Suy Niệm Tin Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu ABC Bài 1-50 Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót ------------------------------- Năm A: Phúc Âm: Mt 11, 25-30: “Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho. “Tất cả hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”. - Ðó là lời Chúa.
Năm B: Phúc Âm: Ga 19, 31-37: “Tên lính đâm thủng cạnh sườn Người, và máu cùng nước chảy ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Bởi lẽ là Ngày Chuẩn Bị, và để tránh cho các tử thi không còn treo trên thập giá trong ngày sabbat, vì ngày sabbat là một ngày trọng đại, những người Do-thái xin Philatô cho hạ các tử thi xuống, sau khi đánh giập ống chân. Bấy giờ những người lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu. Khi đến gần Chúa Giêsu, chúng thấy Người đã chết, nên không đánh giập ống chân Người; nhưng một tên lính lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức máu cùng nước chảy ra. Và kẻ đã xem thấy, thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cả chư vị cũng tin. Những điều đó đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: “Không một cái xương nào của Người bị đánh giập”. Và lại có lời Kinh Thánh khác rằng: “Chúng sẽ nhìn vào Ðấng chúng đã đâm thâu qua”. - Ðó là lời Chúa.
Năm C: Phúc Âm: Lc 15, 3-7: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các người biệt phái và luật sĩ dụ ngôn này rằng: “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: ‘Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!’ Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”. - Ðó là lời Chúa.
Mừng kính lễ Thánh tâm Chúa Giêsu, thiết tưởng mỗi người chúng ta cần phải có những ý nghĩ: ThánhTâm ABC-1
Mừng kính lễ Thánh tâm Chúa Giêsu, thiết tưởng mỗi người chúng ta cần phải có những ý nghĩ đúng đắn về việc tôn thờ này.
Thực vậy, nếu bất ngờ hỏi người tín hữu về vấn đề này, chắc hẳn chúng ta sẽ ghi nhận được những câu trả lời rất mơ hồ, cũng giống như khi người ta hỏi những kẻ qua lại ngoài đường phố về một câu chuyện lịch sử nào đó. Vậy việc tôn sùng kính mến Thánh tâm Chúa hệ tại điểm nào và đâu là những hậu quả thiêng liêng mà việc đạo đức này sẽ đem lại ?
Các nhà thần học xác định rằng: đối tường trực tiếp của việc tôn sùng Thánh tâm Chúa chính là trái tim bằng thịt của Ngài, Ngôi lời nhập thể. Còn đối tượng gián tiếp mà việc tôn thờ này nhắm tới, đó là tình yêu bao la, mà Ngài đã thực hiện cho chúng ta qua những đau khổ và cái chết của Ngài trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi, cũng như qua Bí tích Thánh thể, để trao ban Mình và Máu Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Trong ngôn ngữ và những hình ảnh quen thuộc, khi nói đến Thánh tâm hay Trái tim Chúa Giêsu, chúng ta hình dung ra một trái tim mang thương tích và những giọt máu chảy xuống với lời giới thiệu trang trọng: Đây là Trái tim đã yêu thương con người quá bội.
Hình ảnh này, ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được, vì trái tim vốn được dùng làm biểu tượng cho tình yêu. Khi yêu thương, người ta yêu thương với tất cả trái tim của mình.
Việc tôn thờ kính mến Trái tim Chúa Giêsu, không phải chỉ được bắt đầu bằng những lần Ngài hiện ra với thánh nữ Magarita Maria, nhưng cội ngồn của việc đạo đức này xuất phát từ đỉnh đồi Canvê.
Thực vậy, Thiên Chúa quan phòng đã để cho một người lính đâm vào cạnh sườn Ngài như Tin mừng đã ghi lại, để từ trái tim mang thương tích ấy, máu cùng nước đã chảy ra.
Ngày kia, thánh nữ Catarian thành Sienna đã hỏi Chúa Giêsu: Tại sao Chúa để cho Trái tim Chúa bị đâm thâu qua trên thập giá ?
Chúa trả lời: Sở dĩ như vậy là để cho mọi người hiểu được tình yêu của Cha nó bao la vĩ đại, hơn tất cả mọi dấu chỉ tượng trưng. Đau khổ của Cha thì có giới hạn, nhưng tình yêu của Cha thì lại không biên giới.
Vào thế kỷ 13, thánh nữ Gertrude cũng đã được Chúa soi sáng và hướng dẫn về việc tôn sùng này. Rồi vào thế kỷ 15, thánh Gioan Eudes, vị tông đồ của Thánh tâm Chúa, đã được Tòa Thánh cho phép phổ biến việc đạo đức này. Tuy nhiên phải kể đến việc Chúa mạc khải cho thánh nữ Magarita Maria, để rồi từ đó việc tôn sùng kính mến Thánh tâm mới được phát triểm mạnh mẽ.
Thời bấy giờ, lòng mến Chúa nơi người tín hữu mỗi ngày một trở nên lạnh lùng và băng giá, nên chính Ngài đã phải thắp lên ngọn lửa tình mến để chữa lành cơn bệnh của thời đại. Vì thế, ngày kia, Ngài đã hiện ra với thánh nữ Magarita Maria với một trái tim bừng lửa cháy, nhưng lại mang thương tích và vòng gai. Ngài phán với thánh nữ:
Đây là trái tim đã yêu thương nhân loại, nhưng chỉ nhận được những vô ân và khinh thường.
Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta cho đến chết và giờ đây Ngài muốn chúng ta đáp trả tình yêu thương của Ngài. Phải chăng lời thánh vịnh 68 dưới đây đã trở nên một lời than thở và tâm sự của Chúa:
Lời thoa mạ làm tim này tan vỡ,
Tôi héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng mong người chia sớt, Luống công chờ không được một ai. Đợi người an ủi đôi lời, Trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu. Thay thế đồ ăn, chúng trao mật đắng. Tôi khát nước, lại cho uống giấm chua.
Chúa Giêsu đòi chúng ta phải yêu mến Ngài và biểu lộ lòng yêu mến ấy bằng thái độ quảng đại phụng sự Ngài và tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Hơn thế nữa, nếu kính mến Chúa, chúng ta phải tránh làm buồn lòng Ngài, phải đau khổ khi thấy người ta xúc phạm đến Ngài: Hãy nghĩ đến những lưỡi đòng đã đâm thủng Trái tim Chúa và hãy khóc thương cho những tội lỗi mình phạm.
Nếu kính mến Chúa, chúng ta không thể nào thờ ơ trước những tội lỗi chồng chất của những người chung quanh, bằng không chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác và giả hình. Chúa Giêsu đòi chúng ta phải đền bù phạt tạ thay cho những người anh em của chúng ta.
Bởi đó, trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy nghĩ đến bản thân chúng ta cũng như nghĩ đến những anh em khô khan nguội lạnh, đã làm cho Trái tim Chúa phải đau buồn.
Với một Trái tim bị mang thương tích, Ngài kêu mời chúng ta đáp trả tình yêu thương của Ngài và an ủi Ngài bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để nhờ đó làm giảm vơi những đớn đau mà Thánh Tâm Chúa đã phải chịu vì chúng ta.
Chẳng biết tự bao giờ người ta đã dùng trái tim như một biểu tượng của tình yêu. Khi nói đến: ThánhTâm ABC-2
Chẳng biết tự bao giờ người ta đã dùng trái tim như một biểu tượng của tình yêu. Khi nói đến những người cứng cõi, chai đá và thiếu tình yêu thương, người ta bảo đó là những người không có trái tim. Vì thế, mừng kính Trái Tim Chúa Giêsu cũng có nghĩa là mừng kính Tình Yêu Thương của Người. Một trong những nét đẹp nơi Trái Tim, nơi Tình Yêu Thương của Chúa Giêsu đó là sự Hiền Lành và Khiêm Nhường.
Hiền lành và khiêm nhường nên Người sống rất gần gũi với mọi người, với từng người, dù rằng con người chẳng xứng đáng được ở bên Người. Người biết rõ từng con chiên. Người gọi tên từng con và không loại trừ, không xua đuổi một con nào. Mục đích Người đến trong thế gian này là vì con người. “Tôi đến để chiên tôi được sống và sống dồi dào”. Chính vì thế, nếu có con chiên nào đi lạc, Người tất tả đi tìm. Nếu con nào đói khát, Người cho ăn, cho uống. Nếu con nào bị thương tích, Người băng bó cho lành. Và nếu có con chiên nào vì gánh nặng của cuộc đời mà mệt mỏi, rã rời, mà chán chường, tuyệt vọng thì Người sẽ đưa bàn tay ra để đỡ nâng. “Hãy đến với tôi hỡi tất cả những ai vất vả, gồng gánh nặng nề, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”. Không một ai đến với Người mà lại phải ra về tay không. Không một ai tin tưởng nơi Người mà lại phải thất vọng.
Vâng, Chúa Giêsu đang có mặt bên ta trong từng giây phút của đời sống. Người mang lấy những nỗi sầu đau, buồn tủi của đời ta. Người chia sẻ mọi nỗi vất vả, cực nhọc của ta. Người cho ta sức mạnh để ta có thể đi hết hành trình cuộc đời dù hai vai nặng trĩu hai gánh khổ đau. Sau hết, khi yêu thương, Người đã yêu thương tới cùng, bởi Người đã hy sinh chính mạng sống của Người cho đoàn chiên. Người hiến ban cho con người tất cả và không giữ lại cho mình chút gì.
Mừng kính Trái Tim Chúa Giêsu chỉ có ý nghĩa khi chúng ta học nơi Người bài học quí giá Người đã để lại:”Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hiền lành và khiêm nhường để không tranh giành, không ganh tị, không gây thù oán. Hiền lành và khiêm nhường để biết yêu thương và lo lắng cho tha nhân. Hiền lành và khiêm nhường để biết nhịn nhục và tha thứ. Hiền lành và khiêm nhường để biết xóa mình đi và sống chết cho anh em, vì anh em. Chúa Giêsu chỉ biết nghĩ, chỉ biết lo lắng cho người khác mà không nghĩ gì, không lo lắng gì đến bản thân mình, đến độ con cáo có hang, chim trời có tổ còn chính Người lại không có chỗ tựa đầu. Càng hy sinh, càng khổ nhục, Trái tim Người càng mở rộng ra. Và cho tới chết, Trái Tim ấy vẫn còn mở rộng để hiến ban đến giọt máu cuối cùng.
Hãy cảm tạ tình Chúa yêu thương và hãy học nơi Người bài học yêu thương ấy.
Lời Chúa phán: tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, hẳn làm cho chúng ta liên tưởng: ThánhTâm ABC-3
Lời Chúa phán: tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, hẳn làm cho chúng ta liên tưởng tới trường hợp của thánh Augustinô. Augustinô là một nhà trí thức đã bỏ rất nhiều thời giờ và công sức để tìm hiểu các học thuyết thời ngài. Nhưng không học thuyết nào làm cho ngài thỏa mãn. Sau cùng ngài đã gặp học thuyết của Tin Mừng Đức Giêsu và kết quả là, như lời ngài tâm sự trong quyển “Tự thuật”: “Lạy Chúa, tâm hồn con vẫn bồn chồn xao xuyến mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”. Cảm nghiệm quí giá của thánh Augustinô là: chỉ khi nào người ta biết được Chúa thì người ta mới được hạnh phúc thật.
Nhưng biết Chúa là biết những gì? Không phải là biết những học thuyết triết lý và thần học, mà là biết bằng cảm nghiệm sâu sắc rằng Ngài là một Thiên Chúa hiền lành và khiêm tốn. Biết được một Thiên Chúa như thế và sống với một Thiên Chúa như thế, con người cảm thấy thoải mái dễ chịu, con người được trút khỏi những vất vả và gồng gánh nặng nề, con người còn được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Lời Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng hôm nay khẳng định điều ấy.
Mà muốn có được sự hiểu biết ấy, con người không được tự phụ cho rằng mình khôn ngoan thông thái, trái lại phải trở nên những kẻ bé mọn.
Đó cũng là con đường thơ ấu thiêng liêng mà thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu đã khám phá.
Nền văn minh thời nay tuy thỏa mãn được nhiều nhu cầu cho con người, nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều mệt mỏi, nhiều thứ stress. Bởi thế, có lẽ hơn các thời trước, con người thời nay khao khát được nghỉ ngơi. Thế là khoa học kỹ thuật lại phát minh ra nhiều cách thư giãn, giải trí. Thế nhưng hình như chúng không giúp người ta nghỉ ngơi thực sự, nhiều khi lại còn mệt mỏi hơn.
Qua kinh nghiệm cả cuộc đời mình, thánh Augustinô đã khám phá ra rằng chỉ có một sự nghỉ ngơi thực sự, đó là nghỉ ngơi trong Chúa. Nhưng thứ nghỉ ngơi đó là như thế nào?
Thánh kinh viết rằng sau khi đã tạo dựng mọi sự trong 6 ngày, thì ngày thứ 7 Thiên Chúa nghỉ ngơi. Như thế nghĩa là sự nghỉ ngơi của Chúa không phải là nhờ không làm gì cả, mà là nhờ đã làm xong tất cả một cách tốt đẹp và hài hòa. Nói cách khác, sự nghỉ ngơi này không miễn trừ sự làm việc, không miễn trừ sự nhọc nhằn, mà là kết quả của sự làm việc và của nhọc nhằn.
Chính vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bảo: “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi… Và tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Ách của Đức Giêsu là gì? Thưa là luật của Ngài, luật yêu thương. Học cùng Ngài là gì? Thưa là học giáo huấn của Ngài trong Tin Mừng. Như thế, chỉ những ai sống theo giới luật yêu thương và theo lời Chúa thì mới hưởng được sự nghỉ ngơi thực sự.
Hình ảnh Trái tim Chúa Giêsu bốc lửa đỏ rực giữa trước ngực, nổi bật lên tình yêu nồng nàn của: ThánhTâm ABC-4
Hình ảnh Trái tim Chúa Giêsu bốc lửa đỏ rực giữa trước ngực, nổi bật lên tình yêu nồng nàn của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa”.
Dấu chỉ tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa thể hiện rõ nơi tình mẹ con. Loài nào sinh con ra, mẹ cũng biết âu yếm, ấp ủ, nuôi dưỡng bảo vệ con. Đó là bản năng tự nhiên do Thiên Chúa ban phát cho chúng. Loài càng khôn càng tỏ ra yêu con hơn. Tình yêu như vậy là hướng về sự sinh tồn. Chỉ có Thiên Chúa mới ban cho tình yêu muôn loài được sinh tồn. Do đó phải hướng về Thiên Chúa thì mới được sinh tồn. Nhưng Thiên Chúa cho con người có tự do, nên con người lạm dụng tình yêu về những đối tượng bất chính.
Để phân biệt rõ rệt đâu là tình yêu của Thiên Chúa, đâu là tình yêu bất chính, lời Chúa hôm nay đã nêu ra hai tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn thứ nhất: Tình yêu bởi Thiên Chúa là tình yêu hiệp thông và thăng tiến những đối tượng không mấy hấp dẫn như những kẻ bé mọn và tội lỗi.
Bài đọc I nói Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn, thánh hiến và gắn bó với một dân tộc thiểu số, một dân nô lệ.
Bài đọc II cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vì chúng ta tội lỗi.
Trong bài Tin mừng Chúa Giêsu đã “cảm tạ Cha là Chúa tể trời đất” lại yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn”. Chúa Giêsu dù là Con Chúa Cha và đã được Chúa Cha ban toàn quyền trên mọi sự, lại đánh bạn với những kẻ lao động vất vả, những phu khuân vác cực khổ, những người gồng gánh, bán rong nặng nề. Người kêu gọi họ đến hiệp thông với Người trong tình nghĩa êm ái, dịu dàng, trong trái tim hiền lành và khiêm nhu của Người.
Tiêu chuẩn thứ hai: Tình yêu bởi Thiên Chúa là tình yêu hy sinh cứu độ. Hy sinh của Thiên Chúa là giữ lời giao ước, lời tuyên thệ trung tín và tín nghĩa với một dân thiểu số. Thiên Chúa đã hy sinh hạ mình xuống ngang hàng với kẻ nhỏ bé nô lệ để thề ước với họ, phải hy sinh giữ tín trung với hạng người hay phản bội, phải ra tay làm việc nghĩa cứu họ khỏi tiêu diệt. Thiên Chúa phải hy sinh mặc khải cho kẻ bé mọn. Những kẻ khôn ngoan thông thái còn mù tịt về Thiên Chúa, thì làm sao những kẻ hèn mọn, dốt nát, ngu độn hiểu biết được Thiên Chúa cao siêu, huyền diệu ? Thật là một công trình khó khăn như múc nước đại dương đổ vào lỗ cáy. Thế mà Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chịu đựng làm một việc khó khăn đó.
Tình yêu hy sinh cứu độ của Thiên Chúa vô cùng lớn lao hơn nữa là đã sai Con Một đến nâng đỡ kẻ gánh vác nặng nề, bổ sức cho kẻ lao đao vất vả, làm cho cuộc đời họ trở nên êm ái, nhẹ nhàng. Tột đỉnh của tình yêu hy sinh đó là: “Con của Người đã hy sinh chịu chết làm của lễ đền tội vì tội lỗi của chúng ta”. (Ga. 4, 10).
Suy gẫm tình yêu tuyệt vời đó, thánh Phaolô đã đưa ra một so sánh cụ thể cho ta thấy rõ Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may mới có kẻ chết vì một người lương thiện. Không có ai chết cho kẻ tội lỗi, thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, là những kẻ tội lỗi” (Rm. 5, 78). Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa mới có thể hy sinh cùng cực như vậy. Những thứ tình yêu khác chỉ bắt nguồn từ:
* Tình dục: “Còn duyên kẻ đón người đưa Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh” “Còn duyên anh cưới ba heo Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi”
* Từ tiền bạc, danh vọng: “Thế gian chuộng của, chuộng công Nào ai có chuộng người không bao giờ” “Có ăn thiếp ở cùng chàng Không ăn thiếp tếch, cơ hàn thiếp lui” “Còn tiền kẻ rước người đưa Hết tiền chẳng thấy một người nào ưa”
Đó là những thứ tình yêu bất chính, bất chính với Thiên Chúa và bất chính với cả con tim của họ.
Ai cũng cho rằng: trái tim chân chính là nơi phát xuất tình yêu, một thứ tình yêu hiệp thông và rung cảm, một thứ tình yêu hy sinh giải thoát sự chết.
Nhiệm vụ của con tim là phân phát dòng máu đỏ, dòng máu sống đi khắp cơ thể, cho tới kẽ tóc chân tơ, tới nơi bé nhỏ nhất trong cơ thể, con tim còn như cây đàn rung lên bảy nốt nhạc: Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, cụ tạo nên những âm thanh thông cảm với lòng người trong những khi gặp vui buồn, sướng khổ, giận hờn, yêu ghét, lo sợ, hồi hộp. Đó không phải là thứ tình yêu hiệp thông sự sống, chia sẻ tâm tình làm cho cuộc sống trở nên êm ái nhẹ nhàng đó sao ?
Con tim còn là nơi thu hồi dòng máu đen, dòng máu lạnh của sự chết để cứu mọi chi thể khỏi chết đó sao ?
Con tim xứng đáng là một hình ảnh của Đấng Cứu độ yêu thương để ban phát sự sống, hy sinh để lãnh lấy sự chết.
Lạy Chúa là nguồn yêu thương vô tận, Chúa đã tác tạo nên những trái tim nhỏ bé đang yêu thương chúng con, đã ban Thánh tâm Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu đến yêu thương chúng con hơn chính mạng sống của Người, xin cho mỗi người chúng con biết yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng con. Đó là hạnh phúc lớn nhất của chúng con mà văn hào Shakespeare đã cảm nghiệm rằng: “Yêu và được yêu là niềm hạnh phúc nhất trên đời”. “To love and to be loved is the happiest thing in the world”.
CHỦ ĐỀ: "Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến với Tôi" (Mt 11,28) I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Hôm nay chúng ta cử hành Lễ kính Thánh Tâm Đức Giêsu. Lễ này chỉ mới có trong Giáo Hội từ ThánhTâm ABC-5
Hôm nay chúng ta cử hành Lễ kính Thánh Tâm Đức Giêsu. Lễ này chỉ mới có trong Giáo Hội từ thế kỷ 17, sau sự kiện Đức Giêsu hiện ra với Thánh nữ Magarita và tỏ cho thánh nữ thấy trái tim Ngài.
Ai cũng hiểu trái tim là biểu tượng của Tình yêu. Vì thế kính Trái tim Chúa chính là tôn kính Tình yêu của Ngài. Qua Trái tim Đức Giêsu, chúng ta hiểu được mặc khải cốt yếu nhất của Tin Mừng "Thiên Chúa là Tình yêu".
Chúng ta hãy suy gẫm mặc khải cốt yếu này, và cố gắng sao cho trái tim chúng ta ngày càng nên giống trái tim Đức Giêsu hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Thiên Chúa ưu ái những người bé mọn, nhưng chúng ta lại thích làm lớn.
Tình yêu phải được đáp lại bằng Tình yêu. Thế nhưng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta vô cùng, mà chúng ta lại không yêu mến Ngài.
Chúa muốn tình yêu của chúng ta trải rộng bao la, yêu thương hết mọi người. Nhưng chúng ta chỉ yêu thương một số ít người thân thiết với mình và lãnh đạm với mọi người khác.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Đnl 7,611 Môsê lưu ý dân do thái rằng nếu Thiên Chúa đã chọn họ và cho họ làm "dân biệt tuyển" thì đó không phải vì họ quan trọng hay vì công lao của họ, mà hoàn toàn vì lòng tốt của Ngài. Như thế, họ phải biết tình yêu của Thiên Chúa là hoàn toàn miễn phí.
2. Đáp ca: Tv 102 Tv 102 ca tụng tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với loài người: Ngài đã chữa trị họ, tha thứ cho họ và cho họ sống lại. Tắt một lời, Thiên Chúa là tình yêu.
3. Bài đọc II: 1 Ga 4,716 Thánh Gioan đưa một định nghĩa nổi tiếng về Thiên Chúa: "Thiên Chúa là Tình yêu". Bằng chứng là Ngài đã không tiếc ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu nhất của Ngài. Phần loài người chúng ta, để đáp lại Tình yêu của Thiên Chúa và làm cho Tình yêu ấy trở nên hữu hình cho người ta thấy được, chúng ta phải thương yêu nhau.
4. Tin Mừng: Mt 11,2530 Đối tượng ưu tiên nhất của tình yêu Thiên Chúa là "những kẻ bé mọn".
Họ được ưu ái vì đang khi Thiên Chúa giấu không cho những kẻ tự cho mình là "khôn ngoan thông thái" biết những mầu nhiệm của Ngài thì Ngài lại mặc khải những điều ấy cho những kẻ bé mọn.
Ngài còn kêu mời những kẻ bé mọn ấy hãy đến với Ngài để Ngài làm vơi nhẹ đi những vất vả và gồng gánh nặng nề của họ.
Ngài lại bảo họ hãy học gương yêu thương của Ngài, yêu thương thể hiện qua cung cách hiền lành và khiêm tốn.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Con đường hạnh phúc
Câu Tin Mừng "Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng" làm cho ta liên tưởng tới trường hợp của Thánh Augustinô. Augustinô là một nhà trí thức đã bỏ rất nhiều thời giờ và công sức để tìm hiểu các học thuyết thời ngài. Nhưng không học thuyết nào làm cho ngài thỏa mãn. Sau cùng ngài đã gặp học thuyết của Tin Mừng Đức Giêsu và kết quả là, như lời ngài tâm sự trong quyển "Tự thuật": "Lạy Chúa, tâm hồn con vẫn bồn chồn xao xuyến mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa". Cảm nghiệm quý giá của Thánh Augustinô là: chỉ khi nào người ta biết được Chúa thì người ta mới được hạnh phúc thật.
Nhưng biết Chúa là biết những gì ? Không phải là biết những học thuyết triết lý và thần học, mà là biết bằng cảm nghiệm sâu sắc rằng Ngài là một Thiên Chúa "hiền lành và khiêm tốn". Biết được một Thiên Chúa như thế và sống với một Thiên Chúa như thế, con người cảm thấy thoải mái dễ chịu, con người được trút khỏi những vất vả và gồng gánh nặng nề, con người còn được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Lời Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay khẳng định điều ấy.
Mà muốn có được sự hiểu biết ấy, con người không được tự phụ cho rằng mình khôn ngoan thông thái, trái lại phải trở nên "những kẻ bé mọn".
Đó cũng là "con đường thơ ấu thiêng liêng" mà Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu đã khám phá.
2. "Anh em sẽ được nghỉ ngơi"
Nền văn minh thời nay tuy thỏa mãn được nhiều nhu cầu cho con người, nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều mệt mỏi, nhiều thứ stress. Bởi thế, có lẽ hơn các thời trước, con người thời nay khao khát được nghỉ ngơi. Thế là khoa học kỹ thuật lại phát minh ra nhiều cách thư giản, giải trí. Thế nhưng hình như chúng không giúp người ta nghỉ ngơi thực sự, nhiều khi lại còn mệt mỏi hơn.
Qua kinh nghiệm cả cuộc đời mình, Thánh Augustinô đã khám phá ra rằng chỉ có một sự nghỉ ngơi thực sự, đó là nghỉ ngơi trong Chúa. Nhưng thứ nghĩ ngơi đó là như thế nào ?
Thánh Kinh viết rằng sau khi đã tạo dựng mọi sự trong 6 ngày, thì ngày thứ 7 Thiên Chúa nghỉ ngơi. Như thế nghĩa là sự nghỉ ngơi của Chúa không phải là nhờ không làm gì cả, mà là nhờ đã làm xong tất cả một cách tốt đẹp và hài hòa. Nói cách khác, sự nghỉ ngơi này không miễn trừ sự làm việc, không miễn trừ sự nhọc nhằn, mà là kết quả của sự làm việc và của nhọc nhằn.
Chính vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bảo: "Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi… Và tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng". "Ách" của Đức Giêsu là gì ? Thưa là luật của Ngài, luật yêu thương. "Học" cùng Ngài là gì ? Thưa là học giáo huấn của Ngài trong Tin Mừng. Như thế, chỉ những ai sống theo giới luật yêu thương và theo Lời Chúa thì mới hưởng được sự nghỉ ngơi thực sự.
3. Chuyện minh họa
a/ Trái tim Chúa Giêsu Nhìn tượng Trái tim Chúa Giêsu, một người nói: "Có lẽ Chúa Giêsu là người duy nhất dám đưa trái tim bên trong của mình ra ngoài cho người ta thấy". Người thứ hai góp ý: "Ngài là người độc nhất trong lịch sử không cần che dấu gì về mình cả". (Onward)
b/ Trái tim rộng mở Một nhà truyền giáo đến kiểm tra trình độ giáo lí một bà già 73 tuổi để được nhập đạo:
1. Đức Kitô là ai ? - là người đã chết cho con.
2. Người chết thế nào ? - Con không biết.
3. Ai là môn đệ đức Kitô ? - Con không nhớ. Con không biết chữ.
4. Bà có biết một cuốn sách Thánh Kinh nào không ? - Thưa không. Với người mù chữ...
5. Đức Kitô sống ở nước nào ? - Thinh lặng.
*****
Nhà truyền giáo dừng lại. Bà già tỏ vẻ đau khổ vô cùng. Người hướng dẫn cho bà nói: "Bà này là người rất vững tin, luôn có mặt trong các buổi phụng vụ, dù ở cách xa đó 3 dặm (Mile = 1,609344 km). Bà luôn sẵn lòng cho đi những gì có thể. Trước đây tính khí thất thường, nhưng từ ngày học đạo, bà trở nên hiền hoà và rộng lượng. Mọi người đều thấy thế."
Nhà truyền giáo nhìn bà. 73 tuổi. Bà chẳng còn sống bao lâu nữa, một năm cũng khó. Và ngài quyết định tiếp tục:
1. Thiên Chúa là ai ? - Thiên Chúa là Cha trên trời.
2. Thiên Chúa ở đâu ? - Con ở đâu, Ngài ở đó.
3. Bà có hay thưa chuyện với Ngài ? - Rất thường. Làm việc ngoài đồng hay làm bữa trong nhà, lúc vui cũng như lúc buồn, con đều thân thưa với Chúa. Lúc có nhiều chuyện, con nói lâu. Khi có ít, con nói vắn hơn. Có gì trong lòng, con đều trình bày với Ngài hết. Và lòng con thấy rộng mở.
c/ Hiền lành
Hai nhà tu hành sống thân ái với nhau trong nhiều năm. Ngày kia, một người nói:
Chúng ta hãy thay đổi cách nói năng hằng ngày này và làm một việc gì khác, như người đời thường làm đó !
Đồng ý. Nhưng người đời họ thường làm gì nhỉ ?
Họ thường cãi nhau. Anh có thấy hòn đá kia không ? Ta đặt nó ở giữa, rồi một người bảo: nó là của tôi.
Rồi họ đặt hòn đá ở giữa, một người nói: "Nó là của tôi !"
Người kia ngẫm nghĩ một lúc, rồi nhớ đến tình thân bền chặt bao năm, liền nói: "Anh ạ, nếu nó là của anh, thì anh hãy giữ lấy !"
Và rồi vẫn chẳng có cãi nhau.
d/ Khiêm tốn
Khi đức Maria và thánh Giuse đang trên đường đến Bêlem, thiên thần hiện ra với đàn súc vật để chọn lấy một con có thể giúp đỡ thánh gia. Sư tử tình nguyện trước. Nó nói: "Chỉ có tôi là chúa sơn lâm đáng phục vụ người cai trị thế giới. Tôi sẽ xé xác kẻ nào đến gần hài nhi."
Thiên thần nói: "Bạn hùng hổ quá".
Cáo tinh khôn theo dõi và với vẻ mặt vô hại, nó nói: "Tôi sẽ hết sức cung phụng trẻ Giêsu, mỗi sáng tôi sẽ bắt một con gà cho mẹ ngài".
Thiên thần nói với cáo: "Bạn xảo quyệt quá".
Rồi con công đến khoe màu sắc tuyệt vời của cái đuôi. Nó nói: "Tôi sẽ trang hoàng ngôi nhà nhỏ bé này đẹp hơn cả đền thờ Salômon".
Thiên thần nói: "Bạn hão huyền quá".
Nhiều con khác đến và cũng muốn giúp đỡ nhưng không con nào được chọn. Sau cùng, thiên thần rảo mắt nhìn quanh và thấy một con lừa và một con bò đang làm việc với một bác nông dân. Thiên thần gọi chúng lại và hỏi: " Các bạn có gì giúp đỡ Thánh gia không ?".
Lừa cụp tai xuống trả lời: "Không có gì. Chúng tôi chả được học hành, càng cố học càng dốt, nhưng chúng tôi khiêm tốn và kiên nhẫn."
Bò ngượng ngùng tiếp lời: "Vâng, có lẽ chúng tôi chỉ có thể làm được một vài việc nhỏ như lấy đuôi đuổi ruồi thôi"
Thiên thần nói: "Được lắm, Tôi cần hai bạn."
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến Chúa Cha toàn năng nhân từ đã cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô. Tin tưởng vào tình yêu ấy, chúng ta cùng nhau dâng lời cầu xin.
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người ý thức và hiểu thấu rằng lòng Chúa yêu thương trần gian thật là bao la vô bờ bến.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mọi kitô hữu sống đúng tinh thần phúc âm của Chúa, để mọi người nhìn vào đời sống đó mà nhận ra tình yêu thương của Chúa.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những ai đang đau khổ vì thiếu tình thương được ơn trợ giúp dồi dào của Chúa, và được các anh chị em thương yêu, an ủi, nâng đỡ cách riêng.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các tín hữu đã qua đời được kết hợp với tình yêu vĩnh cửu của Chúa hằng sống.
CT: Lạy Chúa toàn năng và từ ái, vì yêu thương trần gian tội lỗi, Cha đã sai Thánh Tử Giêsu đến đổ hết giọt máu cuối cùng trong trái tim ra để mang lại ơn cứu độ cho muôn người. Nay xin Cha cũng lấy tình thương ấy mà thu họp toàn thể nhân loại nên một trong Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. TRONG THÁNH LỄ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta được vinh dự chia sẻ thân phận làm con của Đức Giêsu. Cha của Đức Giêsu cũng là Cha của chúng ta. Giờ đây, cùng với Đức Giêsu và bằng chính những lời Ngài dạy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta kinh nguyện sau đây.
Trước lúc rước lễ: Trong khi kết hợp với Mình và Máu Đức Giêsu, chúng ta hãy xin Ngài làm cho lòng chúng ta ngày càng hiền lành và khiêm tốn giống người Ngài. "Đây Chiên Thiên Chúa…"
VII. GIẢI TÁN
Trở lại với cuộc sống thường ngày, chúng ta hãy cố gắng sống "hiền lành và khiêm nhượng" để bày tỏ tình thương Thiên Chúa cho mọi người chung quanh. Chúc anh chị em được bình an.
Khi chiêm ngắm bức tượng Thánh tâm Chúa Giêsu, một ấn tượng ghi lại trong tôi về trái tim: ThánhTâm ABC-6
Khi chiêm ngắm bức tượng Thánh tâm Chúa Giêsu, một ấn tượng ghi lại trong tôi về trái tim đặt ngoài lồng ngực. Phải chăng đây là một cách tiếp thị ngày nay thường dùng để gây ấn tượng. Chắc chắn là không bao giờ, nhưng đây là một hình ảnh biểu lộ nhiều điều kỳ diệu nhất.
Trái tim thông thường biểu lộ cho tình yêu. Tình yêu không thể chôn kín, bản chất của tình yêu là lan toả ra bên ngoài bằng hành động. Không có tình yêu chôn giấu, bởi vì khi chôn giấu tình yêu sẽ chết. Không có tình yêu hoàn toàn câm lặng, bởi vì tình yêu bản chất là xao động. Như vậy tình yêu là biểu lộ, cường độ của sự biểu lộ mạnh hay yếu tuỳ theo sức mạnh của tình yêu. Tình yêu lớn nhất và mạnh nhất là tình yêu biểu lộ toàn vẹn con tim chịu thương tích ra bên ngoài lồng ngực.
Thánh Gioan định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu. "Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống" (1Ga 4, 9). Sự biểu lộ của Thiên Chúa một cách hữu hình trong Đức Giêsu, một Thiên Chúa vô hình nay trở nên xác phàm, một Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta.
Tình Yêu bày tỏ sự toàn năng của Thiên Chúa, từ hư không Tình Yêu Thiên Chúa làm cho muôn loài hữu hình và vô hình hiện hữu, đặt con người vào trung tâm của công trình tạo dựng ấy. Mọi sự có đều do Tình Yêu của Thiên Chúa. Tình yêu thì không loại trừ, cũng không triệt tiêu. Tình Yêu đích thực là Tình Yêu làm cho sống và sống dồi dào. Tình yêu là giữ gìn và nâng đỡ. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự cách cụ thể và trực tiếp, từ những gì là nhỏ bé nhất đến những điều lớn lao của thế giới và lịch sử . Tình Yêu làm cho sống và chính điều ấy Tình Yêu có sức mạnh cứu vớt. Con người đã sa ngã phạm tội, sự chết đã đi vào thế gian, nhưng không thể đè bẹp con người bởi vì Tình Yêu Thiên Chúa lại tặng ban Người Con Duy Nhất của Người để cứu độ nhân loại. Một bài hát thường hát trong đêm vọng Phục Sinh của Augustin nói lên sự kỳ diệu lòng yêu thương của Thiên Chúa: "Oi tội hồng phúc, vì thế mà chúng ta được Đấng Cứu Thế". Diễm phúc cho con ngưới chúng ta, Tình Yêu Thiên Chúa đã là khởi điểm của con người và cũng là cùng đích của con người đi đến.
Tình Yêu Thiên Chúa như trái tim không ngủ yên, một trái tim thao thức đợi chờ, như tình yêu của người cha đứng chờ trước ngõ từng chiều đợi chờ, đón con về. Trái tim không ngủ yên bởi thao thức của tình yêu đón đợi, tình yêu lên tiếng là một tình yêu đầy xôn xao, một tình yêu như không thể chấp nhận nằm yên trong lồng ngực. Một Tình Yêu biểu lộ trọn vẹn trái tim nằm bên ngoài lồng ngực. Một Thiên Chúa đã quá yêu thương, nên trái tim ấy cũng là trái tim biểu lộ sự cháy bỏng những khát khao ý Cha được thực hiện. Tình yêu cháy bỏng lòng yêu thương đủ đốt cháy tất cả những hậu quả của tội lỗi cho dù đó là sự chết. Tội lỗi được thứ tha khi quay về bên tình Chúa đón đợi, như trái tim hằng thao thức của lòng cha, là ngọn nguồn thúc đẩy người con hãy trở về. Trở về để sống lại tình yêu của Thiên Chúa.
Trái Tim mang nỗi khát khao trao ban tình thương của Thiên Chúa, nên trái tim luôn ở trong tư thế sẵn sàng. Sẵn sàng ngay cả khi con tim bị từ chối, bởi trái tim nằm ngoài nên trái tim dễ bị thương tích. Tình thương ấy có khi tưởng chừng như phi lý, không trừng phạt trái lại còn săn sóc yêu thương. Tình Yêu tuyệt đối là một Tình Yêu đón nhận tất cả, tha thứ tất cả và yêu thương tất cả. Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa toàn năng trong cách thực hiện của Người. Toàn năng nên không bị giới hạn, trái tim không chịu sự giới hạn nằm bên trong lồng ngực, và biểu lộ toàn vẹn lòng yêu thương của Người. Trong thế gian chẳng thấy được một tình yêu nhân loại nào lại biểu lộ trái tim nằm bên ngoài lồng ngực như trái tim Chúa Giêsu, một con người Chúa. Bằng cách thức diễn tả của lòng yêu thương, Thiên Chúa đã mang trái tim của Người vào trong lồng ngực của nhân loại, để con tim nhân loại có khả năng dâng hiến cho Thiên Chúa. Một nhân loại được Thiên Chúa yêu thương, là một sứ điệp tin vui cho ngày mừng Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Như lời kinh tin kính được đọc lên: "Vì loài người chúng tôi.." một trái tim thương tích vì tình yêu đang biểu lộ bằng việc chờ đợi, đón nhận và còn bằng việc mở rộng đến vô hạn. Như nguồn nước hằng sống tuôn chảy từ trời cao, trái tim chịu đâm thấu trên Thập Giá tuôn đổ máu cùng nứơc trở nên nguồn sống từ trời cao ban tặng, một nhân loại mới được khai sinh. Con người được tái tạo một cách kỳ diệu hơn trong công trình tạo dựng. Xưa kia con người được tạo dựng, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa ẩn mình; ngày nay, con người được tái tạo, Thiên Chúa là một Thiên Chúa biểu lộ trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là một con người Chúa, mang trái tim của nhân loại, trái tim được đem ra bên ngoài để dâng về Thiên Chúa làm của lễ trọn vẹn nhất để sinh lại một nhân loại mới. Trong công trình tái tạo, Con Thiên Chúa đã đổ máu, một giá máu thật đắt để mua lại nhân loại, trả lại phẩm giá của con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Thiên Chúa. Có một sự khai mở đến vô hạn của lòng yêu thương của Thiên Chúa để con người phá vỡ sự giới hạn của mình tháp nhập vào sự sống vô hạn của Người.
Hình ảnh trái tim đặt bên ngoài lống ngực, lại một lần nữa nhắc nhở cho con người được biết: "Thiên Chúa là tình yêu", cho dù con người có như thế nào đi chăng nữa, sức mạnh của Tình yêu vẫn là đón nhận và tha thứ, cho dù con người có bội phản đi chăng nữa, lòng yêu thương vẫn là chờ đợi. Tình Yêu điên rồ của Thập Giá khiến Trái Tim cũng điên rồ phơi bày bên ngoài lồng ngực, vì đó mà trái tim dễ tổn thương nhất, đau khổ nhất. Tình yêu như thánh Phaolô diễn tả: "Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả" ( 1 Cor 13, 7). Tình mến yêu tha thứ đó đã được thực hiện nơi Đức Giêsu, đó là một linh đạo rất sống động cho người Kitô hữu.
Hãy yêu như Giêsu, một tình yêu thí mạng sống cho người mình yêu.
Nhiều lần ngạc nhiên tự hỏi, tại sao những bức tượng Thánh Tâm lại biểu lộ trái tim đặt bên ngoài: ThánhTâm ABC-7
Nhiều lần ngạc nhiên tự hỏi, tại sao những bức tượng Thánh Tâm lại biểu lộ trái tim đặt bên ngoài lồng ngực. Một thắc mắc không yên nghỉ trong tôi. Tôi không rành về hội hoạ, điêu khắc, tôi không là bác sỹ, tôi là linh mục và tôi suy nghĩ theo cách thức của tôi. Với ba đề tài:
Trái tim bằng thịt. Suy nghĩ từ hoạt động thể lý.
Trái tim biểu lộ tâm hồn. Suy nghĩ từ hình ảnh trái tim đặt bên ngoài lồng ngực.
Trái tim tình yêu. Suy nghĩ từ lưỡi đòng đâm thâu.
1. Trái tim bằng thịt. Suy nghĩ từ hoạt động thể lý.
Trái tim, một công trình tạo dựng siêu bền. Rất nhỏ được đặt trong lồng ngực, nhưng hoạt động cách không thể ngờ: Mỗi ngày với 24 giờ, trái tim bơm và lọc được 20.000 lít máu. Thật bất ngờ khi biết được con số, điều bất ngờ không dừng ở đấy và tôi khám phá ra công việc bơm và lọc 20.000 lít máu của trái tim, cho tôi 24 giờ sống tinh tuyền nhất mặc dù rất nhiều bất toàn trong tôi. Tôi nhớ đến Lời Chúa nói qua tiên tri Edêkien với toàn thể dân Do Thái: "Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một thần khí mới" (Ed 36, 26). Lời ấy như một Lời tái tạo con người cũ thành con người mới.
Như trái tim lọc những dòng máu dơ bẩn khi đi qua các ngõ ngách của cơ thể, để thay vào đó dòng máu tinh tuyền và mang sức sống nuôi dưỡng và làm phát triển toàn thân. Thiên Chúa đang từng giây phút thanh lọc tôi bằng Lời của Người qua dòng đời tôi đang sống. Lời đã sáng tạo và Lời hằng làm nên cái mới, Thiên Chúa đang làm nên những cái mới lưu chảy trong tim tôi. Từng phút giây, Người vẫn không ngừng đổ rót hồng ân Thánh Thần đổi mới cuộc sống trong tôi. Kìa cái cũ đang qua đi và cái mới đang thành sự.
Như công việc của trái tim, tôi không thấy cụ thể những điều trái tim đang làm việc, nhưng tôi biết trái tim vẫn không ngừng rung nhịp đập với trung bình 70 lần một phút trong tôi. Theo từng nhịp đập của trái tim ấy, Thiên Chúa đang hoạt động trong tôi, bởi vì tôi biết rằng Người đã dựng nên tôi cho tôi sự sống và sự sống ấy không ngừng lưu chuyển, cho đến khi tôi được yên nghỉ trong Người. Nếu một ngày kia trái tim này ngừng đập và tôi đã trở thành người của thiên cổ, nhưng trong lòng yêu thương của Thiên Chúa tôi đang an nghỉ. Hôm nay, lúc này, xin tạ ơn Chúa trái tim vẫn còn nhịp đập. Và như vậy là đang sống và như vậy là đang lặn ngụp trong tình yêu của Thiên Chúa. Khám phá ra điều này, tôi nhận thức rằng, mỗi ngày tôi có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa. Sự sống nào không phải là hồng ân Chúa ban tặng để tạ ơn Người luôn mãi.
Như chức năng lọc của trái tim, Thiên Chúa đang thanh luyện cuộc đời tôi bằng Thánh Thần của Người. Lọc những vị kỷ để còn vị tha, lọc hiềm thù để còn tha thứ, lọc giận dữ để còn hiền lành, lọc ghét bỏ để còn yêu thương, lọc những gì là ô uế để còn những gì tinh trong. Nếu trái tim không lọc rửa, dòng máu sẽ trở thành dòng sông đen và chết chóc. Nếu Thánh Thần không được ban xuống trong tôi, như trái tim không còn lọc tẩy, cuộc sống sẽ chết dần, chết mòn trong ô uế và tội lỗi. Thánh thần đang đổi mới cuộc đời tôi.
Như chức năng của máu là nuôi dưỡng những phần nhỏ nhất của cơ thể, Thiên Chúa Người đang tháp nhập tòan bộ cuộc sống này của tôi vào lòng yêu thương của Người bằng cách thẩm thấu. Nếu dòng máu bơm đi từ tim không tới được phần cơ thể nào, cơ thể ấy sẽ chết, và sớm cần được cắt rời khỏi thân thể. Thiên Chúa sống trong tôi và đó là điều tôi cảm nghiệm trong dòng máu lưu chuyển châu thân này, nên tôi biết trong thân thể mỏng dòn yếu đuối này, tôi cần có Chúa. Có Chúa để tôi được sống, có Chúa để tôi được tham dự vào sự sống của người.
Có một lần tại Huế, ghé thăm công viên điêu khắc, tôi chiêm ngưỡng một công trình mà tôi thấy là tuyệt. Trên một chu vi khoảng 2 mét chiều dài, 1 mét chiều rộng, như một tấm đan đặt trên ngôi mộ. Tác giả đặt những khối đá đứng như cõi hỗn mang, góc cạnh tấm đan một đôi giầy, giữa tấm đan là trái tim khắc nổi. Dưới chân khắc ghi 4 câu thơ:
"Hãy yêu như đang sống.
Hãy sống như đang yêu.
Yêu để sự sống tồn tại.
Sg để tình yêu có mặt"
Hình tượng cho tôi dòng suy nghĩ: Tình yêu làm hỗn mang trở nên màu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã cởi giầy để bước vào mầu nhiệm con người bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương tôi bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Một trái tim bằng thịt, không phải là bằng kim khí hoạt động như chiếc động cơ do con người chế tạo. Bằng thịt nên trái tim dễ bị tổn thương, và trái tim được đặt vào lồng ngực được những hàng rào xương sườn che chắn. Người biết tôi mỏng dòn và là bình sành dễ vỡ nên Người yêu thương tôi, bao bọc tôi bằng ân sủng của Người. Và khiến đời tôi vẫn không ngừng tự hỏi: "Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm". Người yêu thương tôi nhưng sao Người lại đặt trái tim của Người bên ngoài lồng ngực của Người?
Lạy Chúa, hơi thở và sự sống này của con, ước gì đều trở thành lời tri ân Chúa. Vì cuộc sống này, Người vẫn không ngừng đổ rót.
Thánh Tâm Chúa Giêsu: Ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục
Chúa Giêsu khi bị treo trên thập giá đã nói lên sự thật tuyệt vời, một sự thật chỉ có thể diễn tả: ThánhTâm ABC-8
Chúa Giêsu khi bị treo trên thập giá đã nói lên sự thật tuyệt vời, một sự thật chỉ có thể diễn tả qua cái chết của chính mình. Chết mới nói lên lời . Nhân loại suốt hơn hai ngàn năm đã tôn thờ một con người bị đóng đinh vào thập giá. Cái trớ trêu là các môn đệ và nhiều người Do Thái lúc đó vẫn cứ tưởng Chúa Giêsu tới để thiết lập lại Vương quốc Israen đã bị tồn vong . Khôi phục lại Vương quốc Israen là mong ước của các môn đệ và hầu hết người Do Thái thời Chúa Giêsu Nhưng, Chúa Giêsu lại sống khác cái quan niệm cũ rích, trần tục ấy .Con đường của Chúa là con đường thập giá, con đường thử thách, chông gai. Đường của Chúa là đường chết vì tình yêu, chết cho nhân loại được hạnh phúc, được hưng thịnh . Chúa nói:" Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của con người hiến thân vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ). Có đứng dưới chân thập giá, nhân loại mới hiểu được hết chữ yêu: " Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi " ( Ga 12, 32 ).
