Toàn thể chương 7 của Lc đều được kết cấu quanh việc CGS làm chứng Gioan Baotixita (7,18-35): TN 11-C1
1. Toàn thể chương 7 của Lc đều được kết cấu quanh việc CGS làm chứng Gioan Baotixita (7,18-35): trước, chúng ta có hai trình thuật về phép lạ (7,1-10 và 7,11-17); sau, trình thuật về người đàn bà tội lỗi. Toàn thể này tạo thành một khối. Từ trong tù, Gioan sai người đến hỏi CGS, thật là cảm động (và an ủi cho chúng ta biết mấy khi chúng ta phải sống trong nghi ngờ): “Ngài có phải là Đấng phải đến ?... “97,20). Như đã làm trong bài giảng khai mạc ở Nazareth, CGS trả lời bằng cách trích dẫn ngôn sứ Is (26,19; 35,5tt; 61,6). Nhưng Ngài thay thế câu nói: “Hôm nay điều này được thực hiện...” (4,21), bằng việc làm: “Ngài chữa lành hiều bệnh nhân...” (7,21). Ngài muốn minh chứng cho Gioan và các môn đệ của ông biết Ngài là đấng phải đến, vì Ngài hoàn tất kinh thánh. Và hai phép lạ Lc vừa kể được coi như một thành tố để chứng minh: việc chữa lành đầy tớ viên sĩ quan và nhất là đoạn riêng biệt của Lc, việc cho con trai bà góa thành Naim sống lại. Trước dấu chỉ này, dân chúng hô lên: “Một tiên tri vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta” (7,16). Vậy CGS chính là tiên tri đã được kinh thánh loan báo và Gioan có bổn phận phải dọn đường cho Ngài.
Nhưng Ngài đã được tiếp đón như thế nào ? Khi các sứ giả của Gioan đi rồi, CGS giải thích: những người này, có nghĩa là toàn dân và đặc biệt những người bị khinh chê nhất, các người thu thuế, đã “minh chứng TC, và được Gioan làm phép rửa; những người khác, bọn biệt phái và thông luật, chối phép rửa này, đã làm cho ý định TC trở nên vô ích đối với họ.
Người ta có cảm tưởng như là đã nói hết rồi và với trình thuật về người đàn bà tội lỗi, ta bước sang một phần khác. Tuy nhiên, nếu nhìn gần, ta chỉ thấy hai yếu tố chính trên kia được gặp lại ở đây. Câu người biệt phái hỏi: “Nếu ông này là tiên tri, chắc sẽ biết bà này là ai ?; nhưng CGS trả lời bằng một cử chỉ: tha tội. và vị tiên tri này được đón tiếp cách tuyệt diệu bởi một người đáng khinh bỉ hất, người đàn bà tội lỗi. Trình thuật này do đó cũng là thành tố của toàn thể bố cục trên.
Ở đây ta thấy văn thể thường được Lc xử dụng: ông thích trình bày trình thuật thành hai bảng: trong bảng thứ nhất, minh chứng kinh thánh được hoàn tất bởi CGS và trong CGS như thế nào, chúng ta cảm thấy vậy là thỏa mãn rồi, nhưng bỗng nhiên một vấn nạn hay một lời van xin đột xuất và qua đó Lc cho thấy cách thức CGS hoàn thành kinh thánh vô cùng tốt đẹp và sâu xa hơn những gì chúng ta có thể mong ước. Ví dụ trình thuật truyền tin. Thiên thần loan báo cho Maria là Con của người sẽ thuộc dòng dõi Đavit, Con của Đấng tối cao, hoàn tất lời hứa của Isaia (ch.7) và những lời sấm ngôn về thiếu nữ Sion. Khi trả lời vấn nạn của Maria, Thiên Thần mạc khải Ngài sẽ hơn thế nữa, là Con TC theo nghĩa mạnh. Cũng thế, trước công nghị, Lc lập lại câu hỏi duy nhất của vị thượng tế, được Mt và Lc ghi lại: CGS xác quyết trước tiên Ngài là Con Người, Đấng Messia, Con Đavit, đoạn là Con TC theo nghĩa đúng.
Ở đây, cũng một bố cục như thế. Các phép lạ CGS minh chứng Ngài là vị tiên tri thiên hạ mong chờ, vì Ngài chu toàn thánh kinh. Những người nghèo khổ và tội lỗi đã nhận biết Ngài như thế. Nhưng, Lc tiếp tục nói thêm, CGS là tiên tri theo nghĩa phi thường, vì Ngài thực thi một quyền phép như là của TC là tha tội. Không những người thu thuế mà ngay cả những người bị khinh dể và những người khốn khổ nhất, mà bà này là biểu tượng, đã biết tiếp đón Ngài.
2. Chỉ có Lc là người duy nhất đã 3 lần cho thấy CGS được người biệt phái mời ăn (ở đây và 11,37; 14,1). Chỗ khác, ông còn cho thấy họ mến CGS và đề phòng Ngài thoát khỏi mưu kế của Herođe (13,31). Về điểm này chắc Lc theo sát thực tại lịch sử hơn Mc và nhất là Mt, vì đối với Mt, biệt phái trở nên kẻ thù không đội trời chung của CGS, tiếp đến là những bút chiến trong giáo hội sơ khai. Thái độ dung hòa này của Lc có lẽ bị ảnh hưởng của Phaolô, người luôn lấy làm hãnh diện vì mình là người biệt phái (Ph 3,5; x.Cvsđ 23,6; 26,5).
Người biệt phái mời CGS đến dự tiệc (ketéklithê, “nằm dài” còn trong các bữa ăn thường, người ta ngồi); và đây là một dấu chỉ tôn kính đối với Ngài, vì Simon có lẽ cho CGS là một tiên tri (x.c.39) có lẽ với ông, ơn cứu rỗi đã đến ? Đàng khác, thật là một công việc đáng khen thưởng khi mời một thày du mục nhất là khi Ngài có giảng trong hội đường, dùng bữa trong ngày sabat.
3. Lc không nói gì về lý lịch “người đàn bà tội lỗi”. Không thể đồng hóa bà với Maria Mađalena: hay với Maria ở Bêtania như một vài truyền thuyết đã làm. Hãy bắt chước tính kín đáo của Lc, không muốn viết ra ở đây tiểu sử của ai, mà chỉ muốn dạy một bài học. Người đàn bà được mọi người trong thành biết là người tội lỗi: có lẽ đây là một con điếm, hay một người đàn bà ngaoị hôn, hay vợ của người hành nghề không mấy tốt đẹp (thu thuế, chăn cừu...) nhưng c.49 nhắm đến tội lỗi cá nhân của bà, nên ý kiến cuối cùng này là không đúng.
Người ta không nói tại sao bà khóc, mà chỉ cho thấy lòng biết ơn vô bờ của bà, vì hôn đầu gối hay chân là dấu hiệu lòng biết ơn khiêm nhu nhất, chẳng hạn lòng biết ơn đối với người đã cứu sống (x.b.Sanh.27b: một người bị kết tội giết người hôn chân một luật sĩ). Một chi tiết cho thấy bà này đã vô cùng biết ơn vị cứu tinh: không do dự, bà cất khăn che mặt và lấy tóc để chùi nước mắt, dù đây là một hành động ô danh lớn lao đối với người phụ nữ khi xổ tóc trước mặt người đàn ông (theo Tos Sota 5,9; Gitt 9,50d, đó,là lý do ly dị). Dĩ nhiên, bà quá sợ hãi vì đã làm bẩn CGS bằng nước mắt của mình nên bà quên đi những người xung quanh. Như thế, từ câu 37, diễn tả òng biết ơn sâu xa của người đàn bà, và theo câu 41-43 bà biết ơn vì được tha thứ tội lỗi.
Có một ghi chú quan trọng về ngữ học: ngôn ngữ Hy bá, arameô, syriaque không có chữ để diễn tả lòng “cám ơn” “biết ơn” nên phải dùng chữ khác; ở đấy họ dùng chữ “yêu”. Ý nghĩa câu hỏi CGS ở câu 42 thật ra là: “hai con nợ đó ai sẽ biết ơn nhiều hơn” và điều này cho thấy ở câu 44-46, CGS giải thích cử chỉ của người đàn bà như là những dấu chỉ của lòng biết ơn; cuối cùng ở câu 47, agapân, “yêu”, cũng có một tâm tình biết ơn như thế.
4. Câu 47 đặt ra nhiều khó khăn về chú giải. Riêng tôi vẫn chưa tìm ra lời giải thích thỏa đáng làm cho toàn thể dụ nngôn trở nên mạch lạc. sau đây hãy thử xem vấn đề.
a/ Khó khăn lớn nhất liên quan đến conjonction finale hoti. Phải dịch chữ này là parce que hay puisqur, attendu que ? Đây không phải chỉ là một cuộc cãi cọ thuần văn phạm. Nhưng hơn thế nữa là vấn đề liên quan đến giáo thuyết, vì, giữa hai cách dịch, sự khác biệt sẽ ra từ nguyên nhân đến hậu quả. Nếu dịch parce que, chính tình yêu là nguyên nhân của việc tha tội; nếu dịch puisque, attendu que, tình yêu chỉ là tất yếu của việc tha tội.
Về phương diện văn phạm, cả hai cách dịch đều được phép, liên từ hoti thường có nghĩa nguyên nhân parce que, và có lẽ đó là lý do mà nhiều tác giả theo. Nhưng đôi khi cũng có nghĩa như một chỉ dẫn hay một dấu hiệu, thường được xem như một loại của nhân quả. Nhưng nó có nghĩa hậu quả (consécutif), chứ không có nghĩa nguyên nhân (causal).
Trong TƯ có nhiều ví dụ cho thấy chữ hoti có nghĩa là hậu quả (consécutif): Lc 11,18; Cvsđ 5,38; Gio 9,16. Người ta cũng có thể giải thích trong nghĩa này là liên từ hoti của câu 39: “nếu ông là tiên tri, chắc sẽ biết người đàn bà đang đụng đến ông là ai, vì đó (attendu quehoti) là một người đàn bà tội lỗi”. Cách dịch này làm cho tính cách loại duy giữa hai câu trở nên hoàn hảo: “Ông sẽ biết người đàn bà này là ai, vì đó (attendu que) là một người đàn bà tội lỗi... tội lỗi của bà được tha, vì (puisque, attendu que) bà biết ơn nhiều”.
Thật ra, nội dung của dụ ngôn trước rõ ràng là lòng biết ơn (tình yêu, theo tiếng Semit) của hai con nợ là hậu quả của việc tha nợ, chứ không phải là nguyên nhân. Vậy, để hợp với dụ ngôn đó, câu kết của c.47 cần thiết phải trình bày lòng biết ơn của người đàn bà tội lỗi như là hậu quả của việc tha tội. Và phần thứ hai của câu này chứng minh rõ tư tưởng của CGS: “Nhưng ai được tha ít, yêu ít”.
Như để xác quyết những gì vừa nói bằng lối phủ định hay như phản chứng lại cách giải thích này, lời giải thích coi koti theo nghĩa nguyên nhân (causal) không làm cho dụ ngôn và lời áp dụng được ổn thỏa. Vì trong trường hợp này toàn thể câu chuyện được đưa về hai vế như sau: cũng như con nợ mắc nợ nhiều hơn tỏ ra biết ơn nhiều, cũng thế lòng biết ơn đặc biệt (hay tình yêu đặc biệt) của bà này làm cho bà ta được tha nhiều hơn. Hãy can đảm tuyên bố rằng: sửa đổi như thế là đi ngược lại luật chú giải của dụ ngôn. Người ta không tìm thấy một lỗi lầm theo kiểu này trong TƯ, cũng như trong văn chương rabbin, cũng như trong văn chương phàm tục.
Vậy chúng ta có thể giải quyết khó khăn thứ nhất của c.47 bằng cách chọn giữa hai nghĩa của từ hoti này, toàn câu chuyện được đưa về hai vế so sánh cổ điển sau:
Cũng như những con nợ không thể trả được chủ tha, bày tỏ một tình yêu và lòng biết ơn xứng hợp với số nợ được tha, con nợ mắc nhiều thì bày tỏ lòng biết ơn nhiều hơn.
Cũng thế, vì được tha cách đặc biệt, người đàn bà tội lỗi bày tỏ cùng CGS một lòng biết ơn và một tình yêu đặc biệt.
b/ Nhưng, than ôi ! nếu việc sửa đổi này làm cho c.47 phù hợp với văn mạch trước nó, tôi không thấy c.47 có thể phù hợp với văn mạch tiếp sau nó thế nào cả. Ít có tác giả thấy khó khăn trong việc dịch chữ hoti thành puisque. Ví dụ, BJ đã thấy rõ khó khăn của một hoti nguyên nhân và đã biết lướt thắng khó khăn này khi dịch hoti bằng puisque, biện minh cách dịch này bằng một ghi chú khá đầy đủ; nhưng tiếp đến, BJ không thấy được vấn đề gây ra sau này do việc dịch chữ hoti theo nghĩa hậu quả. Tôi xin giải thích.
Chúng ta hãy công nhận các cử chỉ đặc biệt của bà tội lỗi đối với CGS là những dấu hiệu của lòng biết ơn, hậu quả của ơn tha thứ chứ không là nguyên nhân. Nhưng bây giờ một khó khăn nẩy ra: việc tỏ lòng biết ơn này giả thiết người đàn bà tội lỗi biết đã được tha, khi bà có những cử chỉ biết ơn đối với CGS, nhưng làm sao bà ta có thể biết được trước khi CGS nói: “tội con được tha” ?
Để giải đáp khó khăn này (mà Lagrange đã nêu ra), không đủ khi trả lời, như P.Buzy, là “người đàn bà tội lỗi là mẫu mực của những người thống hối: lòng ăn năn của bà được thấm đầy sự thống hối hoàn hảo, và ta biết một lòng thống hối như thế vừa là một cử chỉ yêu thương và biết ơn vừa là một cử chỉ hối tiếc. Người đàn bà sấp mình dưới chân CGS, và Ngài đã không xua đuổi. Vì Ngài để cho bà làm, phải chăng bà đã được nhận lời và tha thứ ? Bà đã không đọc được sự tha thứ trong cái nhìn của Ngài, trong thái độ, trong lòng bao dung, trước khi đọc lời xá tội sao ? Vì thế, các động tác của bà biểu lộ lòng biết ơn và đồng thởi tiếp tục nài xin lời tha thứ chính thức (Les paraboles, Paris, beauchesne, 1932, trang 258-259). Đó là những chủ trương hoàn toàn vô căn cứ, đúng theo nghĩa thần học nhưng không phù hợp với trình thuật phúc âm. Không có gì trong bản văn của Lc, cho phép nghĩa người đàn bà đã cảm thấy được tha thứ trước khi nghe lời tha tội; và thật là đáng nghi ngờ khi tác giả phúc âm đã nghĩ đến học thuyết về lòng ăn năn tội cách trọn, chỉ xuất hiện trong thần học nhiều thế kỷ sau đó. Để giải quyết khó khăn này, người ta có thể tưởng tượng là, việc gặp gỡ giữa CGS và người đàn bà tội lỗi không phải là lần đầu, nhưng CGS đã nói trong một cơ hội khác là tội lỗi của bà đã được tha, và bây giờ người đàn bà tội lỗi ấy chỉ đến nhà người biệt phái để minh chứng lòng biết ơn bao la đối với CGS. Nhưng cách nghĩ như thế đặt ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết.
1/ Trước tiên nó hoàn toàn dựa trên những xác quyết vô căn cứ, hậu quả của tưởng tượng chứ không phải chú giải bản văn: vì không có gì trong bản văn cho phép ta nghĩ đến một cuộc gặp gỡ trước kia giữa CGS và người đàn bà tội lỗi.
2/ Nếu CGS đã nói cùng người đàn bà tội lỗi, trong lần gặp gỡ trước kia, là tội bà được tha, tại sao lại nói thêm một lần nữa. Vì bà bối rối và không tin đủ vào lần tha thứ nhất ? (như thế chúng ta rơi vào trong giả thuyết không thể bênh vực nổi, vì văn mạch của dụ ngôn, vì những dấu chỉ tình yêu không phải là dấu chỉ biết ơn vì đã được tha thứ); vì ích lợi của những người có mặt, cho mọi người biết Ngài có quyền tha tội ? (có thể được, nhưng ít hợp với cách thức làm việc của CGS). Nhưng dù có thể giải đáp thỏa đáng việc CGS đọc lời tha tội lần thứ hai thì khó khăn thứ nhất vẫn luôn tồn tại, vì phải giả thiết là CGS đã biết người đàn bà tội lỗi này.
Do đó vẫn còn khó khăn. Nên nhiều nhà chú giải cậy đến lối giải thích họ thích nhất đó là: có lẽ Lc dùng nhiều nguồn độc lập với nhau và không dung hòa chúng được. Một xác quyết như thế thường xảy ra trong văn chương chú giải. Nhưng bất lợi là giả thiết tác giả phúc âm thiếu thông minh. Nhưng một văn sĩ kỹ càng như Lc không thể xuất bản một bản văn không mấy thỏa mãn như thế. Tuy nhiên, đổ lỗi cho tác giả thì dễ hơn giải thích các chú giải của ông. Tôi không có chủ ý kết án Lc thiếu mạch lạc cho đến khi có lý do rõ ràng. Cho đến nay lịch sử chú giải những “thiếu mạch lạc” bề ngoài của các tác giả thánh kinh thường cho thấy là do sai lầm của các nhà chú giải hơn là do sự thiếu suy luận của tác giả được linh ứng... Trong trường hợp này, nên khôn ngoan chấp nhận văn bản của Lc hoàn toàn mạch lạc nhưng chính chúng ta chưa thành công trong việc khám phá ra sự mạch lạc này. Trong lúc chờ đợi đi đến một trực giác như thế, khách quan và danh dự của khoa học đòi chúng ta phải thú nhận: chúng ta chưa hiểu được.
Tuy nhiên, việc thú nhận sự bất lực đó không có nghĩa là nói: chúng ta không hiểu gì về bản văn này cả. Và dù không thấy tại sao c.48-50 có thể ăn khớp với các câu 36-47, nhưng các câu 36-47 tự chúng vẫn hàm chứa một giáo huấn hoàn toàn có giá trị. Thật vậy, dù có thể nói về tình trạng cụ thể - lịch sử của người đàn bà tội lỗi này, chắc rằng một ý thức trung thực về cái mà tình trạng tội lỗi và lòng tha thứ của TC tạo nên, đương nhiên gây ra nơi mọi người một phản ứng biết ơn sâu xa vì đã được tha thứ. Cũng đúng như thế, khi người biệt phái tự mãn, dễ dàng khám phá về tình trạng thiêng liêng của người khác và muốn tìm nơi TC lời kết án người tội lỗi, thái độ đó của người biệt phái mặc nhiên đã bị CGS khiển trách trong “ít tình yêu" của Simon. Cũng đúng như thế chính đức tin đã cứu rỗi (x.c.50) dù mới nhìn khó mà nhận ra nghĩa câu xác quyết của CGS trong đoạn này. Cuối cùng 3 câu của chương 8, kết thúc đoạn phụng vụ hôm nay, vẫn có giá trị huấn giáo, dù các câu 36-50 được giải thích cách nào đi nữa. Dù có nhiều khó khăn trong việc chú giải, trong phúc âm này vẫn còn nhiều yếu tố cần được khai triển trong việc suy ngắm, sách thiêng liêng và bài giảng ngày chúa nhật.
5. Mới đọc lần đầu, khó mà thấy câu nói của CGS “đức tin đã cứu con” ăn khớp thế nào với đoạn văn chúng ta đang nghiên cứu. Nhưng nếu suy nghĩ sâu xa hơn, chúng ta sẽ thấy ngay lời giải đáp.
Trong tất cả các đoạn văn riêng của Lc liên quan đến người biệt phái, Lc cho thấy CGS mời gọi họ khiêm nhượng và cố gắng cho họ hiểu là công bình theo luật của họ không phải là đích thật, không phải là tốt, và không thuộc về vương quốc của TC. Như dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu (10,29-37), dụ ngôn về người biệt phái và người thu thuế (18,9-14), các dụ ngôn thường được gọi là những dụ ngôn về lòng thương xót (15,1-32), đoạn về Giakêu (19,1-10), trình thuật về người đàn bà ngoại tình, trình thuật mà chú giải hiện nay ngày càng coi như là của Lc, mà đi lạc sang Gioan (Gio 8,1-11).
Trong tất cả những đoạn này, mục đích chính yếu của CGS là nhằm kết án và loại trừ khỏi vương quốc thái độ giả hình (l'attitude phatisaique). “Bởi vì họ không hiểu biết công chính TC và tìm cách thiết lập sự công chính riêng mình, nên họ đã không phục tùng sự công chính của TC” (Rm 10,3), như đã được Đấng Messia mang đến. Họ chỉ dựa vào công đức của họ, thay vì tìm ơn cứu rỗi trong đức tin vào đức Kitô, đấng cứu chuộc họ. Họ không thấy “cùng đích của lề luật, là Đức Kitô, nguồn công chính cho mọi kẻ tin” (Rm 10,4).
Nhưng phải lưu ý điều này, đây không phải là một tình yêu, hay một đức tin nào đó có giá trị ban tha thứ cho người đàn bà tội lỗi CGS không đứng đó như một nhân chứng thường, một luật sĩ nhắc lại những lề luật TC, hay hơn nữa một người được TC sai đến. Chính Ngài là đối tượng tình yêu của người đàn bà tội lỗi; chính Ngài mà người đàn bà đã tin; và chính niềm tin vào CGS đã cứu bà. “Ai có quyền tha tội, nếu không duy mình TC ?” (Mc 2,7; Lc 7,49). Khi gán cho mình một quyền như thế, CGS tỏ cho Simon và những người dự tiệc thấy trước mặt họ là một đấng cao trọng hơn người thường. Đức tin mà Ngài nhận ra nơi người đàn bà tội lỗi, nơi viên sĩ quan (7,9), đức tin mà Ngài thường đòi hỏi nơi những người đối diện với Ngài, đó là niềm tin, ít ra mặc nhiên, không những chỉ vào sứ mệnh và vai trò thiên sai của Ngài. Duy đức tin này là đức tin cứu rỗi. Vì “Ngài trở nên cho chúng ta khôn ngoan, công chính, thánh thiện và cứu rỗi, để như đã chép, ai tự khoe mình, thì hãy khoe mình trong Chúa” (1Co 1,30-31).
Người ta cũng thấy rằng về điểm này CGS có thể gán một đặc tính tôn giáo cho những cử chỉ, tình yêu mà người đàn bà tội lỗi có đối với Ngài. Người ta ngạc nhiên vì Simon đã không đối xử với Ngài cách thánh thiện theo phép lịch sự phương đông: ông đã không rửa chân hay sai người rửa chân cho Ngài, đã không hôn Ngài, đã không xức dầu trên đầu Ngài. Có phải những cử chỉ này chỉ dành riêng theo đúng phép lịch sự cho những người có địa vị ? trong trường hợp này, có lẽ có một sự tuyên xưng đức tin đích thật trong các cử chỉ của người đàn bà: đối với bà, CGS là Chúa, là đấng toàn năng, tác giả sự sống, Đấng ban ơn tha thứ và chữa lành với một uy quyền cao cả. Ngược lại, không phải là vì thiếu lưu tâm mà người biệt phái mắc tội, nhưng là vì thiếu đức tin. Cũng như người biệt phái khác, ông không thể nhận ra CGS là đấng Messia mà ông đợi trông.
Vậy, bài học chính yếu rút ra từ trình thuật này xem ra rõ ràng là không nên tìm ơn cứu rỗi trong sự “công chính” do mình tự tạo, nhờ việc tuân giữ và vâng lời lề luật, nhưng trong ân sủng nhận được từ TC nhờ đức tin vào Đức Kitô.
KẾT LUẬN
Đây chính là chuyện thiêng liêng của chúng ta được ghi lại trong câu chuyện của người biệt phái và của người đàn bà tội lỗi. Trước mặt Đức Kitô, mỗi người chúng ta là kẻ tội lỗi. Đối với câu hỏi của người biệt pahí: “Nếu người này là vị tiên tri, hẳn biết người đàn bà đang đụng đến ông là ai: là một người tội lỗi”, giờ đây chúng ta có câu trả lời. CGS biết chúng ta là những tội nhân và chính vì thế mà Ngài đến với chúng ta vì Ngài là “bạn của những kẻ tội lỗi”.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. CGS tự giới thiệu là “bạn hữu của tội nhân”. Chính khi thú nhận cách khiêm cung tội lỗi, như người đàn bà trong phúc âm mà chúng ta vui sướng nghe nói: “Tội con được tha”. Việc nhận biết tội lỗi phải làm chúng ta hết lòng đa tạ ơn tha thứ đã lãnh nhận.
2. Đến lãnh bí tích cáo giải, là “tuyên xưng”, nghĩa là “cao rao” TC thật là cao trọng trong tình thương người ban cho chúng ta, công bố Tin mừng cứu rỗi trong Đức Giêsu Kitô. Đó không phải là lời chúc lành mà linh mục ban cho phó tế trước khi rao đọc phúc âm và cho hối nhân trước khi họ xưng thú tội lỗi đó sao ? Trong cả hai trường hợp, đều nói đến cùng một Tin mừng cánh chung: ơn cứu rỗi và tha thứ được trao ban cho mọi người nghèo khó và tội lỗi. Đối với hối nhân họ được Tin mừng đặc biệt này là: ơn tha thứ của CGS đã đạt đến với họ cách thân tình cá nhân.
3. “Ai được tha ít, yêu ít”. Vậy cần phải phạm tội nhiều để được tha nhiều và yêu nhiều sao ? Ở đây, hãy nghĩ đến thư gởi Rôma, trong đó một giả thiết tương tự đã bị chê là dại: “Nên ta phải nói sao ? Cứ đầm đìa trong tội lỗi rồi ân phúc được gia tăng chăng ? Đâu có !” (Rm 6,1). Thật ra đối với TC, không thể nói TC “tha ít”. Ngay cả những vị thánh lớn (trừ Maria), TC tha nhiều, vì một lỗi lầm nhỏ nhặt đến đâu đã phạm đến tình yêu vô biên luôn là một lỗi cần TC “tha thứ nhiều”. Chỉ có những ai thôi nhìn đến mình và những công việc cá nhân của mình, đã có lần tiến đến tình yêu vô biên với tâm hồn ngay thẳng, mới ý thức được lòng nhân từ bao la của TC đối với họ. Duy chỉ có các thánh mới nhận biết đích thật tội và ơn tha thứ của TC là gì. Vậy chỉ có những người biệt phái và những ai giống họ mới tưởng TC có ít điều để tha cho họ. Nghĩ như thế là không thấy được lòng nhân từ bao la của TC đối với họ (họ quá bận trí lo tính toán các công nghiệp của họ), họ ít hiểu biết ơn TC. Để yêu nhiều hơn theo nghĩa của bài phúc âm này không phải là phạm tội nhiều hơn (điều này hoàn toàn đi ngược lại với giáo huấn của CGS), nhưng phải ý thức hơn tội lỗi ta lớn lao chừng nào luôn nhớ đến những hồng ân ta lãnh nhận từ khi còn thơ ấu, lòng nhẫn nại của TC đối với chúng ta; lỗi lầm lớn nhất của người biệt phái là quên những điều đó và quên rằng, dù cố gắng giữ lề luật, ông vẫn là người cần Tc tha nhiều - và như thế đáng ra ông phải có cùng một tâm tình như người đàn bà tội lỗi, thay vì kết án và tự cho mình là người “công chính”.
4. Khi bị cám dỗ bắt chước người biệt phái và nghiêm khắc phê phán tha nhân, chúng ta hãy dừng lại một chút để tự hỏi TC đã chẳng tha thứ nhiều cho chúng ta sao và càng ý thức mình là người được tha thứ, chúng ta càng ít có cám dỗ nhìn người khác cách khinh bỉ và coi họ như những “kẻ tội lỗi”.
5. Cách tốt nhất để Đức Kitô thấy rõ lòng biết ơn của chúng ta, một Đức Kitô đã trở nên bạn hữu của những người tội lỗi, là những người mà Ngài đã giải thoát nhiều lần khỏi ma quỉ nhờ phép xá giải, đó là bắt chước những người phụ nữ chuyên tâm đi theo CGS, phục vụ Ngài trong anh em chúng ta. “Điều gì các con làm cho kẻ bé mọn nhất trong các con là làm cho chính ta” (Mt 25,40). Những người thánh thiện này đã hiểu rõ: cách tốt nhất để tỏ lòng biết ơn Chúa đã tha thứ và ban nhiều ơn lành cho chúng ta là hiến mình phục vụ tha nhân.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm 2 đoạn và đều nói tới phụ nữ: 1. Chuyện người đàn bà tội lỗi lau: TN 11-C2
Bài Tin Mừng hôm nay gồm 2 đoạn và đều nói tới phụ nữ:
1. Chuyện người đàn bà tội lỗi lau chân Chúa Giêsu (7,36-50):
- Nàng là một người tội lỗi nổi tiếng, “trong thành ai cũng biết”
- Nàng bày tỏ lòng sám hối rất công khai: a/ trong một bữa tiệc, trước mặt nhiều người ; b/ không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương) ; c/ quỳ gối dưới chân Chúa Giêsu, khóc nức nở, xổ tóc ra (một cử chỉ có thể bị kết án là tự làm ô nhục), lấy tóc lau chân Chúa.
Câu nói của Chúa Giêsu có thể dùng tóm lược chính xác câu chuyện đời nàng: “tội nàng nhiều nhưng được tha hết vì nàng yêu mến nhiều”
2. Bảng tóm lược những người đi theo Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng: những người này gồm có Nhóm 12 và cả các phụ nữ, trong số đó có người đã từng bị tà thần khống chế, có người bình dân và người quyền quý. Các bà giúp Ngài bằng công sức và bằng của cải nữa.
B.... nẩy mầm.
1. Cô gái trong chuyện đầu dạy tôi nhiều điều về sự sám hối:
- sám hối không phải chỉ là một tâm tình kín đáo che dấu bên trong không cho ai biết. Đôi khi, nếu cần, cũng phải bày tỏ ra bên ngoài.
- khi bày tỏ, không nên ngại xấu hổ, sợ dư luận, sợ tốn kém… những xấu hổ, dư luận và tốn kém ấy cũng là cách tôi phải chịu đề đền tội.
2. Có thể nói “nhờ” phạm nhiều tội lỗi, nên nàng đã yêu mến Chúa nhiều, đã sám hối chân thành và được tha thứ nhiều. Phụng vụ gọi đây là “tội hồng phúc” (felix culpa).
Xin cho ý thức rằng những tội của con là động cơ khiến con càng yêu mến Chúa nhiều hơn.
3. Nàng được tha nhiều nên sau đó nàng càng yêu mến Chúa nhiều hơn. Ước gì đây cũng là tâm tình của tôi mỗi khi tôi lãnh nhận ơn tha thứ qua bí tích hòa giải.
Yêu nhiều thì được tha nhiều: Yêu là nguyên nhân của tha thứ ; được tha nhiều thì càng yêu nhiều: yêu là kết quả của tha thứ.
4. Chuyện này cho tôi thấy được sự liên hệ kỳ diệu giữa tội lỗi / tình yêu / và tha thứ. Tôi là xấu nhưng trở thành tốt khi được đặt trong liên hệ kỳ diệu ấy.
5. “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47)
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ và cũng là cho tôi một kỷ niệm là Thập giá Tình yêu. Vâng, chính Thập giá của Đức Kitô đã xóa muôn vàn tội lỗi của tôi và của bạn, và mở ra cho một cuộc sống mới, cuộc sống Phục sinh.
Hình ảnh người phụ nữ tội lỗi được Chúa tha thứ hết nhắc nhở tôi rằng: Thiên Chúa không chỉ có Tình yêu mà Ngài là Tình yêu.
Càng sống yêu thương, tôi càng dễ nhận ra Chúa hiện diện trong tôi. Những lúc từ chối tình yêu, tâm hồn tôi trở nên trống vắng và cô đơn, tôi trở nên ích kỷ, xa rời Thiên Chúa và mọi người.
Lạy Chúa tình yêu, xin cho con không chỉ biết khóc lóc ăn năn tội lỗi của mình, mà còn biết bù đắp lại bằng chính tình yêu của con. (Hosanna)
6. Chúa Giêsu đang rảo khắp nơi loan báo Tin Mừng. Tin Mừng Ngài loan báo là sự giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ. Nguyên việc có một số phụ nữ được đi theo chia sẻ sứ mạng của Ngài cũng là một dấu chỉ của Tin Mừng giải phóng ấy, vì thời đó người ta coi khinh phụ nữ, không cho phụ nữ tham gia những sinh hoạt công khai ngoài xã hội.
Ta hãy học cùng Chúa lòng tôn trọng mọi người không phân biệt nam nữ, lớn bé, giàu nghèo v.v.
7. Chúa muốn chia sẻ sứ mạng loan Tin Mừng cho hết mọi người, trong đó có cả phụ nữ là hạng bị thời đó coi khinh, trong đó có cả tôi.
8. Nam và nữ, mỗi phái đều có những sự phong phú riêng để đóng góp vào việc xây dựng xã hội và Giáo Hội. Sự phong phú đặc biệt của phái nữ là tình yêu, sự dịu dàng, kiên nhẫn, bao dung….
9. Thầy giáo giải thích cho cả lớp nghe về việc Chúa dựng nên Ađam Evà. Tuần sau, thầy gọi học sinh trả bài. Một chú bé đứng lên tả việc Chúa dựng nên Ađam. Rồi một cô bé tiếp: “Chúa dựng nên Ađam xong, Ngài đứng ngắm và phán: ‘Ta sẽ làm đẹp hơn’, và Ngài dựng nên Evà.”
10. “Cùng đi với Chúa Giêsu, có mấy người phụ nữ là các bà Maria Mác-đa-la người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioan-na, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,2-3)
Thế giới này không chỉ được xây dựng bởi phái nam mà có cả bàn tay của phái nữ nữa. Dù là nam hay nữ, tôi cũng được Thiên Chúa tạo nên và cho vinh dự góp phần làm nên hạnh phúc của mình. Tôi phải là cánh tay nối dài của Chúa, đem Lời Chúa thấm nhuần mọi lãnh vực. Không chỉ là người nam mới làm nên chuyện, mà người nữ hôm nay cũng đã có mặt trong hầu hết mọi lãnh vực xã hội.
Ước gì các chị em biết phát huy cá tính, biết lấy sự êm ái dịu dàng để xây dựng bình an, biết tha thứ để tạo nên an hòa, biết cảm thông và chia sẻ với mọi người, biết sống âm thầm thanh đạm để cứu vớt bao linh hồn. Hãy tô đẹp cuộc đời bằng vẻ đẹp dịu hiền và làm vẻ vang cho thiên chức làm mẹ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết góp phần xây dựng Nước Chúa ở trần gian này. (Hosanna)
Lu-ca viết Phúc Âm của phụ nữ. Chỉ có mình ông ghi lại những việc xảy ra cho cuộc đời của: TN 11-C3
Lu-ca viết Phúc Âm của phụ nữ. Chỉ có mình ông ghi lại những việc xảy ra cho cuộc đời của bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a, cụ bà An-na liên quan đến thời thơ ấu của Đức Giê-su. chỉ có ông kể lại câu chuyện bà góa Na-in được Chúa cứu người con trai sống lại, chuyện người đàn bà khòm lưng dưới ách ma quỷ đã được Chúa giải cứu, chuyện nữ tội nhân xức dầu chân Chúa, chuyện người đàn bà chúc mừng Mẹ Chúa, quang cảnh gia đình chị em Má-ta và Ma-ri-a, và chuyện những người đàn bà thương khóc Ngài trên đường nói Sọ. Và có lẽ, ý nghĩa hơn hết là câu Lu-ca nói về Chúa Giê-su lúc Ngài và các môn đệ đi quanh vùng Ga-li-lê để rao giảng Tin Mừng thì có một toán phụ nữ đi theo, những người này lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.
Cửa nhà hội từ nay không còn mở ra cho Ngài như trước nữa. có thể nói, Ngài đã bắt đầu trong Giáo Hội, là nơi lẽ ra có đông dân chúng sẵn lòng hưởng ứng và tiếp nhận những sứ giả của Ngài. nhưng thay vì được hoan nghênh Ngài đã bị chống đối, thay vì thính giả lắng nghe, Ngài đã gặp các thày dạy luật và các đạo sĩ Do-thái là những kẻ chỉ rình mò và bắt bớ Ngài trong lời nói cũng như việc làm. Vì thế, Ngài ra ngoài, giảng dạy trên đường, nơi sườn đồi hay trên bờ hồ.
Đoạn Kinh Thánh này nói đến một nhóm phụ nữ phục vụ Chúa bằng của cải của họ. Việc nâng đỡ một ra-bi bao giờ cũng được coi là một việc đạo đức, cho nên những tín hữu sốt sắng của Chúa Giê-su giúp đỡ Ngài theo cảnh đó là việc phù hợp với thói thường. Nhưng đối với số phụ nữ này, cũng như đối với các môn đệ, chúng ta nhận thấy đó là một nhóm người pha trộn rất kỳ lạ.
Có Ma-ri-a Mác-da-la, là người đã được Chúa trừ khỏi bảy quỷ dữ. Rõ ràng nàng đã có một cuộc đời tối tăm, ghê rợn. Lại có bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da, quan nội vụ của vua Hê-rô-đê. Một vị vua thì có nhiều lợi lộc và tài sản, quan nội vụ là người quản lý các vấn đề tài chánh của nhà vua. Trong đế quốc La-mã, dù trong các tỉnh dưới quyền cai trị của tổng trấn do Thượng viện cắt đặt, thì hoàng đế cũng đặt các quan nội vụ riêng để coi sóc tài sản của mình. Vì vậy, không có vị quan nào quan trọng hơn và được tín nhiệm hơn là quan nội vụ. Thật là điều lạ lùng khi thấy Ma-ri-a Mác-da-la với một dĩ vãng không mấy sáng sủa và bà Gio-an-na một mệnh phụ phu nhân của triều đình ở chung một nhóm với nhau. Chúng ta không biết nhiều về các bà này, ngoại trừ một điều quan trọng, ấy là động cơ thúc đẩy họ phụng sự Chúa là lòng biết ơn, họ là những người được Chúa trừ tà và chữa bệnh cho. Đó là quyền năng tuyệt đối của Chúa Giê-su khiến những người khác biệt nhau có thể sống chung với nhau. Không có gì cần thiết cho Hội Thánh hơn là tìm cách cho những người khác tính nhau có thể gánh chung ách với nhau. Nếu chúng ta thất bại, thì đó là lỗi của chúng ta, vì trong Chúa Giê-su, điều đó có thể làm được và điều đó đã làm rồi.
Câu này của Lu-ca ngắn ngủi nhưng rất có ý nghĩa ; nó hé mở cho ta một tia sáng để trả lời một câu hỏi tò mò mà ta không tìm thấy câu giải đáp nào trong các sách Tin Mừng. Trong những ngày đi truyền đạo, Đức Giê-su và các môn đệ đi theo Ngài sống nhờ nguồn tài chánh nào ? Hẳn nhiên những kẻ đã nhận nơi Ngài sự cứu giúp thuộc linh, rất sung sướng được cung ứng cho Ngài những nhu cầu tạm thời và phục vụ cho Ngài khi cần thiết. Đây là những phụ nữ có những sự giúp đỡ rất thực tiễn. Là đàn bà, họ không được phép giảng dạy, nhưng họ cung cấp những thứ họ có.
Có một anh thợ giày kia đã có một thời chàng mơ ước được làm linh mục, nhưng con đường dẫn tới đó không bao giờ mở ra cho anh. Anh là bạn thân của một chủng sinh thần học. Khi thấy bạn mình được tiến chức linh mục, anh xin cho mình một đặc ân là thường xuyên đóng giày cho linh mục bạn, để anh có cảm giác vị linh mục đang mang giày của ông nơi thi hành chức vụ là nơi chính anh đã không bao giờ đạt tới.
Ai có thể ước lượng được những góp phần và hy sinh mà nữ giới trải qua các thời đại đã đóng góp vào việc truyền bá Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Không phải những người xuất đầu lộ diện bao giờ cũng là kẻ làm việc lớn nhất. Không có ân tứ nào mà lại không ích lợi cho việc phục vụ Chúa. Nhiều đầy tớ lớn của Chúa vẫn ở hậu trường không ai thấy, nhưng họ rất cần thiết cho công việc của Ngài.
