Câu truyện kể ở đây là đặc biệt của thánh Luca. Không được lẫn câu truyện thánh Luca kể đây với: TN 11-C51
Câu truyện kể ở đây là đặc biệt của thánh Luca
Không được lẫn câu truyện thánh Luca kể đây với một việc xức dầu ở nhà ông Simon tật phong kể trong Matthêu 26,6-13 và Marcô 14,3-9 và Ga 12,1-8
Cũng không nên lẫn người tội lỗi này với bà Maria quê ở Bêtania, ông Simon mời Chúa đến dự tiệc. Simon là một tên rất thông thường của người Do Thái. Ông không phải là bạn thân Chúa; ông không dành cho Chúa sự tôn kính thường lệ (c.44tt).
Ông mời Chúa vì tò mò muốn có một quan niệm về một nhân vật đã được thiên hạ đồn đãi rất nhiều.
Không thấy nói rõ việc xẩy ra ở đâu: Capharnaum, hay Giêrusalem? Tên người đàn bà cũng không được nêu lên. Chỉ biết là một người đời sống đã gây tai tiếng. Chắc cũng không phải là kỹ nữ buôn son bán phấn, vì gái như thế không vào nhà người Biệt phái được.
Nghe biết Chúa, biết lòng nhân hậu của Chúa, bà hối tiếc đời sống, cương quyết đến với Ngài để được tha thứ.
Bà vào trong phòng tiệc, những người dự tiệc nằm trên những đi-văng, chân thò ra ngoài. Đến chỗ Chúa nằm, không thấy Chúa đuổi, bà phần vui mừng, phần đau đớn vì tội lỗi, nước mắt tuôn rơi trên chân Chúa, rồi bà lấy tóc dài của bà lau đi. Sau đó bà hôn chân Chúa. Sau cùng bà đập bể một bình thuốc thơm quý giá đổ trên chân Chúa. Bà nghĩ không xứng đáng đổ trên đầu. Bà không nói câu nào, nhưng cử chỉ đã nói tất cả.
Chúa tỏ ra như chấp nhận việc đó, vì thế ông chủ nhà nghĩ rằng Chúa Giêsu không phải là vị tiên tri: vì nếu Ngài là tiên tri, thì âu là đã biết lòng người (1V 14,6; 2V 1,3; 5,24tt)
Đây ông chủ nhà không hồ nghi về sự thánh thiện của Chúa, mà nghi ngờ về sự biết rõ lòng con người. Vì thế, Chúa Giêsu cho ông thấy rằng, Ngài thấu suốt ý nghĩ của ông, dầu rất thầm kín.
Chúa Giêsu kể một dụ ngôn vắn tắt để dạy ông chủ nhà một bài học. Kể dụ ngôn rồi Chúa lại đưa ra một kết luận ngược với cái ý nghĩ của người ta. Vì thế các nhà chú giải không đồng ý kiến với nhau về cách cắt nghĩa.
Đại khái dụ ngôn: Hai con nợ, một người nợ chủ 500 đồng, một người nợ 50. Chủ tha cho cả hai. Vậy người nào sẽ yêu chủ nợ hơn? Ông Simon thưa: kẻ được tha nhiều. Chúa nhận câu trả lời đúng.
Vậy áp dụng vào trường hợp bà tội lỗi này, lẽ ra Chúa phải kết luận “Tội bà rất nhiều đã được tha nếu bà đã được yêu mến nhiều”. Những cử chỉ yêu mến tôn trọng rất nhiều của bà từ khi bước vào nhà là vì bà đã được tha nhiều. Nhưng đây Chúa lại tuyên bố: “Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi vì bà đã yêu mến nhiều”. Theo lời tuyên bố của Chúa: tình yêu của tội nhân thay vì là hiệu quả thì lại là nguyên nhân sự tha thứ.
Kết luận như thế để làm bài học rất quan trọng cho Simon cũng như cho các người dự tiệc. Chúa tha tội không phải không đòi hỏi một tâm tình nội tâm của tội nhân. Để được tha thứ, tội nhân phải thống hối trước đã.
Bài học khác: Ông Simon biệt phái cũng như nhóm biệt phái của ông hay tự phụ khinh chê tội nhân. Chúa cho ông biết rằng: ông nhầm, tất cả mọi việc người đàn bà này làm đều chứng thực lòng quý mến thực sự của bà. Chúa đã cảm thấy và cho ông Simon cảm thấy như thế.
Ông biệt phái này coi món nợ của mình nhẹ. Ông đặt tin tưởng ở sự đạo đức của ông hơn là tin ở lòng thương xót Chúa. Sự tự mãn đó không để chỗ cho lòng yêu mến Chúa. Yêu ít nên được tha ít.
Sau khi đã cho Simon một bài học, Chúa quay ra nói với người đàn bà tội lỗi: “Tội con đã được tha rồi”. Những người ở đó ngạc nhiên; nhưng Chúa nhấn mạnh thêm bằng một nguyên tắc mới Chúa đưa ra: “Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an”.
Người đàn bà tội lỗi này là ai?
Từ đời thánh Grêgôriô Cả (+604) một số tác giả Tây phương hay đồng nhất hóa người đàn bà tội lỗi này với bà Maria Madalêna và bà Maria quê ở Bêtania. Theo sự nghiên cứu rất kỹ lưỡng của linh mục Holzmeister thì sự đồng nhất hóa đó không dựa trên một truyền thống nào vững chắc, Đông cũng như Tây.
Có phải bà là Maria quê Bêtania, chị ông Lagiarô, em bà thánh Matta chăng? Người ta đã lẫn hai người này vì câu truyện thánh Gioan kể ở 12,1tt. Nhưng không được lẫn. Bà Maria xức thuốc thơm Đức Giêsu ở Bêtania trước ngày Người chịu đau khổ. Đây sự việc xẩy ra ở Galilê, vào đầu đời giảng giáo của Chúa. Đàng khác, chị ông Lagiarô chưa bao giờ thấy kể là một tội nhân.
Tinh thần hai cảnh khác hẳn nhau. Trong thánh Luca tinh thần thống hối đứng đầu. Còn trong thánh Gioan chính là sự báo trước việc chịu đau khổ.
Có phải bà là Maria Madalêna chăng?
Có người dựa vào Luca 8,2 mà cho rằng người đàn bà tội lỗi đây là Maria Madalêna, vì bà này đã được Chúa trừ 7 quỷ. Nói Chúa trừ 7 quỷ mà không nói là người tội lỗi. Vì thế không có đủ lý để đồng nhất hóa hai người. Vả chăng tiếp sau câu truyện này, thánh Luca nêu lên tên bà Maria Madalêna như là một nhân vật mới.
Vậy câu hỏi: người đàn bà tội lỗi này là ai, vẫn chưa có câu trả lời. Nhưng mà không nên đồng hóa vô căn cứ.
Những người phụ nữ theo giúp Chúa (8,1-3)
Một số phụ nữ tỏ lòng biết ơn Chúa đã chữa cho khỏi bệnh, khỏi quỷ ám; đi theo giúp Chúa và ủng hộ Chúa bằng tiền bạc.
Đây không phải là những người trước kia tội lỗi trở lại, nhưng là những người đau ốm, hoặc bị quỷ ám được chữa khỏi. Trong số có bà Gioanna vợ của ông Chouza, quản lý của vua Hêrôđê Antipas. Ta phải đoán rằng gia đình này khá giả. Bà Suzanna, ta chỉ biết tên mà không biết gì hơn về bà. Bà Maria quê thành Magdala, Chúa đã xua đuổi 7 quỷ. Số 7 đây chỉ có nghĩa là tình trạng đau khổ thực sự và nặng nề. Ngoài ra theo thánh Marcô và thánh Matthêu còn có một số bà khác nữa, thí dụ bà Maria mẹ ông Giacôbê, và ông Giuse; bà Salomê mẹ hai con ông Dêbêđê.
Các bà theo giúp Chúa và các Tông đồ. Người đời bấy giờ không ai ngạc nhiên vì sự giúp đỡ này. Theo thánh Jêrôme: “Đó là thói quen người Do Thái và cũng phù hợp với cựu tục của dân tộc”.
II. ÁP DỤNG THỰC HÀNH
Nhìn bên ngoài
Chỉ nhìn bên ngoài sự vật: ông Simon, nhà biệt phái mời Chúa Giêsu ăn. Chúa Giêsu vào bàn tiệc với một số khách được mời. Một người đàn bà có tiếng là tội lỗi, nhân cơ hội cũng bước vào, theo tục Đông phương, cửa không đóng.
Bà ta đã đối xử với Chúa rất tốt, khóc lóc tràn trề, nước mắt chảy đầy chân Chúa, bà ta lấy tóc lau, rồi hôn đi hôn lại chân Chúa; sau cùng lại đập bể bình thuốc thơm đổ trên chân Chúa.
Ba nhân vật được làm nổi bật: Simon, người đàn bà tội lỗi và Chúa Giêsu.
Xét đoán theo bên ngoài, Simon đã nhìn mọi cái dưới khía cạnh xấu và theo hình thức bên ngoài. Xem ra ông có lý. Ông chủ nhà không vấp phạm vì bà này là phụ nữ trắc nết, mà chỉ vấp phạm vì xét đoán Chúa không phải là vị tiên tri như thiên hạ đồn. Nếu Ngài là tiên tri ắt Ngài phải biết người đàn bà đó đáng khinh bỉ, một tội nhân ai cũng biết.
Nhưng điều mà ông Simon không biết là bà này là một tội nhân đã được tha. Người đàn bà đó biết và Đức Giêsu đã làm cho bà hiểu điều đó mà không cần nói ra.
Simon xét đoán một cách khắt khe người phụ nữ này và Chúa Giêsu; cho bà là một đĩ tõa và cho Chúa không phải là tiên tri. Trái lại, ông cho mình là người tốt, đáng kính, quảng đại, lịch sự.
Sự thật bên trong
Người đàn bà tội lỗi đã được tha hết tội. Những cử chỉ bên ngoài chứng tỏ lòng yêu mến của bà đối với Chúa nhiều, nên đã được tha nhiều và sự thực Chúa đã tuyên bố bà được tha mọi tội lỗi dù nhiều đến đâu. Còn ông Simon bị khiển trách là đã quá sơ sài trong những xã giao rất thường đối với Chúa. Hơn nữa, ông chỉ để trí xét nét những cái nhỏ nhặt bên ngoài. Điều đó tỏ ra ông ít lòng yêu mến đối với Chúa, nên Chúa tuyên bố: “Kẻ được tha ít thì yêu mến ít”.
Giáo huấn của Công Đồng Vatican II
Lương tâm con người là tấm gương trong sáng phản ảnh sự thánh thiện của Thiên Chúa. Nhưng lương tâm đó bị tội lỗi làm lu mờ đi trước sự kêu mời vươn lên của Thiên Chúa. Chúa Kitô đến để giải thoát lương tâm khỏi nô lệ tội lỗi. Ta hãy đọc lại tư tưởng của Công Đồng Vatican II: “Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy làm điều này, hãy tránh điều kia. Quả thật con người có lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy nữa. Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em, và được biểu lộ cách kỳ diệu. Trung thành với lương tâm, người Kitô giáo liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong giao tiếp xã hội. Bởi vậy lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá nhân và cộng đoàn càng tránh được độc đoán mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Tuy nhiên, lương tâm nhiều khi lầm lạc vì vô tri bất khả thắng, nhưng cũng không vì thế mà mất hết phẩm giá. Nhưng không thể nói như vậy khi con người ít lo lắng tìm kiếm điều chân và điều thiện cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng…”.
Chúng ta thường thấy những nghi thức đón chào khách quốc tế rất long trọng, có lúc rất sơ sài, tùy: TN 11-C52
Chúng ta thường thấy những nghi thức đón chào khách quốc tế rất long trọng, có lúc rất sơ sài, tùy theo vị khách nào được yêu mến, quý trọng nhiều hay ít.
Hôm nay ông Simon mở tiệc đãi khách, có mời Đức Giêsu nữa, tuy ông là người thuộc phái Pharisiêu, nhưng có lẽ ông cũng có ít nhiều thiện cảm với Người. Còn hầu hết các người Pharisiêu đều không ưa Người, có kẻ còn chống đối Đức Giêsu mạnh mẽ nữa. Ông Simon đón tiếp Người cũng sơ sài, không theo nghi thức đón tiếp đàng hoàng: Không có nước rửa chân tay, không hôn chào, không xức dầu thơm, theo như tục lệ. Trong khi đó có một phụ nữ nổi tiếng tội lỗi, đột nhiên đến lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc lau chân và xức dầu chân Người để tỏ lòng tôn trọng yêu mến Người rất cuồng nhiệt.
Trước hai cảnh tiếp đón Chúa như vậy, gợi cho chúng ta mấy suy nghĩ:
1) Lối đánh giá của Đức Giêsu: Người đánh giá ta theo lòng yêu mến, chứ không theo tội lỗi. Dù tội nặng nề tầy trời đến đâu, Người cũng không kể, không kết án. Người chỉ xét theo lòng mến Chúa và yêu người của ta thôi. Càng có lòng mến nhiều, càng được tha thứ nhiều, càng được đánh giá cao. Kẻ khô khan thờ ơ, nguội lạnh, dù có giữ trọn các giới răn cũng bị Người coi là kẻ giả hình như Pharisiêu. Họ giữ luật lệ rất kỹ, rất khắt khe, nhưng lòng họ xa Thiên Chúa. Họ đã bị Người vạch mặt: “Quân này mến Ta ngoài môi ngoài miệng mà lòng thì xa Ta... Họ như mồ mả sơn phết cho đẹp, mà trong đầy hôi thối”. Thánh Phaolô, trước thuộc phái Pharisiêu, khi trở lại với Chúa, đã biết rõ lối sống nào là có giá trị, nên Ngài đã viết: “Con người được công chính hóa không phải do các việc làm như luật dậy, nhưng chỉ nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô” (Gal. 2, 16) Lòng tin do lòng mến mà ra.
2- Lối đánh giá của Pharisiêu: Lối nhìn tha nhân của Đức Giêsu khác với lối nhìn của Pharisiêu và của chúng ta. Pharisiêu và chúng ta thường nhìn người khác theo lý lịch quá khứ. Họ nhìn người phụ nữ theo lý lịch tội lỗi: Một nàng chơi, sống ngoài đường phố xấu nết, ô nhục, không được phép động đến ai, để hạng phụ nữ này đụng đến sẽ làm nhơ nhớp, đáng khinh bỉ. Họ cũng nhìn Đức Giêsu bằng con mắt xấu: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi”. Như vậy, khi ông Simon mời Đức Giêsu, ông mong được vinh dự đón một ngôn sứ của Thiên Chúa, thôi bây giờ hết vinh dự rồi. Ông còn sợ bạn hữu chê cười, vì đã mời một người đụng chạm với phụ nữ tội lỗi. Có lẽ ông rất buồn và hổ then! Thấy vậy, Đức Giêsu vừa tháo gỡ tâm trạng hổ thẹn của ông, vừa khen người phụ nữ can đảm đã hạ mình xuống trước mặt hạng người Pharisiêu có tiếng là đạo đức và khắt khe với kẻ tội lỗi. Qua ví dụ hai con nợ, con nợ được tha nhiều thì yêu chủ nhiều, con nợ được tha ít thì mến ít, Đức Giêsu đã cho phái Pharisiêu biết người phụ nữ này được tha nhiều nên mến Chúa rất mãnh liệt, còn các ông cậy mình vô tội, nên các ông còn ít mến Chúa lắm. Vậy lối nhìn của Đức Giêsu đối với phụ nữ tội lỗi theo tâm tình đổi mới: Một tâm tình sám hối cải thiện, một tâm tình khiêm tốn hạ mình xuống như nô lệ, lấy nước mắt và tóc lau chân, hôn chân, xức dầu chân Người, tôn vinh Người là chủ, là Chúa của mình trước mặt mọi người.
Chị đã hạ mình xuống và đã được nâng lên hàng các thánh. Còn Pharisiêu và chúng ta cứ nâng mình lên, trách cứ và đấm ngực người khác, moi móc cái rác trong mắt người khác, không lo lấy cái xà trong mắt mình ra, không chịu đấm ngực mình ăn năn, thì sẽ bị hạ xuống vực thẳm đời đời.
3) Cách dự tiệc Thánh: Người Do Thái mời khách, đón khách theo nghi thức có chất văn hoá rất đẹp: bưng nước rửa tay chân sạch sẽ, mát mẻ, hôn chào niềm nở thân ái, xức dầu thơm trên đầu vừa cho dễ chịu thoải mái, vừa có ý tôn vinh khách như ông hoàng. Những cách cư xử văn hóa đó rất đáng cảm phục.
Khi chúng ta đến dự tiệc Thánh, chúng ta có phong độ văn hóa nào đẹp chăng?
Đối với Chúa, tấm lòng đẹp nhất là khiêm tốn và hạ mình xuống ăn năn mọi lỗi lầm và hết lòng khát khao yêu mến rước Chúa vào nhà linh hồn.
Đối với cộng đoàn, chúng ta nên giữ đúng giờ kinh lễ, đến trước một chút để chuẩn bị tâm hồn là hay nhất, đừng vô tâm đến trễ gây cảnh hỗn độn mất trật tự. Ai đến trước ngồi trước, nhường chỗ cho người đến sau, người đến sau phải đi qua đi lại trước mặt, rất khó coi và gây chia trí. Đồng thời biết tham gia với cộng đồng cùng thưa đáp lời kinh tiếng hát, biểu lộ sự hiệp thông, hiệp nhất. Chúng ta cũng luôn giữ hết sức nghiêm trang, cung kính, nhân nhượng và ăn mặc đứng đắn để tôn trọng nơi thánh. Nhất là tránh hết sức những tiếng động, ồn ào, ho ngáp, thở dài, hôi miệng, hơi rượu, hơi thuốc làm người khác rất khó chịu và sợ mất vệ sinh.
Sự tha thứ mà Đức Giêsu ban cho không phải là một thái độ ban ơn, Người không hạ thấp người: TN 11-C53
Sự tha thứ mà Đức Giêsu ban cho không phải là một thái độ ban ơn, Người không hạ thấp người tội lỗi được thứ tha, nhưng Người làm nẩy sinh trong người ấy một tình thương mà người ấy không biết.
Khi để cho người đàn bà tội lỗi đến gần và đụng chạm. Đức Giêsu mắc một sự ô uế theo lề luật, điều mà Người có thể tránh, nếu Người là ngôn sứ, Simon nghĩ vậy.
Vì thế, trước hết, Đức Giêsu nói với Simon: sự trìu mến mà người đàn bà tỏ bày là dấu chỉ Thiên Chúa đã tha thứ nhiều cho bà.
Còn ông, hỡi Simon, ông tỏ ra không tế nhị, ông ít để ý đến người ông mời, phải chăng ông thiếu kinh nghiệm của ơn tha thứ giải thoát của Thiên Chúa?
Đoạn Người ngỏ lời với người đàn bà để loan báo cho bà biết bà đã được Người tha thứ, bởi vì bà đã yêu mến nhiều, và tình yêu của bà đã chuộc các tội lỗi của bà.
Bởi vậy tình yêu vừa là hậu quả vừa là nguyên nhân, ít ra là điều kiện cần thiết để được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Nhưng Đấng gợi lên tình yêu trong lòng người đàn bà tội lỗi và đồng thời tha thứ cho bà, chứng tỏ Đấng ấy lớn hơn một ngôn sứ: Người này là ai?
Chính Giáo Hội, cộng đồng của những đàn ông đàn bà đã được Đức Giêsu giải thoát, phải nói lên điều đó.
Người này là ai mà khi đến gần Người làm nẩy sinh một tình yêu như thế trong tâm hồn những người tội lỗi khi họ khám phá ra được thứ tha!
Chính chúng ta là những người tội lỗi được thứ tha. Hãy nói lên câu trả lời.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,
với Tông Đồ Phaolô, chúng con tin rằng chúng con được cứu chuộc nhờ lòng tin vào Con Chúa, Đấng đã yêu mến chúng con và đã hiến mình vì chúng con.
Không ai được trở nên công chính trước mặt Chúa nhờ công trạng của riêng mình.
Chính nhờ ơn Chúa, mà chúng con nên con cái Chúa. Chúng con sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong chúng con, nhờ Thần Khí đã được đổ tràn trong tâm hồn chúng con.
Chớ gì sự hiện diện này trong chúng con mạnh hơn tư tưởng ám ảnh tội lỗi của chúng con.
Xin Chúa làm cho chúng con chỗi dậy và ban cho chúng con sự bình an.
Bài Tin Mừng kể cho chúng ta một câu chuyện rất cảm động: Đức Giêsu và người phụ nữ tội lỗi: TN 11-C54:
Bài Tin Mừng kể cho chúng ta một câu chuyện rất cảm động: Đức Giêsu và người phụ nữ tội lỗi.
“Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn” ( c. 36 ). Trong Tin Mừng theo Thánh Luca, đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu được một người Pharisêu mời dùng cơm. Thực ra, việc mời cơm một vị thầy là điều bình thường, nhất là khi vị thầy đó vừa giảng dạy trong hội đường của làng vào ngày hưu lễ. Ấy là chưa kể sự trọng thị mà một số người Pharisêu dành cho Đức Giêsu ( ví dụ khi họ coi ngài là một ngôn sứ như câu 39 cho thấy ).
Tuy nhiên, trong câu chuyện của chúng ta hôm nay, bữa ăn này trước hết không nhằm cho thấy tình bạn của Đức Giêsu với người Pharisêu, nhưng là một sự kiện có vai trò văn chương, tạo nên một khung cảnh cho cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và một người Pharisêu, qua đó, đề cập đến những chủ đề vốn được coi là quan trọng trong giáo thuyết của những người Pharisêu.
“Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm” ( c. 37 ). Tác giả Luca không xác định rõ ràng về người phụ nữ tội lỗi, chỉ cho biết rằng chị ta là một người tội lỗi “có tiếng” trong thành. Sẽ là vô ích việc xác định xem chị đã phạm tội gì, vì tác giả Tin Mừng đã cố ý không nêu rõ, mà chỉ muốn đề cập đến chị ta như một hình ảnh của những con người tội lỗi được hưởng ơn tha thứ.
Không hiểu làm thế nào một người phụ nữ tội lỗi có tiếng như thế mà lại có thể đi vào nhà người Pharisêu khi ông đang tiếp Đức Giêsu. Nhưng rõ ràng sự xuất hiện của chị đã tạo nên một khung cảnh quan trọng để cuộc tranh luận của Đức Giêsu với người Pharisêu được thực hiện.
Khi đã vào nhà, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm, người phụ nữ “đứng đằng sau, sát chân Đức Giêsu mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên” ( c. 38 ). Thánh Luca đã miêu tả thật sinh động chuỗi hành động của người phụ nữ tội lỗi. Tất cả những hành động đó cho thấy thái độ căn bản của người phụ nữ này là lòng biết ơn, niềm vui và tình yêu vô bờ của chị đối với Đức Giêsu.
Trong thực tế, chỉ nguyên việc người phụ nữ xõa tóc trước mặt những người đàn ông đã có thể là nguyên cớ để người đó bị người chồng từ rẫy, theo một số bản văn của các rabbi mà người ta còn lưu giữ được. Rõ ràng những hành động của người phụ nữ ở đây đã cho thấy tình yêu của chị đối với Đức Giêsu là rất mãnh liệt. Bên cạnh đó, tất cả hành động của chị đều chỉ được thực hiện nơi chân Đức Giêsu: nước mắt, mái tóc, những chiếc hôn, và thậm chí cả dầu thơm nữa. Điều đó chứng tỏ sự tôn kính vô bờ mà chị dành cho đức Giêsu và sự khiêm tốn rất sâu xa mà chị mang trong lòng khi diễn tả sự tôn kính và tình yêu thương đối với Đức Giêsu.
Đáng ngạc nhiên hơn nữa là thái độ của Đức Giêsu. Người bình thản để cho người phụ nữ diễn tả tình yêu và sự tôn kính trước mặt đám đông, cho dù điều đó có thể gây xì căng đan. Việc tiếp xúc với hạng người phụ nữ như thế, nhất là nếu chị ta là gái điếm như nhiều người thường hiểu, sẽ làm cho người ta trở nên nhơ uế, tương tự như khi tiếp xúc với xác chết hoặc với loài heo vậy.
“Thấy vậy, ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi !" Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này ông Simôn, tôi có điều muốn nói với ông !" Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói” ( cc. 39 – 40 ).
Ông Pharisêu tỏ ra là một con người lịch sự và điềm đạm. Ông không diễn tả ra bên ngoài ý nghĩ của mình về Đức Giêsu, trái lại, ông vẫn thưa với Người một cách rất lịch sự: “Dạ, xin Thầy cứ nói”. Ông không đuổi người phụ nữ ra xa Đức Giêsu và cũng chẳng trách cứ gì Đức Giêsu, vì nghĩ rằng Người không phải là dân địa phương nên không biết gì về người phụ nữ kia. Ông chỉ thầm nhận định về Đức Giêsu: hẳn Người không phải là một ngôn sứ ! Trong ý tưởng của người Pharisêu, một ngôn sứ phải có ít nhất hai phẩm chất này: phải đọc được tư tưởng và ý định của người khác, và phải trung thành với Luật của Thiên Chúa ( tức là không thể để cho người phụ nữ kia đụng vào mình khi mình đã biết chị ta là kẻ tội lỗi ).
Để trả lời cho nhận định của người Pharisêu, Đức Giêsu kể một dụ ngôn ngắn. “Đức Giêsu nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn ?” ( cc. 41 – 42 ).
Thực ra, dụ ngôn này chẳng ăn nhập gì với vấn đề mà người Pharisêu đang suy nghĩ: vấn đề thanh sạch hay nhơ uế, nhưng cung cấp lời giải thích cho thái độ của người phụ nữ. Theo dụ ngôn này, mọi người đều là con nợ của Thiên Chúa, kể cả người Pharisêu, vốn tự coi mình là công chính. Đức Giêsu cho thấy Người biết rõ tình trạng tội lỗi trầm trọng của người phụ nữ. Người cũng cho thấy Thiên Chúa là ai đối với chúng ta: Thiên Chúa đến với con người để tha thứ cho con người.
Câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho ông Simôn, người Pharisêu, cũng là lời mời gọi ông hãy ý thức rằng thái độ của người phụ nữ tội lỗi kia đối với Đức Giêsu chứng tỏ chị ta đã trải nghiệm một thực tại mà ông Simôn chưa được trải nghiệm: trải nghiệm về lòng nhân lành của Thiên Chúa tha thứ cho con người. Người phụ nữ đã nhận được ơn tha thứ, và do đó, chị có khả năng yêu mến nhiều hơn. Sự biết ơn và khả năng yêu thương chính là dấu hiệu, là hiệu quả và là thực tại mới mẻ mà ơn tha thứ đã làm nên nơi người phụ nữ tội lỗi này. Chị ta không còn là một người tội lỗi nữa. Cặp mắt ngôn sứ của Đức Giêsu cho phép Người nhận biết rõ ràng điều đó.
“Ông Simôn đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giêsu bảo: "Ông xét đúng lắm." Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simôn: "Ông thấy người phụ nữ này chứ ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi” ( cc. 43 – 46 ). Đức Giêsu chú tâm đến người phụ nữ và kêu mời ông Simôn nhìn lại chính mình. Chính Đức Giêsu nói rõ về tình yêu lớn lao của người phụ nữ, ngược lại với tình yêu rất ít ỏi của người Pharisêu. Thực ra, ông Simôn không đáng trách vì thiếu tôn trọng luật tiếp khách, nhưng là vì thiếu tình yêu mến. Người phụ nữ yêu mến nhiều hơn.
Rồi Đức Giêsu nói tiếp: “Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” ( c. 47 ). Có hai cách hiểu câu này, tùy cách hiểu hạn từ hôti ( bởi vì hoặc bằng cớ là ). Cách hiểu thứ nhất: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bởi vì chị đã yêu mến nhiều”; cách hiểu thứ hai: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”. Cách hiểu thứ nhất cho rằng lòng yêu mến là nguyên nhân của ơn tha thứ, còn cách hiểu thứ hai thì cho rằng lòng yêu mến là hiệu quả và bằng chứng của ơn tha thứ. Theo câu 47b ( còn ai được tha ít thì yêu mến ít ) và theo dụ ngôn mà Đức Giêsu vừa kể ( cc. 41 – 43 ) thì cách hiểu thứ hai hợp lý hơn. Người phụ nữ tội lỗi đã nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa và đáp lại tình yêu tha thứ ấy bằng những hành động yêu mến đặc biệt của mình. Lòng yêu mến của chị ta không phải là nguyên nhân làm cho chị được tha thứ, mà là hiệu quả và bằng chứng của ơn tha thứ ấy.
“Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội ?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” ( cc. 48 – 50 ).
Đức Giêsu ngỏ lời trực tiếp với người phụ nữ. Người nói với chị hai lời quan trọng.
Lời thứ nhất xác nhận và bảo đảm cho chị về ơn tha thứ của Thiên Chúa dành cho chị: “Tội của chị đã được tha rồi” ( c. 48 ).
Lời thứ hai là một công thức thường được các tác giả Nhất Lãm dùng để kết thúc các trình thuật chữa lành ( x. Mc 5, 34; 10, 52; Lc 8, 48; 17, 19; 18, 42 ). Phải chăng lời thứ hai này đã được tác giả Tin Mừng thêm vào nhằm nói rằng yếu tố làm cho người phụ nữ được tha thứ và cứu độ là lòng tin chứ không phải là những công việc chị thực hiện ? Và như thế, có phải tác giả muốn gợi ý những suy tư về tương quan giữa lòng tin và tình yêu mến ?
Gợi ý suy niệm:
1. Tương quan giữa tình yêu và ơn tha thứ. Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng ta là vì Đức Giêsu đã chết và phục sinh, chứ không phải vì chúng ta làm được điều gì tốt lành. Tình yêu và nhân đức của chúng ta là hiệu quả và dấu chỉ của tình yêu đi bước trước của Thiên Chúa. Nhưng rất nhiều khi chúng ta lại đảo lộn trật tự, tưởng rằng mình có thể được cứu độ nhờ những việc lành mình đã làm được. Chúng ta được mời gọi yêu mến vì đã được tha thứ chứ không phải yêu mến để được tha thứ. Lời Đức Giêsu: “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”.
2. Cách biểu lộ lòng yêu mến. Người phụ nữ trong bài Tin Mừng đã diễn tả một lòng biết ơn và yêu mến đặc biệt đối với Đức Giêsu. Tình yêu của chị xuất phát từ trải nghiệm về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Tình yêu của chị được thể hiện một cách mạnh mẽ nhưng tràn đầy khiêm tốn và sự tôn kính chân thành.
3. Cái nhìn ngôn sứ đích thật. Những hành động của người phụ nữ đối với Đức Giêsu đã được đánh giá khác nhau. Theo quan điểm của Đức Giêsu, đó là những hành động yêu mến, có giá trị chứng tỏ người phụ nữ đã được trải nghiệm lòng xót thương của Thiên Chúa và là hiệu quả của ơn tha thứ đó. Nhưng trong cách nhìn phiến diện của ông Simôn, thì đó lại là những hành động làm cho Đức Giêsu bị nhiễm uế.
Năm 2006, nhân dịp UNESCO công nhận lễ Phật Đản là lễ hội tôn giáo thế giới, nhiều công trình: TN 11-C55
Năm 2006, nhân dịp UNESCO công nhận lễ Phật Đản là lễ hội tôn giáo thế giới, nhiều công trình văn hóa Phật Giáo đặc sắc khắp châu Á được nhắc đến, trong đó có pho tượng Vua sám hối độc nhất ở Việt Nam, với tạo hình độc đáo.
Đó là tượng tạc nhà vua mặc triều phục đang quỳ, hai bàn tay vua cung kính mở rộng để trên mặt phẳng, tương xứng với thân vua đang trong tư thế cúi lạy, mang trên lưng một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen. Tương truyền tượng này do chính vua Lê Hy Tông sai tạc để tỏ lòng sám hối của mình, sau sự kiện thiền sư Tông Diễn, thuộc phái Tào Động đời thứ 37, vào kinh dâng ngọc khai thị. Theo nhiều nhà nghiên cứu, khoảng năm 1678, vua Lê Hy Tông có lệnh buộc tăng ni phải lui về chốn núi rừng, thôn xóm vắng vẻ để hành đạo, chứ không được ở kinh đô Thăng Long nữa.
Nghe tin này, thiền sư Tông Diễn, bấy giờ đã đắc pháp ở chùa Vọng Lão trên Yên Tử, đã xuống núi đến kinh thành, xin yết kiến nhà vua để dâng một hộp ngọc. Khi được triệu vào cung, dâng hộp lên thì bên trong chỉ có một tờ biểu, kể rõ lợi ích của việc ứng dụng Phật pháp vào chính sự, nhằm đưa đến thái bình thịnh trị, cứu đời an dân như đã thấy ở đời Lý – Trần. Lợi ích này rõ ràng và tỏa sáng như một viên ngọc quý, tuy vô hình nhưng không bị thời gian và lịch sử hủy hoại. Vua đọc xong bèn thỉnh thiền sư đến tham vấn, hỏi đạo. Được thiền sư giải đáp trôi chảy và nêu lên những báo ứng không tránh khỏi của tội hủy báng, ngăn trở hoặc bài xích Phật pháp, vua Lê Hy Tông tỉnh ngộ sai tạc tượng sám hối trên.
Hiện pho tượng này còn đặt tại chùa Hòe Nhai ( tức Hồng Phúc tự ) là nơi thiền sư Tông Diễn cuối đời đã về hoằng pháp ở đó và cho khắc 2 bộ kinh tối thượng là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa trước khi sư thị tịnh vào năm Kỷ Sửu 1709. Ngày nay, chùa tọa lạc số 19 Hàng Than, quận Ba Đình, Hà Nội… ( Giao Hưởng, Thanh Niên, Tượng vua sám hối độc đáo nhất Việt Nam )
Như thế, vua Lê Hy Tông đã kịp thời sám hối, khi giác ngộ trọng đạo, lấy đời quy theo đạo, thay vì lấy đạo quy theo đời, phục vụ thể chế. Trình thuật Tin Mừng ngày hôm nay, Thánh Luca nói về người phụ nữ sám hối tội lỗi tại nhà một người Pharisêu, đang tiếp đãi Chúa Giêsu.
Cầu nguyện và sám hối
Người phụ nữ tội lỗi khép nép “đứng đàng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người, lấy dầu thơm mà đổ lên.” ( Lc 7, 38 )
Chị đến với Chúa Giêsu với tất cả tấm lòng hoen ố, đen đúa, chất chồng tội lỗi. Chị chẳng ngần ngại xuất hiện công khai với thân phận tội nhân trước các vị chức sắc khả kính, vốn khinh bỉ chị. Chị tin tưởng Chúa Giêsu đã nhìn thấy hết lỗi lầm chị, hiểu biết tường tận về cuộc đời phóng đãng của chị. Hơn nữa, chị còn mãnh liệt tin cậy rằng, Người sẽ cứu giúp, xoa dịu và chữa lành. Chị đã âm thầm cầu nguyện trong tiếng khóc nỉ non, ăn năn, dốc lòng chừa tội lỗi.
Chị không dám thốt lên một lời nào kêu xin. Nhưng những hành động lặng lẽ của chị có thể nói thay cho lòng thành khẩn thống hối. Những giọt nước mắt nóng bỏng dốc lòng ăn năn hối hận. Những lọn tóc mây xõa ra lau chân Chúa, như công khai thừa nhận những vết nhơ thể xác lẫn tâm hồn. Những giọt dầu thơm như khẩn nài xin Chúa thứ tha, thanh tẩy, tân trang, nâng cấp linh hồn chị, trở nên lành mạnh, thơm tho và xứng đáng gần gũi bên Chúa.
Thành kiến và đố kỵ
Ông Simon, một người Pharisêu trân trọng mời Chúa Giêsu đến nhà chiêu đãi. Người không nề hà từ chối, mặc dù Người thường phản bác lối sống đạo phô trương và giả dối của nhóm này. Người rộng lượng với bất cứ ai muốn tìm đến, lắng nghe, học hỏi và tuân theo. Nhưng ông Simon lại khó chấp nhận người phụ nữ tội lỗi đến với Chúa, vì thành kiến quá nặng nề.
Không riêng gì Simon, mà có lẽ tất cả thân hữu hiện diện tại bàn tiệc khi ấy, cũng có thái độ như ông. Bất bình nhìn thấy người phụ nữ tội lỗi, dám cả gan công khai đến gần vị ngôn sứ, mà họ đang trọng vọng tiếp đãi. Cái nhìn bất thân thiện của họ phát xuất từ lòng đố kỵ, ganh ghét, do tính tự cao, tự đại, tự nhận mình xứng đáng là sư phụ thiên hạ. Chính vì thế, họ quay sang thầm trách Chúa Giêsu, sao không đồng quan điểm với họ, khinh ghét, ruồng bỏ và xa lánh người phụ nữ tội lỗi đó.
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi” ( Lc 7, 39 ).
Thiên hạ thường vị kỷ, thiển cận, hẹp hòi, thường lấy mình làm tiêu chuẩn, mẫu mực để phê phán người khác. Thường kiêu căng, hợm hĩnh, tự mãn, luôn cho mình đúng đắn, tốt lành, đức độ hơn người. Hơn nữa, còn luôn coi mình quan trọng như cái rốn vũ trụ, để rẻ rúng, chà đạp, khinh miệt người khác, coi người khác chỉ là bậc thang để họ leo lên cái đà danh lợi, chức tước, địa vị. Cho nên, cái nhìn, quan điểm, khuynh hướng nhận xét của họ khó thoát ra ngoài tầm ảnh hưởng cái tôi vĩ đại của họ.
Trong cuộc sống hằng ngày, thiên hạ cũng thường hay xem mặt mà bắt hình dong, hay xét đoán người và việc theo vẻ bề ngoài, theo những khiếm khuyết vốn có, theo quá khứ không hay, để phê phán, dè bỉu, chê bôi, xa lánh, ghét bỏ và lên án. Nhiều khi tôi cũng hèn nhát, nhu nhược, không dám lội ngược dòng đời ôi ác. Cũng hăm hở té nước theo mưa, hùa theo bầy đàn, ném đá những ai đã lầm lỗi trong quá khứ. Làm như tôi vô tội hoàn toàn ?
Sáng suốt và Yêu thương
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ nhìn bề ngoài, không a dua theo quần chúng mê muội, không a dua theo cái nhìn thế gian lệch lạc, phiến diện và bất công. Người nhìn thẳng, thấu suốt tâm hồn từng người. Nên nhận biết người phụ nữ tội lỗi đang chân thành ăn năn, sám hối, biết ông Simon Biệt Phái đang thắc mắc về vai trò sứ vụ Người, biết những người đồng bàn đang băn khoăn, nghi ngờ quyền năng Người.
Cái nhìn của Chúa Giêsu rất sáng suốt, thấu đáo, bao quát, trọn vẹn và chính xác, không chút hàm hồ, võ đoán hay suy diễn thiên vị. Người không lạnh lùng xét nét như giám thị, hay quản đốc. Trái lại, cái nhìn của Người bao dung tràn đầy yêu thương. Người nhìn thấu đáo cái thiện căn, thiện chí, thiện tâm mỗi người. Người thấy rõ tấm lòng ăn năn sám hối của người phụ nữ tội lỗi, mà yêu thương tha thứ.
“Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi” ( Lc 7, 47 – 48 ). “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” ( Lc 7, 50 ).
“Sự ăn năn hối cải của con không phải là “hát bội,” khóc lóc não nùng xong rồi thì hết tuồng, hạ màn, và đâu lại vào đó” ( Đường Hy Vọng, số 893 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết noi gương chị phụ nữ sám hối tội lỗi, cho con luôn biết chạy đến với Chúa cầu nguyện, xin tha thứ, để được thương yêu thứ tha và chúc bình an.
Lạy Mẹ Maria, Trạng Sư của con, xin chỉ dẫn con biết ăn năn sám hối sao cho trọn, để con xứng đáng được hưởng ơn tha thứ, và được ở bên Chúa mãi. Amen.
Tiếng Việt thường nói “tội tình”. Rất hay, rất thú vị, và rất… “lạ”. Vì có TỘI nên cần TÌNH,: TN 11-C56
Tiếng Việt thường nói “tội tình”. Rất hay, rất thú vị, và rất… “lạ”. Vì có TỘI nên cần TÌNH, và nhờ TÌNH mà sạch TỘI. Mẫu tự T luôn có cái gì đó rất đặc biệt hơn so với các mẫu tự khác. Ví dụ, khi nhận lỗi, người ta nói: “Tại tôi hết”, hoặc “tại tôi cả”. Nói theo phong cách người Bắc, có thể là: “Tại tôi tất tần tật” ( 5T ).
Tác giả Thánh Vịnh nói: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” ( Tv 51, 7 ). Phải chăng vì vậy mà ai sinh ra cũng khóc ? Nhà cải cách John Calvin ( thế kỷ 16 ) nhận định trong cuốn Institutes of the Christian Religion ( Tóm lược về Kitô giáo ): “Tất cả chúng ta đều xuất thân từ hạt giống không thuần khiết, sinh ra đã nhiễm tội lỗi rồi”.
