Hôm nay, tôi muốn trình bày về một điều kiện để bước theo Chúa, đó là phải từ bỏ mình: TN 12-C1
Hôm nay, tôi muốn trình bày về một điều kiện để bước theo Chúa, đó là phải từ bỏ mình.
Thực vậy, con đường bước theo Chúa lên đỉnh đồi Canvê là một con đường sỏi đá và chông gai, đòi buộc chúng ta phải chấp nhận thập giá, phải đón lấy hy sinh, phải từ bỏ mình từng phút và từng giây. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể từ bỏ mình, bởi vì thân mình chúng ta là chính chúng ta. Một khi thân mình chúng ta không còn nữa, thì chúng ta cũng sẽ không thể nào hiện diện trong cuộc sống. Tôi xin trả lời:
- Từ bỏ mình ở đây không có nghĩa là hủy diệt thân xác, đày đọa bản thân, nhưng có nghĩa là phải làm chủ lấy giác quan, phải kiềm chế được những khát vọng, bắt chúng đi vào con đường ngay chính mà Chúa đã chỉ ra.
Thứ nhất, đó là hãy làm chủ con mắt.
Tôi không nhớ có một vị thánh tử đạo nào đó, khi bị dân tới hoàng đế, nhưng oái oăm thay, hoàng đế lại say mê cặp mắt tuyệt vời của thánh nữ. Chúng ta có biết thánh nữ đã làm gì hay không ? Thánh nữ đã móc cặp mắt tuyệt vời ấy và dâng cho hoàng đế. Dĩ nhiên, chúng ta không thể nào làm như vậy. Nhưng chúng ta vẫn phải sống tinh thần của lời Chúa:
- Nếu mắt con nên dịp tội, thì hãy móc nó đi vì thà chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn lành lạnh cả hai mà bị ném vào lửa đời đời.
Có nghĩa là chúng ta phải biết kìm hãm con mắt. Người tây phương vốn thường bảo:
- Con mắt là cửa sổ của linh hồn.
Một khung cửa sổ được mở ra để đón nhận những tia nắng ấm và những làn gió mát. Nhưng khi giông bão nổi lên và mưa rơi đổ xuống, chúng ta phải lập tức đóng nó lại, kẻo nó làm cho căn phòng trở nên ướt át và nhơ bẩn. Cũng vậy, con mắt được mở ra để ghi nhận những hình ảnh, những kiến thức làm đẹp cho tâm hồn và làm giàu cho cuộc sống. Thế nhưng, chúng ta phải lập tức đóng nó lại trước những vẩn đục xấu xa. Bởi vì, một vết mực dính trên tấm áo trắng, thì dù có giặt cũng không thể nào gột bỏ được. Một hình ảnh xấu đã lọt vào trong đầu óc, nó sẽ ngự trị và không thể nào tẩy xóa đi cho hết.
Thứ hai, đó là hãy làm chủ miệng lưỡi.
Kinh nghiệm cho hay: trên đời này, tốt hay xấu, ngon hay dở … tất cả đều bởi cái lưỡi mà ra. Thực vậy, thánh vịnh đã diễn tả:
- Số người chết bởi cái lưỡi thì nhiều hơn số người chết bởi gươm giáo.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
- Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo.
Cái lưỡi có thể thay trắng đổi đen, vo tròn bóp méo, làm sứt mẻ tình yêu thương, khiến người khác bị thân bại danh liệt. Vậy chúng ta có ý thức trách nhiệm về lời nói của chúng ta hay không ? Bởi vì đa ngôn thì đa quá, nói nhiều thì thường hay nói bậy. Khi bị mạt sát, chúng ta có biết đón nhận một cách bình tĩnh và cao thương hay không ? Chúng ta có biết tránh đi những lời nói phóng đại tô màu không tôn trọng sự thật, những lời nói gièm pha hạ nhục uy tín người khác hay không ? Đồng thời, chúng ta có biết dùng những lời nói ôn tồn thành thật, để tạo lấy một bàu khí hòa thuận, bắc được một nhịp cầu cảm thông hay không ? Bởi vì :
- Lời nói chẳng mất tiền mua, Liệu lời mà nói cho vừa long nhau.
Thứ ba, đó là hãy làm chủ những đòi hỏi của thân xác.
Thực vậy, con người không giống như con vật. Con vật đói thì ăn, khát thì uống. Thế nhưng, vì có trí khôn để suy nghĩ và ý muốn để chọn lựa, nên con người phải biết làm chủ những đòi hỏi của mình. Có bao giờ chúng ta tự ý từ chối một món ăn mà mình ưa thích ? Có bao giờ chúng ta đã dùng những đồng tiền của mình để làm phúc bố thí cho người nghèo hay góp phần vào những công việc chung ? Trong bữa cơm, đừng kêu ca vì món ăn không hợp khẩu, hãy có thái độ bác ái và lịch sự nơi bàn ăn vì ăn trông nồi ngồi trông hướng, và nhất là hãy biết chia sẻ cơm áo cho những người túng cực, vì lá lành đùm lá rách, miếng khi đói, gói khi no.
Sau cùng thứ tư, đó là hãy làm chủ tình cảm.
Khi gặp phải những chuyện buồn phiền, chúng ta hãy cố nén bực tức, để không gắt gỏng hay giận hờn đối với người khác, vì giận quá thì mất khôn, nóng quá thì hỏng việc. Kinh nghiệm cho hay: không thương mà cố gắng để thương, thì rồi sẽ thương lúc nào cũng không biết. Không vui mà cứ cố gắng mỉm cười, thì rồi sẽ vui lúc nào cũng chẳng hay.
Đối với những người chúng ta có ác cảm, hãy tha thứ và đi bước trước đến với họ bằng những cử chỉ cảm thông, chắc chắn chúng ta sẽ xích lại gần nhau hơn.
Phải uốn bản thân mình vào một khuôn mẫu, thì mới thắng được bản tính tự nhiên luôn hướng chiều về tội lỗi. Và như vậy, phải biết từ bỏ mình, thì mới có thể dễ dàng bước theo Chúa.
Một phản lực cơ ở cao độ 10 km từ New York hướng về Miami, 150 km bắc Wilmington và: TN 12-C2
Một phản lực cơ ở cao độ 10 km từ New York hướng về Miami, 150 km bắc Wilmington và bắc California, cửa phòng lái bỗng mở tung, người ta thấy một cô chiêu đãi viên và một gã thanh niên đứng sau nàng kề dao găm vào lưng nàng, chàng thanh niên yêu cầu: “Hãy cho tôi về Havana”. Trầm tĩnh, viên phi công nói với gã thanh niên: “Sao vậy, có gì thế nói cho chúng tôi nghe”.
Người không tặc trẻ tuổi tiết lộ: “Chàng chán nản mọi cái, thất vọng với mọi người, chàng thi rớt, cha mẹ không lo được cho chàng, chàng sợ đi quân dịch”. Họ nói qua nói lại cả giờ đồng hồ mà không thuyết phục được gã thanh niên.
Viên phi công, đại úy Harry Davis, một người có đức tin, ông cầu nguyện xin Chúa giúp ông nói điều ông phải nói và làm điều ông phải làm. Ông hỏi gã thanh niên: “Chúa Giêsu thì sao? Người đau khổ hơn hết mọi người, Người bị săn đuổi, bị bắt bớ và bị đóng đinh vào thập giá. Bạn nghĩ sao khi so sánh đau khổ của bạn với của Chúa?”
Đánh động gã thanh niên, chàng nghe lời viên phi công, bật khóc và buông con dao xuống.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng “Người phải chịu đau khổ”. Vâng ! Người chịu đau khổ chừng nào. Người cũng nói với chúng ta rằng, bạn và tôi phải chịu đau khổ.
Có người quan niệm sai lầm rằng, vì Chúa Giêsu, trong lúc sinh thời trên mặt đất, Người đã cứu giúp nhiều người đau khổ: Người mù, kẻ què, người điếc, kẻ phong cùi, người bất toại… và Người làm cho kẻ chết sống lại nữa. Người có thể và Người sẽ cất khỏi cuộc sống chúng ta mọi đau khổ.
Nhưng ngược lại, Người nhấn mạnh rằng chúng ta phải đau khổ. Biết bao người phải hoặc chịu đau khổ hằng ngày như nhức đầu, đau lưng, đau tim. Hằng ngày họ chịu khốn khổ nơi thân xác hoặc tâm hồn hay cả hồn lẫn xác. Hằng ngày họ mang thánh giá nặng, hằng ngày họ bị dằn vặt với những đau khổ thể xác, những lo âu trong tâm hồn. Họ không cần thánh giá đặc biệt nào khác, vì thánh giá đã sẵn trên vai họ. Điều họ cần là mang thánh giá bằng việc dâng lên những đau khổ hằng ngày với những đau khổ của Chúa Kitô. Đón nhận đau đớn trong tinh thần của Người. Quả thật những đau khổ hằng ngày trở nên quí giá khi họ kết hợp với đau khổ của Chúa Kitô. Hãy để đau khổ của bạn trong Chén Thánh với Máu Châu Báu của Chúa Kitô và dâng lên Cha trên trời.
Mặt khác, nhiều người ít phải đau khổ. Họ có sức khỏe tốt ; họ không phải lo âu. Họ có việc làm lương cao, có nhà rộng, gia đình vui vẻ. Làm sao những người ấy vác thánh giá hàng ngày ? Có một cách là họ làm những gì để có thể giúp những người đau khổ như Chúa, họ phải hy sinh thời gian, năng lực và tiền của để giúp những người đói khát, bệnh tật, túng thiếu và xấu số. Họ phải làm, nếu họ muốn được gọi là môn đệ Chúa Kitô.
Đừng lẩn trốn khi đau khổ tới như chàng không tặc trẻ tuổi. Hãy nhớ đến những gì Chúa Giêsu trải qua như chúng ta nhớ đến trong mỗi Thánh lễ. Hãy vác thánh giá như Người, và với sự trợ giúp của Người. Người vác thánh giá vì Người yêu chúng ta. Chúng ta hãy vác thánh giá vì Người yêu chúng ta, chúng ta hãy vác thánh chúng ta vì yêu Người.
Lời tiên báo về cái chết của Ngài được Chúa Giêsu đưa ra lần đầu tiên ngay sau khi nghe lời: TN 12-C3
Lời tiên báo về cái chết của Ngài được Chúa Giêsu đưa ra lần đầu tiên ngay sau khi nghe lời xưng nhận phi thường của ông Phêrô. Đây là một trong những giây phút hệ trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Ngài hỏi câu đó khi Ngài đã nhất định đi lên Giêrusalem. Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi Ngài ở đó, và câu trả lời cho câu hỏi của Ngài là rất mực quan trọng. Điều Ngài đã biết đó chính là Ngài đang tiến đến cây thập giá để chết. Còn điều Ngài muốn biết trước khi Ngài ra đi là đã có ai thực sự khám phá Ngài là Đấng nào chưa ? Câu trả lời đúng sẽ thay đổi tất cả. Nếu không có câu trả lời, mà chỉ có hiểu lầm, thì điều này có nghĩa là công việc của Ngài đã uổng công. Nếu có một nhận thức nào đó, dầu rất sơ sài, thì điều đó có nghĩa là Ngài đã thắp lên một ngọn đuốc trong tâm hồn loài người mà thời gian sẽ không bao giờ tắt được.
Ngài bắt đầu đưa ra một câu hỏi: “Dư luận quần chúng nói Thầy là ai ?” Câu trả lời của họ cũng không khác gì câu trả lời của người đời ngày nay: người này bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác cho là Elia, kẻ khác nữa cho là một tiên tri đời xưa sống lại: “Có nghĩa là một nhà cải cách, một nhà đại truyền giáo, một sứ giả của Thiên Chúa”. Những lời phỏng đoán đó không làm cho Chúa Giêsu hài lòng, rồi quay về phía các môn đệ: “Còn về phần các ngươi thì nói Ta là ai ?”Lòng Chúa Giêsu hân hoan biết bao khi khám phá bất ngờ của Phêrô tràn ra môi miệng ông: “Thầy là Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa”. Khi nghe điều đó Ngài biết mình đã không thất bại. Đây là một xác định vĩ đại về Đấng Kitô mà cả thế giới ngày nay vẫn được nghe, nhưng lúc ấy Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ: “Đừng nói điều ấy với ai”. Không những các môn đệ phải khám phá ra sự kiện đó, mà các ông còn phải khám phá ra ý nghĩa của sự kiện đó nữa. Các ông đã lớn lên trong một nền tư tưởng dạy rằng, phải trông đợi từ Thiên Chúa một vị vua chiến thắng sẽ dẫn dắt họ đến địa vị bá chủ thế giới. Cặp mắt của Phêrô hẳn đã sáng lên một niềm xúc động khi ông thốt lên lời đó. Nhưng Chúa Giêsu còn phải dạy cho các ông biết rằng Chúa Cứu Thế đã đến để chết trên cây thập giá. Ngài phải làm đảo lộn tư tưởng của các ông về Thiên Chúa và ý muốn của Ngài, và từ giờ phút này, Ngài sẽ để tâm làm việc đó. Các ông đã khám phá ra Ngài là ai, bây giờ các ông còn phải khám phá thêm ý nghĩa của sự khám phá đó. Chính các môn đệ phải biết ý nghĩa về sự chết và sống lại của Chúa trước đã. Ngày nay không một người nào có thể làm chứng về Đấng Kitô mà lại không biết ý nghĩa của sự chết chuộc tội và quyền năng của sự sống lại của Ngài. Rồi Chúa Giêsu cho các ông biết sự chết mà Ngài sắp phải chịu là rất cần, và quả quyết với họ rằng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Có hai điều cần phải biết trong đoạn lời Chúa này:
. Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách hỏi người ta đang nói gì về Ngài, rồi đột nhiên hướng câu hỏi thẳng vào nhóm môn đệ: “Các ngươi nói Ta là ai ?”.
Không bao giờ được cho là đủ nếu chỉ biết những điều người ta nói về Chúa Giêsu. Một người có thể trúng tuyển các kỳ thi về những lời nói và tư tưởng cổ kim của thiên hạ về Chúa Giêsu, người ấy có thể đọc hết các sách Kitô học, được viết bằng mọi thứ tiếng trên thế giới, nhưng người ấy vẫn chưa phải là Kitô hữu. Chúa Giêsu phải là một khám phá riêng của cá nhân chúng ta. Kitô giáo không phải là một câu chuyện lưu truyền. Đối với mỗi người, Chúa Giêsu không đến với câu hỏi rằng: “Ngươi có thể nói cho ta những điều kẻ khác đã nói và biết về Ta chăng ?”. Nhưng Ngài hỏi: “Ngươi nói Ta là ai ?” Phaolô đã không nói: “Tôi biết điều tôi đã tin”, nhưng ông nói: “Tôi biết Đấng tôi tin”. Kitô giáo không có nghĩa là đọc một bản tín điều nhưng là biết một Đấng nào.
Trong đoạn này chúng ta nghe tiếng “phải” từ miệng Chúa Giêsu, Ngài phán: “Ta phải đi lên thành Giêrusalem Chịu chết”.
Thật rất ý nghĩa khi chúng ta để ý đến những tiếng “phải” Chúa nói trong Phúc âm Luca. Ngài nói: “Há chẳng biết con phải lo việc của Cha con sao ?” “Ta cũng phải loan báo Tin Mừng cho các thành khác” ; “nhưng ngày nay, ngày mai và ngày kia Ta phải đi”. Ngài thường nói đi nói lại với các môn đệ rằng, Ngài phải đi đón cây thập giá của mình. Chúa Giêsu là người hiểu rõ mình có một định mệnh phải thi hành. Ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn của Ngài. Ngài không có mục đích nào khác với thế gian này ngoài việc làm trọn điều Thiên Chúa đã sai Ngài, là Kitô hữu, cũng như Chúa của mình, là Người hằng vâng lời.
Định mệnh của Ngài cũng là định mệnh của những kẻ là môn đệ của Ngài. Tại đây Chúa đặt ra các điều kiện cho những ai muốn là môn đệ của Ngài.
Người đó phải từ chối mình. Điều đó có nghĩa gì ?
Một học giả đã giải thích như sau: Phêrô đã một lần từ chối Chúa khi ông nói về Chúa Giêsu rằng: “Tôi không biết người đó”. Chúng ta từ bỏ mình là nói rằng: “Tôi không biết tôi” tức là không biết chính sự hiện hữu của mình, coi mình như không có vậy. Chúng ta thường tự đặt mình lên cao dường như mình là quan trọng nhất trên thế gian này. Nếu muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải tự xóa mình đi, quên chính bản thân của mình.
. Người đó phải vác thập giá của mình:
Cây thập giá không phải chỉ là biểu hiện sự đau đớn vì sỉ nhục, và còn là dụng cụ của sự chết. Chúa Giêsu biết rõ thế nào là đóng đinh vào thập giá. Khi Ngài còn là một cậu bé mười một tuổi, thì Giuđa, người xứ Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Lamã. Ông đã đánh phá kho vũ khí của vua tại Sepphoris, chỉ cách Nazareth 6,4 cây số. Lamã trả thù tức khắc, Sepphoris bị san thành bình địa, dân chúng bị bắt làm nô lệ, hai ngàn loạn quân bị đóng đinh vào thập giá dựng dọc theo hai bên đường cái để làm lời cảnh cáo ghê sợ cho kẻ nào muốn nổi loạn. Vác thập gía mình có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành với Chúa, là chúng ta sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm cho chúng ta vì chúng ta thành tâm đi theo Chúa Giêsu.
. Người đó phải phân phát sự sống mình chứ không tích trữ nó:
Toàn bộ các tiêu chuẩn trần gian phải đổi thay. Các câu hỏi không phải là “Tôi có thể thâu tích bao nhiêu ?”, nhưng là “Tôi có thể phân phát bao nhiêu”. Không phải việc gì là điều an toàn để làm, nhưng là việc nào là điều phải lẽ để làm, không phải cái gì là tối thiểu được phép làm, nhưng là “cái gì là điều tối đa có thể làm”. Kitô hữu phải nhận thức rằng đời sống của mình là cho đi, không phải giữ lấy cho mình, nhưng là đem phân phát đời mình cho kẻ khác, không phải là tiết kiệm năng lực, nhưng là tiêu hao năng lực cho Chúa và tha nhân.
Thật ra sự chọn lựa này, nói cho cùng chỉ vì: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, vì tôi coi tất cả như rác để được Đức Kitô và được kết hiệp với Người”.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết ơn trở thành những chứng nhân hữu hiệu của Ngài giữa anh chị em xung quanh, chứng nhân trung thành với đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận và giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ trong bài: TN 12-C4
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay đã không ngừng vang dội suốt 20 thế kỷ qua. Câu hỏi ấy vang đến chúng ta và nó cũng chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay: Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai ? Câu hỏi này đã được người ta trả lời bằng nhiều cách khác nhau, mỗi người một vẻ, một ý kiến, một quan điểm tùy theo quan niệm và hoàn cảnh cuộc sống của họ. Chẳng hạn có người nói: Chúa Giêsu là một mẫu người tuyệt vời đã đến cứu chúng ta, nhắc cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Người khác nói: Chúa Giêsu là một người quyến rũ nhất, dễ thương nhất và được yêu nhiều nhất. Có người lại nói: Chúa Giêsu là một người rất sống động, là một người bạn rất thân trong cuộc sống. Và có người nói: Chúa Giêsu là người đã hiến thân cho con người. Ngài đã hợp nhất mọi người trên mặt đất, Ngài đã bảo họ hãy nhìn nhận nhau như anh chị em… Câu trả lời nào cũng đúng, nhưng cho dù Chúa Giêsu là ai chăng nữa nếu Ngài không phải là Đấng Kitô của Thiên Chúa thì chúng ta không cần lưu tâm đến Ngài, quá lắm chúng ta cũng chỉ coi Ngài là một người phi thường, một vĩ nhân của nhân loại mà thôi. Nhưng không phải thế, quả thực Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Đây là một quả quyết của lòng tin. Chúng ta hãy tìm hiểu: Những người đương thời với Chúa Giêsu đã coi Ngài là ai ? Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là gì ? Chúng ta có phải là con Thiên Chúa không ? Như vậy chúng ta phải sống niềm tin đó thế nào ?
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, đứng trước con người Chúa Giêsu, các người đương thời với Ngài đã phải kinh ngạc, ngỡ ngàng. Tại sao vậy ? Vì họ không xếp được Ngài vào hạng người nào theo ý họ. Có thể họ coi Ngài là một nhà làm phép lạ thôi chăng ? Nhưng những nhà làm phép lạ có được Thiên Chúa ban cho quyền năng thì là để thi hành một sứ mệnh rõ rệt, vậy sứ mệnh của Chúa Giêsu là gì ? Hay phải chăng Ngài là một ngôn sứ mới, nối dòng những người thời xưa Thiên Chúa đã sai đến ? Nhưng vào thời đó người ta không chờ đợi bất cứ một ngôn sứ nào cho bằng chờ đợi một ngôn sứ lớn, là người sẽ loan báo thời đại của Đấng Mêsia đã đến. Vào lúc người thời đó nóng lòng trông đợi như thế thì làm sao xếp được một chỗ đứng cho con người Chúa Giêsu, tuy Ngài quyến rũ thực, tuy Ngài làm nhiều việc khiến người ta không thể hiểu được, nhưng khó tưởng tượng Ngài có thể đóng vai trò của một Đấng Mêsia. Bởi vì Đấng Mêsia mà người Do thái trông đợi phải là người nắm trong tay mọi thế lực, nhất là về mặt chính trị và quân sự. Vì thế, đối với họ, Chúa Giêsu chẳng có gì giống như một ngôn sứ lớn, lại càng không thể tưởng tượng được Ngài đến với tư cách là Đấng Mêsia.
Hơn nữa, Chúa Giêsu lại là con bác thợ mộc Giuse, con bà Maria, thì làm sao có thể là Đấng Thiên Sai được ? Nhưng điều đó cũng chưa quan trọng, sinh quán của Ngài mới là chuyện quan trọng hơn. Chúa Giêsu là người xứ Galilê. Đối với người Do thái thời đó, làm sao một người Thiên Chúa sai đến lại có thể xuất thân từ cái xứ ô uế đó được ? Chúng ta biết, Galilê có nửa số dân là ngoại giáo, không phải là thánh địa thật, dân xứ đó thường sống chung đụng với người ngoại giáo, nên nguồn gốc của Chúa Giêsu thật đáng nghi ngờ. Như thế làm sao ông Giêsu có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia được ?
Vì thế, trong một lần nói chuyện thân mật giữa thầy trò, Chúa Giêsu hỏi các ông về dư luận quần chúng đối với Ngài: “Anh em nghe thiên hạ bảo Thầy là ai ?”Bởi vì các ông có dịp trà trộn với quần chúng đã nghe biết nhiều dư luận, cho nên các ông lần lượt trình bày với Chúa: có kẻ bảo Thầy là Gioan tẩy giả, kẻ khác nói là Elia, kẻ khác nữa lại nói chung chung là một ngôn sứ nào đó.
Nhưng Chúa hỏi như vậy là để dọn đường cho câu hỏi quan trọng, trực tiếp liên hệ đến các môn đệ và đến mức độ đức tin của các ông đối với Chúa. Chúa hỏi: “Thế còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Phêrô liền thưa thay cho các bạn: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu cho lời tuyên xưng đó là đúng nhất, tuyệt vời nhất và đầy đủ nhất. Thực vậy, Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Theo quan niệm của người Do thái, Đấng Cứu Thế cũng có tên là Kitô, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ, mang lại độc lập tự do cho xứ sở, khuất phục dân ngoại và đem họ về với Giavê Chúa họ. NHưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô không phải theo nghĩa đó. Ngài được Thiên Chúa sai đến thực sự như Ngài tuyên bố: “Cha Ta, Đấng đã sai Ta đến”, “Ta từ trời xuống để làm theo ý của Đấng đã sai Ta”. Nhưng Ngài đến để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, Ngài đến để khuất phục các dân ngoại nhận biết Thiên Chúa và thiết lập một nước mới gồm những kẻ tin Ngài và lãnh nhận phép rửa tội. Nước Ngài là nước tình yêu, nước hòa bình và thánh thiện. Nước ấy không chỉ hạn chế nơi người Do thái, nhưng là nước phổ quát khắp trần gian. Nghĩa là không giới hạn trong một lãnh thổ nào, không xây dựng trên sức mạnh quân sự nhưng từ trong lòng những người thiện chí. Chính vì thế, Tin Mừng Matthêu còn cho biết, sau câu tuyên xưng của Phêrô, Chúa nói ngay: “Không phải huyết nhục đã cho anh biết điều này, nhưng là Cha Thầy ở trên trời đã cho anh biết”.
Như nói ở trên: tất cả những ai tin Chúa Giêsu và lãnh nhận phép rửa tội sẽ được gia nhập vào nước của ngài là Giáo Hội. Họ sẽ là con Thiên Chúa và là anh em với Ngài. Như vậy, tất cả chúng ta đều là con Thiên Chúa. Đây không phải là một tước hiệu suông, nhưng là một thực tại linh động, biến đổi sâu xa đến cốt tủy linh hồn chúng ta. Quả thực, trong việc giáng thế làm nhân trần như chúng ta, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính, đã cho phép chúng ta trở thành em Ngài, và đồng thời trở thành con Thiên Chúa.
Tóm lại, chắc chắn mọi người chúng ta đều tin vững mạnh Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa. Vì niềm tin đó tất cả chúng ta đều là Kitô hữu và cũng là con của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta phải sống xứng đáng với tước hiệu cao quí đó, nghĩa là chúng ta phải biết sống theo lời Chúa dạy. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều biết sống theo lời Chúa để rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau ở cõi sống hạnh phúc bất diệt.
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe thuật lại sự kiện Chúa Giêsu gặp gỡ riêng với các môn đệ: TN 12-C5
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe thuật lại sự kiện Chúa Giêsu gặp gỡ riêng với các môn đệ, sau một thời gian hoạt động công khai, để hỏi các ông về ý kiến của dân chúng nói Người là ai, và sau đó Chúa Giêsu muốn chính các ông là những người đã được sống gần gũi thân tình với Người, nói lên nhận định của các ông về Người: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?” Và rồi xuyên suốt dòng lịch sử câu hỏi này cũng luôn đánh động nhiều người và đặc biệt là chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay.
Vấn đề căn tính đích thực của Chúa Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời rao giảng và các hoạt động của Người.
Gioan Tẩy giả từ trong ngục đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có thật là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác ?”
Những khách dự tiệc ở nhà ông Simon, Biệt phái đã xầm xì: “Ông này là ai mà lại tha tội được ?”
Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy Người dẹp yên sóng gió: “Người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió phải tuân lệnh?”
Chính vua Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan Tẩy giả, cũng thắc mắc: “Người này là ai mà trẫm nghe nói nhiều về ông như thế”.
Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa thành Naim được sống lại đã đồng thanh tung hô: “Một ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta”.
Một ít người cho là: “Đó là ông Gioan Tẩy giã từ cõi chết sống lại”. Người khác lại nói: “Ông Elia đã xuất hiện” hay “đó là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”.
Cuộc thăm dò dư luận này cho thấy mặc dù chưa có lời giải đáp chính xác về căn tính đích thực của Chúa Giêsu, nhưng các đám đông đều đánh giá Đức Giêsu là một con người tôn giáo rất vĩ đại, một ngôn sứ, một “người phát ngôn” của Thiên Chúa.
Sau khi đã biết các ý kiến của dân chúng, Đức Giêsu mới quay sang các môn đệ và hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?”
Ở đây ta thấy Đức Giêsu là một nhà sư phạm tài tình. Người đã tăng cấp cho các câu hỏi. Trước hết, Người đặt câu hỏi không đưa họ vào chiều sâu để họ dễ trả lời: “Người ta bảo Con Người là ai ?” Các ông thưa: “Kẻ thì bảo là Gioan tẩy giả, …” Lặp lại các ý kiến của người khác thì qúa dễ, chắc hẳn chẳng cần phải suy nghĩ gì, vì những quan niệm đó không liên quan gì đến các ông. Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?” Đây là một câu hỏi không dễ gì trả lời ngay được. Câu hỏi này mang chiều kích cá nhân. Nó đi sâu vào nội tâm của người đó. Nó đòi hỏi nơi người đó phải chọn cho mình một quan điểm, và hơn thế nữa là dấn thân theo quan điểm đó.
Chính vì thế mà khi Đức Giêsu nêu lên câu hỏi về ý kiến của dân chúng thì các môn đệ giành nhau trả lời. Nhưng câu hỏi động đến bản thân các ông, đòi hỏi các ông một lập trường thì các ông lại e dè. Và như bài Tin Mừng thuật lại thì chỉ một mình Phêrô lên tiếng trả lời Đức Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và sai đến trần gian để thực hiện chương trình cứu độ. Câu trả lời của Phêrô vượt xa các câu trả lời của đám đông. Phêrô nhận ra nơi Đức Giêsu điều mà chính Ngài đã loan báo ngay trong diễn từ đầu tiên ở Hội đường Nazareth: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…”
Sự xức dầu của Thần khí, sự xâm nhập của Thần khí trên Đức Giêsu chúng ta không thể thấy được. Vì thế căn tính sâu xa của Ngài không phải là một điều gì có thể dùng lý trí mà suy diễn được. Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận dưới thể thức của sự mạc khải. Thực vậy, khi Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho các môn đệ cũng là dịp Chúa Giêsu muốn tỏ cho các ông biết Ngài là ai !
Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ năm xưa vẫn luôn tồn tại theo thời gian. Người Kitô hữu hôm nay cũng được mời gọi để trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn chúng ta, chúng ta nói Đức Kitô là ai ?”
Chúng ta có thể trả lời theo hai cách:
Cách thứ nhất là trả lời như Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Hay chúng ta có thể lặp lại lời của kinh tin kính: “Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô con một Thiên Chúa…” Trả lời như vậy rất đúng. Nhưng sợ rằng đó là một câu trả lời lý thuyết, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách vở như thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là xác tín của bản thân.
Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm của bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc, cảm nghiệm như thế nào thì nói lên cách trung thực như vậy. Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người đều có câu trả lời riêng của mình. (cho vài ví dụ cụ thể)
Mặc dù mỗi người đều có câu trả lời của riêng mình, nhưng xét cho cùng Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Người là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ lạc hướng, mất hết ý nghĩa.
Thực vậy, cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều tầng lớp nông sâu khác nhau. Bên cạnh những ưu tư, toan tính về cuộc sống vật chất thường ngày là những mơ ước thầm kín, những khát vọng sâu xa liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta nhận ra mình vẫn mơ ước, ít là một cách mơ hồ, những gì là chân thật, toàn thiện, vĩnh cửu. Vấn đề đặt ra là ai có thể thỏa mãn cho chúng ta những ước mơ thầm kín và thâm sâu đó?
Chắc hẳn chỉ có Đấng đã tự giới thiệu mình chính “là Đường, là Sự thật, và là Sự Sống”, mới có thể đáp ứng được.
Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ và cũng như cho chúng ta không phải để chúng ta áp đặt cho Ngài một căn tính nhưng qua sự kiện đó, Ngài muốn tỏ cho chúng ta biết Ngài chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến.
Ước chi lời xác tín xưa kia của Phêrô trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Ngay sau khi Phêrô tuyên bố rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đức Giêsu nói: “Con Ngườ: TN 12-C6
Ngay sau khi Phêrô tuyên bố rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đức Giêsu nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…” Ý tưởng về một Đấng Mêsia đau khổ là một điều vô nghĩa đối với các tông đồ. Đấng Mêsia phải là một anh hùng vĩ đại đi chinh phục và vinh quang đang chờ đợi. Đấng Mêsia dĩ nhiên phải giành được vinh quang, nhưng không phải là vinh quang trần thế. Và Đức Giêsu sẽ trở thành một anh hùng. Nhưng không phải là loại anh hùng mà các tông đồ đã hình dung ra.
Diễn viên Christopher Reeve được nhớ đến nhiều nhất trong vai diễn Siêu Nhân. Ông kể lại khi bộ phim Siêu Nhân đầu tiên trình chiếu, ông đã có hơn mười cuộc phỏng vấn để cổ động cho bộ phim. Câu hỏi mà người ta thường hỏi ông là: “Một anh hùng là gì ?” Ông nhớ đã đáp lại câu hỏi ấy dễ dàng, và ông đã lập lại câu trả lời trơn tru ấy nhiều lần.
Theo ông, một anh hùng là một người hoàn thành một hành động can đảm mà không xét đến những hậu quả. Một người lính bò ra khỏi chiến hào để kéo một đồng đội bị thương dẫn đến chỗ an toàn, một tù nhân chiến tranh không ngừng tìm cách trốn trại giam dù biết rằng mình sẽ bị xử tử khi bị bắt.
Nhưng rồi một việc đã xảy ra với Reeve làm thay đổi hoàn toàn quan điểm của ông về ý nghĩa của một anh hùng. Tháng 5 năm 1995, ông đã bị ngã ngựa, tai nạn này làm ông bị tê liệt từ cổ xuống. Giờ đây, ông nghĩ rằng anh hùng là một cá nhân bình thường tìm được sức mạnh để tiếp tục sống dù có đầy dẫy mọi trở ngại. Đó là lòng can đảm thật, và thật sự có sức mạnh.
Khi còn đóng vai Siêu Nhân, Reeve được nhiều người xem như một anh hùng. Nhưng điều đó quá dễ dàng. Ông có sức khỏe hoàn hảo. Tuy nhiên, như chính ông nói: “Siêu Nhân chỉ là một vai diễn. Nhưng đó là cuộc đời thật, ở nơi nào mọi sự đều tranh đấu”. Tinh thần lạc quan và lòng can đảm mà Reeve thể hiện khi học cách đương đầu với sự tàn tật của ông cũng như lòng quảng đại mà ông dành cho những người ngồi xe lăn khác làm ông chinh phục được nhiều người hâm mộ mới.
Chúng ta có cảm tưởng rằng mọi việc đối với Đức Giêsu khác hẳn. Vì dù là Con Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô nói với chúng ta, khi đảm nhận thân phận con người, Người gạt bỏ mọi quyền lực và vinh quang vẫn thuộc về Người, vì Người là Con Thiên Chúa. Sau cùng vinh quang đã đến với Người là vinh quang Người đạt được bằng một đời sống vâng lời Chúa Cha, một đời sống kết thúc trong đau khổ, sỉ nhục và cái chết. Chính cuộc khổ nạn và cái chết đã đưa Người vào vinh quang. Không có sự thành tựu nếu không có sự đau khổ và hy sinh.
Người Kitô hữu không tìm kiếm đau khổ. Đức Giêsu không tìm kiếm đau khổ ; vườn Ghêtsêmani làm rõ điều đó. Nhưng đau khổ chắc chắn là một phần đời sống của Đức Giêsu. Các môn đệ của Người sẽ đau khổ vì theo đuổi những giá trị mà Người đã theo đuổi, và ưu ái hạng người mà Người đã ưu ái.
Câu hỏi trên đã ảnh hưởng rất mạnh trên cách sống của nhiều người. Họ cố gắng sống làm sao: TN 12-C7
Câu hỏi trên đã ảnh hưởng rất mạnh trên cách sống của nhiều người. Họ cố gắng sống làm sao để được dư luận khen ngợi mình là người giỏi, người tốt.
Phần Chúa Giêsu, tuy Ngài cũng hỏi các môn đệ câu hỏi đó, nhưng không phải để biết dư luận rồi chiều theo dư luận. Cách chung dư luận nghĩ Ngài là một ngôn sứ. Phêrô thì nghĩ Ngài là Đấng Mêsia Con Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu thích dư luận đó thì Ngài sẽ tích cực thi thố quyền phép để dư luận càng ca tụng mình. Nhưng Ngài không chiều theo dư luận. Ngược lại Ngài muốn dư luận biết đúng về Ngài: Mêsia thật đấy nhưng là một Mêsia chịu đau khổ.
Phần chúng ta, chúng ta cũng nên tự hỏi “Người ta nghĩ tôi là ai ?” Hỏi như thế để biết dư luận. Nhưng biết không phải để chiều theo mà biết để điều chỉnh cách sống của mình theo đúng lý tưởng của mình. Nếu dư luận chưa nhận ra tôi là môn đệ Đức Kitô thì quả là vì tôi đã không sống đúng lý tưởng của mình (“Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau”). Cho nên tôi phải thay đổi cách sống. Còn nếu dư luận đã nhận biết tôi là môn đệ Đức Kitô thì tôi vui mừng và tiếp tục cố gắng để ngày càng giống hình ảnh người môn đệ Đức Kitô hơn.
Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ “Người ta nghĩ Thầy là ai”, Ngài không hỏi thế vì Ngài đã biết: TN 12-C8
Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ “Người ta nghĩ Thầy là ai”, Ngài không hỏi thế vì Ngài đã biết rõ Ngài là ai rồi. Ngài hỏi thế là vì môn đệ, Ngài tạo dịp cho họ suy nghĩ chín chắn về bản thân Ngài.
Một số người thèm khát được người ta chấp nhận. Có lẽ vì trước đó họ thường bị người khác không để ý, không đánh giá cao hoặc chê bai nên họ đâm ra nghi ngờ chính bản thân mình và nay họ tìm kiếm sự nhìn nhận của người khác. Người nào càng thiếu tự tin và ít thành đạt thì người ấy càng cần xác định căn tính của mình trong một nhóm hoặc một tầng lớp xã hội đang thành đạt.
Chúng ta cần phải hiểu rõ sự thật mình là thế nào và chấp nhận sự thất ấy. Một khi đã hiểu mình và chấp nhận sự thật của mình rồi thì mình không cần tô vẽ về mình hay mua chuộc sự khen ngợi của người khác nữa. Dù người ta không hiểu, không khen ngợi, thậm chí chê bai phê phán, mình cũng luôn vững vàng. Bởi vì giá trị của mình không phải do lời khen chê của người khác, mà do chính sự thật của mình.
Tuy nhiên, đôi khi ta cũng phải tìm hiểu xem người khác nghĩ sao về mình, để nếu người ta nghĩ đúng thì ta có thể dựa vào đó mà sửa mình. Alfred Nobel là một kỹ nghệ gia giàu có và nổi tiếng. Chính ông là người đã chế tạo ra cốt mìn. Dù giàu có và nổi tiếng như thế nhưng đời ông không hạnh phúc, ông luôn nhìn đời một cách bi quan. Một ngày kia, do một sự hiểu lầm, người ta tưởng ông chết nên báo chí đã loan tin ấy và còn viết bài nhận định về sự nghiệp của ông. Sáng hôm đó Alffred Nobel vừa thức dậy đọc được bài báo ấy và giật mình. Điều làm ông giật mình nhất là người ta đã coi ông là “ông vua cốt mìn”. Ông nghĩ: mình đã sống thế nào, đã làm gì khiến cho người ta chỉ nhớ về ông như là người chế tạo ra cái công cụ giết người khủng khiếp ấy. Thế là ông quyết định dùng tài sản kếch xù của mình để xây dựng thế giới. Ông đặt ra giải thưởng mang tên Nobel, trao cho những ai có đóng góp nổi bật về các lãnh vực vật lý, hóa học, y khoa, văn chương và hòa bình. Alfred Nobel muốn lịch sử sẽ ghi nhớ ông như một người cổ vũ cho hòa bình thế giới chứ không phải là một “ông vua cốt mìn”.
Một câu truyện kể về một nhạc sĩ chơi đàn violin, và anh ta có một cây đàn quí giá nhất ở trên: TN 12-C9
Một câu truyện kể về một nhạc sĩ chơi đàn violin, và anh ta có một cây đàn quí giá nhất ở trên thế giới. Một lần trong buổi trình diễn đại nhạc hội, anh ta bỗng dưng cầm lấy cây đàn và đập tan nó ra thành từng mảnh. Khán giả tất cả đều bỡ ngỡ không hiểu vì sao. Sau đó, nhạc sĩ đã lấy lại bình tĩnh và nói, "Xin quí vị đừng hốt hoảng. Cây đàn violin tôi vừa mới đập là cây đàn dổm chỉ đáng có mấy đồng thôi. Bây giờ tôi sẽ chơi với cây đàn Stradivarus quí giá của tôi." Sau đó, nhà nhạc sĩ đã chơi lại khúc nhạc anh vừa mới chơi với cây đàn rẻ tiền. Đa số khán giả không thấy có gì khác biệt giữa hai cây đàn cả. Nhạc sĩ violin lại phát biểu, "Âm nhạc không phải hệ tại ở nhạc cụ mà là ở chỗ người chơi nó."
Không cần biết các bạn có giá trị bao nhiêu, giầu hay nghèo, ở bất cứ chỗ nào, các bạn đều có thể tạo nên những âm nhạc tuyệt vời nếu bạn biết đặt mình trong vòng tay của Thiên Chúa. Hãy để cho ý định của Thiên Chúa được vang lên qua các bạn, và các bạn sẽ thấy rằng mình là một nhạc cụ có thể vang lên những điệu du dương. Tuy nhiên, Thiên Chúa không thể dùng cuộc đời của các bạn nếu các bạn không biết phó mình trong tay Ngài.