Người chồng trang trí căn phòng mới của ông và quyết định biến nó thành một nơi trưng bày các phần thưởng, những thành tích mà ông và hai người con trai của ông chiếm được trong các cuộc tranh tài thể thao. Khi ông trang trí đầy ắp hai bức tường trong phòng, ông lưu ý vợ ông rằng: "Bà không có gì để trưng bày sao ! Thật là xấu hổ !"
Ngày hôm sau, người vợ cho sao lại giấy khai sinh của hai đứa con của họ, đóng khung đàng hoàng và treo lên bức tường trang trí của người chồng.
"Hưởng ánh sáng của ngọn đèn, bạn đừng quên cám ơn người cầm chiếc đèn đang đứng trong bóng tối." (Tagore)
Qua các trình thuật các chị phụ nữ xức dầu cho Chúa, ta ghi nhận lại được các điểm giáo huấn: TN 11-C4
Qua các trình thuật các chị phụ nữ xức dầu cho Chúa, ta ghi nhận lại được các điểm giáo huấn sau đây:
1/ Mọi người khi đối diện với Chúa đều thấy mình có tội:
a, Bài đọc 1: Vua Đavít dù được gọi là "Cha Đấng Cứu Thế" (Mc 12,35) thế mà đời sống ông: đã có hành động thật bỉ ổi:
Ngoại tình với vợ của Uria. Mưu kế giết ông Uria để cướp vợ ông.
Tội Đavít tày trời mà không biết sám hối, lại còn thịnh nộ đòi lấy mạng của ông cướp chiên của đầy tớ nghèo làm thịt đãi khách.
Nhờ Chúa sai tiên tri Nata đến cảnh cáo, ông mới sám hối.
b, Bài đọc 2: Phao lô tự mãn mình là một biệt phái giữ luật Chúa nghiêm túc, nên đã giết người vô tội theo Chúa Giêsu.
c, Tin Mừng: Chị phụ nữ gặp Chúa ăn tiệc tại nhà ông biệt phái, chị tự nhận mình là kẻ tội lỗi nên đã khóc nức nở vì biết mình phạm tội xúc phạm đến Chúa !
Tiếc là ông biệt phái mời Chúa dùng bữa, mà lại không thi hành tập tục Do Thái: Không lấy nước rửa chân Chúa cũng không xức dầu và hôn chào Chúa. Như vậy, ông đã vô lễ với vị thượng khách, vì ông biết Đức Giêsu là vị ngôn sứ! Vậy mà ông không sám hối lại đi kết án người phụ nữ đã làm thế cho ông, thái độ phản đối Chúa của ông đã tiên báo giới biệt phái như ông đang tìm cớ để giết vị ngôn sứ đến giảng dạy cho ông!
Vậy 04 loại người có tội được nhắc đến trong phục vụ Chúa Nhật này, chỉ ông biệt phái là tội nặng nhất, vì ông thua hẳn chị phụ nữ tội lỗi trong Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu so sánh:
BIỆT PHÁI
1. Ông không có một giọt nước rửa chân tôi! 2. Ông không cho tôi miếng vải để lau chân! 3. Ông không đặt lên trán tôi nụ hôn! 4. Ông không xức dầu thơn lên đầu tôi dù chỉ một giọt!
PHỤ NỮ TỘI LỖI
1. Lấy nước mắt rửa chân tôi! 2. Chị đã lấy tóc mình mà lau chân tôi! 3. Chị này từ lúc gặp tôi đã không ngớt hôn chân tôi! 4. Chị này đã dùng cả bình dầu đổ vào chân tôi!
Thế mà ông còn chê trách chị phụ nữa đã làm thay cho ông, và nhất là ông còn kết án vị thượng khách đã đến nhà ông dùng bữa chung đụng với kẻ tội lỗi, như một dịp để bắt lỗi tìm cách giết Chúa, chứ không phải vì ngưỡng mộ Ngài?
2/ AI SÁM HỐI TỘI MÌNH, HÃY XÂY NHÀ CHO CHÚA NGỰ:
Nhà Chúa thích ngự đó chính là tâm hồn con người. Do đó:
Hành động tốt lành của Đavít muốn bày tỏ với Chúa để xứng với lòng hối cải của ông (xem Mt 3,8). Ông quyết định xây Đền thờ Giêrusalem để đặt 02 bia đá ghi Lời Chúa. Điều ấy tốt, nhưng Chúa muốn để đời con ông xây. Còn ông, hãy củng cố làng dân sống đẹp lòng Chúa trước đã. Đó mới chính là Đền thờ Chúa ưa thích nhất!
Phaolô từ khi biết mình được trở nên công chính, không phải do việc ông thi hành lề luật, mà do lòng thương xót của Chúa cứu ông, Phaolô cho rằng, nếu chỉ vì cứu một mình ông, Con Thiên Chúa cũng bằng lòng, cho dù phải mất mạng! (xem Gal 2,20b). Ông được Chúa ở với đến nỗi ông cảm thấy như Chúa với ông là một (Gal 2,20).
Phaolô cảm nghiệm được niềm vui ơn cứu độ Chúa ban cho, từ lúc Ngài chộp được ông (xem Pl 3,12). Phaolô đã hết lòng với sứ mạng rao giảng Tin Mừng và ông đã "đặt tay" trên nhiều người (xem Cv 19,5-6), để họ trở nên Đền thờ Thiên Chúa đích thực (xem 1 Cr 3,16).
Chị phụ nữa đã tốn một số tiền không nhỏ để đổ dầu và chân Chúa, đã được Chúa Giêsu xác nhận: "Chị làm thế để chỉ ngày mai táng Ta".
Không phải Chúa thích ngửi mùi dầu thơm khi Ngài nằm ở trong mồ. Nhưng Ngài cần những con người biết sử dụng tiền của vào việc xây dựng Đền thờ tâm hồn, nơi Ngài ngự qua Bí Tích Thánh tẩy, mà Thánh Phaolô gọi là "Mai táng Chúa trong lòng người tín hữu" (xem Rm 6,4).
Vậy tôi nói mình có tội, được Chúa thương cứu chuộc, tôi đã phải tốn bao nhiên tiền để "mai táng Chúa vào lòng người?"
Câu chuyện về chàng trai phung phá chỉ là một hình ảnh, còn câu chuyện về Mađalêna chúng: TN 11-C5
Câu chuyện về chàng trai phung phá chỉ là một hình ảnh, còn câu chuyện về Mađalêna chúng ta vừa nghe lại là một sự thật.
Giữa hình ảnh và thực tại có những điểm thật giống nhau. Chàng trai đã sống những ngày tháng phóng đãng để rồi cuối cùng phải đi chăn heo. Còn Mađalêna cũng đã chạy theo những vui thú, nhận chìm tâm hồn trong bùn nhơ tội lỗi đến nỗi mọi người trong thành đều hay biết, để cuối cùng nàng bị lương tâm dày vò cắn rứt.
Chàng trai đã quyết định chỗi dậy trở về nhà cha và đã được cha già tiếp đón nồng hậu và tha thứ hết mọi lỗi phạm của chàng. Còn Mađalêna, nàng cũng đã quyết tâm tìm gặp Chúa Giêsu, thú nhận mọi tội lỗi của mình và sau cùng nàng cũng đã được tha thứ như lời Chúa đã phán:
- Tội của nàng tuy nhiều nhưng đã được tha thứ hết, bởi vì nàng đã yêu mến nhiều.
Trước lòng nhân từ của người cha, đứa anh đã lên tiếng phản đối. Cũng vậy, trước tình thương của Chúa Giêsu, bọn Biệt phái đã lên tiếng chỉ trích.
Vậy Chúa Giêsu đã giải đáp, đã cắt nghĩa như thế nào ? Câu chuyện của thực tại cuộc sống đã xảy ra như sau: Hôm đó ông Simong, người Biệt phái đã mời Chúa Giêsu dùng bữa tại nhà mình. Đang khi dùng bữa, thì Mađalêna, một người đàn bà tội lỗi mà mọi người trong thành đều biết tiếng bước vào. Nàng mang theo một bình thuốc thơm. Đến trước mặt Chúa Giêsu, nàng quì gối, khóc lóc cho quãng đời dĩ vãng của mình, rồi đổ thuốc thơm xức dầu vào chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau.
Trước cảnh tượng bất ngờ ấy, ông Biệt phái thầm nghĩ:
- Nếu người này là một vị tiên tri hẳn phải biết con mẹ đàn bà đụng đến mình là ai, nó chỉ là một kẻ tội lỗi.
Thấu suốt được những ý nghĩ ấy, Chúa Giêsu đã nói với ông Biệt phái:
- Có hai con nợ, một mắc nợ nhiều còn một mắc nợ ít, vì cả hai không có gì để trả nên chủ đã tha cho hết. Vậy thì ai trong hai sẽ yêu mến chủ nhiều hơn.
Ông Biệt phái trả lời:
- Dĩ nhiên là người đã được tha nhiều.
Chúa Giêsu nói:
- Ông xét đoán đúng lắm. Ông có nhìn thấy người đàn bà này không. Tôi vào nhà ông mà ông chẳng đổ nước rửa chân cho tôi, còn nàng, nàng đã dùng nước mắt mà thấm ướt chân tôi rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng xức dầu thơm trên đầu tôi, còn nàng không ngừng xức thuốc thơm cho chân tôi. Vì thế, tôi nói với ông rằng: tội nàng tuy nhiều nhưng đã được tha thứ hết bởi vì nàng đã yêu mến nhiều.
Một chi tiết nhỏ đáng để chúng ta suy nghĩ, đó là suốt cả câu chuyện, Mađalêna đã không nói một lời. Nàng yên lặng và nhỏ những giọt nước mắt. Đây là những giọt nước mắt của lòng mến chân thành, của tâm tình sám hối ăn năn. Những giọt nước mắt này có sức hồi sinh và đem lại sự sống cho tâm hồn, bởi vì nó tẩy rửa được những vết nhơ của tội lỗi.
Với chúng ta cũng vậy, mỗi khi trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta cũng hãy biết nhỏ những giọt nước mắt là tâm tình sám hối ăn năn để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được Chúa tha thứ. Bởi vì, như lời Thánh vịnh đã nói:
- Chúa không bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung.
Thánh Phanxicô Salêsiô giám mục có người giúp việc bê tha rượu chè. Một đêm kia, anh ta say: TN 11-C6
Thánh Phanxicô Salêsiô giám mục có người giúp việc bê tha rượu chè. Một đêm kia, anh ta say mèm. Mọi người trong nhà đã ngủ hết, chỉ còn một mình thánh nhân thức khuya đọc sách. Chính người đã dìu anh về giường và lấy mền đắp cho anh, rồi sáng hôm sau mới nói cho anh biết lỗi.
Thánh nhân nói: “Giả sử lúc anh đang say, sẩy chân ngã xuống giếng thì sao? Hoặc lỡ bị gió độc mà chết thì sẽ thế nào? Linh hồn ở đâu bây giờ?”. Nghe vậy, anh ta hối hận, xin tha thứ và trước mặt người, anh xin cam đoan sẽ không còn uống một giọt rượu nào nữa. Nhưng người bảo anh: “Đừng chừa vội quá như thế!”.
Từ đó, anh ta xin nhận thánh nhân làm cha giải tội riêng cho mình và dần dần, đã biết chừa hẳn tội cũ, sống rất đạo hạnh tử tế.
-------------------
“Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47). Người phụ nữ tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay không khác chi người giúp việc nát rượu của thánh Phanxicô trong câu chuyện trên đây. Họ đều là những người yếu đuối lầm lỡ trong tội, nhưng đã được Đức Giêsu cũng như thánh Phanxicô bao dung tha thứ, nên họ đã mau mắn đáp lại tình yêu, để rồi cuộc đời của họ bắt đầu từ nay được đổi mới.
Medaleine Danielou đã viết: “Tha thứ thật sự là hành động thần linh mà chúng ta chỉ học được từ nơi Thiên Chúa”. Vâng, có thể nói: “Lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope). Nhưng người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn tha thứ khi đã có lòng tin: tin nơi Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, tin rằng Người sẵn sàng tha thứ và sẽ còn tha thứ mãi. Chúa phán: “Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an” (Lc 7,50). Chính lòng tin đã đem lại ơn tha thứ, và ơn tha thứ đã làm đổi mới tội nhân, để họ mãi bước đi trong bình an.
Tuy nhiên, tình yêu và lòng tin của chúng ta cần phải được biểu lộ cách cụ thể qua lòng sám hối, vì sám hối tức là nhận mình có lầm lỗi, và chỉ có những ai nhận mình lầm lỗi mới được Thiên Chúa thứ tha. Vì thế mà Thomas Carlyle đã nói một câu bất hủ: “Không nhận ra lầm lỗi là lỗi lớn nhất trong mọi lỗi lầm”. Quả thật, nếu ai cho mình không có tội thì đâu cần Thiên Chúa thứ tha. Nhưng Thánh Gioan lại nói rằng: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8)
Lạy Chúa, sa ngã trong tội là bản chất của con người, nhưng ở lại trong tội lại là quỷ sứ.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình, và mau mắn chân thành sám hối, để được Chúa tha thứ và ban cho ơn bình an. Amen.
Những nhà nghiên cứu Kinh Thánh nhận diện người đàn bà tội lỗi nói đến trong đoạn Phúc: TN 11-C7
Những nhà nghiên cứu Kinh Thánh nhận diện người đàn bà tội lỗi nói đến trong đoạn Phúc Âm hôm nay là Maria người xứ Magđala, hoặc Maria người xứ Bêtania, hay một phụ nữ nào đó tên tuổi không thấy ghi lại. Ở đây chi tiết đó không đáng kể. Bài tường thuật đúng là một trang tuyệt bút, đáng cho người ta không dám phụ thêm chú giải. Chúng ta hãy theo mấy gợi ý của bản văn để suy niệm.
1) Đức Giêsu đặt con người –như người đàn bà tội lỗi hay Simon, người biệt phái chẳng hạn- vào vị trí đối diện với Thiên Chúa, chứ không đối diện với xã hội. Simon người biệt phái thuộc giới trưởng giả Do thái. Giới này có lý để coi trọng sự tuân thủ Lề Luật, nhưng họ bị cám dỗ trở nên cực đoan, khai trừ những kẻ nào (kể cả đàn bà) không theo những nghi thức, không giữ những cấm kỵ, tóm lại không sống như họ. Giới ấy có lý khi đề cao giới luật, nhưng vô lý khi trục xuất kẻ có tội. Đức Giêsu can thiệp, đặt kẻ ‘công chính’ chung với kẻ tội lỗi cùng một chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa. Lúc đó viễn ảnh hiện ra rất rõ. Kẻ công chính phải dung hòa sự tuân thủ giới luật với lòng thương yêu tha nhân, bởi lẽ giới luật được Thiên Chúa ban hành vì thương yêu nhân loại – kẻ có tội có lý để tin vào tình yêu đại lượng tha thứ, nhưng tình yêu ấy nhắc nhở phải tuân giữ giới luật. Tưởng tượng rằng người phụ nữ tội lỗi được tha thứ vô điều kiện, không bị cảnh cáo phải trở lại trật tự, một trật tự của tình yêu đem bình an cho tâm hồn – nghĩ như vậy là theo chủ thuyết lãng mạn xấu. Đức Giêsu tha tội, nghĩa là cho người ấy đi vào sự bình an của một đời sống được thanh tẩy, được sắp đặt lại. Bình an ở đây không phải là thứ yên ổn bé nhỏ của một trật tự xã hội nào đó, dù cho là của giới trưởng giả, bình an là hệ quả một sự tổ chức lại nếp sống trước mặt Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, con người phô bày rõ chân tướng tốt xấu, không thêm không bớt.
2) Đức Giêsu nhắc nhở rằng giới luật chỉ có giá trị nếu được người ta coi là lệnh truyền phải tuân theo, là biểu hiệu sống động của một Ý Muốn hay thương. Giới luật Thiên Chúa là gì? Thiên Chúa muốn cho chúng ta thành đạt, chính Người chỉ vẽ cho chúng ta phương pháp thành đạt. Giới luật Thiên Chúa biểu hiện cho tình yêu của Người. Không hề tỏ uy quyền với con cái là không thương yêu chúng. Thiên Chúa thương yêu chúng ta, cho nên Người tỏ uy quyền lẫn tình thương, vừa ân vừa uy, chúng ta gọi những lời răn bảo vì thương yêu của Thiên Chúa là giới luật. Giới luật tôn trọng quyền tự do của chúng ta, lại vừa giúp chúng ta phát huy bản thể, dẫn chúng ta đi vào con đường hạnh phúc. Nếu chúng ta quên mất khối lượng tình yêu sống động hàm chứa trong giới luật, giới luật sẽ trở nên vô nghĩa lý.
3) Đức Giêsu vượt lên trên danh hiệu ‘cách mạng’ hoặc ‘bảo thủ’, Chúa làm cho con người lại có được giá trị. Một số người có xu hướng muốn kéo những điều gì vượt khỏi họ xuống tầm cỡ thấp kém của họ. Họ muốn thu hẹp sứ mạng Đức Giêsu vào phạm vi xã hội học, muốn xem Chúa như một người làm cách mạng hoặc một người bảo thủ. Thật ra, Chúa đặt quan hệ nhân bản giữa Chúa và người đàn bà tội lỗi hoặc người biệt phái Simon, Chúa đưa họ lên ngang tầm quan hệ thần thánh giữa Người và Thiên Chúa. Xử sự lịch thiệp khi nhận lời mời của người biệt phái, tỏ lòng từ bi đại lượng khi nhận bình dầu thơm của người đàn bà ăn năn sám hối, tại sao vậy? Chúa làm thế để mặc khải cho hai người ấy bằng những lời nói khác nhau rằng, bên trên cuộc đời họ có một tình thương. Tình yêu thương của Thiên Chúa trên mỗi con người làm tăng giá trị bản thể người ấy, biến đổi thành một con người được thánh hóa phải được tôn trọng.
Không gì đè nặng trên một tâm hồn cho bằng tội lỗi. Và không gì an ủi cho bằng lời của tiên: TN 11-C8
Không gì đè nặng trên một tâm hồn cho bằng tội lỗi. Và không gì an ủi cho bằng lời của tiên tri Nathan, trong bài đọc I, nói cùng Đavít: “Thiên Chúa đã tha tội cho ngươi”.
Vua Đavít phạm tội ngoại tình và để ém nhẹm và phi tang đã nhúng tay vào máu, cướp vợ người ta. Tưởng thế là xong, ai ngờ Chúa gửi tiên tri Nathan đến, kể cho ông nghe câu chuyện một người giàu có cướp con chiên, gia sản của một người nghèo khó. Đavít nổi giận đòi trừng phạt con người bất lương. Tiên tri nói: “Người bất lương đó chính là ông”. Đavít đã cúi đầu thú nhận tội lỗi, nhận lãnh việc đền tội. Thánh Vịnh Miserere 50 ngàn đời còn vang vang như tiếng nức nở của một tâm hồn thống hối ăn năn thì câu nói của tiên tri Nathan: “Thiên Chúa tha tội cho ngươi” là một niềm an ủi vô tận.
Chúa là tình thương và là Đấng hay tha thứ. Chỉ có một phương thế để đáng được tha thứ là: thú nhận tội lỗi và sự yếu hèn của mình, nhận thức rằng chỉ có Chúa mới có thể cứu thoát và hoàn tòan trông cậy và phó thác.
Bài Phúc Âm hôm nay đã cụ thể hóa giáo lý tình thương và tha thứ ấy trong câu chuyện “người đàn bà tội lỗi đến gặp Chúa trong bữa tiệc tại nhà ông Simon”.
Trong khi Matthêu và Marcô luôn trình bày người biệt phái như đối thủ cố chấp của Chúa, thì Luca, viết cho dân ngoại, mô tả một thứ biệt phái lễ độ hơn, biết mời Chúa đến nhà dùng bữa. Hôm nay, chúng ta đang ở trong nhà của ông Simon. Có thể ông mời nhà rabbi trẻ tuổi để có dịp quan sát hơn là vì hiếu khách, nhưng ông tỏ ra có chút lễ độ. Trong nhà có đám tiệc, kẻ ra người vào là thường. Một người đàn bà, ai cũng biết thuộc phường ‘tội lỗi’ lẻn vào đứng sau đám thực khách. Bà mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Rồi quỳ xuống phía chân Chúa, bà khóc nức nở, xức dầu thơm, hôn bàn chân ướt đẫm nước mắt và lấy tóc lau. Mọi người im lặng trối mắt nhìn. Simon coi đó là một cử chỉ quái gở và lẩm bẩm: “Ông này là một nhà tiên tri sao? Không, thật quá rõ ràng. Ai lại để cho hạng đàn bà ấy động đến mình!”.
Chúa Giêsu nhìn thấy tất cả, đọc cả những cảm nghĩ thầm kín của Simon. Với bao tế nhị, Ngài kể dụ ngôn người chủ nợ tha cho hai con nợ không có gì đền trả. Và, theo thói quen thông thường, Ngài để cho thính giả tự trả lời. Ngài hỏi: “Ai trong hai người yêu chủ nợ nhiều hơn?”. Do thái dùng chữ ‘yêu’ để thay thế chữ ‘cảm ơn’, không có trong từ ngữ. Yêu mến vì tri ân. Ông Simon thận trọng trả lời: “Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn”. Đúng vậy.
Bầu khí ngột ngạt đã lắng dịu, Chúa hướng mọi người về phía người thiếu phụ. “Ông thấy người đàn bà này chứ?”. Cách đối xử của bà và của người biệt phái khác biệt nhau biết chừng nào! Nếu ông biết trọng khách, biết yêu mến Ngài hơn thì ông đã không từ chối những cử chỉ lễ phép xã giao đó. Nhưng ông là biệt phái nên ông cho là không phải lệ thuộc ai, kể cả Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu kết luận: “Tội bà rất nhiều nhưng đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều”. Tình yêu là nguyên do hay là kết quả của ơn tha thứ? Dụ ngôn cho thấy tình yêu lớn lao của bà là dấu chỉ của một ơn tha thứ lớn lao hơn của Chúa. Bà đã nghe Chúa giảng dạy, đã hiểu rằng thời hồng ân tha thứ đã đến và bà đã tin. Hôm nay bà đến, tâm hồn nhẹ nhõm vì mình đã được tha thứ để cảm tạ Chúa. Chúa nói với bà một lời bảo đảm: “Tội con đã được tha rồi. Hãy đi bình an”.
Lạy Chúa, “con xưng ra với Chúa tội phạm của con và lỗi lầm của con, con đã không che dấu. Con thú thực điều gian ác của con và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con” (Tv 31).
Sách Tin Mừng của thánh Luca đặc biệt nhấn mạnh đến ân điển và sự tha thứ của Chúa Giêsu: TN 11-C9
Sách Tin Mừng của thánh Luca đặc biệt nhấn mạnh đến ân điển và sự tha thứ của Chúa Giêsu. Chỉ một mình Luca ghi lại lòng từ ái đối với quả phụ thành Naim, và cũng chỉ sách này kể lại lòng ưu ái của Ngài dành cho người đàn bà tội lỗi đã xức dầu dưới chân Ngài nơi nhà người biệt phái Simon. Tuy nhiên, đây không chỉ là bức tranh về lòng từ bi thương xót của Chúa, mà cũng là bức tranh về lòng biết ơn vô bờ bến của kẻ đã nhận món quà vô giá của ơn tha tội.
Có một sự lầm lẫn nào đó trong khi giải thích, nên có người đã cho người phụ nữ này là cô Maria Mácđala hay Maria em của Matta ở Bêtania. Ba người này khác nhau. Thật ra Chúa có đuổi quỷ cho người thứ nhất, người thứ hai và người phụ nữ trong câu chuyện này đã xức dầu cho Chúa, nhưng có lý do khiến ta tin rằng trong ba người chỉ có một người là tội nhân.
Mọi việc diễn ra tại sân nhà ông Simon, một đạo sĩ Do thái. Các nhà của giới giàu có thường được xây quanh một khu sân rộng như một công viên trống trải. Thường trong sân có vườn cây và giếng nước, vào mùa nóng nực người ta bày ăn tại đó. Ở Palestine mỗi khi có một rabbi nào đến dự tiệc, thì mọi người được tự do đến nghe những lời khôn ngoan của rabbi dạy. Thói quen đó giải thích sự có mặt của người đàn bà này trong nhà Simon. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây: chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một rabbi danh tiếng. Đường xá đầy cát bụi và giầy chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân để rửa sạch bụi và làm mát chân khách. Người ta cũng đốt lên một nhúm hương liệu cho thơm, hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu khách. Phép lịch sự đòi hỏi những điều đó, nhưng trong trường hợp này chủ nhà lại bỏ hết. Khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc. Họ dựa trên những chiếc gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, tay phải để tự do, hai chân duỗi thẳng về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đó cho phép người đàn bà có thể đứng gần chân Chúa Giêsu.
Simon là một đạo sĩ Do thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái. Tại sao một người như vậy lại mời Chúa Giêsu tới nhà mình? Rất có thể Simon này là người thích nổi tiếng, với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời chàng thanh niên kỳ lạ này đến ăn tiệc trong nhà mình. Vì thế ta hiểu tại sao có sự pha trộn vừa có vẻ tôn kính lại vừa bỏ qua phép lịch sự phải giữ. Hẳn Simon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giêsu.
Người đàn bà trên đây nổi tiếng là xấu nết, một gái mãi dâm. Dường như nàng đã đứng lẫn vào đám đông để nghe Chúa giảng, đã gặp Chúa trước đó, đã ăn năn tội lỗi của mình và đã được Chúa tha thứ. Theo tập tục của phụ nữ Do thái, một chai nhỏ dầu thơm nguyên chất, quen gọi là bình ngọc, rất đắt tiền thường được đeo trên cổ. Nàng chỉ ước ao được đổ bình dầu thơm đó lên chân Chúa Giêsu, vì đó là tất cả những gì nàng có để dâng cho Ngài.
Nhờ lòng biết ơn, nàng được can đảm đi vào nhà Simon trước con mắt xoi mói của nhiều người khi Chúa Giêsu đang là khách trong nhà ông Simon. Nàng đến để xức dầu chân Chúa, nhưng khi nhìn thấy Ngài, nàng quá cảm động nước mắt đổ ra chảy xuống chân Ngài. Nàng vội vã tháo tóc ra lau khô rồi đổ chai dầu thơm lên. Một phụ nữ Do thái buông xõa tóc nơi công cộng là đã phạm một lỗi lớn về phẩm hạnh. Người đàn bà này tỏ ra quên hẳn mọi người có mặt chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu thôi. Đối với nàng không có cách nào hơn để biểu lộ lòng biết ơn và sự hy sinh nhiệt thành của mình.
Việc Chúa để cho một phụ nữ kém phẩm hạnh biểu lộ lòng kính yêu đối với Ngài khiến Simon kết luận rằng Chúa Giêsu có lẽ không phải là tiên tri, vì nếu là tiên tri hẳn phải biết sự thật về người đàn bà hư hỏng này.
Câu trả lời của Chúa tỏ ra rằng Chúa có thể đọc được những ý tưởng thầm kín của ông chủ nhà. Câu trả lời chẳng những đáp lại lời chỉ trích thầm lặng của chủ nhà, mà còn cho thấy tình trạng tâm hồn của ông, Simon không biết sự thiếu thốn của mình, vì thế không cảm biết tình yêu, và cũng vì thế không nhận được ơn tha thứ. Chúa Giêsu đưa ra ví dụ về hai người mắc nợ rồi được tha, giải thích rằng lòng biết ơn nhiều hay ít tùy theo món nợ được tha nhiều hay ít, rồi áp dụng nguyên tắc đó cho Simon và người đàn bà mà ông có ý khinh dể. Chúa Giêsu kể cặn kẽ Simon đã thiếu tình yêu đối với Ngài như thế nào rồi đem ra đối chiếu với sự ân cần của người phụ nữ. Khi vào nhà, Simon đã bỏ qua tục lệ đưa nước rửa chân cho Ngài, còn người đàn bà đã rửa chân Ngài bằng nước mắt; Simon đã bỏ qua cái hôn mà đáng lẽ người chủ phải dùng để đón chào vị khách, người đàn bà đã nồng nhiệt hôn chân Ngài; Simon không đem dầu thơm xức cho vị khách quý, còn người đàn bà này đến với mục đích duy nhất để xức dầu thơm lên chân Chúa.
Sứ điệp của Chúa thật rõ ràng qua thí dụ đó: “Yêu nhiều tha nhiều, yêu ít tha ít”. Chúa không có ý nói rằng trước đó nàng chưa được tha tội, cũng không có ý nói tình yêu là điều kiện để được tha tội. Ngài có ý nói rằng tình yêu của nàng là kết quả của sự tha thứ, và câu nói của Ngài diễn giải ra thế này thì đúng hơn: Ta nói cho ông hay, tội lỗi đầy dẫy nơi nàng đã được tha, ông có thể suy đoán điều đó căn cứ vào cách biểu lộ lòng yêu mến của nàng. Phần còn lại trong câu thì dành cho Simon: Kẻ được tha ít thì yêu thương ít. Những lời ấy không minh chứng Simon được tha tội, câu ấy chỉ rằng sở dĩ ông thiếu tình yêu vì ông không cảm biết được sự thiếu thốn của mình, cũng vì thế ông đã không nhận được ơn tha thứ. Simon tin tưởng mình là người tốt trước mặt loài người và Thiên Chúa.
Rồi Chúa quay lại người phụ nữ nói một lời chúc phúc: “Tội của chị đã được tha rồi”. Như vậy, Ngài xác nhận sự tha tội đã được ban cho nàng rồi, hơn nữa Ngài cũng biện minh cho nàng trước công chúng để họ biết rằng nàng đã bước vào một cuộc sống mới. Họ ngạc nhiên khi nghe Ngài tuyên bố sự tha tội. Đây là chức vụ của Đấng Mêsia, nhưng Con Người lý tưởng mà Luca ghi chép về tấm lòng nhân hậu ở đây, cũng đồng thời là Con Thiên Chúa, cuối cùng Ngài quay lại người phụ nữ phán bảo nàng những lời ân huệ: “Lòng tin của chị đã cứu chị”. Chị hãy đi bình an”.
Đây là bài học rõ ràng về việc đức tin đem lại ơn tha thứ, sự tha thứ đem lại lòng biết ơn và lòng biết ơn được diễn tả qua một hành động yêu thương tận tụy. Một thái độ như vậy có thể ra đi trong bình an nghĩa là hưởng được sự hiện diện liên tục của bình an này.
Con người tự sức mình đâu có đáng được tha thứ, vì tội xúc phạm tới Chúa thì sự nặng nề vô cùng. Do đó phải chạy đến với bí tích Hòa Giải, nơi đó Chúa tha thứ cho chúng ta nhờ công đức của Chúa Giêsu Kitô. Điều kiện duy nhất không gì có thể thay thế về phía của chúng ta là tình yêu và sám hối. Chúng ta nhận được tha thứ là tùy theo mức độ ta cảm nhận tình yêu mến; khi lòng chúng ta tràn đầy tình yêu, thì đâu còn chỗ cho tội lỗi, vì khi đó chúng ta đã dọn một chỗ rõ rệt cho Chúa Giêsu, Đấng nói với chúng ta như đã nói với người đàn bà tội lỗi: “Tội con đã được tha”. Lòng sám hối của chúng ta là bằng chứng lòng ta yêu Chúa. Nhưng thực ra chính Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4,10). Khi Chúa tha thứ cho ta, Thiên Chúa biểu lộ Người yêu ta. Do đó, ta có yêu Chúa là chỉ đáp lại tình Ngài yêu. Sự tha thứ của Chúa là tưởng thưởng lòng biết ơn và tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
Thánh Augustinô giải thích: “Ai được tha thứ ít thì yêu ít”. Bạn nói là bạn không phạm nhiều trọng tội, tại sao bạn lại không phạm? – Vì Chúa đã cầm lấy tay bạn. Không có tội nào mà người ta không thể phạm nếu Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, không cầm lấy tay (Serneon 99,6). Như thế, chúng ta phải yêu Chúa ngày càng nhiều hơn, vì chẳng những Ngài tha thứ tội được, mà còn nhờ ơn Ngài ban, gìn giữ ta khỏi vi phạm.
Chúa Giêsu tuyên bố rằng niềm tin đã dẫn đưa người phụ nữ tội lỗi tới quỳ dưới chân Chúa Giêsu và tỏ lòng sám hối. Nhờ sám hối nàng đáng được ơn tha thứ. Cũng thế, khi chúng ta tới tòa hòa giải, chúng ta phải có một xác tín rằng đây không phải là cuộc đối thoại giữa con người mà là đối thoại với Thiên Chúa; đây là tòa công lý. Nhưng trên hết là tòa thương xót mà quan xét xử là Đấng đầy lòng yêu mến, Đấng “không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng mong nó ăn năn và được sống”.
Tinh thần tự mãn ngăn cách loài người với Thiên Chúa, và điều lạ là hễ ai càng tốt thì càng cảm biết tội lỗi của mình cách sâu xa. Thánh Phaolô nói về tội nhân: “trong số đó tôi đứng đầu” (2Tm 1,25), thánh Phanxicô Assisi nói: “Không ở đâu có một tội nhân khốn nạn hơn tôi!”.
Thật rất đúng khi nói rằng tội nặng nhất là không nhận biết tội mình, nhưng ai cảm biết mình thiếu thốn sẽ được mở cửa vào ơn tha thứ của Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu và vinh hiển lớn nhất cho tình yêu là được thấy người đời tìm đến tình yêu.
Nói chung, chúng ta quan tâm đến người phụ nữ tội lỗi làm cho xúc động hơn là quan tâm đến: TN 11-C10
Nói chung, chúng ta quan tâm đến người phụ nữ tội lỗi làm cho xúc động hơn là quan tâm đến Simon, người biệt phái. Nhưng có thể chúng ta là những Simon.
Simon đã mời ông thầy trẻ này đến nhà để kiểm tra: có phải ông Giêsu đây thực sự là tiên tri hay chăng? Ông hết sức lầm lẫn bởi vì ông nghĩ Chúa Giêsu sẽ phản ứng như ông, như tất cả những người tốt ngay khi họ nhìn thấy người phụ nữ này vào: phải đuổi chị ta ra! Bởi vì cái người gọi là tiên tri này tiếp đón chị và để cho chị đến gần chẳng phải là tiên tri gì cả. Ông ta không có khả năng thấy rõ chị là ai.
Không bao lâu sau ông Simon đáng thương này chỉ nghĩ rằng Chúa Giêsu biết rõ Ngài phải đụng độ với ai nhưng vẫn tiếp đón người phụ nữ bị khinh miệt. Đối với ông, người biệt phái, công việc đã được sắp xếp rồi. Đáng lẽ ra, ông đã có cuộc gặp gỡ lớn trong cuộc đời thế mà ông tránh qua một bên.
Tại sao có sự thất bại này? Bởi vì ông tin rằng mình công bằng. Ở trong sự công bằng này, ông đã tạo ra một Thiên Chúa công bằng, một Thiên Chúa là Đấng lên án, Đấng phải lên án những kẻ tội lỗi. Một gái điếm là một gái điếm. Ông không thể nghĩ rằng Thiên Chúa nhìn chúng ta không phải với một sự công bằng kiểu biệt phái, mà là với một sự công bằng rất yêu thương. Ông sắp sửa khám phá ra sự công bằng này trong khi nhìn Chúa Giêsu, nhưng ông nhìn tồi bởi vì tấm lòng của ông chai đá. Phải có một tấm lòng yêu thương để nhận biết Chúa Giêsu và chấp nhận vị Thiên Chúa mà Ngài vừa mặc khải: “Ai yêu thương thì nhận biết Thiên Chúa” (1Ga 4,7). Đó là cơ may của cô gái điếm, chị sẵn sàng yêu thương, chị sắp thành công trong cuộc gặp gỡ.
Do đó, để gặp Chúa Giêsu, có cần phải là một đại tội nhân hoặc cố ý không thấy tội lỗi? Chắc chắn là không. Nhưng phải có một tấm lòng cởi mở, không khô khan và đóng kín như Simon.
Người phụ nữ tội lỗi có tấm lòng này và Chúa Giêsu có thể biến đổi chị hoàn toàn nhờ sự tha thứ. Chị cảm thấy rằng Chúa Giêsu có quyền tha thứ bởi vì chính chị sẵn sàng để được tha thứ và sẵn sàng yêu thương ngàn lần hơn vì đã được tha thứ như thế.
Có quyền tha thứ! Toàn bộ trần thuật này hướng lên sự kinh ngạc cuối cùng: “Ông này là ai mà tha được tội?”, những khách mời tự hỏi, Simon hẳn cũng tự hỏi điều đó, ông còn có cơ may, nhưng trần thuật này ngưng lại ở đó và để cho chúng ta nghĩ rằng người biệt phái này trăm phần khép kín với bao điều bất ngờ. Cuối cùng ông đành tiếp đón một tiên tri rất xứng hợp, chứ không phải con người hay làm hoang mang và đòi hỏi quá đáng này.
Dầu sao thì Simon cũng thông minh. Chúa Giêsu nói với ông không phải không có tính cách châm biếm: “Ông đoán đúng!” Nhưng nghĩ rằng mình không có tội, ông không chờ đợi Đấng Cứu Thế, chúng ta là Simon khi chúng ta mất đi cảm tưởng mình là người tội lỗi. Không còn nhìn thấy đủ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế của chúng ta, cuộc gặp gỡ của chúng ta với Ngài có nguy cơ ở hời hợt trên bề mặt cuộc sống của chúng ta và trên bề mặt của sự tha thứ của Ngài. Một sự thất bại.
Cách đây vài năm, có vị Linh mục tổ chức một buổi nói chuyện với một số thanh niên. Sau cuộc: TN 11-C11
Cách đây vài năm, có vị Linh mục tổ chức một buổi nói chuyện với một số thanh niên. Sau cuộc trò chuyện đó, một thanh niên tên là Matt đến chia sẻ với ngài câu chuyện cuộc đời cậu ta. Nghe xong vị Linh mục yêu cầu cậu thanh niên phổ biến câu chuyện ấy để chia sẻ với những người khác, Matt vui vẻ nhận lời. Sau đây là câu chuyện của Matt được ghi lại bằng chính những dòng chữ của câu:
“Khi tôi lên 11 tuổi, bố tôi bỏ nhà ra đi… Cả gia đình hầu như tan nát hết, ai nấy đều khóc lóc than van suốt bao nhiêu tuần lễ trừ mỗi mình tôi… Tôi bắt đầu căm ghét bố, chủ yếu vì ông đã làm cho bà mẹ thân yêu của tôi đau khổ… Thế là tôi bắt đầu đi vào con đường tội phạm và ma túy vào năm 12 tuổi. Tôi đã từng bị bắt ba lần về tội ăn trộm xe hơi… là một Kitô hữu, mẹ tôi lôi cổ tôi đến dự cuộc tĩnh tâm ở đây… Tôi chả biết gì về việc này, nhưng cũng ghi tên tham dự để bà khỏi rầy… Một lần, trong buổi hội thảo với một nhóm đông người, tôi bỗng mơ màng nghĩ đến Chúa, và thấy mình đang quì gối xuống trước Chúa Giêsu đang bị treo trên thánh giá. Vô số tội lội nặng nề để xuống trên tôi… Tôi khóc lóc van xin tha thứ. Trong khi tôi khóc lóc, Chúa đã tha thứ cho tôi… vì Ngài yêu tôi. Ngài yêu tôi bất chấp tất cả tội lỗi xấu xa mà tôi đã phạm… Tôi mở mắt ra đưa tay lau khô dòng lệ… Cuối cùng, tôi biết rằng Chúa thực sự hiện diện…
------------------------
Sau khi cuộc tĩnh tâm ấy kết thúc, lần đầu tiên trong đời, tôi sống tử tế: không thuốc lá, không cờ bạc, không uống rượu. Tôi dành luôn một ngày nghỉ tiếp theo đó để suy nghĩ và cầu nguyện. Trong lúc đọc Thánh Kinh tôi chợt nghĩ đến bố tôi. Tôi không muốn còn bất điều gì ngăn trở tôi được sống gần gũi với Chúa Giêsu. Vì thế, tôi gọi điện thoại cho bố tôi…
Đêm đó trong khi vừa đi đến căn hộ của bố, tôi vừa cầu xin Thánh Linh soi đường chỉ lối. Khi tôi đến nơi, cả hai bố con ngồi xuống bên nhau một hồi lâu mà chẳng ai mở miệng nói một lời nào. Cuối cùng bố tôi lên tiếng hỏi: “Mục đích con đến đây làm gì? Tôi cảm thấy nẹ nhõm khi nghe bố hỏi, nhưng tôi chẳng biết vào đề ra sao cả. Và tôi giải thích cho bố là cuối tuần qua tôi học biết rằng tôi không được xét đoán ai về bất cứ điều gì. Đoạn, tôi xin bố tha thứ cho tôi về cái tội đã căm ghét và đã có những lời chua cay kết án ông… Nghe xong bố tôi liền đứng lên đi ra khỏi phòng một lúc, rồi trở lại, trên tay cầm một bọc giấy… đoạn ông rút ra một mảnh giấy,hai cha con cùng đọc. (Đây là một lá thư tôi đã viết gởi cho ông mắy năm trước). Tuồng chữ trên mẩu giấy như sau: “Bill, ông nghĩ ông là ai và ông có biết ông đang làm gì không? Kể từ đây tôi chẳng cần ông điều gì nữa hết – Ký tên: Matt, kẻ đã từng là con ông”. Lập tức tôi nhận ra mọi nỗi đớn đau bố tôi phải chịu đựng trong bao năm lưu giữ mẩu giấy này… Tôi nhảy đến ôm lấy bố. Dòng lệ yêu thương tha thứ. Lập tức tuôn trào trong mắt ông… Lúc đó tôi cảm thấy như vừa bước qua cửa ngục… Thế là tôi không còn bị giam hãm trong niềm căm ghét nữa. Hai bố con ngồi chuyện vãn thêm một lúc, đoạn tôi tiến đến hôn vào môi bố nói lời tạm biệt rồi ra về… Đêm đó tôi gọi taxi về nhà, nhưng khi còn khoảng hai dãy nhà nữa thì tới nơi, tôi liền bảo tài xế dừng lại để tôi đi bộ. Nhưng niềm vui chan hòa trong tim khiến tôi bỗng dưng rảo bước rồi chạy thật mau. Vừa chạy hai tay tôi vừa dang ra, miệng hét to: “Nhờ Chúa đã yêu thương bố!” Đêm ấy quả thực Chúa đã ban cho tôi một sự kỳ diệu”.
Đây là một trong những câu chuyện cảm động nhất tôi đã từng được nghe. Nó càng thích hợp đặc biệt với các bài đọc hôm nay khi nó minh họa cho lòng tha thứ của Chúa đối với vua David trong bài đọc thứ nhất, và lòng thứ tha trọn vẹn vô điều kiện Chúa Giêsu bn cho người phụ nữ trong bài Phúc Âm hôm nay, đồng thời nó cũng minh họa sự tha thứ mà Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có đối với nhau. Càng đọc Phúc Âm chúng ta càng thấy rõ Chúa Giêsu tràn đầy lòng tha thứ, và Ngài cũng dạy chúng phải bắt chước như thế, đồng thời Ngài cho chúng ta thấy rõ rằng nếu chúng ta tha thứ cho kẻ khác thì Chúa mới tha thứ cho chúng ta. Ngài nói: “Nếu các ngươi tha thứ cho kẻ khác… thì Cha trên trời sẽ tha thứ cho các ngươi. Còn nếu các ngươi chẳng tha thứ cho kẻ khác thì Cha trên trời cũng sẽ không tha thứ cho các ngươi” (Mt 6: 14-15)
Từ đó chúng ta bước sang chủ điểm thứ hai. Câu chuyện của Matt cũng góp phần soi sáng cho tinh thần ngày dành riêng cho các bậc làm cha hôm nay. Nó cho chúng ta thấy điều chúng ta vẫn thường hay quên: đó là chúng ta có thói quen nghĩ rằng những người bố đều là những con người toàn hảo. Thực ra, các ngài cũng chỉ giống như chúng ta, cũng phạm những lỗi lầm, đôi khi còn trầm trọng nữa là khác. Tuy nhiên bên cạnh những lỗi lầm này, các ngài vẫn là những con người giàu tình thương, giống như ông bố kia giữ mãi hằng bao năm trời lá thư gây nhức nhối của một đứa con cũng tràn đầy đau khổ. Nếu bố của Matt đã không giữ lại lá thư ấy suốt bao năm trời, thì có thể Matt sẽ không bao giờ có được cơ may để chứng tỏ cho cậu thấy ông yêu cậu biết bao. Và vì thế, câu chuyện của Matt quả là một minh họa tuyệt vời vừa cho tinh thần của ngày dành riêng cho các bậc làm cha vừa cho tình thần thứ tha thắm đượm trong các bài đọc hôm nay. Câu chuyện ấy chứng tỏ cho chúng ta thấy năng lực mầu nhiệm của lòng tha thứ có thể làm cho vỡ trở nên lành, bẩn trở thành sạch sẽ. Đây là tin mừng trong các bài đọc hôm nay mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ cho chúng ta. Và đây cũng là tin mừng chúng ta đang trọng thể mừng kính trong ngày dành riêng cho các bậc làm cha này.
Chúng ta hãy kết thúc với những lời nói đầy xúc động của một vị tướng Mỹ lừng danh, đồng thời cũng là một người cha gương mẫu trong gia đình, đó là tướng Douglas Mac Arthur:
“Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy – nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong nhà đang cùng nó đọc lời kinh nguyện đơn sơ hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng… Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Mạc khải Ki-tô giáo dạy rằng “Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn vật muôn loài (trong đó có: TN 11-C12
Mạc khải Ki-tô giáo dạy rằng “Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn vật muôn loài (trong đó có loài người) và vũ trụ”. Mạc khải ấy cũng dạy rằng “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,16). Từ đó chúng ta có thể rút ra kết luận này: Tình Yêu là yếu tính và cùng đích của con người. Các bài Sách Thánh hôm nay cho chúng ta thấy sức mạnh của Tình Yêu Thiên Chúa là xóa sạch tội lỗi của con người. Còn về phía con người thì tình yêu là điều kiện để nhận được ơn thứ tha của Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: 2 Sm 12,7-10.13: Đức Chúa đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết.
7 Sau khi vua Đa-vít phạm tội, ông Na-than nói với vua Đa-vít: " ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. 8 Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. 9 Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời ĐỨC CHÚA mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm U-ri-gia, người Khết; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. 10 Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ ngươi.
13 Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than: "Tôi đắc tội với ĐỨC CHÚA." Ông Na-than nói với vua Đa-vít: "Về phía ĐỨC CHÚA, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết”.
(2) Bài đọc 2: Gl 2,16.19-21: Tôi sống, nhưng không còn phải tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.
16 Thưa anh em, chúng ta biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy.
19 Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. 20 Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. 21 Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hóa ra Đức Ki-tô đã chết vô ích.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 7,36 -8,3: Tội của chị rất nhìều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.
36 Một hôm có một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. 37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. 38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi! " 40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: "Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông! " Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói." 41 Đức Giê-su nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. 42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn? "43 Ông Si-môn đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giê-su bảo: "Ông xét đúng lắm."
44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. 45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. 46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. 47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít." 48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." 49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội? " 50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
1 Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, 3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (2 Sm 12,7-10.13) là đoạn Sách Sa-mu-en quyển thứ 2, kể lại cách đối xử của Thiên Chúa đối với vua Đa-vít và của ông vua này đối với Thiên Chúa. Về phía Thiên Chúa thì Người đã phù trợ Đa-vít tối đa. Đáng lẽ ra Đa-vít phải sống thánh thiện phù hợp với những hồng ân đã nhận, thì Đa-vít lại lợi dụng chức quyền, địa vị của mình mà phạm tội ngoại tình và sát nhân, khiến Thiên Chúa buồn lòng. Nhưng Thiên Chúa vẫn mực yêu thương, phù trợ và thứ tha cho Đa-vít khi nhà vua nhận ra tội lỗi của mình mà sám hối ấn năn.
Qua câu chuyện mà đoạn Sách 2 Sm 12,7-10.13 tường trình lại, chúng ta thấy tấm lòng yêu thương và sức mạnh thứ tha của Thiên Chúa là Đấng đã đối xử trước sau như một với Đa-vít.
(2) Bài đọc 2 (Gl 2,16.19-21) là những lời của Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Ga-lát, trong đó ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lòng tin mà người tín hữu đặt vào Chúa Giê-su Ki-tô. Chính lòng tin ấy hay đúng hơn chính Chúa Giê-su Ki-tô làm cho người tín hữu nên công chính chứ không phải hành động này hay việc làm kia dù những việc ấy được thực hiện theo Lề Luật.
Trong đoạn Thư Gl 2,16.19-21 chúng ta thấy Chúa Giê-su Ki-tô mới là Cứu Chúa, mới là Đấng làm cho con người nên công chính. Lý tưởng của Ki-tô hữu không chỉ là cậy dựa vào Chúa Ki-tô mà còn là để Người sống trong tâm tư, lời nói và hành động của mình như Thánh Phao-lô đã đạt được: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi”.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 7,36 - 8,3) là bài tường thuật của Lu-ca về câu truyện người phụ nữ tội lỗi đến với Chúa Giê-su trong nhà một người Pha-ri-sêu mời tiệc Chúa. Chị này đã được Chúa Giê-su đón nhận và thứ tha tội lỗi vì chị có lòng tin mạnh mẽ và có lòng yêu mến dạt dào.
Qua Bài Phúc Âm Lc 7,36 - 8,3 chúng ta thấy Chúa Giê-su yêu thương người phụ nữ tội lỗi (công khai) như thế nào. Chẳng những Chúa Giê-su đã thứ tha tội lỗi cho chị mà còn lên tiếng bênh vực chị trước mặt những người Pha-ri-sêu tự cho mình là công chính, thánh thiện. Chúa Giê-su cũng nhân cơ hội này mà hé mở cho người ta biết Người là Ai (là Thiên Chúa) khi tuyên bố Người có quyền tha tội (chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội).
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được tìm thấy trong lời của ngôn sứ Na-than nói với vua Đa-vít: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết” và trong lời của Chúa Giê-su nói với chị phụ nữ tội lỗi: "Tội của chị đã được tha rồi. Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Thiết nghĩ Sống Sứ Điệp Lời Chúa của Chúa Nhật 11 Thường Niên là thực hiện hai điều này:
3.1 Đón nhận Tình Yêu thứ tha của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su với lòng cảm tạ tri ân: Ai trong chúng ta cả dám cho rằng mình là không có tội, là không cần được thứ tha? Điều an ủi lớn lao nhất đối với chúng ta là Thiên Chúa luôn sẵn sàng thứ tha và xóa sạch mọi tội lỗi của chúng ta, miễn chúng ta ý thức về lỗi lầm và yếu đuối của mình mà ăn năn sám hối.
3.2 Củng cố lòng tin và tình yêu đối với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô: Càng được tha nhiều thì càng tin vững mạnh và càng yêu nhiều. Càng tin vững mạnh và càng yêu nhiều thì lại càng được tha thứ nhiều. Tin và yêu tới mức trở nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa Ki-tô tức sống bằng chính Chúa Ki-tô như Thánh Phao-lô Tông Đồ đã nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi”.
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 “Tôi đắc tội với Đức Chúa"
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con ý thức tội lỗi và yếu đuối của chúng con. Chúng con đã không sống theo sự hướng dẫn của Chúa. Chúng con đã xúc phạm đến Chúa nhiều lần, nhiều cách. Chúng con đắc tội với Chúa. Chúng con thống hối ăn năn và xin Chúa thứ tha.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 “Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết. Tội của chị đã được tha rồi. Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an".
Lạy Thiên Chúa là Chúa của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã không kể đến tội lỗi và yếu đuối của chúng con. Trái lại Chúa luôn rộng lượng thứ tha và xóa sạch mọi tỳ ố, mọi xúc phạm của chúng con. Chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi”.
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con Chúa Giê-su Ki-tô Con Một Chúa, để Người trở thành gương mẫu và nguyên lý cho chúng con. Chúng con nài xin Chúa ban cho chúng con ơn trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su Ki-tô, để không còn là chúng con sống, mà là Chúa Ki-tô sống trong chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Tuần vừa qua, cô người mẫu người Ba Tây Gisele Bundchen đã dám thách thức dư luận khi: TN 11-C13
Tuần vừa qua, cô người mẫu người Ba Tây Gisele Bundchen đã dám thách thức dư luận khi tuyên bố “chẳng có ai còn trinh tiết đến tận lúc cưới”. Chắn chắn là đúng cho trường hợp của cô ( ! ). Ngay lập tức, siêu sao bóng đá người Ba Tây Kaka của Đội AC Milan đã lên tiếng trong cuộc phỏng vấn của tờ báo Ý Vanity Fair, rằng anh và vợ vẫn giữ trinh tiết khi họ lấy nhau: “Kinh Thánh dạy rằng tình yêu đích thực chờ đợi cho đến ngày kết hôn… Nếu cuộc sống của chúng tôi ngày nay đẹp đẽ dường này, tôi cho rằng đó là vì chúng tôi đã chờ đợi”. Điều thường thấy ở các hoa khôi, người mẫu trên thế giới, - Việt Nam không nằm ngoại lệ - là ích kỷ, ưa sống sa hoa và hầu như luôn gắn liền với những xì-căng-đan đủ loại, kể cả là sa đọa, đồi trụy.
Cô hoa khôi Việt Nam Mai Phương Thúy là một trường hợp đặc biệt, khi dành quảng thời gian “tại vị” hai năm để làm công tác từ thiện, phần lớn bằng tiền riêng của mình và đến tận những nơi xa xôi hẻo lánh của cả ba miền đất nước, vì cô thấy rằng đó cũng là lẽ công bằng, vì “tôi muốn sống có nhận có cho”: sắc đẹp, danh tiếng, nhiều hợp đồng quảng cáo... là những gì cô nhận được, nay cô thấy mình phải cho đi. Không phải ai cũng có được những suy nghĩ lương thiện và vị tha này ! Không phải ai cũng nhận ra được chân lý tưởng chừng hết sức giản đơn này !
Nếu có thể gọi tên những gì xảy ra trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thì đây là một phiên toà, mà bị cáo là người phụ nữ; giữ quyền công-tố là người Pha-ri-sêu mời Chúa Giê-su đến nhà dùng bửa. Luật sư biện hộ chính là Chúa Giê-su. Chủ định ban đầu của Si-mon khi mời Chúa Giê-su, kẻ thù của nhóm Biệt Phái, là gì, thì không thể nắm chắc được, nhưng như cha ông ta vẫn nói: “Dấu đầu, hở đuôi”: Si-mon cũng như tất cả mọi Pha-ri-sêu khác, chỉ chờ Chúa Giê-su sơ hở để đánh giá, bắt bí, thậm chí là cái cớ để lên án. Lần đầu tiên, Si-mon nghi ngờ những gì người ta nói về Chúa Giê-su, và ông cho rằng Chúa Giê-su là “tay mơ”, khi ngay cả một người đàn bà tội lỗi cũng chẳng nhận ra. “Tội của chị ấy rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị ấy đã yêu mến nhiều” ( Lc 7, 47 ).
Người phụ nữ đã ý thức rõ những gì chị nhận được, vì thế việc cho đi của Chị cũng hết sức quảng đại, không hề tính toán, không xuất phát từ bất cứ động cơ nào khác ngoài sự cảm mến tri ân. Chúa Giê-su đã sống đạo lý ấy: Người đã nhận từ người phụ nữ không chỉ những vật chất có giá trị không nhỏ; mà là cả “tấm lòng tan nát khiêm cung” ( x. Tv 50 ), vì thế người đã “cho” chị lại ơn tha thứ và bình an. Tờ cáo trạng của người Biệt Phái Si-mon chưa đưa ra, đã bị “phá sản” và bị vạch trần từ thái độ mời có tính cách đãi bôi, mà thực tâm chẳng mấy trọng thị của ông đối với Chúa Giê-su. Chúa Giê-su chỉ cho ông thấy cái sai của ông: nhận nhiều, nhưng cho chẳng bao nhiêu !
Không phải tình cờ mà Thánh Sử Lu-ca ghi lại ngay sau chuyện này danh sách những phụ nữ đi theo Chúa Giê-su, từ Ma-ri-a Magdala được trừ bảy qủy, cho đến bà Gio-an-na, vợ người quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa: “Họ lấy của cải của mình mà giúp đỡ Chúa Giê-su và các môn đệ” ( x. Lc 8, 1 – 3 ). Họ muốn sống có nhận có cho ! Giu-dà là thủ quỷ của Nhóm, nhận không ít “của cúng dường” mà người ta giúp Chúa Giê-su và các môn đệ: Giu-dà không mất một xu nào tiền túi, nhưng lại biển thủ tiền chung ! Giu-đa thấy mình không được nhận, bởi đó 30 đồng bạc bán thầy là món hời đầu tiên và cuối cùng mà y cho là “đòi lại công bằng” sau mấy năm trời theo Chúa mà chỉ hứng vất vả, thiếu thốn, hiểm nguy, mà “chẳng nên cơm cháo gì !”
Ranh giới giữa nhận và cho xem ra rất mỏng manh: có những kẻ nhận nhiều, rất nhiều, nhưng vẫn cho mình là người chịu thiệt thòi và vì thế “không cho” đối với họ cũng là chuyện bình thường. Ngược lại, nhiều người luôn thấy mình “có nợ” với tha nhân, vì mình được nhận nhiều, cho dù khó lòng định ra họ đã nhận được gì, khi đời sống vật chất thanh bạch, khó nghèo và chịu không ít tai ương khốn khó !
Kết thúc Hội Nghị Thượng Đỉnh G8 vừa qua tại Đức, nguyên thủ các nước phát triển đã cam kết bỏ ra 60 tỷ đô-la Mỹ để giúp các nước nghèo. Người ta khẳng định rằng hành động này phần rất lớn như để đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, khi Người thúc giục họ hãy giữ lời hứa. Động cơ duy nhất để Người kêu gọi họ, chính là “các quốc gia phát triển đã NHẬN nhiều, nay phải CHO đi, mới là công bằng”.
Lạy Chúa Giê-su, con muốn kết thúc những suy nghĩ về ứng xử của những người trong bài Tin Mừng hôm nay, bằng những đoạn ngắn gọn trích từ bài diễn văn Mẹ Thánh Tê-rê-xa Calcutta đọc lúc lên nhận Gỉải Nobel Hoà Bình danh giá: những mẫu truyện đẹp như những bài thơ với tựa đề “SỐNG CÓ NHẬN CÓ CHO”:
1. “Cũng giống như một ông kia mà chúng tôi đón về từ cống rãnh, ông bị giòi ăn hết nửa người, chúng tôi đưa ông về nhà mình. Ông nói: “Tôi đã sống như một con thú ngoài đường, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, vì đã được yêu thương và được quan tâm”. Thật là kỳ diệu khi nhìn thấy sự cao cả của ông này, một người có thể nói như thế, có thể chết như thế mà không than van, không nguyền rủa bất cứ một ai, mà cũng chẳng so sánh bất cứ điều gì. Như một thiên thần. Đấy là điều cao cả nơi người dân của chúng tôi. Và đó là lý do mà chúng tôi tin điều Chúa Giê-su đã nói: “Thầy đói, Thầy mình trần, Thầy không nhà, Thầy bị hất hủi, chê ghét, bỏ mặc; và các con đã làm điều ấy cho Thầy”. Ông già khốn cùng này chỉ thấy mình được nhận quá nhiều !
2. Một ông nọ đến nhà chúng tôi và bảo: “Mẹ Tê-rê-xa à, có một gia đình 8 con; họ không có gì ăn từ lâu rồi; Mẹ làm điều gì đi !” Thế là tôi lấy một ít gạo rồi lập tức đi đến đấy. Tôi thấy mấy em bé với cặp mắt ánh lên vì đói. Tôi không biết anh chị em có bao giờ thấy ai đói chưa. Tôi thì thấy nhiều lắm ở Ấn Độ. Bà chủ gia đình ấy cầm lấy gạo, chia ra hai phần, rồi đi ra ngoài. Khi bà trở về, tôi hỏi bà: “Bà đi đâu vậy ? Làm gì vậy ?” Bà đơn sơ trả lời: “Họ cũng đói”. Điều làm tôi choáng váng nhất là bà ấy biết họ là ai – là một gia đình Hồi Giáo – bà ấy biết rõ. Tôi không đem thêm gạo tối hôm ấy vì tôi muốn để cho họ hưởng trọn niềm vui chia sẻ. Bà chủ nhà khốn cùng này chỉ thấy mình nhận quá nhiều và phải đem cho !
Và lạy Chúa, câu chuyện sau đây để con khẳng định rằng lời cảm tạ tri ân đối với Chúa, từ đó mà biết chia sẻ với tha nhân trong bất kỳ tình huống nào, xuất phát từ ý thức NHẬN và CHO: người dân Đan Mạch nói chung và giới trẻ Đan Mạch nói riêng luôn cảm thấy không thoả mãn với cuộc sống và không ngừng đói hỏi được hưởng nhiều hơn mãi, cho dù Đan Mạch là một đất nước có thu nhập bình quân đầu người và an sinh thuộc hàng đầu thế giới. Không bao giờ họ ý thức được những gì họ nhận, so với những nước nghèo như Tây Tạng, Soudan, mà chỉ nhận được một phần trăm như họ, thì đã làm giấc mơ cổ tích. Song người dân Tây Tạng luôn rạng rỡ nụ cười với chén cơm hãy còn đầy. Họ thấy mình vẫn còn nhận được nhiều. Từng ấy đã đủ khiến họ rạng ngời hạnh phúc, khiến người dân Đan Mạch ngạc nhiên và ghen tỵ. Không biết được mình nhận, thì làm sao có thể cho !
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu số 54
Tôi cứ tưởng bây giờ tôi đã chết Trước dung nhan Thượng Đế xét tội công Xin tha thứ bao tội lỗi chất chồng Những chối bỏ khinh chê người tật bệnh Kẻ già nua, thơ trẻ… Ngài truyền lệnh người bơ vơ hèn mọn chính là Ta. ( Thơ Nguyên Đỗ )
Bơ vơ – hèn mọn. Tật bệnh – Lũ trẻ thơ. Và, người phụ nữ chất chồng nhiều tội lỗi, Chúa thứ tha. Chúa: TN 11-C14
Bơ vơ – hèn mọn. Tật bệnh – Lũ trẻ thơ. Và, người phụ nữ chất chồng nhiều tội lỗi, Chúa thứ tha. Chúa thứ tha, Ngài thẩm định mọi việc không do quá khứ, hệ lụy. Mà, do biết từ bỏ những gì lôi kéo người người xuống bùn đen. Bùn đen hôm nay, mon men đến gần với Chúa, để được tha thứ.
Tin Mừng cho thấy diện mạo hai nhân vật: một người Biệt Phái tên Si-môn, một phụ nữ gọi tắt là Ma-ri-a. Biệt Phái, theo ngôn ngữ Do Thái, là “người tách riêng”. Vào thời của Chúa, những nguời Biệt Phái như thế rất đông. Đông đến 6 ngàn người. Và, họ ở rải rác trên toàn cõi Palestin.
Hôm nay, Biệt Phái Si-môn mời Đức Ki-tô đến nhà mình, có phải để huênh hoang khoe với chòm xóm là mình quen lớn; hay chỉ muốn thách thức thái độ và lời dạy của Đức Ki-tô thôi ? Điều này, cũng không rõ. Như chúng ta đều biết, Đức Giê-su không chọn người để lui tới. Ngài nhận lời đến cả với người giàu – kẻ nghèo, với người Biệt Phái, với giới kinh sư, thu thuế, và những người phạm tội, rất đáng ghê.
Vào nhà Biệt Phái Si-môn, ta thấy dường như ông ta cố ý để ngỏ cửa, và tiếp khách rất hời hợt như muốn đặt Đức Ki-tô vào tình trạng lúng túng, khó xử. Cửa vẫn để ngỏ, khiến người phụ nữ tội lỗi dễ đi thẳng vào bên trong căn nhà để được gặp Đức Chúa. Dù không đuợc mời, nhưng chị vẫn đến. Chị đến, để xem Đức Ki-tô đối xử thế nào với đám nguời phạm lỗi, những ngoại tình.
Cử chỉ của người phụ nữ tội lỗi, những nào: xõa tóc, đổ dầu thơm lên chân; rồi còn, hôn chân Chúa và khóc lóc, làm đẫm ướt chân Ngài. Cảnh tượng này có lẽ đã gây xúc phạm đối với những người công chính hiện diện, hôm ấy. Trình thuật kể chi tiết như thế, là để: nêu lên hai thái cực của hai loại người mắc lỗi. Hai thái cực này có thể gây khó chịu cho nhân vật chính được mời, là Đức Ki-tô.
Lỗi của Biệt Phái Si-môn, là: tuy mời Đấng Thiên Sai Đức Chúa, nhưng ông lại không làm thủ tục xã giao đúng với qui cách của nhà chủ, tức: ông ta đã không rửa chân, không ôm hôn hoà bình, không đổ dầu lên tóc, cả đến cử chỉ sám hối – ăn năn, cũng không. Cảnh trí trong truyện, còn dẫn đến tình huống gay hơn: khi Chúa quay về phía người phụ nữ từng phạm lỗi khi trước, Ngài nói: “Tội của chị nhiều thật đấy, nhưng đã được tha; bằng chứng là chị đã yêu mến nhiều.” ( Lc 7, 47 ).
Trình thuật Phúc Âm, ngay từ đầu cho thấy: các xử sự của Đức Ki-tô rất nhẹ nhàng, tự do và an bình. Ngài chẳng tỏ dấu hiệu gì là bất an, hoặc lúng túng. Chẳng ra lệnh cho người phụ nữ ngưng ngay các hành vi dễ gây ngộ nhận, như thế. Bởi, với người đời, chị luôn luôn bị coi là người tội lỗi, mà lại dám có cử chỉ khiếm nhã, với Đấng Hiền Từ, Yêu Thương là Đức Ki-tô, sao ?
Thay vì nổi giận hoặc ngượng ngùng trước những động tác có hơi xỗ sàng ấy, Đức Ki-tô đã không khiển trách chị; trái lại, Ngài tuyên bố: tội của chị đã được tha. Tuyên bố như thế, chẳng phải là: Chúa muốn chứng tỏ quyền uy Ngài có thể tha tội. Nhưng, qua hành động ấy, Ngài muốn nói với mọi người, rằng: Lòng Tin Yêu và sự hối cải của người phạm lỗi đã đem lại cho họ sự thứ tha. Tha thứ ấy, nay được thể hiện qua việc đổ tràn tình thương yêu tiếp diễn ngay sau đó.
Tình yêu và tôi lỗi, hai điều không thể đi chung, cùng sống tương hợp với nhau. Càng không thể hiện diện trong cùng một nhân vị được. Nhưng ở đây, người phụ nữ đã bày tỏ lòng chị đã tin-yêu Đức Chúa thật sự, nên cũng vì tình thương ấy, mọi lỗi phạm của chị đã trở thành những sơ xuất đã làm trong quá khứ. Hiện tại, khi được thứ tha, tâm hồn chị đã trở nên trong trắng. Rất nhiều. Xem như thế, tình thương yêu xóa bỏ được mọi tì vết dù rất lớn, trong quá khứ. Quá khứ, không còn là điều quan trọng. Nhưng hiện tại, mới cần quan tâm.
Thời nay, người đời vẫn thường chú trọng đến những gì người khác đã làm trong quá khứ. Vẫn cứ chụp lên đầu những người làm điều sai quấy bằng các nhãn hiệu/tên gọi rất khắt khe. Dù, họ đã biết đổi thay. Khắt khe quá, khiến đương sự dù có muốn, cũng không thoát khỏi các tiếng xấu về các lỗi phạm, thời quá khứ. Và cứ thế, tiếng xấu cứ đeo bám họ suốt chuỗi ngày còn lại. Với Đức Chúa, quá khứ tội lỗi không còn là vấn đề. Điều Ngài quan tâm đến là: Biết hối lỗi. Và, từ nay không làm như thế nữa.
Trong tâm tình này, tay trộm treo cạnh Chúa trên đồi cao hôm ấy, cũng đã ý thức. Hắn đã biết kêu gọi tình thương Chúa tha thứ. Nên, được Chúa hứa cho về với Ngài, nơi cõi phúc. Có người có thể cho đây là chuyện bất công, mà Chúa đã làm ? Nhưng hãy nhớ rằng: ý niệm công bằng của Chúa, không là sự công bằng mà trần gian chúng ta vẫn thường hiểu. Cứ thử hỏi: nếu Chúa không tha thứ; không đặt nặng đến mọi hành vi ta làm trong hiện tại, thì e rằng người người sẽ không khỏi lúng túng về các lỗi phạm thời đã qua của mình.
Đây cũng là tư tưởng chính trong bài đọc 1. Nếu chỉ kể những việc mình làm trong quá khứ thôi, thì Đa-vít sẽ là tay tội phạm tày trời. Hết cướp vợ người khác, lại giết người không gớm tay, không buông tha cả những đầu xanh vô tội. Nhưng, Đa-vít đã biết sám hối và thay đổi, nên được Gia-vê Thiên Chúa thứ tha. Nhờ sám hối và đổi thay, Đa-vít đã đi vào vòng tay ôm thương yêu của Đức Chúa. Đúng như lời Na-than nói với ông: “Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài.” ( 2 Sm 12, 13 ).
Một lần nữa, Thiên Chúa cho thấy: Ngài muốn cải hóa những người tội lỗi, chứ không xử phạt. Xử phạt là hành vi hủy hoại. Đức Chúa không bao giờ muốn hủy hoại, một ai. Thứ gì. Ngài chỉ muốn mọi người trở nên một. Một thân mình. Một cộng đoàn yêu thương. Cộng đoàn biết sống hài hoà, bình an. Rất an bình trong nội tâm.
Tư tưởng này, Thánh Phao-lô cũng bộc bạch ở bài đọc II. Tất cả mọi người hãy củng cố niềm tin vì đã có tình thương yêu tha thứ của Đức Chúa, ở với mình: “người được nên công chính không phải nhờ đã làm những gì luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô.” ( Gl 2, 16 ). Đó chính là khác biệt giữa lối hành xử của Simôn ông Biệt Phái và Ma-ri-a, người phụ nữ đầy tội lỗi.
Hôm nay, tất cả mọi người, công chính cũng như tội lỗi, nhờ có được niềm tin và sự thương mến nơi Đức Chúa, nên đã được cứu rỗi. Tin, không là động thái của tri thức. Tin, cũng không phải là mớ tín điều mà mọi người cần phải giữ. Nhưng, trước nhất và trên tất cả, tin chính là hành động của những người biết yêu thương. Biết tin tưởng vào điều gì. Vào người nào.
Nếu Agapè ( Lòng Mến ) là ngôn từ chỉ định tình Chúa thương yêu ta, thì Pistis ( Lòng Tin ), là con đường để ta đáp lại tình yêu thương ấy. Ta không thấy được Chúa, cũng không bao giờ biết được Ngài, nhưng vẫn tin vì đã dựa vào các trình thuật, các truyện kể, nơi Phúc Âm. Ở nơi đó, Đức Chúa đến với ta qua xác hèn phàm trần bằng xương bằng thịt, của Đức Ki-tô. Chính nhờ đó, ta có được bước dài củng cố lòng tin mà dâng nạp trọn mình ta cho Ngài chăm nom, thương mến. Tựa hồ như người phụ nữ tội lỗi đã làm, ngày hôm nay. Và như Thánh Phao-lô khuyên nhủ, niềm tin vào Đức Ki-tô đã cải hóa cuộc đời của ta.
Cũng giống như thánh Phao-lô, luật lệ không còn mang ý nghĩa gì, đối với ta. Luật lệ, sẽ không là chuyện cần thiết phải có, một khi cuộc sống của mọi người đã có tình thương yêu hướng dẫn. Những ai thật sự yêu thương, đều chẳng bao giờ làm điều sai quấy, ác độc. Dù họ có thể vi phạm những chấm phết của luật lệ. Và, khi đã yêu, thì luật lệ tự khắc sẽ được tuân thủ.
Nói khác đi, nếu chỉ giữ luật mà không yêu thương, thì kết cuộc cũng sẽ đưa đến những hậu quả thảm khốc, không ngừa trước. Chính vì thế, Thánh Phao-lô – người Biệt Phái hăng say bắt người phạm luật Do Thái thuở trước – đã biết từ bỏ luật lệ của nhóm mình để trở về hiến tặng trọn đời mình cho Đức Ki-tô. Và khi đã hiến trọn chính mình, thánh nhân dám nói lên câu để đời, rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.” ( Gl 2, 20 ).
Và hôm nay, cuộc sống và lời rao giảng của thánh nhân đã trở thành gương sáng, cho ta theo.
Trong dõi theo những vị trước-kia-đầy-những-tội-nay-cải-hoán-trong-yêu-thương, ta cùng nhà thơ hôm nào, ngâm lời thơ tự do muôn thuở, rằng:
Tiếng kêu là kinh cầu Những thế kỷ chờ đợi Tôi thèm sống như thèm chết Giữa hơi thở giao thoa Ngực cháy lửa Tôi gọi khẽ Em Hãy mở cửa trái tim Tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ Trong sạch như một lần sự thật. ( Thanh tâm Tuyền – Phục Sinh )
Sống lại thành trẻ thơ, là sống cuộc đời đã đổi mới. Đổi từ người chỉ biết có luật lệ sang thành người biết yêu thương. Đó mới là sự thật. Sự thật rất trong sạch. Rất Phục Sinh.
Không cần biết, em là ai. Con trai hay con gái. Đã có tuổi, hay mới chỉ có tên. Chẳng cần hỏi: TN 11-C15
Không cần biết, em là ai. Con trai hay con gái. Đã có tuổi, hay mới chỉ có tên. Chẳng cần hỏi, em thích không thái độ và hoạt động của vị tăng sư nhà Bụt. Mà, tên cũng như tuổi, nghe rất quen quen. Chừng như, ông là nhà thiền sư. Một thiền sư nhà Bụt. Thiền hay không thiền, những điều phát biểu dưới đây, đã từ vị tăng/sư rất thiền. Và, vị “thiền” rất “sư” đã phát biểu như thế này:
“Trong xã hội hiện đại, con người đã và đang mất đi năng lực lắng nghe. Ngày nay, có những ông chồng không thể nói với vợ, những người cha không thể nói được với con cái”. ( Thích Nhất Hạnh ở Bangkok- Tin BBC – 21/5/2007 )
Có đồng ý với ông hay không, cũng phải nhận rằng: nhiều người hôm nay vẫn có năng lực để thấy và để nghe, đấy chứ. Có điều là, họ chỉ muốn thấy và chỉ muốn lắng tai nghe những gì họ thích, mà thôi. Còn chuyện: có lắng nghe điều hay lẽ phải của Đấng Trên Cao không, vẫn là quà tặng phải “xin”, mới có. Phải hỏi, mới có câu trả lời. Thỏa đáng.
Và câu trả lời, về nghe-cũng-là-quà-tặng, thì: những ai thường xuyên đọc Kinh thánh sẽ gặp ra điều đó trong thư Thánh Phao-lô gửi đến cộng đoàn khắp nơi. Đặc biệt, là cộng đoàn tiên khởi, ở Cô-rin-thô.
Trong thư thứ nhất gửi cộng đoàn này, Thánh Phao-lô đề cập nhiều đến “ơn thần thiêng nói tiếng lạ” ( 1 Cr 14, 1 ). Để hình tượng hóa ơn thần thiêng này, thánh nhân dùng thân xác con người làm biểu tượng, mà so sánh. Và, mọi thành viên trong cộng đồng Dân Chúa, đều là chi thể cùng một thân mình, là Đức Ki-tô. Hễ một chị thể bị đau, cả thân mình thấy mệt. Một phần thân thể phát triển, là toàn bộ con người hưng phấn, Bởi thế, vốn là chi thể của cộng đoàn, mọi người cũng nên tiếp tay gầy dựng sao cho cộng đoàn nên tốt đẹp. Có thế, mới xứng đáng là quà tặng của Giê-su Ki-tô, Đức Chúa.
Về quà tặng, thánh Phao-lô liệt kê những gì Chúa trao ban, theo thứ tự quan yếu của mỗi món. Đại để, có người được phước làm tông đồ, kẻ thì ngôn sứ. Vị khác, rất thích hợp với vai trò thầy dạy. Chữa lành tật bệnh hoặc công việc gì khả dĩ nâng đỡ, đùm bọc những người anh em. Người có tài ăn nói, kẻ có khả năng lắng nghe. Như phụ nữ trong các buổi hội họp. Ở thời trước.
Trong thư ngắn, Thánh Phao-lô kể khá dài về kỹ năng cũng như biệt tài làm tiên tri, nói tiếng lạ. Làm tiên tri – nói tiếng lạ, chắc chắn phải là một quà tặng Chúa ban. Nhưng, không phải là không có những rắc rối kèm theo. Rắc rối, có thể là cơn xuất thần như vừa được mặc khải. Và, vị tiên tri lúc ấy chỉ bập bẹ những điều mà người nghe không thể hiểu. Ở thư, Thánh nhân còn giải thích về các hiện tượng, rằng: trừ phi người hiện diện biết các diễn nghĩa sự kiện ấy, bằng không thì quà tặng này sẽ không thành hiện thực. Bởi, quà tặng là để gầy dựng cộng đoàn. Vì lợi ích của cộng đoàn. Chứ không phải để cho cá nhân, riêng ai.
Và, tác giả thư tâm tình gửi cộng đoàn, còn minh định thêm một điều, là: quà tặng làm Ngôn Sứ và nói tiếng lạ phải được lồng trong bối cảnh của cộng đoàn. Dùng không đúng, sẽ đi đến hiện tượng náo loạn trong chính cộng đoàn các kẻ tin. Nhất là, vào buổi tụ tập để nghe nhau. Nghe, chứ không phải thi nhau nói. Và, khi đã có người nói, dù là tiếng lạ hay chỉ là ngôn ngữ của vị Tiên Tri, thì mọi người nên lắng nghe.
Nói cho cùng, cộng đoàn nào cũng thế, người người thường chỉ thích nói. Chứ, không thích nghe. Cho dù, nghe vào những lúc lòng trí còn đang “động”. Rất động, vì những sinh hoạt của đời sống. Luôn luôn động. Chứ không tĩnh, như các buổi thiền. Và, làm sao có thể tĩng và “thiền” suốt được, khi con người mình đang động. Nhất thứ, mình lại không phải như các bậc “thiền” sư, đắc Đạo. Tức, những sư tổ chyên môn thiền, hoặc chuyên lắng nghe. Nghe con tim mình. Tim của thiên nhiên, vạn vật.
Thế gian hôm nay, không phải “đã mất đi khả năng nghe”. Mà chỉ là: không có nhiều cơ hội và thời gian, để nghe. Đâu phải, ai cũng có khả năng và thì giờ để nghe. Để thiền, đâu. Ngay như, các vị mang danh là “thiền sư” cũng thích nói nhiều, chứ đâu muốn nghe nhiều. Cũng thế. Đâu phải “ngày nay có những ông chồng không thể nói với vợ mình”, chẳng phải vì ông ta hoặc vợ ông không chịu nghe. Không muốn nghe. Mà vì, ai cũng chỉ thích nói. Cả vợ chồng, con cái, lẫn sư cha.
Thành thử, như có nói ở trên. Nghe và lắng nghe không chỉ là quan năng sẵn có đi liền với thân xác, khi con người sinh ra. Nghe, là quà tặng từ Trên. Chẳng đúng sao ? Này nhé: ngay từ lúc mới sinh, trẻ bé đã có những hai tai. Và, chỉ một miệng. Bé có la, có khóc nhiều cho lắm thì cũng chỉ độc nhất từ một miệng. Như thế, đâu có nghĩa bảo là: bé đã mất đi năng lực “lắng nghe”. Trái lại mới đúng. Bởi, bé đã biết nghe từ lúc còn trong bụng mẹ. Nhưng khi lọt lòng, tiếp xúc với đời, bé mới bắt đầu biết la. Biết khóc. Và, cũng biết nghe.
Nói cho cùng, muốn cho quan năng “biết lắng nghe” như quà tặng đích thật, tưởng cũng nên liên tưởng đến câu thơ, bài hát ta vẫn nghêu ngao từ thuở nào:
“Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong… quá khứ.”
Lắng nghe, quả là quà tặng. Quà tặng ấy, nếu không xin sẽ không có. Nhưng vấn đề là, khi có nó rồi, mình còn giữ nó cho tốt, hay không.
TRẦN NGỌC MƯỜI HAI, đang nghe đấy, nhưng vẫn cứ hỏi
Suy Niệm Lời Chúa - Chúa Nhật Thứ XI Thường Niên (Luca 7:36-8:3)
Albrecht Durer là một họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng của nước Ðức vào thế kỷ thứ 16. Một: TN 11-C16
Albrecht Durer là một họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng của nước Ðức vào thế kỷ thứ 16. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là bức tranh "Ðôi Tay Cầu Nguyện."
Sự tích của họa phẩm này như sau: Thuở hàn vi, Durer kết nghĩa với một người bạn chí thân. Cả hai đã thề thốt là sẽ giúp nhau trở thành họa sĩ. Ðể thực hiện ước nguyện đó, người bạn của Durer đã chấp nhận làm thuê làm mướn đủ cách để kiếm tiền cho Durer ăn học thành tài. Theo thỏa thuận, sau khi đã thành công, Durer cũng sẽ dùng tiền bạc của mình để giúp cho người bạn ăn học cho đến khi thành đạt.
Thế nhưng khi Durer đã thành tài, danh tiếng của anh bắt đầu lên, thì đôi tay của người bạn cũng đã ra chai cứng vì lam lũ vất vả, khiến anh không thể nào cầm cọ để học vẽ nữa.
Một ngày nọ, tình cờ bắt gặp đôi tay của người bạn đang chắp lại trong tư thế cầu nguyện, Durer nghĩ thầm: "Ta sẽ không bao giờ hồi phục lại được năng khiếu cho đôi bàn tay này nữa, nhưng ít ra ta có thể chứng minh tình yêu và lòng biết ơn của ta bằng cách họa lại đôi bàn tay đang cầu nguyện này. Ta muốn ca tụng đôi bàn tay thanh cao và tấm lòng quảng đại vị tha của một người bạn".
Thế là kể từ hôm đó, Durer đã để hết tâm trí vào việc thực hiện bức tranh đó. Ðó không phải chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, nhưng là tất cả tình yêu và lòng biết ơn mà ông muốn nói lên với một người bạn. Bức tranh đã trở thành bất hủ, nhưng càng bất hủ hơn nữa đó là tấm lòng vàng của người bạn và tâm tình tri ân của nhà họa sĩ.
Phúc Âm kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa Chúa Giêsu và một người đàn bà mà mọi người đang nhìn bằng một con mắt khinh bỉ, bởi vì bà ta bị xếp vào loại người tội lỗi... Bất chấp mọi dòm ngó và xì xào, người đàn bà đã tiến đến bên Chúa Giêsu, đập vỡ một bình dầu thơm, đổ trên chân Chúa Giêsu và dùng tóc lau chân Ngài.
Nhiều người xì xào, tỏ vẻ khó chịu. Chúa Giêsu đã lên tiếng biện minh cho người đàn bà và Ngài đã tiên đoán: nơi nào tin Mừng được loan báo thì nơi đó cử chỉ của người đàn bà được nhắc tới.
Qua lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: tất cả mọi nghĩa cử, dù là một hành vi nhỏ bé đến đâu và làm cho mọi người nhỏ mọn đến đâu, cũng được ghi nhớ muôn đời.
Tiền của có thể qua đi, danh vọng có thể mai một, nhưng những việc làm bác ái luôn có giá trị vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã nói: trong ba nhân đức Tin, Cậy, Mến, chỉ có Ðức Mến là tồn tại đến muôn đời.
Cuộc đời của mỗi người Kitô chúng ta cũng giống như một bức tranh cần được hoàn thành. Mỗi một nghĩa cử chúng ta làm cho người khác là một đường nét chúng ta thêm vào cho bức tranh. Khuôn mặt của chúng ta có thể khô cằn, hoặc rướm máu vì những cày xéo của những thử thách, khó khăn, đôi tay của chúng ta có thể khô cứng vì những quảng đại, quên mình. Tuy nhiên, những đường nét bác ái sẽ làm cho khuôn mặt ấy trở thành bất tử...
Mađalêna là một thiếu phụ tội lỗi. Chắc hẳn nàng đã có một dĩ vãng bê bối, khiến cho mọi: TN 11-C17
Mađalêna là một thiếu phụ tội lỗi. Chắc hẳn nàng đã có một dĩ vãng bê bối, khiến cho mọi người, một khi biết tiếng, đều phải tránh xa, như tránh một cơn bệnh truyền nhiễm. Thế nhưng, kể từ ngày được nghe Chúa giảng dạy, nàng đã quyết tâm ăn năn sám hối và làm lại cuộc đời.
Hôm đó, được tin Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông Simon biệt phái, bất chấp mọi con mắt dòm ngó và mọi miệng lưỡi chê bai, nàng đã tới, đổ thuốc thơm xức chân Ngài, rồi lay tóc mình mà lau, để biểu lộ tấm lòng tan nát khiêm cung.
Rồi sau đó một thời gian, trong cuộc thương khó đang khi các môn đệ bỏ Chúa mà chạy trốn, thì nàng vẫn can đảm đứng dưới chân cây thập giá và lo toan việc chôn cất Ngài. Chính vì thế, nàng là người đầu tiên có diễm phúc được Chúa hiện ra sau khi sống lại và được Chúa sai đi loan báo tin mừng Phục sinh cho các môn đệ khác.
Từ hình ảnh và việc làm của Mađalêna, chúng ta đi vào cuoc sống riêng tư. Thực vậy, con người tự bản chất vốn đã là như một chiếc bình sành có thể rơi vỡ bất kỳ lúc nào. Và thực tế cho thấy nhiều người trong chúng ta cũng đã từng sa ngã, vấp phạm nặng nề, chẳng hạn như Mađalêna, như Phêrô, như Augustinô…Thế nhưng, điều quan trọng đó là chúng ta phải biết tin tưởng vào lòng Chúa xót thương, để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và quay trở về với Ngài. Hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa đã phán:
- Không phải người khoẻ mạnh, mà lànhững kẻ yếu đuối mới cần tới thầy thuốc…Ta đến không phải để tìm kiếm người công chính, nhưng đến để tìm kiếm kẻ tội lỗi…Một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Cũng như ngày hôm nay, Ngài đã xác quyết với ông Simon biệt phái:
- Tội của nàng tuy nhiều, nhưng đã được tha thứ hết, bởi vì nàng đã yêu mến nhiều. Với chúng ta cũng thế. Việc thứ nhất chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy dứt khoát với tội lỗi.
Như chúng ta đã biết: Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và tốt lành vô cùng, còn tội lỗi thì xấu xa gớm ghiếc. Vì thế, Thiên Chúa và tội lỗi không thể nào đội trời chung với nhau, không thể nào cùng nhau sánh bước đi chung một con đường. Do đó, chúng ta cũng không được phép có thế đứng trung lập, hay có thái độ lửng lơ con cá vàng, nhung phải dứt khoát chọn Chúa hay chọn tội lỗi, thuộc hẳn về Chúa hay thuộc hẳn về tội lỗi, như một câu danh ngôn:
- Sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước uốn trôi.
Vì thế, muốn trở về cùng Chúa, thì lý đương nhiên chúng ta phải dứt khoát với tội lỗi. Sự dứt khoát này chính là bước chân đầu tiên trên nẻo đường tìm về với Chúa.
Tiếp đến, việc thứ hai chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy yêu mến Chúa.
Đúng thế, mến Chúa như Mađalêna, đã bất chấp mọi sự dòm ngó và soi mói. Mến Chúa như Phaolô, đã dấn thân một cách trọn vẹn cho những hoạt động tông đồ, truyền bá Phúc âm, để chứng tỏ cho mọi người thấy: Dù thiên đàng hay hoả ngục, dù sự sống hay sự chết, dù hiện tại hay tương lai, dù bất cứ tạo vật nào cũng không thể tách biệt ngài ra khỏi lòng mến Đức Kitô.
Mức độ được tha thứ lệ thuộc trực tiếp vào lòng yêu mến của chúng ta. Càng yêu mến nhiều, thì càng được tha thứ nhiều. Hay như lời thánh Augustinô đã nói:
- Ama et fac quod vis, nghĩa là hãy yêu mến rồi mốn làm chi cũng được.
Bởi vì mọi hành động xuất phát từ lòng yêu mến chân thành, đều có được một giá trị thiêng liêng to lớn trước mặt Thiên Chúa.
Bữa tiệc hôm nay diễn ra trong một khung cảnh đầy mâu thuẫn. Một bên là căn nhà sang trọng: TN 11-C18 FB
Bữa tiệc hôm nay diễn ra trong một khung cảnh đầy mâu thuẫn. Một bên là căn nhà sang trọng của thủ lĩnh biệt phái, một bên là Chúa Giêsu ăn mặc đơn sơ trong bộ quần áo của dân nghèo. Một bên là ông Simon người được coi là đạo cao đức trọng, một bên là người phụ nữ bị coi là đại tội nhân. Một bên là mâm cao cỗ đầy, mọi người vui tươi ăn uống, một bênlà người phụ nữ quì mọp sát đất, không dám ngẩng mặt lên, gục đầu khóc lóc. Chính trong khung cảnh đầy mâu thuẫn, trái ngược ấy, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu thương bao la của Người.
Đó là tình yêu bao dung chấp nhận mọi người. Chúa chấp nhận ông Simon dù Chúa không ưa lối sống của ông và của những người biệt phái, vì họ tự tôn cho rằng mình đạo đức mà khinh miệt những người khác. Hơn nữa, lối sống đạo của họ chỉ là hình thức giả dối bề ngoài. Thế nhưng Chúa vẫn chấp nhận ông, chấp nhận lời mời của ông, đến dự tiệc với ông, ngồi đồng bàn với ông, chia sẻ món ăn và câu chuyện với ông. Không chỉ chấp nhận ông Simon, Chúa còn chấp nhận người phụ nữ bị coi là tội lỗi công khai. Chị vào nhà trong ánh mắt khinh thị của mọi người. Nhưng Chúa vẫn điềm nhiên để chị khóc ướt chân mình. Chúa đã để chị hôn chân mình. Chúa đã để chị lấy tóc lau chân mình. Chúa đã để chị xức dầu tràn đầy trên chân mình. Còn hơn thế nữa, Chúa lên tiếng công khai bênh vực chị. Nếu Chúa công khai bày tỏ thịnh tình với ông Simon khi đến nhà ông dự tiệc thì Chúa cũng công khai bày tỏ thịnh tình với người phụ nữ khi lên tiếng bênh vực chị. Chúa chấp nhận tất cả mọi người.
Đó là tình yêu bao dung tha thứ mọi tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ tội lỗi là thái độ bao dung tha thứ. Chúa để cho chị vào nhà. Hơn thế nữa, Chúa để cho chị gục đầu vào chân Chúa, khóc ướt chân Chúa, lấy tóc lau chân Chúa và xức dầu thơm lên chân Chúa. Chị làm điều ấy ở nơi kín đáo còn đỡ gây chống đối, đằng này chị làm điều ấy công khai trước mắt mọi người, mà lại là những người ghen ghét, chống đối và kết án chị. Aùnh mắt và thái độ của những người chung quanh, đặc biệt là của ông Simon không lọt ngoài tầm mắt Chúa. Nhưng Chúa vẫn để chị làm những gì biểu lộ lòng thống hối, lòng yêu mến của Chị. Sau đó Chúa còn công khai lên tiếng ca ngợi tình yêu và niềm tin của Chị và công khai tha thứ cho chị.
Đó là tình yêu bao dung hoán cải. Chúa không ưa thói hợm hĩnh, giả hình của người biệt phái. Nhưng Chúa vẫn tìm cách hoán cải họ. Vì thế hôm nay Chúa nhận lời đến nhà ông Simon dự tiệc. Thấy thái độ của ông đối với người phụ nữ và những ý nghĩ thầm kín của ông phê phán Chúa, Chúa không để ông trong lầm lạc, nhưng đã lên tiếng giải thích cho ông hiểu những điều then chốt trong đời sống đạo và những gì có giá trị thực sự trước mặt Chúa. Chúa phải tốn công giải thích cặn kẽ vì Chúa yêu thương ông, muốn ông hiểu và hoán cải tâm hồn.
Đó là tình yêu ban ơn cứu độ. Tất cả những gì Chúa làm là mong đem ơn cứu độ cho loài người, cho tất cả mọi người không loại trừ một ai. Chúa muốn cứu độ cả ông Simon là người tưởng lầm mình đạo đức nhưng chỉ là đạo đức bên ngoài. Chúa muốn cứu độ cả người phụ nữ bị mang tiếng tội lỗi, bị mọi người khinh miệt, loại trừ. Tình yêu của Chúa không phải là thứ cảm tính nhất thời, đem đến an ủi nhất thời. Đó là tình yêu đem đến ơn cứu độ, đem đến hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu cho con người.
Lạy Chúa, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Lạy Chúa, xin cứu độ con. Amen. KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thường xét đoán và khinh miệt, loại trừ người khác như ông Simon biệt phái không? 2- Bạn có thái độ khiêm nhường thống hối, tha thiết yêu mến như người phụ nữ tội lỗi không? 3- Chúa Giêsu nêu gương gì cho bạn trong cách đối xử với mọi người, người tội lỗi cũng như người tự xưng mình công chính? 4- Khi yêu thương người khác, bạn có dẫn người khác đến ơn cứu độ không?
Thiên Chúa thật sự giống điều gì? Có phải Ngài cách biệt, xa cách không thể tiếp cận với chúng: TN 11-C19
Thiên Chúa thật sự giống điều gì? Có phải Ngài cách biệt, xa cách không thể tiếp cận với chúng ta và thế giới của chúng ta không? Chúng ta có biết Thiên Chúa giống như điều gì không?
Chúa Giêsu đã dạy cho Giáo Hội của chúng ta một cách mạnh mẽ rằng là chúng ta có thể thấy sự mặc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa Giêsu là người con thần linh của Thiên Chúa, Ngài là hình ảnh và giống Thiên Chúa cách hoàn hảo. Đến thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian, Chúa Giêsu đã trở nên con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Nhưng trong nhân tính của Ngài, Chúa Giêsu thì giống như một kế hoạch, một dự định và dự định đó mặc lấy thân xác con người. Chúng ta học biết Thiên Chúa giống điều gì nơi con người của Chúa Giêsu.
Khi chúng ta thấy Chúa Giêsu trong Phúc Âm và lắng nghe lời Người, chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa là một người yêu vĩ đại, Ngài đã gởi Con Trai của Ngài đi tìm những con chiên lạc, Ngài săn đón chúng ta như là người Cha tiếp đón đứa con hoang đàng. Chúng ta đã biết rằng khi Ngài hấp hối, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: “Lạy Cha xin tha cho chúng”. Ngài tiếp tục đi xa hơn để hiến tặng lời tha thứ: “Họ không biế những gì họ làm” đó là những tâm tình của Thiên Chúa, Chúa của chúng ta.
Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay chúng ta học được bài học rất kỳ diệu. Chúa Giêsu trình bày Thiên Chúa như Đấng không chỉ tìm kiếm những người tội lỗi nhưng dùng mọi hình thức để chinh phục tình yêu của chúng ta. Simon, một người Pharisiêu đã tin vào Thiên Chúa nhưng có những hiểu biết rất giới hạn về Thiên Chúa. Ông đã không thể hiểu tại sao Chúa Giêsu có thể để cho một người đàn bà tội lỗi rửa chân cho mình. Ông không thể nhận biết rằng Chúa Giêsu rất muốn tha thứ tội lỗi cho cô ta như cô ta đã đáp trả với tình yêu. Chúa Giêsu đã muốn chính phúc trái tim của cô ta.
Bởi vì yêu nhiều mà cô ta được tha thứ nhiều, cô ta đã có một tình yêu lớn lao. Trong ý nghĩa này, Chúa Giêsu là”đi săn của Nước Trời” đã theo đuổi người đàn bà như Chúa đã theo đuổi vua Đavit. Vua Đavit đã phạm tội nặng là tội ngoại tình và muốn che lấp tội lỗi của mình bằng tội sát nhân. Trong một kỷ nguyên mà một số nơi đã thực hành trong Giáo Hội là tội ngoại tình và tội sát nhân thì không thể được tha thứ. Đó là một tội năng khó mà tha thứ nổi như chúng ta đã thấy trong bài đọc I. Thiên Chúa đã gởi tiên tri Nathan đến để ban cho Đavit một ân sủng thống hối. Trong tiếng Do Thái, tên Đavit có nghĩa là”người yêu dấu”, Thiên Chúa đã yêu thương Đavit rất nhiều và Người đã xác quyết rằng Ngài đã không đánh mất người con này. Thiên Chúa chỉ chờ sự trở lại và thống hối của Đavit để chùi rửa những tội lỗi sát nhân và ngoại tình của Đavit, sự tha thứ của Ngài đã chinh phục trái tim của Đavit.
Thiên Chúa cũng muốn chinh phục trái tim chúng ta như thế, Ngài không miễn trừ cho Người Con độc nhất của Ngài để cho tội lỗi của chúng ta được tha thứ. Trong mọi Thánh Lễ chúng ta nghe thấy Chúa Giêsu tuyên bố: “Đây là chén Máu Ta, Máu Giao Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”. Chúng ta đã hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói với chúng ta qua vị linh mục. Chúng ta là”các con”, những người mà Đức Kitô đã đổ máu mình ra để cho chúng ta được tha tội.
Chúng ta đừng bao giờ ngưng suy niệm về sự dữ dằn mà tình yêu Thiên Chúa đã phải chịu đựng vì chúng ta như chúng ta nhìn thấy Người trên thánh giá. Hạnh phúc thay chúng ta bởi vì tội lỗi của chúng ta đã được lấy đi. Những gì mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta đáp trả lại?
Một đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông tìm được một cái đèn cũ đốt bằng mơ: TN 11-C20
Một đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông tìm được một cái đèn cũ đốt bằng mỡ từ trên tầng gác để đồ cũ. Tình trạng của đèn thật thảm hại, bóng đèn nứt và đen thui. Dù sao, ông cũng đốt đèn và nó toả ra một ánh sáng yếu ớt. Đã vậy, bấc đèn bốc khói toả ra một mùi khét lẹt. Thật là quá mức đối với một người thích mọi vật hoàn hảo như ông. “Cái đèn này thật vô dụng nên vứt nó đi”, ông nói với vợ ông. Nói xong ông tắt đèn dầu, lấy nến ra đốt.
Ba tuần sau, lại cúp điện. Lần này, vợ ông đem lại ánh sáng. Bà lấy ra một cái đèn dầu đẹp, đốt lên. Một ánh sáng màu hồng toả ra làm cả nhà thích thú.
“Cái đèn này tuyệt thật!” ông chồng nói: “Bà mua nó ở đâu?”
“Đó là cái đèn mà ông muốn vứt đi đấy”, bà đáp.
Sau khi đến thật gần để xem xét, ông nói: “Chắc tốn khá nhiều tiền để tân trang nói như thế này?”
“Thật ra chẳng tốn gì mấy”, bà đáp. “Tôi chỉ mua một cái bấc mới và một cái bóng. Nhưng tôi phải bỏ nhiều thời gian và công sức lau chùi và đánh bóng nó. Tôi đa nhận thấy dưới lớp bụi bẩn là một cái đèn đẹp. Và ông không thấy rằng tôi có lý sao?”
“Tôi hoàn toàn đồng ý với bà”, ông đáp.
Vứt bỏ một cái đèn dầu thì dễ hơn vứt bỏ thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Với con người cũng thế, gán cho họ một loại người nào đó rồi xếp xó họ thì dễ dàng hơn việc đối xử với họ như bạn bè và giúp đỡ họ vượt lên sự khốn cùng của họ. Hoán cải một người là nhiệm vụ tế nhị và khó khăn.
Ông Simon là một người Pharisêu hay biệt phái, và những người biệt phái “tách biệt” họ với những người tội lỗi. Vì thế, ông Simon cảm thấy bị xúc phạm khi thấy Đức Giêsu cho phép một người tội lỗi không chỉ đến gần Người mà còn sờ vào Người nữa.
Trong đầu óc của Simon, người phụ nữ ấy ở bên ngoài ơn cứu chuộc: chị ta là người tội lỗi, và luôn luôn là người tội lỗi. Vì thế, ông không muốn dính dáng gì đến chị ta. Bạn có thể nghĩ rằng Đức Giêsu cũng đã bị một người như chị ta quấy nhiễu. Tuy nhiên Người cho phép chị ta đến gần Người và sờ vào Người không có một lời ám chỉ nào để lên án.
Trong xã hội chúng ta, có nhiều người không chấp nhận khả năng người ta có thể thay đối? Họ không muốn cho người ta một cơ hội thứ hai. Một nền văn hoá không tin vào sự cứu chuộc là một nền văn hoá không hy vọng.
Đức Giêsu biết rõ người phụ nữ ấy là một người tội lỗi. Nhưng Người nhìn thấy nơi chị một khía cạnh khác tốt đẹp hơn. Người thấy rằng chị khao khát được coi như một con người chứ không phải là một đồ vật. Bằng việc vui lòng chấp nhận sự phục vụ khiêm hạ và yêu thương, Người giúp chị tin vào khía cạnh tốt đẹp ấy của mình để bộc lộ nó ra. Thật tuyệt vời khi chúng ta cảm thấy có người tín nhiệm chúng ta, không xét đoán hoặc lên án nhưng yêu thương chúng ta.
Chúng ta phải học nhìn ra điều tốt lành nơi một người khác và xác nhận điều đó. Khuyết điểm của người khác chỉ có thể được sửa chữa bằng cách yêu thương họ. Chúng ta không thể yêu thương một ai nếu chúng ta không chấp nhận con người thật của họ. Lên án không giải thoát mà áp bức. Chúa Giêsu không lên án người phụ nữ. Người thấy sự đau xót, khiêm hạ, lòng can đảm và yêu mến của chị. Người khẳng định khía cạnh ấy của chị.
Người phụ nữ ấy trước đây, chưa bao giờ cảm nghiệm một điều gì giống như thế. Chị chưa bao giờ gặp được một người tốt và hôm nay Đức Giêsu là người tốt nhất chị gặp. Người không chỉ tha thứ mà còn yêu thương chị. Chị hạnh phúc đến nỗi chi gần như kinh hoàng về niềm hạnh phúc ấy. Khi họ ra đi, và như người Châu Phi nói, chị bước đi cùng với trăng sao.
Trong Kinh Thánh chúng ta đọc câu chuyện Vua Đavit đem lòng yêu thương người vợ của một: TN 11-C21
Trong Kinh Thánh chúng ta đọc câu chuyện Vua Đavit đem lòng yêu thương người vợ của một chiến sĩ của ông là Urgia. Để cưới được bà, ông đã đưa Urigia ra mặt trận với hy vọng ông này bị quân thù giết chết, và điều này đã xảy ra. Làm việc hại người như thế quả là ghê tởm. Ngôn sứ Nathan quyết định vạch trần tội lỗi của Đavit. Tuy nhiên, thay vì trực tiếp tố giác Đavit, ông kể cho nhà vua nghe một câu chuyện đại khái như sau:
“Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và bò nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông, nó ăn chúng bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái.
“Một hôm có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, khong bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Trái lại, ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông”.
“Vua Đavit bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Nathan: “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết!” Ông Nathan nói với vua Đavit: Kẻ đó chính là Ngài!”
Vua Đavit công nhận điều Nathan muốn nói. Và ông nói: “Tôi đã phạm tội chống Đức Chúa”. Nathan làm cho ông yên tâm rằng Thiên Chúa đã tha thứ cho ông.
Bằng một cách đề cập tế nhị, Nathan khiến Đavit có thể nhìn thấy tính chất nghiêm trọng của tội lỗi của mình và chính mình lên án nó. Nỗ lực của Nathan đạt đến tầm mức cao cả nhất ở chỗ người bị lên án nhìn thấy điều ác của mình đã làm, đưa ra sự phán xét về chính mình và hối hận: “Một sự đau nhói của lương tâm có giá trị hơn nhiều trận đòn roi” (Kinh Talmud).
Giờ đây chúng ta hãy trở lại để tìm hiểu về người phụ nữ tội lỗi trong Tin Mừng. Chị ta phải lấy hết can đảm để bước vào ngôi nhà của Pharisêu và đến trước mặt Đức Giêsu trong tình trạng tội lỗi của mình. Khi làm như thế, chị càng dễ bị làm cho tổn thương nặng nề. Chị liều mình hứng chịu sự lên án và sỉ nhục của dân chúng.
Thay vì xua đuổi chị, Đức Giêsu đã đón nhận chị một cách tử tế, dịu dàng và khoan dung. Người đã xúc động sâu xa bởi các tội lỗi của chị. Chị đã đau đớn biết tội của mình, và hối hận về những tội ấy. Người bảo đảm chị đã được tha thứ. Không những thế, Người để cho chị hiểu rằng chị được yêu thương. Như thế chị có thể thực hiện một sứ bắt đầu mới mẻ.
Một ngày kia một người bạn đến thăm Michelangelo. Ông thấy nhà điêu khắc vĩ đại đang đục đẽo một tảng đá cẩm thạch lớn. Sân nhà phủ đầy những mảnh cẩm thạch vỡ và bụi bặm. Một cảnh tượng không lấy gì đẹp lắm.
“Chúa ơi, ông đang làm gì vậy?” người bạn hỏi.
“Tôi đang thả thiên thần bị giam trong khối cẩm thạch này ra” Michelangelo đáp.
Người Pharisêu Simon nhìn người phụ nữ chỉ thấy chị ta là tội nhân và mãi mãi là tội nhân. Đức Giêsu nhìn người phụ nữ và thấy chị ta là một người phụ nữ tội lỗi có khả năng trở thành một vị thánh.
Nhờ có sự gặp gỡ với Đức Giêsu, người phụ nữ bắt đầu sống một đời sống mới tốt đẹp hơn. Và chị ta có thể hành trình tren con đường ấy xa hơn những người đã xét đoán chị. Bằng việc tiếp xúc tử tế và chấp nhận quà tặng của chị với lòng khoan dung. Đức Giêsu đã thổi gió vào cánh buồm đời chị.
Câu chuyện rất sống động, đến nỗi có người tin rằng Luca hẳn là một nghệ sĩ. 1. Mọi việc này: TN 11-C22
Câu chuyện rất sống động, đến nỗi có người tin rằng Luca hẳn là một nghệ sĩ.
1. Mọi việc này diễn ra trong sân nhà ông Simon, là một người thuộc nhóm Pharisêu. Các nhà của giới giàu có thường được xây quanh một khu sân rộng như một công viên trống trải. Thường trong sân có vườn cây và giếng nước, vào mùa nóng nực người ta bày bàn ăn tại đó. Ở Palestine mỗi khi có một rapbi đến nhà nào dự tiệc, thì mọi người được tự do đến nghe những lời khôn ngoan do rapbi dạy. Thói quen đó giải thích sự có mặt của người đàng bà này trong nhà Simon. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây: chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn bình an. Đó là dấu hiệu của lòng kính trọng, nhất là trong trường hợp gặp một rapbi danh tiếng. Đường sá đầy cát bụi và giày chỉ là những đôi dép đơn giản nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân khách để rửa sạch bụi và làm mát chân khách. Người ta cũng đốt hương liệu cho thơm, hoặc đổ giọt dầu hoa hồng lên đầu khách. Phép lịch sự đòi hỏi những việc đó, nhưng trong trường hợp này chủ nhà lại bỏ hết. Khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc. Họ dựa trên những gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, tay mặt để tự do, hai chân duỗi thẳng về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đó cho phép người đàn bà có thể đứng gần dưới chân Chúa Giêsu.
2. Simon là một Pharisêu, một người thuộc nhóm biệt phái. Tại sao một người như vậy lại mời Chúa Giêsu tới nhà mình? Có thể vì những lý do sau:
a. Có thể ông là người có lòng mến phục Chúa Giêsu, vì không phải mọi biệt phái đều thù nghịch với Ngài (x.Lc 13,31). Nhưng bầu không khí thiếu lịch sự đã bác bỏ lý do này.
b. Có thể Simon mời Chúa Giêsu vào nhà mình để gài bẫy Ngài, mong bắt gặp một câu nói hay một hành động nào nơi Ngài để có cớ buộc tội Ngài. Simon có thể là một tên cò mồi khiêu khích, song lẽ đó không vững vì câu 40 cho biết Simon tôn tặng Chúa Giêsu danh hiệu rapbi.
c. Rất có thể Simon là một người thích nổi tiếng, với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời chàng thanh niên kỳ lạ này của xứ Galilê đến ăn tiệc nhà mình. Vì thế, ta hiểu tại sao có sự pha trộn vừa có vẻ tôn kính lại vừa bỏ qua phép lịch sự phải giữ. Hẳn Simon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giêsu.
3. Người đàn bà trên đây nổi tiếng là xấu nết, một gái mãi dâm. Chắc đã có lần nàng đứng bên lề đám đông nghe Chúa Giêsu giảng dạy, và nàng đã nhìn thấy nơi Ngài một bàn tay có thể nâng nàng lên khỏi vũng bùn của đời mình. Theo tập tục của phụ nữ Do Thái, một chai nhỏ dầu thơm nguyên chất, quen gọi là bình ngọc, rất đắt tiền thường được đeo trên cổ. Nàng chỉ ước ao được đổ bình dầu thơm đó lên chân Ngài, vì đó là tất cả những gì nàng có thể dâng cho Ngài. Nhưng khi nhìn thấy Ngài thì nước mắt nàng đổ ra và chảy xuống chân Ngài. Một phụ nữ Do Thái đi ra ngoài với mớ tóc buông xõa là đã phạm lỗi lầm lớn về tiết hạnh. Trong ngày cưới, cô gái Do Thái buộc tóc lên và từ đó không bao giờ nàng xõa tóc dài của mình nơi công chúng, tỏ ra nàng quên hẳn mọi người, chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu mà thôi.
Cả câu chuyện bày tỏ một sự trái ngược giữa hai thái độ của lòng và trí.
1. Simon không biết sự thiếu thốn của mình, vì thế không cảm biết tình yêu và cũng vì thế ông đã không nhân được ơn tha thứ. Simon tin tưởng mình là người tốt trước mặt loài người và Thiên Chúa.
2. Người đàn bà thì nhận biết mình thiếu thốn vô cùng, vì thế nàng tràn ngập tình yêu đối với Đấng có thể ban nhu cầu cho mình, và cũng vì thế nàng nhận được ơn tha thứ.
Tinh thần tự kiêu, tự mãn ngăn cách loài người với Thiên Chúa, và điều lạ là hễ ai càng tốt thì càng cảm biết tội lỗi mình cách sâu xa. Phaolô nói về các tội nhân: “Trong số đó tôi là đầu” (2Tm 1,15). Thánh Phanxicô ở Assie nói: “Không đâu có một tội nhân khốn nạn hơn tôi”. Thật rất đúng khi nói rằng tội nặng nhất là không nhận biết tội mình, nhưng ai biết mình thiếu thốn sẽ được mở cửa vào ơn tha thứ của Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu và vinh hiển lớn nhất cho tình yêu là được thấy người đời tìm đến tình yêu.
LÊN ĐƯỜNG TRUYỀN GIÁO (8,1-3)
Thì giờ mà chúng ta nhìn thấy sắp sửa đến thì nay đã đến. Chúa Giêsu đang lên đường. Cửa hội đường không còn mở cho Ngài như trước nữa. Có thể nói, Ngài đã bắt đầu trong Giáo Hội, là nơi có một cộng đoàn sẵn lòng hưởng ứng và tiếp nhận những sứ giả của Chúa. Nhưng thay vì được hoan nghênh, Ngài đã gặp chống đối, thay vì thính giả lắng nghe, Ngài đã gặp các Kinh sư và Pharisêu là những kẻ chỉ rình mò bắt bẻ Ngài trong lời nói và việc làm. Vì thế, Ngài ra ngoài, giảng dạy trên đường cái, nơi sườn đồi hay bên bờ hồ.
1. Một lần nữa chúng ta đối diện với sự kiện mà trước đây chúng ta đã thấy. Đoạn Kinh Thánh này nói đến một nhóm phụ nữ giúp đỡ Ngài bằng của cải của họ. Việc nâng đỡ một rapbi bao giờ cũng được coi là một việc đạo đức, cho nên những tín hữu sốt sắng của Chúa Giêsu giúp đỡ Ngài theo cách đó là việc phù hợp với thói thường. Nhưng đối với số phụ nữ này cũng như đối với các môn đệ, chúng ta nhận thấy đó là một nhóm người pha trộn rất kỳ lạ. Có Maria ở Mácđala, là người được Chúa trừ bảy quỷ. Rõ ràng nàng đã có một quãng đời tối tăm, ghê rợn. Lại có bà Gioanna là vợ Khuda, quan nội vụ của vua Hêrôđê. Một vị vua có nhiều lợi lộc và tài sản, quan nội vụ là người quản trị các vấn đề tài chánh của nhà vua (quản lý). Trong đế quốc Rôma, dù trong các tỉnh dưới quyền cai trị của tổng trấn do thượng viện cắt đặt, thì hoàng đế cũng đặt các quan nội vụ riêng để coi sóc tài sản mình. Vì vậy, không có vị quan nào quan trọng hơn và được tín nhiệm hơn quan nội vụ. Thật là điều lạ lùng khi thấy Maria Mácđala với dĩ vãng xấu xa, và bà Gioanna, phu nhân của vị quản lý triều đình ở chung một nhóm với nhau.
Đó là do quyền năng tuyệt đối của Chúa Giêsu khiến những người rất khác biệt nhau có thể chung sống với nhau mà không bỏ mất cá tính và phẩm chất của họ. Chesterton có viết về câu Kinh Thánh nói về sư tử sẽ nằm với chiên. “Nhưng nên nhớ rằng câu Kinh Thánh này bị giải thích quá dễ dãi, người ta cứ cho rằng: khi sư tử nằm chung với chiên thì sư tử sẽ trở nên giống chiên. Nhưng như vậy là con chiên thống trị và hiếp đáp sư tử, đó chỉ là con chiên tiêu nuốt con sư tử thay vì sư tử lại ăn thịt chiên. Vấn đề thực sự ở đây là sư tử có thể nằm chung với chiên mà vẫn giữ được đặc tính dữ tợn oai hùng của nó không? Đó là vấn đề Hội Thánh đã cố gắng giải quyết, đó là phép lạ Hội Thánh đã thực hiện”. Không có gì cấp bách cho Hội Thánh hơn là tìm cách cho những người khác tính nhau có thể mang chung ách với nhau. Nếu chúng ta thất bại thì đó là lỗi chúng ta, vì trong Chúa Giêsu Kitô, điều đó có thể làm được, và điều đó đã làm rồi.
2. Đây là một nhóm phụ nữ có những giúp đợ rất thực tiễn. Là đàn bà, họ không được phép giảng dạy, nhưng họ cung cấp những món quà họ có. Một ông lão thợ giầy kia đã có lần ước ao được làm linh mục, nhưng con đường đó chưa bao giờ mở ra cho ông. Ông thân với một sinh viên tu sĩ, khi tu sĩ được tiến chức thì ông lão xin dành cho ông một đặc ân. Ông yêu cầu được thường xuyên đóng giầy cho Ngài, để ông có cảm giác rằng người đang mang giầy của ông đứng nơi toà giảng là nơi chính ông mơ ước mà đã không bao giờ có thể đạt tới.
Không phải người xuất đầu lộ diện bao giờ cũng là kẻ làm việc lớn nhất. Biết bao người đảm nhiệm việc chung nói rằng họ sẽ không kham nổi công tác được một tuần lễ nếu thiếu sự nâng đỡ của người thân tín ở hậu trường. Không có ân huệ nào mà lại không ích lợi cho việc phục vụ Chúa. Nhiều tôi tớ của Chúa vẫn ở hậu trường không ai thấy, nhưng họ rất cần thiết cho công việc của Chúa.
CHÚA GIÊSU THA THỨ CHO NGƯỜI PHỤ NỮ TỘI LỖI (7,36-50)
Luca đưa vào đây một đoạn văn mà độ dài nói lên được tầm quan trọng mà ông gán cho nó: TN 11-C23
Luca đưa vào đây một đoạn văn mà độ dài nói lên được tầm quan trọng mà ông gán cho nó; đoạn này là của riêng ông, dù không hoàn toàn không có những đoạn song song ở Mc 14,3 (và Matthêu) và ở Gs 12,3. Một sự liên hệ kép nối liền nó với những gì được nói ở trước (đặc biệt các câu 29-30 và 34 được minh hoạ khá dài ở đây): đó là những người tội lỗi biết nhìn nhận Chúa Giêsu như ngôn sứ; việc Ngài tiếp đón họ làm cho những người Pharisêu từ chối tính cách ngôn sứ của Ngài.
Tuy nhiên, câu chuyện bắt đầu thật hay: một người Pharisêu mời Chúa Giêsu đến nhà dùng một bữa tiệc mừng, trong đó khách được mời nằm mà ăn. Một sự cố mở màn cho câu chuyện: một người phụ nữ tội lỗi đi vào phòng ăn và đến nơi Chúa Giêsu đang nằm và thái độ của cô ta quá suồng sã, đúng là gai mắt thật, mãi dâm có lẽ, dù sao cô ta cũng là một người đàn bà bị ô uế. Bấy giờ Chúa Giêsu đang dùng bữa tại nhà, cô nhận ra nơi Ngài –mà chân Ngài đã đẫm ướt vì nước mắt của cô ta rồi- Đấng mang lại sự thứ tha và ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người tội lỗi. Đó là ý nghĩa mà Chúa Giêsu –vị Ngôn Sứ sẽ đem đến tiếp theo đó là cử chỉ của người phụ nữ này. Nhưng ông chủ biệt phái lại không nhìn thấy xa được như thế, ông chỉ dừng lại ở ngoài mắt của những đụng chạm này- tất cả đối với ông ta có vẻ khiêu khích quá. Kết luận lầm lạc mà ông nghĩ trong thâm tâm dựa vào hai xác tín: một ngôn sứ phải có khả năng hiểu thấu lý lịch của những kẻ mình tiếp xúc và ông phải giữ khoảng cách giữa cái tinh sạch và cái ô uế (cc.36-39). Thái độ của vị chủ nhà này rất đặc biệt: ông mời Chúa Giêsu vì những lần Ngài chữa lành bệnh tật thể lý –có thể cả những lời giảng dạy của Ngài nữa- đón tiếp kẻ tội lỗi và kẻ bị ruồng bỏ- không ăn khớp với tư tưởng mà ông ta có về một sứ giả của Thiên Chúa.
Khi lên tiếng nói, Chúa Giêsu biểu lộ sự hiểu biết có tính tiên tri của mình mà ông Simêon ngấm ngầm chối bỏ. Ngài bắt đầu kể một dụ ngôn dường như chẳng ăn nhập gì với tình thế này (cc.40-43). Nó không đưa ra một tri thức nào, nhưng trước tiên nó đưa ra một khoảng cách mà Simêon chỉ có thể đồng ý với người mà ông ta vừa chỉ trích trong thâm tâm ông. Câu chuyện này bao hàm một yếu tố đến từ cái bình thường: sẽ thật lạ lùng khi một chủ nợ xoá bỏ những món nợ không thể thanh toán nổi (năm trăm quan tiền bằng tám tháng lương của một công nhân). “Ông thương tình tha cho cả hai” chi tiết không bình thường này cho thấy chuyện thường ngày đó nhắc ta nghĩ đến một thực tại sâu sắc hơn: mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Bởi đó, tình yêu của các con nợ là biết ơn đối với kẻ tha nợ cho mình. Đó là bài học mà Chúa Giêsu rút ra từ vấn nạn được nêu lên với Simon (và với độc giả) và nó mời gọi một lời đáp không có gì bất ngờ. Như vẻ do dự (tôi thiết nghĩ…) của ông cho thấy, Simon đoán được Chúa Giêsu sẽ đưa mình đi tới đâu; nhưng ông bị kẹt trong câu chuyện dụ ngôn và không thể trả lời cách khác được. Ngược với kết luận sai lầm mà ông có trong đầu, lần này ông đã công khai phán đoán đúng.
“Ông thấy người phụ nữ này chứ?”. Vừa được sự đồng tình của người Pharisêu, Chúa Giêsu chuyển chú ý về đối tượng của cuộc tranh cãi và đưa ra việc áp dụng dụ ngôn (cc. 44-47). Ngài đối chiếu cách hành xử của Simon tuy đúng nhưng thiếu sự niềm nở hiếu khách với ba cử chỉ của người phụ nữ vô danh rất quan tâm đến đôi chân Chúa Giêsu (được lặp lại mỗi lần); càng rõ hơn nữa về dầu thơm, Chúa Giêsu phân biệt việc xức dầu trên đầu mà Simon đã không làm cho Ngài với việc người phụ nữ đổ dầu trên chân Ngài. Điều đó làm ta nghĩ tới thái độ khiêm tốn của người phụ nữ đứng bên chân Chúa Giêsu (c. 38); đó là cử chỉ chính yếu đã khiến cho xảy ra ba hành vi được miêu tả ở đây. Trong mạch văn, kết luận mà Chúa Giêsu rút ra (c.47) chỉ muốn nói lên một điều: thái độ của người phụ nữ là hậu quả của tình yêu Thiên Chúa mà chị đã lãnh nhận. Tội lỗi đầy tràn của chị đã được Thiên Chúa tha hết, điều đó thể hiện rõ ràng qua thái độ của chị. Tình yêu là lời đáp của con người khi được Chúa tha nợ và tha tội. Như những người thu thuế – một dạng tội nhân công khai khác (x. 7,29), người phụ nữ này đã nhìn nhận rằng Thiên Chúa công chính và đã đón nhận tha thứ của Người. Trái lại, ông Pharisêu vẫn ở trong chiều hướng của các bạn đồng nghiệp (x. 7,30), ông đã khước từ ý định của Thiên Chúa về ông. Nhưng ai biết được? Bài học tên sẽ mang lại kết quả và ông Pharisêu, sau khi ăn tiệc này, sẽ được biến đổi chăng?
Lần đầu tiên Chúa Giêsu nói với người phụ nữ (cc.48-50) và tuyên bố với chị Thiên Chúa đã tha thứ cho chị và từ nay chị được hưởng ơn tha thứ đó. Khi những khách mời khác phản ứng như các Kinh sư và Pharisêu trong dịp người bại liệt được ơn tha tội (5,20-21), thì Chúa Giêsu lại cho thấy rõ tiến trình của ơn cứu độ. Tình yêu mà người phụ nữ đã bày tỏ đối với Ngài, chứng tỏ rằng chị ta hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa và vào vị sứ giả của Ngài; hình ảnh mà chị có về Thiên Chúa là đúng, trong khi ông Pharisêu lại có ý niệm sai lạc về Ngài. Đức tin của người phụ nữ đã là điểm khởi hành của một tiến trình hoán cải, đức tin ấy là nguyên nhân ơn cứu độ của chị.
NHỮNG PHỤ NỮ ĐI THEO CHÚA GIÊSU (8,1-3)
Với tư cách một văn sĩ Hy Lạp có tài, Luca thay đổi thể loại văn; đây là một tóm lược về cuộc hành trình truyền giáo mà Chúa Giêsu không ngừng thực hiện ở Galilê: Có hai nhóm người là nhân chứng cho những hành động và quyền năng và những giáo huấn của Chúa Giêsu và sẽ sát cánh với nhau làm bảo chứng cho những điều ấy (x.23,49). Trước hết là nhóm Mười Hai, mà chỉ được nói rõ là ở với Người – phải đợi đến 9,1 họ mới cộng tác vào sứ vụ của Chúa Giêsu.
Rồi tới nhóm các phụ nữ được triển khai rộng hơn. Không có chỗ nào Luca mô tả một cách chi tiết những việc trừ quỷ và chữa lành mà các bà được hưởng và duờng như, về phía các bà, những việc đó đóng một vai trò tương tự như việc kêu gọi các ông (5,10-11; 27-28); người ta nhắc đến ba tên trong số các bà như đã làm đối với nhóm Mười Hai (6,12-16). Bù lại, các bà này sẽ lại xuất hiện ở hàng đầu trong những thời điểm then chốt, lúc Chúa Giêsu chết trên thập giá và lúc chôn cất Người (23,49-55), rồi ở ngôi mộ trống ở đó đặc biệt có mặt bà Maria Magđala và bà Gioanna; người ta cũng sẽ gặp các bà này với nhóm Mười Hai và mấy người khác trong phòng lầu trên trước lễ Ngũ tuần (Cv 1,14). Ở đây các bà này sống Chúa Giêsu và nhóm Mười Hai, đặc biệt lấy của cải mình mà giúp đỡ –Luca cũng sẽ dùng cùng một động từ trong Cv 6,2 khi nói nhóm Bảy (phó tế); trong số các bà, có một người trước đây bệnh hoạn nhiều hơn cả (bảy quỷ x. 11,26), Maria gọi là Magđala (một làng gần hồ Gênêsaret); một bà thuộc xã hội thượng lưu, Gioanna, đã từ bỏ chồng và triều đình Hêrôđê (x.5,11), một chi tiết làm ta có thể hiểu được việc can thiệp của vua Hêrôđê ở 9,7-9.
Các phụ nữ chiếm một chỗ quan trọng trong Luca và Công vụ. Tác giả không nêu ra tính cách bất tiện vì sự có mặt của các bà khi họ đi theo Chúa Giêsu và nhóm các ông. Chúa Giêsu tỏ ra tự do một cách làm ta phải kinh ngạc khi đem các bà theo trong nhóm đệ tử lưu động của Người. Như thế, trong Tin Mừng của ông, không một đối thủ nào trách cứ Chúa Giêsu về điểm này, trong khi việc Ngài dám tiếp với những người tội lỗi và ăn uống với họ đã bị chỉ trích nhiều lần.
Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn.
Ba lần, Luca ghi lại những người Pharisêu đã mời Đức Giêsu dùng bữa (Lc 7,36; 11,37; 14,1): TN 11-C24
Ba lần, Luca ghi lại những người Pharisêu đã mời Đức Giêsu dùng bữa (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Trái lại Máccô và Mátthêu đã mô tả một cách có hệ thống những người Pharisêu đại thể là những đối thủ của Đức Giêsu. Sự nhận định tinh tế của Luca có lẽ gần với sự thật lịch sử hơn. Đức Giêsu đã không bị loại trừ một cách tiên hiền. Nếu Người đã thường xuyên đụng chạm với một số người thì không phải vì Người khinh bỉ họ. Chính họ đã không chấp nhận thái độ hết sức cởi mở của Người đối với những kẻ tội lỗi.
Lạy Chúa, theo gương Chúa, xin Chúa cho chúng con đừng trở thành tù nhân của bất cứ phe phái nào, xu hướng nào để luôn cởi mở với những người thường chống đối chúng con và không suy nghĩ giống như chúng con. Thật vật Đức Giêsu có thể đã làm cho người ta "khó chịu” một cách chính đáng: hoàn toàn không giống với điều người ta chờ đợi? Chính Gioan Tẩy Giả trong đoạn văn liền trước đó (Lc 7,18-35) phải đặt câu hỏi: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?". Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ của Thiên Chúa sống trong sa mạc lánh xa các thành phố, không ăn gì, không uống gì: ông là một nhà khổ tu (Lc 7,33). Còn Đức Giêsu sống trong thế gian, chấp nhận những bữa ăn mà người ta mời Người, đến nỗi làm người ta phải gọi Người là “tay ăn nhậu” (Lc 7,34). Gioan Tẩy giả loan báo sự phán xét của Thiên. Chúa chống lại kẻ tội lỗi. Còn Đức Giêsu là “bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Con nhìn ngắm Đức Giêsu ngồi vào bàn, trong một bữa tiệc, ăn và uống!
Thiên Chúa không chống lại đời sống con người. Chính Người đã ban đời sống ấy cho chúng ta. Môn đệ của Đức Giêsu không phải là một con người rầu rĩ ủ dột. Đức Giêsu chấp nhận những lời mời Từ ngữ Hy lạp được dùng ở đây (Katéklithè): thực ra có nghĩa là; "Người nằm ở bàn ăn". Vậy thì đây là một bữa tiệc mừng mà người ta nằm dài trên các đi văng để dùng bữa, trong một khung cảnh tiện nghi. Xét về bản thân, Đức Giêsu là một người nghèo. Nhưng Người đã sống tiếp xúc với những Người giàu có, và không khinh bỉ một ai.
Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Ở Phương Đông, người ta có thể tự do vào nhà có tiệc. Cũng thế, khí hậu nóng bức ở Phương Đông giải thích việc sử dụng nhiều nươc hoa. Dâng tặng nước hoa làm cho tươi tỉnh là một dấu chỉ lòng hiếu khách bình thường.
Người ta đã biết người phụ nữ ấy. Trong thành phố, mọi người xem ra đều biết trường hợp của chị: Đó là một “phụ nữ tội lỗi", và có lẽ là một gái điếm. Chị ta phạm nhiều tội lỗi. Nhưng chị đã hối hận về những tội lỗi ấy. Chị khóc lóc trước đám đông! Chị chán ngán chính mình. "Sự dễ dãi, trong đời sống đạo đức không làm cho người ta hạnh phúc”. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói như thế với giới trẻ để trả lời mỗi câu hỏi về tình dục.
Thế là người phụ nữ tội lỗi đã quỳ sấp trên mặt đất dưới chân của Đức Giêsu. Những tiếng nức nở vang lên làm toàn thân chị run rẩy. Chị hôn lên chân Đức Giêsu nhiều lần và làm cho phòng tiệc sực nức mùi thơm. Các thánh sử đã có thể kể lại những cảnh hàm hồ như thế ra sao? Về việc này, chính Đức Giêsu đã nói ra nhột sứ điệp chủ yếu.
Tôi nghĩ đến những tội lỗi của tôi, và con thủy triều dơ bẩn màu đen của mọi tội lỗi thế gian. Lạy Chúa, Chúa phải quen thấy con người phạm tội từ khi Chúa đã tạo ra con người có tự do, từ khi có con người trên mặt đất.
Thấy vậy ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: "Một người tội lỗi!”
Ông Pharisêu ấy khinh bỉ đàn bà. Quả thật, theo Luật pháp của Israel, người ta trở thành "ô uế" khi chạm vào một Người đàn bà tội lỗi, cũng như vào một xác chết hay một con heo. Vì thế có dư luận giữa người Pharisêu: Đức Giêsu không phải là một người của Thiên Chúa, không phải là một ngôn sứ.
Vậy bạn thử nghĩ xem, Người đã để cho một phụ nữ xõa tóc mình mà lau chân Người, một hành động đáng xấu hổ và sỗ sàng ngay cả ngày hôm nay cúng thế trong thế giới Do Thái và Hồi giáo truyền thống nơi Người phụ nữ phải dùng khăn trùm mà che giấu tóc họ.
Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông!". Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói". Đức Giêsu nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”. Ông Simon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn". Đức Giêsu bảo: "ông xét đúng lắm".
Thông thường những chủ nợ loài nói thì không như thế! Nhưng Thiên Chúa thì như thế. Đức Giêsu quả là ngôn sứ, Người đã làm cho tình yêu thương của Thiên Chúa Cha trở nên hữu hình…
Sau cùng khi nào chúng ta mới hiểu rằng Thiên Chúa không phải là "Đấng xét xử" nhưng là "Đấng tha nợ", Đấng tha thứ những người tội lỗi? Và ai yêu cầu chúng ta có thái độ giống như thế: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: "ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây đã không ngừng hôn chân tôi Dàu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi còn chị ấy lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi.
Đức Giêsu đã ngợi khen chị ấy. Người đề cao chị ấy.
Người nhấn mạnh tất cả những việc tốt chị đã làm, từng chi tiết một. Trước đó, chị đã đau khổ biết bao. Lạy Chúa, xin giúp cho con nhìn những kẻ tội lỗi và cả chính con với ánh mắt của Chúa, đầy lòng nhân từ và thương xót. Xin Chúa ban cho các Kitô hữu quyền năng phục hồi những kẻ có tội dưới mắt họ. Lạy Chúa ước gì mọi lời nói và thái độ của Giáo Hội Chúa nói lên rằng Chúa nhân hậu dường bao! Lạy Chúa, ước gì mọi linh mục của Chúa đều đầy lòng nhân từ. Lạy Chúa Giêsu, xin cho họ giống Chúa, xin cho họ là những thánh chức đem sự hòa giải lại cho mọi kẻ tội lỗi.
Vì thế tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít".
Dụ ngôn nói trên về hai người mắc nợ có ý nghĩa rõ ràng: Bởi vì người đã tha thứ cho chị nhiều nên chị đã yêu mến nhiều. Trong khi mà bản dịch của sách Kinh Thánh dường như rút ra kết luận ngược lại: vì chị đã yêu mến nhiều nên người ta đã tha thứ cho chị nhiều. Thật vậy, truyền thống to lớn của Kinh Thánh đã lặp lại không mệt mỏi với chúng ta rằng không phải kẻ tội lỗi xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ nhưng Thiên Chúa đã tha thứ không đòi hỏi bởi một sáng kiến tự do của tình yêu phổ quát của Người.
Nhưng, dù sao chân lý có thể có trong cả hai lập luận: Tình yêu là nguyên nhân của sự tha thứ: "Tội của chị được tha vì chị đã yêu mến nhiều”.
- Tình yêu là hậu quả của sự tha thứ: "Người ta càng được tha thứ, người ta càng hướng về lòng yêu mến".
Tình yêu khiến cho tha thứ! Vâng đúng vậy.
Tha thứ khiến cho mến yêu! Còn đúng hơn nữa.
Như thế bản văn này của Luca, vị thánh sử của lòng thương xót, là một viên ngọc quý của Tin Mừng. Đức Giêsu đã trả lời cho người Pharisêu ngạc nhiên khi thấy một phụ nữ tội lỗi chạm vào Đức Giêsu và có vẻ nghi ngờ quyền năng ngôn sứ phải biết được bí mật các tâm hồn của Người: "Tôi biết rất rõ chị ấy là ai và chính vì tôi biết mà tôi đã để cho chị ấy chạm vào tôi: Bởi vì tôi đến vì những kẻ tội lỗi chứ không phải vì nhũng người công chính" (Lc 5,31-32).
Con cám ơn Chúa về sự mạc khải này. Có lẽ vì điều đó Chúa cho phép chúng con lạm dụng sự tự do mà phạm tội để một ngày kia tội lỗi của chúng con biến đổi thành tình yêu to lớn hơn, bởi vì chúng con sẽ hiểu và đón nhận sự tha thứ của Chúa. Ôi mầu nhiệm biết bao khi mỗi tội lỗi của con có thể trở thành một cơ hội yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn: Giây phút tuyệt vời khi con ý thức được lòng thương xót; khi con đoán biết Thiên Chúa yêu thương con đến mức độ nào; Chính sự tha thứ là tình yêu cao cả nhất. Chẳng đáng bỏ công cử hành sự tha thứ ấy trong một bí tích hay sao? Giáo Hội hiện nay thật có lý muốn gọi bí tích này là bí tích "hòa giải", thay vì là bí tích "sám hối"? Tôi có thích thực hành bí tích ấy không? Thánh âu-tinh đã viết: "Sự xưng thú tội lỗi chỉ có ý nghĩa Kitô giáo nếu nó được thực hiện trong sự tuyên xưng lời khen ngợi". Xưng thú tội lỗi của chúng ta, chính là tuyên xưng tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi". Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an!".
Một cách hoàn toàn tự nhiên, Đức Giêsu cư xử như một người có quyền bính của Thiên Chúa, Đấng tha thứ mọi tội lỗi. Chính vì những thái độ và lời nói, như thế đã khiến cho các môn đệ thắc mắc về căn tính sâu xa của Người: "Vậy thì người “này là ai?" Ngày trong các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, Người ta đã dám trả lời rằng: "Đức Giêsu Kitô là Đức Chúa!”.
Sau đó, Đức Gìêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ…
Theo thói quen, Luca nhấn mạnh đến các "phụ nữ", như thế là phản ứng lại xã hội và các tôn giáo trong thời của ngài Các giáo trưởng Do Thái đã loại các phụ nữ ra khỏi tập thể các môn đệ của họ. Quả là một cuộc cách mạng thật sự đã bắt đầu với Đức Giêsu. Dù chưa hoàn tất.
Đây là khung cảnh thứ tư hoàn tất bức hoạ. Ngược lại với các vị thủ lãnh dân Israel kiêu hãnh: TN 11-C25
Đây là khung cảnh thứ tư hoàn tất bức hoạ. Ngược lại với các vị thủ lãnh dân Israel kiêu hãnh, với sự đạo đức giả hình (thực tế họ đã không tin), là trường hợp người đàn bà tội lỗi. Cứ sự thường, chẳng hy vọng và trông mong gì nàng có lòng tin. Nhưng dù sống một thân phận đã hư hỏng, tàn héo, kéo lê kiếp sống tội tình, xa cách Thiên Chúa mà Thiên Chúa lại nhận ra nơi nàng một lòng tin tốt lành và sống động nhất, trổi vượt hẳn lòng tin nhiều người khác.
Nàng đã hoang phí vẻ diễm lệ, đã tiêu hao cái tinh tuý tình yêu của nàng cho những kẻ bất xứng, trót lầm lỡ, nàng đau xót mua lấy kinh nghiệm bằng cả cuộc đời và thú nhận rằng nàng đã bị tước đoạt rồi bị bỏ rơi, y như một ly nước đầy được để qua một bên sau khi đã cạn chén. Nàng đành lao mình vào, bán rẻ thân xác, mua bán thú vui, và công khai phạm tội…
Nhưng, Lời Đức Kitô vang vang từ một thế giới khác, đang đến với người phụ nữ lầm lỡ ấy.
Từ lúc đó, nàng phát hiện ra có một tình yêu khác, cao thượng, tình yêu đó không thể ban phát bừa bãi được. Lòng tin nơi nàng khơi dậy và qui hướng những đam mê những khả năng yêu thương của nàng vào một hướng khác, rất khác, chẳng còn e dè gì nữa nàng lại gần Đức Giêsu, suốt bữa tiệc, trước mặt các khách dự tiệc. Nàng phủ phục dưới chân Ngài, như thể hạ nhục cái tính tự cao tự đại của nàng và đổ tràn tình yêu tái sinh cho Chúa.
Cạnh nàng, ông biệt phái quá hẹp hòi và bần tiện, ông ta chẳng sai đầy tớ ông đến rửa chân cho Thày, cũng chẳng tiếp đón Thầy bằng cái hôn thân tình hay xức dầu thơm cho Thầy truớc bữa ăn. Nhà tiến sĩ luật ấy vốn tính tự cao tự đại, chẳng cần gì đến Đức Giêsu cả. Vì ông tự cho là ông chẳng thiếu thốn gì. Ông chẳng ăn năn hối lỗi làm gì vì ông tự cho mình là nhà đạo đức; ông chẳng yêu ai hết trừ ông.
Trái lại, người phụ nữ kia thú nhận lỗi mình và đồng thời cũng biết rằng người ta chỉ đáp trả tình yêu của Thiên Chúa bằng một tình yêu không giới hạn. Nàng có lòng tin chân thực, niềm tin xui khiến nàng khinh chê tất cả để chỉ còn tuyên xưng Đức Kitô như Ngài đáng: Ngài là Chúa giàu tình yêu và ân sủng, luôn tha thứ tội tình.
Trên đây là bốn khung cảnh diễn tả hình ảnh của lòng tin:
- Vị quan Rôma tin vào Đức Giêsu là chủ tể quyền năng, có quyền truyền lệnh cho sức khoẻ và bệnh tật.
- Dân Do thái tin rằng nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa viếng thăm dân Ngài, nhưng lòng tin của họ còn non nớt quá, không vượt ra khỏi quỹ đạo con người.
- Các vị thủ lãnh dân Israel lại không tin vì họ tìm kiếm chính họ chớ không ra khỏi quỹ đạo con người.
- Sau cùng là người phụ nữ thống hối, nàng tin tưởng trong khi say đắm yêu thương.
Như vậy, một kết cục hết sức lạ kỳ, người ngoại giáo và người đàn bà tội lỗi lại tỏ lòng tin vững vàng, chân xác; trong khi dân ưu tuyển dừng lại lưng chừng đường; còn các vị thủ lãnh vẫn giữ thái độ bất tín.
GIÁO DỤC ĐỨC TIN TRÊN LÝ THUYẾT (8, 1-3)
Đức Giêsu gặp gỡ dân chúng và cố huấn luyện lòng tin giữa họ. Cùng với mười hai tông đồ, Ngài ra đi loan báo Tin mừng khắp nơi. Các người phụ nữ theo sau và phục vụ Ngài. Bây giờ là lúc Ngài đi vào giữa lòng đại chúng.
Sau đây, ta thấy Chúa nhấn mạnh đến ba phương diện của lòng tin:
- Tầm quan trọng của lòng tin. - Việc tuyên xưng đức tin. - Và đời sống trong niềm tin.
Câu chuyện Phúc Âm vừa nghe hôm nay đập mạnh vào não trạng tôi. Phải thành thật mà nói: TN 11-C26
Câu chuyện Phúc Âm vừa nghe hôm nay đập mạnh vào não trạng tôi. Phải thành thật mà nói là tôi rất đỗi kinh ngạc và khâm phục về cung cách ứng phó của Đức Giêsu trước một phụ nữ tại nhà ông Simon.
Kinh nghiệm cho thấy người đời thường dùng phụ nữ làm phương tiện để hạ bệ lẫn nhau. Biết bao anh hùng thân bại danh liệt cũng chỉ vì môt người đàn bà.
Tại tiểu bang nọ, có một vị Thượng nghị sĩ rất nổi tiếng, cử tri hết sức mến mộ, được tái bầu đến ba, bốn lần liên tiếp. Gần ngày bầu cử mới đây, báo Playboys có đăng hình ông ta đứng chung với một thiếu nữ khoả thân, bày bán trên các quầy hàng tại các siêu thị. Ông thất cử, như một ngôi sao sáng sáng rụng xuống trên nền trời đầy trăng sao.
Để hiểu rõ câu chuyện Phúc Âm hơn, xin hãy nhìn lại bối cảnh lịch sử thời bấy giờ.
Pharisiêu nghĩa là biệt phái. Có độ 6.000 người trên toàn lãnh thổ Palestine. Họ giảng dạy trong các hội đường, tự cho mình là gương mẫu, là người nắm giữ lệ luật và tập tục của cha ông. Tự cao, khoe khoang và hay khinh dể kẻ khác.
Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth, làm nghề thợ mộc, khơi động quần chúng từ thành thị đến thôn quê, lôi cuốn mọi thành phần dân chúng, giàu, nghèo, sang, hèn, kẻ thí thức, người thất học, đông đảo nhất là thành phần nghèo khổ, tội lỗi thấp kém bị xã hội ruồng bỏ. Đông đến độ muốn gặp Người phải dở mái mà xuống, phải trèo lên cây mà xem, đông đến độ có lúc đến năm ngàn người, có lúc đến bảy ngàn người. Họ đến để nghe giảng dạy, để xin xua trừ ma quỷ, để xin chữa lành mọi thứ bệnh tật... Người Pharisiêu đem lòng ghen ghét, nhiều lần đến cật vấn, bắt bẻ và dùng nhiều thủ đoạn để hạ uy tín, làm nhục Chúa như chúng ta thường nghe tường thuật trong Phúc Âm.
Hôm nay, ông Simon, một người Phariêu giàu có, thủ lãnh dân, không hiểu vì lý do gì đã mời Chúa đến nhà dự tiệc. Không thấy các môn đệ Chúa tháp tùng, dĩ nhiên là không có phụ nữ, ngay cả bà vợ ông cũng không có mặt. Một sự ngạc nhiên ngoài tưởng tượng là làm sao một người phụ nữ xuất hiện giữa bữa tiệc mà không hề gặp sự cản ngăn nào từ đám gia nhân. Phải chăng đây là một sự ngẫu nhiên hay đã được dàn dựng trước?
Người phụ nữ ở đây, tác giả không nêu tên lại là một người tội lỗi có tiếng. “Người tội lỗi” nói đây được hiểu là người mắc tội công khai như gái điếm hoặc có môt quá khứ bê bối về tình ái. Hành động của nàng lại càng kinh ngạc hơn nữa: Ôm lấy chân Chúa mà hôn, lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mà lau, đổ dầu thơm quý giá lên bàn chân Chúa. Thử tưởng tượng trong một bữa tiệc, thình lình có một cô gái nào đó, môi son má phấn, móng tay dài, nhọn, sơn màu đỏ chói, có những hành động như trên với một người đàn ông nào trong chúng ta đây, thử hỏi ta sẽ phản ứng ra sao? Những người có mặt sẽ nghĩ gì về ta? Sẽ đánh giá thế nào về thanh danh, uy tín của ta? Biết ăn là sao, nói làm sao bây giờ?
Theo tường thuật Phúc Âm, Đức Giêsu hoàn toàn bình tĩnh, không hề tỏ ra lúng túng, mất tự nhiên, thẹn thùng hoặc bảo người đàn bà ngừng lại. Người cũng không hề quan tâm gì đến phản ứng của những người chung quanh. Trước mặt Người chỉ là một hối nhân đến xin ơn tha thứ và xin chữa lành và Người đã dùng quyền năng của mình mà tha tội ”Tội con đã được tha”. Và Người cũng đọc được trong tư tưởng của chủ nhà và những người chung quanh, họ đang nghĩ gì? Người đưa ra dụ ngôn về hai con nợ. Chúa đã biến bữa tiệc tối hôm ấy thành bữa tiệc ăn mừng, mừng đứa con hoang trở về, một người tội lỗi thật lòng ăn năn sám hối. Như lời Người đã phán: “Ta không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”. (Lc 5, 32) Phần người đàn bà, nàng đến đây với một tâm hồn tan nát, với nước mắt dàn dụa, với tình yêu dạt dào, bất chấp mọi trở ngại, mọi cười chê, không tính toán, cụ thể là việc nàng đập bể bình dầu thơm giá trị bằng một năm rưỡi ngày công. Vì vậy tội của nàng đã được tha.
Trong xã hội loài người, kẻ vô phúc một phen lầm lỗi phải mang tiếng xấu suốt đời. Trăm năm bia đá hãy mòn. Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ (Tục ngữ). Chúa không xử với chúng ta như vậy. Điều quan trọng là ngay tại đây, ngay giờ phút nầy, sự liên hệ giữa ta với Chúa như thế nào. Nhớ gương người trộm lành: ”Chính hôm nay, ngươi sẽ lên Thiên đàng cùng ta”. Chúa không hề nhắc đến cái quá khứ đầy dẫy tội ác của anh ta, một tên trộm cướp, giết người.
Chúa đã tha tội cho David. (Bài đọc1), khi nhà vua thực lòng sám hối. ”Tôi đã đắc tội với Đức Chúa”.
Chúng ta hãy cám tạ và ngợi khen Đức Giêsu Kitô vì Người đã không ngại xấu hổ mà đến nhà ông Simon để đón nhận ta và tha tội cho ta.
Nhiều lần chúng ta mời Chúa đến nhà mình với cung cách đối xử của ông Simon, không có nước cho Chúa rửa chân, không có một nụ hôn chào hỏi, không có dầu thơm cho Chúa xức đầu.
Xin hãy mang lấy tâm tình của người đàn bà tội lỗi. Đến cùng Chúa với một tâm hồn sám hối, với một tấm lòng yêu mến thiết tha, với một tinh thần hy sinh không tính toán để đón nhận tình thương và ơn tha thứ của Chúa.
Người ta thường nói không sợ người có lỗi nhưng sợ người không nhìn nhận mình có lỗi. Qủa: TN 11-C27
Người ta thường nói không sợ người có lỗi nhưng sợ người không nhìn nhận mình có lỗi. Qủa thật, có thấy mình sai thì mới có thể sửa được, không thấy mình có lỗi thì làm sao mà sửa được. Nhờ những lần vấp ngã, sai lầm mà con người tích luỹ cho mình những kinh nghiệm quý báo cho cuộc sống.
Hôm nay Chúa Nhật XI Thường niên Giáo hội muốn cho mỗi người chúng ta thấy rõ con người thật của mình là đầy bất xứng, đầy tội lỗi nhưng Thiên Chúa vẫn một mực yêu thương tha thứ lại còn muốn ban cho nhiều hơn những gì mà chúng ta muốn lãnh nhận.
Trong bài đọc I: 2Sm 12, 7-10.13 cho chúng ta thấy rõ tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho tôi tớ của Ngài là vua Đavít. Mặc dù Đavít đã phạm tội, phạm trọng tội, đã cướp vợ của người khác cho dù ông đã dư vật, vậy mà Thiên Chúa vẫn tha thứ cho ông khi ông nhìn nhận tội lỗi của mình “ Tôi đã đắc tội với Chúa”. Bài Tin mừng Lc 7, 36-8,3 cũng được chọn theo tư tưởng này. Người phụ nữ tội lỗi nhìn nhận mình có tội đã lấy nước mắt rửa chân cho Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau rồi xức thuốc thơm biểu thị sự ăn năn sám hối nhìn nhận con người thật của mình. Ở đây Chúa Giêsu thật là mạo hiểm khi đang ở trong nhà của người Pharisêu lại để người phụ nữ tội lỗi chạm đến mình lại còn so sánh người Pharisêu này với chị phụ nữ tội lỗi mà là một sự so sánh kém hơn, một sự sỉ nhục đối với người Pharisêu. có phải Chúa Giêsu muốn hạ giá người Pharisêu này không? Chắc chắn là không phải thế. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rõ con người thật của mình để đừng huênh hoang tự đắc, để đừng lên mặt kiêu kỳ vì tất cả mọi người đều là những tội nhân, đều cần đến lòng thương xót Chúa. Người được Chúa yêu nhiều không phải là người làm được nhiều việc cho Chúa, cũng không phải là người có nhiều hy sinh chịu khó để cầu mong Chúa trả công nhưng là người biết cậy dựa vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ta có làm được nhiều việc tốt, có hy sinh chịu khó thật nhiều; rất tốt nhưng hãy xem đó là những gì mà ta đáp lại tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Quan trọng hơn hết là ta tin tưởng, cậy dựa vào ơn Chúa. Thánh Phao lô nói trong bài đọc II: “Chúng ta biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì luật dạy nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô ”.
Là con người yếu đuối ta dễ dàng sa ngã phạm tội nhưng ta lại thường lên mặt kiêu kỳ đối với người khác. Nhìn vào mẫu gương Đavít ta sẽ học được bài học cho chính mình. Đavít tin tưởng vào Chúa, thánh thiện nhưng vì ông mất cảnh giác đã sa đà theo đam mê mà phạm tội. Ông thấy mình mạnh mẽ, oai hùng nên thiếu trông cậy vào Chúa và ông đã sa ngã. Tuy thế Chúa không bỏ ông bởi ông vẫn tin tưởng vào Chúa, ông nhìn nhận tội lỗi mình. Nhìn nhận tội lỗi mình là nhìn nhận chính mình đã sai lầm, đã xúc phạm đến Thiên Chúa và chờ mong được tha thứ. Con người chúng ta cũng thế đôi lúc ta cứ ngỡ mình đạo đức tốt lành rồi ta ngủ quên trên những ảo tưởng đó mà quên mất rằng khi ta không cậy dựa vào Chúa thì ta sẽ lạc lối như Đavít đã lạc lối. Và nếu có lạc lối ta hãy được như Đavít thật lòng thốt lên với Chúa “ Tôi đắc tội với Đức Chúa ” để được Thiên Chúa tha thứ cho ta.Trong các bước thực hành Bí tích Hoà giải thì ăn năn tội được xem là bước quan trọng hơn hết vì khi đã thấy tội lỗi là xấu, là thật lòng thống hối muốn quay trở về, là cầu mong được tha thứ.
Hôm nay Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết nhận chân con người của mình là yếu đuối, là mỏng giòn, là tội lỗi. Mỗi người chúng ta ai cũng tội lỗi nên ta hãy cảm thông với anh em mình vì chúng ta đều là những người cần đến lòng nhân từ Chúa. Hãy mau quay trở về để nhận nơi Thiên Chúa sự tha thứ yêu thương. Tuy nhiên cũng đừng vì quá ỉ lại vào tình thương Thiên Chúa mà ta cứ mãi chìm sâu trong tội lỗi mà nghĩ rằng Chúa sẽ tha thứ cho mà. Chắc chắn Chúa sẽ tha thứ nhưng một người con ngoan, một đứa con hiếu thảo chắc sẽ không kéo dài sự buồn phiền nơi tâm hồn cha mẹ mình vì sự lỗi lầm của mình mà sẽ mau mắn trở về trong vòng tay cha mẹ. Thiên Chúa cũng thế! Chúa cũng sẽ tha thứ khi con người nhận ra lầm lỗi của mình, khi con người biết nhờ đến lòng thương xót Chúa. Nhưng sẽ là bất xứng khi ta ỷ lại vào tình thương này mà ở mãi trong lầm lỗi.
Nơi nào có tình yêu, nơi đó phép mầu. Bởi lẽ, khi yêu nhau, chúng ta chỉ mong đem đến cho người: TN 11-C28
Nơi nào có tình yêu, nơi đó phép mầu. Bởi lẽ, khi yêu nhau, chúng ta chỉ mong đem đến cho người mình yêu những điều tốt đẹp nhất, không phải để lấy lòng nhưng vì muốn làm cho người mình yêu được hạnh phúc và được vui. Một trong những dấu hiệu của người đang yêu là nôn nóng, chủ động và muốn đi bước trước trong việc mang lại những điều tốt đẹp nhất và niềm vui cho người mình yêu.
Sợi chỉ đỏ xuyên sốt các bài đọc trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều trình bày cho chúng ta thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa dành cho Dân của Ngài qua việc Ngài chủ động và đi bước trước để đến với họ. Ngài như người mẹ luôn bận rộn với đứa con nhỏ của mình vậy. Ngài lập Giao ước với họ (bài đọc 1); Ngài lên kế hoạch cứu chuộc họ và tự nguyện chịu chết để cứu chuộc họ (bài đọc 2); Ngài chạnh lòng thương khi thấy họ bơ vơ như đoàn chiên không người chăn nên Ngài sai các tông đồ đến với họ nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp thiết cho họ (Bài Tin mừng). Trong mọi sự, Thiên Chúa đều đi bước trước và chủ động thực hiện những điều tốt đẹp cho Dân Ngài. Lý do là chỉ vì Ngài yêu thương con người.
Có rất nhiều người ngoại thắc mắc là tại sao người Công Giáo lại đem con của mình để Rửa tội khi nó chưa biết gì. Tại sao không chờ cho đến khi nó lớn rồi tự nó xin được Rửa tội? Họ cho rằng hành động của những bậc cha mẹ như thế là không tôn trọng tự do của con cái mình. Nhưng đó chỉ là lập luận khiếm diện, một sự kết luận hàm hồ. Bởi lẽ, bổn phận của bậc làm cha mẹ là làm những gì tốt nhất có thể cho những đứa con của mình. Cũng như việc cha mẹ thấy con mình đói khát thì lo cho nó ăn uống, hay thấy đó lạnh thì lo mặc ấm cho nó vậy. Chắc rằng không người mẹ nào chờ đứa con chưa biết gì đòi ăn những món nó muốn thì mới cho ăn đâu! Trong đời sống đức tin cũng vậy. Cha mẹ thương con là làm những gì tốt nhất cho nó khi nó chưa có khả năng phân biệt và chọn lựa.
Logic của tình yêu thì rất khác với những logic thông thường, khác với những lý luận thông thường, đôi khi không thể lý luận bằng lời lẽ tự nhiên được. Vì đó là lời nói của con tim nên chỉ có thể nhận ra được bằng tình yêu mà thôi.
Trong Giao ước ở Núi Sinai, nếu theo lý luận tự nhiên thì chưa thể gọi đó Giao ước được. Bởi lẽ, Giao ước đúng nghĩa thì phải có sự thoả thuận của cả 2 bên. Nhưng trong Giao ước Sinai, chỉ một mình Thiên Chúa đơn phương thực thi những điều khoản trong đó. Làm như thế không phải là Thiên Chúa không tôn trọng tự do của con người nhưng vì Dân Chúa trong thời đó còn quá “non trẻ” chưa hiểu hết những điều tốt đẹp trong Giao ước đó, mà Thiên Chúa trong tư cách là người Cha nhân lành Ngài làm những điều cực kỳ tốt lành đó cho con của Ngài. Hay trong Giao ước mới, tại sao Thiên Chúa đòi Con Một của mình phải đổ máu ra để thực thi Giao ước đó mà Ngài phán một lời để tha thứ lỗi tội cho con người? Đâu là sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa? Tất cả những câu hỏi trên đây không thể lý giải bằng những lý lẽ tự nhiên được, nhưng phải được trả lời trong ngôn ngữ của tình yêu.
Tình yêu đúng nghĩa không thể là tình yêu nhìn xuống từ trên cao để ban ơn, nhưng phải là tình yêu cúi mình xuống để nâng người mình yêu lên và làm cho người mình yêu được cùng ở một chỗ cao như mình và nhất là cho họ được tự do hoàn toàn. Những ý nghĩa trọn vẹn cho tình yêu đích thực này đã được thể hiện cách tròn đầy nơi Đức Giêsu Kitô.
Trớ trêu thay, những người lãnh đạo tôn giáo Do thái với những định kiến và những tiêu chuẩn bất công đã từ khước Đức Giêsu và kết án Ngài. Họ coi Đức Giêsu là kẻ phá luật, kẻ gây rối, kẻ phá rào . . . Họ không tiếc lời xét đoán và kết án Đức Giêsu là bạn của quân thu thuế, bạn của người tội lỗi và là người tội lỗi. Họ đang tự phụ và đang đứng ở nơi cao để nhìn xuống và tự cho mình có quyền phán quyết mọi sự. Con tim của họ đã bị điều kiện hoá và trở nên sơ cứng nên không còn có những nhịp đập của tình yêu nữa. Hành động như thế là họ đã tự đào hố chôn mình và làm cho khoảng cách giữa họ và Thiên Chúa trở nên quá xa, xa đến mức không thể nào đến được nữa. Bởi lẽ, con đường đến với Thiên Chúa chính là con đường đến với bản thân và đến với tha nhân.
Hãy tập cho mình có một lòng quảng đại, yêu thương và tha thứ cho người khác. Đừng kết án ai dù cho họ có sai lầm và tội lỗi đi nữa. Những khi anh em mình phạm tội thì hãy coi như họ đang hành động vì không biết và họ là những con người ngây ngô và đáng thương hơn là đáng kết án. Hãy để Chúa có những phán quyết cho họ. Phần chúng ta, hãy tập sống yêu thương và chỉ biết yêu thương vì đó là hành động của những con người khôn ngoan trước mặt Chúa.
Một ngày nọ tôi được báo tin người bạn thân sắp làm đám cưới. Tò mò muốn biết người mà bạn: TN 11-C29
Một ngày nọ tôi được báo tin người bạn thân sắp làm đám cưới. Tò mò muốn biết người mà bạn ấy sắp cưới là ai. Té ra đó là một người phụ nữ quê mùa lại mắc phải một dị tật bẩm sinh. Một sự chọn lựa quả là hơi khác thường nơi người bạn của tôi. Nhưng ở đời cái gì cũng có lý do của nó. Tìm dịp thuận tiện tôi đã đến hỏi thăm bạn ấy: “Sao mà liều thế, dám chọn cô ta không sợ người khác chê cười sao?”. Anh bạn chỉ trả lời một câu đơn giản: “Vì tôi yêu cô ta”
Đúng vậy, khi yêu thì người ta dám làm tất cả, người ta dường như chẳng còn sợ gì cả.
Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cho chúng ta một mẫu gương liều mình vì yêu. Mẫu gương đó lại là một phụ nữ tội lỗi. Có nhiều chi tiết mà Thánh Luca cho thấy chị ta thật liều lĩnh. Chi tiết đầu tiên là chị dám xông vào giữa bữa tiệc. Bữa tiệc này do chính người Pharisêu được gọi là người công chính đứng ra tổ chức. Chị là người phụ nữ lại là người tội lỗi mà đã hiên ngang bước vào. Chị ta quả là người “điếc không sợ súng”.
Chi tiết thứ hai là quỳ xuống dưới chân Chúa Giêsu khóc nức nở rồi xổ tóc ra lau chân Người. Theo phong tục người Do thái, người nữ phải giấu kín tóc của mình trước mọi người. Đến nỗi nếu người chồng thấy được vợ mình xổ tóc trước đám đông thì có quyền ly dị với nàng. Không những thế, chị còn đập vỡ bình bạch ngọc đựng dầu thơm trị giá 300 quan tiền tương đương thu nhập cả năm mà đổ lên chân Chúa Giêsu.
Như thế, tình yêu đã thúc đẩy người phụ nữ này liều mình đến với Chúa Giêsu. Chị tin nơi Thầy Giêsu sẽ tha thứ cho những yếu đuối của mình. Và kết quả chị đã được như lòng mong đợi. Người đã nói: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”. Chẳng những được tha mà chị còn được Chúa Giêsu bênh vực khi người chủ nhà có ý trách móc. Từ đó, chúng ta thấy Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người. Mặc dầu, những gì con người làm chẳng đáng là bao. Nhưng khi con người làm với cả tấm lòng nhất là với lòng mến thì Thiên Chúa sẽ không để cho ta chịu thiệt bao giờ.
Chúng ta nhớ Thánh Phêrô khi Chúa Giêsu bị bắt, vì chưa có lòng mến nên ông chưa dám liều mình tuyên xưng mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Ông đã vội vàng chối Thầy chỉ với những người hết sức bình thường. Ngược lại, sau đó Chúa Giêsu hỏi ông ba lần có mến Người không thì ông đã trả lời: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 17). Lúc này ông đã trả lời với xác tín mạnh mẽ. Chính lúc ấy Chúa Giêsu đã trao phó sứ mạng đặc biệt cho ông là chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Một sứ mạng phải nói cam go, thử thách và đòi hỏi nhiều sự liều lĩnh. Vì lòng mến nên ông đã hoàn thành sứ mạng Chúa Giêsu trao phó một cách tốt đẹp.
Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Mỗi người chúng ta hãy nhìn lại xem lòng mến của ta vào Chúa như thế nào? Chúng ta có dám liều mình tuân giữ Lời Chúa giữa thế giới này không? Giữa một thế giới mà người ta xem việc lừa dối, gian xảo là chuyện hết sức bình thường chúng ta có dám liều mình để nói và sống sự thật không? Giữa một thế giới mà người ta ham mê quyền lực đến nỗi sẵn sàng chà đạp lẫn nhau chúng ta có dám liều mình sống khiêm tốn, nhường nhịn và yêu thương nhau không? Giữa một thế giới có nhiều người đặt Thiên Chúa thành giá trị thứ yếu trong cuộc đời của mình, chúng ta có dám liều mình để đặt Thiên Chúa làm giá trị hàng đầu không?
Xin Chúa Giêsu thương gia tăng lòng mến cho ta vào Chúa. Nhờ đó, chúng ta dám liều mình tuân giữ Lời Chúa hằng ngày trong cuộc sống.
Thực tế cuộc sống cho thấy, khi ta lỗi phạm với ai một điều gì, lỗi càng nặng, khi được tha, thì ta: TN 11-C30
1. Thực tế cuộc sống cho thấy, khi ta lỗi phạm với ai một điều gì, lỗi càng nặng, khi được tha, thì ta càng quý mến người đã tha thứ cho ta. Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta suy nghĩ về điều đó. Người phụ nữ tội lỗi trong đoạn Tin Mừng nầy là ai? Luca không chú ý đến lý lịch của chị, cho nên ta cũng không cần suy đoán là Madalena, hay Maria làng Bêtania… chỉ cần biết đây là một người phụ nữ tội lỗi, có lẽ là một nàng điếm, hay một người sống ngoại hôn. Nghe tin Đức Giêsu dự tiệc nơi nhà của một người Pharisêu, chỉ tìm đến để xin Chúa tha thứ thể hiện qua việc thành tâm thống hối.
2. Theo phong tục Do thái, nhưng bữa tiệc thịnh soạn, người ta thường nằm mà dự. Lúc Đức Giêsu đang dự tiệc, chị nầy “khóc” và những giọt nước mắt rơi trên chân Chúa, và chị “lấy tóc mà lau”, những thái độ nói lên cảm xúc rất mạnh. Cũng nên biết rằng mở khăn che đầu, để tóc xổ ra là điều rất ô nhục đối với phụ nữ Do thái. Tin Mừng cũng ghi lại, chị hôn chân Chúa, một thái độ nói lên sự khiêm tốn và tỏ lòng biết ơn.
Trước thái độ thành tâm thống hối của chị đối với Đức Giêsu chứng tỏ chị tin rằng Người có quyền tha thứ những lỗi lầm, thiếu sót của mình. Đức Giêsu đã nói:”Tội của chị đã được tha rồi”. Câu nói nầy của Đức Giêsu khiến cho những người đồng bàn phải thắc mắc: Ông nầy là ai mà có quyền tha tội? Bởi chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền nầy mà thôi (x. Mc 2,7 ; Lc 5,21). Vâng, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật, bởi vì Người là Thiên Chúa, nên Người không những thực hiện được các phép lạ, mà giờ đây quyển năng ấy còn biểu hiện qua việc tha tội.
3. Đọc Tin Mừng nhất là qua đoạn Tin Mừng hôm nay, có một điều cũng rất đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là những người Pharisêu và Đức Giêsu giống nhau ở điểm coi tội lỗi là xấu, nhưng khác nhau trong cách đối xử với người tội lỗi. Những người Pharisêu tìm cách loại trừ người tội lỗi cho dù họ có thành tâm thống hối đi nữa, còn Đức Giêsu thì tìm cách giúp cho người tội lỗi được tốt hơn.
Loại trừ, hạ thấp người khác để khẳng định cái tôi của mình, nâng mình lên là khuynh hướng tự nhiên của con người. Nhưng đừng quên, Chúa muốn chúng ta không ngừng nâng cao phẩm giá của mình, nhưng cũng phải có trách nhiệm nâng cao phẩm giá của anh chị em mình bằng nhiều phương cách, trong đó đặc biệt là việc tha thứ, tạo cho anh chị em của mình một cơ hội vươn lên. Thiết nghĩ rằng người phụ nữ tội lỗi hôm nay sẽ quyết tâm đổi đời và không bao giờ quên những lời nói chân tình đầy khoan dung của Đức Giêsu:”Tội của chị đã được tha rồi”, hay “Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an”.
4. Là con người, ai dám khẳng định mình là vô tội trước mặt Thiên Chúa. Điều quan trọng là khi lỡ phạm tội thì hãy thành tâm thống hối, như người phụ nữ nầy. Thành tâm thống hối như là điều kiện căn bản để lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Cảnh tượng tha thứ như thế vẫn được tái diễn nơi toà giải tội, hay mỗi khi chúng ta thật lòng năn thống hối về những thiếu sót chúng ta đã phạm. Hãy cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa để rồi từ đó ta quyết tâm sống tốt hơn. Đồng thời cũng phải tha thứ cho nhau như điều kiện để Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta như trong lời kinh Lạy Cha mà chính Đức Giêsu đã dạy.
Chúa nói với người phụ nữ: “Tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị yêu mến: TN 11-C31
Chúa nói với người phụ nữ: “Tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít….” ( c. 47)
Tôi muốn kể lại câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Lc 8, 1-11). Từ sáng sớm các kinh sư đã dẫn chị ta đến bên Chúa để tố cáo chị, đồng thời để bắt bẻ Chúa Giêsu. Theo luật Môisen, đàn bà như thế sẽ bị ném đá. Họ thử Chúa: nếu Chúa tha, họ sẽ tố cáo Chúa không giữ luật Môisen; nếu Chúa dạy ném đá chị ta, họ tố cáo Chúa ác, và làm ngược lại những gì bao lâu nay Chúa dạy…Họ không ngờ câu trả lời của Chúa: “ai nghĩ mình vô tội, hãy cầm viên đá đầu tiên ném chị ta.”Nghe thế, họ bỏ ra về, lần lượt từ những người lớn nhất…Cuối cùng không còn ai lên án chị này cả. Câu chuyện này cho chúng ta bài học: Không phải Chúa cho rằng chị này vô tội, nhưng như lời Chúa nói: …không ai lên án chị sao? Phần Ta cũng vậy, Ta không lên án đâu. Hãy về đi và đừng phạm tội nữa…. Câu chuyện hôm nay cũng gần một chủ đề như thế….
a. Câu chuyện Tin mừng hôm nay muốn dạy cho chúng ta hai bài học:
Các kinh sư và biệt phái, họ luôn tự hào, nghĩ mình là người công chính, người trung thành nhất với Lề Luật, (hể trung thành với Lề Luật, thì đồng nghĩa trung thành với Thiên Chúa). Họ tự hào là công chính, nhưng lại thiếu yêu thương tha thứ, một thứ công chính khắt khe, thiếu tình người. Họ nghĩ mình tốt hơn người đàn bà này, thực tế họ tệ hơn nhiều. Người công chính là tốt, nhưng họ sẽ không giúp ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta phạm tội. Vì thế một em bé đã cầu xin Chúa như sau: Lạy Chúa, xin làm cho tất cả mọi người trên thế gian này nên tốt, nhưng cũng làm cho mọi người tốt trở nên hiền lành dễ thương, không dữ dằn! Có khi nào ta suy nghỉ câu phê bình: bà đó tôt lắm, nhưng dữ quá!
Người biệt phái đã coi thường Chúa. Họ cho người đàn bà tội lỗi này là hạng ghê gớm, có thể truyền nhiễm sự không trong sạch của mình cho Chúa Giêsu. Phần Chúa, Chúa không nói rằng bà này không phải là người tội lỗi, nhưng Chúa ám chỉ rằng cả những người biệt phái cũng là những người tội lỗi; mà nếu họ là người tội lỗi, thì người tội lỗi còn xấu xa hơn cả người phụ nữ nữa.
b/. Người biệt phái tự hào là người công chính, nhưng họ quên mất sự công chính đòi buộc phải có yêu thương đi kèm; nếu không có tình yêu, sẽ không thể nào gọi là công chính được. Giữ lề luật Thiên Chúa hoàn hảo chưa hẳn là yêu mến Chúa. Chúa cho thấy giá trị cao cả nhất của cuộc sống chính là tình yêu. Giữ lề luật hoàn hảo? Chưa đủ. Một ngôi nhà đẹp đến đâu mà vắng tình người, chỉ giống như căn nhà hoang; một xã hội phải triển cở nào mà thiếu tình người, thì chẳng khác gì sa mạc. Chúa Giêsu đã không phủ nhận luật pháp, nhưng Người đem lại cho Luật pháp cái hồn sống, đó là tình thương.
Rất nhiều khi ta giữ luật tử tế để mọi người khen ngợi ta là đạo đức, hoặc để che đậy những thói hư tật xấu khác mà ta không muốn người khác biết. Giử luật tử tế để mình được lợi lộc ở trần gian, tất cả những mánh khóe giữ lề luật này, các kinh sư và biệt phái đã thi hành cả rồi. Phải nói, họ là bâc thầy về việc giữ luật hình thức như thế…..
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Là người kitô hữu sống trên trần gian, bao lâu còn sống, ta vẫn thấy mình còn là tội nhân, vẫn vấp phải lỗi lầm, ta có đủ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa và mọi người để không tự phụ vì mình công chính hơn kẻ khác, như người biệt phái trong bài Tin Mừng hôm nay không? Khi thấy anh em mình lầm lỗi, ta có biết cầu nguyện cho họ không? Ta có biết khiêm tốn nhận rằng dù họ lỗi lầm, nhưng ta phải quảng đại tha thứ như Chúa không?
Lc 7:36 – 8:3: 36 Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn.37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm.38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên. 39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi! "40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: "Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông! " Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói."41 Đức Giê-su nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục.42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn? "43 Ông Si-môn đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giê-su bảo: "Ông xét đúng lắm." 44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi.46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi.47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi."49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội? "50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
8:1-3: 1 Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ,3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.
Đoạn tin mừng 7:36-8:3 nằm trong chương 7 có chủ đề tổng quát là Thiên Chúa đến viếng thăm: TN 11-C32
Đoạn tin mừng 7:36-8:3 nằm trong chương 7 có chủ đề tổng quát là Thiên Chúa đến viếng thăm và cứu độ (x. 7:39); đồng thời nói đến căn tính của các sứ giả: Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu (7:1-50). Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên sự sống và sự chết (7:1-10); là Thiên Chúa viếng thăm dân Người (7:11-17); là Đấng phải đến (7:18-23); Gioan, người đi trước làm chứng cho Người (7:24-28); Gioan, Chúa Giêsu và thế hệ nầy (7:29-35); Chúa Giêsu và người phụ nữ (7:36-50). Bố cục của đoạn có thể phân chia như sau: - Nhập đề. Hành động người phụ nữ và phản ứng của Simon (7:36-39); - Dụ ngôn hai người mắc nợ (7:40-43); - Giáo huấn cho Simon (7:44-47); - Tha tội cho người phụ nữ. Kết luận (4:48-50).
Hành động người phụ nữ và (7:36-38)
Chỉ Luca kể lại những lần Chúa Giêsu được mời dùng cơm tại nhà người Pharisêô (x. 11:37; 14:1). Với những trình thuật như vậy, Luca cho thấy chỗ đứng của Chúa Giêsu, như một vị thầy, giữa xã hội. Trong câu mở đầu, Luca ghi nhận người phụ nữ nầy là “người tội lỗi trong thành”. Bà mang theo dầu thơm và đứng sau chân Chúa Giêsu (c. 37). Không có chi tiết nào về việc bà vào nhà. Khi xuất hiện, đã thấy bà đứng ngay sau chân Chúa Giêsu rồi (c. 38). Luca tập trung cái nhìn vào những hành vi trên “cái chân” (7:38 [3]. 44.45.46), chủ đề “yêu thương” (7:42.47[2x]) và “tha thứ” (7:42.43; 47[2x].48.49). Ông muốn liên kết chúng với nhau và lấy chúng làm yếu tố nòng cốt câu chuyện. Ông không nói gì đến giá cả của dầu thơm (x. Mt 26:9; Mc 14:5; Gio 12:5), và ý nghĩa tượng trưng việc xức xác của Người sau nầy. Tư thế của Chúa Giêsu là nằm nghiêng đầu về phía bàn tiệc và duỗi thẳng chân về phía ngược lại. Luca mô tả cách cẩn thận những hành động của bà; chúng sẽ được nhắc lại để so sánh với những gì ông Simon đã không làm cho Người (cc. 44-46). Để làm những việc nầy bà phải cúi xuống hoặc quỳ xuống bên chân Chúa Giêsu; tương tự cử chỉ hoặc của những người đến xin chữa bệnh (5:18; 8:47), hoặc của một tội nhân (x. 5:8). Bà khóc nhiều đến nỗi (động từ ở thì phân từ hiện tại chỉ hành động đang diễn tiến trong một thời hạn, và đồng thời với động từ chính) nước mắt bà bắt đầu đổ xuống như mưa, brechô, (x. 17:29) trên chân Chúa Giêsu; bà rửa chân cho khách đến dự tiệc bằng nước mắt của bà. “Khóc” là hành vi của khổ đau (6:21), hoặc do mất mát một điều gì (8:52), hoặc do tội lỗi (19:41); do đó, khóc cũng là hành vi sám hối (x. 22:62; 23:38). Tóc trên đầu, mà Thiên Chúa lưu tâm cách riêng và quý trọng cách đặc biệt (x. 12:7;21:18), bà dùng thay cho khăn lau chân. Chỉ do lòng kính trọng và yêu mến bà mới làm như thế. Bà hôn chân Chúa và xức dầu liên tục lên đó; hai động từ ở thì quá khứ chưa hoàn thành diễn tả sự lập lại. Hôn là cũng cử chỉ quý mến và thương yêu (15:20; Cv 20:37), và xức dầu thơm cũng thế (x. Mc 16:1).
Phản ứng của người Pharisêô (c. 39)
Người Pharisêô phản đối Chúa Giêsu đã để cho bà ấy “đụng đến” Người. Động từ “đụng đến” nầy mang rất nhiều ý nghĩa ở đây. Chúa Giêsu đưa tay đụng đến bệnh nhân để chữa lành họ (5:13; 7:14; 18:15; 22:51); dân chúng muốn đụng đến Người, ít là áo Người, để được lành bệnh (6:19; 8:47). Người Pharisêô nghĩ theo cách của ông. Trong câu điều kiện: “Nếu ông ấy là một ngôn sứ…” (c. 39b), ông nghĩ là Người phải có khoảng cách với người tội lỗi và không để một phụ nữ tội lỗi tiếng tăm như bà đụng vào. Đến gần, hoặc để người tội lỗi đến gần đều bị người Pharisêô phản đối (x. 5:30; 7:34). “Ngôn sứ” có thể hiểu như dân chúng thời đó nghĩ về Người (x. 9:19); hoặc có thể là một ngôn sứ lớn giống như Êlia, hay Môsê (x. Cv 3:22; 7:37); nên ông mới gọi Người là “Thầy” (c. 40). Phần Chúa Giêsu, Người để yên cho bà ấy làm như ý, vì Người nhận ra trong nước mắt của bà lòng thống hối, và trong những hành vi khác lòng yêu thương của bà. Bà muốn được tha tội nên mới làm như thế. Để cho bà “đụng chạm” đến là Người từ chối rập theo khuôn sáo của người Pharisêô: lánh xa người tội lỗi. Người không là ngôn sứ theo cách suy nghĩ của ông, mà là ngôn sứ Thiên Chúa sai đến để cứu độ dân Người (7:16; 24:19). Vậy, với việc “đụng chạm” đến Chúa Giêsu, thái độ của mỗi người đều tỏ lộ: người phụ nữ bày tỏ tình yêu và lòng thống hối vì muốn được chữa lành; người Pharisêô phản đối; Chúa Giêsu mở đường thứ tha cho bà.
Dụ ngôn cho Simon (cc. 40-43)
Cho đến lúc nầy Chúa Giêsu thinh lặng, bây giờ Người mới lên tiếng. Người gọi người Pharisêô bằng tên “Simon”; trong khi ông đáp lại “thưa Thầy”. Với uy thế của một người thầy, Người sẽ nói với học trò. Như ngôn sứ Natan đã kể cho Đavít câu chuyện trong 2 Sam 12, Chúa Giêsu kể cho Simon câu chuyện nầy để mở mắt ông ra nhận thấy một thực tại mới, dựa trên sự tha thứ và tình yêu. Câu chuyện rất đơn giản, không nhiều chi tiết. Điểm then chốt là chủ nợ xoá sạch nợ cho người mắc nợ; phía người mắc nợ, yêu mến ông “Ai yêu chủ nợ nhiều hơn?” (c. 42). Vậy, Chúa Giêsu đặt sự tha thứ trong tương quan với tình yêu; hay ngược lại. Charizomai, nghĩa là “xóa nợ”. Ở nơi khác, ý nghĩa của động từ nầy chuyển thành “tha thứ”, nghĩa là tỏ lòng nhân ái và rộng lượng đối với những người làm điều sai (Êph 4:32; Côl 3:13). Chúa Giêsu sẽ nói đến sự tha thứ vào cuối câu chuyện (x. 7:47.48.49). Trong “tha nợ” hay “tha thứ” đều có “charis”, “ân huệ”, nghĩa là lòng quảng đại và yêu thương. Chủ đề tình yêu bắt đầu ở đây, và mọi hành vi của người phụ nữ sẽ được giải thích là được làm bởi động lực nầy.
Giáo huấn cho Simon (7:44-47)
Chúa Giêsu bắt đầu một giáo huấn trực tiếp với Simon. “Ông xem” (c. 44), Người muốn ông mở mắt ra và nhận ra điều Người sắp nói. Những hành động của người phụ nữ tội lỗi được đem ra so sánh để làm tỏ lộ thái độ của ông đối với Chúa Giêsu. Ông đã không làm điều mà bình thường ông phải làm khi khách đến nhà: rửa chân (Kn 18:4), hôn chào (Rom 16:16), xức dầu thơm trên đầu. Điều nầy chứng tỏ là ông không kính trọng, hoặc nói cách khác, xem thường Chúa Giêsu. Như thế, người phụ nữ hơn hẳn ông không chỉ trong cách đón tiếp, mà cả trong thái độ. Câu 47a “Tội của chị nhiều đã được tha, (vì) chị yêu nhiều” xem ra đối nghĩa với câu 47b “Ai được tha ít, yêu mến ít”. Không có mối liên hệ nguyên nhân và hậu quả ở đây. Cách nói nầy chỉ mô tả sự kiện. Chữ “hoti” (c. 47a) có nghĩa là “rõ ràng là”, “hiển nhiên là”. Vậy, Chúa Giêsu đã cho Simon thấy là ông không tốt lành hơn bà, vì đã không yêu mến Người. Và tuy tội lỗi của bà thật nhiều, đã được Người tha thứ tất cả. Bà đã yêu mến Người nhiều.
Tha tội cho người phụ nữ (7:48-50)
Chúa Giêsu không chối bà là người có tội. Người nói trực tiếp với bà lời tha tội “tội của bà đã được tha rồi” (c. 48). Luca thích dùng động từ “tha thứ” ở thì hoàn thành (perfect), diễn tả sự tha thứ đã hoàn thành và hiệu quả của nó còn tác động trên người được tha thứ (x. 5:20; 7:48). Đó là tình yêu. Câu hỏi về con người và quyền tha tội của Chúa Giêsu được đặt ra (c. 49; 5:21). Luca không muốn có câu trả lời cho người đồng bàn. Ông bỏ ngỏ (x. 9:20.22). Công thức “Lòng tin của bà đã cứu chữa bà, hãy đi bình an” (x. Mt 9:22; Mc 5:34) cho thấy kết luận của câu chuyện là tình yêu của bà được gọi là lòng tin, và sự tha thứ của Chúa Giêsu trở nên sự cứu độ cho bà.
Người tội lỗi không thể bị cô lập khỏi cộng đồng chỉ vì tội của họ. Chúa Giêsu tha tội và phá những thành kiến khắc khe vây chặt chung quanh họ. Trói buộc cách tàn nhẫn người có tội trong lỗi lầm của họ “người tội lỗi”, không phải là chống lại Thiên Chúa đó sao?
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người nghĩ thầm rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi". Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
- "Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Sau đó Người rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: Maria gọi là Mađalêna, đã được chữa khỏi bảy quỷ ám, Gioanna vợ của Cusa viên quản lý của Hêrôđê, Susanna và nhiều bà khác: họ đã lấy của cải mình mà giúp Người.}
Suy Niệm:
Thiên Chúa đã bỏ qua lỗi lầm cho Đavít; Chúa Giêsu đã tha tội cho một người phụ nữ. Những bài: TN 11-C33
Thiên Chúa đã bỏ qua lỗi lầm cho Đavít; Chúa Giêsu đã tha tội cho một người phụ nữ. Những bài Kinh Thánh như vậy đáng được những ai biết mình có tội, đọc lại và ngẫm nghĩ. Những người chưa thấy ngay tội lỗi của mình cũng hãy đọc lại để không bỏ mất ơn Chúa. Và nếu họ tiếp tục tưởng mình xa lạ với những câu chuyện trên, bài thư Phaolô sẽ đến để giúp họ suy nghĩ đúng về đời sống đạo đức.
Do đó cả ba bài Kinh Thánh ngày hôm nay đều gần chúng ta và muốn xây dựng chúng ta lớn lên trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại với lòng yêu mến, biết ơn.
1. Đavít Được Chiếu Cố
Bài sách Samuen nhắc lại chuyện Đavít. Ông là vị hoàng đế được con cái Israen yêu chuộng. Họ còn tin vào Lời Chúa hứa ban cho dòng dõi Đavít một triều đại vững bền. Do đó nghĩ đến Đavít, con cái Israen chỉ có một lòng kính yêu. Dù vậy, các tác giả thánh cũng không bỏ qua các lỗi lầm của Đavít. Các người vẫn còn nhắc lại. Phải chăng để nói với chúng ta rằng: Chẳng có ai vô tội trước mặt Chúa? Các tác giả thánh còn nói đến các hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên Đavít vì tội lỗi của ông. Há chẳng phải để nói rằng: Chúa vẫn không dung tha lỗi phạm của cả những người được Người tuyển chọn? Tuy nhiên khi kể lại các tội của Đavít, các tác giả thánh dường như chú trọng nhiều hơn đến lòng thống hối ăn năn của nhà vua được mến chuộng ấy, và để nói lên lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với Đavít, cả khi ông lỗi phạm. Ít ra đó là những điều chúng ta gặp thấy trong bài sách Samuen hôm nay.
Để dễ hiểu chúng ta vắn tắt nhắc lại câu chuyện mà nhiều người đã biết. Vào buổi chiều nọ, Đavít dậy khỏi giường và đi tản bộ trên sân thượng. Ông thấy một phụ nữ đang tắm, dáng vẻ rất xinh đẹp. Ông sai người đi hỏi tung tích, mời nàng ấy đến và rồi nàng có thai. Chẳng may nàng đã có chồng, và ông đang ở ngoài mặt trận. Đavít cho người đi, liệu cách giết người chồng xấu số kia và Đavít cưới người phụ nữ ấy.
Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến gặp Đavít. Natan bắt đầu gợi cho Đavít biết những tội ông vừa phạm thật là nặng nề. Chúa đã xử với ông quá đại lượng. Người đã tuyển chọn, đặt ông làm vua, ban cho ông đủ mọi sự; và nếu ông còn cho như thế là ít, thì Chúa sẽ ban thêm gấp mấy ngần ấy nữa... Thế là ông đã khinh Lời Chúa; dám làm sự dữ trước mắt Người, đã cướp vợ người khác lại còn dùng gươm đâm chết chồng người ta, và họ là dân ngoại... Thế nên gươm sẽ không rời khỏi nhà ông bao giờ nữa.
Đavít thấy lỗi của mình. Ông đã phạm những tội tày đình. Ông thật là người nhà giàu đã đi bắt con chiên nhỏ của người nhà nghèo đem về làm thịt đãi khách, đang khi ông có cả một đàn chiên lớn. Ông làm cho Danh Thiên Chúa bị nhục trước mặt dân ngoại. Có lẽ ông đã suy nghĩ không kỹ. Nhưng bây giờ được người của Thiên Chúa mở mắt cho, ông cúi đầu thú nhận: "Tôi đã phạm tội nghịch với Giavê".
Không phải ai cũng biết mau nhận lỗi như Đavít. Càng không có nhà vua nào có thể khiêm nhường ngay như thế. Rõ ràng Đavít chưa bỏ mất hẳn tính đơn thật chất phác của thời được Chúa gọi. Lòng thành nhận biết tội lỗi như thế quả thật đã kéo xuống được lòng chạnh thương cứu độ của Chúa.
Natan bây giờ nói với Đavít: "Cả Giavê nữa, Người cũng bỏ qua lỗi lầm của ông". Nhưng sự việc này đã để lại trong cuộc đời của Đavít nhiều hậu quả. Gươm vẫn không rời khỏi nhà Đavít. Nhất là một tâm tình hối tiếc ăn năn không ngớt dâng lên trong lòng nhà vua, khiến ông trở thành hình ảnh gương mẫu cho những kẻ sám hối và nhiều thánh thi thú nhận tội lỗi đã được truyền tụng như là của ông.
Tuy nhiên vẫn có thể nói Đavít vẫn chưa được phúc như người tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay. Ông đã gặp Natan chứ không phải Chúa Giêsu. Và điều này khiến chúng ta thấy lòng thống hối trong Cựu Ước chưa gặp được niềm hân hoan cứu độ thực sự. Nhưng chúng ta hãy bắt đầu đọc lại bài Tin Mừng đã.
2. Người Tội Lỗi Được Tha Thứ
Nhiều người coi đoạn văn này như một kiệt tác của nhà văn Luca. Nhưng phân tách một chút người ta thấy có một vài nét hơi bất thường. Câu chuyện hai người mắc nợ lồng trong câu chuyện người phụ nữ được tha thứ, có cần hẳn không? Nó làm cho bài tường thuật dài ra. Cắt bỏ đi, nó chẳng làm thiệt hại gì. Đàng khác trong câu chuyện hai người mắc nợ, Chúa bảo: Ai được tha nhiều thì mến nhiều. Còn câu chuyện người phụ nữ tội lỗi Chúa lại khẳng định: bà ta được tha nhiều vì mến nhiều. Như vậy, hai lời tuyên bố không ăn với nhau, khiến hai câu chuyện không cần và theo lẽ không nên đi với nhau.
Rồi trong các sách Tin Mừng khác, cũng có chuyện một người phụ nữ xức dầu cho Chúa Giêsu ở Bêtania. Câu chuyện của Luca kể hôm nay có phải là câu chuyện của các tác giả kia không? Những thắc mắc này, cuối cùng, như chúng ta sẽ thấy, chỉ làm tăng giá trị cho bài tường thuật của Luca thôi. Và đó là điều nên để ý.
Thật ra câu chuyện hai người mắc nợ lồng giữa câu chuyện người phụ nữ tội lỗi không cần thiết. Nhưng nếu cắt bỏ đi thì thật là tiếc. Nó không làm tăng giá trị cho câu chuyện chính, nhưng có một tác động tâm lý rất quan trọng để người ta được điều kiện đón nhận bài học đạo đức sâu xa. Chúng ta cứ xem. Khi Đức Giêsu vào nhà người Biệt phái để dùng bữa, người ta để ý quan sát Người biết mấy. Nhất là khi đột xuất có một người phụ nữ bước vào đi đến gần Người. Ai cũng sửng sốt vì biết rõ bà ta nổi tiếng tội lỗi ở trong thành. Kìa, bà ta đến đứng đàng sau Đức Giêsu, khóc lóc nức nở. Thấy nước mắt mình chảy xuống làm ướt đẫm chân Người, bà vội cúi xuống, lấy ngay tóc xõa trên đầu cố lau cho sạch, rồi tha thiết hôn chân Người và lấy dầu thơm đổ xuống. Bằng ấy cử chỉ của bà ta chẳng làm cho người ta ngạc nhiên. Lạ thật! Họ vẫn suy nghĩ một cách cũ kỹ: Nếu Người là tiên tri ắt biết đứa động đến mình kia là ai. Nó là đứa tội lỗi mà... Đi thẳng vào vấn đề và lý luận cho họ hiểu ư, Đức Giêsu thấy không được. Người phải nhẹ nhàng lôi cuốn họ đến chân lý. Người dùng khoa sư phạm của các bậc thầy thời bấy giờ. Người nói với chủ nhà: Simon, tôi có điều muốn nói với ông... Rồi Người kể một dụ ngôn, tức là câu chuyện về hai người mắc nợ. Người lôi cuốn suy nghĩ và tâm lý của người ta đến một chân lý dễ hiểu để từ đó so sánh với thực tại họ đang sống. Và vì là so sánh nên hai việc không nhất thiết phải hoàn toàn giống nhau. Những câu chuyện trong dụ ngôn chỉ là bàn đạp cần thiết cho người ta nhảy lên những thực tại tự nhiên khó nhận ra.
Và quả thật, sau khi nghe câu chuyện hai người mắc nợ, người ta đã được chuẩn bị tâm lý và tâm hồn để hiểu sự việc đang xảy ra trước mắt. Người ta thấy gì? Một người đàn bà tội lỗi ư? Không, bà ta đến đây không còn là người tội lỗi nữa. Bà đã chà đạp dư luận và những cái nhìn phán xét để đến đứng đàng sau Đức Giêsu. Bà khóc lóc nức nở, biểu lộ tâm hồn ăn năn hối lỗi; bà lấy tóc mình mà lau chân Chúa; bà còn hôn chân Người một cách tha thiết. Bà đổ cả dầu thơm nữa. Bà có lòng mến nhiều. Không ai chối cãi được. Và đây là lòng mến sám hối tìm lại được con đường thánh thiện. Nó đã xuất từ một niềm tin, tin Đức Giêsu là Đấng Thánh, có thể làm cho mình khỏi tội. Không có niềm tin này, bà đã không làm như vậy. Niềm tin ấy còn gia tăng, từ khi bà có ý tưởng đến gặp Chúa Giêsu. Thoạt đầu bà đã dám đến đứng đàng sau Người; rồi bà khóc; rồi không thấy bị đuổi và thấy nước mắt mình làm ướt chân Người, bà đã vội vụng về lau bằng chính tóc của mình. Rồi bạo dạn thêm, bà hôn chân Chúa và đổ dầu. Bao nhiêu cử chỉ là bằng ấy chứng cớ về mức độ gia tăng của lòng tin và lòng mến. Bà không còn là người tội lỗi nữa. Bà đã đủ điều kiện để được nghe lời an ủi: "Tội của ngươi đã được tha... Hãy đi bằng yên". Chắc chắn bà đã được sung sướng hơn Đavít, bà được tiếp xúc thẳng với Thiên Chúa. Người hiền từ và thông cảm làm sao! Người bênh vực kẻ tội lỗi. Người ban ơn tha tội. Người để họ ra về bình yên vì Người đã đổi mới họ.
Tất cả chúng ta đã được hưởng kinh nghiệm êm ái của người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi viết câu: "Tội của ngươi đã được tha. Hãy đi bằng yên", tác giả Luca không ám chỉ đến ơn tha tội và công thức tha tội trong Hội Thánh của chúng ta sao? Và nếu như vậy, hẳn người cũng đã muốn nói với chúng ta rằng: muốn được ơn tha thứ, phải có nhiều lòng tin và lòng mến.
Rồi khi kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Luca viết có nhiều phụ nữ được chữa lành khỏi quỉ dữ đã đi theo Chúa và phục vụ Người. Tác giả há không muốn ngụ ý rằng: sau khi được tha tội, chúng ta ra đi bằng yên bằng cách đi theo và phục vụ Chúa sao? Nhưng phục vụ thế nào?
3. Phaolô Phục Vụ Chúa
Thánh Tông đồ nêu gương cho chúng ta. Người đang tranh luận với những kẻ muốn duy trì tinh thần và tập tục Do Thái giáo ở ngay trong Hội Thánh. Họ muốn người dân Galát phải cắt bì và giữ luật Môsê, cho rằng chỉ những việc này mới ban ơn tha tội khiến con người được trở nên công chính. Như vậy, Đức Giêsu Kitô và sự nghiệp của Người sẽ bằng thừa. Người ta cứ theo luật mà làm thì tội lỗi sẽ được tha và người ta được nên công chính. Đức Giêsu Kitô không còn chỗ đứng nào nữa trong một quan niệm như vậy. Và điều này phủ nhận hẳn kinh nghiệm sâu xa của Phaolô và làm cho cuộc rao giảng Tin Mừng trở nên vô ích.
Phaolô là người như ngày nay không phải vì các việc làm theo lề luật. Ngược lại những việc này đã biến Phaolô nên người hăng say đi tìm bắt những kẻ theo đạo. Chính nhờ sự tỏ hiện của Chúa Giêsu Kitô và nhờ lòng tin của Người mà Phaolô được ơn tha thứ và trở nên công chính. Từ đó nhìn lại Luật pháp Môsê, người ta đã thấy chính Tổ phụ của dân đang giữ luật này cũng đã được công nhận là công chính, không phải do các việc ông làm, nhưng tự lòng ông đã tin Lời Chúa. Rồi hiện nay dân Do Thái đang làm không biết bao nhiêu việc theo lề luật, mà tội lỗi họ vẫn còn y nguyên đó.
Qua miệng các tiên tri, Thiên Chúa còn nói rõ: nhờ đau khổ, người Tôi Tớ của Người sẽ công chính hóa các tội nhân. Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm thánh giá không phải là người Tôi Tớ này hay sao? Do đó Phaolô viết: Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi. Chính Chúa Giêsu Kitô khi bị lề luật đóng đinh vào thập giá, đã đóng đinh lề luật vào sự chết của Người, để khi sống lại Người ban cho những ai tin vào Người ơn tha thứ tội lỗi và sự sống mới, không phải sự sống theo lề luật nữa, nhưng là sự sống làm con Thiên Chúa nhờ lòng tin và lòng mến.
Chúng ta đã sung sướng đồng ý với thánh Phaolô rồi khi Người nói: Chính nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà chúng ta đã được tha thứ tội lỗi. Chúng ta còn phải thi hành cũng chính lời Người đã nói theo cùng một ý đó rằng: nay tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tức là chúng ta phải phát huy sự sống của Đức Giêsu Kitô Cứu Thế trong thân xác và cuộc đời của chúng ta. Không những chúng ta phải từ bỏ nếp sống tội lỗi trước đây, mà còn phải bày tỏ đời sống làm con Thiên Chúa và làm anh em đồng bào với mọi người.
Chính Chúa Giêsu, trong mầu nhiệm cử hành nơi bàn thờ bây giờ muốn làm công việc ấy nơi chúng ta. Người ban ơn tha tội, cho chúng ta nhận lấy Người để chúng ta được làm con Thiên Chúa hơn và làm anh em với mọi người hơn. Đời sống của chúng ta phải là đời sống phục vụ, như chính Chúa Giêsu đã đi trên đường phục vụ khi ở trần gian. Chúng ta không phải chỉ như người phụ nữ trong bài Tin Mừng: được tha thứ rồi bà sung sướng đi theo phục vụ Chúa. Chúng ta còn được thay mặt Chúa để làm công việc cứu thế. Và như vậy hạnh phúc của chúng ta trổi vượt hơn Đavít ngày xưa biết mấy. Xin cho chúng ta biết đón nhận và sống ơn Chúa hôm nay ban như vậy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Đọc đoạn Tin Mừng của Chúa nhật XI hôm nay, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những suy nghĩ: TN 11-C34
Đọc đoạn Tin Mừng của Chúa nhật XI hôm nay, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những suy nghĩ, những cảm nghiệm khác nhau về vai trò của ông Simon, người biệt phái và người phụ nữ tội lỗi. Nói tới người phụ nữ tội lỗi có lẽ chúng ta bị xúc động và cảm thấy có nhiều thiện cảm hơn đối với Simon.
Chúa Giêsu được ông Simon, người thu thuế và gia đình của ông mời tới dùng bữa tại nhà của ông. Gia đình của Simon đã làm ăn rất khấm khá bởi vì với cái nghề thu thuế mà ông đang làm, đã giúp ông có của ăn, của để, đã làm cho ông và gia đình trở nên những người có máu mặt, có địa vị trong xã hội lúc bấy giờ. Sở dĩ ông Simon mời Chúa Giêsu đến nhà dùng bữa vì ông muốn biết Chúa Giêsu thực sự có là vị ngôn sứ đáng kính, giỏi giang không?
Ông muốn trắc nghiệm và kiểm chứng Chúa Giêsu. Ông cho rằng ông hiểu rất rõ về người phụ nữ tội lỗi cũng đang có mặt trong nhà của ông và nếu Chúa Giêsu là ngôn sứ thật Ngài sẽ có phản ứng trần thế như mọi người là đuổi người phụ nữ tội lỗi ra khỏi nơi ấy ngay khi thấy mặt người phụ nữ này. Chúa Giêsu không đuổi người phụ nữ như họ lầm tưởng, do đó, họ cho rằng Chúa Giêsu không phải là vị ngôn sứ thật. Họ đánh giá Chúa Giêsu không có khả năng hay nói cách nôm na, Chúa Giêsu chẳng phải là ngôn sứ.
Ông Simon cứ tưởng, cứ nghĩ là Chúa Giêsu phải có phản ứng, phải có hành động như ông và những người khác. Đó là phải đuổi người phụ nữ tội lỗi này chứ không được tiếp xúc chứ đừng nói đến lòng thương xót như Chúa đã làm. Ông Simon vẽ ra trong đầu mình về một Thiên Chúa và Thiên Chúa như ông nghĩ phải là Thiên Chúa phán xét, lên án , đặc biệt là lên án những kẻ tội lỗi. Ông Simon tưởng ông là công bằng nhưng kỳ thực ông đâu có nhận ra tình thương của Thiên Chúa. Ông cho rằng gái điếm là gái điếm. Ông Simon không nhận ra vì ông có suy nghĩ tồi, suy nghĩ theo kiểu thế gian nên lòng ông đã ra chai đá . Chính vì thế phải sống:” yêu thương mới nhận ra Thiên Chúa “. Người phụ nữ tội lỗi đã nhận ra cơ may, đã biết sống yêu thương nên cuộc gặp gỡ giữa Chúa và người nữ tội lỗi đã trở nên thành công. Người phụ nữ này đã có tấm lòng cởi mở, không khô cứng, không chai lì như Simon. Chị đã tin và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương, và sự tha thứ của Chúa. Chị đã yêu mến nhiều, nên được tha thứ nhiều:” Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít “ ( Lc 7, 47 ). Chị đã nhận ra mình là người vô cùng tội lỗi, nên đã được Chúa cứu vớt, yêu thương:” Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an “ ( Lc 7, 50 ).
Vâng, lòng tin đã đem lại ơn tha thứ. Ơn tha thứ đã biến đổi tội nhân để tội nhân mãi mãi được an bình và bước đi trong bình an. Chúng ta cần phải biểu lộ tình yêu và lòng tin của chúng ta bằng việc sám hối. Quay về và cải tà qui chánh mới giúp chúng ta nhận ra sự yếu hèn, tội lỗi của mình. Chỉ những ai nhận mình là tội lỗi mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta sẽ rơi vào tình trạng của Simon khi chúng ta tưởng mình là công chính, vô tội. Do đó, chúng ta không chờ đợi Thiên Chúa. Như thế, cuộc gặp gỡ của chúng ta với Ngài sẽ trở nên hời hợt, bề ngoài và dễ có nguy cơ thất bại.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn luôn nhận ra tình thương vô biên, hải hà của Chúa. Amen. Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cái trớ trêu của Tin Mừng vẫn là những gì thế gian xem ra khờ dại, thì Tin Mừng lại cho là khôn: TN 11-C35
Cái trớ trêu của Tin Mừng vẫn là những gì thế gian xem ra khờ dại, thì Tin Mừng lại cho là khôn ngoan. Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi ngạc nhiên, sửng sốt vì lòng thương vô bờ bến của Người đã khiến không ít người xem Chúa Giêsu là người lập dị, sống không giống ai, đặc biệt càng không giống những kinh sư, biệt phái, pharisiêu và những vị lãnh đạo tôn giáo thời dân Do Thái xưa. Chúa nhật thứ XI thường niên, năm C, chỉ cho chúng ta thấy một Chúa Giêsu nhân hậu, hiền lành, hay chạnh thương, Ngài luôn tìm kiếm những tội nhân, những gì đã hư mất. TỘI NHÂN ĐI TÌM KIẾM CHÚA GIÊSU: Đọc đọan Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm thấy như có một cái gì đó thật cảm động, thật dễ thương. Người đàn bà mang danh là tội lỗi vì được Chúa trừ cho bảy quỷ dữ ( Lc 8, 1-3 ) đã tìm đến với Chúa Giêsu. Ở đây khác với nhiều đọan Tin Mừng, Chúa Giêsu đi bước trước tìm tội nhân: Ngài bỏ 99 con chiên tốt, tìm con chiên lạc, người đàn bà thép đèn, quét mọi ngõ ngách trong nhà để tìm đồng bạc đã mất, người Cha luôn chờ mong đứa con hoang đàng trở về vv và vv…Tin Mừng Lc 7, 36-8,3 gửi một sứ điệp tuyệt vời:” Thiên Chúa luôn đi tìm kiếm các tội nhân “. Trong đọan Tin Mừng này, chúng ta học được bài học rất kỳ diệu, rất ấn tượng. Chúa Giêsu đã trình bầy một Thiên Chúa không chỉ đi tìm nhưng tội nhân nhưng Ngài còn tìm mọi phương thế,mọi cách để chinh phục tình yêu của mọi người. Người đàn bà tội lỗi ngập đầu đã không sợ hãi tìm tới Chúa Giêsu vì bà tin vào tình thương, tin vào lòng nhân hậu hay chạnh thương của Chúa. Ông Simon,một người Pharisiêu đã mời Chúa Giêsu và nhiều người dùng bữa trong nhà của ông.Ông tin vào Chúa những sự hiểu biết của ông lại hết sức giới hạn về Chúa Giêsu. Simon không thể hiểu được tại sao Chúa lại để một người đàn bà tội lỗi rửa chân cho Người. Simon nào có hiểu thấu lòng Chúa. Chúa muốn tha thứ tội cho người đàn bà tội lỗi nhưng đã biết đáp trả lại tình thương của Chúa. Ngài muốn biến đổi con tim tội lỗi của người đàn bà mang danh tội lỗi này.Thiên Chúa luôn tìm kiếm những tội nhân những gì đã hư mất. Tuy nhiên, Ngài cũng luôn đón nhận sáng kiến tự do của mỗi người.
CHÚA GIÊSU, NGƯỜI SĂN ĐUỔI NHỮNG TỘI NHÂN ĐỂ ĐEM VỀ NƯỚC TRỜI:
Chúa Giêsu đã cảm mến sự thành tâm của con người, của người phụ nữ tội lỗi, bà đã yêu nhiều, nên được tha nhiều:”…Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”( Lc 7,47 ).
Ở đây, cái dí dỏm và thật là linh thánh, thật sâu xa và cảm động, đó là Chúa yêu thương người đàn bà tội lỗi, đã biết sám hối, ăn năn như Vua Đavít trong Cựu Ước, đã phạm tội cướp vợ và giết người để chiếm đọat vợ người khác. Vua Đavít đã nghe lời nói của ngôn sứ Nathan mà quay trở về với Chúa, nên Chúa đã không để Đavít bị hư đi đời đời. Chính cử chỉ tha thứ, yêu thương của Chúa Giêsu đã chinh phục hoàn toàn trái tim và con người của vua Đavít. Đọc Tân Ước, chúng ta vẫn thấy nhan nhản những dụ ngôn, những ví dụ nói lên tấm lòng nhạy cảm và yêu thương của Chúa Giêsu, không những đối với những tội nhân, những người tội lỗi mà ngay cả đối với những môn đệ thân cận của Ngài. Phêrô chối Chúa và Phêrô quay lại, sám hối khóc lóc ăn năn, nên Chúa đã tha thứ cho Phêrô là người yếu hèn. Qua dụ ngôn người hành khất Lazarô, Chúa phán xét về những hành vi tốt xấu của con người. Qua việc ngôn sứ Giona nằm trong bụng cá ba đêm ngày, Chúa Giêsu muốn loan báo cái chết và phục sinh của Ngài. Chúa luôn nhấn mạnh đến lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân:” Tội của chị đã được tha rồi…Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”( Lc 7, 48-50 ).
Chúa vẫn tiếp tục yêu thương, tìm kiếm và tha thứ tội lỗi cho nhân lọai qua bí tích Thánh Thể và Hòa Giải. “ Này là Mình Ta…Này là Máu Ta sẽ đổ ra vì nhiều người, và nhiều người được tha tội”.
Các sứ giả của Chúa vẫn tiếp tục đi khắp nơi:” Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa…”. Các sứ giả của Chúa luôn là những người mang sứ điệp tình thương cho Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu của Chúa để chúng con luôn biết cảm thông và yêu thương người tội lỗi. Amen.
Trong xã hội, để đối phó với tình huống người ta phạm tội ác nhiều thì luật pháp nơi đó thường: TN 11-C36
Trong xã hội, để đối phó với tình huống người ta phạm tội ác nhiều thì luật pháp nơi đó thường sẽ khắt khe hơn. Nhưng trong cách giải quyết của Thiên Chúa, ta lại thấy đi ngược lại với cách giải quyết của người đời. Cảm nghiệm được như thế, nên thánh Phao-lô dám quả quyết: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Thi hành sứ mệnh cứu thế, Chúa Giê-su đã làm cho “ân sủng càng chứa chan gấp bội” bằng cách tha thứ tội lỗi loài người và sự tha thứ ấy ở cao điểm khi Người chết trên thập giá. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta dịp chiêm ngưỡng lòng nhân từ tha thứ của Chúa qua câu truyện Người tiếp đón một phụ nữ nổi tiếng tội lỗi trong thành.
1) “Kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành...”
Đó là một phụ nữ không được nêu tên, mặc dù mọi người trong thành ai cũng biết chị ta. Không nêu tên, vì thánh sử muốn tế nhị và bác ái nên không nói rõ hơn về hoàn cảnh của chị. Nhưng không nêu tên cũng là để ta hiểu rằng người tội lỗi ấy là bất cứ ai và có thể là chính bản thân ta nữa. Thực vậy, thân phận tội lỗi là thân phận chung của toàn thể nhân loại, ngoại trừ Mẹ Ma-ri-a. Hậu quả của tội tổ tông làm cho ta mất khả năng tự mình đến được với Thiên Chúa và có khuynh hướng phạm tội. Ai dám cho là mình sạch tội trước mặt Chúa? “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8:7).
Ta không rõ nhờ đâu mà người phụ nữ tội lỗi biết được Chúa Giê-su là ai để chị quyết định đến gặp Người. Nhưng quan trọng hơn, ta nên chú ý tới những hành vi của chị khi đến gặp Chúa. Trước hết, chị không ngại tỏ ra mình là người tội lỗi khi chị xuất hiện giữa một đám đông gồm những người không chút thiện cảm. Hơn thế nữa, chị còn bất cần những lời hoặc cử chỉ khinh miệt của họ khi chị làm những cử chỉ không thể chấp nhận, như “đứng đằng sau sát chân Chúa mà khóc, nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và xức dầu thơm”. Ta có thể hiểu lầm ý nghĩa của những cử chỉ ấy. Đó không phải là những cách để chị biểu lộ lòng quý mến đối với Chúa Giê-su, nhưng là những cách để chị nói cho Chúa (và những người hiện diện) biết rằng thân phận của chị là thân phận tội lỗi và chị cầu xin Chúa xót thương. Nói khác đi, vì chị nhận biết thân phận tội lỗi của chị nên chị đã khiêm tốn đến xin Chúa thứ tha cho mình.
Khi Chúa Giê-su nói với người Pha-ri-sêu đãi tiệc là ông Si-mon về ẩn dụ người chủ nợ và hai con nợ, hẳn là Chúa muốn ám chỉ Thiên Chúa là chủ nợ và mọi người chúng ta đều là con nợ, hoặc nợ ít, hoặc nợ nhiều, vì mọi người đều xúc phạm đến Người. Vậy mà vẫn có những người vỗ ngực bảo mình chẳng có tội gì cả nên không cần phải đi xưng tội! Họ cũng chẳng biết rằng Thiên Chúa là “chủ nợ thương tình tha thứ”, nên không muốn đến xin Người tha thứ qua Bí tích Giải tội.
2) “Ông thấy người phụ nữ này chứ?.. Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha”
Người phụ nữ tội lỗi đến với Chúa. Những gì chứa chất từ bao lâu trong tâm hồn, nay chị đã biểu lộ qua những cử chỉ làm cho Chúa Giê-su. Chị đã làm một cách khiêm tốn, nhưng cũng đầy lòng tin và hy vọng. Trước mặt chị chỉ có Chúa Giê-su thôi. Không phải chỉ là Đức Giê-su người Na-da-rét nổi danh, nhưng còn là Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” đang mở rộng cánh tay tiếp nhận những kẻ tội lỗi ăn năn sám hối. Những giọt nước mắt thống hối của chị đã tưới ướt đẫm chân Chúa. Tóc là biểu tượng cao quý của người phụ nữ giờ được sử dụng để lau chân. Cả đến dầu thơm dùng để biểu dương sự sang trọng quý phái của người phụ nữ bây giờ được đổ ra để xức bàn chân Chúa đầy bụi bặm và chai đá vì rảo khắp nẻo đường rao giảng Tin Mừng. Tất cả những việc làm ấy đối với chị vẫn chưa đủ để nói với Chúa rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Đối với Chúa, chị luôn luôn là “con nợ” và “không có gì để trả”, chỉ biết nhìn nhận tội lỗi mình và hết lòng cậy trông vào lòng thương xót của Người.
Chúa Giê-su đã chứng giám lòng ăn năn sám hối của chị khi Người lên tiếng nói với ông Si-mon về những gì chị đã làm cho Người. Người còn trách khéo ông về những thiếu sót khi ông đón tiếp Người, cũng là những lời trách khéo ông không biết nhìn nhận thân phận tội lỗi của chính ông. Ông chỉ nhìn thấy người phụ nữ đến gặp Chúa là “một người tội lỗi”, chứ ông không nhìn thấy người phụ nữ tội lỗi ấy là một người biết sám hối. Khi Chúa nói “ông thấy người phụ nữ này chứ?” là để nhắc nhở ông Si-mon và hết mọi người phải theo gương người phụ nữ này mà nhận biết mình là kẻ tội lỗi và phải sám hối. Có khiêm tốn nhận mình là kẻ tội lỗi, ta mới có thể đến với Chúa xin ơn thứ tha. Có khiêm tốn nhận mình là kẻ tội lỗi, ta mới quảng đại chấp nhận những yếu đuối sai lầm của anh chị em và sẵn sàng tha thứ.
Chúa Giê-su khẳng định với ông Si-mon: “Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai” là ngầm hiểu Chúa đã tha thứ tội lỗi cho người phụ nữ đến với Người rồi. Nhưng nếu cần, Chúa Giê-su sẽ sẵn sàng công bố chị đã được tha thứ tội lỗi và thực sự Người đã làm việc này để phục hồi danh dự cho chị và ca ngợi lòng khiêm tốn và can đảm của chị. “Tội của chị đã được tha rồi... Lòng tin của chị đã cứu chị”.
3) “Chị hãy đi bình an”
Chúa Giê-su đã đem lại cho chị sự bình an. Chúa khẳng định với ông Si-mon: “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha”. Được tha thứ rồi, người phụ nữ cảm nhận ơn bình an. Khi Đấng có quyền tha tội đã tha thứ cho mình, thì mình còn phải lo lắng sợ hãi gì nữa. Chỉ có Chúa Giê-su, Đấng có quyền tha tội, mới ban cho ta sự bình an đích thực của Người, bình an mà thế gian không thể ban cho ta.
Bình an nảy sinh lòng yêu mến. Nhờ được tha thứ và được bình an, người phụ nữ sám hối sẽ yêu mến Chúa nhiều, được tha nhiều thì càng yêu mến nhiều hơn. Lòng yêu mến là hiệu quả của sự tha thứ. Ở đây, ta thường hiểu lầm lòng yêu mến của chị như là nguyên nhân để Chúa tha thứ. Nhưng ngược lại, chính sự tha thứ lại là lý do để ta phải yêu mến Chúa hơn.
Sau khi tha thứ tội lỗi cho người phụ nữ sám hối, Chúa nói với chị: Chị hãy đi bình an. Vậy chị ấy sẽ đi đâu và đi làm gì? Thánh Lu-ca kể tiếp là sau đó, cùng đi với Chúa, ngoài các Tông đồ ra còn có “mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh” cũng đi theo Chúa để giúp đỡ Người và các Tông đồ. Dĩ nhiên thánh sử không nói người phụ nữ sám hối có ở trong số người ấy, nhưng đó cũng là một cách để nhắn nhủ ta rằng: sau khi được tha thứ, ta phải yêu mến Chúa hơn và sẵn sàng lên đường với Người để chia sẻ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Người.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi giống như ông Si-mon trong câu truyện Tin Mừng, kiêu căng cho mình là kẻ thánh thiện hơn người khác và xa tránh những người tôi coi là “kẻ tội lỗi” không? Tôi sẽ làm gì để giúp họ?
Mỗi lần đi xưng tội, tôi có thực sự nhìn nhận “tình trạng” tội lỗi của tôi, hay chỉ thấy những tội tôi sắp xưng là những sự kiện và những con số? Nói khác đi, có bao giờ tôi xét tội như một “tình huống” với những nguyên nhân nào, hoàn cảnh nào, người nào... không? Nếu không thì tại sao?
“Được tha nhiều thì yêu mến nhiều, được tha ít thì yêu mến ít”. Vậy mỗi lần sau khi đi xưng tội, tôi sẽ biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng cách nào?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ. Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình. Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối. Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ. Có những hành vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên trong. Có những lời kinh đọc trên môi, nhưng không có chỗ trong tâm hồn và ngược hẳn với cuộc sống thực tế. Lạy Chúa Giê-su, chúng con cũng thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn. Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ, đã ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa và chính mình. Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành, để chúng con được lớn lên trong bình an.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 91) Lm. Trần Đình Nhi
Chúa Nhật hôm nay nói đến tình thương xót bao la của Thiên Chúa đối với những tội nhân: TN 11-C37
Chúa Nhật hôm nay nói đến tình thương xót bao la của Thiên Chúa đối với những tội nhân biết nhìn nhận tội lỗi mình và thành thật ăn năn sám hối. Bài Đọc I (2 Samuel 12:7-10,13): Vua David đã được Chúa chọn và xức dầu để làm Vua Israel , nhưng ông đã phạm tội thật nặng nề; tuy nhiên ông đã thật lòng ăn năn tội lỗi và Thiên Chúa đã tha tội cho ông. Bài Đọc II (Galat 2:16, 19-21): Chúng ta được công chính hoá là nhờ lòng tin vào Chúa Kitô, Đấng đã chịu chết để đền tội lỗi chúng ta; theo gương Thánh Phaolô “chúng ta hãy sống trong lòng tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã yêu thương chúng ta và hy sinh chính mình cho chúng ta.” Bài Phúc Âm (Luca 7:36- 8:3): Người đàn bà tội lỗi đã đến với Chúa Giêsu và khóc lóc ăn năn sám hối tội lỗi và vì thế “tội của bà thật nhiều, nhưng đã được thứ tha.”
Chính vì để cứu chuộc tội lỗi chúng ta, mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã “Xuống Thế Làm Người” và chịu khổ nạn chịu chết trên Thánh Giá. Chúa Giêsu đến là để tìm kiếm những người tội lỗi , như Chúa đã nói với người Do Thái: “Ta đến không phải để tìm người công chính nhưng tìm người tội lỗi biết sám hối ăn năn.” (Luca 5:32). Trong Phúc âm còn ghi nhiều Dụ Ngôn Chúa Giêsu đã kể để nói lên tình thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân khi họ thật lòng nhìn nhận tội lỗi của mình và ăn năn sám hối, như dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” (Luca 15:11-32), dụ ngôn “Con Chiên Lạc” (Luca 15:4-7), dụ ngôn “Đồng Bạc Bị Đánh Mất” (Luca 15:8-10).
Xét ra thì tội của Vua Đavít thật là nặng nề, xấu xa (Xin xem 2 Samuel chương 11); nhưng khi Tiên Tri Nathan được Thiên Chúa sai đến để nói cho Nhà Vua biết, Vua đã không tự ái, nỗi giận với tiên tri, nhưng đã khiêm nhường nhận tội của mình và xin Chúa tha thứ. Đó là lòng sám hối ăn năn. Người đàn bà trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng thật sự là kẻ tội lỗi xấu xa mà cả thành phố điều biết; nhưng do lòng sám hối, khóc lóc tội lỗi của mình, nên Chúa đã sẵn sàng tha thứ cho bà. Người “trộm lành” cũng bị treo trên thập tự giá ở bên Chúa, đã nhìn nhận tội mình và cho mình bị khổ hình là xứng đáng với tội mình và xin Chúa cứu vớt , Chúa Giêsu đã nói với anh “Ngay hôm nay con được ở trên Thiên Đàng với Ta.” (Luca 23:39-43)
Khiêm nhường ăn năn sám hối tội lỗi là điều kiện để được Chúa Thứ Tha: Để dọn đường cho Chúa, Thánh Gioan đã ‘ban phép Rửa Thống Hối để được ơn tha tội” tại dòng sông Giodan (Matcô 1:4-5). Bắt đầu công cuộc rao giãng “Tin Mừng của Thiên Chúa” Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa đã đến gần, ANH EM HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG.” (Matcô 1: 14-15). Lời này được lập đi lập lại khi chủ tế xức tro trên đầu chúng ta trong ngày Thứ Tư Lễ Tro mở đầu mùa Chay Thánh.
Trong đêm Vọng Phục Sinh, phần Công Bố Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta được nghe hát thật long trọng những lời rất cảm động sau đây: “Ôi lòng Chúa thương chúng ta thật lạ lùng. Ôi lòng Chúa Thương Xót không thể đo lường được. Để cứu chuộc người tôi tớ, Chúa đã nộp chính con mình. Ôi tội Adong thật cần thiết, tội đã được tẩy xóa nhờ sự chết của Chúa Kitô. Ôi “TỘI HỒNG PHÚC”, vì đã đem lại Đấng Cứu Chuộc thật cao cả.”
Tội Lỗi và Ơn Thánh! Tội Lỗi đã đem lại Ơn Thánh! Tin ở lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân, chúng ta hãy năng đến với Chúa qua Bí Tích Hòa Giải (Giải Tội) để được ơn thứ tha các lỗi lầm và được ban thêm Ơn Thánh Hóa. Bí Tích Hòa Giải thật là một kỳ công của Lòng Thương Xót Chúa. Nhờ Bí Tích Hòa Giải mà bao nhiêu tội nhân đã được thứ tha và trở về đường ngay nẻo chính. Đọc tiểu sử các vị thánh, chúng ta thấy nhiều vị đã trải qua cuộc đời thật tội lỗi xấu xa, nhưng nhờ biết sám hối lỗi lầm và lĩnh nhận Bí Tích Hòa Giải nên đã được Ơn Thánh giúp để thật lòng từ bỏ tội lỗi và từ bỏ mọi sự để hiến dâng cuộc đời phụng sự Chúa và nhân loại, đan cử như trường hợp Charles de Foucauld (1858-1916), Thomas Merton (1915-1968). “Vị thánh nào cũng có một qúa khứ, và tội nhân nào cũng có một tương lai!”
Trong Thánh Lễ hôm nay chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin vào lòng thương xót của Chúa và ăn năn sám hối lỗi lầm trở về với Chúa; xin cho chúng ta luôn biết khiêm nhường, thắng tính tự ái, để biết lắng nghe những lời chân thành cảnh tỉnh chúng ta mà sửa đổi lỗi lầm (như trường hợp Vua Đavít dù là ông Vua uy quyền, nhưng khi nghe Tiên Tri Nathan cảnh tỉnh, Vua đã nhận tội mình ngay và sám hối ăn năn); xin Chúa cũng cho chúng ta biết noi gương lòng nhân từ của Chúa để biết quãng đại tha thứ các lỗi lầm người khác gây cho chúng ta (xin xem Mátthêu 18:21-22); xin cho chúng ta không xét đoán ai, nhưng luôn có lòng yêu thương giúp đở những người trót sa ngã phạm tội được lòng ăn năn sám hối và sửa đổi đời sống; đặc biệt nếu đó lại là người chồng hay người vợ, hay những người con thân yêu của chúng ta.
Sự kiện mà đoạn Tin Mừng sáng nay vừa kể lại sẽ được ghi nhớ mãi mãi và chẳng bao giờ bị chìm: TN 11-C38
Sự kiện mà đoạn Tin Mừng sáng nay vừa kể lại sẽ được ghi nhớ mãi mãi và chẳng bao giờ bị chìm vào quên lãng. Bởi vì nó là một đề tài cho những người đạo đức giả phản đối, nhưng lại là niềm vui mừng cho những tâm hồn tội lỗi.
Hôm đó một ông biệt phái mời Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà mình và Chúa Giêsu đã chấp nhận lời mời ấy. Đang khi dùng bữa, thì Madalena, một thiếu phụ tội lỗi, nổi tiếng ở trong thành. Nàng bước vào với một bình dầu thơm trên tay. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía nàng. Người ta chờ xem nàng sẽ làm những gì. Bất chấp những cái nhìn soi mói, nàng quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu, khóc lóc cho quãng đời dĩ vãng. Rồi đổ thứ thuốc thơm xức chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau.
Trước sự việc bất ngờ ấy, chắc hẳn nhiều người đã thoáng có ý tưởng khinh bỉ và chỉ trích. Nhưng Phúc Âm chỉ chú trọng tới lập trường của ông biệt phái. Ông thầm nghĩ rằng: Nếu Chúa Giêsu là một vị tiên tri hẳn phải biết người đang quỳ dưới chân mình chỉ là một kẻ tội lỗi và sẽ không chấp nhận những biểu lộ như thế. Thế nhưng Chúa Giêsu đã thấu suốt những ý nghĩ thầm kín của ông ta. Ngài muốn cho ông ta hiểu được giá trị của những hành động ấy, cũng như tỏ cho ông ta thấy lòng thương xót vô bờ của Ngài. Ngài bắt đầu bàng câu chuyện về hai con nợ. Một mắc nợ nhiều và một mắc nợ ít, rốt cuộc cả hai đều được tha thứ, thì lý đương nhiên kẻ được tha thứ nhiều thì sẽ yêu mến ông chủ nhiều hơn. Từ đó Chúa Giêsu đã đi tới kết luận: Tôi nói cho ông hay: tội lỗi của nàng tuy nhiều nhưng đã được tha thứ hết bởi vì nàng đã yêu mến nhiều.
Từ câu chuyện trên, tôi muốn đi tới một nhận định như thế này: Làm cho kẻ chết sống lại là một phép lạ vĩ đại, cũng thế, làm cho kẻ tội lỗi ăn năn là một phép lạ vĩ đại không kém. Ngày nay Chúa vẫn còn tác động và lôi kéo biết bao nhiêu tâm hồn như Madalena thuở trước. Từ chỗ bùn nhơ tội lỗi đã trở nên những người con yêu dấu. Một khi đã hoán cải cuộc đời và mặc lấy một cuộc sống mới, họ sẽ dấn thân, không một chút nề hà để phục vụ cho Thiên Chúa.
Thế nhưng để phép lạ ấy được thực hiện nơi bản thân chúng ta thì điều kiện chúng ta cần phải có đó là khiêm nhường và yêu mến. Khiêm nhường nhận ra thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình. Yêu mến để được tha thứ và được tẩy sạch mọi dấu vết của tội lỗi, cũng để có được nghị lực sống đời sống mới. Như Madalena, chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, để nhờ đó giục lòng sám hối ăn năn, thú nhận tội lỗi hầu lãnh nhận ơn Chúa thứ tha.
Lang nghe sứ điep của bai Tin Mừng (Lu-ca 7:36-8:3)
Trong thành hôm nay có hai người “nổi tiếng”. Dĩ nhiên người thứ nhất phải là Chúa Giê-su: TN 11-C39
Trong thanh hôm nay có hai người “noi tiếng”. Dĩ nhiên người thứ nhat phai là Chua Giê-su va người kia là người phụ nữ toi loi đã đen rửa chan Người bằng nước mat và xức dầu thơm len chân Người. Chua Giê-su noi tieng qua giao lý Người giảng day với uy quyen và những phép la Người lam đe to lòng thương xot của Thien Chua. Người con noi tiếng vì cách đoi xử với những người toi loi và khon cùng khac han với cach cua người Pha-ri-seu và dan chúng, bởi vì Người ton trọng pham gia cua những người ay va muon đem ho về đường ngay nẻo chính.
Còn người phu nữ đến với Chua hôm nay cũng “noi tieng”, vì chị “von la người toi lỗi trong thành”. Chị nổi tieng vì cach song tội loi cua chính mình hoac làm cớ cho người khác pham toi. Nhưng co lẽ đieu nổi tieng nhat của chị là chị la một “con nợ”. Chị nợ Thiên Chua rat nhiều. Moi toi chị pham là mot món nợ với Chua va với những người chung quanh. Nợ cua chị chong chat, vì chị “khong co gì để tra”.
Tuy nhien còn mot đieu nổi tieng nữa nơi chị mà chung ta ai cung phai học tap, đo la nổi tieng vì can đảm. Chung ta thử nghĩ coi. Giữa mot bữa tiec gom toàn những than hào nhan sĩ trong thành, lai them sự hien diện va chủ toa của vị “Ngôn sứ thành Na-da-ret” nữa, người ta thay chị tien vào. Đong lực nào đa giúp cho chị bat chấp những la o, những đoi mat khinh bỉ, những lời nói cay đắng danh cho chị? Chính la tình yeu Thien Chúa chị thấy chieu toa nơi Chua Gie-su. Chị đa cam nghiem được tình yêu tha thứ cua Người qua những đieu nghe được từ người khác. Cung co the chính mat chị đa đôi lan chứng kiến cach đoi xử nhan từ va quang đai của Chua với những người toi lỗi khac giong như chị. Người khac làm được, tại sao tôi khong lam được? Cach hành xử của chị là khong cần đoi đau với những khinh de của người khac, nhưng la phải gap gỡ tình yeu và long thương xot cua Chúa. Tình yeu của Chua đa mở đường cho chị giữa mot đam đông bat lợi. Chúng ta không nghe chị noi gì. Nhưng cử chỉ va hành vi của chị thì y nghĩa phong phu và chan thành. Chị khóc. Chị dùng nước mat để “rửa chân cho Chúa”. Chị lau kho bang toc mình. Chị hôn chan Người. Chị xức dầu thơm. Tom lại, chị đã sử dung tat cả những gì dung để bieu lộ pham giá cua một người phu nữ để noi lên long thong hối va cũng đe biểu lo đức tin cua chị vao Chua. Chính vì thế, chị đa thực sự nổi tieng vì “long tin cua chị đa cứu chị và chị ra đi bình an”.
Song sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta thấy hơi la vì bài Tin Mừng nay them vào mot khuc của chương 8, ke lai may phụ nữ đa được Chua cứu giup nen “đã lay của cai mình mà giup đỡ Chúa Gie-su va cac mon đệ”. Chung ta được Chua tha thứ, không phai chỉ la để “quang gánh lo đi” va thơ thới tam hon, nhưng hơn the nữa, la đe phục vu. Chúng ta không ro người phu nữ “noi tiếng trong thành” hom nay co gia nhap nhóm phuc vu ay khong. Ai biet! Nhưng chac chan một đieu, chị ay se tìm mot hoàn canh thuan tiện đe làm đieu gì đo đền đap tình yêu, quang đai và tha thứ Chúa Gie-su đa ban cho chị. Biet đau chị đa “lieu” xong vào giữa đam người thu địch cua chị đe tìm sự tha thứ, thì chị cũng đu can đam để ra đi nói cho mọi người biet về Chua Giê-su. Co lẽ ban chất “khong noi nhưng ma làm” cua chị van la mot đức tính cao quy để chị tham gia mot cách am tham vào sinh hoạt cua Giao Hội. Du thế nao đi nữa, chúng ta cũng can phai “nổi tieng” như chị, để giup cho danh Chua được “noi tieng” hơn.
Một thực trạng ngày nay ở các nước phát triển phương Tây cho thấy ơn gọi dâng mình làm tu sĩ: TN 11-C40
Mot thực trang ngay nay ở cac nước phat trien phương Tay cho thay ơn goi dang mình lam tu sĩ va linh muc đang thieu tram trong, ngay cang co ít người chịu dang mình trong cach đong truyen giao cua Chua. Co phai sự phat trien cua xa hoi ngay nay lam cho niem tin con người bị bao mon? Hay viec dang mình đi tu la mot cai gì đo lac hau, loi thời, la cong viec cua những the ky trước nay khong con phu hợp với thời đai nữa?
Chac chắn những nguyên do tren đeu khong phai. Con người ta thờ ơ lãnh đạm trong viec truyen giao la do ho còn thiếu lòng thương cảm như Đức Giêsu hôm nay. “Ngi đa thy đám đông thì chnh lng thương, vì h lm than vt vưởng như by chin khng người chn”. Khi đa chanh long thương người nao thì hieu người đo rat ro. Ở đay Đức Giesu đa thương đam đong khong co người chan, lam than vat vưởng. Tat ca những hanh đong đo đa “đanh” vao trai tim đay thao thức cua Người. Bởi vay Đức Giesu đa goi mười hai mon đe lai va ban cho ho toan quyen “trn cc thn u” đe cac ong trừ chung va “chữa ht cc bnh hon tt nguyn”. Đo la sứ menh cơ ban ma Đức Giesu đa trao cho cac mon đe cua Người, cung la sứ menh cua moi người Kito hữu chung ta, đa được lanh nhan qua Bí Tích Rửa Toi. Do đo, chung ta phai tiep tuc thi hanh sứ mang ma Chua Cha đa trao pho la đem Tin Mừng đen cho người khac.
Thien Chúa luôn muốn sự cong tac nơi con người để tiep noi cong viec cua Ngai trong thế gian. Ngài cũng có the bất cần sự hợp tac đo, nhưng Ngài muốn cho con người tham dự vào cuộc tạo dựng thứ hai, sự cong tac đo giống như canh tay nối dài của Người vậy. Vì the, để manh dan va nhiệt tình trong canh đong truyen giao đoi hoi người mon đe phải biết chạnh lòng thương trước đám đông vì:
1. Thay ho lam than vat vưởng ma thong cam.
Vì mieng cơm manh áo có những người phai đi “tha phương cau thực”, mot xa hội xô bo dễ đưa họ đen quay cuồng, chạy đi tìm danh-lợi-thú. Từ những cám dỗ đo đưa đen những me muội rồi sa vao con đường toi loi rat gan. Thực ra những con chien lac long xa nhà rat can được sự cam thong. Chỉ cần mỗi người có sự quan tam, với cai nhìn trìu men se đưa ho đến nguồn sống đích thực. Thì lúc đó những sự cám dỗ tran tuc danh vọng giả tao, cua cai vat chat chong qua không thể thang noi, neu co sự dan dat cua những chu chăn.
2. Tự do đap tra ơn goi.
Khi thay lua chín đay đong, Đức Giêsu mới nói với các môn đệ “Anh em hay xin”, chứ Người khong dung từ “anh em phai”. Ngai luon ton trong tự do cua người mon đe. Vì tự do la thiet yeu cho ơn goi.Trong sự đap tra tích cực, tự do ay như mot sự trao hien tình yeu đe đap tra tình yeu. Đức Gioan Phaolo VI đa noi: “Ting gi tương xứng với lời đap. Chỉ c th c ơn gi, nu đo l ơn gi tự do, tức l hin dng chính mình mt cch tự nguyn, thức qung đai v trn vn”. Sự dang hien tự do tao thanh hat nhan thiet than nhat cua lời con người đap lai tieng goi cua Thien Chua. Sự dang hien ay tìm được mau mực tuyet vời khon sanh, hay đung hơn tìm gap coi re song đong trong sự dang hien tự do cua Đức Giesu Kito, Người đau tien được goi. Ngai đa đap lai lời mời goi cua Chua Cha, the thì hom nay chung ta cung hay đap tra lai lời mời goi cua Chua Giesu. Hơn nữa viec truyen giao khong phai bat đau bang kien thức triet hoc sau xa, hay bang than hoc mong lung cao vời, ma bat đau bang tình yeu va long thương cam.
3. Thay lua chín ma thao thức.
Hat giống Tin Mừng đa được gieo vãi hơn hai ngan nam nay, nhưng còn rất nhiều người đang lan mo trong bong toi. Ho vẫn đang tìm kiem anh sang dan đường. Tiêu biểu ở Việt Nam con hơn tam mươi phan tram chưa biet đen Tin Mừng. Điều đó phai la vấn đề thao thức của tất cả moi người. Trong thực tế trong cánh đồng truyền giáo còn thiếu thợ gat, thieu cac linh mục, tu sĩ rất nhiều, đang thieu những người san sang hy sinh lam chứng cho đức tin vì Chua.
Ly Cha, xin cho chng con bit thao thức trước những nhu cu ca Gio Hi, đe bit mnh dn dn thn trong cnh đong truyn gio ca Người. Amen
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ đôi mắt mà ta nhìn thấy được vũ trụ vạn vật. Hơn nữa qua: TN 11-C41
Đoi mat la cửa so cua tam hon. Nhờ đoi mat ma ta nhìn thay được vu tru van vat. Hơn nữa qua đoi mat ay, ta cung co the nhan ra được tam trang cua nhau. Hieu đe thong cam, đe quan tam đen nhau. Từ đo, ta co the giup nhau va thong cam cho nhau. Khi nhìn người khac với cai nhìn tình thương, ta mới co the nhan ra ho đang can gì.
Mở đau đoan Tin mừng hôm nay ta thấy: “Cha Gisu thy đám đông thì chnh lng thương, vì h lm than vt vưởng, như by chin khng người chn dt” (Mt 9, 36). Chac chan khong phai chỉ mot mình Chua Giesu mới nhìn thay đam đong người nay. Tuy nhien, do cai nhìn đay tình thương nen Người mới nhan ra được chính ho đang can những người hướng dan, cham nom.
Tam trạng chạnh lòng thương của Chúa Giêsu ở đây chính là tam trang đứt ruột đứt gan. Chúa Giêsu đã that sự thương những người đang đi theo mình. Ho đang can được sự quan tâm, nâng đỡ về moi mat. Cho nên, Chúa Giêsu đã nhanh chóng: “gi mười hai mn đe li, đe ban cho cc ng quyn trn cc thn u, đe cc ng trừ chng v chữa ht cc bnh hon tt nguyn” (Mt 10, 1)
Chua Giêsu luôn nhìn mọi người với cái nhìn đầy tình thương vì Người nhìn ta nơi tận sâu thẳm tâm hồn. Chúa Giêsu đã nhìn thay: Matheu tai ban thu thuế va Người đã keu goi ong (Mt 9, 9), Dakêu đang tren ngon cay sung (Lc 19, 1- 10). Nhờ đó hai ông đã được ơn hoan cai. Chua Giesu nhìn thay ba goá bo vào hòm tiền hai đong tien kem ít ỏi (Mc 12, 38 – 44). Va hầu như 12 Tong đo hôm nay được Chúa Giêsu chọn cũng đều xuất phát từ cai nhìn đay tình thương ay.
Chua Giêsu chính là tình yeu cua Thien Chua cua chung ta. Chắc chắn Người thấy rõ từng chung ta. Thấy không phải để theo dõi hay đe trừng phạt nhưng để quan tâm chăm sóc. Chúa Giêsu đã noi: “Khi cu nguyn, anh em đừng li nhi như dn ngoi; h nghĩ rng: cứ ni nhiu l được nhn lời. Đừng bt chước h, vì Cha anh em đa bit r anh em cn gì, trước khi anh em cu xin” (Mt 6, 7 – 8). Hay xin Chua Giesu cho chung ta biet tin vao sự quan tam va cham soc cua Người cho ta nhieu hơn nữa. Đong thời, chung ta cung hay hoc nơi Chua Giesu cai nhìn tình thương ay với nhau. Đe roi dan dan chung ta loai bo đi những cai nhìn cham choc, ganh tỵ hay xoi moi nhau.
Chúa Giêsu động lòng thương khi nhìn đám đông đang bơ vơ mệt mỏi. Người thấu suốt nỗi khốn: TN 11-C42
Chua Giesu đong long thương khi nhìn đam đong đang bơ vơ met moi. Người thau suot noi khon kho cua nhan loai nen đa đen giai thoat ho. Nhưng Người khong mot mình lam tron cong viec cứu đo. Chính vì the, Người quy tu mười hai tong đo va giao cho cac ong sứ vu mang ơn cứu đo đen cho moi người ở moi thời moi nơi. Ngay nay, sứ vu cua cac tong đo được Giao Hoi tiep noi, đac biet nơi cac giam muc, linh muc tai cac Giao hoi địa phương. The nhưng, cong viec cua cac ngai gap khong ít kho khan đen từ chính đoan chien mình được trao pho. Chung ta hay thử điem qua vai kho khan ma cac ngai gap phai đe co cai nhìn quang đai hơn, nhiet tình cong tac hơn trong viec đem ơn cứu đo đen cho moi người.
1. Cac linh muc ít được ton trong.
Tin Mừng thanh Mattheô đa liệt kê danh sách 12 tông đồ cua Chua Giesu. Nhìn vao danh sách nầy, người ta co cảm nhận đây là mot tap the gồm những cá nhan chưa gương mau, hay nói cách khác là con nhieu khuyet điem. Mot tap the trong đo phần lớn là những người lao động bình thường, ít kien thức, đức vốn chẳng cao ma tài thì lai kem.
Từ khi Chúa Giêsu chính thức chọn nhóm Mười Hai giữa đam đong, xem ra danh phận các tông đồ được nâng lên. Thật vậy, Chúa Giêsu rất tâm lý khi Người trao danh dự tong đo cho những người nay từ trong đam đong, bởi Người hieu ro danh chính thì ngôn mới thuận. Người muốn các tông đồ dung cai danh là phương tien đe dễ dang chu toàn nhiệm vụ.
Tương tự như các tông đồ, danh phận các linh muc được Chúa Giêsu trao ban vì sứ vụ va cho sứ vụ. The nhưng, xã hoi chung ta đang song ngay hom nay, một xã hoi chu trương bình đẳng đến mức cào bằng các tương quan: vợ - chồng, cha - con, thầy - trò, giao dan - linh mục. Họ cho rằng linh muc cung co những khuyết điểm thì viec nghĩ xấu, nói xấu, kiện tụng... là le dĩ nhien, la chuyện bình thường vì moi người đeu co quyền bình đẳng. Các tín hữu suy nghĩ như the vì ho chưa ý thức ro lý do chính yếu mà Chua Giesu đa trao cho các linh muc: co danh đe dễ dang chu toàn phận sự tong đo giữa muôn dân. Trong bat ky hoàn cảnh nào, Chúa Giêsu luôn muốn nhắc nhở cac tín hữu: hay ton trong Linh mục.
2. Cac linh muc ít được đon nhan.
Trước khi sai các tông đồ đi rao giang Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ban cho cac ngai nhieu kha năng. Các ngài nhận lãnh ơn hue từ nơi Chua cach nhưng khong va đã cho đi nhưng khong.
Người linh muc trai qua hành trình đào tạo lâu dài, đắc thủ được nhiều khả nang nhờ ơn Chua. Cac ngai co gắng chuyên cần tập luyện nhân đưc, miet mai trao dồi kiến thức, kiên trì tích luy, hoc hoi kinh nghiệm mục vụ. Viec co gắng tích lũy là đe hy vong được cho that nhieu va cho cach nhưng khong. The nhưng, thực tế đa làm cho cac ngai chung bước bởi thai đo của các tín hữu. Các tín hữu đang song trong một xã hoi thực dung nen đieu ho mong ước là cai lợi ích trước mắt. Với họ, đời sống vật chất cần thiết hơn đời song tinh thần. Người linh muc với kien thức mình đa đắc thủ, với đời sống thiêng liêng mình đã phan đau kien toan chỉ biết phó thac vao long nhan từ Chúa trước hoàn cảnh xã hoi đang buon: nhieu vị sẵn sàng muốn cho đi những cái tốt mà chang được đón nhận, nhiều người đã vo tâm khước từ.
3. Cac linh muc ít được cam thong.
"Nước Trời đa gn đen" la đieu ma Chua Giesu muon cac tong đo rao giang. Cung với lời rao giang đo, thai đo kem theo ma Chua Giesu muon cac tong đo lam la phuc vu tan tình va song đời gian dị, song tinh than ngheo kho cua Nước Trời. Noi khac đi, Chua Giesu muon viec lam cua cac mon đe chứng minh cho moi người thay lời noi mình la chan that.
Ngay nay, Chua cung muon cac linh mục chúng ta như vậy. Đây là mot đoi hoi cực ky khó khan ma các linh muc phai no lực. Sứ vu đòi hỏi khả nang đap tra cao cua linh mục. Bên cạnh đó, người tín hữu cung co những yêu cầu cao nơi linh mục. Trong khi linh muc thực sự cũng là những con người bình thường. Ai cung biet rang sứ vụ linh mục liên quan đen phan roi cua cac tín hữu. Vì vậy, việc cảm thông cho cac ngai khong những giup cac ngai chu toàn sứ vu mà con gop phan bao ve và cung co sự song linh hồn chính các tín hữu. Thông cảm cho cac vị chủ chan la thái độ ma Chúa Giêsu muốn có nơi cac tín hữu.
Giao Hội ví như một con thuyen, cac linh mục là những người cam mai cheo. Thai đo thiếu tôn trọng, không đón nhận, thiếu cảm thông của các tín hữu là những trở lực cho cac linh mục trên hành trình dẫn đưa con thuyền Giáo Hội về đích. Con thuyen Giao Hoi ve đến bến nhanh hay chậm, thất bại hay thanh cong la tùy thuộc vào mái chèo của các vị linh mục. Do đo, hãy chung tay với các ngài để tat ca chúng ta cung tien nhanh về ben bình an!
Một gia đình giáo dân nọ có đứa con nhỏ xem ra sáng sủa lanh lợi, học vấn khá. Cha sở bảo: Anh: TN 11-C43
Một gia đình giáo dân nọ có đứa con nhỏ xem ra sáng sủa lanh lợi, học vấn khá. Cha sở bảo: Anh chị có muốn cho con đi chủng viện không, để sau này làm linh mục, phục vụ cho Nước Chúa, cho Hội thánh? Người cha cười cười trả lời: Dạ để con về hỏi lại gia đình đã. Sau đó người cha về kể lại cho cả nhà đều nghe, trong khi chú bé đang đứng ở đó. Nhân tiện, người cha hỏi ngay chú bé: Này con, ý cha sở như vậy. Còn con, con nghĩ thế nào? Có muốn đi tu không? Chú bé cười cười một chút liền nói: Con đi rồi mất nòi mất giống làm sao ba? Ai sẽ nối dòng cho gia đình đây? Cả nhà đều cười, cho là con nói hay. Thực ra cha mẹ cũng không muốn cho con đi tu lắm, nên nghe con nói, là đồng ý ngay….Ngày nay, ở thành phố hoặc ở thị xã, gia đình nào cũng chỉ có một hoặc hai con, làm sao có thể nói chuyện cho con đi tu? Làm sao người ta dám hi sinh để cho con mình theo Chúa? Đây chính là điều mỗi người Kitô hữu cần suy nghĩ. Nếu không có ai hi sinh làm linh mục, làm sao có các bí tích, làm sao Chúa đến với mọi người? Chính vì thế mà Chúa mới nói: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt. Kính mời anh chị em cùng suy niệm đề tài này….
a/. Nhu cầu cần có thợ gặt: Chúa than lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá: Chúa nói câu này khi Người đang đứng trước đám đông. Chúa chạnh lòng thương họ, vì họ bơ vơ vất vả như chiên không người chăn. Nhìn đám đông như thế, trong khi Chúa mới chọn lựa được có 12 tông đồ và một ít môn đệ; vì thế Chúa mới than: lúa chín đầy mà thợ gặt ít quá. Thời Chúa Giêsu, thợ gặt đã ít, ngày hôm nay thực ra có nhiều hơn không? Sau hai mươi thế kỷ, thợ gặt linh hồn người ta vẫn còn thiếu, và đây là nhu cầu cấp bách của Hội thánh: luôn cần những thợ gặt, nhất là thợ gặt giỏi để làm việc trong cánh đồng mênh mông của Chúa…
Cuối năm 1944, một lễ phong chức đặc biệt đã diễn ra ngay trong trại Dachau, trại tù lừng danh của Đức Quốc xã mà không người Âu châu nào không biết tiếng. Một phó tế người Đức bị lao phổi đang hấp hối. Các linh mục bị giam ở đây, bèn nghĩ đến chuyện phong chức linh mục cho Thầy. Người ta làm mọi cách để che mắt lính canh. Một người chơi vĩ cầm để đánh lạc hướng chú ý của công an. Một vị linh mục người Pháp, trong bộ đồng phục rách rưới của tù nhân, đã phong chức linh mục cho một chủng sinh người Đức. Tân linh mục đã cử hành thánh lễ đầu tiên ít ngày sau đó, và đó cũng là thánh lễ cuối cùng của Ngài. Trong quyển nhật ký của cha mới, người ta đọc thấy hai chữ: TÌNH YÊU , ĐỀN BÙ… Chúng ta thấy: Tình yêu mạnh hơn sự chết. Ngay những nơi hận thù chết chóc càng dâng cao, người ta càng thấy những gương chứng nhân sáng ngời của tình yêu, hi sinh, xả kỷ… Thực ra, thợ gặt không thiếu, chỉ thiếu thợ gặt giỏi mà thôi…
Có người hỏi: tại sao phải phong chức cho Thầy Sáu chỉ sống được mấy ngày, hay tại sao linh mục thì thiếu, mà tại trại Dachau này có trên 3000 linh mục phải chết, có khi còn rất trẻ, tại sao? Thưa vì Chúa muốn như thế, nhất là vì ơn gọi của họ chính là dùng cái chết của mình để làm chứng nhân tình yêu xóa bỏ hận thù, thay cho Đức Kitô…
b/. Các tông đồ được Chúa sai đi, ban cho họ quyền năng: Trước hoàn cảnh lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, Chúa liền sai các ông ra đi, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế; rồi Chúa căn dặn họ: hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến, và hãy chữa lành các bệnh tật. Ta thấy rõ trong mấy lời này, Chúa thực sự muốn sai các môn đệ ra đi truyền giáo: hãy ra đi và rao giảng rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần…..
Tháng 6 năm 1989, một số linh mục và giám mục người Ba Lan đã đến cử hành thánh lễ tại trại Dachau, kỷ niệm 50 năm ngày thế chiến thứ hai, nhất là tưởng niệm gương hi sinh của gần 3000 linh mục nhiều quốc tịch, bị giam và chết ở đây. Thánh lễ cử hành trên ngôi mộ lớn của họ, không phải để gợi lại hận thù, nhưng là để mời gọi mọi người chỉ thấy yêu thương và tha thứ giữa hận thù. Thánh lễ cũng muốn nói lên: Chúa Kitô đã sai các tông đồ ra đi giữa muôn sói, các linh mục tại trại Dachau đã lớn tiếng đáp lại lời mời gọi đó, sẵn sàng sống và chết như Đức Kitô, là để cho mọi người thấy tình yêu thương và tha thứ giữa bao hận thù, ganh ghét….
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Hội thánh đang rất cần nhiều thợ gặt, nhất là những thợ gặt giỏi cho cánh đồng truyền giáo, là người Kitô hữu ta có để tâm cầu nguyện xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều thợ gặt để phục vụ cho Nước Chúa không? Họ đạo chúng ta chưa có thợ gặt, ta có cầu nguyện cho họ đạo có nhiều thợ gặt như lòng Chúa mong ước không?
Trong những ngày nầy, anh chị đang chuẩn bị để thu hoạch những hạt lúa chín vàng, những hạt lúa là: TN 11-C44:
Trong những ngày nầy, anh chị đang chuẩn bị để thu hoạch những hạt lúa chín vàng, những hạt lúa là kết quả của công lao cực khổ từ nhiều tháng qua. Nhưng việc thu hoạch những hoa lợi cũng không phải dể dàng gì; kết quả tốt đẹp đang hiện diện trước mắt, niềm vui mừng đang dâng lên sau bao ngày mong đợi, nay đã trở thành hiện thực, nhưng nó vẫn còn ở ngoài đồng, chưa thể mang về được. Anh chị em cũng đang tìm người giúp cho những hạt lúa đó có thể về đến nhà cách an toàn. Chính vì thế mà anh chị em cũng cố gắng tìm những người biết làm công việc cần thiết cho những hạt lúa thì mới yên tâm được. Có phải yên tâm như thế là xong việc? Thưa không, anh chị em mặc dù đã thu hoạch, nhưng vẫn còn hướng đến tương lai, nên từ những kết quả thu được, anh chị em cũng chuẩn bị cho vụ mùa sau, để cũng thu được kết quả tốt như thế hay là tốt hơn thế.
Nhìn vào hiện tại để hướng đến tương lai, nếu hiện tại biết chuẩn bị tốt thì tương lai cũng đạt được kết quả tốt.
Chúa Giêsu nhìn thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương họ, vì họ bơ vơ không ai lo lắng chăm sóc, vì không ai nhìn thấy làm sao có thể lo lắng chăm sóc. Ngài nhìn thấy, Ngài cảm nhận được và Ngài đã hành động. Ngài đi khắp nơi và thực hiện những gì mà nhu cầu người khác cần đến. Như thế Ngài chưa bằng lòng, Ngài còn nhìn thấy tương lai cũng cần phải thực hiện như Ngài đã làm. Ngài chuẩn bị và kêu mời mọi người cộng tác với Ngài, để cùng cảm nhận với những gì Ngài đã cảm nhận và làm những gì Ngài đã làm với con tim yêu thương thổn thức của Ngài. Nhóm 12 Tông Đồ đã nghe lời mời gọi của Ngài, các ông biết đáp lại vì các ông cảm nhận được lời: “La chín đầy đồng m thợ gt thì ít”. Các ông theo Chúa Giêsu, các ông thực sự là những người thợ giỏi, các đã thu hoa lợi về nhà Thiên Chúa thật nhiều.
Lời mời gọi đó vẫn vang lên mãi trong suốt lịch sử của con người hơn 2000 năm qua. Rất nhiều người biết đáp lại vì con tim họ đã thổn thức cùng nhịp với với con tim của Thầy chí thánh. Họ cũng thu được rất nhiều kết quả.
Ngày hôm nay, thế hệ của chúng ta, những người đang sống đang hiện diện nơi đây, lời mời gọi đó cũng vang lên thống thiết nơi từng người. Mỗi người trong chúng ta cũng đã nghe nhiều, nhưng đáp lại được bao nhiêu?
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta mừng lễ cho người khác, cho người ngồi trước chúng ta vì họ biết đáp lại lời Chúa kêu mời, vì họ có được con tim thổn thức, vì họ biết hành động theo ý Chúa để đem về cho Chúa những phần hoa lợi thật xứng đáng. Thật hạnh phúc và rất đáng chúc mừng. Nhưng không phải là chúc mừng cho người khác, mà mừng cho chính chúng ta, niềm vui chung của họ đạo, vì đây là những người con của họ đạo, những bông hoa tốt đẹp của họ đạo toả hương cho đời. Trong niềm vui mừng đó, chúng ta cũng phải lo chuẩn bị cho những ngày mùa trong tương lai, như công việc chúng ta đang làm cho cuộc sống đời thường. Chúng ta lo chuẩn bị những hạt giống đời người, chuẩn bị những bông hoa tốt đẹp từ họ đạo để tiếp tục toả hương cho đời. Có thể chúng ta sẽ nói rằng: đây là việc của ngưòi khác, việc của những người tu hành, còn tôi không có khả năng. Không phải thế, đây là việc của tất cả mọi người. Chúa Giêsu kêu mời tất cả mọi người và mỗi người theo khả năng của mình mà đáp lại lời Chúa. Mỗi người trong chúng ta cũng đáp lại lời Chúa theo cách của mình và cũng phải mang về kết quả cho Chúa theo khả năng của mình. Hôm nay chúng ta vui mừng trong thánh lễ với niềm vui chung của họ đạo, cùng với lời cầu nguyện cho niềm vui hôm nay được kéo dài trong ơn Chúa. Đó là một cách đáp lại lời mời gọi, chúng ta cũng cầu nguyện và đóng góp công sức của mình, của gia đình mình để niềm vui mừng không chỉ có trong ngày hôm nay, mà trong tương lai cũng còn có nhiều niềm vui như thế.
Chúng ta cầu xin cho từng người trong chúng ta có được tâm hồn quảng đại, để biết lo cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi. Chúng ta cũng cầu xin cho những người trẻ biết hy sinh và quảng đại đáp lại tiếng Chúa kêu mời.
Yêu nhau mọi sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”. “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo” TN 11-C45
“Yêu nhau mọi sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”. “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, thập ngũ đèo cũng qua”. Vâng tình yêu là như thế. Tình yêu đủ sức và đủ quảng đại để hai người nam nữ cỏ thể đến với nhau bất chấp những khác biệt, bất chấp đường xa, hay nhà gần, bất chấp những khiếm khuyết của cơ thể, củ ấu cũng tròn mà. Tôi muốn dùng hình ảnh hết sức đẹp đẽ này để nói về một tính yêu khác lớn hơn. Tình yêu vượt trên những bất toàn về tinh thần, tình yêu dành cho cả những tội nhân. Đó là tình yêu của Đức Kitô dành cho con người.
Chúa nhật XI này, tác giả phụng vụ cho chúng ta nghe một câu chuyện rất cảm động của Thánh Luca. Cảm động đến mức người ta đã gọi thánh Luca là một nghệ sĩ. Đức Giêsu được một người biệt phái, tên là Simon, mời dự tiệc. Trong khi đang dùng bữa thì có một cô gái – Luca cho hay đó là một cô gái điếm. Hạng này nhơ nhớp và đáng khinh lắm. Theo chú giải của cha Nguyễn Thế Thuấn, câu chuyện này không giống với câu chuyện xức dầu ở Bêthania (X. Mt 26,6t). Người phụ nữ này cũng không là Maria Madalêna (Lc 8,2) hay Maria em Matta (Lc 10,39). Cô gái điếm vào nhà ông biệt phái khóc nức nở đến nổi nước mắt thấm ước chân Chúa Giêsu, rồi cô lấy tóc lau, lấy dầu thơm xức lên chân. Việc làm ấy làm ngứa mắt ông chủ nhà và có thể là cả đám người đang dùng tiệc hôm ấy. “Thầy bà gì mà để cho con gái đụng chạm vào người mình như thế, mà lại là một cô bán hoa nữa chứ”. Đúng là không ăn thì phá cho hôi mà. Các ông lầm to rồi. Đừng có suy bụng ta ra bụng người. Không thể xếp Đức Giêsu vào chung hạng với Mã Giám Sinh được đâu. Tôi tin vào đạo đức chính chắn của thầy Giêsu. Đức Giêsu đã lật ngược thế cờ. Ngài đã dùng chính tập tục của người Do thái mà cho ông chủ một bài học nhớ đời. Khi có khách đến nhà, người chủ phải làm 3 việc sau đây: thứ nhất, đặt tay lên vai khách và hôn bình an. Đây là cử chỉ tỏ lòng tôn kính. Thứ hai, rửa chân cho khách. Thứ ba, đổ một giọt nước hoa hồng lên đầu khách. Thế mà Simon ơi, ngươi đã làm điều đó cho ta chưa? Còn người đàn bà này đã làm tất cả không phải để thoả mãn cơn đam mê nhưng vì lòng yêu mến và kính phục. Ngươi quá xem thường ta rồi, ơi Simon. Nên dù ngươi có là chủ tiệc thì cũng chẳng được ta chiếu cố đâu. Còn người đàn bà này “Vì đã yêu mến nhiều, nên được tha nhiều, kể cả cái tội bán thân nuôi miệng ấy”.
Vậy mới là Giêsu chứ! Thâm thuý, sâu sắc mà quảng đại, bao la đến muôn trùng. Không phải cứ mâm cao cỗ đầy thì có thể trịch thượng, trân tráo, là lấy được lòng Thượng Đế. “Ta muốn lòng nhân từ chứ nào cần đâu lễ tế, vì Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính mà là những kẻ tội lỗi” (Mc 9,13). “Thiên Chúa chuộng lòng thành tín bên trong, diễn tả trong sự thương xót nhân nghĩa. Chứ không nơi thi hành bên ngoài chiếu theo luật”. Theo William Barclay, có thể người đàn bà này muốn dùng bạch ngọc xức chân Chúa, nhưng khi gặp Ngài vì quá xúc động nên chỉ khóc thôi. Bà xứng đáng để nhận lãnh tình yêu và lòng tha thứ của Thiên Chúa. Tình yêu của bà, thiện chí muốn vươn lên của bà, hy vọng được đổi đời của bà, lòng tin tưởng Đức Giêsu có thể nâng bà dậy không vượt ra được trái tim yêu thương của Đức Giêsu. Tình yêu xoá mờ tất cả, tha thứ tất cả. Tình yêu đủ sức để đóng cử hoả ngục và mở cửa thiên đàng. Một khi đã nhận ra được tình yêu ấy và sẵn sàng đáp trả thì đâu có gì là khó để Phaolô, Augustinô, Inhaxiô Loyola trở thành những vĩ nhân. Chẳng phải là Chúa Hài Đồng đã bảo Thánh Giêrônimô dâng cả tội lỗi của mình cho Ngài đó sao? “Chính vì để cho những tên cướp lên trời mà Cha trên trời đã gửi Con của Người xuống thế gian và chính cho cả những người xấu xa tội lỗi, những tên đao phủ và cả Giuda mà Đức Giêsu đã đổ máu Người ra”. Như mưa từ trời làm mát tươi vạn vật và rửa sạch mọi bợn nhơ, bụi bặm của mặt đất thế nào thì tình yêu của Thiên Chúa cũng làm tươi mới và rửa sạch tâm hồn ta như thế.
Hãy sám hối với lòng khiêm nhường để Thiên Chúa được tha thứ cho bạn.
--------------------------------
TN 11-C46: NGƯÒI PHỤ NỮ TỘI LỖI HỐI CẢI
Lc 7,36-50
Trước hết xin luư ý vài điểm: 1/ Đoạn nầy là riêng của Luca. Có thể là do Luca sáng tác: TN 11-C46
Trước hết xin luư ý vài điểm:
1/ Đoạn nầy là riêng của Luca. Có thể là do Luca sáng tác để minh hoạ sự sám hối và ơn tha thứ.
2/ Hay ít ra là đựoc đọc lại sau Phục Sinh, dưới ánh sáng Phục Sinh. Chúng ta nhớ: Sau khi sống lại thì việc trước nhất của Chúa Giêsu là căn dặn: Hãy đi nói với anh em ta là họ hãy về lại Galilê ở đó họ sẽ được gặp lại Ta. Vì những chuyện xảy ra ở Giêrusalem- mới đó thôi- như còn tắm trong bầu khí Phục Sinh, có thể làm quên đi những chuyện ở Galilê lâu rồi.( Hỡi người Galilê sao còn đứng nhìn trời..)
3/ Khi viết Phúc Âm – 50 năm sau- đã có thực hành sám hối và nghi thức Bí Tích giải tội khá rõ ràng rồi. Không phải câu chuyện là chính mà là ý tưởng cứu độ được thánh sử cố ý lồng vào đó. Vì Phúc Âm không phải là lịch sử thường mà là lịch sử cúư độ.Và Phúc Âm Luca được gọi là Phúc Âm của lòng thương xót (hay tha thứ)
4/ Các nhà chú giải tranh cãi nhau về việc làm của chị nầy là đi trước ơn tha thứ ( yêu nhiều vì đã được tha thứ nhiều) hay là kết quả của ơn tha thứ.
Để hiểu đoạn nầy của Luca chúng ta chọn ba câu nầy coi như chìa khoá mà Luca cung cấp cho chúng ta:
1/ Nếu quả thật ông nầy là ngôn sứ thì hẳn phải biết người phụ nữ đang đụng tới mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi (c.39). Ông Simon Pharisêu tưởng Đức Giêsu không biết. Nhưng thật ra Đức Giêsu biết lắm, biết rỏ: Là người tội lỗi, là gái điếm mà còn hơn thế nữa, hơn nhiều, rất nhiều: Chị đã sám hối và hối cải hết lòng. Những cử chỉ của chị nhìn vào thấy có vẻ gai mắt nhưng Đức Giêsu thấy đó là sự bày tỏ lòng sám hối chân thật và còn thấy chị thật lòng hối cải . Có lẽ chị có nghe biết về Đức Giêsu và đã chuẩn bị cả tinh thần lẫn vật chất để đến gặp Người. Gặp Đức Giêsu không phải như người thường mà là Thiên Chúa làm người. Người biết và thấy tận thâm sâu cõi lòng con người. Ai sao Ngưới đều biết rạch ròi. Hơn thế nữa Người còn tiếp đón dịu dàng, hiền hậu, đầy tình yêu thương, còn ban ơn trợ giúp sự yếu đuối của ta nữa. Nên chị mạnh dạn trước đông người "khóc lóc, nước mắt đổ ướt cả chân Người còn lấy tóc mà lau ( không người nữ nào làm), rồi hôn chân Người và đổ dầu thơm xức chân Người nữa.(c.38). Một tấm lòng sám hối và hối cải mà chỉ Đức Giêsu đấng thấu suốt tâm can mới thấy mà thôi.
2/ Và lòng sám hối nầy Đức Giêsu gọi là lòng yêu mến nhiều vì mắc nợ nhiều và đã được tha nhiều . Vì thế tôi bảo ông: tội chị nhiều lắm nhưng đã được tha rồi vì chị đã yêu mến nhiều (c .47) Yêu mến là sám hối, hối cải. Cụ thể là chị đã chuẩn bị và đã đến để bày tỏ bằng những cử chỉ bề ngoài xem là lộ liểu, khó coi, nhưng rất can đảm và nhìn được (như Đức Giêsu ) thì là đầy tràn tình yêu. Chị biết mình đến với ai và tin tưởng Đức Giêsu biết trong lòng chị hối cải thật tình "Đức tin chị đã cứu chữa chị". Mọi sự xảy ra như đã biết rỏ: DG biết rỏ và chị tin tưởng chắc chắn. Chúng ta lưu ý: Tội chị nhiều lắm nhưng đã được tha. Không bao giờ Đức Giêsu nói "tôi tha tội" mà luôn luôn nói "tội đã được tha". Đã được tha là đựoc tha rồi, tha trước rồi chứ không đợi nói "ta tha tội cho". Cách dùng passif impersonnel để chỉ là Chúa tha. Nhưng ‘đã được tha rồi’ nghĩa là đã sám hối thật tình và quyết tâm chừa cải là dứt bỏ mọi tội lỗi đã phạm và từ nay không phạm nữa. Hết tội rồi. Làm đúng theo điều Chúa muốn thì Chúa tuyên bố "hết tội rồi" thì thật hết tội.
3/ Kết thúc: Tội của chị đã được tha rồi(c.48) Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an (50). Tội của chị đã được tha rồi chứ không nói "tôi tha tội cho chị" và phải đợi khi ấy mới dược tha. Được tha rồi nghĩa là cùng với lòng tin "sám hối" vì không có lòng tin sám hối thì Chúa cũng không nói tha tội được. Vì phạm tội Chúa không ngăn cản được và có bỏ tội hay không là tự do của con người. Chúa không làm gì được. Nên tội có được tha hay không là ở tự do của con người. Muốn được tha thì phải sám hối dốc lòng chừa cải. Dốc lòng chừa cải là bỏ hết tội rồi. Tội đã được tha rồi. Ý của Luca rất rõ là ơn tha thứ phải đi đôi với sự sám hối dốc lòng chừa cải. Cũng nói cách khác là tin, đức tin công chính hoá. Tin là bỏ đời sống cũ, cho họ chịu phép rửa gia nhập cộng đoàn cứu độ để học biết và tuân giữ mọi điều thầy đã truyền.Trở thành môn đệ, là Kitô hữu chính danh. Ngày nay không gọi la Bí tích giải tội hay tha tội nữa mà gọi đúng là Bí tích Hoà giải, nói lên yếu tố tích cực nhất là phía hối nhân. Không phải cứ phạm tội rồi đến nói "thưa cha con đã phạm tội" rồi cha tha tội cho rồi ra về bình an như không hề phạm tội vậy. Chúa nhật có người mời đám cưới cứ đi rồi đến thưa cha con có bỏ Chúa nhật rồi cha tha tội cho, hết như không có bỏ vậy.
Qua đó chúng ta thấy câu chuyện là cái vỏ bên ngoài như mượn lá trầu làm đầu câu chuyện. Ý tưởng chính có giá trị cứu độ là sám hối, dốc lòng chừa cải để được tuyên bố là tội con đã được tha rồi. Hãy về bình an và được bình an thật vì hết tội thật sự rồi.
Người ta thường nói "tội tình". Cách nói vô ý thức ấy lại chứa đựng một chân lý rất sâu sắc: tội: TN 11-C47
Người ta thường nói "tội tình". Cách nói vô ý thức ấy lại chứa đựng một chân lý rất sâu sắc: tội lỗi và tình thương thường đi đôi với nhau. Trong bài Tin Mừng hôm nay thì ta thấy rằng chữ tình đi trước: "Tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều". Vì yêu mến nên chị được tha. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài luôn yêu thương chúng ta và tình yêu của Ngài luôn đi trước. Thánh Kinh đã ghi nhận nhiều bằng chứng là Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta trước. Chính tình yêu của Ngài kêu gọi chúng ta sám hối, rồi tình yêu của Ngài tha thứ chúng ta, sau đó tình yêu của Ngài lại khuyến khích chúng ta yêu mến Ngài hơn. Tóm lại tình yêu Thiên Chúa bao trùm tất cả, trước, trong và sau khi chúng ta phạm tội.
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Lc 7, 36 – 8, 3) ông Simon là một người biệt phái, nên ông ghét người tội lỗi. Đối với ông, người phụ nữ tội lỗi kia là thứ người phải bỏ đi, không đáng được cứu. Ngày xưa và ngày nay có rất nhiều như Simon như thế. Họ không tin rằng con người có thể sửa đổi, vì thế họ không cho kẻ tội lỗi có cơ hội sửa đổi. Nếu một nền văn minh không tin vào sự cứu rỗi là một nền văn minh không có niềm hy vọng. Tuy nhiên, phần Chúa Giêsu, Ngài biết người phụ nữ này có tội, nhưng Ngài cũng thấy tấm lòng tốt của chị. Ngài tin tưởng vào khả năng tốt ấy và giúp chị đứng dậy. Ngài không lên án mà còn yêu thương chị. Thái độ của Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết nhận ra điều tốt nơi người khác và yêu thương người ấy. Tội lỗi chỉ có thể cứu chữa bằng yêu thương. Kết án không bao giờ giải thoát .
Bài đọc Cựu ước trích từ sách tiên tri Samuel hôm nay nhắc lại trường hợp phạm tội của vua Đavít. Có thể nói vua Đavít đã phạm tội rất khéo: ông đã ngoại tình với vợ của tướng Uria, sau đó lại dùng âm mưu để giết chết Uria để che dấu tội mình, sau đó công khai cưới bà vợ góa ấy làm vợ mình. Rõ ràng đó là một tội rất nặng. Bài Tin Mừng hôm nay cũng đưa ra một người phụ nữ tội lỗi nữa, chị hành nghề không tốt. Nghề này chẳng những đem lại tội cho bà, mà còn làm cho nhiều người khác phạm tội. Đây cũng là một tội nặng, rất nặng. Nhưng cả hai người tội rất nặng đó đều đã được tha, tha rất dễ dàng và nhanh chóng. Vua Đavít nói với tiên tri Nathan "Tôi đã phạm tội cùng Chúa", thì Natan đáp ngay "Chúa đã tha tội cho vua rồi". Còn người đàn bà kia quỳ khóc dưới chân Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu nói với chị "Tội con đã được tha rồi".
Nếu so sánh trường hợp tội lỗi của hai nhân vật trên với trường hợp tội lỗi của chúng ta, chúng ta cảm thấy an tâm. Trong chúng ta đây, mặc dù ai cũng đều có tội, nhưng không ai tội nặng bằng hai người đó: ngoại tình, giết chồng đoạt vợ người ta? Nhưng Chúa tha thứ tội cho hai nhân vật ấy một cách hết sức dễ dàng và nhanh chóng! Nên có lẽ chúng ta thấy an tâm. Nhưng do an tâm mà mình đâm ra coi thường những tội của mình, không coi đó là tai hại bao nhiêu, không hối cải, không quyết tâm từ bỏ. Ngày nay, nhiều người xưng tội một cách nhanh chóng, qua loa, cho xong bổn phận mà không tỏ ra hối hận, sửa đổi, xưng tội xong là cứ phạm tội tiếp, lần xưng tội sau thì cũng vẫn bấy nhiêu tội như lần xưng trước. Thậm chí nếu thấy có Cha ngồi sẵn trong tòa giải tội là mình có thể bước vào xưng ngay không cần xét mình cẩn thận, vì ta đã thuộc lòng các tội ta quen phạm rồi !có những lỗi tội chẳng những có hại cho chính bản thân mình mà còn có hại cho nhiều người khác nữa như nhậu vô một chút rồi đánh vợ, chửi con, cờ bạc, nói xấu người khác, ăn cắp, buôn bán gian lận... Vậy mà nhiều người rất coi thường chúng nên phạm hoài, lần xưng tội nào cũng có những tội đó.
Tội của Đavít, tội của người phụ nữ kia dù rất nặng nề nhưng vì hai người đã nhìn nhận mức độ nặng nề của nó và thành tâm thống hối nên đã được Chúa tha thứ. Còn những tội của chúng ta, tuy không nặng nề bằng nhưng nếu ta không nhìn nhận sự tai hại của nó và không hối cải thì cũng không được tha ! Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đã thấy Chúa không quan tâm tới tội ta phạm là nặng hay là nhẹ, nhưng Chúa chú trọng đến lòng thống hối ăn năn và Chúa chờ đợi, tin tưởng vào sự quyết tâm sửa đổi của chúng ta. Do đó, chúng ta hãy quyết tâm hối cải và can đảm thay đổi đời sống tốt hơn.
Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít" (Lc 7, 47). Người phụ nữ tội lỗi là người yếu đuối lầm lỡ trong tội, nhưng đã được Chúa Giêsu bao dung tha thứ, nên đã mau mắn đáp lại tình yêu, để rồi cuộc đời bắt đầu từ nay được đổi mới. Có thể nói: “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope). Nhưng người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn tha thứ khi đã có lòng tin: Tin vào Thiên Chúa luôn yêu thương, Người sẵn sàng tha thứ. Chính lòng tin đã đem lại ơn tha thứ: "Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an" (Lc 7, 50) và ơn tha thứ đã làm đổi mới tội nhân, để họ mãi mãi bước đi trong bình an. Tuy nhiên, tình yêu và lòng tin của chúng ta cần phải được biểu lộ cách cụ thể qua lòng sám hối, nhận mình có lỗi, và chỉ những ai nhận mình lầm lỗi mới được Thiên Chúa thứ tha. "Không nhận ra lầm lỗi là lỗi lớn nhất trong mọi lỗi lầm". Quả thật, nếu ai cho mình không có tội thì đâu cần Thiên Chúa thứ tha. Nhưng Thánh Gioan lại nói rằng: "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1 Ga 1, 8).
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo, nơi Ngài không có chút chi tội lỗi. Chúng ta hãy mạnh dạn đến với Thiên Chúa, mạnh dạn hối cải, và lãnh nhận ơn Chúa nơi Bí tích Giải tội, siêng năng lãnh nhân Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúa ở với chúng ta thì ta được hạnh phúc, Chúa ban bình an, niềm vui và sự thành công cho chúng ta. Chúa sẽ chúc phúc cho gia đình chúng ta nữa. Chúa ở trong lòng chúng ta thì Cháu sẽ giúp chúng ta can dảm nói không với tội tỗi và đáp trả tình yêu trong cuộc sống đối với Thiên Chúa và còn đối với tha nhân nữa.
Vì thế, là bậc phụ huynh, những người làm cha mẹ hãy nêu gương lành cho con cái, dạy dỗ con cái sống yêu thương hòa thuận, tránh xa tội lỗi nhưng còn biết yêu thương tội nhân. Cách dạy dỗ có thể nói hay nhất là sau kinh tối trong gia đình. Ở đó họ sẽ lắng nghe Lời Chúa và sự khuyên dạy của Cha mạ nữa. Gia đình quây quần bên nhau vào buổi tối để đọc kinh cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa thì con cái trong gia đình ấy sẽ nên người hơn, mọi người có cơ hội sống tình hiệp thông, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và nhờ đó họ sẳn sàng sống yêu thương, bác ái với mọi người. Bầu khí ấy là sự khởi đầu cho những mầm ơn gọi nên thánh phát triển.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình, và mau mắn chân thành sám hối, để được Chúa tha thứ và ban cho ơn bình an. Xin cho chúng con biết thực thi giới răn yêu thương của Chúa trong gia đình và ngoaì xã hội. Xin Cháu luôn hiện diện trong lòng chúng con, để chúng con luôn biết làm điều đẹp lòng Chúa. Amen.
Nữ minh tinh Paris Whitney Hilton nổi tiếng giàu có và tài hoa. Nàng được hưởng gia tài kếch sù: TN 11-C48
Nữ minh tinh Paris Whitney Hilton nổi tiếng giàu có và tài hoa. Nàng được hưởng gia tài kếch sù của thân phụ. Danh Hilton nổi như cồn khi video tình dục của nàng phát tán trên mạng vào cuối năm 2003. Nàng trở thành thần tượng của nhiều thanh thiếu niên. Mấy ngày nay, giới truyền thông ầm ĩ về vụ nàng bị bắt nhiều lần lái xe đang lúc say rượu. Dư luận xôn xao vì nàng vô tù rồi lại được thả ra trước khi mãn hạn. Có những người lên tiếng bênh vực. Nhưng cũng có người chỉ trích vì hành vi của nàng có thể ảnh hưởng tới giới trẻ.
Paris Hilton có khác người phụ nữ tội lỗi trong Tin Mừng Luca hôm nay không? Cả hai đều là mục tiêu của dư luận. Nếu có mặt trong đám quần chúng đang vây quanh Paris Hilton hôm nay, Chúa Giêsu sẽ có cái nhìn và nhận định ra sao? Có thể tìm thấy câu trả lời dễ dàng khi nhìn vào người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà ông Simon năm xưa không?
ÁO TÍM BAY BAY
Hôm nay, ông Simon, một người thuộc nhóm Pharisêu, mở tiệc khoản đãi Đức Giêsu. Ngoài dự tính của ông, một bóng áo tím xuất hiện. Nàng nổi tiếng “là người tội lỗi trong thành.” (Lc 7:37) Nàng càng lôi cuốn sự chú ý của mọi người khi tiến sát bên Chúa Giêsu. Mặc dù là nhân vật chính trong câu truyện hôm nay, nàng hoàn toàn thinh lặng từ đầu đến cuối. Khi bước vào nhà ông Simon, nàng mang theo “một bình bạch ngọc đựng dầu thơm,” (Lc 7:37) trị giá 300 quan tiền Rôma, tương đương với lương hàng năm của một công nhân trung bình.
Một cảnh vô cùng cảm động và ngoạn mục diễn ra ngay trước mắt thực khách. Nàng “lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Nàng lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.” (Lc 37:38) Những giọt nước mắt và dầu thơm đắt giá đó không phải là nguyên nhân làm Chúa tha thứ cho nàng, nhưng chúng là những hệ quả và dấu chỉ về ơn tha thứ mà nàng nhận được. Chính sự trần trụi túng thiếu hoàn toàn của nàng và chính việc hoàn toàn tin tưởng vào ơn tha thứ đã làm cho Chúa Giêsu tha tội cho nàng.
Nhưng đó chưa phải là điểm chính trong bữa tiệc hôm nay. Dưới mắt ông Simon và đồng bạn, vấn đề nổi cộm liên quan tới tư cách ngôn sứ của Đức Giêsu (x. Lc 7:39). Theo truyền thống, cũng như mọi người Pharisêu khác, ông được mời gọi tránh xa người tội lỗi, vì sợ “gần mực thì đen”! Thiên Chúa yêu thương những người tuân giữ Lề Luật như ông. Ngược lại, vì không tuân giữ Lề Luật, hạng tội lỗi không được Chúa yêu thương. Vậy tại sao Đức Giêsu không xa lánh người phụ nữ tội lỗi này? Phải chăng Người không được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn?
Rõ ràng đối với người Pharisêu, sự “công chính” là tiêu chuẩn duy nhất phân biệt và đánh giá con người. Sự “công chính” đó không biết gì đến “đức khôn ngoan của Thiên Chúa cũng như thực tại của lòng người.”(1)
Trong đường lối quan phòng kỳ diệu, Thiên Chúa muốn con người dần dần cảm nghiệm sâu xa về tình yêu chân chính của Người, một tình yêu chỉ biết cảm thông và tha thứ. Không biết đến thực tại đó là không biết Thiên Chúa. Thực tế, ông Simon cứ tưởng biết hết về Thiên Chúa khi đã nắm vững toàn bộ Lề Luật, bất kể con người. Lề Luật đã làm ông trở nên vô cảm trước những đau khổ và nhức nhối của lương tâm tội nhân.
Tình yêu vượt qua tất cả và làm cho con người xích lại gần nhau. Chỉ tình yêu mới giải thích nổi cả hành động của người phụ nữ tội lỗi lẫn việc Chúa Giêsu chấp nhận nàng. Dưới ngòi bút Luca, Đức Giêsu được đặc tả như biểu tượng lòng trắc ẩn và sự tha thứ của Thiên Chúa. Chắc chắn kinh nghiệm đã cho thánh Luca cảm thấy Đức Giêsu có một bản chất bao dung.
Điều duy nhất Chúa quan tâm đó là tình yêu nơi con người được tha thứ. Người phụ nữ tội lỗi không có khả năng tuân giữ các Lề Luật. Nhưng chắc chắn nàng hiểu tầm quan trọng của công việc phục vụ vì tình yêu. Nhưng làm sao nàng có thể diễn tả điều đó cho ông Pharisêu bây giờ? Nàng có thể bị kết án nặng nề nếu lên mặt dạy dỗ các bậc thày “công chính.” Nàng vẫn thinh lặng. Hành động đủ thay thế lời nói.
Nếu đưa một mớ lý lẽ thuyết phục ông Pharisêu, chắc chắn Đức Giêsu cũng khó thành công, vì ông đã sống lâu trong não trạng và phong tục phân biệt tốt xấu theo Lề Luật rồi. Bởi thế, Chúa đã kể một câu truyện rất thực tế và có sức thuyết phục ghê gớm. Hai con nợ đều được tha, mặc dù số nợ rất khác nhau. Người được tha nhiều sẽ yêu nhiều hơn. Tình yêu là hệ quả tất yếu của ơn tha thứ.(2) Chính vì nhận thức về sự tha thứ đó, người phụ nữ mới dám tỏ tình thương và lòng ngưỡng mộ con người Đức Giêsu.
Tin Mừng đã thay thế lối nhìn và cách tính toán công tội. Tin Mừng chỉ biết giá trị tình yêu và lòng tin tưởng (x. Lc 7:47.50).(3) