỏng của mọi thời, vào thời Chúa Giêsu, chủ đề này được tranh luận TN 27-B110


Chủ đề ly dị là chủ đề nóng bỏng của mọi thời, vào thời Chúa Giêsu, chủ đề này được tranh luận giữa các bậc thầy do thái. Người ta thấy có hai trường phái danh tiếng, trường phái của Hillel vốn chủ trương khá tự do, chấp nhận nhiều lý do cho phép chồng có thể ly dị vợ, ngược lại trường phái của thầy Shammai thì nghiêm ngặt hơn, chỉ chấp nhận một số lý do hạn chế cho phép ly dị. Hơn nữa, theo luật do thái, chỉ có người đàn ông có quyền ly dị vợ, thì lập trường của thầy Shammai lại bênh vực quyền lợi của người đàn bà.  Vì thế, khi những người biệt phái đặt câu hỏi với Chúa Giêsu có được phép ly dị vợ mình không thì họ vốn đã thực hành việc ly dị theo luật Môisen, và họ đặt câu hỏi với Chúa Giêsu chỉ là để thử người. Bẩy mà họ giăng ra rất rõ ràng, và tùy vào câu trả lời của Chúa Giêsu mà người ta sẽ qui kết cho người theo chủ trương nghiêm ngặt hay chủ trường dễ dãi. Câu trả lời của Chúa Giêsu đi ngược lại luật Môisen và vượt trên luật Môisen. Người tỏ ra là Đấng giải thích lề luật một cách mới mẻ và đầy uy quyền. Người mời gọi những người biệt phái đọc lại bản văn Sáng thế ký là bản văn luật cổ thời hơn cả để họ thấy được ý nghĩa ban đầu của Thiên Chúa tạo dựng. Bản văn Sáng thế ký cho thấy hình ảnh hai người nam nữ, Ađam và Evà được tạo dựng với phái tính của họ, đều là hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa. Sự cao cả của họ là ở chỗ họ là hình ảnh của Thiên Chúa với sự khác biệt phái tính, họ được tạo dựng hướng về nhau và sống với nhau theo ý định nguyên thủy của Thiên Chúa: cả hai người kết hợp nên một xác thịt. Hai người nam nữ có ơn gọi tạo lập nên một gia đình, một đời sống chung có tình yêu và liên hệ phái tính theo dự định nguyên thủy của Thiên Chúa.

          Tin mừng Marcô còn xen vào chủ đề ly dị là giáo huấn của Chúa Giêsu đối với các môn đệ. Chúa Giêsu biết các môn đệ của mình vốn đang tranh luận với nhau xem ai là người lớn hơn trong Nước Thiên Chúa. Người muốn sửa dạy các ông và cho các ông thấy một kiểu mẫu mới mẻ hơn của Nước Thiên Chúa, hoàn toàn không theo lối đánh giá của người đời. Khi người ta đưa các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu để người chúc lành cho chúng, trong khi các môn đệ lại khiển trách, thì Chúa Giêsu phật ý với thái độ của các môn đệ, người nói với các ông: “Hãy để các trẻ nhỏ đến với thầy, vì Nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng”. Chúa Giêsu đã có những dấu yêu thương đối với các trẻ nhỏ, người ôm chúng và ban phúc  lành cho chúng. Một trong những nguyên nhân có thể giải thích thái độ không thiện cảm của các môn đệ đối với các trẻ nhỏ là bởi vì các trẻ nhỏ chưa biết lề luật Môisen. Vì chưa biết lề luật nên người ta đối xử với chúng như những kẻ sống ngoài lề luật, hạng đàn bà hay những nô lệ. Chúa Giêsu đã tỏ những dấu trìu mến đối với các em, người muốn các môn đệ của mình cũng học được những tâm tình và thái độ mà các trẻ em có một cách tự nhiên như là bé nhỏ, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Trẻ em phải sống nương nhờ vào cha mẹ cách tự nhiên, trẻ em bị loại trừ không được kính trọng ở trong xã hội, thì các môn đệ của người cũng cần phải bỏ những thái độ tự cao tự đại và cạnh tranh hơn thua để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa với thái độ phù hợp hơn như là khiêm tốn, phục vụ và phó thác khiêm nhường.

          Cả hai trường hợp, hôn nhân và thái độ xứng đáng với Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã trả lại giá trị đúng cho những tương quan giữa con người đối với nhau như vợ chồng và thái độ khiêm tốn phục vụ giữa mọi người. Cả hai tình huống, người đều cho thấy những lệch lạc sai trái của con người, làm mất đi sự trong sáng của dự định ban đầu của Thiên Chúa do bởi lòng trí cứng cỏi của mình. Chính lòng trí cứng cỏi của con người làm cho tương quan vợ chồng vốn tốt đẹp theo dự định ban đầu khi tạo dựng của Thiên Chúa đã trở nên lệch hướng làm cho loài người trở nên ganh ghét nhau và loại trừ nhau. Cũng chính thái độ cứng cỏi của loài người làm cho mọi người tranh giành hơn thua nhau, không biết khiêm nhường hạ mình phục vụ. Trong bức thư gửi tín hữu do thái, tác giả đã cho thấy thái độ tự hạ thẳm sâu của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của người mà nhờ đó người đã đạt tới vinh quang danh dự của Đấng cứu độ theo dự định của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là mẫu mực của mọi người, Đấng thánh hóa mọi người, Người đã khiêm nhường tự hạ để trở nên anh em của mọi người. Người đã tự hạ thẳm sâu đến độ chết trên thập giá và Thiên Chúa đã tôn vinh người, ban tặng cho người mọi vinh quang và danh dự : “Ðấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Ðức Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người”. Tác giả rất nhấn mạnh đến sự tự hạ thẳm sâu của Đức Giêsu qua cuộc khổ nạn của người và nhờ sự tự hạ này mà người đã đạt đến vinh quang của sự Phục sinh mà Thiên Chúa ban tặng cho người để rồi người đem lại ơn cứu độ cho nhiều người. Suy tư của tác giả tập trung vào mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu và mời gọi chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm khổ nạn này. Sự tự hạ thẳm sâu của Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn là nguyên nhân của ơn cứu độ cho nhiều người, vì Người chết thay cho mọi người. Chính Thiên Chúa là cùng đích của mọi người và mọi loài đã làm cho Đức Giêsu được nên hoàn hảo. Nhờ cuộc thương khó mà Đức Giêsu đã can đảm đón nhận đã hoàn tất thánh ý quan phòng của Thiên Chúa là làm cho người nên Đấng cứu độ của mọi người để dẫn đưa mọi người vào trong vinh quang Thiên Chúa.

----------------------------

 

 TN 27-B111: PHÉP TÌNH KỲ DIỆU


Trầm Thiên Thu

 

 Trong toán học có nhiều phép tính, cơ bản nhất là bốn phép tính: Cộng – Trừ – Nhân – Chia. Cuộc TN 27-B111


Trong toán học có nhiều phép tính, cơ bản nhất là bốn phép tính: Cộng – Trừ – Nhân – Chia. Cuộc sống đời thường có nhiều thứ phải tính toán, từ đơn giản đến phức tạp. Có những bài toán có thể tìm ra đáp số, nhưng có những bài toán không thể tìm ra đáp số, và có những phương trình vô nghiệm.

Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã từng có những lúc bối rối, không biết tính thế nào cho hợp lý, càng khó hơn khi đó là vấn đề hệ trọng. Một trong các vấn đề nan giải và liên quan cả đời là hôn nhân. Thế nên cụ Nguyễn Du đã khuyên: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn – Phải dò cho tới ngọn nguồn lạch, sông” (Truyện Kiều, câu 1331-1332). Quả thật, không hề đơn giản như người ta tưởng!

Có những cách tính lạ, độc đáo. Có khi rất đơn giản mà không nghĩ ra. Tuy nhiên, thiết tưởng rằng chắc chắn không có cách tính nào kỳ diệu bằng Bài-Toán-Hôn-Nhân-Công-Giáo, đơn giản nhất mà lại khó giải nhất, và cũng ngược đời nhất: 1 + 1 = 1, vậy mà bài toán này vẫn hoàn toàn đúng: “Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19:5). Hôn nhân Công giáo có “đặc điểm” khác hẳn các hôn nhân khác nhờ Hôn Luật Thánh: “Sự gì Thiên Chúa ĐÃ phối hợp, loài người KHÔNG ĐƯỢC phân ly” (Mt 19:6; Mc 10:9). Người đời cũng vẫn công nhận đó thôi: “Mình với ta tuy hai mà một – Ta với mình tuy một mà hai”.

Hôn nhân là chuyện cả đời nên cần thấu đáo mới khả dĩ tạo nền móng bền vững. Cái gì có BỀN thì mới VỮNG được, nếu không thì sẽ có lúc rạn nứt rồi đổ vỡ – chẳng chóng thì chày.

Ngay từ thuở khai thiên lập địa, sau khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã xác định: “Con người ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18). Một cách quan phòng và tiền định kỳ diệu của Đấng Tạo Hóa – Thiên Chúa duy nhất. Điều đó cho thấy tiền đồ của Ngài là muốn con người sống hài hòa với nhau, liên kết với nhau, cùng chia sẻ vui buồn và đồng hưởng sự ngọt ngào của vị hạnh phúc. Ngài biết hai phái sống với nhau sẽ sinh nhiều chuyện, khổ lắm, thế nên Ngài tạo niềm vui để cân bằng cuộc sống hôn nhân của họ.

Trong quá trình sáng tạo, Ngài “lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì thì tên nó sẽ là thế” (St 2:19). Ngài tạo dựng muôn loài, nhưng Ngài muốn con người “góp công” nên cho con người được quyền đặt tên mọi loài, chứng tỏ con người có giá trị trong cách nhìn của Ngài. Thật là diễm phúc biết bao! Rồi sau khi “con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2:10). Vì thế, Ngài “cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi, rồi Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào” (St 2:21). Nghe trình thuật về việc Chúa làm thì thấy thật kỳ lạ, ngày nay người ta thấy vậy sẽ cho đó là “ma thuật”, nhưng không, hoàn toàn là quyền năng vô song của Thiên Chúa, và CHỈ MỘT MÌNH NGÀI LÀM ĐƯỢC NHƯ VẬY mà thôi!

Ngay sau đó, Ngài lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra – ý nói “con người” ở đây là “đàn ông”, Ngài làm thành một “sinh vật lạ”, và dẫn đến với con người. Thấy vậy, con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Bởi thế, “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24). Ôi, “sinh vật lạ” sao mà đẹp quá, ngày nay gọi là mỹ nhận, thế nên chàng Ađam “lé mắt” luôn, và rồi cũng sẽ… “chết chắc”!

Có lẽ từ “câu chuyện” trong Kinh Thánh như vậy nên phe đàn ông thường “tự đề cao” mà “lý luận” rằng Thiên Chúa dựng nên nam giới trước, nữ giới chỉ là “sản phẩm” của nam giới, là “cấp dưới” nên phải chịu “lệ thuộc”. Cách nghĩ và quan niệm như vậy thật khủng khiếp. Thậm chí người ta còn cho rằng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một trai kể là có, mười nữ coi như không). Lối suy nghĩ thật là ấu trĩ, thiển cận, nông cạn và kiêu ngạo! Càng nói càng lòi cái… ngu, ngu kinh niên. Tại sao? Vì cái gì cũng có tính liên đới.

Như chúng ta đã biết, Nhóm Xa-đốc gồm những người không tin có sự sống lại. Một hôm, họ hỏi Chúa Giêsu để “gài bẫy” Ngài về chuyện bảy anh em trai, lần lượt mỗi người đều cưới cùng một cô vợ, vì luật Mô-sê nói rằng anh lấy vợ mà chết trước khi có con thì chú em phải cưới chị dâu làm vợ. Cả bảy anh em đều cưới cô ta mà không có đứa con nào. Hết thuốc chữa! Nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu rằng khi sống lại thì cô nàng sẽ là vợ của người nào trong bảy anh em kia. Chắc là lúc đó họ cười thầm vì Chúa Giêsu phải “bó tay” thôi. Thế nhưng Chúa Giêsu thản nhiên và nói chắc hơn hàn xì: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:29-30; Mc 12:24-25; Lc 20:34-36). Hố to! Đã vậy họ còn bị Chúa Giêsu trách là “lầm” và chê là “ngu dốt”, chẳng biết Kinh thánh, chứ nói chi biết đến quyền năng của Thiên Chúa – Đấng tạo dựng mọi sự, vô hình và hữu hình. Đúng là họ lộ cái ngu thấy rõ luôn. Không nói thì chẳng ai biết mình ngu, càng nói càng tự thú “lạy ông, tôi ở bụi ngu” đây này!

Sự đời vẫn thế, ngày nay gọi là “ngu mà chảnh”. Thời kỳ sáng thế cũng vậy thôi. Chúa dựng nên con người tốt lành, không hề có khái niệm nam, nữ, hoặc đồng giới. Thế nên người ta thoải mái “ở mát” rất vô tư: “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 2:25). Chỉ sau khi đã phạm tội, con người mới nhận ra mình trần truồng và xấu hổ với nhau, muốn… độn thổ mà không được. Sao vậy? Chính tội lỗi làm cho “mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”, và rồi “họ kết lá vả làm khố che thân” (St 3:7).

Như hai cực nam châm trái dấu, nam và nữ cũng có “sức thu hút” lẫn nhau, nhờ đó mà phát sinh tình yêu, tình yêu dẫn đến hôn nhân. Hôn nhân là “sợi” liên kết tạo nên một gia đình mới – tế bào cơ bản của xã hội. Tế bào gốc nhỏ bé nhưng rất quan trọng trong chuỗi AND trong con người, gia đình cũng vậy. Để có nền tảng gia đình vững chắc, phải có hôn nhân tốt lành, đòi buộc sự chung thủy một vợ và một chồng, có vậy mới không sinh những hệ lụy rắc rối khác. Ca dao Việt Nam có nhiều câu nói về sự chung thủy trong tình yêu và hôn nhân, chẳng hạn câu phổ biến này:

Bao giờ cạn nước Đồng Nai,
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.

Làm sao mà phai được chứ? Không thể. Sự chung thủy không là bổn phận của riêng ai. Và sự chung thủy ấy được thể hiện qua lời tâm sự của người vợ dành trọn trái tim yêu thương cho người chồng:

Đi đâu cho thiếp theo cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

Thế thì thật tốt. Nàng đã vậy, còn chàng thì sao? Sự chung thủy ấy cũng phải được người chồng thể hiện triệt để, như lời tâm sự của người chồng ngày xưa:

Tay cầm quyển sách bìa vàng,
Sách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu.

Tình thương thành thật thì tuyệt! Chung thủy là “chén nước được giữ thăng bằng”, không hề sóng sánh. Luật chung thủy phải được cả đôi bên tôn trọng suốt đời. Thật vậy, khi hai người cùng nhau cử hành bí tích hôn phối trước mặt vị đại diện Giáo hội và cộng đoàn Dân Chúa, họ đã vui vẻ thề hứa công khai: “Anh (em) nhận em (anh) làm vợ (chồng), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em)”. Vậy đó, “mình với ta tuy hai mà một”, vì thế mà không ai có thể “xẻ” mình ra được – chỉ có người điên khùng mới làm vậy!

Tiền nhân đã xác định: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Thuận nhau không có nghĩa là giống nhau hoàn toàn, mà là nhường nhịn nhau, chấp nhận và cảm thông sự khác nhau. “Một nhịn, chín lành” là thế, “kê cho bằng trăm chỗ lệch” là vậy. Đặc biệt hơn, hôn nhân Công giáo là một ơn gọi và là bí tích, hôn nhân Công giáo là hôn nhân thánh.

Ngày xưa, Thánh Vịnh gia đã hân hoan chúc mừng: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Hôn nhân là hành trình đầy trọng trách và gian khó, nhưng bù lại cũng nhiều niềm vui, có thể nói rằng hôn nhân là “nỗi đau ngọt ngào”. Đó là niềm hạnh phúc độc đáo trong hôn nhân! Thật vậy, trầu cau xanh kết hợp với vôi trắng tạo nên nước đỏ tươi và vị cay, chính vị cay đó là “chất gây nghiện” nên người ta mới khoái ăn trầu. Có những người không còn răng mà vẫn thèm trầu, không nhai được nên phải giã nát rồi ngậm cho thỏa lòng. Chí lý lắm!

Hôn nhân thực sự là điều kỳ diệu, gia đình cũng là sự lạ lùng lắm. Niềm hạnh phúc hôn nhân và gia đình chính là “phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Một lần nữa, Thánh Vịnh gia cầu chúc cho những người sống đời hôn nhân – gia đình: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Ít-ra-en vui hưởng thái bình” (Tv 128:5-6). Có thể vì đời thường như vậy nên chúng ta không nhận ra mối liên kết kỳ diệu trong mối quan hệ về hôn nhân – gia đình. Quả thật, đó là một phép lạ của Thiên Chúa.

Con người là sinh vật cao cấp – mặc dù chỉ là phận bụi tro và kiếp tội nhân. Bằng chứng là Thánh Phaolô phân tích: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu” (Dt 2:9a). Thật vậy, “Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2:9b). Thánh Phaolô nói rạch ròi: “Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2:10). Tình yêu của Thiên Chúa bao la, lòng thương xót của Ngài vô tận.

Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng chí nhân, Ngài không muốn ai phải hư mất, mà chỉ muốn tất cả tội nhân chúng ta cũng được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc với Ngài. Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, “những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc” (Dt 2:11), vì thế, Ngài đã không hề hổ thẹn gọi chúng ta là huynh đệ – dù chúng ta quá khốn nạn, xấu xa, tội lỗi, đốn hèn. Thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta từ “không” mà biến thành “có”. Còn gì có thể so sánh được chăng? Chắc chắn là không!

Là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều biết rằng mục đích của hôn nhân không chỉ là sinh con đẻ cái theo lệnh Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1:28). Còn hơn thế nữa, mục đích của hôn nhân là giúp nhau nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Có nhiều phương thế nên thánh, hôn nhân là một trong các cách đó.

Về tâm linh, có hai dạng cơ bản – hữu thần và vô thần, duy tâm và duy vật. Một hôm, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” (Mc 10:2). Họ chẳng tốt lành gì, hỏi han cho ra vẻ thân thiện chứ thực tế họ muốn thử Ngài, muốn “gài bẫy” Ngài. Nhưng Ngài thản nhiên: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” (Mc 10:3). Xem chừng họ vẫn “vô tư” khi cho biết: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10:4). Thế là Đức Giêsu “chơi” liên khúc với họ: “Chính vì các ông LÒNG CHAI DẠ ĐÁ, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành MỘT xương MỘT thịt. Như vậy, họ KHÔNG còn là hai, nhưng chỉ là MỘT xương MỘT thịt” (Mc 10:5-8). Và Ngài quả quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người KHÔNG được phân ly” (Mc 10:9). Đúng là kẻ “dốt đặc cán mai” lại hay tỏ ra thông thái, ngu truyền kiếp mà tưởng mình thông minh. Gậy ông đập lưng ông. Cuối cùng, họ đành ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Tất nhiên thôi!

Mà kể cũng lạ, ngay cả các môn đệ cũng lơ ngơ như bị “chạm mạch”, thế nên khi về đến nhà, các ông lại hỏi Ngài về điều ấy. Ngài minh định: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12). Quá rõ, không phân biệt nam hay nữ chi cả. Ai sai nấy chịu. Tội là cái Tôi-Nặng (kiểu đánh vần chữ Tội trong Việt ngữ).

Nghe danh Thầy Giêsu nổi như cồn, lúc đó người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu để Ngài đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Ngài thẳng thắn quở trách các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, ĐỪNG ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng” (Mc 10:14). Thấy các đệ tử mình theo mình mà chẳng giống mình, thế nên, dù Ngài rất nhân từ và hiền lành mà còn phải “nổi nóng” thì hẳn là chuyện không vừa, chắc chắn các môn đệ phải xua đuổi các trẻ em dữ lắm. Và rồi Ngài nhấn mạnh: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10:15). Thánh Mátthêu còn kể rõ: “Ngài ÔM lấy các trẻ em và đặt tay CHÚC LÀNH cho chúng” (Mt 10:16).

Lại có một Phép Tính kỳ diệu nữa đối với tất cả chúng ta về “bí quyết” để làm công dân Nước Trời: SỐNG ĐƠN SƠ. Đó là “Con Đường Thơ Ấu” và là bí quyết nên thánh của Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu, như thánh nữ xác định: “Nên thánh chỉ đơn giản là làm theo Thánh Ý Chúa và trở nên như Ngài muốn”.

Liên quan hôn nhân – gia đình, chắc là chúng ta còn nhớ Thánh LM Tử Đạo Maximilian Kolbe (1894-1941), người sẵn sàng chết thay cho một tù nhân vì thương anh ta còn vợ con. Ngài phân tích: “Chất độc nguy hiểm nhất trong thời đại của chúng ta là SỰ LÃNH ĐẠM. Vì thế, hãy cố gắng chúc tụng Thiên Chúa hết khả năng của mình”. Thật đáng sợ đối với sự thờ ơ, dửng dưng, lãnh đạm, vô cảm. Nó vô hình nhưng có thể giết chết mọi mối quan hệ – nhất là trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Đây là những Phép Tính của hôn nhân và gia đình: Hãy CỘNG lại những niềm vui, hãy TRỪ đi những nỗi muộn phiền, hãy NHÂN lên những niềm hy vọng, hãy CHIA sẻ chân thành, và đừng CHIA rẽ bao giờ! Sẽ chẳng làm được gì nếu không có ơn Chúa, nhưng có ơn Ngài thì làm gì cũng được.

Lạy Thiên Chúa chí thánh, sống đời hôn nhân là một cuộc tử đạo liên lỉ, cần nhiều ơn thánh để duy trì gia đình, xin giúp họ luôn sống trung thành với lời hứa yêu thương, biết bảo vệ sự sống, biết yêu quý trẻ em và học ở chúng bài học đơn sơ, đặc biệt là sống trung thành với Ngài trong mọi hoàn cảnh. Xin Đức Maria và Đức Giuse đồng hành và cầu giúp nguyện thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của nhân loại. Amen.

---------------------------

 

 TN 27-B112: CHUNG THỦY


Lm. Jos. DĐH

 

 Chung thủy là dấu hiệu hiệu của người tình chân chính, là không bội phản, không bắt cá hai TN 27-B112


Chung thủy là dấu hiệu hiệu của người tình chân chính, là không bội phản, không bắt cá hai tay, dù đối tượng yêu thương của chúng ta có khác nhau. Hai từ chung thủy không hề xa lạ đối với con người, dù đặt để trong phạm vị xã hội hay tôn giáo, chung thủy làm phong phú tình yêu và hạnh phúc. Tâm lý tự nhiên, khi nói đến chung thủy, người ta hay lưu ý tới gia đình, đã vậy trong gia đình người ta lại quy về người phụ nữ nhiều hơn : trai trăm hướng, gái một phương. Và cũng từ tình yêu gia đình, người ta cũng thao thức tới sự bình đẳng trong hôn nhân.

Chung thủy, một vấn đề “nhạy cảm” đối với các tầng lớp xã hội, mọi công dân phải trung thành với tổ quốc; đã là vợ chồng họ phải ý thức về đặc tính thủy chung; là con cháu phải có bổn phận với gia đình dòng tộc. Đức Giêsu nâng hôn nhân tự nhiên lên hàng bí tích, nhằm gia tăng sự hiệp nhất nên một giữa mầu nhiệm Hội thánh, Chúa còn cho thấy rõ ý nghĩa “tự ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người, có nam có nữ”. Nhờ ý chí, tự do, cùng với ân sủng của bí tích, tình yêu nơi gia đình của con người bền chặt, tình yêu của họ thể hiện được đặc tính hôn nhân Kitô giáo : “sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly”.

Như một thỏa ước ngầm, trong tình yêu luôn đòi hỏi chung thủy, và chung thủy làm nên tính bền chắc cho tình yêu. Sự thủy chung trong Kitô giáo không chỉ áp đặt cho đời sống đôi bạn, mà tất cả những ai thuộc về Đức Kitô đều phải ý thức bổn phận, trách nhiệm đối với Đại gia đình hội thánh. Chung thủy không những là sáng kiến của Đấng sáng tạo đất trời, mà còn nói lên niềm hạnh phúc được ban cho con người, khi sống thủy chung, yêu thương nhau. Một gia đình, một tâm hồn hạnh phúc, không hẳn là họ no đầy vật chất và tình thần, mà thực ra họ đang chia sẻ sứ mạng yêu thương đến từ Thiên Chúa.

Bầu khí gia đình ấm cúng, yêu thương, sẽ minh chứng kết quả Đức Kitô ở giữa Hội thánh, giao ước tình yêu không ngừng triển nở. Ở đâu con người sống bình đẳng, chân thật và đầy lòng tự tin thì ở đó tình yêu càng thanh sạch, hoàn thiện và rộng lớn. Căn cứ vào tình thương mến Chúa dành cho các trẻ thơ : “Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng”, càng rõ hơn về tính bình đẳng, đơn sơ, trung thành của Tin mừng, khi sống ơn gọi làm con Chúa và Hội thánh.

Khi đã yêu, ai cũng mong muốn chiếm được trọn vẹn trái tim người mình yêu, muốn có sự thủy chung trong cuộc tình, nhằm đạt tới đích điểm hạnh phúc. Khi đã sống trong giao ước hôn nhân, điều đáng sợ không phải là đau khổ, túng thiếu, mà chính là sự bội phản ! Đức Giêsu không né tránh câu trả lời có hay không về vấn đề ly dị, Ngài cho thấy tính “bất khả phân ly” không thể mập mờ : “ai bỏ vợ, bỏ chồng để “ăn ở” với người khác đều phạm tội ngoại tình”.

Đối với con người tự nhiên, thường có nhiều lý do để đòi hỏi sự dễ dãi, người thời nay gọi là “lách luật”, tìm cách để được xem là nhẹ tội, là không có tội, nếu như ngoại tình và bỏ nhau, giải pháp khôn ngoan là thế nào ? Nếu như lúc này, Chúa Giêsu được trả lời cho những câu hỏi đại loại như vậy, Ngài vẫn mạnh mẽ nói rằng : “chính vì sự cứng lòng của các ông…….., vậy sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly”. Thực tế thì hôm nay, biết bao gia đình bất hạnh, tan vỡ, đều do giao ước hôn nhân bị vi phạm, dẫn tới hậu quả con cái hư hỏng, khổ đau chồng chất !

Ớt nào là ớt chẳng cay ? không có lửa làm sao có khói ? Lời ấy quá quen thuộc với những ai quan tâm đến vấn đề thủy chung của gia đình hạnh phúc. Chẳng ai nên người hữu ích mà thiếu sự chăm sóc giáo dục, chẳng tình yêu nào bền vững mà thiếu sự nhường nhịn, cảm thông, tha thứ, cũng không thể có gia đình nào chung thủy với nhau được, nếu thiếu tình yêu Chúa. Giáo hội có thể cầu nguyện cho các gia đình, tình yêu thương của Chúa sẽ không ngừng tuôn đổ xuống các tâm hồn tín hữu, nhưng ai cũng phải hiệp nhất và trung thành với giáo huấn của Chúa.

Tình yêu đối với gia đình, chữ tín đối với tương quan xã hội, trước hết vẫn tùy thuộc vào ý thức của mỗi người. Trải qua nhiều vất vả, cha ông chúng ta có đúc kết lại kinh nghiệm cho hạnh phúc của con cháu mình : trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu giữ mình. Tình yêu vững chắc và bền chặt, mới là yếu tố mang lại hạnh phúc, chữ tín, chữ trung đều có trong kế hoạch mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Rõ ràng, ai cũng phải thể hiện tình yêu của mình, trước gia đình, xã hội, trước Đấng mà chúng ta tin thờ. Amen.

-------------------------

 

 TN 27-B113: NGUỒN GỐC VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA TA


 Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài. Chính vì muốn đưa con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc đích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành Vị lãnh đạo thập toàn dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ”(Dt 2,10).

 

 Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, nghĩa là gì? Thiên Chúa là nguồn gốc mọi loài TN 27-B113


Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, nghĩa là gì?

Thiên Chúa là nguồn gốc mọi loài, có nghĩa là muôn loài muôn vật đều bởi Ngài mà ra, trong đó có con người chúng ta. Thiên Chúa đã tạo dựng toàn thể vũ trụ này, chứ không tự nhiên mà có; cũng không do một vụ nổ Bigbang nào. Chẳng có vụ nổ nào mà làm nên trái đất, mặt trăng và tinh tú hết. Rồi Thiên Chúa cũng tạo dựng con người có nam, có nữ. Con người chúng ta xuất phát từ Chúa chứ không từ khỉ.

Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng, Thiên Chúa là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Đó là niềm tin, là đức tin của chúng ta. Chúng ta tin Thiên Chúa là nguồn gốc muôn loại muôn vật và con người. Đấng dựng nên muôn loài muôn vật, hữu hình và vô hình, chính là Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa mà chúng ta tin cậy kính mến.

  Thiên Chúa đó, không chỉ là nguồn gốc mà còn là cùng đích của muôn vật, muôn loài nữa. Nghĩa là muôn vật muôn loài và con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Nói nôm na là đích đến của muôn loài muôn vật và cách riêng của con người chúng ta là Thiên Chúa. Mọi loài đều phát sinh bởi Chúa và cũng sẽ trở về với Chúa. Điều đó thật hợp tình, hợp lý. Nhưng sẽ không thể trở về với Chúa cách y chang như khi phát sinh. Nghĩa là muôn vật phải sinh hoa kết quả và con người phải nên thánh nên thiện. Dụ ngôn ông chủ giao các nén bạc cho các đầy tớ nói lên điều đó. Ai mà biết làm cho sinh lời, làm cho mình nên thánh nên thiện thì được thưởng; còn ai lười biếng, còn nguyên, y chang thì sẽ bị phạt.

Thiên Chúa đã làm một việc đích đáng, đó là việc gì? Đó là việc Ngài cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành Vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người chúng ta tới nguồn ơn cứu độ, tới nguồn gốc đã sinh ra chúng ta. “Con người đó chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa”(Dt 2,9).

Do đó, Đức Giê-su trở thành Đấng thánh hóa ta và chúng ta trở thành người được thánh hóa. Cả Đức Giê-su và chúng ta đều cùng một nguồn gốc là Thiên Chúa, nên Đức Giê-su không hổ thẹn gọi chúng ta là anh em. Con người chúng ta là anh em của Đức Giê-su trong Thiên Chúa.

Như linh hồn và thân xác của ta; như đôi uyên ương, phu phụ nên một và không tách rời thế nào thì Đức Giê-su và chúng ta cũng sẽ nên một và không tách rời như thế. Xác mà không có linh hồn là một xác chết; vợ chồng mà không có nhau, không ở bên nhau thì đau khổ, buồn bã; chúng ta mà không có Đức Giê-su thì chúng ta sẽ không được cứu độ, không được sống đời đời.

  Dầu vậy, khi chúng ta chết thì linh hồn cũng phải lìa khỏi xác, nhưng ngày sau hết thân xác chúng ta sẽ được phục sinh và cũng với linh hồn được sống đời dời với Chúa. Đôi uyên ương, phu phụ mà xa nhau, không có dịp để gần nhau, nhưng tình yêu sẽ là mối dây liên kết, họ vẫn bên nhau trong tâm trí, trong tình yêu, trong lòng, không gì có thể tách họ ra cũng như ngăn cách họ ở bên nhau được. Không ở bên nhau bằng xương bằng thịt thì họ ở bên nhau thiêng liêng; nghe tiếng nói của nhau qua điện thoại, qua tổng đài trái tim; qua những ký ức, những kỷ niệm,….

  Còn ta với Đức Giê-su thì sao ? Có xa nhau được không ? Đương nhiên là có, nhưng cái có là về phía con người chúng ta chứ không từ phía Chúa. Con người chúng ta có tự do và lý trí; ta có muốn theo Chúa hay bỏ Chúa thì do chính ta quyết định. Về phần Chúa thì không bao giờ Chúa bỏ ta. Vì Chúa đã chết vì con người chúng ta mà. Ta mà xa Chúa thì chỉ có ta thiệt thôi; Chúa cũng không bắt ép ta được.

Chúa đã làm tất cả vì con người chúng ta: Chúa đã tạo dựng muôn loài muôn cho chúng ta hưởng dùng; Chúa cũng đã chết cho con người chúng ta được ơn cứu độ, được hưởng vinh quang của Chúa trên thiên quốc. Phần còn lại là tùy con người chúng ta mà thôi. Những ai muốn được hưởng ơn cứu độ, được hưởng vinh quang trên thiên quốc thì phải đồng lao cộng khổ với Đức Giê-su, nên một với Ngài như hồn với xác; gắn bó với Ngài như đôi uyên ương phu phụ.

  Thật ra, ta có chịu gian khổ thôi chứ không chết khổ như Đức Giê-su trên thập giá đâu. Chỉ có các thánh tử đạo, mới chết khổ như Chúa thôi. Các thánh tử đạo đã dâng hiến mạng sống mình như Đức Ki-tô đã dâng hiến, nên các ngài đích thật là anh em với Đức Ki-tô và các ngài đã lãnh nhận triều thiên vinh quang trên thiên quốc.

  Như 118 vị thánh tử đạo tại việt Nam, người thì bị xử trảm, tức là chặt đầu; người thì bị xử giảo, tức là bị thòng dây vào cổ và xiết cho đến khi tắt thở; người thì bị bá đao, tức là bị chém 100 nhát; người thì bị thiêu sống, tức là để vậy rồi lấy lửa đốt; người thì bị lăng trì, tức là bị chặt đầu và chân tay; người thì chết trong tù. Trong các cách chết này, bị thiêu sống là đau khổ hơn cả.

Bị xử trảm, dù sao chỉ bị chém một nhát thì đứt đầu, không còn biết đau là gì nữa. Bị xiết cổ thì cũng 5 phút là xong; Bị chém 100 nhát, cũng đau, nhưng chết cũng nhanh hơn. Bị xử lăng trì, nếu bị chặt đầu trước, rồi chặt chân tay sau, cũng đỡ bị đau; nếu làm ngược lại cũng đau lắm. Bị chết trong tù do bệnh tật, bị tra tấn, bị đói khát, chết dần, chết mòn, cũng đau khổ lắm. Các ngài là của lễ hi sinh dâng lên Thiên Chúa.

Còn bị thiêu sống thì ghê rợn hơn. Người còn sống mà bị thiêu. Ta thử nghĩ coi, tay chân bị trói, rồi bị lửa thiêu, bị đốt cháy dần dần, cháy da cháy thịt, thời gian bị thiêu dài hơn; có khi lửa cháy hết rồi mà vẫn chưa chết được thì đau rát biết chừng nào. Đúng là Các Thánh Tử Đạo. Phải nhờ có ơn Chúa, các ngài mới có thể chịu đựng được đến thế. Các ngài là của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa.Các ngài cũng biết rõ cùng đích của mình là Chúa, nên đã can đảm và trung thành với Chúa cho đến cùng.

Chúng ta không được diễm phúc đổ máu đào như các ngài, để đồng lao cộng khổ với Đức Ki-tô, thì ta đổ “máu trắng” vậy.“Máu Trắng”, đó là những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt; đó là những hi sinh, đó là những khó khăn ta chịu vì Chúa, vì giữ Đạo; vì giữ luật Chúa, vì sống Lời Chúa. Như mỗi khi ta dành thời giờ để cầu nguyện; dự lễ hằng ngày hay hàng tuần; mỗi khi ta thực hành Lời Chúa; mỗi khi ta yêu thương và giúp đỡ người khác, ……Chúng ta hãy noi gương các thánh tử đạo, trong Năm Thánh kỷ niệm 30 phong thánh, mà sống đức tin của mình.

  Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của muôn loài muôn vật; Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta, chúng ta hãy nhớ điều đó. Đức Giê-su Ki-tô là An-pha và Ô-mê-ga; còn chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về với Thiên Chúa qua Đức Ki-tô, Vị lãnh đạo thập toàn. Vậychúng ta hãy đi theo Vị lãnh đạo thập toàn này, để chúng ta về tới đích an toàn và lãnh được ơn cứu độ, lãnh được triều thiên vinh quang trên thiên quốc.

---------------------------
 
 

TN 27-B114: Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp thì loài người không được phân ly


(Mc 10,9)

 CN XXVII TN B: St 2, 18-24; Dt 2, 9-11; Mc 10, 2-16

Fr. Vicent Hoà -PV.

 

 Trong Giáo Hội, chúng ta thấy có nhiều thứ luật lệ khác nhau, chẳng hạn như: giáo luật, luật luân TN 27-B114


Trong Giáo Hội, chúng ta thấy có nhiều thứ luật lệ khác nhau, chẳng hạn như: giáo luật, luật luân lý, luật phụng vụ… Và các luật đó được phân ra hai loại chính: nhân luật và thiên luật. Nhân luật là luật do con người tạo ra, nên tuỳ theo thẩm quyền, có thể bãi bỏ hay chế giảm tuỳ theo hoàn cảnh, vì theo nguyên tắc: thẩm quyền nào thiết lập nên luật thì cũng có quyền trên chính luật đó. Trái lại những luật lệ do Thiên Chúa thiết lập (gọi là thiên luật) thì con người không có quyền bãi bỏ hay thay đổi. Vì những luật này do chính Thiên Chúa thiết lập và do đó chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên nó mà thôi.

         Lời Chúa hôm nay đề cập đến một khoản luật do Thiên Chúa thiết lập, đó là luật hôn nhân, luật này được Thiên Chúa thiết lập ngay từ thưở ban đầu khi dựng nên con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế xác nhận ơn gọi hôn nhân nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa cho con người ngay từ đầu. Thiên Chúa không muốn cho con người sống đơn độc một mình, nhưng muốn con người có một người bạn đồng hành. Ngài đã dùng một xương lấy ra từ cạnh sườn con người, và lấp đầy thịt vào để tạo nên người đàn bà. Ngài dẫn người đàn bà đến trước mặt người đàn ông, và người đàn ông đã nói: "Này đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra." Họ là cặp vợ chồng đầu tiên, và từ đó đến nay, các đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một thịt. Định chế hôn nhân như thế thuộc về thiên luật, vậy tại sao ông Môse cho phép ly dị? Dĩ nhiên Tin Mừng cho chúng ta biết lý do là vì con người lòng chai dạ đá, cứng đầu cứng cổ. Nhưng phải chăng lòng dạ chai đá, là lý do đủ mạnh để biện minh cho một ai đó có quyền sửa đổi định chế hôn nhân, một định chế do Thiên Chúa thiết lập? Nếu vậy thì hôm nay chúng ta có được nhân danh vì sự lòng chai dạ đá của con người thời nay, hay một lý do nào khác để - chúng ta hay một ai đó - có quyền sửa đổi định chế hôn nhân hay không? Vì có lẽ lòng dạ con người thời nay cũng chai đá không kém so với dân Do Thái thời ông Môsê, vì ai cũng thấy ngày nay hôn nhân là một vấn đề không còn được coi trọng như trước nữa. Con người hôm nay nhất là giới trẻ dễ dàng sống chung với nhau mà không cần đến định chế hôn nhân. Và tỉ lệ người li hôn hay li dị rất nhiều, không riêng gì ở các nước Âu - Mỹ mà ngay cả tại Việt nam chúng ta. Dĩ nhiên câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người Biệt Phái thì đã rõ, chúng ta không được phép li dị vì bất cứ lí do gì vì: sự gì Thiên Chúa đã ràng buộc thì con người không được phân ly. Vậy phải hiểu thế nào về việc Môsê ngày xưa đã cho người Do Thái li dị, còn hôm nay Chúa Giêsu lại tuyệt đối không cho phép người ta li dị vì bất cứ lí do gì? Để hiểu điều này, thiết tưởng chúng ta phải hiểu mục đích của luật là gì, hay nói cách khác đâu mục đích chính yếu mà lề luật nhắm tới?

       Trong Tin Mừng có lần Chúa Giêsu đã nói rõ ràng khi trả lời cho những người Pharisêu và luật sỹ rằng: con người chính là lý do của lề luật, rằng lề luật làm ra vì con người chứ không phải con người vì lề luật (Mc 2, 27-28). Luật hôn nhân cũng không phải là một ngoại lệ, được thiết lập là vì con người, nhắm đến việc mưu cầu hạnh phúc cho con người. Định chế về hôn nhân là như thế, tuy nhiên không phải mọi người qua mọi thời đại đều hiểu biết như nhau. Đây là lý do tại sao Môsê đã cho phép li dị, còn Chúa Giêsu thì không. Có thể nói, vì người ta chưa hiểu biết hết ý nghĩa đầy đủ về định chế hôn nhân, cho nên Môsê không thể bắt họ tuân giữ một cách đúng mức như bản chất của luật đòi hỏi được, nên đành phải chấp nhận cho phép họ ly dị. Môse đã hành động như vậy là vì dân chúng chưa trưởng thành trong sự hiểu biết. Họ như những đứa trẻ mà theo thánh Phaolo, còn cần phải uống sữa và ăn cháo, chưa thể dùng thức ăn cứng của người trưởng thành được vì họ chưa chịu nổi (1Cr 3, 1-2). Quả thật chúng ta thấy trong Cựu Ước, hôn nhân chỉ đơn thuần là để lưu truyền nói giống hơn là để diễn tả tình yêu vợ chồng với sự tự do và tự nguyện của hai người nam nữ bình đẳng như chúng ta hiểu hôm nay. Cụ thể chúng ta thấy, vì chỉ nhắm đến nòi giống nên bà Sara khi thấy mình đã già và không thể sinh con, nên đã bảo ông Abraham đến ăn ở với một người hầu của mình để có con nối dòng (St 16, 1-6). Và chúng ta cũng thấy Cựu Ước đã coi việc đàn bà không thể sinh đẻ là một sự chúc dữ, chẳng hạn bà Elizabeth đã phải sống trong tủi hổ vì sự hiếm muộn. Khi Thiên Chúa cho bà có thai Gioan Tẩy Giả thì bà đã vui sướng và coi việc có thai đồng nghĩa với việc Thiên Chúa đã thương bà và cất nổi khổ nhục bà phải chịu trước mặt người đời (Lc 1, 25). Trong Thánh Vịnh chúng ta đọc thấy, việc con đàn cháu đống… xúm xít tại bàn ăn …là một dấu chỉ Thiên Chúa chúc lành (x.Tv 127). Hơn nữa đối với người Do Thái trong Cựu Ước, vợ con cũng chẳng khác gì tài sản của người chồng mà thôi. Do đó với họ có nhiều vợ nhiều con là biểu tượng cho người giàu sang phú quý. Các vua chúa như David hay Salomon…đã có rất nhiều vợ con. Vì sự hiểu biết về định chế hôn nhân hạn chế như thế nên Môse đã phải cho phép họ li dị. Tuy nhiên đối với chúng ta hôm nay thì sao?

        Khi mấy Biệt phái đến hỏi thử Chúa Giêsu về việc có được ly dị vợ không, dù Chúa Giêsu biết Môsê cho phép ly dị vì sự cứng lòng của dân chúng, Ngài vẫn xác quyết ý định của Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay từ thuở ban đầu là không được. Vì "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly." Quả như Chúa Giêsu đã nói, Ngài đến không phải để bãi bỏ lề luật nhưng là để kiện toàn (Mt 5, 17). Ngài đã cho chúng ta biết rõ ràng về định chế hôn nhân. Và dĩ nhiên, vì được hiểu biết nhiều hơn, nên cũng đòi buộc chúng ta phải tuân giữ đúng đắn hơn. Như Chúa Giêsu nói: Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn (Lc 12, 48). Không những Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu biết thấu đáo về luật hôn nhân mà chúng ta còn được biết rằng, nhờ Ngài, định chế hôn nhân còn được nâng lên hàng bí tích. Do đó chúng ta không còn lý do gì để có thể biện minh cho việc ly dị nữa.

        Có thể nói hôn nhân là một đời sống không dễ dàng chút nào. Chính các môn đệ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về những điều kiện của đời sống hôn nhân đã phải thốt lên: nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy còn hơn (Mt 19, 10). Tuy nhiên chúng ta tin rằng khi Thiên Chúa truyền cho con người điều gì, thì con người có thể hay có khả năng làm điều đó, vì Ngài không thể bắt con người làm điều gì con người không thể. Có những điều con người chỉ có thể làm được với ân sủng Thiên Chúa. Đối với đời sống hôn nhân cũng thế, để sống được định chế hôn nhân đòi hỏi cần phải có ân sủng của Thiên Chúa. Đó là lý do Thiên Chúa đã ban cho đời sống hôn nhân là một bí tích, để nhờ ân sủng của Thiên Chúa, người ta có thể sống được định chế hôn nhân này. Là những tu sĩ, chúng không sống đời sống hôn nhân gia đình, nhưng chúng ta phải cầu nguyện cho những ai sống bật gia đình, vì hôn nhân gia đình là định chế nền tảng xây dựng Giáo Hội, xã hội và mỗi người chúng ta. Do đó nếu định chế này bị lung lay thì Giáo Hội và xã cũng sẽ bị đảo lộn tất cả.

------------------------------------------

 

TN 27-B115: Chúa Nhật 27 Thường Niên


XƯƠNG BỞI XƯƠNG TÔI, THỊT BỞI THỊT TÔI

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Người nam yêu thương và qúy người nữ như xương thịt mình

 

Bài trích sách Sáng Thế cho thấy người nam không thể tìm được hạnh phúc nơi một tạo vật nào TN 27-B115


Bài trích sách Sáng Thế cho thấy người nam không thể tìm được hạnh phúc nơi một tạo vật nào khác trừ người nữ. Và người chồng sẵn sàng bỏ cha mẹ để lập gia đình mới với vợ mình. Với quan điểm này, khi người biệt phái hỏi Đức Yêsu “người ta có được rẫy vợ không” và họ trả lời Đức Yêsu rằng “Môsê đã truyền cho người chồng viết giấy ly hôn để rẫy vợ”, thì Đức Yêsu nói “Do lòng dạ chai đá của các ngươi mà Môsê cho các ngươi làm ly thư, còn từ ban đầu không có như vậy”. Thiên Chúa muốn một khi đã thành vợ chồng, thì hai vợ chồng phải sống với nhau trọn đời. “Điều gì Thiên Chúa kết hợp thì con người không được phân ly”.

Liệu người ta có thể sống với nhau trọn đời không? Chắc chắn là có thể, vì đã có rất nhiều cặp vợ chồng sống với nhau trọn đời. Nếu hai vợ chồng không thể sống với nhau trọn đời, thì Thiên Chúa đã không muốn điều này. Tuy vậy, sống với nhau trọn đời không phải là chuyện dễ dàng, vì nếu dễ dàng thì người ta chẳng cần phải cầu nguyện cho đôi tân hôn, và nếu ngoại tình là chuyện bất khả thì người ta đâu cần phải thề hứa “sống chung thủy với ... khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng ... suốt đời tôi”.

Để sống với nhau trọn đời, người ta phải yêu thương. Yêu thương như Chúa Yêsu yêu thương con người, yêu đến độ hiến mạng sống cho người mình yêu, yêu đến độ lấy thân mình để nuôi sống người mình yêu, yêu đến độ dám chết cho người yêu để người yêu được sống và được sống hạnh phúc. Dù tình yêu có bị phản bội, có bị bỏ rơi (như các tông đồ đã bỏ Chúa, như Phêrô đã chối Chúa) thì Ngài vẫn tha thứ, vẫn yêu.

“Yêu là cùng nhìn về một hướng”, cùng có chung lý tưởng; “Yêu là chết ở trong lòng một ít”. Tất cả những điều đó rất đẹp nhưng chưa đủ để gọi là yêu. Yêu là muốn những điều tốt lành cho người mình yêu dù mình có bị thua thiệt. Tình yêu không chỉ là “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, nhưng cũng còn có thập giá và những giọt nước mắt nữa. Và tất cả những điều này, chỉ ở trong Thiên Chúa con người mới có thể tin tưởng, tha thứ và chung thủy với nhau trọn đời.

Nam và nữ bình đẳng

Thiên Chúa tạo dựng người nữ từ xương sườn của người nam. Điều này không hàm ý người nữ kém giá trị hơn người nam, nhưng nam và nữ bình đẳng vì cùng xương cùng thịt như nhau, cùng bởi Thiên Chúa mà có.