I.CHÚA GIÊSU MỘT CON NGƯỜI ĐƯỢC YÊU MẾN:
Trải dài suốt dòng lịch sử nhân loại, có biết bao các bậc vĩ nhân, anh hùng, khoa học gia, kinh tế gia, văn nghệ sĩ vv… nhưng không một nhân vật nào, không một người nào có sức thu hút như Chúa Giêsu trên thập giá. Kinh Thánh của Ngài được khắp hoàn cầu biết tới. Cái chết của Ngài vẫn vang dội từ thế hệ này tới thế hệ khác. Bản án bất công của Ngài vẫn muôn đời được nhắc đến như một thách đố, một suy nghĩ sâu xa cho lòng tin của muôn đời .
Một Phêrô chối Thầy , rồi ăn năn sám hối . Một Phaolô dong duổi bắt bớ đạo Chúa , rồi cũng sớm hồi tâm khi phải đối diện với sự thật là Chúa Giêsu trên đường Damas. Các môn đệ Chúa trong biến cố Thầy mình chịu chết, đã lơ là với Chúa, nhưng rồi họ cũng quay trở về, khi họ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng chân thật, và là Đấng yêu thương, đến quên cả bản thân mình. Chỉ mình Giuđa đã quay lưng và không dám ngoảnh mặt lại để nhận ra Đấng mãi mãi là yêu. Còn Philatô đứng trước Sự Thật là Chúa Giêsu nhưng vẫn không nhận ra Ngài và phủi tay không dám bênh vực Ngài .
Tại sao Chúa Giêsu lại được mến chuộng và được biết tới như một người đáng khâm phục hay một cách nào đó như một Đấng đáng phải suy nghĩ? Thưa vì chính Ngài là Tình Yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương con người đến quên mình, đã hy sinh tất cả vì con người, Ngài đã qui tụ, tìm kiếm từng con chiên lạc, Ngài đã gọi tên từng con chiên và băng bó vết thương cho từng con chiên bị thương. Chúa đã nói:" Ta là mục tử tốt lành, Ta biết chiên Ta và các chiên Ta biết Ta . Như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống Ta vì đàn chiên…"( Ga 10, 14 18 ). Thánh Phaolô cũng đã nói:" …như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta , đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy sinh dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt " ( Eph.5, 2 ).
Chính Chúa là Tình Yêu thật , một tình yêu vô vị lợi, tình yêu đổ tới giọt máu cuối cùng nơi cạnh sườn và nơi trái tim rực cháy, nên Ngài khác mọi người dù người đó là các bậc hiền sĩ hay vĩ nhân .Chúa Giêsu được mến chuộng, yêu thương vì Ngài là Tình Yêu chung thủy, tình yêu vững bền, tình yêu không mục nát …
II.CHÚA GIÊSU MỜI GỌI CHÚNG TA YÊU THƯƠNG NHƯ NGÀI:
Chúa Giêsu đã sống yêu thương và thực hành yêu thương . " Thiên Chúa là tình Yêu " ( 1 Ga 4, 16 ).Chúa Giêsu đã yêu ta và đòi ta yêu thương bằng một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa:" Như Cha đã yêu mến Ta, Ta đã yêu mến các ngươi. Hãy lưu lại trong lòng yêu mến của Ta…Hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi ." ( Ga 15, 912 )." Cứ dấu này người ta sẽ nhận biết các ngươi là môn đệ của Ta là các con yêu mến nhau ".
Chúa Giêsu làm gương phục vụ và yêu thương như việc Ngài rửa chân cho các môn đệ, Ngài cùng ăn , cùng ở , cùng làm, cùng chia sẻ với các môn đệ. Những việc làm ấy, diễn tả tình yêu của Ngài đối với các môn đệ để các môn đệ noi gương bắt chước Ngài .
Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ bằng một tình yêu hoàn toàn vô vị lợi, tình yêu đi bước trước ." Tình yêu ấy là thế này: không phải ta đã yêu thương Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương ta trước…"( 1 Ga 4, 10 ). " Thiên Chúa đã yêu thương ta ngay khi ta còn là tội nhân " ( Rm 5, 8 ) .
Chúa không đợi ta phải xin Ngài trước, nhưng chính Ngài đã đi bước trước như bên bờ thành giếng Giacóp, Ngài đã biến đổi lòng dạ của người nữ samaria , như vào nhà ông Giakêu, Chúa đã cải hóa tâm hồn ông ; như bên bàn thu thuế Chúa đã biến đổi con người Lêvi … Chúa yêu ta và Chúa kêu mời ta hãy yêu như Ngài .Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa là tình yêu bền bỉ và vững mạnh .Trong cuốn: 'Tiếng nói bên trong của Tình Yêu' ( The Inner of love ) của tác giả Henri J. M. Nouwen có đoạn viết rằng:" Khi tình yêu đến từ Thiên Chúa, thì tình yêu đó bền bỉ. Bạn có thể đón nhận tình chung thủy của tình yêu như quà tặng của Thiên Chúa, và bạn trao tặng lại cho người khác tình thủy chung này. Khi người khác ngừng yêu bạn, phần bạn, bạn đừng ngừng yêu lại người ta…" .
Là con Chúa , Chúa Giêsu đã cho ta tình yêu không điều kiện, Chúa cũng muốn ta sẽ tự nguyện trao tặng một tình yêu nhưng không, vô vị lợi . Cái nghịch lý lớn lao trong tình yêu là ta đã nhiều lần nhận tình yêu mà chính ta không nhận ra . Vậy, với Con tim của Chúa Giêsu , nơi tuôn trào nước và máu sẽ giúp ta gột rửa được hết mọi ích kỷ , mọi qui hướng về mình để tất cả sống cho tha nhân bằng một tình yêu hoàn toàn vô vị lợi .Đó là tình yêu thật, tình yêu phát xuất nơi cạnh sườn và nơi trái tim Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá.
Hôm nay là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục quả rất thích hợp khi Giáo Hội mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu vì đứng trước những thách đố của một thế giới siêu văn minh với những phương tiện, máy móc tiến bộ vượt bực, với những trào lưu , tư tưởng có thể làm lu mờ hình bóng người linh mục.Đó đây trên thế giới, có những nơi hình ảnh người linh mục bị ô uế như lạm dụng tình dục, như chạy theo vật chất , chạy theo mốt , chạy theo đời . Nhưng tất cả những sự kiện ấy chỉ là những thách đố giúp thanh tẩy người linh mục. Hình ảnh người linh mục vẫn luôn đẹp khi ta qui chiếu về Chúa Giêsu , vị Mục Tử tốt lành .Trong mười hai môn đệ , có Giuđa bán Chúa…
Nơi này nơi kia chắc chắn vẫn có Giuđa, nhưng chỉ là số rất ít . Chúa Giêsu vẫn yêu thương các linh mục, những bàn tay nối dài của Chúa và lúc nào Ngài cũng muốn các linh mục sống hiền lành, khiêm nhượng như chính mẫu gương của Ngài .Cầu nguyện cho các linh mục càng ngày càng giống Chúa Giêsu là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người.
Xin Chúa ban cho các linh mục càng ngày càng thánh thiện theo gương vị Mục Tử nhân lành là Chúa Giêsu .
Xin Chúa ban cho các linh mục biết sống đời sống như Mẹ Maria và luôn biết noi lời xin vâng như Đức Mẹ .
Xin Chúa thánh hóa các linh mục để các Ngài hoàn toàn sống cho Chúa và cho tha nhân .
Cách đây chưa lâu, một linh mục bạn thật thà tâm sự: “Thú thật, lúc đầu tôi muốn từ chối viết: ThánhTâm ABC-9
Cách đây chưa lâu, một linh mục bạn thật thà tâm sự: “Thú thật, lúc đầu tôi muốn từ chối viết bài suy niệm cho kỳ tĩnh tâm linh mục tháng này. Nhưng rất nhanh, cũng ngay trong cuộc nói chuyện bằng điện thoại đó, không hiểu sao, thay vì chối từ, tôi đã trả lời tức khắc với linh mục phụ trách: ‘Con sẽ lấy đề tài là….”.
Muốn từ chối nhưng không từ chối, mà lại còn lập tức nói ngay chủ đề, hóa ra người viết thừa hấp tấp, thiếu chính chắn?
Với bản thân, tôi thấy anh bạn của tôi đã làm một cuộc “vượt qua”. Dẫu rất nhỏ, dẫu chỉ là một khoảnh khắc như bao khoảnh khắc trong đời thường, lại là một cái gật đầu thay cho cái lắc đầu, là thái độ đón nhận thay cho lời từ chối. Và ẩn sâu trong những điều tưởng chừng đơn lẻ của đời thường, nó cho thấy sự chiến thắng chính mình. Chiến thắng bản thân như thế mà không là vượt qua đó sao?
Một dẫn chứng cụ thể thay cho biết bao nhiêu lần trong đời mình, chúng ta đã vượt qua như thế, và cũng để thấy biết bao nhiêu lần ta không làm nổi một cuộc vượt qua, dù rất nhỏ nhặt.
Nhìn lên Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta cảm nhận con đường vượt qua của Thiên Chúa là một khoảng cách lớn, từ trái tim Thiên Chúa đến trái tim Con người. Vượt qua – một khoảng cách lớn: bởi làm sao một Thiên Chúa lại trở nên người!
I. VƯỢT QUA, QUÀ TẶNG CỦA TÌNH YÊU:
Thiên Chúa được tôn vinh là Đấng “Thánh, Thánh, chí Thánh”, Đấng tạo thành trời đất, là chủ tể muôn loài, Đấng đầy quyền năng, mạnh mẽ, là Đấng đáng kính sợ. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, cũng chính là Thiên Chúa. Vẻ uy nghi của Thiên Chúa cũng chính là của Chúa Giêsu.
Làm sao một Thiên Chúa như thế lại trở nên người? Một lời hỏi không ai dám đặt ra, không ai dám nghĩ tới, lại là sự thật. Kể từ khi mang lấy thân phận xác phàm, Thiên Chúa làm người có tên là Giêsu ấy, cũng bắt đầu mang trong lồng ngực một quả tim xác thịt: một quả tim lưu giữ bầu máu nóng rất con người, một quả tim đập những nhịp đập giống như mọi người. Giêsu ấy vẫn chất chứa tình cảm mang đậm tính người: đã khóc khi đứng trước nỗi đau (Ga 11, 32); đã nổi giận khi chứng kiến sự sai quấy (Ga 2, 15 17); đã quở trách nặng lời đối với thói đạo đức giả hoặc đối với sự chậm tin của các môn đệ (Mt 11, 21 24; Mt 16, 23); đã đau khổ tột cùng đến nỗi xuất mồ hôi nặng như máu khi đối diện với cái chết bi thương (Lc 22, 44).
Một quả tim rất người như thế lại mang sức mạnh kỳ diệu đến mức lạ thường: Trái Tim Giêsu lại chính là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tình yêu nơi Trái Tim Giêsu lại biểu lộ tình yêu Thiên Chúa. Mang Trái Tim chất chứa tình yêu Thiên Chúa, mọi hoạt động nơi con người Giêsu: nhập thể, hạ sinh, sống, chết sống lại, được tôn vinh trên trời… đều mang lại cho đời ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Sức mạnh kỳ diệu của ơn thánh là thế. Huyền nhiệm cao đẹp đến mức lạ thường là thế. Dù không thể hiểu hết lối đường của Thiên Chúa, người Kitô hữu mãi mãi vẫn tuyên xưng rằng: Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Tình yêu nơi Chúa Giêsu là tình yêu cứu độ: một tình yêu có sức hoàn trả lại sự sống và hủy diệt sự chết. Vì thế, trong đêm vọng phục sinh, cả cộng đoàn Kitô hữu nhìn ngắm Thánh Tâm bị đâm thấu để trao ban ơn tha thứ mà như vui mừng reo lên:
Tôi đã thấy nước
Từ bên phải đền thờ chảy ra
Và nước ấy chảy đến những ai,
Thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên: Alluia! Alleluia.
Đền thờ ấy chính là thân xác Đấng chịu đóng đinh. Dòng nước ấy chính là dòng máu mà Đấng chịu đóng đinh trao ban cho đến giọt cuối cùng, được trào ra từ cạnh sườn bị đâm thấu. Tất cả những điều ấy không là vượt qua đó sao? Thiên Chúa uy quyền đã trở nên phàm nhân – một cuộc vượt qua cả thể.
Khi nói tới vượt qua, Giáo Hội từ bao đời vẫn hiểu đó là mầu nhiệm sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Thánh Kinh cũng nhấn mạnh đến mầu nhiệm vượt qua trong sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Nhưng nếu hiểu vượt qua theo nghĩa rộng, chính bản thân Chúa Giêsu đã là một cuộc vượt qua. Đúng hơn: một hành trình vượt qua. Vì vượt qua trải dài suốt cuộc đời của Người. Vượt qua trong tử nạn và phục sinh là đỉnh điểm của mọi cuộc vượt qua. Tử nạn và phục sinh là lời nói xác quyết của một tình yêu làm nên bề dày lịch sử, một thứ lịch sử như một dòng chảy xuyên suốt lịch sử nhân loại, cứu lấy từng cuộc đời của mỗi con người: lịch sử cứu độ. Tử nạn và phục sinh cũng là một cuộc vượt qua chung kết cho một tình yêu cứu độ. Gọi là vượt qua chung kết, bởi chỉ một lần Chúa Giêsu dâng hiến bản thân mình thôi, ơn cứu độ chảy tràn mọi thế hệ khắp nhân gian. Điều đó thư Do Thái (9, 12) đã từng nói tới: “Người chỉ vào cung thánh một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta”.
Hành trình vượt qua tưởng như xa lắm. Khoảng cách từ Thiên Chúa đến thân kiếp con người, từ tình yêu Thánh Tâm đến tình yêu biểu lộ nơi trái tim con người, tưởng như xa lắm, lại chỉ là cuộc vượt qua được thực hiện nơi một con người lịch sử: Chúa Giêsu. Và nếu Chúa Giêsu chính là cuộc vượt qua của tình yêu Thiên Chúa, thì quả thật, vượt qua là quà tặng của tinh yêu.
Sau khi suy nghĩ về hành trình vượt qua như là quà tặng của tình yêu Thiên Chúa, tôi hiểu được điều mà nhà văn Aitmatov đặt ra cho nhiều người không chấp nhận đức tin: “Tại sao Giêsu đã ngã gục trên thập tự rồi, mà trí tuệ loài người vẫn cứ mãi trăn trở? Tại sao thế gian này cứ mãi qua đi, mà lời Giêsu thì không cũ bao giờ?”. Chỉ có sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa, mới có thể đánh vào tâm tư con người và vĩnh cửu hóa chân lý sống mà Người đã dạy. Tình yêu ấy là một cuộc vượt qua đến từ Thiên Chúa trao ban cho con người như một quà tặng vô giá.
II. LINH MỤC SỐNG MẦU NHIỆM VƯỢT QUA:
Nếu vượt qua là quà tặng của tình yêu Thiên Chúa, thì linh mục, người của mầu nhiệm vượt qua, có trách vụ rao giảng mầu nhiệm ấy, phải là người trước tiên sống mầu nhiệm ấy. Để có thể hiến thân mình trở thành một cuộc vượt qua như là quà tặng của tình yêu đối với anh chị em mình. Ta hãy để đời mình được vượt qua hóa, và cùng anh chị em tiến đến cuộc vượt qua cuối cùng hướng về vĩnh cửu.
1. Để đời ta được vượt qua hóa:
Nếu Chúa Giêsu linh mục đã có một trái tim tình yêu dâng tặng cho đời, thì chọn lựa làm linh mục cũng phải là chọn lựa sống cho tình yêu. Để có được chọn lựa ấy, đời ta phải là một cuộc đời được vượt qua hóa như Chúa Giêsu.
Khởi đi từ câu chuyện rất đời thường: một linh mục bạn thay vì từ chối đề nghị của một linh mục khác, đã đồng ý viết suy niệm, chúng ta suy nghĩ về ơn vượt qua. Nếu ơn vượt qua cứ diễn ra suốt đời như thế, thì đời ta đã thấm đẫm ơn ấy. Nhưng sự thấm đẫm đầy hay vơi, nông hay cạn là tùy thuộc tình yêu của ta. Nếu lắng đọng tâm hồn, và thành thật xét mình kỹ lưỡng, ta sẽ cân đo được tình yêu của mình. Chẳng hạn giờ nghỉ ngơi lại được mời đi kẻ liệt, hay một lần nào, ta nghe được ai nói về đời tư, gièm pha việc làm của ta, ai đó có thái độ đố kỵ, hoặc buông lời mỉa mai ta… Có khi nặng hơn, chửi bới, hạ nhục, thù nghịch, đe dọa hãm hại ta… Những lúc như thế, ta có làm nỗi một cuộc vượt qua?
Chọn lựa làm linh mục, có lẽ ta cũng giống như nhà thương gia kia đi tìm ngọc quí. Tìm được rồi, bán tất cả để chỉ mua lấy một viên ngọc (Mt 13, 45 – 46). Cũng vậy, viên ngọc NƯỚC TRỜI mà mình đã chọn lựa, đòi ta phải hy sinh, phải kiên trung, phải chiến đấu, phải biết bỏ mình, bỏ ý riêng… không phải một ngày hay một buổi, mà là một đời. Vì những đòi hỏi của Tin Mừng triệt để như thế, mà ta vẫn trung thành với chọn lựa của mình, đó chính là lúc ta nên giống Chúa Giêsu trên đường thánh giá mà Chúa mời ta bước theo Người.
Hóa ra giữ lấy viên ngọc Nước Trời, cũng đồng nghĩa với ơn gọi trung thành vác thập giá đời mình theo Chúa Kitô. Nhưng sự thật cuộc đời bày ra trước mắt, dễ làm ta quên mất điều này. Bởi đó ta dễ theo thói đời, dễ rơi vào thái độ an thân. Nặng hơn: tìm lợi lộc vật chất, quyền chức, thế giá, ảnh hưởng… Điều này vô tình lại được hỗ trợ bởi thái độ cả nể đối với linh mục của nhiều người, làm cho ta càng nghĩ mình là trên, là nhất, có khi quên mất tha nhân. Nếu không làm nổi một cuộc vượt qua, dù không cố ý, nhưng có thể làm ta vô tình bẻ cong hai tiếng linh mục mà lẽ ra, ta phải cố công vun bồi cho hai tiếng ấy đầy đặn hơn. Ta dễ làm biến dạng lý tưởng linh mục mà ngày chịu chức, ta hăm hở đón nhận. Rất cần thiết cho một hành trình vượt qua, đi từ những cái nhỏ nhặt đời thường đến những gì làm nên căn tính linh mục.
Vì Thánh Tâm Chúa Giêsu là mạc khải tình yêu không cùng của Thiên Chúa. Vì hành trình vượt qua là quà tặng của tình yêu, Thiên Chúa trao tặng con người, được biểu lộ nơi Trái Tim bằng xương, bằng thịt, rất con người của Chúa Giêsu. Vì khuôn mặt đau đớn, khổ nhục của thập giá Chúa Giêsu, diễn tả cách trung thực lòng thương xót của Thiên Chúa, và mời gọi ta tháp nhập thập giá đời mình để bước theo Người. Vì trên thập giá, nhân loại đã xé lồng ngực của Đấng là Thiên Chúa làm người, để dòng máu tuôn trào thành dòng máu cứu chuộc mình. Và vì sự thổn thức, vì sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa lớn cho đến độ, hình tượng Thánh Tâm không còn đập trong lồng ngực mà để lộ ra bên ngoài cho mọi người nhìn vào đó mà học đòi yêu thương.
Vì tất cả những lý do trên, mà ta cần hội nhập hành trình vượt qua. Như Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, ta cũng trao tặng tình yêu, cũng diễn tả khuôn mặt đầy yêu thương, lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ta cũng biểu lộ giá trị của ơn cứu chuộc là giá trị xuất phát từ thập giá. Nếu đời ta được vượt qua như thế, ta sẽ là con người giữa con người hơn, anh em với anh em hơn. Trong thánh chức của mình, nếu đời ta được vượt qua hóa như thế, ta sẽ là Kitô hữu cùng anh em của ta hơn, và là linh mục cho anh em của ta hơn.
Đó không là ý nghĩa của chọn lựa sống đời thánh hiến trong chức linh mục đó sao?
2. Hướng về vĩnh cửu:
Trong đức tin, ta biết rằng, cuộc sống là một hành trình vượt qua. Trên hành trình đó, ta đã vượt qua nhiều lắm, nhưng không ít lần thất bại, bởi ta còn chần chừ, tính toán, ích kỷ, so đo hơn thiệt… Nhưng điều quan trọng nhất không phải là bản tính yếu đuối của ta, mà là ta có cố gắng chiến đấu, để mỗi một ngày, ta có khả năng vượt qua tính bất tất của mình hơn không mà thôi.
Hành trình vượt qua của cuộc đời mỗi người là tiến về vận mạng vĩnh cửu của mình. Hành trình này kết thúc ở cuộc vượt qua cuối cùng đi vào cái chết để sống đời sống mới. Thái độ sống của ta, tất cả những gì ta làm được hay chưa làm được hôm nay đều có giá trị vĩnh cửu. Chính vì sự bất biến này mà từng phút giây của cuộc đời, ta cần phải vượt lên chính mình.
Hành trình vượt qua trải dài cả cuộc đời chắc chắn sẽ qua nhiều chông gai, nhưng được tiến về vĩnh cửu, tiến về đời sống mới, đó là niềm hy vọng, là sự vinh quang của bất cứ ai tin nơi tình yêu Chúa.
3. Một lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, để diễn tả tình yêu, Chúa đã biểu lộ bằng nhiều biểu tượng: Lời Chúa, Thánh giá, bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể… Trong các biểu tượng đó, có một hình tượng hết sức cụ thể: hình tượng Trái Tim. Còn gì đậm nét và dễ ghi khắc trong tâm trí chúng con cho bằng ngắm nhìn một bầu tim rực lửa, đã không còn gõ những nhịp đập trong lồng ngực nữa mà đã lộ ra bên ngoài như một biểu tượng làm bằng chứng yêu thương. Một quả tim thổn thức đến như vậy, một tình yêu tha thiết và mảnh liệt trao dâng đến như vậy, lẽ nào chúng con không rung động!
Lạy Chúa Giêsu, Trái Tim của Chúa là Trái Tim rộng mở đón nhận hết mọi người và ôm trọn cả loài người chúng con. Nơi Trái Tim Chúa, kẻ lao nhọc và gánh nặng tìm được chốn nghỉ an, kẻ bất hạnh tìm được niềm vui, kẻ yếu đuối tìm được chỗ dựa vững chắc, kẻ khốn cùng tìm được nguồn an ủi, kẻ cô độc tìm được một người bạn chân thành…
Xin cho trái tim chúng con biết đập bằng nhịp đập của tình yêu Chúa, biết cảm thông, chia sẻ để chúng con vui với ai mừng vui và khóc với ai đang khổ sầu.
Xin làm lan tỏa tình yêu nơi Trái Tim Người đến chúng con, để chúng con biết đón nhận yêu thương và sống rất yêu thương, không vì những lời chào trịnh trọng, áo mũ xênh xang, châu ngọc quí phái, nhưng vì chính bản thân những con người: từ những em bé nghèo rách, những cụ già neo đơn, những người lang thang vì thiếu nhà ở, những kẻ tàn tật, những ánh mắt thèm được yêu thương. Xin cho con hiểu nỗi lòng người cha lam lũ, người mẹ tảo tần, người em thất học, những anh chị quê mùa…
Trên hết mọi sự, xin cho chúng con nhuần thấm hành trình vượt qua của Chúa, và từng ngày sống trong đời, chúng con được vượt qua hóa để chúng con xứng đáng là Con Thiên Chúa với Chúa, và làm anh em giữa muôn người như Chúa.
JB. Nguyễn Minh Hùng
------------------------------
ThánhTâm ABC-10: TÔN SÙNG THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU/ tìm hiểu
Nhân dịp vào tháng 6, tháng Kính Thánh Tâm, người viết xin trình bày đôi điều học hỏi hầu chia: ThánhTâm ABC-10
Nhân dịp vào tháng 6, tháng Kính Thánh Tâm, người viết xin trình bày đôi điều học hỏi hầu chia sẻ cùng quý giáo hữu về Tôn sùng Thánh Tâm, với lòng khiêm tốn góp phần gia tăng lửa yêu mến Chúa Giêsu trong mỗi người, mỗi gia đình, cũng như mỗi đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, đặc biệt xin gởi đến quý vị, quý bạn trong Đoàn Liên Minh Thánh Tâm.
Bài viết không phải ý kiến hay cảm nghiệm cá nhân mà nội dung căn cứ vào giáo huấn của Giáo Hội được ghi lại trong Giáo Lý Công Giáo hoặc qua các Tông Huấn, Tông Thư của các vị Giáo Hoàng, và được phân tích, giảng giải bởi một số hàng giáo phẩm, chuyên về Thần Học và Thánh Kinh. Quý độc giả có thể tham khảo thêm qua mạng lưới thông tin mang tên “June, the month of Sacred Heart” hay Tháng Sáu, tháng kính Thánh Tâm.
Trước khi khai triển ý nghĩa “Tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu”, chúng ta hãy điểm lại những việc đạo đức chính yếu trong việc tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu.
TÔN THỜ THÁNH TÂM
1. Về Tháng Sáu, tháng kính Thánh Tâm Chúa:
Nhiều tài liệu cho biết Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được nói đến từ núi Canvê khi môn đệ hạ xác Đức Kitô xuống khỏi Thập Giá, tỏ cho thấy vết “giáo đâm vào cạnh sườn Người thâu đến trái tim” mà thánh Gioan kể rõ “Tức thì máu cùng nước chảy ra” ( Ga 19, 34 ). Nhưng, từ thế kỷ 11 – 12, tôn sùng Thánh Tâm mới được phát triển nhờ các Dòng Tu Biểnđức, Xitô. Và, vào thế kỷ 16 – 17, được thịnh hành nhờ các Dòng Phansinh, Đaminh và nhất là Liên Dòng Huynh Đệ Thánh Tâm. Trong số biết bao vị Thánh nêu gương và cổ võ lòng tôn sùng Thánh Tâm có Thánh Méctinđê, Gertruđê, Catarina thành Sienna, Luy de Blois, Gioan Avila, Phanxicô de Sales, Phanxicô Borgia, Luy Gonzaga. Đặc biệt thánh nữ Maria Margarita Alacoque ( 1647 – 1690 ), sốt sắng suy niệm về lòng yêu thương của Chúa, và cổ võ dành cả Tháng Sáu để kính Trái Tim Chúa. Pháp, Đức, Balan là những nước có phong trào nhiệt thành tôn sùng Thánh Tâm.
2. Lễ kính Thánh Tâm
Lễ được tổ chức lần đầu tiên vào 31.8.1670 tại thành phố Rennes, Pháp, và Đức Giáo Hoàng Piô IX ( 1846 – 1878 ) đã chính thức thiết lập lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu vào tháng 61856, ngày Thứ Sáu sau Lễ Mình Thánh Chúa. Năm nay 2002, Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, lễ trọng, vào Thứ Sáu 76 và cũng là Thứ Sáu đầu tháng.
3. Thứ Sáu đầu tháng:
Thánh nữ Margarita Maria Alacoque ( 1647 – 1690 ) là vị tông đồ sốt sắng tuyên rao lòng tôn sùng và phạt tạ Thánh Tâm để đền tội loài người hững hờ hoặc xúc phạm đến Chúa. Bà kêu gọi giáo hữu thực hiện các việc đạo đức, như siêng năng rước lễ, và chầu giờ thánh để tôn sùng và phạt tạ Trái Tim Chúa; cách riêng, hãy sốt sắng xem lễ và rước lễ Thứ Sáu đầu tháng, theo lời Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ: “Trong niềm thương xót vô biên của Trái Tim Ta, Ta hứa với con rằng tình yêu thương đầy quyền năng của Ta sẽ ban cho những ai rước lễ Thứ Sáu đầu tháng trong chín tháng liên tiếp, được hồng ân thống hối sau cùng; họ sẽ không phải chết trong tình trạng làm mất lòng Ta và được chịu các phép Bí Tích. Thánh Tâm Ta sẽ là nơi trú ẩn an toàn cho họ trong lúc sau hết của cuộc đời họ.” ( The First Friday Devotion, p. 2 )
Những việc đạo đức trong ngày Thứ Sáu đầu tháng để tôn vinh Thánh Tâm Chúa gồm: Tham dự Thánh Lễ; thờ lạy Bí Tích Thánh Thể; Dâng mình cho Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu; phạt tạ; Kinh cầu Trái Tim Chúa Giêsu; Bí Tích Hòa Giải.
4. Dâng cả loài người cho Thánh Tâm Chúa Giêsu:
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã thực hiện vào ngày 11.6.1899, việc hiến dâng được gọi là biến cố vĩ đại trong giáo triều ( 1878 – 1903 ). Ngài đã thi hành theo ý Chúa Giêsu mặc khải cho nữ tu Maria Droste ( 1863 – 1899 ) vào năm 1894 và dì phước trình Bề Trên vào tháng 6.1898. Sắc Lệnh Dâng Hiến mở đầu bằng câu được dùng trong “Kinh dâng loài người cho Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu” mà cả Đức Gíao Hoàng Piô XI, Gioan XXIII và Gioan Phaolô II đều kêu gọi giáo hữu hãy đọc trong gia đình mỗi tối:
“Lạy Đức Chúa Giêsu rất dịu ngọt là Đấng Cứu Chuộc loài người. Xin Chúa đoái nhìn chúng con đang khiêm nhượng sấp mình trước bàn thờ Chúa. Chúng con là người của Chúa, cùng muốn thuộc về Chúa, và để kết hiệp cùng Chúa vững bền hơn, thì hôm nay mỗi người chúng con tự ý dâng mình cho Rất Thánh Trái Tim Chúa. Có nhiều người không hề nhìn biết Chúa, lại nhiều kẻ khinh mạn điều răn Chúa, và khước từ Chúa. Lạy Đức Chúa Giêsu nhân từ, xin thương xót cả và hai, và đưa dẫn mọi người về cùng Rất Thánh Trái Tim Chúa...”
5. Tông Thư Haurietis Aquas về “Tôn sùng Thánh Tâm”:
Tông Thư được Đức Giáo Hoàng Piô XII ban hành ngày 15.5.1956, kỷ niệm 100 năm công bố lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu ( 1856 ). Văn kiện này được nhiều nhà thần học xem như sách gối đầu của Liên Minh Thánh Tâm. Tháng 61999, kỷ niệm 100 năm Đức Gíao Hoàng Lêô dâng cả loài người cho Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, Đức Gioan Phaolô II lại long trọng hiến dâng cả nhân loại cho Trái Tim Chúa.
Ý NGHĨA TÔN SÙNG THÁNH TÂM
1. Nền tảng đức tin:
Cha William G. Most, chuyên gia thần học, giảng giải: Tôn sùng Thánh Tâm là một phần của nền tảng đức tin căn cứ vào lòng Chúa yêu thương, được biểu hiện nơi Trái Tim Chúa Giêsu, nhờ đó chúng ta mới hiện hữu và được cứu rỗi. Phát biểu của Đức Giáo Hoàng Piô XI trong Tông Thư Miserentissimus Redemptor ( Đấng Cứu Chuộc rất yêu thương ), được Đức Piô XII trích lại trong Tông Thư Haurietis Aquas: “Phải chăng sự tôn sùng Thánh Tâm tóm lược tất cả đạo giáo của chúng ta và hướng dẫn mọi người đến một cuộc sống hoàn hảo hơn? Đó là những gì dẫn dắt tâm trí chúng ta hiểu biết Chúa Kitô cách mật thiết, làm cho tâm hồn chúng ta yêu mến Chúa cách nhiệt tình hơn và noi gương Ngài cách trọn vẹn hơn.” ( HA, 36 )
Tôn thờ Trái Tim là tôn thờ chính Chúa Giêsu, tôn thờ chính Thiên Chúa. Theo Thánh Kinh – Cựu Ước cũng như Tân Ước, trái tim biểu hiệu yêu thương mà “Thiên Chúa là tình yêu” ( 1 Ga 4, 8 ). Trái tim là trung tâm nghị lực tinh thần và tư tưởng, nói thông thường là “lòng người”, như câu “Giavê đã tìm lấy một kẻ vừa lòng Người” ( 1 Sm 13, 14 ), hoặc “tin hết lòng” ( Cv 8, 37 ), hay “lòng chai dạ đá” ( Mc 10, 5 ), hoặc rõ ràng nhất là lời Chúa Giêsu phán: “Ngươi phải yêu Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” ( Mt 22, 37 ).
2. Nền tảng Giáo Lý:
Trái Tim của Ngôi Lời nhập thể: Theo giáo huấn của Giáo Hội: “Con Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta với trái tim loià người của Ngài. Vì lẽ đó, Trái Tim cực thánh Chúa Giêsu bị đâm thấu qua vì tội lỗi chúng ta và vì ơn cứu độ của chúng ta, được coi là dấu hiệu và biểu tượng tuyệt đỉnh của tình yêu mà Chúa Con dành cho Chúa Cha, và Chúa Cứu Thế dành cho tất cả mọi người, không trừ một ai” ( Giáo Lý, 478 )
Thánh Tâm và chúng ta: “Trái tim là lòng, tức tâm hồn, trung tâm bí ẩn, lý trí và tha nhân không thể lãnh hội được; chỉ mình Thần Khí Chúa có thể đo và biết được” ( Giáo Lý 2563 ).
Vì thế, sám hối nội tâm phải nhờ ân sủng của Chúa: “Tâm hồn con người nặng nề và chai đá, cần được Thiên Chúa ban kẻ tọi nhân một tâm hồn mới, một trái tim mới. Sự trở lại trước hết là công việc của ân sủng Thiên Chúa lôi kéo tâm hồn ta lại với Ngài” ( Giáo Lý 1432 ).
Thánh Tâm, Bí Tích và Thánh Lễ: Khi nói đến “máu và nước”, Th. Gioan giúp hiểu thêm về bí tích Thánh Thể và Rửa Tội, theo ý nghĩa “nước hóa thành rượu” trong tiệc cưới Cana ( Ga 2, 1 – 11 ); hoặc được “vào Nước Thiên Chúa nhờ sinh ra bởi nước và Thần Khí” ( Ga 3, 5 ); hoặc cả 3 Bí Tích Rửa Tội, Thánh Thể và Thêm Sức, khi thánh sử nói đến nguồn mạch Đức Tin: “Chính Đức Kitô, Con Thiên Chúa, là Đấng đã đến nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân... Thần Khí, nước và máu, cả ba cùng làm chứng một điều: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống ấy ở trong Con của Người” ( Ga 5, 6 – 1 ).
“Việc tham dự Thánh Lễ đồng hóa chúng ta với Trái Tim Chúa Giêsu, nâng đỡ chúng ta trên đường lữ hành của cuộc đời, khiến chúng ta ước ao sự sống vĩnh cửu, kết hiệp ta với Giáo Hội trên trời, và Mẹ Maria cùng các Thánh” ( Giáo Lý 1419 ). Về hồng ân Bí Tích Thánh Thể, Thánh Tôma Aquinô nói: “Khi rước Mình Máu Chúa vào lòng, thì quyền năng thiêng liêng của Thánh Tâm trở nên của chúng ta, khiến chúng ta nài xin Chúa Giêsu thanh luyện lòng khỏi mọi mưu chước ma quỷ, chấm dứt mọi đam mê xấu xa để mặc lấy bác ái, nhẫn nại, khiêm nhượng, vâng lời, bình an.”
Thánh Tâm và Giáo Hội: Giáo Lý Công Giáo minh định: “Giáo Hội được sinh ra do sự hoàn toàn hiến thân của Chúa Kitô cho ơn cứu độ của chúng ta, một sự hiến thân được thực hiện trước trong việc lập phép Thánh Thể và được thực hiện trên Thập Giá.” Công Đồng Vaticano II hướng dẫn: “Sự khởi đầu và tăng trưởng của Giáo Hội được biểu thị bằng nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị mở ra của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá” ( Hiến Chế Giáo Hội, Lumen Gentium 3 ). “Từ cạnh sườn Chúa Kitô đang thiếp đi trên Thập Giá, bí tích mầu nhiệm của tất cả Giáo Hội được sinh ra” ( Hiến Chế Phung Vụ, SC 5 )
Tôn sùng đích thực: Từ gương các Thánh và giáo huấn của Giáo Hội, các Đấng kế vị Tông Đồ Phêrô, trong số có Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô IX, Piô XII, Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan Phaolô II, đều hướng đến sự tôn sùng Thánh Tâm đích thực dựa vào yêu thương. Nhận biết cách thấu đáo “lòng Chúa yêu thương loài người” và “chúng ta phải yêu mến Chúa, yêu thương tha nhân như Chúa dạy.” Tôn sùng Thánh Tâm là hiến dâng và phát tạ, như lời Đức Lêô XIII nhắc bảo: “Tận hiến là nhận biết Chúa, Đấng Tạo Hóa và Cứu Chuộc, có mọi quyền năng trên chúng ta; chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa và nài xin Chúa cho chúng ta dược yêu mến và phụng sự Chúa”.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khuyên bảo: “Khi làm việc đạo đức kính Thánh Tâm hãy dùng Kinh Cầu Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu để nhờ đó suy gẫm và theo gương Đức Kitô, hầu nên công chính, trọn lành. Xin Thánh Tâm Giêsu thương xót chúng con vì Ngài là “lò hằng cháy lửa kính mến Chúa, mạch thường sinh và căn bổn mọi đức tròn lành, và phần đến vì tội chúng con.” ( Huấn Từ tại Balan, 6.6.1999 )
Ks. TRẦN VĂN TRÍ, Hoa Kỳ 6.2002
------------------------------
ThánhTâm ABC-11: THÁNG 6 KÍNH THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
Mt 11, 29
Khi thấy Chúa Giêsu đã tắt thở, một người lính, lấy giáo đâm cạnh sườn Người, tức thì, máu cùng: ThánhTâm ABC-11
Khi thấy Chúa Giêsu đã tắt thở, một người lính, lấy giáo đâm cạnh sườn Người, tức thì, máu cùng nước chảy ra( Ga 19, 34 ). Đức Giêsu Kitô đã hoàn tất công việc cứu chuộc của Ngài khi Ngài nói: " Thế là đã hoàn tất " ( Ga 19, 30 ). Vâng, bản án bất công, nhân loại, người Do Thái và nhất là Philatô đã gán cho Chúa Giêsu càng làm cho việc im lặng nhận tội của Ngài thay cho cả nhân loại mặc một ý nghĩa cao vời: " Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng vì bạn hữu mình "( Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu đã dùng cái chết để nói lên tất cả. Chết mới nói lên lời, chết mới biểu tỏ tất cả mọi sự, chết mới nói lên Sự Thật . Một Sự Thật rành rành mà Philatô khi đứng đối diện với Chúa Giêsu đã không thể nào nhận ra được, nên Philatô mới vặn hỏi Chúa Giêsu: " Sự Thật là gì ? " ( Ga 19, 38 ). Chắc chắn trong thâm tâm của Philatô vẫn sợ Chúa Giêsu sẽ tiếm quyền, sẽ lên làm Vua để lãnh đạo, để lật đổ và không tuân phục Đế Quốc La Mã , nhưng Chúa Giêsu đã minh định rõ ràng:" Nước Tôi không thuộc thế gian này. Nếu Nước Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu, không để Tôi bị nộp cho người Do Thái.Nhưng thực ra Nước Tôi không thuộc thế gian này "( Ga 19, 36 ). Chúa Giêsu đã tới trần gian để mang lại hạnh phúc, niềm vui và ơn bình an cho nhân loại. Thật ra, Chúa Giêsu không ham quyền cố vị, không thích giầu sang phú quí theo như quan niệm của người đời và ngay cả các môn đệ của Chúa vẫn lầm suy nghĩ . Họ cứ tưởng Chúa Giêsu sẽ tới để khôi phục vương quốc Israen và các môn đệ sẽ được chia chác các chức vị trong nội các của Vua Giêsu . " Thiên Chúa là Tình Yêu " ( 1 Ga 4, 8 ) . Chính vì yêu, Chúa Giêsu đã tới thế gian theo lệnh Chúa Cha . Ngài đã sống" Hiền Lành và Khiêm Nhượng" ( Mt 11, 29 ).
Bắt đầu tháng 6 , Giáo Hội dành toàn cả tháng để mời gọi con người nhớ lại Tình Yêu của Chúa . Một Tình Yêu tự hiến, hy sinh và hoàn toàn vô vị lợi . " Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta " . Chúa Giêsu đã tự hiến thân trên thập giá để cứu độ loài người . Tình yêu của Ngài là tình yêu xả kỷ, hy sinh và tự hiến. Trên thập giá, Chúa đã nói lên tất cả . Chỉ nơi thập giá, con người mới gặp được Chúa và Chúa mới qui tụ con người .Và cũng nơi thập giá, Chúa Giêsu đã phong thánh và cho người trộm lành được vào Nước Chúa:" Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng " ( Lc 23, 43 ).
Chúa Giêsu đã lôi kéo mọi người lên với Chúa . Chỉ nơi Thập Giá, con người mới có ơn cứu độ . Kính nhớ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo Hội sẽ không ngừng tôn vinh một con người đã yêu thương loài người đến hy sinh mạng sống trên Thập Hình Tự Giá. Tình thương của Chúa Giêsu là Tình Thương Cứu Độ và không ai có thể đến được với Chúa Giêsu, nếu Cha của Ngài là Thiên Chúa không lôi kéo kẻ ấy ( Ga 6, 44 ).
Vâng, cái chết của Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại là ngôn ngữ mạnh mẽ nhất nói lên tình thương cao sâu của Chúa Giêsu . Đó là Mầu Nhiệm thẩm sâu của Tình Yêu Thiên Chúa .
Tháng 6 , Xin Chúa ban cho mọi người chúng con luôn hướng về Thánh Tâm Chúa vì chính con tim mở rộng của Chúa, để Máu và Nước đổ ra đã là nguồn ơn cứu độ của chúng con.
Xin cho Giáo Hội luôn hiểu rõ rằng chỉ nơi Thập Giá , con người mới được cứu rỗi .
Xin cho mọi người, mọi gia đình luôn biết chạy tới với Thánh Tâm Chúa Giêsu và luôn biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu vì nơi Thập Giá, con người sẽ bắt gặp được sự An Bình thực sự .
(Ngày 27/6 Ngày thế giới xin ơn thánh hoá linh mục)
Ga 19, 3137
Lễ thánh tâm Chúa Giêsu là lễ kính toàn bộ kế hoạch cứu độ yêu thương của Chúa. Thánh Gioan viết: ThánhTâm ABC-12
Lễ thánh tâm Chúa Giêsu là lễ kính toàn bộ kế hoạch cứu độ yêu thương của Chúa. Thánh Gioan viết:” Thiên Chúa là tình yêu”. Cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu diễn tả sâu xa nhất lời yêu thương của Ngài. Chết mới diễn tả tất cả, chết mới thốt nên lời. Lời của Chúa Giêsu trên thập tự:” Ta khát “ là lời tình yêu.
MỘT CON NGƯỜI BỊ TREO LÊN, CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI:
Hơn hai ngàn năm nay, nhân loại vẫn tôn thờ một con người có tên Giêsu, một con người bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh vào thập giá. Con người đó đã bị nhiều người lên án, có người đã viết cả pho tiểu thuyết:” Thiên Chúa đã chết “, họ tưởng Ngài chết là hết, là tiêu tan, là hết hy vọng, nhưng quả thực, Thiên Chúa vẫn còn đó, Ngài vẫn sống động, Ngài vẫn hiện diện giữa mọi người, giữa dòng thế giới.Chúa Giêsu, người đã bị treo lên cao trên thập giá, người chết vì yêu:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15,13).
Đã hơn hai ngàn năm nay, tại sao nhân loại, tại sao nhiều người lại vẫn tiếp tục tôn thờ một con người bị treo lên thập giá ? Đây là điều rất diệu kỳ:” Chúa Giêsu là tình yêu đích thực”. Nơi Ngài có một sự thu hút rất mãnh liệt, Ngài đã được hầu hết mọi người trên toàn thế giới mến phục, tôn thờ và yêu mến. Có tới chân thập giá, nhân loại mới hiểu tại sao thế giới tôn kính Chúa, yêu mến Chúa và tin tưởng Chúa:” Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”( Ga 12, 32 ). Hình ảnh Chúa Giêsu trên núi Canvê: thân trần, mình trụi, hai tay, hai chân bị đóng đinh vào thập tự, đầu đội mão gai. Chúa đã chết, đã quên mình, đã hy sinh cho nhân loại, cho mọi người vì Ngài yêu thương, tình yêu của Ngài là tình yêu đích thật, tình yêu vô vị lợi, tình yêu vô biên. Trong Phúc âm đã thuật lại biết bao dụ ngôn, biết bao ví dụ nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người, đối với nhân loại: dụ ngôn “Người con hoang đàng”, “ Con chiên lạc”, “Đồng bạc bị mất “ vv...
Tất cả những dụ ngôn ấy nói lên lòng Chúa yêu thương nhân loại, nhất là đối với những người tội lỗi biết là chừng nào. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi bước trước. Chúa yêu nhân loại chẳng phải nhân loại có giá trị, hay cũng chẳng phải con người có nhãn hiệu Kitô giáo Chúa yêu thương và cứu độ nhân loại trước khi nhân loại còn ở trong tội và bất tín, bất trung. Chúa chết vì yêu nhân loại, Chúa cũng mời gọi nhân loại sống tình yêu như Ngài:” Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng từ nhân”( Lc 6, 36 ). Đó là mầu nhiệm của tình yêu. Đây cũng là mầu nhiệm của đức tin.
HÃY SỐNG YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA:
Trong cuộc sống đời thường có biết bao trường hợp thương tâm xẩy ra: hận thù, chém giết, chiến tranh, lừa đảo vv...Sở dĩ những chuyện đó xẩy ra vì “con người thiếu yêu thương”.Chúa mời gọi con người sống yêu thương, quên mình, hy sinh vì người khác miễn người khác có được hạnh phúc.Thánh Phaolô viết:” Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, nên đã phó mình vì chúng ta”( Eph 5, 2 ). Sống như Chúa, có trái tim của Chúa, con người sẽ ở trong tình yêu thật của Ngài. Người ta kể:” Vào một ngày nào đó, chú bé Adam Lester nay mới hai tháng tuổi( 6/1984 ), sẽ biết rằng mẹ chú yêu chú biết chừng nào và đã hy sinh cả cuộc đời mình cho chú. Sau khi được các bác sĩ cho biết các loại thuốc trị bệnh ung thư sẽ để lại di chứng trên đứa trẻ đang nằm trong bụng, chị Hazel đã từ chối không dùng thuốc. Sau khi bé Adam ra đời được bảy tuần lễ, chị đã trút hơi thở cuối cùng tại Conventry nước Anh”. Đây là câu chuyện trong muôn vàn câu chuyện ở trần gian nói lên tình thương thật của người mẹ, tình thương hy sinh đến quên mạng sống vì người mình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá chính là thước đo tình thương của Chúa đối với nhân loại. Đây là thực tế của một con người có tên Giêsu, Ngài không chỉ nói suông, nhưng đã thực hiện đúng lời Ngài đã nói:”...hy sinh mạng sống vì người mình yêu”.Mừng lễ thánh tâm Chúa Giêsu là tôn kính Chúa, tôn vinh tình yêu của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn và có thể cùng với thánh Gioan thánh sử, nhân loại hãy hô to:” Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó! “.
Mừng kính trái tim Chúa Giêsu, xin cho các linh mục được có con tim nhạy cảm, tấm lòng yêu thương như Chúa để các Ngài luôn trung tín, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu, cho đàn chiên.