VÌ LÀ TỘI NHÂN…
Chắc chắn ai cũng là tội nhân. Quả thật, ngay cả những người thánh thiện cũng đã từng lần mò tìm lối về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha. Những đại tội nhân “nổi tiếng” và gương mẫu về lòng sám hối là Phêrô, Maria thành Magdala, Dimas ( tướng cướp “tốt lành” ), Augustinô, Đavít,...
Vua Đavít mê vợ của Urigia, nhà vua đã tìm cách sát hại “tình địch” để thỏa mãn nhục dục. Tội lỗi ! Ông Nathan gặp vua Đavít và kể chuyện nhà giàu, nhà nghèo. Vua Đavít bừng bừng nổi giận: “Đức Chúa hằng sống ! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết ! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót” ( 1Sm 12, 5 – 6 ).
Nhưng ông Nathan nói thẳng với vua Đavít: “Kẻ đó chính là ngài ! Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ítraen, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saun. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ítraen và Giuđa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa” ( 2Sm 12, 7 – 8 ).
Rồi ông Nathan tiếp tục hạch tội vua Đavít: “Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Đức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Ngài ? Ngươi đã dùng gươm đâm Urigia, người Khết; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Ammon mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Urigia, người Khết, làm vợ ngươi” ( 2Sm 12, 9 – 10 ). Sự thật phơi bày, vua Đavít “ngậm tăm”, hết đường chối cãi !
Bấy giờ vua Đavít nói với ông Nathan: “Tôi đắc tội với Đức Chúa” ( 2Sm 12, 13a ). Thiên Chúa đã dùng ông Nathan làm cho vua Đavít tỉnh ngộ. Thật là Hồng Ân tuyệt vời ! Ông Nathan nói với vua Đavít: “Về phía Đức Chúa, Ngài đã bỏ qua tội của ngươi; ngươi sẽ không phải chết” ( 2Sm 12, 13b ). Ôi, Lòng Chúa Thương Xót bao la và hải hà quá đỗi ! Vua Đavít cũng là chính mỗi chúng ta ngày nay, đã phạm tội tày trời và đáng chết, nhưng lại được tẩy sạch trong dòng Nước và Máu chảy ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đó là Hồng Phúc !
Tác giả Thánh Vịnh nói về một mối phúc: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” ( Tv 32, 1 – 2 ). Nhận biết mình tội lỗi thì phải thú nhận, xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi nào, và luôn tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa”. Chính Ngài đã, đang và mãi mãi tha thứ tội vạ cho chúng ta. Hãy tâm niệm: “Chính Chúa là nơi con ẩn náu, giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo. Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên những khúc ca mừng con được giải thoát” ( Tv 32, 5 và 7 ). Sự thật là thế. Được lãnh nhận đầy tràn đủ loại Hồng Ân, chúng ta phải vui mừng chia sẻ: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng ! Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo !” ( Tv 32, 11 ).
Thánh Phaolô nói: “Vì biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Kitô Giêsu, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Kitô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy” ( Gl 2, 16 ).
Điều đó chứng tỏ Đức Tin rất quan trọng. Chỉ cần chân thành tin tưởng và phó thác cho Đức Kitô thì sẽ được tha thứ tội lỗi, được công chính hóa, và được cứu độ. Luật cũng cần, nhưng chỉ là phụ. Luật có sau con người, nhằm phục vụ con người. Như người ta nói: “Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật”.
Thánh Phaolô chứng minh: “Vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá” ( Gl 2, 119 ). Thánh nhân xác nhận một điều tuyệt vời, điều được coi là danh ngôn Kinh Thánh mà ngày nay thường được trích dẫn: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20a ).
Thánh Phaolô diễn giải thêm: “Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích” ( Gl 2, 20b – 21 ). Chắc chắn rằng mỗi Kitô hữu cũng phải sống như vậy !
… NÊN CẦN LÒNG THƯƠNG XÓT
Cuối mỗi chục Kinh Mai Khôi, Giáo Hội luôn hiệp nhất cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đưa các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta cũng nhiều lần nài xin Chúa thương xót, rồi còn nhiều lần kêu cầu như vậy trong suốt mỗi 24 giờ – và suốt chuyến đời trần gian này.
Một hôm, có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình tại tư gia. Bỗng dưng xuất hiện một phụ-nữ-vốn-là-người-tội-lỗi trong thành, gái làng chơi hạng sang “nổi tiếng” cả thành phố lớn. Ả giang hồ này biết được Chúa Giêsu đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu liền mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm hảo hạng. Sự xuất hiện của nữ-khách-không-mời-mà-tới này thật chướng tai và gai mắt ! Nếu chúng ta gặp tình huống này, hẳn chúng ta nguyền rủa không tiếc lời và xua đuổi hơn là xua tà đuổi ma.
Chắc hẳn chị cũng biết rõ mọi người nhìn chị bằng những ánh mắt sắc như dao cau. Nhưng chị mặc kệ, chị cứ lặng lẽ đứng đằng sau, sát chân Chúa Giêsu rồi khóc nức nở, chị lấy nước mắt mà tưới ướt chân Ngài, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Ngài và lấy dầu thơm mà đổ lên. Y như trong phim !
Và quả thật, ông Pharisêu đã mời Chúa Giêsu liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một kẻ tội lỗi !” ( Lc 7, 39 ). Nhưng Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: “Này ông Simôn, tôi có điều muốn nói với ông !” Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói”. Ngài điềm đạm: “Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn ?” ( Lc 7, 41 – 42 ). Ông Simôn thản nhiên đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn” ( Lc 7, 43a ). Câu trả lời hoàn toàn chính xác, 100 điểm ! Đức Giêsu gật gù và bảo: “Ông xét đúng lắm” ( Lc 7, 43b ).
Rồi Chúa Giêsu quay lại phía người phụ nữ, nhưng lại nói với ông Simôn bằng lối tỷ giảo cấp: “Ông thấy người phụ nữ này chứ ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi” ( Lc 7, 44 – 46 ). Chí lý quá, nhưng thấm thía quá, và đau quá, Chúa ơi !
Lời Chúa nói với ông Pharisêu kia cũng là nói riêng với mỗi chúng ta, vì chúng ta cũng thường có động thái như ông ta, tự cho mình là hơn người về một lĩnh vực nhỏ nào đó ( chứ chưa lớn ). Ngay cả trong việc đạo đức và bác ái, chúng ta cũng vẫn không chừa – thậm chí còn ích kỷ, kiêu ngạo, và ra lệnh cho Chúa ngay khi chúng ta cầu nguyện. Phải cảnh giác cao độ: Ma quỷ có thể cám dỗ bằng cách làm cho chúng ta cảm thấy đạo đức. Lạy Chúa tôi !
Cả ông Pharisêu và mọi thực khách đều im thin thít, chả dám hé môi nói nửa lời ! Trúng phóc tim đen rồi còn đâu mà phân bua hoặc biện hộ !
Chúa Giêsu kết luận: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” ( Lc 7, 47 ). Sau đó, Ngài nói với người-phụ-nữ-tội-lỗi: “Tội của chị đã được tha rồi” ( Lc 7, 48 ). Chuyện tưởng chừng chỉ có trong cổ tích, thế mà lại hoàn toàn có thật, thật hơn cả sự thật. Lòng Chúa Thương Xót kỳ diệu quá, không ai khả dĩ hiểu thấu !
Vẫn chưa xong. Nghe Ngài nói vậy, những người đồng bàn liền nghĩ bụng: “Ông này là ai mà lại tha được tội ?” ( Lc 7, 49 ). Nhãn tiền mà vẫn cứng lòng, chưa chịu tin. Nhưng Đức Giêsu xác định với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an !” ( Lc 7, 50 ). Nhờ Đức Tin mà được tha thứ và được cứu độ. Một lần nữa, Chúa Giêsu lại chứng tỏ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của Đức Tin chân chính.
Lạy Thiên Chúa, xin thánh hóa chúng con, làm cho lòng đạo đức nơi chúng con đừng là giả tạo vì sự tác động của ma quỷ, để chúng con biết dành cho tha nhân những ánh mắt thiện cảm và chuyển tải lòng thương xót của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Thỉnh thoảng chúng ta nghe biết đây đó có những cặp tình nhân tự nguyện uyên sinh với nhau hay: TN 11-C57
Thỉnh thoảng chúng ta nghe biết đây đó có những cặp tình nhân tự nguyện uyên sinh với nhau hay bỏ nhà ra đi mà không lời từ biệt gia đình. Một trong những lý do dẫn đến chuyện đó thường là một trong hai bên gia đình ngăn cản. Với những trường hợp ấy, dư luận hay cho rằng họ liều quá. Ðúng vậy khi người ta yêu nhau, lắm lúc khiến cho người ta liều mình. Có nhiều lúc Sự liều mình làm cho người khác khâm phục nhưng đôi khi cũng làm cho người khác lên án.
Người phụ nữ tội lỗi trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cũng đã quá liều lĩnh. Theo luật Môsê người tội lỗi công khai không được phép tiếp xúc với người công chính. Ở đây Chúa Giêsu là bậc thầy trong dân lại đang dự tiệc trong nhà của một người Pharisêu. Dầu vậy người phụ nữ này lại dám xông vào để gặp cho được Chúa Giêsu.
Gặp được Chúa Giêsu chị đã quỳ gối xuống chân Người mà khóc nức nỡ và lấy tóc mình mà lau. Ðây cũng là chi tiết cho thấy chị quá liều vì theo tục lệ của người Do thái xõa tóc mình trước người khác là tự làm nhục mình và là một hành động không thể chấp nhận được. Chưa ngừng ở đó, người phụ nữ này lại còn tiếp tục đổ cả bình dầu thơm xuống chân Chúa Giêsu. Bình dầu thơm này trị giá khoảng 300 ngày công lao động của một người bình thường.
Với những chi tiết này, chúng ta thấy người phụ nữ này thật liều lĩnh. Mà động cơ làm cho chị dám làm điều đó là vì yêu mến Chúa Giêsu. Chắc chắn chị đã ý thức được tình trạng tội lỗi của mình. Từ việc cảm nhận tình trạng tội lỗi ấy chị mới cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình. Những cử chỉ liều lĩnh ấy chứng tỏ cho thấy chị muốn đền đáp lại phần nào tình thương của Thiên Chúa dành cho mình. Tình yêu chỉ có thể đáp đền bằng tình yêu mà thôi. Cho nên, Chúa Giêsu đã nói với ông Simon chủ nhà: "Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều" (Lc 7, 47).
Chúng ta đang sống trong tháng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Tâm Chúa là nguồn sống là nguồn tình yêu cho đời sống người tín hữu. Thánh Tâm Chúa đã phải tan nát, đã phải đổ máu ra vì tội lỗi chúng ta. Do đó, tình thương này sẽ sẵn sàng tha thứ tất cả tội lỗi của chúng ta. Với điều kiện là chúng ta có tin và dám liều mình như người phụ nữ tội lỗi này vì muốn đền đáp tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Sự liều mình để đền đáp tình yêu sẽ làm cho nhiều người khâm phục.
1. LỜI CHÚA: Vì thế, tôi nói cho ông hay: "Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít" (Lc 7,47).
2. CÂU CHUYỆN:
Trong cuốn "Mặt trận phía đông hoàn toàn yên tĩnh" có thuật lại câu chuyện xảy ra trong cuộc thế: TN 11-C58
Trong cuốn "Mặt trận phía đông hoàn toàn yên tĩnh" có thuật lại câu chuyện xảy ra trong cuộc thế chiến giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Câu chuyện ấy như sau: Một người lính Đức trẻ kia đang năm trong hố tránh đạn pháo. Đột nhiên anh ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố đó để tránh đạn. Anh lính Đức liền dùng lưỡi lê đâm chết kẻ thù. Đây là lần đầu tiên anh ta giết người và cảm thấy lương tâm rất áy náy. Anh muốn biết rõ hơn về người lính Pháp vừa bị giết kia là ai, liền lục tứi áo và lấy ra một chiếc bóp. Trong đó có hình một phụ nữ trẻ đang ôm đứa con thơ bụ bẫm là vợ con của anh ta. Người lính Đức cảm thấy một sự xúc động tự nhiên dâng cao trong lòng khiến anh càng thêm hối hận! thì ra người bị anh giết kia thực sự không phải là kẻ thù của anh, nhưng là một người cha, một người chông giống như anh: một con người đang yêu và được yêu! Chính nhờ có cái nhìn mới mẻ về kẻ từng là "kẻ thù" đã biến đổi người linh Đức trở nên một người mới biết cảm thông và đầy tình người.
3. SUY NIỆM:
Câu chuyện Đức Giê-su đến nhà một người Biệt Phái dùng bữa, cho chúng ta bài học về lòng bao dung của Chúa, để mời gọi chúng ta cũng phải sẵn lòng mở rộng vòng tay thân ái, cư xử thân thiện với hết mọi người, bất kể họ là ai, khác biệt về mầu da, tiếng nói, môi trường sống và làm việc, về tính tình, sở thích hay về tín ngưỡng tôn giáo... để từ đó chúng ta sẽ nhận ra mọi người đều là anh em, con cùng một Cha Chung trên trời, và mọi người có bổn phận phải cư xử với nhau trong tình bác ái huynh đệ như người ta thường nói: "Tứ hải giai huynh đệ"- Bốn bể đều là anh em.
Đức Giê-su cũng muốn chúng ta hãy mời Người đến thăm và ở lại trong gia đình của chúng ta bằng việc trưng bày ảnh tượng của Người tại phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ... Người cũng sẵn sàng đến viếng thăm nhà linh hồn của chúng ta mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ và rước lễ. Miễn là ta có thiện chí dọn dẹp nhà cửa, loại khỏi ngôi nhà của mình những hình ảnh thiếu đứng đắn hay những việc làm ăn bất chính, chừa bỏ những thói hư tật xấu cùng những tội lỗi bất xứng khác.
Đức Giêsu đã để cho người phụ nữ tội lỗi đến gần vì Người không xét đoán người khác theo hình thức bên ngoài như người Pha-ri-sêu đã làm. Trái lại Người nhìn thấu tâm can của người tội lỗi kia. Noi gương Chúa, chúng ta cũng phải tránh xét đoán tha nhân qua dáng vẻ bên ngoài. Cần tránh xét đoán ý trái và cư xử bất công khi hùa theo đám đông để lên án những người cô thế cô thân. Vì thực tế đã chứng mình: có nhiều trường hợp người ta đã bị kết án oan sai. Có người đã bị tòa kết án và ở tù nhiều năm, cho đến khi kẻ thực sự phạm tội bị bắt và thú nhận tội lỗi thì mới được giải oan.
4. THẢO LUẬN:
1- Người ta thường hay xét đoán dựa theo tình cảm: "Yêu nên tốt, ghét nên xấu". Để tránh xét đoán bất công và để noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần xử sự thế nào khi nghe một người nói xấu về một kẻ vắng mặt?
2- Dâng một lời cầu nguyện cho một người mình đang ác cảm, để xin Chúa giúp ta sống Lời Chúa dạy: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em"(Mt 5,44).
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng con thường hay xét đoán người khác cách bất công, do ảnh hưởng của định kiến xã hội hay do mối ác cảm tự nhiên với họ. Nhiều lần chúng con đã có cách cư xử hẹp hòi, đầy thành kiến đối với một số người có quá khứ không mấy tốt đẹp. Chúng con đã không đủ dũng cảm để lội ngược dòng, để chọn cách ứng xử nhân ái công minh noi gương Chúa.
- LẠY CHÚA. Hôm nay xin cho chúng con học tập theo Chúa, để dám đứng về phía những người bị xã hội khinh dể, can đảm bênh vực những kẻ cô thế cô thân và đối xử nhân hậu với những tội nhân thực lòng sám hối... Nhờ đó, chúng con xứng đáng mang danh là Ki-tô hữu và trở nên môn đệ đích thực của Chúa trước mặt người đời.
TN 11-C59: TẤT CẢ ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH NHỜ TIN VÀO ĐỨC KITÔ
Lc 7, 36 – 50
Lm Jude Siciliano OP
Tuần này chúng ta chắc chắn không muốn bỏ qua bản văn của thánh Phaolô vì hôm nay ngài đã đưa: TN 11-C59:
Tuần này chúng ta chắc chắn không muốn bỏ qua bản văn của thánh Phaolô vì hôm nay ngài đã đưa ra bản tóm kết giáo huấn về đức tin và việc làm. Thánh Phaolô đã phê bình ông Phêrô và Banaba (2,11-14) vì hai ông đã dùng bữa với Dân ngoại nhưng khi những người Kitô hữu Dothái khắt khe, không chấp nhận Dân ngoại chưa cắt bì trở lại Kitô giáo cách trọn vẹn, thì ông Phêrô đã rút lui và từ chối dùng bữa với Dân ngoại.
Phải chăng những Kitô hữu gốc Dothái "tốt hơn" bởi họ đã tuân giữ truyền thống của tiền nhân thì làm những việc "chính đáng"? Hay, tất cả mọi Kitô hữu, bất kể những xuất thân khác nhau, đều được tháp nhập vào Đức kitô cách tròn đầy như nhau?
Thánh Phaolô đưa ra điểm cốt yếu này: tất cả được đón nhận và được làm cho nên công chính nhờ tin vào Đức Kitô. Tất cả chúng ta cùng nhau bước vào vương quốc Thiên Chúa nhờ việc tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Trong Nước Chúa, không có công dân hạng nhất hay hạng hai. Chúng ta có thể xuất thân khác nhau, đến với Đức Kitô bằng những nẻo đường khác nhau, diễn tả đức tin bằng những nền văn hóa khác nhau - nhưng tất cả đều bình đẳng trong cộng đoàn những người tin.
Hôm nay thánh Phaolô thách thức chúng ta. Liệu chúng ta có thể tiếp tục tín thác nơi Đức Giêsu và tiếp tục đặt lòng tin nơi Người ngay cả sau khi ta đã phạm tội? Nếu chấp nhận những gì thánh Phaolô nói, chúng ta không phải cố gắng đoạt cho được sự tha thứ bằng nghi thức thanh tẩy tỉ mỉ; cũng chẳng phải thân hành đi lên núi thánh hay tắm trong những dòng sông cụ thể nào đó. Chúng ta được mời gọi trở về vì ta "không nên công chính nhờ làm những gì Luật dạy", nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô cũng như sự tha thứ chúng ta được nhận từ nơi Người.
Trong phần thư Galat này, khi nói về "việc làm những gì Luật dạy", thánh Phaolô muốn đề cập cụ thể đến sự khác biệt giữa dân Dothái và Dân ngoại - cắt bì, luật giữ chay và kiêng thịt. Thánh Phaolô nói "con người không phải được nên công chính nhờ những gì luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô..." Những từ như công chính, tốt lành xuất phát từ hê thống tòa án. Cũng một cách như thế, khi người tội lỗi đến trước "tòa" của Chúa, dù họ đang trong tình trạng tội lỗi, họ cũng có thể nhận được sự thương xót của Thiên Chúa, không phải vì họ tự sức đã làm được việc gì để khiến cho mình nên công chính trước nhan Chúa, nhưng là nhờ ân huệ của lòng Chúa xót thương.
Từ thư của thánh Phaolô chúng ta rút ra được rằng qua đời sống, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải một cách thức mới mẻ để làm cho chúng ta nên công chính. Chúng ta không tìm được thế đứng mới trước nhan Chúa nhờ năng cầu nguyện hay các thực hành mang tính đạo đức và hãm mình - những việc này chỉ đến sau khi chúng ta nhận được ân sủng. Ân sủng làm cho ta nên công chính trước nhan Chúa, được ban cho ta qua Đức Giêsu Kitô. Đây không chỉ là ân ban cho từng người nhưng cho cả cộng đoàn những người tin được mời gọi vào trong sự sống của Thiên Chúa ngay ở đây, vào lúc này.
Sau khi thánh Phaolô nói đến việc được làm cho "công chính" với Chúa, không phải do việc làm của ta nhưng nhờ tin vào Đức Kitô, thì phải chăng thông điệp của bài Tin mừng đi ngược lại? Một phụ nữ, được cho là "một người phụ nữ tội lỗi trong thành", bước vào nhà ông Simon, người Pharisêu, và thực hiện một hành vi khiêm nhường, thống hối bằng cách lấy nước mắt của mình mà rửa chân cho Đức Giêsu, lấy tóc mà lau rồi xức dầu thơm. Đó có vẻ như là một việc tốt cô làm để "được" Đức Giêsu tha cho cô "vô vàn tội lỗi".
Chính bản dịch có vẻ xác nhận rằng cô nhận được sự tha thứ nhờ hành vi thống hối của mình. Đức Giêsu nói: "tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều". Có vẻ như chính việc bày tỏ "lòng yêu mến nhiều" - những việc thiện - đã mang lại cho cô sự tha thứ. Chắc hẳn chúng ta đã từng được nghe giảng về câu Kinh thánh này rằng hãy làm việc thiện và thống hối để được tha thứ tội lỗi.
Khi kiểm tra các bản dịch khác, nhà giảng thuyết cũng như độc giả có thể thấy được giúp đỡ vì đôi khi đọc bản gốc sẽ tìm thấy nhiều ý nghĩa tốt hơn. Ví dụ, Bản Chuẩn Mới Chỉnh Sửa (NRSV) sẽ cho thấy cái nhìn tốt hơn về câu mà Đức Giêsu nói với ông Simon: "Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều". Đức Giêsu muốn ám chỉ rằng điều gì đó đã xảy ra trước trong cuộc đời người phụ nữ này khiến cô nhận ra cô có thể được tha thứ nhờ những gì cô làm. Cảm nghiệm được sự tha thứ ấy, cô đã làm cả hai việc: dù không được mời vẫn vào nhà của người Pharisêu thuộc tầng lớp cao hơn, nơi Đức Giêsu được mời dự tiệc, để bày tỏ lòng biết ơn và tình yêu mến đối với Đức Giêsu, nguồn ơn tha thứ của cô.
Hành vi của người phụ nữ và lời đáp của Đức Giêsu làm nảy sinh một thắc mắc quan trọng, những người đồng bàn thốt lên "Người này là ai mà có thể tha tội?" Khi Đức Giêsu tiếp tục làm những việc cả thể, thì danh tiếng Người đến tai Hêrôđê và ông này cũng không khỏi thắc mắc: "vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?" (Lc 9,9)
Những kẻ chưa tin cũng thắc mắc như thế, nhưng họ sẽ không ngừng bị chất vấn qua chính cuộc sống của chúng ta khi ta: phải đưa ra quyết định quan trọng; khi phải đối diện với sự thành thật của mình; chọn cách thế sử dụng tài nguyên của bản thân; quyết định chọn bạn; cân nhắc các sử dụng thời giờ nhàn rỗi; có đi lễ không và đi ở đâu... Cách nào đó, chúng ta cần phải trả lời cho thắc mắc: "Người này là ai mà có thể tha tội?", "ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?" Những chọn lựa hàng ngày và cách chúng ta sống bộc lộ, hơn bất kỳ từ ngữ nào, về cách chúng ta trả lời cho câu hỏi này ra sao.
Hôm nay, thánh Phaolô giúp chúng ta trả lời những thắc này theo cách riêng của ngài. Trước đây ngài sống như một người Pharisêu đạo đức, xác tín rằng ngài đã làm tất cả những gì Thiên Chúa muốn. Sau khi gặp được Đức Giêsu, ngài chuyển hướng cuộc đời 180o. Đức Giêsu trở thành chính cuộc sống của ngài, "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi". Ngài nói, ngà đã được "cùng đóng đinh với Đức Kitô" - ngài đã chết đối với luật. Nên một với Đức Kitô nghĩa là chết cho luật vì ngài nhận ra rằng ân sủng của Thiên Chúa đã bày tỏ cho ngài qua Đức Kitô. Nghĩa là một lối sống hoàn toàn mới.
Đức Kitô phục sinh đang sống trong ngài và hướng dẫn ngài nhờ đó cuộc sống của ngài được hoàn toàn thay đổi. Nếu như Hêrôđê muốn hỏi Phaolô: "ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?" Thánh nhân sẽ trả lời rằng: "Đức Giêsu là Đấng làm cho tôi nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Nay không gì có thể chia cắt tôi khỏi tình yêu của Thiên Chúa".
Nếu chúng ta hỏi thánh Phaolô: "Niềm tin vào Đức Giêsu đã biến đổi cuộc sống ngài ra sao?" Tôi nghĩ ngài sẽ trả lời rằng: "Hiện nay, tôi không chỉ biết cách sống cuộc đời này, nhưng còn có ý chí và sức mạnh để sống như Đức Giêsu đã sống". Rồi ngài nói: "Tạ ơn Chúa!".
Cả đời sống của Chúa Giêsu là để yêu thương nhân loại, yêu thương con người. Đọc Tin Mừng của: TN 11-C60
Cả đời sống của Chúa Giêsu là để yêu thương nhân loại, yêu thương con người. Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta hoàn toàn thán phục một vị Thiên Chúa làm người. Từng lời nói, từng cử chỉ, những lời dạy bảo, những phép lạ của Chúa Giêsu hoàn toàn nói lên con người đầy lòng trắc ẩn, yêu thương của Chúa. Hôm nay, chúng ta được đối diện với một con người đã được Chua Giêsu thương yêu, chữa lành, chúng ta nhận ra tình thương cao cả vô biên của Chúa...
Vâng, Chúa Giêsu và các môn đệ dùng tiệc tại nhà ông Simon. Chắc chắn, ông Simon mời Chúa dự tiệc cùng với các môn đệ, những khách quí, có máu mặt, những người đồng nghiệp với ông Simon, không phải vì ông có thiện cảm, yêu mến Chúa Giêsu, nhưng là để làm cho ông được hãnh diện, được tăng thêm uy tín, được nở mày nở mặt với những người khác, hoặc là ông Simon muốn thử tài, muốn thử quyền năng của Chúa mà ông đã nghe nhiều lần chăng ? Còn đối với người đàn bà hôm nay, Tin Mừng của thánh Luca cũng không cho chúng ta biết tên. Do đó, chúng ta hiểu được rằng bà có lẽ bà ta đã phạm một tội công khai nào đó mà cả thành đều biết. Bà này nhận mình là người tội lỗi và tin cậy vào tình thương, vào sự tha thứ của Chúa Giêsu. Chị đã mang theo một bình nước hoa quí giá, đắt tiền đến tìm Chúa Giêsu giữa đám tiệc đông người ở nhà ông Simon. Theo tập tục của người Do Thái khi ăn tiệc họ thường nằm ngả người ra phía sau, và để chân trần ra ngoài chiếc phản. Chính vì thế bà này dễ dàng xối nước mắt, nước hoa lên chân của Chúa Giêsu. Đây là cử chỉ thú tội công khai của người đàn bà trước thực khách, trước mặt Chúa Giêsu vv...Bà không sợ, không xấu hổ vì bà biết Chúa sẽ tha thứ cho bà và là bài học cho các thực khách, cho ông Simon và cả gia đình của ông. Người đàn bà đã khóc, khóc rất nhiều. Những giọt nước mắt sám hối, ăn năn chảy xuống trên chân Chúa Giêsu. Người đàn bà tỏ cử chỉ tôn trọng, kính yêu Chúa bằng cách lấy tóc của mình lau chân Chúa, xức dầu thơm lên đôi chân của Chúa và hôn chân Chúa không ngừng.
Con người của Chúa luôn nhạy cảm, đầy lòng trắc ẩn. Nên, Ngài đã cảm thông và tha thứ cho người đàn bà tội lỗi biết sám hối, biết trở lại vì yêu. Chúa Giêsu nói với bà: " Tội con đã được tha ". Một lời tha thứ thật an an ủi, đầy cảm thông, đầy tình thương. Lời thứ hai cũng là lời cuối cùng Chúa nói với bà:" Lòng tin đã cứu bà. Bà hãy đi bình an ". Thật là lời đầy an ủi, đầy khích lệ, Chúa Giêsu xác nhận niềm tin của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là yêu thương. Ngài yêu thương những người tội lỗi, những kẻ khốn khổ, nghèo nàn, thấp cổ, bé họng vv...Ở đây, chúng ta ghi nhận một điều rất quí, rất đẹp là người đàn bà yêu nhiều nên được tha nhiều. Nói lên điều đó không có nghĩa chúng ta cứ phạm tội để được Chúa thứ tha. Không, nhứt định là không. Bởi vì liệu chúng ta có lòng can đảm, ơn đặc biệt, sự khiêm nhường như người đàn bà tội lỗi đó không ?
Chúng ta có chắc chắn chúng ta yêu nhiều, yêu đến quên mình như người đàn bà tội lỗi đó không ? Yêu nhiều có nghĩa là trở về trọn vẹn, sám hối thiệt tình và không còn dám để trong lòng một tội nào, dù tội đó thật nhỏ mọn. Người đàn bà đã yêu hết mình, đã thật tình thống hối, đã không dám xúc phạm đến tình yêu thương của Chúa nữa. Bà đã hoàn toàn tin tưởng vào tình thương tuyệt đối, nhưng không của Chúa. Bà đã không mắc cỡ, không xấu hổ trước nhiều tiếng thì thầm trách móc vì họ cho rằng người đàn bà này tội lỗi tầy trời, tội lỗi công khai, đáng kinh tởm, đáng khinh bỉ, bà vẫn một niềm tin, tin Chúa thứ tha cho bà, bà hoàn toàn khác Giu đa. Bà có thái độ quay trở về và nhạy cảm như Phêrô. Tin vào tình thương và tin vào sự tha thứ của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào tình thương của Chúa, để chúng con như thánh Phêrô dám nhìn vào mắt Chúa và khóc lóc ăn năn, để chúng con như người đàn bà hôm nay dám công khai khóc lóc ăn năn và tin tuyệt đối vào sự thứ tha của Chúa. Amen.
Truyện kể: Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè ăn chơi phung phá hết tiền của. Cùng: TN 11-C61
Truyện kể: Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè ăn chơi phung phá hết tiền của. Cùng đường rơi vào túng quẫn, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương tha thứ. Người cha gởi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ 'Về' và ký tên 'Cha'.
Biết nhận lỗi và xin lỗi là khởi đầu cho hành trình trở về. Rất nhiều khi chúng ta phạm lỗi và sống trong lầm lạc nhưng không nhận ra lỗi mình. Cho đến một ngày, chợt nhận ra mình đã đi quá xa vào con đường lầm. Chúng ta cần lắng nghe những lời nhắc nhở, chỉ bảo và hướng dẫn của bề trên hay người khác để giúp giác ngộ. Vua Đavít xưa sống sung sướng nơi cung điện ngọc ngà châu báu. Thiên Chúa đã ban cho vua đầy đủ mọi sự. Từ là chú chăn chiên trở thành thủ lãnh của dân Do-thái. Vua có gia tài kết xù là một xứ sở giầu có và con dân đông đúc, nhưng sự ham mê sắc dục dẫn ông đi vào đường lầm lạc tội lỗi. Ông dùng quyền để chiếm đoạt vợ của người. Lương tâm ông không cảm thấy cắn rứt về sự bất công, cho tới khi tiên tri Nathan nhắc nhở: Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Thiên Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm Uria, người Hêthê; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Ammon mà giết (2 Sam 12, 9).
Vua chợt nhận ra tội lỗi của mình và ngay lập tức vua ăn năn hối cải và xin ơn tha thứ. Với lòng thống hối khiêm cung, vua đã được Thiên Chúa tha tội chết: Bấy giờ vua Đavít nói với ông Nathan: "Tôi đã đắc tội với Thiên Chúa." Ông Nathan nói với vua Đavít: "Về phía Thiên Chúa, Người bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết (2 Sam 12, 13). Càng làm lớn cám dỗ càng nhiều: Cám dỗ về quyền bính, tiền tài và sắc dục. Chúng ta biết sự đòi hỏi ước muốn tham thân si của bản năng con người luôn khấy động. Cho nên chúng ta đều phải phấn đấu mỗi ngày để nên hoàn thiện hơn. Bất cứ ai giữ địa vị nào trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội, đòi hỏi người lãnh đạo hay thủ lãnh phải biết tự kiềm chế và tránh làm gương mù, gương xấu. Cây cao gió cả. Ma quỉ cám dỗ không chừa một ai. Chúa Giêsu đã dậy chúng ta qua Kinh Lạy Cha: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ.
Truyện kể: Satan phàn nàn với Thiên Chúa rằng Chúa không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Chúa lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Chúa vẫn ban ơn tha thứ. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Chúa kết án tôi đời đời. Chúa nói: Đã bao giờ ngươi ăn năn xin tha thứ chưa?
Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu tha tội và bệnh vực người phụ nữ tội lỗi biết ăn năn hối cải. Dưới con mắt của những người Pharisêu, người phụ nữ này bị liệt vào hàng tội lỗi xấu xa và đáng phải tránh xa: Thấy vậy, ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu qủa thật ông này là ngôn sứ, thỉ hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi (Lc 7, 39). Chúa đã tỏ lòng ưu ái với cô. Chúa không kết án. Chúa nhìn thấu tỏ tận đáy tâm hồn của cô. Người phụ nữ đã dám công khai đến bên Chúa để xức dầu. Cô đã được tỉnh thức trong tâm trí và hành động. Mặc những lời dèm pha, chê bai, khinh miệt, cô đã dám quay về. Quay về với lòng mình. Nhận ra Chúa và trở về bên Chúa. Tình yêu đã thắng vượt. Cô ta đã chọn Chúa làm phần gia nghiệp. Nhiều người xung quanh còn sửng sốt và tò mò vì họ chưa nhận ra Chúa Kitô là ai. Ngài chính là ConThiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian.
Chúa biết tình yêu của cô dành cho Chúa thật nhiều. Tình yêu vượt trên lẽ thường tình, cô đã lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau. Cô đã giác ngộ và tỉnh thức cuộc đời: Vì thế, tôi nói cho ông hay: "Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai, được tha ít, thì yêu mến ít"(Lc 7, 47). Bằng những giọt nước mắt ăn năn sám hối, tội lỗi của cô đã được xóa sạch. Chính Con Thiên Chúa đã tha tội cho cô. Lời Chúa có sức biến đổi và chữa lành con người cả tâm hồn lẫn thể xác. Một người tội lỗi nay trở thành môn đệ của Chúa: Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi."(Lc 7, 48). Nhẹ tênh! Người phụ nữ đã trút bỏ được gánh nặng cuộc đời. Chúng ta biết người đời thường khinh chê và kết án người tội lỗi. Đôi khi phạm nhân bị bế tắc đóng khung trong cuộc sống mặc cảm. Họ không có lối thoát.
Chúa Giêsu đã mở cửa ngõ dẫn đưa những người lầm lạc trở về. Chúa đến để kêu gọi và cứu độ người tội lỗi chứ không phải người công chính. Chúa Giêsu nói: Người khỏe mạnh không cần thấy thuốc, người đau yếu mới cần. Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mc 2, 17). Mỗi lần chúng ta đọc lời kinh: Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Chúng ta có thực sự thú nhận hay chỉ đọc ruổi theo. Chúng ta có dám đứng trước nhóm hay cộng đoàn để xưng thú là mình đã phạm lỗi hay không? Đâu dễ. Khi phải xưng thú, chúng ta sẽ đổ quanh, lỗi tại tôi nhưng lôi thôi tại bà. Có rất nhiều khi đi xưng tội nhưng chúng ta nại cớ: Tại vì.., bởi vì... và đổ lỗi cho người khác chứ không phải lỗi của mình.
Khi chúng ta đã quá quen sống trong lầm lạc và chìm sâu trong vũng lầy tội lỗi, chúng ta không còn cảm nghiệm sự sai trái. Lương tâm của chúng ta không còn nhạy bén để phán đoán. Những lỗi chúng ta phạm thường ngày về vấn đề luân lý, khi soi mình qua 10 điều răn, nhất là về sự ăn gian, làm chứng dối, lừa đảo, bất công, liên hệ tình dục ngoài hôn nhân, ngoại tình và sống chung bất hợp pháp. Khai gian nói dối trong vấn đề thông tin và bá cáo. Chúng ta an vui tự tại vì mọi sự đã trở thành quá bình thường. Chúng ta không muốn xét mình kỹ lưỡng vì sợ lương tâm bị áy náy. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở rằng chúng ta không thể là Kitô hữu nửa vời, bán thời gian hay chỉ là Kitô hữu trong một vài khoảnh khắc hay hoàn cảnh nào đó. Kitô hữu là Kitô hữu suốt đời. Mọi suy tư, lời nói, hành động đều phản ảnh tinh thần Kitô hữu.
Thánh Phaolô dậy: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân, trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi (Gal 2, 20). Chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta là Kitô hữu. Có Chúa hiện diện trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta không thể sống như những người dân ngoại, họ không nhìn biết Thiên Chúa. Chúng ta là môn đệ của Chúa. Môn đệ cần dõi theo lối bước của Thầy. Sống chứng nhân ngay thật giữa lòng đời. Đừng sợ bị thua thiệt vì sống lẽ công chính. Biết rằng nếu chúng ta được lời lãi cả thế gian mà mất phần phúc thiên đàng, thì nào có ích chi chứ!
Cuộc đời của mỗi người chúng ta đã lãnh nhận vô vàn ân sủng của Chúa như vua Đavít xưa. Chúa đã ban cho chúng ta có sự sống, được sinh ra làm con người, làm con Chúa, con của Giáo Hội và sống hạnh phúc an vui. Chúng ta được thừa hưởng một gia tài kếch xù của niềm tin và niềm hy vọng vào sự sống đời đời mà Chúa đã dành sẵn cho chúng ta. Chúng ta cần làm cho ân sủng sinh xôi nẩy nở trong tâm hồn. Giá máu châu báu của Chúa Kitô là nguồn mạch ban sự sống dồi dào. Phaolô đã chia sẻ: Tôi không làm cho ân sủng của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do lề luật, thì hóa ra Đức Kitô đã chết vô ích (Gal 2, 21).
Lạy Chúa, đã bao phen chúng con đã ngoảnh mặt làm ngơ và chối từ ơn Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con. Xin thương tha thứ những lỗi lầm chúng con đã xúc phạm đến trái tim Chúa.
Đã là người, mang thân phận mỏng dòn và yếu đuối thì sẽ không thoát khỏi tội. Chuyện phạm tội là chuyện: TN 11-C62
Đã là người, mang thân phận mỏng dòn và yếu đuối thì sẽ không thoát khỏi tội. Chuyện phạm tội là chuyện của con người yếu đuối nhưng quan trọng hơn chuyện yếu đuối đó chính là con người sẽ làm gì sau khi phạm tội. Con người sẽ ở lỳ trong tội hay đứng dậy để bước ra khỏi tội và sẽ làm gì sau khi bước ra vòng vây của tội lỗi.
Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng Thánh, ngàn trùng Chí Thánh mới có quyền tha tội và con người có can đảm, có tin để chạy đến với Chúa để đón nhận ơn tha tội đó hay không mới là chuyện quan trọng. Chẳng biết có phải là ngẫu nhiên hay không nhưng các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đã vẽ nên hình ảnh của một Thiên Chúa và là Thiên Chúa của tình yêu thật đẹp. Cũng vì yêu mà Thiên Chúa chấp nhận tất cả và tha thứ tất cả cho dù tội người ấy có đỏ thẫm tựa như son.
Một hình ảnh hết sức quen thuộc, một hình ảnh hết sức dễ thương và cũng hết sức gần gụi với những ai thường đọc Thánh Kinh, suy niệm Thánh Kinh đó chính là vua Thánh Đavít. Cuộc đời của Đavít ít nhiều gì ai ai cũng có thể biết rõ. Làm gì có thể gắn cho cái tên Đavít là Thánh nhưng cuối cùng Đavít lại được gọi bằng cái tên Vua Thánh thật dễ thương.
Lược lại cuộc đời của Đavít ta sẽ thấy. Chỉ với vài dòng vỏn vẹn trong sách Samuel quyển thứ hai mà chúng ta vừa nghe ấy chúng ta biết Đavít như thế nào. Đavít đã làm gì để ngôn sứ Nathan nói với vua Đavít: "Kẻ đó chính là ngài! Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Israel, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saun. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Đức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm Urigia, người Khết; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Ammon mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Urigia, người Khết, làm vợ ngươi. Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Nathan: "Tôi đắc tội với Đức Chúa." Ông Nathan nói với vua Đavít: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết.
Chuyện ta biết rõ đó là vì lòng dục đã làm cho Đavít mù tối để rồi giết Urigia và chiếm đoạt vợ của Urigia. Sau khi làm cái tội tày đình ấy và được ngôn sứ Nathan nhắc nhở Đavít. Sau khi nghe lời nhắc của Nathan Đavít đã hoán cải, đã ăn chay và mặc áo nhậm để đền tội của mình. Đứng trước lòng khiêm hạ của Đavít, Thiên Chúa đã tha thứ tất cả những lầm lỗi của ông.
Cứ đọc và nghiền ngẫm lại các Thánh Vịnh trong Cựu Ước mà nhiều nhà chú giải cho là tác giả là của Vua Thánh Đavít chúng ta sẽ thấy tâm tình ăn năn thống hối của Đavít. Một trong những tâm tình sâu sắc của Đavít phải nói đến Thánh Vịnh 50:
Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài.
Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án,
liêm chính khi xét xử.
Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.
Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật,
dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.
Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.
Xin cho con được nghe
tiếng reo mừng hoan hỷ,
để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng.
Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi
và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm.
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một
tấm lòng trong trắng,
đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.
Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,
đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.
Lời tự tình xưa của Đavít phải chăng đó là lời tự tình của người phụ nữ "vốn là người tội lỗi trong thành" hôm nay trong Tin mừng theo Thánh Luca. Người phụ nữ này cũng phạm tội và đã bị người ta liệt vào hàng tội lỗi như Đavít xưa vậy. Dẫu bị người ta họi là tội lỗi nhưng chị đã không mặc cảm trước cái nhìn của công chúng, của mọi người để rồi chị tìm đủ mọi cách để đến với Chúa Giêsu. Cách diễn tả của chị hết sức dễ thương của chị đó là lấy bình bạch ngọc đựng dầu thơm và lấy nước mắt thống hối của chị rồi tưới lên chân Chúa và lau và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Chúa Giêsu đã ghi nhận, Chúa Giêsu đã trân trọng tấm lòng của người phụ nữ tội lỗi và đã nói tâm tình của Ngài cho người chủ tiệc là ông Simon. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."
Vì sao người phụ nữ đã được Chúa tha thứ thì mọi người đã rõ: vì chị yêu mến nhiều ! Vấn đề của chị không dừng lại ở lòng mến mà đi xa hơn một bước nữa đó là lòng tin. Lòng tin và lòng mến trong lòng chị đan quyện lại với nhau. Người mời tiệc cũng như những người được mời tiệc ngày hôm ấy thắc mắc "ông ấy lấy quyền gì để tha tội" thì chị, chị đã tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Chị đã tin, đã yêu, đã phó thác vào lòng bàn tay của Chúa Giêsu cuộc đời của chị. Chị đến với Chúa Giêsu để nhận được tình yêu của Chúa Giêsu, để nhận được ơn tha thứ từ Chúa Giêsu.
Vấn đề con người được nên công chính không phải là làm những gì luật dạy nhưng nhờ lòng tin như Thánh Phaolô vừa bộc bạch: "con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy. Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá". Thánh Phalô một con người đã cảm nghiệm như thế nào về tình yêu của Thiên Chúa Ngài mới dám khẳng định như vậy. Nhờ niềm tin mà vua Thánh Đavit, người phụ nữ "vốn là người tội lỗi trong thành" cũng như chính bản thân của Thánh Phaolô đã được thứ tha, được trở về với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót cũng như được nên công chính. Hơn nữa, sau khi cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình thì Phaolô đã thốt lên: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi".
Không chỉ Phaolô thôi mà là cả vua Đavít, người phụ nữ tội lỗi và tất cả những ai đã hơn một lần phạm tội và đã cảm nhận được tình thương tha thứ cũng sẽ quay trở lại để sống tròn đầy tình thương tha thứ của Chúa.
Chúa là đấng từ bi thương xót, không chấp nhất mà chỉ có xót thương luôn giang rộng cánh tay để đón những con người yếu đuối, những con người tội lỗi. Chuyện quan trọng là con người có thống hối, có quay về để hưởng tình thương tha thứ đó hay không mà thôi.
Phạm tội không quan trọng bằng có biết đứng dậy để quay lưng lại với tội và trở về với Thiên Chúa hay không.
Những ai yêu mến nhiều sẽ được tha nhiều. Thiên Chúa vẫn chờ đợi những người trót phạm nhưng yêu nhiều để sẵn lòng tha thứ nhiều.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nên nhắc đến chuyện Na-than nói với vua Đa-Vít: Vua Đa-Vít đã: TN 11-C63
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nên nhắc đến chuyện Na-than nói với vua Đa-Vít: Vua Đa-Vít đã ngoại tình với Bát Se-va và làm cho bà ấy mang thai. Để trừ khử chồng bà ấy, vua David đưa U-ri-gia ra trận để bị quân Am-mon giết (2S 11).
Ngôn sứ Na-than nói ngay trước mặt vua Đa-Vít, và dùng ngụ ngôn để vạch tội ông ta (2S 13:1-6). Trong bài đọc hôm nay, Na-than nhân danh Chúa nói với Đa-Vít về những điều Chúa đã làm cho ông "Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa.". (như khuôn mẫu của những bài đọc trong những ngày chủ nhật. Đầu tiên là để chuẩn bị cho chúng ta để nghe bài phúc âm, nên dẫn đưa chúng ta đến những mẫu chuyện nói về sự chấp nhận tội lỗi của chúng ta và được ơn tha thứ). Phản ứng của Đa-Vít rất đơn sơ, Ông không chờ chỉ ra những chi tiết của tội lỗi mình, nhưng thành thật nhận tội: "Tôi đắc tội với ĐỨC CHÚA". Và lời tha thứ của Đức Chúa đến ngay sau đó. Đức Chúa không làm khó khăn cho chúng ta để chờ xin được ơn tha thứ. Các bạn có để ý đến lúc bắt đầu thánh lễ hôm nay không?; Chúng ta bắt đầu tuyên xưng tội lỗi mình và xin ơn tha thứ.
Chỉ Thiên Chúa mới biết những gương xấu tội lỗi của Giáo hội sẽ xảy ra thế nào. Chúng ta đã biết những gương xấu của các bậc lãnh đạo đã tệ hại thế nào rồi. nếu có sự cố gắng che đậy, hay đổi các người đó đi chỗ khác cũng không giúp ích gì đâu. Có vài vị lãnh đạo trong giáo hội và một số giáo dân, các phương tiện truyền thông và cá hệ thống luật pháp, đã theo gương của Na-than là dùng sự thật trấn áp quyền uy. Một nạn nhân bị áp bức gần đây có nói giống như Na-than nói với vua Đa-Vít: "Tôi chỉ muốn họ chấp nhận tội lỗi và họ "xin lỗi ".
Trong khi Na-than đối đáp ngay với Đa-Vít để buộc vua Đa-Vít chấp nhận tội lỗi mình, thì, trong phúc âm, lời Chúa Giêsu nói với Si-mon người Pha-ri-sêu như nước đổ lá môn. Chúa Giêsu muốn Simon hiểu là cả ông và người phụ nữ đều là kẻ có tội, và cần được ơn tha thứ. Từ khi bắt đầu câu chuyện, người Pha-ri-sêu đã có thái độ chống đối Chúa Giêsu. Khi Chúa vào nhà ông, ông ta cũng không đổ nước để rửa chân cho Chúa như tục lệ tiếp khách vào nhà. Simon có vẻ như muốn mời Chúa Giêsu vào nhà để thử thách Chúa Giêsu, và chính hành động của người phụ nữ làm cho các ông có dịp thấy được sự thử thách đó.
Na-than dùng ngụ ngôn để đối đáp với vua Đa-Vít, và giúp Đa-Vít mở mắt để nhận ơn tha thứ. Chúa Giêsu cũng dùng ngụ ngôn, hy vọng mở mắt người Pha-ri-sêu: ơn Thiên Chúa dồi dào sẵn sàng đổ xuống nếu có đức tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cẩn thận nếu chúng ta muốn áp dụng câu chuyện phúc âm hôm nay vào vấn đề làm việc. Theo ánh sáng phúc âm hôm nay thì đề tài luân lý áp dụng vào việc làm như sau: "nếu tôi cố gắng thật nhiều để làm việc chứng tỏ lòng tôi thương yêu Chúa nhiều chừng nào thì tôi sẽ được ơn tha thứ nhiều chừng ấy". Đó không phải là điều Chúa Giêsu muốn giải thích cho người Pha-ri-sêu. Không phải vì người phụ nữ tỏ vẻ thương yêu Chúa Giêsu nhiều mà người phụ nữ đó được ơn tha thứ đâu. Đó chỉ là một dấu chỉ mà thôi. Và chính người phụ nữ ấy cảm nhận đã được Thiên Chúa tha thứ nhiều cho chị ta rồi. Và hiểu được là những người nhiều tội lỗi cũng được ơn tha thứ. Người Pha-ri-sêu, giới người đạo đức nên ít tội, nhưng vẫn là người có tội, vì không hiểu gì về điều vua Đa-Vít và người phụ nữ kia lãnh nhận; đó là ơn tha thứ của Thiên Chúa một khi họ chấp nhận tội lỗi của họ.
Chúa Giêsu hỏi ông Simon "Ông thấy người phụ nữ này chứ?". Trong phúc âm thánh Luca từ "thấy" không có ý nghĩa vật lý là trông thấy. Nó dùng để chỉ con mắt đức tin. Có người trông thấy Chúa Giêsu nhưng với con mắt đức tin của họ không thấy được ý nghĩa Chúa Giêsu trong đời sống của họ. Có người khác, như người phụ nữ kia, thấy được Chúa Giêsu là gì đối với họ và họ đã tin nhận Chúa Giêsu.
Ông Simon trông thấy người phụ nữ là một người đàn bà tội lỗi. Simon trông thấy chị ta đối đãi với Chúa Giêsu như với người khách, mặc dù đó là việc Simon phải làm, nhưng ông ta vẫn không thay đổi thái độ của mình đối với người phụ nữ đó. Trước mắt ông chị ta vẫn là người đàn bà tội lỗi. Còn Chúa Giêsu thấy được sự hoán cải nơi chị ta. Nên Ngài đã đã ban ơn tha thứ để thay đổi đời sống của chị ta.
Tôi nghĩ rằng, đôi khi xét đoán người khác (hay một tổ chức nào đó) dựa vào chút kinh nghiệm trong quá khứ. Chúng ta nghĩ rằng người đó sẽ hành động như thế nào do thái độ, hay hành vi của người ấy trong quá khứ. Thí dụ như khi chúng ta gán cho ai đó, hay nhóm nào đó trong giáo hội là "cấp tiến" hay "bảo thủ", và chúng ta tiên đoán là học sẽ ứng phó với những tình huốn giả định như thế nào.
Câu chuyện trong phúc âm cũng gần giống như khi chúng ta đi thử mắt. Khi chúng ta phải đọc hàng chữ chiếu lên tường, đọc xong thì bác sĩ đổi kính và bảo phải đọc lại thì chúng ta mới nhận ra là trước kia chúng ta tưởng là chữ "P" nhưng thật sự là chữ "F". Và như vậy giúp bác sĩ tìm đúng độ mắt kính chúng ta cần. Đó là điều Chúa Giêsu giúp chúng ta ngày hôm nay, Ngài giúp chúng ta nhìn lại người phụ nữ "tội lỗi". Chúa Giêsu hỏi: "bạn thấy người phụ nữ này chứ?" Chúng ta lại nhìn lại một lần nữa. và với sự giúp đỡ của bài phúc âm, chúng ta thay đổi nhãn quan: chúng ta không những trông thấy người phụ nữ ấy rõ hơn, nhưng chúng ta còn trông thấy chúng ta trước mặt Thiên Chúa với cặp mắt chân thật hơn. Bài phúc âm giúp chúng ta đo mắt kính chính xác hơn, và bây giờ chúng ta thấy lòng từ bi của Thiên Chúa rõ ràng hơn.
Một lần nữa, chúng ta lại ngồi vào bàn tiệc với Chúa Giêsu. Chúng ta thấy: Chúa Giêsu chấp nhận một người ăn năn, và Chúa chỉ trích người Pha-ri-sêu tự coi mình là người đạo đức. những người sám hối và ngồi vào bàn tiệc với Chúa Giêsu được lòng tin là nhờ đức tin vào Chúa Giêsu mà họ được ơn tha thứ. Chúa Giêsu nói:tội lỗi của người phụ nữ đã được tha. Chúng ta cũng đã được ơn tha thứ như người phụ nữ, và bây giờ tình yêu thương của chúng ta đối với Chúa Giêsu được thể hiện qua việc phục vụ của chúng ta.
Tôi muốn cẩn thận không gọi "người phụ nữ tội lỗi" ấy là một gái điếm. Tại sao lại buộc tội ấy cho chị ta? Vì khi Chúa Giêsu gọi Phêrô thì ông ta tự xưng mình là "kẻ có tội", chúng ta lại không buộc tội ấy cho Phêrô? Người phụ nữ ấy bị xem là người tội lỗi, có thể vì chị ta là nữ tỳ của một gia đình ngoại đạo, hay chị ta có liên hệ với một nghề mà các lãnh đạo tôn giáo cho là không trong sạch như việc chôn cất người chết. nếu chị ta bị bệnh hay bị tật nguyền thì người ta coi chị ấy là người bị Chúa phạt vì tội lỗi của chị ta. Chúng ta muốn tránh những thành kiến về những người phụ nữ gọi là "tội lỗi" trong Thánh Kinh.
Hôm nay chúng ta đến dự bàn tiệc với Chúa Giêsu, Ngài muốn chúng ta "nhìn thấy người phụ nữ" trong giáo hội chúng ta hiện nay. Các phụ nữ nơi bàn tiệc trong cộng đoàn Kitô Hữu có địa vị gì? Họ có tiếng nói trong cộng đoàn hay không? Có ai để ý đến tiếng nói của họ không? Có những phần việc nào mà họ không được làm hay không? Tại sao? Ai là những người được có trách nhiệm phục vụ? có những việc gì mà chỉ dành riêng cho một số người thôi? Tại sao? Bài phúc âm hôm nay có thể là kính mắt mới rõ ràng hơn để giúp chúng ta suy gẫm câu hỏi của Chúa Giêsu "Các con thấy người phụ nữ này chứ?"
Dân chúng tụ lại nghe Đức Kitô giảng dậy. Người ta kháo nhau về giáo lí của Người. Thiên hạ sửng: TN 11-C64
Dân chúng tụ lại nghe Đức Kitô giảng dậy. Người ta kháo nhau về giáo lí của Người.
Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư Mc 1,22
Lời giảng của Ngài thu hút quần chúng vì:
Lời giảng dẫn vào đời sống nội tâm, nhận mình có tội, dẫn đến thống hối.
Lời giảng giúp người nghe biết tình thương Chúa bao la hơn tội lỗi.
Lời giảng dẫn đến sự sống mới trong Chúa.
Kinh ngạc
Đức Kitô còn làm cho người nghe kinh ngạc hơn nữa. Họ kháo với nhau. Ông ấy còn có cả quyền tha tội. Ông ta tha tội cho người phụ nữ đang khóc dưới chân ông.
'Tội của chị đã được tha rồi'. Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: ông này là ai mà lại tha được tội. Nhưng Đức Kitô nói với người phụ nữ. 'Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an' Mc7,50
Quyền ân xá
Không ai có quyền tha tội, ngoại trừ một mình Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa tha tội Ngài ban ơn bình an cho cả thể xác lẫn tâm hồn. Đức Kitô nói với người phụ nữ: Chị hãy đi bình an. Một mình Thiên Chúa có quyền ban bình an cho cả xác lẫn hồn.
Toà án xã hội cởi trói cho thân xác; không thể cởi trói cho tâm hồn. Toà án xã hội tuyên án, kẻ này có tội, kẻ kia vô tội. Án phạt khắt khe tùy miền. Cùng hành động, nước này phạt, nước kia tha. Philatô tự nhận có quyền tha hay phạt khi ông nói với Đức Kitô.
Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?
Đức Giêsu đáp lại
Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài Gn 19,10
Thiên Chúa trao trách nhiệm cho con người. Họ có trách nhiệm trong quyền hạn được trao. Cha mẹ với con cái; thầy với trò; chính quyền với dân. Quyền xét xử là ơn Trời ban. Vì thế việc xét xử phải thuận ý và theo luật Trời. Đó là luật yêu thương. Ơn Trời ban nên phải xử dụng đúng, xét xử công minh, chính đại. Nếu không là đắc tội với Trời. Xét xử trái luật yêu thương là phạm luật. Xử trái luật yêu thương là xử bất công. Philatô biết đồng môn vận động bản án bất công cho Đức Kitô. Biết mình kém thế. Lại sợ mất chức, quyền. Ông rửa tay tuyên bố
Ta vô can trong vụ đổ máu người công chính, vô tội. Mt 27,24
Việc xét xử phải chí công, vô tư. Luật pháp phải bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Luật pháp do phe nhóm qui định mong trục lợi. Bản án bất công, gây tang thương, đau khổ cho người khác chính kiến, khác quan điểm với phe nhóm. Hành động phi nhân trái phép công bằng.
Bản án thiếu bác ái, yêu thương, làm cho cả chánh án lẫn tội nhân bị lương tâm dằn vặt, cắn rứt ngày đêm. Chánh án bị lương tâm dày vò vì làm việc trái lương tâm, bất nhân. Tội nhân bị lương tâm cắn rứt vì tội trong nội tâm chưa được tha.
Khi Đức Kitô tuyên bố Ngài có quyền tha tội. Quyền này vượt khỏi giới hạn địa phương. Lời Ngài thứ tha mang lại sự sống cho cả thể xác lẫn tâm hồn. Lời Ngài tha thứ mang lại bình an nội tâm. Tạo sức sống mới. Mở ra một tương lai tươi sáng. Ban cho cái nhìn mới, đặt căn bản trên tình yêu và bác ái. Người phụ nữ vô danh khóc dưới chân Chúa cảm nghiệm được điều đó. Đời chị thay đổi. Nội tâm bình an. Chị tìm được cuộc sống mới. Chị tự nguyện dùng thuốc thơm xức chân Chúa, lấy tóc mình lau chân, vui lòng phục vụ thúc đẩy bởi lòng mến.
Cách tiếp đón
Có nhiều cách khác nhau đón tiếp Thiên Chúa vào trong tâm hồn con người. Phúc âm hôm nay liệt kê hai cách đón tiếp.
Cách thứ nhất là cách của chủ nhà, ông Simon.
Cách thứ hai là cách của người phụ nữ vô danh.
Cả hai cách Đức Kitô đều sẵn lòng đón nhận. Vấn đề xảy ra khi chủ nhà Simon so sánh, nghi ngờ về sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Nếu quả thật ông này là ngôn sứ thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào. Một người tội lỗi c.40
Đến lúc đó Đức Kitô lên tiếng cho biết, Simon ông đã sai. Ông đón Chúa vào nhà nhưng giữ thái độ xa cách, phân biệt chủ tớ. Ông không cho nước để thanh tẩy. Không hôn chào cũng chẳng xức dầu. Chị phụ nữ vô danh đón Đức Kitô với tất cả tấm lòng. Ngoài chai dầu thơm, giọt nước mắt vui mừng thống hối và nụ hôn chào đón Chúa, Chị không còn gì tốt hơn để cho. Chị không dám ngồi chung bàn, coi như ngang hàng khách, nhưng âm thầm ngồi dưới nền đất để phục vụ. Thái độ khiêm nhường hiếm có kia đã không được nhận ra; trái lại còn bị hiểu lầm. Simon nhìn vẻ bề ngoài phán đoán nên ông đã sai lầm. Đức Kitô nhìn thấu suốt tâm hồn. Ngài dẫn chứng bằng cử chỉ hành động bên ngoài của chị để nói lên tấm lòng thành. Nhờ thành tâm, chân tình yêu mến và chị nhận được ơn tha thứ và ơn bình an. Tình yêu thể hiện qua đức tin của người phụ nữ. Tin là Đức Kitô có quyền tha tội. Tin Ngài có quyền tha tội là tin Ngài là Chúa vì chỉ một mình Chúa mới có quyền tha tội.
Con người được nên công chính không phải nhờ đã làm những gì luật dạy nhưng nhờ lòng tin, tin: TN 11-C65
Con người được nên công chính không phải nhờ đã làm những gì luật dạy nhưng nhờ lòng tin, tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Chủ đề này đã được thánh Tông đồ dân ngoại triển khai với nhiều minh chứng hùng hồn đặc biệt trong hai thư gửi tín hữu Galata và Rôma. Được nên công chính hay được công chính hóa nghĩa là gì? Công chính hóa là quá trình một tội nhân được hòa giải với Thiên Chúa. Công chính hóa là thay đổi từ tình trạng con cái Ađam cũ (tình trạng tội lỗi) sang tình trạng làm con cái Thiên Chúa nhờ công trạng của Ađam mới (x.Dz 1524). Về mặt tiêu cực đó là tình trạng được thứ tha tội lỗi. Về mặt tích cực đó là tình trạng được giao hòa với Thiên Chúa, được làm con cái Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Thiên Chúa ban tặng. (x.Tự Điển Công Giáo phổ thông - Công chính hóa - J.A.Hardon)
Tình trạng tội lỗi, bất xứng, bất toàn của con người: Giáo lý Công giáo truyền dạy rằng do bởi sự bất tuân của Ađam cũ, nhân loại bị đắm chìm trong tình trạng tội nhơ. Và con người dù lớn hay bé, dù chứ phận cao hay thấp, dù nam hay là nữ...đều có thể phạm tội, tội mọn cũng như tội nặng. Bài đọc thứ nhất trích sách Samuel và bài Tin Mừng thánh Luca được trích đọc trong Chúa Nhật XI TN C làm một minh họa.
Được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn, xức dầu phong vương làm vua, được Thiên Chúa yêu thương ban nhiều ân lộc, cụ thể là cả một đất nước, một vương triều với nhiều cung tần phi nữ, thế mà Đavít đã làm điều dữ đáng ghê tởm. Đavit không chỉ phạm tội ngoại tình mà còn âm mưu giết Uria để cướp lấy vợ của ông ta. Và đây, một phụ nữ không tên tuổi xuất hiện tại nhà người biệt phái đã mời Chúa Giêsu dùng bữa. Tin Mừng ghi chị "vốn là người tội lỗi trong thành". Không biết chị đã phạm những tội gì, nhưng chắc chắn là tội công khai và gây gương mù gương xấu.
Một nam và một nữ, cả hai đều là tội nhân. Một chức cao quyền lớn và một nữ nhi vô danh bé phận, cả hai đều phạm tội và chắc hẳn tội không nhỏ. Trong câu chuyện người phụ nữ phạm tội bị bắt quả tang mà Tin Mừng thánh Gioan tường thuật có chi tiết khá hiện sinh về tình trạng tội lỗi của con người. Sau khi Chúa Giêsu ngẩng mặt lên và nói: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi", thì cả đám đông, đều rút lui cách trật tự, bắt đầu từ người lớn tuổi (x.Ga 8,1-11). Ngay thánh Tông đồ dân ngoại cũng đã từng thú nhận: "Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm."(Rm 8,19).
Ơn tha thứ là hồng ân vượt quá khả năng của con người. Tự sức mình, trong phận thụ tạo thấp hèn, con người không thể có khả năng giao hòa với Đấng Toàn năng. Ơn công chính hóa con người nhận lãnh là do Thiên Chúa đoái thương thi ân. Như thế cần khẳng định rằng Thiên Chúa là nguyên nhân tác thành, là điều kiện ắt có của ơn công chính hóa mà con người thụ hưởng. Sự đáp trả của con người trước tình thương của Thiên Chúa được xem như là điều kiện đủ mà thôi. Và điều kiện đủ ấy chính là niềm tin, tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta cùng xem xét một vài hình thức biểu lộ lòng tin.
1.Khiêm nhu nhìn nhận tội lỗi của mình: Đavít đã khiêm nhu nói với Nathan: "Tôi đắc tội với Đức Chúa"(2Sm 12,13). Và tiên tri Nathan đã phán rằng Thiên Chúa đã bỏ qua tội lỗi cho Đavít. Chúa Kitô cũng đã từng kể câu chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng tạ ơn Chúa và kể lể công trạng mình là không chỉ không trộm cắp, không ngoại tình, không xấu xa như người thu thuế đứng phía sau mà còn ăn chay một tuần hai lần, dâng cúng cho Chúa mười phần trăm thu nhập. Thế mà Chúa Kitô kết luận ông này ra về không được công chính hóa. Trong khi đó người thu thuế thì khiêm nhu đứng đằng xa, cúi mặt xuống đấm ngực thú nhận mình là kẻ tội lỗi và xin Chúa thương xót thì lại được nên công chính (x.Lc18,9-14). "Con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: 'Nào ta đi thú tội với Chúa,' và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con"(Tv 32) Những lời Thánh Vịnh trên đây chắn chắn là tâm tình của vua Đavít, một người vốn đầy tội lỗi thế mà đã được gọi là thánh vương, không phải vì công trạng gì của ngài mà chỉ nhờ ngài tin vào lòng lân tuất của Thiên Chúa.
2.Yêu mến Chúa nồng nàn: Yêu thương là một cách thế biểu lộ lòng tin cách tuyệt hảo. Yêu thương ai thì trao dâng cho người ấy những gì tốt nhất, quý giá nhất của mình. Chị phụ nữ đã dâng trao cho Chúa Giêsu những gì là quý giá nhất của chị. Trước hết đó là danh dự của chị, khi chị không ngại ngần đến chổ công khai để gặp Chúa Giêsu. Gặp Chúa rồi, chị tiếp tục dâng dòng nước mắt của mình, mái tóc của mình, đôi môi của mình và dầu thơm để nâng niu bàn chân của Chúa. Qua cử chỉ mến yêu ấy, Chúa Giêsu thấy được lòng tin của chị để rồi phán: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an"(Lc 7,50). Đâu có hơn gì Giuđa hay các anh em còn lại, Phêrô đã ba lần chối bỏ Thầy, thậm chí trước cả một đầy tớ gái. Thế nhưng Phêrô đã nhận được hồng ân thứ tha, ơn công chính hóa, nhờ cái tình dành cho Thầy mình, một cái tình đã được minh định rõ trên bờ hồ Tibêria sau khi Chúa phục sinh (x.Ga 21,15-19). Chính thánh nhân đã để lại cảm nghiệm của ngài cho chúng ta: "Tình yêu phủ lấp muôn vàn tội lỗi"(x.1P 4,8).
Là Kitô hữu, chúng ta vốn khát mong được làm con cái Thiên Chúa trong ân sủng hầu được hưởng gia nghiệp muôn đời là hạnh phúc vĩnh cửu. Đây là ân ban của Thiên Chúa. Không một ai có thể tự mình chiếm lấy hạnh phúc này. Chúng ta chỉ có thể đón hạnh phúc này bằng đức tin. Để biểu lộ niềm tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa thì chúng ta cần khiêm nhu nhìn nhận thân phận bất xứng, tội nhơ của mình và đồng thời yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Một người đã chân thành nhìn nhận sự bất toàn, bất xứng và tội nhơ của mình thì chắc chắn sẽ có lòng khoan dung với lầm lỗi của tha nhân. Một người đã hết lòng mến yêu Thiên Chúa thì cũng sẽ sống hết lòng, hết tình với tha nhân, nhất là với những người bé mọn. Chính Chúa Kitô đã nhiều lần khẳng định sự thật này: "Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán!"(Mt 7,1). "Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha"(Lc 6,37). "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy để thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thưở tạo thiên lập địa...vì các người đã biết yêu thương đồng loại, đặc biệt những người bé mọn, cho dù các ngươi không biết là đã làm cho chính Ta."(x.Mt 25,31-46).
Đọc đoạn Tin Mừng của Chúa nhật XI hôm nay, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những suy nghĩ: TN 11-C66
Đọc đoạn Tin Mừng của Chúa nhật XI hôm nay, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những suy nghĩ, những cảm nghiệm khác nhau về vai trò của ông Simon, người biệt phái và người phụ nữ tội lỗi. Nói tới người phụ nữ tội lỗi có lẽ chúng ta bị xúc động và cảm thấy có nhiều thiện cảm hơn đối với Simon.
Chúa Giêsu được ông Simon, người thu thuế và gia đình của ông mời tới dùng bữa tại nhà của ông. Gia đình của Simon đã làm ăn rất khấm khá bởi vì với cái nghề thu thuế mà ông đang làm, đã giúp ông có của ăn, của để, đã làm cho ông và gia đình trở nên những người có máu mặt, có địa vị trong xã hội lúc bấy giờ. Sở dĩ ông Simon mời Chúa Giêsu đến nhà dùng bữa vì ông muốn biết Chúa Giêsu thực sự có là vị ngôn sứ đáng kính, giỏi giang không?
Ông muốn trắc nghiệm và kiểm chứng Chúa Giêsu. Ông cho rằng ông hiểu rất rõ về người phụ nữ tội lỗi cũng đang có mặt trong nhà của ông và nếu Chúa Giêsu là ngôn sứ thật Ngài sẽ có phản ứng trần thế như mọi người là đuổi người phụ nữ tội lỗi ra khỏi nơi ấy ngay khi thấy mặt người phụ nữ này. Chúa Giêsu không đuổi người phụ nữ như họ lầm tưởng, do đó, họ cho rằng Chúa Giêsu không phải là vị ngôn sứ thật. Họ đánh giá Chúa Giêsu không có khả năng hay nói cách nôm na, Chúa Giêsu chẳng phải là ngôn sứ.
Ông Simon cứ tưởng, cứ nghĩ là Chúa Giêsu phải có phản ứng, phải có hành động như ông và những người khác. Đó là phải đuổi người phụ nữ tội lỗi này chứ không được tiếp xúc chứ đừng nói đến lòng thương xót như Chúa đã làm. Ông Simon vẽ ra trong đầu mình về một Thiên Chúa và Thiên Chúa như ông nghĩ phải là Thiên Chúa phán xét, lên án, đặc biệt là lên án những kẻ tội lỗi. Ông Simon tưởng ông là công bằng nhưng kỳ thực ông đâu có nhận ra tình thương của Thiên Chúa. Ông cho rằng gái điếm là gái điếm. Ông Simon không nhận ra vì ông có suy nghĩ tồi, suy nghĩ theo kiểu thế gian nên lòng ông đã ra chai đá. Chính vì thế phải sống: "yêu thương mới nhận ra Thiên Chúa". Người phụ nữ tội lỗi đã nhận ra cơ may, đã biết sống yêu thương nên cuộc gặp gỡ giữa Chúa và người nữ tội lỗi đã trở nên thành công. Người phụ nữ này đã có tấm lòng cởi mở, không khô cứng, không chai lì như Simon. Chị đã tin và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương, và sự tha thứ của Chúa. Chị đã yêu mến nhiều, nên được tha thứ nhiều: "Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít " ( Lc 7, 47). Chị đã nhận ra mình là người vô cùng tội lỗi, nên đã được Chúa cứu vớt, yêu thương: "Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an " ( Lc 7, 50 ).
Vâng, lòng tin đã đem lại ơn tha thứ. Ơn tha thứ đã biến đổi tội nhân để tội nhân mãi mãi được an bình và bước đi trong bình an. Chúng ta cần phải biểu lộ tình yêu và lòng tin của chúng ta bằng việc sám hối. Quay về và cải tà qui chánh mới giúp chúng ta nhận ra sự yếu hèn, tội lỗi của mình. Chỉ những ai nhận mình là tội lỗi mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta sẽ rơi vào tình trạng của Simon khi chúng ta tưởng mình là công chính, vô tội. Do đó, chúng ta không chờ đợi Thiên Chúa. Như thế, cuộc gặp gỡ của chúng ta với Ngài sẽ trở nên hời hợt, bề ngoài và dễ có nguy cơ thất bại.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn luôn nhận ra tình thương vô biên, hải hà của Chúa. Amen.
Đề tài tội lỗi xem ra quen thuộc với tôn giáo, cách riêng với Kitô giáo. Nhiều người thời nay lại: TN 11-C67
Đề tài tội lỗi xem ra quen thuộc với tôn giáo, cách riêng với Kitô giáo. Nhiều người thời nay lại muốn chối bỏ thực tại này. Vì hễ nói đến tội là dường như làm giảm giá trị con người một cách nào đó. Sao lại cứ mãi bàn đến chuyện tiêu cực ! Thế nhưng, thông tin đại chúng lại thích bám vào đề tài này để câu khách. Chuyện tốt thì ai cũng thích nhưng người ta lại thích tò mò với những gì mang tính "xí căng đan" hơn. Dù sao đi nữa, chúng ta không thể chối bỏ sự hiện diện của điều xấu giữa xã hội này, thế giới này và nhất là nơi chính bản thân mình.
SỰ HIỆN HỮU CỦA TỘI VÀ TÌNH TRẠNG BẤT LỰC CỦA CON NGƯỜI:
Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm:"Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi" ( Tv 50 ). Có đủ một chút lý trí thì con người đã thấy mình dễ nghiêng chiều với điều xấu. Cha ông ta cũng đã nhận ra hiện trạng này: "Đa thọ, đa nhục. Đa phú, đa ưu". Càng giàu có càng thêm băn hăn, bó hó. Tuổi đời càng cao thì tội lỗi càng ngập đầy. Là Kitô hữu, chúng ta thừa nhận điều ấy. Xin thương xót con là kẻ có tội, một điệp khúc được lặp đi lặp lại nhiều lần trong Thánh Lễ và các cử hành Phụng vụ. Ngoại trừ Đức Maria, thì trong kiếp thọ tạo này, khi đã đủ năng lực chịu trách nhiệm về hành vi của mình, thì ai ai cũng đã từng phạm tội và có thể sẽ phạm tội. Quyền cao chức trọng như vua Đavit cũng có tội (x. 2Sm 11-12 ). Ông đã phạm thứ tội đáng tử hình: giết Uria để cướp lấy vợ ông ta, bà Betsabê. Thấp cổ, bé phận hay vô danh như người phụ nữ trong bài Tin Mừng Lc 7,36-8,3 cũng có tội. Nam hay nữ đều có thể phạm tội. Thánh Phaolô thú nhận:" Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm...Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ?" ( Rm 8,19-24 )
Mỗi niềm tin tôn giáo đều có một phương pháp, một con đường giải thoát. Anh em Phật tử thì chọn con đường "giác ngộ, từ bi, hỉ xả ", người theo Lão Trang thì chọn con đường "vô vi", người theo Đức Khổng thì chọn cách thế sống "chính danh, chính phận". Còn Kitô hữu chúng ta thì sao ? Thánh Tông Đồ dân ngoại khẳng định rằng nỗ lực của con người xưa nay trước tình trạng tội lỗi của chính mình, hay của xã hội xem ra đành bất lực. Dù tuân giữ các lề luật, dù thực thi nhiều công quả cũng không thể tự mình làm cho mình nên công chính, nghĩa là nên thanh sạch (x. Gal 2,16-18 ).
Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng mà không có sự gì là không thể được ( x.Lc 1,37). Bằng Lời mạc khải và bằng chính Ngôi Lời nhập thể, nhân loại có được con đường giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Đó là con đường cởi bỏ chiếc áo, cởi bỏ mặt nạ, cởi bỏ tâm hồn.
CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT:
1.Cởi bỏ chiếc áo, cởi bỏ mặt nạ để hiện diện trước mặt nhau bằng sự trung thực, hiện diện trước nhan Thiên Chúa với lòng thành thật. Đây chính là vi khiêm hạ. Đavít, dù là một quân vương vị vọng, đã chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình trước Tiên Tri Nathan. Tôi đã phạm tội. Không một chút quanh co, lấp liếm hay bào chữa. Và Thánh vương đã tự thú nhận trước nhan Thiên Chúa con người tội lỗi của mình. Thánh Vịnh " Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con" ( Tv 50 ) chính là tâm tình của Đavit.
Người phụ nữ trong bài Tin Mừng, khi can đảm bước vào nhà của một người đáng kính, với sự hiện diện của nhiều người tự cho mình là công chính, cũng đã mặc nhiên tự thú hiện trạng tội lỗi của mình. Chân thành nhìn nhận mình là kẻ có tội cách khiêm hạ là một cách thế lôi kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa hữu hiệu. Chúa yêu thương và nhậm lời kẻ khiêm nhu. Người thu thuế vào Đền thờ không dám ngước mặt lên chỉ biết đấm ngực thú lỗi: lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội. Anh ta ra về và được nên công chính ( x Lc 18,9-14 ).
2. Cởi bỏ tấm lòng để trao dâng cho tha nhân và hiến dâng cho Thiên Chúa tất cả những gì mình là, mình có, mình gắn bó, đó là cách thế để nên trong sạch. Chúa Giêsu đã từng minh định với người biệt phái đã mời Người dùng bữa rằng: " Thật, nhóm Pharisêu các người. Bên ngoài chén dĩa thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao ? Tốt hơn, hãy bố thí những gì bên trong thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các người." ( Lc 11,39-41 ) Chị phụ nữ vô danh tại nhà ông Simon đã hiến dâng cho Chúa Giêsu những gì quý nhất của chị để tỏ lòng yêu mến. Với người phụ nữ, nước mắt là một vũ khí lợi hại. Biết bao anh hùng đã chết chìm trong dòng nước mắt của giai nhân. Thế mà chị đã dùng nước mắt để tưới đẫm chân Chúa Giêsu. Cái răng, cái tóc là gốc con người. Với phụ nữ, giới được gọi là phe tóc dài thì mái tóc lại càng quý giá và lợi hại khôn xiết. Thế mà, chị phụ nữ lại dùng chính mái tóc mình để lau đôi bàn chân từng rong duỗi khắp các nẻo đường Palestin của Chúa Giêsu. Chỉ trong tình yêu dạt dào mới có hành vi này. Đôi môi người phụ nữ là phần thân thể được gìn giữ và tô điểm cách đặc biệt. Nó vừa là nơi biểu lộ xúc cảm cũng như trao ban tình cảm. Thế mà chị phụ nữ đã đặt nó trên bàn chân của Chúa Giêsu. Lại thêm dầu thơm hảo hạng nữa chứ. Một vũ khí bên ngoài hỗ trợ rất đắc lực cách đặc biệt cho nữ giới. Chị ta lại đổ trên chân Chúa. Có thể nói, vì yêu, chị phụ nữ đã trao dâng cho Chúa Giêsu tất cả. Chị đã yêu mến nhiều và đã được tha thứ nhiều.
Con đường để được giải thoát khỏi cảnh nô lệ, để được nên công chính, đã mở ra. Xin tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta trong kiếp lữ thứ này, dù khó có thể tránh lỗi lầm, nhưng luôn biết chân thành khiêm nhu hiện diện trước nhau một cách chân thành, hiện diện trước nhan Chúa cách trung thực. Càng thêm tuổi, càng thêm quyền chức, càng nhiều danh vọng, người ta càng dễ có khuynh hướng "đeo mặt nạ" với nhau và có khi "tô son" trước nhan Thiên Chúa. Thần Dữ, cha của sự gian dối, rất thích sử dụng vũ khí này để kìm hảm chúng ta trong tội. Để có thể can đảm sống trung thực, ước gì có được một một môi sinh tràn đầy tình yêu khoan thứ. Chính bởi cái nhìn bất bao dung, cái nhìn thích kết án của ta một cách nào đó giam hảm tha nhân trong sự gian dối, trong sự giả hình. Ước gì chúng ta biết mở con tim, quảng đại trao dâng cho nhau, quảng đại hiến dâng cho Thiên Chúa những gì quý giá, gắn bó thiết thân để bày tỏ tình yêu thương. Không có con đường nào đẹp hơn con đường này. Vì " Tình yêu phủ lấp muôn vàn tội lỗi" ( 1P 4,8 ). Và "Yêu thương thì chu toàn mọi lề luật" ( Rm 14,10 ).
Chúng ta biết trong Tin mừng Luca, không ít lần tác giả đã ghi lại những lần Chúa Giêsu được: TN 11-C68
Chúng ta biết trong Tin mừng Luca, không ít lần tác giả đã ghi lại những lần Chúa Giêsu được những người thuộc nhóm Pharisêu mời dùng bữa - điều không hề xảy ra nơi Tin mừng Máccô và Mátthêu. Điều này không có gì khó hiểu. Bởi thánh sử Luca vốn được xem là "văn sỹ ca tụng lòng nhân từ và khoan dung của Chúa Giêsu". Mặt khác, vì là môn đệ của thánh Phaolô - một Pharisêu "thứ thiệt", nên có lẽ thánh sử đã có cái nhìn mềm dẻo và thiện cảm hơn với nhóm người này. Tuy nhiên, nếu để ý chúng ta sẽ thấy Tin mừng hôm nay không hề ca ngợi tấm lòng mến khách của chủ nhà Pharisêu mà đề cập nhiều đến "vị khách không mời mà đến"- người đàn bà tội lỗi. Vì sao có sự kiện trái ngược này? Chúng ta cùng xem.
Khi Chúa Giêsu đang dùng bữa cùng với chủ nhà Pharisêu và các quan khách thì bên ngoài, một người phụ nữ dường như không quan tâm đến bữa tiệc thịnh soạn có gì, chủ nhà là ai hay khách mời gồm những vị nào,... ngoài Chúa Giêsu- người được bà ân cần đón tiếp cách khác thường. Chúng ta có thể thấy điều khác thường này và, cũng chính điều "khác thường" này làm nên điều kỳ diệu.
Điều "khác thường" đó là gì? Chúng ta có thể thấy trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với người Pharisêu. Khi được hỏi ai là người yêu mến chủ nợ nhiều hơn trong hai con nợ? Chủ nhà Pharisêu đã trả lời chính xác rằng "kẻ đã được tha nhiều" thì dĩ nhiên sẽ yêu mến chủ nhiều hơn. Trở lại với người phụ nữ. Chúng ta thấy sở dĩ Chúa Giêsu ngợi khen chị có lẽ không bởi vì chị đã khóc sướt mướt hay tốn nhiều tiền để mua dầu thơm xức chân và không ngừng âu yếm hôn chân Người. Bởi nếu chỉ dừng lại ở khía cạnh này, sẽ có khối người làm được như chị mà có khi còn làm hơn chị nữa. Chúng ta nên nhớ phong tục hiếu khách của người phương Đông thời đó mỗi khi có khách đến nhà liền lấy nước rửa chân cho khách không phải là chuyện hiếm (x. St 18,4;19,2).