Ngày nay người ta thường nghe nói thần học nữ quyền, phong trào thần học cho thấy mọi người dù nam dù nữ đều bình đẳng với nhau. Không được coi người nam hơn người nữ. Thực sự trước mặt Thiên Chúa, tất cả con người, dù nam dù nữ cũng đều được Thiên Chúa yêu thương và trân trọng như nhau. Thánh nam không hơn thánh nữ. Và trong hạnh các thánh, chính sự mong manh của người nữ lại cho thấy sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa hơn nơi những người mạnh khoẻ.

Người ta cần quan tâm để tất cả mọi người dù nam dù nữ đều bình đẳng với nhau, cả trong cách đối xử giữa vợ chồng cũng như trong công việc gia đình và bổn phận đối với con cái.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, đâu là điểm khó khăn nhất trong đời sống vợ chồng?
2. Làm sao để người ta mãi mãi yêu nhau?
3. Theo kinh nghiệm riêng, xin bạn chỉ cách làm đẹp “thể lý” và “tinh thần”?
4. Tại sao đức tin lại giúp người ta chung thủy trong đời sống gia đình?

---------------------------------

 

TN 27-B116: Trên cả ‘sợi tơ hồng’


(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

 

Mon-ta-nhơ (Montaigne) đã trình bày hôn nhân tựa như một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những TN 27-B116


Mon-ta-nhơ (Montaigne) đã trình bày hôn nhân tựa như một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con chim ở ngoài khao khát được vào, còn những con ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Tương tự, tục ngữ- ca dao Việt Nam cũng có câu: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”.

Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã từng xem qua bộ phim “Chúng tôi muốn ly hôn”, và một bộ phim khác mang tựa đề ngược lại “Đừng chia tay người mình yêu”? Đặc biệt các bạn trẻ có thể quá quen thuộc với nội dung những thước phim này bàn đến vấn đề gì. Thật ra, trong đó phát hoạ bức tranh của thực trạng ly hôn ngày nay, nêu lên những lý do khiến các đôi vợ chồng chẳng phải dắt dìu nhau đi trên con đường trải đầy hoa hồng thời còn yêu nhau, mà dìu dắt nhau ra toà để kết thúc cuộc tình lãng mạn đẹp đẽ, chấm dứt đời sống hôn nhân-gia đình, có đoạn: Thẩm phán quan toà hỏi:

– Tại sao chị xin ly dị? Người vợ liền trả lời: “Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi ngủ”. Một bà vợ khác nêu lý do: “Do ông ấy hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu được”…

Và cứ thế mỗi người đều có lý do này lý do nọ, để bỏ nhau một cách dễ dàng, nếu như được phép ly dị!

Khi mới quen nhau, tình yêu thuở ban đầu luôn đẹp đẽ, trong sáng như hình ảnh A-đam thoạt nhìn E-và, thốt lên: “Đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Tình yêu khiến ông nhận ra bà là một phần không thiếu của mình. Tình yêu gắn kết ông bà tổ phụ loài người nên “một xương một thịt” (x. St 2, 24). Chẳng phải xa lạ, chẳng cần cách biệt, mà E-và chính là “thân thể” của A-đam, “người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra” (St 2, 23). Không vì thế, mà người nữ bị xem thấp kém, phụ phần của người nam; đúng hơn, là người đồng hành, người cộng tác và hỗ trợ suốt cuộc đời này.

Hơn nữa, tình yêu thuở ban đầu này cần được hun đúc, sưởi ấm hằng ngày trong đời sống hôn nhân - gia đình. Ở bậc sống nào cũng có niềm vui, nỗi buồn và những thách đố riêng. Đặc biệt, trong đời sống hôn nhân biết bao nhiêu thăng trầm sóng gió, nhưng cũng không thiếu nhiều tiếng cười giòn tan bên nhau, khi chứng kiến tiếng trẻ thơ chào đời, nhìn nó lớn lên mỗi ngày. Theo lẽ thường tình, cuộc sống vợ chồng không thể tránh khỏi những sự bất hoà, hiểu nhầm, hoặc chưa hiểu nhau, nhưng dù gì đi nữa, người bạn đời luôn bên cạnh sớt chia, cảm thông,  rộng lượng như còn thuở mới quen: “Hôm nay sum họp trúc mai. Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm”, hay đã về chung sống với nhau: “Cây đa lá rụng đầu đình. Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu”, hoặc “Qua đồng ghé nón thăm chồng. Đồng bao nhiêu lúa, thương chồng bấy nhiêu”. Trên hết, Thiên Chúa là Đấng kết hợp người nam và người nữ, nên hôn nhân chính là thiên luật (luật của Thiên Chúa), chứ không phải luật do Giáo hội soạn ra (Giáo luật). Chính vì thế, hôn nhân Công giáo là đơn hôn và vĩnh hôn: “Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 6-9). Hơn cả ‘ông tơ bà nguyệt’ se duyên ‘sợi dây tơ hồng’, mà chính Thiên Chúa kết hiệp người nam và người nữ, để họ trở nên một thân thể trong “giao ước tình yêu”. Điều này minh chứng việc ly hôn cũng đồng nghĩa với sự bất trung với hôn ước, và bất tuân thánh ý Chúa.

Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, bên canh rất nhiều đôi vợ chồng bước đi bên nhau hạnh phúc trong đời, thì không ít những bước chân dẫm đạp lên đời nhau đến nỗi đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt nhúm, lạnh tanh, cuộc vui đã tàn lụi chóng vánh, chặng đường chung tay không trọn vẹn như mơ ước chốn thiên đường hằng mong. Với biết bao thách đố trong đời sống hôn nhân - gia đình, chúng ta cùng quay về ‘cội rễ’ của thánh ý Chúa, chứ không chạy theo xu thế của xã hội, hay thói đời “lòng chai dạ đá” (x. Mc 10, 5) như Đức Giê-su chỉ ra trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Quả thật, để hâm nóng tình yêu thuở ban đầu, đôi vợ chồng cần được thánh hoá hằng ngày qua kinh nguyện, qua đời sống yêu thương, tha thứ, nhẫn nại, đón nhận nhau và dám thay đổi nết xấu của bản thân vì người mình yêu. Hơn thế, tác giả thư Do Thái khẳng định: “Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những người được thánh hoá đều do một nguồn gốc” (Dt 2, 11). Vì vậy, chúng ta cần chạy đến với Đức Giê-su hằng ngày trong giờ cầu nguyện gia đình, tham gia vào các hội đoàn thăng tiến đời sống hôn nhân, v.v…như Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II trong Tông huấn Gia đình số 59 đã viết: “Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Ki-tô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn”.

Sau cùng, những ai đang sống trong bậc sống gia đình nên nhớ rằng mình không chỉ là vợ chồng thông thường như bao đôi vợ chồng ngoài xã hội kia, mà là cặp đôi được Thiên Chúa kết hiệp nên một trong Bí tích hôn phối, qua ‘giao ước tình yêu’, là đôi vợ chồng Công giáo. Hơn nữa, cũng nên nhắc nhở mình hằng ngày: chúng ta không đơn thuần là ông bố bà mẹ chung chung ngoài xã hội, mà là người bố người mẹ Công giáo, sống đạo giữa đời, luôn biết đặt Thiên Chúa làm trọng tâm đời mình và cuộc sống gia đình. Và như thế, mới mong sống hạnh phúc, cùng nhau vượt qua thách đố cuộc đời.

Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con
Luôn sống trọn vẹn với ơn gọi
Hôn nhân - gia đình và con cái
Hằng gắn kết, nhân ái không ngơi. Amen!

---------------------------------

 

TN 27-B117: Chúa Nhật 27 Thường Niên


NHÌN LẠI CÁC TƯƠNG QUAN: HƠI THỞ THẦN LINH VÀ SỰ BÌNH ĐẲNG TRONG TẠO DỰNG

(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

 

Các bài đọc hôm nay đưa ra những suy tư về tương quan của con người với Thiên Chúa, với thế TN 27-B117


giới loài vật và giữa con người với nhau. Các bài đọc cho thấy một sự tiến triển tư tưởng về các tương quan, và nhắc nhở chúng ta rằng một số lý tưởng xã hội và văn hóa cần được giải thích lại đối với những bối cảnh khác nhau.

Bài đọc một trích từ sách Sáng thế bao gồm một trong những trình thuật về cuộc tạo dựng con người và loài vật. Chúng ta cần chú ý thận trọng bởi vì câu chuyện này đã bị giải thích sai khi khẳng định quyền thống trị của con người trên muôn loài và sự lệ thuộc của người nữ vào người nam. Những cách đọc sai lệch này phản ánh thành kiến của người chú giải hơn là ý định của bản văn.

Câu chuyện tạo dựng khẳng định quyền năng sáng tạo, sự kết nối và chăm lo của Thiên Chúa cho mọi loài thụ tạo. Việc Thiên Chúa dựng nên con người đầu tiên và làm sinh động bằng cách thổi hơi đã làm nổi bật mối liên hệ mật thiết giữa tạo hóa và thụ tạo. Tương tự, việc dựng nên người thứ hai từ xương sườn của người đầu tiên cho thấy con người có quan hệ gần gũi với nhau, không phải là tương quan cấp bậc nhưng đúng hơn là hỗ tương vì cả hai được hợp nhất trong cùng một thân phận thụ tạo của Thiên Chúa. Đặt việc tạo dựng các sinh vật khác ở giữa việc tạo dựng người nam và người nữ xác định sự liên hệ giữa loài vật và con người trong công trình thế giới. Qua việc đặt tên cho loài vật, con người tham dự vào việc hướng dẫn và cuộc sống của loài vật, đón nhận một quyền hạn nào đó nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm đối với chúng.

Bài Tin mừng theo thánh Máccô cũng suy tư về những tương quan: vợ - chồng và người lớn - trẻ nhỏ. Nên chọn đọc bài Tin mừng dài trong sách Bài đọc. Như ở nơi khác trong các sách Tin mừng, người Pharisêu cố dồn ép Đức Giêsu nói những gì không hợp với luật Do Thái, nhưng Ngài không bị rơi vào bẫy của họ. Khi họ đặt vấn đề ly dị với Đức Giêsu, Ngài hỏi luật nói gì về việc này. Họ khẳng định rằng chồng có thể ly dị vợ, một giải thích nơi Đệ nhị luật 24,1-4 tạo cho người nam ly dị người nữ nhưng làm khó cho người nữ khởi sự việc ly dị. Để trả lời, Đức Giêsu giải thích lại mục đích và ý nghĩa của luật như sau: 1) Đức Giêsu nói rằng luật ly dị được ban hành vì “lòng chai dạ đá” của dân Israel. 2) Ngài giải thích luật ly dị dựa trên trình thuật tạo dựng từ bài đọc một. 3) Đức Giêsu giải thích luật ly dị và những cuộc hôn nhân tiếp theo dựa trên giới răn chống lại việc ngoại tình.

Phương pháp giải thích của Đức Giêsu đưa ra một kiểu mẫu để đọc Kinh Thánh. Ngài đặt lề luật vào bối cảnh lịch sử và nêu rõ mục đích của nó cho những thính giả nguyên thủy. Sau đó, Đức Giêsu sử dụng truyền thống Kinh Thánh bao quát hơn để suy gẫm về sự kết hợp giữa con người, và Ngài xác nhận các mối tương quan con người,  đồng thời, một cách triệt để, hình dung lại những động năng chi phối quyền lực giữa con người với nhau.

Nơi Israel cổ xưa, việc ngoại tình được hiểu theo nghĩa hẹp, áp dụng đối với một người nam có quan hệ tình dục với một người nữ đã có gia đình. Ngoại tình là một hành vi xúc phạm đến chồng của người nữ, chứ không xúc phạm đến vợ của người chồng đó. Bất kỳ hành vi xúc phạm nào đối với người nữ đều được xem là ít nghiêm trọng hơn là sự xúc phạm đến quyền hạn của người đàn ông đối với hành vi tình dục của vợ mình. Mặc dù ngày nay ngoại tình được xem như sự không chung thủy đối với người phối ngẫu, nhưng cách hiểu này không phải là tiền đề của giới răn xa xưa chống lại tội ngoại tình.

Lối giải thích của Đức Giêsu mở rộng phạm vi yếu tố cấu thành việc ngoại tình, và bao gồm ý tưởng là người nữ cũng có thể là kẻ ngoại tình. Mặc dù nghe có vẻ tiêu cực, nhưng đó lại là một cái nhìn cải cách về người nữ trong hôn nhân như là người bạn đời bình đẳng, và mở rộng, như là người vi phạm cũng như bị xúc phạm giống như người nam. Đức Giêsu nhấn mạnh nhiều đến việc vi phạm về sự kết hợp hôn nhân hơn là sự vi phạm của một người đối với những quyền của người khác.

Ở cuối bài Tin mừng, mối tương quan cấp bậc giữa người lớn và trẻ em lại được xem xét khi Đức Giêsu khuyến khích đưa trẻ em đến với Ngài. Đức Giêsu khẳng định giá trị của trẻ em ngang bằng với người lớn, vì tất cả mọi người đều được mời gọi lắng nghe Tin mừng và để được Chúa chúc lành. Hơn nữa, Đức Giêsu nhìn nhận trẻ em cũng có quyền của mình và mời gọi người lớn hãy nên giống như chúng để được vào vương quốc của Thiên Chúa.

Nguồn:
https://www.americamagazine.org/faith/2021/09/16/word-lectionary-liturgy-readings-241401

---------------------------------

 

TN 27-B118: Chúa Nhật 27 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. Stephen Rocker - Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)

 

Chúa Giêsu cấm việc ly dị. Ba sách Phúc âm và một trong các thư của Thánh Phao-lô đã đề TN 27-B118


Chúa Giêsu cấm việc ly dị. Ba sách Phúc âm và một trong các thư của Thánh Phao-lô đã đề cập đến việc này. Việc cấm đoán này thật khác thường, một phần vì Chúa Giêsu đã đi ngược lại lề luật Mô-sê. Hơn nữa, rõ ràng trong Tân Ước và lịch sử Giáo hội, việc trung thành với lệnh truyền của Chúa Giêsu đã và đang là một cuộc phấn đấu đối với những người theo Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, điều tôi muốn nói đến không phải là vấn đề ly dị. Việc thực hành ly dị hàm ý là đã có việc thực hành hôn nhân rồi, nhưng Giáo Hội và văn hóa lại không đồng ý với nhau về ý nghĩa của hôn nhân.

Trong phán quyết năm 2015, về vụ án Obergefell chống Hodges, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã thiết lập quyền “hôn nhân đồng phái” trong Hiến pháp. Pháp viện đã phán quyết rằng các cặp đồng giới được bảo vệ bình đẳng theo luật bảo vệ “những lựa chọn thân mật” và Pháp viện mô tả hôn nhân là một “sự kết hợp thân mật” và là một phương tiện để nói lên “các quyền tự do khác, chẳng hạn như bày tỏ tình cảm, hành vi thân mật và tính cách linh thiêng ”. Cần lưu ý rằng Tối cao Pháp viện đã mô tả một cách lỏng lẻo về hôn nhân dựa trên những cảm nghĩ cá nhân, chứ không định nghĩa hôn nhân một cách khách quan.

Trong khi nền văn hóa đại chúng không trình bày rõ ràng về ý nghĩa hôn nhân, thì Chúa Giêsu đã lặp lại định nghĩa về hôn nhân lấy từ sách Sáng Thế. “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt". Hôn nhân có ý nghĩa do sự kiện là một người đàn ông và một người đàn bà cùng nhau có khả năng đem lại sự sống mới. Hành vi độc đáo để hai người trở nên một cũng là hành vi mang khả năng sinh ra sự sống mới. Như thế Giáo hội dạy rằng tự bản chất tình yêu vợ chồng được xác định là để sinh sản và giáo dục con cái. Nói cách khác, trên nguyên tắc, sự kết hợp hôn nhân phải mở ra để đón nhận sự sống mới. Trong khi Giáo hội hiểu hôn nhân được đặt căn bản trên một sự kiện thiên nhiên, thì văn hóa hiện nay lại quan niệm hôn nhân hoàn toàn dựa trên cơ sở ước muốn và tán thành.