Tất cả chúng ta đều mong muốn Thiên Chúa làm cho chúng ta vang lên những cung điệu hay và tinh tuyền trong tâm hồn và thể xác. Tất cả chúng ta đều mong muốn Thiên Chúa làm cho cuộc sống của chúng ta được cảm thấy an toàn trong sự hiểu biết về con người của chúng ta, tại sao chúng ta là chúng ta, và chúng ta đang đi đâu trong cuộc sống. Tất cả chúng ta đều mong muốn sự bình an thật sự trong tâm hồn mà chỉ có Thiên Chúa mới ban cho chúng ta thật sự. Tuy rằng nhiều người chúng ta đến nhà thờ và ca hát ngợi khen Chúa, nhưng Chúa đó là chúa của tiền bạc, chúa đồ vật, và chúa của những khoái lạc. Sự tách biệt này sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe, sự quan hệ, tình cảm, và lớn lên của chúng ta cho tới mức hoàn mỹ. Chúng ta càng trở nên hồi hộp, và mối lo âu sẽ làm cho chúng ta mất ăn, mất ngủ, và từ từ cuộc sống của chúng ta sẽ đi vào chỗ bất bình thường. Chúng ta sẽ cảm thấy vô dụng, bất lực, và không còn có thể tự chủ được mình nữa. Chúng ta sẽ không còn có thể nào nhận ra con người của mình nữa. Sau cùng, chúng ta không biết có ai sẽ có thể nói cho chúng ta biết chúng ta là ai không và tại sao chúng ta sống và chết.
Thiên Chúa, Cha chúng ta, nguồn mạch mọi sự sống, là Thiên Chúa yêu thương hằng mong muốn chúng ta biết chúng ta là ai. Ngài mong muốn đưa chúng ta đến chỗ hoàn thiện. Ngài sẽ đối xử với chúng ta như thế, tuy nhiên với một điều kiện đó là chúng ta không được có một chúa nào khác ngoài Ngài.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ Ngài rằng: "Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình" (Mc 8:35). Chữ sự sống ở đây theo tiếng Hy lạp có nghĩa là linh hồn và tinh thần của chúng ta. Ngài nói hãy đánh mất đi mạng sống mình: có nghĩa là dâng cho Chúa mạng sống mình. Hãy dâng cho Chúa linh hồn của mình trong Chúa Thánh Thần. Hãy trao dâng sự sống mình trong lề luật của Chúa. Hãy dâng cho Chúa sự sống mình và các bạn sẽ cứu được nó.
Có lẽ điều đó không hợp lý với đa số chúng ta. Điểm khiếm khuyết chính là ở chỗ sự đáp trả của chúng ta cần phải làm với một lòng nhiệt thành và gấp rút. Dĩ nhiên, chúng ta muốn đẩy xa sự lo lắng hồi hộp, bất lực, và vô dụng. Dĩ nhiên, chúng ta mong muốn mối liên hệ của chúng ta với người khác được cởi mở vui vẻ. Dĩ nhiên, chúng ta muốn nhận ra con người thật sự của mình và lớn lên với tất cả năng lực của chúng ta. Điều đó là tất nhiên! Tuy nhiên, trong tâm hồn chúng ta còn vang lên câu, "Lạy Chúa con, để chờ lúc khác đi, bây giờ con còn đang bận rộn với nhiều công việc."
Nhiều người trong chúng ta giống như người đàn ông rất ghét công việc của mình làm, nhưng cố gắng làm cho tới 30 năm và chờ ngày về hưu để bắt đầu sống cuộc sống mà mình thích. Các bạn ơi, Chúa Giêsu đang kêu gọi chúng ta đi vào trong cuộc sống ngay bây giờ! Chúa Giêsu đang kêu gọi chúng ta rằng trong khi phải vật lộn với cuộc sống, trong công việc làm ăn, trong mối liên hệ, trong sự đau khổ, trong sự vui mừng, trong nước mắt, trong nụ cười, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện thần linh của Ngài, nếu chúng ta biết mở rộng tâm hồn mình cho Ngài bước vô. Đó không phải là điều xa xôi gì cả, nhưng đó là điều ở ngay trong cuộc sống thường nhật mà chúng ta cần phải đặt mình dưới những lề luật của Ngài để cuộc sống của chúng ta được hiểu rõ hơn về con người của chúng ta và tại sao chúng ta sống và chết. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đón nhận những cơ hội để cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa một cách sâu xa hơn qua gia đình, cộng đoàn, và thế giới. Qua cuộc sống thường ngày, chúng ta đón nhận những cơ hội để hiểu biết nhau hơn và yêu mến nhau hơn trong Chúa Giêsu Kitô.
"Ai từ bỏ mạng sống mình thì sẽ cứu được nó." Chúa Giêsu không nói điều này với chúng ta vào Chúa Nhật tuần tới, hoặc là thứ Sáu, thứ Bảy tháng tới, nhưng chính là hôm nay. Chúng ta hãy từ bỏ mạng sống mình trong sự phục vụ yêu thương, và chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra con người thật sự của mình. Chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra chúng ta là ai và tại sao chúng ta là chúng ta. Chỉ có thế, chúng ta mới nhận ra được ý nghĩa và lý do tại sao chúng ta hiện hữu.
Nếu các bạn muốn đàn lên một khúc nhạc tuyệt vời trong cuộc sống mình, các bạn hãy đổi từ cung "Ý tôi" sang cung "Ý Chúa."
Đám đông bảo Thầy là ai? Nói chung đám đông coi Ngài là một ngôn sứ đã khuất, nhưng nay: TN 12-C10
Đám đông bảo Thầy là ai?
Nói chung đám đông coi Ngài là một ngôn sứ đã khuất, nhưng nay sống lại: một Gioan Tẩy Giả, một Êlia hay một ngôn sứ nào khác. Hiểu như thế đã là kính trọng lắm rồi, nhưng tiếc thay lại không đúng, vì Đức Giêsu chẳng phải là người của kiếp trước hiện về...
Hôm nay tôi cũng cần biết người quanh tôi nghĩ gì về Ngài: một nhà cách mạng xã hội? Một nhà cải cách tôn giáo? một người đã dám sống và đã chịu chết, để khai sinh một xã hội bình đẳng và huynh đệ đại đồng?
Có cái nhìn còn khiếm khuyết, nhưng đã là một con đường rộng mở về chân lý.
Các con bảo Thầy là ai? Phêrô trả lời đúng: Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa.
Bản thân tôi cũng phải trả lời câu hỏi trên, sau khi đã theo Chúa một thời gian dài.
Đức Giêsu là một mầu nhiệm không ngừng mở ra và lớn mãi. Ngài không thay đổi, nhưng sau mỗi biến cố, tôi lại khám phá ra những nét mới nơi con người Ngài.
Ngài vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, nhưng Ngài thường đến với tôi dưới nhiều dáng dấp.
Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi: "Con bảo Thầy là ai?"
Càng lúc câu trả lời càng được thanh luyện.
Tôi sẽ sống dựa trên câu trả lời của mình.
Đức Kitô bảo mình là ai?
Ngài thường định nghĩa mình bằng những hình ảnh cụ thể. Tôi là Cửa (Ga 10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46). Tôi là Đường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Bánh (6,51).
Định nghĩa nào cũng gắn chặt Ngài với con người.
Cửa để chiên ra vào. Mục Tử để chiên được sống. Ánh Sáng để ta dễ bước đi, Đường để đưa ta đến với Cha. Thân Nho để các cành sinh trái, Bánh để nuôi nhân loại.
Đức Kitô sống cho con người và sống với con người. Ngài nhận mình là Chúa, là Thầy, là Bạn, là Anh Trưởng của mọi người chúng ta.
Ngài nhận mình là Đức Kitô dân Do thái mong đợi.
Nhưng Ngài không giấu ta thân phận của Ngài: phải vượt qua khổ đau và cái chết mới được vào cõi sống.
Đức Kitô bảo tôi là ai?
Kitô hữu là người vác thập giá theo sau Đấng vác thập giá. Chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã đi.
Thân phận Kitô hữu gắn liền với thân phận Thầy mình: "Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài" (2Tm2,11).
Mầu nhiệm Vượt Qua nằm ở trung tâm đời sống Kitô hữu. Vượt qua lớn nhất là vượt qua chính mình mỗi ngày.
Từ bỏ chính mình là để có thể sống cho tha nhân. Mất mạng sống mình là để tín trung với Chúa. Ước gì tôi là tôi hơn, khi tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Gạt Đức Kitô ra khỏi đời tôi, mọi sự sẽ sụp đổ, giống như một thân xác bị người ta lấy đi bộ xương, quả tim và cái đầu." Bạn nghĩ gì về câu nói trên của Cha Phêrô Arrupe?
Ở Ấn Độ, nhiều người thích coi Đức Giêsu như một nhà Đạo Sư (Guru). Theo ý bạn, ở Việt Nam, khuôn mặt nào của Đức Giêsu dễ được chấp nhận hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Thầy Giêsu, Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy và Cha.
Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc.
Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.
Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ, rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá.
Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
1) LỜI CHÚA: Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9,20).
2) CÂU CHUYỆN:
Vào ngày 20 tháng 07 năm 1969, Phi hành gia Hoa Kỳ tên là Nên Am-trong (Neil Armstrong): TN 12-C11
Vào ngày 20 tháng 07 năm 1969, Phi hành gia Hoa Kỳ tên là Nên Am-trong (Neil Armstrong) trở thành con người đầu tiên đổ bộ lên mặt trăng. Tuy nhiên, ít có ai biết được rằng: một trong những lý do giúp Am-trong đổ bộ được lên mặt trăng là nhờ Chúa Giêsu ban sức mạnh và hướng dẫn ông ta trong bước quyết định cam go trong tuổi niên thiếu.
Thật vậy, vào năm 15 tuổi, một hôm Am-trong cùng đi với cha trên một chiếc xe ngang qua một phi trường nhỏ vùng Ô-hai-ô (Ohio), thì đột nhiên nhìn thấy một chiếc phi cơ đang chúi mũi xuống đường. Cậu vội hét lên cho cha dừng xe lại và hai cha con lập tức chạy đến lôi chàng phi công ra khỏi chiếc máy bay có thể bị nổ tung. Viên phi công là một sinh viên mới 20 tuổi đang thời kỳ tập lái. Sau đó anh ta đã chết trên tay Am-trong. Đêm hôm ấy cậu Am-trong không thể ngủ được. Đầu óc vẫn đang bị khủng hoảng do cái chết của viên phi công tập sự. Cậu Am-trong cũng đang tập lái máy bay nên sau biến cố nói trên không biết cậu còn đủ tinh thần để tiếp tục học tập nữa hay không. Hôm sau, bà mẹ của Am-trong lo lắng vào phòng thăm con. Bà thấy một quyển vở nhật ký đang mở sẵn để trên bàn viết. Bà đọc thấy ở trang đầu tiên mấy dòng chữ hoa: NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU và bên dưới Am-trong đã liệt kê một số đức tính của Chúa cần phải học tập như sau:
“Chúa Giêsu không hề phạm tội. Người sống khiêm nhường và luôn thương xót nâng đỡ những kẻ nghèo hèn. Người không ích kỷ và luôn gần gũi với Thiên Chúa”.
Bà mẹ thấy cậu con có tình yêu mến Chúa Giêsu như vậy liền hỏi con rằng: “Con quyết định thế nào về việc học lái máy bay ? Tiếp tục hay bỏ luôn ? Cậu ta nhìn vào mắt mẹ và trả lời: “Thưa mẹ, con hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ tiếp tục học bay”.
3) SUY NIỆM:
+ Câu chuyện trên trả lời một cách sống động cho câu hỏi của Chúa Giêsu với các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: “anh em bảo Thầy là ai ?”. Cậu Am-trong không trả lời mang tính thần học như Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Câu trả lời của cậu đơn giản và thực tế đời thường: “Người là Đấng không hề phạm tội, sống khiêm nhường, luôn chăm sóc kẻ nghèo, có tinh thần vị tha, luôn gần gũi Thiên Chúa…” Am-trong đã nhìn vào nội tâm để mô tả cảm nghiệm của mình về Chúa Giêsu.
+ ĐỨC GIÊSU LÀ AI ?
Mỗi người chúng ta cũng phải làm như cậu Am-trong: Nhìn sâu vào tâm hồn mình để mô tả cảm nghiệm về Chúa Giêsu. Cảm nghiệm này không ai giống ai. Có lẽ đối với một số người trong chúng ta: Chúa Giêsu là Đấng người ta có thể chạy đến cầu xin sức mạnh khi ta gặp thử thách, là người hiểu rõ nhu cầu và sẵn sàng trợ giúp khi ta gặp gian nan khốn khó, là Thầy dạy đức tin, là đường dẫn ta về trời, là sự sống giúp ta sống muôn đời…
+ TÔi PHẢI LÀM GÌ ?
Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Những lời này buộc chúng ta tự vấn lương tâm: “Hiện tại tôi có được xếp vào hàng môn đệ của Chúa Giêsu hay không ? Tôi có vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa không ? Tôi có từ bỏ cái tôi ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình để sống vị tha bác ái không ? Tôi có sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những người đói rách không ? Có sẵn sàng hy sinh thời giờ tiền bạc để cộng tác với Giáo Hội loan báo Tin Mừng hay không ?
NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Có một vấn nạn người ta luôn đặt ra là: Chúa có phải là Đấng Thiên Sai hay không ? Nếu Chúa là Đấng Thiên Sai thì tại sao cuộc đời vẫn còn nhiều đau khổ ? Phần con, con tin Chúa thực là Đấng Thiên Sai. Nhưng qua lời Chúa dạy hôm nay, con biết rằng: Chúa muốn cứu chúng con bằng sự đau khổ hy sinh của thập giá. Đó là con đường chính Chúa đã đi và mời gọi con cùng đi với Chúa. Ngoài ra không còn con đường nào khác.
Lạy Chúa, con biết có những đau khổ sẽ biến mất khi mỗi người chúng con biết hy sinh quên mình và sống cho nhau. Có những đau khổ mà Chúa muốn con đón nhận để cùng Chúa trở thành của lễ đền tội cho nhân loại và kéo ơn lành của Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Con không hiểu được mầu nhiệm đau khổ thập giá, nhưng con vững tin vào Chúa và cùng bước đi với Chúa trong niềm hy vọng phục sinh. Xin giúp con biết bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày để cứu mạng sống của con và góp phần cứu lấy sự sống của nhiều người khác. Amen.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hỏi các tông đồ về dư luận của dân chúng. Ngày hôm nay, Chúa cũng hỏi chúng con về lòng tin của chúng con đối với Chúa, về tình liên đới với tha nhân. Chúa đòi chúng con phải xác tín niềm tin của mình. Chúa mời gọi chúng con muốn làm môn đệ của Chúa thì phải đi con đường hẹp, phải biết hy sinh quên mình, sẵn sàng chấp nhận gian khổ gặp phải trong cuộc sống.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con biết tin yêu phó thác và cậy trông vào Chúa Giêsu. Xin cho chúng con biết tìm ý Chúa muốn dạy chúng con trong Thánh Kinh, qua các bề trên đạo đời, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống… Và cho chúng con sẵn sàng đón nhận mọi vui buồn xảy đến cho chúng con, vì ý thức rằng đó chính là Thánh ý của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Gần ba năm theo Chúa, được Chúa hướng dẫn, dậy dỗ và chỉ bảo, các môn đệ vẫn chưa hiểu: TN 12-C12
Gần ba năm theo Chúa, được Chúa hướng dẫn, dậy dỗ và chỉ bảo, các môn đệ vẫn chưa hiểu tất cả về con người của Thầy mình. Do đó, Chúa Giêsu muốn trắc nghiệm xem đức tin của các ông như thế nào đối với Ngài. Bởi vì Chúa Giêsu đã nghe thấy có nhiều dư luận về Ngài như đoạn Tin Mừng của thánh Luca 9, 18-24 thuật lại, nhưng cuối cùng chỉ có câu trả lời của Phêrô là chính xác.
MỘT CUỘC TRẮC NGHIỆM:
Người ta thường thử trí nhớ và sự hiểu biết của các trẻ nhỏ khi đem ra một tấm hình của một nhân vật, một ca sĩ, một bác sĩ, một tài tử hoặc một danh nhân nào đó rồi hỏi thử xem trẻ nhỏ đó biết gì về người trong ảnh, trong hình đó. Chúa Giêsu ngày hôm ấy cũng muốn trắc nghiệm xem các môn đệ nghĩ gì về mình. Đã có những câu trả lời về con người của Chúa Giêsu được đưa ra như có người cho rằng Đức Giêsu Kitô là Gioan Tẩy Giả, là Elia, hay một vị ngôn sứ nào khác trong Cựu Ước. Cho dù có người đã đồng hóa Chúa Giêsu là Gioan Tẩy giả, là Elia, hay một vị ngôn sứ nhưng tất cả chưa nhận ra được Chúa Giêsu là nhân vật chính và những vị ngôn sứ hoặc Gioan Tẩy Giả chỉ là những người dọn đường, loan báo và chuẩn bị mà thôi. Tất cả những giả thuyết về Chúa Giêsu như vừa nêu trên đều từ từ bị chứng minh là sai. Dư luận quần chúng nhân dân vẫn có cái gì hết sức hàm hồ, hết sức mông lung và khó hiểu, họ vẫn cho Chúa Giêsu là một trong các vị ngôn sứ cuối cùng mãi đến khi Phêrô đưa ra câu trả lời hết sức chính xác và đầy lòng tin:” Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa”( Lc 9, 20 ). Thánh Phêrô đại diện các môn đệ đã chỉ ra rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa vì Ngài được Thiên Chúa Cha sai tới. Lời tuyên tín của thánh Phêrô cho thấy Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn sứ mệnh Thiên Chúa Cha trao phó và các môn đệ ngày càng hiểu rõ Ngài hơn.
MỘT SỨ MỆNH DỄ BỊ CON NGƯỜI HIỂU SAI:
Khi Phêrô tuyên xưng lòng tin của mình, Chúa Giêsu thấy trước lời tuyên xưng ấy có thể dễ bị giải thích sai lạc. Sứ mệnh của Chúa Giêsu đã được Ngài quảng diễn thêm:” Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá của mình mỗi ngày mà theo Ta. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất và ngược lại”. Sứ mệnh của Chúa Giêsu trình bầy dễ gây ngộ nhận và đây là một sứ mệnh xem ra hết sức khó khăn vì sống đúng lý tưởng của sứ mệnh ấy không phải là điều dễ, nhưng nó đòi hỏi phải hy sinh phấn đấu bởi vì con người luôn yếu đuối và đầy dẫy dục vọng thấp hèn. Lý tưởng của Đức Giêsu đưa ra không phải không thể thực hiện được, không phải chỉ dành cho đời sau, nhưng lý tưởng, hướng đi và sự sống mà Đức Giêsu Kitô đưa ra lại hết sức đơn giản và mang tính chất đầy ắp Tin Mừng, đó là: yêu thương, bác ái, từ bỏ, hy sinh, xả kỷ, phục vụ, quảng đại vv… Lý tưởng ấy là sự sống con người phải có hằng ngày đối với anh chị em đồng loại. Lối sống ấy là một lối sống hết sức cụ thể không chỉ có trong óc tưởng tượng, trong lý thuyết, nhưng là thái độ con người và người môn đệ phải có đối với anh chị em đồng loại. Thái độ ấy là thái độ hiện tại chứ không phải là chờ đợi ở cõi đời sau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết lập lại lời tuyên xưng của thánh Phêrô:” Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa” để chúng con luôn vững bước theo Chúa và làm chứng cho Chúa phục sinh.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Bạn cảm nghiệm thế nào về lời tuyên tín của thánh Phêrô? 2. Bạn nghĩ sao về Chúa Giêsu ? 3. Có lúc nào bạn bị thử thách về lòng tin không ?
Một trong những đặc tính thần học quan trọng trong Tin mừng Luca đó chính là tinh thần cầu: TN 12-C13
Một trong những đặc tính thần học quan trọng trong Tin mừng Luca đó chính là tinh thần cầu nguyện của Chúa Giêsu. Thật vậy, đối với Luca, Chúa Giêsu là con người đặc biệt yêu thích đời sống cầu nguyện. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy, trước những biến cố đặc biệt, Chúa Giêsu thường hay ra nơi hoang vắng hoặc lên núi để cầu nguyện (x. Lc 3, 21; 6,12; 9, 28-29; 11, 1; 22, 40-46;…). Tin mừng hôm nay cũng vậy. Đây là một bước ngoặt lớn trong sứ vụ rao giảng nước Trời của Chúa Giêsu ở miền Galilê đang vào hồi kết thúc để rồi Người bước vào hành trình tiến về Giêrusalem hoàn tất thánh ý Chúa Cha; đây cũng là lúc mở ra một hành trình đức tin cho các môn đệ, thẩm định xem đối với các ông, Chúa Giêsu là ai để rồi sau đó, Chúa Giêsu từ từ khải mạc cho các ông hiểu sự thật về Người.
Căn tính của Chúa Giêsu từ lâu luôn là câu hỏi lớn không chỉ đối với thời đại của Người mà còn cho mọi thời đại: “Giêsu, ông là ai?”. Trên đường rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu luôn là đối tượng để mọi thành phần trong dân chúng thắc mắc và không ngừng tìm hiểu. Ngay Gioan Tẩy giả cũng không hiểu nổi người anh em của mình là người thế nào. Từ trong ngục tù, ông đã phái môn đệ đến hỏi xem ông em họ có phải là “Đấng phải đến” hay không (x. 7, 20). Dân chúng thì lại thắc mắc: “Ông này là ai mà lại tha được tội” (x. 7, 49). Ngay cả Hêrôđê vốn là một ông vua gian dâm, độc ác, xem thường luân thường đạo lý cũng phải suy nghĩ: “ Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế” (9,9). Thế nhưng sự thật về con người Giêsu vẫn chưa có câu trả lời xác đáng cho đến khi chính Chúa Giêsu đặt vấn đề này với các môn đệ. “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Với câu hỏi này, Chúa Giêsu muốn các môn đệ nói lên chính kiến của mình chứ không dựa theo dư luận quần chúng lúc bấy giờ. “Thầy là Đấng Kytô của Thiên Chúa”. Câu trả lời của Phêrô không chỉ là lời tuyên xưng niềm tin vào “Đấng được xức dầu”, vào tôn hiệu Thiên Sai của Chúa Giêsu mà còn là chìa khoá mở vào đường chân lý cho hết những ai muốn thắc mắc và tìm hiểu cuộc đời và giáo huấn của Người.
Chúng ta thấy sở dĩ Chúa Giêsu không cho các môn đệ loan báo điều Phêrô vừa nói không phải vì Người chối từ danh hiệu đó mà bởi vì vào thời bấy giờ, sử dụng tôn danh đó còn quá sớm, hơn nữa trong dân chúng, tôn hiệu đó được hiểu rất hàm hồ. Thật thế, trong quan niệm của dân chúng lúc bấy giờ, Đấng Mêsia là người được Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân Người khỏi nô lệ, khỏi áp bức của ngoại bang, thiết lập vương quốc tại thế khởi đi từ Giêrusalem. Các môn đệ cũng hiểu như vậy. Chỉ khi chứng kiến cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Thầy, các ông mới hiểu rõ ý nghĩa “Đấng Mêsia của Thiên Chúa” là gì. Thật vậy, Đấng Mêsia của Thiên Chúa không theo nghĩa mà từ lâu dân chúng vẫn áp đặt, là đến để khôi phục vương quốc bằng sức mạnh, bằng quân sự, bằng tiền tài; trái lại, đó là Đấng luôn luôn lấy hoà bình, lấy yêu thương và lòng khiêm nhường làm kim chỉ nam cho hết những ai muốn mưu cầu xây dựng một vương quốc thánh thiện, công bình, bác ái và phục vụ tha nhân. Công dân của vương quốc đó phải là những ai biết “từ bỏ mình, vác lấy thập giá hằng ngày, liều mất mạng sống mình” bước theo Đức Vua khiêm nhường và tự hạ. Đấng Mêsia của Thiên Chúa là Đấng không đến để được người ta cung phụng mà là Đấng đến để phục vụ, đến để từ bỏ chính mình, để hiến dâng mạng sống mình vì nhân loại.
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” vẫn là câu hỏi mà Chúa Giêsu muốn hỏi mỗi người chúng ta. Đó chính là cách thế để chúng ta duyệt xét lại đời sống đức tin của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Đồng thời cũng là dịp để mỗi người chúng ta tự vấn, phản tỉnh, lượng giá cách thế mình đã hành xử với Thiên Chúa như thế nào. Ước gì câu hỏi của Chúa không ngừng vang lên trong tâm trí chúng ta để chúng ta biết điều chỉnh sao cho xứng đáng là môn đệ của Chúa ngõ hầu những ai đến với chúng ta đều nhận ra căn tính của chúng ta - căn tính Kytô hữu, là hiện thân của Chúa Kytô nơi trần thế này.
Đức Giêsu Kitô là ai? Đây là câu hỏi lớn mà mọi người đã và đang tự hỏi suốt 20 thế kỷ nay: TN 12-C14
Đức Giêsu Kitô là ai? Đây là câu hỏi lớn mà mọi người đã và đang tự hỏi suốt 20 thế kỷ nay, và cũng là câu hỏi mà Phụng vụ hôm nay đặt ra cho chúng ta. Có nhiều câu trả lời: một ngôn sứ đời xưa sống lại, Elia hay Giêrêmia; hoặc Gioan Tẩy Giả. Đại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô đi xa hơn bằng việc khẳng định Đức Giêsu là Đấng Messia. Đối với Đức Giêsu, những lời đáp trên là không đầy đủ, Ngài tự tỏ mình là Con Người, Đấng phải chết trên thập giá. (Tin Mừng). Dưới ánh sáng của Tin Mừng chúng ta thấu hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời ngôn sứ Dacaria: “Ta sẽ đỗ ơn xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta” (Bài 1) Đối với Thánh Phaolô, trong ánh sáng Phục Sinh, Đức Giêsu là Đấng Duy Nhất dẫn dắt con người từ tình trạng trẻ thơ, dưới quyền giám hộ, đến tình trạng trưởng thành của người tự do và của con cái Thiên Chúa. (Bài 2)
Sứ Điệp Niềm Tin
1. Một ngôn sứ vĩ đại, nhưng không còn gì hơn nữa.
Mỗi người có một quan niệm khác nhau về Đức Giêsu, điều này không có gì mới. Bây giờ cũng chẳng khác gì thời các thành phố, các vương quốc và đế quốc xây dựng đầu tiên. Trong Tin Mừng, theo những gì Thánh Luca thuật lại cho ta, Đức Giêsu không xem thường những quan niệm trên, nhưng vì Ngài cho rằng chúng không đầy đủ nên Ngài đã sữa chữa và bổ túc thêm. Người ta cho rằng Đức Giêsu là một ngôn sứ, họ nói đúng. Họ nghĩ rằng Ngài không là một ngôn sứ nào đó, nhưng là một trong những ngôn sứ lớn: Elia, hoặc Giêrêmia hoặc Gioan Tẩy Giả sống lại. Đức Giêsu không phản đối danh hiệu ngôn sứ, nhưng Ngài làm rõ khi cho rằng danh hiệu ngôn sứ không diễn tả đầy đủ về Ngài. Vả lại, sự so sánh Ngài với Elia hay Giêrêmia hay Gioan Tẩy Giả không nói lên đầy đủ căn tính của Ngài; Thực sự, Ngài là vị ngôn sứ lớn, người nói nhân danh Thiên Chúa và giải trình lịch sử nhân loại dưới ánh sáng của chương trình của Thiên Chúa, nhưng Ngài còn vượt lên trên hơn nhiều những điều ấy.
2. Đấng Messia của Thiên Chúa, nhưng…
Phêrô và các tông đồ khác đã theo Đức Giêsu một thời gian, họ cùng chia sẻ với Ngài, thấy ngài cầu nguyện, rao giảng và chữa bệnh. Họ nghe những lời khuyên bảo của Ngài, nhất là những loan báo về Nước Thiên Chúa. Họ đã hiểu biết thêm về Đức Giêsu: Ngài không chỉ là một ngôn sứ nhưng còn là Đấng Messia của Thiên Chúa. Vâng, Đấng Messia, hậu duệ của Davít, nhà lãnh đạo chiến đấu, vị vua chiến thắng, đã hoàn thành việc bành trướng vương quốc Ítraen, tiêu diệt mọi quân thù. Với cương vị Đấng Messia, Đức Giêsu sẽ lập lại khuôn mặt của Đavít: sẽ đánh thắng quân Lamã, sẽ nới rộng biên giới, các vua lân bang sẽ quy phục. Vương quốc Ítraen, vương quốc của Giavê, sẽ trở nên vinh hiển. Đức Giêsu không bằng lòng với chủ thuyết Messia mà Phêrô và các tông đồ mơ tưởng đó. Đức Giêsu không chối bỏ, và cũng chẳng bao giờ chối bỏ Ngài là Đấng Messia, vì như thế sẽ là chối bỏ sự thật, bởi chính Ngài là sự thật. Nhưng Đức Giêsu không đồng hóa mình với khuôn mặt Đấng Messia như là vị lãnh đạo các đạo quân của Giavê. Đúng thế, Ngài là Đấng Messia của Thiên Chúa, nhưng một Đấng Messia khác hẳn với hình ảnh mà các môn đệ thân yêu đang nghĩ.
3. Một Đấng Messia chấp nhận đau khổ.
Vào thời điểm quyết định trong cuộc đời của Đức Giêsu, trước khi Ngài khởi đầu lên Giêrusalem, nơi bị đóng đinh, Ngài đã mạc khải trước về cuộc đời và bản thân của Ngài. Ngài bắt đầu nói về những điều thật khác và mới lạ so với những lời sấm ngôn trong Cựu Ước. Nói cách khác, Ngài bắt đầu nói về Đấng Messia sắp kết thúc cuộc đời trên ngai thập giá. Có lẽ ngôn sứ Giacaria có tiên báo trước một điều gì tương tự như thế khi ông viết: “Chúng sẽ than khóc Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một…” (Bài 1), qua câu này truyền thống Do Thái không bao giờ áp dụng cho Đấng Messia, vì chính Giavê phán. Đấng Messia đau khổ, là một điều bất thường và không ai dám nghĩ như thế vào thời đó, lại được Thánh Phaolô đồng hóa với Con Thiên Chúa. Vì lý do này, trong bài đọc 2, Ngài đã có thể nói rằng, là kitô hữu, “nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” Người Con thật và duy nhất của Thiên Chúa. Giờ đây ta có thể trả lời dễ dàng câu hỏi được đặt ra, ‘Đức Giêsu là ai?’ Ngài là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Gợi Ý Mục Vụ
1. Đời sống của mình chính là câu trả lời hay nhất
Vấn nạn về Đức Giêsu Kitô là một vấn đề ta chỉ có thể giải đáp sau khi suy nghĩ nhiều. Đây chắc chắn chẳng phải là một vấn nạn lỗi thời, chẳng đáng quan tâm Thực ra, đây là vấn đề duy nhất đáng quan tâm và chỉ có thể trả lời bằng chính cuộc sống của chính mình. Nói rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Kitô chết trên thập giá, rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, điều này vượt quá tâm trí và suy luận của ta. Chẳng bao giờ con người có thể thấu hiểu được chân lý đức tin ấy bằng lý luận của mình. Duy chỉ khi con người bắt đầu bước vào con đường hẹp của thập giá và, ngắm nhìn Đức Giêsu, bước theo bước chân của Ngài, họ mới khám phá ra rằng vấn nạn về Đức Giêsu Kitô cùng song hành với vấn nạn về con người, và trả lời được vấn nạn đầu, sẽ trả lời được cho vấn nạn sau. Chỉ những ai kinh nghiệm được sự đau khổ và nhận thức được giá trị cứu độ của đau khổ, cho cả người đang đau khổ và cả cho người hay những người mà họ chịu đau khổ cho, mới có thể nắm bắt được ý nghĩa về Đấng Messia chịu đau khổ. Những ai sống trong tình trạng con cái Thiên Chúa, phẩm giá cao cả của con cái và thái độ tuân phục của con cái, mới có thể trả lời vấn nạn này, Đức Giêsu Kitô là ai? Họ có thể loan báo Ngài với niềm xác tín trước mọi người. Nói cách khác, nếu ta sống cuộc sống kitô hữu cách hoàn hảo, ta chẳng cần phải tự hỏi, Đức Giêsu Kitô là ai? Bởi vì chính cuộc sống của chúng ta đã là câu trả lời cho vấn nạn ấy.
2. “Cầu nguyện để hiểu, hiểu để cầu nguyện.”
Ta hiểu được các huyền nhiệm của niềm tin nơi nhà thờ tốt hơn nơi công sở. Bạn thấu hiểu tốt khi cầu nguyện hơn là khi nghiên cứu, dù cả hai đều cần. Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất nắm giữ chìa khóa của các mầu nhiệm. Chỉ mình Ngài mới có thể mở cửa nhà tạm của lòng Ngài ra cho ta. Trí khôn của ta, một khi được mở ra cho niềm tin, sẽ đưa chúng ta đến trước nhà tạm của mầu nhiệm. Khi mà Thiên Chúa cho phép ta đi vào trong mầu nhiệm, trí khôn ta sẽ giúp ta nắm bắt được một chút cái thực tại vô cùng cao siêu và vô tận. Tuy nhiên, chỉ khi cầu nguyện, với khiêm tốn, kiên trì và phó thác, ta mới làm cho Chúa mở cánh cửa nhà tạm mầu nhiệm ra cho ta. Bên trong cánh cửa ấy, linh hồn sẽ đạt đến sự ngây ngất và trí tuệ chúng ta sẽ như đang bơi vào những vùng nước chưa hề được biết đến. Môn thần học đích thực nhất là điều thực hành không chỉ dựa trên nền tảng của lòng tin, nhưng đặc biệt còn trên nền tảng của sự cầu nguyện nữa, một tâm trí biết cầu nguyện sẽ đưa đến việc tôn thờ mầu nhiệm. Cũng thế, bài giảng chân thật nhất là bài giảng đưa dẫn những chân lý đức tin đến sự chiêm niệm. Những điều thuộc Thiên Chúa, những người cầu nguyện mới hiểu, và những ai không cầu nguyện chẳng hiểu gì, hoặc chỉ rất ít. Nếu người kitô hữu chúng ta cầu nguyện tốt hơn và nhiều hơn, những vấn nạn của niềm tin sẽ giảm đi rất nhiều hoặc sẽ không còn nữa. Trong một thế giới mà đôi lúc ta chẳng thấy có ý nghĩa gì, cầu nguyện sẽ giúp ta tìm thấy ý nghĩa. Thật đáng giá!
DỊP KỶ NIỆM PHONG THÁNH: THỜI ĐIỂM MƯỜI NĂM TRÚNG SỐ
Trong suốt tháng 5 1998, dân chúng Mỹ lên cơn sốt nặng, ai nấy túa ra đường xếp hàng dài dài: TN 12-C15
Trong suốt tháng 5 1998, dân chúng Mỹ lên cơn sốt nặng, ai nấy túa ra đường xếp hàng dài dài đi mua vé số, từ ông giám đốc đến cô thư ký, từ chị tiếp bàn đến anh đổ rác, ai cũng mong mình trúng độc đắc "phao bò" (powerball) 195 triệu Mỹ Kim. Số tiền "phao bò" kỳ này lên cao chưa từng có.
Nhưng rồi chỉ có một người trúng. Đó là một ông già đã về hưu ở bang Wisconsin. Theo thể lệ thì người trúng phải lãnh dần trong 20 năm, mỗi năm được gần 10 triệu. Ông này thấy mình đã gần đất xa trời nên xin lãnh một lần cho chắc ăn. Mà lãnh ngay một lần như vậy chỉ được 104 triệu cũng mãn nguyện quá rồi. Trừ thuế rất ư kỹ lưỡng đi, ông cầm nhẹ cái ngân phiếu 57 triệu về nhà ung dung nhưng hồi hộp quá chừng. Mong ông đừng mất ăn mất ngủ hay bị ngưng tim mà chết! Và nhiều người nuốt nước miếng tiếc rẻ: giá mình được số may mắn của ông già này thì cuộc đời sẽ sung sướng biết bao!
ĐƯỢC TẶNG 49 TRIỆU
Cách đây 5 năm tôi được tặng một cái tách uống cà phê thật quí. Tôi bèn úp mở nói với nhiều người rằng tôi trúng số. Tin giật gân, hấp dẫn lắm chứ. Nhưng dò hỏi mãi thì biết rằng trên cái tách này có hình một bức tranh mà bức gốc đã được bán với giá mắc tiền nhất trong lịch sử hội họa là 49 triệu tiền Mỹ. Đó là bức Hoa Cầu vồng (Irises) của họa sĩ Vincent Van Gogh đã được nhà tỷ phú Paul Getty mua về để trong bảo tàng viện Paul Getty ở Malibu, Cali.
Việc đấu giá bức tranh Hoa Cầu Vòng xẩy ra vào tháng 11 năm 1988, chỉ mấy tháng trước biến cố phong thánh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nói lên một thời điểm, một khuynh hướng thời đại, tìm ra được nét trân quí qua những gì vẫn coi là tầm thường và bình lặng hằng ngày. Nhìn bức tranh trên thì nhiều người cũng thấy thường thôi. Có gì đặc sắc đâu, ai chả vẽ được! Nhưng người bán cũng như người mua là Paul Getty không khùng điên phí tiền đâu. Nhiều người đã khám phá ra đường hướng của Van Gogh, gọi là đường hướng biểu hiện. Cái nhìn và cái thấy của Van Gogh nằm ở điểm là cuộc đời giầu sang lắm, sức sống sung mãn đã hiển hiện nằm sẵn trong vạn vật, chứ đâu phải những hăm hở kiếm tìm mệt nhọc của loài người như hiện nay. Chỉ cần dừng chân ngắm nhìn: một cọng cỏ, một bông hoa, một cái cầu, một cái ghế, ngôi nhà đang ở, xem ra tầm thường và nhàm chán, bỗng khám phá ra những lạ lùng. Vì một cành lá cũng đang biểu hiện sức sống của cả vũ trụ. Mà vũ trụ thì giàu có, tại sao lại cứ phải sống nghèo nàn ăn mày ăn xin những đồ viện trợ phế thải cuộc đời. Cái nhìn này cần thiết cho con người ngày nay biết bao trong lúc chuyển mình bước vào ngàn năm mới. Một trăm năm vật vã, một ngàn năm hăm hở kiếm tìm, mà vẫn không thảnh thơi bằng con cá tung tăng dưới dòng nước, không nhởn nhơ sung sướng bằng con chim trên cành cây, không mặc đẹp bằng một bông hoa. Chắc là Vincent Van Gogh đã vẽ bức tranh Hoa Cầu Vồng hay Hoa Hướng Dương dưới ánh sáng rọi chiếu của đoạn Tin Vui:
"Hãy xem chim trời: chúng không gieo không gặt, không thu lúa vào kho; thế mà Cha của anh em ở trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em chẳng đáng quí hơn chúng sao? Trong anh em có ai lo lắng nhiều mà kéo dài sinh mạng ra thêm được một gang sao? Lại lo chi chuyện áo mặc. Hãy xem hoa dại mọc ngoài cánh đồng. Chúng nó có lao tác đâu, có xe sợi đâu? Thế mà, Thầy bảo thực anh em, ngay đến Salomon trong bộ đại trào cũng không lộng lẫy bằng một những bông hoa ấy". (Mt 6:25-29).
PHÚT RUNG ĐỘNG SỬNG SỐT
Mà thực vậy. Những phút kinh ngạc sảng khoái nhất thường lại đến vào những khoảnh khắc bất ngờ, qua những chuyện xem ra thật tầm thường.
Ở cái thời mà máy chụp còn rất sơ khai tại Việt Nam, một hôm đi xem triển lãm ảnh ở Hà Nội, nhà ảnh Nguyễn Cao Đàm kể lại cảm nghiệm bắt đầu mê chụp hình do một chuyện thật tình cờ: "Có một tác phẩm làm tôi rung động đến sửng sốt, đó lá tác phẩm chụp mấy chiếc lá súng sau cơn mưa của Phạm Ngọc Chấn. Những giọt nước trái sáng, sao mà long lanh đến thế... Tác phẩm làm tôi rung động mãnh liệt. Tôi thấy đó là tôi, với hết nghĩa của nó. Mà có gì đâu, chỉ vài cál lá súng và vài giọt nước... Làng tôi là vùng nhiều nước, lá súng có rất nhiều, mà sao lâu nay tôi không để ý đến. Mà vùng quê tôi còn nhiều thứ đẹp nữa... Tôi bắt đầu cầm máy. Nói về đề tài sáng tác: quanh nhà chúng ta, quanh ngõ chúng ta, quanh làng chúng ta, quanh đất nước chúng ta, đâu đâu cũng là một kho đề tài vô tận. Và người ảnh đeo máy lên vai".
Cũng mấy bông súng tầm thường mà sao nhà ảnh Trần Cao Lĩnh đã lột được linh hồn "Việt Nam Quê Hương Muôn Thuở" qua bức hình "Chiếc Cầu Ao". Một cô gái quê đang ngồi ở cầu ao nhúng chân xuống ao súng, chạm vào nước mát, chạm vào sức sống rất Việt Nam, như kiểu
Chiều chiều ra đứng bờ ao Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Nhà ảnh Trần Cao Lĩnh đã làm cho người xem xúc động, không rời mắt được, vì nhìn được chính mình trong đó. Ông đã bơm được chất sinh động vào cảnh tĩnh là vì ông "biết lột vỏ ngoài tầm thường để thấy rõ được giá trị bên trong của hình ảnh" như lời ông nói về "động tĩnh trong ảnh".