Vấn đề ở đây là gì? Người đàn bà này không chỉ biểu hiện lòng mến khách bằng việc xã giao bên ngoài mà còn bằng tấm lòng yêu mến rất chân tình. Lòng yêu mến chân tình của bà đã được Chúa Giêsu ghi nhận. Lòng yêu mến chân tình đó biểu lộ rất rõ lòng thống hối ăn năn về những hành vi bất chính trong quá khứ của bà. Tin mừng nêu đích danh bà vốn là người tội lỗi mà. Thế nên, với Chúa Giêsu, yêu mến Thiên Chúa đồng nghĩa với việc nhận ra thân phận tội lỗi để rồi từ đó quyết tâm trở về nẻo chính đường ngay, lãnh nhận ơn hoà giải và lòng bao dung của Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa hẳn không quan tâm quá khứ của con người với những hành vi sai trái lỗi lầm; điều Người mong đợi ở con người chính ở sự cố gắng hướng thiện của họ. Và mỗi khi con người cố gắng hướng thiện trở về nẻo chính, tội lỗi của họ lập tức được thứ tha.
Còn với người Kytô hôm nay thì thế nào nhỉ? Có lẽ sẽ không có nhận định nào chuẩn xác cho bằng những nhận định gần đây của Đức Thánh Cha Benedict 16 khi ngài cho rằng con người thời đại hôm nay đánh mất dần cảm thức về tội lỗi. Thật thế, con người thời nay dường như không còn thấy xấu hổ hay mặc cảm tội lỗi nữa. Bởi có những thứ tội được nhiều quốc gia hợp pháp hoá đàng hoàng như phá thai, kết hôn đồng tính, an tử,... Thật đáng sợ làm sao khi con người thời nay phạm những tội tày đình như thế mà vẫn xem là bình thường, vì họ được thứ luật pháp quái quỷ kia bảo vệ mà! Nhìn ra được như thế, chúng ta mới thấy vua David trong bài đọc 1 và người đàn bà tội lỗi trong Tin mừng hôm nay quả là những con người dũng cảm khi đối diện với những lỗi lầm và không ngừng thống hối cách chân thành.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết thành tâm thống hối, chân nhận những lỗi lầm đang có nguy cơ biến chúng ta thành những đồ đệ của thế lực ác thần, rời xa tình thương của Thiên Chúa. Người đàn bà tội lỗi trong Tin mừng hôm nay là bài học cho mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn khoan dung từ ái, sẵn sàng tha thứ và quên hết mọi lỗi lầm nếu chúng ta biết chân nhận và thành tâm ăn năn thống hối, thực sự trở về từ chính nội tâm chứ không phải mang dáng vẻ hình thức bên ngoài.
Rất đẹp trai, một người đàn ông lý tưởng; không rượu, không thuốc, không mắc một tệ nạn nào. Ăn: TN 11-C69
Rất đẹp trai, một người đàn ông lý tưởng; không rượu, không thuốc, không mắc một tệ nạn nào. Ăn nói chững chạc, phong thái điềm đạm ung dung. Thế nên, có một điều, không nói ra, nhưng những người chung quan vẫn luôn để ý: Vấn đề phụ nữ. Người ta vẫn rình xem, ông Giêsu này, sẽ có những mối liên hệ nào trong cái thường tình của con người, với những phụ nữ; nhất là với những phụ nữ đẹp. Chết rồi! Có một phụ nữ đẹp nổi tiếng ở Giêrusalem đang đứng sát cạnh bên Chúa. Chị ta đang có những hành động rất khó coi, kỳ cục. Chị ta ôm lấy chân Chúa, mọi con mắt mở to ngỡ ngàng. Rồi chị ta đập vỡ một bình bạch ngọc chứa đầy dầu thơm, và đổ tràn trề lên chân Chúa. Mùi thơm bát ngát căn phòng. Rồi chị ta lấy suối tóc mây của mình mà lau. Đầy người nhíu mày khó chịu. Chưa nói ra, nhưng trong lòng những người đứng đó, đã có bản án kết tội rồi. Rất thanh thản, ung dung tự tại; không xốn xang bối rối. Chúa Giêsu điềm tĩnh đứng dậy giải thích:
1. Đây là một người đàn bà tội lỗi biết ăn năn
Người đàn bà này đã có quá nhiều tai tiếng. Một thời gian rất dài, chị đã dìm mình trong tội lỗi. Và hôm nay, chị gặp Chúa, một Đấng Thánh. Chị đã nhìn Ngài. Đứng trước sự thánh thiện từ Chúa toát ra, chị đã nhận thấy sự khốn nạn của đời mình. Chị đã khóc, chị muốn trở về, nhưng chị sợ. Sợ cái bóng tối của đời mình quá dầy và quá đặc. Chị phải liều lĩnh. Chị đã giải quyết đời mình theo cung cách giang hồ của chị. Không xấu hổ, chị chạy vào ôm lấy chân Chúa. Một sự khiêm tốn lớn lao. Chị gập đầu, ôm hôn bàn chân Chúa. Chị nghĩ: đời mình thấp hèn, chỉ xứng đáng hôn bàn chân thánh thiện của Chúa thôi. Bình dầu thơm bạch ngọc đắt tiền, chị đập vỡ toang. Chị muốn đập tan cái phù vân của đời chị; cái bả phù hoa mà chị đã suốt đời dõi tìm. Cái bình dầu ấy đắt tiền, chị muốn hủy nó đi; muốn phá tan cái quá khứ phù phiếm ấy. Chị muốn hủy bỏ đi, những đồng tiền nhơ bẩn ấy.
2. Vì chị có một tình yêu rất lớn đối với Chúa
Và Chúa bảo: Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, vì chị yêu mến nhiều. Điều này có nghĩa là: Sự tha thứ không bắt đầu từ Chúa, mà lại bắt đầu từ lòng yêu mến của chị. Lòng bao dung của Chúa lúc nào cũng như mưa, như mưa nghĩa là lúc nào cũng ngập đầy trên đầu con người; sẵn sàng hết rồi; bất cứ người nào, nếu có lòng hối hận, tin yêu Chúa, thì tức khắc sẽ nhận được sự thứ tha. Nhưng trong thực tế, con người lại đứng phân vân, không biết mình đã ăn năn thật chưa, hay đủ chưa, và như vậy, không biết mình đã được tha thứ chưa, cho nên, Chúa đã phải lập ra bí tích giải tội, để con người biết chắc chắn, và có quyền an tâm về thực tại tâm hồn mình.
Câu hỏi:
1- Bạn có thường kết án người khác hay không? 2- Bạn có can đảm sám hối như người đàn bà không? Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
+ “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”: Khi đến với Đức Giê-su, người phụ nữ đã công khai bày tỏ lòng tin, và chính lòng tin này đã làm cho chị từ bỏ con đường tội lỗi. Thay vì làm cho Đức Giê-su bị ô uế theo Luật, chị lại được Người thanh tẩy và ban ơn bình an, nghĩa là được tràn đầy sự sống và được cứu độ (x 1,79). Trong Kinh Thánh, bình an là mức sung mãn của sự sống, là món quà cao quý nhất mà Đấng Mê-si-a ban tặng (x Is 9,5-6).
- C 1-3: + Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh: Đức Giê-su hoàn thành sứ mệnh có nhóm môn đệ cùng đi theo. Về sau, các nhà truyền giáo cũng noi gương Người làm như vậy (x Cv 8,14). Đức Giê-su cũng chính thức trao trách nhiệm truyền giáo cho Nhóm Mười Hai (x Lc 9,1-2). + và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh: Tin mừng Mt 27,55 và Mc 15,41 cũng nói đến nhóm phụ nữ này. Đây là một sự kiện khác thường ở Pa-lét-tin. + Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la: Bà này sẽ đứng dưới chân thập giá (x Mt 27,56), hiện diện trong cuộc mai táng Đức Giê-su (x Mt 27,61), chứng kiến ngôi mộ trống (x Lc 24,10) và là người đầu tiên gặp gỡ Đấng Phục Sinh (x Ga 20,11-18). + Người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ: Một người có thể bị nhiều quỷ ám cùng một lúc (x Lc 8,27.30; 11,26). Trong Kinh Thánh, số 7 là số chỉ sự viên mãn. Có lẽ đây là cách người Do thái hình dung về sức ám hại ghê gớm của Xa-tan trên nạn nhân. Đối với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, Lu-ca không nói rõ bà có bị quỷ ám thực sự hay không, hoặc bà có phải là người đàn bà tội lỗi được nói tới trong Lc 7,36-50 hay không. + Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ: Đây là một trong những việc làm cụ thể mà các bà đã thực hiện để cộng tác vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su.
4. CÂU HỎI: 1-Việc Đức Giê-su đến nhà một người Pha-ri-sêu trong Tin Mừng Lu-ca ở đây có đồng hóa với việc Người đến dùng bữa tại nhà Si-mon tật phong trong Tin Mừng Mát-thêu không? Việc Đức Giê-su đến dùng bữa tại nhà một người Pha-ri-sêu nói lên điều gì? 2- Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay có phải là cô Ma-ri-a Bê-ta-ni-a hay bà Ma-ri-a Mác-đa-la hay không? 3- Phân biệt ý nghĩa của hai việc xức dầu: một do người phụ nữ tội lỗi làm ở đây và hai do cô Ma-ri-a làm ở Bê-ta-ni-a trước khi Đức Giê-su chịu khổ nạn. 4- Trước hành động biểu lộ lòng quý mến của người phụ nữ tội lỗi đối với Đức Giê-su, ông Pha-ri-sêu chủ nhà tỏ vẻ khó chịu vì lý do gì? 5- Khi so sánh hành động của ông chủ nhà Pha-ri-sêu và người phụ nữ, Đức Giê-su chứng minh ông có phải là người chủ nhà hiếu khách không? 6- Đức Giê-su cho biết kết quả của lòng mến tin của người phụ nữ là gì? 7- Trong Tin Mừng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã biểu lộ đức tin và lòng mến đối với Đức Giê-su thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Vì thế, tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47).
2. CÂU CHUYỆN:
Trong cuốn “Mặt trận phía đông hoàn toàn yên tĩnh” có thuật lại câu chuyện xảy ra trong cuộc thế chiến giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Câu chuyện ấy như sau: Một người lính Đức trẻ kia đang năm trong hố tránh đạn pháo. Đột nhiên anh ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố đó để tránh đạn. Anh lính Đức liền dùng lưỡi lê đâm chết kẻ thù. Đây là lần đầu tiên anh ta giết người và cảm thấy lương tâm rất áy náy. Anh muốn biết rõ hơn về người lính Pháp vừa bị giết kia là ai, liền lục tứi áo và lấy ra một chiếc bóp. Trong đó có hình một phụ nữ trẻ đang ôm đứa con thơ bụ bẫm là vợ con của anh ta. Người lính Đức cảm thấy một sự xúc động tự nhiên dâng cao trong lòng khiến anh càng thêm hối hận! thì ra người bị anh giết kia thực sự không phải là kẻ thù của anh, nhưng là một người cha, một người chông giống như anh: một con người đang yêu và được yêu! Chính nhờ có cái nhìn mới mẻ về kẻ từng là “kẻ thù” đã biến đổi người linh Đức trở nên một người mới biết cảm thông và đầy tình người.
3. SUY NIỆM:
Câu chuyện Đức Giê-su đến nhà một người Biệt Phái dùng bữa, cho chúng ta bài học về lòng bao dung của Chúa, để mời gọi chúng ta cũng phải sẵn lòng mở rộng vòng tay thân ái, cư xử thân thiện với hết mọi người, bất kể họ là ai, khác biệt về mầu da, tiếng nói, môi trường sống và làm việc, về tính tình, sở thích hay về tín ngưỡng tôn giáo... để từ đó chúng ta sẽ nhận ra mọi người đều là anh em, con cùng một Cha Chung trên trời, và mọi người có bổn phận phải cư xử với nhau trong tình bác ái huynh đệ như người ta thường nói: “Tứ hải giai huynh đệ”- Bốn bể đều là anh em.
Đức Giê-su cũng muốn chúng ta hãy mời Người đến thăm và ở lại trong gia đình của chúng ta bằng việc trưng bày ảnh tượng của Người tại phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ... Người cũng sẵn sàng đến viếng thăm nhà linh hồn của chúng ta mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ và rước lễ. Miễn là ta có thiện chí dọn dẹp nhà cửa, loại khỏi ngôi nhà của mình những hình ảnh thiếu đứng đắn hay những việc làm ăn bất chính, chừa bỏ những thói hư tật xấu cùng những tội lỗi bất xứng khác.
Đức Giêsu đã để cho người phụ nữ tội lỗi đến gần vì Người không xét đoán người khác theo hình thức bên ngoài như người Pha-ri-sêu đã làm. Trái lại Người nhìn thấu tâm can của người tội lỗi kia. Noi gương Chúa, chúng ta cũng phải tránh xét đoán tha nhân qua dáng vẻ bên ngoài. Cần tránh xét đoán ý trái và cư xử bất công khi hùa theo đám đông để lên án những người cô thế cô thân. Vì thực tế đã chứng mình: có nhiều trường hợp người ta đã bị kết án oan sai. Có người đã bị tòa kết án và ở tù nhiều năm, cho đến khi kẻ thực sự phạm tội bị bắt và thú nhận tội lỗi thì mới được giải oan.
4. THẢO LUẬN:
1- Người ta thường hay xét đoán dựa theo tình cảm: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Để tránh xét đoán bất công và để noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần xử sự thế nào khi nghe một người nói xấu về một kẻ vắng mặt?
2- Dâng một lời cầu nguyện cho một người mình đang ác cảm, để xin Chúa giúp ta sống Lời Chúa dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”(Mt 5,44).
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng con thường hay xét đoán người khác cách bất công, do ảnh hưởng của định kiến xã hội hay do mối ác cảm tự nhiên với họ. Nhiều lần chúng con đã có cách cư xử hẹp hòi, đầy thành kiến đối với một số người có quá khứ không mấy tốt đẹp. Chúng con đã không đủ dũng cảm để lội ngược dòng, để chọn cách ứng xử nhân ái công minh noi gương Chúa.
- LẠY CHÚA. Hôm nay xin cho chúng con học tập theo Chúa, để dám đứng về phía những người bị xã hội khinh dể, can đảm bênh vực những kẻ cô thế cô thân và đối xử nhân hậu với những tội nhân thực lòng sám hối... Nhờ đó, chúng con xứng đáng mang danh là Ki-tô hữu và trở nên môn đệ đích thực của Chúa trước mặt người đời.
Toàn chương 7 Lc được bố trí xung quanh chứng từ của Đức Giêsu về Gioan Tẩy Giả: bắt đầu là: TN 11-C71
Toàn chương 7 Lc được bố trí xung quanh chứng từ của Đức Giêsu về Gioan Tẩy Giả: bắt đầu là hai bài tường thuật về phép lạ (7,1-10 và 7,11-17); sau đó là bài tường thuật về người phụ nữ tội lỗi (7,36-50); ở giữa là ba hoạt cảnh diễn tả quan hệ giữa Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu (7,18-23; 7,23-30; 7,31-35). Chúng ta có thể cho rằng ngữ cảnh là như sau: Ở trong tù, Gioan đã cho người đi gặp Đức Giêsu mà đặt câu hỏi: “Thầy có thật là Đấng phải đến không?…” (7,20). Như Người đã làm trong diễn từ khai mạc ở Nadarét, Đức Giêsu trả lời bằng cách trích ngôn sứ Isaia (26,19; 35,5t; 61,1). Nhưng Người thay thế câu “Hôm nay đã ứng nghiệm …” (4,21) bằng các hành vi: “Người chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền…” (7,21). Người muốn chứng minh cho Gioan và các đồ đệ ông biết rằng Người đúng là Đấng phải đến, bởi vì Người làm ứng nghiệm Kinh Thánh. Hai phép lạ được nêu ra ở đầu ch. 7 (chữa người nô lệ của viên sĩ quan; cho con trai bà góa Nain sống lại) là như một yếu tố để chứng minh. Đứng trước phép lạ Nain, đám đông đã reo lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta” (7,16). Vậy Đức Giêsu đúng là vị ngôn sứ được Kinh Thánh loan báo, và Gioan có nhiệm vụ dọn đường cho Người.
Nhưng Người đã được đón tiếp như thế nào? Khi những người Gioan cử đến đã đi, Đức Giêsu giải thích: có những người, đó là toàn dân và đặc biệt những người bị khinh bỉ nhất, những người thu thuế, đã “biện minh” cho Thiên Chúa, đã cho thấy rằng Ngài có lý, khi xin Gioan làm phép rửa cho mình; còn những người khác, những người Pharisêu và các thầy thông luật, khi từ khước phép rửa này, đã làm cho chương trình của Thiên Chúa nên vô ích cho họ.
Có hai yếu tố của bản văn trên đây được nhắc lại trong hoạt cảnh Người phụ nữ tội lỗi, nên đã liên kết hoạt cảnh này vào văn cảnh trên. 1) Tư cách ngôn sứ: Câu nói của người Pharisêu là “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào…” (c. 39); thế mà Đức Giêsu đã trả lời bằng một hành vi: tha tội. 2) Tiếp đón: Vị ngôn sứ này đã được tiếp đón cách tuyệt vời bởi con người bị khinh bỉ nhất, một phụ nữ tội lỗi. Vậy bản văn này phải được kể là thuộc về toàn bộ ch. 7. Đây chính là lối viết văn quen thuộc của tác giả Lc: ngài thích viết các truyện thành hai bảng. Trong bảng thứ nhất, ngài cho thấy cách thức Kinh Thánh được hoàn tất bởi và nơi Đức Giêsu. Sau đó, có một câu hỏi hoặc một sự cố khơi lại đề tài, và Lc sẽ cho thấy rằng cách thức Đức Giêsu hoàn tất Kinh Thánh thì đẹp và sâu hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể hy vọng hoặc tưởng tượng (x. Hoạt cảnh Truyền tin; hoạt cảnh Đức Giêsu trước Thượng Hội Đồng). Bài đọc Phụng vụ nối thêm vào một đoạn nhỏ nói về các phụ nữ “đi theo” Đức Giêsu, tức là làm môn đệ Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu, ông Pharisêu và người phụ nữ tội lỗi (7,36-50):
1- Phần một (cc. 36-40):
A (36-38) B (39) C (40-43)
2- Phần 2 (44-50) A’ (44-46) C’ (47) B’ (48-50)
2) Các phụ nữ đi theo Đức Giêsu (8,1-3).
* Trình bày kết cấu của 7,36-50:
Chúng ta có thể chia bản văn thành hai phần. Cả hai phần đều bắt đầu bằng cử chỉ của Đức Giêsu là “vào” nhà ông Pharisêu Simôn và nhấn trên sự hiện diện của người phụ nữ. Cả hai phần đều nêu ra các cử chỉ của bà này (cc. 37-38) mà đối lập với ông Pharisêu trong phần 2 (cc. 44-46). Do đó, ta có thể đặt song song hai phần nhỏ A (cc. 36-38) và A’ (cc. 44-46).
Hai câu hỏi “trong lòng” (nghĩ bụng) về căn tính của Đức Giêsu cho phép xác định hai phần nhỏ khác là B (c. 39) và B’ (cc. 48-50). Hai phần nhỏ này không có cùng một vị trí như nhau. Tương ứng với phần C (cc. 40-43) trong đó có bài dụ ngôn nhỏ Hai con nợ, là lời tha tội ở C’ (c. 47).
Vậy lược đồ của toàn bản văn là A-B-C x A’-C’-B’. Cấu trúc này xoay quanh chủ đề “xét đoán” (krinô) được diễn tả bởi chi câu trung tâm là c. 43b. Trong phần 1, người “nghĩ bụng (tự nhủ, en heautô) là ông Pharisêu Simôn, ông nghi ngờ căn tính ngôn sứ của Đức Giêsu vì có liên quan đến căn tính của người phụ nữ tội lỗi. Cũng ông Simôn đã được mời dựa vào dụ ngôn và đoán xét về lòng biết ơn của hai con nợ. Trong phần 2, người “xét đoán” là Đức Giêsu, Người tỏ cho thấy là Người biết người phụ nữ có “nhiều tội”, nhưng đồng thời cũng biết là chị ấy “mến” nhiều. Những người đồng bàn “nghĩ bụng” (en heautois) về khả năng của Đức Giêsu là tha tội. Cuối cùng, cả hai phần kết thúc bằng hai từ tương tự: “tha, charizô” (c. 43a) và “cứu, sôzô” (c. 50). Chiều kích “xét đoán” nằm tại trung tâm của mỗi phần: trong B, người Pharise6u xét đoán người phụ nữ và Đức Giêsu, còn trong C’, Đức Giêsu xét đoán (tích cực) người phụ nữ khi chặn ông Pharisêu.
3.- Vài điểm chú giải
- Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa (7,36): TM Lc là Tin Mừng duy nhất cho thấy có ba lần Đức Giêsu được người Pharisêu mời dùng bữa (ở đây; 11,37 và 14,1). Ở chỗ khác, ta thấy người Pharisêu đối xử tốt với Đức Giêsu, chẳng hạn khi họ báo cho Người biết là Hêrôđê tìm giết Người (13,31). Có lẽ Lc gần với thực tế lịch sử hơn Mc và nhất là Mt. Phải chăng Lc có cách nhận định mềm dẻo như thế vì ngài đã chịu ảnh hưởng tông đồ Phaolô, mà vị này thì rất tự hào về tư cách Pharisêu (Pl 3,5; Cv 23,6; 26,5).
- vào bàn ăn (7,36): Bản Hy Lạp là keteklithê, “nằm dài ra”. Như vậy, Đức Giêsu đã được mời ăn tiệc, bởi vì trong các bữa ăn thường, người ta ngồi.
- một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành (7,37): Theo các truyền thống của Họi Thánh Tây phương, ít ra từ thời Đức Grêgôriô Cả, người ta đã đồng hóa cô Maria Bêtania với người phụ nữ tội lỗi miền Galilê, và thậm chí với Maria Mácđala (8,2). Tuy nhiên, cách đồng hóa này không có cơ sở trong Tân Ước. Chị này tội lỗi có thể vì là một cô gái điếm, hay là vì đang sống trong một hoàn cảnh hôn nhân không bình thường, hoặc là vợ của một người làm một nghề bất chính (thu thuế, chăn chiên v.v.)? Ta loại bỏ nghĩa cuối cùng, vì c. 49 rõ ràng nhắm đến các tội lỗi cá nhân.
- một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (7,37): Thường các bình này được làm bằng đá mềm, với đủ thứ hình dạng.
- lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người (7,38): Lc không cho biết nguyên do khiến chị này khóc. Các nhà chú giải thường phỏng đoán là chị ấy khóc vì hối hận. Nhưng biết đâu chị cũng khóc vì vui sướng, do đã được cảm nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.
- hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên (7,38): Đây là những cử chỉ bày tỏ lòng biết ơn và tôn kính dành cho Đấng được nhìn nhận là tác nhân đưa lại ơn cứu độ của Thiên Chúa. Người ta hôn đầu gối hoặc bàn chân là để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa
- ông này là ngôn sứ (7,39): Các ý nghĩ của người Pharisêu phản ánh niềm tin thông thường: một ngôn sứ thì phải có khả năng nhận ra được tính cách của các con người mà họ tiếp xúc.
- Thưa Thầy (7,40): Simôn coi Đức Giêsu như là một trong các vị thầy đáng kính của xứ Paléttina. Danh hiệu didaskalos được dùng để gọi Gioan Tẩy Giả (3,12), nay được gán cho Đức Giêsu lần đầu tiên.
- mến chủ nợ (7,42): Các hành vi của chị là những hành vi diễn tả lòng biết ơn; thế nhưng Đức Giêsu lại nói đến “lòng mến”. Đó là vì tiếng Híp-ri, A-ram, Xy-ri không có động từ “cám ơn” hay danh từ “lòng biết ơn”, nên phải dùng một từ ngữ khác để diễn tả; ở đây là từ “yêu mến” (x. c. 42: cc. 44-46 // c. 47).
- Được tha nhiều vì/nên (hoti) đã yêu mến (7,47a): Có thể dịch hai cách: (i) Chị đã được tha nhiều vì đã yêu mến nhiều (= kết quả); (ii) Chị đã được tha nhiều nên đã yêu mến nhiều (= nguyên nhân). Muốn ăn khớp với ngữ cảnh, nên hiểu theo cách thứ hai: Người ta nhận ra được là chị đã được tha nhiều ở chỗ chị yêu mến nhiều. Chính kết luận của Đức Giêsu ở c. 47b cũng khẳng định như vậy, cùng với lời tiếp theo: “Tội của chị đã được tha rồi” (c. 48).
- mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh (8,2): Ta có thể kể ra cả mẹ vợ Simôn (4,38-39), nhưng có thể cho rằng bà ở lại nhà chứ không đi theo Đức Giêsu. Còn các bà khác hẳn là được nhắc đến trong các chi tiết ở 4,40-41 và 6,17-19.
- đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ (8,3): Các mà dùng cách này để bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Giêsu. “Giúp đỡ”, dịch sát là “phục vụ” (diakonein). Từ này được dùng để chỉ hoạt động của các tông đồ (Cv 1,17.25) và của bảy trợ tá (Cv 6,1), và nhất là của chính Đức Giêsu (Mc 10,45; Lc 22,27).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu, ông Pharisêu và người phụ nữ tội lỗi (36-50)
Đức Giêsu được ông Pharisêu tên là Simôn mời ăn tiệc; đây là dấu chứng tỏ ông tôn kính Người, vì ông nghĩ Đức Giêsu có thể là một ngôn sứ (x. c. 39), hoặc ít ra Người cũng là một vị thầy du thuyết, đã có lần lên tiếng trong hội đường. Tuy nhiên, hoàn cảnh vẫn có tính hàm hồ. Ông chủ nhà nghĩ mình là người quan trọng, ông nắm hoàn cảnh trong tay, ông không phải đánh liều gì cả: ông đã tiếp đón Đức Giêsu nhưng với một mức lịch sự tối thiểu bởi vì ông mong muốn làm vui lòng mọi người. Bằng cách mời Đức Giêsu đến ăn tiệc, ông chứng tỏ ông có tâm trí cởi mở, có khả năng để ý đến các tư tưởng mới, một con người có một trí thông minh nào đó; tuy nhiên, bằng cách bỏ qua những cách tiếp khách quen thuộc (“Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi… Ông đã chẳng hôn tôi một cái”, cc. 44-45), ông luôn luôn có thể nói rằng ông đã giữ khoảng cách và chỉ làm một chuyện là ngó tới Người để nghe xem Người nói gì mà thôi.
Thái độ của ông chủ như thế hẳn đã làm cho bầu khi ra căng thẳng và nặng nề rồi; những người khác lại cũng đang trông chừng nhau và hẳn là cũng nói những chuyện chung chung để khỏi làm mất lòng ai.
Giữa tình thế ấy, một người phụ nữ đi vào, lại là “một người tội lỗi trong thành”, ai cũng biết (c. 37). Bà này bất kể các quy ước xã hội, bà không sợ hãi gì cả, bà tiến đến. Rồi bằng một cử chỉ thú nhận tội lỗi công khai, bà bày tỏ với Đức Giêsu những dấu chỉ diễn tả là quý mến, lòng biết ơn và tôn kính mà không một ai đã bày tỏ với Người trước đó: “lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người” (c. 38; x. c. 44), “lấy tóc mình mà lau” (c. 38; x. c. 44), “hôn chân Người” (c. 38; x. c. 45), “và lấy dầu thơm mà đổ lên” (c. 38; x. c. 46). Lòng biết ơn của bà chan hòa đến độ bà không ngại xõa tóc ra để lau chân Đức Giêsu, cho dù bỏ khăn và xõa tóc ra trước mặt phái nam là một sự ô nhục cùng cực. Bà đã làm như thế, vì bà quá sợ khi thấy nước mắt mình làm hoen ố chân Đức Giêsu, sợ đến mức quên những người đang ở chung quanh.
Không một ai đã dám làm một cử chỉ đánh liều; người phụ nữ này đã liều một bước lớn: Đức Giêsu sẽ làm gì, Người đứng về phía nào? Đức Giêsu lại chứng tỏ sự khéo léo mà lật ngược các hoàn cảnh. Người không bắt đầu với một lời trách; Người hành động cách cẩn thận. Người kể một dụ ngôn cho Simôn: “Một chủ nợ kia có hai con nợ…” (cc. 41tt), rồi đến cuối, Người hỏi ông một câu để ông nhận định. Ông đã “xét đúng” về câu chuyện, theo hình thức (c. 43): Kẻ được tha nhiều hơn, thì yêu mến nhiều hơn. Thật ra đây là một lý luận theo số lượng. Nhưng từ đó Đức Giêsu đưa ông đến chỗ biết rằng theo cái nhìn của Thiên Chúa, và cũng từ quan điểm của sự thành thật con người, hoàn cảnh này hoàn toàn ngược lại với những gì mỗi người đang nghĩ. Ông “xét đúng” câu chuyện, nhưng ông lại xét sai những con người (người phụ nữ và Đức Giêsu). Ông có một cái bên ngoài đúng đắn, có học thức và lịch thiệp, và có một cái bên trong đối lập với người phụ nữ và Đức Giêsu. Kẻ không mời mà đến, kẻ phải thật sự xấu hổ về chính mình, kẻ không đã biết cách cư xử, chính là Simôn; còn người đã xử sự đúng như hoàn cảnh đòi hỏi, đáp trả theo một cách đúng là người, đó là người phụ nữ: bà là người đã hiểu và đã nắm lấy đúng hoàn cảnh.
Nói cho cùng, từ ngữ “tình yêu” tuy không được viết ra, lại là từ ngữ trung tâm: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (c. 47). Thật ra, những người tội lỗi, những người không tin nên không mở ra với ân sủng của Đức Giêsu cũng là những người tưởng mình công chính. Đức Giêsu vẫn tiếp tục đồng bàn với họ. Như thế, có một sự lật ngược tình thế, đó là: Đức Giêsu mà người Pharisêu chỉ trích vì “đồng bàn” với người thu thuế và kẻ tội lỗi, cũng là Đức Giêsu không ngại đồng bàn với những kẻ vẫn tưởng mình đàng hoàng, nhưng thật ra có con tim khép kín với tình yêu và sự tha thứ. Với cả hai bên, Đức Giêsu đều có thể nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).
* Các phụ nữ đi theo Đức Giêsu (1-3)
Qua đoạn văn nhỏ này, chúng ta thấy Họi Thánh đã có trước khi Đức Giêsu chết và sống lại. Họi Thánh gồm có Nhóm Mười Hai, và có cả một nhóm các phụ nữ. Họ cũng có một vị trí và một vai trò trong Họi Thánh. Tin Mừng Lc đã tỏ ra đặc biệt quan tâm đến các phụ nữ: tác giả cho thấy, trong khi họ bị khinh bỉ vào thời đó, Đức Giêsu kết hợp họ vào hoạt động của Người: họ phục vụ (diêkonoun, giúp đỡ, 8,3) Người, như các trợ tá, như các tông đồ và hơn nữa, như chính Đức Giêsu. Việc “phục vụ” này là thái độ căn bản của người Kitô hữu.
+ Kết luận
Toàn bản văn hôm nay như nói về chính chính hành trình thiêng liêng của chúng ta. Trước mặt Đức Giêsu, mỗi người chúng ta biết mình là người tội lỗi. Chính vì Người là ngôn sứ mà Đức Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta như thế. Nhưng vì Người cũng là Đấng Cứu độ, là Lòng Từ bi của Thiên Chúa nhập thể, nên Người đã đến với chúng ta và tha thứ cho chúng ta. Phía chúng ta, chúng ta đã và sẽ làm gì để bày tỏ lòng biết ơn?
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tìm cách làm vui lòng mọi người mà không phải “trả giá” đúng là cách cư xử chúng ta có thể rơi vào: chúng ta làm việc gì đó nhưng theo cách mà không ai có thể chỉ trích chúng ta, và như thế, chúng ta cẩn thận tiến đi giữa hai ý kiến mà không nhận lấy ý kiến nào cả. Thật ra cũng có khi điều này là cần thiết do hoàn cảnh, nhưng cũng chắc chắn là người nào sống như thế thì không sống đầy; người ấy giống như Simôn, chuẩn bị một bữa tiệc mời Đức Giêsu mà lại để cho bầu khí căng thẳng và nặng nề. Kêrygma làm ra như thế: nó đảo lộn các hoàn cảnh, làm cho những người nghĩ mình làm chủ tình hình phải xấu hổ và nâng cao những người hành động trong một tinh thần khiên nhường, sự thật và đơn sơ, vì muốn hiến mình, vì muốn làm một điều gì hơn, vì muốn đánh liều vì yêu thương.
2. Tin Mừng làm cho người ta ý thức về lầm lỗi của họ và ý thức mình cần được thanh tẩy: không phải bằng những lời trách móc nghiêm khắc khiến người ta rơi vào thế tự vệ, nhưng bằng cách ban cho người ta sự can đảm, sự cương quyết và tự do. Chính tất cả những điều này sẽ giúp người ta sẵn sàng đi tìm sự thanh tẩy và đạt được ơn Thiên Chúa tha thứ, khiến cuộc đời mình thay đổi hoàn toàn.
3. Nếu loan báo Tin Mừng có nghĩa là đưa đến một cuộc giải phóng bên trong để con người đạt được tiềm năng sẵn có của mình, khả năng của mình, là tự diễn tả ra và thắng vượt khối nặng các tội lỗi, thì người loan báo Tin Mừng phải cho thấy là tất cả mọi điều này đều đã và đang đúng nơi chính mình. Chính Đức Giêsu đã chứng tỏ điều đó bằng cả cuộc sống của Người.
4. Đi xưng tội là xưng thú các tội mình đã phạm, nhưng trước tiên là tuyên xưng rằng Thiên Chúa thật là cao cả trong tình yêu của Ngài, là loan báo Tin Mừng cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô. Có ý thức rằng Thiên Chúa là tình yêu cứu độ, chúng ta mới đến với Ngài để được cứu độ; có ý thức chúng ta được tha thứ nhiều, chúng ta mới có lòng biết ơn và biết diễn tả lòng biết ơn bằng lời nói và nhất là bằng đời sống, trong các quan hệ hằng ngày.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 7:36 – 8:3)
Để bênh vực hành động đúng của người khác, thường thì Chúa Giê-su chỉ cần đưa ra một lý luận đanh: TN 11-C72
Để bênh vực hành động đúng của người khác, thường thì Chúa Giê-su chỉ cần đưa ra một lý luận đanh thép. Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa không chỉ giải quyết đơn giản như vậy, mà Người còn dàiĐể bênh vực hành động đúng của người khác, thường thì Chúa Giê-su chỉ cần đưa ra một lý luận đanh thép. Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa không chỉ giải quyết đơn giản như vậy, mà Người còn dài dòng kể một dụ ngôn, rồi áp dụng dụ ngôn ấy vào người phụ nữ đã xức dầu thơm lên chân Người. Chúa bênh vực hành vi thống hối bằng nước mắt của người phụ nữ. Người nhìn nhận hành vi biểu lộ lòng yêu mến bằng việc xức dầu thơm của chị ấy. Sau hết, Chúa tuyên dương đức tin của một người tội lỗi trước mặt những người tự cho mình là công chính. Tất cả những tình tiết trong câu chuyện chứng tỏ rằng giữa tình yêu và tha thứ có một liên quan mật thiết: được tha nhiều thì càng yêu mến nhiều. Nói khác đi, lòng yêu mến là kết quả phát sinh từ ý thức mình được tha thứ và là bằng cớ khẳng định lòng thương xót của Chúa.
Chắc hẳn ông Pha-ri-sêu tên là Si-môn và các khách mời cảm thấy khó chịu lắm khi bữa tiệc bị “phá đám” do sự xuất hiện của một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành. Hành động của chị ta không thể chấp nhận được! Ai đời bữa tiệc cần không khí tưng bừng trang trọng, thế mà chị ta xông vào, “đứng đằng sau, sát chân Chúa mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người”! Lại nữa, chị ấy “lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên”! Thái độ Chúa Giê-su chấp nhận những hành vi thống hối và tỏ lòng yêu mến của chị ta có lẽ còn làm cho ông Pha-ri-sêu bực tức hơn. Ông lấy giá trị của “một người tội lỗi” để đánh giá con người Chúa Giê-su: Nếu quả thật ông này là ngôn sứ thì phải biết những gì đang xảy ra chứ! Đáng lẽ ông Si-môn phải lấy tội lỗi để đo lường lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa thì mới đúng, bởi vì “Ở đâu tội lỗi càng lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rô-ma 5:20).
Mục đích Chúa kể dụ ngôn hai con nợ được chủ tha nợ là để giúp ông Si-môn ý thức chân lý nói trên. Chúa muốn chính miệng ông nói lên chân lý này khi Người hỏi ông: “Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”. Ông Si-môn đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn”. Chúa Giê-su khen: “Ông xét đúng lắm”. Nghĩa là Thiên Chúa đầy lòng thương xót tha thứ cho chúng ta càng nhiều thì chúng ta có bổn phận càng phải yêu mến Người hơn!
Thực ra đường đi nước bước của tình yêu và tha thứ diễn ra như thế này: Trước hết, vì yêu thương chúng ta trước, nên Thiên Chúa từ bi mới sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta qua cái chết của Con Một Người. Tiếp đến là thái độ của chúng ta, khi nhận biết mình được tha thứ, chúng ta đáp lại tình yêu và lòng thương xót của Chúa bằng cách yêu mến Người hơn, cố gắng sống như con cái hiếu thảo không muốn làm cho cha mẹ phiền lòng.
Còn một điều thật cảm động trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, đó là cách người phụ nữ tội lỗi biểu lộ lòng tin vào Chúa Giê-su. Chị ta “dám” tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều người, “dám” công khai cho người khác thấy tình trạng tội lỗi của mình, “dám” khiêm nhường khóc và làm cử chỉ lấy tóc mình lau chân Chúa, một cử chỉ ngay kẻ nô lệ cũng không làm cho chủ, “dám” lấy dầu thơm đắt giá để xức… chân Chúa! Đó là một đức tin được biểu lộ cách hùng hồn trước bao con mắt khinh dể của người khác.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sứ điệp câu chuyện Tin Mừng hôm nay rõ ràng. Chúa Giê-su nói với ông Si-môn: “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”. Chị ta đã yêu mến nhiều không phải là lý do để Chúa tha thứ rất nhiều tội lỗi cho chị ta, nhưng là bằng chứng chị ấy giúp cho chúng ta nhận ra được lượng từ bi hải hà của Chúa! Chúng ta không thể làm bất cứ điều gì để đáng được Chúa tha thứ, nhưng sở dĩ Chúa tha thứ cho chúng ta bởi vì Người là Đấng “giàu lòng thương xót” (Ê-phê-xô 2:4).
Trong Năm Đức tin, chúng ta có dám tuyên xưng đức tin như người phụ nữ tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay không? Có khi nào chúng ta nghĩ rằng mỗi khi đến với bí tích Giải tội là chúng ta tuyên xưng tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa không? Mong câu chuyện Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta thêm can đảm!
Lc 15:1-10: 1 Các người thu thuế, cùng những kẻ tội lỗi hết thảy thường lui tới bên Ngài để nghe lời Ngài. 2 Và Biệt phái kêu trách. Họ nói: "Ông ấy tiếp đón quân tội lỗi và cùng ăn với chúng". 3 Ngài mới nói cùng họ ví dụ này, rằng:
4 "Ai trong các ông, giả sử có trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ chín mươi chín con ngay nơi hoang vắng, mà ruổi theo con chiên lạc, cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó ư? 5 Tìm được rồi, há người ấy lại không mừng rỡ, quàng nó trên vai mình, 6 và về đến nhà, lại không gọi cả bạn bè hàng xóm, mà phân phô với họ thế này sao: Bà con hãy chia vui với tôi, tôi may đã tìm thấy con chiên lạc của tôi!? 7 Tôi bảo các ông: Cũng vậy, trên trời sẽ có vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn!"
8 Hay là: Bà nào có mười đồng bạc, nếu rủi mất một đồng, há bà ấy lại không chong đèn lên, quét nhà mà tìm moi tìm móc cho kỳ được đó ư? 9 Tìm được rồi, há bà ấy lại không gọi cả bạn bè hàng xóm mà phân phô thế này sao: Bà con hãy chia vui với tôi, tôi đã tìm thấy đồng bạc tôi đánh mất!? 10 Cũng vậy, tôi bảo các ông: Vui mừng ắt ran lên giữa các thiên thần của Thiên Chúa vì một người tội lỗi hối cải!"