Trong Phúc âm theo Thánh Gio-an, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những người theo Người rằng: “Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.” (Ga. 17:14). Các trào lưu xã hội hiện nay đang đi ngược lại giáo huấn của Giáo hội về vấn đề này, nhưng chúng ta “không thuộc về thế gian”. Chúng ta khẳng định tình bạn và tình yêu dâng hiến có thể gặp thấy ở bất cứ nơi đâu, đồng thời Giáo Hội dạy rằng mối quan hệ tình dục luôn có ý nghĩa cao đẹp trong việc hình thành hôn nhân và đời sống gia đình.

Trong Phúc âm của Gio-an, Chúa Giêsu nói Người đã ban “lời” Người cho các môn đệ, “lời” ở đây cũng có thể được hiểu là “lý trí”. Nhờ lý trí, chúng ta có thể nhận ra trật tự thiên nhiên do Thiên Chúa ban bố. Về mặt đạo đức tính dục, dường như thế gian đã đánh mất nhận thức của mình, nhưng chúng ta là những môn đệ Chúa Kitô phải dạy và sống chân lý, không những cho hạnh phúc chúng ta mà còn cho hạnh phúc của thế giới nữa.

Nguồn: The Homiletic & Pastoral Review – (hprweb.com)

---------------------------------

 

TN 27-B119: Chúa Nhật 27 Thường Niên


CON NGƯỜI MỚI ĐƯỢC SINH RA TỪ CẠNH SƯỜN ĐỨC GIÊ-SU, ADAM MỚI

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Kính thưa quý anh chị em,

 

Từ cạnh sườn mở ra của Adam, Thiên Chúa đã dựng nên người phụ nữ đầu tiên. Bà Eva là mẹ TN 27-B119


Từ cạnh sườn mở ra của Adam, Thiên Chúa đã dựng nên người phụ nữ đầu tiên. Bà Eva là mẹ của tất cả chúng sinh.

Cạnh sườn mở ra, trái tim được nhìn thấy, bộc bạch tình yêu muốn sẻ chia cho một đối tượng và cứ thế, sản sinh ra nhiều gấp bội đầy cả mặt đất.

Trái tim Adam được mở ra mới chỉ làm nên một nhân loại tự nhiên, hữu hạn, mỏng dòn, kết thúc bằng sự chết. Adam là người bởi đất mà ra, cũng sẽ trở về với cát bụi.

Chúa Giê-su, Adam mới, mở cạnh sườn từ trên thập giá, phát sinh một nhân loại mới, tháp nhập, lôi kéo tất cả vào trái tim rộng mở của Ngài, thì muôn đời con người được kín múc tận nguồn ơn cứu độ.

Bài đọc I, trích sách Sáng Thế, kể câu chuyện Chúa dựng nên Eva. Vì cớ Adam ở một mình không tốt: đơn độc giữa muôn loài, tình yêu không có đối tượng sẻ chia, không thể phong nhiêu, sinh sản cho đầy mặt đất, Eva người đàn bà đương đối, là bạn đồng hành, chia sẻ mọi khát vọng của Adam.

Với Eva, Adam không còn khoảng cách, không còn phải thinh lặng như khi đặt tên cho mỗi loài chim trời, dã thú, ông đã vui sướng reo lên: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23).

Chúng ta thấy cách thức tạo dựng Eva đầy kịch tính và thú vị: Chúa giáng xuống Adam giấc ngủ tê mê, rút một xương sườn của ông, bí mật làm ra người đàn bà, đưa nàng đến khi ông vừa thức dậy... Các chi tiết được nêu có ý nghĩa gì ?

Adam ngủ mê mệt là bằng chứng cho thấy ông không phải là tác giả của công trình sáng tạo. Chúa cho ông ngủ mê ngầm tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo duy nhất, mọi sự, mọi loài, cả đến những nhu cầu tất yếu nhân sinh cũng đều bởi tay Chúa ban tặng. Cây xương sườn Adam dùng làm vật liệu tạo dựng Eva là một ý tưởng đẹp, một chân lý khả tín về sự đồng bản tính “người”, đồng phẩm giá, địa vị, đồng trách nhiệm liên đới với mọi loài, nhất là bổ túc cho nhau trong việc làm chủ và tô điểm bộ mặt thế gian.

Bởi thế, người đàn ông sẵn sàng lìa bỏ cha mẹ, gắn bó với vợ mình và cả hai thành một xương một thịt (St 2, 24).

Sự gắn bó vợ/chồng trong câu chuyện Adam/Eva là hình ảnh tiền trưng cho sự kết hợp nhiệm mầu “Ngôi Lời nhập thể”, sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Một sự kết hợp hài hòa, bền vững, bất khả phân ly “Thần/Nhân” Giê-su. Trong sự kết hợp này, công trình sáng tạo mới được hoàn tất, hoàn hảo gấp bội so với công trình sáng tạo cũ, cả về phẩm chất, lẫn danh xưng.

Con người mới được sáng tạo trong Chúa Giê-su sẽ không còn cô đơn giữa thế gian, tình yêu và sự sống thần linh luôn hằng triển nở, phong nhiêu, đầy tràn mặt đất, sánh ngang cùng Tuế Nguyệt.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đề cập đến đặc tính hôn nhân bất khả phân ly mà trình bày mạc khải về sự kết hợp giữa Ngài với Hội Thánh. Trong cuộc hôn nhân nhiệm mầu này, công trình sáng tạo mới được thực hiện: con người được trở nên con Thiên Chúa, được ơn thần hóa, đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, được thừa hưởng sự sống muôn đời.

Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể diễn tả sự kết hợp kỳ diệu giữa bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại của Chúa Giê-su, trong một ngôi vị duy nhất: Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Từ ngày Trời/Đất giao duyên, Thiên Chúa vĩnh viễn ở với loài người: “Ngôi Lời một khi đã làm người thì đời đời làm người, ngay cả khi ngự bên hữu Chúa Cha, cũng vẫn là một con người, vì thế, hy vọng có chỗ cho chúng ta trong gia đình Ba Ngôi” (ĐTC. Gio-an Phao-lô II).

Thưa anh chị em,

Đoạn kết của bài Tin Mừng nói về thái độ sống: phải trở nên trẻ thơ mới có thể gia nhập Nước Thiên Chúa. Đoạn văn có vẻ lạc điệu với nội dung trình bày ở phần trên, nhưng suy gẫm kỹ càng, độc giả sẽ “ngộ” ra chủ đích của thánh ký.

Thật vậy, con người mới, sinh ra từ cạnh sườn Đấng chịu đóng đinh, phải là con người đơn sơ, khiêm cung bé mọn. Chúa Giê-su đã tự khiêm, tự hạ đến cùng kiệt bằng cách dãi dầu học cho biết vâng phục thánh ý Chúa Cha và khi đã đạt tới mức thập toàn, đã trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.

Trở nên trẻ thơ là những kẻ đã được tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần. Họ mới là những người luôn giữ lòng trung tín cho đến chết, mới không bao giờ bội nghĩa bất trung. Họ mới là những người diễn tả đúng sự kết hợp nhiệm mầu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, mới đáng được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:

* Một là: luôn ý thức mình đã được tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần, nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, nên phải luôn sống như những con cái ánh sáng. Hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và luôn tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc mọi điều thiện hảo.

* Hai là: cố gắng hoán cải không ngừng, hoán cải tận căn, để mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong lời nói cũng như việc làm. Dốc quyết sống trung thực, thật thà trong mọi hoàn cảnh: “có thì nói có, không thì nói không, kỳ dư là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5, 37).

Thực hành những điều đó, chúng ta làm phải và đang bước đi trên đường dẫn tới sự trọn lành.

Nguyện xin Đức Giê-su, Đấng đã tái sinh chúng ta bởi nước và Thánh Thần, gìn giữ chúng ta luôn mãi vẹn toàn trong trong ân nghĩa Chúa, để có thể đạt tới sự sống muôn đời. Amen!

---------------------------------

 

TN 27-B120: Chúa Nhật 27 Thường Niên


(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII Thường Niên năm B, Bài đọc I và Tin Mừng đề TN 27-B120


Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII Thường Niên năm B, Bài đọc I và Tin Mừng đề cao tình chồng nghĩa vợ: cả hai trở nên một xương một thịt.

St 2: 16-24

Tự nguồn gốc, Thiên Chúa không chỉ tạo dựng con người có nam có nữ, nhưng Ngài còn tác hợp và đứng ra làm chủ hôn cho đôi vợ chồng đầu tiên.

Dt 2: 9-11

Đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái vạch lại mầu nhiệm của Đức Ki-tô, mầu nhiệm hạ mình đoạn vinh quang, nhờ đó Đức Ki tô dẫn đưa nhân loại đến cùng một vận mệnh theo cùng những giai đoạn.

Mc 10: 2-16

Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su tái khẳng định tình yêu bất khả phân ly của hôn nhân: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.

BÀI ĐỌC I (St 2: 18-24)

Sách Sáng Thế là sách đầu tiên của bộ Ngũ Thư và toàn bộ Kinh Thánh. Sách mở ra với hai chuyện tích về công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII nầy mời gọi chúng ta đọc chuyện tích thứ hai, chuyện tích cổ xưa hơn.

1. Đức Chúa tạo dựng con người có nam có nữ:

Đức Chúa, như một người thợ gốm, lấy đất nặn ra hình tượng người nam, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và người nam trở nên một sinh linh. Đoạn, Ngài đặt người nam sống một mình trong vườn Địa Đàng. Tiếp đó, Đức Chúa lấy đất nặn ra mọi súc vật, mọi chim trời, mọi dã thú và dẫn chúng đến với ông để ông đặt tên cho chúng, điều đó nói lên quyền thống trị của con người trên mọi loài thụ tạo khác. Nhưng trong các loài thụ tạo ấy, “con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng”.

Đức Chúa, như một nhà giải phẩu, làm cho người nam ngủ mê, rồi lấy cái xương sườn rút từ người nam mà làm thành một người nữ. Chỉ có người nữ là “một trợ tá tương xứng” với người nam, nghĩa là, chỉ có người nữ mới có thể chung chia những tâm tư tình cảm về đời sống vật chất và tinh thần với người nam. Như vậy sự khác biệt giữa hai phái tính nam và nữ là nhằm bổ túc cho nhau.

2. Đức Chúa thiết định hôn nhân:

Thiên Chúa dẫn người nữ đến với người nam (2: 22). Ở đây, hành động của Đức Chúa tương tự như hành động của ông tơ bà nguyệt kết nghĩa phu thê cho người nam người nữ đầu tiên, đồng thời chính Ngài đứng ra làm chủ hôn trong hôn lễ tiên khởi. Trong bầu khí tràn ngập niềm hân hoan phấn khởi, người nam xướng lên bài tình ca đầu tiên gồm hai câu với từ “nàng” được lập đi lập lại nhiều lần:

“Phen này, nàng là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!

Nàng được gọi là đàn bà, vì nàng được rút từ đàn ông ra”.

Tác giả sử dụng hai trùng âm của ngôn ngữ Híp-ri: ’ish (“nam”) và ’ishah (“nữ”) để diễn tả mối quan hệ mật thiết giữa nam và nữ. Chuyện tích này mang tính tầm nguyên, vì đưa ra câu trả lời cho những vấn đề muôn thuở: tại sao nam và nữ lại có sức hấp dẫn lôi cuốn tự nhiên đến với nhau, và tại sao tình yêu nam và nữ còn mãnh liệt hơn cả tình nghĩa cha mẹ và con cái? Sức hấp dẫn của phái tính và sức mạnh của tình yêu lứa đôi phát xuất từ ý muốn của Thiên Chúa, nhằm mục đích thiết định hôn nhân, như một mối dây liên kết bất khả phân ly. Cả hai thành một xương một thịt, nghĩa là một mối dây liên kết giữa chồng với vợ còn bền vững hơn cả mối liên hệ tình thân ruột thịt giữa cha mẹ và con cái.

BÀI ĐỌC II (Dt 2: 9-11)Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta đọc thư gởi tín hữu Do thái trong suốt bảy Chúa Nhật liên tiếp. Bức Thư nầy được gởi cho các Ki-tô hữu gốc Do thái, họ ôm ấp trong lòng nỗi nhớ nhung luyến tiếc về những đại lễ uy nghi trang trọng trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem.

1. Vấn đề về tác giả và người nhận thư:

Chúng ta không biết tác giả bức thư là ai, chắc chắn một người bạn đồng hành hay một môn đệ của thánh Phao-lô. Từ lâu, người ta gán bức thư nầy cho thánh Phao-lô, vì nhiều tư tưởng và cách nói rất quen thuộc với thánh Phao-lô; tuy nhiên, sứ vụ của Đức Ki tô được trình bày trong thư này là chức vụ tư tế không là tư tưởng của thánh Phao-lô.

Ngoài ra, chúng ta cũng không biết đích xác người nhận thư là ai. Nhan đề: “Thư gởi tín hữu Do thái” đã được thêm vào từ thế kỷ thứ hai, cũng không giúp chúng ta biết căn tính của người nhận thư. Những người trao đổi thư từ với tác giả bày tỏ nỗi xao xuyến và vỡ mộng vì tôn giáo mới quá thanh đạm so với tôn giáo của mình trước đó. Tác giả sẽ chứng minh cho thấy sự cao trọng tuyệt mức của Con Thiên Chúa, Ngài là Đấng Trung Gian cao vời khôn ví trên tất cả thiên sứ và ông Mô-sê, chức tư tế của Ngài thì cao trọng hơn chức tư tế của Giao Ước Cũ và hy tế của Ngài thì cao trọng hơn hy tế được tiến dâng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đoạn văn mà chúng ta đọc thuộc vào phần thứ nhất: Con Thiên Chúa cao vời khôn ví trên các thiên sứ.

2. Đức Giê-su, một con người tuyệt vời:

Trước hết, tác giả áp dụng Tv 8 cho Đức Ki-tô. Thánh Vịnh này ca ngợi phẩm chất cao vời của con người và tán dương địa vị mà Thiên Chúa đã ban cho con người ở giữa lòng cuộc sáng tạo của Ngài:

“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
 đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8: 4-7).

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái sửa đổi đôi chút Tv 8 để áp dụng vào Đức Giê-su, một con người tuyệt mức. Ông viết: Đức Giê-su “đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn”, tức là Người đảm nhận trọn vẹn thân phận con người, đó là điều tất yếu nhằm đảm bảo ơn cứu độ cho nhân loại. Tiếp đó, tác giả tóm tắt vắn gọn mầu nhiệm cứu độ. Với một văn phong cô động, tác giả khảo sát mầu nhiệm nầy dưới ba viễn cảnh: Thiên Chúa, Đức Ki-tô và nhân loại.

3. Sáng kiến của Thiên Chúa:

Sáng kiến cứu độ nhân loại phát xuất từ Thiên Chúa, Ngài là “nguồn gốc và cùng đích mọi loài”. Ngài đã muốn muôn loài muôn vật dự phần vào vinh quang của Ngài. Để đưa họ đến nguồn ơn cứu độ, Ngài đã chọn Đấng thánh hóa thập toàn là Đức Ki-tô.

4. Đức Ki tô, vị lãnh đạo thập toàn:

Đức Giê-su đã chấp nhận vai trò thánh hóa nầy. Thiên Chúa “đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn”. Như vậy, Đức Giê-su là “nguồn ơn cứu độ” của mọi người.

Một trong những nét đặc thù nhất của bức thư nầy, đó là đem lại một giá trị thập toàn cho đau khổ, thậm chí đối với Đức Ki-tô. Đề tài này được tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đức Giê-su, vốn là Thiên Chúa, thập toàn ngay từ khi mới thụ thai. Nhưng tác giả của bức thư không bao giờ đánh mất khỏi tầm nhìn hai bản tính của Đức Giê-su. Ấy vậy, chính nhờ nhân tính của mình mà Đức Giê-su đã kinh qua đau khổ và cái chết mà Thiên Chúa không thể. Từ đó, Đức Giê-su trở thành con người thập toàn, được Thánh Vịnh ca ngợi, có khả năng cảm thông với anh em đồng loại của Người (5: 2). Người là Đấng Trung Gian hoàn hảo, biến đau khổ thành nguồn ơn cứu độ.

5. Nhân loại được thánh hóa:

Nhân loại có thể dự phần vào ý định của Thiên Chúa nhờ ơn thánh hóa của Đức Giê-su. Đức Giê-su tự mình liên đới với con người ngõ hầu những ai liên đới với số phận của Người, họ trở nên thánh thiện nhờ trung gian cứu độ của Người.

TIN MỪNG (Mc 10: 2-16)

Đức Giê-su đang lên đường lên Giê-ru-sa-lem, đây là giai đoạn cuối cùng cuộc đời tại thế của Người. Một lần nữa, dân chúng lại tuôn đến với Người. Những người Biệt Phái một lần nữa tìm cách gài bẫy Người bằng những câu hỏi thâm hiểm. Ở đây, họ hỏi Đức Giê-su vấn đề ly dị với hy vọng câu trả lời của Đức Giê-su sẽ đặt Người vào trong thế đối nghịch với Luật Mô-sê để mà có cớ hãm hại Người.

1. Cuộc tranh luận về vấn đề ly dị:

Câu hỏi mà những người Biệt Phái nêu lên với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chồng có được rẫy vợ không?”, thật ra là một đề tài thường xuyên được tranh luận trong các trường phái kinh sư. Bản văn của thánh Mát-thêu phản ảnh rõ nét bầu khí tranh luận nầy: “Có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19: 3). Thánh Mác-cô viết cho một công chúng rộng lớn hơn, vì thế không nêu lên lý do nào người chồng được phép ly dị vợ, nhưng đặt vấn đề một cách khái quát hơn: “Chồng có được phép rẫy vợ không?”.

Đức Giê-su sử dụng phương thế Người thường dùng: thay vì trả lời ngay thì Ngài hỏi họ ngược lại: “Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?”. Khi đặt cho họ câu hỏi như thế, Đức Giê-su muốn dẫn đối phương của Người đến tận nguồn gốc của cuộc tranh luận.

Họ trả lời “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Câu trả lời của họ căn cứ trên Đnl 24: 1-4. Như vậy, họ xem ly dị là hợp pháp. Trong Do thái giáo thời xưa, việc ly dị không phải là một hành vi pháp lý công khai tại tòa án. Một câu trong sách Đệ Nhị Luật đã mở đường cho tất cả mọi lạm dụng: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà” (Đnl 24: 1). Như vậy, luật này cho phép người chồng ly dị vợ với bất kỳ lý do gì, chỉ còn một chút nhân đạo khi buộc người chồng phải trao cho người vợ một “chứng thư ly dị”. Thật ra, trong bối cảnh “thượng tôn nam giới” vào thời đó, Luật Mô-sê buộc người chồng phải cấp một giấy chứng thư ly dị để trả lại sự tự do cho người phụ nữ là nhằm bảo vệ người phụ nữ có thể tái hôn. Đã có những trường hợp những người chồng đuổi vợ đi, nhưng nếu người vợ cũ đi với một người đàn ông khác, người chồng có thể tố cáo vợ cũ là ngoại tình (và nàng sẽ bị ném đá).

 Khi trả lời với họ: “Chính vì lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông”, Đức Giê-su xem lời dạy của Đnl 24: 1-4 như một sự nhượng bộ trước sự yếu đuối của con người và một sự miễn trừ trái với kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Để chứng minh cho thấy việc ly dị là vi phạm ý muốn của Thiên Chúa, Đức Giê-su trích dẫn chuyện tích sáng tạo thứ nhất: “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ” (St 1: 27). Tiếp liền ngay sau đó, Ngài trích dẫn chuyện tích sáng tạo thứ hai: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2: 24). Cuối cùng, Ngài kết luận như một lời khẳng định: “Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.

Quan điểm của Chúa Giê-su thì rất rõ ràng. Phá vỡ sự sắp đặt này của Đấng Tạo Hóa là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Người ta hiểu Đức Giê-su muốn rút ra một kết luận là cấm ly dị và tái hôn, bởi vì ly dị và đa thê không thuộc về chương trình của Thiên chúa. Chỉ hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly mới tôn trọng chương trình của Thiên Chúa và hoàn tất mục tiêu mà Thiên Chúa nhắm đến khi tạo dựng con người có nam và có nữ và tình yêu chung thủy giữa chồng và vợ phát xuất từ Thiên Chúa.

Như vậy, Chúa Giê-su đã đưa ra một tầm nhìn cao vời bất ngờ cho câu hỏi “Chồng có được phép rẫy vợ không?”. Sau này thánh Gioan nhận định, nơi đây quả có một vị ngôn sứ còn cao cả hơn ông Mô-sê, nhà lập pháp của dân Thiên Chúa (Ga 1: 17). Với quyền năng Thiên Chúa tràn đầy, Đức Giê-su đã đến phục hồi mọi sự vào đúng trật tự Đấng Tạo Hóa muốn. Nếu có tham gia vào cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các bậc khôn ngoan (các giáo sĩ ưu tú lúc bây giờ), Chúa Giê-su cũng không để mình bị rơi vào bẫy của các nhà luật học Do thái cũng như vào chủ nghĩa vị luật của họ. Người xác nhận mạnh mẽ ý nghĩa nguyên thủy của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa.

2. Giáo huấn các môn đệ:

“Khi về đến nhà, các môn đệ hỏi Người về điều ấy”: Kiểu nói “Khi về đến nhà” là một biểu thức mà thánh Mác-cô chủ ý dùng để giới thiệu một giáo huấn của Đức Giê-su trong chốn riêng tư giữa thầy và họ. Con đường Đức Giê-su mở ra mang tính đòi hỏi hơn các quan điểm nhân loại rất nhiều. Sự nghiêm khắc của con đường ấy không ngừng hạch sách các bạn hữu thân tình của Người. Như thường lệ, chính các môn đệ cũng ngỡ ngàng về lời dạy khắc khe của Thầy mình.  Và họ đang tìm cách xác định tư tưởng của Chúa Giê-su.

Chúa Giê-su trả lời cho các môn đệ một biểu thức đầy kinh ngạc khi đưa ra lời phán quyết: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”. Để đo lường tính cách mạng của lời phán quyết nầy, chúng ta nên nhớ rằng trong nền văn hóa Do thái “độc tôn nam giới”, chỉ có người chồng mới được phép rẫy vợ. Ngoài ra, tội ngoại tình chỉ được dùng để nêu lên sự bất trung của người vợ; không hề có án phạt được dự kiến đối với người chồng bất trung. Như vậy, Chúa Giê-su tái lập sự bình đẳng của chồng và vợ trong việc kính trọng phải có đối với hôn nhân. Thánh Mát-thêu đã không trích vế thứ hai “Ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”, vì thánh nhân viết Tin Mừng cho người Ki-tô hữu gốc Do thái. Nhưng ở Hy-lạp cũng như ở Rô-ma, người vợ có quyền nầy, vì thế thánh Mác-cô không thể nào giữ im lặng về vấn đề này được.

3. Đức Giê-su và các trẻ em:

Từ việc phục hồi quyền hôn nhân, Đức Giê-su chuyển sang việc phục hồi quyền trẻ con. Thật khó để nghĩ rằng trình tự nầy thì ngẫu nhiên. Sau đoạn văn về hôn nhân, đến đoạn văn về con trẻ cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Cả hai đều có nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi thường trong xã hội lúc ấy; nhưng dưới mắt Đức Giê-su, họ cũng là những nhân vị, và có lẽ còn được Thiên Chúa chiếu cố đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước Thiên Chúa được dành cho những con người như thế.
Người vừa mới quở trách các đối thủ của Người là lòng chai dạ đá khi từ chối luật hôn nhân đích thật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Đối lập với tinh thần quỷ quyệt của họ, Đức Giê-su nói đến đức tính trung thực, độ cảm thụ tuyệt vời và khả năng chân thành đón nhận Nước Thiên Chúa của con trẻ: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì chẳng được vào”.

“Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng”. Thánh Mác-cô một lần nữa trích dẫn những cử chỉ đầy thương mến của Đức Giê-su (ông là thánh ký duy nhất trích dẫn cử chỉ này). Qua cử chỉ này, Chúa Giê-su không chỉ bày tỏ tấm lòng yêu thương con trẻ nhưng còn dâng hiến tinh thần trẻ thơ như một linh đạo.

---------------------------------

 

TN 27-B121: TÌM VỀ Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA


Lm. Ngọc Dũng

 

Chúng ta thường nói những người có nhà cao cửa rộng, công việc ổn định và có gia đình êm ấm TN 27-B121


Chúng ta thường nói những người có nhà cao cửa rộng, công việc ổn định và có gia đình êm ấm là hạnh phúc. Nói theo cách khác, những ai thực hiện được giấc mơ của mình là hạnh phúc. Tuy nhiên, những hạnh phúc của con người luôn có giới hạn. Không ai trong chúng ta được hạnh phúc luôn mãi: Hôm nay cười, ngày mai sẽ có buồn phiền, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày đó (x. Mt 6:34). Lời Đáp Ca hôm nay trình bày cho chúng ta một loại người luôn hạnh phúc, không chỉ ở đời này mà cả đời sau, đó là những người kính sợ Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay những người kính sợ Chúa.” Kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta cẩn thận hơn trong từng quyết định và thái độ sống của mình; làm cho chúng ta hiền dịu, tế nhị, thông cảm và nhất là khiêm nhường hơn trong tương quan của chúng ta với Chúa và với nhau. Sách Châm Ngôn dạy chúng ta rằng: Kính sợ Thiên Chúa là đầu mối mọi khôn ngoan (x. Cn 9:10). Chúng ta hãy tìm hạnh phúc trường cửu trong việc “kính sợ và làm theo ý Thiên Chúa,” hơn là hạnh phúc chóng qua trong việc “sợ hãi và làm vui lòng con người.”

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy sự khác biệt trong việc sáng tạo người nam người nữ giữa hai trình thuật sáng tạo Tư Tế và Yawist. Trong trình thuật sáng tạo Tư Tế [chúng ta nghe trong bài đọc 1 hôm qua], người nam và người nữ được sáng tạo cùng lúc theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (St 1:26-27). Còn trong trình thuật sáng tạo Yawist, người nam được sáng tạo trước và người nữ được sáng tạo từ “cạnh sườn” của người nam. Sự khác biệt này không có ý nói đến sự bất đồng của các tác giả Sách Thánh trong việc thuật lại sáng tạo con người của Thiên Chúa. Sự khác biệt này nói lên sứ điệp Tin Mừng mà từng tác giả muốn truyền tải cho người nghe của mình trong những khoảng không gian và thời gian hoàn toàn khác biệt: trình thuật sáng tạo Yawist cho những người Do Thái thời Solomon [thời an bình thịnh vượng], còn trình thuật Tư Tế cho những người Do Thái trong thời lưu đày [thời kỳ sống giữa dân thờ ngẫu tượng và bị cám dỗ bỏ quên Thiên Chúa qua việc không giữ luật ngày sabát]. Tuy nhiên, cả hai trình thuật có cùng một sứ điệp, đó là: Con người là tạo vật tuyệt hảo nhất mà Thiên Chúa đã sáng tạo nên và “muốn trong chính nó.” Như thế, con người “nợ” Thiên Chúa sự sống của mình và vì vậy con người luôn “lệ thuộc” Ngài trong mọi sự. Điều này cho thấy, sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa siêu vượt thời gian và không gian. Nó không bao giờ thay đổi, nhưng có khả năng diễn tả chính mình cách mới mẻ cho con người qua mọi thời đại. Nếu con người biết lắng nghe và mở rộng tâm hồn để đón nhận lời Chúa trong hoàn cảnh sống cá biệt của mình, thì con người sẽ được biến đổi.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất trong trình thuật sáng tạo Yawist về con người nằm ở câu: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18). Con người ở một mình không tốt. Con người cần một trợ tá. Nhưng con người không thể tìm thấy bất kỳ trợ tá nào trong các tạo vật khác: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2:19-20). Cuối cùng con người chỉ tìm thấy trợ tá tương xứng nơi người nữ, một nhân vị khác giống với mình: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Thiên Chúa muốn nói gì qua điều này? Ngài muốn nói rằng: Con người là một hữu thể có tính xã hội. Con người cần người khác để trợ giúp mình. Tuy nhiên, trợ tá tương xứng để trợ giúp con người không phải là những tạo vật “vô hồn,” nhưng là những “nhân vị được sinh động bởi linh hồn bất tử.” Nhưng trong cuộc sống thường ngày, chúng ta chứng kiến nhiều người trong chúng ta yêu “sự vật” hay “công việc” của mình hơn những người anh chị em. Chúng ta xem những “con vật” hay “sự vật” như “bạn đồng hành” không thể thiếu. Nhiều khi chúng ta nổi giận với anh chị em của mình khi họ làm “tổn thương” con vật hoặc công việc chúng ta yêu thích. Khi làm như thế, chúng ta đã hạ phẩm giá của anh chị em mình xuống thấp hơn giá trị của một “con vật” hay “sự vật.” Tóm lại, chúng ta chỉ tìm thấy những trợ tá tương xứng nơi những con người và sự cô đơn của chúng ta không thể bị phá huỷ bằng tương quan chúng ta có với “con vật” hoặc “sự vật,” nhưng chỉ bằng tương quan lành mạnh với anh chị em và nhất là tương quan với Thiên Chúa.

Hai chữ “con người” thường được chúng ta dùng để bào chữa cho những yếu đuối và lỗi phạm. Khi một ai làm điều gì sai, thì cách bào chữa nhanh nhất và tốt nhất để lấy sự cảm thông của người khác đó là, “vì tôi là người.” Nhưng chúng ta hãy biết rằng: Ơn gọi “làm người” là điều cao đẹp nhất mà không tạo vật nào có thể có được, ngay cả các thiên thần, vì không có tạo vật nào được gọi là “hình ảnh của Thiên Chúa,” cũng không có tạo vật nào được gọi là “con Thiên Chúa” như con người. Chính Chúa Giêsu “trở thành người” để cứu chuộc chúng ta. Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả thư gởi Do Thái mượn lời Thánh Vịnh để nói lên sự cao trọng của con người như sau: “Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến? Con người là gì mà Chúa phải thăm nom? Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên, đặt muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục quyền con người” (Tv 8:4-8; Dt 2:6-8). Một triết gia nói rằng: “Làm người là điều cao trọng nhất mà một hữu thể có thể là.” Như vậy, hãy sống cho thật là người, vì chỉ có những ai sống thật sự là “con người” thì mới có khả năng nên giống “Con Người” [Đức Kitô]. Thư gởi Do Thái khẳng định rằng: Làm “người” – “anh [chị] em” của Chúa Giêsu – chính là vinh quang của con người: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu” (Dt 2:10).

Thư gởi Do Thái hôm nay nói cho chúng ta biết về giá trị của gian khổ, điều mà không ai trong chúng ta muốn. Ai cũng muốn có một cuộc sống an nhàn và sung túc. Theo tự nhiên, đau khổ là một điều không ai muốn! Theo triết học và thần học, đau khổ được xem như là “sự dữ.” Nhà phật nói: “Đời là bể khổ.” Tuy nhiên, dù không muốn gian khổ, ai trong chúng ta ta cũng có gian khổ của riêng mình. Chúa Giêsu khẳng định điều này rằng: “Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó.” Theo cái nhìn Kitô giáo, đau khổ có giá trị riêng của nó: đau khổ là thầy dạy tốt nhất trên con đường nhân đức. Chính Chúa Giêsu cũng phải trải qua đau khổ dù Ngài là con Thiên Chúa. Đau khổ chỉ được hiểu từ mầu nhiệm của tự hạ và đỉnh cao là thập giá. Qua đau khổ Chúa Giêsu “trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2:10).

Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với mấy người Pharisêu hôm nay nằm trong bối cảnh của việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài về những thách đố để trở nên môn đệ chân chính của Ngài. Lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay phản ánh chính quan điểm của Chúa Giêsu về đời sống hôn nhân và quan điểm của Ngài hoàn toàn khác với quan điểm về hôn nhân tìm thấy trong Cựu Ước và các tôn giáo khác. Để hiểu lời dạy của Chúa Giêsu về hôn nhân tốt hơn, chúng ta có thể sắp xếp lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và mấy người Pharisêu như một bản kịch như sau:

Người dẫn: Khi ấy, Đức Giêsu, đi tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ (Mc 10:1). Trong khi Đức Giêsu đang giảng dạy, có mấy người Pharisêu đến hỏi ý kiến của Ngài về đời sống hôn nhân.

Mấy người Pharisêu: Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không? (Mc 10:2).