LỜI CẦU:
“ Thánh Tâm Chúa Giêsu,nguồn êm ái dịu dàng, xin hãy ban xuống lòng con tràn lửa say yêu một Chúa...Xin thương những người đã dám vô tình xúc phạm đến Thánh Tâm Cha “.
Tháng Sáu, tháng của những Lễ Phong Chức, Lễ Khấn Dòng, cũng là tháng của những lễ kỷ: ThánhTâm ABC-13
Tháng Sáu, tháng của những Lễ Phong Chức, Lễ Khấn Dòng, cũng là tháng của những lễ kỷ niệm ngày chịu chức, ngày khấn dòng... Có thể nói tháng sáu là Mùa Ơn Gọi. Tháng sáu cũng là tháng tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa, được cụ thể nơi Thánh Tâm Chúa Kitô. Ngày Lễ Thánh Tâm Chúa Kitô cũng nằm trong tháng Sáu, lại là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các Linh Mục.
Bởi thế, tháng sáu nói chung và lễ Thánh Tâm nói riêng là thời điểm thích hợp để tất cả những ai sống Ơn Gọi Tu Trì có dịp nhìn lại chính mình, nhìn lại Ơn Gọi mà mình đã sống, từ đó tự nhắc nhở cho chính bản thân ta về một chọn lựa mà mình đã dấn bước: chọn lựa cho một Tình Yêu. Nhưng tình yêu ấy không do bản thân ta, hay bất cứ một người nào mà có, nhưng đó chính là Tình Trời. Vì thế, tôi muốn cùng bạn chia sẻ những suy nghĩ về chính Ơn Gọi và sự chọn lựa của mình.
Bạn có biết: Cuộc sống là kết thành của những chọn lựa. Có những chọn lựa quyết định cho cả một đời, và một đời phải sống cho chọn lựa ấy. Có những chọn lựa có thể thay đổi nhưng cũng có những chọn lựa không bao giờ thay đổi. Chọn lựa luôn là điều cần thiết cho đời người. Bởi thái độ sống của mỗi người tùy thuộc và ảnh hưởng rất nhiều từ những chọn lựa mà mình đã quyết định.
I. CHỌN LỰA: 1. Chọn lựa cần chiến đấu:
Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến không phải là người nọ, thế lực kia mà là cái “tôi” xấu trong chính bản thân. Bởi thế chiến đấu để tự lách mình khỏi những mối nguy cản bước ta tiến đến sự hoàn hảo, thì ngay trong sự tự chiến đấu ấy đã là chọn lựa: chọn lựa đứng về phía thiện, tách mình khỏi những sai lạc. Chọn lựa không cho phép ta ở hai tình trạng, nhưng chỉ là một, hoặc là tốt hoặc là xấu. Chọn lựa không có chỗ cho sự trung dung: “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi: nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng, chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miện Ta” ( Kh 3, 15b – 16 ).
Chọn lựa luôn là chọn lựa một điều gì đó, không thể có chọn lựa suông. Trong chọn lựa bao giờ cũng có lý tưởng để theo đuổi. Chọn lựa là đón nhận nhưng cũng là hy sinh. Đón nhận điều mình chọn lựa và hy sinh để sự chọn lựa thành toàn. Chọn lựa bao gồm một hướng ngắm để đến, một hy vọng củng cố lý tưởng, một niềm tin nuôi hy vọng. Và khi đã chọn lựa, không có nghĩa là ngưng chiến đấu. Càng chọn lựa, nghĩa là càng đi trên con đường mà mình đã quyết định, càng phải chiến đấu: Chiến đấu để bảo vệ điều đã chọn lựa. Chọn lựa thì dứt khoát, nhưng chiến đấu thì lâu dài, bền bỉ, vì không phải chiến đấu một lần là đủ. Ngày nào ta bằng lòng với tình trạng hiện có mà không chiến đấu để vươn lên, ngày ấy báo hiệu chọn lựa ban đầu của ta đang bị chính ta đánh mất. Nếu chọn lựa cho một thái độ sống lâu dài thì chiến đấu liên lỉ không bao giờ thừa. Càng chiến đấu bảo vệ cái thiện, chống lại cái xấu, chọn lựa càng vững chắc.
Mãi mãi chọn lựa cần chiến đấu. Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến có khi chính là sự dữ ngự trị trong ta.
2. Tự do chọn lựa: Chọn lựa đòi tự do. Không những tự do cần ngay khi chọn lựa, mà khi chọn lựa rồi cũng cần có tự do để sống điều chọn lựa. Chọn lựa không tự do, không phải chọn lựa mà là áp đặt, là thế lực. Cần đập vỡ áp đặt, thế lực để lý trí, ý chí và cả tình yêu có được sự chọn lựa đúng mức. Áp đặt hay thế lực ở đây là những hào nhoáng, là danh, là lợi, là sự thúc ép của kẻ khác... khiến đương sự nhầm lẫn, cuối cùng chọn lựa sai.
Cần có tự do để dấn thân cho điều đã chọn lựa. Nếu chọn lựa không có tự do, người ta không thể dấn thân cho điều đã chọn lựa. Và chỉ có yêu thực sự một điều gì mới có thể dấn thân cho điều đó cách trọn vẹn. Một người xả thân giúp đỡ người khác, việc làm đó mang lại cho anh ta hạnh phúc, ngược lại một người làm điều gì vì bị cưỡng bức, anh ta sẽ không cảm nhận sự bình an.
3. Thiên Chúa làm người, một chọn lựa: Chúa Kitô đã quyết định trở thành “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” ( Ga 1, 11 ). Chọn lựa của Ngài là “trở nên người phàm”. Chọn lựa này mãi mãi không thay đổi. Đó cũng là chọn lựa tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài đã sống một cuộc đời cho điều đã chọn lựa, và dấn thân trọn vẹn cho chọn lựa ấy: Chúa Kitô đã “nên giống anh em mình về mọi phương diện” ( Dt 2, 17 ). Hay “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 6 – 8 ).
Chúa Kitô “vâng lời cho đến chết”, sự “vâng lời” của Ngài là hoàn toàn tự nguyện. Ngài quyết định “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” ( Ga 10, 15 ). Quyết định này là sự lựa chọn tự do: “Không ai cất mạng sống Ta được nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta, Ta có quyền thí mạng sống Ta, và Ta cũng có quyền lấy lại, đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta” ( Ga 10, 18 ). Một khi quyết định chết cho đàn chiên, Chúa Kitô đã mang lại sự sống dồi dào cho đàn chiên.
II. CHỌN LỰA SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN:
1. Một chọn lựa can đảm: Nếu chọn lựa sống đời Kitô hữu hoàn hảo đã phải chiến đấu nhiều với chính bản thân, thì chọn lựa sống đời Kitô hữu Thánh Hiến còn phải chiến đấu vất vả hơn. Vì chọn lựa ấy là chọn lựa “sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”. Nhưng họ vững tin rằng, Chúa Kitô ở bên họ. Ngài cầu xin Cha: “Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha... Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần... Lạy Cha Con muốn rằng Con ở đâu, thì những kẻ Cha ban cho Con, cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con...” ( Ga 17, 1 tt ).
2. Đời sống Thánh Hiến là sống những nét đặc trưng của đời sống Đức Kitô:
Những người sống đời Thánh Hiến đi một bước cao hơn tiến gần đến đời sống của Chúa Kitô. “Họ diễn lại cách nào đó lối sống Đức Kitô đã chọn sống, và cho thấy lối sống ấy có một giá trị tuyệt đối và cánh chung” ( Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến số 29, Đức Gioan Phaolô 2 ).
Một khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô, “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” ( Mt 12, 24 ), họ muốn như nhà thương gia kia, đi tìm ngọc quý, tìm được rồi bán tất cả để chỉ mua lấy một viên ngọc ( Mt 13, 45 – 46 ).
Viên ngọc Nước Trời mà họ chọn lựa, buộc họ phải trung kiên cả một đời, chiến đấu cả một đời, hy sinh cả một đời, từ bỏ cả một đời. Chọn lựa vác thập giá theo Đức Giêsu, họ sẽ là người sống “các nét đặc trưng của Đức Giêsu – khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục”. “Các nét đặc trưng” ấy “trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng” ( ĐSTH số 1 ). Vì trên thập giá, “tình yêu khiết trinh của Nguời đối với Chúa Cha và đối với mọi người được diễn tả mạnh mẽ nhất; sự nghèo khó của Người sẽ đi đến chỗ lột bỏ hoàn toàn; sự vâng phục của Người sẽ đi đến hiến dâng mạng sống” ( ĐSTH số 23 ).
3. Chọn lựa giữa lòng cuộc sống và chọn lựa cho TÌNH YÊU:
Là người, những người dấn thân trong đời sống Thánh Hiến lựa chọn hướng đi của mình ở giữa lòng cuộc sống như bao nhiêu lựa chọn của mọi người. Nhưng Tình Yêu mà họ dấn bước theo không là một mái gia đình riêng tư, không là hạnh phúc đến bởi sự thành công của những nỗ lực trong đời thường, không là những thú vui trụy lạc mà không ít người của thời nay ngụp lặn trong đó, và vẫn lầm tưởng đó là hạnh phúc, là tự do của họ...
Vì chọn lựa sống rập theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô, anh chị em bước vào đời Thánh Hiến cũng sẽ nên giống Chúa Kitô, để cùng với Người, họ hiện diện giữa lòng cuộc sống. Nói một cách cụ thể hơn: họ chọn cho mình một kiểu mẫu của Tình Yêu để sống trọn đời cho Tình Yêu ấy. Một thứ Tình cao cả mà Chúa Kitô đã chọn sống và yêu.
Bởi vậy, giống như Chúa Kitô, cũng ngay giữa lòng cuộc sống, họ thực thi sứ mạng mà Tình Yêu đòi hỏi họ. Và ngay giữa lòng cuộc sống ấy, họ đi tìm và bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa “đã bị bóp méo trên bộ mặt anh chị em mình, những bộ mặt hốc hác vì đói khổ, những bộ mặt chán chường vì những lời hứa chính trị, những bộ mặt uất hận của những ai bị người ta khinh dễ nền văn hóa của mình, những bộ mặt sợ hãi cảnh bạo lực mù quáng thường ngày, những bộ mặt của người trẻ, những bộ mặt tủi hổ của những phụ nữ bị xúc phạm và làm nhục, những bộ mặt mệt mỏi của đám di dân không được ai tiếp nhận, những bộ mặt u buồn của những người có tuổi không có những điều kiện để sống đàng hoàng...” ( ĐSTH số 75 ).
Họ dấn thân phục vụ giữa lòng cuộc sống. Và như thế, họ tìm thấy niềm vui giữa lòng cuộc sống. Chính vì sống theo kiểu mẫu của Tình Yêu mà Chúa Kitô đã sống, những anh chị em chọn lựa sống đời Thánh Hiến là chọn lựa cho một tình yêu: Tình Yêu mang tên Giêsu Kitô.
III. MỘT LỜI NGUYỆN:
Lạy Chúa, diễm phúc và hạnh phúc của mọi người, xin đổ tràn hạnh phúc xuống con cái nam nữ của Chúa, mà Chúa đã chọn lựa để tuyên xưng Tình yêu cao cả, lòng nhân hậu xót thương và vẻ đẹp của Chúa. Chúng con hiểu rằng, dù chúng con có chọn lựa, có hy vọng, có tin tưởng, thì điều trước tiên vẫn là hồng ân, là Tình yêu của Chúa đối với chúng con. Tình yêu là lời ngỏ, là động lực đưa chúng con tới lý tưởng của mình.
Chúng con kính dâng Đức Nữ Trinh Vương Maria và cầu xin Người là Mẹ của Chúa Kitô, Mẹ của Linh Mục Thượng phẩm đời đời gìn giữ chúng con trong hạnh phúc của đời Thánh Hiến, để chúng con biết trung thành theo Chúa bằng cả cuộc đời của chúng con. Chúng con biết rằng, Chúa Kitô yêu mến Mẹ nhiều, vì thế khi chúng con cố gắng hướng cuộc đời của chúng con giống như Mẹ, thì chắc chắn Người cũng sẽ yêu quý chúng con. Chúng con xin kính trao đời Thánh Hiến của chúng con cho Mẹ, nhờ Mẹ chăm sóc và chuyển cầu, để chúng con càng ngày càng xứng đáng với ơn gọi của Chúa.
Thiên Chúa là Tình yêu: Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa" (1 Gn 4,16) “Tình yêu”: ThánhTâm ABC-14
“ …Thiên Chúa là Tình yêu: Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa" (1 Gn 4,16)
“Tình yêu” là một đề tài muôn thuở, nó đã cùng hiện diện với con người trên mặt đất, vì con người không thể tồn tại nếu vắng bóng tình yêu. Hơn thế nữa, vượt không gian và thời gian, tình yêu là vĩnh cửu vì, theo như thánh Gioan đã khẳng định (x.1Gn4/8,16), Tình yêu là chính Thiên Chúa, là Đấng Vô cùng . Do đó chúng ta không thể nào nói cho hết, bàn cho cạn về tình yêu.
Tuy nhiên, với phần hai của câu trong thư thánh Gioan trích dẫn trên đây, ta thử tìm hiểu xem thế nào là “ở trong Tình yêu” và phải làm sao để được “ở trong Tình yêu” . Yếu tính của tình yêu là hòa hợp để đi đến đồng hoá, nhưng là một sự đồng hoá tích cực, không hủy diệt. Để hiểu điều này, tốt nhất là chúng ta cứ suy về chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi , xét về mặt nội tại: Thiên Chúa là duy nhất vì chỉ có một bản tính, chỉ có một tình yêu đó là yếu tính của Ngài , nhưng vẫn là Ba Ngôi riêng biệt, không thôn tính lẫn nhau cũng như không hủy diệt lẫn nhau. Chúng ta còn có thể nhìn vào chính mầu nhiệm Nhập Thể: vì yêu nhân loại, Chúa đã đến với nhân loại, ở giữa nhân loại, tức là đồng hoá với loài người chúng ta, nhưng là một sự đồng hoá tích cực, trong con người GIÊSU duy nhất đó cùng tồn tại hai bản tính, Thiên Chúa và nhân loại (mầu nhiệm “Ngôi hợp”. Đây quả là một sáng kiến tuyệt vời mà chỉ có Tình yêu tuyệt vời mới nghĩ ra và biến thành hiện thực.
Trên đây, ta chỉ mới nói về chiều đi xuống , tức là cách đối xử của Chúa đối với nhân loại để mạc khải Tình yêu vô cùng của Chúa. Còn chiều đi lên thì sao ? Thánh Gioan đã vạch cho chúng ta con đường đó:”Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa.”(1 Gn 4,16) , câu này là kết quả tất yếu của định nghĩa “Thiên Chúa là Tình yêu”. Vậy để chúng ta được đồng hoá với Chúa thì nhất thiết chúng ta phải sống trong tình yêu Chúa, tức phải yêu Chúa. Nhưng “yêu” ở đây không chỉ thuần túy là tình cảm, mà còn phải là một tâm tình có tính năng động, là một động cơ có tính tích cực giúp ta vượt khó, vượt khổ mà nắm giữ luật Chúa, mà thực thi thánh ý Chúa:” Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy” (Gn 14/15) . Như thế, ta có thể đánh giá trình độ đức ái của mình qua cách chúng ta nắm giữ luật Chúa, cách chúng ta thực thi ý Chúa. Còn riêng đối với giới Tu sĩ , thì đức Ái phải là động cơ giúp họ sống tích cực tinh thần của ba lời khấn mà đặc biệt hơn là lời khấn Vâng lời , điều kiện thuận lợi để “giữ các giới răn của Thầy”.
Có những suy nghĩ trên đây là vì chúng ta sắp bước vào tháng 06, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng của Tình yêu . Đành rằng, vì mầu nhiệm Ngôi hiệp, Trái Tim bằng thịt của Chúa Giêsu đáng chúng ta tôn thờ, nhưng chúng ta không chỉ tôn thờ Thánh Tâm một cách thụ động, tiêu cực, theo hình thức của một việc đạo đức dân gian, mà vượt qua các hình thức tôn sùng bên ngoài đó, chúng ta chúc tụng, tôn vinh chính Tình Yêu cao cả của Chúa qua việc Đức Kitô đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng đã chảy ra từ Trái Tim bị lưỡi đòng đâm thâu, để từ đó chúng ta thấy rõ hơn một đòi hỏi của tình yêu là luôn quảng đại, sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu mong đợi, đúng như chính Đức Kitô đã khẳng định: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh chính mạng sống vì bạn hữu mình.” (Gn 15/13) . Vâng, về lý thuyết thì chắc chắn ai trong chúng ta cũng biết rõ như thế, nhưng thực tế thì sao ? Chúng ta có dễ dàng từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một tập quán vì yêu Chúa chưa ?! Vậy, để việc tôn sùng Thánh Tâm được thực sự là một sự tôn vinh Tình Yêu nhập thể, chúng ta hãy cố gắng vì yêu Chúa mà sống đời Kitô hữu của mình, hãy để cho mọi hành vi của chúng ta đều hoàn toàn do đức ái hướng dẫn. Khi đó, chắc chắn chúng ta sẽ bớt phạm tội, vì trong tương quan giữa ta với Chúa thì tội lỗi và tình yêu không thể song hành được, vì không thể có cái nghịch lý là vừa yêu thương lại vừa phản bội người mình yêu. Thánh Aucutinh đã có lý khi xác quyết rằng:”Cứ yêu (Chúa) đi, rồi muốn làm gì thì làm !” Và chỉ khi đó chúng ta mới thực sự sống trong Tình yêu của Thầy chí thánh GIÊSU.
------------------------------
ThánhTâm ABC-15: LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU Lm Hoàng Kim Toan
Tôi không là người yêu thích đau khổ, bởi đơn giản tôi là người. Tôi cũng không là người ca ngợi: ThánhTâm ABC-15
Tôi không là người yêu thích đau khổ, bởi đơn giản tôi là người. Tôi cũng không là người ca ngợi sự khổ đau bởi tôi vẫn thích niềm vui. Tôi cũng không là người ái khổ bởi tôi cũng thích hạnh phúc. Thế nhưng tôi là người, tôi không thể tránh được khổ đau, tôi không thể là người chỉ gặp những sự may mắn. Bởi tôi là con người tại thế và có một người tại thế đã chết cho tôi, đã mang lấy những yếu đuối của tôi, đó chính là Đức Giêsu. Chính nơi Người tôi tìm thấy niềm an vui hạnh phúc, chính nơi Người tôi học được phương cách sống đầy cuộc sống. Tôi gọi danh của Người và nhờ gọi Danh của Người tôi tìm thấy một người bạn đích thực đang đồng hành với tôi trên khắp nẻo đường nhân lọai. Tôi hân hoan trong sự yếu đuối, trong thân xác hay chết của tôi bởi tôi đã gọi Danh Người trong cuộc sống của tôi. Tôi xin chia sẻ nơi đây cái nhìn của tôi về trái tim Chúa Giêsu đang mở ra trên Thập Giá.
Đã một lần Thiên Chúa yêu thương tôi bằng trái tim của nhân lọai và bằng trái tim của Thiên Chúa. Người yêu thương tôi bằng tất cả trái tim Chúa – người ấy. Đó là điều tôi cần xác tín trong cuộc đời của tôi. Tôi yêu thương Thập Giá bởi trên đó có trái tim của một con người đang thoi thóp, tôi yêu Thập Giá vì trên đó đang có một trái tim đi cho đến tận cùng của sự yêu thương. Biết mình được Thiên Chúa là cái biết lớn nhất cuộc đời tôi. Những ngày u ám của đời tôi, tôi biết rằng có Chúa Người đang cõng tôi trên vai, tôi nhận ra dấu chân của Người trên con đường Núi Sọ, một chiều vàng của tội lỗi, Người đã chết cho tôi. Tôi hân hoan xin vác Thập Giá cùng với Người để mong được như Ximong vác đỡ Thập Giá. Tôi yêu những đôi vai của những Ximong trần thế, đang gồng gánh thế giới trong những nghĩ suy, trong những nỗi vất vả, trong những lo âu, cho con người lớn lên trong phẩm giá. Tôi yêu những chiều vàng của những đôi chân vội vã, rời xưởng mau trở về trước cổng trường, để đón đứa con thân yêu của mình trở về nhà sau giờ tan học. Tôi yêu những lời rao, trong đó là cả một đời chắt chiu, cho con những ngày vui sướng và cứ như thế tôi yêu những con người đang nỗ lực bằng tất cả trái tim, bằng tất cả sự sống cho sự sống phát triển.
Tôi hạnh phúc, cái hạnh phúc mua bằng nỗ lực, đong bằng gian nan, có được nhờ kiên nhẫn của những bà mẹ, ông bố, cặm cụi trên những cánh đồng. Cái hạnh phúc của một chiều trở về trên vai chiếc cuốc đang ươm mầm cho cuộc sống. Tôi hạnh phúc, cái hạnh phúc của một con người, nhìn lên trời cao khẩn nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ ơn Cha, vì Cha đã mạc khải cho những người bé nhỏ”, những phận người không bao giờ là bé nhỏ vì “Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại, Danh Người là Thánh”, Tôi hạnh phúc, cái hạnh phúc của tuổi thơ trong vòng tay Chúa, để hát lên vui sướng: “ Hồng ân Chúa như mưa như mưa, rơi xuống đời con miên man miên man, nâng đỡ tình con trong tay trong tay, vòng tay thương mến. Đời có Chúa êm trôi êm trôi, Chúa dắt dìu con không thôi không thôi, có Chúa cùng đi con không đơn côi, ôi tình tuyệt vời.” Có hạnh phúc trần gian nào đầy ắp như vậy được chăng, nếu đã chẳng được tình yêu của Thiên Chúa chạm khẽ vào cuộc đời. Tôi hạnh phúc, trong cái hạnh phúc của một thân phận được Thiên Chúa chia sẻ kiếp sống. Tim tôi như vỡ ra từng mảnh, từng mảnh bởi biết rằng, trong tái tim của nhân lọai có trái tim của Thiên Chúa, Người đã yêu tôi bằng trái tim của nhân lọai, không chỉ những thế Người đã cho tôi hơi thở của Thiên Chúa, sự hô hấp của trái tim Người. “Vì đâu tôi được Thiên Chúa tôi viếng thăm tôi”.
Như hạnh phúc của bình minh mới, Giêsu, tôi cần đuợc gọi danh của Người một lần nữa và khát khao được nhiều lần hơn nữa. Bởi trong Giêsu, tôi đã và đang hạnh phúc ngập tràn con tim của lời nói yêu thương cuộc đời. Tôi đã gặp Giêsu đang vui mừng qua những con đường trở về của đứa con hoang đàng, của người thu thuế, của Madalena. Tôi đã gặp Giêsu đang vui mừng qua điệu nhảy của anh què vừa được chữa lành, thấy được ánh mắt niềm vưi của anh mù vừa được thấy. Những con đường vui của Giêsu đang rộn rã trên sân trường của những bảng kết quả sau kỳ thi. Đó là thành quả của cuộc đời dầm mưa dãi nắng của cha, đó là thành quả của những lời rao, những đôi gánh hàng rong dọc qua phố chợ của những bà mẹ, đó cũng là thành quả của tháng ngày vùi đầu vào học tập của những đứa con. Tôi vui mừng vì đang thấy những cánh đồng quanh tôi đang vào vụ mùa thu họach. Và trong niềm vui của Giêsu hôm nay, tôi vẫn thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt Người. Người là niềm vui của tuổi trẻ đong đầy khát khao của sự sống, Người là niềm vui của ngày thu họach trên trái đất của những con người đang thấy mồ hôi, nước mắt nở hoa, kết trái. Không thể diễn tả hết niềm vui đang chảy tuôn của trái tim nhân lọai, bởi biết rằng đã một lần Thiên Chúa vui mừng bằng trái tim nhân thế là muôn đời trần thế vui mừng trong trái tim của Thiên Chúa. Nếu tôi không cao rao vĩ nghiệp của Người tim tôi sẽ bể ra vì đầy ứ, tôi sẽ ngắc ngứ bởi niềm vui cứ tuôn trào.
Hạnh phúc cho tôi và cho cả thiên hạ bởi biết rằng Thiên Chúa là Đấng yêu thương mãnh liệt, một tình yêu không giới hạn, không chấp nhất sự dữ, không lên án, không hận thù, không ghen tuông, không tự đắc… Thiên Chúa đã yêu thương bằng trái tim nhân lọai một tình yêu như thế là mở ra cho tôi một con tim trong khả năng của nhân lọai, biết yêu thương cho đến cùng và một trái tim đón nhận tất cả, tha thứ tất cả, yêu thương tất cả, một tình yêu không tính tóan, một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Bởi Giêsu Người đã yêu là đã một lần Người khai mở cho nhân lọai một cách thức, một con đường yêu thuơng, người đã dạy cho tôi biết sống bằng tất cả sự mãnh liệt của trái tim, sự mềm mỏng cần thiết và ngay cả sự yêu mến. Tôi sẽ là người và đã là người khi học với Con Thiên Chúa Đấng làm người ở giữa nhân lọai và mang danh Giêsu. Là người có nghĩa là yêu mến thân xác này, sự sống này, trần thế này bằng tất cả trái tim như Giêsu Người đã sống.
Tôi yêu sự sống bởi Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi, nhưng còn đáng quý hơn nữa là Người đã cho Người Con duy nhất của Người chết thay cho tội lỗi của tôi. Tôi không thể không sung sướng reo lên như lời Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, tình thương Ngài cao ngất trời xanh, lòng thành tín vượt ngàn mây biếc. Công lý Ngài như đỉnh núi Thái Sơn, quyết định Ngài như vực sâu thăm thẳm”. Bao la tình Chúa yêu thương, Người đã thương tôi từ trái tim nhân thế, bảo bọc tôi bằng trái tim Thiên Chúa. Người là tình trời ngàn năm viên miễn, là vầng hồng soi chiếu đời tôi tăm tối. Tôi không thể không reo vui, không thể không mừng vui bởi Người đã khắc tên tôi vào trái tim Người.
Thiên Chúa yêu thương tôi bằng tất cả sự đón nhận, bằng tất cả tình yêu bởi Người đã thương tôi, đã gọi tên tôi ngay cả khi tôi chứa biết Người. Tôi tin Người là Thiên Chúa tôi, là Đấng cứu độ tôi, là Đấng Tình yêu của tôi. Thiên Chúa là Đấng Hằng sống, Người đang sống, đang chia sẻ cuộc đời với tôi bằng trái tim của Người. Có một lần tôi qúa đau khổ bởi những lời tôi bị chê bai, tôi đi tìm kiếm ý nghĩa giá trị đích thực của những lời chê bai ấy, và tôi tự hỏi, đâu là hiến lễ của cuộc đời tôi ? đã chẳng phải chính Đấng yêu thương tôi cũng đã từng trải qua những giờ phút bị khinh miệt này. Chính trong Người mà tôi tìm thấy giá trị của lời chê bai ấy. Tôi cần có hiến lễ để dâng trên bàn thờ mỗi ngày, để tế lễ khi thi hành tác vụ của mình. Tôi nhận ra trái tim yêu thương đang mở ngỏ của Người trên Thập Giá, Người đang tác thánh tôi trong sự thật, khi tôi đang bắt chước Người “Con tự hiến thánh chính mình Con”.
Trong một lần gặp gỡ chia sẻ với anh chị em trong nhóm truyền giáo hay trong nhóm các bà mẹ công giáo, tôi được vài người chia sẻ: “Con biết con đang làm những điều tốt, nhưng con vẫn nhận lấy những lời chỉ trích hay những lời chua cay, con nhận ra, để làm một việc tốt không phải là dễ, trong đó cần phá dỡ chính cái tôi của mình, lời chỉ trích, lời chua cay, là sự tháo bỏ cái tôi của mình, để mở rộng trái tim hơn, để yêu thương hơn, để gặp gỡ anh em hơn”. Là những giáo dân, họ đang cho tôi những kinh nghiệm về lòng yêu thương của Thiên Chúa, lòng yêu thương không giới hạn của Đức Giêsu trên Thập Giá. Tôi gọi danh của Người bởi Người đang đổ đầy cuộc sống quanh tôi những giá trị của dòng máu cứu độ, đổ ra từ trái tim của Người trên Thập Giá.
Tôi còn gặp thấy trên những khuôn mặt hốc hác của những người cha, trên những khuôn mặt hao mòn của những người mẹ, đang lo cho những đứa con được có những cơ hội học hành thăng tiến. Mỗi lần đi ra đường, có những hình ảnh gặp phải làm tôi suy nghĩ. Hôm nọ, tôi gặp trên con đường ngược chiều, một người công nhân xây dựng, đi chiếc xe đạp cũ kỹ, có lẽ anh là một thợ hồ, vừa đạp chiếc xe mau trở về nhà, một tay cầm tay lái, một tay kia đang cầm trái bắp vừa đi vừa ăn vội. Nếu tôi không biết đồng lương mỗi ngày của anh là 30.000 VND, nếu tôi không biết những bữa trưa của anh chỉ dám ăn những bữa cực rẻ bên những gánh hàng rong từ 2.000 VND đến 3.000VND. Nếu tôi không biết anh đang có một đứa con học đại học, tiền học một tháng trên dưới 300.000 VND, và một đứa bé học trung học cũng trên dưới 200.000 VND. Nếu tôi không biết những điều anh đang bận tâm cho một gia đình bé nhỏ của anh, tôi sẽ không bất ngờ trước cái hình ảnh tôi bắt gặp trên đường phố.
Tôi không thể không hạnh phúc, bởi bao ngày tôi vẫn thường thấy, trên khuôn mặt của những cha mẹ trần thế, đang thêm nhiều nét nhăn để gom góp cho con cái niềm vui. Niềm vui của tình mẹ cha bảo bọc, niềm vui của những đứa con được yêu thương và nuôi dưỡng bằng vất vả lo âu của cha của mẹ. Nếu tôi buồn là tôi đã bội phản lại tình yêu đó, nếu tôi không hăng hái là tôi đang làm hao mòn gia tài mà cha mẹ để lại. Tôi vui mừng hân hoan là lời tạ ơn của cuộc sống, là làm vinh danh Đấng tác tạo nên tôi và đã chết vì tôi.
Được biết mình được yêu thương đó là cái biết quan trọng nhất đối với tôi để từ đó tôi biết yêu thương nhiều người, những người chung quanh tôi và cuộc sống tôi đang sống. Cuộc sống trở nên diễm phúc được tình Chúa yêu thương, đó là những gì tôi muốn chia sẻ.
------------------------------
ThánhTâm ABC-16: HỌ SẼ NHÌN LÊN ĐẤNG HỌ ĐÃ ĐÂM THÂU
Lễ Thánh Tâm Chúa LM Giuse Hoàng Kim Toan.
Tôi sẽ viết bài ca tình yêu trên Thập Giá, tôi đang ngất ngây bởi mối tình Thập Tự. Giêsu, con muốn: ThánhTâm ABC-16
Tôi sẽ viết bài ca tình yêu trên Thập Giá, tôi đang ngất ngây bởi mối tình Thập Tự. Giêsu, con muốn gọi lên cho thật lớn về tình Người đã thương nhân thế. Giêsu Người đã chết để nhân lọai được sống và sống dồi dào.
Trong một lần dừng chân bên quán nước, tôi chia sẻ với những người bạn tôi về tình yêu, tôi cũng muốn chia sẻ góc nhìn của tôi với mọi người chung quanh tôi.
Câu chuyện tình yêu của tôi không thi vị như như những giọt nắng bên thềm cũng chẳng mang nét kiêu sa như giọt mưa trên lá mà mang sắc thái của một người gồng gánh trách nhiệm nuôi con, mang những nét mồ hôi đẫm áo, đọng trong mình những nghĩ suy, lo lắng của ngày tháng.
Như những buổi chiều thường khi tôi đi dâng lễ, chiều đó một buổi chiều lấm tấm mưa rơi. Những cơn mưa Sàigòn như chợt nắng và chợt mưa, tôi gặp một hình ảnh như thường xuyên mọi ngày vẫn thấy, nhưng hôm nay khác hơn mọi ngày, trong tôi bồi hồi những xuyến xao, làm lay động từ chốn sâu thẳm của tâm hồn tôi những tâm tình mới lạ.
Hình ảnh ấy của một người thợ hồ, trên chiếc xe đạp của anh còn dắt theo chiếc xẻng và cây xà beng, nếu hình ảnh chỉ có thế, tôi vẫn bàng quang với cuộc sống. Thật lạ, tôi vẫn không hiểu, điều gì đã lay động tâm hồn tôi. Phải rồi, có bao điều chung quanh tôi vẫn tuôn chảy mà tôi đâu hề ý thức dòng đời đang chảy tuôn, hôm nay hình ảnh của người công nhân ấy làm tôi lay động, chợt dừng lại và suy nghĩ. Một tay anh lái xe, một tay kia anh đang cầm trái bắp ăn vội, tôi bỗng ngỡ ngàng nhận ra cái chắt chiu của đời sống là thế.
Có hạnh phúc nào mà không cần phải chắt chiu, có Thập Giá của năm xưa mà đã chẳng có những đêm nguyện cầu, từng bàn tay nâng khẽ chữa lành, từng lời nói vỗ về yêu thương của Giêsu. Người đã chắt chiu để gom về cho tôi niềm hạnh phúc, cái hạnh phúc dẫu có đơn sơ của những đứa trẻ được tung tăng đến lớp mà người cha của chúng góp nhặt từ những trái bắp ăn vội, từ những nhặt nhặn, dè sẻn đồng lương ít ỏi cho những đứa con niềm vui như bạn bè cùng trang lứa.
Tôi đã gặp được niềm mừng vui bởi Giêsu Người đã chết để cho tôi được sống và sống dồi dào, như sự bất ngờ hình ảnh tôi gặp giữa phố hình ảnh hy sinh của người cha để góp về cho những đứa con niềm vui. Giọt nước mắt nào mà không mặn như người ta thường nói, chính vì những giọt nước mắt mặn ấy mà tôi đang gặt hái được hạnh phúc. Như hình ảnh của Thánh Vịnh 125 “ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” . Mùa gặt của người cha ấy chính là trên thành quả của những người con. Cần thiết để thấy cái hạnh phúc của những người làm con, cái hạnh phúc của những đứa con mà chính cha đã hy sinh để kiến tạo. Có thấy niềm hạnh phúc người con mới thấy bổn phận của chính mình là cần nên người và nên thánh. Thật bất hạnh, những người con không thấy được giá trị của việc người cha từng chắt chiu trong cuộc sống để những người con tìm được niềm vui. Thật bất hạnh cho tôi khi tôi sống cuộc đời Kitô hữu cách buồn thảm và kéo lê cuộc sống. Người đã chắt chiu cuộc sống vì tôi, cái chắt chiu ấy vắt kiệt từ trái tim Người đổ ra trên Thập Giá, Người đã bộc lộ con tim yêu thương của Người một cách mạnh mẽ bằng cách phơi bày trái tim ra khỏi lồng ngực. Người đã yêu bằng tất cả tình yêu bằng tất cả trái tim muốn đổ đầy vào cuộc sống Tình yêu của Người và Người đã chết trên Thập Tự vì tôi, làm sao tôi có thể sống thiếu niềm vui, khi chính trái tim Người vắt kiệt nước và máu vì tôi.
Tôi cảm thấy niềm hạnh phúc, Người đã chết thay cho tôi, Người đã sống cách đầy tràn cuộc sống để tôi cũng được sống đầy tràn. Tôi biết được hình ảnh của người cha trần thế chắt chiu từng đồng lương để mong cho những người con hạnh phúc và tôi cũng gặp thấy trái tim của Giêsu rộng mở trên Thập Giá, bày tỏ cho tôi tình yêu của Thập Tự có thật trong dòng cuộc sống đang tuôn chảy. Từ cạnh sườn của Giêsu, như vẫn không ngừng tuôn chảy dòng của sự sống, trào tuôn từ những hình ảnh rất thường ngày mà tôi có thể bắt gặp mỗi lần ra phố, trên những khuôn mặt của người cha, trong những nét nhăn của những bà mẹ. Cuộc sống quanh tôi vẫn đầy tràn, nỗi niềm của niềm say sưa diễm phúc bởi được biết mình được yêu thương.
Đang khi tôi thao thao bất tận như thế về một tình yêu mà tôi nghiệm thấy, bất chợt một người ngồi kế bên tôi, đặt một vấn nạn khác bạn đang suy nghĩ. “Xin ngừng lại một chút và tôi xin hỏi: tại sao anh không suy nghĩ đến những người con đang phá sản sự góp nhặt, chắt chiu của người cha mà anh bắt gặp? Tại sao anh luôn đặt ra những lý tưởng mà tưởng chừng như chỉ trên mây trên gió, nếu những người con đang phung phá tài sản của cha nó?”
Có một hình ảnh rất gần với hình ảnh mà người bạn đặt ra cho tôi. Đó là hình ảnh của người cha nhân từ trong Phúc Am. Có người cha nào hiểu sát gần hơn cái tình cảm của người cha nhân hậu trong Phúc Am, những người cha hôm nay đang gặp phải những đứa con phung phá tài sản mà cả đời ông gom góp cho con sống hạnh phúc. Có khi là chấp nhận chia gia tài cho chúng, có khi là chấp nhận bị tước đọat như chấp nhận để trái tim bị đâm thâu, có khi là gặp gỡ sự tha thứ vô hạn của Thiên Chúa qua lời khẩn cầu của Chúa Giêsu trên Thập Giá: “Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Cách thức gặp gỡ nào đi chăng nữa phải chăng chính những người cha ấy, dễ dàng cảm nghiệm hơn ai hêt về Tình Chúa yêu thương? Tôi cảm phục những người cha như thế vẫn có trong cuộc sống, để cuộc sống này vẫn cứ mãi trở nên cánh đồng xanh tốt giũa những sa mạc hoang vu, để ánh sáng vẫn còn cháy sáng xua đi những miền tăm tối.
Có nhiều đau khổ trên cuộc đời này mà tôi không thể gọi tên, cái đau khổ của những con người đã dành cả cuộc đời của mình lo cho những đứa con, để rồi trong lúc già nua bệnh tật, những đứa con dùa chia cho nhau mỗi đứa có trách nhiệm nuôi cha nuôi mẹ ít tháng. Phải chăng những đau khổ này không có giá trị của sự hiến tế, phải chăng những đau khổ này không phải là chỉ cần đưa tay là có thể đụng ngay vào trái tim yêu thương của Thiên Chúa. Và phải chăng đó cũng chính là lời mời gọi để hiến thánh những người con, bằng việc được tháp nhập vào hiến tế của Đức Giêsu: “Con tự hiến thánh con, để họ cũng được hiến thánh trong chân lý.”
Tôi vẫn biết, cái bài học khó nhất trong cuộc sống là những đau khổ đang gánh chịu. Đau khổ mọi cách, đau khổ mọi chiều trong cuộc sống. Nếu tôi không đụng được tình yêu của Thiên Chúa có lẽ tôi sẽ là người thất bại, thất bại trong tuyệt vọng.
Giống như một người đang mơ, thấy mình đang đi trên bãi cát vào những buổi chiều vui trong cuộc đời. Những buổi chiều rất nhiều dấu chân để lại trên bãi cát bờ vui. Lòng như hân hoan mở ra cùng biển sóng, bước chân đang chạy nhảy tung tăng ghi lại rất nhiều dấu trên bãi cát. Rồi cũng trong giấc mơ ấy, xuất hiện một chiều mây trời phủ đen kín lối, những dấu chân không còn nữa, chỉ còn thấy dấu chân độc hành trên bãi cát, người ấy thấy mình lạc lõng cô đơn trên bãi cát, những dấu chân dường như cũng lún sâu hơn, cái cô đơn của thân phận đè nặng, cái lạc lõng của chiều giông bão, người ấy muốn khóc lên vì đau khổ. Đau khổ của thân phận bị bỏ rơi, đau khổ vì thân phận của xót xa cho những tình đời thay trắng đổi đen. Người ấy khóc than cho số phận, đang khóc than như thế tình cờ nghe vọng lại ở bên tai: Phải chăng con đã thấy chỉ một đôi dấu chân, sao con không nghĩ rằng chính Ta đang cõng con trên vai đi qua những đọan đời đen tối nhất, phải chăng con đã không nghĩ rằng con không bao giờ gặp được Ta trong cuộc sống”
Thiên Chúa đang cõng tôi trong những lúc bất hạnh của cuộc đời tôi, bởi Thiên Chúa đã làm người, một người có danh xưng là Giêsu, Người đã từng nghiệm thấy nỗi cô đơn khủng khiếp đến nỗi Người đã từng kêu lên: “ Cha ơi, sao Cha bỏ con”. Lời kêu lên ấy từ sự ngỏ lời của một thân phận bị bỏ rơi, các môn đệ thì đứng xa xa trông lại, những người đã từng được chữa lành, đứng nhìn sự thoi thóp của con người trên Thập Giá. Thân phận cô đơn của tôi Người đã đón nhận nó trên Thập Giá, Người đã cõng tội lỗi của tôi trên Thập Giá Của Người, Người đã mở cho tôi một lối thóat từ trái tim bị đâm thâu của Người, Người đã gánh lấy cuộc đời của tôi trong Lời kêu xin của Người: “Cha ơi, sao Cha bỏ con?”.
Trong những đau khổ của trần thế, tôi biết Người đã mang lấy tất cả trong con người nhân thế để con người trong những đau khổ cuộc đời của mình thấy được một giá trị hiến tế nơi Thập Giá. Những đau khổ cách này hay cách khác, là những cơ hội rất tốt để có thể chạm vào ngay được trái tim rộng mở của Đức Giêsu trên Thập Giá. Tôi biết điều này rất khó đón nhận, rất khó nuốt trôi trong cuộc sống, nhưng làm sao tránh khỏi, làm sao có thể sống cuộc sống mà thiếu nghĩa khổ đau. Bởi tôi là người, một người yếu đuối, một con người rất giới hạn mà thôi. Dầu gì đi nữa tôi cũng chỉ nguyện xin được một điều, một điều quan trọng nhất đối với tôi là được chạm vào lòng thương xót của Chúa đã mở ra trên Thập Giá vì tôi.
Tôi không thể nói một cách rõ ràng hơn được nữa trong lúc này, bởi chính tôi cũng đang run sợ trước màu nhiệm đau khổ cuộc đời. Tôi chỉ ước ao và tự nhủ: Xin cho tôi được gặp ánh mắt nhân từ của Chúa như Phêrô gặp được cái nhìn sau những lần chối Chúa. Chỉ cần một ánh mắt nhìn đã đổi cuộc đời Phêrô, tôi cũng xin được một lần gặp ánh mắt ấy của Người trong cuộc sống của tôi.
Tôi không lên án Giuđa Iscariot, tôi chỉ tiếc cho anh đã không thấy được ánh mắt tha thứ thương xót của Chúa và như thế cuộc đời là tuyệt vọng, là bế tắc, là đóng cánh cửa lòng nhân ái của Thiên Chúa với cuộc đời của mình. Và như thế, nghĩa là cuộc đời này sẽ phá sản hòan tòan, khi tôi không đụng chạm được vào tình thương của Người.
Tôi cũng sẽ tuyệt vọng, nếu như tôi chỉ thấy dấu chân cô độc của tôi, trên bãi cát cuộc đời của những ngày đen tối bế tắc. Tôi cũng sẽ là những con người tuyệt vọng nếu trong những lo âu, trong những vất vả, trong những lần bị chối từ, trong những thất bại của cuộc đời mà không được đụng đến trái tim của Người đã mở ra vì tôi trên Thập Giá.
Hình ảnh sống động trong tôi là hình ảnh trái tim yêu thương của Thiên Chúa không còn cất giữ trong lồng ngực mà phô bày ra bên ngòai của thân thể, để tôi có thể thấy, để tôi có thể chạm được vào lòng Chúa yêu thương trong cuộc đời của tôi và như thế tôi sẽ không bao giờ tuyệt vọng để phá sản cuộc đời của mình . Xin cho tôi được thấy và được chạm vào trái tim yêu thương của Người.
Để kết thúc tôi xin được mượn câu thơ của tác giả nào đó, đã được khắc trên tác phẩm điêu khắc bằng đá tại một công viên ở Huế: “Hãy yêu như đang sống, hãy sống như đang yêu, yêu để cuộc sống tồn tại, sống để tình yêu có mặt.”
LM Giuse Hoàng Kim Toan. MMMM
Lạy Chúa! Trước hết, chúng con xin cảm tạ Chúa, vì họ đạo chúng con có cha sở: ThánhTâm ABC-17
Lạy Chúa! Trước hết, chúng con xin cảm tạ Chúa, vì họ đạo chúng con có cha sở và cha phó. Xin cho các ngài thêm can đảm và hy sinh vì phần rỗi các linh hồn. Nhờ đó, chúng con sẽ được nuôi dưỡng bằng Bánh ban sự sống, gia đình chúng con sẽ được củng cố mỗi ngày thêm vững chắc hơn, linh hồn chúng con luôn có dịp để tẩy rửa, và sau cùng, chúng con có thể được chết bình an trong tay Chúa.
Lạy Chúa, chúng xin con cám ơn Chúa vì những tật xấu của các linh mục chúng con. Bởi những người hoàn toàn thì khó nà chịu đựng nổi sự yếu đuối. Những người lúc nào cũng khoẻ thì thường hay không biết thông cảm với những người đau yếu bệnh tật. Lạy Chúa! Chúa nhìn thấy rõ điếu đó hơn chúng con.
Các linh mục quả thật là những con người kỳ lạ: Các ngài vừa phải là các nhà sư phạm đối với các trẻ em, vừa phải là những nhà chuyên môn về các vần đề liên quan đề gia đình, cố vấn cho những đôi vợ chồng trẻ, vừa là chuyên viên tâm lý đối với các thanh thiếu niên, vừa là những kiệt tác về sự hiểu biết và tính tế nhị trong toà giải tội.
Trong các buổi họp mặt với nam giới, các ngài phải bàn về Hội Thánh như các giáo sư. Trong các buổi họp mặt với nữ giới, các ngài phải là những nhà chú giải Kinh Thánh. Khi đi thăm các gia đình có học, các ngài phải biết về cuốn tiểu thuyết mới ra để có thể trao đổi, nếu không muốn bị coi là người kém văn hoá. Đối với người ưa chủ nghĩa xã hội, các ngài phải hết sức tỉ mỉ tế nhị trong cách sống và cách cư xử. Đối với những người không phải là công giáo, các ngài phải là những nhà thần học, vừa cương quyết vừa cởi mở, vừa là những nhà sử học chín chắn. Và đối với biết bao hạng người khác nửa... nếu kể ra e sẽ không hết.
Con lại quên rằng: Các ngài phải chào lại bao người mà các ngài gặp gỡ trong ngày. Có những lúc, bên ngoài, các ngài phải tỏ ra niềm nở, dù trong lòng có ngậm đắng nuốt cay. Con cũng quên rằng, mỗi Chúa nhật, các ngài phải là những nhà hùng biện, là ca xướng viên, và đôi khi là nhạc công nữa. Rồi trong tuần, có khi các ngài còn là thợ điện, thợ mộc, thợ sơn và người nấu bếp vv...
Lạy Chúa! Xin cho các nhà chuyên môn bách khoa này được chúng con xét đoán một cách khoan hồng, một sự khoan dung thích đáng. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: Nếu đối với những việc làm đa dạng đó, mà các linh mục của chúng con chỉ thành công được một nữa, hay một phần tư thôi, thì chúng con đã lấy làm mãn nguyện lắm rồi.