Sau khi trình bày những điều kiện để có thể đi theo và là môn đệ của Chúa Giêsu, Luca kết luận là “TN 11-C73
Sau khi trình bày những điều kiện để có thể đi theo và là môn đệ của Chúa Giêsu, Luca kết luận là “Ai có tai để nghe, hãy nghe” (14:35). Sang chương 15, những người tội lỗi và thu thuế đến gần Chúa Giêsu để nghe Người (15:1). Chủ đề chính của chương nầy, được trình bày bằng ba câu chuyện trong một dụ ngôn, là niềm vui của Thiên Chúa khi tìm thấy lại người tội lỗi hoán cải. Niềm vui nầy được diễn tả qua bữa ăn: Thiên Chúa, người tội lỗi và những người được mời đồng bàn với nhau. Trong chương trước, bữa tiệc của Thiên Chúa dành cho những người nghèo, tàn tật, đui mù (14:15.21-23); ở đây, dành cho người tội lỗi (15:2.23). Như thế, những câu chuyện trong chương 15 nầy bênh vực cho sứ vụ của Chúa Giêsu đối với những người nầy; đồng thời mời gọi những người chống đối Người đến chung vui với những người tội lỗi hoán cải (15:7, 10, 28, 31-32). Bố cục của chương nầy gồm một dẫn nhập bối cảnh chung (15:1-2), và ba câu chuyện: con chiên lạc (cc. 3-7); đồng bạc mất (cc. 8-10); và hai người con (cc. 11-32). Xin đọc chú giải đoạn 15:11-32 trong Chúa Nhật IV Mùa Chay C.
Dẫn nhập của diễn từ dụ ngôn (cc.1-2)
Cấu trúc của dẫn nhập nầy là đối đảo: A. người thu thuế và tội lỗi đến gần Người - để nghe; B. Người Pharisêô và kinh sư lẩm bẩm; A’ Người tiếp nhận họ - ăn uống với họ. Với cấu trúc nầy Luca muốn nhấn mạnh sự kiện là người Pharisêô và kinh sư lẩm bẩm vì Chúa Giêsu tiếp cận và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Hai động từ “đến gần” và “lẩm bẩm” ở thì quá khứ chưa hoàn thành (imparfait) chỉ sự kiện là người thu thuế và tội lỗi vẫn lui tới thường xuyên với Người, và nhóm Pharisêô và kinh sư cứ lẩm bẩm mãi. Hành động lẩm bẩm nầy đã gặp trong một bối cảnh tương tự (5:27-32; 7:39) và lại cả sau nầy nữa (19:7). Họ trách Người không phải sự đón tiếp, mà sự đồng bàn với những người ấy; nghĩa là chia sẻ với họ cùng một sự hiệp thông. Có lẽ họ nghĩ chỉ mình họ mới được quyền ăn uống với Người (x. 7:36; 14:1). Chúa Giêsu nhận lời mời ăn uống của nhóm Pharisêô, và Người cũng không từ chối ăn uống với những người tội lỗi nầy (x. 5:27;.29 và ở đây).
Mục tiêu những người thu thuế và tội lỗi lui tới với Người là “để nghe Người”, chỉ lời giảng dạy của Người (5:1.15; 6:49...). Tuy nhiên, trong văn mạch đoạn nầy, chính những người Pharisêô và kinh sư mới thật sự là những người cần lắng tai nghe, vì họ là đối tượng của những câu chuyện dụ ngôn Người sắp nói “Người nói với họ” (c. 3).
Con chiên lạc (cc. 3-7).
Cấu trúc chung của ba câu chuyện: - có một điều gì đó - mất - tìm lại được - vui mừng và chia vui - kết luận. Mỗi câu chuyện có một đặc điểm riêng. Câu chuyện trước tiên là một con chiên lạc. Động từ “mất” được dùng cách đặc biệt trong chương nầy (cc. 4[2x].6.8.9.17.24.32). Nó không chỉ nói đến sự lạc mất của con chiên hay đồng bạc, mà cả sự mất mạng do đói khát (c. 17). Ý tưởng mất mạng nầy, nói cách khác là bị hủy diệt, được Luca dùng cách minh bạch hơn ở nơi khác (13:3.5.33; 17:27.29.33; 19:10.47). Bởi đó, con chiên “bị lạc” bao hàm luôn những tình cảnh nguy hiểm của nó: đói, bệnh tật, rơi xuống vực thẳm, bị sói vồ… Hành động của người chăn chiên là “bỏ lại” chín mươi chín con chiên, “đi tìm” ở thì hiện tại diễn tả hành động đeo đuổi kéo dài, cho đến khi nào hoàn tất việc tìm thấy “cho đến khi tìm được” (c. 4; điểm nầy khác với Mt 18:12). Động từ “tìm thấy” chuyển tiếp ý tưởng của hai câu (c. 4 và 5).
Những hành động tiếp theo sau khi tìm thấy là “vác chiên trên vai” đi về nhà trong vui mừng, và “cùng kêu” bạn bè và bà con đến chung vui. “Vui mừng” và “đi”về nhà ở thể động tính hiện tại (participle), nói lên sự vui mừng kéo dài từ khi tìm thấy cho đến khi về nhà và mời mọi người đến chung vui. “Vui mừng”, cả danh từ (1:14;) lẫn động từ (1:14.28; 6:23; 10:20; 13:17; 19:37) trong Luca thường diễn tả tâm tình hoan lạc trong tâm hồn vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện. Trong 1:58, người ta đến chúc mừng với bà Elizabeth vì Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót cho bà và cho bà một người con trong tuổi già. “Vui mừng” nầy là một trong những chủ đề chính của chương nầy: vui mừng (cc. 5.7.10.32), cùng chung vui (cc. 6.9). Ở đây, Thiên Chúa cùng kêu anh em và bạn bè đến để cùng chung vui, vì chính Người tìm được chiên lạc. Chiên lạc được tìm ra, nghĩa là cứu sống; đưa về lại với đàn chiên, nghĩa là về lại với sự hiệp thông. Hai chữ “cùng-” nói lên niềm vui muốn được san sẻ, vì niềm vui quá lớn. Tính từ sở hữu “của tôi” được dùng để chỉ những người tội lỗi là thuộc về Người, và chính Người đã đích thân đi tìm và tìm được. Như thế, vui mừng vì “tìm được chiên lạc” là việc của Thiên Chúa: người tội lỗi được đem về lại trong sự hiệp thông với Người (x. 6:9).
Câu kết luận của Luca (c. 7) khác với Matthêô (Mt 18:4). Luca có tính cách khuyến dụ: kêu gọi sự hoán cải nơi người tội lỗi; trong khi Matthêô nói đến ý muốn cứu độ của Thiên Chúa. Phần đầu của câu 7 nói đến “niềm vui trên trời”, chỉ niềm vui nơi Thiên Chúa. Trước đoạn nầy Chúa Giêsu kêu gọi hoán cải với cung giọng đe doạ (10:13; 11:32). Tiếp theo đó, Người chỉ đường cho là nếu hoán cải, sẽ không bị hủy diệt” (13:3.5). “Hủy diệt”, động từ dùng chung chỉ “lạc mất” của con chiên và đồng bạc. Đến đây, người tội lỗi “hoán cải” liên tục, không chỉ khỏi bị hủy diệt, mà Thiên Chúa còn vui mừng về họ nữa. Hoán cải trong trường hợp nầy là nhận ra mình sai lầm như chiên lạc và để Thiên Chúa đưa mình về lại với Người, vì Người quan tâm và chăm sóc đến chiên của Người.
Phần thứ hai của câu 7 khó giải thích. Những “người công chính” ở đây Luca ám chỉ đến những người Pharisêô và kinh sư (x. 16:15; 18:9)? Và họ không cần hối cải? Có thể Luca không ám chỉ như thế. Trong các kết luận của ba câu chuyện, Luca đều nói đến sự mời gọi chung vui. Thái độ của người con trưởng (15:28-30), ở đây mới ám chỉ người Pharisêô và kinh sư, cho thấy anh chưa phải là người hoàn hảo, và cần hoán cải. Câu chuyện kết thúc với lời giải thích và mời gọi của người cha (15:32), và không cho biết người con trưởng nầy sẽ vào dự tiệc chung vui hay không; nghĩa là chờ anh hoán cải. Đây cũng là dụng ý của các câu chuyện. Ngoài ra, trong một câu tương tự, ba từ ngữ “người công chính”, “tội lỗi” và “hoán cải” được dùng (5:32), ở đó Luca cũng không ám chỉ người Pharisêô là người công chính, mà chỉ muốn nhấn mạnh sứ vụ kêu gọi người tội lỗi hoán cải của Chúa Giêsu. Như thế, câu kết luận có thể hiểu là Thiên Chúa vui vì cả người tội lỗi lẫn người công chính. Nhưng Người vui về người tội lỗi hoán cải hơn 99 người công chính, vì sự hoán cải của họ làm cho đàn chiên của Người đã đủ lại số 100 như ban đầu. Niều vui của Chúa Giêsu nên sung mãn khi Người tìm lại được tất cả những người tội lỗi.
Người tội lỗi hoán cải là niềm vui lớn lao của Thiên Chúa. Người chẳng muốn ai phải hư mất. Hãy có tấm lòng của Thiên Chúa: vui vì người tội lỗi trở lại.
Không có gì quí bằng khi bụng đang đói được người khác cho ăn: đây là điều rất thường tình, nhưng: TN 11-C74
Không có gì quí bằng khi bụng đang đói được người khác cho ăn: đây là điều rất thường tình, nhưng lại là điều rất cần thiết. Một đứa bé còn đang độ tuổi bú mớm,bụng nó chưa no, mẹ nó cho nó bú, chắc chắn đứa bé sẽ vui tươi, hạnh phúc.
Con người dù ở đấng bậc nào vẫn phải ăn, phải uống. Ăn, uống là nhu cầu không thể thiếu được đối với con người. Xét về mặt tự nhiên, không ăn, không uống, con người hay nói thấp hơn con vật không có thức ăn, nước uống cũng sẽ chết, không thể cứu vãn nổi. Chúa Giêsu không những nuôi dưỡng nhân loại, nuôi sống con người bằng lương thực bình thường, Ngài còn để lại cho mọi người chính Mình và Máu của Ngài để nuôi sống con người về mặt thiêng liêng. CHÚA NUÔI SỐNG DÂN DO THÁI TRONG SA MẠC BẰNG MANNA VÀ CHIM CÚT:
Bài đọc I cho ta thấy, chính Thiên Chúa khi ra lệnh cho Môsê đưa dân ra khỏi đất Ai Cập, dẫn dân đi trong sa mạc. Dân Do Thái sợ chết đói, chết khát. Với lời cầu khẩn của Môsê, Chúa đã cho mưa Manna từ trời xuống và chim cút bay lan tràn. Dân Do Thái tha hồ nhặt Manna và bắt chim cút làm thịt để sống những ngày lang thang trong sa mạc khô cằn trở về đất hứa. Thiên Chúa lại còn thương dân cho Môsê giơ gậy đập vào tảng đá, nước vọt ra: dân chúng và súc vật không sợ phải chết khát. Lương thực trong sa mạc là hình bóng của lương thực cao hơn, quí hơn bởi vì Manna, chim cút, nước uống chỉ nuôi thân xác mau qua mà thôi, Thiên Chúa hướng con người tới một thứ lương thực vĩnh cửu. Ai ăn sẽ không hề đói và ai uống sẽ không hề khát. Điều này làm ta liên tưởng đến câu chuyện của Chúa Giêsu bên bờ thành giếng Giacóp, người phụ nữ Samaria đã xin Ngài thứ nước uống vào không hề khát nữa…Nên, trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu đã khẳng định Ngài là của ăn, của uống cho con người, Ngài là bánh trường sinh nuôi dưỡng con người, của ăn của uống là Mình và Máu Chúa Giêsu không những bảo đảm cuộc sống hiện tại mà còn đảm bảo đời sống vĩnh cửu đời sau. Bài đọc II trích từ thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô đã chỉ cho ta thấy thái độ, cử chỉ yêu thương của Chúa Giêsu: Ngài đã tự hiến thân làm của ăn, của uống để nuôi dưỡng nhân loại. Do đó, ăn và uống Mình Máu
Chúa là thông dự vào cái chết và phục sinh của Người. Và như thế, con người cũng được tham dự sâu xa vào chương trình và hành động cứu thế của Chúa để rồi con người đi tới hịêp thông vào sự sống mới, sự sống phục sinh của Chúa Giêsu.
CHÚA MỜI GỌI CON NGƯỜI:
Thánh Thể là một Bí Tích của sự hiện diện. Chúa Giêsu trước khi rời xa các môn đệ và rời thế gian, Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để Ngài có mặt mãi trong tình yêu sâu vời với nhân loại, với con người, với mỗi người. Hành động yêu thương tột đỉnh của Ngài là cái chết trên thập giá và sống lại ra khỏi mồ. Do đó, Chúa Giêsu luôn hiện diện với thế gian qua mọi thời gian, không gian để ban ân sủng chứa chan cho mọi người. Thánh Thể còn là Bí Tích hiệp nhất. Chúa Giêsu đã yêu thương thế gian đến nỗi đã hy sinh đến cùng:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình”( Ga 15, 13 ). Bí Tích Thánh Thể qui tụ con người:” Ai tiếp nhận Ta chính là tiếp nhận cha Ta “ và nơi bàn tiệc thánh, Chúa Giêsu qui tụ mọi người Kitô hữu bằng chính Mình và Máu của Ngài. Đó là Bí Tích tình thương:” mầu nhiệm đức tin”. Chúa luôn mời gọi con người sống yêu thương và sạch tội để lãnh nhận của ăn của uống là chính Mình và Máu của Chúa Kitô. CHÚA BAN SỰ SỐNG:
Chúa để lại Bí Tích tình yêu để nhân loại được sống và sống dồi dào. Ngài mời gọi con người, mỗi người trong mỗi thánh lễ:” Hãy lãnh nhận mà ăn, hãy lãnh nhận mà uống…Vì này là Mình…là Máu Ta “. Đây là lời mời gọi khẩn thiết đối với con người vì rằng nhân loại đang sống trong một thế giới tục hóa, một thế giới xa lìa Thiên Chúa, một thế giới thích vật chất, thích lợi nhuận hơn là của ăn thiêng liêng. Chúa truyền lệnh cho các môn đệ trong nhà Tiệc Ly vào buổi chiều ngày thứ năm thánh:” Hãy làm việc này để nhớ tới Ta”. Chúa ban cho các môn đệ tái diễn lại hy tế thập giá. Liệu mỗi người chúng ta có đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu hay không ? “ Hãy lãnh nhận mà ăn…Hãy lãnh nhận mà uống…Vì này là Mình…là Máu Ta”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người Kitô hữu chúng con luôn biết trân trọng và tôn kính Bí Tích Thánh Thể vì đó là lẽ sống của chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Bí Tích Thánh Thể là gì ? Ai được quyền cử hành Bí Tích Thánh Thể ? Tại sao lại gọi Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích tình yêu ?
· St 14,18-20: (18) Ông Menkixêđê, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao.(19) Ông chúc phúc cho ông Ápram và nói: «Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho Ápram!»
· 1Cr 11,23-26: (24) «Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy». (25) «Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy». · TIN MỪNG: Lc 9,11b-17
Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(11) Đám đông dân chúng đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. (12) Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa Người rằng: «Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng». (13) Đức Giêsu bảo: «Chính anh em hãy cho họ ăn». Các ông đáp: «Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này». (14) Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với các môn đệ: «Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một». (15) Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. (16) Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. (17) Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Mục đích của Đức Giêsu khi xuống thế là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời. Khi tập trung năng: TN 11-C75
1. Mục đích của Đức Giêsu khi xuống thế là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời. Khi tập trung năng lực để thực hiện tốt việc quan trọng ấy, Ngài có quan tâm đến những nhu cầu thể chất của dân chúng không?
2. Một mục tử chỉ quan tâm đến việc rao giảng lời Chúa, không hề quan tâm đến những nhu cầu khác của con chiên, không hề biết chia sẻ cụ thể cho họ, thì đó có phải là một mục tử thật sự yêu thương đàn chiên không? Lời rao giảng của mục tử ấy có sức thuyết phục không? Tại sao?
3. Nếu trong thế giới, người có nhiều biết chia sẻ cho người không có, nước giàu chia sẻ cho nước nghèo, thì có ai bị nghèo khổ thiếu thốn không? Người Kitô hữu đã có tinh thần chia sẻ này chưa? Nếu có, thì ở mức độ nào?
Suy tư gợi ý:
1. Người mục tử tốt lành biết quan tâm tới cả nhu cầu cụ thể của dân chúng
Đoạn Tin Mừng đi trước bài Tin Mừng hôm nay cho biết: Đức Giêsu và các môn đệ đã mệt nhoài sau một ngày rao giảng Tin Mừng, nên đã âm thầm trốn dân chúng, tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Nhưng dân chúng vẫn còn muốn nghe Ngài rao giảng, nên khi biết Ngài dự định đi đâu, họ bèn đến chỗ Ngài nghỉ ngơi rất đông. Dù mệt mỏi mà không được nghỉ ngơi, nhưng thay vì bực mình từ chối, Đức Giêsu đã ân cần «tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa». Ngài đúng là mục tử nhân lành!
Sinh hoạt với họ đến khi trời tối tại một nơi hoang vắng như thế, Ngài không nỡ để họ ra về bụng đói. Ngài yêu cầu các môn đệ hãy lo cho họ ăn: «Chính anh em hãy cho họ ăn». Điều này cho thấy Ngài chẳng những không làm ngơ trước những nhu cầu thực tế vật chất của người dân, mà còn muốn các môn đệ Ngài phải biết lo cho họ. Tình yêu đích thực đòi hỏi người mục tử không chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của người dân, mà còn quan tâm đến cả những nhu cầu cụ thể của họ. Chính khi người mục tử tỏ ra yêu thương dân chúng và lo cho họ cả những nhu cầu cụ thể, thì họ mới hứng khởi lắng nghe người mục tử nói những vấn đề tâm linh.
2. Một cách chú giải khác thường về đoạn Tin Mừng này
Đa số các nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng khi biến bánh và cá hóa nhiều cho dân chúng ăn, Đức Giêsu đã dùng đến quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Tuy nhiên, có những nhà chú giải cho rằng Ngài đã không cần phải dùng đến phép lạ, mà chỉ cần thuyết phục để dân chúng biết chia sẻ của ăn cho nhau thì lập tức mọi người đều được dư đầy. Các nhà chú giải này cho rằng: khi theo Đức Giêsu như thế, thì những người giầu có hoặc những người biết lo xa đã đem theo dư dả thức ăn và thức uống cho chính họ. Đương nhiên cũng có rất nhiều người không chuẩn bị đem theo thức ăn gì cả. Trong bài giảng chiều hôm đó, Đức Giêsu nói về Nước Trời, tức một xã hội lý tưởng trong đó mọi người đều yêu thương nhau, sẵn sàng chia sẻ cho nhau mọi thứ. Và giảng xong, Đức Giêsu đã yêu cầu họ áp dụng tinh thần yêu thương chia sẻ ấy, bằng cách gom lại hết tất cả mọi thức ăn họ có và chia sẻ đồng đều cho mọi người. Điều vô cùng lạ lùng xảy ra là chẳng những tất cả mọi người đều ăn no, mà còn dư tới 12 thúng.
Chắc hẳn cách chú giải này không được mấy người ưa thích hay chấp nhận, nhất là những người có khuynh hướng đề cao thiên tính của Đức Giêsu. Nhưng không phải vì thế mà nó không có căn cứ hoặc không có ý nghĩa. Cách chú giải này có khuynh hướng nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu, khiến Ngài trở nên gần gũi con người hơn, và con người dễ bắt chước Ngài hơn. Khi Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ: «Chính anh em hãy cho họ ăn», điều đó hẳn có ý nghĩa là Ngài nhận thấy chính các tông đồ – nếu khôn ngoan và thấm nhiễm được tinh thần yêu thương chia sẻ của Ngài – thì có thể giải quyết được khó khăn này theo sức loài người, không cần đến quyền lực thần thiêng. Điều ta có thể chắc chắn là Ngài không bao giờ lại đề nghị với các ông làm một điều mà sức loài người không thể làm được! Chỉ khi các ông không nghĩ ra phải làm cách nào, Ngài mới cho các ông thấy cách giải quyết của Ngài dựa trên sự khôn ngoan biết kích thích tình yêu thương của mọi người, chứ không cần dựa trên quyền năng thần thiêng.
Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của việc hóa bánh ra nhiều theo cách chú giải này.
3. Con người sẽ không thiếu thốn nếu biết chia sẻ cho nhau
Hiện nay, rất nhiều nơi trên thế giới bị nạn đói, nhiều dân tộc nghèo khổ… Điều đó không phải vì Thiên Chúa không ban cho con người được đầy đủ, mà do sự phân phối của cải và lương thực giữa con người không hợp lý và đồng đều. Những bản thống kê cho thấy: 8/10 của cải trên thế giới đang nằm trong tay 1/10 nhân loại, còn 2/10 của cải kia cũng được chia một cách không đồng đều cho 9/10 nhân loại. Do đó, trên thế giới hiện nay, sự chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, giữa nước giầu và nước nghèo hết sức lớn. Có những người hết sức giầu có, sống xa hoa phung phí cả đời mà vẫn không hết tiền. Và cũng có những người hết sức nghèo khổ, không sao thỏa mãn được cả những nhu cầu cơ bản nhất của sự sống, lo chạy gạo từng bữa mà không đủ. Mà của cải thì Thiên Chúa ban chung cho cả thế giới, và ban một cách dư dật để mọi người dùng, đâu ban riêng cho ai.
Do đó, nếu người giầu không biết chia sẻ của cải cho người nghèo, thì rõ ràng một cách nào đó là họ đã duy trì sự bất công trong nhân loại. Để cho mình quá giầu có giữa những người nghèo khổ, một cách nào đó là phạm một điều bất công. Vì bình thường nếu không nhờ sự bất công - có thể là bất hợp pháp mà cũng có thể hợp pháp, có thể bất hợp lý mà cũng có thể hợp lý - thì làm sao người ta có thể hơn nhau quá nhiều như thế? Sự bất công đó có thể do từ thời cha ông hay tổ tiên để lại, mà cũng có thể do cơ cấu xã hội chưa hoàn chỉnh tạo ra. Chẳng hạn bọn thực dân đã tới chiếm đất một cách bất công ở các nước thuộc địa, rồi để lại cho con cháu họ. Hàng con cháu đó được giàu có không phải vì chính họ đã làm gì bất công, mà vì sự bất công ấy là do cha ông họ làm. Hay do cơ cấu xã hội không hợp lý khiến có những người kiếm tiền quá dễ dàng và có những người kiếm tiền quá khó khăn…
Nếu của cải và lương thực trên thế giới được phân phối một cách tương đối đồng đều, bằng cách người có nhiều chia sẻ cho người có ít, nước giàu chia sẻ cho nước nghèo, thì không một ai trên thế giới này bị nghèo khổ và thiếu thốn.
4. Thực hành Nước Trời bằng sự chia sẻ như các Kitô hữu đầu tiên
Theo cách chú giải nêu trên, thì Đức Giêsu đã làm một «phép lạ» bằng cách rao giảng về Nước Trời, rồi đề nghị mọi người thực hành Nước Trời ấy ngay tức khắc và tại chỗ, đó là thực hành yêu thương và chia sẻ cho nhau. Nhờ đó, mọi người đều thấy ngay tại chỗ hiệu quả tuyệt vời của việc thực hành ấy: không những ai cũng no đủ mà còn dư dả nữa.
Việc thực hành Nước Trời cách thực tế ấy đã được các Kitô hữu đầu tiên áp dụng thật sự trong đời sống cộng đoàn của họ. Sách Công Vụ Tông Đồ mô tả: «Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu» (Cv 2,44-45). Kết quả của việc thực hành Nước Trời như thế là: «Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu» (Cv 4,34-35). Chính vì họ thật sự thực hiện tinh thần yêu thương của Nước Trời ngay trong đời sống của họ như thế, nên họ «được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ» (Cv 2,47).
Nhìn lại cách sống đạo của người Kitô hữu ngày nay, ta thấy tinh thần chia sẻ của Nước Trời thật hiếm hoi, ngay cả nơi những người rao giảng Tin Mừng về Nước Trời. Vì thế, chúng ta cần xét lại cách sống Tin Mừng của chúng ta và sửa đổi lại cho đúng.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, trước khi lên đường chịu tử nạn để hy sinh mạng sống cho toàn nhân loại, Đức Giêsu đã «cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”». Rồi Ngài «nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”». Ngài yêu cầu chúng con hãy làm như Ngài, là cũng hãy trở nên của ăn của uống cho tha nhân, bị hiến tế vì tha nhân, cụ thể là hy sinh thì giờ, sức khỏe, tiền bạc, lương thực, vật chất… cho những người sống bên cạnh mình, thật sự chia sẻ sự sống của mình cho họ. Xin Cha giúp chúng con làm được như vậy.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta nhận thấy bữa tiệc đang diễn ra bình thường tại nhà ông TN 11-C76 Lượng
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta nhận thấy bữa tiệc đang diễn ra bình thường tại nhà ông Simon biệt phái, thì người phụ nữ bước tới. Cô ta có những cử chỉ kính trọng đặc biệt đối với Chúa Giêsu khiến cho ông Simon có vẻ thắc mắc. Để giải toả, Chúa Giêsu đã nói chuyện chân tình với ông. Qua những lời Chúa nói, chúng ta nhận thấy có một số tập tục về cách tiếp khách, chẳng hạn như chào hôn, đưa nước rửa tay và sử dụng dầu thơm. Ngoài những tập tục có tính cách văn hoá ấy, Chúa Giêsu còn nói tới một yếu tố sâu xa hơn, đó là tình cảm trong lòng chủ nhân đối với khách.
Theo cái nhìn của Chúa, thì Ngài duy trì những hình thức văn hoá bề ngoài và lại càng quý trọng lòng yêu mến bên trong. Như thế chúng ta thấy giá trị của một bữa tiệc đãi khách không phải chỉ hệ tại những món ăn mà còn tuỳ thuộc vào những cử chỉ và cách sắp xếp có văn hoá và nhất là tuỳ thuộc vào mức độ quý mến trong lòng người chủ đối với khách. Hương vị món ăn là quan trọng, nhưng hương vị cua cách tiếp đón cũng không được coi thường, và nhất là hương vị của tấm lòng lại càng quan trọng hơn.
Với những nhận định trên, tôi nghĩ tới việc tham dự Thánh lễ. Thánh lễ là một bữa tiệc và còn hơn thế nữa. Đa số chúng ta đã tham dự Thánh lễ một cách đúng đắn đáng khen. Với thái độ bên ngoài tề chỉnh và thái độ bên trong sốt sắng, chúng ta tỏ ra là những người vừa có văn hoá lại vừa có đức tin.
Tuy nhiên, tôi cũng đã thấy một số người ngoại đạo tham dự Thánh lễ một cách kính cẩn. Họ giữ thái độ tôn trọng nơi thờ tự, tôn trọng trật tự chung, tôn trọng những người chung quanh. Họ không có đức tin nhưng họ tỏ ra là những người có văn hoá. Với những đức tính văn hoá ấy, tuy dù không có đức tin, họ vẫn mang hương thơm của đạo làm người và dành được nhiều kính nể. Đang khi đó, có một số ít người công giáo vẫn thường tham dự Thánh lễ một cách bất xứng. Không những họ tỏ ra thiếu đức tin, mà còn tỏ ra thiếu cả văn hoá. Một khi coi thường những thiếu sót ấy trong Thánh lễ thì người ta lại càng dễ coi thường những thiếu sót ấy trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Về văn hoá, tôi thường nghĩ tới những thói quen nhạy bén đối với các giá trị thông thường làm đạo con người, như lương thiện, lịch sự, tế nhị, chân thành, trật tự, sạch sẽ, tận tuỵ, biết đối thoại, biết kính trọng và hay giúp đỡ kẻ khác. Những đức tính ấy đã có sẵn mầm mống trong mỗi người. Thực vậy, có người tự nhiên dễ phát huy thành thói quen. Có người phải tập luyện lâu dài mới rèn được những tập quán ấy. Nhưng dù dễ hay khó, chúng ta phải cố gắng để đạt cho được. Đó không phải chỉ là một đòi hỏi của đạo làm người mà hơn thế nữa còn là đòi hỏi của đạo Chúa.
Bởi vì trước khi là Kitô hữu chúng ta phải là người. Rồi để đem Chúa đến cho người khác, chúng ta phải gây được những cảm tình và những ấn tượng tốt nơi họ.
Nếu giả dụ như chúng ta là người đã từng có những lỗi lầm chúng ta sẽ cần điều gì nơi tha nhân? Có TN 11-C77
Nếu giả dụ như chúng ta là người đã từng có những lỗi lầm chúng ta sẽ cần điều gì nơi tha nhân? Có phải là định kiến không bao giờ thay đổi về ta? Có phải là sự xét đoán hà khắc? Có phải là xa lánh, thiếu cảm thông? Và nếu giả dụ như cha mẹ hay anh chị em của mình phạm phải sai lầm thì chúng ta sẽ hành động ra sao? Liệu chúng ta có muốn người khác ghi nhớ mãi lỗi lầm của họ, hay chúng ta muốn họ được phán xét một cách công bằng và cho họ một cơ hội được làm lại từ đầu? Nếu vậy, tại sao chúng ta lại không có cái nhìn yêu thương, cảm thông với những yếu đuối của tha nhân?
Nơi một xóm đạo có một anh thanh niên mới ra tù, những đứa trẻ trong xóm thường len lén nhìn anh với ánh mắt sợ hãi. Người lớn thường bảo nhau: Cẩn thận, ngày xưa nó chém người đấy! Trong tâm trí những đứa trẻ non nớt ấy thì người thanh niên ấy thực sự rất đáng sợ. Lớn lên, mọi người tưởng chừng như đã quên vết nhơ trong quá khứ nhưng chỉ cần trong xóm mất đồ hay bọn trẻ đánh nhau, tên anh ta lại được xướng lên với những tiếng chậc lưỡi đầy rẻ rúng: “Đấy đấy, lại học theo cái bọn trộm cắp, giết người!”
Thời gian, vạn vật luôn thay đổi. Con người cũng luôn luôn đổi thay. Có thể hôm nay họ lầm lỗi nhưng ngày mai họ đã sửa đổi. Có thể quá khứ của họ chẳng ra gì, nhưng hiện tại họ đang cống hiến cho cộng đồng. Thế nên, hãy để họ được sống và cố gắng sống thật tốt, đừng bao giờ tước đi cơ hội được làm một con người có ích với đời chỉ vì những định kiến và lời phê bình thiếu tình yêu của chúng ta.
Người xưa từng nói: “Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”. Hãy rộng lượng với tha nhân. Hãy nâng đỡ và cảm thông với những yếu đuối của họ. Tuy không đồng lòng với lỗi lầm của họ nhưng không đoạn tuyệt với họ, mà biết tạo cơ hội để họ canh tân cuộc đời.
Người phụ nữ tội lỗi trong Tin Mừng lòng tràn ngập niềm vui và bình an. Tội của chị rất nặng. Lỗi lầm của chị rất nhiều. Thế nhưng, Chúa đã không nhìn quá khứ của chị để kết án. Chúa nhìn hiện tại để cảm thông, để nâng đỡ, để cho chị cơ hội bày tỏ lòng ăn năn. Chị được đến gần Chúa. Chị được bày tỏ lòng tôn kính Chúa. Chị hôn chân Chúa và xức dầu thơm cho Chúa. Một cử chỉ biểu lộ lòng làm tôn kính Thầy Giêsu. Một cử chỉ của lòng biết ơn với Thầy Giêsu vì đã tạo cho chị cơ hội sửa đổi và canh tân.
Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao phận người đang cô đơn thất vọng. Họ cô đơn vì cộng đoàn thiếu cảm thông. Họ thất vọng vì cộng đoàn không chỉ bỏ rơi mà còn kết án vì những lỗi lầm của quá khứ. Dẫu biết rằng, con người luôn có lầm lỗi. Con người luôn cần sự cảm thông tha thứ của tha nhân, nhưng chính con người lại thường hà khắc và kết án lẫn nhau. Chúng ta thường có cái nhìn quá khắc khe như những người biệt phái năm xưa. Họ chỉ thấy quá khứ tội lỗi. Họ thiếu cái nhìn yêu thương để có thể nâng đỡ và giúp người tội lổi chuộc lại lỗi lầm. Một thế giới thiếu tình yêu, thiếu cảm thông sẽ hoang tàn để thù hận lên ngôi.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự bất toàn của mình để sám hối ăn năn, và nhất là để cảm thông với những yếu đuối của anh em. Xin đừng vì tự cao tự đại mà thiếu khoan dung với tha nhân. Xin cho chúng ta biết học nơi Chúa luôn nhẫn nại yêu thương để nâng đỡ anh em. Amen.
Mùa hè, mẹ gửi Andrew về quê chơi với bà ngoại. Được cậu Billy cho một cái giàn thun, Andrew TN 11-C78
Mùa hè, mẹ gửi Andrew về quê chơi với bà ngoại. Được cậu Billy cho một cái giàn thun, Andrew khoái lắm. Nhưng nhớ lời cậu dặn, nó chỉ dám tập bắn ở trong rừng cây phía sau nhà. Andrew lang thang suốt buổi sáng ở trong rừng, nhưng nó chẳng bắn được chút gì cả. Buồn rầu, Andrew thất thểu về nhà ăn trưa. Vào tới sân, thấy bầy vịt của bà ngoại đang rượt nhau kêu quàn quạc trong sân. Andrew cúi xuống nhặt một hòn sỏi và bắn đại một phát. Chẳng may, viên sỏi trúng ngay giữa đầu một con vịt, nó lăn đùng ra giữa sân, giãy đành đạch mấy cái rồi nằm ngay đơ.Andrew hoảng hốt nhìn quanh, không có ai cả. Nó vội nhặt con vịt và nhét vào trong đống củi. Yên trí với bí mật của mình, Andrew ngồi vào bàn ăn trưa, mà không biết rằng đã có ít nhất một cặp mắt nhìn thấy chuyện xảy ra với con vịt.
Sau bữa ăn trưa, bà ngoại vừa cất đồ ăn dư vào chạn vừa dặn Sally, chị họ của Andrew, con gái chú Billy: Bữa nay tới lượt con rửa chén đó. - Nhưng Andrew nó hứa làm thay con rồi. Sally vội đáp và nhìn Andrew bằng ánh mắt khiến nó đang đỏ mặt toan cự cãi bỗng đâm ra chột dạ.
Thật không Andrew? - Bà ngoại hỏi, không quay đầu lại. - Con à? Andrew vừa mở mồm thì Sally hích một cái đau điếng vào sườn nó và khẽ thì thầm qua kẽ răng:- Con vịt. Nhớ không?- Con nhận lời chị ấy rồi. Andrew đáp bằng giọng hậm hực.
Ngủ trưa dậy, ông ngoại rủ Andrew và Sally đi câu, nhưng bà ngoại bảo:- Sally, cháu ở nhà giúp bà nấu nồi xúp cho bữa tối. - Nhưng Andrew thích ở nhà nấu xúp hơn là đi câu đấy chứ! Bà hỏi nó xem có đúng như vậy không? Sally trả lời bằng giọng mát mẻ. Andrew toan cãi thì Sally tằng hắng mấy tiếng. Nó đành nghẹn ngào trả lời:- Cháu sẽ ở nhà giúp bà.
Cứ thế, suốt ngày hôm đó, Andrew luôn bị Sally dằn vặt bởi chuyện con vịt.Tối đến, mệt mỏi, Andrew nằm lăn trên chiếc đi-văng trong phòng khách và ngủ thiếp đi.
Lúc nó thức dậy, ai đó đã tắt đèn và phủ trên người nó một tấm chăn. Andrew nằm im, đầu nó nhớ lại chuyện trong ngày. Nhiều lúc nó muốn nói thật với bà ngoại về chuyện con vịt, nhưng nó lại sợ bà ngoại sẽ mách mẹ nó, rồi thì sang năm mẹ nó sẽ không cho nó về chơi với ông bà nữa thì sao? Còn Sally thì quá quắt quá, không biết bao giờ nó mới thoát khỏi bàn tay quái ác của Sally? Biết làm sao đây? Nó chỉ muốn chết quách cho rồi. Andrew thổn thức.
Chợt một bàn tay to mềm của bà ngoại đặt lên vai nó, giọng êm ái của bà ngoại thì thầm:- Nói đi con. Có điều gì con cứ nói ra cho nhẹ nhõm trong lòng.- Con vịt... Cháu... Con vịt... Andrew lắp bắp.
Bà ngoại im lặng. Hít một hơi dài, Andrew nói một mạch:- Cháu lỡ tay bắn chết một con vịt rồi bà ạ!
- À, ra chuyện con vịt. Lúc đầu thấy thái độ của cháu với Sally bà hơi ngạc nhiên, nhưng bà đã hiểu cả khi lùa bầy vịt vào chuồng và thấy thiếu một con. Nhưng bà muốn chờ cháu tự nói ra. Câu chuyện ngày hôm nay là một bài học cho cháu đó: Che giấu tội lỗi của mình, cháu sẽ không bao giờ có được sự thanh thản và cháu sẽ trở thành nô lệ cho cái xấu. (x.canhdongtruyengiao.net).
Không ai làm một điều xấu mà có được sự thanh thản tâm hồn, trừ khi đó là hạng người vô lương tâm. Có những người sau khi đã làm những điều sai phạm, không biết sửa sai, cố chấp, né tránh sự thật, tìm đủ lý do để tự biện hộ cho mình, kéo bè kết cánh để làm chuyển hướng dư luận. Bảo vệ lỗi lầm này bằng một lỗi lầm khác, tìm cách xóa bỏ tội ác này bằng một tội ác khác, dần dần buông xuôi đời mình vào vòng tăm tối không còn lối thoát, trở nên nô lệ sự xấu, nô lệ tội lỗi.
Bài đọc 1 kể chuyện vua Đavít phạm tội cướp vợ rồi giết chồng và che dấu tội lỗi của mình.
Sau khi ngoại tình với Batseva, vua Đavít muốn dấu kín tội lỗi nên lại phạm thêm một tội khác, đó là giết chết tướng Uria chồng của Batseva. Phạm tội mà không nhận tội, lại còn muốn che giấu nó, Đavit lún sâu hơn, phạm thêm những tội khác nữa. "Nhưng hành động của vua Đavít không đẹp lòng Thiên Chúa". Thế nên, ngôn sứ Nathan can gián vua về điều ô nhục vua đã làm, điều ô nhục càng lớn hơn nữa vì Thiên Chúa đã ban cho vua biết bao ân huệ của Ngài. Trước hết, ngôn sứ Nathan đã kể cho vua dụ ngôn về một người giàu với đàn gia súc đông đúc, nhưng lại bắt một con chiên duy nhất của một người nghèo mà làm tiệc đãi khách. Đavít bừng bừng nỗi giận vì cách hành xử của người giàu này và đưa ra phán quyết "Nó đáng chết". Thấy tội người khác dễ hơn thấy tội của mình. Lúc đó, Nathan đã đáp lại:
"Kẻ đó chính là bệ hạ" và kể ra biết bao ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho vua: "Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua cai trị Israel, Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saun. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã ban cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao lại khinh dể lời Đức Chúa mà điều dữ trái mắt Người?". Ngôn sứ Nathan nhắc cho vua Đavít hai tội của vua: tội ngoại tình và tội sát nhân, và tiên báo cho vua một loạt hình phạt: "Gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi". Vua Đavít khiêm tốn nhận ra tội của mình: "Tôi đã đắc tội với Chúa". Chân thành sám hối và sửa lỗi đã làm cho vua Đavít từ một người tội lỗi trở nên một vị thánh. Từ đó về sau, nhà vua luôn ý thức về ơn sám hối và luôn đáp trả lòng thương xót của Thiên Chúa. Vua Đavit được xem là tác giả Thánh vịnh. Vua Đavit được Chúa thứ tha nên tình yêu của ông thể hiện bàng bạc trong các Thánh Vịnh, đặc biệt là Thánh Vịnh 50.
"Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài...".
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: "Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều".
Cả 4 Phúc Âm đều kể chuyện về một người phụ nữ đem dầu thơm xức chân Chúa Giêsu. Phúc Âm Matthêu và Maccô không nêu tên, Phúc Âm Gioan kể là Maria em Matta, còn Phúc âm Luca kể là một người tội lỗi.
Chúa Giêsu được mời ăn tiệc nhà Simon biệt phái. Ăn tiệc lớn ở xứ Palestina thời đó người ta nằm trên những chiếc ghế dài, có gối, tay trái dùng để tựa còn tay phải thò ra ngoài. Khi nhà có đại tiệc, người ngoài tự do ra vào. Bất ngờ có một phụ nữ tội lỗi mạnh dạn bước vào phòng tiệc. Chị đem theo bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Rồi chị khóc và cởi khăn choàng đầu để xoã tóc, "lấy tóc lau chân Chúa rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên". Đến với Chúa Giêsu, người phụ nữ mang theo ba tặng vật: niềm tin, mái tóc và bình dầu quý. Người phụ nữ "vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisiêu". Chị biết vì đã nghe danh tiếng Chúa Giêsu nên chị đã đặt trọn niềm tin nên đến xin ơn tha thứ để hoán cải. Chị mua bình bạch ngọc và dầu thơm quý. Chắc hẳn tiền mua bình bạch ngọc đến từ những đêm nhục nhằn câm nín, từ nước mắt dàn dụa trên những đồng bạc bất hạnh nằm rơi vải trên giường.Chị gom số tiền đã chắt chiu từ những tháng ngày cùng cực, xuống phố, mua một bình ngọc quý và dầu thơm hảo hạng. Rồi từ từ, đổ hết để quyết tâm giã từ quá khứ lầm lỗi và mong muốn làm lại cuộc đời. Người con gái có mái tóc dài quý giá, một thửa mây bay quyến rũ, bây giờ xõa xuống lau chân, ngoan ngoãn theo lời xin sám hối.
Chúa Giêsu hoàn toàn bình tĩnh, không hề lúng túng. Người chấp nhận những đụng chạm có nguy cơ gây ô uế cho mình. Người phụ nữ đứng đó mà khóc. Nước mắt của chị chắc hẳn là những dòng nước mắt ăn năn, nước mắt dâng trào niềm cậy trông. Chúa Giêsu cũng chẳng quan tâm gì đến phản ứng của những người chung quanh. Trước mặt Người, chị là một hối nhân đến xin ơn tha thứ và xin chữa lành. Người đến thế gian để thực thi sứ vụ cứu chữa: "Ta không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (Lc 5, 32). Đối với Chúa Giêsu: "Một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là chín mươi chín người công chính không cần ăn năn sám hối" (Lc 15,7).
Chủ nhà thầm nghi ngờ thanh danh của Chúa Giêsu. Đọc được tư tưởng thầm kín của ông nên Người kể cho ông dụ ngôn về hai con nợ, một người nợ năm trăm quan tiền và một người nợ năm chục; nhưng cả hai đều không có tiền trả, vì thế, chủ nợ thương tình tha cho cả hai. Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng cách hỏi ông Pharisiêu: "Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?". Ông mau mắn trả lời: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu nói với ông: "Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều". Rồi Người nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi...Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an". Rõ ràng, lòng tin đem lại ơn tha thứ. Ơn tha thứ làm đổi mới tội nhân, nhờ đó họ bước đi trong bình an.
Tình yêu và lòng tin cần phải được biểu lộ cách cụ thể qua hành vi sám hối. Nhận mình lầm lỗi để được thanh tẩy thứ tha. Chỉ có những ai nhận mình lầm lỗi mới được Thiên Chúa thứ tha. Thomas Carlyle nói một câu bất hủ: "Không nhận ra lầm lỗi là lỗi lớn nhất trong mọi lỗi lầm". Nếu ai cho mình không có tội thì đâu cần Thiên Chúa thứ tha. Thánh Gioan cũng viết rằng: "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1Ga 1,8)
Mọi sự dối trá đều nhằm che đậy lầm lỗi. Không ai có thể bình an khi mang trong lòng tội lỗi. Hành động che dấu tội lỗi có thể lừa gạt người đời, nhưng không thể lừa gạt lương tâm mình, càng không thể lừa gạt Thiên Chúa được. Tình trạng xã hội Việt Nam hiện nay, ai cũng thấy đầy rẫy gian trá, lừa đảo, độc ác, vô nhân. Những việc làm mờ ám trong bóng tối, như gian tham, lừa dối, tội ác... luôn cắn rứt lương tâm con người. Làm sao người ta có thể thanh thản tâm hồn khi đắm chìm trong lỗi lầm được?
Người Kitô hữu đến với bí tích Hòa Giải để tự mình nói ra mọi tội lỗi với Thiên Chúa tình yêu. Xưng tội là tỏ lòng ăn năn sám hối, quyết tâm sửa đổi và canh tân đời sống. Người ta bảo trên đời có ba bóng dáng hạnh phúc tinh ròng. Đó là mẹ đem con đi rửa tội về, người lành tạ thế và hối nhân từ toà giải tội bước ra.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn nhận ra những lỗi lầm thiếu sót, chân thành sám hối, mau mắn đến với bí tích Hòa Giải để được Chúa tha thứ và ban bình an. Amen.
Bước vào Chúa nhật XI thường niên, rơi vào trung tuần tháng Sáu, tháng kính Trái Tim Cực Thánh TN 11-C79
Bước vào Chúa nhật XI thường niên, rơi vào trung tuần tháng Sáu, tháng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu. Trang Tin Mừng về người phụ nữ tội lỗi được Chúa Giêsu tha thứ hôm nay như một sự trải dài về lòng thương xót vô cùng của Trái Tim Chúa. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta là vô cùng vô tận, một tình yêu đối thoại với tội nhân, chúng ta vẫn quen gọi là lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Lòng thương xót của Chúa Giêsu không chỉ là một tình cảm, đó còn là một quyền năng ban sự sống, làm cho con người được phục sinh". (Huấn đức Chúa nhật X thường niên năm 2003). Như thế chúng ta cũng có thể hiều thêm rằng, lòng thương xót của Thiên Chúa tha thứ tội nhân.
Những lời của Chúa Giêsu nói về người phụ nữ đã mang một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm hảo hạng đến nhà ông Simon, mở ra quì dưới chân Chúa mà xức, khác nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Chúa, lấy tóc mình mà lau và hôn chân Chúa thật là khó hiểu: “Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít.” (Lc 7, 36-8,3)
Câu đầu Chúa Giêsu khẳng định có vẻ ngược với câu sau. Một bên, dùng tình yêu để đạt được sự tha thứ "vì bà đã yêu mến nhiều". Bên kia, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng, người ta không thể thực sự yêu mến nếu không cảm nghiệm được sự tha thứ, tình yêu này được đo bằng đón nhận sự tha thứ "kẻ được tha ít". Nói cách khác, nếu bên này, tình yêu là bước khởi đầu trong tương quan với tội lỗi. Bên kia, ngược lại. Vậy, điều nào trước? Tình yêu hay kinh nghiệm được tha thứ? Để hiểu được, chắc cần phải có dụ ngôn kiểu Chúa Giêsu kể cho ông Simon.
Ông Simon trả lời: "Kẻ được ông chủ nợ tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn". Tuy nhiên, dụ ngôn này có thể dễ làm cho người ta dựa vào sự được tha thứ. Cần phải phân biệt người đã được tha và người cần được Thiên Chúa tha thứ, sự tha thứ của Thiên Chúa luôn có trước. Đây chính là kinh nghiệm của David sau khi đã giết tướng Uria người Hittít để chiếm vợ ông. (2Sam 12, 7-10)
Kinh nghiệm về sự tha thứ của Thiên Chúa bao hàm sự nhận biết, được đón nhận và dâng hiến sự thấp hèn của mình lên Thiên Chúa. Vì ai giầu có kiêu căng, thì tự mình cảm thấy không cần đến ơn tha thứ; bởi vì họ không thấy có lợi gì. Làm sao có thể diễn tả được tình yêu đối với người chẳng cần nhận lãnh điều gì? Đó chẳng phải là kết cục khó khăn của Simon sao? Ông hơi quá tự phụ về sự công chính và đạo đức của mình, và dường như “người phụ nữ tội” này không ngăn cản ông đón nhận điều Chúa Giêsu muốn trao cho ông khi đến nhà ông. Chúa Giêsu nói với Simon: "Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà dã được tha rồi" lý do là vì: "bà đã yêu mến nhiều". Và Chúa Giêsu nói với bà: "Đức tin của con đã chữa con. Con hay về bình an". Đây chẳng phải là một hé mở cho Simon con đường để đón nhận ơn Chúa sao?
Chỗ khác Chúa nói: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu" (Mt 9,12). Về điều này, Thánh Ambrôsiô, Giám mục thành Milan, tiến sĩ Hội Thánh nói: "Hãy chỉ cho bác sĩ biết vết thương của bạn, bác sĩ có thể chữa bạn lành. Thậm trí nếu như bạn biết bệnh của bạn và bạn nói với bác sĩ, yêu cầu bác chữa trị, nhưng bác sĩ vẫn yêu cầu bạn phải nghe lời chỉ dẫn của bác sĩ. Ambrôsiô khuyên chúng ta: Hãy lấy nước mắt mình mà rửa vết thương. Vì chính người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã từ bỏ tội lỗi mình và những quyến rũ của tội lỗi; chính bà đã thanh tẩy lỗi lầm của mình bằng chính nước mắt bà, khi lấy nước mắt mà rửa chân Chúa Giêsu. Nước mắt của lòng thống hối chừa cải chất chứa yêu thương, bà đã được tha thứ. (Thống hối, II, 8; SC 179)
Để cảm nghiệm và đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, con người cần phải có trái tim sẵn sàng, trong sạch và khiêm tốn. Nhờ đôi chân mà Chúa Giêsu đến gần con người. Với lòng khiêm nhường, Ngài đã đồng ý để bà quì xuống mà rửa chân, lấy nước mắt mình mà lau chân. Trái lại, ông Simon, tuy Chúa ở trong nhà ông, nhưng lòng ông còn ở quá xa Chúa, khi ông chứng kiến cảnh bà này đối xử với Chúa Giêsu, ông liên xét đoán và phê bình, "bà ấy là một người tội lỗi". Bà thật can đảm đã vượt qua rào cản, giữa ô uế là (bà) và trong sạch là (Simon biệt phái), trước mặt người đời, bà làm thế vì bà cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và bà dám chắc rằng bà tin bà sẽ được.
Đón nhận một tình yêu nhưng không, để thúc đẩy kẻ có tội được tha thứ đáp trả bằng tình yêu. Nhưng kẻ được tha thứ luôn luôn ý thức rằng tình yêu của bà đáp trả Thiên Chúa bằng chính tình yêu Thiên Chúa trao ban cho bà khi Ngài thứ tha lúc bà đang là tội nhân.
Tình yêu ấy được thể hiện trong rõ khi Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân là Ngài xóa sạch. Ngài giải thoát ta khỏi gông cùm, xiếng xích, đưa ta tới một tương lai tương sáng khi bảo: "hãy đi!" Ngài mời gọi chúng ta ra đi mà không cần đáp trả khi thêm vào thêm vào: "Con hãy đi bình an" (nghĩa là bước đi trên đường công chính). Tội lỗi là phản nghịch của con người với Thiên Chúa, công chính là hòa bình với Thiên Chúa. "Con hãy đi bình an" cũng có thể nói rõ rằng, "hãy làm tất cả những gì có thể để dẫn tới sự bình an với Thiên Chúa".
Đến đây chúng ta có thể khẳng định mà không lầm rằng: "Kết quả của tình yêu là sự sống! Lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho con người sự sống, phục sinh con người từ cõi chết. Chúa luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, Người chờ đợi chúng ta với lòng thương xót. Vậy, chúng ta đừng ngại đến với Chúa, Đấng có một trái tim nhân hậu. Nếu chúng ta bày tỏ với Người những vết thương trong lòng mình, tội lỗi của mình, Người luôn tha thứ cho chúng ta". Xin Đức Maria, Nữ Vương của lòng thương xót cầu cho chúng con. Amen.
Câu chuyện “Chúa Giê-su tha thứ cho một người phụ nữ tội lỗi” này, thuộc nguồn tài liệu riêng TN 11-C80
Câu chuyện “Chúa Giê-su tha thứ cho một người phụ nữ tội lỗi” này, thuộc nguồn tài liệu riêng của thánh Lu-ca, được dùng để minh họa cho chủ đề chính của Tin Mừng Lu-ca về “tấm lòng thương xót của Chúa Giê-su”. Chúng ta cũng gặp thấy những câu chuyện tương tự ở Mc 14: 3-9, ở Mt 26: 6-13 và ở Ga 12: 1-8. Tuy nhiên, người phụ nữ vô danh ở trong câu chuyện của thánh Luca được xác định là “một người phụ nữ tội lỗi”, còn người phụ nữ vô danh trong câu chuyện của hai thánh Mác-cô và Mát-thêu, thì không nói gì về tội lỗi của chị, trong khi người phụ nữ của Gioan được xác định là cô Ma-ri-a, em của cô Mác-ta. Thời điểm câu chuyện xảy ra cũng khác: thánh Lu-ca định vị ở Ga-li-lê, còn ba thánh ký kia thỉ ở Bê-ta-ni-a; cuối cùng ý nghĩa hành vi của người phụ nữ cũng khác: ở thánh Lu-ca, chị được tha thứ vì chị đã bày tỏ đức tin, đức cậy và đức mến vào Ngài; còn ở ba thánh ký kia, hành động của người phụ nữ mang tính ngôn sứ là loan báo cuộc mai táng sắp tới của Ngài. 1. Người phụ nữ tội lỗi sám hối (7: 36-38) Một người Biệt Phái mời Chúa Giê-su đến dùng bữa tại tư gia của mình. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất kể đến ba lần những người Biệt Phái mời Đức Giê-su dùng bữa tại nhà mình (Lc 7: 36-49; 11: 37-39; 14: 1-6). Đức Giê-su chấp nhận lời mời. Đối với Ngài đây là những dịp để Ngài có thể đưa ra những bài học thích đáng cho gia chủ, vả lại những bài học này ít nhiều được tiếp nhận. Lời chứng của thánh Lu-ca đáng chú ý: thánh ký muốn người đọc hiểu rằng nhiều người Biệt Phái có tinh thần rộng mở cố gắng tiếp xúc với Chúa Giê-su nhiều hơn để hiểu Ngài hơn. Chắc chắn sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử hơn những lời công kích dữ dội theo Tin Mừng Mát-thêu. Một sự cố mở màn cho câu chuyện, đó là sự xuất hiện bất ngờ của “một người phụ nữ vốn nổi tiếng tội lỗi trong thành”. Khi biết Chúa Giê-su đang dùng bữa tại nhà người Biệt Phái, chị mang theo một bình dầu thơm quý và dạn dĩ bước vào phòng ăn đi thẳng đến Chúa Giê-su, chứ không đến gia chủ như phép lịch sự phải có. Chị khiêm tốn đứng nép mình “đàng sau chân Ngài mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Ngài, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Ngài và lấy dầu thơm mà đổ lên chân Ngài”. Chị biểu lộ tấm lòng yêu mến và kính trọng đối với Chúa Giê-su. Có lẽ chị đã được những lời giảng dạy đầy lòng xót thương của Ngài thu phục và cảm hóa. Theo tập quán thời đó, Đức Giê-su nằm dài trên trường kỷ, trong tư thế nằm nghiêng, đầu tựa vào khuỷu tay trái, tay phải tự do để ăn uống, hai chân duỗi thẳng về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đó cho phép người phụ nữ có thể đứng gần chân Chúa Giê-su. Đức Giê-su không làm bất kỳ cử chỉ nào để xua đuổi chị; Ngài chấp nhận những đụng chạm có nguy cơ làm cho Ngài ra ô uế. Chị đứng đó mà khóc. Nước mắt của chị chắc hẳn là những dòng nước mắt ăn năn, nhưng còn hơn thế nữa, chắc chắn những dòng nước mắt trào dâng vì yêu mến. 2. Thái độ của ông Biệt Phái (7: 39) Ông Biệt Phái thiển cận này không nhìn thấy sâu xa được như thế, ông chỉ dừng lại ở mặt ngoài của những “đụng chạm” này, sự việc diễn tiến đối với ông có vẻ khiêu khích quá đáng. Tư tưởng thầm kín của ông xoay quanh hai xác tín: một ngôn sứ phải có khả năng biết lai lịch của những kẻ mình tiếp xúc và phải giữ khoảng cách giữa cái thanh sạch và cái ô uế. Từ đó ông đi đến một kết luận sai lạc là Đức Giê-su không thể là một vị ngôn sứ. Người Biệt Phái đón tiếp Đức Giê-su thầm nghi ngờ thanh danh của Ngài. 3. Thái độ của Chúa Giê-su (7: 40-47) Chúa Giê-su đọc được tư tưởng thầm kín của ông nên Ngài lịch sự ngỏ lời với ông. Chúa Giê-su kể cho ông dụ ngôn về hai con nợ, dường như chẳng ăn nhập gì với sự việc đang xảy ra. Một con nợ năm trăm quan tiền và một con nợ năm chục; nhưng cả hai đều không có tiền trả, vì thế, chủ nợ thương tình tha cho cả hai. Dụ ngôn này bao hàm một yếu tố đến từ cái không bình thường: sẽ thật lạ lùng khi một chủ nợ thương tình tha hết những món nợ mà hai con nợ không thể nào hoàn trả nổi. Chi tiết không bình thường này trong câu chuyện thường ngày đó nhắc chúng ta nghĩ đến một thực tại sâu sắc hơn: mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Bài học mà Chúa Giê-su rút ra từ một vấn nạn được nêu lên với Si-mon (và với độc giả), mời gọi một lời đáp trả không có gì bất ngờ: tấm lòng biết ơn của con nợ đối với ông chủ, người tha nợ cho mình như thế nào, thì tấm lòng biết ơn của tội nhân đối với Thiên Chúa, Đấng tha thứ tội lỗi cho mình phải là cũng như vậy. Ngoài ra, người ta càng ý thức về số nợ được tha bổng càng lớn, thì tấm lòng yêu thương càng đậm đà tình nghĩa hơn. Chúa Giê-su kết thúc dụ ngôn bằng cách hỏi người Biệt Phái: “Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”. Dụ ngôn quá đơn giản nên người Biệt Phái mau mắn trả lời: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn”. Được người Biệt Phái đồng tình, Chúa Giê-su chuyển chú ý hướng về đối tượng của cuộc tranh cãi: “Ông thấy người phụ nữ này chứ?”, và áp dụng dụ ngôn vào hoàn cảnh hiện nay khi đối chiếu cách hành xử của Si-mon thiếu lòng hiếu khách đối với Ngài với ba cử chỉ của người phụ nữ vô danh: “Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ trên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ trên chân tôi”. Đây không còn phẩm chất ngôn sứ của Ngài được đặt thành vấn đề, chính là cách hành xử không đúng của người Pha-ri-sêu, ông đã bỏ qua những phép lịch sự cần phải có đối với khách mời của ông: một nụ hôn bình an của gia chủ cho khách mời để tỏ lòng kính trọng, đổ nước mát trên chân khách để rửa sạch bụi đường và làm mát chân khách, đốt hương liệu hoặc xức dầu thơm lên đầu khách cho hương thơm lan tỏa khắp nhà. Từ đó, Chúa Giê-su rút ra một kết luận, câu kết luận này được dịch sát từ theo hai cách do bởi liên từ Hy-lạp: “hoti”: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, ‘nên’ hay ‘vì’ chị đã yêu mến nhiều”. Rõ ràng theo văn mạch khởi đi từ dụ ngôn hai con nợ, chúng ta phải hiểu: “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, nên chị đã yêu mến nhiều”. Một câu kết luận thật lạ lùng khiến chúng ta phải lưu ý: không phải vì chị đã yêu mến nhiều nên chị được tha thứ nhiều, nhưng vì chị đã được tha thứ nhiều nên chị đã bày tỏ cách minh nhiên lòng biết ơn qua những hành động đầy lòng mến của chị. Tình yêu là lời đáp trả của con người trước tình yêu đi bước trước của Thiên Chúa. Trước khi chúng ta ngỏ lời cầu xin Thiên Chúa tha thứ thì Thiên Chúa đã tha thứ chúng ta rồi. Không phải thánh Gioan đã khẳng định: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu mến chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4: 10) sao? Thánh Phao-lô còn quả quyết mạnh mẻ hơn nữa: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5: 7-8). Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu câu kết luận của Chúa Giê-su được rút ra từ phần đầu của câu chuyện: “Tội của chị rất nhiều, nhưng được tha, 'vì' chị đã yêu mến nhiều”. Theo kết luận này, phải chăng lòng mến là nguyên do của sự tha thứ? Quả thật, có hai chuyển động. Lòng xót thương của Thiên Chúa đi bước trước; chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nhưng Ngài dễ dàng tha thứ hơn cho ai đến với Ngài trong thái độ khiêm hạ về sự khốn cùng của mình. Dụ ngôn người Biệt Phái và người thu thuế rất gần với câu chuyện Tin Mừng hôm nay. “Hình ảnh người phụ nữ tội lỗi được Chúa tha thứ hết nhắc nhở tôi rằng: Thiên Chúa không chỉ có Tinh Yêu mà Ngài là Tinh Yêu. Càng sống yêu thương, tôi càng dễ nhận ra Chúa hiện diện trong tôi. Nhưng lúc từ chối tình yêu, tâm hồn tôi trở nên trống vắng và cô đơn, tôi trở nên ích kỷ, xa rời Thiên Chúa và mọi người. Lạy Chúa tình yêu, xin cho con không chỉ biết khóc lóc ăn năn tội lỗi của mình, mà còn biết bù đắp lại bằng chính tình yêu của con” (“Hosanna”). 4. Thái độ của khách dự tiệc (7: 48-50) Lời đầu tiên Chúa Giê-su nói với người phụ nữ là lời công bố Thiên Chúa đã tha thứ cho chị: “Tội của chị đã được tha rồi”. Lời công bố tha thứ tội lỗi này gây nên phản ứng từ phía những người đồng bàn: “Ông này là ai mà lại tha được tội?”, phản ứng này gợi nhớ phản ứng của các kinh sư và Biệt Phái trong dịp người bại liệt được ơn tha tội (5: 20-21). Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả nói: “Đức công chính chính hiệu là sự cảm thông; trong khi sự công chính giả mạo là công phẩn” (x. In Evangelia homiliae, 33). Có nhiều người giống những khách dự tiệc này: thấy tội lỗi của những người khác, họ tức khắc công phẩn thay vì xót thương, hay vội vả kết án hoặc chế nhạo. Họ quên rằng chính họ đã và đang là những tội nhân đáng thương như thánh Phao-lô nói: “Ai tưởng rằng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10: 12); “Thưa anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hòa mà sửa dạy người ấy… Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em đã chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6: 1-2). Chúng ta nên ra sức để đức ái điều khiển tất cả những phán đoán của chúng ta. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng bất công đối với tha nhân. “Chúng ta hãy chậm xét đoán. Mỗi người thấy mọi việc từ quan điểm của chính mình, vì tâm trí của mình, với tất cả những giới hạn của nó, và qua đôi mắt thường bị che khuất bởi đam mê… những xét đoán của con người chẳng có giá trị là bao! Đừng xét đoán mà không sàng lọc lời xét đoán của bạn trong lời cầu nguyện” (Bl. J. Escriva, The Way, 451). Từ phản ứng của khách dự tiệc, Chúa Giê-su cho thấy rõ tiến trình của ơn cứu độ khi nói với chị: “Lòng tin của chị đã cứu chị”. Đức tin của người phụ nữ đã là khởi điểm của một tiến trình hoán cải, đức tin ấy là nguyên nhân ơn cứu độ của chị và từ nay chị được hưởng ơn cứu độ ấy: “Chị hãy đi bình an”. Tuy nhiên, đức tin không được tách rời khỏi lòng mến, chính đức tin đầy lòng mến của người phụ nữ tội lỗi đã được biểu lộ ở nơi những dáng điệu cử chỉ của chị. Thánh Am-rô-si-ô giải thích: “Chính không phải việc xức dầu thơm mà Chúa yêu mến, nhưng tấm lòng trìu mến; chính đức tin và tấm lòng khiêm tốn của người phụ nữ mà Ngài hài lòng. Bạn cũng vậy, nếu bạn ước mong ân sủng, hãy tăng cường lòng mến của bạn; đổ tràn trên thân thể của Đức Giê-su Ki-tô niềm tin của bạn vào sự Phục Sinh, hương thơm của Giáo Hội Thánh và dầu của đức ái đối với tha nhân” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.). 5. Những người đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su (8: 1-3) Đoạn Tin Mừng hôm nay kết thúc với những người, cả nam lẫn nữ, đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su. Đây cũng là nguồn riêng của thánh Lu-ca. Trong cuộc hành trình truyền giáo của Chúa Giê-su ở Ga-li-lê, có hai nhóm người sát cánh với Ngài, nhóm Mười Hai và nhóm những người phụ nữ, họ là những chứng nhân về lời nói và việc làm của Ngài. Thánh Lu-ca ghi nhận những ân ban mà các bà nhận được là được Chúa Giê-su trừ quỷ và chữa bệnh, dường như về phía các bà những ân ban đó đóng một vai trò tương tự như việc kêu gọi các ông (5: 10-11; 27-28). Quả thật, thánh ký mô tả lời đáp trả tích cực của các bà theo cùng một thuật ngữ với nhóm Mười Hai: “Cùng đi với Ngài”. Ở đây thánh Lu-ca nêu lên tên của ba người phụ nữ trong số họ như thánh ký đã làm đối với nhóm Mười Hai (6: 12-16) và mô tả việc các bà cộng tác vào sứ vụ của Chúa Giê-su bằng cách “phục vụ Đức Giê-su và các môn đệ”. Phục vụ là công việc cao quý nhất trong Giáo Hội của Chúa Giê-su, như Chúa Giê-su mô tả sứ vụ của nhóm Mười Hai: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mc 10: 43) và thậm chí ngay cả sứ vụ của Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10: 45). Trong sứ vụ truyền giáo ở Ga-li-lê và cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, nhóm Mười Hai được nói đến nhiều hơn; bù lại, các bà này sẽ lại xuất hiện hàng đầu trong những thời điểm then chốt, vào giờ khổ nạn của Chúa Giê-su: “Đứng đằng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những người phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến các việc ấy” (23: 49), vào lúc mai táng Ngài: “Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào” (23: 55) và vào lúc Ngài phục sinh: các bà là những người đầu tiên chứng kiến ngôi mộ trống và là những người đầu tiên lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ (24: 1-10); các bà với nhóm Mười Một hiện diện ở lầu trên vào lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống (x. Cv 1: 14).
Nam cũng như nữ đều được hưởng phẩm giá như nhau trong Giáo Hội. Trong văn mạch của sự bình đẳng đó, những người phụ nữ được kêu mời góp phần của mình vào sứ mạng của Giáo Hội, như lời tán dương của Đức Bê-nê-đíc-tô XVI: “Theo kiểu nói của Đức Gioan Phao-lô II, ‘thiên tài nữ giới’, thời này còn hơn trong quá khứ, đã góp phần lớn lao vào việc hiểu biết Kinh Thánh và vào toàn bộ của cuộc sống Giáo Hội, kể cả lãnh vực nghiên cứu Kinh Thánh. Thượng Hội Đồng đã đặc biệt chú ý đến vai trò cần thiết của người phụ nữ trong gia đình, việc giáo dục, việc dạy giáo lý, và việc thông truyền các giá trị. Quả thế, nữ giới ‘biết gợi lên khả năng lắng nghe Lời, vui hưởng mối quan hệ riêng tư với Thiên Chúa và thông truyền cảm thức về sự tha thứ và sự chia sẻ mang đậm nét Tin Mừng’, cũng như họ là sứ giả của tình yêu, mẫu thức của lòng xót thương và những người kiến tạo hòa bình; họ nhiệt tâm thông truyền tấm lòng nhân ái trong một thế giới vốn rất thường phán đoán con người theo những tiêu chuẩn tàn nhẫn là bóc lột và lợi nhuận” (“Verbum Domini”, 85).
Tác giả bài viết: Lm Hồ Thông HT68 Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã tranh luận nhiều mà không đi đến được một giải thích thoả đáng TN 11-C81
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã tranh luận nhiều mà không đi đến được một giải thích thoả đáng chung cuộc về mối tương quan giữa tình trạng được tha tội và lòng yêu mến của người phụ nữ. Có ba cách giải thích và cách nào cũng có phần có lý:
- vì đã yêu mến nên có công phúc và được tha tội ("người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ vì đã yêu mến Chúa nhiều"; theo công thức: yêu mến - được tha tội);
- chính vì được tha tội rồi nên mới yêu mến ("người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ bằng cớ là đã yêu mến Chúa nhiều"; theo công thức: được tha tội - yêu mến).
- chính khi yêu mến là được vượt qua được xiềng xích của tội lỗi, vì tội lỗi chẳng qua là bức tường ngăn cách mối tương giao thương yêu giữa các ngôi vị với nhau ("tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, và bà đã yêu mến nhiều"; theo công thức: yêu mến = được tha tội);
2. Tha tội là nối lại tình thân
Trong cuộc sống thường ngày, khi có một sự bất công về của cải hoặc danh dự, thì người ta phải dùng luật lệ để tái lập sự công bằng xã hội bằng cách bắt người này phải trả lại cho người kia điều thuộc về họ. Tuy nhiên, có một hậu quả quan trọng hơn mà luật lệ không thể nào làm được, đó là một sự trục trặc về tương quan tình thân mà hậu quả là hai người đó không còn có thể nói chuyện bình thường với nhau.
Trong một xã hội "văn minh", một xã hội được điều hành bằng những luật lệ thông nhất, người ta chỉ có thể giải quyết những trục trặc theo luật lệ, và biến mọi hành vi xúc phạm đến nhau thành tội theo nghĩa luật pháp. Nhưng việc giải quyết theo luật chỉ là một cách hoá giải sự trục trặc trong thế giới của khái niệm công bằng; còn thực chất sự trục trặc về tình thân thì không thể nào luật pháp làm được.
Để có thể tái lập lại cuộc sống thân tình, cần phải tìm cách nào đó để phá bỏ sự ngăn cách ấy, phá bỏ sự trục trặc về tình thương; điều đó chỉ có thể là tình thương, là thái độ đi bước trước của một bên nào đó... Trong đời sống Kitô hữu, tha tội, thực sự, không phải là tha một món nợ pháp lý nào, nhưng là chấp nhận nối lại mối giây thân tình. Tha tội chính là sự chấp nhận lại người bạn của mình; và được tha tội đó là được chấp nhận trong tình yêu thương.
3. Yêu mến là được tha tội
Phải nhìn lại các mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người một cách "người" hơn. Tin, được tha và tình yêu... tất cả những trạng thái đó diễn ra và thực hiện cùng một lúc, diễn ra trên con đường tiến tới gần Chúa hơn. Nó không phải là sự đối chiếu hai bản vẽ để sửa đổi những chỗ sai lạc là xong, nhưng nó là một hành trình tiến đến gần Chúa Giêsu. Càng đến gần Ngài thì càng được tha tội nhiều hơn, càng tin yêu Chúa nhiều hơn. Tóm lại là càng gắn bó toàn thể con người của mình với Ngài nhiều hơn. Yêu thương là tất cả!
Lạy Chúa Giêsu, Được "động chạm" đến Chúa, đó đã là sự tha thứ và là tình yêu quảng đại của Chúa dành cho con rồi. Xin cho con biết trân trọng tình yêu và trân trọng ơn tha thứ mà Chúa ban cho con qua bí tích Thánh Thể hôm nay.
Tội lỗi là nọc độc của sự chết. Chính ông Ađam và bà Evà đã phản nghịch cùng Thiên Chúa, nên sự TN 11-C82 Dalat
Tội lỗi là nọc độc của sự chết. Chính ông Ađam và bà Evà đã phản nghịch cùng Thiên Chúa, nên sự chết đã vào trần gian. Tội lỗi làm cho con người xa Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi, đã đem lại sự sống mới cho con người, cho nhân loại. Sự tha thứ của Chúa là lời an ủi thâm sâu, đem lại cho tội nhân niềm an ủi, đem lại cho họ ánh sáng và sự sống mới. Lời của ngôn sứ Nathan hôm nay đem lại cho vua Đavít sự an ủi sâu xa để vua có thể tiếp tục cuộc đời ăn năn sám hối tội mình:” Thiên Chúa đã tha tội cho ngươi”. Thật vậy, khi được ngôn sứ Nathan vạch tội vua Đavít cướp vợ của vị tướng giỏi của mình và còn lập mưu đẩy vị tướng tới nơi chết hầu ém nhẹm vụ việc tầy trời này, nhưng Chúa công bằng…Vua Đavít đã nhận ra tội tày đình của mình, nên vua đã kêu khóc, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ. Lời thánh vịnh 50 sám hối ăn năn của vua Đavít vẫn còn tồn tại mãi mãi. Đây là tiếng khẩn khoản nài van của một tâm hồn hối cải…Thiên Chúa là Tình Yêu, giầu lòng thương xót. Ngài luôn luôn yêu, luôn sẵn sàng tha thứ miễn là con người biết thật lòng thú nhận tội lỗi của mình và tin tưởng rằng chỉ mình Chúa mới có quyền tha thứ, rồi hết lòng trông cậy, phó thác vào Ngài…Đoạn Tin Mừng của thánh Luca Chúa nhật XI thường niên, năm C cho mọi người nhận ra lòng thương xót của Chúa. Ông Simon là người Pharisêu mời Chúa Giêsu dùng cơm ở nhà mình, có nhiều người tai to mặt lớn trong xã hội lúc đó hiện diện trong nhà ông Simon,lại có những Pharisêu khác cũng có mặt ở đó. Đối với ông không dễ gì một người tội lỗi như người chị phụ nữ tội lỗi đang đụng vào Chúa Giêsu, được ông chấp nhận, cứ sự thường ông sẽ đuổi cổ chị phụ nữ tội lỗi ra khỏi nhà ông ngay, nhưng Chúa lại khác, Chúa cho chị ta đụng vào người của Chúa. Và có lẽ ông Simon đã đánh giá, hoặc nghĩ thầm trong lòng:” Có phải Chúa Giêsu là ngôn sứ không ? Nếu là ngôn sứ hẳn Ngài đã biết người đụng vào mình là ai ? – là một người tội lỗi. Vâng, Lời Chúa ngày hôm nay mở ra hai cuộc gặp gỡ. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông chủ nhà là Simon. Cuộc gặp gỡ thứ hai: giữa người phụ nữ tội lỗi, vị khách không được mời và Chúa Giêsu, vị Chúa giầu lòng thương xót. Cuộc gặp gỡ giữa ông Simon và Chúa Giêsu bỗng trở nên lạnh lùng, hồ nghi…Bởi vì Pharisêu luôn cho mình là công chính, là thánh thiện, họ không làm gì có tội. Ông Simon vì là Pharisêu, nên ông đã coi người phụ nữ đụng vào Chúa là một người phụ nữ tội lỗi tày trời, không thể tha thứ, thế mà Chúa không biết hay sao ? Nên, dù ông đã mời Chúa đến nhà ông, Chúa đã đến nhà ông Simon và ông đang tiếp Chúa nơi nhà ông, thế mà ông lại biến cuộc gặp gỡ này thành tẻ nhạt vì ông không nhận ra tình thương của Chúa Giêsu. Người phụ nữ tội lỗi này nghe tin Chúa Giêsu, chị đã đến để gặp Chúa vì chị tin chị sẽ được Chúa yêu thương, tha thứ. Chị đã mua dầu thơm hảo hạng để xức chân cho Chúa với tất cả lòng kính trọng, yêu mến của mình. Chị đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Chị đã khóc, nước mắt nhỏ tràn trên chân Chúa. Chị đã lấy tóc lau chân Chúa, đã xức dầu thơm trên chân Chúa. Chị đã tỏ lòng hối hận, xin Chúa tha thứ tội lỗi tầy đình mà mình đã làm, đã xúc phạm đến Chúa. Chúa hiểu lòng thành thật của chị và Chúa đã tha thứ tất cả tội lỗi cho chị. Chúa đã đem lại sự an ủi và bình an cho chị.
Tội của chị nhiều nhưng chị đã được tha vì chị yêu nhiều. Hẳn đây là bài học để đời cho ông Simon và cả gia đình của ông, và cho tất cả mọi người đang có mặt trong bữa tiệc. Hai cuộc gặp gỡ cho chúng ta nhận ra hai thái độ. Một thái độ tiêu cực, thiển cận của ông Simon cứ tưởng mình là công chính, vô tội. Thái độ mau mắn, cởi mở và sẵn sàng xin Chúa tha thứ. Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chị phụ nữ tội lỗi. Trong cuộc sống, con người dễ thiên kiến, lên án, kết án nhau. Nhưng Thiên Chúa giầu lòng thương xót luôn nhân từ, tha thứ và luôn sẵn sàng ban phát bình an và ơn tha thứ cho con người. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết lắng nghe lời của Chúa như Chúa đã nói với chị phụ nữ tội lỗi xưa:” Tội của chị đã được tha rồi “. “ Chị hãy ra về bình an “. Xin cho chúng con luôn biết hồi tâm sám hối và tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Lòng Xót Thương của Chúa. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Chúa Giêsu đã đến nhà ông Simon, người Pharisêu để làm gì ? 2.Thái độ của ông Simon chủ nhà khi thấy người phụ nữ tội lỗi đụng vào Chúa Giêsu ? 3.Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy cuộc gặp gỡ giữa Ngài và ông Simon; giữa Chúa và người phụ nữ tội lỗi.Hai cuộc gặp gỡ này cho chúng ta điều gì? 4.Chúa là Đấng nào ?
Chúa nhật XI thường niên rơi vào trung tuần tháng Sáu, tháng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu. TN 11-C83
Chúa nhật XI thường niên rơi vào trung tuần tháng Sáu, tháng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu. Trang Tin Mừng về người phụ nữ tội lỗi được Chúa Giêsu tha thứ hôm nay như một sự trải dài về lòng thương xót vô cùng của Trái Tim Chúa. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là vô cùng vô tận, một tình yêu đối thoại với tội nhân, chúng ta vẫn quen gọi là lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: " Lòng thương xót của Chúa Giêsu không chỉ là một tình cảm, đó còn là một quyền năng ban sự sống, làm cho con người được phục sinh". (Huấn đức Chúa nhật X thường niên năm 2003). Quả là lòng thương xót của Thiên Chúa tha thứ tội nhân.
Lời Chúa Giêsu nói về người đàn bà đã mang một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm hảo hạng đến nhà ông Simon, mở ra quì dưới chân Chúa vừa xức vừa khóc nức nở đến nỗi nước mắt ướt đẫm chân Chúa, ướt rồi bà lấy tóc mình mà lau và hôn chân Chúa, thật là khó hiểu: "Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít." (Lc 7, 36-8,3)
Câu đầu Chúa Giêsu khẳng định có vẻ ngược với câu sau. Một bên, dùng tình yêu để đạt được sự tha thứ "vì bà đã yêu mến nhiều". Bên kia cho thấy, người ta không thể thực sự yêu mến nếu không cảm nghiệm được sự tha thứ, tình yêu này được đo bằng đón nhận sự tha thứ "kẻ được tha ít". Nói cách khác, nếu bên này, tình yêu là bước khởi đầu trong tương quan với tội lỗi, thì bên kia, ngược lại. Vậy, điều nào trước ? Tình yêu hay kinh nghiệm được tha thứ ? Để hiểu được, chắc cần phải có dụ ngôn kiểu Chúa Giêsu kể cho ông Simon.
Ông Simon trả lời: "Kẻ được ông chủ nợ tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn" (x. Lc 7,43). Tuy nhiên, dụ ngôn này dễ làm cho người ta dựa vào sự được tha thứ. Cần phải phân biệt người đã được tha và người cần được tha thứ, sự tha thứ của Thiên Chúa luôn có trước. Đây chính là kinh nghiệm của Đavid sau khi đã giết tướng Uria người Hittít để chiếm vợ ông. (x. 2 Sam 12, 7-10)
Đavid là một kẻ ngoại tình và đã ra lệnh giết người, nhưng dù thế chúng ta vẫn tôn kính ngài như một vị thánh vì ngài có can đảm để nói: "Tôi đã phạm tội"(). Ngài tự hạ mình trước mặt Thiên Chúa. Người ta có thể phạm sai lầm rất lớn, nhưng người ta cũng có thể nhìn nhận chúng, thay đổi cuộc sống của mình và đền bù cho những gì mình đã làm.
Kinh nghiệm về sự tha thứ của Thiên Chúa bao hàm sự nhận biết, được đón nhận và dâng hiến sự thấp hèn của mình lên Thiên Chúa. Vì ai giầu có kiêu căng, thì tự mình cảm thấy không cần đến ơn tha thứ ; bởi vì họ không thấy có lợi gì. Làm sao có thể diễn tả được tình yêu đối với người chẳng cần nhận lãnh điều gì? Đó chẳng phải là kết cục khó khăn của Simon sao ? Ông hơi quá tự phụ về sự công chính và đạo đức của mình, và dường như người đàn bà tội lỗi này không ngăn cản ông đón nhận điều Chúa Giêsu muốn trao cho ông khi đến nhà ông. Chúa Giêsu nói với Simon: "Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi" lý do là vì: "bà đã yêu mến nhiều". Và Chúa Giêsu nói với bà: "Đức tin của con đã chữa con. Con hay về bình an". Đây chẳng phải là một hé mở cho Simon con đường để đón nhận ơn Chúa sao ?
Chỗ khác Chúa nói: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu" (Mt 9,12). Về điều này, Thánh Ambrôsiô, Giám mục thành Milan, tiến sĩ Hội Thánh nói: "Hãy chỉ cho bác sĩ biết vết thương của bạn, bác sĩ có thể chữa bạn lành. Thậm trí nếu như bạn biết bệnh của bạn và bạn nói với bác sĩ, yêu cầu bác chữa trị, nhưng bác sĩ vẫn yêu cầu bạn phải nghe lời chỉ dẫn của bác sĩ. Ambrôsiô khuyên chúng ta: Hãy lấy nước mắt mình mà rửa vết thương. Vì chính người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã từ bỏ tội lỗi mình và những quyến rũ của tội lỗi; chính bà đã thanh tẩy lỗi lầm của mình bằng chính nước mắt bà, khi lấy nước mắt mà rửa chân Chúa Giêsu. Nước mắt của lòng thống hối chừa cải chất chứa yêu thương, bà đã được tha thứ. (Thống hối, II, 8 ; SC 179)
Để cảm nghiệm và đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, con người cần phải có trái tim sẵn sàng, trong sạch và khiêm tốn. Nhờ đôi chân mà Chúa Giêsu đến gần con người. Với lòng khiêm nhường, Người đã đồng ý để bà quì xuống mà rửa chân, lấy nước mắt mình mà lau chân. Trái lại, ông Simon, tuy Chúa ở trong nhà ông, nhưng lòng ông còn ở quá xa Chúa, khi ông chứng kiến cảnh bà này đối xử với Chúa Giêsu, ông liền xét đoán và phê bình, "bà ấy là một người tội lỗi". Bà thật can đảm đã vượt qua rào cản, giữa ô uế là (bà) và trong sạch là (Simon biệt phái), trước mặt người đời, bà làm thế vì bà cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và bà dám chắc rằng bà tin bà sẽ được.
Đón nhận một tình yêu nhưng không, để thúc đẩy kẻ có tội được tha thứ đáp trả bằng tình yêu. Nhưng kẻ được tha thứ luôn ý thức rằng tình yêu của bà đáp trả Thiên Chúa bằng chính tình yêu Thiên Chúa trao ban cho bà khi Người thứ tha lúc bà đang là tội nhân.
Tình yêu ấy được thể hiện khi Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân là Người xóa sạch, giải thoát ta khỏi gông cùm, xiếng xích, đưa ta tới một tương lai tương sáng khi bảo: "hãy đi!" Người mời gọi chúng ta ra đi mà không cần đáp trả khi thêm vào thêm vào: "Con hãy đi bình an" (nghĩa là bước đi trên đường công chính). Tội lỗi là phản nghịch của con người với Thiên Chúa, công chính là hòa bình với Thiên Chúa. "Con hãy đi bình an" cũng có thể nói rõ rằng, "hãy làm tất cả những gì có thể để dẫn tới sự bình an với Thiên Chúa".
Đến đây chúng ta có thể khẳng định mà không lầm rằng: Kết quả của tình yêu là sự sống! Lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho con người sự sống, phục sinh con người từ cõi chết. Chúa luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, Người chờ đợi chúng ta với lòng thương xót. Vậy, chúng ta đừng ngại đến với Chúa, Đấng có một trái tim nhân hậu. Nếu chúng ta bày tỏ với Người những vết thương trong lòng mình, tội lỗi của mình, Người luôn tha thứ cho chúng ta. Xin Đức Maria, Nữ Vương của Lòng Thương Xót cầu cho chúng con. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ --------------------------------
Trung tâm của đoạn Tin Mừng hôm nay là người đàn bà tội lỗi, trước mặt người đời, bà không được như họ, TN 11-C84
Trung tâm của đoạn Tin Mừng hôm nay là người đàn bà tội lỗi, trước mặt người đời, bà không được như họ, vì bà đã mất hết danh dự, nhưng bà đã nhận ra rằng bà vẫn còn có cái để cho Chúa Giêsu. Với giọt nước mắt, mớ tóc, dầu thơm, nhất là bằng ngôn ngữ của thân xác, bà đã chiếm trọn trái tim Chúa Giêsu, và bày tỏ tình yêu cùng lòng kính trọng của mình đối với Người.
Chúa Giêsu và người Biệt phái
Thánh Luca kể về một người Biệt Phái có tên là Simon mời Chúa Giêsu đến dùng bữa tối tại nhà ông. "Biệt Phái" có nghĩa là "tách khỏi", người này được tách ra khỏi người kia ! Thời Chúa Giêsu, tại Palestin đã có khoảng 6.000 người. Họ giảng dạy trong các hội đường, tự coi mình là mô phạm về tôn giáo cũng như việc tuân giữ Luật và các tập tục của tiền nhân. Họ cho rằng các tập tục truyền thống cũng có giá trị như Kinh Thánh (x.Mc 7, 8-13).
Khi nhận lời mời, Chúa Giêsu vẫn giữ được tự do của Chúa. Người Biệt Phái là chủ nhà. Chung quanh ông còn có bạn bè, đồng nghiệp về tôn giáo. Trong số khách mời đặc biệt, Chúa Giêsu không được chủ nhà tiếp đãi cách trọng nhất, ông bận tâm để ý đến bạn bè của ông hơn là những nhà giảng thuyết lưu động. Ông rửa chân cho các khách mời của mình, đón tiếp họ, trao hôn bình an và đổ dầu thơm lên đầu theo tục lệ. Chúa Giêsu thì không có ba điều trên (x. Lc 7,44-46).
Chúa Giêsu và người đàn bà
Chúng ta biết rằng người đàn bà đã bước vào phòng ăn, trong thực tế bà không được mời. Bà mang đến cho Chúa Giêsu ba thứ mà Simon đã bỏ qua để bầy tỏ lòng mến khách. Bà không bận tâm đến chủ nhà. Chủ của bà chính là Chúa Giêsu. Bà lấy nước mắt mà rửa chân Chúa, lấy tóc mình mà lau và lấy dầu thơm hảo hạng mà đổ lên đầu Chúa (x. Lc 7,37-38). Ông Simon vấp phạm, vì thấy Chúa Giêsu để cho người đàn bà tội lỗi tỏ bày sự kính trọng như thể yêu thương ở nơi công cộng.
Rõ ràng người biệt phái khinh thường phụ nữ. Đối với Chúa Giêsu, Simon cho rằng Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, cứ tưởng tượng mà xem một tiên tri sao lại để cho người đàn bà, mà bà này là người tội lỗi, lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mình mà lau nữa, lại còn làm công khai trước mặt mọi người (x. Lc 7, 39). Simon nhìn hành động của người đàn bà với "tư tưởng xấu". Có ai đó đã nói, "hãy nói cho tôi biết điều bạn đang nghĩ tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai!". Và Dostoevskij viết "nếu những suy nghĩ của chúng ta đã có mùi, nó sẽ làm băng hoại thế giới".
Người biệt phái để Chúa Giêsu giải thích: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông ..." (Lc 7, 40). Và Chúa đã cho ông một bài học xứng đáng về "cách đối nhân xử thế: "Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi... Ông đã không hôn chào Tôi... Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã làm tất cả... " (Lc 7, 44-47).
Người Biệt phái và người đàn bà tội lỗi
Simon xem sự so sánh mình với tội lỗi, có thể là một cô gái điếm, và thấy rằng dưới cái nhình của Chúa Giêsu, bà có một chỗ đứng tuyệt vời trong nhà ông, người biệt phái. Người đàn bà là người trung tâm của câu chuyện Phúc Âm hôm nay không nói một lời. Nhưng Chúa Kitô bảo vệ bà và nói với bà: "Hỡi bà, đức tin con đã cứu con. Tội ngươi đã được tha." (Lc 7, 48-49)
Simon thấy bà chỉ là "gái mại dâm", Chúa Giêsu thấy nơi người đàn bà nghèo này có bao điều tốt đẹp. Vì thế Chúa bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ?" (Lc 7, 40). Nhìn bà ấy với thiện cảm, người ta sẽ khám phá ra lịch sử của cá nhân bà cũng như phẩm chất con người và nhân phẩm tuyệt vời của bà.
Simon người Pharisêu đã quên mất rằng ông cũng là một tội nhân, có lẽ ít tội lỗi hơn so với người đàn bà sấp mình dưới chân Chúa Giêsu, nhưng ông vẫn là tội nhân. Gặp bà ông không có mấy thiện cảm. Ông là mẫu người dễ dàng nhìn thấy cái rác trong mắt của người khác, nhưng bỏ qua cái đà trong mắt mình.
Chúng ta phải đọc lại Tin Mừng khác để xem cách thức Chúa Giêsu đối xử với Maria Magdalêna (x. Lc 8, 2), người Samaritanô (x. Lc 10, 29-37), bà góa phụ nghèo bỏ hai đồng xu vào thùng tiền Đền thờ (x. Lc 21, 1-4), người phụ nữ ngoại tình (Ga 8, 1-11), người phụ nữ bị bệnh xuất huyết (x. Lc 8, 43-48) v.v. Hơn nữa, đoạn Tin Mừng hôm nay kết thúc khi nói rằng Chúa Giêsu đi từ làng nay qua làng nọ, theo Chúa không chỉ có nhóm Mười Hai mà còn có nhiều phụ nữ Chúa đã cho khỏi cũng đi theo Người. Thánh Luca nhắc tên của ba người đàn bà ấy. Đó là điều không tưởng vào thời của Chúa Giêsu. Người ta cấm các phụ nữ không được tham dự lớp học của các giáo sĩ Do Thái! (x. Lc 8, 1-3)
Hôm nay, qua ông Simon người Pharisiêu, Chúa Kitô đòi hỏi chúng ta nhìn lại chính mình trước khi xét đoán người khác, tránh mắc phải những nghĩ lễ bề ngoài mà nghĩ rằng chúng ta tốt hơn những người không thuộc về "tầng lớp xã hội chúng ta".
Theo cái nhìn của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là "quan án", nhưng "là người tha nợ", tha thứ tội nhân. Và Chúa đòi hỏi chúng ta phải có thái độ tương tự đối với người khác: "Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con." Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ --------------------------------
Công bố Lời Thiên Chúa, không bao giờ được tách rời khỏi sự cảm thông về yếu đuối của con TN 11-C85
“Công bố Lời Thiên Chúa, không bao giờ được tách rời khỏi sự cảm thông về yếu đuối của con người”, vì: “Đức Giêsu luôn giàu lòng thương xót. Ngài thật cao cả và vĩ đại, chẳng bao giờ khép cửa lại với tội nhân”, “nên dù con người có tội lỗi, cứng lòng thế nào, thì sự tha thứ, thấu hiểu, cảm thông và đồng hành vẫn tồn tại cách song song”. Đây chính là thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Sáu, ngày 20-05-2016, tại nguyện đường thánh Marta.
Các bài Kinh Thánh trong thánh lễ hôm nay, một mặt làm sáng tỏ quan điểm cự tuyệt với tội lỗi, tức là trung thành với chân lý, nhưng đồng thời, cũng làm toát lên rõ nét tình thương, sự cảm thông của Thiên Chúa đối với người tội lỗi khi họ có lòng thống hối ăn năn.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Sách Samuel trong bài đọc I đã kể lại câu chuyện tội lỗi tầy trời của vua Đavít. Ông đã phạm tội rất nặng. Nặng cả về kế hoạch lẫn nội dung. Kế hoạch thì bỉ ổi. Nội dung thì thâm độc.
Chuyện kể rằng: sau khi lòng dục nổi lên, ông đã phạm tội ngoại tình với bà Betsabê, vợ của tướng Uria là người trung thành tuyệt đối với nhà vua. Tội của nhà vua trở nên trầm trọng khi ông lên kế hoạch giết Uria để bịt đầu mối. Cuối cùng ông đã thành công khi dùng tay quân giặc giết tướng Uria tại đầu chiến tuyến ác liệt.
Tuy nhiên, sự việc đã không đi vào quên lãng, mà nó được đưa ra ánh sáng khi Chúa gửi tiên tri Nathan đến để nhắc cho vua thấy tội lỗi của mình. Đồng thời cho thấy những hệ quả nghiêm trọng do ông gây nên. Thấy được sự bất nhân, ác tâm, thất đức của mình, vua Đavít đã ăn năn sám hối và thành khẩn xin ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên ông đã thưa với Đấng đầy lòng thương xót: “ Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51, 3-4). Vì thế: “Thiên Chúa đã bỏ qua tội của ngài, ngài sẽ không phải chết” (Sm 12,13).
Sang bài đọc II, thánh Phaolô nhấn mạnh đến ơn công chính hóa. Ngài nói rất rõ: “Con người được nên công chính hóa nhờ đức tin” (Rm 3,27-28). Tức là: tin vào lòng thương xót của Đức Giêsu, nhất là tin vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Ngài mang lại thì sẽ được cứu chuộc.
Lòng thương xót của Thiên Chúa phải là một ơn ban vượt lên trên không gian và thời gian cho những ai tin. Nó cũng không bị giới hạn, bó buộc trong một thứ luật lệ nào. Ngược lại, nó sẽ làm cho luật bị tê liệt khi luật đó không chứa đựng tình thương. Vì thế: “Con người được nên chông chính (được cứu độ) nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ Lề luật” (Rm 3,27-28).
Từ bài đọc I, sang bài đọc II, hướng chúng ta về Đức Giêsu như là hiện thân của lòng thương xót đến từ Thiên Chúa.
Tình thương ấy được thể hiện rõ nét qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay:
Khi Đức Giêsu và các môn đệ đang dùng bữa tại nhà ông Simon. Bỗng có một phụ nữ nổi tiếng tội lỗi trong thành đến để tỏ lòng sám hối ăn năn. Hành vi khóc lóc, đập bể bình dầu thơm đắt tiền, xức lên chân Đức Giêsu và lấy tóc của nàng để lau nói lên sự sám hối chân thành.
Dung mạo lòng thương xót của Thiên Chúa một lần nữa lộ hiện qua hành vi và lời nói của Đức Giêsu: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều" ( Lc 7, 47).
Như vậy, qua cách hành xử của Đức Giêsu, chúng ta thấy Ngài luôn nhìn con người dưới ánh mắt từ tâm. Cái vỏ bọc bên ngoài không ngăn cản được lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã giải thoát con người cách toàn diện, để họ được tha thứ và có cơ hội đụng chạm với cả tâm hồn đến lòng xót thương của Ngài.
Cái nhìn thương xót của Đức Giêsu
Nếu con người nhìn và đánh giá lòng đạo đức của nhau dựa trên những chuyện bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn và thấu hiểu từ tâm can. Tức là nhìn dưới góc độ công chính nhờ niềm tin.
Nếu con người nhìn những người tội lỗi là một thứ đồ bỏ, nhơ uế, xấu xa, thì Thiên Chúa nhìn họ với một cái nhìn: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”.
Nếu con người luôn “bới lông tìm vết” để trù dập nhau, thì lòng thương xót của Thiên Chúa luôn tìm cách nâng người tội lỗi đứng dạy để cho họ có cơ hội làm lại cuộc đời.
Vì thế, thay vì xua đuổi, Đức Giêsu đã đón nhận sự chân thành và lòng mến của người phụ nữ tội lỗi đến với Ngài. Vì thế, tận sâu thẳm tâm hồn, chị đã đón nhận được lòng trắc ẩn của Đức Giêsu. Nên cuộc đời của chị từ đây sang trang. Chị đã thay thái độ để đổi cuộc đời và bắt đầu một cuộc sống mới trong ân sủng và lòng xót thương.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rất rõ quan điểm của Đức Giêsu, đó là: “Ghét tội, nhưng không ghét kẻ có tội”. Ngài luôn đi bước trước để tha thứ, kiếm tìm kẻ có tội nhằm tha thứ và yêu thương.
Những dụ ngôn nổi tiếng về lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa được Kinh Thánh kể lại như một sự chứng minh về tình thương của Ngài đối với người tội lỗi như:
Dụ ngôn người chăn chiên bỏ 99 con ở lại để đi tìm con chiên lạc. Dụ ngôn người đàn bà mất một đồng bạc đã đốt đèn tìm kiếm khắp nhà. Dụ ngôn đứa con hoang đàng được người cha đón trở về trong sự tha thứ... Và, hôm nay, hành vi ấy lại một lần nữa được thể hiện qua việc Đức Giêsu đón nhận sự sám hối chân thành của người phụ nữ tội lỗi.
Người Kitô hữu không được xa lạ với lối hành xử của Đức Giêsu!
Người ta thường truyền tai nhau câu nói: “Nói người hãy nghĩ đến ta, nếu suy cho kỹ lại ra chính mình”.
Thật vậy, con người vốn mang trong mình tham, sân, si, nên nhiều khi họ nhìn anh chị em dưới “cặp kính râm”. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi nhiều người chỉ nhìn thấy cái phúc mà không thấy cái tội của mình. Ngược lại, họ luôn thấy cái tội mà không nhìn thấy cái phúc của anh chị em. Lời của Đức Giêsu nói: “Tại sao con thấy cọng rác trong mắt anh chị em, còn cái xà trong mắt con thì lại không thấy?” (x. Mt 7,3) Quả thật đúng với thực trạng của chúng ta.
Có lẽ, cần phải có một Nathan vạch trần tội ác của chúng ta như đã từng lật tẩy tội lỗi của vua Đavít khi xưa thì chúng ta mới tỉnh ngộ và nhận ra tội lỗi của chính mình! Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn phát xuất từ cái tâm trong sáng và nhân hậu. Đừng vội xét đoán cách thiển cận khi chỉ dựa vào luật lệ hay truyền thống bên ngoài, mà hãy để cho luật Lương Tâm lên tiếng, vì biết đâu: “Xanh vỏ” nhưng “đỏ lòng”. Cần ý thức rằng: “Lầm lỗi là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope).
Noi gương Đức Giêsu, Ngài luôn công bố chân lý và sống những gì Ngài đã nói, nhưng Ngài cũng luôn cảm thông, liên đới với những yếu đuối và tha thứ cho những lầm lỗi của con người.
Mặt khác, chúng ta cũng đừng lợi dụng lòng thương xót của Thiên Chúa mà giảm khinh những hệ quả của tội và an tâm “ngủ mê trên chiến thắng”; hay: “nằm lì dưới vũng bùn êm ái” để rồi vênh vang và tự nhủ: “Ta là người công chính hơn ai hết!”. Hãy cẩn trọng, vì: “Nếu ta nói: Ta không có tội, thì ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta” (1 Ga 1, 8 ); hay: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Xin giúp chúng con có được một thái độ trung thành với chân lý, nhưng cũng có một trái tim biết cảm thông, thấu hiểu và thương xót như Chúa. Amen. --------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 7:36 – 8:3)
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giê-su đến Na-in để tỏ lòng thương xót TN 11-C86 Ephata
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giê-su đến Na-in để tỏ lòng thương xót đối với một bà góa mất đứa con trai độc nhất. Với bài Tin Mừng hôm nay thì khác, một phụ nữ “vốn là người tội lỗi” đến với Chúa Giê-su để cầu xin lòng thương xót của Người. Kết cục của hai câu chuyện nói lên hai chiều kích khác nhau của lòng Chúa thương xót. Một đàng Chúa biểu lộ lòng thương xót và bằng chứng là Người đã cho con trai bà góa sống lại và Người tận tay trao lại cho bà đứa con yêu quý. Đàng khác, người phụ nữ tại bữa tiệc nhà ông Pha-ri-sêu đã lãnh nhận lòng thương xót tha thứ của Chúa, và bằng chứng của việc chị đã lãnh nhận này là: “Chị đã yêu mến nhiều”.
Trước đây, đọc bài Tin Mừng này, tôi thường nghĩ rằng lý do người phụ nữ tội lỗi “được tha nhiều” là vì “chị đã yêu mến nhiều”. Nói khác đi, lòng yêu mến của chị là lý do để Chúa tha thứ tội lỗi của chị. Hiểu như vậy không phải là sai, nhưng có lẽ không đúng theo mạch văn của tất cả câu chuyện. Rõ ràng Chúa Giê-su nói rằng: “Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”. Sự kiện “chị đã yêu mến nhiều” không phải là lý do, nhưng là một bằng chứng nói lên rằng tội lỗi vô số của chị đã được tha thứ rồi. Bằng cớ không chỉ dừng lại ở việc Chúa tha thứ, mà còn dẫn chúng ta đi xa hơn nữa đến tận nguồn gốc của sự tha thứ, đó chính là động lực tha thứ, tức lòng thương xót của Thiên Chúa.
Có lẽ nhiều người sẽ vẫn cho rằng lòng yêu mến là lý do để chị được tha thứ. Họ lý luận rằng mãi tới cuối câu chuyện, sau khi người phụ nữ đã biểu lộ lòng yêu mến qua những hành vi khóc lóc, xức dầu thơm, lau chân, hôn chân Chúa, thì Người mới nói với chị: “Tội của chị đã được tha rồi”. Nhưng nếu đọc lại câu chuyện Chúa kể về hai con nợ, sau câu trả lời của ông Pha-ri-sêu, chúng ta thấy Chúa Giê-su khen ông: “Ông xét đúng lắm”. Rồi lập tức “Chúa quay lại phía người phụ nữ” và lên tiếng bênh vực cho tất cả những hành vi của chị. Chúa đã lấy ngay cái “xét đúng lắm” của ông Pha-ri-sêu để áp dụng cho người phụ nữ tội lỗi. Giống như con nợ năm trăm quan tiền đã mến chủ nợ nhiều hơn, người phụ nữ được tha thứ này cũng yêu mến Chúa, để mọi hành vi biểu lộ lòng yêu mến của chị trở thành bằng cớ nói cho mọi người biết rằng chị đã được Chúa tha thứ! Tóm lại, lời Chúa Giê-su nói với chị “Tội của chị đã được tha rồi” chỉ muốn lập lại cho chị và cho tất cả chúng ta biết rằng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã đoái nhìn đến thân phận tội lỗi của chúng ta và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Lòng Chúa thương xót đã tha thứ tội lỗi chúng ta. Đó là cảm nghiệm mọi người chúng ta đều có trong cuộc sống. Tuy nhiên, sau khi được tha thứ, chúng ta đã làm gì để đáp lại Lòng Thương Xót? Có phải chỉ làm việc đền tội cha giải tội đã chỉ định rồi nhanh chân ra về, “cảm thấy” mình nhẹ nhõm? Không đâu, bí tích Giải tội mới là khởi đầu để chúng ta tiếp tục đáp lại Tình Yêu Thiên Chúa. Chúng ta đáp lại tình yêu của Chúa bằng hành động. Chúng ta hãy xem người phụ nữ tội lỗi trong câu chuyện Tin Mừng đã làm gì để tỏ lòng yêu mến mà cảm tạ Chúa. Bình bạch ngọc đựng dầu thơm là dấu chỉ nói lên lòng yêu mến quý giá nhất chị muốn dâng lên Chúa. Nếu dầu thơm của lòng Chúa thương xót đã được Chúa Giê-su đổ tràn xuống con người tội lỗi của chị, thì giờ đây chị cũng muốn đem tình yêu quý giá nhất của chị để dâng lên Chúa. Chị biết tình yêu tuy là quý giá đối với người đời, nhưng với Chúa, tình yêu ấy cũng chỉ đáng xức lên chân Chúa mà thôi. Chị khóc, nhưng đây không phải là những giọt lệ buồn thảm, mà là khóc vì vui mừng thấy mình được Chúa yêu thương và tha thứ. Rồi chị lau chân Chúa bằng nước mắt của chị. Lại một cử chỉ đầy ý nghĩa nữa! Cái răng cái tóc là góc con người, nhất là đối với phụ nữ, cái tóc rất quan trọng và làm đẹp cho con người. Giờ đây cái đẹp nhất ấy đã được sử dụng để biểu lộ lòng yêu mến Chúa. Chị muốn làm tất cả những gì có thể, đẹp nhất, quý nhất, để chỉ nói cho mọi người biết rằng: Tôi là “một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành”, nhưng tôi đã được Chúa Giê-su tỏ lòng thương xót mà tha thứ mọi tội lỗi cho tôi. Mọi người đã biết tôi tội lỗi, thì mọi người cũng hãy biết rằng Chúa đã thương xót tôi! Lm. Đa-minh Trần đình Nhi --------------------------------
Tuần lễ thứ 10 mùa Thường Niên và một nửa tuần 11 năm chẵn, bài đọc một trong mỗi Thánh Lễ hằng TN 11-C87
Tuần lễ thứ 10 mùa Thường Niên và một nửa tuần 11 năm chẵn, bài đọc một trong mỗi Thánh Lễ hằng ngày kể cho chúng ta câu chuyện về Ngôn Sứ Elia trong sách Các Vua quyển thứ nhất, thuộc phần thứ hai ( 1V 17, tt. ).
Elia là một ngôn sứ “lớn” nổi tiếng thời Cựu Ước, với thân phận Ngôn Sứ, ông đã trải qua biết bao gian khổ khi thi hành sứ mạng của mình, Khi mở ra những trang Kinh Thánh trong những ngày này, mới thấy Lời Chúa có sức mạnh sống động làm sao, chúng ta cùng nhau đọc để suy nghĩ và chọn lựa cách sống hôm nay.
Tên tuổi Elia gắn liền với tên tuổi một vị vua tên là Akháp, vị vua này nổi tiếng là gian ác và bạc nhược, triều đại của Akháp là triều đại mở màn dẫn đến cuộc lưu đày đau đớn của dân tộc Do Thái ở Babylon bởi một “con hùm xám miền cận đông” Nabucôđônôso. Dưới thời Akháp, Israel phân rã, bên trong thì kinh tế phá sản, đạo đức suy đồi, luật pháp rối loạn, luân lý xuống cấp, lòng người chán nản, phân rẽ dân tộc, bất công lan tràn, ngoài biên cương thì Babylon gầm gừ đe dọa thôn tính.
Bạc nhược, Akháp, vị vua đắm mình trong tửu sắc, ông xây dựng cung điện nguy nga với những vật liệu quý hiếm mà ông mua được bằng sưu cao thuế nặng của dân. Vàng bạc, đá quý ông thu tích về để tận hưởng sự giàu sang, tài sản của ông kếch sù, đất đai của ông rộng mênh mông…
Gian ác, Akháp là thủ phạm trong vụ án cướp đất của ông Navôt. Lòng tham không đáy của Akhap được sự tiếp ứng đầy thủ đoạn hèn mạt của hoàng hậu Isave, Họ đã dựng lên vụ án vu khống ghép tội Navôt rồi cướp vườn nho của Navôt, vườn nho là gia sản kế thừa của gia tộc Navôt, là đất thiêng, là linh vật của tổ tiên Navôt truyền lại. Điều đau đớn là “dân chúng, kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành làm theo lệnh bà Isave” ( 1V 21, 11 ).
Suy đồi, Akháp xây đền thờ cho Baal, tổ chức lễ bái, buộc dân phải cúng tế trong các đền thờ của dân ngoại mà Akháp đã xây để thỏa lòng các bà vợ dân ngoại của Akháp. Khi được nhắc nhở trở về với Chúa, ông còn lươn lẹo: “Tôi không dám thử thách Đức Chúa” ( Is 7, 12 ).
Không quan tâm đến vận mệnh đất nước, Akháp mải mê vui thú với những trò chơi hoang tưởng của mình, say sưa bên các mỹ nhân, để mặc bọn quan quyền địa phương tung hoành ức hiếp người, gây bất công tràn lan trên cả dân tộc.
Giữa tình trạng nhiễu nhương đó, Ngôn Sứ Elia xuất hiện, dù rất cô độc nhưng ông vẫn mạnh mẽ lên tiếng cảnh báo Akháp. Kết quả là Elia phải chạy trốn quyền lực thế gian mà sống cô độc trong một khe núi. Trong cơn túng cực, Kinh Thánh nói Đức Chúa nuôi Elia bằng cách cho một con quạ đen mang bánh và thịt đến cho ông.
Ông uống nước nơi khe núi, nhưng đến một ngày, nước trong khe ấy cũng cạn khô. Dám chống lại cường quyền, Elia đã phải trả giá bằng một cuộc lẩn trốn trong gian nan ( 17, 2 tt. ).
Không từ bỏ sứ mạng ngôn sứ của mình, một lần nữa Elia xuất hiện, trong cuộc thách đố sống còn giữa việc thờ phượng Thiên Chúa và bái lạy Baal. Đứng trước một lực lượng thật đông đảo của đối phương, 450 thầy cúng của Baal, phía sau họ là thế lực của hoàng hậu Isave, không khiếp sợ,
Elia cất tiếng cảnh báo toàn dân và nặng lời với sự hèn nhát, ngu xuẩn và lòng dạ hẹp hòi mà người dân cứ mãi câm lặng chịu đựng: "Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho đến bao giờ ?" ( 18, 21 ). Nhảy khập khiễng, cách nói về một lối sống hèn nhát, tư lợi, ích kỷ, thiếu tầm nhìn, chấp nhận thỏa hiệp với thần ngoại, thỏa thuận với sự dữ.
Giận bọn bái lạy thần ngoại một, Elia giận dân Israel mười. Tuy chiến thắng lẫy lừng hiển nhiên trong cuộc thách đố, nhưng dân vẫn không mở mắt. Một lần nữa, trong cô đơn, Elia trốn chạy cuộc truy sát của bà Isave. Trốn ở núi Carmen, ông than thở: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi, xin cất mạng tôi…” Chỉ còn Chúa cho Thần Sứ đến an ủi ông, mang bánh và sữa đến cho ông và nhắc nhở ông “phải ăn và uống, đường còn quá dài”, ông ngồi dậy, chấp nhận ăn uống và tiếp tục chấp nhận sứ mạng ngôn sứ đầy cay đắng của mình ( 19, 1 – 8 ).
Câu chuyện về một vị Ngôn Sứ còn dài, kéo theo những chi tiết chuyển tải nhiều giá trị thiêng liêng mà lúc này đây sao quá sống động với thực tế của quê hương đất nước. Mỗi người tin được mời gọi đọc và chọn lựa thái độ của mình trong xã hội. Chẳng có thể tách chuyện Đức Tin ra khỏi những vấn đề xã hội, chẳng thể tách chuyện tinh thần ra khỏi chuyện sống chết cơm áo gạo tiền, chẳng thể tách chuyện chính trị ra khỏi chuyện thiêng liêng mầu nhiệm.
Khi đọc Kinh Thánh thấy có cái gì đó cay nồng trong khóe mắt như những giọt nước của biển mặn đau thương.
Trong điện văn gởi về quê hương từ Vatican, Đức Hồng Y Jorge Urosa Savino, Tổng Giám Mục TN 11-C88
Trong điện văn gởi về quê hương từ Vatican, Đức Hồng Y Jorge Urosa Savino, Tổng Giám Mục thủ đô Caracas, Venezuela, đã khích lệ các Linh Mục, Tu Sĩ và anh chị em Giáo Dân của Tổng Giáo Phận Caracas, hãy cầu nguyện cho linh hồn của cố Tổng Thống Hugo Chavéz.
Ngay sau khi biết tin Hugo Chavéz qua đời hôm thứ ba 5.3.2013, Đức Hồng Y Jorge Urosa Savino, 70 tuổi, đang tham dự các cuộc khoáng đại của các vị Hồng Y để bầu Giáo Hoàng tại Vatican, cho biết ngài sẽ dâng Thánh Lễ cầu cho sự an nghỉ của linh hồn Hugo Chavéz.
Chavez thường xuyên đụng độ với Đức Hồng Y và thường lên truyền hình để mắng nhiếc ngài. Hồi năm 2008, ông ta nói: "Nếu Chúa Kitô hiện ra ở đây bằng xương bằng thịt, Ngài sẽ nện cho Urosa mấy roi nên thân, rồi ném ông ta ra khỏi Giáo Hội, bởi vì ông ta là người vô đạo đức và chẳng quan tâm gì về đạo đức hay chức tư tế của mình."
Trong khi đó, Đức Tổng Giám Mục Kuriakose Bharanikulangara của Tổng Giáo Phận Faridabad, Ấn Độ, vừa lên tiếng tiết lộ là vào năm 2002 chính ngài đã cứu mạng Hugo Chávez trong cuộc đảo chính vào năm ấy. Vào thời điểm này, ngài là phụ tá sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela.
Ngài nói: "Chávez đã nài nỉ tôi để cứu anh ta. Anh ta nói: Cuộc sống của tôi đang gặp nguy hiểm. Tôi và gia đình đang bị giữ làm con tin, bị chĩa súng vào đầu. Hãy đến cứu tôi, và các con tôi." Tôi nói với Chávez bằng tiếng Tây Ban Nha rằng "Giáo Hội Công Giáo không bao giờ ủng hộ bạo lực. Chúng tôi tôn trọng cuộc sống. Ông Tổng Thống, tôi sẽ làm mọi thứ để cứu mạng sống của ông." Và tôi đã quyết định để giúp anh ta bất cứ giá nào."
Đức Tổng Giám mục Bharanikulangara, đã đi kèm với một Hồng Y và một Linh Mục để thương lượng với quân đảo chính cho ông ta rời khỏi đất nước. Chávez đã đồng ý làm như vậy, nhưng trong vòng vài ngày sau đó ông lật lại được thế cờ.
Từ đó về sau Chávez lại đem lòng oán giận các Giám Mục nước này, nghi ngờ các ngài cấu kết với các tướng lãnh nhằm lật đổ ông ta. Chính vì thế, trong một thập niên qua, Chávez thường xuyên đụng độ với giáo quyền Công Giáo tại Venezuela. ( Đặng Tự Do, Gương tha thứ của một vị Hồng Y Venezuela, Vietcatholic ).
Đức Hồng Y Jorge Urosa Savino đã noi gương Thầy Giêsu tha thứ, quên đi hết những xúc phạm của Tổng Thống Hugo Chávez, để chân thành kêu gọi mọi người cầu nguyện cho người quá cố.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật XI năm C hôm nay, Đức Giêsu bộc lộ công khai là một Chủ Nợ chí công, chí ái và rất bao dung với hai con nợ: ông Simon Pharisêu và người thiếu phụ tội lỗi, qua ứng xử và hành động nhân từ.
Chí công
Ông Pharisêu Simon tưởng mình công bằng với đời, phân biệt đúng đắn tốt xấu, cư xử đúng mực với kẻ lành, người dữ, nên khá bất bình, thầm nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi." Ông không chấp nhận người ngoan đạo có thể tiếp xúc gần gũi với kẻ vô đạo. Ông cũng không chấp nhận cho người ô uế được chạm vào đấng tiên tri, ngôn sứ của Thiên Chúa. Quan niệm đó chẳng quá đáng, cũng chẳng trái nghịch với nếp sống đạo xưa lẫn nay. Vì nam nữ thọ thọ bất thân, lại càng nên tránh xa kẻ tai tiếng, khỏi bị người đời thị phi, đàm tiếu đồng loã.
Đức Giêsu trái lại, không hề chấp nhất, khinh khi, hoặc tránh né kẻ giả hình hay tội lỗi, mà vui vẻ nhận lời mời, đến dùng bữa nhà ông Pharisêu Simon, cũng như vui lòng để người thiếu phụ đến phủ phục dưới chân, khóc lóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Người chẳng phân biệt, chẳng kỳ thị, cũng chẳng từ chối bất cứ ai thành tâm đến với Người. Như thế, Người mới đích thực chí công, hoàn toàn đối xử công bình, tử tế mọi người. Vì ”Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" ( Lc 5, 32 ) và “Con người đến để tìm cứu những gì hư mất” ( Lc 19, 10).
Tuy nhiên, nay con cái Chúa vẫn còn quen tập tục đối xử phân biệt với những người phạm tội trống, như cờ bạc, dâm ô, nghiện ngập, trộm cắp, … Vẫn còn thường áp dụng hình phạt dứt phép thông công, thay vì khoan dung kêu gọi, tìm cứu như Đức Giêsu.
Chí ái
Trong Kinh Magnificat, Mẹ Maria đã cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, đã hân hoan, cảm tạ, ngợi ca, chúc tụng Thiên Chúa chí ái, luôn mãi tràn trề tình yêu: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” ( Lc 1, 50 ).
Yêu thương, muốn thức tỉnh ông Pharisêu Simon, Đức Giêsu hỏi: "Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn ?" Với nhận thức uyên bác, ông Simon dễ dàng trả lời ngay: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn." Người bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng."
Lúc đó, Người mới so sánh hai thái độ đón tiếp của ông và phụ nữ kia, một bên khá lạnh nhạt, hững hờ, một bên quá nồng nàn mến thương, quý trọng: “Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi.” Hai ứng xử hoàn toàn trái ngược với nhau, biểu lộ rõ tâm tình chân thành dành riêng cho Đức Giêsu. “Lề Luật đã xen vào, để cho sự sa ngã lan tràn; nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” ( Rm 5, 20 ).
Thiên Chúa chí ái, hằng thương xót những ai chân tình hồi tâm, ăn năn, sám hối, trở về. “Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít." Đức Giêsu công khai đáp lời ai yêu mến, chạy đến Người. “Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma quỷ.” ( 1Ga 3, 8 ).
Bao dung
Người đã hành xử như Chủ Nợ bao dung với các con nợ, căn cứ tiêu chuẩn, mức độ yêu đương để tha thứ, để xoá nợ, tuy con nợ chẳng công trạng gì, cũng chẳng biết lấy gì đền đáp, ngoài lòng mến thiết tha, lòng trông cậy và lòng tin. "Tội con đã được tha rồi."
Đức Giêsu không muốn những người khác vấp phạm vì lòng thương xót của Người, nên đã diễn tả bằng cách khác: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an." Vua Đavít đã hết lòng ca ngợi lòng khoan dung vô cùng, vô tận của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội” ( Tv 32, 1-2 ).
“Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng; Chúa không phải là Đấng bắt con phải kính mến, nói đúng hơn, Chúa là Đấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô hạn” ( Đường Hy Vọng, số 288 ).
Lạy Chúa Giêsu chí công, chí ái đầy lòng khoan dung, xin luôn thức tỉnh chúng con, nhận ra thân phận yếu đuối, phàm hèn, tội lỗi, để sốt sắng tìm về, trở lại, ăn năn, sám hối, như người phụ nữ kia khiêm hạ, nhận ra mình xấu xa, hết sức trông cậy vào Lòng Thương Xót của Chúa thứ tha, cảm hoá, đổi mới và tái sinh.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thương yêu cầu bầu cho chúng con được thêm niềm tin, lòng cậy, lửa mến, để không thất vọng khi lỡ xa Chúa, khi làm mất lòng Chúa, khi xúc phạm đến Chúa, mà luôn sốt sắng quay trở về, cậy nhờ vào lòng khoan dung của Chúa. Amen.
Tha thứ là một vấn đề nan giải của nhân loại. Người ta phạm tội thì dễ nhưng tha thứ thì khó lắm. TN 11-C89
Tha thứ là một vấn đề nan giải của nhân loại. Người ta phạm tội thì dễ nhưng tha thứ thì khó lắm. Vì con người có xu hướng khoan dung với chính mình nhưng lại khắt khe với người. Hơn nữa phạm trù “nhận lỗi” dường như là một mối thù không đội trời chung với nhân loại. Phạm lỗi thì dễ nhưng nhận lỗi khó khăn đến chừng nào. Dường như nó đụng chạm đến danh dự, đến cái tôi ích kỷ, tự tôn quá lớn của họ. Thế nên, người biết nhận tội là người đã thành công được một nửa trên con đường hoàn thiện bản thân.
Muốn sửa lỗi, điều kiện đầu tiên cần có chính là biết chân nhận khuyết điểm của mình. Ai cũng khiếm khuyết, chẳng ai hoàn hảo, nhưng hơn thua ở việc người biết nhận ra sai trái và sửa sai. Như vậy, nhận lỗi chính là nền tảng của nhân đức khiêm nhường.
Không có lòng ăn năn hối cải thực thụ thì rất khó để nhìn nhận thiếu sót. Người lúc nào cũng đặt mình trên cao, xa hơn người khác, thánh thiện, tốt lành, hoàn hảo hơn người thì chả bao giờ nhìn thấy khiếm khuyết của mình. Vì luôn ngóc đầu nhìn lên trên, làm sao có thể dễ dàng cúi mình nhìn nhận sai sót.
Câu chuyện người phụ nữ tội lỗi được tha thứ hôm nay là một minh chứng. Mặc dầu phạm rất nhiều tội nhưng chị không lừa dối chính mình, trái lại chị đã chân thành biểu lộ lòng ăn năn hối cải bằng việc thống hối, khóc than dưới chân Đức Giêsu vì tội đã phạm. Những giọt nước mắt thống hối tưới ướt chân của Ngài, chị còn lấy chính mái tóc mình mà lau, rồi hôn chân Đức Giêsu và xức dầu thơm lên chân Ngài ( x. Lc 7, 38 ). Có thể nói tất cả những gì quý giá nhất của người phụ nữ, chị đã dâng trọn lên Đức Giêsu để biểu lộ tấm lòng hối lỗi thực thụ của mình.
Hành động cúi mình khóc, lau và xức dầu thơm lên chân Đức Giêsu cho thấy chị đã trân quý Thầy mình thế nào. Chị yêu kính Thầy Chí Thánh của mình và đau đớn hối hận bao lỗi lầm đã xúc phạm đến Ngài. Hành động phạm tội của chị dơ bẩn thế nào, thì hành động hối lỗi đẹp gấp vạn lần thế ấy. Nhưng đáng tiếc thay, hành động ấy không được xã hội đón nhận, vì người ta khinh ghét, loại trừ chị, chỉ vì họ biết chị vốn là người tội lỗi: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi !” ( Lc 7, 39 ).
Kẻ có tội, thậm chí là tội lỗi khét tiếng, giờ đây lại trở thành người vô tội vì dám can đảm nhìn nhận tội lỗi của mình. Người tưởng rằng mình vô tội nhưng nay lại trở thành kẻ có tội chỉ vì khinh miệt người khác và không biết nhận ra cái tôi thực thụ của mình. Mặc dầu sự thật tội của người phụ nữ thì rất nhiều, ai cũng biết điều đó, không ai phủ nhận nhưng chị lại được tha thứ vì đã hối lỗi và yêu mến nhiều: “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.” ( Lc 7, 47 ).
Mặc dầu chẳng một lời van xin, chỉ bằng hành động thống hối thật tâm, Đức Giêsu đã tha tội cho chị một cách nhưng không: “Tội của chị đã được tha rồi” ( Lc 7, 48 ) vì “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” ( Lc 7, 50 ). Vâng, người phụ nữ tội lỗi ấy mặc dầu phạm đã rất nhiều tội nhưng mà vì tin rằng với tấm lòng thống hối chân thật của mình, chị sẽ được phần nào tha thứ. Thế nên chị đã thành tâm đến với Ngài mà khóc than quá khứ lầm lỡ bằng chính những giọt nước mắt hối hận ăn năn. Hành động ấy đã chạm đến trái tim Thiên Chúa. Ngài đã mở rộng tấm lòng đón nhận chị vào cung lòng yêu thương của Thiên Chúa. Lòng tin được tha thứ và yêu thương của chị đã giúp chị sạch tội.
Thế nên “người hạnh phúc cũng khóc” là vậy. Người Pharisêu kia xem mình hạnh phúc vì là kẻ được trọng vọng, kẻ vô tội, không bị xã hội khinh ghét, loại trừ thì nay lại trở thành kẻ bất hạnh đáng thương. Kẻ tội lỗi bị đọa đầy vì xã hội chà đạp, dày xéo nay lại vui mừng hoan hỉ bởi đã được giải thoát khỏi tội. danh dự, nhân phẩm của chị được phục hồi vì chị đã lãnh nhận được Ơn Cứu Độ nhưng-không của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, như người phụ nữ kia, con cũng đã bao lần khóc than bởi ghê tởm trước những lầm lỗi của mình nhưng dường như đó là những giọt nước mắt được pha bằng nước và muối chứ không hẳn là giọt nước mắt mặn đắng pha bằng máu vì hối hận ăn năn thật bởi đã trót xúc phạm đến Thiên Chúa. Thay vì gục đầu vào lòng Chúa để mà thống hối ăn năn, con lại gục đầu vào những thú vui danh vọng thế trần. Cuối cùng thì tội con đã phạm nhiều mà vẫn không được tha thứ vì không có niềm tin. Nếu con hiểu được sự thống hối chân thành của người phụ nữ đã giải thoát chị khỏi tội giúp chị hân hoan vui sướng đến chừng nào thì có lẽ ngày hôm nay con không còn phạm tội.
Xin giúp con thay vì cứ để lương tâm cắn rứt, cào xé, cho bằng hãy đặt trọn niềm tin và lòng thống hối ăn năn vào trái tim bao dung, nhân từ đầy xót thương của Thiên Chúa.
Tin Mừng Lu-ca tường thuật câu chuyện bất hũ về một người phụ nữ vốn nổi tiếng tội lỗi trong TN 11-C90
Tin Mừng Lu-ca tường thuật câu chuyện bất hũ về một người phụ nữ vốn nổi tiếng tội lỗi trong thành được tha thứ.
1. Bối cảnh:
Tình tiết có vài điểm tương tự với tình tiết mà ba sách Tin Mừng khác tường thuật và đinh vị câu chuyện xảy ra ở Bê-ta-ni-a, vài ngày trước cuộc Thương Khó, trong nhà của ông Si-mon Cùi (Mt 26: 6-13; Mc 14: 6-9; Ga 12: 1-8). Một người phụ nữ lấy nước mắt mà tưới ướt chân Đức Giê-su và lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên. Tại Tin Mừng Gioan, chính là cô Ma-ri-a, em của chị Mát-ta và anh La-da-rô; cô lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mình mà lau.
Câu chuyện của thánh Lu-ca mở ra một hướng đi khác. Bữa ăn không được diễn ra tại nhà một người bạn trong bầu khí thân tình chung quanh Đức Giê-su, nhưng tại nhà một người Pha-ri-sêu. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất kể đến ba lần những người Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa tại nhà mình (Lc 7: 36-49; 11: 37-39; 14: 1-6). Đức Giê-su chấp nhận lời mời, vì đối với Ngài đây là những dịp để Ngài có thể đưa ra những bài học thích đáng cho gia chủ, vả lại những bài học này ít nhiều được tiếp nhận. Lời chứng của thánh Lu-ca đáng chú ý: thánh ký muốn người đọc hiểu rằng nhiều người Pha-ri-sêu có tinh thần rộng mở cố gắng hiểu Đức Giê-su hơn. Chắc chắn sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử hơn những công kích dữ dội của thánh Mát-thêu.
2. Cử chỉ của người phụ nữ tội lỗi:
Theo tập quán thời đó, Đức Giê-su nằm dài trên trường kỷ, đầu tựa vào khuỷu tay trái, tay phải tự do để ăn uống, hai chân duỗi thẳng về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đó cho phép người phụ nữ có thể đứng gần chân Chúa Giê-su.
Ở Pa-lét-tin mỗi khi có một kinh sư được mời đến nhà nào dự tiệc, thì mọi người được tự do đến nghe những lời khôn ngoan của ông. Thói quen này giải thích sự có mặt của người phụ nữ vốn nổi tiếng tội lỗi trong thành. Chị bước vào. Chị biểu lộ tấm lòng khiêm hạ bất chấp những đôi mắt soi mói nhìn chòng chọc vào chị. Chị đi thẳng đến Đức Giê-su, chứ không đến chào gia chủ, như phép lịch sử phải có. Chị tiến đến người mà chị nghe thiên hạ nói Ngài là bạn của những người tội lỗi; chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc. Đức Giê-su không làm bất kỳ cử chỉ nào để xua đuổi chị; Ngài chấp nhận những đụng chạm có nguy cơ gây ô uế cho Ngài. Chị đứng đó mà khóc. Nước mắt của chị chắc hẳn là những dòng nước mắt ăn năn, nhưng còn hơn thế nữa, chắc chắn những dòng nước mắt dâng trào niềm cậy trông. Chị để nước mắt của mình ướt đẫm chân Đức Giê-su và lấy tóc mình mà lau, rồi lấy dầu thơm trong bình bạch ngọc mà chị đem theo đổ trên chân Ngài với thái độ đầy tin tưởng của chị.
3. Dụ ngôn về hai con nợ:
Thánh Lu-ca là một người Hy-lạp; thánh ký miêu tả ba bữa ăn mà Đức Giê-su dùng bữa tại nhà của những người Pha-ri-sêu, gần giống những “hội nghị chuyên đề” của người Hy-lạp, ở đó người ta vừa ăn uống vừa bàn luận những chủ đề quan trọng và đa dạng. Chính ở những bàn tiệc này mà hiền triết Socrate đối thoại với các môn đệ của mình.
Người chủ nhà Pha-ri-sêu đón tiếp Đức Giê-su, thầm nghi ngờ thanh danh của vị ngôn sứ này. Chúa Giê-su đọc được tư tưởng thầm kín của ông nên Ngài lịch sự ngỏ lời với ông. Chúa Giê-su kể cho ông dụ ngôn về hai con nợ, một người nợ năm trăm quan tiền và một người nợ năm chục; nhưng cả hai đều không có tiền trả, vì thế, chủ nợ thương tình tha cho cả hai. Chúa Giê-su kết thúc dụ ngôn bằng cách hỏi ông Pha-ri-sêu: “Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”.
Dụ ngôn quá đơn giản nên người Pha-ri-sêu mau mắn trả lời: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn”. Nhưng Chúa Giê-su đảo lộn hoàn cảnh, đây không còn phẩm chất ngôn sứ của Ngài được đặt thành vấn đề, chính là thái độ không đúng của người Pha-ri-sêu, ông đã bỏ qua những phép lịch sự cần phải có đối với khách mời của ông: một nụ hôn bình an của gia chủ cho khách mời để tỏ lòng kính trọng, đổ nước mát trên chân khách để rửa sạch bụi đường và làm mát chân khách, đốt hương liệu cho thơm hoặc đổ dầu thơm lên đầu khách.
Dụ ngôn rõ ràng minh chứng sự tha thứ đi bước trước. Chính sự tha thứ quảng đại gây nên lòng mến dẫn đến sự biết ơn sâu sắc. Tuy nhiên, câu kết của dụ ngôn đi ngược lại: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”. Phải chăng lòng mến là nguyên do của sự tha thứ? Quả thật, có hai chuyển động. Lòng xót thương của Thiên Chúa đi bước trước; chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nhưng Ngài dể dàng tha thứ hơn cho ai đến với Ngài trong thái độ khiêm hạ về sự khốn cùng của mình. Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế rất gần với dụ ngôn Chúa Giê-su đề nghị hôm nay.
4. “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”:
Đức tin không được tách rời khỏi đức mến: chính đức tin đầy lòng mến của người phụ nữ tội lỗi đã được biểu lộ ở nơi những dáng điệu cử chỉ của chị. Chính duy niềm tin vào Đức Giê-su mới có thể dẫn chúng ta đến ơn cứu độ. Tình tiết của người phụ nữ tội lỗi được tha thứ củng cố lời nói của thánh Phao-lô trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát mà chúng ta đọc hôm nay.
5. Những người phụ nữ đi theo Đức Giê-su:
Thánh Lu-ca đóng lại chương này với việc nêu lên những người đi theo Ngài: trước tiên, nhóm Mười Hai, kế đến nhóm người phụ nữ, họ cũng là môn đệ của Ngài như bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà đã được Chúa chữa lành khỏi bảy quỷ và đi theo Ngài. Như vậy, người phụ nữ tội lỗi trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay và bà Ma-ri-a Mác-đa-la là hai nhân vật khác nhau, cho dù truyền thống có khuynh hướng đồng hóa hai người làm một.
Chỉ duy một mình thánh Lu-ca nói cho chúng ta sự hiện diện của những người phụ nữ quanh Chúa Giê-su. Đây là một nét hoàn toàn khác lạ so với các trường lớp của các kinh sư. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất ban cho người phụ nữ một chỗ thân cận bên cạnh Chúa Giê-su trong triều đại Tin Mừng.
Chủ đề trọng tâm của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là “ơn tha thứ của Thiên Chúa”, đây là thành TN 11-C91 Nha Trang
Chủ đề trọng tâm của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là “ơn tha thứ của Thiên Chúa”, đây là thành quả lòng xót thương của Thiên Chúa và lời đáp trả đầy lòng ăn năn và đức tin của người tội lỗi.
2Sm 12: 7-10, 13
Bài đọc I thuật lại cho chúng ta ngôn sứ Na-than trách cứ vua Đa-vít về tội ngoại tình sát nhân của vua. Vua Đa-vít đã ngoại tình với vợ ông U-ri-gia, một trong những sĩ quan trung thành nhất của mình và đã bí mật sai đặt ông ở hàng đầu, chỗ mặt trận ác liệt nhất để ông phải chết. Vua Đa-vít nhận ra tội của mình. Vị ngôn sứ đảm bảo với vua Thiên Chúa tha thứ cho vua.
Gl 2: 16, 19-21
Thánh Phao-lô cảnh giác các tín hữu Ga-lát coi chừng tính tự phụ khi cho rằng mình được nên công chính nhờ chỉ duy việc thực thi Lề Luật. Đức Ki-tô đã phó mạng mình cho chúng ta; chỉ mình Ngài mới có thể làm cho chúng ta nên công chính. Niềm tin vào Ngài là nguồn ân sủng thánh hóa chúng ta.
Lc 7: 36-8: 3
Tin Mừng Lu-ca tường thuật việc Chúa Giê-su tha thứ cho người phụ nữ tội lỗi vì chị đã bày tỏ đức tin, đức cậy và đức mến sâu xa đối với Ngài.
BÀI ĐỌC I (2Sm 12: 7-10, 13)
Hai cuốn sách Sa-mu-en tự nguồn gốc hình thành nên chỉ một cuốn sách. Việc phân chia thành hai cuốn sách khá giả tạo, có lẽ do các kinh sư đã sao chép tác phẩm này thành hai cuộn sách.
Ông Sa-mu-en là vị Thủ Lãnh cuối cùng; ông đã thiết lập vị vua đầu tiên ở Ít-ra-en, vua Sa-un; vị vua này đã phải nhường ngôi cho Đa-vít trước khi kết thúc triều đại của mình. Vì thế, chủ đề của hai cuốn sách Sa-mu-en thuật lại bước khởi đầu thời kỳ quân chủ vào cuối thiên niên kỷ thứ hai và đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
Tác phẩm này là bộ sưu tập; nó thu thập những chứng liệu và truyền thống có nguồn gốc và giá trị khác nhau. Đoạn trích hôm nay thuộc vào một phân đoạn mà nguồn của nó, ở nơi vài chỉ dẫn, xem ra rất gần với các biến cố: đây là phân đoạn liên quan đến tội ngoại tình sát nhân của vua Đa-vít (2Sm các chương 11 và 12).
1. Tội của vua Đa-vít:
Vua Đa-vít đã ngoại tình với vợ ông U-ri-gia, người Khết, một trong những sĩ quan trung thành nhất của mình và đã bí mật sai đặt ông ở hàng đầu, chỗ mặt trận ác liệt nhất để ông trúng thương mà chết. Sự việc đã xảy ra đúng như vậy. Lúc đó vua Đa-vít cưới bà vợ góa của ông U-ri-gia, bà Bát Se-va.
“Nhưng hành động của vua Đa-vít không đẹp lòng Thiên Chúa” (11: 12). Thế nên, ngôn sứ Na-than can gián vua về điều ô nhục vua đã làm (12: 1-7), điều ô nhục càng lớn hơn nữa vì Thiên Chúa đã ban cho vua biết bao ân huệ của Ngài. Trước hết, ngôn sứ Na-than đã kể cho vua dụ ngôn về một người giàu với đàn gia súc đông đúc, nhưng lại bắt một con chiên duy nhất của một người nghèo mà làm tiệc đãi khách. Đa-vít bừng bừng nỗi giận vì cách hành xử của người giàu này. Lúc đó, Na-than đã đáp lại: “Kẻ đó chính là bệ hạ” và kể ra biết bao ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho vua: “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en, Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã ban cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao lại khinh dể lời Đức Chúa mà điều dữ trái mắt Người?”.
Ngôn sứ Na-than nhắc cho vua Đa-vít hai tội của vua: tội ngoại tình và tội sát nhân, và tiên báo cho vua một loạt hình phạt: “Gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi”. Ba đứa con của vua Đa-vít, Áp-sa-lôm, Am-nôn và A-đô-ni-gia-hu bị chết thảm. Còn đứa con của tội ngoại tình cũng sẽ phải chết.
2. Vua Đa-vít ăn năn sám hối:
Vua Đa-vít nhận ra tội của mình: “Tôi đắc tội với Chúa”.
Bản văn chỉ diễn tả rất giản dị vua Đa-vít hối lỗi, nhưng chúng ta lưu ý rằng tội của vua Đa-vít được nhắc lại ở đầu Thánh Vịnh 51:
“Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
Vâng con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài…”.
3. Thiên Chúa tha thứ:
“Thiên Chúa đã bỏ qua tội lỗi của ngài; ngài sẽ không phải chết”.
Ngôn sứ Na-than nói với tư cách con người của Thiên Chúa, Đấng biết rằng cái chết là án phạt cho tội nhân; nhưng vì tấm lòng ăn năn hối lỗi của vua mà Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu đã bỏ qua tội của vua.
BÀI ĐỌC II (Gl 2: 16, 19-21)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ga-lát này dẫn chúng ta vào điểm quan trọng của vấn đề: thánh Phao-lô thiết lập sự đối lập giữa Đức Tin và Lề Luật.
Những người Ki-tô hữu mà thánh Phao-lô ngỏ lời phải chăng là những người Ki-tô hữu gốc Do thái, những người này, do ảnh hưởng của những nhà thuyết giáo không được ủy quyền, toan tính quay trở về Luật Mô-sê và đòi buộc những tân tòng gốc lương dân thực hành Lề Luật.
Trước đây, thánh Phao-lô đã đưa ra cho họ mẫu gương của chính mình, thánh nhân đã đoạn tuyệt với Lề Luật này và đã gắn bó với Đức Ki-tô, vì chỉ mình Ngài là nguyên lý của ơn cứu độ. Trong lời khuyên bảo nồng nàn, thánh nhân sẽ chứng minh cho họ lý do tại sao Lề Luật lại vô tác động và điều cần thiết phải tin vào Đức Ki-tô. Trong vài dòng, thánh Phao-lô tóm tắt đạo lý mà thánh nhân sẽ khai triển trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma.
1. Lề luật không giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi:
“Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy”. Đối với thế giới Do thái, Lề Luật là cách thức diễn tả thánh ý Thiên Chúa; thực hành Lề Luật một cách nghiêm túc là bước trên con đường công chính. Thánh Phao-lô không phủ nhận giá trị của Lề Luật với tư cách giai đoạn cần thiết và tạm thời (sau này thánh nhân sẽ diễn tả quan niệm này: Gl 3: 24; Rm 3: 31 và 10: 4), nhưng thánh nhân muốn cho thấy những giới hạn của tinh thần duy luật ở đây. Việc thực hành Lề Luật dể khiến chúng ta nghĩ rằng chính chúng ta là những người kiến tạo ơn cứu độ của mình.
“Không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy”, đây là một lời khẳng định được mượn khá tự do ở Tv 143, lời cầu nguyện rất khiêm tốn của một người công chính: “Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện…trước nhan thánh Ngài chẳng có người nào là công chính cả”.
2. Chỉ duy Đức Ki-tô là nguồn ơn cứu độ:
Để sự chứng minh của mình thêm phần thuyết phục, thánh Phao-lô lấy lại cung giọng của mình. Đức Giê-su đã bị kết án nhân danh Lề Luật, vì thế Ngài đã giải thoát con người khỏi chế độ Lề Luật. Thế nên, thánh nhân “đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa”.
Thánh Phao-lô kết hiệp với Đức Ki-tô chết và sống lại một cách tròn đầy đến mức thánh nhân thốt lên một tiếng kêu bất hũ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi”. Biểu thức gây ấn tượng mạnh này biểu dương tác động ân sủng và trực tiếp nối kết tác động ấy với cái chết và cuộc phục sinh của Đức Ki-tô.
Toàn bộ đoạn trích hôm nay dâng trào cảm xúc của vị sứ đồ: thánh nhân biết rằng vấn đề của những lời khuyên bảo của mình không chỉ là tương lai của các Ki-tô hữu Ga-lát, nhưng còn là tương lai của toàn thể Giáo Hội: cốt là đoạn tuyệt với Do thái giáo và công bố rằng Đức Ki-tô là Luật Mới, Luật duy nhất này mới có thể cứu chúng ta.
TIN MỪNG (Lc 7: 36-8: 3)
Tin Mừng Lu-ca tường thuật câu chuyện bất hũ về một người phụ nữ vốn nổi tiếng tội lỗi trong thành được tha thứ.
1. Bối cảnh:
Tình tiết có vài điểm tương tự với tình tiết mà ba sách Tin Mừng khác tường thuật và đinh vị câu chuyện xảy ra ở Bê-ta-ni-a, vài ngày trước cuộc Thương Khó, trong nhà của ông Si-mon Cùi (Mt 26: 6-13; Mc 14: 6-9; Ga 12: 1-8). Một người phụ nữ lấy nước mắt mà tưới ướt chân Đức Giê-su và lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên. Tại Tin Mừng Gioan, chính là cô Ma-ri-a, em của chị Mát-ta và anh La-da-rô; cô lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mình mà lau.
Câu chuyện của thánh Lu-ca mở ra một hướng đi khác. Bữa ăn không được diễn ra tại nhà một người bạn trong bầu khí thân tình chung quanh Đức Giê-su, nhưng tại nhà một người Pha-ri-sêu. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất kể đến ba lần những người Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa tại nhà mình (Lc 7: 36-49; 11: 37-39; 14: 1-6). Đức Giê-su chấp nhận lời mời, vì đối với Ngài đây là những dịp để Ngài có thể đưa ra những bài học thích đáng cho gia chủ, vả lại những bài học này ít nhiều được tiếp nhận. Lời chứng của thánh Lu-ca đáng chú ý: thánh ký muốn người đọc hiểu rằng nhiều người Pha-ri-sêu có tinh thần rộng mở cố gắng hiểu Đức Giê-su hơn. Chắc chắn sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử hơn những công kích dữ dội của thánh Mát-thêu.
2. Cử chỉ của người phụ nữ tội lỗi:
Theo tập quán thời đó, Đức Giê-su nằm dài trên trường kỷ, đầu tựa vào khuỷu tay trái, tay phải tự do để ăn uống, hai chân duỗi thẳng về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đó cho phép người phụ nữ có thể đứng gần chân Chúa Giê-su.
Ở Pa-lét-tin mỗi khi có một kinh sư được mời đến nhà nào dự tiệc, thì mọi người được tự do đến nghe những lời khôn ngoan của ông. Thói quen này giải thích sự có mặt của người phụ nữ vốn nổi tiếng tội lỗi trong thành. Chị bước vào. Chị biểu lộ tấm lòng khiêm hạ bất chấp những đôi mắt soi mói nhìn chòng chọc vào chị. Chị đi thẳng đến Đức Giê-su, chứ không đến chào gia chủ, như phép lịch sử phải có. Chị tiến đến người mà chị nghe thiên hạ nói Ngài là bạn của những người tội lỗi; chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc. Đức Giê-su không làm bất kỳ cử chỉ nào để xua đuổi chị; Ngài chấp nhận những đụng chạm có nguy cơ gây ô uế cho Ngài. Chị đứng đó mà khóc. Nước mắt của chị chắc hẳn là những dòng nước mắt ăn năn, nhưng còn hơn thế nữa, chắc chắn những dòng nước mắt dâng trào niềm cậy trông. Chị để nước mắt của mình ướt đẫm chân Đức Giê-su và lấy tóc mình mà lau, rồi lấy dầu thơm trong bình bạch ngọc mà chị đem theo đổ trên chân Ngài với thái độ đầy tin tưởng của chị.
3. Dụ ngôn về hai con nợ:
Thánh Lu-ca là một người Hy-lạp; thánh ký miêu tả ba bữa ăn mà Đức Giê-su dùng bữa tại nhà của những người Pha-ri-sêu, gần giống những “hội nghị chuyên đề” của người Hy-lạp, ở đó người ta vừa ăn uống vừa bàn luận những chủ đề quan trọng và đa dạng. Chính ở những bàn tiệc này mà hiền triết Socrate đối thoại với các môn đệ của mình.
Người chủ nhà Pha-ri-sêu đón tiếp Đức Giê-su, thầm nghi ngờ thanh danh của vị ngôn sứ này. Chúa Giê-su đọc được tư tưởng thầm kín của ông nên Ngài lịch sự ngỏ lời với ông. Chúa Giê-su kể cho ông dụ ngôn về hai con nợ, một người nợ năm trăm quan tiền và một người nợ năm chục; nhưng cả hai đều không có tiền trả, vì thế, chủ nợ thương tình tha cho cả hai. Chúa Giê-su kết thúc dụ ngôn bằng cách hỏi ông Pha-ri-sêu: “Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”.
Dụ ngôn quá đơn giản nên người Pha-ri-sêu mau mắn trả lời: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn”. Nhưng Chúa Giê-su đảo lộn hoàn cảnh, đây không còn phẩm chất ngôn sứ của Ngài được đặt thành vấn đề, chính là thái độ không đúng của người Pha-ri-sêu, ông đã bỏ qua những phép lịch sự cần phải có đối với khách mời của ông: một nụ hôn bình an của gia chủ cho khách mời để tỏ lòng kính trọng, đổ nước mát trên chân khách để rửa sạch bụi đường và làm mát chân khách, đốt hương liệu cho thơm hoặc đổ dầu thơm lên đầu khách.
Dụ ngôn rõ ràng minh chứng sự tha thứ đi bước trước. Chính sự tha thứ quảng đại gây nên lòng mến dẫn đến sự biết ơn sâu sắc. Tuy nhiên, câu kết của dụ ngôn đi ngược lại: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”. Phải chăng lòng mến là nguyên do của sự tha thứ? Quả thật, có hai chuyển động. Lòng xót thương của Thiên Chúa đi bước trước; chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nhưng Ngài dể dàng tha thứ hơn cho ai đến với Ngài trong thái độ khiêm hạ về sự khốn cùng của mình. Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế rất gần với dụ ngôn Chúa Giê-su đề nghị hôm nay.
4. “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”:
Đức tin không được tách rời khỏi đức mến: chính đức tin đầy lòng mến của người phụ nữ tội lỗi đã được biểu lộ ở nơi những dáng điệu cử chỉ của chị. Chính duy niềm tin vào Đức Giê-su mới có thể dẫn chúng ta đến ơn cứu độ. Tình tiết của người phụ nữ tội lỗi được tha thứ củng cố lời nói của thánh Phao-lô trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát mà chúng ta đọc hôm nay.
5. Những người phụ nữ đi theo Đức Giê-su:
Thánh Lu-ca đóng lại chương này với việc nêu lên những người đi theo Ngài: trước tiên, nhóm Mười Hai, kế đến nhóm người phụ nữ, họ cũng là môn đệ của Ngài như bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà đã được Chúa chữa lành khỏi bảy quỷ và đi theo Ngài. Như vậy, người phụ nữ tội lỗi trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay và bà Ma-ri-a Mác-đa-la là hai nhân vật khác nhau, cho dù truyền thống có khuynh hướng đồng hóa hai người làm một.
Chỉ duy một mình thánh Lu-ca nói cho chúng ta sự hiện diện của những người phụ nữ quanh Chúa Giê-su. Đây là một nét hoàn toàn khác lạ so với các trường lớp của các kinh sư. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất ban cho người phụ nữ một chỗ thân cận bên cạnh Chúa Giê-su trong triều đại Tin Mừng.
(Suy niệm Tin Mừng thánh Luca (Lc 7, 36-50) trích đọc vào Chúa Nhật 11 thường niên )
Vì tôn trọng Thiên Chúa, Mẹ Maria và các Thánh, các tín hữu Việt Nam thường đặt tượng ảnh TN 11-C92
Vì tôn trọng Thiên Chúa, Mẹ Maria và các Thánh, các tín hữu Việt Nam thường đặt tượng ảnh thánh ở những chỗ cao trọng nhất, như ở trên tháp nhà thờ, trên những tượng đài uy nghi đồ sộ.
Trong mỗi gia đình công giáo, nhà nào cũng lập bàn thờ và đặt ảnh tượng Chúa ở vị trí quan trọng và xứng đáng nhất trong gia đình.
Thế nhưng, điều đáng buồn là lắm khi người ta quan tâm đặt tượng ảnh Chúa lên những nơi thật cao cho mọi người trông thấy mà lại quên đặt Chúa ngự trong tâm hồn mình, để ngày đêm có Chúa ở với mình, để lúc nào cũng có thể lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo, để có một đời sống gần gũi thân mật và tương hợp với Người. Tâm hồn mỗi người mới thật sự là nơi mà Thiên Chúa hằng mong muốn ngự trị.
Cách đón tiếp của ông Si-môn
Hôm ấy, theo thánh sử Lu-ca thuật lại (Lc 7, 36-50), ông Si-môn, một người thuộc Nhóm Pha-ri-sêu mời Chúa Giê-su đến nhà dùng bữa, nhưng chẳng rõ vì lý do gì, ông ta tiếp đón Chúa không được mặn mà cho lắm.
Ở Palestine thời Chúa Giê-su, khi có khách đến nhà, theo phép lịch sự đòi hỏi, chủ nhà thường tiến hành ba việc sau đây: một là bày tỏ lòng quý trọng bằng cách dành cho khách một chiếc hôn bình an; hai là rửa chân cho khách, ba là đốt hương liệu cho hương thơm lan tỏa khắp nhà hoặc nhỏ vài giọt dầu hoa hồng lên đầu người khách quý.
Thế nhưng ông Si-môn không làm như thế cho Chúa Giê-su. Tuy có mời Chúa đến nhà nhưng ông chỉ dành cho Chúa một chỗ trong bàn tiệc mà chẳng dành cho Người một chỗ trong tâm hồn mình.
Cách đón tiếp của người đàn bà tội lỗi
Trái với thái độ hờ hững của ông Si-môn, một thiếu phụ mang đầy tai tiếng trong vùng đã bất chấp dư luận, tìm đến tận nhà ông Si-môn, nồng nhiệt đón tiếp Chúa Giê-su, không phải vào nhà mình, nhưng vào tâm hồn mình cách rất tha thiết.
Vừa thấy Chúa Giê-su, chị quỳ sụp xuống chân Người và bỗng nhiên òa lên khóc nức nở; khóc vì chị đã để cho vô vàn lầm lỗi xâm chiếm tâm hồn; khóc vì hận mình đã không đủ sức hoàn lương và bước theo con đường cao đẹp mà Chúa Giê-su mời gọi; khóc vì gặp được Chúa Giê-su là Bậc Thầy cao quý, không hề khinh bỉ chị như bao người khác nhưng đã nhìn chị bằng ánh mắt tôn trọng và yêu thương.
Nước mắt dàn dụa đã làm ướt đẫm đôi chân Chúa Giê-su. Lấy gì mà lau bây giờ? Thôi, kệ, cứ xõa tóc xuống mà lau, cho dù theo phong tục xứ Palestine thời đó, một phụ nữ xõa tóc giữa nơi công cộng có thể bị khinh dể, chê cười.
Và rồi, với tất cả tấm lòng tôn trọng và yêu mến, chị trút hết dầu thơm đắt giá chứa trong bình bạch ngọc lên đôi chân Chúa Giê-su, như trút cả tình yêu trong đáy tim mình cho Chúa và tha thiết hôn lên đôi chân ấy.
Thế là chị cũng không ngờ là mình đã giữ đúng phép khi tiếp khách quý đến nhà: rửa chân cho khách, nhưng không phải bằng nước ao hồ như người ta thường làm mà là bằng những giọt nước mắt thương yêu; hôn chào khách, nhưng không phải hôn lên má khách theo thông lệ, mà là hôn lên đôi chân Chúa với tấm lòng kính mến tri ân; và xức dầu thơm quý, nhưng không phải xức lên đầu mà là lên đôi chân của Chúa.
Trái với ông Si-môn chủ nhà chỉ tiếp đón Chúa lấy lệ nên chỉ dành cho Chúa một chỗ trong bàn tiệc mà không dành cho Người một chỗ trong tâm hồn, người phụ nữ nầy đã thực sự đón tiếp Chúa với tất cả tấm lòng thương mến và thực sự dành cho Chúa một chỗ quan trọng trong tâm hồn, trong trái tim mình.
Cách tiếp đón của chúng ta
Hiện nay, bất cứ lúc nào Thiên Chúa cũng muốn đến với chúng ta và chờ mong được mỗi người chúng ta tiếp đón.
Chúng ta đón tiếp Chúa với tâm tình và thái độ nào?
Đón tiếp Chúa cách hững hờ nhạt nhẽo như ông Si-môn biệt phái hay thân tình mật thiết như người phụ nữ trên đây?
Chỉ dành cho Chúa một chỗ trên bàn thờ hay đón nhận Chúa vào lòng để Chúa ngự trị trong tâm hồn và trong cuộc sống?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giê-su, Chúa muốn chúng con trở thành bạn hữu thân thiết của Chúa. Xin đừng để chúng con gạt Chúa ra bên lề cuộc sống chúng con.
Xin cho chúng con luôn đặt Chúa ngự trong tâm hồn mình, để ngày đêm có Chúa ở với mình, để lúc nào cũng có thể lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo, để có một đời sống gần gũi thân mật và tương hợp với Chúa hơn.
(Suy niệm Tin Mừng thánh Luca (Lc 7, 36-50) trích đọc vào Chúa Nhật 11 thường niên C )
Hôm ấy, ông Si-môn, một người thuộc Nhóm Pha-ri-sêu mời Chúa Giê-su đến nhà dùng bữa, TN 11-C93
Hôm ấy, ông Si-môn, một người thuộc Nhóm Pha-ri-sêu mời Chúa Giê-su đến nhà dùng bữa, nhưng chẳng rõ vì lý do gì, ông ta tiếp đón Chúa không được mặn mà cho lắm.
Ở Palestine thời Chúa Giê-su, khi có khách đến nhà, theo phép lịch sự đòi hỏi, chủ nhà thường tiến hành ba việc sau đây: một là bày tỏ lòng quý trọng bằng cách dành cho khách một chiếc hôn bình an; hai là rửa chân cho khách, ba là đốt hương liệu cho hương thơm lan tỏa khắp nhà hoặc nhỏ vài giọt dầu hoa hồng lên đầu người khách quý.
Thế nhưng ông Si-môn không làm như thế cho Chúa Giê-su. Tuy có mời Chúa đến nhà nhưng ông chỉ dành cho Chúa một chỗ trong bàn tiệc mà chẳng dành cho Ngài một chỗ trong tâm hồn mình.
Trái với thái độ hờ hững của ông Si-môn, một thiếu phụ mang đầy tai tiếng trong vùng đã bất chấp dư luận, tìm đến tận nhà ông Si-môn, nồng nhiệt đón tiếp Chúa Giê-su, không phải vào nhà mình, nhưng vào tâm hồn mình cách rất tha thiết.
Vừa thấy Chúa Giê-su, chị quỳ sụp xuống chân Ngài và bỗng nhiên òa lên khóc nức nở; khóc vì chị đã để cho vô vàn lầm lỗi xâm chiếm tâm hồn; khóc vì hận mình đã không đủ sức hoàn lương và bước theo con đường cao đẹp mà Chúa Giê-su mời gọi; khóc vì gặp được Chúa Giê-su là bậc Thầy cao quý, không hề khinh bỉ chị như bao người khác nhưng đã nhìn chị bằng ánh mắt tôn trọng và yêu thương.
Nước mắt tuôn trào làm ướt đẫm đôi chân Chúa Giê-su. Lấy gì mà lau bây giờ? Thôi, kệ, cứ xõa tóc xuống mà lau, cho dù theo phong tục xứ Palestine thời đó, một phụ nữ xõa tóc giữa nơi công cộng có thể bị khinh dể, chê cười.
Và rồi, với tất cả tấm lòng tôn trọng và yêu mến, chị trút hết dầu thơm đắt giá chứa trong bình bạch ngọc lên đôi bàn chân Chúa Giê-su, như trút cả tình yêu trong đáy tim mình cho Chúa và tha thiết hôn lên đôi chân ấy.
Thế là chị cũng không ngờ là mình đã giữ đúng phép khi tiếp khách quý đến nhà: rửa chân cho khách, nhưng không phải bằng nước ao hồ như người ta thường làm mà là bằng những giọt nước mắt thương yêu; hôn chào khách, nhưng không phải hôn lên má khách theo thông lệ, mà là hôn lên đôi bàn chân Chúa với tấm lòng kính mến tri ân; và xức dầu thơm quý, nhưng không phải xức lên đầu mà là lên chân của Chúa.
Trái với ông Si-môn chủ nhà chỉ tiếp đón Chúa lấy lệ nên chỉ dành cho Chúa một chỗ trong bàn tiệc mà không dành cho Ngài một chỗ trong tâm hồn, người phụ nữ nầy đã thực sự đón tiếp Chúa với tất cả tấm lòng thương mến và thực sự dành cho Chúa một chỗ quan trọng trong tâm hồn, trong trái tim mình. (Lc 7, 36-50).
Hiện nay, bất cứ lúc nào Thiên Chúa cũng muốn đến với chúng ta và chờ mong được mỗi người chúng ta tiếp đón.
Chúng ta đón tiếp Chúa với tâm tình và thái độ nào?
Đón tiếp Chúa cách hững hờ nhạt nhẽo như ông Si-môn biệt phái hay thân tình mật thiết như người phụ nữ trên đây?
Chúng ta chỉ dành cho Chúa một chỗ trên bàn thờ hay đón nhận Chúa vào lòng để Chúa ngự trị trong tâm hồn và trong cuộc sống?
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa muốn chúng con trở thành bạn hữu thân thiết của Chúa. Xin đừng để chúng con gạt Chúa ra bên lề cuộc sống chúng con.
Xin cho chúng con luôn đặt Chúa ngự trong tâm hồn mình, để ngày đêm có Chúa ở với mình, để lúc nào cũng có thể lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo, để có một đời sống gần gũi thân mật và tương hợp với Chúa hơn.
Tôi thích nhất, mà thật ra tôi khâm phục nhất câu nói tiên Nathan, nói với vua David: "Ngài chính TN 11-C94
Tôi thích nhất, mà thật ra tôi khâm phục nhất câu nói tiên Nathan, nói với vua David: "Ngài chính là người đó"?
? Bạn hiểu bối cảnh câu nói này không?
+David lúc ấy, một ông vua oai phong lẫm liệt. Ông có thể giết bất cứ người nào, nếu ông không thích. Có thể giết âm thầm, có thể giết công khai mà không ai dám nói ông vua này.
+ Vua David đem quân lính đánh đông dẹp bắc. Ông đi đến đâu Chúa cho ông thắng trận đến đó.
+ Điểm xuất phát của David là một thằng chăn chiên không có tiếng tăm gì.
+ Khi còn nhỏ, đi chăn chiên cho cha mẹ, anh David đâu có nghĩ mình sẽ làm vua, kể cả khi Samuel đến xức dầu cho anh và nói rằng anh sẽ làm vua. David không phải là không tin, nhưng David không nghĩ tới.
+Cái điều mà anh không nghĩ tới, Chúa lại cho anh. Anh làm tướng. Đem quân đi đến đâu, quân thù phải bái phục dưới chân anh. Anh không kiêu ngạo. Anh xác tín: tất cả những chiến lợi phẩm, những chiến công oai hùng đó là do bàn tay của Thiên Chúa. Chúa vẫn biết lòng ông như vậy.
+ "Nhàn cư vi bất thiện": đó là bài học xương máu trên cuộc đời David. Thế là quân thù cũng đã phục dưới chân. Nay David được an nhàn thư thái. Ngày xưa mỗi ngày phải ra chiến trận. Lúc nào cũng cảm nhận mạng sống giống ngàn cân treo sợi tóc, chẳng biết đứt lúc nào, chỉ cần một viên đạn, chỉ cần một mũi kiếm cũng làm mất mạng sống. Lúc ấy, David lúc nào cũng nhớ đến Chúa, vì anh lúc này cần Chúa bảo vệ.
+Khi an nhàn thư thái. Chiều chiều bách bộ trên sân thượng, dục tình nổi lên khi thấy người đàn bà là vợ của Urigia đang tắm.
+ David có ý định đen tối:muốn chiếm thân xác nàng. Chồng là Urigia tham chiến ngoài mặt trận đã lâu rồi chưa một lần về thăm vợ.
+ Để đạt được nguyện vọng, Vua David đã lập mưu cho Urigia tử trận để vua thảnh thơi chiếm nàng. Vua David nghĩ rằng, đâu có ai biết âm mưu của ông. Ông đã lầm: có trời biết, có đất biết, có sứ giả của trời biết là ngôn sứ Nathan.
? Trong hoàn cảnh như vậy, tố cáo một người có quyền nhất đất nước. Một tiên tri chẳng có tiếng tăm uy thế nào, làm sao cả đan trực diện ngăn cản TỘI LỖI CỦA DAVID?
? Nếu đứng trong trường hợp bạn, bạn dám ngăn cản Vua David làm điều dữ trái mắt Đức Chúa không?
+ Sẽ có nhiều người nói: đụng vào ổ kiến làm gì, sẽ chết chắc. Hôm nay không chết thì ngày mai sẽ bị thủ tiêu. Thôi, mắc cớ gì đến mình. Người nào làm, người đó chịu.
+ TA GỌI ĐÂY LÀ THÁI ĐỘ: "sống chết mặc bay".
? Thấy một người, một tổ chức nào đó đang gây ra tội ác cho con người, đang gieo rắc đau khổ và chết chóc cho người, thử hỏi mình giả điếc làm ngơ có tội không?
+ Có tội. Tội đồng loã.
*) Ví dụ: thấy một người lạ mặt đang cầm một con dao chạy vào nhà hàng xóm đang đuổi đứa bé để đâm, tôi đứng bên nhà của mình, tôi thấy như vậy, tôi nói sống chết mặc bay, đến đó làm lỡ mang hoạ vào thân, theo bạn, bạn có tội không?
+ Có tội. Tội đồng loã
*) THẤY TỘI ÁC, MÌNH KHÔNG NGĂN CẢN, THẤY SỰ DỮ MÀ KHÔNG NGĂN CẢN, KHÔNG LÊN TIẾNG: ĐỒNG NGHĨA VỚI VIỆC DUNG TÚNG CHO HÀNH VI CỦA HỌ.
2. BÀI HỌC
+Học nơi ngôn sứ Nathan, can đảm chặn đứng tội ác.
+ Đừng gieo rắc tội ác, đau khổ cho người khác, nhưng hãy kiến tạo hoà bình.