TIN VUI ĐẤU GIÁ TRÚNG
Khám phá ra được như vậy thì cuộc sống trở nên giầu có sung túc biết bao. Ngay ở vườn đàng sau và ngay trong nhà mình đã có nhiều triệu rồi, cả một kho tàng quí giá đang chờ được khám phá. Người mua bức tranh Hoa Hướng Dương hay Hoa Cầu Vồng của Van Gogh chỉ muốn nhắn gửi con người mệt mỏi và nghèo túng hôm nay: bạn đã trúng số, bạn đang quá giàu có rồi. Chỉ cần bừng mở con mắt: nguồn phú túc đang hiển hiện trước mặt mà Chúa Trời Đất đang tuôn đổ xuống như dòng thác trong cái thấy của thi hào Tagore. Chỉ cần mở tâm ra mà lãnh nhận. Hàn Mặc Tử trong một phút xuất thần cũng thấy vậy:
Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi Cây bằng gấm và lòng sông toàn ngọc.
Suốt mấy năm từ ngày được tặng cái tách có bức Hoa Cầu Vồng, tôi vẫn thường dùng để uống cà phê mỗi sáng, với tâm tình đơn sơ: tôi đang uống vào cả dòng ân sủng, đang nhận lãnh 49 triệu mỗi ngày... bỏ qua rất uổng.
Ngày 19 tháng 6 năm 1998 là dịp kỷ niệm 10 năm tôn phong các thánh Việt. Khi tôn phong như vậy, hội thánh không chỉ nhằm vào việc đổ máu tử đạo là một hành động quyết liệt làm chứng đức tin, mà còn nhằm giới thiệu cả một đạo sống đáp ứng thời đại, vẫn gọi là đường tu đức, tức là lối nhìn và lối sống khám phá ra nét giầu có và hạnh phúc giản đơn trong cuộc sống thường ngày. Sở dĩ đường tu đức các Thánh Việt chưa được khai triển nhiều, có thể vì mẫu sống bị giết chết vì đạo xem ra xa vời tầm tay của đại chúng ít ai có được diễm phúc ấy. Chính vì thế, con đường cận nhân tình gần gũi với cuộc sống thường ngày cần phải được mở lối, như Nẻo Bước Dũng Lạc, như Đường Nở Hoa Lê Thị Thành...
Khi học hỏi về các thánh Ta, nhiều người thắc mắc tại sao ít thấy các ngài làm phép lạ hay chẳng để lại tài liệu sách vở dẫn lối tu đức gì cả như các thánh Tây. Nhưng nhìn kỹ hơn thì mọi người sẽ kinh ngạc thấy rằng đã có quá nhiều phép lạ. Được sinh ra và hiện hữu trên mặt đất là tự nó đa là một phép lạ. Nhận ra rằng mỗi phút giây được hít thở, được nhìn thấy, được cử động đi lại, tất cả đều là những phép lạ. Điều quan trọng không phải là làm thêm phép lạ, mà là con mắt nhìn bỗng nhận ra đã có quá nhiều phép lạ, khám phá ra cuộc đời là một cuốn sách tu đức đang mở ra trước mắt, như Đức Mẹ Maria: "Chúa đã làm cho tôi biết bao phép lạ, danh Người là thánh" (Luca 1:49). Đa số các thánh Ta đều là giáo dân, sống trong cuộc sống bình lặng thường ngày, vậy mà cả hội thánh hoàn cầu đã công nhận và giới thiệu cho thế giới một con đường nên thánh, một mẫu sống đạt đức thật giản đơn và gần gũi, và đúng là phép lạ trúng số khi bước vào thời điểm 2000.
Điều cốt lõi của đường tu đức Việt là cái nhìn và cái thấy, vẫn được gọi là con mắt đức tin. Thấy được Chúa trời đất quyền năng và giầu có là cha của mình thì còn phép lạ nào lớn hơn được? Và mình đang được tham dự vào gia tài nước Trời như vậy thì còn phép lạ nào sánh bằng? Như thánh Phêrô đã nhìn và đã thấy: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa" (Luca 9:20), đang khi nhiều người chỉ nhìn thấy Chúa như một người tầm thường hay cũng cho Chúa ngang sức với một tiên tri nào đó thôi. Duy mình thánh Phêrô đấu giá trúng, và đã trúng số thật. Đấy là con mắt biết nhìn và thấy được.
PHÚT CẢM NHẬN
Trên đường ra pháp trường ở Châu Đốc, thánh Lê Văn Phụng thật cảm động gặp lại các con cháu của mình. Không biết nói gì hơn, Ngài liền gỡ thánh giá đang đeo mà khoác vào cổ người cháu gái tên là An-na Nhiên mà dặn dò:
"Cháu hãy nhận lấy kỷ vật của ông. Đây là tượng Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Tượng này quí hơn vàng bạc bội phần. Cháu hãy luôn mang trên cổ, và trung thành cầu nguyện sớm chiều cháu nhé".
Một kinh đọc kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có câu "Các Thánh Tử Đạo là ân huệ Chúa ban cho Hội Thánh Việt Nam, vì thế chúng con dâng lời cảm tạ và ca tụng Chúa". Ân huệ này chả lẽ không bằng 49 triệu Mỹ kim? Chính vì nhận ra gia tài giầu có này mà thánh Lê Văn Phụng cũng như Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã muốn quyết liệt trối lại cho con cháu bằng bất cứ giá nào, và hội thánh đã công nhận và chuyển đạt cho thế giới. Chả lẽ mình cứ sống nghèo khổ mãi sao?
Sáng sớm ngày 27 tháng 7 năm 1940, ông Surihara tuổi 40, là đại sứ Nhật Bản tại cộng hòa: TN 12-C16
Sáng sớm ngày 27 tháng 7 năm 1940, ông Surihara tuổi 40, là đại sứ Nhật Bản tại cộng hòa Li-tu-a-nia, giật mình thức giấc bởi tiếng ồn ào của đám đông tới tấp đến trước tòa đại sứ. Nhìn qua cửa sổ, ông thấy dân chúng gồm cả mấy ngàn người ùn ùn kéo tới như trong một cảnh tị nạn.
Quả thật, người giúp việc đến thưa: "Đó là những người tị nạn Do Thái. Họ đến xin đại sứ cứu sống họ."
Kể từ tháng 9 năm 1939, đoàn quân của Đức Quốc Xã đã xâm chiếm lãnh thổ Ba Lan và nhà độc tài Hít-le (Adolf Hitler 1889-1945) đã ra lệnh khủng bố và tiêu diệt toàn bộ người Do Thái.
Đại sứ Surihara lên tiếng hỏi dân chúng muốn gì. Một luật sư tên là Giorac thay mặt đám đông trình bày với Đại sứ về số phận thảm thương của người Do Thái. Riêng gia đình luật sư Giorac đã bị quân Đức Quốc Xã giết chết hoàn toàn, chỉ còn một mình ông sống sót!
Để tránh nạn diệt chủng, người Do Thái chạy từ Balan sang tị nạn tại cộng hòa Li-tu-a-nia. Nhưng giờ đây chiến tranh đã lan tràn tới cộng hòa nhỏ bé này, nên đoàn người Do Thái lại phải lên đường chạy trốn. Lộ trình duy nhất để cứu sống họ là lộ trình xuyên qua lãnh thổ Liên Xô. Nhưng người Nga sẽ không cho phép người Do Thái nhập cảnh nếu họ không đưọc một nước thứ ba tiếp nhận. Tất cả đại sứ quán tại Li-tu-a-nia đều đóng cửa, không muốn giúp đỡ người Do Thái tị nạn.
Đại sứ Surihara nói với đoàn người tị nạn Do Thái rằng: "Tôi sẵn sàng cứu giúp quí vị, nhưng tôi phải hỏi ý kiến của Tôkyô trước đã."
Nghe Đại sứ Surihara trả lời, ông Giorac thực sự lo lắng. Vào giai đoạn hiện tại, tức là vào năm 1940, nhiều quốc gia không mấy thiện cảm với dân tộc Do Thái; riêng Nhật Bản còn tỏ ý đồ muốn liên kết với Đức Quốc Xã.
Đại sứ Surihara liền đánh điện về Bộ Ngoại Giao Tôkyô. Ông xin phép ký các chiếu khán chuyển tiếp ngay tức khắc cho lớp người Do Thái chạy tị nạn. Tôkyô trả lời rằng "Ông không được ký chiếu khán chuyển tiếp cho những người không được một quốc gia thứ ba tiếp nhận."
Hay là bậc anh hùng?
Đêm hôm đó, Đại sứ Surihara không thể nào ngủ được. Ông nói với vợ: "Anh phải làm một cái gì đó để cứu giúp những người tị nạn Do Thái đáng thương này." Vợ ông là bàLujico cũng là người công giáo tốt, hoàn toàn hiệp nhất với chồng: "Vâng chúng ta có bổn phận cứu giúp người Do Thái."
Đại sứ Surihara còn liên lạc với Tôkyô thêm hai lần nữa, nhưng lần nào cũng bị Bộ Ngoại Giao từ chối lời ông yêu cầu. Ông nói với vợ: "Nếu anh bất tuân lệnh chính phủ thì có nghĩa là con đường sự nghiệp của anh tiêu tan. Nhưng anh quyết định bất tuân. Nếu anh vâng lệnh chính phủ thì điều đó có nghĩa là anh không vâng lệnh Thiên Chúa. Anh đã chọn theo tiếng nói lương tâm để vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục loài người." BàLujico vợ ông trả lời: "Vâng, chúng ta phải cứu sống càng nhiều người Do Thái càng tốt."
Quyết định rồi, Đại sứ Surihara đứng trước cửa đại sứ quán tuyên bố với đám đông người Do Thái: "Tôi sẽ ký chiếu khán chuyển tiếp cho tất cả những ai xin."
Đoàn người Do Thái tị nạn từ yên lặng ngỡ ngàng chuyển sang cử chỉ hò reo vui sướng. Nhiều người không cầm được nước mắt vì cảm động trước lời tuyên bố của Đại sứ Surihara .
Sáng hôm đó ngày 1 tháng 8, 1940, Đại sứ Surihara bắt đầu ký chiếu khán cho đoàn người tị nạn Do Thái chuyển tiếp sang Nhật. Ông làm việc bất kể ngày đêm. Trong vòng một tháng ông đã ký 3500 chiếu khán. Nhiều người nhận được chiếu khán Nhật Bản nói "Chúng tôi sẽ không bao giờ quên ơn Đại sứ Suriharà."
Quả thật năm 1967, chính quyền Israel đã tổ chức lễ tưởng thưởng vị anh hùng Nhật Bản đã cứu sống nhiều người Do Thái thời thế chiến thứ hai. Vào dịp đó, ông Igo nhà vật lý học, nói về Đại sứ Surihara rằng: "Người can đảm là người làm điều khó làm trong khi vị anh hùng làm điều xem ra không thể nào làm được. Vị anh hùng hành động ngay cả khi ông biết mình không được bất cứ một lợi lộc nào."
Còn ông Giorac khi ấy là Bộ trưởng bộ tôn giáo, thì nói: "Đại sứ Surihara quả thực là vị Đại sứ của Thiên Chúa."
Đại Sứ của Thiên Chúa theo nghĩa tuyệt đối
Với bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca cũng hé mở cho thấy Đức Giêsu ý thức mình là ai, vượt trên tất cả những điều người ta có thể nghĩ về Người. Người không chỉ là một con người can đảm. Người cũng không phải chỉ là một bậc anh hùng. Nhưng Người là Đại Sứ của Thiên Chúa theo nghĩa tuyệt đối. Tức là Người Con của Thiên Chúa (Lc 1,35), được cưu mang do quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 1,35), sinh ra là Đấng Cứu Độ (Lc 2,11). Do đó Người mới có quyền đòi hỏi mọi người phải từ bỏ chính mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Người (Lc 9,32). Người được Thiên Chúa phái đến không chỉ để cứu sống một số người nhưng là để cứu sống toàn thể nhân loại một cách vĩnh viễn.
Thánh Luca đã khéo đặt màn tuyên tín của tông đồ Phêrô đại diện nhóm Mười Hai ở đỉnh cao của sách Tin Mừng Luca về Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đặt bối cảnh cho màn tuyên tín này bằng việc Người cầu nguyện một mình (c.18) cho thấy tầm quan trọng của nó.
c.20: Với lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận Thầy Giêsu là "Đức Kitô của Thiên Chúa" như ngôn sứ Simêon đã tuyên xưng (Lc 2,26), cho thấy Đức Giêsu chính là Đấng mà Thiên Chúa phái đến để thực hiện kế hoạch cứu độ.
c.21: Cho thấy Đức Giêsu dứt khoát không muốn người ta lầm tưởng Người được Thiên Chúa sai đến để giải phóng Israel theo hướng chính trị.
Cứu nhân độ thế qua sự chết và sống lại
c.22: Ngược lại, Người thực hiện công trình cứu nhân độ thế bằng chính con đường đau khổ, chết và sống lại của Người. Người kết hợp nơi bản thân cả hai hình ảnh: hình ảnh của Con Người đến giữa mây trời theo lời ngôn sứ Đa-ni-en 7,13-14 và hình ảnh Người Tôi Tớ chịu đau khổ để đền tội cho dân, theo như ngôn sứ Isaia 40-45.
cc.23-24: Điều được Luca nhấn mạnh là mọi người. Mọi người đều được kêu gọi bước theo Đức Giêsu và việc đó có nghĩa là CHỌN con đường khổ nạn chính Người đã chọn (c.22). Nhưng con đường ấy lại chính là con đường đưa tới vinh quang khi Người bước vào trong vinh quang của Người, của Chúa CHA cùng với các thánh thiên thần (c.26).
Một cách đơn giản mọi người đều có thể dự phần vào cuộc khổ nạn của Đức Giêsu bằng cách từ bỏ mình hàng ngày. Bình thường việc từ bỏ đó không phải là một hy sinh lớn lao, tuy vẫn là con đường đưa nhiều người Kitô tới cái chết tử đạo như bài Tin Mừng hôm nay có thể đã ám chỉ (c.24).
Người môn đệ nào chấp nhận con đường đau khổ và gian nan thử thách hầu phục vụ Danh Chúa (1C 15, 31; 2C 4,10-11), người đó xem ra mất tất cả mọi sự (c.24). Nhưng dưới cái nhìn đức tin, người đó sẽ cứu chính mạng sống mình vì mạng sống của người ấy sẽ được đưa vào vinh quang Thiên Chúa trong ngày chung thẩm (c.26).
Ai là người môn đệ Đức Giêsu cũng đều phải sống mầu nhiệm Vượt Qua của Thầy Chí Thánh, như lời thánh Phaolô nói: "Anh em không biết rằng: Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong sự chết của Người sao?" (1C 6,3).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Theo ý bạn, khi cấp chiếu khán cho 3500 người Do Thái tị nạn nhập cảnh Nhật Bản, Đại sứ Surihara đã tỏ ra là một người can đảm? Đã tỏ ra là một bậc anh hùng? Đã thực sự hành động với tư cách là vị Đại sứ của Thiên Chúa? Đã thực sự sống Tin Mừng hôm nay bằng cách vác thập giá mình hàng ngày để bước theo Chúa Giêsu? Hay bạn có ý kiến nào khác?
2. Bạn nghĩ việc bạn từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Chúa Giêsu, việc đó khi nào là chuyện bình thường và khi nào trở nên gay cấn như một cuộc tử đạo?
CỐT LÕI CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ NHÂN CHỨNG: NIỀM TIN “THÀY LÀ”
Theo phụng niên của Giáo Hội, Chúa Nhật tuần này chúng ta ở vào tuần XII của Mùa Thường: TN 12-C17
Theo phụng niên của Giáo Hội, Chúa Nhật tuần này chúng ta ở vào tuần XII của Mùa Thường Niên. Nghĩa là, nếu kể từ đầu phụng niên, với Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng thì chúng ta đã qua Mùa Vọng 4 tuần, Mùa Giáng Sinh từ Đại Lễ Giáng Sinh 25/12/2000 tới Lễ Hiển Linh 6/1/2001cũng là ngày kết thúc Đại Năm Thánh 2000, Mùa Thường Niên từ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa ngày 7/1/2001 tới hết tuần lễ sau Chúa Nhật Thứ VIII Mùa Thường Niên ngày 25/2/2001, sau đó tới Mùa Chay, một thời đoạn bao giờ cũng kéo dài 40 ngày hay sáu tuần lễ, từ Thứ Tư Lễ Tro ngày 28/2/2001tới Chúa Nhật Lễ Lá. Thế rồi Lễ Lá mở màn cho Tuần Thánh và đuọc kết thúc ở Đại Lễ Phục Sinh ngày 15/4/2001, một đại lễ mở màn cho Mùa Phục Sinh, một thời đoạn phụng vụ bao giờ cũng kéo dài 7 tuần lễ, hay 50 ngày, tương đương với phụng lịch Tuần Năm Mươi của Do Thái, tức cho tới Lễ Ngũ Tuần của họ, hay cho tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống của Kitô giáo, vào ngày 3/6 năm nay. Cũng theo phụng niên của Giáo Hội, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cũng là Lễ bắt đầu lại Mùa Thường Niên đã bị cắt quảng bởi Mùa Chay. Thế nhưng, Mùa Thường Niên tiếp tục này được mở màn với Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, rồi tới Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi và Lễ Trọng Kính Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô, như chúng ta thấy Giáo Hội đã cử hành trong hai tuần vừa rồi, Chúa Nhật ngày 10 và 17/6/200. Đó là lý do Mùa Thường Niên trước đây được tạm ngưng ở tuần thứ VIII đã được tái diễn ở tuần thứ XII hôm nay đây, sau 3 Chúa Nhật kính ba Mầu Nhiệm Thánh Thần Hiện Xuống, Ba Ngôi Thiên Chúa và Mình Máu Thánh Chúa.
Thế nhưng, riêng chu kỳ Phụng Vụ Mùa Thuòng Niên Năm C, tuy bị ba Lễ Trọng trên đây cắt quãng như thế, bài Phúc Am của Phụng Vụ Lời Chúa tuần trước cho Lễ Mình Máu Thánh Chúa và Chúa Nhật Thuòng Niên tuần XII hôm nay đây lại tiếp liền nhau, không hề bị cắt quãng tí nào cả, từ việc Chúa Kitô làm phép lạ hóa bánh ra nhiều trong bài Phúc Am tuần trước theo Thánh Luca đoạn 9 từ câu 11đến 17, đến việc Người hỏi các tông đồ về căn tính của Người cũng trong Phúc Am Thánh Luca tuần XII Thường Niên này ở cùng đoạn 9 từ câu 18 đến 24. Sở dĩ chúng ta cần phải để ý đến diễn tiến về phụng niên như thế, là vì chúng ta muốn hiểu đúng ý nghĩa của chung Phụng Vụ Lời Chúa và của riêng bài Phúc Am trong việc cử Hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô theo phụng vụ. Bởi thế, cũng cùng một bài Phúc Am, song ý nghĩa của bài này có thể được hiểu khác nhau tùy theo phụng vụ. Chẳng hạn, cùng bài Phúc Am về việc Đức Mẹ Thăm Viếng Bà Thánh Isave, nhưng ý nghĩa của bài Phúc Am của chính Ngày Lễ Thăm Viếng 31/5 hằng năm sẽ không hoàn toàn giống với ý nghĩa của ngày 21/12 hằng năm trong tuần bát nhật trước Lễ Giáng Sinh. Cũng vậy, bài Phúc Am Chúa Nhật XII Mùa Thuòng Niên Năm C hôm nay, 20/6, và bài Phúc Am Lễ Thánh Phêrô Phaolô ngày 29/6 tuần tới đây, nội dung cũng về cùng một vấn đề căn tính của Chúa Kitô “Thày là ai?” đối với chung dân chúng, nhất là đối với riêng các môn đệ, nhưng ý nghĩa không hoàn toàn giống nhau…
Vậy thì ý nghĩa về căn tính của Chúa Kitô trong bài Phúc Am Chúa Nhật XII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay với bài Phúc Am Lễ Thánh Phêrô Phaolô 29/6 tới đây khác nhau thế nào?
Đê hiểu được ý nghĩa của bài Phúc Am Chúa Nhật XII Thường Niên Năm C hôm nay về phương diện phụng vụ, chúng ta nên để ý đến ý nghĩa khác nhau giữa Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh và Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Theo toi, nếu Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh được bắt đầu từ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, thì Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh là thời đoạn Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô đích thân tỏ mình ra cho chung dân Do Thái, nhất là cho riêng các môn đệ, cho tới khi Người tử giá trên đồi Canvê, một biến cố đuọc tưởng niệm trong Tuần Thánh, cũng như cho tới khi Người sống lại từ trong cõi chết, một biến cố đuọc cử hành trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh. Và nếu Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh đuọc bắt đầu từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, thì Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là thời đoạn Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại, qua Giáo Hội Nhiệm Thể Nguòi, và bởi Thánh Thần Nguòi đã thông cho các tông đồ khi Người sống lại từ trong cõi chết, cũng là Vị Thánh Thần Người đã từ Cha sai đến với Giáo Hội trong Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem, Vị Thánh Thần dùng Giáo Hội để làm chứng về Chúa Kitô cho tới khi Người lại đến trong vinh quang, một biến cố đuọc Giáo Hội trông mong và ngưỡng vọng khi cử hành Lễ Chúa Kitô Vua để kết thúc phụng niên hằng năm, truóc khi bước vào Mùa Vọng là mùa mở màn cho một phụng niên mới. Vậy, áp dụng ý nghĩa của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, như vừa đuọc phân tích trên đây, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của bài Phúc Am về căn tính của Chúa Kitô theo phụng vụ của Chúa Nhật XII Mùa Thường Niên Năm C thế này. Nếu trong Lễ Trọng Kính Thánh Phêrô và Phaolô 29/6 hằng năm, căn tính Thiên Sai của Chúa Kitô liên quan đến đức tin của tông đồ Phêrô trong vai trò thánh nhân đuọc Nguòi trao quyền tối thượng để lãnh đạo Giáo Hội Người lập, thì trong Chúa Nhật XII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, căn tính Thiên Sai này của Chúa Kitô liên quan đến chứng từ của chung các tông đồ và của riêng vị lãnh đạo Phêrô, người đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đức Kitô của Thiên Chúa”.
Thế nhưng, nếu ý nghĩa của căn tính Chúa Kitô trong bài Phúc Am Chúa Nhật XII Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh Năm C hôm nay liên quan đến chứng từ của các tông đồ, trong khi đó, bài Phúc Am lại ghi nhận là “Người ngăn cấm các ông không đuọc nói điều đó với ai”, vậy thì việc làm chứng của các vị đây có nghịch với lời Chúa Giêsu ngăn cấm các vị không được nói về Người và tỏ Người ra chăng? Đúng thế, Chúa Giêsu quả có cấm các tông đồ không được tỏ căn tính Thiên Sai của Người ra cho bất cứ một ai, nhưng Người chỉ cấm điều này vào thời điểm chưa thích hợp mà thôi, thời điểm mà chung dân chúng và riêng thành phần lãnh đạo Do Thái chưa thể chấp nhận được chân lý Người là Đấng Thiên Sai, là Đấng được Thiên Chúa sai đến như lời hứa. Chính vì thế, như lời Người khẳng định với dân Do Thái trong Phúc Am Thánh Gioan đoạn 8 câu 21 là: “Quí vị tìm Tôi song quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí vị. Nơi Tôi đi, quí vị không thể nào tới được”. Vậy thời điểm nào mới thích hợp để các môn đệ có thể làm chứng về Người, có thể minh chứng Người thực sự là Đấng Thiên Sai đây? Phúc Am Thánh Luca Năm C không đề cập đến chi tiết về thời điểm chứng từ này của các vị tông đồ cho mãi đến lúc Chúa Kitô phục sinh phán truyền các vị rằng: “Vậy đúng như lời đã viết Đấng Thiên Sai phải chịu khổ nạn và sống lại từ trong cõi chết vào ngày thứ ba. Phải nhân danh Người rao giảng cho tất cả mọi dân nước về lòng thống hối để được ơn tha tội, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là những chứng nhân về điều này”. Đến đây chúng ta mới thấy đuọc bản chất và cốt lõi của việc làm chứng cho Chúa Kitô. Bản chất của việc làm chứng cho Chúa Kitô là gì, nếu không phải là làm chưng rằng Người đã chết song đã phục sinh, hay nói cách khác, làm chứng rằng Chúa Kitô thực sự đã phục sinh từ trong cõi chết. Và cốt lõi của việc làm chứng cho Chúa Kitô đây là gì, nếu không phải là Chúa Kitô Phục Sinh thực sự là “Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa”, như lời tuyên xưng của vị tông đồ Phêrô trong bài Phúc Am hôm nay.
Thế nhưng, để làm chứng cho Chúa Kitô, không phải thành phần chứng nhân tiên khởi là các tông đồ chỉ cần thấy Người và nghe Người là đủ, mà còn phải nhớ thấy và nghe mà tin tưởng trong lòng nữa. Bằng không, chính họ cũng là thành phần phản bội Người, như trường hợp tông đồ Giuđa (xem Mt 26:48-50), hay “tất cả bỏ Người mà tẩu thoát”, như Phúc Am Thánh Marcô thuật lại khi Người bị bắt (Mk 14:50), dù có dám mon men theo Người rồi cũng trắng trợn chối bỏ Người như tông đồ Phêrô (xem Lc 22:57-58, 60), đúng như lời Người đã báo trước cho chung các vị biết trong Bữa Tiệc Ly ở Phúc Am Thánh Gioan đoạn 13 câu 33: “Các con ơi, Thày không còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm Thày, nhưng giớ đây Thày cũng nói với các con những gì Thày đã nói với người Do Thái, đó là ‘nơi Thày đi các con không thể nào tới được’”. Vậy, để làm cho các tông đồ tin tưởng, nhờ đó các vị có thể làm chứng cho mình, Chúa Kitô thường nói truóc những gì xẩy ra, như việc Người tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người trong bài Phúc Am hôm nay. Đó là lý do Người đã khẳng định mục đích những lần tiên báo này của Người liên quan mật thiết đến đức tin của các tông đồ trong Phúc Am Thánh Gioan đoạn câu 14 câu 29 như sau: “Giờ đây Thày nói cho các con biết trước những gì sẽ xẩy ra để các con tin khi chúng xẩy ra”. Và để chứng thực mình đã sống lại từ trong cõi chết, Nguòi cũng dùng đòn báo truóc này để quật ngã lòng cứng tin của các tông đồ, như Phúc Am Thánh Luca ghi nhận ở đoạn 24 câu 44 như sau: “Các con hãy nhớ lại những lời Thày đã nói với các con khi Thày còn ở cùng các con”.
Như thế, ý nghĩa của bài Phúc Am Chúa Nhật XII Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh về căn tính Thiên Sai của Chúa Kitô quả thực có liên quan mật thiết đến việc các tông đồ và Giáo Hội làm chứng nhân cho Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng đã tử nạn và sống lại từ trong cõi chết, đúng như lời Người tiên báo trong bài Phúc Am Thánh Luca hôm nay vậy.
Thế nhưng, vấn đề ở đây là, trong bài Phúc Am Chúa Nhật XII Mùa Thuòng Niên Hậu Phục Sinh Năm C hôm nay, Chúa Giêsu chẳng những cho các tông đồ biết trước việc Người sẽ tử nạn và phục sinh, một lời tiên báo liên quan đến sứ vụ chứng nhân của các tông đồ, thế nhưng, ngay sau đó Người còn kêu gọi các vị là hãy bỏ mình đi và vác thập giá, nếu các vị muốn theo Người. Như thế có nghĩa là, không bỏ mình và vác thập giá không thể làm môn đệ của Chúa Kitô như lời Người khẳng định với quần chúng Do Thái trong Phúc Am Thánh Luca đoạn 14 câu 27, chúng ta có thực sự thâm tín và cảm nghiệm đuọc điều này chăng? Tức là, chúng ta có chân nhận rằng, nếu không thực sự làm môn đệ của Chúa Kitô chúng ta có thể nào làm chứng nhân cho Người được chăng? Vậy, muốn làm chứng cho Chúa Kitô, chứng nhân của Người phải là thành phần bỏ mình đi, vác thập giá mà theo Người, thành phần đuọc Sách Khải Huyền diễn tả ở đoạn 14 câu 4 là “theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới”, như gương mẫu tuyệt vời của Mẹ Maria, người môn đệ tiên khởi và lý tuỏng của Chúa Kitô, vị đã theo Người cho tới khi được Phúc Am Thánh Gioan ghi nhận ở đoạn 19 câu 25: “đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu có mẹ Người”.
Ngày kia, có hai bố con người Ả rập đem lừa ra chợ bán. Lừa đi trước, hai bố con theo sau. Một toán đào đất thấy vậy liền bảo:
- Sao chẳng cưỡi lên, ngu ơi là ngu.
Nghe có lý, bố liền bảo con:
- Nào, con hãy ngồi lên.
Được một quãng, gặp một đám thợ cấy, họ bảo:
- Rõ là thằng con bất hiếu, mình thì cưỡi lừa, con để bố già phải đi bộ.
Nghe có lý, con bèn nhảy xuống mời bố ngồi lên. Được một quãng nữa, gặp mấy tên bợm nhậu, họ cười và bảo:
- Ông già này chẳng biết thương con, bắt đứa nhỏ phải đi bộ.
Nghe cũng có lý, bố liền bảo con trèo lên và cùng ngồi với mình. Sau cùng, hai bố con gặp một cụ già, cụ lên tiếng bảo:
- Sao vô nhân đạo quá vậy, hai bố con cùng ngồi thì đến lưng voi cũng phải gẫy, chứ nói chi đến lưng con lừa gầy yếu này.
Ông bố nghe vậy liền bảo con:
- Không cưỡi cũng bị chê, cưỡi một người hay cưỡi hai người cũng bị chê, chi bằng đường ta, ta cứ đi. Thôi, bố con ta cùng xuống và dắt lừa ra chợ.
Câu chuyện trên muốn nói với chúng ta rằng: miệng lưỡi con người ta khó mà lường nổi, như tục ngữ đã bảo:
- Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo. Có khi cùng một sự kiện, nhưng mỗi người lại nhìn theo một góc cạnh riêng, thành thử trở thành trái ngược nhau, như ca dao đã diễn tả:
- Ở sao cho vừa lòng người, Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Cao chê ngỏng, thấp chê lùn, Béo chê béo trục, béo tròn, Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Từ những suy nghĩ ấy, chúng ta đi vào câu chuyện của Chúa Giêsu.
Lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã xuất hiện và trở thành một đề tài thời sự nóng bỏng, được nhiều người đề cập tới.
Dựa vào những lời giảng dạy đầy khôn ngoan và những việc làm kỳ diệu của Ngài, người thì cho Ngài là Gioan tiền hô đã sống lại, người thì cho là Elia hay là một tiên tri nào đó, còn thân bằng quyến thuộc thì lại cho Ngài là một kẻ mất và điên khùng, riêng những kẻ chống đối như bọn Biệt phái và luật sĩ thì cho rằng Ngài chỉ là con bác phó mộc tầm thường, giao du với phường thu thuế và những kẻ tội lỗi. Nhiều lần họ đã âm mưu tố cáo Ngài tội nọ tội kia.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là đối với các môn đệ. Ngài đã đưa ra một câu hỏi cân não, đòi các ông phải xác định lập trường:
- Phần các con, các con bảo Thày là ai ?
Phêrô liền thay mặt cho các tông đồ khác tuyên xưng đức tin:
- Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Trải dài suốt hai mươi thế kỷ, Đức Kitô đã, đang và sẽ còn là một vấn để thời sự nóng bỏng, được nhiều người tranh cãi và cũng đã có biết bao nhiêu sách vở viết về Ngài.
Kẻ thì bảo Ngài chỉ là một nhân vật thần thoại hoang đường. Kẻ thì nói Ngài chỉ là một kẻ lường gạt, dùng những xảo thuật khéo tay để che mắt thiên hạ. Tất cả những chủ trương này đều không có bằng chứng, chẳng đáng cho chúng ta tin tưởng và bàn đến.
Kẻ thì bảo Ngài chỉ là một vị đã sáng lập ra một tôn giáo mới hay một nhà cách mạng, đi dầu cho việc giải phóng nô lệ, phụ nữ và trẻ em, thiết lập một thế giới hòa bình và yêu thương. Những chủ trương này đều đúng một phần nào đó, nhưng chưa nói lên được điểm chính yếu.
Vì thế, có lẽ lúc này Chúa Giêsu cũng đang nhìn mỗi người chúng ta, như ngày xưa Ngài đã nhìn các môn đệ và đưa ra cho mỗi người chúng ta câu hỏi cân não ấy:
- Phần con, con bảo Thày là ai ?
Dĩ nhiên, chúng ta sẵn sàng thưa lên như Phêrô:
- Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Thế nhưng, tuyên xưng ngoài miệng mà thôi chưa đủ, điều quan trọng đó là chúng ta phải sống niềm tin ấy, phải biểu lộ niềm tin ấy bằng hành động, bằng việc làm,bằng chính cuốc sống của mình qua việc thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Trong việc sống đạo, sống đức tin của mình, nhiều lúc chúng ta cũng đã gặp phải những phê bình và chỉ trích, những chê cười và nhạo báng, thậm chí có khi còn gặp phải những bắt bớ và cấm cách. Ở vào những trường hợp như vậy, chúng ta hãy nhớ tới lời khuyên sau đây:
- Con xấu mà người ta bảo tốt, thì con vẫn xấu. Trái lại, con tốt mà người ta bảo xấu, thì con vẫn tốt, bởi vì ở mọi nơi và trong mọi lúc, con vẫn là con.
Cũng trong chiều hướng ấy, người Pháp vốn thường khuyên:
- Bien faire et laisser dire, nghĩa là hãy làm tốt, còn mặc cho thiên hạ nói.
Đối với việc sống đạo, sống đức tin, chúng ta phải có một lập trường dứt khoát như tục ngữ đã bảo:
- Mặc cho nói ngả nói nghiêng, Ta đây vẫn vững như kiềng ba chân.
Cô Ann Thomas kể lại câu chuyện sau đây: Hôm đó, cô và Betty ghé vào một sạp bán đồ cũ. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:
- Có đồ gì đáng giá không ?
Ann trả lời:
- Không, toàn là đồ năm vố thôi.
Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thập giá cũ han gỉ và nói:
Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quí: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.
Cô bạn của Ann đem về nhà lau chùi và đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quí.
Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thập giá lên ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé òa lên khóc. Betty liền hỏi:
- Con sao vậy ?
Bobby nói:
- Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Đức Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.
Tin mừng hôm nay kể, Đức Giêsu bất thần hỏi các môn đệ: “Đám đông bảo Thầy là ai ?”. Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Nhưng Chúa lại muốn biết suy nghĩ của chính họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Và chỉ một mình Phêrô mau mắn, đầy xác tín thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.
Phêrô trả lời quá chính xác, các môn đệ khác thở phào nhẹ nhõm vì các ông còn mơ hồ không biết Thầy là ai. Và Đức Giêsu mừng thầm vì công phu dạy dỗ mấy năm trời cũng không đến nỗi đổ sông đổ biển.
Nhưng Đức Giêsu phải xác định ngay rằng Đấng Kitô đây không phải là vị vua chiến thắng muôn nước, bá chủ muôn dân, khôi phục nước Israel, giải phóng nô lệ Rôma, như họ vẫn nghĩ. “Đấng Kitô của Thiên Chúa” sẽ là vị vua chiến thắng tử thần, chinh phục các tâm hồn, khôi phục quyền làm con Chúa, và giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, quỉ ma.
Tuy nhiên, con đường đi đến chiến thắng lại là con đường đau khổ, con đường thập giá: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại”. Tất cả những ai muốn làm môn đệ Người, không thể đi con đường nào khác: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Thập giá tuy là một khí cụ độc ác và ô nhục mà con người đã nghĩ ra để hành hạ kẻ khác, nhưng Đức Giêsu lại biến nó thành dấu chứng của tình yêu: Tình yêu vâng phục thánh ý Chúa và tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Khi nhìn lên thập giá, chúng ta không ngừng nghe vang vọng lời yêu thương ấy. Chính tình yêu đã biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, và khổ đau thành nỗi hân hoan.
Chúa đã chết thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta không xứng đáng ơn cao cả ấy, tại sao chúng ta lại không dám chết cho chính mình, từ bỏ tội lỗi để bước theo chân Người ?
Chúa đã sẵn lòng chịu mọi đau khổ cực hình thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta ngàn lần bất xứng , tại sao chúng ta lại từ chối hy sinh cho anh em, đang cần sự nâng đỡ ủi an ?
Trong hồ sơ của tòa án tại nước Anh có ghi một phạm nhân tên là Bob Weedrige, bị bắt lần đầu tiên lúc 12 tuổi vì tội móc túi ăn cắp. Kể từ đó, tên này vẫn theo nghiệp cũ là trộm cắp, lường gạt và đã vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần. Lần cuối cùng lúc y bị bắt đã 95 tuổi. Tòa án thấy quá gì nên không kêu án, nhưng tòa đã đưa ra lời khuyên đối với bị cáo: “Ông nên cải thiện đi, nếu phen này tòa ra án thì e phải chết rũ tù vì ông quá già yếu rồi. Hãy rán sửa đổi đi để sống ít ngày lành mà chết”. Theo tòa án cho biết này tuy sống 95 tuổi, nhưng tính ra đã ngồi tù hết 75 năm. Sống lâu mà gần hết đời bị tù tội thì sống làm gì !
Có lẽ không mấy ai đang ngồi trong nhà thồ hôm nay đã sống thọ được 95 tuổi và chắc không ai trong chúng ta lại dại dột giam mình trong tù gần hết đời như ông Bob Weedrige. Nhưng nếu xét về một phương diện khác thì mỗi người chúng ta đều là những tù nhân tình nguyện tự giam mình có khi suốt đời trong những hoàn cảnh hết sức bi đát, khốn khổ nhất. Điều đó muốn nói rằng nhà tù giam giữ chúng ta chính là bản thân hay cái tôi của mình. Nhà tù này được xây dựng bằng những đam mê cuồng nhiệt, những tính nết bất trị, những ước muốn điên loạn, những hành động dại khờ và những bản năng khó hiểu.
Thế mà, ai cũng sợ phải ngồi tù giữ bốn bức tường, còn ngồi tù chung thân và làm nô lệ mãi mãi cho những đòi hỏi của bản thân thì không những cam lòng mà còn khoái chí nữa. Nếu có người nói cho chúng ta hay ngồi tù trong cái ‘tôi’ còn nguy hiểm và đáng sợ gấp trăm ngàn lần ngồi tù nhà đá, chắc chúng ta cho người đó là điên khùng.
Chính sự mê lầm chết người đó khiến Chúa không ngừng dùng đủ mọi cách để cảnh tỉnh con người, đồng thời Ngài còn chỉ bày những phương pháp để giúp con người giải thoát mình khỏi cảnh tù túng tội lỗi và sống cho đáng sống hơn. Nếu muốn sống cho hữu ích và chết cho tốt đẹp thì hãy sống và chết như Chúa.
Điều kiện thứ nhất là hy sinh, từ bỏ mình. Đây là một điều kiện thoạt mới nghe có vẻ dã man rùng rợn, nhưng không đến nỗi khủng khiếp như chúng ta tưởng đâu, nếu chúng ta chịu khó cân nhắc và suy nghĩ cặn kẽ một chút. Vì khi nói ‘từ bỏ chính mình’ không có nghĩa là phải hành hạ bản thân hay phạt xác thật tàn nhẫn, nhưng phải hiểu là từ bỏ những đam mê bất chính, nhưng ước muốn xấu xa, những lời nói không tốt, những việc làm tội lỗi và những ý muốn riêng rư. Tất cả những cái đó gây đau khổ cho con người hơn là vui sướng, gieo rắc tai họa hơn là đem lại hạnh phúc, làm hư thân mất nết hơn là đàng hoàng cao cả thì việc từ bỏ chúng là điều hợp tình hợp lý sao gọi là vô nhân đạo được. Và khi hy sinh những cái kém hơn, ít lợi ích hơn để đạt được mục tiêu lớn hơn, quan trọng hơn thì việc hy sinh đáng cho chúng ta theo đuổi.
Thử hỏi, trên cõi đời này ai là người đáng yêu đáng mến hơn Chúa, cái gì quí giá, quan trọng để cho chúng ta quyết tâm chiếm đoạt cho bằng tình yêu của Ngài. Vì thế, để làm đẹp lòng Chúa mà phải từ bỏ ý muốn riêng tư để làm theo ý Chúa, phải hy sinh ham muốn trần thế để được hạnh phúc đời đời, sao chúng ta còn ngại ngùng, đắn đo ? Để được Nước trời mà đành hy sinh tiền tài, danh vọng, mạng sống là chọn lựa khôn hay dại.
Điều kiện thứ hai là vác thánh giá. Nghe nói đến thánh giá ai cũng rùng mình ớn lạnh vì nghĩ đó là một việc làm nặng nhọc vượt quá sức con người , một hình phải dã man đáng nguyền rủa. Tuy nhiên, khi nói đến thánh giá không có nghĩa là nói đến những khốn khổ có sẵn, làm sẵn cho những kẻ muốn theo Chúa buộc phải đâu đầu, kề vai vác lấy, trái lại đó là những trách nhiện, bổn phận của đáng bậc mình, những bệnh tật, đau khổ luôn có trong đời và những hẩm hiu, thiếu sót thuộc bản chất con người. Nếu hiểu như thế, dù muốn hay không, ai cũng phải vác thánh giá hết, nhưng cần phải lưu tâm hơn cả.
Lười biếng, chểnh mạng hay siêng năng, tận tâm với trách nhiệm, bổn phận đàng nào hơn ? Thất vọng, than trách hay can đảm, vui vẻ chịu đựng đau khổ cái nào tốt ? Do đó, bỏ được tất cả mà không bỏ được bản thân ; và nhiều thứ mà không vác thánh giá mình thì cuộc sống vô ý nghĩa và mất tất cả.
Trong các cuộc tranh cử quan trọng như tranh cử Tổng Thống, Thủ Tướng, Quốc Hội, người ta thường đề cao câu tục ngữ: “Chọn mặt gửi vàng”.
Vàng là thứ quý giá, ai đáng tin cậy mới dám gửi. Ý nghĩa sâu sắc của câu đó ở sự tượng trung của vàng: Vàng có thể chỉ vận mệnh đất nước, sự hưng vong cảu cả dân tộc liên hệ tới đời sống của mỗi cá nhân chúng ta. Vì thế phải cẩn thận chọn ai là người hiền đức tài giỏi nhất đứng ra điều hành đất nước. Người tốt, việc tốt, cả nước được nhờ. Người xấu, việc xấu cả nước phải khổ.
Đức Giêsu đang huấn luyện các môn đệ trở nên những vị lãnh đạo không phải nước Israel, mà là nước trời, không phải một dân tộc mà là muôn dân. Các ông sẽ là Giáo Hoàng, Giám Mục, không phải theo ý thế gian, nhưng theo ý Thiên Chúa, không phải thực hiện chương trình chính trị, kinh tế, quốc phòng, nhưng thực hiện công trình cứu độ của Thầy Giêsu. Sứ mệnh của các ông cùng quan trọng, ảnh hưởng đến vận mệnh đời đời của nhân loại. Đức Giêsu chọn mặt gửi vàng,. Các ông phải là những người rất tài đức song toàn, phải thông suốt con đường cứu độ của Thầy và tuyệt đối trung thành với Thầy.
Vì vậy Đức Giêsu cần xem xét trình độ các ông thông hiểu sứ mệnh của Thầy được đến đâu, nên Thầy bắt đầu hỏi từ dư luận quần chúng đến chính tâm tư suy nghĩ của các ông.
“Theo dư luận quần chúng, thì Thầy là ai ?”. Các ông thưa: “Họ bảo thầy là Gioan Tẩy giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại bảo là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”
Nếu các môn đệ hiểu về Thầy như dân chúng, thì các ông chưa xứng đáng làm môn đệ Thầy và chưa có thể lãnh sứ mệnh của Thầy. Các ông sẽ chỉ như các môn đệ của Êlia, của Gioan đã tan rã khi thầy khuất bóng. Vì thế, Đức Giêsu buộc lòng phải hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Câu tuyên xưng của Phêrô đã vượt xa tầm hiểu biết của dân chúng. Đấng Kitô của Thiên Chúa là Đấng Thiên Chúa xức dầu, Đấng đầu sức sống và ân sủng của Thiên Chúa. Lời của Phêrô chính là lời của Đức Giêsu tuyên bố trong hội đường Nazaret hơn một năm rưỡi trước, đó là “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó…”. Lời Thầy đã ghi tâm khắc cốt vào tâm trí Phêrô. Phêrô đã nghiền ngẫm, tới lúc này Thấnh Thần soi sáng cho ông bộc phát ra một cách hồn nhiên. Nhưng theo tính loài người của các môn đệ, dễ hiểu sai ơn soi sáng mặc khải của Thiên Chúa, và sợ các ông sẽ hiểu Đấng Kitô, Đấng Messia như dân chúng mong Người đến khôi phục dân Israel, phải phóng khỏi ách nô lệ đế quốc Rôma và làm cho Israel trở nên hùng cường vinh quang như thời Vua David và Salomon, nên Đức Giêsu đã cấm các ông phao đồn tin đó và giải thích thêm về sứ mệnh của Người: “Con người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Có vĩ nhân chân chính nào mà không phải hy sinh, có lãnh đạo thương dân, yêu nước, tài giỏi nào mà không phải nằm gai nếm mật ? “Quan dần thì dân khổ. Quan không đần thì quan khổ’’.
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, khỏi sự chết, làm sao không hy sinh vào chốn tội lỗi để cứu kẻ tội lỗi, làm sao không liều mạng sống vào chốn tử thần để cứu kẻ chết.
Trong số các trò chơi để trắc nghiệm mức hiểu biết của các em, có trò chơi đưa hình một danh nhân cho các em xem, sau đó yêu cầu các em nói thật vắn tắt và chính xác về nhân vật ấy. Em nào trả lời đúng sẽ được thưởng. Chúa Giêsu đã có lần áp dụng phương thức này với các môn đệ, chỉ khác ở chỗ nhân vật được đưa ra không ai xa lạ hơn là chính Ngài. Đã có những câu trả lời được đưa ra, nhưng chỉ có câu trả lời của Phêrô là đúng, như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay.
Chúa Giêsu vốn là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người. Những giả thuyết về Ngài đều từ từ bị chứng minh là sai. Có người bảo Ngài là Gioan Tẩy giả, nhưng trong cách sống và giáo lý của Ngài, có nhiều điểm khác với Gioan Tẩy Giả ; có kẻ bảo Ngài là Êlia hay một ngôn sứ nào đó, nhưng ở đây cũng vậy, giáo lý và thái độ của Chúa Giêsu có nhiều điểm vượt quá và cắt đứt với giáo lý và thái độ của bất cứ ngôn sứ nào trong Cựu ước. Dù đồng hóa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy giả, với Êlia hay với một ngôn sứ nào đó, tất cả đều giống nhau ở chỗ chưa có câu trả lời nào nhận ra Chúa Giêsu là nhân vật chính, còn các vị kia chỉ là người loan báo và chuẩn bị.
Chúa Giêsu đã bị dư luận quần chúng coi là một trong các vị tiền hô cuối cùng, cho đến khi Phêrô đưa ra câu trả lời chính xác: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa”. Phêrô đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu chính nhân vật mà muôn dân mong đợi. Ngài là Đức Kitô có nghĩa là Đấng hội tụ mọi hy vọng và chờ mong của con người, là Đấng quyết định vận mệnh của dân tộc và cá nhân, là Đấng nắm giữ và đưa lịch sự đến hồi kết thúc. Đức Kitô có đủ mọi tư cách đó, bởi vì Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu linh cảm thấy lời tuyên xưng của Phêrô có thể bị giải thích sai lạc, nếu được tung ra cho mọi người biết ; chính vì thế chẳng những Ngài cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai, mà kể từ đó Ngài còn đích thân nói rõ về tư cách Kitô của Ngài.
Xin Chúa cho chúng ta biết lặp đi lặp lại mỗi ngày lời tuyên xưng của thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa” để chúng ta vững bước trên đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa.
- Trong dân chúng thì có 3 dư luận: a/ Ngài là Gioan Tẩy giả sống lại ; b/ Ngài là Êlia xuất hiện ; c/ Ngài là một ngôn sứ thời xưa sống lại. Cách chung, dân chúng đánh giá Ngài khá cao: Ngài không phải là một người thường như mọi người, nhưng là người đặc biệt thuộc hàng tiên tri: giảng hay và có khả năng làm phép lạ.
- Chỉ một mình Phêrô, do ơn soi sáng đặc biệt, nên biết Chúa Giêsu chính là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”.
2. Tuy nhiên Phêrô vẫn nghĩ về Đấng Kitô theo cách nghĩ thông thường của đa số người thời đó, tức là một Đấng cứu thế oai phong hiển hách. Bởi đó Chúa Giêsu phải sửa lại cách nghĩ ấy bằng cách tiên báo cho các môn đệ hay Ngài là Đấng Kitô chịu nạn chịu chết rồi mới sống lại.
B. ... nẩy mầm.
1. Tôi hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Giêsu. Nhưng tôi hãnh diện về phương diện nào ? Vì Chúa Giêsu là Chúa, cao cả hơn Đức Phật và các vị sáng lập những tôn giáo khác ? Vì Giáo Hội của Chúa có đông tín đồ, có tổ chức quy mô ? vv… Có khi nào tôi hãnh diện vì Chúa của tôi là một vị Thiên Chúa chết trên Thập giá không ? Tôi có nghĩ như thánh Phaolô rằng “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô” không ?
2. “Simon Phêrô thưa rằng ‘Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa’. Và Ngài ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai”: Ngày nay chắc Chúa không còn ngăn cấm chúng ta rao giảng về Ngài như là một Đức Chúa quyền phép vinh quang. Nhưng Ngài sẽ chưa hài lòng nếu chúng ta chưa rao giảng về Ngài như một Đức Chúa chết trên Thập giá vì tội loài người và vì yêu thương loài người.
3. Vị khách đến ủy lạo một thương binh trong bệnh viện
- Anh thuộc giáo hội nào ? - Tôi thuộc giáo hội của Chúa Kitô. - Cái gì thuyết phục anh vào giáo hội đó ?
- Thuyết phục ư ? Rồi nhìn lên tượng chịu nạn, anh tiếp: phải, tôi bị Ngài thuyết phục đến độ ngay cả sự sống sự chết, thần quyền thế quyền... không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.” (Góp nhặt)
4. “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế và các luật sĩ từ bỏ”: đau khổ là điều Chúa Giêsu phải chịu ; bị từ bỏ, và từ bỏ không những bởi dân thường mà bởi những kẻ chính thức mắm quyền lãnh đạo tôn giáo, đó cũng là điều Chúa Giêsu phải chịu.
Khi tôi gặp đau khổ ; khi tôi bị từ bỏ, nhất là từ bỏ bởi những người mà tôi đặt rất nhiều hy vọng vào họ, tôi có nghĩ đó là thập giá mà tôi phải vác không ? Tôi có ý thức rằng mình đang được chia xẻ thân phận của Chúa tôi không ?
5. “Chúa Giêsu hỏi: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (Lc 9,20)
Hình như có ai đang hỏi, đang mời tôi suy nghĩ.
Giờ này, đối với tôi, Chúa Giêsu là ai ? Giờ này, đối với tôi, Ngài có còn là Ngài không ?
Hay chỉ là một chiếc bóng bên đường, một lần cất bước đi qua để lại thoáng nhớ mong manh, rồi chìm dần vào quên lãng.
Giờ này, đối với tôi, Chúa Giêsu là ai ? Giờ này, đối với tôi, Ngài có còn là Ngài không ?
Hay một lần Ngài đến giữa đêm khuya, rồi thầm cất bước ra đi, để lại thoáng chút dư âm, tàn dần với thời gian…
Ngài là ai ? Là ai lúc tôi vui, lúc tôi buồn, lúc tôi ghen, lúc tôi hờn, lúc tôi yêu… ?
Ngài là ai ? là ai khi tôi thành công, lúc tôi thất vọng, khi lầm than, lúc thanh nhàn, và trong suốt cuộc đời… ?
Giêsu ơi, khi quỳ đây và trong suốt cuộc đời, xin được gọi Ngài là Cứu Chúa của con. (Hosanna)
Đoạn văn tạm dừng lại ở câu 24, vì lý do phụng vụ hơn là lý do chú giải. Thật ra, những lời: TN 12-C24
1. Đoạn văn tạm dừng lại ở câu 24, vì lý do phụng vụ hơn là lý do chú giải. Thật ra, những lời nói về các điều kiện theo CGS chỉ kết thúc ở câu 27. Trong sự thuần nhất về văn chương này, người ta có thể chia ra 3 phần: Phêrô tuyên tín (c. 18-21), loan báo cuộc thương khó (c.22) và những lời nói về môn đệ CGS (c.23-27). Trong tư tưởng Lc, điều đó ngăn trở việc Phêrô tuyên tín và việc loan báo thương khó tạo thành một toàn thể mà thôi.
2. Lc giới thiệu đoạn này bằng một phương thức riêng của ông. Phương thức đó gồm ba phần:
- “Xảy ra là” - Xác định thời gian và nơi chốn. - Một động từ ở thì quá khứ, thường diễn tả một hành động đặc thù.
Phương thức này, người ta thấy nơi Mc ba lần, Mt 6 lần, Lc 36 lần.
Nhờ phương thức dẫn nhập này, Lc đã chia ra 2 phần mạch lạc: phép lạ hóa bánh nhiều được diễn tả trước đám đông và sự tuyên tín chỉ có các tông đồ làm chứng. Lc ghi lại miền Cesarée de Philipp, ở phía bắc đất thánh, việc này phù hợp với ý của ông là giữ CGS lại trong ranh giới đất thánh khi mới bắt đầu sứ vụ. Ông đặt sự tuyên tín của Phêrô ngay liền sau bài trình thuật bánh hóa nhiều ở ngoại ô Betsaiđa (Lc 9,10.18).
Lc không bắt đầu đoản văn chúng ta đang nghiên cứu bằng một chỉ dẫn về địa dư, nhưng bằng việc CGS cầu nguyện một mình. Đề tài CGS cầu nguyện một mình là một trong những chủ đề nổi bật nhất trong phúc âm của ông. Còn các tác giả phúc âm nhất lãm đều ghi lại việc CGS cầu nguyện trong vườn Giếtsimani (Mc 14,35 và song song). Mc còn kể lại hai dịp cầu nguyện khác của CGS (1,35; 6,46). Lc không trình bày một bản văn nào song song với bản văn Mc, nhưng trong nhiều hoàn cảnh, ông là người duy nhất quan sát cho thấy CGS đang cầu nguyện như: sau khi chịu phép rửa (3,21); sau khi đám đông nhiệt liệt hoan hỷ (5,16); trước khi chọn 12 tông đồ (6,12); trước khi dạy kinh lạy cha (11,1); trên thánh giá (23,34.46). Như vậy Lc muốn lưu ý là mọi biến cố quan trọng trong đời CGS đều xảy ra trong bầu khí cầu nguyện. Hơn nữa chỉ có ông là người ghi chép những huấn lệnh khác nhau của CGS về cầu nguyện (11,5-8; 18,1-8.9-14). Nếu Lc hai lần chen chủ đề cầu nguyện vào đoạn 9,18-50, thì đó là một bằng chứng quan trọng để giải thích ý nghĩa thần học của chuyến đi Giêrusalem.
3. Lc cũng hiểu rõ những người đương thời với CGS, kinh ngạc trước cách xử sự thần thông và cách mạng của Ngài, đã tự hỏi: “ông ấy là ai vậy ?” (8,25) và đưa nhiều giả thiết về Ngài. Họ đồng hóa CGS hoặc với Gioan tẩy giả hoặc với Elia hay là một tiên tri trong những tiên tri CƯ. Không kể các dị biệt, các ý kiến đó đã nhất trí với nhau ở điểm là xem CGS như là một vị tiên tri. Lc viết những lời đó đối chiếu với những lời của Hêrôđe.
Lc 9,7-9
Lc 9,18-20
a/ Hêrôđê quận vương nghe biết những sự xảy ra và đâm phân vân.
a/ Và xảy ra là trong khi Ngài cầu nguyện riêng một nơi, có các môn đệ ở với Ngài, Ngài hỏi các ông: “Dân chúng bảo Thày là ai ?”
b/ Vì có kẻ nói: “Gioan đã sống lại từ trong cõi chết”, kẻ khác nói: ”Elia đã xuất hiện lại đó”; những người khác lại rằng: “Một tiên tri nào thời xưa đã sống lại”.
b/ Các ông thưa rằng: “Người thì bảo là Gioan Tẩy giả; kẻ khác lại cho là Êlia; người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa đã sống lại”.
c/ Nhưng Hêrôđê thì nói: “Gioan ! Ta đã cho chém đầu rồi mà ! ông này là ai mà Ta lại nghe nhiều thế”. Và ông tìm cách giáp mặt Ngài.
c/ Ngài lại hỏi các ông: “nhưng phần các con, các con bảo thày là ai ? Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”
Lối đối chiếu như thế thật là rõ ràng. Trong cả hai bản văn chúng ta đều có một dẫn nhập (a), rồi đến ý kiến dân chúng (b), sau hết là sự phê phán (c) của một người (Hêrođe hay là Phêrô). Như vậy Lc đã đưa ra một so sánh tiệm tiến, theo Lc, Hêrôđê bác bỏ ý kiến cho rằng CGS là Gioan tẩy giả đã sống lại (9,7-9). Chính Hêrôđê cũng đặt nghi vấn về CGS. Nghi vấn này được CGS nhắc lại ở Lc 9,20 và Phêrô đã tuyên tín niềm tin của ông về đấng Messia. Để các độc giả Hy lạp hiểu ngay tước hiệu đấng Kitô, Lc đã thêm tước hiệu Đấng kitô “của TC”; như thế một cách nào đó như trong 4,41 ông đã đồng hóa Đức Kitô với tước hiệu “Con TC” mà ông thường hay dùng.
- CGS là Đức Kitô.
Nếu CGS không chính thức khen hay chê lời tuyên tín của Phêrô, điều đó không có nghĩa là Lc cho lời ấy là sai lầm. Ông xem lời đó hoàn toàn có giá trị. Lời tuyên tín biểu lộ đức tin riêng của ông vào CGS như là đấng Messia, đã được Thánh Thần xức dầu (4,18; Cvsđ 10,38). Trong phúc âm thời thơ ấu, thiên thần Gabriel loan báo Đấng cứu thế cho Đức Maria, dưới khía cạnh vương quyền vĩnh cửu đã hứa cho con vua Đavit (1,32-33). Lời loan báo này được hoàn tất với sự “nâng lên” và liền sau đó là sự “phục sinh” của Ngài: chính khi đó vương quyền của Đấng Messia bắt đầu (Cvsđ 2,36). Vậy từ khi mới sinh, GS đã là đấng Messia được chọn lựa rồi. Chính vì thế, suốt cuộc đời dương thế, Ngài đã được Thánh Thần xức dầu (1,35; 3,22; 4,18) và hành động với quyền năng của Ngài.
Lc quan niệm tính cách thiên sai của CGS liên hệ chặt chẽ với tính cách tử hệ thần linh của Ngài: một cách nào đó tính cách tử hệ là cơ sở của tính cách tiên sai. CGS là Con TC như là đấng Messia đã được chọn (1,32.35). Ngài được thiết đặt như thế lúc chịu phép rửa và lúc biến hình (3,22; 9,35). Sau cùng chính sự sống lại của Ngài đăng quang Ngài như Con TC, Ngài đã ban Thánh Thần cho các môn đệ như đã hứa với họ (24,49; Cvsđ 1,8; 2,33). Đối với Lc, tính cách thiên sai, sự linh ứng bởi Thánh Thần và tính cách làm Con TC tử hệ thần linh đều liên hệ mật thiết với nhau.
- CGS, vị tiên tri như Êlia.
Dưới ánh sáng tổng hợp Kitô luận của Lc, hình như ông đã không thấy mâu thuẫn tận căn giữa phán đoán của dân chúng và phán đoán của Phêrô. Còn hơn Mc ông đã không phủ nhận sự đồng hóa CGS với một tiên tri. Ngoài 2 bản văn đã kể (9,8.19) song song với Mc, chúng ta còn thấy 3 bản văn khác riêng của Lc, trong đó những người chứng kiến phép lạ CGS đã làm, đã suy tôn Ngài như một tiên tri (7,16.39; 24,19). Tước hiệu này phù hợp với cách thức Lc đưa CGS vào câu chuyện. Lúc rao giảng chương trình của Ngài tại Nazareth (4,6-30), CGS áp dụng cho mình lời tiên tri Isaia (4,18-19; x.13,33). Và rồi, cũng trong trường hợp đó, CGs đã so sánh Ngài với các tiên tri Elia và Êlise. (4,25-27).
Chắc chắn Lc nhất trí với Mt khi nhìn nhận CGS là một Môisen mới. Tuy nhiên khi muốn diễn tả CGS như một vị tiên tri, Lc thỉnh thoảng đưa vào hình ảnh Elia. Trước tiên ông đã bỏ qua các truyền thuyết cho rằng Gioan tẩy giả là Elia (Mc 1,16; 9,9-13; x. 15,34-35). Ngoài ra có nhiều dấu chỉ cho thấy Lc diễn tả CGS như là Elia mới. Hãy nhớ lại đoạn Lc 4,25-27 đã trích dẫn trong đó CGS so sánh địa vị của Ngài với địa vị của Elia. Đoạn kinh thánh nói về Elia can thiệp cho bà góa ở Sraepta (1V 17,7-24) chắc có ảnh hưởng trên trình thuật của Lc về việc cho người con duy nhất của bà góa thành Naim sống lại (Lc 7,11-17). cuộc “xuất hành” sẽ làm cho CGS vượt qua cái chết, mà sống lại để đưa đến việc “bị cất đi” đã làm cho chúng ta liên tưởng nhiều đến Elia, đấng biến hình đã nói chuyện với Môisen và Êlia (9,30-31); và trong trình thuật chuyến đi Giêrusalem, Lc còn ám chỉ đến Elia (9,51-54; 61-62; 13,31-33). Nói tóm lại thay vì bác bỏ lời người ta đồng hóa CGS với một tiên tri như Elia, Lc đã thâu nhận quan niệm đó trong tổng hợp Kitô luận của ông.
4. Sẽ hiểu các câu 21-22 hơn nếu chúng ta đặt nó vào hậu cảnh “bí mật thiên sai” đã được Mc triển khai dồi dào. Vậy trước hết trong hãy xem Mc nói gì về điều đó.
- Chủ ý của Mc.
Trong Mc 8,30-31, chúng ta chỉ có thể hiểu mệnh lệnh giữ kín và lời loan báo cuộc thương khó ăn khớp với nhau dưới ánh sáng chủ đề cốt yếu của phúc âm Mc: chủ đề bí mật thiên sai. Theo Mc, CGS rõ ràng là Đấng Kitô (Mc 1,1). Nhưng vì một nguyên do nào đó, tính cách thiên sai của CGS đã được giữ kín trong phần đầu của phúc âm (1,14-8,28). Các phép lạ chữa lành bệnh và các phép lạ trừ quỉ do CGS làm, tự bản tính đã cho thấy rõ mầu nhiệm siêu việt của con người Ngài. Nhưng khi bảo giữ thinh lặng CGS cấm người ta không được nói ra với ai cả (1,25.34.44; 5,43; 7,36-37; 8,26).
Chính vì thế trong câu chuyện Phêrô tuyên tín, CGS cấm Phêrô phổ biến niềm tin vào thiên sai tính của Ngài. Nhưng lần này khác với những lần trước - lần đầu cũng là lần duy nhất - người ta cho biết lý do tại sao CGs truyền lệnh giữ bí mật: vì phải trung tín vâng lời ý định Chúa Cha (phải: il faut: Mc 8,31) đã được tiên báo trong thánh kinh (9,12) rằng, tiên vàn Con Người phải đau khổ và chịu chết trước khi có thể mạc khải vinh quang thiên sai của Ngài. Quả thật, nếu tỏ lộ sớm về thiên sai tính của Ngài, có lẽ sẽ không thể thực hiện được bí mật của TC về sự đau khổ của đấng Messia. Cho nên một khi cuộc thương khó của CGS đã được xác nhận không thể tránh khỏi, khi đó không còn giới hạn việc loan truyền vương quyền thiên sai của Ngài (9,9; 14,61-62)
- Theo thánh kinh, ý Chúa Cha là CGS cần phải chịu thương khó.
Dù bí mật thiên sai không phải là chủ đề chính nơi phúc âm Lc, đến nỗi chi phối bố cục của phúc âm như nơi Mc, phúc âm thứ ba quá quán triệt mối liên hệ nhân quả (được cấu thành do truyền thống mà Mc thâu nhận) giữa lệnh giữ bí mật và việc loan báo thương khó lần I. Chính Lc minh giải truyền thống này là: cuộc thương khó CGS là cần thiết vì lý do đó mà tính cađch thiên sai của Ngài chưa có thể được phổ biến công khai.
Chủ đề cần phải ("il faut") và chủ đề chứng cứ kinh thánh như đã có trong truyền thống Mc, đã được quảng diễn rộng rãi nơi Lc đến nỗi không những bao gồm cuộc thương khó, mà còn chi phối cả đời sống CGS nữa. Khởi điểm của tác giả phúc âm không có gì khác hơn là cái nhìn của ông về lịch sử cứu rỗi từ tạo dựng cho đến “thời gian khôi phục toàn thể vũ trụ” (Cvsđ 3,21), tất cả đều là cuộc thực hiện chương trình cứu chuộc. Cuộc đời CGS kể cả “đường của Chúa” đi từ Galile đến Giêrusalem đã diễn ra theo ý Chúa Cha. Mọi hành vi cử chỉ của Ngài đều là “bổn phận” mà Chúa Cha giao phó cho Ngài. Như trong phúc âm thời thơ ấu, CGS “phải ở nhà Cha Ngài” (2,49). Sứ mệnh loan báo nước TC được diễn ra như một bổn phận mà Đấng đã sai Ngài uỷ thác (4,43). Chủ đề cuộc thương khó (9,22 // Mc 8,31) được lặp lại ba lần (17,25; 24,7.46). Và ở Giêrusalem, CGS “phải” đảm nhận số phận của các tiên tri (13,33).
Chủ đề thứ hai là chứng cứ thánh kinh, đối với Lc cũng rất quan trọng và liên hệ mật thiết với chủ đề trên. Cuộc thương khó không phải là số phận mà CGS phải chịu dù muốn dù không; nhưng từ trước, Chúa Cha đã ký thác cho Ngài như trong thánh kinh. Bởi vâng phục thánh ý Chúa Cha, CGS đã ý thức quyết tâm chạm trán với cuộc thương khó và làm trọn lời thánh kinh (23,37).
Khác với Mc cho rằng tính cách thiên sai của CGS có thể bày tỏ khi nào Ngài không thể ngăn cản cuộc thương khó do ý muốn Chúa Cha nữa, Lc nhấn mạnh chỉ sau Phục sinh, người ta mới có thể hiểu tính cách thiên sai của CGS cũng như cuộc thương khó của Ngài. Theo thánh kinh, dưới con mắt TC, duy chỉ Chúa phục sinh soi dẫn cho các môn đệ Ngài hiểu được sự cần thiết của sự thương khó của đấng Messia (24,5-9.25-27.44-46). Thật vậy, CGS đã nói ý nghĩa đó khi còn sống trên trần gian. Nhưng thời gian đó các môn đệ Ngài không hiểu đủ. Cũng thế, mẹ Maria đã không hiểu việc làm kỳ lạ của Con mẹ (2,48-50). Các anh em của Ngài không thấu rõ nguồn gốc thần linh của sứ mạng Ngài (8,19-21), và trước khi Ngài sống lại, các môn đệ cũng không thể hiểu được cuộc thương khó của Ngài là do Chúa Cha muốn (9,32.45; 18,34; 22,37-38, 39-46; 24,4.11.25). Chỉ có ngày mà Chúa Phục sinh dựa trên thánh kinh cắt nghĩa cho họ biết mọi sự đó “phải” xảy đến như thế, và lòng họ bắt đầu bừng cháy nhờ sự hiểu biết mầu nhiệm đó (24,32).
- Sự Phục sinh là hành động của TC.
Truyền thống do Mc ghi nhận dùng động từ anastênai để chỉ sự Phục sinh; còn Lc thích dùng động từ êgêrthênai. Người ta thường dịch hai hạn từ này bằng động từ: “Phục sinh” (Ressusciter). Tuy nhiên người ta tự hỏi, Lc không có lý riêng để thích động từ egerthênai ? Thật vậy đôi khi Lc dùng động từ ở thì intransitif: anistamai như Mc, có nghĩa actif như “đứng dậy” (se lever)(Lc 18,33 = Mc 10,34; Lc 24,7.46). Nhưng đại khái, thay vì việc mô tả CGS sống lại như một hành động do quyền năng riêng của Ngài, Lc trình bày sự kiện đó như là một hành động của TC. Trong Cvsđ ông dùng năm lần công thức: “TC đã làm cho Đức Giêsu sống lại (cho đứng dậy) (anistêmi: Cvsđ 2,24.32; 13,33.34; 17,31) và 6 lần công thức: “TC đã cho Ngài sống lại từ cõi chết” (thức dậy, réveiller)(egeiren: 3,15; 4,10; 5,30; 10,40; 13,30-37). Khi biết Lc nhấn mạnh tính chất thần học về sự sống lại, người ta tự hỏi thể thụ động (forme pasive) của động từ “réveiller” trong Lc 9,22 không có nghĩa thụ động “được thức dậy bởi” (être reveillé par...) sao ? Vậy trong câu này, có lẽ Lc cho biết sự sống lại cũng như tất cả thương khó, cuối cùng đều do TC muốn và hành động.
- Bỏ qua lời mắng Satan.
Lc bỏ qua lời can thiệp của Phêrô dụ dỗ CGS đổi ý về cuộc thương khó và lời trách mắng đối với người môn đệ. Những lời đó người ta thường gọi là lời trách mắng satan (le logion sur satan Mc 8,32-33; Mt 16,22-33). Có lẽ bỏ qua vì hai lý do: trước hết theo Lc hình như Phêrô không thể nào đóng vai trò satan trong lúc này một cách vô ý thức như vậy, vì từ lúc chịu cám dỗ CGS đã thoát khỏi những tấn công của satan đến đầu cuộc thương khó của Ngài (4,13; 22,3). Hơn nữa tác giả Cvsđ chương 1- 15 giới thiệu Phêrô vào một “ngày đẹp trời” nhất (5,1-11). Do đó lời cứng rắn mà hai tác giả nhất lãm khác ghi lại, không thích hợp với hoàn cảnh này cho nên phải để qua một bên.
5. Ngược với câu chuyện trước (Phêrô tuyên tín và báo thương khó lần I. Những lời về điều kiện theo CGS lại nói cho “mọi người” (9,23). rõ ràng Lc nhắm viết cho các tín hữu. Có thể những người này đang bối rối vì những bách hại phải chịu. Trong tình trạng nguy kịch đó, khi đối diện với kẻ thù, họ bị cám dỗ từ chối tin vào CGS để khỏi bị nguy khó hoặc khỏi chết. Cho nên những lời ấy nhằm chống lại sự hãi hùng đó.
Người môn đệ muốn theo CGS phải nên giống Ngài. Chúa Kitô mà các tín hữu tuyên xưng chẳng những được vinh dự khi còn sống ở đời này mà còn sẵn sàng tự ý chịu đau khổ theo ý muốn của TC. Người môn đệ muốn theo CGS, nghĩa là muốn hiệp nhất với Ngài, phải từ bỏ chính mình và nếu cần sẽ sẵn sàng chết trên thập giá như CGS. Người ta chỉ có thể theo Chúa Kitô và xứng đáng là môn đệ của Ngài khi biết đón nhận sự đau khổ và bách hại vì đạo. Nói cách khác, chính trong mức độ biết liều mạng sống để tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô trước mặt quân thù, mà người Kitô hữu sẽ được mạng sống mình, trong ngày con người đến phán xét.
Hình như đó là “bối cảnh” (Sitz im Leben: môi trường sống) của các lời nói trên do Lc ghi lại. Vào thời kỳ giảm bách hại, người ta mới hiểu được sự thích nghi của đoạn Lc 9,23: khi thêm chữ “mỗi ngày” bản văn đã ám chỉ đến các lời về sự hy sinh tử đạo đó, theo nghĩa khổ chế. Người Kitô hữu phải vác thập giá mình mỗi ngày, nghĩa là phải có tinh thần chết cho chính mình.
Những câu đó cho tín hữu một luật sống. Ai muốn mang danh Kitô hữu, phải dành cho thánh giá và đau khổ một chỗ trong cuộc sống mình. Điều đó không có nghĩa xấu, nhưng dựa trên cơ sở noi gương Chúa Kitô. Cũng như CGS đã lãnh nhận đau khổ theo ý TC thì người Kitô hữu cũng sẽ vác thánh giá mình để có thể nên môn đệ Ngài.
KẾT LUẬN
Đám đông và các môn đệ thắc mắc về CGS: ông này là ai ? Nhưng trong phúc âm, tình trạng được đảo ngược lại, chính CGS hỏi và hướng dẫn các môn đệ tự trả lời và tuyên xưng đức tin vào Ngài; đó là mối liên hiệp kết hợp họ với Ngài và làm nổi bật họ giữa các người khác.
Tất cả phúc âm đều nói đến sự xâm nhập của câu hỏi này trong đời sống các môn đệ. Tin mừng, chính là TC đến gặp gỡ con người; thời gian đã hết, chúng ta phải biết đâu là luật của Ngài và đâu là giá trị cần phải củng cố; chúng ta sắp thấy thời nước trời đến và chính đấng Messia ngự đến hoàn tất mọi điều công chính và cứu thoát dân Ngài.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. “Phần các con, các con bảo thày là ai ?": ngày nay Chúa Kitô cũng hỏi mỗi người Kitô hữu như thế. Ngài hành động cách mầu nhiệm và không ép buộc. Ngày nào đó Chúa Kitô sẽ tỏ mình ra như Đấng hoàn toàn biết ta và tìm đến gặp ta tận sâu thẳm con người ta, trong người ước muốn vĩ đại nhất của ta cũng như trong những hữu hạn và thống khổ của ta; và ta sẽ nhận biết Ngài là đấng cứu độ, cho ta sống, cho ta tự do và yêu ta luôn mãi. Nhưng trong khi hân hoan hiến thân cho Đấng đã tìm kiếm và gọi ta trước, dần dần ta đụng phải một kinh nghiệm không ngờ trước là phải cùng chết với Ngài và muốn được sống với Ngài thì phải liều chết. Chính lúc đó là thời giờ của chước cám dỗ, giờ mà người ta muốn từ bỏ Chúa Kitô hơn là từ bỏ chính mình. Vậy phải can đảm lập lại lời tuyên tín của Phêrô (của các đấng kế vị và của cả giáo hội): “Ngài là Chúa Kitô. Đối với con, cụ thể trong đời con, con muốn nên môn đệ trung thành của Đấng xức dầu của TC”
2. Nhận ra Chúa Kitô ở Cesarée khi Ngài vừa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều trước mặt đám đông dân chúng, thì quá dễ. Nhưng điều khó khăn hơn là trước thánh giá mà vẫn cứ tiếp tục tuyên bố Ngài là Chúa Kitô. Đàng khác, đúng như chúng ta biết chính cả Phêrô cũng đã không can đảm giữ lời tuyên xưng của ông. Tuy nhiên sau đó, được Chúa Thánh Thần tấn phong, ông đã đền bù sự phản bội và bắt đầu tuyên xưng Ngài là Chúa Kitô trước mặt thế gian cho đến khi bị giết. Và chính ông đã bị chết treo trên thập giá.
3. Số tín hữu sẽ phải tuyên xưng: “Ngài là Chúa Kitô” như Phêrô cho đến khi chết treo trên thập giá rất hiếm, nhưng mọi tín hữu phải vác thánh giá mỗi ngày trong đời sống và phải sẵn sàng bước lên thánh giá đó. Điều đó có nghĩa cụ thể là người ta không thể là môn đệ của Đấng bị treo nếu không chấp nhận như thày của chúng ta, trở thành tôi tớ của anh em trong cuộc sống hàng ngày, như thày đã làm.
4. Khi nói với CGS, Ngài là Chúa Kitô, Phêrô đồng thời cũng quả quyết ông không còn đợi chờ một đấng Messia nào khác hơn CGS. Phần chúng ta, đức tin chúng ta có đủ để nói cho mọi người biết rằng Chúa Kitô đã đến và đừng chờ đợi một người nào khác nữa không ? Phải chăng chúng ta đã thường chờ đợi một người nào đó (thủ lãnh chính trị hay thủ lãnh tôn giáo) đếm làm xứ sở phong phú giàu mạnh, sẽ bãi bỏ các thuế má, sẽ phát lương gấp bội, sẽ tái thiết tất cả mới mẻ, sẽ cho tự do tôn giáo, sẽ dẹp tan mọi đau khổ đó sao ? Nhưng mọi cái đó đều là giấc mơ nguy hiểm làm đời sống hàng ngày của chúng ta trở nên nặng nề, thay vì vận dụng can đảm để cải thiện đời sống. Đấng Messia đã đến nơi rồi: đừng chờ đợi một ai khác. Đấng Messia này đã không muốn biến đổi trái đất được giây lát như một người phù thủy, không muốn chúng ta đóng vai trò khán giả ngạc nhiên và thụ động. Nhưng đã muốn đi vào trong mọi đau khổ của nhân loại, mang lấy bệnh tật, thống khổ và tội phạm của chúng ta. Và Ngài mời gọi chúng ta tích cực trở nên những đấng cứu thế khác như Ngài bằng cách trao ban sự sống mình cho anh em ngày qua ngày: đó chính là cách duy nhất chúng ta có thể biến đổi thế giới quanh ta nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, “Đấng canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 104,30).
CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN- C / 12th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: PHẢI TỪ BỎ CHÍNH MÌNH
* You must denied yourselves *
Nếu anh em sống theo xác thịt thì anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống. (Rom 8, 13)
Sự đau khổ của Đấng Mêsia: Chúng sẽ than khóc Đấng chúng đã đâm thâu, như ngươì ta than: TN 12-C25
- BÀI ĐỌC 1: Dacaria 12, 10- 11= Sự đau khổ của Đấng Mêsia: Chúng sẽ than khóc Đấng chúng đã đâm thâu, như ngươì ta than khóc đứa con một./ A suffering Messiah: they shall mourn for him as onemourns for an only son.
- BÀI ĐỌC 2: Galat 3, 26-29= Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà./ Một trong Đức Kitô./ There does not exist among you Jew or Greek, slave or freeman, male or female. All are one in Christ.
- TIN MỪNG (Gospel) Luca 9, 18-24= Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hằng ngày mà theo tôi
Whoever wishes to be my follower must denied his very self, take up his cross each day and fellow in my steps.
A. Bạn và tôi cùng Cảm Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Reflections, live out and share)
1/ Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu dạy tôi hai bài học là Ngài luôn câù nguyện một mình và bài học hai là phải chịu đau khổ, chịu chết, từ bỏ chính con người nhiều tật xấu và sống lại như sau: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại.” (Lc 9, 22-23). Vâng, cầu nguyện là để gặp gỡ, tâm sự với Chúa, thấy mình yếu đuối, hay kiêu ngạo, tham lam...để lắng nghe Chúa Thánh Thần nhắc bảo phải từ bỏ những gì. Bắt chước Chúa chịu đau khổ, loại bỏ và chết đi mỗi ngày là lớn lên trong tình yêu của Ngài đang hành động trong tôi. Chia sẻ việc Chúa chiếm hữu tôi và tật xấu đang rời khỏi tôi? (Sùng đaọ)
2/ Bài đọc 2, thư gởi Galát, thánh Phaolô nói cho bạn biết nhờ kết hợp với Chúa Kitô, người Tín hữu có Thần Khí trong mình nên gọi Thiên Chúa là Cha và mình là con. Vì chính qua phép Rửa nhận chìm trong nước, tương trưng cho sự chết, và trồi trên mặt nước dấu chỉ sống lại nên bạn có đời sống mới: “Quả thế, bất cứ ai được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô đều mặc lấy Đức Kitô.” (Gal 3, 27) Đúng vậy, bạn nhờ Chúa Thánh Thần để biến đổi theo hình ảnh Người. Mặc lấy Đức Kitô có tầm rất quan trọng trong đời sống cá nhân, gia đình cũng như sinh hoạt Cộng đồng. Nói về đời sống mới của bạn hôm nay?(Hành đạo)
3/ Người Tín hữu đã được thanh tẩy trong Thánh Thần thì không còn phân biệt và được bình đẳng, hiệp nhất. Bởi vậy, thánh Phaolô nói: “Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.” (Gal 3, 28) Rất tiếc, tôi thấy ngày nay vẫn còn nhiều phân biệt giữa chủng tộc, văn hóa và giới tính trong gia đình, xã hội và tôn giáo! Thật ra,Tin Mừng Đức Kitô giải phóng tất cả những dị biệt trên, trước mặt Ngài mọi ngươi đều bình đẳng. Nhưng con người theo cái tôi xác thịt áp đặt, không để Chúa Thánh Thần làm việc, nên đã xảy ra nhiều chuyện đáng tiếc giữa con người với nhau. Tôi đã làm gì cho sự bình đẳng giữa mọi người? (Học đạo)
C. Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần naỳ: (The Best God’s Word)
AI MUỐN THEO TÔI PHẢI TỪ BỎ CHÍNH MÌNH, VÁC THẬP GIÁ MÌNH HÀNG NGÀY MÀ THEO TÔI
If anyone wishes to comes after Me, he must denied himself and take up his cross daily and follow Me. (Lc 9, 23)
D. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống từ bỏ mình: ( So what am I doing / For Action)
Tôi bỏ tính kiêu ngạo, bỏ tính nóng nảy, bỏ lòng tham mê tiền bạc... là tôi chết đi và lớn theo Chúa Kitô.
Cầu nguyện: Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: ai muốn theo tôi hãy bỏ mình vác thập giá mình hàng ngày mà theo tôi. Xin giúp con biết chết đi cho các tính bè phái, chia rẽ, nóng giận, tham lam để tình yêu Chúa hành động trong con.
Lơì hay ý đẹp: NHỚ ĐẾN SỰ CHẾT CỦA CHÚA KITÔ KHIẾN CHÚNG TA SỐNG CHO NGÀI
Remembering Christ’s death for us should cause us to live for Him
Khởi đi từ ý thức của thánh Phêrô, cũng là đại diện cho tông đồ đoàn: “Thầy là Đấng Kitô của: TN 12-C26
Khởi đi từ ý thức của thánh Phêrô, cũng là đại diện cho tông đồ đoàn: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” dành cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con bảo Thầy là ai?”, Chúa Giêsu dẫn dắt các ông đến một mạc khải hay cũng là một thử thách quan trọng, đòi các ông phải dấn thân nhiều hơn cho đức tin. Vì “Đấng Kitô của Thiên Chúa” ấy, không phải là Đấng “ăn trên, ngồi trước”, nhưng sẽ là Đấng hạ mình chết cho anh em, vì anh em. Đấng “phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Nhưng Chúa không dừng lại ở mạc khải về mình mà thôi. Người càng đẩy xa hơn, tới mút cùng của mạc khải: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. “Hãy theo Ta”; “Hãy bỏ mình”; “hãy vác thập giá” là gì, nếu không là mời gọi ta hãy tháp nhập thập giá đời ta vào Thánh Giá của Người, để thập giá đời ta cũng sẽ trở thành thánh giá cứu chuộc chính mình. Vì khi tháp nhập vào thập giá của Chúa Kitô, thập giá của Người sẽ là Thánh Giá thánh hóa chúng ta. Tháp nhập như thế chính là chấp nhận thập giá như Chúa Kitô đã chấp nhận. Tháp nhập như thế, không là một dấn thân cho đức tin mà Chúa đòi các môn đệ phải sống hay sao! Và đó cũng chính là thử thách mà các môn đệ của Chúa Kitô, một khi chấp nhận theo Thầy, phải vượt qua!
Với xác tín của thánh Phêrô, sau đó là lời mạc khải về thập giá của Chúa và bổn phận vác thập giá đời mình theo Người, bạn hãy cùng tôi, ít là một lần, ý thức hơn một nền tảng: Trọn một niềm xác tín nơi Chúa Kitô.
Tôi còn nhớ một câu chuyện vui, ai đó kể rằng: Có một ông vua luôn luôn gặp phải những điều phiền muộn. Nghe biết có một anh hề ngây ngô, nhưng do sự ngây ngô ấy, anh ta có thể gây cười cho nhều người. Một ngày nọ, nhà vua gọi anh hề vào cung và ban cho anh phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để anh có thể tự do ra vào cung, làm trò giúp nhà vua giải khuây. Nhà vua nói:
- Ngươi hãy giữ lấy phủ việt này cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi, thì trao lại cho họ.
Từ đó, mỗi khi có những buổi đại triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu kỳ hoặc, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua.
Một thời gian, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại, buồn bã nói:
- Ta sắp đi du lịch xa lắm.
- Hoàng thượng đi tận đâu ạ? Anh hề hỏi.
- Ta chẳng biết nữa.
- Nhà vua dã chuẩn bị hành trang chưa?
- Vẫn chưa.
Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:
- Vậy xin hoàng thượng cầm lấy phủ việt này. Thần xin trao lại cho hoàng thượng, vì nay thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn thần rồi.
Và hôm nay, khi chuẩn bị bài suy niệm này, tôi lại nhận được một thiệp báo tin ngày khấn trọn đời của một nữ tu. Dĩ nhiên, đây không phải là lần đầu tiên tôi nhận thiệp báo tin vui mừng như thế này. Nhưng khác với bao nhiêu lần, bỗng dưng có một cái gì đó khiến tôi miên mang suy nghĩ và cảm nhận một cách lớn lao lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy bỏ mình mà theo Ta”. Bước vào đời tu, chắc chắn người nữ tu ấy đã xác tín niềm tin của mình nơi Chúa Kitô. Rồi mai đây chị tuyên khấn trọn đời, tiến lên một nấc thang cao hơn, một lần nữa niềm xác tín ấy sẽ được chị quyết sống cho cả đời tu của mình.
Tôi ngỡ ngàng khi nhận ra con người ta có chung nhiều lắm: cả vũ trụ này, cả một bầu khí quyển… Ngay cả chung nhau trong một mái gia đình, cùng do một người cha, người mẹ sinh ra đi nữa, thì mỗi cuộc đời của mỗi người vẫn vô cùng khác nhau. Chọn lựa cách sống và lẽ sống càng khó giống nhau.
Vì giữa một xã hội, người người lấn nhau để sống, tranh giành nhau từng miếng cơm, gian lận nhau từng gram rau quả…, thì lại cũng có biết bao nhiêu anh chị em cả một đời dám dấn thân cho ơn gọi tu trì, không màng vinh hoa, có khi còn từ bỏ cả lối sống tiện nghi của gia đình để bước vào đời tu. Đi theo Chúa Kitô, những anh chị em ấy họa lại khuôn mặt tình yêu của Người dâng tặng cho đời. Bởi vậy, với tôi, một khi nhận được thiệp báo tin chịu chức hay khấn dòng, tôi lại không coi đó là niềm vui dành cho chính đương sự hay của hội dòng, của giáo phận mà thôi. Nhưng đó là niềm vui lớn, niềm vui ơn Trời tặng ban cho người trần những món quà sống động là chính anh chị em sống đời tu.
Còn nữa, bao nhiêu anh chị em đêm ngày dấn thân để phục vụ người câm điếc, trẻ bất hạnh, người mắc phong cùi… một cách vô vị lợi, không mảy may nghĩ đến quyền lợi của bản thân…
Nhưng mặt khác, cùng là người lại có những con người, dẫu lắm quyền cao, chức trọng, và giàu sang, đến lúc sắp lìa đời lại trở nên nghèo xơ xác, nghèo đến nỗi chẳng biết mình có cái gì để mang theo về bên kia thế giới. Còn một kẻ nghèo tận cùng, nghèo đến nỗi chỉ có tiếng cười làm vui cho mọi người, thế mà khi đối diện với cái chết của đồng loại, lại vẫn nắm trong tay cái phủ việt, nắm trong tay cả một vương quyền, để trở nên giàu có, có thể cho một kẻ đã từng giàu có hơn mình. Câu chuyện anh hề và nhà vua bên trên là một ví dụ.
Bởi thế, đối diện với cái chết, chưa biết ai khôn ngoan, ai ngu đần. Một người suốt đời chỉ sở hữu cái ngu đần. Còn người kia đã từng là kẻ hưởng thụ trên sự ngu đần của người khác, lại thiếu khôn ngoan. Hóa ra, đứng trước lương tâm con người, đứng trước giờ chết, và hơn thế, đối diện với đức tin, mọi trật tự sẽ bị đảo lộn: Cái tầm thường, đáng khinh dể trước mặt nguời đời, lại trở thành cái có giá trị ngàn đời. Còn những gì con người ưa chuộng, tìm kiếm, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn là sở hữu…, lại chỉ là một con số không to lớn!
Cuộc sống xung quanh bạn và tôi, ngay cả chính chúng ta, hoặc có nhiều anh chị em vẫn bị cho là thiếu khôn ngoan. Vì những anh chị em ấy quá thật thà, quá hiền lành, nghe theo lời dạy của Chúa Giêsu mà tha thứ quá dễ dàng… Hoặc họ dám lội ngược dòng, khi biết từ chối một lối sống buông thả giữa bao nhiêu cám dỗ, từ chối mối lợi nào đó mà bên trong nó chứa đựng không biết bao nhiêu gian dối… Nhưng chính trong niềm xác tín nơi Chúa Kitô và bước theo Người, họ vẫn bình an, vì đó là chọn lựa mà họ đã dấn thân để làm lẽ sống cho mình.
Dù đã xác quyết “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, thánh Phêrô vẫn có những va vấp trong cuộc đời theo Chúa của mình. Tuy nhiên, sau khi biết mình yếu đuối, thánh nhân đã vùng đứng lên và đứng trên những va vấp ấy. Từ đó thánh Phêrô không chỉ xác quyết bằng lời, mà còn xác quyết bằng cả một đời còn lại của mình một cách kiên trung, sống chết cho một niềm tin lớn lao về “Đấng Kitô của Thiên Chúa” ấy. Nếu Thầy đã từng chấp nhận thập giá, thánh nhân cũng đã nghe theo lời mời gọi của Thầy, trung thành vác thập giá đời mình. Vì thế, Thánh nhân trở thành chứng nhân xuất sắc, một chứng nhân tuyệt vời của Chúa Kitô.
Bước theo Chúa Kitô, Người cũng lặp lại chính lời mà Người đã hỏi các tông đồ ngày xưa: “Các con bảo Thầy là ai?”. Dù không tuyên bố thành lời, bạn và tôi chắc đã từng xác quyết như thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, để với một niềm xác tín ấy, chúng ta chấp nhận thập giá trong cuộc đời và bước theo Người.
Mang phận người hèn yếu, chắc chắn những người bước theo Chúa Kitô vẫn có những lần vấp ngã. Nhưng chúng ta hãy học nơi tấm gương của thánh Phêrô, nơi tấm gương của biết bao nhiêu vị thánh trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là những tấm gương sáng chói của rất nhiều anh chị em quanh mình, nhờ đó ta vững vàng hơn trong chọn lựa theo Chúa của mình.
Hãy nhớ một điều quan trọng: Khi đối diện với thử thách, chúng ta đừng quên xác tín vào Chúa Kitô. Nhờ xác tín từng giây phút trong đời mình, ta bắt gặp nơi khuôn mặt “Đấng Kitô của Thiên Chúa” không phải là khuôn mặt của một người vô cảm, chỉ biết sử dụng quyền hành, nhưng là khuôn mặt của một Thiên Chúa hóa thân làm người, luôn luôn yêu thương, thông cảm, tha thứ và chấp nhận thập giá vì ta. Nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô như thế, ta sẽ mạnh mẽ, kiên trung và bình an mà chấp nhận thập giá đời mình, bước theo Người.
Còn lại một mình với các môn đệ, Đức Giêsu đặt một câu hỏi buộc các ông phải chọn lựa: “Anh em: TN 12-C27
Còn lại một mình với các môn đệ, Đức Giêsu đặt một câu hỏi buộc các ông phải chọn lựa: “Anh em bảo Thầy là ai ?”. Lời tuyên xưng của Phêrô thay mặt anh em nói lên với Thầy đánh dấu một bước ngoặc trong sự nghiệp trần thế của Đức Giêsu. Trong khi dân chúng tiếp tục quan niệm sai lầm về sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu và nhiều người đã bỏ không theo Người nữa, thì các môn đệ lần đầu tiên đã công khai nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Kể từ đây, Đức Giêsu sẽ rèn luyện nhóm nhỏ này và thanh luyện lòng tin của họ. Sau khi Phêrô tuyên xưng Đức tin “Thầy là Đấng Mêsia”, Đức Giêsu liền tiên báo về cuộc Thương Khó mà Người sắp trải qua. Người đòi hỏi những ai muốn theo làm môn đệ Người cũng phải chấp nhận đi con đường thập giá mà Người sắp phải đi.
2) CHÚ THÍCH:
- Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Đám đông nói Thầy là ai ?. Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả. Nhưng có kẻ thì bảo là ông Elia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại” (Lc 9,18-19):
+ Đức Giêsu cầu nguyện: Tin Mừng Luca đã ghi nhận nhiều lần Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Chẳng hạn: Sau khi chịu phép rửa (3,21); Sau khi đám đông lũ lượt tuôn đến nghe giảng và xin chữa bệnh (5,16); Trước khi chọn mười hai tông đồ (6,12); Trước khi yêu cầu họ tuyên xưng đức tin (9,18); Trước lúc biến hình (9,28); Trước khi dạy kinh Lạy Cha (11,1). Người còn dạy cách thức cầu nguyện (18,1; 11.2.9); Người cầu cho Phêrô (22,32); Người cầu nguyện tại núi Ô-liu (22,41-46) và trên thập giá (23,34.46).
+ Đám đông nói Thầy là ai ?: Đức Giêsu thăm dò dư luận qua các môn đệ trước khi đòi các ông phải xác định niềm tin vào Người. Các ông lần lượt thuật lại những điều dân chúng phát biểu về Người: là Gioan Tẩy Giả tái sinh, là Elia, là một tiên tri thời xưa sống lại (x. Lc 4,18; 7,16; 24,19).
- Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. Người bảo rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều. Bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ. Bị giết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,20-22):
+ “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”: Ba tác giả Tin Mừng thuật lại lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô khác nhau. Chẵng hạn: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mátthêu 16,16): “Thầy là Đấng Kitô” (Máccô 8,29); “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 8,20). Riêng Luca vì viết Tin Mừng cho tín hữu gốc Hy Lạp, nên thấy cần phải xác định rõ từ ngữ Do Thái Mêsia bằng từ Hy ngữ là Kitô (Christos), nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”.
+ Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai: Không được nói Người là Đấng Thiên Sai (Mêsia) vì sợ dân chúng hiểu sai vai trò của Đức Giêsu theo nghĩa một vị vua trần tục với sứ mạng cầm quân đánh đuổi đế quốc Rôma để dành độc lập cho đất nước. Phải chờ tới khi Đức Giêsu từ trong cõi chết sống lại, các ông mới được phép công bố Người là Đấng Kitô (Cv 2,36).
+ “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…”: Đây là lời Đức Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó lần thứ nhất. Kỳ mục, thượng tế và kinh sư là ba thành phần làm nên Thượng Hội Đồng Do Thái tại Giêrusalem. Họ sẽ xét xử Đức Giêsu (x. Lc 22,66-71), trước khi giải Người sang tòa tổng trấn Philatô để xin đóng đinh Người vào thập giá (x. Lc 23,1-513-24).
- Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24):
+ Nói với mọi người: Những lời Đức Giêsu nói đây không chỉ nhằm vào Nhóm Mười Hai, mà còn nhằm đến tất cả những ai muốn đi theo làm môn đệ Đức Giêsu.
+“Ai muốn theo tôi”: Theo sau Đức Giêsu nghĩa là muốn làm môn đệ của Người.
+“Phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”: Cuộc đời của người môn đệ chân chính là phải noi gương Đức Giêsu trong sự từ bỏ chính mình tức là biết hy sinh quên mình. Vác thập giá mình hằng ngày nghĩa là đón nhận những đau khổ vất vả do cuộc sống đem lại, sẵn sàng chấp nhận thập giá là liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng.
+ Muốn cứu mạng sống thì sẽ mất. Còn liều mất mạng sống thì sẽ cứu được mạng sống mình: Đây là một điều nghịch lý! Những ai sống theo đam mê của xác thịt thì sẽ mất sự sống đời sau. Còn những ai muốn theo Chúa đến cùng, sẵn sàng chịu đựng mọi thử thách, mọi thiệt thòi mất mát, kể cả mất chính mạng sống của mình đời này, thì sẽ được Chúa ban sự sống vĩnh cữu đời sau.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9,20).
2) CÂU CHUYỆN:
Vào ngày 20 tháng 07 năm 1969, Phi hành gia Hoa Kỳ tên là Nên Am-trong (Neil Armstrong) trở thành con người đầu tiên đổ bộ lên mặt trăng. Tuy nhiên, ít có ai biết được rằng: một trong những lý do giúp Am-trong đổ bộ được lên mặt trăng là nhờ Chúa Giêsu ban sức mạnh và hướng dẫn ông ta trong bước quyết định cam go trong tuổi niên thiếu.
Thật vậy, vào năm 15 tuổi, một hôm Am-trong cùng đi với cha trên một chiếc xe ngang qua một phi trường nhỏ vùng Ô-hai-ô (Ohio), thì đột nhiên nhìn thấy một chiếc phi cơ đang chúi mũi xuống đường. Cậu vội hét lên cho cha dừng xe lại và hai cha con lập tức chạy đến lôi chàng phi công ra khỏi chiếc máy bay có thể bị nổ tung. Viên phi công là một sinh viên mới 20 tuổi đang thời kỳ tập lái. Sau đó anh ta đã chết trên tay Am-trong. Đêm hôm ấy cậu Am-trong không thể ngủ được. Đầu óc vẫn đang bị khủng hoảng do cái chết của viên phi công tập sự. Cậu Am-trong cũng đang tập lái máy bay nên sau biến cố nói trên không biết cậu còn đủ tinh thần để tiếp tục học tập nữa hay không. Hôm sau, bà mẹ của Am-trong lo lắng vào phòng thăm con. Bà thấy một quyển vở nhật ký đang mở sẵn để trên bàn viết. Bà đọc thấy ở trang đầu tiên mấy dòng chữ hoa: NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU và bên dưới Am-trong đã liệt kê một số đức tính của Chúa cần phải học tập như sau:
“Chúa Giêsu không hề phạm tội. Người sống khiêm nhường và luôn thương xót nâng đỡ những kẻ nghèo hèn. Người không ích kỷ và luôn gần gũi với Thiên Chúa”.
Bà mẹ thấy cậu con có tình yêu mến Chúa Giêsu như vậy liền hỏi con rằng: “Con quyết định thế nào về việc học lái máy bay ? Tiếp tục hay bỏ luôn ? Cậu ta nhìn vào mắt mẹ và trả lời: “Thưa mẹ, con hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ tiếp tục học bay”.
- SUY NIỆM:
+ Câu chuyện trên trả lời một cách sống động cho câu hỏi của Chúa Giêsu với các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: “anh em bảo Thầy là ai ?”. Cậu Am-trong không trả lời mang tính thần học như Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Câu trả lời của cậu đơn giản và thực tế đời thường: “Người là Đấng không hề phạm tội, sống khiêm nhường, luôn chăm sóc kẻ nghèo, có tinh thần vị tha, luôn gần gũi Thiên Chúa…” Am-trong đã nhìn vào nội tâm để mô tả cảm nghiệm của mình về Chúa Giêsu.
+ ĐỨC GIÊSU LÀ AI ? Mỗi người chúng ta cũng phải làm như cậu Am-trong: Nhìn sâu vào tâm hồn mình để mô tả cảm nghiệm về Chúa Giêsu. Cảm nghiệm này không ai giống ai. Có lẽ đối với một số người trong chúng ta: Chúa Giêsu là Đấng người ta có thể chạy đến cầu xin sức mạnh khi ta gặp thử thách, là người hiểu rõ nhu cầu và sẵn sàng trợ giúp khi ta gặp gian nan khốn khó, là Thầy dạy đức tin, là đường dẫn ta về trời, là sự sống giúp ta sống muôn đời…
+ TÔi PHẢI LÀM GÌ ? Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Những lời này buộc chúng ta tự vấn lương tâm: “Hiện tại tôi có được xếp vào hàng môn đệ của Chúa Giêsu hay không ? Tôi có vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa không ? Tôi có từ bỏ cái tôi ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình để sống vị tha bác ái không ? Tôi có sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những người đói rách không ? Có sẵn sàng hy sinh thời giờ tiền bạc để cộng tác với Giáo Hội loan báo Tin Mừng hay không ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Có một vấn nạn người ta luôn đặt ra là: Chúa có phải là Đấng Thiên Sai hay không ? Nếu Chúa là Đấng Thiên Sai thì tại sao cuộc đời vẫn còn nhiều đau khổ ? Phần con, con tin Chúa thực là Đấng Thiên Sai. Nhưng qua lời Chúa dạy hôm nay, con biết rằng: Chúa muốn cứu chúng con bằng sự đau khổ hy sinh của thập giá. Đó là con đường chính Chúa đã đi và mời gọi con cùng đi với Chúa. Ngoài ra không còn con đường nào khác.
Lạy Chúa, con biết có những đau khổ sẽ biến mất khi mỗi người chúng con biết hy sinh quên mình và sống cho nhau. Có những đau khổ mà Chúa muốn con đón nhận để cùng Chúa trở thành của lễ đền tội cho nhân loại và kéo ơn lành của Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Con không hiểu được mầu nhiệm đau khổ thập giá, nhưng con vững tin vào Chúa và cùng bước đi với Chúa trong niềm hy vọng phục sinh. Xin giúp con biết bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày để cứu mạng sống của con và góp phần cứu lấy sự sống của nhiều người khác. Amen.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hỏi các tông đồ về dư luận của dân chúng. Ngày hôm nay, Chúa cũng hỏi chúng con về lòng tin của chúng con đối với Chúa, về tình liên đới với tha nhân. Chúa đòi chúng con phải xác tín niềm tin của mình. Chúa mời gọi chúng con muốn làm môn đệ của Chúa thì phải đi con đường hẹp, phải biết hy sinh quên mình, sẵn sàng chấp nhận gian khổ gặp phải trong cuộc sống.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con biết tin yêu phó thác và cậy trông vào Chúa Giêsu. Xin cho chúng con biết tìm ý Chúa muốn dạy chúng con trong Thánh Kinh, qua các bề trên đạo đời, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống… Và cho chúng con sẵn sàng đón nhận mọi vui buồn xảy đến cho chúng con, vì ý thức rằng đó chính là Thánh ý của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Chủ đề: Đối với chúng ta Chúa Giêsu là ai? Và ngược lại đối với Chúa Giêsu chúng ta là gì?
Một cậu bé 15 tuổi đang cùng bố mình lái xe đi ngang qua một phi trường bé xíu tại một thị trấn: TN 12-C28
Một cậu bé 15 tuổi đang cùng bố mình lái xe đi ngang qua một phi trường bé xíu tại một thị trấn nhỏ vùng Ohio, thì thình lình một chiếc phi cơ đang bay rất thấp mà người lái không còn kiểm soát được nữa nên chúi mũi xuống đường. Thấy thế cậu bé liền hét lên “Bố ơi, bố ơi! dừng lại ngay!”. Vài phút sau, cậu ta lôi chàng phi công ra khỏi chiếc phi cơ. Đó là một chàng sinh viên tập lái, 20 tuổi, đang thực tập cất cánh và hạ cánh phi cơ. Chàng thanh niên ấy đã chết trong tay cậu bé. Ngay khi về đến nhà cậu bé vừa nhảy đến ôm mẹ vừa khóc vừa nói: “Mẹ ơi! Anh ấy là bạn con! Anh ấy mới chỉ hai mươi tuổi thôi!”. Đêm đó cậu bé vẫn còn bị khủng hoảng tinh thần nên không ăn uống gì được. Cậu liền về phòng, đóng cửa và leo lên giường nằm. Lúc đó cậu đang làm việc ngoài giờ trong một tiệm bán tạp hoá. Kiếm được đồng nào cậu liền dành dụm để học lái máy bay. Mục đích cậu nhắm là lấy cho được bằng lái máy bay vào năm 16 tuổi. Bố mẹ cậu lo lắng không hiểu thảm kịch trên có ảnh hưởng gì đến đứa con mình không. Cậu ta sẽ nghỉ học bay hay vẫn cứ tiếp tục? Họ đồng ý để cho cậu bé hoàn toàn quyết định. Hai ngày sau mẹ cậu mang bánh buýt qui bà vừa mới làm lên phòng cho cậu. Nhìn vào ngăn kéo tủ bà thấy có một quyển vở mở trang. Đó là quyển vở cậu bé còn giữ lại từ hồi thơ bé. Ngay trang đầu bà đọc thấy hàng chữ hoa: “ĐỨC TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU”. Và phía bên dưới cậu liệt kê một lô những đức tính sau đây:
“Chúa Giêsu không hề phạm tội.
Ngài sống khiêm nhường và nâng đỡ người nghèo khổ;
Ngài không ích kỷ, Ngài gần gũi Thiên Chúa….”
Bà mẹ nhìn thấy trong giờ phút quyết định, cậu bé đã biết cầu xin Chúa Giêsu hướng dẫn. Thế là bà quay về cậu bé và nói: “Con quyết định thế nào về vấn đề học bay?” Cậu bé liền nhìn vào mắt mẹ trả lời: “Thưa mẹ, con hy vọng rằng mẹ và bố sẽ hiểu cho con, nhưng với ơn Chúa giúp, con sẽ phải tiếp tục học bay”.
Cậu bé đó chính là Neil Amstrong. Vào ngày 20-7-1969, Amstrong đã trở thành người đầu tiên đổ bộ lên mặt trăng. Khi nhìn xem biến cố lịch sử đó trên truyền hình. Ít người biết được rằng một trong những lý do giúp Neil Amstrong đổ bộ lên được mặt trăng là do chính Chúa Giêsu và họ cũng đâu ngờ rằng Chúa Giêsu đã ban sức mạnh và hướng dẫn Amstrong trong bước quyết định cam go vào tuổi thiếu niên, nhờ đó ngày hôm nay ông đã đổ bộ lên được mặt trăng.
Tôi thích câu chuyện trên vì nó trả lời một cách sống động khác thường câu hỏi mà Chúa Giêsu nêu ra trong bài Phúc Âm hôm nay: “Các ngươi cho Ta là ai?” Cậu thiếu niên Neil Amstrong đã không trả lời Chúa Giêsu bằng câu nói: “Ngài là Con Thiên Chúa” hay “Ngài là Đấng Mêsia” hoặc “Ngài là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa”. Amstrong đã trả lời đơn giản hơn nhiều: “Ngài là người biết chăm sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Nói rõ hơn, Neil Amstrong đã không trả lời một cách thần học cho câu hỏi: “Các ngươi cho Ta là ai?” Amstrong đã đưa ra câu trả lời của riêng mình. Cậu đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và mô tả cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của cậu.
Mỗi người trong chúng ta cũng phải làm giống như cậu bé Amstrong. Chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để mô tả cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, tức là phải nhìn sâu vào tâm hồn mình trước khi trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các ngươi cho Ta là ai?”. Và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không giống ai. Chẳng hạn đối với một số người trong chúng ta, Chúa Giêsu là Đấng chúng ta có thể chạy đến cầu xin hướng dẫn mỗi khi chúng ta gặp bối rối. Đối với một số khác, Chúa Giêsu là Đấng chúng ta có thể chạy đến cầu xin sức mạnh mỗi khi chúng ta gặp thử thách. Còn đối với số khác nữa thì Chúa Giêsu là Người hiểu rõ chúng ta ngay cả khi chính chúng ta không hiểu được mình.
Từ đó, chúng ta bước sang phần sau của bài Phúc Âm hôm nay. Nếu phần đầu bài Phúc Âm nêu câu hỏi: “Chúng ta cho Chúa Giêsu là ai?” thì phần sau lại nêu câu hỏi ngược lại: “Chúa Giêsu thấy chúng ta là người như thế nào? Ngài xếp chúng ta vào loại người nào?” Ngài đã từng tuyên bố: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy vác thánh giá mỗi ngày mà theo Ta” những lời này đòi buộc chúng ta tự vấn chính mình. “Chúa Giêsu nghĩ gì về chúng ta? Ngài có xếp chúng ta vào số các môn đệ Ngài không?” Nói cách khác, chúng ta có vác thánh giá hàng ngày bước theo Chúa Giêsu không? Nghĩa là chúng ta có noi gương Chúa trong sinh hoạt hàng ngày không? Chúng ta có sẵn sàng phục vụ kẻ khác như Chúa đã phục vụ chúng ta không? Chúng ta có sẵn sàng nâng đỡ tha nhân khi họ gặp thử thách không? Và khi gặp bối rối, âu lo, kẻ khác có thể nhờ chúng ta chỉ đường dẫn lối cho không? Khi gặp khó khăn túng thiếu, kẻ khác có thể tìm đến chúng ta cầu xin trợ giúp không? Và nhất là những kẻ trong gia đình chúng ta khi gặp phải khó khăn, bối rối họ có được chúng ta giúp đỡ không?
Nói tóm lại, bài Phúc Âm hôm nay đặt ra cho chúng ta hai câu hỏi quan trọng. Thứ nhất chúng ta cho rằng Chúa Giêsu là ai? Chúng ta có nghĩ như cậu bé Amstrong rằng Chúa Giêsu là người đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, hay chúng ta chỉ nghĩ đến Ngài khoảng một giờ vào mỗi ngày chúa nhật, rồi sau đó quên bẵng Ngài đi suốt cả tuần? Câu hỏi thứ hai còn quan trọng hơn đó là Chúa Giêsu nghĩ rằng chúng ta là ai? Ngài có thể xếp chúng ta vào hàng môn đệ, hay chỉ là một kẻ hâm mộ Ngài thôi? Chúng ta là kẻ noi gương bắt chước Ngài, hay chỉ là kẻ kính phục Ngài thôi? Chúng ta có vác thập giá bước theo Ngài mỗi ngày, hay chỉ ngồi bên lề đường vỗ tay tán thưởng Ngài khi Ngài lui cui vác thập giá một mình?
Đây là hai câu hỏi quan trọng mà bài Phúc Âm hôm nay đặt ra cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu là ai trong đời chúng ta? Và chúng ta là ai dưới con mắt của Chúa Giêsu? Mỗi người chúng ta phải tự mình trả lời cho hai câu hỏi trên.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện sau đây lên Chúa Giêsu. Lời nguyện này do một Kitô hữu vô danh viết ra cách đây gần 1500 năm.: “Lạy Chúa! Xin hãy là ngọn lửa bừng sáng trước mắt con, xin hãy là vì sao dẫn lối trên đầu con, Xin hãy là lối đi êm ái dưới chân con, xin hãy là mục tử nhân từ đằng sau con, Xin mãi mãi là như thế đối với con: Hôm nay – đêm nay – và muôn đời muôn kiếp”
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su hỏi các môn đệ hai câu về Ngài: “Dân chúng nói Thầy là ai: TN 12-C29
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su hỏi các môn đệ hai câu về Ngài: “Dân chúng nói Thầy là ai ?” và “Còn anh em bảo Thầy là ai ?”. Điều này gợi ý ta thấy: trong đời sống Ki-tô hữu, có hai thứ hiểu biết về Đức Giê-su:
– Một là những điều người khác nói về Ngài. Đó là những gì Giáo Hội dạy chúng ta về Đức Giê-su trong những bài Giáo Lý, trong những lớp thần học, trong những tác phẩm của các thần học gia. Ngoài ra, còn có những luồng dư luận khác về Ngài của người vô thần, của những tín đồ tôn giáo khác, v.v... Đây là thứ hiểu biết ở bên ngoài ta, cho dù chúng có thể ảnh hưởng gián tiếp đến suy nghĩ và hành động của ta.
– Hai là những gì chính bản thân ta nghĩ và cảm nghiệm về Ngài. Đây mới chính là điều quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ và sự dấn thân của ta đối với Đức Giê-su.
Nhiều khi ta biết rất rõ Giáo Hội nói gì về Đức Giê-su, và ta cũng tuyên xưng mạnh mẽ ra bên ngoài tất cả những gì Giáo Hội dạy. Nhưng trong thực tế, có thể Đức Giê-su chưa là gì đối với bản thân ta. Ngài vẫn như một ai đó xa lạ với ta, ở bên ngoài ta. Ta chưa cảm nghiệm được sự hiện diện hữu hiệu của Ngài ở trong ta. Giữa ta và Ngài chưa có một quan hệ thân thiết đầy tình nghĩa, chiếm nhiều đầu óc của ta, có khả năng ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của ta, chi phối và thúc đẩy ta hành động. Rất nhiều khi ta đến nhà thờ để gặp Ngài, rước Ngài vào tận trong cơ thể ta, nhưng dường như giữa ta và Ngài chẳng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Quan hệ giữa ta với Ngài nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Sở dĩ như vậy là vì bản thân ta vẫn chưa xác định được Ngài là gì đối với ta.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su hỏi ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ngài muốn ta xác định lại chỗ đứng đích thực của Ngài trong tâm hồn ta, để từ đó xác định lại mối quan hệ giữa ta với Ngài.
2. CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI ?
Tại sao cần phải xác định như thế ? Vì có xác định Ngài là gì đối với ta, và ta là gì đối với Ngài, ta mới hành xử với Ngài thích hợp với quan hệ đã xác định ấy. Tương tự như quan hệ của ta với một người nào đó: nếu ta xác định người ấy chẳng là gì đối với ta, thì ta đối xử với người ấy sao cũng được, chẳng cần phải tỏ ra nồng thắm hay tình nghĩa. Nhưng một khi đã xác định người ấy là cha mẹ ta, là vợ chồng hay người yêu ta, là con cái của ta, hay là ân nhân, bạn bè ta, thì ta phải đối xử sao cho xứng hợp với quan hệ của người ấy với ta. Không thể cư xử với cha mẹ hay người thân tương tự như với người dưng được.
Vì thế, một khi ta đã nhìn nhận Đức Giê-su là Chúa, là Thầy, là Đấng Cứu Thế, hay là Bạn, là Người Yêu... thì ta phải đối xử với Ngài đúng với những tư cách ấy của Ngài. Nếu nhìn nhận Ngài là Vua là Chúa thì đối với Ngài ta phải hành xử như một thần dân. Nếu nhìn nhận Ngài là Cha thì ta phải hành xử như một người con. Nếu coi Ngài như lẽ sống cuộc đời mình, thì ta phải sẵn sàng sống chết với Ngài... Nếu nhìn nhận một đằng, nhưng lại hành xử một đằng, thì sự nhìn nhận đó là giả dối.
3. ĐỐI XỬ CHO XỨNG HỢP VỚI QUAN HỆ ĐÃ XÁC ĐỊNH
Nếu đã coi nhau là người thân, mà khi hoạn nạn không giúp đỡ nhau, không thăm hỏi nhau, thì còn gì là thân nữa. Quan hệ thân tình kiểu đó chỉ là trên môi miệng. Cũng thế, một khi đã nhận Đức Giê-su là Cứu Chúa của mình, là Thầy của mình, và mình là môn đệ của Ngài, mà mình không sống hết mình với Ngài, thì sự nhìn nhận trên chỉ là môi mép.
Vì thế, chỉ sau khi hỏi các môn đệ mình: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” và nghe các ông xác định: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”, Đức Giê-su mới cho các ông biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ, bị loại bỏ, bị giết chết. Ngài nói thế để các ông có thời gian chuẩn bị tinh thần hầu khi sự việc xảy ra thì ứng xử cho phù hợp. Thế nhưng như chúng ta biết, khi Ngài lâm nạn, các ông đã bỏ trốn hết, riêng Phê-rô thì chối Ngài.
Ngày nay, Đức Giê-su cũng hỏi ta câu đó: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”, để chúng ta xác định và hành xử theo xác định đó. Hiện nay, Ngài đang chịu đau khổ, bị loại bỏ và bị giết chết hằng ngày một cách thê thảm trong những con người đang đau khổ, bệnh hoạn, đang chịu bất công, áp bức chung quanh ta, trong xã hội và giáo hội ta đang sống. – Con mắt đức tin của ta có đủ sáng để nhận ra điều đó không ? Ta đã, đang và sẽ làm gì cho Ngài một khi đã xác định Ngài là ai đối với ta ? Nếu ta không cảm thấy mình phải làm gì cả, thì liệu xác định của ta có thật lòng không ? Hay đó chỉ là một xác định bâng quơ, ngoài miệng, vô giá trị ?
Khi ta đã xác định Ngài là Chúa, là Thầy, và ta là môn đệ theo Ngài, Ngài cho ta biết điều kiện để theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Ngài muốn ai theo Ngài thì phải thực hành đúng như vậy. Không thực hành như vậy thì không phải là theo Ngài đúng nghĩa.
Như vậy, nếu ta xác định mình là người theo Đức Giê-su, mà lại không chịu từ bỏ bản thân, vẫn tiếp tục sống ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện vun vén mọi sự cho mình, mà không chịu dấn thân sống tinh thần yêu thương, là điều cốt tủy nhất trong sứ điệp của Ngài, mà không chấp nhận vác thập giá theo Ngài, lúc nào gặp khó khăn cũng than phiền, cũng đổ lỗi cho người khác, cũng muốn lánh nặng tìm nhẹ, tránh khổ tìm sướng, thì việc xác định của ta chỉ là giả dối, việc theo Chúa của ta chỉ là trên danh nghĩa chứ không phải trên thực tế.
4. TÂM LÝ BÁM VÍU, HAM SƯỚNG SỢ KHỔ CỦA CON NGƯỜI
Người Ki-tô hữu nào cũng tin Đức Giê-su là Đấng Cứu Tinh, là Con Thiên Chúa, và muốn dấn thân theo Ngài. Nhưng điều kiện theo Ngài quả là khó. Ngài đòi hỏi kẻ theo Ngài phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Nhưng tâm lý của con người chúng ta là muốn bám víu vào mọi sự mà mình có, mình thích, và rất sợ phải từ bỏ chúng. Ta sợ rằng nếu không bám víu, không nắm chặt, không gắn bó vào những thứ ấy, ta sẽ mất hết. Ta giống như người nắm một vật quý trong tay theo hướng lòng bàn tay úp xuống dưới. Nếu không nắm lại thì vật quý ấy sẽ rơi xuống ngay tức khắc. Vì thế, ta thấy cần phải nắm cho thật chặt. Và đối tượng mà ta muốn cầm nắm và bảo vệ nhất là chính bản thân ta. Ta sợ bản thân ta đau khổ, ta ham muốn được vinh quang, hạnh phúc.
Nhưng quả thật có một sự rất nghịch lý trong cuộc đời, đó là càng bám víu vào sự vật, của cải, tiền bạc, danh vọng, quyền lực, ta càng trở nên nô lệ cho chúng, và bị chúng quay quắt, vật vã, hành hạ. Nhiều khi chúng bắt ta phải hành xử ngược với lương tâm, với chủ trương hướng thiện của ta. Và kết cuộc là ta lún sâu vào tội lỗi và đau khổ. Càng sợ hãi đau khổ thì ta càng nhạy cảm với đau khổ và càng là mồi ngon của đau khổ. Ta càng ham hạnh phúc thì hạnh phúc dường như càng tránh xa ta.
Tại sao vậy ? Vì nguyên nhân làm phát sinh hạnh phúc chính là Thiên Chúa: hạnh phúc chỉ là kết quả. Ta thường chỉ nhắm đến kết quả mà không chú ý đến nguyên nhân. Ta giống như người muốn nấu cơm mà không biết cơm do cái gì biến thành. Ta chỉ chú ý đến việc nấu cơm, nên nhiều khi ta nấu cơm bằng cát, hay bằng một thứ gì khác không phải gạo, nên ta có chăm chỉ nấu cách mấy cũng không bao giờ thành cơm. Cũng vậy, tìm hạnh phúc hay sự sống mà không biết nguyên nhân phát sinh ra nó là Thiên Chúa thì sự tìm kiếm ấy vô ích. Còn ai tìm chính Thiên Chúa chứ không phải hạnh phúc, người ấy mới gặp được hạnh phúc. Để diễn tả chân lý ấy, Đức Giê-su nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Lạy Cha, mang danh là môn đệ Đức Giê-su, nhưng nhiều khi con chưa cảm nghiệm được Ngài là ai. Con chỉ được học được nghe Giáo Hội nói Ngài là Đấng Cứu Thế, và con tuyên xưng mạnh mẽ rằng con tin điều đó. Nhưng nhiều khi con chỉ tin điều ấy như một kiến thức không ăn nhập gì đến đời sống thực tế của con. Vì bản thân con chưa bao giờ xác định Ngài là gì đối với con. Xin Cha hãy giúp con có được cảm nghiệm thật sự về sự hiện diện sống động của Đức Giê-su trong tâm hồn con, và thật sự xác tín Ngài chính là lẽ sống của con. Có thế con mới có thể dấn thân hết mình cho Ngài và cho công cuộc của Ngài, để nhờ đó con tìm được sự sống và hạnh phúc đích thực.
Suốt cả tuần nay, kể từ ngày 12/6/2004, hầu như các phương tiện truyền thông đều nói về giải bóng đá: TN 12-C30
Suốt cả tuần nay, kể từ ngày 12/6/2004, hầu như các phương tiện truyền thông đều nói về giải bóng đá Euro 2004. Để có mặt tại Bồ Đào Nha tham dự vòng chung kết lần này, các đội bóng trong các quốc gia đã phải lựa chọn cho mình một đội hình tốt nhất. Các cầu thủ trong các đội tuyển không chỉ có một kỹ thuật cá nhân điêu luyện, một sức khoẻ bền bỉ, nhưng còn phải tuân theo một chế độ tập luyện nghiêm túc, tuân theo mọi hướng dẫn của huấn luyện viên. Thậm chí cả việc gặp gỡ vợ hay bạn gái cũng phải có phép của ban huấn luyện. Tất cả các cầu thủ, các đội bóng đã cố gắng hết sức mình như thế để mong được chạm tay vào chiếc cúp vô địch. Thế nhưng, cho dù phải trả một giá thật đắt như thế, đội vô địch cũng chỉ được giữ chiếc cúp có 4 năm.
Nhìn vào sự chuẩn bị gian khổ của các đội tuyển và các cầu thủ với hy vọng đạt được chiếc cúp, tôi liên tưởng tới lời Chúa trong bài Tin mừng hôm nay: “Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. Thật vậy, các cầu thủ không thể chạm tới chiếc cúp nếu họ không cố gắng tập luyện, cũng vậy chúng ta không thể có sự sống đời đời, nếu không đi vào con đường thập giá. Không một thành công có giá trị nào mà không phải trả giá bằng hy sinh.
Tuy nhiên, trên con đường thập giá này, chúng ta không đi một mình, chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta cùng đi và nâng đỡ chúng ta. Nếu chúng ta kiên trì bước theo Ngài, chúng ta sẽ có sự sống đời đời.
1. ĐỨC KITÔ CỦA THIÊN CHÚA:
Trở lại với phần Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy bài đọc một được trích từ phần thứ hai của sách ngôn sứ Giacaria. Lúc này dân Do Thái đã từ nơi lưu đày trở về, nhưng vẫn chưa hoàn toàn được tự do. Dân chúng vẫn đang còn sống tản mát ở nhiều nơi. Các đế quốc vẫn thay phiên nhau thống trị họ. Do đó, tâm trạng chung của dân là chờ đợi “Đấng Được Xức Dầu” của Thiên Chúa. Dưới cái nhìn của họ, Đấng Messia là một thủ lãnh về mặt chính trị, được Thiên Chúa sai đến để giải thoát họ khỏi tay các đế quốc.
Tuy nhiên, dưới tác động của Thánh Thần, vị ngôn sứ đã bắt đầu cho thấy một khuôn mặt khác của Đấng Messia. Ngài không còn là một vị vua oai hùng theo nghĩa chính trị, nhưng là một vị vua khiêm nhu hiền hậu “ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9, 9d). Ngài không phải là một vị vua cai trị dân bằng sức mạnh quân sự, nhưng là Đấng đến đem lại cho toàn dân một tinh thần mới, như lời Chúa phán mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Ta sẽ gieo rắc tinh thần ân phúc và cầu nguyện trên nhà Đavít và trên dân cư Giêrusalem”. Đồng thời, Đấng Messia của Thiên Chúa còn sẵn sàng hiến thân mình, chấp nhận “bị đâm thâu” để đem lại cho dân một sự sống muôn đời.
Mặc dầu đã được loan báo trước như thế, nhưng thực ra, hình ảnh và sứ mạng của Đấng Messia vẫn là một mầu nhiệm đối với dân Chúa. Mạc khải này chỉ có thể trở nên rõ ràng nhờ cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Đức Kitô sau này mà thôi. Chính vì não trạng luôn trông chờ một Đấng Cứu Thế theo nghĩa chính trị như thế, nên trong thời của Đức Giêsu, mặc dù đã được nghe Ngài rao giảng, trực tiếp chứng kiến các việc Ngài làm, nhưng dân chúng vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài chính là Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa. Do đó, khi nghe Chúa Giêsu hỏi: “Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?”. Các môn đệ đã thưa rằng: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa đã sống lại”. Tắt một lời, mặc dù rất ngạc nhiên về tất cả những gì Đức Giêsu đã làm, và nhận thấy rằng, Đức Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền (x. Mc 1, 27), thì theo quan niệm của đám đông dân chúng, Đức Giêsu vẫn chỉ là một trong các ngôn sứ.
Do đó, Đức Giêsu tiếp tục hỏi các môn đệ, những người đã từng theo sát bên Ngài, cùng ăn, cùng ở với Ngài, đã được Ngài hướng dẫn dạy dỗ riêng nhiều điều: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Ngay lúc đó, được Thiên Chúa soi sáng, Phêrô đã thay mặt các tông đồ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Các tông đồ đã nhận ra nơi Đức Giêsu phần nào khuôn mặt của Đấng Kitô mà các ngôn sứ loan báo. Và để củng cố thêm niềm tin và giúp các ông hiểu rõ hơn về sứ mạng cứu thế của Ngài, Đức Giêsu cho các ông biết: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết”. Ngài chính là Đấng bị đâm thâu, mà ngôn sứ Giacaria đã loan báo. Tuy nhiên, sự chết không phải là hết. Thập giá chỉ là con đường Ngài đi qua để đem lại ơn cứu độ, đem lại sự sống mới cho nhân loại. Chính vì thế, liền sau lời loan báo về cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã nói với các tông đồ: “ngày thứ ba (Người) sẽ sống lại”. Như thế, không phải thập giá, không phải đau khổ hay sự chết, nhưng chính sự sống lại mới là mục đích cuối cùng trong sứ vụ của Đấng Messia.
Hơn nữa, Đức Kitô sống lại không chỉ cho riêng mình, nhưng Ngài đã sống lại là để cho chúng ta, những kẻ tin và đi theo Ngài cũng sẽ được sống lại như Ngài.
2. THẬP GIÁ, CON ĐƯỜNG CỦA SỰ SỐNG:
Tiếp tục giáo huấn cho các môn đệ, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta một con đường để đạt đến sự sống thật, sự sống vĩnh cửu mà Ngài đem đến cho chúng ta. Đó chính là con đường mà Ngài đã đi qua, con đường thập giá, Ngài nói với các tông đồ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. Như thế, theo chân Đức Giêsu, Ngài không hứa hẹn một sự dễ dãi, hay một sự sung túc về mặt vật chất, nhưng Ngài đòi chúng ta một sự cố gắng liên tục, cố gắng mỗi ngày. Hành trình đức tin của chúng ta cũng giống như các cầu thủ trên sân bóng, họ phải cố gắng tập luyện và thi đấu cho đến cùng mới mong hy vọng đạt được chiến thắng chung cuộc. Con đường đạt đến sự sống của chúng ta là con đường leo dốc, giống như chiếc thuyền đang chèo trên dòng nước ngược, chỉ cần chúng ta ngưng tay chèo là sẽ trôi theo giòng nước.
Đức Giêsu đã đi con đường thập giá và đã chiến thắng sự chết để sống lại vinh quang. Do đó, nếu chúng ta chấp nhận đi con con đường Ngài đã đi, sẵn sàng mất mạng sống mình vì Ngài, chúng ta cũng sẽ được mặc lấy sự sống của Ngài. Xác tín điều đó, thánh Phaolô nhắn gởi giáo đoàn Galata: “Tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô”. Trong Đức Kitô, sẽ không còn phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn; cũng không còn phân biệt chủng tộc, giai cấp. Trong Đức Kitô tất cả là anh chị em với nhau bởi đã cùng nhận chung một sự sống của Ngài, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Anh em đã mặc lấy Đức Kitô. Nay không còn Do Thái và Hy Lạp, người nô lệ và tự do, người nam và người nữ: vì tất cả anh em là một trong Đức Giêsu Kitô”.
Như thế, con đường thập giá của Đức Kitô, không phải là con đường cùng, nhưng là con đường đưa đến sự sống. Giờ đây, trong tâm tình tin tưởng, cậy trông, hiệp với của lễ là Đức Kitô chịu hiến tế trên bàn thờ đây, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha tất cả những vui buồn, sướng khổ mà Thiên Chúa gởi đến trong đời sống mỗi ngày. Nhờ đó chúng ta được bảo đảm thừa tự sự sống mới trong Đức Kitô như lời Thiên Chúa đã hứa. Amen.Lm Trần Thanh Sơn
Đời người muốn thành công, đòi hỏi có sự chọn lựa để định cho mình một hướng đi. Muốn được: TN 12-C31
Đời người muốn thành công, đòi hỏi có sự chọn lựa để định cho mình một hướng đi. Muốn được thế, họ phải biết thắc mắc những vấn đề ở ngoài họ để đi vào thắc mắc về chính họ!
Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta: Dân Do Thái đang thắc mắc về Chúa Giêsu, là đề tài cho Ngài khai triển với các môn đệ của Ngài, để đi đến kết luận là các môn đệ phải chọn hướng đi cho mình.
A. Lối sống của Chúa Giêsu gây thắc mắc cho nhiều người:
Người thì bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại bảo Ngài là Êlya, chỉ mình Phêrô tuyên xưng Ngài là "Đấng Kitô của Thiên Chúa" (Lc 9,19,20).
1/ Ngài là Gioan Tẩy Giả, vì người ta thấy Đức Giêsu có đời sống giống Gioan Tẩy Giả:
GIOAN TẨY GIẢ:
a, Là con tư tế giàu có, mà lại mặc áo lông cừu, ăn châu chấu, mật ong dại! (Mt 3,4). b, Ông đòi hỏi người ta phải chia sẻ: "có hai áo hoặc có của ăn hãy chia" (Lc 3,11). c, Ông đe chặt "cây không sinh trái" (Mt 3,12). d, Dám cảnh cáo Hêrôđê vì cướp vợ của anh mình! (Mt 1,4).
ĐỨC GIÊSU:
a, Là Con Thiên Chúa, mà lại không nơi ngả đầu! (Lc 9,57t) b, Ngài đòi người giàu phải bán tài sản để chia cho kẻ nghèo! (Lc 18,22). c, Cây vả lớn không trái, Chúa rủa chết khô! (Lc 13,6-7). d, Ngài cảnh cáo giai cấp lãnh đạo sống giả hình! (Mt 2,3).
1) Một ngôn sứ vĩ đại, nhưng không còn gì hơn nữa.
Mỗi người có một quan niệm khác nhau về Đức Giêsu, điều này không có gì mới. Bây giờ cũng chẳng: TN 12-C32
Mỗi người có một quan niệm khác nhau về Đức Giêsu, điều này không có gì mới. Bây giờ cũng chẳng khác gì thời các thành phố, các vương quốc và đế quốc xây dựng đầu tiên. Trong Tin Mừng, theo những gì Thánh Luca thuật lại cho ta, Đức Giêsu không xem thường những quan niệm trên, nhưng vì Ngài cho rằng chúng không đầy đủ nên Ngài đã sữa chữa và bổ túc thêm. Người ta cho rằng Đức Giêsu là một ngôn sứ, họ nói đúng. Họ nghĩ rằng Ngài không là một ngôn sứ nào đó, nhưng là một trong những ngôn sứ lớn: Elia, hoặc Giêrêmia hoặc Gioan Tẩy Giả sống lại. Đức Giêsu không phản đối danh hiệu ngôn sứ, nhưng Ngài làm rõ khi cho rằng danh hiệu ngôn sứ không diễn tả đầy đủ về Ngài. Vả lại, sự so sánh Ngài với Elia hay Giêrêmia hay Gioan Tẩy Giả không nói lên đầy đủ căn tính của Ngài; Thực sự, Ngài là vị ngôn sứ lớn, người nói nhân danh Thiên Chúa và giải trình lịch sử nhân loại dưới ánh sáng của chương trình của Thiên Chúa, nhưng Ngài còn vượt lên trên hơn nhiều những điều ấy.
2) Đấng Messia của Thiên Chúa, nhưng…
Phêrô và các tông đồ khác đã theo Đức Giêsu một thời gian, họ cùng chia sẻ với Ngài, thấy ngài cầu nguyện, rao giảng và chữa bệnh. Họ nghe những lời khuyên bảo của Ngài, nhất là những loan báo về Nước Thiên Chúa. Họ đã hiểu biết thêm về Đức Giêsu: Ngài không chỉ là một ngôn sứ nhưng còn là Đấng Messia của Thiên Chúa. Vâng, Đấng Messia, hậu duệ của Davít, nhà lãnh đạo chiến đấu, vị vua chiến thắng, đã hoàn thành việc bành trướng vương quốc Ítraen, tiêu diệt mọi quân thù. Với cương vị Đấng Messia, Đức Giêsu sẽ lập lại khuôn mặt của Đavít: sẽ đánh thắng quân Lamã, sẽ nới rộng biên giới, các vua lân bang sẽ quy phục. Vương quốc Ítraen, vương quốc của Giavê, sẽ trở nên vinh hiển. Đức Giêsu không bằng lòng với chủ thuyết Messia mà Phêrô và các tông đồ mơ tưởng đó. Đức Giêsu không chối bỏ, và cũng chẳng bao giờ chối bỏ Ngài là Đấng Messia, vì như thế sẽ là chối bỏ sự thật, bởi chính Ngài là sự thật. Nhưng Đức Giêsu không đồng hóa mình với khuôn mặt Đấng Messia như là vị lãnh đạo các đạo quân của Giavê. Đúng thế, Ngài là Đấng Messia của Thiên Chúa, nhưng một Đấng Messia khác hẳn với hình ảnh mà các môn đệ thân yêu đang nghĩ.
3) Một Đấng Messia chấp nhận đau khổ.
Vào thời điểm quyết định trong cuộc đời của Đức Giêsu, trước khi Ngài khởi đầu lên Giêrusalem, nơi bị đóng đinh, Ngài đã mạc khải trước về cuộc đời và bản thân của Ngài. Ngài bắt đầu nói về những điều thật khác và mới lạ so với những lời sấm ngôn trong Cựu Ước. Nói cách khác, Ngài bắt đầu nói về Đấng Messia sắp kết thúc cuộc đời trên ngai thập giá. Có lẽ ngôn sứ Giacaria có tiên báo trước một điều gì tương tự như thế khi ông viết: “Chúng sẽ than khóc Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một…” (Bài 1), qua câu này truyền thống Do Thái không bao giờ áp dụng cho Đấng Messia, vì chính Giavê phán. Đấng Messia đau khổ, là một điều bất thường và không ai dám nghĩ như thế vào thời đó, lại được Thánh Phaolô đồng hóa với Con Thiên Chúa. Vì lý do này, trong bài đọc 2, Ngài đã có thể nói rằng, là kitô hữu, “nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” Người Con thật và duy nhất của Thiên Chúa. Giờ đây ta có thể trả lời dễ dàng câu hỏi được đặt ra, ‘Đức Giêsu là ai?’ Ngài là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Gợi Ý Mục Vụ
1. Đời sống của mình chính là câu trả lời hay nhất
Vấn nạn về Đức Giêsu Kitô là một vấn đề ta chỉ có thể giải đáp sau khi suy nghĩ nhiều. Đây chắc chắn chẳng phải là một vấn nạn lỗi thời, chẳng đáng quan tâm Thực ra, đây là vấn đề duy nhất đáng quan tâm và chỉ có thể trả lời bằng chính cuộc sống của chính mình. Nói rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Kitô chết trên thập giá, rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, điều này vượt quá tâm trí và suy luận của ta. Chẳng bao giờ con người có thể thấu hiểu được chân lý đức tin ấy bằng lý luận của mình. Duy chỉ khi con người bắt đầu bước vào con đường hẹp của thập giá và, ngắm nhìn Đức Giêsu, bước theo bước chân của Ngài, họ mới khám phá ra rằng vấn nạn về Đức Giêsu Kitô cùng song hành với vấn nạn về con người, và trả lời được vấn nạn đầu, sẽ trả lời được cho vấn nạn sau. Chỉ những ai kinh nghiệm được sự đau khổ và nhận thức được giá trị cứu độ của đau khổ, cho cả người đang đau khổ và cả cho người hay những người mà họ chịu đau khổ cho, mới có thể nắm bắt được ý nghĩa về Đấng Messia chịu đau khổ. Những ai sống trong tình trạng con cái Thiên Chúa, phẩm giá cao cả của con cái và thái độ tuân phục của con cái, mới có thể trả lời vấn nạn này, Đức Giêsu Kitô là ai? Họ có thể loan báo Ngài với niềm xác tín trước mọi người. Nói cách khác, nếu ta sống cuộc sống kitô hữu cách hoàn hảo, ta chẳng cần phải tự hỏi, Đức Giêsu Kitô là ai? Bởi vì chính cuộc sống của chúng ta đã là câu trả lời cho vấn nạn ấy.
2. “Cầu nguyện để hiểu, hiểu để cầu nguyện.”
Ta hiểu được các huyền nhiệm của niềm tin nơi nhà thờ tốt hơn nơi công sở. Bạn thấu hiểu tốt khi cầu nguyện hơn là khi nghiên cứu, dù cả hai đều cần. Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất nắm giữ chìa khóa của các mầu nhiệm. Chỉ mình Ngài mới có thể mở cửa nhà tạm của lòng Ngài ra cho ta. Trí khôn của ta, một khi được mở ra cho niềm tin, sẽ đưa chúng ta đến trước nhà tạm của mầu nhiệm. Khi mà Thiên Chúa cho phép ta đi vào trong mầu nhiệm, trí khôn ta sẽ giúp ta nắm bắt được một chút cái thực tại vô cùng cao siêu và vô tận. Tuy nhiên, chỉ khi cầu nguyện, với khiêm tốn, kiên trì và phó thác, ta mới làm cho Chúa mở cánh cửa nhà tạm mầu nhiệm ra cho ta. Bên trong cánh cửa ấy, linh hồn sẽ đạt đến sự ngây ngất và trí tuệ chúng ta sẽ như đang bơi vào những vùng nước chưa hề được biết đến. Môn thần học đích thực nhất là điều thực hành không chỉ dựa trên nền tảng của lòng tin, nhưng đặc biệt còn trên nền tảng của sự cầu nguyện nữa, một tâm trí biết cầu nguyện sẽ đưa đến việc tôn thờ mầu nhiệm. Cũng thế, bài giảng chân thật nhất là bài giảng đưa dẫn những chân lý đức tin đến sự chiêm niệm. Những điều thuộc Thiên Chúa, những người cầu nguyện mới hiểu, và những ai không cầu nguyện chẳng hiểu gì, hoặc chỉ rất ít. Nếu người kitô hữu chúng ta cầu nguyện tốt hơn và nhiều hơn, những vấn nạn của niềm tin sẽ giảm đi rất nhiều hoặc sẽ không còn nữa. Trong một thế giới mà đôi lúc ta chẳng thấy có ý nghĩa gì, cầu nguyện sẽ giúp ta tìm thấy ý nghĩa. Thật đáng giá!
* (c.18) Chỉ có Luca nói là Chúa Giêsu đang cầu nguyện để đánh dấu một chuyện quan trọng về khía cạnh thần học sắp xảy ra.
* (cc.18-21) Ngay sau cuộc đối thoại này với Phêrô và các tông đồ khác, Đức Giêsu tiên đoán lần đầu tiên cuộc thương khó của Ngài\. Tám ngày sau đó Ngài dẫn Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi và biến hình trước mắt các ông. Sách của Mathêu và Marcô thì viết là sáu ngày sau cuộc đối thoại này.
* Khác với ba sách Tin Mừng kia, Luca không có nói đến nơi chốn của chuyện này. Mathêu và Marcô kể lại rằng chuyện này xảy ra ở Xêdarê Philípphê (Mt. 16:13-23, Mk 8:27-33). Đây là một thành phố nằm dưới chân của núi Khécmôn (Hermon), khoảng 20 dặm bắc của Biển Hồ Galilê. Vào khoãng năm 2 trước Tân Nguyên, vua Hêrôđê Philípphê xây thãnh phố này để kính nhớ Hoàng Đế Auguttô. Đây là một vùng hoàn toàn của người ngoại vào thời Chúa Giêsu.
* (c.18) Nói chung dân chúng vẫn còn đặt nghi vấn không biết Chúa Giêsu là ai, ngay cả khi họ muốn tôn Đức Kitô lên làm vua (Gioan 6:14).
* (c.21) Kitô là từ chữ Hy lạp "christo", có nghĩa là "messiah", kẻ được xức dầu trong tiếng Do thái. Đây là lần đầu tiên một trong các môn đệ dùng danh từ này cho Ddức Gêsu.
* (c.23) Luca dùng danh từ "mọi người" để nói rằng lời mời theo Chúa Giêsu là cho tất cả mọi người. Khác với lời mời gọi ở 5:1-11 và 5:27-32, thập giá hằng ngày là tâm điểm của lời mời gọi. Thập giá là biểu hiệu cho ký thác sâu đậm của Chúa Giêsu và sự trung thành của những ai theo Ngài vào triều đại Thiên Chúa.
* (c.24) Làm vì Chúa Giêsu là lý do duy nhất để hy sinh mạng sống trong sự tích cực mang lại triều đại Thiên Chúa.
Một Điểm Chính
Tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống là khởi điểm quan trọng cho đời: TN 12-C33
Tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống là khởi điểm quan trọng cho đời sống tông đồ. Nhờ đó, chúng ta mới có thể từ bỏ mọi sự mà vác thập giá tông đồ của chính mình. Chúa Giêsu mời chúng ta vác thập giá.
Suy Niệm
1. Viết xuống tư tưởng đầu tiên đến với bạn cho câu hỏi này: Có lẽ bạn đã đọc Kinh Tin Kính nhiều lần, thế thì Chúa Kitô là ai đối với bạn?
2. Ngay sau lời tuyên xưng của Phêrô về Chúa Kitô, Ngài tiên đoán lần đầu tiên cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài trên thập giá. Trong tinh thần này, bạn hãy suy niệm về sứ mệnh của Chúa Giêsu và của chính bạn. Sứ mệnh của bạn có theo con đường thập giá như của Chúa Giêsu không? Như xưa, Phêrô đã nhờ ân sủng của Chúa Cha để nhận ra vai trò đích thực của Chúa Giêsu, bạn hãy cầu nguyện và xin ơn soi sáng để nhận định sứ mệnh của bạn trong thánh ý Chúa Cha.
3. Bây giờ với một khái niệm cụ thể về sứ mệnh của Chúa Kitô và của chính mình, bạn hãy trở lại câu hỏi thứ nhất và lắng nghe tiếng nói của Chúa Giêsu trong tim bạn: Con tin Thầy là ai? Tim bạn sẽ trả lời Chúa Giêsu ra sao khi Ngài mời bạn: Con hãy vác thập giá và cùng đi với Thầy.
Thánh giá tràn ngập cuộc sống con người. Nói khác, đời là bể khổ. Muốn thoát khổ hay muốn lợi dụng đau: TN 12-C34
Thánh giá tràn ngập cuộc sống con người. Nói khác, đời là bể khổ. Muốn thoát khổ hay muốn lợi dụng đau khổ cho một mục tiêu nào đó xoay quanh vấn đề nhìn thấy đau khổ như một phương tiện hay một chướng ngại cho cuộc đời. Thế thôi. Đức Giêsu sẽ mạc khải tất cả chiều kích đau khổ trong sứ mệnh cứu độ nhân loại.
TIỀM NĂNG
Khi tìm cách tránh né đau khổ, người ta có thái độ nào nếu không phải là sợ hãi, kinh tởm … Như thế, phải chăng đau khổ không có một ý nghĩa và giá trị nào đối với con người. Đức Giêsu không dạy chúng ta đi tìm đau khổ. Đó là một hoang tưởng. Nhưng Người dạy chúng ta chọn một thái độ trước đau khổ.
Muốn hay không, cuộc đời đầy đau khổ. Có những đau khổ phát xuất từ lòng tham của con người. Nhưng cũng có những đau khổ không tùy thuộc con người. Chẳng hạn, tai nạn, thiên tai. Có khi do tha nhân, chứ không tùy thuộc cá nhân mình. Như thế, diệt dục có chấm dứt nổi đau khổ hay không ?
Đức Giêsu đi vào kiếp người. Người cũng phải chấp nhận tất cả khổ đau của thân phận làm người. Bởi vậy, Người không ngần ngại mạc khải tất cả sự thật về chính mình: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết” (Lc 9:22). Nhưng Người không chịu đau khổ vì đau khổ. Thực vậy, Người buồn rầu khi nghĩ tới đau khổ (Ga 12:27), cầu xin Chúa Cha cất chén đắng (Lc 22:42), và cảm thấy thấm thía đau khổ trên thập giá (Mt 27:46).
Nếu cứ quay cuồng trong đau khổ, Người sẽ không tìm được lối thoát. Dĩ nhiên đau khổ của Người phát xuất từ lòng tham lam và gian ác của con người. Nhưng thay vì tránh né, Người đã mạc khải tất cả bản chất và ý nghĩa đau khổ. Cái chết của Người tuyệt đối cần thiết cho công cuộc cứu độ và vinh quang phục sinh (Mc 8:31-33; Lc 24:25-26). Đau khổ là phương tiện để Người trở thành “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9:20). Từ vị trí này, Người thấy rõ một tương lai rực rỡ mở ra trước mắt. Nghĩa là, sau khi bị giết chết, Người “sẽ trỗi dậy” (Lc 9:22).
Không phải chỉ Người mới trỗi dậy. Nhưng “chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6:5). Chính vì thế, Đức Giêsu mới dám kêu gọi mọi người theo Chúa (x. Lc 9:23). Nếu không theo Chúa, cứ lầm lũi vác thập giá theo ý mình, chắc chắn sẽ không thể nào vào cõi vinh quang phục sinh. Người đã không dừng lại ở biên giới đau khổ, nhưng đã vượt lên trên để mạc khải ý nghĩa của đau khổ hôm nay. Đó chỉ là con đường đưa tới vinh quang, chứ không phải là trở ngại cho bước tiến của con người. Đó cũng không phải là sức mạnh đêm tối phá tan mọi ước vọng con người.
Hơn nữa, cũng như Đức Giêsu, Kitô hữu có thể biến thập giá thành sức mạnh cứu độ cho toàn thể nhân loại. Bởi vậy, Kitô hữu trân trọng từng bước chân theo Thày. Nếu ngã gục dưới sức nặng khổ giá, họ sẽ không thể nào bước vào vinh quang. Phải bước theo Thày, mới có đủ sức mạnh biến khổ đau thành nguồn ơn cứu độ cho chính mình và tha nhân.
Như thế, nhờ đau khổ, Đức Giêsu đã mạc khải chính mình. Cũng chính nhờ đau khổ, Kitô hữu mới có thể biết Chúa là ai. Người không muốn chúng ta đau khổ. Nhưng Người muốn chúng ta tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa khi chạm trán với thực tế cuộc đời. Con người có khuynh hướng tránh đau khổ. Khi gặp đau khổ, họ tự nhiên muốn co cụm lại, chỉ muốn tránh xa mọi người và sống cho riêng mình. Lúc đó, con người tìm mọi cách để cứu mạng sống mình. Nhưng đó không phải là con đường giải thoát. Chỉ có một lối duy nhất đem lại sự toàn vẹn cho con người, đó là liều mất mạng sống vì Thày Chí Thánh (Lc 9:24).
Chỉ khi nào dấn thân tới mức đó, Kitô hữu mới có thể thấy bản chất Kitô hữu là gì (Mt 5:10-12). Cũng như Đức Kitô, các môn đệ sẽ chịu bách hại (Mt 10:24; Ga 15:19-21). Theo Đức Kitô, họ phải từ bỏ chính mình (Mt 16:24; Mc 8:34-35; Lc 9:23), phải học chịu đau khổ bất công (1 Pr 4:15-19), mà vẫn vui mừng (Gc 1:2; 1 Pr 4:13), vì Chúa Kitô (1 Cr 4:9-11; Pl 1:29).
GIẢI THOÁT
Đau khổ dai dẳng nhất trong cuộc sống chính là lao động. Danh lợi và tủi nhục cũng từ đó. Lao động có thể giải thoát, nhưng cũng có thể xích hóa con người. Nhờ đôi tay, con người tạo ra danh lợi. Nhưng cũng chính danh lợi lại trở thành cạm bẫy nhốt chặt con người.
Không bao giờ cái vòng danh lợi buông tha con người. Thật luẩn quẩn ! Con người tưởng chừng lên tới tận mây xanh nhờ sức mạnh danh lợi. Nhưng thực tế họ bị tội lỗi và lòng dạ ích kỷ che mờ lý trí đến nỗi không còn nhìn thấy chương trình quan phòng đầy ắp tình yêu Thiên Chúa. Để tìm lại hình ảnh nguyên thủy, con người cần phải bắt đầu lấy lời Chúa giải cứu việc làm khỏi “lô-gích của lợi nhuận, chia rẽ, nong nả tìm kiếm thêm của cải, lòng tham tích lũy và hưởng thụ,” vì khi lệ thuộc “tài sản phi nhân bản” việc làm trở thành một “ngẫu tượng quyến dũ và bất nhân” (Gioan Phaolô II: Zenit 4/5/2004). Phải bắt đầu công cuộc cứu độ từ chính việc làm, vì việc làm đào luyện và sáng tạo con người về một phương diện nào đó.
Nhưng lao động để làm gì ? Phải chăng lao động chỉ để kiếm ăn ? Nếu đúng thế, con người và loài vật khác nhau chỗ nào ? Thật là luẩn quẩn. Chỉ Thánh Linh mới có thể phá vỡ vòng luẩn quẩn đó mà thôi. Thật thế, “người lao công Nadarét nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống còn giá trị hơn thực phẩm. Và lao động vì con người, chứ con người không sinh ra để lao động. Cái làm cho cuộc sống cao cả không phải là toàn bộ những gì thủ đắc, cũng không phải loại chuyên môn, hay cấp độ công việc. Con người vô cùng cao cả hơn những sản phẩm họ sản xuất hay sở hữu.” Thực tế, “tâm hồn con người quan tâm quá mức tới đồ ăn áo mặc mà chẳng quan tâm tới những anh em nghèo khổ nhất, con tim bị mù quáng vì của cải, mất khả năng sống liên đới và yêu thương vô vị lợi, khép chặt tâm hồn trước Thiên Chúa và anh em. Bởi vậy, người Kitô hữu, cá nhân hay tập thể, đặc biệt giáo dân, có bổn phận len lỏi vào cơ cấu xã hội để in sâu luật Chúa vào cuộc sống trần thế” (Gioan Phaolô II: Zenit 4/5/2004). Nhờ thế, con người và môi trường sẽ được phúc âm hóa. Ơn cứu độ sẽ chan hòa mặt đất. Hòa bình sẽ đến với nhân loại.
Đỗ Lực, Lm.
Xin vui lòng giới thiệu cho người thân Ghi danh tại địa chỉ tinmungvietnam@gmail.com www.tinmungvietnam.net
-----------------------------------
TN 12-C35. THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ
- Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Lc.9:21).
***
Trên đây là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô đối với Chúa Giêsu. Và đây cũng là lời tuyên xưng: TN 12-C35
Bạn thân mến! Trên đây là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô đối với Chúa Giêsu. Và đây cũng là lời tuyên xưng hùng hồn nhất, sâu sắc nhất và trang trọng nhất.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tường thuật rằng: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, Người tế nhị dẫn dắt và nhắc nhở các môn đệ bằng những câu hỏi để gây ý thức nơi các ông. Trước hết Ngài hỏi: "Đám đông nói Thầy là ai?" (Lc.9:19). Và dần dần Ngài dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " (Lc.9.20)
Đức Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Ngài, Ngài muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Ngài.
Là môn đệ Đức Kitô, ta phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của chính mình. Ta phải biết căn tính của thầy mình, phải biết mình đang theo ai và người mình theo từ đâu đến. Có như thế, ta mới có thể đi sâu vào trong tình thân mật với thầy mình, mới tin tưởng những điều thầy mình dạy, mới can đảm thi hành những giáo huấn mà thày mình đã trao ban.
Phêrô đã trả lời câu hỏi này cho phần của ông: “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống” (Lc.9:20). Còn bạn và tôi, chúng ta trả lời câu hỏi này ra sao? Chắc hẳn đời ta là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi: "Con bảo Thầy là ai?" . Chắc hẳn mỗi ngày câu trả lời càng được thanh luyện nhiều hơn, vì Đức Giêsu là một mầu nhiệm không ngừng mở ra và lớn mãi. Ngài không thay đổi, nhưng sau mỗi biến cố của đời tôi, tôi lại khám phá ra những nét mới nơi con người của Ngài. Ngài vẫn là một, cho dù hôm qua cũng như hôm nay, nhưng mỗi bước chân tôi bước đi trong cuộc lữ hành trần thế này, Ngài thường đến với tôi dưới những dáng vẻ khác nhau.
Nếu hôm nay Đức Giêsu hỏi bạn và tôi “- Thầy là ai?”, ta sẽ trả lời Ngài ra sao? Nếu người ta hỏi bạn và tôi “- Đức Giêsu là ai?”, ta sẽ giải thích cho họ như thế nào?
Được biết Đức Giêsu, được nói về Đức Giêsu, được làm chứng cho Đức Giêsu, được tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu … Đó là một ân phúc từ trời cao đổ xuống cho những người luôn vững lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, vì “không phải phàm nhân mặc khải cho điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt.16: 17)
Đức Kitô bảo mình là ai? Ngài thường tỏ mình ra bằng những hình ảnh cụ thể. Ta là “Cửa” , là “Mục Tử”, là “Ánh Sáng”, là “Đường”, là “Cây Nho” , là “Bánh”. Định nghĩa nào cũng gắn chặt Ngài với đời sống con người. Cửa để chiên ra vào. Mục Tử để chăn dắt đoàn chiên. Ánh Sáng để nhìn thấy đường đi, Đường để đưa ta đến với Thiên Chúa Cha. Thân Nho để nuôi dưỡng các cành nho, để cành nho sinh hoa kết trái, Bánh để nuôi sống con người... Ngài nhận mình là Chúa, là Thầy, là Bạn, là Anh Trưởng của mọi người chúng ta. Ngài không giấu ta thân phận của Ngài: “Phải vượt qua khổ đau và cái chết mới được vào cõi sống.”(Lc.9:22)
Đức Kitô bảo tôi là ai? Kitô hữu là người mang Đức Kitô trong mình. Là người vác thập giá mình đi theo sau Đấng vác thập giá là Đức Kitô. Người Kitô không có con đường nào khác ngoài con đường Đức Kitô đã đi qua: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc.9.23). Thân phận người Kitô phải gắn liền với thân phận của Thầy mình: "Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống lại với Ngài" (2Tm.2:11).
Mầu nhiệm Vượt Qua là trung tâm điểm của đời sống người Kitô . Vượt qua lớn nhất là vượt qua chính mình mỗi ngày. Từ bỏ chính mình là để có thể sống cho Chúa và cho tha nhân. Ước gì khi tôi “ra khỏi tôi”, tôi sẽ thực sự “là tôi” mỗi ngày mỗi hơn.
***
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ con như người tôi tớ, rửa chân cho con như một nô lệ và tự nguyện chết thay cho con trên thập giá như một tên trộm cướp.
Xin cho con thấu hiểu tấm lòng yêu thương của Thầy, để con được trở nên giống Thầy mỗi ngày mỗi hơn, và để con luôn biết nỗ lực mang yêu thương của Thầy đến cho muôn người. Amen.
(Tổng hợp từ R. Veritas) (BĐ1: Zechariah 12:10-11,13:1 – BĐ2:Galatians 3:26-29 – PÂ:Lc.9:18-24)
Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc: TN 12-C36 FB
Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.
“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.
Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.
Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.
Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.
Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.
Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô? 2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào? 3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào? 4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ? 5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Phêrô, đã thay mặt cho nhóm mười hai, tuyên xưng: TN 12-C37
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Phêrô, đã thay mặt cho nhóm mười hai, tuyên xưng:
- Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Tuy nhiên, biết Chúa Giêsu là Đức Kitô mà thôi chưa đủ, điều quan trọng đó là còn phải hiểu danh xưng ấy theo ý nghĩa nào?
Thực vậy, mặc dầu Phêrô đã tuyên xưng đức tin, nhưng liền sau đó, ông lại tỏ ra chẳng hiểu biết gì về sứ mạng của Ngài, bởi vì vào thời bấy giờ, người Do Thái có những quan niệm rất khác biệt nhau về Đức Kitô. Điều nay cũng dễ hiểu, bởi vì danh từ khó mà phản ảnh đúng về con người.
Chẳng hạn chúng ta có thể gọi một người là tổng thống hay chủ tịch, nhưng trong thực tế, đó có thể chỉ là một tên độc tài tàn bạo, chứ không phải là một nhà lãnh đạo như trong các thể chế dân chủ. Chính các tông đồ cũng đã hiểu lầm về sứ mạng của Đức Kitô. Các ông coi Ngài chỉ là một Đấng cứu tinh trong phạm vi trần tục, sẽ giải thoát dân tộc các ông thoát khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và rồi các ông sẽ được chia chác phần vinh quang, được ngồi bên phải và bên trái, nghĩa là được giữ những chức vụ to lớn trong vương quốc của Ngài.
Ngày nay cũng vậy, không phải tất cả mọi người tuyên xưng Đức Kitô đều hiểu theo cùng một nghĩa và nhất là hiểu đúng cái nghĩa mà Ngài muốn chúng ta phải hiểu. Thực vậy, có quá nhiều những nét huyền thoại đã được tô lên khuôn mặt đơn sơ và khiêm nhường của Đức Kitô, khiến cho nhiều người chẳng còn có thể nhận diện được Ngài nữa. Đức Kitô hôm nay có lẽ đã được tô vẽ bằng những nét vinh quang, siêu việt và cao cả. Ngài đã trở thành một vị thần minh ngự trên chín tầng trời, khác biệt với Đức Kitô của lịch sử.
Rồi chúng ta hiểu thế nào về danh từ «Con Thiên Chúa hằng sống?» Có phải theo nghĩa là thiên tử, là con trời kiểu Trung Hoa chăng? Hay theo kiểu thần thoại? Chúa Giêsu quả thật là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa làm người. Nói cách khác, Thiên Chúa đã muốn tự mạc khải trong chính con người Đức Kitô. Ngoài con người ấy ra, không ai thấy được Thiên Chúa…
Dân Do Thái ngày xưa đã không tin Ngài là Đức Kitô, bởi vì họ không thể tin rằng Thiên Chúa lại hiện thân như một con người bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường: Con của một bác thợ mộc, sống một cuộc đời không có gì đặc biệt ở giữa họ.
Ngày nay trong thực tế, có lẽ nhiều người tín hữu cũng không thể nào tin yêu Đức Kitô, nếu họ gặp Ngài dưới hình dạng một con người tầm thường như vậy. Cứ nhìn các ảnh tượng người ta đã vẽ, đã tạc thì thấy rõ là ai ai cũng chỉ muốn tin nhận một Đức Kitô phi thường và siêu việt. Đức Kitô đối với nhiều người chỉ còn là Chúa, chứ không còn là người nữa.
Chúng ta tin vào một Đức Kitô toàn năng, một Đức Kitô chiến thắng, bởi vì chỉ có Đấng ấy mới có thể đáp ứng những đòi hỏi, những ước mơ không cùng của con người, bù trừ được những thiếu sót mà con người, tự sức riêng, không thể nào giải quyết nổi.
Thế nhưng, sự thật lại không phải là như vậy. Đức Kitô đến không phải để được đề cao, để được tôn vinh, nhưng đến để cùng đi, cùng sống với loài người, trong thân phận của một con người, của một tôi tớ, của một nô lệ. Với trí khôn, chúng ta không thể nào hiểu biết, nhưng với tình yêu, chúng ta sẽ dễ dàng tin nhận.
Phải, chỉ có những người biết yêu thương như Đức Kitô đã yêu thương, mới có thể nhận biết ngài là Đức Kitô của Thiên Chúa, bời vì Thiên Chúa là Tình yêu và con tim có những ly lẽ riêng của nó.
Ngày thứ Sáu Tuần thánh người ta thường tuốn đến nhà thờ thật đông. Họ biết rằng những ngày: TN 12-C38
Ngày thứ Sáu Tuần thánh người ta thường tuốn đến nhà thờ thật đông. Họ biết rằng những ngày đó là những ngày quan trọng trong đạo của chúng ta, ngày đó kỷ niệm sự chết của Chúa Giêsu trên thánh giá. Vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, một đám đông lớn chật ních tất cả các nhà thờ cũng như thế. Dân chúng biết rằng sự cử hành Phục Sinh của Chúa có một ý nghĩa đặc biệt. Nhưng những người đi nhà thờ thường xuyên nhận thấy rằng sau lễ Phục Sinh người ta đi lễ dần dần giảm sút.
Những người đi nhà thờ thường xuyên sẽ bị cám dỗ tự hỏi: “Thời gian còn lại của năm họ đi đâu?”. Hãy để quyền xét đoán cho Thiên Chúa bây giờ chúng ta sẽ suy nghĩ về sự nhận biết ngày Chúa Nhật thì quan trọng đối với chúng ta là những người Công giáo, khi Thánh Lễ là một phần đặc biệt của ngày Chúa Nhật mà chúng ta mừng sự cứu độ của chúng ta. Quả thật Giáo Hội đã dạy rằng ngày Chúa Nhật là ngày đầu tiên trong một tuần, điều này có trong truyền thống đã truyền lại từ các tông đồ. Đối với những người Công giáo, ngày Chúa Nhật không có Thánh Lễ thì giống như những thành viên của một hội kèn không có nhạc cụ thì không thể làm viên mãn mục đích của họ được. Mục đích của chúng ta vào ngày Chúa Nhật là cử hành biến cố cứu độ của chúng ta.
Biến cố này là sự chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được trải dài trong một thời ký ba ngày, nhưng bây giờ chúng là một thực tại mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Vượt Qua là toàn thể mục đích của việc Con Thiên Chúa vào trong thế gian. Từ đời đời Cha đã xác quyết rằng tội lỗi và sự chết sẽ không cản trở dự định của Ngài, là Người Con duy nhất của Ngài cứu độ chúng ta thoát khỏi tội lỗi và sự chết qua mầu nhiệm Vượt Qua của Người.
Sự chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là một phần suy nghĩ của Cha trên trời đã có trong Cựu Ước, rất lâu trước khi Chúa Giêsu sinh ra đã có những dấu hiệu những gì sẽ xảy đến. Giacaria như là một người phát ngôn của Thiên Chúa đã tiên báo về một Con Người mầu nhiệm mà tự con người đó dân chúng sẽ than khóc như cha mẹ than khóc trên cái chết của người con độc nhất của mình. Ông nói rằng: “Dân chúng sẽ nhìn lên Người, Đấng mà họ đã đâm thâu qua”. Chúng ta biết rằng Đấng ấy là con người nào. Đó là Đức Giêsu người Con độc nhất của Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thánh giá và đã bị ngọn giáo đâm xuyên qua cạnh sườn.
Thánh Luca đã giới thiệu Chúa Giêsu trong Phúc Âm như là một hành trình đi lên Giêrusalem. Gương mặt của Ngài luôn luôn hướng về thành thánh kể từ khi những lời tiên tri của chính Chúa Giêsu đã thốt lên ít nhất ba lần sẽ được ứng nghiệm: “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Sẽ chết và sẽ sống lại vào ngày thứ ba”.
Chúng ta nhận biết ý nghĩa về cái chết của Chúa Giêsu trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta: “Bởi sự chết Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta và bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống cho chúng ta”, khi cạnh nương long của Chúa Giêsu bị xuyên qua máu và nước đã chảy ra. Theo truyền thống xưa của Giáo Hội, nước là biểu hiệu của phép rửa và máu là biểu tượng của bí tích Thánh Thể. Thánh Phaolô ngày hôm nay đã nhắc nhở cho chúng ta rằng, chúng ta đã chịu phép rửa để chúng ta được mặc lấy Chúa Kitô. Tại phép rửa chúng ta đã lãnh nhận một áo trắng, biểu tượng đó là chúng ta đã mặc lấy Chúa Kitô, chúng ta mặc lấy một đời sống mới, một đời sống mà đã chinh phục chúng ta bằng mầu nhiệm Vượt Qua và bây giờ được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể.
Qua lời tuyên xưng, chúng ta nói về sự tiếp nhận Thánh Thể của chúng ta: “Khi chúng ta ăn bánh và uống chén này chúng ta tuyên xưng cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu cho đến khi Chúa lại đến trong vinh quang”. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, đó là một thực tại tuyệt cao trong tâm trí đời đời của Thiên Chúa. Chúng ta cũng đến với Thánh Lễ vào mỗi ngày Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Vượt Qua.
Trên một bức tường cao ốc tại thành phố Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ, có dám một: TN 12-C39
Trên một bức tường cao ốc tại thành phố Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ, có dám một thông báo khổ lớn 5mx3m với những dòng chữ sau:
Công lực có bổn phận truy mã thủ phạm trọng tôi Giêsu Nagiaret, bí danh Messia, tức là Kitô. Theo chứng minh nhân dân, phậm nhân mang quốc tịch Do Thái, sinh tại Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, hậu duệ Đavit. Mẹ y là Maria, không đề tên cha, chỉ bố nuôi là Giuse-Nagiaret, miền Galilê. Nghề nghiệp thợ mộc, lao động đủ sống, chưa lập gia đình.
Tội trạng: sau vụ phép rửa sám hối của ông Gioan Tẩy Giả, tên Giêsu bỏ xưởng mộc, ngưng sản xuất, đi lang thang, kể như vô gia cư, vô nghề nghiệp. Y tự ý kết nạp một số thanh niên đủ giai cấp trong xã hội: dân chài lưới, bọn thu thuế, nông dân mộc mạc, kéo nhau đi rao truyền một thứ Nước Trời nào đó sắp tới, làm náo động dân thị hiểu nhiều nơi, làm cho nhân dân bỏ công việc làm ăn. Đó là tội gây rối trận tự trị an…
Thưa anh chị em,
Đây là câu chuyện giả sử của một nhóm khá đông thanh niên nam nữ Hoa Kỳ muốn lôi kéo sự chú ý của dân chúng đến một con người lịch sử lạ kỳ của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, đã xuất hiện trên địa cầu cách đây 20 thế kỷ. Nhưng cho đến nay, người ta vẫn ái mộ hoặc đả kích kịch liệt con người ấy và xem như ông vẫn ám ảnh nhiều người dài dài…
Vào lúc sinh thời tại Palestine, Ngài cũng đã gây một dư luận quần chúng khác nhau chung quanh Ngài. Theo Tin Mừng Thánh Luca kể lại, trong dân chúng, người thì nói: “Ông ấy là Gioan Tẩy Giả”; kẻ khác lại nói: “Ông ấy là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào khác…”. Chúa Giêsu cũng đã nghe biết những dư luận hàm hồ nầy. Và có lần Ngài hỏi các môn đệ, những người đã từng sống bên Ngài từ vài năm nay. Ngài đặt câu hỏi: “Dư luận nghĩ Thầy như thế, còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?:” Các môn đệ im lặng. Câu hỏi nầy mới khó trả lời, vì đây không còn nói đến những gì các ông nghe biết nữa, nhưng là nói đến điều các ông tin. Các ông tin Thầy của mình là ai? Và niềm tin nầy sẽ thiết lập mối liên hệ của các môn đệ với Chúa Giêsu. Ai cảm thấy mình chắc chắn để trả lời đây? Các ông không nói: “Chúng con cũng nghĩ như dân chúng: Thầy là Gioan Tẩy Giả, là Êlia, là một tiên tri…”. Sự im lặng của các ông có thể muốn nói rằng: “húng con nghĩ rằng Thầy còn hơn một tiên tri nữa…”. Nhưng ai dám nói điều đó?
Chính là Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Phêrô trả lời như một người Do Thái có thể trả lời. Dân Israel đang mong chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Nhưng điều đáng chú ý và thật là quá sức để nói: “Chúng con tin Thầy là Đấng Thiên Sai Cứu Thế”. Thế mà Phêrô dám nói lên điều đó và không ai trong nhóm các ông nói ngược lại. Phêrô nói thay lời anh em. Chúa Giêsu nói với Phêrô: đức tin của ông thật đúng lúc. Chắc hẳn trong đời Phêrô có những lần ông bị trách là nghi ngờ, là tự cao tự đại, là kém lòng tin. Đó là những giây phút ông không tin tưởng đủ. Nhưng ở đây, ngay bây giờ thì đức tin của ông thật chính xác và mạnh mẽ.
Còn chúng ta, thưa anh chị em, khi nói về đức tin của mình, chúng ta có chắc chắn được rằng đức tin đó còn trong chúng ta không? Chúa Giêsu có chấp nhận đức tin của chúng ta như đã chấp nhận đức tin của Phêrô không? Nói cách khác, nếu Chúa Kitô đến giữa chúng ta, chúng ta có nhận được Ngài như Ngài muốn không? Nơi nào trên thế giới nầy có cái may mắn nhất để tiếp nhận Ngài? – Ở Rôma, trung tâm của Giáo Hội hay ở các đền thờ hành hương? – Không, ngay trong lòng chúng ta và nơi những người khác, Chúa chờ chúng ta ở đó. Tôi muốn nói, nếu Đức Kitô trở lại giữa chúng ta, Ngài không làm gì khác như trước đây 2000 năm Ngài đã làm: Ngài sẽ ở giữa chúng ta, với những người nghèo khổ nhất trong chúng ta. Ngài sẽ ở giữa những gia đình như gia đình Nagiaret của Ngài ngày xưa, và ai muốn gặp Ngài thì trước hết phải tìm Ngài nơi Ngài đang ở, có nghĩa là nơi những người nghèo khó.
“Anh em bảo Thầy là ai?”
Nếu Chúa Kitô trở lại, con người ngày nay phải trả lời cho Ngài thế nào? – Tôi đã được nghe nhiều người nói thế nầy:
- Ngài là Chúa, con kính mến Chúa trên hết mọi sự. Chúa bảo gì con cũng làm hết, nhưng với những thù địch thì con không thể nào yêu thương được, con chịu thôi!
- Hoặc là: Ngài là lý tưởng của con, của tất cả mọi người. Nhưng lý tưởng của Ngài sáng chói quá, khó quá, ai mà sống được như Ngài!
- Hoặc nữa: Ngài là người đã đặt ra những luật lệ hay nhất, chính đáng nhất, nhưng làm sao chúng con giữ được, nhất là sống thời buổi kinh tế thị trường nầy?...
Thưa anh chị em,
Những lời tuyên xưng đó chỉ là một cách thức chối từ Chúa Kitô và đời sống của Ngài. Đó không phải là câu trả lời của những người đang thực sự sống đức tin của mình. Sống đức tin là gì? Chính là họa lại đời sống của Chúa Kitô nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta. Trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Thầy là ai” là để cố gắng sống theo những gì mình đã xác tín và tuyên xưng về Chúa Kitô, chứ không phải trả lời xong để rồi cố thủ với con người, với ích kỷ, lười biếng của mình. Và một khi đã xác tín và tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô”, thì phải trung thành dấn thân theo Ngài cho đến cái chết treo trên thập gí. Chết trên thập giá như Chúa Giêsu thì rất hiếm, nhưng mọi Kitô hữu đều phải vác thập giá mỗi ngày trong đời sống và phải sẵn sàng bước lên thập giá đó. Điều đó có ý nghĩa cụ thể là người ta không thể là môn đệ của Đấng bị đóng đinh thập giá, nếu không chấp nhận như Thầy của chúng ta, trở thành tôi tớ của anh em trong cuộc sống hằng ngày, như Thầy đã làm.
Có những người thèm khát được tán thưởng. Họ có lẽ đã lớn lên với cảm giác mình bị bỏ quên, bị: TN 12-C40
Có những người thèm khát được tán thưởng. Họ có lẽ đã lớn lên với cảm giác mình bị bỏ quên, bị chỉ trích và chê bai. Người nào có sự nghi ngờ thật sự và sâu xa về chính mình luôn luôn chờ đợi sự xác nhận của người khác.
Người nào càng thiếu căn tính của bản thân và sự thành công, càng cảm thấy có nhu cầu đồng hoá mình với một nhóm xã hội đang thành đạt. Có người đeo mặt nạ để chiếm được sự tán thưởng. Nhưng người nào luôn phô trương, thì những dự tính hiếm khi đạt kết quả.
Khi Đức Giêsu hỏi các Tông đồ: “Dân chúng nói Thầy là ai?” Người không hỏi điều đó vì lợi ích của Người mà vì lợi ích của họ. Người biết rõ Người là ai. Người có một sự tự chủ phi thường đến nỗi Người có thể đối diện với cả sự nịnh hót và thù ghét với sự thanh thản hoàn toàn.
Tin Mừng nói về sự từ bỏ chính mình, và cũng nói về “chết cho chính minh”. Đời sống tâm linh bao gồm từ bỏ chính mình và chết cho chính mình, nhưng xét toàn bộ đúng hơn, đó là vấn đề trở nên chính mình, tức bản ngã chân thật và viên mãn. Đó là điều quan trọng nhất trong đời sống. Nếu trái lại, chúng ta không thể sống và hạnh phúc tràn đầy. Vậy, dù đường đời chúng ta là gì thì vấn đề thật sự quan trọng là chúng ta phải trở nên chính mình, không để cho nỗi sợ hãi điều người khác nghĩ về chúng ta làm chúng ta tê liệt.
Trong đời sống công cộng, cái tôi thật đặc biệt khó thấy rõ. Phongxiô Philatô biết rằng Đức Giêsu vô tội nhưng sợ làm mất địa vị với vinh dự và các đặc quyền mà đối với ông là tất cả mọi ý nghĩa. Khi chúng ta phạm tội vì sợ mất địa vị thì cái “bản ngã” của chúng ta chìm sâu vào bóng tối. Nhưng bản ngã thật hiện rõ khi chúng ta làm theo lương tâm, và có đủ dũng cảm để liều mình bước ra khỏi con đường xấu.
Bản ngã chân thật hiện rõ trong sự khiêm nhường, qua mọi thất bại và cả những lầm lỗi. Đó là một sự phát triển chậm và đẹp qua mọi giai đoạn của đời sống. Vì chúng ta lữ hành hướng về điều đó, chúng ta được kêu gọi phải sống nhẫn nại và cho phép mọi việc xảy đến với chúng ta –bệnh tật, khủng hoảng mất mát- để hoạt động một cách hiền hoà ở giữa chúng ta. Khi chúng ta thật sự ước muốn sống chân lý, mọi việc sẽ cùng nhau hoạt động cho điều tốt và cho sự phát triển của chúng ta hướng về sự trưởng thành tâm linh.
Sự trưởng thành ấy có thể không thấy được. Nó xảy ra bên trong chúng ta. Đặc biệt nó xảy ra trong những người khiêm hạ và không quan trọng về mặt xã hội. Nó không cần mang đến phần thưởng danh dự và tiền bạc. Nhưng nó sẽ dẫn đến một sự hiệp thông sâu xa với những người khác.
Trong quá khứ, tính tâm linh liên quan đến việc mặc lấy một cái ngã khác –thường là một cái ngã sùng tín và thánh thiện. Tính tâm linh thật ra không phải là vấn đề mặc lấy một cái gì từ bên ngoài chúng ta, nhưng là rút ra điều mà chúng ta đã được ban cho. Đó là làm hiện rõ cái bản ngã tâm linh của mình. Bản ngã tâm linh là bản ngã thật, làm bằng chất liệu con người nhưng mang hình ảnh của Thiên Chúa.
Qua mọi giai đoạn phát triển, mục đích thật sự trong đời sống là trở thành chính mình, là làm cho mọi rào cản sụp đổ để cái “tôi” thâm sâu nhất có thể xuất hiện rõ ràng. Nó không muốn trở thành điều mà những người khác muốn chúng ta trở thành hoặc hô hào chúng ta quan tâm bằng mọi giá. Nó không muốn nỗ lực trở thành một người khác, những trưởng thành từ hạt giống sự sống ở bên trong chúng ta. Chúng ta là những người khách hành hương xa lạ trong cuộc hành trình để trở thành người mà chúng ta thật sự vẫn là. Thật bi đát khi luôn luôn có rất ít người “chiếm hữu được linh hồn họ” trước khi họ chết.
Dân chúng nói tôi là ai? Hoặc Tôi như thế nào đối với những người khác? Đó là những câu hỏi: TN 12-C41
Dân chúng nói tôi là ai? Hoặc Tôi như thế nào đối với những người khác? Đó là những câu hỏi mà nhiều người hỏi, nhưng đặc biệt là những người được dân chúng nhìn vào.
Khi Đức Giêsu hỏi: “Dân chúng nói Thầy là ai?”. Người không hỏi điều đó vì lợi ích cho Người mà vị lợi ích của các Tông đồ. Đức Giêsu biết rõ Người là ai. Người có sự tự chủ phi thường đến nỗi Người có thể đối mặt với cả sự nịnh hót lẫn sự thù ghét với sự thanh thản hoàn toàn.
Một số người thèm khát được tán thưởng. Hẳn họ đã lớn lên với cảm thức mình bị bỏ quên, chê bai và chỉ trích. Người nào có sự hoài nghi sâu xa, thật sự về mình luôn luôn tìm kiếm sự xác nhận của những người khác.
Chúng ta cần tìm kiếm thực tại của riêng mình để có thể đứng vững trên đôi chân của mình. Do đó chúng ta không cần người khác chống đỡ cho chúng ta. Có những người có một ngọn lửa chiếu sáng rực rỡ liên tục từ nơi thâm sâu của tâm hồn họ. Ngọn lửa ấy không biết đến họ, vì nó không lệ thuộc vào điều mà những người khác nghĩ về họ. Đó là điều họ nghĩ về chính họ với sự chắc chắn và thanh thản.
Tuy nhiên, một đôi khi nhìn lại chính mình như những người khác nhìn chúng ta có thể có lợi cho chúng ta. Alfred Nobel là một nhà công nghiệp người Thuỵ Điển giàu có và danh tiếng. Ông đã phát minh ra chất nổ. Nhưng gần cuối đời ông hoàn toàn không hạnh phúc. Ông chưa bao giờ kết hôn và cả đời ông, ông bị sức khoẻ kém là phiền nhiễu. Kết quả là ông có một nhân sinh quan rất bi quan.
Thế rồi, một sáng nọ, ông đọc thấy trong một tờ báo một cáo phó của ông. Đó là một nhầm lẫn của một nhà báo. Ông rất bối rối bởi những điều ông đọc. Điều làm ông tổn thương nhất là hình ảnh sai lạc mà dân chúng có về ông. Thế giới biết đến ông như “một ông vua chất nổ”. Đó là từ người ta dùng để nhắc đến ông. Trong bản cáo phó, người ta không hề nói đến mong ước của ông muốn đoàn kết các dân tộc và làm cho chất lượng của đời sống con người tốt hơn.
Tổn thương to lớn đối với ông là khám phá ra rằng mọi điều chủ yếu, mọi việc làm nên cái cốt lõi của đời ông đã bị che giấu đối với người khác; còn mọi điều sai lạc lại được phổ biến công khai. Ông cảm thấy hoàn toàn bị hiểu lầm. Ông không phải như thế. Ông quyết định phải lập tức hành động để cho thế giới biết lý tưởng thật và mục đích của đời ông.
Ông để lại phần lớn gia tài khổng lồ dùng vào việc làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Ông lập ra năm giải thưởng để phát cho các ông hay bà nào có sự đóng góp nổi bật vào các lĩnh vực vật lý, hoá học, y học, văn chương và hoà bình. Ông muốn được nhớ đến không phải như một người đã phát minh ra thuốc nổ có thể làm thế giới nổ tung, nhưng như một người có tâm hồn tốt lành và nhân hậu.
Điều đã xảy ra cho ông Nobel chứng tỏ người ta mắc sai lầm như thế nào trong sự phán xét người khác. Điều đó cũng đã xảy ra với chính Đức Giêsu. Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng có những ý tưởng khập khiễng về Người. Có kẻ nghĩ Người là Gioan Tẩy Giả (lúc đó đã chết). Những người khác thì nói là một ngôn sứ thời xưa sống lại.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia như Phêrô đã đoán chính xác. Nhưng Người không là Đấng Mêsia vinh quang như dân chúng đã mong đợi. Người phải là một Đấng Mêsia đau khổ. Người không thống trị, Người phục vụ. Đức Giêsu không quan tâm chiếu rọi hình ảnh mà dân chúng muốn. Người biết Người có một số phận mà Thiên Chúa đã định mà Người phải hoàn thành, không sai sót.
Chúng ta sẽ mắc sai lầm nếu bận tâm chính của chúng ta chiếu rọi một hình ảnh tốt đẹp và và sống theo những kỳ vọng của người khác. Điều duy nhất mà chúng ta được mời gọi trở thành là phải trở nên cái bản ngã chân thật của mình. Chúng ta không thể sống viên mãn và hạnh phúc nếu không hoàn thành điều đó. Nhưng chúng ta không nên bằng lòng cho đến lúc đạt đến mức độ tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được trong việc trở nên chính mình. Vậy, dù đường đời của chúng ta như thế nào, điều thật sự quan trọng là chúng ta phải trở nên chính mình trước mặt Thiên Chúa và người khác. Đây là cuộc hành trình về lại nhà mình.
Đây là một trong những giờ phút hệ trọng nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu. Ngài hỏi câu hỏi: TN 12-C42
Đây là một trong những giờ phút hệ trọng nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu. Ngài hỏi câu hỏi đó khi Ngài đã nhất định đi lên Giêrusalem (Lc 9,51). Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi Ngài ở đó và câu trả lời cho câu hỏi của Ngài rất mực quan trọng. Điều Ngài đã biết đó là chính Ngài đang tiến đến thập tự để chết. Còn điều Ngài muốn biết trước khi Ngài ra đi là đã có ai thực sự khám phá Ngài là Đấng nào chưa? Câu trả lời đúng sẽ thay đổi tất cả, nếu không có, mà chỉ có sự hiểu lầm, thì điều này có nghĩa là công việc của Ngài đã uổng công. Nếu có một nhận thức nào, dầu rất sơ sài, thì điều đó có nghĩa là Ngài đã thắp lên một ngọn đuốc trong tâm hồn loài người mà thời gian sẽ không bao giờ dập tắt được. Lòng Chúa Giêsu hân hoan biết bao khi thấy lòng trí của Phêrô tràn ra môi miệng ông “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Khi nghe điều đó Ngài biết mình đã không thất bại.
Nhưng không những Mười Hai Tông Đồ chỉ khám phá ra điều đó, họ còn phải khám phá ra ý nghĩa nữa. Họ đã lớn lên trong một nền tư tưởng dạy rằng phải trông đợi từ Thiên Chúa một vị Vua chiến thắng sẽ dẫn đưa xứ sở của họ đến địa vị bá chủ thế giới. Cặp mắt của Phêrô hẳn đã sáng lên một niềm xúc động khi ông muốn thốt lên lời đó. Nhưng Chúa Giêsu còn phải dạy cho họ biết rằng Chúa Kitô đã đến để chết trên thập giá. Ngài phải làm đảo lộn tư tưởng của họ về Thiên Chúa và ý của Ngài, và từ phút này, Ngài sẽ để tâm làm việc đó. Họ khám phá ra Ngài là ai, bây giờ họ còn phải khám phá thêm ý nghĩa khám phá đó.
Có hai chân lý rất lớn trong đoạn Kinh Thánh này:
1. Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách hỏi người ta đang nói gì về Ngài, rồi đột nhiên Ngài hướng câu hỏi thẳng vào Mười Hai Tông Đồ: “Anh em nói Thầy là ai?”. Không bao giờ được cho là đủ nếu chỉ biết những điều người ta đã nói về Chúa Giêsu. Một người có thể trúng tuyển các kỳ thi về những lời nói và tư tưởng cổ kim của thiên hạ về Chúa Giêsu, người ấy có thể đọc hết các sách Kitô học, được viết bằng mọi thứ tiếng trên thế giới, những người ấy vẫn chưa phải là Kitô hữu. Chúa Giêsu phải là một khám phá riêng của cá nhân chúng ta. Kitô giáo không phải là một câu chuyện lưu truyền. Đối với mỗi người, Chúa Giêsu không đến với câu hỏi “Ngươi có thể nói cho Ta những điều kẻ khác đã nói và viết về Ta chăng?”, nhưng Ngài hỏi “Ngươi nói Ta là ai?”. Phaolô đã không nói “Tôi biết điều tôi đã tin” nhưng ông nói “Tôi biết Đấng tôi tin” (2Tm 1,12). Kitô giáo không có nghĩa là đọc một bài tín điều nhưng là biết một Đấng nào.
2. Trong đoạn Kinh Thánh này, chúng ta nghe tiếng “phải” từ miệng Chúa Giêsu, Ngài phán “Ta phải đi lên thành Giêrusalem và chịu chết”. Thật rất ý nghĩa khi chúng ta để ý đến những tiếng “phải” Chúa nói trong Phúc Âm Luca. Ngài nói trong Luca 2,49 là “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Lc 4,43 chép: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa”. Lc 13,33 ghi: “Nhưng ngày nay, ngày mai và ngày kia tôi phải tiếp tục đi”. Ngài thường nói đi nói lại với các môn đệ rằng Ngài “phải” đi đến thập giá của mình (Lc 9,12; 17,25; 24,7). Chúa Giêsu là người hiểu rõ mình có một định mệnh phải hoàn thành. Ý muốn của Chúa Cha là ý muốn của Ngài. Ngài không có mục đích nào khác nơi thế gian này ngoài việc làm trọn điều mà Thiên Chúa Cha đã sai Ngài làm. Kitô hữu cũng như Chúa của mình, là người hằng vâng lời.
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA (9,23-27)
“Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu đặt ra những điều kiện cho ai muốn theo Ngài.
1. Người đó phải từ bỏ mình. Điều đó có nghĩa gì? Một học giả đã giải thích như sau: Phêrô đã một lần từ chối Chúa khi ông nói về Chúa Giêsu rằng; “Tôi không biết người đó”. Chúng ta từ bỏ mình là nói rằng: “tôi không biết tôi” tức là không biết chính sự hiện hữu của mình, coi mình như không có vậy. Chúng ta thường tự đặt mình lên cao dường như mình là quan trọng nhất trên thế gian này. Nếu muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải tự xoá mình đi, quên chính bản thân mình.
2. Người đó phải vác thập giá mình. Chúa Giêsu biết rõ thế nào là đóng đinh vào thập giá. Khi Ngài còn là cậu bé mười một tuổi, thì Giuđa, người xứ Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Rôma. Ông đã đánh phá kho vũ khí của vua tại Seppheoris, chỉ cách Nazaret 6,4 km. Rôma trả thù tức khắc. Seppheoris bị san bình địa, dân chúng bị bán làm nô lệ, hai ngàn loạn quâ bị đem đóng đinh vào thập giá dựng dọc theo hai bên đường để cảnh cáo cho kẻ nào muốn nổi loạn. Vác thập giá mình có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành với Chúa. Vác thập giá có nghĩa là sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm cho chúng ta vì chúng ta thành tâm đi với Chúa Giêsu.
3. Người đó phải phân phát sự sống mình chứ không tích trữ. Toàn bộ các tiêu chuẩn trần gian phải thay đổi. Các câu hỏi không phải là “Tôi có thể thâu tích bao nhiêu” nhưng là “Tôi có thể phân phát bao nhiêu”. Không phải “việc gì là điều an toàn để làm” nhưng là “việc nào là điều phải lẽ để làm”, không phải “cái gì là tối thiểu được phép làm” nhưng là “cái gì là điều tối đa có thể làm”. Kitô hữu phải nhận thức rằng đời sống của mình là cho đi, không phải giữ lấy cho mình, nhưng là đem phân phát đời mình cho kẻ khác, không phải là tiết kiệm năng lực, nhưng tiêu hao năng lực mình cho Chúa và cho nhân loại.
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN VÀ LOAN BÁO LẦN THỨ NHẤT VỀ CUỘC THỤ NẠN (9,18-22)
Như toàn bộ chương này, Luca tiếp tục xen kẽ những cảnh công cộng với những đàm đạo riêng: TN 12-C43
Như toàn bộ chương này, Luca tiếp tục xen kẽ những cảnh công cộng với những đàm đạo riêng tư. Những cuộc đàm đạo này –như câu chuyện ở đây- sẽ làm sáng tỏ nhân cách Chúa Giêsu và ý nghĩa sâu xa các hành vi của Ngài trước đám đông. Như vậy, việc hoá bánh ra nhiều được tiếp liền bằng việc tuyên xưng đức tin của Phêrô. Luca tách rời khá xa nguồn tài liệu của ông khi bỏ bảy mươi lăm câu của Mc (6,45-8,26). Tuy không có thể hiểu một cách chắc chắn tại sao Luca bỏ phần này của Maccô, người ta có thể – và đó là điều chính yếu- thấy được hiệu quả của bố cục mới này. Một phần, Chúa Giêsu không tự mình khai mạc bàn tiệc cho lương dân, tuy rằng Ngài đã loan báo (13,28-30); điều ấy dành cho Giáo Hội sau này. Phần khác, việc Phêrô nhận ra tính Mêsia của Chúa Giêsu được gắn liền mật thiết với cảnh trước, trong đó ông thấy Thầy của ông trao ban bánh và tự tỏ mình như vị ngôn sứ của thời đại cuối cùng. Những dư luận bình dân mà các môn đệ kể với Ngài không khác những gì Hêrôđê mới nghe được trước đó, và tước hiệu mà Phêrô sắp tuyên xưng một cách rõ ràng là một giải đáp cho câu hỏi căn bản mà cả Chúa Giêsu (c.18) và tiểu vương xứ Galilê đã nêu ra (9,9).
Tuy nhiên, như thường thấy ở Luca, vào những lúc quan trọng của sứ mệnh, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là để chuẩn bị cho mặc khải mà Ngài sắp ban cho các môn đệ (c.22), hơn là để chuẩn bị cho câu hỏi ở câu 18. Nếu các môn đệ báo cáo dư luận chung phát sinh từ hấp lực của nhân vật tiên tri có phép thần thông, thì chính Phêrô lại là phát ngôn nhân cho toàn nhóm và ông làm điều đó bằng cách “chuyển hệ”: ông đi xa hơn khi đề cập tới một sự đợi chờ khác của dân (x.3,15): chờ đợi một phó vương của Thiên Chúa, thuộc chi tộc Đavit, có sứ mệnh cứu Israel. Ngay từ đầu sứ vụ của Chúa Giêsu, chỉ có quỷ dữ, được phú bẩm một tri thức siêu nhiên, nên đã biết được tính Mêsia của vị sứ ngôn miền Galilê (4,14). Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa và, vì lệnh phải giữ im lặng sau đó, chỉ trong diễn từ vào lễ Ngũ tuần mà người phát ngôn của nhóm Mười Hai mới lại công bố tước hiệu này (Cv 2,31.36.38).
Không từ chối tước hiệu này, một tước hiệu chính xác, Chúa Giêsu cấm các ông nói ra (c.21) và thêm một bổ túc cần thiết (c.22). người bác bỏ những cách hiểu rộng về một Đấng Mêsia thuộc hoàng tộc Đavit, đặc biệt tính cách cục bộ và đế quốc chủ nghĩa theo tinh thần quốc gia quá khích. Một bản văn của người Pharisêu được viết khoảng tám mươi năm trước đó; Thánh Vịnh Salomon 17, mô tả Đấng Mêsia xua đuổi người di dân và ngoại kiều ra khỏi đất thánh để tẩy trừ mọi ô uế, và cai trị mọi quốc gia trên địa cầu khởi từ Giêrusalem… Mọi nét trên đều không có trong lời rao giảng Tin Mừng về Vương Quốc! Như vậy, Chúa Giêsu mang đến một sự điều chỉnh rất lớn khi loan báo cuộc thụ nạn và Phục Sinh của Ngài, đồng thời tự xưng mình là Con Người, và đây là lần thứ năm Ngài tự xưng như thế. Sứ mệnh Mêsia của Ngài phải được thực hiện bằng đau khổ, bằng sự loại trừ bởi các nhà cầm quyền Do Thái (ba nhóm người lập thành Thượng hội đồng), bằng việc bị giết… Nhưng Thiên Chúa đã minh oan cho Ngài bằng cách cho Ngài sống lại ngày thứ ba. Bốn động từ nói về lộ trình vượt qua của Chúa Giêsu được bắt đầu bằng từ “phải”, điều Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ, đó là chương trình cứu độ của Thiên Chúa mà đảm nhận hoàn toàn.
Ngược với những gì xảy ra ở Mc 8,32-33, ở đây không có phản ứng nào của các môn đệ; Phêrô không hề khuyên can Chúa Giêsu –đó là cung cách của Luca, ông không muốn nêu lên những yếu đuối của nhóm Mười Hai. Việc im lặng này cho phép ta rút ra tức khắc những hậu quả của một Kitô hữu như thế đối với đời sống thực tế của những ai muốn làm môn đệ.
THEO CHÚA GIÊSU (9,23-24)
Sau việc loan báo cuộc thụ nạn cho riêng các môn đệ mà thôi, là lời kêu gọi gửi đến tất cả mọi người. Đám đông đã đi theo Chúa Giêsu trong tư thế của người môn đệ (8,10) và đã hưởng nhờ việc bẻ bánh nay xuất hiện lại trong hoạt cảnh; đó là tất cả những ai, qua các thế kỷ, một ngày nào đó sẽ đón nhận Tin Mừng. Họ phải biết con đường bước theo Chúa Kitô thiết yếu gồm những gì! Các câu 23-27 không chỉ nói cho riêng nhóm nhỏ Mười Hai hay các môn đệ xác tín nhất. Phần khác những câu đó cũng là lời giải đáp mới cho câu hỏi của Hêrôđê bởi vì chúng trình bày cách minh bạch đòi hỏi của Chúa Giêsu. Chính Ngài vừa loan báo cái chết của chính mình vì bị người ta giết, đặt điều kiện cho những ai muốn làm môn đệ mình phải đi theo cũng chính con đường đó và khi hoàn cảnh đòi hỏi phải dám chết để làm chứng nữa.
Nhưng, còn hơn cả điều ngoại thường, đó là chính sự trung tín hằng ngày của một Kitô hữu, một sự trung tín được tìm kiếm trước hết và mọi sự nơi ba mệnh lệnh (c. 23). Nói không triệt để với chính mình không có nghĩa là ghét mình, bởi vì ngược lại phải yêu người lân cận như chính mình tôi (10,27); đó là tôi không được tập trung về mình. Cũng phải hiện tại hoá việc vác thập giá. Đó là thập giá của riêng tôi mà tôi phải mang lấy, thập giá mà cuộc đời áp đặt cho tôi; chẳng cần phải mơ tới một thập giá khác. Không có chút gì là tự hành hạ mình ở đây, nhưng xác tín rằng tôi không thể yêu có thể và người khác nếu không tự hy sinh một cách nào đó và không trải qua đau khổ. Bắt chước Chúa Kitô, tôi sẽ là môn đệ đích thực của Ngài.
Kẻ nào tìm an toàn trong cuộc sống hằng ngày (x. người giàu khờ dại ở 12,16-21) sẽ không thừa hưởng được cuộc sống trong thế giới mới đang đến (c.24); ai phó thác cho Chúa (x.12,22-32) và trao ban mạng sống cho kẻ khác vì Chúa Kitô sẽ lãnh nhận được chính sự sống của Thiên Chúa. Rõ ràng lời này, giữa lời dặn bảo ở câu 23 và lời cảnh cáo ở câu 20, khuyến khích các môn đệ trung thành cho đến chết vì tử đạo, nếu cần.
Việc giáo dục lòng tin mang lại kết quả nào? Bây giờ ta thử xét xem. ‘Theo như dân chúng nói: TN 12-C44
Việc giáo dục lòng tin mang lại kết quả nào? Bây giờ ta thử xét xem.
‘Theo như dân chúng nói thì Ta là ai?’. Câu trả lời không thoả đáng tý nào. Một số thì coi Ngài như là Gioan Tẩy giả, số khác coi Ngài là Êlia, số khác nữa coi Ngài như một tiên tri thời xưa nào đó sống lại. Như vậy việc huấn luyện dân chúng về mặt tinh thần chẳng đi đến đâu; ngoại trừ các tông đồ.
‘Còn các con, các con nói Ta là ai? Phêrô đáp: ‘Đức Kitô của Thiên Chúa’. Họ đã nhận ra Ngài là Đấng cứu thế. Việc Đức Giêsu mặc khải đã thực hiện được bước dứt khoát. Trong Do thái giáo thời đó, và dĩ nhiên là cả các tông đồ nữa, họ không quan niệm về Đấng Messia một cách đầy đủ và đúng đắn. Họ trông chờ Đấng Messia đem đến sự giải phóng chính trị và quốc gia bành trướng, dĩ nhiên là được sống thoải mái ngay dưới thế và thoát moị nỗi âu lo.
Đức Kitô thực sự là một Đấng Cứu Thế, nhưng theo một nghĩa khác hẳn. Ngài là Tôi tớ Giavê như tiên tri Isaia loan báo, là Con Người đau khổ, là Con Chiên bị đem đi giết, là Người cơ cực phải gánh lấy gánh nặng thay cho dân và chuốc lấy mọi khổ đau. Đặc tính ấy của Đấng cứu thế chỉ mơí được tỏ rõ khi Ngài tuyên bố cho các tông đồ lời lạ lùng này: ‘Con Người, phải chịu nhiều đau khổ’, như vậy, chẳng còn là vinh quang phàm tục, là vĩ đại thế trần, hay đời sống thoải mái tại thế. Con đường Ngài đi là con đường khổ cực, khiêm tốn và âm thầm. Đây không phải là cái đau khổ của một người với tư cách cá nhân mà là sự đau khổ của Đấng Messia nơi dân Ngài.
Vì ‘Ngài bị hàng niên trưởng và các Thượng tế cùng ký lục từ bỏ’. Ba nhóm người có thế lực chính thức: các Thượng Tế, ký lục và đại diện chính trị của mười hai chi tộc. Như vậy, tất cả những ai trong hội đồng cố vấn tối cao, quyền hành pháp và lập pháp của dân đều ghét bỏ Ngài. Chức vụ Cứu Thế của Ngài coi như chẳng còn gì đáng nói nữa: Ngài chẳng phải là người họ tuyển chọn mà bị họ sa thải. Ngài chuốc lấy sự nhục nhã của những người tội lỗi, của những người lìa xa Thiên Chúa với mục đích huỷ bỏ sự nhục nhã ấy và làm cho những kẻ hư hỏng thành những người được chọn.
Được Thiên Chúa sai đến, bị con người ghét bỏ, nhưng Ngài cũng sẽ chu toàn sứ mệnh và thực hiện được lời mời gọi con người để họ có thể theo Ngài và đến với Thiên Chúa.
‘Ngài sẽ bị giết’. Đấy là hình khổ cuối hết và trên hết. Đây là cuộc hiến tế toàn vẹn, Thiên Chúa không có can thiệp gì hết, lúc ấy, chẳng có ai ý thức được cuộc hiến tế ấy để rồi ăn năn sám hối mà trở lại. Đó là một sự bỏ rơi, và bỏ rơi trong tuyệt vọng, sự nhục nhã biến thành sự bỏ rơi hoàn toàn.
Satan tự hào về cái chết ấy, và chỉ sau đó nó mới nhận ra một sự thất bại hoàn toàn, vì cái chết, một hiến tế cho Thiên Chúa hằng sống, lại phát khởi một cuộc sống mới.
‘Ngày thứ ba Ngài sống lại’. Đây là lần đầu tiên ta thấy rõ đặc tính và bản chất vai trò Cứu Thế của Đấng Cứu Thế. Đây cũng là lúc ta có một cái nhìn hướng về tương lai, về một đời sống hoàn toàn khác biệt, đến những thực tại bên kia thế giới. Việc Chúa sống lại là khởi điểm sự sống lại của nhân loại mới. Cái chết của Ngài là sự trở về lòng đất mẹ để tái sinh thành ‘trưởng tử trong loài thọ sinh’. Rồi ai cũng chết theo Ngài sẽ cùng được tái sinh với Ngài.
Cái chết của Ngài khai mở cánh cửa sự sống. Ngài bước qua cánh cửa đó để tiêu diệt cái vận mạng tàn khốc đã khiến mọi vật chất phải chết, vì từ đây, nơi Ngài và nhờ Ngài, có một sinh lực làm cho mọi vật sống lại và chiến thắng sự chết.
Sứ mệnh của Ngài lớn lao quá đến nôĩ các tông đồ không thể tiên cảm được. Việc tiên báo cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Chúa mới nghe như sét đánh, như một sự thật không lãnh hội được, hoàn toàn không như họ tưởng và làm tiêu tan mối hy vọng sẵn có của họ.
Thực ra việc loan báo ấy làm nổ tung khuôn khổ ý tưởng hẹp hòi của họ, và mở ra cho họ một chân trời khác rộng lớn hơn. Bởi thế, việc tiên báo thương khó, ngoài việc gây kinh ngạc còn hàm chứa một yếu tố hoan lạc.
2. Đối với các tín hữu.
‘Nếu ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình môĩ ngày và hãy theo Ta’. Đó là một đòi hỏi hết sức rõ rệt. Nếu Đức Kitô ôm ấp con đường đau khổ mà cuối đường là cây Thập giá, thì ai muốn theo Ngài tất nhiên phải đi vào con đường đó. Như một kẻ bị kết án vác thập giá đến nơi hành quyết, thì người Kitô hữu cũng tự coi mình đã bị thế gian lên án và đời mình là một cuộc hành trình đến pháp trường, và phải mang lấy gánh nặng của án lệnh do con người phán quyết.
Họ cô đơn, không được thông cảm, bị lên án bởi các vị cầm quyền chính thức. Họ mang thân phận phải chết; đời sống của họ là một cuộc hiến tế, một hiến tế được chấp nhận. Đây là những cái đi ngược với cảm quan và ước vọng hoàn toàn tự nhiên của họ. Thế nên, họ luôn phải tự nhắc cho mình tiếng ‘không’ của việc từ bỏ.
Tuy nhiên, như Chúa Kitô, Ngài chỉ phục sinh sau khi đã bước qua chặng đường khổ nạn, chết đi, thì cuộc sống của người Kitô hữu, vốn dĩ đã cực nhọc cả bề trong lẫn bề ngoài, vẫn mang vẻ thua thiệt, mà thực tế lại là một mối lời, kể như đã chết mà thực ra đang sống.
‘Ai muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất, còn ai mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ được sống’. Diễn trình suy nghĩ tự nhiên và ích kỷ muốn đạt được những lợi ích phàm tục, trần thế… và song song với cái diễn trình ấy là cái tôi, cái tôi tốt nhất, phải bị tiêu diệt. Nào người ta được ích gì khi được lời lãi cả thế gian mà lại mất linh hồn mình? Nhưng thực tế, chỉ con đường ấy mới dẫn đến sự sống.
Thông phần sự vinh quang của Chúa Kitô, đó là đích điểm con người phải nhắm tới trước hết. Sự vinh quang này xét dưới ba phương diện: Sự vinh quang khi Chúa biến hình và sự vinh quang của Cha trên trời, và sau cùng là sự vinh quang của các thiên thần bao quanh hai vinh quang trên.
Theo Luca, Đức Giêsu bắt đầu bằng việc cầu nguyện mỗi khi có một biến cố quan trọng sắp: TN 12-C45
Theo Luca, Đức Giêsu bắt đầu bằng việc cầu nguyện mỗi khi có một biến cố quan trọng sắp xảy ra, hay một khúc quanh quyết định xuất hiện trên bình diện con người, trong diễn tiến của cuộc đời. Người: Lúc Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan (Lc 3,21)... Lúc các đám đông nhiệt thân tuôn đến với. Người (Lc 5,16)... trước lúc chọn mười hai tông đồ (Lc 6,12)… trước lúc yêu cầu họ tuyên xưng đức tin (Lc 9,18)... trước lúc biến hình (Lc 9,28)... trước lúc dạy kinh Lạy Cha cho các bạn hữu Người (Lc 11,1)… vào lúc chọn theo thánh ý Chúa Cha trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Lc 22,41)... ngay trước lúc chết trên thập giá (Lc 23,34 và 23,46)... Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đanh cầu nguyện: Khuôn mặt Người, đôi môi Người, tấm lòng Người. Những lúc cầu nguyện của Đức Giêsu chắc chắn là có thật. Hẳn chúng ta sẽ giảm thiểu những lần cầu nguyền ấy nếu chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu chỉ cầu nguyện để nêu gương cho chúng ta. Thật vậy, những lúc cầu nguyện mà Luca kể ra đều trúng vào những thời điểm rất căng thẳng đối với con người. Người thật sự cầu xin sự giúp đỡ của Cha Người để có sức mạnh hoàn thành sư mạng khó khăn của Người cho đến cùng... Người không hề đóng kịch.
Ví dụ như ở đây, rõ rang chứng ta ở vào một thời điểm then chốt. Đức Giêsu vừa mới thực hiện một dấu chỉ cao cả của Đấng Mêsia là hóa bánh ra nhiều trong sa mạc (Lc 9,10-17). Các đám đông nham hố muốn đưa Người lên làm vua, nhưng Đức Giêsu từ chối vai trò thế tục này (Gioan 6,15) và điều đó sẽ làm cho các đám đông bỏ Người. Vì thế Đức Giêsu muốn thăm dò tâm khảm các tông đồ: Chí ít là họ, họ có tiếp tục theo Người không? Đó là điều không chắc chắn.
Bấy giờ, Đức Giêsu cầu nguyện cho họ, như sau này người sẽ cầu nguyện cho Phêrô "để Phêrô khỏi mất lòng tin" (Lc 22,32) Tôi có cầu nguyện cho “đức tin" của mình không? Tôi có cầu nguyện khi có những quyết định quan trọng không? Tôi cầu nguyện khi các biến cố bắt đầu xảy đến? Tôi có cầu nguyện cho những người mà tôi có trách nhiệm?
Không cần đi xa hơn trong việc suy niệm, tôi dùng chính giây phút này để cầu nguyện.
Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Đám đông nói Thầy là ai?" Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại..."
Sau khi đã cầu nguyện, Đức Giêsu hỏi. Quả thật câu hỏi liên quan đến đức tin cá nhân của các bạn hữu Người. Nhưng Người không đặt ngay câu hỏi chủ yếu cho họ. Với một ý thức sắc bén về khoa sư phạm, Người tăng cấp các câu hỏi của Người, và trước tiên đặt một câu hỏi không đưa họ vào chiều sâu để họ dễ trả lời. Nhưng câu trả lời đầu tiên không thể đầy đủ..Lặp lại các ý kiến của những người khác thì quá dễ. Phải dấn thân một cách cá nhân. Phải chọn cho mình một quan điểm. Sau cùng thì "cuộc thăm dò dư luận" cho thấy một sự nhất trí lớn. 100% các đánh đông đều đánh giá rằng Đức Giêsu là một con người tôn giáo rất vĩ đại, một "ngôn sứ", một người "phát ngôn" của Thiên Chúa, như Luca thường chỉ cho chúng ta thấy (Lc 4,18-19-26-27; 7,11-16-17; 24,19). Đức Giêsu là một Êlia mới, được Thiên Chúa toàn thiêu... một Môsê mới, nhà giải phóng.
Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Bản thân mỗi Kitô hữu phải trả lời câu hỏi này. Nhưng coi chừng, chúng ta không thể gian lận. Đọc kinh Tin Kính mà thôi vẫn thưa đủ! Người ta có thể nói bằng chính miệng mình rằng Đức Giêsu Kitô la "ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, v.v..." và vẫn khẳng định rõ ràng điều ngược lại bằng các hành động có thật của chúng ta. Vấn đề không chỉ làm sự tuyên xưng đức tin bằng lời: Chính đời sống mỗi ngày của chúng ta là câu trả lời chân thật. Chớ gì cung cách, hành động của tôi nói rằng: "Tôi tin Đức Giêsu”.
Ông Phêrô thưa:…
Bên trên các cuộc tranh luận không dứt về quyền bính của Giáo Hoàng và các khuôn mặt quá con người mà quyền bính ấy đã khoác vào trong dòng lịch sử... trên những gắn bó nặng tình cảm hoặc những đố ky sâu xa mà Giáo Hoàng gây ra... Chúng ta không thể không nhận thấy vai trò trổi vượt của Phêrô trong Tin Mừng. Các Giáo Hoàng hiện nay rất ưu tư với việc khôi phục hình ảnh tâm linh chân chính ấy. Trong những giờ phút phân vân, khi đám đông do dự, khi những ý tưởng rõ ràng mờ nhạt và đức tin có nguy cơ suy sụp thì một tiếng nói, ở trái tim và ở trung tâm của Giáo Hội nổi lên, tiếng nói của Phêrô, có trách nhiệm "củng cố anh em của ngài trong đức tin" (Lc 22,32)... và Đức Giêsu đã cầu nguyện cho Phêrô.
Vừa rồi, khi chỉ muốn biết dư luận của quần chúng về các hoạt động rao giảng, người ta đoán rằng mọi môn đệ đều nhanh nhẩu nói ra những điều họ nghe nói. Nhưng khi phải tỏ rõ thái độ rõ ràng hơn thì chính Phêrô là người “mở lời" nhân danh cả nhóm. Tôi cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng hiện nay. Tôi sẽ dành thời gian để đọc lại và đào sâu các sứ điệp của ngài.
Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Câu trả lời của Phêrô do đó đi xa hơn các câu trả lời của đám đông. Chúng ta hãy so sánh ba văn bản mà chúng ta có được về "lời tuyên xưng đức tin" nổi tiếng của Phêrô. Có nhiều cách tuyên xưng đttc tin, tùy theo các cộng đoàn. Matthêu 16,16 Máccô 8,29
"Thầy là Đấng Kitô" “Thầy là Đấng Kitô!" "Con Thiên Chúa hằng sống." Luca 8,20
"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa!”
Chính xác, Phêrô đã nói những lời nào? Người ta không biết được. Tin Mừng không bao giờ là một bài tường thuật thuần túy vật chất. Đối với các độc giả Hy Lạp, Luca thấy cần phải xác định rõ một từ quá Do Thái là từ Mêsia (bản dịch tiếng Hy Lạp là "Christos") và thêm vào: "Đấng Kitô của Thiên Chúa". Vả lại từ Christos có nghĩa là Đấng được xức dầu... Đấng được 'Thiên Chúa xức dầu, được Thiên Chúa thâm nhập, thấm nhuần!
Vậy Phêrô nhận ra nơi Đức Giêsu điều mà chính Người đã loan báo ngay trong diễn từ đầu tiên ở hội đồng Nadarét: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn" '(Lc 4,18 và Is 61,I).
Sau mười tám tháng sống với Đức Giêsu, Phêrô nhắc lại điều mà Đức Giêsu nói về mình. Căn tính sâu xa của Đức Giêsu không phải là một thực tại có thể suy diễn từ những quan sát thuần lý: Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận dưới thể thức của “sự mạc khải". Sự xức dầu của Thần Khí, sự thấm nhuần Thần Khí trên Đức Giêsu không thể thấy được.
Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. Người bảo rằng: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy".
Vâng chỉ có Phục sinh, dưới hai khía cạnh Thập Giá và vinh quang mới cho phép người ta hiểu được Đức Giêsu là ai. Còn giờ đây, các tông đồ được mời gọi không được nói ra căn tính của Đức Kitô.
Nhưng đối với nhóm Mười Hai, sự loan báo này về cuộc khổ nạn đã xuất hiện như một gáo nước lạnh giội vào người. Trong cùng một cảnh tượng, hai Thánh sử Matthêu và Máccô ghi lại rằng Phêrô đã bị quở trách vì không hiểu được cuộc khổ nạn.
Nếu Đức Giêsu đã cầu nguyện thì có lẽ cũng trong miễn cảnh lời loan báo này về các chết của Người. Khi đã nhận thức về vai trò của Đấng Mêsia đau khổ mà Người phải thực thi, Người đã nhìn thấy cai chết của Người hiện ra ở chân trời của tuổi thanh xuân Người, trên những tháng còn lại phải sống ở cuộc đời này... Nếu ngày hôm đó Người đã nói đến cuộc khổ nạn, ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô chính vì Người vừa nghĩ về điều đó nhiều hơn trong lúc cầu nguyện.
Tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu đã chuẩn bị lâu dài cái chết của Người... khi nhìn thấy cái chết ấy đến với người không phải dưới hình thức của một căn bệnh bất trị, không thuốc chữa hoặc sự mòn mỏi của tuổi già như thường xảy ra đối với nhiều người trong chúng ta thấy mình sắp chết... mà dưới hình thức của sự thù ghét lớn lên dần nơi các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư. Đức Giêsu đã chuẩn bị chết như thế nào? Bằng cách cầu nguyện Chúa Cha. Trong chiều hướng này, chữ "phải" mà Người dùng trong câu nói lúc bấy giờ có một ý nghĩa trọn vền. Không phải là một điều tất yếu, một sự cam chịu, một định mệnh…mà là một sự bằng lòng tự nguyện, tuân theo thánh ý của Chúa Cha đã được ghi chép trong Kinh Thánh.
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ' bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo".
Bản dịch "Đức Giêsu nói với đám đông" không chính xác lắm: Bản Hy Lạp thật ra đã viết: ' "Đức Giêsu nói với mọi người...". Luật của thập giá là một luật phổ quát.. Không ai thoát khỏi thập giá. Khi đã loan báo sự đau khổ của Người, Đức Giêsu loan báo cho chúng ta sự đau khổ của chúng ta, hôm nay.
Những lời này của Đức Giêsu khó mà chấp nhận. Để cho những lời ấy trội tuột đi như thể không liên quan gì đến chúng ta thì rất dễ dàng. Quả là đã có một sự thuyết giáo nào đó trong quá khứ về sự đau khổ đã quá cường điệu một thần bí thuyết về "hiến tế" mà người ta tìm thấy trong đời sống của một số thánh nhân: "Hãy đau khổ hết mức có thể, trong thung lũng nước mắt này... để xứng đáng với Thiên Đàng!" Nietzsche. đã bác bỏ quyết liệt sự thích thú hành khổ ấy. Tuy nhiên, không để mình rơi vào những sự thái quá ấy, chúng ta phải khám phá lại giá trị sâu xa của những lời Đức Giêsu mà Người ta không thể loại bỏ khỏi Phúc âm (những lời ấy được thuật lại đến sáu lần!). Những người nào chỉ nói với chúng ta về sự phát triển, chỉ kêu gọi chúng ta hưởng lạc thú là những kẻ nói dối, những con buôn các điều ảo tưởng, và là những kẻ tuyên truyền xấu xa cho tính ích kỷ tầm thường nhất: Không! Không có Người nào xứng danh con người, đã xây dựng một đời sống thành công mà không phải chịu một mức độ "hy sinh" to lớn. Ai không biết quên mình, sẽ không bao giờ biết yêu thương? Ai không biết hy sinh sẽ không biết yêu thương.
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Đây là một nghịch lý! Mỗi ngày, vâng, mỗi ngày, người ta có thể tự tìm kiếm chính mình hoặc quên mình, giữ mạng sống mình hoặc hiến dâng nó, không yêu thương hoặc yêu thương. Phải luôn luôn lựa chọn.
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ VÀ LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một mạc khải ăn sâu vào tâm tình cầu nguyện hiếu thảo của Đức Giêsu
Không có đoạn chuyển tiếp, từ cảnh hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông (Tin Mừng Chúa: TN 12-C46.
Không có đoạn chuyển tiếp, từ cảnh hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông (Tin Mừng Chúa nhật vừa qua), qua đó Đức Giêsu tỏ mình như một vị ngôn sứ của thời kỳ sau hết sang cảnh Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người lần thứ nhất.
Đức Giêsu đang cầu nguyện.
- Ghi chú câu này nói lên chủ ý của Luca muốn báo trước rằng: biến cố sắp được thuật lại là biến cố quan trọng. Thật vậy, ta đang ở vào bước ngoặt cuộc đời công khai của Đức Giêsu và hành trình đức tin của các môn đệ; thời kỳ bản lề giữa sứ vụ rao giảng ở Galilê đang kết thúc, và hành trình lên Giêrusalem (bài Tin Mừng Chúa nhật tới 9,51) sau biến cố Hiển Dung trên núi cao. Còn lại một mình với nhóm môn đệ, Đức Giêsu cầu nguyện chuẩn bị bước vào giai đoạn mới này.
- Ghi chú này cũng muốn nêu bật một điều là người ta chỉ có thể thực sự nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong mối tương quan của Người với Ngôi Cha, mối tương quan mà các môn đệ dường như "được móc" vào, theo cách diễn tả của Ph. Bossuyt và J. Rademakers (“Giêsu Lời ân sủng theo thánh Luca", tr. 263).
2. Một mạc khải về đường đi của Con Người...
Vấn đề căn tính của Đức Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời giảng và các hoạt động của người. Gioan Tẩy Giả từ trong ngục đã hỏi người, qua trung gian các môn đệ được sai đi: "Ngài có thật là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác?" (7, 19). "Ông này là ai mà lại tha được tội?" (7,49) những khách dự tiệc ở nhà ông Simon biệt phái đã kêu lên như vậy. Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy Người dẹp yên sóng gió: "Người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, là sóng gió phải tuân lệnh?" (8,25). Rồi chính vua Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan Tẩy Giả cũng phải suy nghĩ: "Người này là ai mà ta nghe nói nhiều về ông như thế. Và ông tìm cách gặp Người".
Câu hỏi này đôi khi đã được giải đáp. "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, là Thiên Chúa đã viếng thăm dân người!". Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa Naim được sống lại đã đồng thanh tung hô như thế. Một ít người khác nói: "Đó là Gioan Tẩy Giả từ cõi chết sống lại" có người khác lại bảo: "Đó là ông cha đã xuất hiện", cũng các người khác nói: "Đó là một trong có ngôn sứ thời xưa đã sống lại".
- Giờ đây Đức Giêsu tự ý đặt câu hỏi về chính thân thế của mình với các môn đệ. Câu hỏi này có 2 thì:
+ Trước hết Người lên tiếng hỏi "Dân chúng bảo Thầy là ai? Và như ta đã thấy các môn đệ kể ra nhttng ý kiến khác nhau, đồn thổi về thân thế của Người, như "Gioan tẩy Giả", “ngôn sứ Êlia" (vị ngôn sứ đến trước loan báo Đấng Mêsia), “một trong các ngôn sứ thời xưa nay sống lại".
+ Đức Giêsu hỏi tiếp ngay "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Như thế các môn đệ bị bắt buộc phải đưa ra ý kiến của mình.
Phêrô đáp: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Còn hơn Gioan Tẩy Giả, hơn cả Êlia hay một ngôn sứ nào thời xưa. Đức Giêsu là vị Thiên Sai của Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu, "Đấng Mêsia" (Mêsia tiếng ram dịch sang tiếng Hy Lạp là Kitô = Đấng được xức dầu).
"Đức Giêsu liền nghiêm giọng truyền các ông “không được nói điều ấy với ai". Không phải vì Người từ chối danh hiệu mà Phêrô vừa tặng cho Người. nhưng bởi vì sử dụng danh hiệu đó là quá sớm, vì danh hiệu Mêsia lúc ấy còn rất hàm hồ trong ý nghĩ của những người đồng hương và ngay cả các môn đệ Người. H. Cousin nhắc lại rằng: "Một với bản Pharisêu được soạn thảo 24 năm về trước, thánh vịnh vua Salomon 17 - miêu tả Đấng Mêsia xua đuổi người di cư và ngoại kiều ra khỏi đất Thánh để thanh tẩy mọi ô uế, và Người cai trị mọi dân nước trên hoàn cầu bắt đầu từ Giêrusalem" (“L'Evangile de Luc". Centurion, trg 133- 134).
Sẽ đến lúc khi thấy Thầy mình phải đi qua con đường thập giá, và trong ánh sáng phục sinh, thì các môn đệ mới thực sự hiểu được rằng Thầy mình được gọi là "Đấng Mêsia của Thiên Chúa" theo ý nghĩa nào. Không phải là Đấng Mêsia theo mơ ước phàm trần là áp đặt công cuộc khôi phục thời đại mới bằng dũng lực, nhưng là Đấng Mêsia khiêm tốn, hòa bình, mở đường cứu rỗi cho hết mọi người bằng đường lối phục vụ, cho đến độ hy sinh thân mình. Như thế Đức Giêsu tiếp nối việc tuyên xưa đức tin của Phêrô, bằng việc loan báo lần đầu tiên cuộc khổ nạn, sống lại của Người: "Con Người cần phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết cà ngày thứ ba sẽ chỗi dậy Khi nói "Con Người cần phải..." là Chúa dùng một kiểu nói bày tỏ sự tuân phục tự nguyện trước kế hoạch nhiệm mầu của Chúa Cha đã được nói trước trong Sách Thánh. - Kỳ mục, thượng tế, kinh sư là ba thành phần của Thượng Hội đồng.
3…. đó cũng là con đường của mọi môn đệ Chúa.
Cho đến đây là lời Chúa nói với các môn đệ. Còn bây giờ, Người ngỏ lời với "mọi người", H. Cousin chú giải, "Tất cả những ai sau này sẽ đón nhận lời Phúc âm. Họ cần phải biết rõ, việc đi theo Đức Kitô đòi hỏi những gì" (Sđd, tr. l34). "Mọi người" nếu muốn bước theo Người cũng sẽ phải liên kết với thân phận của Thầy mình. Người nói với họ: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình, các thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Những lời cứng rắn mạnh mẽ này đã không ngừng và còn không ngừng vang dội trong tâm hồn hàng ngàn hàng vạn người đã được Tin Mừng chinh phục. H. Cousin nhận xét: "chính Người vừa loan báo mình sẽ bị giết, lại là Người đặt điều kiện cho những ai muốn theo, phải di trên cùng một con đường Người đã đi, và phải là môn đệ của Người dù phải lấy cái chết để làm chứng nếu hoàn cảnh đòi buộc.
Tuy nhiên, điều trước tiên ta nên tìm kiêm trong ba mệnh lệnh trên là trung tín mỗi ngày trong đời sống người Kitô hữu
Hơn là những điều đặc biệt, phi thường (câu 23). Dứt khoát nói “không" với chính mình không có nghĩa là phải ghét mình, bởi lẽ ta phải yêu tha nhân như chinh mình (10, 27); nhưng chính là không quy hướng mọi sự về mình. Dứt khoát nói "không” đó cũng chính là hiện tại hóa việc vác thập giá. Chính thập giá của riêng tôi mà tôi phải vác lấy thập giá của cuộc sống đè nặng vai tôi; tôi đừng mơ tưởng một thập giá khác. Đó không phải là chứng bệnh tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, nhưng chính là vì biết chắc rằng tôi không thể mến Chúa và yêu tha nhân, nếu không hy sinh cách này hoặc cách nọ, và nếu không đi qua đau khổ. Khi bắt chước Đức Kitô như vậy, tôi mới thật là môn đệ của Người" (Sđd, trg 135).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đáp lại câu hỏi của Chúa bằng hành động, một câu hỏi luôn đặt cho ta.
(G. Bessiere. trong dieu si proche". DDB, trg 1l2-113).
Câu hỏi nổi lên từ giây phút Chúa cầu nguyện trong thinh lặng: Hôm đó "Chúa cầu nguyện một mình".
Đức Giêsu thường tìm nơi thanh vắng. Người mau mắn đến đó, người siêng năng đến đó để tìm gặp một Ai đó. Và chắc chắn cũng để bồi bổ sức lực để lại ra khơi. Câu hỏi Người đặt ra cho các môn đệ Người, sẽ tồn tại qua các thế kỷ. Nó sẽ đánh động hàng ngàn hàng vạn lương tri. Bao lâu trái đất còn tồn tại, câu hỏi đó vẫn luôn luôn rộng mở "Đám đông nói Thầy là ai?".
Đức Giêsu sẽ là nhân vật được yêu mến nhat trong lịch sử nhân loại. Người ta tuyên xưng tên Người khắp năm châu. Mọi cá nhân và tập thể đều ghi nhớ khuôn mặt của Người. Cả đến điện ảnh, ca nhạc, hoạt hình cũng nhắc lại hình ảnh bác thợ mộc thành Nadarét, vị ngôn sứ lữ hành, Đấng bị đóng đinh, Đấng phục sinh... Tuy nhiên, Người là ai đối với đám đông? Người là nhân vật mà người ta hân hoan mừng chúc rnà không hề mảy may quan tâm đến lời nói, và hành động của Người, là nhân vật mà người ta trông đợi mọi sự ở đời sau, mà không muốn phấn đấu để đổi mới thế giới hiện tại chăng? Là nhân vật mà người ta gọi tên nhưng không hề tìm hiểu con đường Người đã khai mở chăng?
Các bạn hữu Người sẽ trả lởi khi Người hỏi: "Còn các anh, các anh bảo thầy là ai?". Phêrô trả lời không ngần ngại: "Thầy là Đấng Mêsia của Thiên Chúa". Nghĩa là: là Đấng người ta trông đợi, là Đấng khôi phục Israel, là Đấng đại diện Thiên Chúa quyền năng. Câu trả lời này chưa làm Đức Giêsu thỏa mãn.
Người sẽ đưa ra câu trả lời của mình, dường như người ta hỏi ngược lại người. Nhưng Người sẽ không dùng một công thức một danh hiệu hoặc một chức vụ làm câu giải đáp. Người sẽ nói lên những nguy hiểm mà Người đã trải qua. Nói lên cái chết mang lại cả ý nghĩa cho cuộc đời Người và cả sự phục sinh của Người nữa.
Người đi về phía đám đông và la to: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Để cứu được mạng sống, Người đòi người ta phải liều mạng sống mình, phải hiến dâng mạng sống mình.
Ngày nay trong thế giới này dư dật là đói khổ, tiến bộ và thất vọng, khôn ngoan sáng suốt và vô tâm dửng dưng tất cả cùng chen vai sát cánh bên nhau, thì theo Đức Giêsu "thế nào đây? Làm sao để được giải thoát, rồi trở thành người giải phóng đây. Làm sao đáp lại bằng hành động cho câu hỏi Chúa luôn đặt cho ta đây?
2.. "Các anh bảo Thầy là ai?" Câu Chúa hỏi ta mỗi ngày
Chính vào lúc vừa tâm sự thân mật với Cha Người xong, Đức Giêsu khởi đầu một giai đoạn mới trong việc đào tạo các môn đệ là đám đông dân chúng. Lòng tin, những ước mơ và niềm hy vọng được an thân của họ sắp bị lung lay tất cả. Đúng là “cớ vấp phạm cho người Do Thái, điên dại đối với dân ngoại".
Sẽ cần phải từ từ dựng lên một cây thập giá trên hy vọng về một Đấng Mêssia toàn năng, được các tư tế hân hoan đón tiếp được các nhà thông thái thừa nhận, công khai ủng hộ và nâng đỡ được dân chúng tung hô đón rước và làm quân xâm lược Rôma sợ hãi, kính nể. Giờ đây. Đức Giêsu biết Ngài đi đâu. Trong thinh lặng cầu nguyện. Người đánh giá lại tình thế và lấy thánh ý Chúa Cha để sàng lọc tất cả. Người biết rằng mình sẽ không được những kẻ đang mong đợi, là những kẻ mà Ngươi được sai đến hiểu biết và đón nhận. Còn phải chuẩn bị cho các tông đồ, các môn đệ và những người có cảm tình biết để sẵn sàng chấp nhận thử thách đáng sợ này.
Tin Mừng của Đức Kitô không phù hợp với tham vọng và những giá trị trần tục, cũng không theo các lợi lộc, truyền thống là cách suy diễn của giới giàu có, thông thái là quyền thế, nên sẽ bị người ta nhân danh cả Thiên Chúa là chân lý mà tuyên bố là rối đạo. là nguy hại.
Các tông đồ và môn đệ đã tin chắc như đinh đóng cột rằng Đức Giêsu phải khải hoàn vào "thành đô" của Người cùng với vương miện hoàng tử trên đầu. Nhưng trong thành đô ấy sẽ chỉ có đồi Canvê và mão gai.
Thầy là Đấng Mêsia cua Thiên Chúa? Một lời tuyên tín tuyệt vời. Nhưng liệu nó có thể có giá trị gì nếu ta không bước theo Đấng giải phóng, không luôn sẵn sàng từ bỏ cái nhìn hẹp hòi, cách suy diễn phiến diện, và những xác tín quá trần lục của ta?
Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Đó là câu Chúa hỏi ta mỗi ngày. Đó là lời mời gọi khẩn thiết để ta thường xuyên rà soát lại những ý tưởng ta có về Đức Giêsu và so sánh cách xử sự của ta với cách xử sự của Người.
Đức Giêsu là ai trong sự liên hệ với chúng ta? . Chúng ta là ai trong sự liên hệ với Đức Giêsu?"” TN 12-C47
"Đức Giêsu là ai trong sự liên hệ với chúng ta? . Chúng ta là ai trong sự liên hệ với Đức Giêsu?"
Một cậu bé 15 tuổi và người cha đang lái xe ngang qua một phi trường nhỏ trong một tỉnh lẻ ở Ohio. Bỗng dưng có một chiếc máy bay bị trục trặc, bay xà mặt đất rồi xoay tròn và đâm đầu xuống phi đạo. Câu bé la lên, "Bố ơi, dừng xe lại!" Một vài phút sau cậu bé lôi người phi công ra khỏi máy bay. Đó là thanh niên 20 tuổi đang học lái máy bay, đang thực tập cất lên và đáp xuống. Thanh niên này đã chết trong tay cậu bé.
Khi về đến nhà, cậu đến ôm bà mẹ và khóc, "Mẹ ơi, anh ấy là bạn con! Hắn mới 20 tuổi!" Tối hôm đó, cậu quá bàng hoàng đến độ không muốn ăn. Cậu vào phòng, đóng cửa lại và nằm thừ trên giường. Cậu đang làm việc bán thời gian tại một tiệm thuốc. Mỗi đồng kiếm được cậu dành dụm để học lái máy bay. Cậu nhất định có được bằng lái khi 16 tuổi. Cha mẹ cậu tự hỏi không biết tai nạn thảm khốc ấy ảnh hưởng thế nào đến con trai của họ. Liệu nó có bỏ học lái không, hay vẫn tiếp tục? Họ để cho cậu tự quyết định.
Hai ngày sau, bà mẹ đem vào phòng cậu một ít bánh mới nướng. Trên mặt tủ quần áo bà thấy có cuốn nhật ký còn mở. Đó là cuốn nhật ký mà cậu đã gìn giữ từ khi còn nhỏ. Ngang qua đầu trang giấy có hàng chữ lớn, "Đặc Tính của Đức Giêsu." Bên dưới là một chuỗi các đức tính:
"Đức Giêsu thì không phạm tội; Người khiêm tốn; Người thương kẻ nghèo; Người không ích kỷ; Người gần với Thiên Chúa..."Bà mẹ thấy rằng trong những giây phút khó quyết định, cậu đã quay về với Đức Giêsu để xin sự hướng dẫn.
Sau đó bà quay sang cậu con trai và nói, "Con quyết định gì về việc học lái máy bay?" Cậu nhìn vào mắt mẹ và nói, "Mẹ ơi, con hy vọng là bố mẹ sẽ hiểu cho con, nhưng với sự trợ giúp của Thiên Chúa, con phải tiếp tục học bay."
Cậu trai đó bây giờ là ông Neil Armstrong. Và vào ngày 20-7-1969, ông là người đầu tiên đặt chân trên mặt trăng.
Rất ít người khi xem biến cố lịch sử đó trên truyền hình đã không biết rằng một trong những lý do giúp ông Neil Armstrong đặt chân lên mặt trăng là Đức Giêsu. Họ không biết rằng chính nhờ Đức Giêsu mà ông đã có được sức mạnh cũng như sự hướng dẫn để thi hành một quyết định quan trọng thời niên thiếu mà giờ đây giúp ông thành công đi trên mặt trăng.
Tôi thích câu truyện này vì nó trả lời cho câu hỏi của Đức Giêsu trong bài phúc âm hôm nay-"Các con nói Thầy là ai?"--trong một kiểu cách trả lời mà chúng ta ít thường được nghe. Cậu Neil Armstrong đã không trả lời câu hỏi ấy bằng cách nói với Đức Giêsu rằng, "Ngài là Con Thiên Chúa," hoặc "Ngài là Đấng Mêsia," hoặc "Ngài là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa." Cậu đã trả lời câu hỏi ấy một cách đơn giản hơn. Cậu nói: "Ngài là một người không phạm tội. Ngài là một người luôn nghĩ đến người khác. Ngài là người thường quan tâm. Ngài là một người gần với Thiên Chúa." Nói cách khác, với câu hỏi "Con nói Thầy là ai?" cậu Neil Armstrong không trả lời theo thần học. Cậu đã trả lời theo cảm nghĩ riêng tư. Cậu nhìn đến tâm hồn mình và diễn tả điều cậu cảm nghiệm được về Đức Giêsu trong cuộc đời mình.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như vậy. Chúng ta phải trả lời câu hỏi của Đức Giêsu-"Con nói Thầy là ai?"-bởi nhìn vào tâm hồn chúng ta và diễn tả cảm nghiệm sống động hằng ngày của chúng ta đối với Đức Giêsu. Và cảm nghiệm đó thật khác biệt với mỗi người chúng ta. Vì đối với một số người, Đức Giêsu là một người mà chúng ta có thể quay về để xin được dẫn dắt khi chúng ta hoang mang. Với những người khác, Đức Giêsu là người mà chúng ta có thể quay về để xin sức mạnh trong những lúc bị thử thách. Còn với những người khác nữa, Đức Giêsu là người hiểu chúng ta, ngay cả khi chúng ta không hiểu chính mình.
Và điều này đưa chúng ta đến phần thứ hai của bài phúc âm hôm nay. Nếu phần đầu của bài phúc âm là câu hỏi "Chúng ta cảm thấy Đức Giêsu như thế nào?" thì phần thứ hai đề ra câu hỏi "Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?"
"Nếu ai muốn đến với tôi, họ phải... vác thập giá hàng ngày và theo tôi."
Những lời này của Đức Giêsu thách đố chúng ta phải tự hỏi mình, "Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?
Ngài có cảm thấy chúng ta là các môn đệ của Ngài hay không?"Nói cách khác, chúng ta có vác thập giá hàng ngày của mình và theo Chúa không? Hay nói cách khác nữa-cách thực tế hơn-chúng ta có bắt chước Đức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày không?
Chúng ta có sống vì người khác như Đức Giêsu đã sống vì chúng ta hay không? - Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để tìm được sức mạnh khi họ bị thử thách hay không? - Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để được hướng dẫn khi họ hoang mang hay không? - Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để được giúp đỡ khi cần thiết hay không? - Chúng ta có phải là loại người như vậy đối với các phần tử trong chính gia đình của chúng ta hay không?
Nói tóm lại, bài phúc âm hôm nay đưa cho chúng ta hai câu hỏi quan trọng.
Câu thứ nhất là: Chúng ta cảm thấy Đức Giêsu như thế nào? Chúng ta có cảm được Người như Neil Armstrong cảm nghiệm: Người đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của chúng ta không? Hay Đức Giêsu chỉ là ai đó mà chúng ta chỉ nghĩ đến khoảng một giờ đồng hồ trong ngày Chúa Nhật và các ngày khác thì quên hết?
Câu hỏi thứ hai lại càng quan trọng hơn: Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?
Người có thấy chúng ta là các môn đệ của Người không? Hay Người chỉ thấy chúng ta hâm mộ Người mà thôi?- Chúng ta có phải là người bắt chước Đức Giêsu không? Hay chúng ta chỉ là người khâm phục Chúa mà thôi? Chúng ta có vác thập giá và theo Chúa hàng ngày không? Hay chúng ta chỉ ngồi bên vệ đường và hoan hô Người khi Người vác thập giá một mình?
Đây là hai câu hỏi quan trọng mà phúc âm đề ra cho mỗi người chúng ta hôm nay: Đức Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta? Chúng ta là ai trong cuộc đời Chúa Giêsu?
Không ai có thể trả lời câu hỏi này thay cho chúng ta. Chúng ta phải tự mình trả lời.
Hãy kết thúc với lời nguyện mà đã được sáng tác bởi một Kitô Hữu vô danh cách đây gần 1,500 năm.
"Lạy Chúa! Xin hãy là lửa sáng trước mặt con. Xin hãy là ngôi sao dẫn đường cho con. Xin hãy là con đường bằng phẳng dẫn đắt con. Xin hãy là mục tử nhân hậu theo con. Xin hãy là tất cả những điều ấy hôm nay-tối nay-và mãi mãi."
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay được qui về một chủ đề chính là ơn gọi sống theo Chúa, hay: TN 12-C48
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay được qui về một chủ đề chính là ơn gọi sống theo Chúa, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc Âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài, và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ.
Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn số mạng mà Ngài sẽ được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian thực hiện, đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: "Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá hàng ngày mà theo Ta". Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại. Và mỗi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi, Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài hữu hình, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phản bội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: "Các con không biết Thần Khí nào xúi giục, Con Người đến không phải để giết đi, nhưng để cứu chữa".
Chúa Giêsu sống và thực hiện với thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài. Trên thập giá Chúa Giêsu đã thực hiện điều này: "Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Với người trộm ăn năn, Chúa phán: "Hôm nay, con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta". Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người. Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi. Đối với những kẻ chấp nhận theo Chúa: "Thầy đi đâu, tôi sẽ theo Thầy" thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ.
"Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu". Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay hay chết khô, bị bỏ cuộc, chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa. Thánh giáo phụ Ignatio khi bị điệu ra trước mặt quan tòa, yêu cầu ngài từ chối đức tin, không chấp nhận mình là vị Kitô đồ đệ của Chúa nữa, để được sống, thì thánh giáo phụ Ignatio đã mạnh mẽ trả lời cho quan tòa rằng: "Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài", và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói những lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa". Quan tòa không chịu nỗi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: "Nếu ông không ngừng những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay". Thánh giáo phụ Ignatio bình tĩnh trả lời: "Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi, nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập, thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu thương Chúa".
Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà của Thánh Thần của tình yêu Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thực sự cho mỗi người qua bí tích rửa tội, bí tích thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua bí tích Thánh Thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.
Nơi bài đọc thứ hai của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần, hãy lấy tình yêu của Chúa Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ những tội lỗi, nhờ tình yêu của Thánh Thần mà chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Gongôtha, và phục vụ anh chị em.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: "Lạy Chúa, con yêu mến Chúa".
Đọc các sách Tin Mừng, nhiều lần ta thấy được điều này là sau khi Chúa Giêsu làm phép la: TN 12-C49
Đọc các sách Tin Mừng, nhiều lần ta thấy được điều này là sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ thì thường khi Chúa cấm không cho người ta nói về phép lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Vì sao thế? Có phải Chúa sợ người ta sẽ ùn ùn kéo đến xin Chúa làm phép lạ? Có phải Chúa sợ người ta tin vào Chúa hay còn một điều gì khác mà Chúa cần phải từ từ tỏ lộ? Các bài đọc Chúa nhật hôm nay ta sẽ thấy được đâu là sứ mạng của Đấng Cứu Thế mà Chúa Giêsu đang đảm nhận, một Đấng Cứu Thế thể hiện tình yêu của Thiên Chúa qua con đường tự hạ, con đường thương khó không như Vì Cứu Thế theo suy nghĩ của bao người Do Thái.
Bài Tin mừng theo thánh Luca (Lc 9, 18- 24) được Giáo hội cho chúng ta đọc hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem người ta nhận Ngài là ai cũng như Ngài muốn các môn đệ nhận Ngài là ai sau khi đã có một thời gian dài cùng các môn đệ bôn ba đi rao giảng. Dân chúng thì mỗi người mỗi khác, có người cho rằng Ngài là ngôn sứ Elia, có người cho rằng Ngài là Giêrêmia hay một ngôn sứ nào đó. Tuy nhiên Chúa Giêsu muốn các môn đệ nói lên ý kiến của mình xem họ nhận Ngài là ai? Phêrô trả lời thay cho toàn thể môn đệ “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đến đây, thánh Luca ghi rất rõ là “nhưng Chúa Giêsu nghiêm giọng truyền cho các ông không được nói điều ấy với ai và Ngài tiên báo Ngài sẽ bị loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Phải chăng Chúa Giêsu cấm các môn đệ nói ra điều đó vì Ngài không phải là Đấng Kitô. Tại sao được các môn đệ nhìn nhận đúng với thực tế như vậy mà Chúa Giêsu lại cấm. Muốn hiểu điều này ta hãy giở lại bài đọc một sách tiên tri Dacaria, tiên tri Dacaria tiên báo Vị Cứu Thế được Thiên Chúa ban cho nhân loại là Vị Cứu Thế bị giết chết, bị đâm thâu. Như thế Chúa Giêsu không muốn cho các môn đệ loan báo sứ mạng của Ngài là vì quan niệm của dân chúng khi đó chưa thể đón nhận được Đấng Cứu Thế chịu đau khổ. Ngay cả Phêrô còn không chịu nổi đã cản lối Thầy khi Chúa Giêsu loan báo Một Đấng Cứu Thế chịu đau khổ. Theo người Do Thái Đấng Cứu Thế phải là một Đấng giải phóng, một đấng uy hùng mạnh mẽ đứng lên tập họp dân chúng đánh trả quân Rôma đang đô hộ đất nước họ và cũng sẽ là đấng thôn tính muôn dân tộc trên trái đất. Trong bài Tin mừng hôm nay ta thấy rõ sau khi không muốn cho các môn đệ nói về Đấng Mêsia thì ngay lúc ấy Chúa Giêsu tiên báo cuộc thương khó. Đấng Cứu Thế thật là Đấng Cứu Thế giải phóng con người khỏi tội lỗi, khỏi sự chết giải phóng con người khỏi những gì còn lớn lao hơn nhiều so với tư tưởng của người Do Thái có được.
Mỗi người chúng ta hôm nay, chúng ta nhận được ơn cứu độ nơi Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Chúng ta tin chắc rằng Ngài là Đấng Cứu Thế của chúng ta, Ngài đã mở đường để chúng ta theo Ngài mà chiến thắng. Con đường Ngài đi là con đường hy sinh tự hạ. Để theo được Ngài hãy nghe lời Ngài mời gọi “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Nghe lời Thầy Chí Thánh mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy thực hiện việc bỏ mình. Bỏ mình là một việc thật là khó đối với hay tự cao tự đại như chúng ta, bỏ mình đòi hỏi phải quên bản thân mình, không còn coi mình là trung tâm, là nhất nữa. Thay vào đó là cố gắng thực hiện ý Chúa trong đời sống của mình. Vác thập giá mình, bỏ mình thôi thì chưa đủ nhưng còn phải thực hiện ý Chúa là vác thập giá mình, là đón nhận những khó khăn khốn khó của bản thân mình. Đón nhận tất cả với một lòng tin tưởng sâu xa. Chúa có cách của Chúa để dẫn đưa con cái Chúa theo Chúa. Hãy phó thác cho Chúa cho dù trong cuộc đời chúng ta có những lúc như mờ tối, như vắng bóng Thiên Chúa. Hãy tin rằng Chúa luôn luôn bên ta, nâng đỡ ta mọi nơi mọi lúc.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng hơn về Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ của chúng ta. Ngài không phải là một Thiên Chúa vô cảm, xa vời nhưng là Thiên Chúa gần gũi, yêu thương đã gánh vác những đau khổ của chúng ta, đã chia sẻ những nỗi đau khổ mà con người phải gánh chịu vì nguyên tội, Ngài đem tất cả đóng vào Thập giá để từ đây những ai muốn theo Ngài cũng phải biết qua con đường Thập giá thì cũng sẽ được chiến thắng như Ngài.
Sau một thời gian thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó, nhất là sau phép lạ hoá bánh ra nhiều: TN 12-C50
Sau một thời gian thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó, nhất là sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, bấy giờ trong bầu khí ấm áp Chúa Giêsu muốn biết cảm nhận của dân chúng về mình. Người hỏi các ông: “Dân chúng nói Thầy là ai?". Đồng thời, Người cũng muốn biết các Tông đồ cho mình là ai. “Người lại hỏi: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Cùng một câu hỏi nhưng đã có nhiều cảm nhận khác nhau. Các ông thưa: Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại…. Còn ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”.
Thánh Phêrô đã nói lên bản tính thật của Chúa Giêsu. Vì yêu thương, mà Thiên Chúa đã ban chính Con Một mình xuống thế làm người trong thân phận thấp hèn để chịu khổ hình thập giá hầu cứu chuộc chúng ta. Có thể có những lúc chúng ta cảm thấy khó chịu hay mặc cảm vì Chúa của mình. Người có dư khả năng dùng quyền lực để thực hiện chương trình cứu độ chứ. Để rồi Đấng chúng ta tôn thờ phải là một Đấng oai quyền. Đằng này chúng ta lại tôn thờ một Đấng chịu đóng đinh một cách tủi nhục trên cây thập giá.
Có một câu chuyện kể rằng: “Ngày nọ, một cậu bé mời mẹ tham dự buổi họp phụ huynh đầu tiên ở trường tiểu học. Điều cậu bé sợ đã thành sự thật, mẹ cậu bé nhận lời. Đây là lần đầu tiên bạn bè và giáo viên chủ nhiệm gặp mẹ cậu bé và cậu rất xấu hổ về vẻ bề ngoài của mẹ mình. Mặc dù cũng là một người phụ nữ đẹp, có một vết sẹo lớn che gần toàn bộ mặt bên phải của cô. Cậu bé không bao giờ muốn hỏi mẹ mình tại sao bị vết sẹo lớn vậy.
Vào buổi họp mặt, mọi người có ấn tượng rất đẹp về sự dịu dàng và vẻ đẹp tự nhiên của người mẹ mặc cho vết sẹo đập vào mắt, nhưng cậu bé vẫn xấu hổ và giấu mình vào một góc tránh mặt mọi người. Ở đó, cậu bé nghe được mẹ mình nói chuyện với cô giáo. "Làm sao chị bị vết sẹo như vậy trên mặt?" Cô giáo của cậu hỏi. Người mẹ trả lời, "Khi con tôi còn bé, nó đang ở trong phòng thì lửa bốc lên. Mọi người đều sợ không dám vào vì ngọn lửa đã bốc lên quá cao, và thế là tôi chạy vào. Khi tôi chạy đến chỗ nó, tôi thấy một xà nhà đang rơi xuống người nó và tôi vội vàng lấy mình che cho nó. Tôi bị trúng ngất xỉu nhưng thật là may mắn là có một anh lính cứu hỏa đã vào và cứu cả hai mẹ con tôi." Người mẹ chạm vào vết sẹo nhăn nhúm trên mặt. "Vết sẹo này không chữa được nữa, nhưng cho tới ngày hôm nay, tôi chưa hề hối tiếc về điều mình đã làm. "Đến đây, cậu bé chạy ra khỏi chỗ nấp của mình về phía mẹ, nước mắt lưng tròng. Cậu bé ôm lấy mẹ mình và cảm nhận được sự hy sinh của mẹ dành cho mình. Cậu bé nắm chặt tay mẹ suốt cả ngày hôm đó.
Tấm lòng của người mẹ này phải chăng phần nào diễn tả chính tấm lòng của Chúa Giêsu dành cho con người chúng ta. Vậy chúng ta hãy chân thành cảm tạ Chúa Giêsu. Chúng ta hãy sống trong tâm tình biết ơn Người bằng cách thực hiện những lời Người dạy. Đó là điều làm đẹp lòng Chúa nhất.