Lạy Chúa! Xin dạy chúng con biết tha thứ cho những sự nóng nảy và nhầm lẫn của các linh mục chúng con. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: Nếu con phải chịu đựng một linh mục, thì một linh mục phải gánh trên vai tất cả đoàn chiên trong giáo xứ. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỏ cho cha sở và cha phó chúng con thấy rằng: Chung quanh ngài, không phải chỉ có tâm hồn thờ ơ lãnh đạm, mà còn có rất nhiều người thành tâm thiện chí. Xin nhắc nhở chúng con luôn biết cầu nguyện cho các ngài: Luôn hăng say phục vụ Nước Chúa không hề biết mệt mỏi. Xin cho họ đạo chúng con có thêm nhiều ơn gọi mới. Amen.
(Trích dịch Nội san của Giáo xứ Thánh Antôn, Paris, tháng 5/1992)
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã giảng dạy cho mọi người và nhất là Ngài đã niềm: ThánhTâm ABC-18
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã giảng dạy cho mọi người và nhất là Ngài đã niềm nở tiếp đón những kẻ thu thuế và tội lỗi, ghé thăm và dùng bữa tại nhà họ. Đó là điều khiến cho bọn biệt phái và luật sĩ, vốn tự hào là những người đạo đức và trung thành tuân giữ lề luật, không thể nào chịu đựng nổi. Họ đã thì thầm bàn tán cùng nhau:
Nếu ông ta là một vị tiên tri, hẳn phải biết những kẻ ấy là hạng người nào. Hay ông ta chỉ là một kẻ mị dân, một tên quyến rũ, một phường vô lại mà thôi.
Để dạy cho những kẻ đạo đức giả, như bọn biệt phái và luật sĩ, một bài học về lòng Chúa xót thương, Ngài đã kể cho họ nghe mẩu chuyện về người mục tử nhân lành, lang thang đi tìm con chiên lạc. Và khi đã thấy được, người ấy đã vác nó trên vài mà mang về nhà, rồi loan báo tin vui cho bè bạn.
Hay mẩu chuyện người đàn bà đốt đèn tìm kiến đồng bạc đánh rơi. Và khi tìm thấy, người ấy đã mời chị em lối xóm đến để chia vui với mình.
Và nhất là với hình ảnh người cha già mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng trở về, để rồi sẽ tha thứ tức khắc và tha thứ tất cả cho cậu.
Từ những mẩu chuyện trên, Chúa Giêsu đã đi tới một kết luận. Và chính kết luận này đã làm cho chúng ta cảm thấy được an ủi, khích lệ và thấm thía:
Ta nói thật với các ngươi: các thiên thần ở trên trời sẽ vui mừng hân hoan vì một kẻ tội lỗi sám hối hơn là chín mươi chín người công chính không cần ăn năn.
Những hình ảnh và những so sánh này đã in đậm dấu ấn trong tâm hồn, giúp chúng ta hiểu được niềm vui khi một kẻ tội lỗi chổi dậy, từ bỏ con đường tăm tối mà trỡ về cùng Chúa, đồng thời thắp lên trong chúng ta ngọn lửa hy vọng, giúp chúng ta hiều được lòng Chúa xót thương đối với những kẻ lầm đường lạc lối.
Đức Kitô không phải chỉ giảng dạy, mà hơn thế nữa Ngài còn thực hiện những gì mình đã giảng và đã dạy. Nơi Ngài, ngôn hành hợp nhất, lời nói luôn đi đôi với việc làm.
Thực vậy, Ngài đã cải tạo trái tim của Madalêna, người thiếu phụ tội lỗi. Ngài đã tha thứ và để cho người đàn bà ngoại tình được ra về bình an. Ngài đã làm cho người thiếu phụ Samaria xúc động trước tấm lòng khoan dung. Ngài đã đổi đời cho ông Giakêu, một nhân viên thu thuế, vốn bị người Do Thái đồng hóa với phường tội lỗi. Ngài đã hứa thiên đàng cho tên trộm lành trên thập giá: ngày hôm nay, ngươi sẽ ở nơi vui vẻ cùng Ta. Ngài đã đặt Phêrô làm đầu Giáo hội, dù ông đã chối Ngài ba lần. Nỗi khổ đau của con người thì cùng cực, những tình thương của Chúa lại vô biên.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã đi theo dấu chân của Chúa, không ngừng tím kiếm những con chiên lạc, cũng như tha thứ cho những kẻ tội lỗi. Chẳng hạn cha thánh Vianney đã chấp nhận mọi mệt mỏi, ngồi vào tòa giải tội nhiều giờ mỗi ngày để xoa dịu những tâm hồn tan nát vì tội lỗi. Thánh nhân thường nói:
Thật là vui mừng nếu như có được những con cá lớn trong mẻ lưới của tôi.
Những con cá lớn mà Ngài ám chí, đó chính là những kẻ tội lỗi..
Chẳng hạn cha Chevrier đã nói:
Linh mục là người bị ăn.
Và rồi cha đã vui vẻ tiếp nhận những thanh thiếu niên lầm lỡ, đã bị xã hội ruồng bỏ, dẫn họ bước vào một cuộc sống tốt lành và đạo đức.
Gần chúng ta hơn, có những dòng tu, như Dòng Chúa chiên lành ở Vĩnh Long, đã mở rộng cánh cửa tiếp đón và nâng đỡ những chị em đĩ điếm, giúp họ làm lại cuộc đời. Hay như dòng Don Bosco, chuyên môn giáo dục thanh thiếu niên, nhất là những trẻ em bụi đời, để họ tìm thấy hướng đi cho cuộc sống của mình.
Phải chăng đó là những phản ảnh, những tiếng vọng cho tình Chúa xót thương ? Tuy nhiên, chúng ta cần phải tránh đi hai thái độ.
Thái độ thứ nhất đó là cậy trông mù quáng. Những người này chủ trương cứ việc hưởng thụ, cứ việc vui chơi và chỉ cần ăn năn vào một vài giây phút cuối cùng và rồi Chúa sẽ mở rộng cửa thiên đàng đón nhận. Lý luận như thế là một sự xúc phạm, một sự chế nhạo và coi thường lòng thương xót của Chúa. Đây không phải là con đường dẫn tới thiên đàng, mà là con đường dẫn tới hỏa ngục, bởi vì Chúa là Đấng tốt lành và nhân hậu, nhưng đồng thời còn là Đấng công bằng và ngay thẳng vô cùng.
Thái độ thứ hai đó là mất lòng cậy trông. Dù có sai lỗi và vấp phạm, thì cũng đừng bao giờ tuyệt vọng như Giuđa, bởi vì Chúa nhân từ luôn mở rộng vòng tay chờ đón. Ngài đã lên đường tìm kiếm chúng ta, những con chiên lạc. Ngài đứng ngoài cửa và gõ. Còn mở hay không, thì đó là việc của mỗi người chúng ta.
Hãy trỗi dậy và trở về để được hưởng nhờ lòng thương xót và ơn tha thứ của Chúa.
Mừng lễ Thánh Tâm hôm nay, Giáo Hội muốn con cái mình chiêm ngắm, suy niệm về tình yêu: ThánhTâm ABC-19
Mừng lễ Thánh Tâm hôm nay, Giáo Hội muốn con cái mình chiêm ngắm, suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và để theo chân Đức Kitô, ta cũng dám sống, và nếu cần, dám chết vì tình yêu đó.
Lòng Chúa yêu thương loài người
Hình ảnh mà Êzêchiel và nhiều ngôn sứ khác đã phác họa là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm chiên không quản ngại đường xa vạn dặm, khó khăn khôn lường. Chính Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định lại chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta, và đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong sự tội và bất tín. Thái độ lên đường tìm kiếm con chiên lạc của dụ ngôn hôm nay là một minh họa sống động cho chân lý ấy. Quả thật, Thiên Chúa yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt, hay vì một công trạng nào. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải tốt Ngài mới yêu thương, mà Ngài yêu thương ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Ngài yêu thương chúng ta chỉ vì Ngài là tình yêu, chỉ vì Ngài tốt lành. Quả thật, tình yêu của Ngài là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm hạnh phúc của người được yêu. Chỉ một mình Thiên Chúa có được thứ tình yêu cao cả như vậy. Tác giả sách “Đường hy vọng” đã có lý khi viết: “Tình yêu nhân loại giới hạn một nhóm người – Tình yêu nhân loại đáp trả sau – Tình yêu Thiên Chúa tình nguyện bước trước ; Tình yêu nhân loại kéo riêng về mình – Tình yêu Thiên Chúa hợp nhất muôn người ; Tình yêu nhân loại chỉ động đến con người – Tình yêu Thiên Chúa làm biến đổi và cải hóa con người”.
Trải qua 2000 năm của biến cố Nhập Thể, Chúa Giêsu đã cho con người thấy được mức độ của cuộc so sánh tình yêu thương đó chính là không cột mốc biên cương, không kỳ thị chủng tộc màu da, ngôn ngữ hay giai cấp. Tình yêu ấy là tình yêu của Thiên Chúa tự nguyện tặng ban cho nhân loại chính Con Một của mình, tình yêu của con Thiên Chúa hiến thân, Tình yêu là cho loài người trở thành con Thiên Chúa và làm anh em của Đấng cứu Thế. Tình yêu đó chính là nguồn gốc của sự sống và mục đích duy nhất mà con người phải nhắm đạt tới.
Quả thật, thái độ của Người là thái độ của một mục tử tốt. Người làm y như một mục tử chứ không ví mình như mục tử. Người muốn trong dân người chỉ có yêu thương: yêu thương của Người dành cho dân và cho từng người ; và yêu thương của mọi người dành cho nhau. Đó là ý nguyện của Chúa, là chương trình cứu độ của Người. Chúa đã thực hiện lòng yêu thương đó thế nào, chúng ta hãy nhìn nơi Đức Kitô, Đấng Người đã sai đến.
Tình thương biểu lộ nơi lòng Đức Kitô
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ví Ngài như người Mục Tử Nhân Lành, đã bỏ 99 con chiên ở lại để đi tìm một con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì quên hết những nỗi vất vả cực nhọc do con chiên lạc gây ra cho mình, không trách mắng cũng không đánh đập, không cho là con chiên lạc lầm lỗi, trái lại đã vui vẻ vác chiên lên vai đưa về tận nhà. Về tới nhà, người ấy còn mời mọi người cùng chia sẻ niềm vui với ông nữa.
Hình ảnh người Mục tử Nhân Lành đã diễn tả tình yêu thương sống động và cụ thể của Chúa Giêsu. Tình yêu thương ấy có khi khó hiểu và khó chấp nhận đối với chúng ta cũng như với nhóm Biệt Phái ngày xưa. Bởi vì chúng ta thường ích kỷ, hẹp hòi, bủn xỉn… chính những người Biệt Phái xưa cũng đã từng phiền trách khi thấy Chúa Giêsu đón tiếp và cũng ăn uống với những người tội lỗi vì yêu thương họ? Quả thật, Ngài đã khẳng định một cách không thể hiểu khác hơn được: “Chỉ có bệnh nhân mới cần thầy thuốc” mà ở đây Chúa là thầy Thuốc, là Lương Y Từ Mẫu…mà các bệnh nhân đang mong đợi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã xác định mục tiêu Ngài theo đuổi trong cuộc sống: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ngài không đến để xét xử luận phạt, nhưng là để cứu độ, để “cho họ được sống và sống dồi dào.
Trong dụ ngôn “người cha nhân hậu”, thái độ của người anh cả cũng hẹp hòi, bủn xỉn trước tình thương của người cha nhân lành. Anh ta không chấp nhận cho cha yêu thương đứa em đã có một quá khứ xấu xa, tội lỗi… không chấp nhận cho nó làm lại cuộc đời. Thái độ đó không phù hợp với Tin Mừng, với Trái Tim Chúa Giêsu, người Mục Tử Nhân Lành. Từ chỗ không hiểu tình thương của Chúa đối với người khác, chúng ta cũng có thể không hiểu tình thương của Chúa đối với chính mình. Đó quả là một điều tai hại ! không hiểu thì không biết cám ơn và không biết đáp trả tình yêu của Chúa.
Tình yêu đáp trả tình yêu
Chỉ một mình Thiên Chúa của Kitô giáo có được thứ tình yêu cao cả như vậy. Chính vì thế mà đạo Công giáo được mệnh danh là Đạo Tình Yêu thương trong cuộc sống, thì người đó đánh mất chân tính của mình. Vì chưng, Chúa Giêsu đã không chỉ bộc lộ tình Thương nhân hậu của Cha, mà Ngài còn mời gọi chúng ta: “ Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót”, và còn đưa ra cho chúng ta một quy luật sống cụ thể: “Anh em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Trong cuộc sống, theo tâm lý chung thường chúng ta hay tự đặt mình vào tư thế quan tòa để xét xử, kết án người khác. Tục ngữ đã có câu
Chân mình những lấm bết bê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Quả thật, nếu chúng ta tự cho mình là công chính, từ đó tách biệt mình khỏi đám người tội lỗi, là vô tình chúng ta đã tự loại mình ra khỏi tình yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta với tất cả con tim cuả một Thiên Chúa làm người. Ngài luôn cảm thông tha thứ mọi yếu hèn cuả con người. Ngài đồng bàn với người tội lỗi, thể hiện tình bạn với họ. Nhưng chỉ có một thái độ Ngài không thể dung tha, đó là thái độ của những người tự cho mình là thánh thiện để rồi tẩy chay và kết án người khác. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ như thế, vì đó là tước quyền Thiên Chúa: “chỉ có một mình Ngài mới có quyền xét xử”. Vì thế, chúng ta cần khiêm tốn và tin tưởng đến với Ngài, hãy lắng nghe lời Ngài. Đừng bao giờ tìm cách che đậy tội lỗi để tỏ ra khỏi cần đến Ngài, đó là tự lừa dối mình một cách nguy hiểm. Hơn nữa, chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Chúa cách tìm đến với những người đã trót lầm lỗi, những người đang lạc đường , đang bơ vơ không có định hướng… để giúp đỡ họ , khích lệ họ, nói với họ một lời an ủi, dâng tăng họ một nụ cười tin yêu, đem đến cho họ niềm tin vào lòng thương xót của Chúa, giúp họ thực tâm hối cải.
Giờ đây, tiếp tục bước vào cử hành phụng vụ Thánh Thể, là hiện tại hóa sự chết của Đức Kitô, là biểu hiện tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, chúng ta hãy nhờ Đức Kitô để ca tụng và cảm tạ Chúa Cha, cảm phục tin tưởng xin ơn tha thứ cho chính mình và toàn thể nhân loại, xin ơn sám hối cho các tội nhân. Amen.
Trái tim, một công trình tạo dựng siêu bền. Rất nhỏ được đặt trong lồng ngực, nhưng hoạt động: ThánhTâm ABC-20
Trái tim, một công trình tạo dựng siêu bền. Rất nhỏ được đặt trong lồng ngực, nhưng hoạt động cách không thể ngờ: Mỗi người với 24 giờ, trái tim bơm và lọc được 20.000 lít máu. Thật bất ngờ khi biết được con số, điều bất ngờ không dừng ở đấy và tôi khám phá ra công việc bơm và lọc 20. 000 lít máu của trái tim, cho tôi 24 giờ sống tinh tuyền nhất mặc dù rất nhiều bất toàn trong tôi. Tôi nhớ đến Lời Chúa nói qua tiên tri Edêkien với toàn thể dân Do thái: “Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một thần khí mới”. Lời ấy như một Lời tái tạo con người cũ thành con người mới.
Như trái tim lọc những dòng máu dơ bẩn khi đi qua các ngõ ngách của cơ thể, để thay vào đó dòng máu tinh tuyền và mang sức sống nuôi dưỡng và làm phát triển toàn thân. Thiên Chúa đang từng giây phút thanh lọc tôi bằng Lời của Người qua dòng đời tôi đang sống. Lời đã sáng tạo và Lời hằng làm nên cái mới, Thiên Chúa đang làm nên những cái mới lưu chảy trong tim tôi. Từng phút giây, Người vẫn không ngừng đổ rót hồng ân Thánh thần đổi mới cuộc sống trong tôi. Kìa cái cũ đang qua đi và cái mới đang thành sự.
Như công việc của trái tim, tôi không thấy cụ thể những điều trái tim đang làm việc, nhưng tôi biết trái tim vẫn không ngừng rung nhịp đập với trung bình 70 lần một phút trong tôi. Theo từng nhịp đập của trái tim ấy, Thiên Chúa đang hoạt động trong tôi, bởi vì tôi biết rằng Người đã dựng nên tôi cho tôi sự sống và sự sống ấy không ngừng lưu chuyển, cho đến khi tôi được yên nghỉ trong Người. Nếu một ngày kia trái tim này ngừng đập và tôi đã trở thành người của thiên cổ, nhưng trong lòng yêu thương của Thiên Chúa tôi đang an nghỉ. Hôm nay, lúc này, xin tạ ơn Chúa trái tim vẫn còn nhịp đập. Và như vậy là đang sống và như vậy là đang lặn ngụp trong tình yêu của Thiên Chúa. Khám phá ra điều này, tôi nhận thức rằng, mỗi ngày tôi có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa. Sự sống nào không phải là hồng ân Chúa ban tặng để tạ ơn Người luôn mãi.
Như chức năng lọc của trái tim, Thiên Chúa đang thanh luyện cuộc đời tôi bằng Thánh Thần của Người. Lọc những vị kỷ để còn vị tha, lọc hiềm thù để còn yêu thương, lọc những gì là ô uế để còn những gì tinh trong. Nếu trái tim không lọc rửa, dòng máu sẽ trở thành dòng sông đem và chết chóc. Nếu Thánh Thần không được ban xuống trong tôi, như trái tim không còn lọc tẩy, cuộc sống sẽ chết dần chết mòn trong ô uế và tội lỗi. Thánh thần đang đổi mới cuội đời tôi.
Như chức năng của máu là nuôi dưỡng những phần nhỏ nhất của cơ thể, Thiên Chúa Người đang tháp nhập toàn bộ cuộc sống này của tôi vào lòng yêu thương của Người bằng cách thẩm thấu. Nếu dòng máu bơm đi từ tim không tới được phần cơ thể nào, cơ thể ấy sẽ chết, và sớm cần được cắt rời khỏi thân thể. Thiên Chúa sống trong tôi và đó là điều tôi cảm nghiệm trong dòng máu lưu chuyển châu thân này, nên tôi biết trong thân thể mỏng giòn yếu đuối này, tôi cần được tham dự vào sự sống của người.
Có một lần tại Huế, ghé thăm công viên điêu khắc, tôi chiêm ngưỡng một công trình mà tôi thấy là tuyệt. Trên một chu vi khoảng 2 mét chiều dài, 1 mét chiều rộng, như một tấm đan đặt trên ngôi mộ. Tác giả đăt những khối đá đứng như cõi hỗn mang, góc cạnh tấm đan một đôi giầy, giữa tấm đan là trái tim khắc nổi. Dưới chân khắc ghi 4 câu thơ:
“Hãy yêu như đang sống. Hãy sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại. Sống để tình yêu có mặt.
Hình tượng cho tôi dòng suy nghĩ: Tình yêu làm hỗn mang trở nên màu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã cởi giầy để bước vào mầu nhiệm con người bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương tôi bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Một trái tim bằng thịt, không phải là bằng kim khí hoạt động như chiếc động cơ do con người chế tạo. Bằng thịt nên trái tim dễ bị tổn thương, và trái tim được đặt vào lồng ngực được những hàng rào xương sườn che chắn. Người biết tôi mỏng giòn và là bình sành dễ vỡ nên người yêu thương tôi, bao bọc tôi bằng ân sủng của Người. Và khiến đời tôi vẫn không ngừng tự hỏi: “Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm”. Người yêu thương tôi nhưng sao Người lại đặt trái tim của Người bên ngoài lồng ngực của Người ?
------------------------------
ThánhTâm ABC-21: Chọn lựa cho một tình yêu Lm. GB. Nguyễn minh Hùng
Nhân Lễ Thánh Tâm, suy nghĩ về đời sống thánh hiến. Tháng Sáu, tháng của những lễ phong: ThánhTâm ABC-21
Nhân Lễ Thánh Tâm, suy nghĩ về đời sống thánh hiến
Tháng Sáu, tháng của những lễ phong chức, lễ khấn dòng, cũng là tháng của những lễ kỷ niệm ngày chịu chức, ngày khấn dòng… Có thể nói tháng Sáu là mùa ơn gọi.
Tháng Sáu cũng là tháng tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa, được cụ thể nơi Thánh Tâm Chúa Kitô. Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Kitô cũng nằm trong tháng Sáu, lại là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục.
Bởi thế, tháng Sáu nói chung và lễ Thánh Tâm nói riêng là thời điểm thích hợp để tất cả những ai sống ơn gọi tu trì có dịp nhìn lại chính mình, nhìn lại ơn gọi mà mình đã sống, từ đó tự nhắc nhở cho chính bản thân ta về một chọn lựa mà mình đã dấn bước: CHỌN LỰA CHO MỘT TÌNH YÊU. Nhưng tình yêu ấy không do bản thân ta, hay bất cứ một người nào mà có, nhưng đó chính là TÌNH TRỜI.
Vì thế tôi muốn cùng bạn chia sẻ những suy nghĩ về chính ơn gọi và sự chọn lựa của mình.
Bạn có biết: Cuộc sống là kết thành của những chọn lựa. Có những chọn lựa quyết định cho cả một đời, và một đời phải sống cho chọn lựa ấy. Có những chọn lựa có thể thay đổi nhưng cũng có những chọn lựa không bao giờ thay đổi. Chọn lựa luôn là điều cần thiết cho đời người. Bởi thái độ sống của mỗi người tùy thuộc và ảnh hưởng rất nhiều từ những chọn lựa mà mình đã quyết định.
I. CHỌN LỰA:
1. Chọn lựa cần chiến đấu:
Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến không phải là người nọ, thế lực kia mà là cái “tôi” xấu trong chính bản thân. Bởi thế chiến đấu để tự lách mình khỏi những mối nguy cản bước ta tiến đến sự hoàn hảo, thì ngay trong sự tự chiến đấu ấy đã là chọn lựa: chọn lựa đứng về phía thiện, tách mình khỏi những sai lạc. Chọn lựa không cho phép ta ở hai tình trạng, nhưng chỉ là một, hoặc là tốt hoặc là xấu. Chọn lựa không có chỗ cho sự trung dung: “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi: nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng, chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miện Ta”1.
Chọn lựa luôn là chọn lựa một điều gì đó, không thể có chọn lựa suông. Trong chọn lựa bao giờ cũng có lý tưởng để theo đuổi. Chọn lựa là đón nhận nhưng cũng là hy sinh. Đón nhận điều mình chọn lựa và hy sinh để sự chọn lựa thành toàn. Chọn lựa bao gồm một hướng ngắm để đến, một hy vọng củng cố lý tưởng, một niềm tin nuôi hy vọng. Và khi đã chọn lựa, không có nghĩa là ngưng chiến đấu. Càng chọn lựa, nghĩa là càng đi trên con đường mà mình đã quyết định, càng phải chiến đấu: Chiến đấu để bảo vệ điều đã chọn lựa. Chọn lựa thì dứt khoát, nhưng chiến đấu thì lâu dài, bền bỉ, vì không phải chiến đấu một lần là đủ. Ngày nào ta bằng lòng với tình trạng hiện có mà không chiến đấu để vươn lên, ngày ấy báo hiệu chọn lựa ban đầu của ta đang bị chính ta đánh mất. Nếu chọn lựa cho một thái độ sống lâu dài thì chiến đấu liên lỉ không bao giờ thừa. Càng chiến đấu bảo vệ cái thiện, chống lại cái xấu, chọn lựa càng vững chắc.
Mãi mãi chọn lựa cần chiến đấu. Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến có khi chính là sự dữ ngự trị trong ta.
2. Tự do chọn lựa:
Chọn lựa đòi tự do. Không những tự do cần ngay khi chọn lựa, mà khi chọn lựa rồi cũng cần có tự do để sống điều chọn lựa. Chọn lựa không tự do, không phải chọn lựa mà là áp đặt, là thế lực. Cần đập vỡ áp đặt, thế lực để lý trí, ý chí và cả tình yêu có được sự chọn lựa đúng mức. Áp đặt hay thế lực ở đây là những hào nhoáng, là danh, là lợi, là sự thúc ép của kẻ khác... khiến đương sự nhầm lẫn, cuối cùng chọn lựa sai.
Cần có tự do để dấn thân cho điều đã chọn lựa. Nếu chọn lựa không có tự do, người ta không thể dấn thân cho điều đã chọn lựa. Và chỉ có yêu thực sự một điều gì mới có thể dấn thân cho điều đó cách trọn vẹn. Một người xả thân giúp đỡ người khác, việc làm đó mang lại cho anh ta hạnh phúc, ngược lại một người làm điều gì vì bị cưỡng bức, anh ta sẽ không cảm nhận sự bình an.
3. Thiên Chúa làm người, một chọn lựa:
Chúa Kitô đã quyết định trở thành “Emmanuel Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” 1. Chọn lựa của Ngài là “trở nên người phàm”. Chọn lựa này mãi mãi không thay đổi. Đó cũng là chọn lựa tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài đã sống một cuộc đời cho điều đã chọn lựa, và dấn thân trọn vẹn cho chọn lựa ấy: Chúa Kitô đã “nên giống anh em mình về mọi phương diện”2. Hay “Đức Giêsu Kitô vốn vĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”1.
Chúa Kitô “vâng lời cho đến chết”, sự “vâng lời” của Ngài là hoàn toàn tự nguyện. Ngài quyết định “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”2. Quyết định này là sự lựa chọn tự do: “Không ai cất mạng sống Ta được nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta, Ta có quyền thí mạng sống Ta, và Ta cũng có quyền lấy lại, đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta”3. Một khi quyết định chết cho đàn chiên, Chúa Kitô đã mang lại sự sống dồi dào cho đàn chiên.
II. CHỌN LỰA SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN:
1. Một chọn lựa can đảm:
Nếu chọn lựa sống đời Kitô hữu hoàn hảo đã phải chiến đấu nhiều với chính bản thân, thì chọn lựa sống đời Kitô hữu thánh hiến còn phải chiến đấu vất vả hơn. Vì chọn lựa ấy là chọn lựa “sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”. Nhưng họ vững tin rằng, Chúa Kitô ở bên họ. Ngài cầu xin Cha: “Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha... Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần... Lạy Cha Con muốn rằng Con ở đâu, thì những kẻ Cha ban cho Con, cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con...”4.
2. Đời sống thánh hiến là sống những nét đặc trưng của đời sống Đức Kitô:
Những người sống đời thánh hiến đi một bước cao hơn tiến gần đến đời sống của Chúa Kitô. “Họ diễn lại cách nào đó lối sống Đức Kitô đã chọn sống, và cho thấy lối sống ấy có một giá trị tuyệt đối và cánh chung”1.
Một khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô, “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”2, họ muốn như nhà thương gia kia, đi tìm ngọc quý, tìm được rồi bán tất cả để chỉ mua lấy một viên ngọc3.
Viên ngọc NƯỚC TRỜI mà họ chọn lựa, buộc họ phải trung kiên cả một đời, chiến đấu cả một đời, hy sinh cả một đời, từ bỏ cả một đời. Chọn lựa vác thập giá theo Đức Giêsu, họ sẽ là người sống “các nét đặc trưng của đức Giêsu khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục”. “Các nét đặc trưng” ấy “trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng”4. Vì trên thập giá, “Tình yêu khiết trinh của Nguời đối với Chúa Cha và đối với mọi người được diễn tả mạnh mẽ nhất; sự nghèo khó của Người sẽ đi đến chỗ lột bỏ hoàn toàn; sự vâng phục của Người sẽ đi đến hiến dâng mạng sống”5.
3. Chọn lựa giữa lòng cuộc sống và chọn lựa cho TÌNH YÊU:
Là người, những người dấn thân trong đời sống thánh hiến lựa chọn hướng đi của mình ở giữa lòng cuộc sống như bao nhiêu lựa chọn của mọi người. Nhưng Tình Yêu mà họ dấn bước theo không là một mái gia đình riêng tư, không là hạnh phúc đến bởi sự thành công của những nỗ lực trong đời thường, không là những thú vui trụy lạc mà không ít người của thời nay ngụp lặn trong đó, và vẫn lầm tưởng đó là hạnh phúc, là tự do của họ…
Vì chọn lựa sống rập theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô, anh chị em bước vào đời thánh hiến cũng sẽ nên giống Chúa Kitô, để cùng với Người, họ hiện diện giữa lòng cuộc sống. Nói một cách cụ thể hơn: họ chọn cho mình một kiểu mẫu của Tình Yêu để sống trọn đời cho Tình Yêu ấy. Một thứ Tình cao cả mà Chúa Kitô đã chọn sống và yêu.
Bởi vậy, giống như Chúa Kitô, cũng ngay giữa lòng cuộc sống, họ thực thi sứ mạng mà Tình Yêu đòi hỏi họ. Và ngay giữa lòng cuộc sống ấy, Họ đi tìm và bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa “đã bị bóp méo trên bộ mặt anh chị em mình, những bộ mặt hốc hác vì đói khổ, những bộ mặt chán chường vì những lời hứa chính trị, những bộ mặt uất hận của những ai bị người ta khinh dễ nền văn hóa của mình, những bộ mặt sợ hãi cảnh bạo lực mù quáng thường ngày, những bộ mặt của người trẻ, những bộ mặt tủi hổ của những phụ nữ bị xúc phạm và làm nhục, những bộ mặt mệt mỏi của đám di dân không được ai tiếp nhận, những bộ mặt u buồn của những người có tuổi không có những điều kiện để sống đàng hoàng...”1. Họ dấn thân phục vụ giữa lòng cuộc sống. Và như thế, họ tìm thấy niềm vui giữa lòng cuộc sống. Chính vì sống theo kiểu mẫu của Tình Yêu mà Chúa Kitô đã sống, những anh chị em chọn lựa sống đời thánh hiến là Chọn lựa cho một tình yêu: Tình Yêu mang tên GIÊSU KITÔ.
III. MỘT LỜI NGUYỆN:
Lạy Chúa, diễm phúc và hạnh phúc của mọi người, xin đổ tràn hạnh phúc xuống con cái nam nữ của Chúa, mà Chúa đã chọn lựa để tuyên xưng Tình yêu cao cả, lòng nhân hậu xót thương và vẻ đẹp của Chúa. Chúng con hiểu rằng, dù chúng con có chọn lựa, có hy vọng, có tin tưởng, thì điều trước tiên vẫn là hồng ân, là Tình yêu của Chúa đối với chúng con. Tình yêu là lời ngỏ, là động lực đưa chúng con tới lý tưởng của mình.
Lạy Chúa, trong lòng cuộc sống, có nhiều cách để chúng con chọn lựa, nhưng chúng con chọn lựa theo Chúa. Chúng con cầu xin cho chúng con luôn trung thành truyền lại Lời Chúa cho người khác, để Lời Chúa được thêm vững mạnh trong lòng mọi người. Xin làm cho chúng con trở nên xứng đáng phục vụ bàn thánh Chúa và Hội Thánh.
Chúng con kính dâng Đức Nữ Trinh Vương Maria và cầu xin Người là mẹ của Chúa Kitô, mẹ của Linh Mục Thượng phẩm đời đời gìn giữ chúng con trong hạnh phúc của đời thánh hiến, để chúng con biết trung thành theo Chúa bằng cả cuộc đời của chúng con. Chúng con biết rằng, Chúa Kitô yêu mến Mẹ nhiều, vì thế khi chúng con cố gắng hướng cuộc đời của chúng con giống như Mẹ, thì chắc chắn Người cũng sẽ yêu quý chúng con. Chúng con xin kính trao đời thánh hiến của chúng con cho Mẹ, nhờ Mẹ chăm sóc và chuyển cầu, để chúng con càng ngày càng xứng đáng với ơn gọi của Chúa.
Trong đời sống thường ngày, có lẽ không có gì gần gũi, thiết thân với chúng ta hơn là tình yêu: ThánhTâm ABC-22
Trong đời sống thường ngày, có lẽ không có gì gần gũi, thiết thân với chúng ta hơn là tình yêu. Người ta có thể ăn đói, mặc rách, có thể chịu nhiều nỗi khó khăn trong cuộc sống của thân xác, nhưng khó có thể có được bình an, và niềm vui nếu như không có tình yêu. Tình yêu là một cái gì gắn chặt với đời sống con người. Khuôn mặt của tình yêu cũng thật là phong phú: đó có thể là tình mẫu tử, tình huynh đệ, hay là tình yêu nam nữ... Nhưng cho dù dưới hình dáng nào đi chăng nữa, thì tình yêu vẫn luôn có một vẻ quyến rũ đặc biệt khiến cho chúng ta không thể rời xa nó.
Sở dĩ con người luôn gắn bó với tình yêu như thế, phải chăng bởi vì con người đã được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng là khởi nguồn của mọi tình yêu ? Hay nói như Thánh Gioan: “Thiên Chúa là Tình yêu” ( 1 Ga 4, 8 ). Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thật là vô bờ bến, vượt hơn cả tình thương của cha mẹ đối với con cái, như lời Ngài phán qua miệng Ngôn Sứ Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng, đẻ đau? Cho dù nó có quên đi chăng nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ... Ta đã khắc ghi ngươi trong lòng bàn tay Ta” ( Is 49, 15 – 16a ). Còn Thánh Phaolô thì nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi”, và thánh nhân kết luận: “Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” ( Rm 5, 8 ).
Nói đến tình yêu, chúng ta không thể không nhắc đến trái tim, một biểu tượng hữu hình của tình yêu. Và để bày tỏ lòng tri ân của mình đối với tình yêu bao la của Thiên Chúa, Giáo Hội đã dành riêng ngày hôm nay để mừng kính Thánh Tâm Chúa, Thánh Tâm đã bị đâm thâu vì yêu chúng ta ( x. Ga 19, 34 ). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thật bao la và sâu thẳm, không thể nào nói cho hết. Tuy nhiên, dựa vào lời Chúa hôm nay, chúng ta cũng phần nào hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua hình ảnh người Mục Tử Nhân Lành trong Thánh Kinh.
1. TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI MỤC TỬ:
Trở lại với bối cảnh của bài đọc một, chúng ta thấy rằng lúc bấy giờ dân Do Thái đang đứng trước nguy cơ của cảnh nước mất, nhà tan. Các vua chúa và cả hàng đầu mục trong dân đã đi vào con đường sa đoạ, chạy theo các tà thần. Họ không còn để ý gì đến việc chăm sóc cho đoàn dân mà họ được giao phó. Những người này chỉ nghĩ đến việc vơ vét, bóc lột cho thật nhiều mà không hề nghĩ đến đời sống cực khổ của dân chúng. Mặt khác, viễn ảnh ngoại xâm đang gần kề. Việc lưu đày, bị phân tán đi khắp nơi là điều không thể tránh khỏi. Toàn dân như đang sống trong cảnh tuyệt vọng. Họ chẳng còn biết bám víu vào đâu. Những chuyện kể xưa kia về việc Thiên Chúa ra tay hùng mạnh dẫn đưa họ từ Ai Cập trở về, dẹp tan các dân tộc cản lối đi của họ như đã bị chìm vào quên lãng.
Chính lúc đó, Ngôn Sứ Êgiêkien đã được Thiên Chúa sai đến loan báo về một thời đại mới. Trong thời đại mới này, chính Thiên Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân của Người. Người sẽ dẫn đưa những con chiên bị phân tán trở về. Người sẽ bảo vệ và giải thoát họ khỏi bàn tay áp bức của kẻ thù đang đè nặng trên họ. Ngài nói: “Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng... Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán. Ta sẽ dẫn chúng ra khỏi các dân tộc, Ta sẽ tụ họp chúng từ khắp măt đất, và đưa chúng vào đất của chúng”.
Không chỉ là tụ họp dân lại, Thiên Chúa còn lo cho đoàn chiên của Ngài từng miếng ăn, thức uống, như lời Ngài phán: “Ta sẽ thả chúng ăn trên những đồng cỏ màu mỡ,... chúng sẽ nghỉ ngơi trong những đồng cỏ xanh tươi, và chúng ăn trong đồng cỏ màu mỡ trên miền núi Ítraen”. Cảm nghiệm được sự ân cần chăm nom của Thiên Chúa đối với cuộc sống mỗi ngày của mình, đặc biệt là giữa những lúc khó khăn nhất, Vua Đavít đã cất tiếng ngợi ca: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi Người lo bồi dưỡng...” Và rồi trong vòng tay yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa, Vua Đavít tin tưởng khẳng định: “Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi... Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương”.
2. MỤC TỬ GIÊSU:
Người mục tử mà Ngôn Sứ Êgiêkien và Vua Đavít tiên báo không ai khác hơn là chính Đức Giêsu. Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Hậu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân. Không chỉ chăm sóc, bảo vệ, tình yêu của Đức Giêsu đối với chúng ta còn lên đến tột đỉnh khi Ngài hiến mạng sống mình cho chúng ta, như lời Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta”. Đức Kitô đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là Ngài đã hy sinh cho chúng ta ngay lúc chúng ta đang còn là thù địch với Ngài, đang còn chống đối Ngài. Nhưng vì yêu thương, Ngài vẫn sẵn sàng hiến mạng sống mình, để chúng ta được sống và được giao hoà với Thiên Chúa là nguồn của mọi tình yêu. Chính nhờ cái chết của Đức Giêsu, mỗi người chúng ta nhận lãnh được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Kế đó, tình yêu của Mục Tử Giêsu đối với chúng ta không dừng lại ở việc chăm sóc, giữ gìn chúng ta. Tình yêu ấy đã thúc đẩy bước chân của Ngài lên đường ra đi tìm kiếm những con chiên đang sống trong lầm lạc của tội lỗi, như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng: “Ai trong các ông có 100 con chiên và nếu mất một con, lại không để 99 con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy sao ?” Thiên Chúa không đặt dấu chấm hết cho một người nào. Cho dù chúng ta có tội lỗi, xấu xa đến đâu đi chăng nữa, thì Mục Tử Giêsu vẫn hằng mở rộng vòng tay chờ đợi chúng ta trở về. Và không chỉ là một sự chờ đợi, Thiên Chúa còn lên đường tìm kiếm, để dẫn đưa chúng ta trở về với Ngài.
Mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta vừa cùng nhau suy niệm một vài nét về tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Đây quả là một tình yêu tuyệt vời, chúng ta không thể lấy gì để đền đáp cho cân xứng. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ, chắc chắn Thiên Chúa cũng không cần chúng ta đền đáp, vì Ngài là Đấng toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không còn thiếu điều gì. Do đó, đáp lại tình yêu của Đức Giêsu, tâm tình đầu tiên mỗi người chúng ta cần có là đến và ở lại trong tình yêu của Ngài. Và đó chính là điều làm cho Ngài vui mừng nhất. Ngài vui mừng vì một con chiên lạc giờ đây đã trở về và ở lại trong sự chăm sóc của Ngài. Chúng ta cũng có thể nhận ra điều này khi nhìn ngắm nét mặt rạng rỡ, hân hoan của người mẹ khi ôm ấp những đứa con trong vòng tay của mình. Trong vòng tay của mẹ, có thể đứa trẻ chẳng làm gì cho người mẹ, có khi em còn quấy rầy bà nữa, nhưng tự thâm tâm, người mẹ vẫn cảm thấy vui. Bà vui vì con bà đang ở với bà, đang tin tưởng và cậy trông nơi bà.
Cuối cùng, để đáp lại Tình Yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu dành cho chúng ta, mỗi người chúng ta cũng phải biết sống yêu thương nhau. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình, để cho tình yêu của Đức Giêsu tuôn chảy qua chúng ta đến với anh chị em của mình. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hiệp nhất nên một đoàn chiên, có cùng một chủ chiên là Đức Giêsu.
Ga 3,16 Lm. Giuse Trần Ngọc Thao. DCCT LTS: Linh mục Giuse Trần Ngọc Thao, nguyên là Giám Tỉnh và Giám Đốc Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế Việt nam. Hiện nay, cha là Bề Trên và Chánh Xứ Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Kỳ Đồng. Sau đây là bài giảng trong Thánh Lễ Tạ Ơn của tân Linh Mục Gioan Baotixita Nguyễn Minh Phương vào ngày 22 tháng 02 năm 2004.
Tin Mừng: Lc 6,2738 (CN VII TN) I Linh Mục và “thế gian”
Cách đây 186 năm, một linh mục 32 tuổi mặc áo chùng đen cũ đã bạc mầu lững thững bước vào ThánhTâm ABC-23
Cách đây 186 năm, một linh mục 32 tuổi mặc áo chùng đen cũ đã bạc mầu lững thững bước vào con đường làng nhỏ bé, mang theo một chiếc giỏ đựng quần áo và một số đồ dùng. Không có ai tháp tùng; chẳng một người ra đón. Một lúc sau, khi gặp một trẻ em đang đứng ở dọc đường, ngài hỏi thăm đường dẫn tới nhà thờ. Đứa trẻ chỉ tay về một nơi xa xa, rồi cùng đi vài bước với ngài... Đó là cha Gioan Maria Vianê lãnh sứ vụ linh mục được ba năm. Ngài hỏi thăm đường tới nhà thờ ở Ars, 35 cây cách thành phố Lyon, để lãnh trách nhiệm làm cha xứ mới của làng đó.
***** Hiện nay, một tượng đài được xây lên, ở phía trên có tượng cha xứ họ Ars, tay phải giơ lên chỉ trời cao, mắt nhìn đứa trẻ; dưới chân hai tượng có ghi:
“Con đã chỉ cho cha đường tới Ars; cha sẽ chỉ cho con đường về trời”.
Vị linh mục đầy thiện chí, khắc khổ, với tinh thần siêu nhiên bước vào một hoang địa, một thế giới bị tục hoá, lãnh đạm thờ ơ với con người chuẩn bị sống với họ...
*****
Thế giới đó một phần nào giống như thế giới thù nghịch.
Cha Gioan Maria Vianê cứ can đảm tiến bước, đi vào môi trường giá lạnh đó, không ngã lòng, vẫn sống với những con người sống xa Thiên Chúa, sống xa cách mình.
Thế giới thù nghịch bao gồm tất cả những con người vì não trạng, vì cuộc sống theo xu hướng tự nhiên, vì sự thiếu hiểu biết về mặt tôn giáo, không chấp nhận sự có mặt của linh mục, dị ứng với mọi hình thức Kitô giáo, không đón nhận mạc khải và lời rao giảng về mạc khải, không chịu uốn nắn đời mình theo đòi hỏi của Tin Mừng, không muốn thay đổi nếp sống cũ...
Trong những hoàn cảnh cụ thể đó, linh mục không thể không sống trong bầu khí căng thẳng, vì bị đặt trong thế “người hùng cô đơn”, phải đương đầu với sức đề kháng của “thế gian” thù nghịch.
*****
- Nhưng Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1Tm 2,4),
- Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người, để phàm ai tin vào Con của Người thì có sự sống đời đời (Ga 3,16).
- Đức Kitô cũng yêu thương Hội Thánh (Ep 5,25), nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh (Ep 5,29), hiến mình vì Hội Thánh (Ep 5,25).
Mà Hội Thánh không chỉ gồm những con người hoàn hảo, thánh thiện. Chính vì mối tương quan đặc biệt mà Thiên Chúa và Đức Kitô dành cho nhân loại và Hội Thánh, chính vì ý định cứu độ phổ quát của các Ngài về nhân loại, mà linh mục cứ phải tiến vào những môi trường chông gai đó, cứ phải đến gặp và sống với những con người đó, cứ phải kiên trì lo công tác làm chứng rao giảng Tin Mừng cứu độ.
Hơn bao giờ hết, Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay lại vang lên: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”, hãy yêu thế gian thù nghịch, hãy yêu những con người không muốn tiếp xúc với chúng ta, hãy yêu những con người không chịu nghe chúng ta.
Nhiều khi linh mục còn đứng trước những con người đưa ra những yêu sách không chính đáng và không mấy thiện cảm với linh mục, với Kitô giáo. Sự kiện này đòi hỏi linh mục phải khôn ngoan trong cách phản ứng và đối xử, kiên trì chịu đựng và vững tâm lo nhiệm vụ đã nhận. Ác tâm của con người không thể là lý do khiến linh mục bỏ cuộc. Ý định của Thiên Chúa giao phó trách nhiệm cho linh mục và muốn cho linh mục thực hiện bằng mọi giá công tác đó mới là yếu tố quan trọng đòi linh mục phải tiếp tục sứ mạng trong mọi hoàn cảnh.
Cũng có khi linh mục phải nghe những yêu sách và sự thật chính đáng và đau đớn về con người và cách làm mục vụ của mình. Đó là những lời mời gọi sửa sai về mặt nhân bản trong nếp sống, cách đối xử với tha nhân; đó cũng là lời mời gọi thay đổi cách hoạt động, phương pháp mục vụ. Khi ấy, thái độ phục thiện là điều cần thiết cho một công tác mục vụ hữu hiệu, cho ơn cứu độ của người khác và của chính linh mục. Về mặt tự nhiên, những nhận xét đó có thể được coi như xuất phát từ những con người thù nghịch với mình. Nhưng theo cái nhìn của đức tin, Thiên Chúa và Đức Kitô dùng những hoàn cảnh đó để gây ý thức, để lay tỉnh tâm hồn của linh mục, làm cho linh mục phải giật mình và bừng tỉnh dậy...
II “ Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 3,31)
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn dùng một lời trong Lc 6,31 để dạy các linh mục, những con người dấn thân để phục vụ Tin Mừng của Thiên Chúa: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì hãy làm cho người ta như vậy”.
Theo xu hướng tự nhiên, ai cũng yêu mình hơn hết, ai cũng ước mong người khác đối xử tử tế với mình, làm những điều tốt lành cho mình; và điều tốt lành cao quý hơn cả, đó là ơn cứu độ, là phần rỗi của con người. Hôm nay, Đức Giêsu cũng muốn cho linh mục hết mình xả thân phục vụ tất cả mọi người, nhất là trong lãnh vực cứu độ. Phục vụ ơn cứu độ: đó là nhiệm vụ cần thiết và khẩn cấp! Lo cho hết mọi người: đó là ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa theo 1Tm2,4: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ”. Lo cho hết mọi người, kể cả những người nghịch thù với cá nhân linh mục và Hội Thánh: đó là mệnh lệnh của Đức Giêsu: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6,27; x. 6,35a).
III “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38).
Đức Giêsu Kitô còn nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38). Linh mục đã nhận biết bao hồng ân của Thiên Chúa: ơn làm người, ơn được làm con Thiên Chúa và bao ân huệ khác, cách riêng ơn được tuyển chọn làm người lãnh nhận chức linh mục để thi hành sứ vụ linh mục.
Linh mục lĩnh nhận chức linh mục trong nghi lễ Đức Giám mục trao ban sứ vụ (thường được gọi là “lễ phong chức”, “lễ truyền chức”). Chức linh mục thuộc một loại riêng biệt; vì thế, không thể coi linh mục như người mà “từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng khanh tướng”(x. bài hát “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con”) hoặc người được “nên bạn tâm phúc từ đây giữa hàng khanh tướng quyền uy”(x. bài hát “Tình yêu Thiên Chúa”), vì “hàng khanh tướng” là hàng quan văn, quan võ trong triều đình vua. Chức linh mục không thuộc thế giới này, do dó không thuộc một tổ chức trần gian nào, cũng chẳng tương đương với hàng khanh tướng, hàng quan văn quan võ trong triều đình vua. Chức linh mục thuộc thế giới linh thiêng, là chức do Thiên Chúa ban nhưng không cho phàm nhân vì mục đích cứu độ. Như thế, chúng ta không có quyền dừng lại ở chức linh mục, ở địa vị linh mục, nhưng phải đi tới sứ vụ linh mục. Thi hành sứ vụ linh mục là để phục vụ con người về mặt cứu độ. Và phục vụ là hạ mình xuống như người tôi tớ (Mc 10,44) để lo cho người khác, để làm ích cho họ. Không dừng lại ở chức linh mục, ở địa vị linh mục, nhưng phải đi tới sứ vụ linh mục: làm như thế, chúng ta không làm gì khác Đức Giêsu Kitô, Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,67); làm như thế, chúng ta không làm gì khác Con Người là Đấng đã “đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45).
“Anh em hãy cho”: đó là lời kêu gọi linh mục đáp lại bao hồng ân đã nhận trong cuộc đời, đặc biệt là ơn được phục vụ cộng đoàn dân Chúa, ơn được thi hành sứ vụ linh mục! Như thế, linh mục được mời gọi cống hiến cho những người được ngài phục vụ, tất cả những gì thuộc sứ mạng linh mục: lời Chúa, công việc rao giảng, giáo huấn, công cuộc bồi dưỡng và củng cố đức tin, việc cử hành và ban các bí tích cũng như cung cấp mọi phương tiện cứu độ khác ... Công cuộc phục vụ đó sẽ được thực hiện cách nào ? Tác giả Tin Mừng thứ nhất theo Thánh Mátthêu lặp lại lời Đức Giêsu đã nói với các Tông Đồ trước khi các ông được sai đi rao giảng: “Anh em được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8). “Cho không” là xả thân vô vụ lợi cho tha nhân, không nhắm tư lợi trần thế (địa vị, chức quyền ...) hay lợi ích cho nhóm của mình. Linh mục sẽ không được ngại hy sinh, vất vả, không sợ mất thời giờ, mất sức lực vì ơn cứu độ của tha nhân ...
IV “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)
Trong thời gian chuẩn bị cho ngày lễ nhận sứ vụ linh mục và các thánh lễ tạ ơn, cha mới chọn lời sau đây để ghi trên thiệp mời: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Lời này, nằm trong trình thuật về tiệc cưới Cana theo Tin Mừng IV là lời Đức Maria nói với các gia nhân dọn đường cho dấu lạ biến nước thành rượu, sau khi Người nhận thấy thiếu rượu và xin Đức Giêsu, Con của Người, can thiệp. Đức Mẹ, người Mẹ nhân lành, hằng muốn cho con cái của mình luôn lắng nghe lời Chúa, ý của Chúa. Đó là thái độ linh mục phải có trong suốt thời gian thi hành sứ vụ, để có thể đáp ứng đúng yêu cầu của Thiên Chúa, của Đức Kitô và thực sự thành công: linh mục là người tôi tớ của Lời khi sống sứ mạng của sứ giả rao giảng Tin Mừng cứu độ, quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa (1Cr 4,1).
V Lời cầu chúc.
Cha mới thân mến,
Hôm nay, trong bầu khí tràn ngập niềm vui và hy vọng này, cộng đoàn dân Chúa hướng về cha, nghĩ tới sứ mạng cao cả, nhưng rất khó khăn và phức tạp của cha. Chắc chắn, ai nấy đều đồng tâm nhất trí cầu nguyện nhiều cho cha, kể từ giai đoạn khởi đầu của đời sống linh mục, và còn tiếp tục cầu nguyện, xin Thiên Chúa và Đức Kitô ban phúc lành cho cha để cha luôn sống sứ mạng linh mục theo lòng Thiên Chúa mong ước, nhằm đáp ứng những nhu cầu khẩn cấp của Hội Thánh Việt Nam và các linh hồn tất bạt. Ở sau cha, để hỗ trợ và hậu thuẫn cho cha, có tất cả cộng đoàn dân Chúa: anh em trong Dòng, các thân nhân, các linh mục tu sĩ, bà con giáo dân và các thân hữu khác.
Cầu chúc cha:
* không ngừng có một tấm lòng nhân hậu đối với mọi người, nhất là trong một thế giới ngày càng có xu hướng sống xa Thiên Chúa và Kitô giáo, * luôn nhiệt thành lo cho ơn cứu độ, * luôn tận tâm và đại độ cho đi, * không ngừng lãnh trách nhiệm của người tôi tớ của Lời, của sứ giả Tin Mừng cứu độ.
Cầu chúc cha can đảm “chèo ra chỗ nước sâu”, can đảm ra khơi mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4), và luôn nói với Chúa: “Dựa vào lời Thầy, con sẽ thả luới” (Lc 5,5) .
1. Người mục tử trong nếp sống của người Do Thái xưa
Đức Giêsu tự xưng mình là «mục tử tốt lành» (x. Ga 10,118), và Ngài quả thật là gương mẫu tuyệt hảo: ThánhTâm ABC-24
Đức Giêsu tự xưng mình là «mục tử tốt lành» (x. Ga 10,118), và Ngài quả thật là gương mẫu tuyệt hảo cho mọi chủ chăn trong Giáo Hội, từ giáo hoàng xuống đến linh mục, và cả những người lãnh đạo lớn nhỏ ngoài xã hội nữa. Để hiểu được ý nghĩa của hai chữ «mục tử» trong lời tự xưng của Đức Giêsu và trong bài Tin Mừng liên hệ (Ga 10,118), chúng ta cần trở về với nếp sống của người Do Thái thời Đức Giêsu.
Thời ấy, chiên được nuôi theo bầy hàng trăm con tại những đồng cỏ xanh. Mục tử hay người chăn chiên đi theo bầy chiên và cùng sống với chiên ngày này qua ngày khác. Ban ngày, mục tử dẫn đàn chiên đi từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác để chiên ăn cỏ. Ban đêm, để tránh trộm cướp hay thú hoang, và để tránh mưa tránh rét, mục tử đưa chiên vào một nơi an toàn được gọi là «ràn chiên», thường là một hang đá hay một khu đất trống có hàng rào bằng đá hoặc bằng cây bao quanh. Người chăn chiên ngủ ngay trong ràn chiên để bảo vệ chiên, và thường ở ngay cửa ràn. Mục tử và đàn chiên vì thế gắn bó với nhau rất mật thiết. Mục tử chỉ biết có chiên của mình, và chiên cũng chỉ biết và chỉ đi theo mục tử của mình, không chịu theo bất kỳ ai khác.
2. Ý tứ của Đức Giêsu khi nói về người «mục tử tốt lành»
Khi nói về người «mục tử tốt lành», Đức Giêsu muốn nói với người Pharisêu, sau khi đối chất với họ về việc Ngài chữa lành người mù từ thuở mới sinh (Ga 9). Nên nhớ: những người Pharisêu là những người lãnh đạo tinh thần trong Do Thái giáo, tức đóng vai trò mục tử đối với đàn chiên. Qua đoạn Tin Mừng này, Ngài muốn cho họ thấy hai thái độ trái nghịch nhau giữa Ngài và họ trong cách đối xử với dân chúng hay các tín đồ tôn giáo. Sự trái nghịch nhau đó được thể hiện qua cách ứng xử với người mù bẩm sinh.
a) Cách ứng xử của người Pharisêu:
Khi thấy người mù được chữa lành, thay vì mừng cho anh ta đã thoát khỏi điều bất hạnh vô cùng lớn lao, những người Pharisêu lại có một thái độ thù nghịch và bực tức. Họ tỏ ra không có một chút tình yêu, lòng thương xót hay sự cảm thông nào đối với người mù được Đức Giêsu chữa lành. Trái lại, họ đã dùng lề luật để bắt bẻ vị ân nhân đã chữa lành bệnh cho anh ta, đồng thời gây khó dễ cho anh và gia đình anh vì việc được chữa lành ấy. Đối với dân chúng, họ không giống như người mục tử đích thực đối với đàn chiên, mà giống như người chăn chiên thuê. Kẻ chăn chiên thuê không yêu thương gì chiên, vì chiên không phải là của hắn (x. Ga 10,1213).
Vì thế, trong tôn giáo, những người Pharisêu lợi dụng chức vụ lãnh đạo, hướng dẫn để ăn trên ngồi trốc, đè đầu đè cổ dân chúng (x. Mt 23,56). Họ giảng dạy toàn những điều tốt nhưng chỉ để cho dân chúng làm, chứ không phải để họ làm (x. Mt 23,23). Họ giảng dạy điều tốt vì chức vụ họ đòi buộc phải làm như vậy, chứ không phải vì lòng yêu mến sự thiện mà giảng dạy. Đức Giêsu đã tố cáo việc họ lợi dụng tôn giáo để bóc lột người nghèo, người cô thân cô thế trong xã hội (23,4.14). Nhưng họ vẫn muốn được mọi người tôn trọng, ca tụng, suy tôn, nên phải giả bộ đạo đức, phải làm những việc tốt để khoa trương (23,5), và muốn mọi người gọi mình là «Rabbi» hay «Thầy» (23,6).
b) Cách ứng xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu có một thái độ khác hẳn, một thái độ nhân từ đầy yêu thương đối với mọi người, được thể hiện một cách cụ thể trong việc Ngài chữa lành người mù. Ngài sống và hành động vì tình yêu chứ không vì lề luật. Tình yêu và lòng thương xót của Ngài đã thúc bách Ngài bất chấp luật sabát, bất chấp sự phản đối và bực tức của người Pharisêu về việc lỗi luật của Ngài, bất chấp những hậu quả rất bất lợi có thể xảy đến cho Ngài. Ngài sẵn sàng hy sinh bản thân để xoa dịu đau khổ, để làm mọi người hạnh phúc.
Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu muốn cho người Pharisêu thấy thái độ của họ đối với dân chúng, với các tín đồ tôn giáo mà họ dẫn dắt chẳng khác gì thái độ của kẻ trộm cướp, của kẻ chăn thuê đối với đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên chứ không hề yêu thương chúng. Còn thái độ của Ngài mới là thái độ người mục tử đích thật: Ngài yêu thương đàn chiên đến nỗi sẵn sàng «hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Nhưng rất tiếc là «họ không hiểu những điều Người nói với họ».
Trong bài Tin Mừng về người mục tử tốt lành, Đức Giêsu đưa ra một tiêu chuẩn để phân biệt mục tử và kẻ trộm cướp. Mục tử thì đi vào ràn chiên bằng cửa ràn, nghĩa là với phong thái «đường đường chính chính». Còn kẻ trộm hay kẻ cướp thì không qua cửa nhưng trèo qua lối khác mà vào, với phong thái lén lút, giả dối, không đàng hoàng. Mà cửa ràn chiên, theo bài Tin Mừng này, lại cũng chính là Đức Giêsu: «Tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào». Vậy để là mục tử đích thật, người mục tử phải qua Đức Giêsu mà đến với đàn chiên, nghĩa là phải là người yêu mến Thiên Chúa, và phục vụ đàn chiên vì Ngài, không vì một động lực nào khác.
Thật vậy, đã là mục tử chân chính thì tư tưởng, lời nói, hành động lúc nào cũng phải bộc lộ được tính «quang minh chính đại», hay «đường đường chính chính», luôn luôn thẳng thắn, trung thực, đáng tin. Người mục tử chân chính ít ra phải là một người quân tử. Nếu tư tưởng, lời nói và hành động như một kẻ tiểu nhân, thích quanh co, lén lút, dối trá, sợ sự thật… thì không xứng đáng làm mục tử. Hơn thế nữa, người mục tử chân chính phải có một tình yêu to tát, để có thể hy sinh đến tận cùng cho những người mà mình lãnh đạo, hướng dẫn.
Đương nhiên để thực hiện ý định của mình, kẻ trộm cướp – những kẻ không có tình yêu đối với chiên nhưng lại muốn hưởng những quyền lợi của người mục tử – phải giả làm mục tử. Hắn tìm đủ mọi cách để chiên đi theo mình. Nhưng chiên «không chịu theo người lạ, mà chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ», không cảm nhận được tình thương của hắn. Vì mục tử giả hay kẻ chăn thuê chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, đến cái lợi của mình, không nghĩ gì đến chiên, nên «khi thấy sói đến, hắn bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (Ga 10,12). Người mục tử đích thực thì yêu thương chiên, sống vì chiên, và sẵn sàng «hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11) «để cho chiên được sống và sống dồi dào» (10,10).
4. Đức Giêsu là mục tử tốt lành
Ngoài mục đích đối chất với bọn Pharisêu, Đức Giêsu còn dùng hình ảnh rất quen thuộc ấy đối với người Do Thái để diễn tả sự yêu thương gắn bó giữa Ngài và chúng ta, những kẻ theo Ngài. Như mục tử tốt lành yêu thương và chăm sóc chiên mình thế nào, Ngài cũng yêu thương chăm sóc chúng ta như vậy. Ngôn sứ Êdêkien đã dùng hình ảnh người mục tử với đàn chiên để diễn tả tương quan giữa Đấng Mêsia và dân của Ngài: «Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó là tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng» (Ed 34,23). Ngài chính là người mục tử được Thánh Vịnh mô tả: «Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên» (Tv 23).
Vì thế, khi ý thức được Đức Giêsu luôn chăm sóc mình như người mục tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, người Kitô hữu có thể hết sức an tâm trước tất cả mọi giông tố, thử thách trong cuộc đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó thác mọi sự cho Ngài, kể cả mạng sống, hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc đời ta luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh phúc, và Tin Mừng chúng ta rao giảng mới đúng là Tin Mừng đích thực (Tin thật sự đáng mừng!)
Đoạn Tin Mừng về người «mục tử tốt lành» của Đức Giêsu trong bối cảnh phát sinh đoạn Tin Mừng này cho thấy: trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội, luôn luôn có những mục tử tốt (mà Đức Giêsu là gương mẫu và điển hình) và mục tử xấu (mà rất đông các kinh sư Do Thái và người Pharisêu là điển hình).
5. Mục tử – tốt và xấu – trong xã hội và Giáo Hội
Xã hội hay tôn giáo nào cũng đều có tổ chức, cơ cấu, trong đó luôn luôn phải có những người lãnh đạo, điều khiển. Trong lịch sử Do Thái, những người lãnh đạo dân chúng được gọi là mục tử (x. Gr 10,21; Ed 37,2324): chẳng hạn như vua Saun, vua Đavít. Kitô giáo, vốn tiếp nối truyền thống Do Thái, cũng gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội (như linh mục, mục sư, giám mục, hồng y, giáo hoàng) là mục tử.
Những mục tử hay những người lãnh đạo ấy thường được xã hội hay tôn giáo tạo cho những điều kiện thuận lợi và trao cho những phương tiện hữu hiệu để có thể thi hành hữu hiệu công việc lãnh đạo đó: chẳng hạn địa vị, chức vụ, quyền bính, tiền bạc, tiếng nói… Những điều kiện và phương tiện này là một thứ dao hai lưỡi. Nó có thể giúp các mục tử hay các nhà lãnh đạo phục vụ dân chúng hay các tín hữu hữu hiệu hơn. Nhưng nó có thể làm tha hóa, biến chất các mục tử khi sử dụng nó. Và nó cũng có thể bị những kẻ lắm tham vọng tìm cách đạt tới để lợi dụng nó, để phục vụ cho những tham vọng hay lợi ích cá nhân của mình, của gia đình hay phe nhóm mình.
Như vậy, chiếu theo thái độ đối với những điều kiện và phương tiện mà xã hội hay tôn giáo dành cho những người lãnh đạo hay mục tử, ta có thể có 2 loại mục tử tương ứng:
– Mục tử tốt: là những người lãnh đạo thật sự có ý hướng phục vụ dân chúng hay các tín hữu, chứ không nhằm lợi ích cho riêng mình. Họ sử dụng những điều kiện hay phương tiện mà xã hội hay Giáo Hội trao cho để hoàn toàn phục vụ tha nhân và công ích.
– Mục tử xấu: là những người lãnh đạo không nhắm phục vụ dân chúng, mà nhắm đạt được những điều kiện và phương tiện thuận lợi kia để hưởng thụ hoặc chỉ để thăng tiến bản thân, thỏa mãn những tham vọng riêng tư.
Loại sau này còn bao gồm những mục tử bị tha hóa, là những người lãnh đạo khởi đầu có ý hướng tốt, nhưng khi tiếp xúc hay sử dụng những điều kiện hay phương tiện xã hội trao cho, thì bị chúng hấp dẫn, mê hoặc và làm cho biến chất, để cuối cùng trở thành những mục tử xấu.
6. Mục tử tốt và xấu trong Thánh Kinh và Tin Mừng.
Khi nói về người «mục tử tốt lành» (Ga 10,118), Đức Giêsu mô tả và đối chiếu hai loại mục tử nói trên: một loại được gọi là mục tử tốt lành, còn loại kia là kẻ chăn chiên thuê.
a) Mục tử tốt lành.
Mục tử tốt lành thì: «hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11.15; x. 10,1718), «tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi… chúng sẽ nghe tiếng tôi» (10,14.16). Đức Giêsu tự nhận mình chính là mục tử loại này. Trong Thánh Kinh có rất nhiều câu mô tả những đức tính tốt của những mục tử tốt lành, mà chính Thiên Chúa là mô hình gương mẫu nhất:
– yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: «Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt» (Is 40,11).
– yêu quí từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: «Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc» (Mt 18,1213).
– lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: «Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ» (Ed 34,14).
– làm chiên sống no ấm, hạnh phúc: «Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì» (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: «Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm» (23,4).
– tinh thần trách nhiệm rất cao: «Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng» (Ed 34,16). – cứu thoát, giải phóng đàn chiên: «Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên» (Dc 9,16).
Tóm lại, người mục tử tốt lành thật sự yêu thương đàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho sự an nguy và hạnh phúc của đàn chiên. Thậm chí như Đức Giêsu, người mục tử tuyệt vời nhất, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình: coi sự sống còn của đàn chiên quý hơn cả sự sống mình.
b) Kẻ chăn chiên thuê hay mục tử xấu.
Kẻ chăn chiên thuê hay mục tử xấu thì: «không thiết gì đến chiên» (Ga 10,13), «khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Thánh Kinh cũng có nhiều câu mô tả hạng mục tử này với những đặc tính:
– vô trách nhiệm: «Con chiên nào mất, nó chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi» (Dc 11,16a); «Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm» (Ed 34,4)
– chỉ nghĩ tới hưởng thụ, sẵn sàng bóc lột: «Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt» (Ed 34,3). Thậm chí bóc lột đến tận xương tủy: «Con nào béo thì chúng ăn thịt, rồi lóc luôn cả móng» (Dc 11,16b)
– ích kỷ, vụ lợi, đầy tham vọng: «Chúng là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử! Cả bọn – chẳng trừ ai – chỉ mưu tìm lợi lộc cho riêng mình» (Is 56,11).
– tàn bạo, độc ác, thích quyền hành, ham thống trị: «Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,3); «Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng» (Gr 23,2b).
– tác hại vô cùng đến đàn chiên: «Các ngươi đã làm cho đàn chiên của Ta phải tan tác» (Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử xấu coi đàn chiên chỉ là phương tiện, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư, cho tham vọng quyền lực của mình, không một chút tình thương đối với chúng. Nhưng kết cục của hạng mục tử này rất bi thảm: «Khốn cho mục tử vô tích sự đã bỏ mặc đàn chiên. Gươm sẽ chặt đứt tay nó, sẽ chọc mắt phải của nó. Cánh tay của nó sẽ khô đét, và mắt phải của nó sẽ mù loà» (Dc 11,17); «Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa» (Gr 23,12).
7. Hãy trở nên những mục tử tốt lành
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu tự xưng mình là «mục tử tốt lành», luôn yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Ngài tự xưng như thế không phải để chúng ta nể phục cho bằng để chúng ta bắt chước, để chúng ta noi gương Ngài trong công việc «mục tử» của chúng ta. Chúng ta thường giới hạn ý nghĩa của từ «mục tử» này, đến nỗi chỉ áp dụng nó cho những người lãnh đạo tôn giáo. Thật ra, tất cả những ai đảm trách việc lãnh đạo, từ một gia đình đến một phường, một tỉnh, hay một quốc gia, từ một hội đoàn, một xứ đạo, đến một giáo phận, một giáo hội địa phương hay Giáo Hội toàn cầu, một cách nào đó, đều có thể gọi là mục tử.
Ước chi mọi mục tử đều biết thật sự yêu thương đàn chiên của mình và lãnh đạo chúng một cách sáng suốt! Ước chi mọi cha mẹ đều yêu thương con cái, mọi cha xứ đều sẵn sàng hy sinh phục vụ giáo dân, mọi giám mục đều hết lòng chăm sóc các linh mục và giáo dân dưới quyền mình! Ước chi mọi vị lãnh đạo xã hội và đất nước biết quên những quyền lợi riêng tư để nghĩ đến lợi ích chung của dân chúng!
Mọi quốc gia, mọi giáo hội, đều rất cần những vị minh quân, những mục tử tốt lành. Cần hơn cả việc có thật đông những cá nhân tài giỏi, xuất sắc. Câu chuyện sau đây minh họa điều đó.
Có hai người thuộc hai quốc gia nói chuyện với nhau:
– «Tôi rất khâm phục đất nước anh, vì nước anh có rất nhiều anh hùng». – «Thế đất nước anh có nhiều anh hùng không?» – «Rất tiếc, đất nước tôi ít anh hùng lắm!» – «Lạ nhỉ, đất nước tôi nhiều anh hùng thế mà sao vẫn cứ nghèo nàn và lạc hậu, dân chúng thì đói khổ và cùng cực. Còn đất nước anh không có anh hùng mà sao lại phát triển và giàu có như vậy?» – «À, đất nước tôi thì bù lại, được một ít vị là minh quân!»
Thì ra chỉ cần một vị minh quân – hay mục tử tốt lành – thì cũng đủ quí giá và ích lợi cho đất nước và Giáo Hội hơn là có nhiều anh hùng hay cá nhân xuất sắc! Cầu mong cho đất nước và Giáo Hội Việt Nam có được những minh quân, hay những mục tử tốt lành thật sự!
Cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê có hai tên trộm: một người bị treo trên thập giá bên: ThánhTâm ABC-25
Cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê có hai tên trộm: một người bị treo trên thập giá bên tả Chúa và một người bên hữu Chúa Giêsu. Tin Mừng thuật lại rằng tên trộm bên tả Chúa mắng nhiếc Chúa, y nói nhiều điều lộng ngôn đối với Ngài, còn người bên hữu, cảm thông với Chúa, anh ta bằng lòng vì tội anh ta đã làm nên cam chịu số phận và lên tiếng bênh vực Chúa Giêsu. Rồi anh nói với Chúa:” Thưa Ngài khi nào Ngài về nước của Ngài, xin cho tôi về với “( Lc 23, 42 ). Chúa Giêsu nói với anh ta:” Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”( Lc 23, 43).
CHÚA GIÊSU LÀ TÌNH YÊU:
Thánh Gioan đã định nghĩa:” Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên chúa là tình yêu, do đó Người đã tỏ lộ tình yêu của Người nơi Con Một của Người là Chúa Giêsu Kitô để con người cảm nghiệm sâu xa tình thân mà Chúa diễn tả đối với con người. Chúa Giêsu luôn kết thân với con người và mỗi người đều có một chỗ đứng trong con tim của Ngài. Đối với từng người Thiên Chúa có mối tình thân riêng như đối với Gioan, một con người tế nhị, nhạy cảm, Chúa có tình thân đặc biệt. Gioan là người đã được Chúa cho gục đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly,ông cùng Phêrô và Giacôbê đã được Chúa cho tham dự vào cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabôrê, ông đã được chứng kiến những giây phút hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu và dưới chân thập giá, Chúa đã trối Đức Mẹ cho Gioan và ngược lại Gioan cho Đức Mẹ. Chúa đã nối kết tình thân sâu xa với Gioan thì giờ đây Chúa lại nối kết tình thân ấy giữa Mẹ Ngài với Gioan trong tình thương yêu tế nhị và trong sáng.
Còn đối với Phêrô, một con người bộc trực, dân dã, phản ứng mau lẹ, Chúa kết thân với ông bằng nhiều phương cách: với mẻ cá lạ lùng, Chúa đưa Phêrô về thực tế của đời ông, không có Chúa, tự sức ông, ông không thể làm gì được. Trước mẻ cá lạ lùng, phi thường ấy, Phêrô cảm thấy bất xứng:” Lạy Ngài xin xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi”. Tuy nhiên, Chúa đã trấn an ông bằng một lời hết sức thân thiết và chân tình:” Đừng sợ, từ nay con sẽ trở thành kẻ chài lưới người”. Phêrô từ đó đã hăng say đi loan báo Tin Mừng, nhưng ông vẫn là con người yếu đuối, hay vấp ngã…Ông đã can đảm và thật lòng thưa với Chúa sẽ theo Chúa tới cùng, nhưng sự yếu đuối vẫn lôi kéo ông khi ông quả quyết thì chính lúc đó ông đã chối Chúa ba lần và ông đã ăn năn, sám hối, Chúa vẫn một mực thứ tha cho ông. Phaolô cũng vậy, hăm hở làm hại môn đệ và Giáo Hội Chúa, nhưng Chúa đã quật ông ngã ngựa, làm ông mù lòa và rồi Chúa lại thương cứu chữa ông, cho ông trở thành người tông đồ không mệt mỏi cho dân ngoại. Đối với Chúa chỉ có một điều duy nhất là tình yêu, là con tim quảng đại. Tất cả phải bắt đầu bằng tình yêu: tình yêu dâng hiến và xả kỷ. Tuy, những con người như Phêrô, như Phaolô đầy yếu đuối, vấp ngã nhưng Chúa vẫn thương yêu, cất nhắc và tin tưởng. Lòng Chúa bao la, con tim của Chúa luôn rộng mở, Chúa luôn qui tụ và tìm kiếm mọi người.
CHÚA ĐẦY LÒNG NHÂN ÁI:
Nếu người trộm dữ mắng nhiếc Chúa, mạt sát Chúa và tỏ vẻ ngạo mạn với Chúa, y đã tự tách xa Chúa. Còn người trộm lành, biết tội lỗi yếu đuối của mình, xin Chúa tha thứ và nhớ tới, Chúa đã đưa anh về nước Trời ngay chiều hôm đó…Chúa luôn quảng đại đối với mọi người. Trái tim của Ngài luôn rộng mở để đón nhận mọi người. Chúa luôn tìm kiếm và qui tụ những người lầm lạc. Như một ông chủ có trăm con chiên, lạc mất một con, người chủ bỏ chín mươi chín con chiên lại mà tìm con chiên bị lạc, khi tìm được con chiên lạc đàn, ông chủ vui mừng vác chiên lên vai và mời bạn bè chung vui vì ông đã tìm thấy con chiên lạc. Đối với con người, Chúa luôn một mực tín trung và yêu thương. Chúa muốn cứu vớt mọi người và không muốn bất cứ một ai bị hư đi. Chúa quả là Đấng đầy lòng nhân ái. Trái tim của Chúa luôn mở ra để đón mời mọi người.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, xin hãy ban xuống lòng chúng con tàn lửa say yêu một Chúa…Xin giúp chúng con đừng bao giờ dám xúc phạm tới Thánh Tâm Cha.
GỢI Y ĐỂ CHIA SẺ:
1. Hình ảnh con chiên lạc gợi cho bạn điều gì ?
2. Tại sao các bức tượng hay các bức ảnh thường cho thấy trái tim Chúa Giêsu mở tung ra ?
3. Bạn cảm nghiệm gì về Thánh Tâm Chúa Giêsu ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
------------------------------
ThánhTâm ABC-26: Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót
LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU C
Lc 15,37
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý CHÍNH:
Thấy Đức Giêsu gần gũi với các kẻ tội lỗi là các người thu thuế, gái điếm… nhóm Pharisêu và kinh sư đã: ThánhTâm ABC-26
Thấy Đức Giêsu gần gũi với các kẻ tội lỗi là các người thu thuế, gái điếm… nhóm Pharisêu và kinh sư đã buông lời trách cứ Người. Trả lời cho họ, Đức Giêsu đã dùng 3 dụ ngôn: Con chiên bị lạc, đồng bạc đánh rơi và người cha nhân hậu. Đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ đề cập đến dụ ngôn con chiên bị lạc. Dụ ngôn đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót. Người xót thương khi thấy một kẻ lầm đường lạc lối. Người vội vã đi tìm để cứu chữa họ và tỏ ra vui mừng khi họ thực tâm hối cải.
2) CHÚ THÍCH:
Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ?” (Lc 15,34):
+ Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: Thấy có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng (Lc 15, 12), các người biệt phái và luật sĩ tỏ ra nghe tức, từ đó sinh ra ác cảm và mở miệng trách cứ Đức Giêsu. Để trả lời cho họ biết lý do tại sao Người làm như vậy, Đức Giêsu kể ra 3 dụ ngôn, mà dụ ngôn thứ nhất là con chiên thất lạc.
+ “Người nào trong các ông có một trăm con chiên…”: Đức Giêsu đặt người nghe vào trong câu chuyện bằng kiểu nói: “Người nào trong các ông”.
+ “Một trăm con chiên mà nếu mất một con”: Ở đây khi dùng hai con số 100 và 1 Đức Giêsu muốn làm nổi bật tầm quan trọng của sự mất mát. Dù chỉ bị mất một phần trăm nhưng đối với người chủ chiên cũng là một mất mát to lớn.
+ “Để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm kỳ được con chiên bị mất”: Để lại ngoài đồng hoang ở đây không phải là bỏ rơi, bỏ mất vì chúng kém giá trị mà phải hiểu là để chúng lại trong một nơi an toàn. Chi tiết này chỉ muốn nói lên rằng: con chiên bị lạc dù chỉ là số ít, nhưng vẫn là điều quan trọng khiến chủ chiên phải bỏ công đi tìm cho bằng được.
+ “Đi tìm con chiên lạc”: Việc đi tìm phát xuất từ tình thương của chủ chiên, ám chỉ tình thương yêu và khoan dung của Thiên Chúa đối với những kẻ có tội. Người không thụ động ngồi chờ họ tự động trở về, nhưng Người chủ đông đi tìm kiếm họ.
“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó” (Lc 15,56):
+ “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác chiên lên vai…Xin chung vui với tôi”: Hiệu quả của việc người chủ tìm thấy con chiên lạc là ông rất vui mừng. Niềm vui này thể hiện qua hai cử chỉ là vác chiên lên vai và mở tiệc ăn mừng. Vác chiên lên vai nói lên sự thân mật gần gũi giữa chủ chiên và con chiên.
+ “Xin chung vui với tôi”: Người chủ chiên còn mời bạn bè đến chung vui với mình. Điều này nói lên ông chủ chiên muốn cho niềm vui của mình lan rộng sang những người chung quanh nữa.
Vậy tôi nói cho các ông hay: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7):
+ “Vậy tôi nói cho các ông hay”: Câu này tóm lại ý nghĩa của dụ ngôn.
+ “Trên trời cũng thế”: Niềm vui tột đỉnh của Thiên Chúa và các thần thánh là không loại trừ một người nào, nhưng muốn cho hết mọi người đều được ơn cứu độ.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: ‘Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính” (Lc 15,7).
2) CÂU CHUYỆN: Ông chủ chiên tốt lành
Trong cuộc họp của những nhà giáo dục, một vị giáo sư đã kể câu chuyện về một con chiên bị lạc mất như sau:
Một người kia có nuôi một đàn chiên nhốt trong chuồng ở phía sau nhà ông. Một hôm có một con chiên non trông thấy một lỗ hổng ở hàng rào và tò mò chui qua. Khi ra ngoài chuồng, con chiên vội chạy đi thật xa để tận hưởng thú vui được tự do giữa trời mây bao la. Nó chạy đến một cánh rừng rộng lớn và không nghĩ gì đến nguy cơ có thể bị chó sói ăn thịt. Trời tối dần và đột nhiên con chiên trông thấy bóng dáng của một con sói đang rình chạy ở phía sau và đang núp ở một lùm cây gần đó. Vô cùng sợ hãi, nó ba chân bốn cẳng chạy trốn. Nhưng con sói kia vẫn không ngừng bám sát ở phía sau.
Khi con sói tiến gần sau lưng và sắp vồ được chiên thì may mắn thay ông chủ cũng vừa lúc xuất hiện. Ong dùng gậy đánh đuổi con sói hung dữ để cứu con chiên khỏi chết chỉ trong gang tấc. Sau đó ông vác con chiên đang run sợ trên vai và đưa về chuồng băng bó những vết trầy xước. Rồi nhiều người nhắc ông phải rào kín lỗ hổng để tránh cho chiên khỏi tiếp tục chui ra khỏi chuồng. Nhưng ông ta không nghe và cứ để lỗ hổng ở hàng rào như trước.
3) SUY NIỆM:
+ Hằng ngày trên các phương tiện truyền thông đều có mục nhắn tin tìm người lạc. Người lạc thường là một đứa con bỏ nhà đi hoang hoặc chồng bỏ vợ con đi theo người khác…Lại cũng có người đi lạc vì mắc bệnh thần kinh, có người vì lỡ phạm phải một tội ác…
+ Một người đàn bà bị lạc mất đứa con còn nhỏ dại. Bà vội vã đi tìm con, gặp đâu hỏi đấy, lúc nào trên khuôn mặt âu sầu cũng đầy nước mắt. Bà sẵn sàng hy sinh mọi sự, miễn sao tìm thấy đứa con thân yêu.
+ Chiên lạc thời Đức Giêsu chính là những người thu thuế, trộm cướp và gái điếm, những kẻ bệnh tật mù què câm điếc…Đức Giêsu sẵn sàng ngồi ăn đồng bàn với bọn người này và bị bọn đầu mục Do Thái trách cứ. Cuối cùng họ đã làm áp lực với quan tổng trấn Rôma để kết án Người chết cách ô nhục trên cây thập tự.
+ Ngày nay vẫn có vô số các con chiên lạc: Theo Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp tại Rôma ngày 19 tháng 04 năm 1998 thì Á Châu có ba tỷ năm trăm triệu dân. Thế mà mới chỉ có một trăm mười triệu là Kitô hữu. Còn tới ba tỷ bốn trăm triệu vẫn đang ở ngoài đoàn chiên Hội Thánh. Đó là chưa kể biết bao Kitô hữu không còn hành đạo, lười biếng đi nhà thờ hoặc phạm phải những tội ác lớn lao khác…
4) THẢO LUẬN:
a Bạn có đồng ý với quyết định không rào lại lỗ hổng của người chủ chiên trong câu chuyện trên hay không ? Tại sao ?
b Bạn nghĩ thế nào về lời khẳng định của thánh Augustinô: “Chúa dựng nên bạn không cần đến bạn, nhưng Chúa không thể ban ơn cứu độ bạn nếu bạn không cộng tác với Người” ? Để noi gương vị chủ chiên trong bài Tin Mừng hôm nay, bạn quyết tâm sẽ làm gì đối với bạn bè đang lạc xa Chúa ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU:
1) Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa đã sẵn sàng hy sinh chịu chết để cứu chuộc chúng con, và ban cho chúng con muôn vàn ơn phúc, nhất là ơn được vinh dự làm con cái Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Mục Tử nhân lành luôn dẫn dắt chúng con từng ngày, sẵn sàng tha thứ mỗi khi chúng con sai lỗi. Chúa lại vui lòng đến sống giữa chúng con trong Bí Tích Thánh Thể. Xin cho chúng con nhận biết tình thương của Chúa, để chúng con biết thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng những hành động bác ái cụ thể phục vụ tha nhân.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từng đi tìm kiếm trẻ Giêsu bị lạc vào năm Chúa mười hai tuổi. Về phần con, dù con chưa một lần rời bỏ mái ấm gia đình hay cộng đoàn giáo xứ để đi hoang. Nhưng biết bao lần con đã lạc xa Chúa. Con lạc xa Chúa khi con lười biếng bỏ dự lễ cầu nguyện. Con lạc xa Chúa khi con không chiến đấu với những cám dỗ của ma quỷ hằng ngày, khi con sống trong tình trạng khô khan nguội lạnh. Trong những lúc ấy, con đã được Chúa đi tìm, lôi con ra khỏi vòng vây tội lỗi. Nhiều khi tội lỗi làm con phải mang thương tích thì Chúa lại bồng bế con trên vai, băng bó chữa lành vết thương của con. Chúa luôn tỏ ra vui mừng khi thấy con trở về và con cũng biết rằng: các thần thánh trên trời cũng vui mừng trước sự trở về của con.
Lạy Mẹ Maria, con nhận biết rằng: Chúa thương yêu con vô cùng. Nhất là khi con yếu đuối sa ngã phạm tội thì Chúa lại càng thương yêu con hơn, và vui mừng trước sự trở về của con. Xin Mẹ giúp con biết đáp lại tình thương của Chúa bằng việc luôn sống trong tình yêu của Chúa. Xin giúp con hiểu rõ tình Chúa thương con và biết đáp đền cho cân xứng. Đáp đền bằng việc yêu mến Chúa tha thiết, bằng việc bác ái cụ thể như: quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói, khiêm nhường phục vụ các bệnh nhân đau khổ là những người đang sống trong cùng một khu xóm với con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Giả sử nhà anh chị em có một đàn dê nhiều tới 100 con. Hôm nào đó thả cho nó ăn cỏ ở ngoài đồng: ThánhTâm ABC-27
Giả sử nhà anh chị em có một đàn dê nhiều tới 100 con. Hôm nào đó thả cho nó ăn cỏ ở ngoài đồng. Được thả tự do, cho nên một con dê nào đó cảm thấy thích thú quá, vui vẻ quá sức, nó cứ tung tăng chạy nhảy rồi xa dần đàn dê và chủ của nó. Đến một lúc, nó không còn biết đường trở về nữa, vậy là lạc mất. Lạc mất một con dê, nhưng mình là chủ, mình tính sao? Vì thương con dê quá, cho nên anh chị em đi tìm nó, tìm con dê hư hỏng, bỏ đàn, bỏ bầy ra đi. Khi anh chị em đi tìm, anh chị em bỏ lại 99 con dê khác ở trên đồng cỏ. Làm như vậy có nghĩa là gì? Nghĩa là đánh đổi 99 con dê để lấy một con. Nếu trên thực tế của cuộc sống này thật sự có một người làm như vậy, thì mình nghĩ gì? Cũng chẳng cần nghĩ gì, chúng ta dễ dàng kết luận ngay: người chủ chăn dê này đang làm công việc của một kẻ khờ dại, nếu không muốn nói là điên rồ. Điên quá sức, không thể tưởng tượng hết được: đổi 99 để lấy 1.
Đúng! Anh chị và tôi cho là điên, là dại đúng lắm! Thế nhưng Thiên Chúa của chúng ta lại yêu mỗi một người, yêu từng người một bằng tình yêu mà mình cho là điên dại ấý. Nhưng mà thử hỏi, nếu Thiên Chúa không yêu bằng tình yêu lớn lao như thế, thì ta có sống nổi không? Chúng ta cần tình yêu đó lắm. Bởi vì có ai dám tuyên bố mình trong sạch, vô tội đâu. Thành thử ra mỗi một người là một con chiên lạc, là kẻ đi hoang, cần được Thiên Chúa ủ ấp, tìm kiếm và đem trở về bằng lòng tha thứ mà Thiên Chúa vốn có và dành riêng cho loài người.
Hóa ra tình yêu Thiên Chúa gọi là điên dại, thì nó chỉ là điên dại mà loài người nghĩ, trí óc non nớt, kém cỏi của loài người cho là như vậy. Hóa ra tình yêu đó không điên dại, mà ngược lại, con người còn cần chính tình yêu đó. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không ai dò thấu. Người dùng cái mà loài người cho là điên dại để lật đổ chính sự khôn ngoan của loài người. Hóa ra giá trị khôn ngoan mà loài người vẫn tưởng nghĩ, nhiều khi phải đặt lại vấn đề. Còn Thiên Chúa, trong tình yêu khôn ngoan, để cho con người hiểu được, Người đã diễn tả bằng nhiều khuôn mặt. Thánh Tâm là một trong những khuôn mặt Thiên Chúa dùng để diễn tả tình yêu của mình. Hôm nay trong lễ Thánh Tâm, Giáo Hội muốn ta suy niệm tình yêu Thiên Chúa qua dụ ngôn ntgười mục tử nhân lành yêu thương đàn chiên. Nghĩa là Giáo Hội muốn ta nhìn vào hình ảnh Thánh Tâm để nhận ra một tình yêu mục tử đang chờ đợi mỗi một người trở về với Chúa. Một tình yêu mục tử đang tìm chúng ta và chờ đợi ta đón nhận Người.
Thời Trung cổ, đạo Công giáo bị bách hại, các bè rối nổi lên chống Giáo Hội, tinh thần đạo sa ThánhTâm ABC-28
Thời Trung cổ, đạo Công giáo bị bách hại, các bè rối nổi lên chống Giáo Hội, tinh thần đạo sa sút, nhiều giáo dân bỏ đạo theo bè rối. Năm 1675, Chúa Giêsu đã tỏ Trái Tim Người ra cùng thánh nữ Magarita Maria Alacoque cùng khuyến khích truyền bá lòng sùng kính Trái Tim Chúa như phương thuốc chữa bệnh thời đại và lôi kéo mọi người đến cùng Trái Tim đầy yêu thương của Chúa.
Lòng sùng kính thánh Tâm đã được phát khởi và lan tràn trên thế giới, lôi kéo biết bao ơn cho Giáo Hội và xã hội. Nhưng đáng tiếc, lòng sùng kính tốt đẹp ấy ngày càng sa sút, vì con người quá mải miết lo chuyện đời.
Nhân tháng Thánh Tâm, con cái Chúa cùng nhau hun nóng lại lòng sùng kính Trái Tim Chúa. Nhớ lại các ơn lành chan chứa Chúa hứa ban cho những ai sùng kính và truyền bá lòng tôn sùng này. Những ơn lành này gồm trong 12 điều Chúa đã hứa với Thánh nữ Magarita Maria như sau:
1. Cha sẽ ban mọi ơn cần thiết theo bậc sống, cho những ai tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. 2. Cha sẽ ban bình an trong gia đình chúng. 3. Cha sẽ an ủi khi chúng đau buồn. 4. Cha sẽ nên nơi nương ẩn vững chắc trong cuộc đời chúng, nhất là trong giờ chết. 5. Cha sẽ ban ơn dồi dào trên công việc chúng lo toan. 6. Tội nhân sẽ tìm thấy nơi Trái Tim Cha nguồn mạch và biển cả vô tận lòng thương xót. 7. Linh hồn nguội lạnh sẽ nên sốt sắng. 8. Linh hồn sốt sắng sẽ mau tiến lên đỉnh trọn lành. 9. Cha sẽ chúc phúc cho những nơi trưng bày và tôn kính ảnh tượng Trái Tim Cha. 10. Cha sẽ ban cho các linh mục ơn lay chuyển các tấm lòng chai cứng nhất. 11. Những ai cổ động lòng sùng kính này, sẽ được ghi tên vào Trái Tim Cha, và không bao giờ bị xoá mờ. 12. Với lòng thương xót vô biên, Cha hứa với con rằng Tình Yêu Toàn năng của Cha sẽ ban ơn cho tất cả những ai rước Mình Thánh Cha trong chín (9) thứ Sáu Đầu tháng liên tiếp, được ơn ăn năn thống hối vào giờ sau hết, chúng sẽ không phải chết trong tình trạng mất ơn nghĩa Cha, và không phải chết mà không được lãnh các bí tích sau hết. Thánh Tâm Cha sẽ nên nơi nương náu an toàn cho các con cái trong giờ sau hết.
***Bạn còn chần chờ gì nữa mà không tôn sùng Trái Tim Chúa? Nhà bạn đã có treo ảnh tượng Trái Tim Chúa Giêsu chưa? Bạn có rước lễ các ngày thứ sáu đầu tháng không? Có vào đoàn hội Thánh Tâm Người không? Bạn có tích cực làm tông đồ, giúp mọi người trở về với Thánh Tâm Chúa không?
Tôn sùng Trái Tim Chúa là làm đẹp lòng Trái Tim Mẹ lắm.
Tháng sáu là tháng Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng nhìn và suy gẫm Trái Tim Đức Giêsu cách đặc ThánhTâm ABC-29
Tháng sáu là tháng Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng nhìn và suy gẫm Trái Tim Đức Giêsu cách đặc biệt. Vì thế tháng sáu được gọi là tháng Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu cũng là một con người bằng xương bằng thịt như chúng ta. Nhưng tại sao chúng ta phải tôn thờ trái tim của một con người mang tên là Giêsu? Vì:
1/ TRÁI TIM CHÚA GIÊSU LÀ BIỂU TƯỢNG CỦA TÌNH YÊU VÔ TẬN:
Tình yêu của Chúa là tình yêu vượt quá tầm hiểu biết của con người. Đối với Chúa Giêsu tất cả mọi người, dù họ là thành phần nào thì cũng có một chỗ nương tựa trong con tim yêu thương của Ngài. Lần tìm về những trang Tin mừng, thì đó cũng là thời gian chúng ta bắt gặp những nhịp đập thổn thức nơi con tim yêu thương phục vụ của Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu đã thổn thức trước những mảnh đời đau khổ về bệnh tật của rất nhiều người, nên Ngài đã chữa lành họ.
Chúa Giêsu đã thổn thức và chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông dân chúng theo Ngài không có gì ăn, nên Ngài đã nuôi sống họ bằng phép lạ hoá bánh ra nhiều.
Chúa Giêsu đã thổn thức và lo lắng số phận cho những con chiên lạc đàn, nên Ngài sẵng sàng băng rừng vượt núi tìm kiếm những chiên lạc. Và khi tìm được rồi thì con tim thổn thức của Chúa Giêsu đã vui trở lại. Dấu chỉ để nói lên niềm vui của Chúa là vác chiên trên vai, kêu mời bạn hữu và người lân cận chia vui với Ngài.
Tình yêu của Chúa Giêsu đối với con người là thế đó. Và tình yêu ấy đã trởi nên vẹn toàn, trở nên cụ thể nhất khi Chúa bị treo trên thập giá. Chính lúc này thì:
2/ TRÁI TIM CHÚA GIÊSU LÀ BIỂU TƯỢNG CỦA TÌNH YÊU ĐẾN CÙNG:
Khi Chúa chết trên thập giá, một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra, chảy ra cho đến giọt cuối cùng.
Trái tim là biểu hiện của tình yêu. Trên thập giá trái tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu là bằng chứng Ngài đã hiến thân vì tình yêu nhân loại. Những giọt máu cuối cùng của Chúa sẽ chứng minh tình yêu của Ngài cho chúng ta: Yêu cách quảng đại, yêu cách trọn vẹn, cho đi tất cả, hiến dâng tất cả, không nuối tiếc cũng không giữ lại một chút gì cho bản thân Ngài.
Khi chiêm ngắm Trái Tim của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm nhận được tình yêu của Ngài thật đẹp và thật cao quý:
Thật đẹp vì tình yêu của Chúa thật bao la, không biên giới. Tình yêu ấy đã dàn trải đến hết mọi người, không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, công chính hay tội lỗi, tôn giáo… Tất cả đều được Chúa yêu thương.
Thật cao quý vì tình yêu của Chúa là tình yêu đích thực, Ngài đã can đảm hiến dâng mạng sống cho người mình yêu. Trên thập giá, trái tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu là lời chứng minh hùng hồn về tình yêu tuyệt mỹ của Chúa. Vì Chúa nói: “ không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữa của mình” (Ga 15,13).
Hôm nay khi mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng ta phần nào cũng có một con tim như Ngài. Con tim mà tình yêu đối với tha nhân sẽ không bao giờ cạn, tình yêu hy sinh tự hiến với những người xung quanh không bao giờ đắn đo hay tính toán. Xin Chúa cho trái tim chúng ta không phải là trái tim mùa đông nhưng là một con tim nồng ấm tình người, cũng không phải là trái tim nhạt nhoà nhưng là con tim mặn nồng với anh chị em.
Tất cả những gì chúng ta xin Chúa hôm nay khi chiêm ngắm Thánh Tâm Ngài, như muốn nói lên sự đền đáp phần nào về tình yêu vô tận và đến cùng mà Chúa đã dành cho chúng ta. Vì tình yêu phải được đền đáp bằng tình yêu.
Mỗi thứ sáu đầu tháng chúng ta có thói quen tốt lành là dâng thánh lễ mừng kính Thánh Tâm: ThánhTâm ABC-30
Mỗi thứ sáu đầu tháng chúng ta có thói quen tốt lành là dâng thánh lễ mừng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu cách đặc biệt, đó chính là một bằng chứng cho biết rằng, chúng ta rất yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu, hôm nay, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội trên hoàn cầu long trọng mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu với hai ý nghĩa sau đây:
1. Thánh Tâm Chúa Giêsu là nơi chúng ta học tập yêu thương.
Trong suy nghĩ của người buôn bán thì không ai dại gì làm tiệc đãi khách sau khi tìm lại con chiên lạc, bởi vì số tiền làm tiệc đãi khách nhiều hơn giá tiền một con chiên nhiều lần; cũng không ai ngu gì bỏ lại chín mươi chín con chiên để vượt bao nguy hiểm tìm con chiên lạc đàn, bởi như thế là không được khôn ngoan cho lắm…
Thiên Chúa không phải là người buôn bán, Ngài cũng không phải là người ngu, nhưng Ngài là Thiên Chúa tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng. Ngài có thể bỏ mất một con người, một linh hồn để sáng tạo thêm nhiều người khác đẹp hơn và…dễ thương hơn, nhưng Ngài đã không làm thế vì Ngài là Thiên Chúa của tình yêu, tình yêu này được thể hiện qua việc Con Một của Ngài là Chúa Giêsu đã xuống thế làm người chịu chết trên thánh giá để cứu chuộc nhân loại tỗi lỗi.
Qua dụ ngôn “con chiên lạc” Chúa Giêsu đã tỏ lộ trái tim yêu thương của Ngài ra cho chúng ta thấy rằng, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả ngay cả mạng sống của mình để yêu thương và cứu chuộc chúng ta, nơi trái tim này ngập tràn lửa yêu mến nhân loại tội lỗi, nơi trái tim này không một ai có thể dửng dưng nguội lạnh khiêm tốn ẩn núp trong trái tim của Ngài. Nơi trái tim yêu thương của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được bài học yêu thương gía trị ngàn đời mà Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta: chết cho người tội lỗi để họ được sống và sống đời đời.
Không ai có thể nói lời yêu thương chân thành được với tha nhân nếu không được lửa yêu mến từ trái tim của Chúa Giêsu nung nấu tâm hồn họ, và cũng chẳng ai đành lòng ghét bỏ anh em chị em mình khi mà lòng họ đầy tràn tình yêu của Chúa Giêsu.
2. Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch sức mạnh nâng đỡ và thánh hóa các linh mục.
Chúa Giêsu là linh mục đời đời, nơi Ngài sứ mạng cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất nhưng chưa kết thúc, bởi vì sứ mạng này đang được Ngài trao phó cho Giáo hội qua các linh mục với sự đặt tay của giám mục để các linh mục được trở nên Chúa Giêsu thứ hai tiếp tục chương trình cứu độ của Ngài ở trần gian.
Không một linh mục nào mà không yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu, không một linh mục nào mà không kêu mời người ta yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu, cho nên chính các linh mục là mẫu gương của sự tôn sùng và yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu nơi người tín hữu mà Thiên Chúa đã giao phó cho các ngài coi sóc.
Thời nay có một số ít linh mục làm cho một số người trong đó có cả giáo dân không thích linh mục, có nhiều người nhìn các linh mục bằng ánh mắt hoài nghi và không mấy thiện cảm vì có những linh mục đã không sống đúng với thiên chức mà họ đã lãnh nhận. Người ta đòi hỏi các linh mục hôm nay phải hoàn thiện như Thầy chí thánh là Chúa Giêsu, người ta muốn linh mục thật sự là Chúa Giêsu thứ hai luôn là người phản ảnh lại khuôn mặt dịu dàng và tâm hồn nhân hậu của Chúa Giêsu… Sự đòi hỏi của họ là chính đáng giữa một xã hội tục hóa hôm nay, sự đòi hỏi các linh mục phải trở nên thánh thiện thúc bách các tín hữu phải lên tiếng, để không những cá nhân linh mục mà ngay cả cộng đoàn giáo xứ cũng trở nên thánh thiện như ý Thiên Chúa muốn…
Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch sự thánh thiện của các linh mục, chính nơi Thánh Tâm này các linh mục học hỏi được thế nào là yêu mến, thế nào là phục vụ cho đến chết vì đàn chiên của mình như Chúa Giêsu đã làm…
Anh chị em thân mến,
Thánh Tâm Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy học với Ngài sự hiền lành và khiêm tốn trong lòng, bởi vì chỉ có những ai hiền lành và khiêm tốn mới thật sự là anh em chị em của mọi người, và tình yêu của Chúa Giêsu được thể hiện qua sự phục vụ và yêu mến tha nhân cách quảng đại của họ.
Trong dịp này, chúng ta cũng dâng gia đình và họ đạo của mình cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, để Ngài luôn ngự trị và dùng lửa yêu mến của Ngài sưởi ấm tâm hồn nguội lạnh của chúng ta, để mỗi người trong chúng ta biết đem lửa yêu mến này ra đi sưởi ấm tha nhân…
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại nhà thờ Phục SinhTaiwan.
Đoạn này tiếp liền đoạn Chúa Giêsu khiển trách những thành ven Biển Hồ đã không tin Ngài: ThánhTâm ABC-31
1. Đoạn này tiếp liền đoạn Chúa Giêsu khiển trách những thành ven Biển Hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình (Mt 11,2024). Sau khi than trách những kẻ cậy dựa vào sự thông thái của mình, Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha vì đã mặc khải Tin Mừng cho những người bé mọn, tức là những người "nghèo trong tinh thần" mà Ngài đã nói trong Bát phúc (Tv 19,8 116,6), những người tội lỗi, những kẻ ít học.
Ngài còn nói "Vì ý Cha đã muốn an bài như vậy". Nghĩa là những thái độ hoặc tin hoặc cứng tin mà Chúa Giêsu gặp chẳng phải là chuyện may rủi, cũng chẳng phải do tài năng hoặc bất tài của Ngài, mà là chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa là như vậy: Ngài luôn ưu ái những kẻ bé mọn và hạ bệ những bậc khôn ngoan. 2. Tiếp đến Chúa Giêsu kêu gọi hãy mang lấy ách và gánh của Ngài. Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “gánh” chỉ luật lệ, và “mang ấy ách” nghĩa là học với. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta học với Ngài và đón nhận luật của Ngài.
Học với Chúa Giêsu là học được tính hiền lành và khiêm tốn.
Luật của Ngài là luật yêu thương.
Bởi thế ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ gặp được bình an.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu là một con người lạc quan. Mặc dù vừa thất bại ở các thành ven Biển Hồ, Ngài vẫn lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha. Sở dĩ Ngài lạc quan vì Ngài thấy được kế hoạch của Chúa Cha.
Sau khi bị thất bại, tôi dễ chán nản muốn bỏ cuộc. Xin Chúa cho con lạc quan như Chúa, để luôn tin tưởng vào thành công cuối cùng của việc loan Tin Mừng. Xin cho con lạc quan đến nỗi vẫn ca tụng tạ ơn Chúa vì những thất bại của con.
2. Thiên Chúa giấu không cho những người khôn ngoan biết những mầu nhiệm của Ngài, mà lại mặc khải cho những người bé mọn biết những điều ấy. “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Ngài nâng cao những người phận nhỏ”.
Dù con có biết được điều gì đi nữa, dù con có thành công bao nhiêu đi nữa, xin cho con luôn khiêm tốn, tự biết mình chỉ là kẻ bé mọn trước mặt Chúa.
3. Được Thiên Chúa mặc khải cho biết về Ngài, đó là một đặc ân cao quý. Biết bao người thông thái nhưng không có đức tin. Còn con, từ hồi mới sinh ra đã được ơn đức tin. Con xin tạ ơn và chúc tụng Chúa.
4. Niềm vui và sự phấn khởi là sợi chỉ xuyên suốt của toàn bộ Thánh Kinh. Thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu “Anh em hãy vui lên. Tôi xin nhắc lại, anh em hãy vui luôn”. Cho dù cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có là trọng tâm của Kitô giáo, cho dù hy sinh có là con đường tu đức của các kitô hữu, thì Tin Mừng vẫn là tên gọi của Đạo Chúa. Kitô giáo thiết yếu là một Tin Mừng để đón nhận, để sống và để loan báo. Mà nói đến Tin Mừng là nói đến hân hoan (Chờ đợi Chúa)
5. Một hôm sói hỏi sóc:
Vì đâu mà họ nhà sóc của mi luôn vui vẻ nhảy nhót còn bọn sói chúng ta luôn buồn rầu ?
Ông buồn vì ông ác. Tính độc ác bóp nghẹt tim ông. Còn chúng tôi vui vẻ vì chúng tôi hiền lành và không làm điều ác cho một ai (Tolstoð kể)
6. “Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,26)
Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất Cả: cặp mắt, đôi chân và đôi bàn tay. Vì con là phụ nữ, ưa ngắm nhìn mái tóc óng ả của con, ưa nhìn ngắm những ngón tay thon nuột xinh xắn của con. Thế mà giờ đây đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng hồng xinh xinh nữa, chỉ còn lại vài que củi khô nhám nhúa… Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn… Bởi vì, đời con đã được quá ư đầy tràn đến diệu kỳ. Sống đắm mình trong tình yêu, cuộc đời con đã được Chúa lấp đầy chan chứa.
Lời nguyện cầu của chị Véronique đẹp quá. Cứ dạt dào, bay vút, hòa quyện với lời tạ ơn của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khám phá nơi con những khả năng Cha ban, biết trân trọng những tặng vật Cha ký thác, và tận dụng những cơ hội Cha gởi trao. (Hosanna)
7. “Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng”: Ôi một lời kêu gọi xuất phát từ một tấm lòng yêu thương bao la ! Chúa rất quan tâm lo lắng khi thấy tôi khổ đau và mệt mỏi. Ngài rất muốn nâng đỡ và xoa dịu tôi nên mới lên tiếng kêu mời tôi. Lẽ ra tôi phải tìm đến Ngài trước, thế mà Ngài lại kêu mời tôi trước. Mà sở dĩ Ngài kêu mời tôi là vì rất nhiều lần khi gặp khốn khổ tôi đã không chạy đến với Ngài, tôi chạy đến với ai khác, tôi ngã lòng không muốn cầu nguyện nữa…
8. “Ta hiền lành và khiêm tốn”: hẳn là 2 đức tính này quý giá đặc biệt lắm nên Chúa mới tự mô tả mình như thế.
Tôi có hiền lành không ? Tôi còn phải học gì thêm ở tính hiền lành của Chúa ?
Tôi có khiêm tốn không ? Tôi còn phải học gì thêm ở tính khiêm tốn của Chúa ?
9. “Ách Ta êm ái”: Điều làm cho Luật của Chúa trở thành êm ái đó là tình yêu. Nếu tôi không yêu Chúa thì việc tôi giữ luật sẽ trở thành nặng nề. Nếu tôi không yêu thương anh chị em thì việc tôi sống chung với họ sẽ làm cho họ khổ sở. Xin giúp con ngày càng yêu thương nhiều hơn.
10. Ở Á Đông, thương cho roi cho vọt. Nhưng câu nói này lại hoàn toàn vô nghĩa trong xã hội Mỹ. Mới đây một tòa án tại bang Dalas đã tuyên án phạt một ông bố 3 roi vì tội đánh con của mình. Vụ án trên là một minh họa cho vấn đề Luật và Tình thương. Một gia đình sung túc đến đâu mà trong đó không có tình thương thì cũng như một nghĩa địa. Một xã hội văn minh kỹ thuật đến đâu mà không có tình thương thì chỉ là một bãi sa mạc. (Theo “Chờ đợi Chúa”).
11. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28)
Buồn và chán vì mọi người trong gia đình chẳng hiểu mình, tôi chạy đến những người bạn để mong trút hết bầu tâm sự. Nhưng đứa thì đi học, đứa đi làm, đứa đi chơi… Chiều muộn rồi, tôi chẳng biết đến với ai. Chạy lòng vòng ngoài phố càng khó chịu nặng nề thêm vì tiếng ồn, khói xe và bụi. Tới đường Tú Xương, bỗng nhiên tôi nghĩ đến nhà thờ Mai Khôi nhỏ bé, đơn sơ nhưng không khí yên tĩnh, thánh thiện. Tìm lấy một góc, tôi thầm kể cho Ngài tất cả. Tôi bỗng thấy nhẹ nhàng và bình an lạ lùng vì hình như có ai đó đã nghe tôi, hiểu tôi.
Kinh nghiệm này giúp tôi hiểu và cảm nghiệm sâu xa hơn Lời Chúa ngày hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được: chỉ nơi Ngài con mới kín múc được niềm vui và sự bình an đích thực. (Hosanna)
12. Tôn kính Trái tim Chúa Giêsu không phải là tôn kính một phần cơ thể của Ngài, cũng không phải là tôn kính một di vật của Ngài cho dù di vật đó quý giá bao nhiêu đi nữa. Trái tim là biểu tượng của tình yêu, cho nên tôn kính Trái tim Chúa là tôn kính Tình yêu của Ngài.
Tình yêu của Chúa Giêsu như thế nào ? Một tình yêu tự hiến, đến nỗi dám chết vì yêu, đến nỗi còn một chút máu và nước cuối cùng Ngài cũng cho đi. Yêu là tự hiến, yêu là cho đi.
13. Khi tôn kính Trái tim Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải noi gương yêu thương của Ngài. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã yêu thương đến mức tối đa không thể nào yêu thương hơn được nữa, và yêu thương tất cả mọi người: từ những người thân (Đức Maria, các môn đệ) cho đến kẻ xa lạ (hai tên tử tội) và cho đến kẻ hành hạ mình (quân lính)…
14. Trong quyển nhật ký của ông, mục sư Martin Luther King, người đã hy sinh mạng sống để tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen, đã viết:
“Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời ai đó kể lại rằng Martin Luther King là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ có thể nói rằng tôi đã cố gắng sống cho công lý, rằng tôi đã đồng hành với những ai thực thi công lý, rằng tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, rằng tôi đã luôn luôn cho kẻ rách rưới ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói tôi đã xả thân để thăm viếng những người tù tội và yêu thương phục vụ mọi người… Còn tất cả những thứ khác, như giải Nobel hoà bình 1964 không có gì quan trọng…”
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con theo hình ảnh Chúa. Chúa đã phú bẩm cho chúng con một trái tim để yêu thương. Xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong yêu thương và phục vụ, nhất là yêu thương và phục vụ những người nghèo khổ chung quanh chúng con. (Chờ đợi Chúa)
15. Nhìn tượng Trái tim Chúa Giêsu, một người nói: “Có lẽ Chúa Giêsu là người duy nhất dám đưa trái tim bên trong của mình ra ngoài cho người ta thấy”. Người thứ hai góp ý: “Ngài là người độc nhất trong lịch sử không cần che dấu gì về mình cả”. (Onward)
Đầu tháng sáu năm 1250, khi vua Louis IX đi kinh lý các miền trong nước Pháp. Dân chúng tỉnh: ThánhTâm ABC-32
Đầu tháng sáu năm 1250, khi vua Louis IX đi kinh lý các miền trong nước Pháp. Dân chúng tỉnh Maseilles đã đóng góp nhau định dâng cho nhà vua một lễ vật đầy ý nghĩa. Và hôm ấy, khi vua đến, dân chúng đều tập họp đông đủ. Họ đề cử một cô thiếu nữ dâng lên nhà vua một quả tim bằng vàng. Bên trong có ngành bông huệ kết bằng kim cương rất quí, là biểu tượng của các vua nước Pháp, và có khắc mấy hàng chữ: “Đây là bằng chứng toàn dân tỉnh Marseilles yêu vua Louis, và họ luôn đặt vua trong trái tim họ. Nhận được lễ vật và nhận thấy dòng chữ trên, vua Louis IX hết sức cảm động, nhà vua cũng đặt tay lên trái tim và nói: “Đây là bằng chứng vua Louis yêu thương quốc dân Pháp, và luôn đặt họ những trái tim vua”.
Câu truyện trên đây rất ăn hợp với lời tổ tiên chúng ta đã nói:
“Trái tim biểu hiện tình yêu Tình yêu phát xuất theo chiều trái tim”.
Không lạ gì, khi tỏ lòng yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đã cho thánh trinh nữ Margarirta Alacoque được xem thấy Thánh Tâm của Chúa.
1. Nhưng tình yêu của Chúa là gì ?
Thi sĩ Xuân Ly Băng, đã sáng tác một vần thơ, để diễn tả Tình yêu như thế này:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu, Chỉ nhớ hôm xưa, một buổi chiều, Nhận được món quà cao giá lắm. Bây giờ hiểu đó là tình yêu”
Nghĩa là tình yêu chỉ cắt nghĩa được bằng những điệu bộ, cử chỉ bên ngoài; một món quà trao tặng người mình thương là tình yêu; một nụ cười biểu lộ với người mình thương là tình yêu; một cử chỉ âu yếm đối với người mình thương là tình yêu; những hy sinh giúp đỡ người mình thương cũng là tình yêu. Vì vậy, để diễn tả tình yêu Chúa Giêsu đã phán với thánh trinh nữ Margarirta Alacoque: “đây là trái tim đã thương yêu loài người vô cùng. Không tiếc gì với họ”. Thực thế Chúa Giêsu không tiếc gì với loài người. Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa. Khi con người sa ngã, Chúa đã bỏ trời, xuống trần gian ở với con người. Chúa đã làm bao nhiêu phép lạ để cứu giúp con người cả hồn lẫn xác. Chúa đã dạy cho con người nhận biết Thiên Chúa là cha. Chúa còn chịu chết chuộc tội con người, để đưa họ lên thiên đàng với Thiên Chúa, nên Chúa đã tuyên bố:
“Chẳng ai biểu lộ tình yêu, Tỏ cho bạn biết bằng liều tấm thân”.
Cũng vì phần rỗi loài người, và để biểu lộ tình yêu Chúa còn phán hứa với người tôn sùng Thánh tâm rằng:
1. Thánh Tâm cha sẽ chúc phúc mọi công việc họ làm. 2. Thánh Tâm cha sẽ ban ơn đầy đủ, để họ chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao phó. 3. Những tội nhân sẽ gặp nơi Thánh tâm cha nguồn an ủi vô hạn. 4. Những tâm hồn yếu đuối sẽ chóng tìm lại lòng thương xót của Thánh tâm cha. 5. Những người sốt sắng sẽ chóng nên trọn lành. 6. Thánh Tâm cha sẽ đổ ơn toàn thể xuống những nơi có đặt tượng ảnh Thánh tâm cha mà tôn kính. 7. Cha sẽ ghi tên những người cổ động việc tôn sùng Thánh tâm vào Thánh Tâm cha, mà không ai tẩy xóa được. 8. Thánh Tân cha sẽ ban cho linh mục được tài lay chuyển những linh hồn cứng rắn nhất. 9. Thánh tâm cha là nơi nương náu của những tâm hồn đang thất vọng 10. Thánh tâm cha là chốn nghỉ an của các tâm hồn trung hiếu. 11. Vì lòng thương xót vô hạn, Thánh Tâm cha hứa ban cho những người rước lễ thứ sáu đầu tháng liên tiếp, được ăn năn sau hết, và không phải chết đang khi mất nghĩa cùng cha.
Đó là những đặc ân hồn xác, thánh tâm Chúa đã ban ơn cho loài người, để tỏ lòng thương yêu họ.
2. Nhưng theo lời thánh Augustinô:
“Lòng thương muốn gọi tình yêu, Lòng thương Chúa gọi tình yêu loài người”
Nghĩa là Chúa thương xót ban ơn cho ta, Chúa lại đòi chúng ta phải yêu mến Chúa “Ít là con hãy an ủi”. Chắc anh chị em còn nhớ rằng: Khi Chúa đã sinh thì trên thánh giá ở đỉnh đồi Calvariô, có một người lính lấy đòng đâm vào cạnh sườn Chúa, trúng phải trái tim, nên máu cùng nước đã chảy ra. Tục truyền rằng: người lính đó tên là Longinô, anh vốn bị đui một con mắt. Vậy mà khi đâm trúng phải trái tim Chúa, một giọt nước pha máu đã vọt ngay vào con mắt đui của anh ta. Chúa làm phép lạ, cho anh ta khỏi đui về thể xác. Một trật thánh tâm Chúa còn cho anh ta sáng cả mắt linh hồn, là nhận biết Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, là nhận biết ơn Chúa đã ban cho mình, nên anh ta đã đền tội bằng cách tự nguyện trở nên tông đồ, đi rao giảng Chúa cho dân ngoại ở Tiểu Á và được phúc đổ máu ra vì đạo Chúa, nên dân chúng ở đó tôn kính anh như một thánh tử đạo.
Thánh Tâm Chúa cũng ban cho ta được làm người công giáo, đã tha tội cho ta nhiều lần, chúng ta hãy đền tạ thánh tâm Chúa bằng cách biết hy sinh giữ đạo sốt sắng. Dù có phải chịu nhục nhã, xỉ báng, chúng ta cũng cố gắng chịu đựng, để trở nên chứng nhân cho Chúa bằng một đời đạo đức của một người công giáo, người con của Chúa.
Kết
Báo chí công giáo có thuật lại truyện rằng: đầu tháng sáu năm 1950, Meilleure một chị thanh nữ miền quê Butague nước Pháp, lên thủ đô Paris mua đồ nữ trang. Cô đã hỏi bà chủ tiệm rằng: thưa bà, tiệm của bà có bán quả tim vàng không ? Bà chủ tiệm trả lời: có, nguyên quả tim vàng cũng có hai ba kiểu, chị Meilleure hỏi thêm, thưa bà, cháu mới ở nhà quê lên, không biết quả tim vàng có còn là đồ nữ trang hợp thời trong lúc này không ? Bà chủ tiệm chép miệng trả lời: cô này hỏi rõ hay, nếu quả tim vàng không còn hợp thời nữa, thì tiệm tôi buôn quả tim vàng để bán cho ai. Nhưng xin lỗi cô, tôi xin hỏi lại, tại sao cô lại thích mua quả tim vàng ? Cô Meilleure thưa: thưa bà, cháu là người công giáo, cháu lại là tán trợ viên của Hội Liên Minh Thánh Tâm; bởi vậy cháu muốn đeo quả tim vàng trước ngực, để quả tim đó nhắc cho cháu nhớ đến Thánh Tâm Chúa Giêsu đã thương yêu cháu. Đồng thời quả tim ấy còn nhắc rằng: Thiên Chúa để đã dựng nên con người cháu một quả tim. Thiên Chúa muốn cho cháu biết dùng quả tim ấy mà yêu mến Thiên Chúa và yêu mến phục vụ tha nhân vì Thiên Chúa. Khi cô Meilleure ra khỏi tiệm, bà chủ đã tắc lưỡi khen thầm: trong thế giới văn minh vật chất này, vẫn còn có nhiều tâm hồn đạo đức cao thượng đáng khen ngợi.
Thưa anh chị em, ngày lễ hôm nay, thánh tâm dạy chúng ta phải biến quả tim chúng ta thành quả tim vàng mà mến Chúa yêu tha nhân, mà sốt sắng giữ đạo Chúa để nêu gương sáng cho người khác, và hy sinh phục vụ tha nhân vì Chúa để đem hạnh phúc đến cho họ như lời tổ tiên đã nhắn:
“Ai ơi, sắm tấm lòng vàng, Để gây phước hạnh cho làng cho dân”.Amen.
Lời nguyện giáo dân.
Anh chị em thân mến, trong bài phúc âm hôm nay Chúa đã phán rằng: “hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với cha, cha sẽ bổ sức cho”. Có ý thúc giục chúng ta chạy đến cùng Thánh Tâm Chúa, để ban ơn hồn xác nhất là trong tháng sáu này.
1. Vậy xin Chúa cho chúng ta biết dâng gia đình cho Thánh Tâm Chúa, để gia đình chúng ta là gia đình riêng của Thánh Tâm Chúa ngự trị.
2. Xin Chúa cho chúng ta biết lần chuỗi cầu nguyện cùng Thánh Tâm Chúa hàng ngày, để Thánh Tâm Chúa ban muôn ơn phước xuống gia đình chúng ta.
3. Xin Chúa cho chúng ta biết sốt sắng cầu khấn cùng Thánh Tâm Chúa khi dự thánh lễ Chúa nhật, để Thánh Tâm Chúa cho ta được trung thành giữ đạo Chúa mà chiếm nước trời mai sau.
4. Xin Chúa cho chúng ta biết cầu khấn cùng Thánh Tâm Chúa trong những lúc gian nan khốn khó, để Thánh tâm Chúa ban ơn an ủi và sức mạnh.
5. Xin Chúa, Đức Mẹ và thánh cả Giuse ban cho
Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban ơn cho người lính Longinô, kẻ thù đâm Thánh Tâm Chúa, được khỏi đui, được đức tin Chúa, được phúc tử đạo. xin Chúa cũng ban cho mọi người trong gia đình chúng con đang sốt sắng mừng lễ Thánh Tâm Chúa hôm nay, được giữ đạo sốt sắng, được giữ vững đức tin dến cùng để gia đình chúng con thành gia đình Thánh Tâm Chúa ngự trị, để mọi người trong gia đình chúng con là những người con trung thành của Chúa, đáng được ca tụng Chúa đời đời trên thiên đàng sau này. Nhờ đức Kitô ...
Người ta thường lấy trái tim để làm biểu tượng của tình yêu. Về gốc tích, tôi không biết có từ: ThánhTâm ABC-33
Người ta thường lấy trái tim để làm biểu tượng của tình yêu. Về gốc tích, tôi không biết có từ bao giờ. Chắc có lẽ trái tim là trung tâm của cơ thể con người (hiểu theo kiểu trọng yếu chứ không theo không gian); nghĩa là, nơi cung cấp máu cho toàn bộ cơ thể. Nên thường trước đây để biết người đó chết hay sống thì xem tim họ còn đập hay không. Tim mà ngừng đập thì con người coi như đã chết, hoặc tim không bơm máu thì cơ thể sẽ khó thở. Tựu trung, trái tim rất quan trọng đối với con người. Từ đó, người ta thường dùng từ ngữ "trái tim" để nói vế một người nào đó có tấm lòng ra sao. Nếu người đó sống rộng lượng, khoan dung họ được coi là người có trái tim nhân hậu, biết chia sẻ. Bằng ngược lại sẽ bị coi là trái tim ích kỷ. Sống có tình có nghĩa sẽ dược gọi là trái tim rộng lớn hay quân tử. Ngược lại. sẽ bị coi là trái tim chai đá, nhỏ nhen. Cho nên có bài hát: Tim ghét ghen là tim héo hon, tim ghen ghét là tim úa tàn. Tim xanh xao là tim thiếu máu, tim ghen ghét là tim ghét ghen”
Dù thế nào, người ta khó chấp nhận một con tim ích kỷ chỉ nghĩ cho riêng mình dù rằng trong tình cảm cách biểu lộ có khác nhau:
CON TIM YÊU THƯƠNG THẬT SỰ LÀ BIẾT CHO ĐI CHÍNH BẢN THÂN.
Cách đấy mấy năm ở Pháp có một tin tức làm sìcăngđan dân chúng: một thanh niên đã giết người yêu của mình. Cái khủng khiếp là anh đã chặt cô ra từng khúc rồi cho vào tủ lạnh và mỗi ngày ăn từng miếng thịt. Đến khi còn mấy miếng thịt cuối cùng, thì cảnh sát mới phát hiện ra và bắt anh. Khi cảnh sát hỏi tại sao anh lại có hành vi dã mạn đối với với người yêu như vậy. anh trả lời là vì có quá nhiều người “dòm ngó” người yêu của mình, và vì sợ mất cô, lại không muốn ai có thể chiếm đoạt người yêu của mình dù chỉ là một cái nhìn, nên đã nghĩ ra cách đó để giữ người yêu hoàn toàn thuộc về mình. Anh muốn cô ta là thịt là xương là máu của mình mãi mãi. . . Tình yêu điên cuồng chăng ? Hay là mất lý trí ? Thế anh có yêu không?.Thẹo tôi nghĩ là có. Nhưng cách thể hiện tình yêu của anh thì không đúng .Bởi tình yêu thật sự là tình yêu vì sự sống của người mình yêu chứ không phải cướp đoạt hay chôn vùi sự sống. Đức Kitô đã cho chúng ta một thước đo căn bản trong tình yêu: "Không có tình yêu nào lớn hơn cho bằng hiến dâng mạng sống mình vì người mình yêu.” Ngược với anh thanh niên muốn xẻ thịt người yêu để chiếm hữu, thì Chúa Giêsu lại dùng thịt máu mình để ban cho mọi người : “ai ăn thịt và uống máu này sẽ được sự sống muôn đời (Lc 9,11b17) Đây là một bảo đảm, một mẫu gương cho tình yêu tận cùng, bởi tình yêu luôn mong muốn mang lại sự sống và hạnh phúc cho người mình yêu. “Yêu là mất đi trong lòng một ít".
Vì vậy đối với người Công giáo tháng sáu được gọi là tháng trái tim. Trong tháng này Giáo hội nhấn mạnh tình yêu Đức Kitô qua việc hiến dâng mạng sống mình để cứu chuộc loài người. Cách thể hiện độc đáo tiếp nối của tình yêu này là Ngài đã dùng chính "mình và máu (bánh Thánh Thể) để ở trong con người hầu giúp họ có được một trái tim như Ngài.
ĐIỀU KIỆN THIẾT YẾU CỦA MỘT CON TIM BIẾT YÊU THƯƠNG.
Vậy thì hãy mở rộng con tim của mình thay vì đóng khung quan điểm bằng việc đón nhân những khuyết điểm nơi tha nhân.
Hãy cung cấp máu cho con tim thay vì để hao mòn và cất giữ bằng cách tiêu hao những gì mình có không tính toán hơn thiệt.
Hảy cùng cảm xúc theo nhịp đập con tim của tha nhân thay vì chai đá, “xơ cứng" bằng cách"vui với người vui, khóc với người khóc".
Hãy luôn biết thay máu cho con tim thay vì cứ tích tụ thành ao tù mà không thông thoát bằng cách canh tân đời sống, sẵn sàng cho và nhận mà không đòi hỏi. Hãy xoa dịu con tim của mình thay vì lên cơn nóng giận, tức tối, khó chịu bằng cách tỏ ra rộng lượng khoan dung trước sự kiện và những ai xúc phạm hay gây cớ cho mình như Chúa Giêsu thốt lên: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" . Hãy luôn hiệp nhất với anh em trong cùng dòng Máu Đức Kitô thay vì chia rẽ, tách biệt, tính toán cá nhân thụ hưởng bằng cách luôn đón nhận cá tính khác biệt để chung sức xây dựng bầu khí huynh đệ trong một tập thể như ước nguyện của Thầy Chí Thánh của mình: "Lạy cha, ước gì họ nên một như Chúng Ta là một".
Và cuối cùng hãy can đảm, xé nát con tim mình ra mà trao cho người khác để máu trong cơ thể có thể thống thoáng, châu lưu mà không bị một bế tắc nào, ao tù nào tồn đọng bằng cách hy sinh vật chất, giờ giấc và chính bản thân khi tha nhân cần đến. Bởi vì đừng tưởng rằng bảo vệ được con tim mình không tỳ vết là cho rằng mình có trái tim hoàn hảo như câu chuyện sau đây:
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tỳ vết hay rạn nứt nào. Đám đông đều đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ từng thấy.
Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi !".
Chàng trai cùng đám đông ngám nhìn trái tim của cụ già. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần trái tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám và để thay thế.
Chàng trai cười nói: " Chắc cụ nói đùa ! Trái tìm của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt”
Cụ già mới từ tốn nói: "Mọi vết sẹo trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè . . . tôi xé một mẩu tim trao cho họ, thường thì họ cũng sé trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu của tôi trao lại họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và cơn cái tôi không bằng nhau nên chúng tạo ra những sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự dền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ: Lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chơ đợi.
Chàng trai đứng lặng yên không nói một lời nào với giọt nước mắt lăn trên má? Anh bước tới và xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ:. Cụ già cũng xé mọt mẩu từ trái tim đầy vết tích của cụ và trao cho chàng trai. Chúng vừa, nhưng không hoàn toàn ăn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Giờ đây trái tim của anh không còn hoàn hảo nữa nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết, vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh.
Những ai tự cho mình trái tim nhân lành, rộng lượng, là tốt đẹp, là hoàn hảo, trước khi đem ra khoe với mọi người hãy đặt trái tim đó bên cạnh trái tim đầy vết tích của Chúa Giêsu đã
Chúng ta bước vào Tháng Sáu một tháng được "Giáo hội dành riêng để kính Thánh Tâm Chúa: ThánhTâm ABC-34
Chúng ta bước vào Tháng Sáu một tháng được "Giáo hội dành riêng để kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Xin gửi lời chào tham tất cả Anh Chị Em trong Thánh Tâm Chúa. Xin tình yêu Chúa luôn ở cùng anh Chị Em, ban thật anh nhiều ơn cho anh Chị Em và hướng dẫn mọi sinh hoạt của Anh Chị Em trong tình yêu thương. Xin gửi đến Anh Chị em một ít chia sẻ về tình yêu Chúa.
Kính thưa Anh Chị Em,
Trái tim được tượng trưng cho tình yêu. Vì thế, khi nói đến trái tim Chúa Giêsu. tức là nói đến tình yêu của Chúa. Trước hết, chúng ta hãy suy nghĩ xem: Tại sao trái tim thánh Bờrêbớp được dân da đỏ hoan hỉ vui mừng giành nhau ăn, như là ăn được dũng cảm, can trường ? Tại vì thánh nhân đã can đảm chịu mọi thứ khổ hình tử đạo cho họ. Tại sao trái tim của Lêô Gambétta được dân Pháp tẩm ướp và rước trọng thể về an táng trong viện Tiên Hiền ở Pari ? Tại vì ông là một nhà đại ái quốc. Tại sao trái tim của Kơ rốtxincô được chính phủ Ba Lan rước từ Thụy Sĩ về nước ? Tại vì ông đã tận tụy yêu nước thương nòi. Tại sao trái tim của thánh Tê rêxa Hài Đồng Giêsu, một cô gái yếu ớt, chỉ sống đến 24 tuổi, ở trong tu viện cổng kín tường cao của Dòng kín Cát Minh, lại được Giáo hội tuyên dương là một thánh nữ có một trái tim vĩ đại ? Tại vì ngài có một trái tim tràn đầy những ước vọng cao cả, một trái tim yêu Chúa và yêu người trọn vẹn.
Đưa ra một số dẫn chứng trên đây, chúng ta có thể hiểu ngay được lý do tại sao chúng ta lại tôn thờ, và phải tôn thờ dặc biệt đối với trái tim Chúa Giêsu. Đúng thế, trái tim Ngài là động lực là nguồn mạch ý chí, sức sống và tình yêu, đã bị lưỡi đòng đâm thủng, trút hết giọt máu và nước cuối cùng vì yêu thương nhân loại. Vì thế trái tim ấy phải được kính yêu tôn thờ dặc biệt, vì trái tim đó chứa đựng tình yêu vĩ đại và tuyệtvờỉ c.ủa Chúa Giêsu.
Kính thưa Anh Chị Em,
Người ta nói rất đúng, câu hỏi sau cùng của mỗi vấn đề tôn giáo bao giờ cũng là "tại sao" mà không có lý lẽ nào giải thích được, chỉ có tình yêu mới giải đáp một cách thỏa đáng: Tại sao Chúa dựng nên chúng ta ? Vì Chúa yêu thương chúng ta. Tại sao Chúa nhập thể và chịu tử hình trên thập giá? Vì Chúa yêu chúng ta. Tại sao Chúa đã lập bí tích Thánh Thể? Vì Chúa yêu chúng ta. Tại sao Chúa lập Giáo hội, các bí tích, các phương thế cứu rỗi, vừa nhiều vừa thần hiệu đến nỗi người ta phải thú nhận rằng; chỉ những ai cố chấp lắm mới có thể mất linh hồn? Tại sao vậy ? Vẫn là vì Chúa yêu chúng ta.
Nhưng nếu hỏi: Tại sao Chúa yêu chúng ta? thì hết chỗ trả lời. Lòng Chúa yêu thương nhân loại là một mầu nhiệm cao siêu vời vợi. Nó giải thích được tất cả mọi mầu nhiệm nhưng không giải thích được chính mình. Vì thế, không phải tìm ở nơi chúng ta lý do tại sao Chúa yêu thương chúng ta, nhưng phải tìm giải đáp ở nơi Chúa. Tất cả chỉ vì Chúa yêu chúng ta, yêu chúng ta vô cùng, thế thôi. Thánh Gioan nói: "Thiên Chúa yêu chúng ta từ đời đời, trước khi có chúng ta và trước khi chúng ta nhạn ra tình yêu của Ngài". Thánh Phaolô còn nói: "Thiên Chúa yêu chúng ta ngay khi chúng tà là tội nhân", nghĩa là khi chúng ta phản bội Chúa, không đoái hoài đến tình yêu của Chúa, Chúa vẫn yêu chúng ta.
Vì thế, kính thờ Trái tim Chúa Giêsu là kính thờ tình yêu thương của Thiên Chúa. Tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa được tỏ bày ra nơi con người Chúa Giêsu và nhất là trong cái chết trên thập giá vì tội lỗi loài người. Trái tim Chúa Giêsu bị đâm thâu là hình ảnh rõ rệt nhất, là tiếng nói mạnh nhất về tình yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta và là một bằng chứng không thể chối cãi được của tình yêu thương lạ lùng ấy.
Khi hiện ra với thánh Magarita, vị thánh đã được Chúa mạc khải cho biết việc tôn thờ trái tím Chúa, Chúa đã chỉ vào trái tim Chúa và phán rằng: "Đây là trái tim yêu thương loài người". Chúa còn nói tha thiết hơn: "Con hãy xem trái tim này yêu thương nhân loại chừng nào", rồi Chúa nói thêm: "mà được yêu mến đáp lại rất ít, ít là con, con hãy đền đáp lại". Chúng ta hãy coi như Chúa đã phán những lời đó với mỗi người chúng ta: ít là con, con hãy đáp đền lại"
Chúng ta có thể đáp đền thế nào ? Bằng cách thể hiện tình yêu thương đối với nhau: ngay từ trong gia đình mình, đối với những người hàng xóm láng giềng, và với mỗi người chúng ta gặp gỡ giao tiếp. Chúng ta không thiếu cơ hội, hoàn cảnh, điều kiện, khả năng để đáp đền tình yêu của Chúa, mà thực ra là chúng ta có để ý, có cố gắng dể thực hiện hay không mà thôi.
Kính thưa Anh Chị em,
Giáo Hội trưng bày trước mắt chúng ta Thánh Tâm Chúa Giêsu như mẫu gương của một tình yêu lý tưởng, để mời gọi chúng ta ôn lại những bài học yêu thương chân thật: yêu như Chúa Giêsu đã yêu. Đồng thời, kêu mời chúng ta hãy đáp đền tình yêu của Chúa. Vì thế, chúng ta hãy ý thức trách nhiệm, góp tay vào công việc xây dựng nên văn minh tình thương, bằng cách trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy cố gắng thực hiện những cử chỉ và những hành động yêu thương nho nhỏ nhưng đủ mạnh để biến đổi bộ mặt gai đình, cộng đoàn và xã hội chúng ta đang sống.
Xin anh chị em hãy nhớ rằng: có nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu: đeo thánh giá nơi cổ, làm dấu thánh giá trước khi ăn...Nhưng theo Chúa Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của chúng ta là tình yêu thương mà chúng ta dành cho nhau: Cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại.....Vậy anh chị em hãy cố gắng thể hiện tình yêu thương ấy mọi nơi, mọi lúc và với mọi ngươi
Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời năm 1912, chiếc tàu khổng lồ mang tên là Titanic được: ThánhTâm ABC-35
Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời năm 1912, chiếc tàu khổng lồ mang tên là Titanic được hạ thủy và khởi hành sang Mỹ. Trong chuyến đi đầu tiên này, chiếc tàu ấy chẳng may đụng phải băng sơn, khiến cho nước ùa tràn vào và con tàu bị chìm dần dưới lòng đại dương.
Hành khách hoảng hốt tìm cách cứu thoát lấy mình và những người thân yêu trên những chiếc thuyền cứu cấp. Giữa cảnh kinh hoàng ấy, bỗng người ta nghe thấy một giọng hát vang lên:
Gần bên Chúa, linh hồn con sướng vui.
Với chúng ta cũng vậy, giữa lòng cuộc đời đầy sóng gió, khổ đau và thử thách, nếu chúng ta biết suy nghĩ về tình thương của Chúa và nhất là nếu chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Thánh Tâm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vui mừng và hạnh phúc.
Có lẽ không một lời nói nào của Chúa làm cho chúng ta xúc động bằng lời nói đầy yêu thương sau đây:
Này con, con hãy dâng lòng con cho Cha.
Khi nghe đọc những lời này, chúng ta dường như cảm thấy Chúa đang gõ cửa, đang dang tay van xin chút tình yêu thương của chúng ta.
Thực vậy, Ngài không phải chỉ van xin bằng lời nói, mà Ngài còn thực hiện sự van xin ấy bằng những việc làm cụ thể. Máng cỏ, Thập Giá và Thánh Thể đã chẳng phải là những bằng chứng hùng hồn nhất của một tình yêu điên khùng và mạnh mẽ đó sao ?
Đúng thế, mỗi năm vào dịp lễ Giáng sinh, khi quì bên máng cỏ, chúng ta không bồi hồi xúc động sao được. Hài nhi Giêsu nằm trên lớp cỏ rơm, không nói với chúng ta bằng ngôn từ, nhưng nói với chúng ta bằng việc làm, bằng chứng tích cụ thể của tình yêu:
Con thấy không Cha đã yêu thương con biết bao, chính vì yêu con mà Cha đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống đất. Cha đã đến trong thế gian, chỉ vì yêu thương con mà thôi.
Rồi trong những phút giây thinh lặng ấy, chúng ta hãy ngước nhìn lên Thập Giá và tự hỏi:
Ai đã chịu treo trên đó ?
Con Thiên Chúa.
Tại sao Ngài lại chấp nhận một cái chết tủi nhục và đớn đau như thế ?
Chỉ vì yêu thương chúng ta mà thôi.
Thực vậy, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống nghèo túng và cực nhọc. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu đánh đòn, chịu đội mạo gai và sau cùng chịu đóng đinh vào Thập Giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu lưỡi đòng đâm qua trái tim.
Suy nghĩ về cực hình Thập Giá, chúng ta phải kêu lên như thánh Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Sau cùng, hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã biết về hình ảnh người mục tử nhân lành. Đúng thế, người mục tử nhân lành dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Và khi chiều xuống, người mục tử nhân lành đưa đàn chiên về chuồng để nghỉ qua đêm.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ về bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta còn trở vượt hơn tình yêu của người mục tử nhân lành rất nhiều.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thấy được những gì ? Chúng ta thấy Chúa Giêsu trao ban chính bản thân Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Cả Mình với Máu thánh. Cả thân xác với linh hồn. Cả bản tính nhân loại với bản tính Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta đừng đáp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Và sau cùng, tước tình yêu thương vô biên của Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời nguyện cầu chân thành:
Lạy Chúa, xin cho con biết làm mọi sự vì lòng yêu mến Chúa.
Truyền thống tốt đẹp nhất của phần đông giáo dân Việt Nam chúng ta là dâng gia đình cho: ThánhTâm ABC-36
Truyền thống tốt đẹp nhất của phần đông giáo dân Việt Nam chúng ta là dâng gia đình cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, và hình như trong gia đình nào cũng có bàn thờ với tượng Trái Tim Chúa Giêsu rất đẹp, oai nghiêm, hiền từ và nhân hậu, và cũng là để nói lên cho mọi người biết rằng: gia dình này đã dâng cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, nghĩa là Ngài đang làm chủ nhà này.
Chúa Giêsu là chủ của gia đình tôi
Ở đời cái mà người ta khinh thường nhất là làm bù nhìn, tức là có tiếng mà không có miếng: tổng thống bù nhìn, bộ trưởng bù nhìn, chức kia ghế nọ chỉ là bù nhìn bởi vì đã có người khác chỉ huy sai khiến...
Chúa Giêsu là chủ của gia đình tôi, nhưng Ngài giống như một người bù nhìn, khi tôi đặt Ngài lên trên cao nhưng không thèm hỏi ý kiến Ngài khi gia đình bất hòa, con cái hư thân mất nết, gia đình tan nát...
Chúa Giêsu là chủ của gia đình tôi, nhưng tượng thánh của Ngài đặt trên cao kia giống như hình nộm: dơ bẩn, xấu xí, lại còn đem các hình ảnh bất xứng để chung ngang hàng với tượng thánh Chúa Giêsu, cho nên dễ làm cớ vấp phạm cho những người ngoại giáo, và gây sự bất kính nơi con cái trong gia đình.
Chúa Giêsu là chủ tâm hồn tôi.
Hình ảnh tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu rất rõ ràng và dễ gây xúc động cho mọi người: một quả tim với ngọn lửa cháy phần phầng. Đây không phải là ý nghĩa tượng trưng nhưng là hình ảnh sống động mà thánh nữ Magarita Maria đã thấy khi Chúa Giêsu hiện ra cho bà thấy và biết rằng Ngài rất yêu thương nhân loại, tình yêu này nóng như muốn đốt cháy, hun nóng quả tim lạnh tanh của nhân loại...
Chúa Giêsu là chủ tâm hồn của tôi, chính Ngài đã độc quyền trên tâm hồn và thân xác của tôi khi tôi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, để ban ơn, để nung nấu tâm hồn tôi trở thành nơi yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, để mỗi lời nói, mỗi việc làm của tôi đều cháy sáng lên một tình yêu phục vụ và hiến dâng.
Anh chị em thân mến,
Mừng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải chỉ là một ngày hôm nay rồi thôi, nhưng mỗi ngày trong cuộc sống, khi chúng ta sống và làm việc với một trái tim yêu thương được bắt nguồn từ Trái Tim của Chúa Giêsu, thì chính cuộc sống ấy của chúng ta mới thật có ý nghĩa.
Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy trái tim Ngài yêu thương nhân loại quá đổi đến không tiếc một thứ gì, kể cả mạng sống, thì chúng ta cũng phải có bổn phận làm cho mọi người biết rằng, chúng ta cũng có một quả tim biết yêu thương và phục vụ, biết thông cảm và tha thứ, biết hoan hỉ với người vui và ưu buồn với người ưu buồn, có như thế tượng thánh Trái Tim của Chúa Giêsu trong gia đình chúng ta mới thật có ý nghĩa và Ngài là Thiên Chúa thật của chúng ta, là chủ gia đình của chúng ta chứ không phải chỉ là bù nhìn, có cái “mác” cho đẹp như người ta triển lãm tranh ảnh...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại nhà thờ Thánh Tâm, Taiwan.
(3) Ðức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: (4) Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? (5) Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. (6) Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó". (7) Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
SUY NIỆM: “Ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối...” (Lc 15, 7)
Trong vòng một tuần, Mẹ Giáo Hội cử hành hai mầu nhiệm cao trọng của TÌNH YÊU CHÚA qua:ThánhTâm ABC-37
1. Trong vòng một tuần, Mẹ Giáo Hội cử hành hai mầu nhiệm cao trọng của TÌNH YÊU CHÚA qua lễ Mình Máu Thánh và lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Những bài giảng lễ, bài suy niệm nhằm minh chứng, ca ngợi, cảm kích và cám mến Tình Yêu Chúa dành cho loài người tội lỗi, yếu đuối, ... hẳn đã từng làm nhiều trái tim Kitô hữu thổn thức, thậm chí khóc được vì nhận ra sự xúc phạm, bội bạc, bất xứng của mình. Tuy nhiên, sau thánh lễ, sau giờ chầu, sau những phút sốt mến bên Chúa, sau khi ra khỏi nhà nguyện, nhà thờ,... cuộc sống của hầu hết các Kitô hữu không khá hơn trước là bao hoặc vẫn như cũ. Thậm chí nhiều người vẫn vô tư thoải mái theo đuổi những hành vi và lối sống nghịch với tình yêu Chúa.
Hóa ra, Chúa chẳng được gì mà ta cũng ra về tay vo. Những tâm tình và lòng sốt mến ta dâng Chúa không làm cho Chúa vui trọn vẹn. Tình Yêu Chúa luôn trào tràn và Thánh Thể Chúa luôn sẵn sàng trao ban lại chẳng thể giúp ta thăng tiến đời mình. Buồn thật.
2. Đời buồn là đời không đáng sống, vì thế, có lẽ ta cùng tìm cách thoát khỏi nỗi buồn đáng thương trên đây bằng lộ trình không mới nhưng đòi lòng khát khao và ý chí sẵn lòng cộng tác với ân sủng Chúa. Ta cùng bắt đầu bằng việc trở về lần nữa với Phụng vụ Lời Chúa lễ Thánh Tâm hôm nay.
Nếu đọc kỹ những gì được ngôn sứ Giêrêmia (bài đọc 1) và thánh sử Luca (bài Tin Mừng) diễn tả, ta sẽ thấy rằng ngoài vẻ đẹp khôn vời về tình yêu Thánh Tâm thể hiện nơi hình ảnh vị mục tử nhân lành, thì vẫn còn đó, nguyên si và lung linh hình, ảnh của các con chiên có vấn đề: đi mất, đi lạc, bị thương, bệnh tật, ... Chính những con chiên khiếm khuyết này tạo cơ hội cho trái tim vị mục tử bừng sáng khi chiên đồng ý trở về, để cho mình được chăm sóc và chữa trị, chịu uống thuốc, chịu nằm yên trên vai người chủ chăn đang rảo những bước vui mừng qua chặng đường dài gai góc, ... Thành thử, dù có đáng bỏ, đáng trách, đáng chết, ...thì con chiên vẫn mang phẩm giá và vai trò không thể thay thế trong công trình chăm sóc và yêu thương của vị mục tử.
3. Sự ngoan ngoãn của những con chiên này hẳn làm ta giật mình nghĩ lại: Tình yêu của Chúa chỉ đi đến cùng đích, đến sự hoàn bị khi ta biết đơn thành tin nhận Chúa yêu ta đến độ hiến mạng sống để cứu ta ; khi ta biết vui vẻ mở lòng cho Chúa đổ Tình Yêu của Người vào lòng ta (bài đọc 2) để ta bước vào ngưỡng cửa của hành trình công chính hóa ; khi ta biết thành tâm suy cảm về Tình Yêu Chúa để kiên trì từng ngày sống giới răn yêu thương của Người ; và nhất là khi ta biết hăng hái và vui tươi họa lại những cử chỉ yêu thương Chúa dành cho ta trong cuộc sống hằng ngày, nơi những cuộc gặp gỡ, trao đổi, tìm kiếm,... với anh chị em.
Nói như thế xem ra hợm hĩnh, nhưng lại ít nhiều làm vang vọng nơi đây xác tín của thánh Augustinô xưa: Chúa không thể cứu con nếu con không cộng tác. Do đó, khi để yên cho Chúa yêu ta, khi đồng ý đi vào hoạch lộ yêu thương của Chúa, khi ngoan ngoãn thực hiện những gì Trái Tim Chúa mách bảo, là ta đang đền đáp lại tình yêu của Chúa. Sự đền đáp này quý hóa đến độ nó quyết định vận mệnh cuối cùng của đời ta: được sống hay là chết ? đại hạnh hay đại họa ? được Chúa hay là mất Chúa ? Chẳng ai muốn chết, chẳng ai muốn lê đời mình trong đại họa, chẳng ai muốn để mất Chúa trong đời mình. Vậy thì, ta cùng dành ít phút để xin Chúa bày dạy ta cách đáp đền Tình Yêu ấy bằng tình yêu giòn đuối của trái tim phận người nơi ta ; và dĩ nhiên, đừng quên thưa vâng với Chúa rồi xin Chúa giúp sức cho ta làm điều Chúa bảo ta làm, để gọi là đền đáp Tình Yêu.
4. Con xin lỗi Tình Yêu vì đã bao lần để Người hụt hơi rong đuổi con đang khi con mải mê tìm kiếm tình đời. Con tạ ơn Tình Yêu vì đã kiên nhẫn đợi gọi con từng giây từng phút để mãi đến hôm nay con mới hiểu được thế nào là đền đáp Tình Yêu. Vậy hãy giúp con, lạy Thiên Chúa của con, lạy Tình Yêu vô bờ lân tuất: này trái tim con, xin trao lại cho Người, xin Người uốn nắn và phục hồi cho con. Amen.
Trong lịch Phụng vụ, ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được ghi là ngày thế giới xin ơn: ThánhTâm ABC-38
Trong lịch Phụng vụ, ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được ghi là ngày thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục.
Chỉ mấy dòng chữ đó thôi cũng gợi cho chúng ta thấy: Thánh hoá các linh mục đang trở thành một nhu cầu thế giới. Thánh hoá các linh mục là một ơn ta phải xin với Chúa. Thánh hoá các linh mục được hiểu một cách cụ thể là theo mẫu gương Thánh Tâm Chúa.
Gợi ý nào trên đây cũng rất phong phú. Nhiều sách đạo đức đã bàn rộng. Nhiều người thiện chí đã hiểu sâu.
Ở đây, tôi chỉ xin góp phần nhỏ vào việc đạo đức nói trên. Phần nhỏ đó là ta nên cầu xin ơn thánh hoá các linh mục với tâm tình thế nào.
1/ Cầu nguyện cho linh mục với tâm tình kính trọng và cảm thương chân thành
Kính trọng và cảm thương nói đây là một yêu cầu đạo đức của nhân bản, của văn hoá, nhất là của Phúc Âm.
Bởi vì linh mục mang rất nhiều bổn phận quan trọng đáng kính và đáng được nâng đỡ.
Thực vậy, Ngài có bổn phận phải sống mật thiết với Chúa, Đấng đã ban cho ngài chức quyền cao quý.
Ngài có bổn phận phải hiệp thông chặt chẽ với Hội Thánh, một thực thể được Chúa thiết lập như dụng cụ và dấu chỉ của sự cứu rỗi.
Ngài có bổn phận phải cộng tác một cách khiêm nhường và hiếu thảo với Đức Giám Mục của ngài.
Ngài có bổn phận phải phục vụ cộng đoàn được trao phó. Phục vụ theo gương Chúa Giêsu, "Đấng đến không để được hầu hạ mà để hầu hạ" (Mc 10,45), Đấng nên gương phục vụ hết tình qua việc rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,5) trước khi tự nguyện đi vào cuộc thương khó dẫn đến cái chết trên thánh giá (x. Ga 20,21).
Ngài có bổn phận phải loan báo Tin Mừng và làm chứng về Chúa cho mọi người, cho quê hương yêu dấu.
Kể ra bằng ấy bổn phận vẫn chỉ là phác hoạ sơ sài hình ảnh linh mục. Nhưng hình ảnh thô sơ đó vẫn mang những chiều kích thiêng liêng rất đáng kính trọng.
Những chiều kích thiêng liêng ấy là những tiếng gọi khác nhau của tình yêu Thiên Chúa.
Điều quan trọng là linh mục biết đón nhận những tiếng gọi ấy. Và khi ý thức được đúng những đòi hỏi của những tiếng gọi ấy, linh mục sẽ càng cảm thấy mình rất cần đón nhận ơn Chúa và những đỡ nâng của bất cứ ai. Bởi vì, các ngài mang thân phận con người, cảm nghiệm thấm thía những yếu đuối, những bất xứng và những giới hạn của mình.
Vì thế, dù các linh mục của ta đạo đức đến đâu, chúng ta vẫn hãy cứ cầu nguyện cho các ngài. Phương chi khi các ngài có vẻ như bị rơi vào một cảnh khó khăn nào đó, chúng ta càng cần cầu nguyện cho các ngài.
Trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta hãy cầu nguyện với tâm tình kính trọng và cảm thương. Việc cầu nguyện như thế chắc chắn sẽ rất đẹp lòng Chúa. Đó cũng là một cách chúng ta tỏ lòng biết ơn và đền ơn đối với Chúa, Hội Thánh và các linh mục.
Cùng với tâm tình kính trọng và cảm thương, chúng ta còn cần cầu nguyện cho linh mục với tâm tình khiêm tốn cộng tác với Chúa.
2/ Cầu nguyện cho linh mục với tâm tình cộng tác với Chúa
Tâm tình cộng tác với Chúa nói đây là cầu cho các linh mục được sống theo thánh ý Chúa.
Những điều Chúa muốn nơi linh mục thì nhiều. Nhưng điều Chúa muốn hơn hết nơi ngài là ngài hãy đặt đời sống thiêng liêng lên hàng đầu. Trong cuốn "Hướng dẫn sứ vụ và đời sống linh mục", Toà Thánh quả quyết đời sống thiêng liêng phải chiếm địa vị ưu tiên tuyệt đối nơi linh mục.
Đời sống thiêng liêng cốt ở sự "ở lại với Chúa" (Mt 3,14). Nó được tồn tại và tăng cường bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện liên lỉ theo gương Chúa Giêsu. Cầu nguyện thiết tha cùng nhịp với Hội Thánh.
Nhờ đời sống thiêng liêng đó, linh mục mới có thể làm chứng hữu hiệu cho Chúa qua đức ái vô vị lợi, qua đức vâng lời khiêm tốn, qua đức khó nghèo và khiết tịnh từ bỏ chính mình, qua đức nhiệt thành rao giảng Lời Chúa.
Thiếu đời sống thiêng liêng, người linh mục sẽ dễ rơi vào hoàn cảnh làm linh mục, chứ không thực sự là linh mục của Chúa.
Vì thế, khi cầu cho linh mục, ta nên khẩn khoản xin Chúa cho linh mục được sống theo thánh ý Chúa, tức là ưu tiên biết lo cho đời sống thiêng liêng của mình.
Nếu đời sống thiêng liêng nơi một linh mục dần dần trở nên khô cạn, rồi cả linh mục lẫn cộng đoàn của linh mục coi đó là chuyện bình thường, không chút áy náy, thì tình hình đạo nơi đó sẽ khó tránh khỏi những hậu quả đáng lo ngại.
Công bằng mà nói, nhiều trường hợp đời sống thiêng liêng nơi linh mục bị giảm sút, cũng một phần do những yếu tố bên ngoài tác động. Trong những yếu tố bên ngoài đó, không thiếu yếu tố nội bộ. Ngoài ra, ác quỷ vô hình bao giờ cũng rất hăng say tìm cách làm hư những người theo Chúa. Mưu mô của chúng thường được trá hình dưới nhiều hình thức và động lực mang màu đạo đức.
Vì thế, cầu cho ơn thánh hoá linh mục nhiều khi cũng nên kèm theo việc xin Chúa thanh luyện cơ chế, bầu khí và cộng đoàn mà linh mục cùng chung sống.
Chia sẻ trên đây của tôi chỉ là một ý kiến nhỏ về một vấn đề lớn.
Mong rằng, thao thức này cũng được kể như một lời cầu nguyện chân thành tha thiết hiệp thông. Với ý thức rằng: Vấn đề này đang và sẽ còn trở thành phức tạp. Nó sẽ là một thử thách lớn cho Hội Thánh toàn cầu nói chung và cho Hội Thánh Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, nếu chúng ta vững tâm cầu nguyện với Thánh Tâm Chúa, thì vấn đề này, dù khó khăn đến đâu, cũng sẽ được giải quyết tốt đẹp. Các linh mục của chúng ta sẽ được ơn phản chiếu tình yêu cứu độ của Thánh Tâm. Dù trong hoàn cảnh nào, các ngài sẽ là những linh mục của Thánh Tâm, dấn thân đưa tình yêu Chúa vào các linh hồn đang đợi chờ Nước Chúa.
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu đã có ngay từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội. Từ thế: ThánhTâm ABC-39
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu đã có ngay từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội. Từ thế kỷ XVIII, sau khi Chúa Giêsu mạc khải cho Thánh Nữ Maguerite Marie d’Alacoque và Chân Phúc La Colombière, thì lòng sùng kính Thánh Tâm càng ngày càng phổ biến trên thế giới và trở thành một hiện tượng nổi bật trong đời sống của Giáo Hội. Trong bối cảnh đó, năm 1856 Đức Giáo Hoàng Piô IX đã ban hành một sắc chỉ tuyên bố Lễ Thánh Tâm là lễ mừng của toàn thể Giáo Hội. Năm 1956 nhân kỷ niệm 100 năm ngày thiết lập Lễ Thánh Tâm, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã ban hành Tông Huấn Haurietis Aquas nói về lòng sùng kính Thánh Tâm.
Ở Miền Bắc nước ta những năm trước 1954, lòng sùng kính Thánh Tâm đã phát triển rất mạnh. Lúc bấy giờ Miền Bắc đã có báo Trái Tim Chúa, có Hội Thánh Tâm. Các gia đình Công Giáo thường treo bằng sắc của Hội Thánh Tâm và trưng bày ảnh tượng Thánh Tâm.
Ở Miền Nam, trước năm 1975, Liên Minh Thánh Tâm do cha Giacôbê Đào Hữu Thọ, DCCT, làm linh hướng đã xây dựng được rất nhiều chi hội tại các Giáo Phận và có những sinh họat rất phong phú và đa dạng. Một số chi hội Thánh Tâm vẫn tiếp tục sinh hoạt cho đến nay. Hiện tại, ở Miền Bắc cũng như Miền Nam nước ta nhiều Nhà Thờ vẫn đọc kinh cầu Trái Tim Chúa Giêsu và làm việc đền tạ kính Thánh Tâm các thứ sáu hàng tuần và vào tháng sáu hằng năm.
Chúng ta thấy việc sùng kính Thánh Tâm tại Việt Nam cũng như trên thế giới được thực một cách hết sức trọng thể và thành kính. Sở dĩ như vậy là bởi vì Giáo Hội thấy Thánh Tâm không đơn thuần là một bộ phận trong cơ thể của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người, mà Thánh Tâm còn là biểu tượng cho tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu. Chính tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu đã thúc đẩy Chúa Giêsu nhập thể làm người, bày tỏ cho con người biết lòng nhân từ vô biên của Đức Chúa Cha.
Chính tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu đã khiến Chúa hiến dâng mạng sống mình trên thập giá. Chính tình yêu cứu độ ấy đã bị đâm thâu. Chính tình yêu cứu độ ấy, đã đổ đến giọt máu cuối cùng để cứu chuộc thiên hạ. Chính tình yêu ấy đã khiến Chúa Giêsu hiến dâng thân mình cho con người trong Bí Tích Thánh Thể. Chính tình yêu cứu độ của Chúa đã khiến Chúa tha thiết mong ước con người đến với mình để được an nghỉ trong tình yêu, để được tình yêu cất đi những gánh nặng nề của đau khổ, của dục vọng, của tội lỗi. Chúa đã yêu thương những kẻ thuộc về Người và Người yêu thương đến cùng.
Thực ra ngay khi còn sống ở thế gian, Chúa đã chứng tỏ tình yêu vô bờ bến của Ngài dành cho con người. Chẳng hạn đọc những trang Tin Mừng nói về chuyện Chúa cứu chị phụ nữ ngoại tình, chuyện Chúa cứu chữa người mù tử thuở mới sinh, chuyện Chúa chữa người bại liệt, chuyện Chúa củng cố tinh thần người cha bằng cách cho con ông được khỏi bệnh và củng cố tinh thần người mẹ bằng cách cho con trai bà được sống lại. Chuyện cho ông Ladarô sống lại. Vân vân và vân vân...
Chúng ta thấy tất cả đều thể hiện tình yêu thương nhân từ của Chúa. Mỗi phép lạ ngài thực hiện, mỗi lần ngài cứu giúp một ai đó đều là một câu chuyện của tình yêu. Con tim rực lửa yêu thương của ngài phơi bày cho chúng ta thấy và mời gọi chúng ta đón nhận. Con tim ấy không giữ trong lòng cho riêng Người nhưng muốn trao ban tất cả cho con người. Con tim ấy muốn được sống trong lòng những người khác, nuôi sống người khác bằng dòng máu tình yêu ngọt ngào của mình.
Chúa đã yêu thương con người bằng một tình yêu như thế cho nên trong tình yêu chúng ta thấy việc tôn sùng Thánh Tâm ngài là lẽ đương nhiên. Việc tôn sùng Thánh Tâm là một đòi buộc của tình yêu: Nếu Chúa đã yêu thương chúng ta như vậy, thì chúng ta cũng phải đón nhận tình yêu của Người. Nếu Chúa đã yêu thương chúng ta như vậy, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Người yêu thương chúng ta. Tôn sùng Thánh Tâm là thái độ của con người biết lấy tình yêu mà đón nhận tình yêu, lấy tình yêu mà đáp trả tình yêu.
Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, việc tôn sùng Thánh Tâm còn khẩn thiết hơn xưa. Vì chúng ta đang sống trong một thế giới thiên về vật chất và kỹ thuật. Con người trở nên như một thứ máy móc chỉ còn biết làm việc và hưởng thụ trong một hệ thống sản xuất và tiêu thụ. Trái tim con người đã bị hoá đá. Tình yêu của con người bị tha hoá, bị đồng nghĩa với việc tìm kiếm và thoả mãn dục vọng. Tình yêu không còn được coi là một ơn huệ, một niềm hy vọng cứu độ, một cơ may hạnh phúc. Văn minh của con người đang có những biểu hiện của một nền văn minh chết chóc. Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta trở về với Thánh Tâm, có nghĩa là chúng ta trở về với tình yêu Thiên Chúa, thì tình yêu Thiên Chúa sẽ thánh hoá chúng ta, giúp chúng ta có được “một quả tim bằng thịt, một quả tim biết yêu thương”, để chúng ta học biết yêu thương và xây dựng nền văn minh tình thương.
Chúng ta thấy hình ảnh Chúa Giêsu đang chỉ ngón tay vào trái tim rực lửa của mình. Chúng ta cũng nghe Chúa nói: “Thầy đã mang lửa vào thế gian và thầy mong muốn cho lửa ấy cháy bừng lên”. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”.
Chúa Giêsu đang tha thiết mời gọi chúng ta đến cùng Thánh Tâm để chúng ta được đón nhận tình yêu nồng nàn của Người, được tình yêu của ngài thanh luyện và nhất là để cho tình yêu của Người rực cháy trong tim mỗi người chúng ta. Con người chúng ta dù đang mang những gánh nặng nề của tội lỗi, dù đang bị mệt mỏi bởi cuộc sống hưởng thụ, dù đang bị quay quắt, bất an bởi dục vọng, dù đang bị bận tâm bởi những lo toan trăm chiều của đời sống thường ngày, v.v..., chúng ta sẽ được nghỉ yên trong bình an và hạnh phúc nếu chúng ta đến cùng Thánh Tâm Chúa và đón nhận tình yêu của Người.
Xin Chúa Giêsu lôi kéo chúng con, gìn giữ chúng con để chúng con biết nhìn lên Ngài Đấng đã bị đâm thâu vì chúng con. Amen.
Lm. T.H., DCCT, 21.6.2006
------------------------------
ThánhTâm ABC-40: MỪNG KÍNH LỄ THÁNH TÂM Maranatha sưu tầm
Tháng sáu hàng năm được Giáo Hội dành kính để mừng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, là Lễ: ThánhTâm ABC-40
Tháng sáu hàng năm được Giáo Hội dành kính để mừng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, là Lễ mà các tín hữu Công giáo thường đặc biệt yêu mến và cổ vũ. Lòng sùng kính này mặc dù được chính thức thực hành và có cơ sở thần học bắt đầu từ thế kỷ 18, nhưng thực ra đã bắt nguồn từ thời Trung Cổ. Lễ kính Thánh Tâm dường như bắt nguồn từ việc tôn kính “Nương Long Chúa.” Hai bản chuyên luận của Thánh Bonaventure ‘Vitis mystica’ (trước đây cho là của thánh Bernard) và ‘De ligno vitae’ bàn về việc tôn kính này.
Các trích đoạn của bản chuyên luận được đưa vào Kinh Nguyện của ngày lễ, và việc tôn kính dường như được phong phú hóa thêm nhờ những thị kiến của thánh Mechtild của Hackeborn (từ trần năm 1299) và thánh Gertrude (từ trần khoảng năm 1302), cả hai đều thuộc tu viện Helfta. Nhưng việc sùng kính chỉ giới hạn giữa một số nhỏ các vị thánh và nhà huyền bí, ví dụ như Julian của Norwich và thánh Frances của Roma. Vào thế kỷ 16 trở đi, một hướng đi mới cho việc tôn kính này xuất hiện, mở rộng từ thị kiến của các nhà huyền bí thành tập quán tu tập của các nhà khổ tu. Sau đó, các tu sĩ dòng Tên tại Pháp và thánh Francis de Sales với dòng Đức Mẹ Đi Viếng nhiệt thành cổ võ cho việc tôn kính này,. Hai dòng này đã hợp tác để đem Thánh Tâm Chúa chính thức đi vào mạch sống Giáo Hội. Tuy nhiên, thánh Gioan Eudes mới là người đầu tiên đưa ra những suy tư thần học và nền tảng phụng vụ cho việc tôn kính và mừng lễ. Nhưng những nỗ lực của Ngài không được đáp ứng nhiều mãi cho đến khi những thị kiến (1673 1675) của nữ tu dòng Đức Mẹ Đi Viếng tên Margaret Maria Alacoque mới định hình việc tôn kính và có thể thức rõ ràng. Tuy vậy, trong Giáo Hội Công Giáo, việc tôn kính chính thức chỉ được cho phép vào năm 1765, khi Đức Giáo Hoàng Clement XIII chấp thuận có thánh lễ và kinh nguyện cho ngày lễ này.
Lễ được tôn kính vào thứ Sáu sau ngày lễ Mình Thánh Chúa Kitô. Vào nằm 1856, Đức Piô IX mở rộng lễ mừng đến Giáo Hội hoàn vũ; năm 1889, Đức Leo XIII nâng lễ lên Lễ Trọng bậc Nhất, và 10 năm sau đó, Ngài trân trọng cung hiến nhân loại cho Thánh Tâm Chúa. Thánh Lễ và kinh nguyện của Lễ này sau đó được Giáo Hoàng Piô Xi nhuận sắc vào năm 1928 khi lễ có thêm tuần bát nhật đặc biệt. Tuần bát nhật bị bỏ vào năm 1960. Năm 1969, lịch phụng vụ Rôma nâng lễ này lên bậc trọng.
Đối với tín hữu Việt nam, chúng ta bày tỏ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa đi kèm với việc chầu Thánh Thể, tuần cửu nhật…và hát những bài ca, câu kinh quen thuộc như: Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu là Vua cai trị mọi loài, xin Thánh Tâm Chúa làm Vua cai trị lòng con suốt đời. Và: Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa. Những bài hát và câu kinh này đã ăn sâu vào tâm trí và môi miệng của những người tín hữu lâu năm khi đi nhà thờ đọc kinh, nên mỗi lần lập tại chốn xa, làm cho người đọc mang máng một tâm hồn hoài cảm, ý thức thêm bài học Chúa dạy thâm thúy và mang nặng tâm tình của người môn đệ đích thực. Hai chữ “trong lòng” có làm cho một số bạn trẻ hay đùa nói với nhau, Thiên Chúa chỉ dạy khiêm nhường “trong lòng” nên chúng ta có thể “kiêu ngạo bên ngoài”, miễn là trong lòng khiêm nhường là được.
Nói đùa chơi như thế, nhưng các bạn trẻ đều ý thức một điều rất quan trọng trong cuộc sống và lời giảng dạy của Chúa Giêsu: Ngài không dạy nhiều, nhưng đi vào thực chất của vấn đề. “Hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em.” và “Hãy học cùng Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường.” (Ga 13, 3435 và Mt 11, 29). Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu nhắc nhở đến tình yêu thương vô biên của Chúa cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là món quà vô giá mà Thiên Chúa Cha trao ban cho con người, và Chúa Giêsu vừa là món quà, vừa là sứ điệp, và cũng là Đấng Cứu Độ cho con người. Không thể làm gì nếu không có ơn Chúa, và không thể làm gì tốt đẹp nếu không lấy Chúa làm tâm điểm và mục đích cho cuộc đời chúng ta. Người tín hữu muốn xác tín cuộc sống đạo đức của mình phải lấy việc kết hiệp mật thiết với Chúa qua đời sống cầu nguyện và trung thực đối diện với Thiên Chúa.
Một người mẹ bị chứng đau tim nặng và bác sĩ khuyến cáo rằng nếu bà không được giải phẩu:ThánhTâm ABC-41
Một người mẹ bị chứng đau tim nặng và bác sĩ khuyến cáo rằng nếu bà không được giải phẩu thay tim ngay thì ngày sống còn lại của bà chỉ được đếm trên mấy đầu ngón tay. Thế rồi người ta đề nghị một trong các con của bà hiến tim cho mẹ để cứu lấy sinh mạng của bà.
Khi người anh cả được mời gọi hiến tim cho mẹ, thì dù rất thương mẹ, anh ta cũng lắc đầu từ chối với lý do: anh là con trai trưởng, là rường cột của gia đình, anh cần sống để chăm sóc đàn em, để trông coi nhà từ đường, để nối dõi tông đường, vân vân. Anh đề nghị đứa em gái nên hiến tim cho mẹ thì hợp lý hơn, vì theo anh nghĩ: tim người phụ nữ có lẽ thích hợp cho người phụ nữ hơn!
Đứa em gái nghe vậy giẫy nẩy lên và quyết liệt từ chối với lý do cô là con gái duy nhất trong nhà và gia đình nào cũng cần có bàn tay người phụ nữ trông nom sắp xếp mới gọn gàng trật tự. Thiếu cô thì lấy ai đi chợ nấu ăn; thiếu cô thì lấy ai quét dọn nhà cửa, giặt giũ áo quần cũng như đảm đang nhiều việc nội trợ rất quan trọng khác… Vậy cô cần phải sống. Có lẽ đứa em trai út vốn hay lêu lỏng chơi bời, là người vô tích sự, chịu hiến tim chết thay cho mẹ thì phải lẽ hơn…
Đến lượt mình, đứa em nầy cũng viện lý do là nó mới chỉ mười sáu tuổi tròn, chưa hưởng đời được bao nhiêu, lẽ nào lại từ giã cuộc đời quá sớm! Anh Hai hoặc Chị Ba đã hưởng được nhiều vui thú trên đời hơn nó cả chục năm rồi, nếu có phải giã từ đời nầy trước đứa em út, thì cũng không có gì để ân hận… Thôi, Anh Hai hoặc Chị Ba vui lòng hiến tim cho mẹ thì phải lẽ hơn.
Thế là, dù yêu thương mẹ vô vàn, nhưng không người con nào yêu đến nỗi dám hiến tặng trái tim cho người mẹ yêu quý của mình.
Thế nhưng có một Đấng vô cùng cao cả và đầy quyền năng, không những đã hiến ban Trái Tim mà còn toàn cả thân xác và mạng sống của Người để cứu độ chúng ta. Đó là Ngôi Hai Thiên Chúa. Người đã hạ mình xuống thế, mang lấy tội lỗi chúng ta và chết thay cho chúng ta.
“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (I Phêrô 2, 24)
Trước mặt Thiên Chúa toàn năng tốt lành cao cả thì loài người chúng ta chỉ là sâu bọ, chỉ là cỏ rác, cát bụi thấp hèn, thế mà Chúa Giê-su, là Chúa Tể càn khôn, là Vua của muôn vua, là Đấng quyền năng và vô cùng cao cả đã vui lòng hiến ban thân xác và mạng sống cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng ta.
Thật là điều nhiệm mầu của tình yêu mà trí khôn loài người không hiểu thấu được.
Trên thập giá, Chúa Giê-su trao ban cho chúng ta không những Trái Tim bị đâm thủng mà còn cả sinh mạng của Người với trọn vẹn tình yêu và lòng tha thứ vô biên.
Từ đó, Thập giá Chúa Giê-su trở thành biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Gioan 3, 16)
Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương của Chúa Con: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình.” (Gioan 15, 13)
Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su, chúng ta không tôn thờ hình ảnh trái tim rỉ máu của Chúa Giê-su nhưng tôn thờ Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa mà Thánh Tâm là biểu tượng.
Xin Thánh Tâm Chúa Giê-su dạy chúng ta bài học yêu thương cơ bản: yêu thương không phải là chiếm đoạt nhưng là trao ban.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một mình.” (Gioan 3, 16)
“Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho người mình yêu.” (Gioan 15, 13)
Trong đời sống đức tin đạo Công giáo có ba lễ chính mừng kính mầu nhiệm ơn cứu chuộc của: ThánhTâm ABC-42
Trong đời sống đức tin đạo Công giáo có ba lễ chính mừng kính mầu nhiệm ơn cứu chuộc của Chúa: lễ Chúa Giêsu Giáng sinh làm người, lễ Chúa Giêsu Sống lại và lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Ba ngày lễ trọng này là trung tâm của mầu nhiệm đức tin, mà từ hơn hai nghìn năm nay Giáo Hội Công giáo luôn mừng kính, để nhắc người tín hữu nhớ đến nguồn đức tin chân thật, cùng làm nền tảng cho những lễ mừng kính khác trong năm phụng vụ của Giáo Hội.
Ngoài ba lễ chính mừng kính trọng thể mầu nhiệm ơn cứu chuộc của Chúa, còn có những ngày lễ trọng khác mừng kính diễn tả sức sinh động của mầu nhiệm ơn cứu chuộc nữa. Đó là các ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, lễ Chúa Kytô là vua vũ trụ, lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Lễ mừng Thánh tâm Chúa Giêsu
Ngày lễ kính Thánh tâm Chúa Giêsu được thiết lập trong lịch phụng vụ của Giáo Hội dưới thời đức Giáo hoàng Piô IX.năm 1856.
Lễ kính Thánh tâm Chúa Giêsu có nền tảng nguồn gốc từ con đường linh đạo lòng sùng kính Thánh tâm Chúa Giêsu thời Trung Cổ của các Thánh như Gioan Eudes, Heinrich Seuse, nhất là của Thánh nữ Magaretta Maria Alacoque bên Pháp (1689).
Những vị Thánh này đã suy ngắm, cảm nhận ra bằng con mắt đức tin hình ảnh trái tim Chúa Giêsu bị đâm xuyên qua cạnh sườn lúc Ngài bị treo trên Thánh giá, là dấu chỉ sự hy sinh dấn thân của Chúa Giêsu cho ơn cứu chuộc con người.
Lễ mừng kính này được Giáo Hội ấn định vào ngày thứ sáu thứ ba sau lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, hay một tuần sau lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu. Năm nay, lễ mừng vào ngày thứ sáu 30.05.2008.
Ý nghĩa đạo đức thần học
Theo tục lệ người Do Thái, được ghi chép trong sách Đệ Nhị Luật (21,22 …): người bị kết án tử hình không được treo xác qua đêm trên mặt đất, nhưng phải chôn xác họ ngay trong ngày hôm đó.
Ngày Chúa Giêsu Kitô bị kết án đóng đinh trên thập gía là ngày thứ sáu, chiều áp lễ ngày Sabát, một ngày lễ trọng của người Do Thái. Căn cứ theo luật lệ trong xã hội và đạo giáo thời đó, họ đến xem Chúa Giêsu đã chết chưa để còn cho hạ xác xuống. Dù thấy Chúa Giêsu đã chết, nhưng để kiểm soát cho chắc chắc, một anh lính lấy đòng giáo đâm vào cạnh sườn bên trái của Chúa Giêsu. Từ vết thương mở ra đó nước và máu trong trái tim chảy tuôn xuống, một dấu hiệu chắc chắn Chúa Giêsu đã qua đời rồi.
Dòng nước và máu chảy đổ xuống tuôn ra từ trái tim Chúa xưa nay đã là nguồn cảm nhận cho những suy niệm đạo đức. Ngày từ thời Giáo Hội sơ khai lúc ban đầu, người ta đã tin tưởng nhận ra trong những dấu chỉ này hình ảnh của Bí tích Rửa tội và Mình Máu Thánh Chúa, có nguồn gốc từ sự chết của Chúa Giêsu.
Thánh Gioan Tông đồ của Chúa, người đã cùng với Đức Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh gía Chúa lúc Chúa bị đóng đinh và tắt thở, cùng hạ xác Chúa xuống, và sau này cũng là người viết Phúc âm thuật lại cảnh tượng này, đã không chỉ thuật lại sự việc nhìn xem tận mắt như nhân chứng, nhưng Ông còn muốn dẫn người đọc tìm lần đến đức tin vào Chúa: Nước và máu từ trái tim Chúa Giêsu hy sinh chịu chết diễn tả hình ảnh dấu chỉ về ơn cứu chuộc.
Nước là hình ảnh dấu chỉ của Bí tích Rửa tội. Thánh Phaolô đã viết về điều này: „Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.“ ( Roma 6,3-4)
Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã làm phép biến Tấm Bánh và chén rượu thành Mình và Máu Người làm lương thực cho đức tin người tín hữu Chúa: Người hiến mạng sống thân xác mình, cùng đổ máu ra cho con người.
Từ nơi trái tim dòng máu được gạn lọc bơm chuyền đi khắp cùng thân thể mang sức sống cho mọi cơ quan bắp thịt trong con người. Máu Chúa Giêsu tuôn chảy từ trái tim nói lên đầy đủ ý nghĩa Bí tích Thánh Thể là dòng sức sống cho đức tin tâm hồn con người.
******
Trên Thánh gía trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: Mọi sự đã hoàn tất ( Ga 19,42).
Mọi sự đã hoàn tất trong Bí tích tình thương yêu. Từ trái tim Chúa Giêsu tuôn chảy dòng nước và máu nguồn sự sống ơn cứu chuộc tình yêu thương cho linh hồn con người.
Chúa Nhật hôm nay nói đến tình thương xót bao la của Thiên Chúa đối với những tội nhân biết: ThánhTâm ABC-43
Chúa Nhật hôm nay nói đến tình thương xót bao la của Thiên Chúa đối với những tội nhân biết nhìn nhận tội lỗi mình và thành thật ăn năn sám hối. Bài Đọc I (2 Samuel 12:7-10,13): Vua David đã được Chúa chọn và xức dầu để làm Vua Israel , nhưng ông đã phạm tội thật nặng nề; tuy nhiên ông đã thật lòng ăn năn tội lỗi và Thiên Chúa đã tha tội cho ông. Bài Đọc II (Galat 2:16, 19-21): Chúng ta được công chính hoá là nhờ lòng tin vào Chúa Kitô, Đấng đã chịu chết để đền tội lỗi chúng ta; theo gương Thánh Phaolô “chúng ta hãy sống trong lòng tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã yêu thương chúng ta và hy sinh chính mình cho chúng ta.” Bài Phúc Âm (Luca 7:36- 8:3): Người đàn bà tội lỗi đã đến với Chúa Giêsu và khóc lóc ăn năn sám hối tội lỗi và vì thế “tội của bà thật nhiều, nhưng đã được thứ tha.”
Chính vì để cứu chuộc tội lỗi chúng ta, mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã “Xuống Thế Làm Người” và chịu khổ nạn chịu chết trên Thánh Giá. Chúa Giêsu đến là để tìm kiếm những người tội lỗi , như Chúa đã nói với người Do Thái: “Ta đến không phải để tìm người công chính nhưng tìm người tội lỗi biết sám hối ăn năn.” (Luca 5:32). Trong Phúc âm còn ghi nhiều Dụ Ngôn Chúa Giêsu đã kể để nói lên tình thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân khi họ thật lòng nhìn nhận tội lỗi của mình và ăn năn sám hối, như dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” (Luca 15:11-32), dụ ngôn “Con Chiên Lạc” (Luca 15:4-7), dụ ngôn “Đồng Bạc Bị Đánh Mất” (Luca 15:8-10).
Xét ra thì tội của Vua Đavít thật là nặng nề, xấu xa (Xin xem 2 Samuel chương 11); nhưng khi Tiên Tri Nathan được Thiên Chúa sai đến để nói cho Nhà Vua biết, Vua đã không tự ái, nỗi giận với tiên tri, nhưng đã khiêm nhường nhận tội của mình và xin Chúa tha thứ. Đó là lòng sám hối ăn năn. Người đàn bà trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng thật sự là kẻ tội lỗi xấu xa mà cả thành phố điều biết; nhưng do lòng sám hối, khóc lóc tội lỗi của mình, nên Chúa đã sẵn sàng tha thứ cho bà. Người “trộm lành” cũng bị treo trên thập tự giá ở bên Chúa, đã nhìn nhận tội mình và cho mình bị khổ hình là xứng đáng với tội mình và xin Chúa cứu vớt , Chúa Giêsu đã nói với anh “Ngay hôm nay con được ở trên Thiên Đàng với Ta.” (Luca 23:39-43)
Khiêm nhường ăn năn sám hối tội lỗi là điều kiện để được Chúa Thứ Tha: Để dọn đường cho Chúa, Thánh Gioan đã ‘ban phép Rửa Thống Hối để được ơn tha tội” tại dòng sông Giodan (Matcô 1:4-5). Bắt đầu công cuộc rao giãng “Tin Mừng của Thiên Chúa” Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa đã đến gần, ANH EM HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG.” (Matcô 1: 14-15). Lời này được lập đi lập lại khi chủ tế xức tro trên đầu chúng ta trong ngày Thứ Tư Lễ Tro mở đầu mùa Chay Thánh.
Trong đêm Vọng Phục Sinh, phần Công Bố Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta được nghe hát thật long trọng những lời rất cảm động sau đây: “Ôi lòng Chúa thương chúng ta thật lạ lùng. Ôi lòng Chúa Thương Xót không thể đo lường được. Để cứu chuộc người tôi tớ, Chúa đã nộp chính con mình. Ôi tội Adong thật cần thiết, tội đã được tẩy xóa nhờ sự chết của Chúa Kitô. Ôi “TỘI HỒNG PHÚC”, vì đã đem lại Đấng Cứu Chuộc thật cao cả.”
Tội Lỗi và Ơn Thánh! Tội Lỗi đã đem lại Ơn Thánh! Tin ở lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân, chúng ta hãy năng đến với Chúa qua Bí Tích Hòa Giải (Giải Tội) để được ơn thứ tha các lỗi lầm và được ban thêm Ơn Thánh Hóa. Bí Tích Hòa Giải thật là một kỳ công của Lòng Thương Xót Chúa. Nhờ Bí Tích Hòa Giải mà bao nhiêu tội nhân đã được thứ tha và trở về đường ngay nẻo chính. Đọc tiểu sử các vị thánh, chúng ta thấy nhiều vị đã trải qua cuộc đời thật tội lỗi xấu xa, nhưng nhờ biết sám hối lỗi lầm và lĩnh nhận Bí Tích Hòa Giải nên đã được Ơn Thánh giúp để thật lòng từ bỏ tội lỗi và từ bỏ mọi sự để hiến dâng cuộc đời phụng sự Chúa và nhân loại, đan cử như trường hợp Charles de Foucauld (1858-1916), Thomas Merton (1915-1968). “Vị thánh nào cũng có một qúa khứ, và tội nhân nào cũng có một tương lai!”
Trong Thánh Lễ hôm nay chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin vào lòng thương xót của Chúa và ăn năn sám hối lỗi lầm trở về với Chúa; xin cho chúng ta luôn biết khiêm nhường, thắng tính tự ái, để biết lắng nghe những lời chân thành cảnh tỉnh chúng ta mà sửa đổi lỗi lầm (như trường hợp Vua Đavít dù là ông Vua uy quyền, nhưng khi nghe Tiên Tri Nathan cảnh tỉnh, Vua đã nhận tội mình ngay và sám hối ăn năn); xin Chúa cũng cho chúng ta biết noi gương lòng nhân từ của Chúa để biết quãng đại tha thứ các lỗi lầm người khác gây cho chúng ta (xin xem Mátthêu 18:21-22); xin cho chúng ta không xét đoán ai, nhưng luôn có lòng yêu thương giúp đở những người trót sa ngã phạm tội được lòng ăn năn sám hối và sửa đổi đời sống; đặc biệt nếu đó lại là người chồng hay người vợ, hay những người con thân yêu của chúng ta.
Lc 15:1-10: 1 Cac người thu thue, cùng những kẻ toi loi het thay thường lui tới bên Ngài để nghe lời Ngài. 2 Và Biet phai keu trach. Ho nói: "Ông ấy tiếp đón quân tội lỗi và cung an với chung". 3 Ngai mới noi cung ho ví du này, rằng:
4 "Ai trong các ông, giả sử co tram con chien va lac mat mot con, ha người ay lai khong bo chín mươi chín con ngay nơi hoang vang, ma ruoi theo con chien lac, cho đen khi tìm ra con chien lac đo ư? 5 Tìm được roi, ha người ay lai khong mừng rỡ, quang no tren vai mình, 6 va ve đến nhà, lai khong goi ca bạn bè hang xom, ma phân phô với ho the nay sao: Bà con hãy chia vui với tôi, tôi may đa tìm thấy con chien lac cua toi!? 7 Toi bao cac ong: Cung vay, tren trời se có vui mừng vì mot người toi loi hoi cai, hơn la vì chín mươi chín người cong chính, những ke không cần phải ăn năn!"
8 Hay la: Ba nao co mười đong bac, neu rui mat mot đong, ha ba ay lai khong chong đen len, quet nha ma tìm moi tìm moc cho ky được đó ư? 9 Tìm được roi, ha ba ay lai khong goi ca ban be hang xom ma phan pho the nay sao: Ba con hay chia vui với toi, toi đa tìm thay đong bac toi đanh mat!? 10 Cung vay, toi bao cac ong: Vui mừng at ran len giữa cac thien than cua Thien Chua vì mot người toi loi hoi cai!"
Sau khi trình bay những đieu kien đe co the đi theo va la mon đe cua Chua Giesu, Luca ket luan: ThánhTâm ABC-44
Sau khi trình bay những đieu kien đe co the đi theo va la mon đe cua Chua Giesu, Luca ket luan la “Ai co tai đe nghe, hay nghe” (14:35). Sang chương 15, những người toi loi va thu thue đen gan Chua Giesu đe nghe Người (15:1). Chu đe chính cua chương nay, được trình bay bang ba cau chuyen trong mot du ngon, la niem vui cua Thien Chua khi tìm thay lai người toi loi hoan cai. Niem vui nay được dien ta qua bữa an: Thien Chua, người toi loi va những người được mời đong ban với nhau. Trong chương trước, bữa tiec cua Thien Chua danh cho những người nghèo, tàn tật, đui mu (14:15.21-23); ở đay, danh cho người toi loi (15:2.23). Như the, những cau chuyen trong chương 15 nay benh vực cho sứ vu cua Chua Giesu đoi với những người nay; đong thời mời goi những người chong đoi Người đen chung vui với những người toi loi hoan cai (15:7, 10, 28, 31-32). Bố cuc cua chương nay gom mot dan nhap boi canh chung (15:1-2), và ba câu chuyện: con chien lac (cc. 3-7); đồng bạc mất (cc. 8-10); va hai người con (cc. 11-32). Xin đọc chú giai đoan 15:11-32 trong Chúa Nhật IV Mua Chay C.
Dan nhập của diễn từ du ngon (cc.1-2)
Cau trúc của dẫn nhập nầy là đoi đao: A. người thu thue và toi loi đen gan Người - đe nghe; B. Người Pharisêo và kinh sư lam bam; A’ Người tiếp nhận họ - an uong với ho. Với cấu trúc nầy Luca muon nhan manh sự kiện là người Phariseô va kinh sư lẩm bẩm vì Chua Giesu tiep can va ăn uống với những người thu thue và toi loi. Hai động từ “đen gan” va “lẩm bẩm” ở thì qua khứ chưa hoan thanh (imparfait) chỉ sự kiện là người thu thuế va tội lỗi vẫn lui tới thường xuyen với Người, va nhóm Pharisêo và kinh sư cứ lẩm bẩm mãi. Hành động lẩm bẩm nầy đã gap trong một bối cảnh tương tự (5:27-32; 7:39) va lai ca sau nay nữa (19:7). Ho trach Người khong phai sự đon tiep, ma sự đong ban với những người ay; nghĩa la chia se với ho cung mot sự hiep thong. Co le ho nghĩ chỉ mình ho mới được quyen an uong với Người (x. 7:36; 14:1). Chúa Giêsu nhận lời mời ăn uống của nhóm Pharisêo, và Người cung khong từ chối ăn uống với những người tội lỗi nầy (x. 5:27;.29 va ở đay).
Muc tiêu những người thu thue và toi loi lui tới với Người là “đe nghe Người”, chỉ lời giảng dạy của Người (5:1.15; 6:49...). Tuy nhien, trong van mach đoan nay, chính những người Phariseo va kinh sư mới that sự la những người can lang tai nghe, vì ho la đoi tượng cua những cau chuyen du ngon Người sap noi “Người noi với ho” (c. 3).
Con chien lac (cc. 3-7).
Cau trúc chung cua ba câu chuyện: - có mot đieu gì đó - mat - tìm lai được - vui mừng va chia vui - kết luận. Mỗi câu chuyện có mot đac điem rieng. Cau chuyen trước tien la một con chien lac. Đong từ “mất” được dung cach đac biet trong chương nầy (cc. 4[2x].6.8.9.17.24.32). No khong chỉ noi đen sự lac mat cua con chien hay đong bac, ma ca sự mat mang do đoi khat (c. 17). Y tưởng mat mang nay, noi cach khac la bị huy diet, được Luca dung cach minh bach hơn ở nơi khac (13:3.5.33; 17:27.29.33; 19:10.47). Bởi đo, con chien “bị lạc” bao ham luon những tình canh nguy hiểm của nó: đoi, benh tat, rơi xuong vực tham, bị sói vồ… Hanh đong cua người chan chien la “bỏ lai” chín mươi chín con chiên, “đi tìm” ở thì hiện tại diễn tả hanh đong đeo đuổi kéo dài, cho đen khi nào hoàn tất việc tìm thấy “cho đen khi tìm được” (c. 4; điểm nầy khác với Mt 18:12). Đong từ “tìm thấy” chuyển tiếp ý tưởng cua hai câu (c. 4 va 5).
Những hành động tiếp theo sau khi tìm thay la “vác chiên trên vai” đi về nha trong vui mừng, và “cung keu” ban be và ba con đen chung vui. “Vui mừng” và “đi”về nha ở the đong tính hien tai (participle), nói lên sự vui mừng kéo dài từ khi tìm thấy cho đen khi về nha và mời moi người đen chung vui. “Vui mừng”, cả danh từ (1:14;) lan đong từ (1:14.28; 6:23; 10:20; 13:17; 19:37) trong Luca thường dien ta tam tình hoan lac trong tam hon vì những đieu ky dieu Thien Chua thực hien. Trong 1:58, người ta đen chuc mừng với ba Elizabeth vì Thien Chua đa to long thương xot cho ba va cho ba mot người con trong tuoi gia. “Vui mừng” nay la mot trong những chu đe chính cua chương nay: vui mừng (cc. 5.7.10.32), cung chung vui (cc. 6.9). Ở đay, Thien Chua cung keu anh em va bạn bè đen đe cùng chung vui, vì chính Người tìm được chiên lạc. Chiên lạc được tìm ra, nghĩa là cứu song; đưa về lai với đan chien, nghĩa la về lai với sự hiệp thông. Hai chữ “cùng-” nói lên niềm vui muon được san se, vì niem vui quá lớn. Tính từ sở hữu “cua toi” được dung để chỉ những người tội lỗi là thuoc ve Người, và chính Người đa đích than đi tìm và tìm được. Như the, vui mừng vì “tìm được chien lac” la việc của Thiên Chúa: người tội lỗi được đem về lai trong sự hiep thong với Người (x. 6:9).
Cau kết luận của Luca (c. 7) khác với Matthêo (Mt 18:4). Luca có tính cach khuyen du: kêu gọi sự hoan cai nơi người toi loi; trong khi Mattheô noi đen y muốn cứu độ cua Thien Chua. Phan đau cua cau 7 noi đen “niem vui trên trời”, chỉ niem vui nơi Thiên Chúa. Trước đoạn nầy Chúa Giêsu kêu gọi hoán cải với cung giong đe doạ (10:13; 11:32). Tiep theo đo, Người chỉ đường cho la nếu hoán cải, sẽ khong bị hủy diệt” (13:3.5). “Huy diệt”, động từ dung chung chỉ “lac mat” cua con chiên và đong bac. Đen đay, người toi loi “hoan cai” lien tuc, khong chỉ khỏi bị huy diet, ma Thiên Chúa còn vui mừng ve họ nữa. Hoan cai trong trường hợp nầy là nhan ra mình sai lam như chiên lạc và đe Thiên Chúa đưa mình ve lại với Người, vì Người quan tâm và cham soc đen chien cua Người.
Phan thứ hai của câu 7 khó giai thích. Những “người cong chính” ở đay Luca ám chỉ đen những người Phariseô va kinh sư (x. 16:15; 18:9)? Va ho khong can hoi cai? Co thể Luca không ám chỉ như thế. Trong các kết luận của ba cau chuyen, Luca đều nói đến sự mời goi chung vui. Thai đo của người con trưởng (15:28-30), ở đay mới am chỉ người Phariseo va kinh sư, cho thay anh chưa phai la người hoan hao, va can hoan cai. Cau chuyen ket thuc với lời giai thích va mời goi cua người cha (15:32), va khong cho biet người con trưởng nay se vao dự tiec chung vui hay khong; nghĩa la chờ anh hoan cai. Đay cung la dung y cua cac cau chuyen. Ngoai ra, trong mot cau tương tự, ba từ ngữ “người cong chính”, “toi loi” va “hoán cải” được dung (5:32), ở đo Luca cung khong am chỉ người Phariseo la người cong chính, ma chỉ muon nhan manh sứ vu keu goi người toi loi hoan cai cua Chua Giesu. Như the, cau ket luan co the hieu la Thien Chua vui vì ca người toi loi lan người cong chính. Nhưng Người vui ve người toi loi hoan cai hơn 99 người cong chính, vì sự hoan cai cua ho lam cho đan chien cua Người đa đu lai so 100 như ban đau. Nieu vui cua Chua Giesu nen sung man khi Người tìm lai được tat ca những người toi loi.
Người toi lỗi hoán cải là niem vui lớn lao cua Thien Chua. Người chang muon ai phải hư mat. Hay co tấm lòng của Thiên Chúa: vui vì người tội lỗi trở lai.
Chúng ta thường tuyen xưng Thien Chua la Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cung. Khi tuyên: ThánhTam ABC-45
Chung ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đang Toan Nang, phep tac vo cùng. Khi tuyen xưng Thien Chua la Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ ve, cao sang quyền thế, xa cách. Ta khong nghĩ hay khong dam nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất khiêm nhường. Thực sự Thien Chua rat khiem nhường.
Vì khiem nhường nen Thien Chua an mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiem rat nhieu khong gian của người khác. Người quyền thế ở nha lớn, ngồi ghế rong. Sự hiện diện của họ khien moi người khep nep, noi nang mat tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn sau. Neu bay giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chung ta. Chắc hẳn chúng ta chang the ngồi thoải mái như bay giờ. Trái lại chúng ta se quì sup xuong, guc đau, đam ngực an nan. Nhưng Thien Chua đa che giau dung nhan. Người an mình trong vô hình đe cho ta được tự do. Người nhường khong gian cho con người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nho đến độ bị người đời quen lang.
Vì khiem nhường nen Thien Chua im lặng. Trong xa hội, người uy quyen thường noi nhieu. Người nho phải nghe người lớn, người nho có muon noi cung bị tiếng người lớn át đi. Thien Chua đa tự trở nên bé nho. Người im lang nhường lời cho con người. Người lang nghe con người ca khi ho chỉ trích, chong đoi, len an Người. Người trở nên một Đấng bé nho nghèo hèn, khép nép, im lang trong thế giới on ao cua loai người.
Vì khiem nhường nen Thien Chua đa cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chua van thương. Người con cui xuong sau hơn nữa trước những ke tội lỗi để nang ho lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiem nhường ay đang nghi ngờ. Nhưng khi người ta cui xuong trước mot than phan toi loi, ngheo hen, sự khiêm nhường ấy rất chân thực.
Chính sự khiem nhường tham sau lam chứng quyen nang vo biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyen nang la để chien thang, đe chế ngự, để đe bẹp. Ai chong lai quyen lực, quyen lực se nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là đe chịu thua, đe yêu thương, để tha thứ. Sức manh khong ở nơi quyen lực. Quyen lực boc phat la quyền lực không tự kiem che được. Trai lai, khiem nhường la chế ngự được sức manh cua mình. Đo mới chính là quyen nang thực sự mạnh mẽ.
Thien Chúa vô hình. Co lẽ ta sẽ kho mà hieu biet sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta khong nhìn thay sự khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Cuoc đời Chua Giesu la một cuộc đời khiem nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi xuong. Từ trời cao Người đa ha mình xuong the. Từ than phan la Thien Chua Người đa ha mình xuong lam mot người bình thường. La Thien Chua cao sang, Người đa tự nguyen xuong lam mot người dan da ngheo hen. La thanh thien vo cung, Người đa tự nhan lay than phan toi đo. La Đang hang song, Người đa tự nguyen chet đi. Suot cuoc đời, Người đa khong ngừng cui xuong những than phan tam toi, ngheo hen, toi loi, bị loai trừ. Va mot cử chỉ khong the nao quen la trong bữa tiec ly, Người đa quy xuong rửa chan cho cac mon đe. Người đa ha mình xuong tan cung, khong con co the xuong hơn được nữa.
Vì Thien Chua khiem nhường luon tìm đường đi xuong, nen những ai kiêu căng tìm đường nang mình len se chẳng bao giờ gặp được Người. Thien Chua khiem nhường nen chỉ ai khiem nhường nho bé mới gap được Người. Hom nay Chua Giesu tha thiết mời gọi: “Hay hoc cung Ta vì Ta hien lanh va khiem nhường trong long”. Hay ghi danh vao hoc trường Chua Giesu. Hay hoc bai hoc khiem nhường. Hay hoc bai hoc Giesu. Hay hoc với Thay Giesu. Hay bước theo Thay Giesu xuong những bac thang khiem nhường tham sau. Ở bac thang cuoi cung, Thien Chua đang chờ đợi ta, ta se gap được Người. Ta se ket hiep với Người. Ta se ru sach moi vat va lo au. Ta se được bình an.
Lay Chúa Giêsu hiền lành và khiem nhường trong lòng. Xin uon nan long con trở nen giong như trái tim Chua. Amen.
Tat ca hay đen với Ta, hỡi những ai kho nhoc va ganh nang, Ta se nang đỡ bo sức cho cac ngươi (Mt 11,28).
Câu truyen noi ve mot người thay đang huan luyen hai mon sinh ve mon ban cung. Cuoi khu: ThánhTâm ABC-46
Cau truyen noi ve mot người thay đang huan luyen hai mon sinh ve mon ban cung. Cuoi khu vườn treo bia đe ban tren mot than cay. Người mon sinh thứ nhat lay cung ten va bat đau tap ban. Người Thay hoi hoc tro: Hay noi cho thay biet những gì con đang nhìn thay. Mon sinh tra lời: Con thay bau trời, may bay, cac cay coi co la, canh va tieu nham. Ong Thay noi: Hay ha cung xuong, con chưa san sang. Người hoc tro thứ hai bước tới va san sang cung no. Thay giao noi: Hay dien ta sự vat con đang thay. Người mon sinh tra lời: Con thay co moi điem nham. Thay ra lenh: Ban cung. Mui ten bay thang va cam vao điem đích. Thay khen: Rat tot. Khi con chỉ thay điem đích, con nham vao đo va mui ten se bay theo y muon cua con. Tap trung ý tưởng khong luon de dàng, nhưng điều này cần được huan luyen đe phát triển, sự chuyen nghiep se có gia trị trong đời song cung như bắn cung ten.
Đe dan dat con người tôn thờ mot Thien Chua duy nhất, Thiên Chúa đã tac tao Ađam va Evà. Thien Chua đa chấp nhận của lễ dang chan thanh cua Abel. Chúa đã cứu gia đình ong Noe khỏi đại hồng thủy. Chúa đã goi ong Abraham đi đen mien đat hứa. Chua đa chúc phúc cho ong Isaac và Jacob. Chúa đã chon ong Giuse đến vùng đất Ai-cap. Chua đa tỏ mình cho ông Môisen trong bui gai. Chúa đã tach biet dong doi cua Abraham làm thành một dân tộc. Chúa chọn các vua như Vua Saule, Đaviđ, Solomon và cac tien tri như Isaiah, Giêremia, Ezekiel, Zechariah…đe dẫn đường Dan Chua. Từng bước Thien Chua đa mặc khải chương trình cứu độ cua Người, đe con dan đon nhan Đang Cứu The. Đấng Cứu Thế la Con Mot cua Thien Chua đa hiện hữu từ đời đời.
Chua Giêsu là trung tâm điểm của vũ tru muôn loài. Nhờ Người va qua Người moi sự được tao thanh: Vì muon vat đeu do Người ma co, nhờ Người ma ton tai va quy hướng ve Người. Xin ton vinh Thien Chua đen muon đời! A-men (Rm 11,36). Chua Giesu la Thien Chua that va la người that. Ngai co từ đời đời nhưng ha than lam người trong thời gian va song cuoc đời giong như chung ta. Ngai la cot loi cua moi sinh linh van vat. Ngai đa mac khai cho chung ta biet ve mau nhiem nước trời va cung đích cua đời người. Ngai la khởi nguyen va la cung đích, la Alpha va Omega: Vì trong Người, muon vat được tao thanh tren trời cung dưới đat, hữu hình với vo hình. Dau la hang dung lực than thieng hay la bac quyen nang thượng giới, tat ca đeu do Thien Chua tao dựng nhờ Người va cho Người (Col 1,16).
Chua Giêsu mời gọi chúng ta hay bước theo Ngài. Hãy bước theo đường lối của Ngài, vì chính Ngai la đường, la sự that va là sự sống. Ngài cao ca trên hết mọi loài nhưng lại hạ than ngang hàng với loài người. Chúa ưu ai goi mời: Hay mang lay ach cua Ta va hay hoc cung Ta, vì Ta dịu hien va khiem nhượng trong long, va tam hon cac ngươi se gap được bình an (Mt 11,29). Lời Chua co quyen nang bien đoi ca the chat va tam hon. Hình anh dịu dang cua Chua Giesu được ví như người muc tử hien lanh vac chien tren vai, như ga me ap u con dưới canh va như người cha nhan hau đon con hoang đang trở ve.
Ngoi Lời mà chung ta tôn thờ la chính Ngôi Hai Thien Chua. Ngai la Đấng trung gian giao hoa giữa trời va đất, giữa thần thiêng và loai người. Qua Ngài, chúng ta được liên kết với Mầu Nhiệm Ba Ngoi Thien Chua. Chua đa xuống thế lam người đe nâng chúng ta len lam con cái của Chúa: Nhờ Ngoi Lời, van vat được tạo thành, và khong co Người, thì chang co gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành (Ga 1,3). Chua đa bước xuống tận đáy thân phận làm người và hy sinh đen giot mau cuoi cung đe mang ơn cứu độ cho nhân loại. Giá mau cứu chuoc cua Chua đa tha toi cho nhiều người: Trong Thanh Tử, nhờ mau Thanh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha toi loi theo lượng ân sủng rất phong phu của Người (Eph 1,7). Khi đi rao giảng tin mừng, cac mon đe chỉ can lay Danh Chúa Kitô la có the chữa lành các bệnh họan tật nguyền.
Chung ta suy câu truyện của ông Phêro xin đi trên mặt nước đến với Chúa Giêsu. Ông Phêro là mot người nang no, nhiệt tình và can đảm. Phêro đã bước theo Thầy Giêsu, ông đã can đảm bảo vệ Thay cho dù đoi khi bị phien trach. Ong dam lieu mình vì đức tin: Thấy Người đi tren mat bien, cac ong hoang hot bao nhau: "Ma đay! " va sợ hai la lên. Đức Gie-su lien bao cac ong: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! " Ông Phêro liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả la Ngài, thì xin truyền cho con đi tren mat nước ma đến với Ngài (Mt 14,26-28). Chua cho phep ong bước đi tren nước. Đang khi bước tren nước đen với Chua, Phero vì lo sợ song gio đa khong ngước nhìn va tin tưởng vao Chua, ong đa bị chìm. Chua Kito la đích điem: Đức Giesu bao ong: "Cứ đến! " Ông Phêro từ thuyen bước xuong, đi trên mặt nước, và đen với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thoi thì ông đâm sợ, va khi bat đau chìm, ong la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! " Đức Giesu lien đưa tay nam lay ong va nói: "Người đâu mà kem tin vậy! Sao lai hoai nghi?"( Mt 14, 29-31).
Chung ta hay ngước nhìn len Chua la nguồn của sự bình an. Tin tưởng Chua hien dien với chung ta, chúng ta se tìm được nguon an vui đích thực. Trong Đức Kitô va nhờ tin vào Người, chúng ta được mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên Chúa (Eph 3,12). Co bình an trong tâm hồn, chúng ta se dễ vươn tới những người chung quanh đe yêu thương và gan bo. Bước theo Chua la một sự phan đau khong ngừng với ban than. Từng giay phut trong cuộc đời đeu nham ve một hướng. Câu truyện một người thanh nien tre muốn trở thanh thuy thu. Một hôm trời mưa bão. Anh được lệnh trèo lên cột buồm để sửa lai giay noi. Anh nhìn lên cột buồm và bat đau treo. Anh nhắm tớí va trèo lên một cách dễ dang. Khi anh leo đuợc nửa đoạn, anh nhìn xuong song bien, qua sợ hãi vì gio thổi, nước cuốn và thuyen lenh đenh. Anh cảm thấy choáng váng và hau rơi te xuống. Vị thuyen trưởng ho lớn: Hãy ngước nhìn lên, hãy ngước nhìn lên. Anh ngước nhìn len, tiep tuc leo tới đỉnh cot va anh đa hoàn tất công việc một cách an toan.
Chua Giêsu đến thế gian không phải để len an ma là cứu đo. Quả vay, Thien Chua sai Con cua Người đen the gian, khong phai đe lên án thế gian, nhưng là đe thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 3,17). Tai sao con co nhieu người choi từ ơn sung cua Ngai? Co những người nham mat lam ngơ va tự an vui thu hưởng cuoc đời. Co nhieu người xa than vao những cuoc song truy lac đe đanh mat chính mình vao những thu hưởng khoai lac. Co người con nhao cười, khinh de va từ choi an sung cứu đo. Nhieu người co y khong nhan biet va tay chay Ngai: Người ở giữa the gian, va the gian đa nhờ Người ma co, nhưng lai khong nhan biet Người (Ga 1,10).
Chua Giêsu mời gọi chúng ta theo Ngài và giới thieu mot loai ach em ai va gánh nhẹ nhang: Vì ách của Ta thì êm ái, và ganh cua Ta thì nhe nhàng (Mt 11,30). Đa goi la ach va ganh la phai mang, phai vac, phai loi va phai keo. Ach va ganh cua Chua la gì? Co may ai hoc được sự em ai dịu dang khi mang ach theo Chua. Đieu kien theo Chua la từ bo moi sự va vac thanh gia hang ngay ma theo. Bước theo Chua co nghĩa la bước vao loi chan cua Chua. Con đường Chua đi la con đường đơn sơ, thanh bach, khiem ton va thanh thien. Chua bước vao đời với những bước chan yeu thương, thong cam, trìu men, tha thứ, chia se, nang đỡ, hoa giai va hy sinh.
Khi cau nguyen, chung ta cũng phải tập trung va cầm lòng cầm trí hướng ve Chúa. Chúng ta khong the chỉ cau nguyen bang moi bang mieng ma lòng thì lo ra xa Chúa. Chúng ta can tap trung cầu nguyện như người mon sinh học bắn cung. Chỉ nhắm một hướng tới là Chua Giesu Kito qua sự hiện diện của Ngài trong cac Bí Tích, trong Kinh Thánh, qua cac kinh đọc, qua cong đoan dan Chua va qua chính Than The Mầu Nhiệm của Chúa. Đến với Chúa Giêsu, Ngài sẽ dan dat chung ta đến Thiên Chúa Ba Ngoi: Chua Cha, Chúa Con va Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu Kitô hien te trên thập giá la dấu chỉ tình yeu tuyet vời nhat ma Thiên Chúa chia se với loài người: Cũng như muon nhờ Người mà lam cho muôn vật được hoa giải với mình. Nhờ mau Người đo ra tren thap gia, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muon vat tren trời (Col 1,20).
Tap trung con người toàn diện trong bau khí thinh lang, tam tư lắng động và qui hướng tâm hồn về với Chua. Co gắng tránh đi những on ao va xôn xao ben ngoai. Sự tập trung cau nguyen giong như người đang lai xe trên đường. Từng giay từng phut phai tỉnh thức va luôn hướng phía trước để tien tới. Tap trung không để bị xao lang, chỉ cần 30 giây ngủ guc chung ta có the gây ra tai nạn. Qùy cầu nguyện bên Chúa, chúng ta khong the tránh sự lo ra chia trí nhưng đieu can thiet la chúng ta đat mình trước sự hiện diện của Chúa. Mời Chúa cư ngu trong tam hon chung ta. Chính Chúa là tam điem va là cung đích mà chung ta tôn thờ.
Lay Chúa, có Chua la đời con sẽ em vui. Xin cho chúng con biet tìm ve bên Chúa ẩn thân. Chúa chính là nơi chung con nương tựa và chon cay trong. Chung con xin đap lời Chua mời goi: Tat ca hay đen với Ta, hỡi những ai kho nhoc va ganh nang, Ta se nang đỡ bo sức cho cac ngươi (Mt 11,28). Chua se dan chung con đen Chua Cha khi chung con cung dang lời cau nguyen: Lay Cha chung con ở tren trời, chung con nguyen danh Cha ca sang, nước Cha trị đen.
Tất cả đạo công giáo gồm tóm trong một quả tim. Vì Thiên Chúa là Yêu Thương. Lễ Thánh Tâm: ThánhTâm ABC-47
Tất cả đạo công giáo gồm tóm trong một quả tim. Vì Thiên Chúa là Yêu Thương. Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su được thiết lập từ những cuộc hiên ra của Chúa Giê-su cho thánh nữ Ma-ga-ri-ta-Ma-ria Alacoque, vao những năm cuối của thế kỷ 17. Vào năm 1899, Đức Giáo Hoàng Lê-ô 13 mới chính thức lập lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su cho toàn thể Giáo Hội.
Chua Giê-su đã hiện ra nhiều lần với thánh nữ và tỏ cho thánh nữ biết Chúa yêu thương loài người đến thế nào. Ngài nói với thánh nữ:” Nay là Trái Tim đã yêu thương loài người đến nỗi không còn tiếc gì với họ”.
Đoi với chúng ta, trái tim là biểu tượng của tình yêu. Thiết lập lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội muốn nhắc nhở cho chúng ta đến tình yêu tuyệt hảo của Chúa Giê-su đối với chúng ta.
Hien ra nhiều lần với thánh nữ Magarita, Chúa Giê-su than phiền vì sự bội bạc vô ơn của loài người đối với Thánh Tâm Ngài và Ngài ra lệnh cho thánh nữ phải làm hết sức mình để truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa. Thánh nữ đã làm hết sức mình để thực hiện ước muốn của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su đã hiện ra cho thánh Magarita tử thế kỷ 17, mà mãi đến cuối thế kỷ 19, lễ tôn kính Thánh Tâm Chúa mới được thiết lập. Thánh nữ phải trải qua không biết bao nhiêu gian khổ, bị chỉ trích ,hiểu lầm, chống đối mãnh liệt, nhưng sau cùng, việc tôn sùng Thánh Tâm đã được Giáo Hội chính thức chấp nhận và truyền bà khắp nơi.
Yeu mến thánh Tâm Chúa Giê-su, chúng ta không chỉ hiểu theo nghĩa bóng mà phải hiểu theo nghĩa thông thường. Thánh Tâm Chúa Giê-su là trái tim của một con người thật, là Giê-su Na-da-rét, đã sống kiếp người khốn khổ nghèo hèn giữa chúng ta, như chúng ta.
Ngai đã yêu thương chúng ta bằng quả tim vật chất của Ngài. Nhưng chúng ta, khi tôn sùng quả tim của Chúa, tức là tôn sùng Chúa với tình yêu vô biên của Ngài.
Đe lam cong việc nầy, Chúa sử dụng một nữ tu nhỏ hèn vô danh trong tu viện “ Thăm Viếng” đó là thánh nhữ Magarita-Maria Alcoque. Ngài đã làm như Ngài đã nói:” Con xin ngợi khen cha vì đã không cho những người hiền triết và cá bậc khôn ngoan biết những điều nầy, mà chỉ mạc khải cho những người bé mọn...”
Ngai nói với thánh nữ những lời hết sức tha thiết:” Đay la Trai Tim đa yeu thương loai người qua sức… Va đap lai thì Cha chỉ nhan được sự boi bac ma thoi.”
Vao đầu thế kỷ 20, Chúa lại kêu gọi một nữ tu thuộc dòng Thánh Tâm Chúa Giê-su là nữ tu Gio-dê-pha Mê-nen-đê, để tiếp tục loan truyền tình yêu của Thánh Tâm Chúa.Chúa hiện ra rất nhiều lần cho chị và tỏ cho chị thấy tình yêu mãnh liệt đang bốc cháy trong trái Tim nhân lành của Chúa. Ngày 7 tháng 7 năm 1920, Chúa đem chị vào trong trái tim Chúa bị thương tích và ra lệnh cho chị:” Con hãy yêu mến Cha trong sự nhỏ hèn của con, chỉ như thế, con mới an ủi cha được.” Ngay 12 thang 6 nam 1923 Chua noi với chị:” Đay la tat ca những gì Cha muon: đot chay cac tam hon ! đot chay the giới !”... Chua cung noi:” Cha la Tình Yeu ! Trai tim cha khong the kem ham được ngon lửa đang thieu đot no…
Cha yêu các linh hồn đến nỗi ban mạng sống Cha cho họ…” Suot ba nam cho đen khi chị Me-nen-đe chet, Chua luon noi đen tình yeu cua Ngai va Ngai mong được loai người đap tra.
Nghe những lời như thế, chúng ta có cảm tưởng là Ngài cần chúng ta , cần tình yêu của chúng ta , làm như Ngài thiếu thốn điều gì. Không, không như thế. Ngài thương chúng ta quá sức, Ngài muốn tất cả mọi người được hạnh phúc. Vì Ngài là nguồn suối tình yêu, Ngài muốn chúng ta yêu mến Ngài để thông phần vào hạnh phúc tuyệt đối của Ngài. Vì thế, Ngài kêu gọi khẩn thiết:” Tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề,hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Ngài mời gọi tha thiết như thế, nhưng chúng ta vẫn như không nghe thấy. Chúng ta vẫn chạy tìm những nguồn an ủi trần gian, nơi chúng ta chỉ gặt hái tro bụi và thất vọng. Chúng ta tin vào con người hơn tin vào quyền năng tuyệt đối của Chúa chúng ta. Một nhà văn đã nói:” Con người mãi mãi làm chúng ta thất vọng”. ( Mallarme ).
Con người mong manh và ích kỷ, chúng ta tìm đươc gì nơi con người? Đang lúc Trái Tim nhân hậu của Chúa là nguồn mạch tình yêu đang mở rộng chỗ chờ đón gọi mời chúng ta.
Ngai xuống trần gian mang lấy kiếp người khốn khổ của chúng ta và sau cùng chết một cách thê thảm cho chúng ta, không phải vì Ngài thiếu thốn điều gì, hay tìm được một mối lợi nào đó nơi chúng ta. Cuộc đời của Ngài là một hiến dâng trọn vẹn:” Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Chung ta tuyen xưng như the.
Ngai là Tình Yêu, Ngài hoàn toàn hiến dâng. Ngài là Nguồn Suối, Ngài chỉ là Hồng Ân tuôn tràn cho chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta và mãi mãi vẫn mời gọi chúng ta không phải để chiếm đoạt, để thỏa mãn một nhu cầu nào, cũng không phải để “ no lệ hóa chúng ta” như loài người, mà để nâng cao chúng ta đến tuyệt đỉnh là làm con Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới cho chúng ta biết Cha:” Không ai biết Chúa Cha trừ ra Chúa Con, và những kẻ Người mạc khải cho”.
Than phận chúng ta là con người yếu đuối mong manh, “ vất vả mang gánh nặng nề” của kiếp người, của cuộc sống. Đối với người Do Thái,, gánh nặng là Lề Luật. Chúa mời gọi chúng ta là để giải phóng chúng ta khỏi ách nặng nề của Lề Luật, giúp chúng ta mang ách của Ngài là ách của tình yêu.
Đen với Ngài, chúng ta sẽ được thanh thoát. Tình yêu của Ngài sẽ đem lại bình an. Chúng ta còn do dự nữa sao ? Ngai hứa cho chúng ta nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi ở đay có màu sắc quang lâm. Chúng ta lao lực suốt cả cuộc đời, Ngài sẽ cho chúng ta nghỉ ngơi trong Ngài. Nơi Ngài sẽ không còn lo lắng ,khóc than. Chúa sẽ là sự bình an vĩnh viễn của chúng ta.
Hom nay, trong Thánh Thể, Chúa Giê-su thực hiện những gì Ngài hứa. Ngài là của ăn hằng sống. Ngài là nguồn bình an mà thế gian không thể cho chúng ta. Hãy đến ăn lấy Ngài. Chúng ta ăn lấy tình yêu , thì còn gì hơn ? Thế gian không thể ban cho chúng ta những gì chúng ta khao khát. Chỉ có Ngài thôi. Trái tim từ hậu của Ngài là niềm an ủi duy nhất. Những gì chúng ta ước mơ, thế gian không thể ban cho chúng ta. Chỉ nơi Chúa, chúng ta mới tìm thấy bình an thật.
Chua mong ước chúng ta loan truyền tình yêu Chúa cho mọi người. Thế giới hôm nay đang khao khát tình yêu, nhân phẩm. Chúa là tình yêu, Ngài mang lại cho chúng ta kho tàng của Trái Tim Ngài. Kho tàng đó chính là điều thế gian đang khao khát mà không biết. Con người hôm nay mang nhiều ưu tư và thất vọng. Trái Tim Chúa chính là nguồn ủi an, thương xót. Chúng ta hãy làm bất cứ điều gì có thể trong khả năng của chúng ta để Chúa được yêu thương hơn.
Tat cả cố gắng của chúng ta là đó: làm sao cho Chúa được yêu thương hơn.
Muon như thế không gì hơn là chúng ta hãy học với Ngài bài học duy nhất mà Ngài bảo chúng ta học, đó là hiền lành và khiêm nhượng.
Trong suốt sách Tin Mừng, Chúa Giê-su chỉ dạy chúng ta một bài học duy nhất đó thôi. Bài học duy nhất và cũng là bài học khó nhất.Khiêm nhường và hiến hậu, chúng ta mới chinh phục được lòng người, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Thiên Chúa khiêm nhường và hiền hậu. Bài học đó chúng ta nhìn thấy qua bí tích Thánh Thể, qua tấm bánh hằng sống Ngài ban cho chúng ta hằng ngày. Hãy ăn lấy Ngài để trở thành những con người như Ngài, làm chúng cho thế gian biết rằng giữa một thế giới đầy hiềm khích hận thù chết chóc, chúng ta còn một lối thoát duy nhất là Trái Tim nhân hậu của Chúa chúng ta.
Năm 1597, lệnh bắt Đạo trên đất Nhật thật gắt gao, Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở Công Giáo đều: ThánhTâm ABC-48
Năm 1597, lệnh bắt Đạo trên đất Nhật thật gắt gao, Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở Công Giáo đều bị triệt hạ, Giáo Sĩ bị bắt gần hết, Giáo Dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ. Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 Linh Mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục: Người gì mà để trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ: "Đối ngoại hữu kỳ tâm – Đối nội vô tâm giả".
Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kính cẩn. Một hôm có ông bạn tên Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi: “Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ?”
“Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo… Đây ông coi: Đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu Tâm", còn với bản thân mình thì "Vô Tâm". Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy…”
Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận Bí Tích Thánh Tẩy, đồng thời vận động triều đình thả hai Linh Mục... ( Trích "Phúc" )
Trong Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay, Tin Mừng theo Thánh Luca trình thuật về Mục Tử Nhân Lành. Người không ngần ngại để lại chin mươi chin con chiên, đi tìm duy nhất một con chiên lạc. Người không theo khuynh hướng thịnh hành trong xã hội, chạy theo số lượng hay phẩm chất, nhưng Người quan tâm đến từng số phận nhỏ nhoi, càng yếu đuối, thương tích, bệnh tật, Người lại càng tìm đến, yêu thương, dưỡng nuôi, chăm sóc. Trước Con Tim Thánh Thiện nồng nhiệt của Chúa, mong thay bất cứ con tim chai lỳ, vô cảm nào cũng phải mềm lòng hồi đáp.
Tình Yêu chung thủy
“Đối ngoại hữu kỳ tâm.” Chúa Giêsu không ngừng tận hiến trọn vẹn như của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa Cha, để cứu chuộc loài người. Người cũng trao tặng trọn vẹn Con Tim cho con người, vốn yếu đuối, tội lỗi, bất tín, bất trung. Lúc nào Người cũng Hữu Tâm, tận tâm, tận tụy tìm kiếm con chiên lạc, đồng tiền bị mất, người con hoang đàng. Người là hiện thân của Tình Yêu Chung Thủy, hình bóng của Thiên Chúa Cha, dẫu cho con chiên hay bất trung, hay ngoảnh mặt lìa xa, chạy theo thú vui nhục dục, đam mê phù phiếm, dại dột phản bội lại Tình Yêu vô biên, vô tận.
"Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc" ( Lc 15, 6 ) Người hoan lạc biết bao, khi tìm được con chiên lạc đàn, vì khoái thứ cỏ lạ, những đam mê quyến rũ thế gian.
Tình Yêu tha thứ
“Đối nội vô tâm giả." Chúa Giêsu đầy lòng yêu thương và thương xót, vốn hay quên, theo như Đấng Tôi Tớ Chúa, Đức Hổng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận diễn giải. Người quên hết tội lỗi của cô gái buôn hương bán phấn hối cải, khóc lóc ăn năn, quên sạch lỗi lầm người con hoang đàng tỉnh ngộ trở về, quên hết tội ác của tên cướp bị đóng đinh biết sám hối. Người vui mừng chào đón những người lầm than quay trở về với Thánh Tâm.
“Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ chị đã yêu mến nhiều” ( Lc 7, 47 ).
"Không ai lên án chị sao. Tôi cũng vậy. Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" ( Ga 8, 3 – 11 ).
“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” ( Lc 23, 43 )
Tình Yêu chia sẻ
Từ Thánh Tâm Chúa Giêsu phun trào ra dòng Nước và Máu, rửa sạch tội nhơ con người và dưỡng nuôi linh hồn, hòa giải với Thiên Chúa và đồng loại, chia sẻ Tình Yêu Thánh Thiện với mọi người, qua tha thứ và bác ái.
Qua mầu mầu nhiệm Thánh Thể, Chúa Giêsu đã chia sẻ thần tính cho con người, thánh hóa con người, khiến chúng ta được trở nên con cái Chúa, được hưởng đời sống vĩnh cửu.
“Ai khát, hãy đến với tôi.Ai tin vào tôi, hãy đến mà uống. Từ lòng người ấy sẽ chảy ra. Những dòng nước đem lại sự sống” ( Ga 7, 37 – 38 ).
Vào năm 1673 và 1675, Thánh nữ Margarita-Maria Alacoque nhận được các thị kiến tại Tu Viện Thăm Viếng ở Paray-le-Monial, nước Pháp. Ngài được Chúa Giêsu chỉ cho thấy Trái Tim Người: "Một trái tim đã yêu thương con người đến thế, mà chỉ nhận được sự đáp trả bạc bẽo vô ơn."
Thật phũ phàng thay, biết bao con chiên cứ vô tình đi hoang mãi, mặc dù vị Mục Tử Nhân Lành vẫn đang ra sức cất công kêu gọi, tìm kiếm đưa về mái ấm. Có những con chiên lún sâu vào vòng xoáy tội lỗi, mất hết hy vọng, buông xuôi, không đoái hoài hồi hương. Có những con chiên nhanh nhẹn trở về, rồi lại đi hoang nữa. Nhưng Mục Tử vẫn không nản lòng, vẫn tha thiết tìm đón.
Cùng hiệp ý ca ngợi, tôn kính và cảm tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta không quên cầu nguyện, xin ơn Thánh hóa các Linh Mục, các Chủ Chăn thân thương, đang miệt mài chăm sóc đàn chiên của Chúa. Kính xin các Ngài hiệp thông chặt chẽ với Thánh Tâm để đốt lửa Tin, Cậy, Mến nơi mọi người.
“Đừng nghĩ rằng bỏ mọi sự, quả tim con sẽ lạnh nhạt, đời con cô đơn, không thu hút được ai ! Con sẽ được ánh sáng và sức nóng của Thánh Tâm thay vào. Hãy xem sức mạnh của các Thánh” ( Đường Hy Vọng, số 188 ).
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin Thánh Hóa các Linh Mục, để các ngài yêu mến Chúa nồng cháy, trở nên đích thực Alter Christus, hầu san sẻ và trao ban Tình Yêu Thiên Chúa và hồng ân Cứu Độ cho chúng con.
Lạy Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria, xin ban cho con luôn nhạy cảm và sẵn sàng đón rước Thánh Tâm Chúa Giêsu, qua hồng ân con lãnh nhận hằng ngày, để con phần nào biết đền đáp Tình Chúa và tình người. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
------------------------------
ThánhTâm ABC-49: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – NGUỒN CỨU ĐỘ
Không ai thấy tim nhưng tim rất quan trọng, vì tim là trung tâm phân phối sự sống. Tim còn đập là: ThánhTâm ABC-49
Không ai thấy tim nhưng tim rất quan trọng, vì tim là trung tâm phân phối sự sống. Tim còn đập là còn sống. Tim hoạt động âm thầm nhưng nuôi sống cả cơ thể. Dù não là trung tâm điều khiển nhưng vẫn phải nhờ tim bơm máu. Người ta có thể chết lâm sàng chứ chưa chết thật, vì tim còn hoạt động, dù nhịp đập rất yếu. Những người bị chứng bại não, sống đời thực vật, không biết phân biệt điều gì, nhưng họ vẫn sống nhờ tim vẫn hoạt động. Chừng nào tim ngừng đập thì sự sống mới chấm dứt !
Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mọi hồng ân, là nguồn cứu độ, là mạch thương xót, là suối yêu thương, vì chính Thánh Tâm đã tuôn trào Nước và Máu để tẩy rửa và cứu độ các tội nhân – trong đó có mỗi người chúng ta. Nhạc sĩ Phanxicô có lời ước nguyện thật thú vị: “Trong trái tim Chúa yêu muôn đời, con xin được một chỗ nghỉ ngơi nho bé thôi…”.
Quả thật, Chúa Giêsu luôn mong muốn chúng ta trú ngụ nơi Thánh Tâm Ngài mãi mãi. Chính Ngài mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” ( Mt 11, 28 – 30 ). Không ai lại không đau khổ, yếu đuối, mệt nhọc, tội lỗi,… thế nên không thể không cần Thánh Tâm Chúa Giêsu và Lòng Chúa Thương Xót.
Chính Ngài đã mặc khải cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque ( 1647 – 1690, ảnh kính màu ) về Thánh Tâm có lửa cháy và vòng gai quấn quanh, và mặc khải Lòng Chúa Thương Xót vô biên cho Thánh nữ Faustina Kowalska ( 1905 – 1938 ). Tuy hai cách thức khác nhau nhưng vẫn chỉ là một Nguồn Cứu Độ.
Ơn cha mẹ mà chúng ta trả cả đời còn chưa cân xứng huống chi Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Thật diễm phúc cho chúng ta vì Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” ( Lc 5, 32 ). Ngài đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất ( Lc 19, 10 ), chỉ cần chúng ta tin vào tình yêu cao cả của Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không thất vọng.
Đức Chúa là Chúa Thượng đã dùng miệng lưỡi ngôn sứ Êdêkien để mặc khải những lời hứa: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ítraen, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được” ( Ed 34, 11 – 13 ). Đó là lời hứa chắc chắn, vì Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong mọi lời nói và mọi việc làm. Thật tuyệt vời !
Còn nữa, Ngài lại tiếp tục hứa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ítraen. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ítraen. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” ( Ed 34, 14 – 16 ). Thật hạnh phúc khi được nương bóng cánh của vị Mục Tử như vậy ! Nhưng lại thật bất hạnh nếu chúng ta cố chấp, như Chúa đã cảnh báo: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu ( Mt 23, 37; Lc 13, 34 ).
Với niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, chúng ta có thể xác quyết: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” ( Tv 23, 1 ), và có thể tự hào nói: “Chúa là gia nghiệp đời tôi” ( Tv 16, 5 ). Đó cũng là cách tuyên tín. Về Đức Tin, Thánh Phaolô giải thích: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên thì có quyền trông cậy ( Rm 5, 2 – 4 ). Một chuỗi nối kết thật kỳ diệu !
Và Thánh nhân còn “dài hơi” giải thích thêm: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” ( Rm 5, 5 – 9 ).
Chúa Giêsu yêu hết lòng đối với những kẻ xấu xa nhất, thậm chí là chết vì họ – tức là chúng ta. Theo thế gian, cách yêu như vậy bị coi là mù quáng, ngu xuẩn, điên rồ... Chắc hẳn chỉ có người điên mới hành động như thế. Vậy mà Chúa Giêsu đã yêu như thế. Nếu Ngài không “yêu điên rồ” như vậy thì chúng ta làm sao có được ngày nay ?
Thật vậy, “nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Ngài, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” ( Rm 5, 10 ). Mà không phải chỉ có thế, Thánh Phaolô xác định: “Chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” ( Rm 5, 11 ).
Tin Mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu ( năm C ) là trình thuật Lc 15, 3 – 7, ngắn gọn, chỉ có 128 từ ( theo bản dịch Việt ngữ ). Đoạn Tin Mừng này là một trong các dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót.
Một lần kia, những người Pharisêu và các kinh sư xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Những người Pharisêu và các kinh sư là ai ? Là những nhà thông luật, giữ luật nghiêm túc hơn người, giỏi giang hơn người, đạo đức hơn người, nói năng lưu loát hơn người, sang trọng hơn người, địa vị hơn người, quyền lực hơn người… thậm chí có thể có ngoại hình “dễ nhìn” hơn người và giàu có hơn người. Tuy nhiên, họ cũng “chảnh” hơn người, kiêu sa hơn người, thị uy hơn người, khinh người hơn người, kênh kiệu hơn người, hét to hơn người, nói nhiều hơn người, làm ít hơn người… Nói chung, cái gì họ cũng hơn người.
Những người Pharisêu và các kinh sư kia cũng là chính chúng ta chứ không là ai khác !
Thấy vậy, Đức Giêsu mới kể cho dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Vậy, tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Chúa Giêsu lại gây “sốc” vì nói điều “nghịch nhĩ” quá ! Ngài điên thật rồi ! Có 99 con chiên béo tốt mà dám bỏ để cố gắng đi tìm duy nhất con chiên yếu đuối, bệnh hoạn, xấu xí,… Quả thật, không thể nào hiểu nổi ! Nhưng cũng chính nhờ cách “yêu điên” ấy của Chúa Giêsu mà chúng ta mới được phục hồi cương vị làm con và đồng hưởng thừa kế gia sản Nước Trời !
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng con chân thành xin lỗi vì đã thường xuyên quên Ngài, thế mà Ngài vẫn yêu thương chúng con, dù chúng con chẳng là gì và hoàn toàn bất xứng.
Xin cho chúng con biết Chúa, xin cho chúng con biết rõ chúng con, để chúng con có thể yêu mến Ngài trọn vẹn. Xin thương xót mà tha thứ những thiếu sót của chúng con, lạy Đấng giàu lòng thương xót, và dạy chúng con cách “yêu điên” của Ngài !
Xin Nước và Máu Thánh Ngài tẩy rửa chúng con, đồng thời cho chúng con được vĩnh cư nơi Thánh Tâm của Ngài. Ngài là Đấng hằng sống, hiển trị cùng Chúa Cha và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.
Trình thuật Lời Chúa hôm nay, một trong Cựu Ước và một trong Tân Ước, đều kể lại việc làm cho kẻ chết sống lại, một do Ngôn Sứ Êlia và một do chính Chúa Giêsu. Có rất nhiều điểm tương đồng ở đây: cả hai đều là con trai duy nhất của bà góa. Mẹ góa con côi, đứa con là nguồn sống duy nhất của người mẹ, thế mà nguồn sống ấy cũng bị tước đi mất ! Có lẽ chúng ta vẫn thường chứng kiến nghịch cảnh này trong cuộc sống: “Kẻ ăn không hết, người lần không ra !” Có gia đình phủ phê, sung túc lại gặp nhiều may mắn, ân lộc tràn trề. Có gia đình chui rúc trong túp lều tạm bợ lại đói khổ bệnh tật triền miên, hết bất hạnh này đến bất hạnh khát nối tiếp nhau không dứt…
Ông Trời ở đâu ? Thiên Chúa ở đâu ?
Ngôn Sứ Êlia đã từng đối diện với vấn nạn này khi bà góa thành Sarepta, người đã sẵn lòng cưu mang ông lúc khó khăn nhất, chất vấn ông: “Thưa người của Thiên Chúa, giữa tôi với ông có liên can gì ? Ông đến nhà tôi để khơi lại những tội của tôi và giết chết con tôi sao ?” Rõ ràng bà đã tin ông là “người của Thiên Chúa” từ khi ông mới đến nhà bà, nhưng trong tâm khảm của bà, đó là một Thiên Chúa lạnh lùng vô cảm, chỉ biết quyền lực mà không hề có tình thương. Chính lúc này là cơ hội để Êlia thể hiện hình ảnh Thiên Chúa tình thương cho bà. Chính vì thế mà bà đã tuyên xưng: “Bây giờ nhờ việc này, tôi biết rõ ông là người của Thiên Chúa, và lời của Chúa nơi miệng ông là lời chân thật”.
Thật vậy, không có gì là không có giá phải trả. Cái giá đó như thế nào ? Chúng ta hãy thử nhìn xem cách Ngôn Sứ Êlia hồi sinh đứa bé: Ông ấp mình ba lần trên đứa trẻ và kêu lên cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con xin Chúa cho linh hồn đứa trẻ này trở về trong nó”. Hành động ấp mình trên đứa bé ba lần thể hiện sự sẵn lòng chết thay cho nó. Vậy đó, cái giá của sự sống phải là chính cuộc sống !
Chúa Giêsu cũng hồi sinh con trai bà góa thành Naim nhưng bằng một cách thế khác: Chỉ cần một lời truyền: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy”. Vì sao vậy ? Bởi vì Người chính là Thiên Chúa nên không phải cầu xin Thiên Chúa, và sự hiện diện của Người trong cuộc đời trần thế này qua mầu nhiệm Nhập Thế đã là một sự chết đi để trao ban sự sống cho nhân loại. Sự sống thần linh mà Chúa Giêsu muốn trao ban cho chúng ta có vẻ như vượt quá tầm hiểu biết của con người nên Người phải dùng sự sống thể lý để minh họa hầu chúng ta dễ dàng tin tưởng hơn. Thư Thánh Phaolô Tông Đồ trong bài đọc II gửi tín hữu Galata đã minh chứng điều đó. Ngài đã xác tín việc Chúa Giêsu đã mạc khải Con Người qua việc “hồi sinh” ngài trong biến cố Đamát.
Trong cuộc sống còn rất nhiều tình cảnh “mẹ góa con côi” đáng thương tâm như thế, đó chính là cơ hội để tôi giới thiệu khuôn mặt Thiên Chúa Tình Yêu. Nhưng liệu tôi có dám… chết đi như cậu bé Johnny trong câu chuyện sau đây ?
Johnny bước tới bước lui trong hành lang bệnh viện. Mary, chị của cậu, đang nằm trong phòng cấp cứu. Bỗng, cửa phòng hé mở, các bác sĩ chậm rãi bước ra.
- Johnny này ! – vị bác sĩ già nói với cậu – Chị Mary của cháu đang mắc phải một căn bệnh rất lạ. Cơ hội duy nhất để cứu chị Mary là chị ấy phải nhanh chóng được truyền máu từ một người có cùng nhóm máu. Nhưng ngay lúc này, bệnh viện chưa tìm được ai có cùng nhóm máu với chị ấy. Tuy vậy, bác biết một người có thể cứu được chị cháu. Và người đó là cháu đấy, Johnny ạ !
Im lặng một lúc, vị bác sĩ già đặt tay lên đôi vai nhỏ bé của Johnny và hỏi:
- Johnny, cháu có thể cho chị Mary máu của cháu được không ?
Johnny mím môi ra vẻ suy nghĩ. Một lúc sau, cậu nhoẻn miệng cười, gật đầu:
- Tất nhiên là được ạ.
Ngay sau đó, hai đứa trẻ nhanh chóng được đẩy vào phòng cách ly của bệnh viện. Johnny trông khỏe mạnh và hồng hào bao nhiêu thì Mary lại nhợt nhạt và ốm yếu bấy nhiêu. Dù không được nói chuyện với nhau nhưng Johnny nhìn chị và mỉm cười. Dường như cậu đang cố động viên chị qua ánh mắt.
Khi chiếc kim được luồn vào cánh tay Johnny, nụ cười trên môi cậu tắt dần. Cậu đưa mắt nhìn theo từng giọt máu của mình chảy vào ống thủy tinh bên cạnh. Khuôn mặt của cậu tái dần đi. Rồi với giọng run run, Johnny ngập ngừng hỏi bác sĩ:
- Bác sĩ ơi ! Khi nào... khi nào thì cháu chết ạ ?
Đến lúc này, vị bác sĩ già hiểu ra cái mím môi đầy lo lắng của Johnny khi nãy. Cậu bé nghĩ mình sẽ chết khi truyền máu cho chị Mary. Thế nhưng, Johnny vẫn sẵn sàng đồng ý. Đối với cậu, sự sống của chị Mary mới là điều quan trọng nhất. Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, Johnny đã đưa ra một quyết định đầy tình yêu thương và cao cả.
Vậy đó, tôi cũng muốn bước theo đường lối Chúa, thực hiện những công việc của Chúa nhưng điều quan trọng nhất là “chết đi từng ngày” thì tôi... không thể ! Tôi chỉ hy sinh những gì là dư thừa không làm tổn hại đến cuộc sống, thanh danh hay vị thế của tôi, và tôi tự cho rằng thế là đã đủ !
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa đã chết đi để cho chúng con được sống, đã dùng chính Thịt Máu chí thánh của Người để nuôi dưỡng chúng con. Nhờ đó, chúng con biết xả thân cho tha nhân, cho công cuộc phục sinh của Chúa một cách trọn vẹn hơn bằng tình yêu thương phản chiếu từ Thánh Tâm Chúa. Amen.