 Chúa Giêsu: Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? (Mc 10:3).

Mấy người Pharisêu: Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ (Mc 10:4).

Chúa Giêsu: Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly (Mc 10:5-9).

Chúng ta thấy trong cuộc đối thoại này điều Chúa Giêsu quở trách những người Pharisêu trong chương 7 về việc họ lấy truyền thống cha ông để biện minh cho những việc làm sai trái của họ và không thi hành luật của Thiên Chúa. Cụ thể hơn, mấy người Pharisêu nại vào “phép” của ông Môsê để rẫy vợ, còn Chúa Giêsu thì đưa họ [và chúng ta] về với ý định ban đầu của Thiên Chúa khi Ngài sáng tạo người nam và người nữ. Ngài muốn tình yêu của họ phản chiếu cách trung thực tình yêu của Ngài, là tình yêu vô điều kiện và trung thành, là tình yêu làm cho Cha, Con và Thánh Thần nên một. Chính vì lẽ đó mà “họ không còn là hai [như Cha, Con, Thánh Thần không còn là ba], nhưng chỉ là một xương một thịt [nhưng chỉ là một Chúa].” Như vậy, trong ý định của Thiên Chúa, không có việc rẫy nhau. Chúng ta có thể rút ra điều gì ở đây? Nơi nào con người sống theo “ý định ban đầu” của Thiên Chúa [dù trong đời sống hôn nhân hay đời sống thánh hiến], nơi đó có hiệp nhất, có một lòng một trí; còn nơi nào con người sống theo “ý định nhất thời của mình,” nơi đó chỉ có chia rẽ và nước mắt.

Hai chi tiết cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay mà chúng ta đã quen thuộc là: (1) Động lực đến đối thoại với Chúa Giêsu của mấy người Pharisêu là “để thử Người” (Mc 10:2); (2) Chúa Giêsu giải thích mọi sự cho các môn đệ khi họ “ở trong nhà” với Ngài: “Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy” (Mc 10:10). Khi đặt hai chi tiết này với nhau, chúng nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết phải “ở một mình với Chúa,” nhưng với một động lực đúng nếu chúng ta muốn biết và hiểu đường lối và mệnh lệnh của Ngài: “Lạy Chúa, trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi.”

Sau lời giảng dạy về đời sống vợ chồng, lời dạy về con cái của Tin Mừng hôm nay đi theo sau là hợp lý. Khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc trở nên giống trẻ em, Chúa Giêsu không đơn giản nói đến việc trở nên theo thể lý. Ngài có ý nhắm đến bình diện “tương quan.” Chúng ta phải chân nhận rằng, đối với trẻ em, mối tương quan quan trọng nhất đối với chúng là tương quan với bố mẹ. Không có mối tương quan nào quan trọng hơn mối tương quan này! Nhưng khi lớn lên, chúng có những mối tương quan khác [bạn bè, vợ chồng, đồng nghiệp] và những mối tương quan này đôi khi làm cho tương quan với bố mẹ trở nên thứ yếu.

Khi đặt những lời Chúa Giêsu nói cho các môn đệ trong bối cảnh tương quan như trên, chúng ta hiểu rõ hơn điều Ngài muốn ám chỉ trong câu: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10:14-15). Điều Chúa Giêsu muốn nói ở đây là: Trong Nước Thiên Chúa, chỉ có một mối tương quan là quan trọng: Thiên Chúa là Cha, còn tất cả chúng ta là con cái của Ngài và là anh chị em của nhau. Còn nhìn từ khía cạnh Kitô học, trong những lời trên của Chúa Giêsu, Ngài muốn các môn đệ phải học ở Ngài, vì Ngài luôn sống tinh thần “trẻ thơ” [là Con] với Chúa Cha. Theo văn hoá thời đó của người Do Thái, trẻ em thường được trình bày để làm ví dụ cho những hành vi “không hợp lý” theo lẽ con người và cần phải được dạy dỗ. Đây chính là điều cần thiết mà Chúa Giêsu đề ra để được vào Nước Thiên Chúa: Ai muốn vào Nước Thiên Chúa thì cần phải từ bỏ lối lý luận hợp lý của con người để được Thiên Chúa dạy dỗ cho lối lý luận của Ngài.

Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng này không có ý nói về trẻ nhỏ, nhưng nói về Nước Thiên Chúa và những ai sẽ được vào. Một cách tổng quát, chỉ những ai nhận ra và đón nhận Nước Thiên Chúa như một món quà nhưng không với thái độ ngạc nhiên và hạnh phúc của trẻ nhỏ mới được vào; Nước Thiên Chúa chỉ dành cho những ai không cậy dựa vào quyền lực hoặc địa vị của mình như trẻ nhỏ là những người không có quyền lực và địa vị, bởi vì Nước Thiên Chúa siêu việt trên mọi quyền lực và địa vị của con người.

Câu đầu tiên và câu kết thúc của đoạn Tin Mừng hôm nay giống nhau. Cả hai nói về việc Chúa Giêsu đặt tay chúc lành cho trẻ em: “Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng” (Mc 10:13) và “Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10:16). [Theo tư tưởng của người Do Thái, “trẻ em” bao gồm những em từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến 12 tuổi]. Khi để hai câu này với nhau, chúng ta khám phá ra vẻ đẹp của chúng, đó là sự “hợp tác” giữa chúng ta với Chúa Giêsu để mang lại ơn lành cho người khác. Một cách cụ thể, về phần mình, chúng ta “dẫn người khác đến với Chúa Giêsu và xin Ngài chúc lành cho họ”; về phần Ngài, Chúa Giêsu “ôm lấy họ và đặt tay chúc lành cho họ.” Không có sự “hợp tác” nào đẹp cho bằng sự hợp tác này vì nó không nhắm đến lợi ích cá nhân của mình, nhưng luôn nhắm đến lợi ích của người khác. Đây chính là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa vì “Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17).

---------------------------------

 

TN 27-B122: LÀM CHA VỚI SỰ HY SINH TRƯỞNG THÀNH


Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình”(x. Mc 10,7)

 

Đó là khi người đàn ông cưới vợ và người phụ nữ lấy chồng. Họ kết hôn với nhau và thành lập TN 27-B122


Đó là khi người đàn ông cưới vợ và người phụ nữ lấy chồng. Họ kết hôn với nhau và thành lập một gia đình mới. Nơi đó sẽ sinh ra những người con. Lúc đó người đàn ông sẽ được làm cha và người phụ nữ sẽ được làm mẹ. Trong Năm Thánh Giu-se, chúng ta sẽ nói về người cha Giu-se trong tông thư “Bằng trái tim người Cha” của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, số 7 , Thánh Cả Giu-se là “Một người cha trong bóng tối” như sau:

    “Trong mối liên hệ của ngài với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần gian của Chúa Cha trên trời: ngài trông nom và bảo vệ Chúa Giê-su, không bao giờ để Người đi theo con đường riêng của mình. Chúng ta có thể nghĩ đến những lời của Môsê nói với Israel: “Trong hoang địa… các ngươi đã thấy Chúa là Thiên Chúa của các ngươi cưu mang các ngươi như thế nào, giống như người bồng đứa con, suốt chặng đường các ngươi đi qua” (Đnl 1:31). Cùng một cách tương tự, Thánh Giuse hành động như một người cha trong suốt cuộc đời của Người”.

“Các người cha không được sinh ra, nhưng được tạo ra. Một người đàn ông không trở thành một người cha chỉ đơn giản bằng cách đem một đứa con vào thế giới, mà bằng cách nhận trách nhiệm chăm sóc đứa con đó. Bất cứ khi nào một người đàn ông nhận trách nhiệm đối với cuộc sống của một người khác, cách nào đó, họ đã trở thành cha của người đó”.

   Ca dao Việt Nam có câu: “Sinh con rồi mới sinh Cha,

 Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh Ông”.

Có nghĩa là khi một đứa con được sinh ra, thì mới sinh chức vụ người Cha; khi sinh ra cháu rồi, mới sinh ra chức vị của người ông. Chữ “Sinh” trong “sinh con, sinh cháu” là sinh đẻ. Còn chữ “Sinh” trong “Sinh Cha, Sinh Ông” là sinh chức vị.(Theo NoName.448; ngày 22/3/2016).

    Theo tôi nên dùng chữ “Xưng” cho rõ:

“Sinh con rồi mới xưng Cha,

Sinh cháu giữ nhà rồi mới xưng ông”.

“Xưng” là xưng hô, là gọi. Khi đứa con được sinh ra thì người chồng được gọi là “Cha”; khi đứa cháu được sinh ra thì bố của người cha đó được xưng, được gọi là “Ông”. Theo Đức Phan-xi-cô, thì người cha không được “sinh ra” mà được “tạo ra”. Người cha đó không chỉ đơn thuần là sinh ra một đứa con mà quan trọng là có trách nhiệm săn sóc và nuôi dưỡng cho đứa con đó nên người. Ngoài ra, khi lãnh trách nhiệm săn sóc và nuôi dưỡng một người nào đó, thì có thể nói người đó đã là “người cha” đối với người đó rồi vậy. Điều này ta có thể nói về người cha “tinh thần”; người cha “thiêng liêng”.

Đặc biệt trong Giáo Hội, các Linh Mục được gọi là “Cha”, người Cha tinh thần, người Cha thiêng liêng, người Cha trong đức tin. Vì các Linh Mục đã sinh ra các tín hữu qua bí tích rửa tội và còn săn sóc, nuôi dưỡng người tín hữu cho đến khi lìa đời; cho đến khi “Chúa Ki-tô được hình thành” nơi người tín hữu bằng Lời Chúa, Thánh Thể và các bí tích.

“Làm cha đòi hỏi phải dẫn nhập con cái vào cuộc sống và thực tại. Không phải kìm hãm chúng, quá bảo vệ hay chiếm hữu, mà là làm chúng có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới. Có lẽ vì lý do này, Thánh Giuse theo truyền thống được gọi là một người cha “khiết tịnh nhất”. Tước hiệu này không chỉ đơn giản là một dấu chỉ tình âu yếm, mà là một tổng kết cho thái độ đối lập với tính chiếm hữu. Khiết tịnh là tự do thoát khỏi tính chiếm hữu về mọi lĩnh vực đời sống ta. Chỉ khi khiết tịnh, tình yêu mới là đích thực. Một tình yêu chiếm hữu cuối cùng trở nên nguy hiểm: nó cầm tù, giới hạn và khiến người ta khốn khổ. Chính Thiên Chúa đã yêu nhân loại bằng một tình yêu khiết tịnh; Người để chúng ta tự do, thậm chí đi lạc và chống lại chính Người. Luận lý học của tình yêu luôn là luận lý học của tự do, và Thánh Giuse biết yêu một cách tự do phi thường. Ngài không bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự. Ngài không nghĩ về mình, mà tập chú vào cuộc đời của Đức Maria và Chúa Giêsu”.

Qua đó, những người làm CHA cũng thế, đừng bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự, nhưng hãy tập chú vào cuộc đời của vợ mình và những đứa con; làm sao cho vợ mình được yên vui, hạnh phúc; làm sao cho con của mình có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới của chúng.

 “Thánh Giuse tìm thấy hạnh phúc không chỉ ở sự hy sinh bản thân mà ở sự tự hiến. Nơi ngài, chúng ta không bao giờ thấy sự thất vọng mà chỉ thấy sự tin tưởng. Sự im lặng kiên nhẫn của ngài là khúc dạo đầu cho những biểu thức cụ thể của sự tin tưởng. Thế giới của chúng ta ngày nay cần những người cha. Nó không cần các bạo chúa, những kẻ thống trị người khác như một phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu của chính họ. Nó bác bỏ những ai lẫn lộn thẩm quyền với chủ nghĩa độc đoán, phục vụ với nô dịch, thảo luận với áp chế, bác ái với não trạng phúc lợi, quyền lực với hủy diệt. Mỗi ơn gọi đích thực đều phát sinh từ việc tự hiến chính mình, vốn là hoa trái của sự hy sinh trưởng thành”.

    Một người cha trưởng thành là một người cha có thẩm quyền chứ không độc đoán; một người cha phục vụ chứ không nô dịch; một người cha biết thảo luận chứ không áp chế; một người cha yêu thương chứ không vụ lợi; một người cha có quyền lực để xây dựng chứ không để hủy diệt.

   “Khi những người cha từ chối sống cuộc sống của con cái họ vì chúng, những viễn cảnh mới và bất ngờ sẽ mở ra. Mọi đứa con đều mang trong mình một mầu nhiệm độc đáo chỉ có thể đưa ra ánh sáng với sự giúp đỡ của một người cha biết tôn trọng quyền tự do của đứa con đó. Một người cha biết nhận ra rằng mình là một người cha và một nhà giáo dục hơn cả chính ở thời điểm ông trở nên “vô dụng”, lúc ông thấy con mình đã trở nên độc lập và có thể bước đi trên nẻo đường cuộc sống mà không cần người kèm cặp. Khi ông trở nên giống như Thánh Giuse, người luôn biết rằng đứa con của ngài không phải là của ngài mà chỉ đơn thuần được giao cho ngài chăm sóc”.

    Nghĩa là người cha đó không bắt con cái mình sống cuộc sống của mình mà để cho chúng sống cuộc sống của chúng. Cuộc sống của mình khác; cuộc sống của con cái khác. Nó khác về tuổi tác; nó khác về thời đại; nó khác về tư duy. Do đó, người cha cần phải tôn trọng cuộc sống riêng tư và tư duy của con cái. Lý do là “Những đứa con của ông không phải là của ông mà chỉ đơn thuần chúng được giao cho ông chăm sóc” mà thôi.

   “Trong mỗi lần thực thi thiên chức làm cha của mình, chúng ta nên luôn nhớ rằng điều đó không liên quan gì đến việc chiếm hữu, nhưng đúng hơn là một “dấu hiệu” chỉ tình phụ tử lớn hơn. Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều giống như thánh Giuse: một cái bóng của Chúa Cha trên trời, Đấng “làm cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa cho kẻ công chính và kẻ bất chính” (Mt 5:45). Và là một chiếc bóng theo Con của Người”.

    Đến đây, chúng ta mới thấy từ “bóng” mà Đức Phan-xi-cô nói có ý nghĩa gì. Bóng đây là “hình bóng”, hình bóng của Cha Trên Trời, chứ không là bóng tối. Những người làm cha thi hành thiên chức làm cha của mình là thi hành “tình phụ tử”; là thực hành “tình phụ tử” của Cha Trên Trời. Nên phải nói là Thánh Cả Giu-se là hình bóng của Cha Trên Trời mới chính xác.

   Vậy, hỡi những người làm Cha trong gia đình, hãy noi gương thánh Cả Giu-se khi thực thi thiên chức làm Cha của mình. Các bà mẹ cũng hãy gắn bó với những người cha và cùng thực thi thiên chức làm mẹ của mình đối với con cái như vậy. Các Linh Mục hãy làm Cha đối với các tín hữu “trong Chúa Ki-tô qua Tin Mừng”. Nói tóm là “Bất kể ơn gọi của chúng ta là gì, dù kết hôn, độc thân hay trinh khiết, việc hiến mình của chúng ta sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở sự hy sinh”. Sự hy sinh này phải là sự hy sinh trưởng thành. Có như thế, sự tự hiến của người Cha mới trở thành một dấu hiệu của vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu. Nếu không thì“việc tự hiến sẽ có nguy cơ trở thành biểu thức của bất hạnh, buồn bã và thất vọng” đấy.

---------------------------------

 

TN 27-B123: CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN_B


Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.

 

Giáo hội dành Tháng Mười để kêu gọi mọi người Công giáo siêng năng lần hạt Mân côi kính TN 27-B123


Giáo hội dành Tháng Mười để kêu gọi mọi người Công giáo siêng năng lần hạt Mân côi kính Đức Mẹ, đặc biệt là thực hành 3 mệnh lệnh của Đức Maria cho nhân loại, trong những lần hiện ra với 3 trẻ Lucia, Phanxicô, và Jacinta ở Fatima “Ăn năn đền tội, lần chuỗi Mân côi, và tôn sùng Mẫu Tâm.” Là những Kitô hữu Công giáo Việt Nam, chúng ta có lòng yêu mến và tôn kính Mẹ Maria cách đặc biệt, vì Mẹ đã nhiều lần cứu giúp và che chở con dân Việt Nam qua khỏi những cơn nguy biến, khó khăn. Chính chúng ta cũng đã cảm nghiệm được bao nhiêu lần Mẹ đã cầu bầu và ban ơn cho chúng ta khi chúng ta chạy đến kêu xin Mẹ. Do đó, chúng ta hãy cố gắng và hy sinh vâng theo và sống những lời Mẹ dạy bảo, để chúng ta luôn sống trong bình an và ân sủng của Chúa Giê-su. Chúng ta lần hạt Mân côi kính Đức Maria, suy niệm những mầu nhiệm của Chúa Giê-su, và cầu nguyện cho các gia, đình đặc biệt là các gia đình trong giáo xứ, luôn trung thành, yêu thương, có sự hòa thuận, cũng như biết chu toàn bổn phận giáo dục dạy dỗ và làm những gương sáng cho con cái, để con cái lớn lên trong đức tin, có đời sống tốt lành và hữu ích cho xã hội cũng như Giáo hội.

Ông bà anh chị em thân mến. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa bao giờ đời sống hôn nhân vợ chồng phải đối diện với nhiều khó khăn và thách thức như ngày nay. Chúng ta nhận thấy nhiều những vấn đề đang xảy ra ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân gia đình, như luật hôn nhân đồng tính, tỉ lệ ly dị cao, nhất là ngay tại tiểu bang Oklahoma này, đời sống chung chạ ngoài hôn nhân, ly dị và tái hôn, sự lôi cuốn của tiền bạc vật chất, đời sống ích kỷ và tư tưởng con cái là trở ngại, đưa đến tình trạng phá thai và hạn chế sinh sản. Chúng ta nhận thấy nhiều gia đình chỉ có một cha hay một mẹ, đưa đến vấn đề trở ngại khó giáo dục và dạy dỗ, ảnh hưởng đến tương lai của con cái. Đây chỉ là một số vấn đề đang đe dọa hôn nhân gia đình hiện tại.

Chúng ta thấy trong quá khứ, hôn nhân được xã hội và tôn giáo bảo vệ và được gia đình giúp đỡ một cách tối đa.  Đối với người Việt Nam chúng ta, hôn nhân còn được phong tục và lễ giáo ràng buộc. Ðời sống vợ chồng được cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu và hàng xóm khuyến khích, nâng đỡ và ủi an khi vợ chồng có chuyện khó khăn hay buồn giận lẫn nhau. Trái lại sống trong quốc gia Hoa kỳ và trong xã hội hiện tại và hiện đại, hôn nhân vợ chồng gia đình bị tấn công bởi nhiều phương diện như phim ảnh, truyền hình, mạng tin internet, và sự tự do cá nhân. Luật pháp xã hội hiện đại cho phép ly dị không còn bảo vệ hôn nhân, cho nên khi kết hôn, người ta nghĩ đến những giá trị tầm thường, vật chất và khoái cảm hiện tại nhất thời.

Chúng ta nhận biết liên hệ hôn nhân là một thứ liên hệ gần gũi và thân mật nhất trong các thứ liên hệ của loài người, đem lại cho hai người niềm an vui và hạnh phúc. Có người nói yêu nhau là cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích. Khi hai người cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích, họ sẽ giúp nhau hoàn thành ơn gọi của đời sống hôn nhân. Nhận thức được rằng đám cưới chỉ kéo dài có một ngày, còn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống, cho nên các giáo phận tại Hoa kỳ, kể cả giáo phận Tulsa của chúng ta có những điều luật đòi hỏi những cặp dự bị hôn nhân phải qua chương trình học hỏi, và đợi chờ tối thiểu là sáu tháng. Thời gian học hỏi và đợi chờ nhằm giúp cho người dự bị hôn nhân học hỏi về giáo lý hôn nhân gia đình Công giáo, hiểu biết những giá trị tinh thần, cao quí, nhận ra những vấn đề sẽ phải đối diện, và tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau xem hai người có thể đi tới đời sống lứa đôi không? Giáo hội Công giáo đòi hỏi những điều kiện chuẩn bị, không phải muốn làm khó dễ những người muốn kết hôn, nhưng muốn giúp cho họ biết duy trì, bảo vệ và nuôi dưỡng đời sống gia đình trong yêu thương, hòa thuận và hạnh phúc hôm nay và suốt đời.

Chúng ta nhận thấy, Đại hội Gia đình Thế giới vừa qua tại thành phố Philadelphia, có sự hiện diện của Đức thánh cha Phan-xi-cô, đã nói lên sự quan tâm của Giáo hội về đời sống gia đình và những vấn đề mà hôn nhân phải đối diện ngày nay trong trong xã hội hiện đại. Và trong những ngày tháng tới đây sẽ có một Thượng hội đồng về gia đình để khẳng định lại giáo huấn của Giáo hội về hôn nhân gia đình. Trước bối cảnh của xã hội và trước ngày khai mạc Thượng hội đồng về gia đình của Giáo hội, các bài Kinh Thánh lời Chúa hôm nay mời gọi mọi mỗi người chúng ta ý thức và trung thành với ý định và giá trị hôn nhân trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa, để chúng ta cố gắng xây dựng và bảo vệ mối liên hệ hôn nhân vợ chồng một cách trong sáng, lành mạnh và thánh thiện trong thánh ý Chúa.

Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa từ lúc tạo thiên lập địa, đã dựng nên người nữ để kết hợp với người nam, trở thành vợ chồng. Cả hai nên một xương một thịt, không thể tách lìa nhau. Trong bài Tin mừng, Chúa Giê-su xác định lại ý định của Thiên Chúa về nền tảng giá trị hôn nhân, trong đó Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ để họ chung sống với nhau trong giao ước bất khả phân ly. Những người Pharisêu và biệt phái đến hỏi Chúa “Người ta có được phép ly dị vợ mình không?” Chúa Giêsu xác định tính chất bất khả phân ly và trả lời “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ.” 

Ông bà anh chị em thân mến. Trong ngày tân hôn, ngày cử hành Bí tích Hôn phối, đôi nam nữ nắm tay nhau nói lời cam kết chung thủy, yêu thương và tôn trọng nhau trong mọi hoàn cảnh suốt cuộc đời. Đây là một giao ước, một lời thề nguyền thánh thiêng, nối kết hai người lại với nhau trở thành vợ chồng. Chính vì sự thánh thiêng, ràng buộc, và tuyệt đối, cho nên Giáo hội khuyên, trước khi kết hôn, hai người nam nữ phải tìm hiểu thật kỹ lưỡng, và một khi đã quyết định tự do kết hôn, họ càng phải cố gắng và hy sinh để duy trì và bảo vệ tình yêu và xây dựng hạnh phúc gia đình. Bởi vì như chúng ta đều biết ngày nay và trong xã hội này yêu nhau thì dễ, nhưng yêu nhau mãi mãi suốt đời thì khó. Cũng vậy, lấy nhau, kết hôn thì dễ, nhưng sống với nhau trong hạnh phúc và hoà thuận thì khó. Cuộc sống này đòi hỏi sự cố gắng và hy sinh hàng ngày của cả hai vợ chồng, trong việc lớn cũng như những việc nhỏ. Cho nên phải có Chúa và Mẹ Maria ngự trị trong gia đình, bằng sự thờ phượng, cầu nguyện và đời sống đạo đức, và tốt lành. Xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Maria, ban nhiều ơn lành, che chở và gìn giữ các gia đình, nhất là tất cả gia đình trong cộng đoàn giáo xứ, trong Tháng Mân côi này, biết Cải thiện đời sống, Năng lần hạt Mân côi, Tôn sùng Mẫu tâm, để luôn được Mẹ che chở và gìn giữ, sống yêu thương, hòa thuận và hạnh phúc.

---------------------------------

 

TN 27-B124: NGUỒN GỐC VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA TA


 Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài. Chính vì muốn đưa con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc đích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành Vị lãnh đạo thập toàn dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ”(Dt 2,10).

  Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, nghĩa là gì?

 

Thiên Chúa là nguồn gốc mọi loài, có nghĩa là muôn loài muôn vật đều bởi Ngài mà ra, trong TN 27-B124


Thiên Chúa là nguồn gốc mọi loài, có nghĩa là muôn loài muôn vật đều bởi Ngài mà ra, trong đó có con người chúng ta. Thiên Chúa đã tạo dựng toàn thể vũ trụ này, chứ không tự nhiên mà có; cũng không do một vụ nổ Bigbang nào. Chẳng có vụ nổ nào mà làm nên trái đất, mặt trăng và tinh tú hết. Rồi Thiên Chúa cũng tạo dựng con người có nam, có nữ. Con người chúng ta xuất phát từ Chúa chứ không từ khỉ.

Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng, Thiên Chúa là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Đó là niềm tin, là đức tin của chúng ta. Chúng ta tin Thiên Chúa là nguồn gốc muôn loại muôn vật và con người. Đấng dựng nên muôn loài muôn vật, hữu hình và vô hình, chính là Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa mà chúng ta tin cậy kính mến.

  Thiên Chúa đó, không chỉ là nguồn gốc mà còn là cùng đích của muôn vật, muôn loài nữa. Nghĩa là muôn vật muôn loài và con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Nói nôm na là đích đến của muôn loài muôn vật và cách riêng của con người chúng ta là Thiên Chúa. Mọi loài đều phát sinh bởi Chúa và cũng sẽ trở về với Chúa. Điều đó thật hợp tình, hợp lý. Nhưng sẽ không thể trở về với Chúa cách y chang như khi phát sinh. Nghĩa là muôn vật phải sinh hoa kết quả và con người phải nên thánh nên thiện. Dụ ngôn ông chủ giao các nén bạc cho các đầy tớ nói lên điều đó. Ai mà biết làm cho sinh lời, làm cho mình nên thánh nên thiện thì được thưởng; còn ai lười biếng, còn nguyên, y chang thì sẽ bị phạt.

Thiên Chúa đã làm một việc đích đáng, đó là việc gì? Đó là việc Ngài cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành Vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người chúng ta tới nguồn ơn cứu độ, tới nguồn gốc đã sinh ra chúng ta. “Con người đó chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa”(Dt 2,9).

Do đó, Đức Giê-su trở thành Đấng thánh hóa ta và chúng ta trở thành người được thánh hóa. Cả Đức Giê-su và chúng ta đều cùng một nguồn gốc là Thiên Chúa, nên Đức Giê-su không hổ thẹn gọi chúng ta là anh em. Con người chúng ta là anh em của Đức Giê-su trong Thiên Chúa.

Như linh hồn và thân xác của ta; như đôi uyên ương, phu phụ nên một và không tách rời thế nào thì Đức Giê-su và chúng ta cũng sẽ nên một và không tách rời như thế. Xác mà không có linh hồn là một xác chết; vợ chồng mà không có nhau, không ở bên nhau thì đau khổ, buồn bã; chúng ta mà không có Đức Giê-su thì chúng ta sẽ không được cứu độ, không được sống đời đời.

  Dầu vậy, khi chúng ta chết thì linh hồn cũng phải lìa khỏi xác, nhưng ngày sau hết thân xác chúng ta sẽ được phục sinh và cũng với linh hồn được sống đời dời với Chúa. Đôi uyên ương, phu phụ mà xa nhau, không có dịp để gần nhau, nhưng tình yêu sẽ là mối dây liên kết, họ vẫn bên nhau trong tâm trí, trong tình yêu, trong lòng, không gì có thể tách họ ra cũng như ngăn cách họ ở bên nhau được. Không ở bên nhau bằng xương bằng thịt thì họ ở bên nhau thiêng liêng; nghe tiếng nói của nhau qua điện thoại, qua tổng đài trái tim; qua những ký ức, những kỷ niệm,….

  Còn ta với Đức Giê-su thì sao ? Có xa nhau được không ? Đương nhiên là có, nhưng cái có là về phía con người chúng ta chứ không từ phía Chúa. Con người chúng ta có tự do và lý trí; ta có muốn theo Chúa hay bỏ Chúa thì do chính ta quyết định. Về phần Chúa thì không bao giờ Chúa bỏ ta. Vì Chúa đã chết vì con người chúng ta mà. Ta mà xa Chúa thì chỉ có ta thiệt thôi; Chúa cũng không bắt ép ta được.

Chúa đã làm tất cả vì con người chúng ta: Chúa đã tạo dựng muôn loài muôn cho chúng ta hưởng dùng; Chúa cũng đã chết cho con người chúng ta được ơn cứu độ, được hưởng vinh quang của Chúa trên thiên quốc. Phần còn lại là tùy con người chúng ta mà thôi. Những ai muốn được hưởng ơn cứu độ, được hưởng vinh quang trên thiên quốc thì phải đồng lao cộng khổ với Đức Giê-su, nên một với Ngài như hồn với xác; gắn bó với Ngài như đôi uyên ương phu phụ.

  Thật ra, ta có chịu gian khổ thôi chứ không chết khổ như Đức Giê-su trên thập giá đâu. Chỉ có các thánh tử đạo, mới chết khổ như Chúa thôi. Các thánh tử đạo đã dâng hiến mạng sống mình như Đức Ki-tô đã dâng hiến, nên các ngài đích thật là anh em với Đức Ki-tô và các ngài đã lãnh nhận triều thiên vinh quang trên thiên quốc.

  Như 118 vị thánh tử đạo tại việt Nam, người thì bị xử trảm, tức là chặt đầu; người thì bị xử giảo, tức là bị thòng dây vào cổ và xiết cho đến khi tắt thở; người thì bị bá đao, tức là bị chém 100 nhát; người thì bị thiêu sống, tức là để vậy rồi lấy lửa đốt; người thì bị lăng trì, tức là bị chặt đầu và chân tay; người thì chết trong tù. Trong các cách chết này, bị thiêu sống là đau khổ hơn cả.

Bị xử trảm, dù sao chỉ bị chém một nhát thì đứt đầu, không còn biết đau là gì nữa. Bị xiết cổ thì cũng 5 phút là xong; Bị chém 100 nhát, cũng đau, nhưng chết cũng nhanh hơn. Bị xử lăng trì, nếu bị chặt đầu trước, rồi chặt chân tay sau, cũng đỡ bị đau; nếu làm ngược lại cũng đau lắm. Bị chết trong tù do bệnh tật, bị tra tấn, bị đói khát, chết dần, chết mòn, cũng đau khổ lắm. Các ngài là của lễ hi sinh dâng lên Thiên Chúa.

Còn bị thiêu sống thì ghê rợn hơn. Người còn sống mà bị thiêu. Ta thử nghĩ coi, tay chân bị trói, rồi bị lửa thiêu, bị đốt cháy dần dần, cháy da cháy thịt, thời gian bị thiêu dài hơn; có khi lửa cháy hết rồi mà vẫn chưa chết được thì đau rát biết chừng nào. Đúng là Các Thánh Tử Đạo. Phải nhờ có ơn Chúa, các ngài mới có thể chịu đựng được đến thế. Các ngài là của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa.Các ngài cũng biết rõ cùng đích của mình là Chúa, nên đã can đảm và trung thành với Chúa cho đến cùng.

Chúng ta không được diễm phúc đổ máu đào như các ngài, để đồng lao cộng khổ với Đức Ki-tô, thì ta đổ “máu trắng” vậy.“Máu Trắng”, đó là những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt; đó là những hi sinh, đó là những khó khăn ta chịu vì Chúa, vì giữ Đạo; vì giữ luật Chúa, vì sống Lời Chúa. Như mỗi khi ta dành thời giờ để cầu nguyện; dự lễ hằng ngày hay hàng tuần; mỗi khi ta thực hành Lời Chúa; mỗi khi ta yêu thương và giúp đỡ người khác, ……Chúng ta hãy noi gương các thánh tử đạo, trong Năm Thánh kỷ niệm 30 phong thánh, mà sống đức tin của mình.

  Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của muôn loài muôn vật; Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta, chúng ta hãy nhớ điều đó. Đức Giê-su Ki-tô là An-pha và Ô-mê-ga; còn chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về với Thiên Chúa qua Đức Ki-tô, Vị lãnh đạo thập toàn. Vậychúng ta hãy đi theo Vị lãnh đạo thập toàn này, để chúng ta về tới đích an toàn và lãnh được ơn cứu độ, lãnh được triều thiên vinh quang trên thiên quốc.

---------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây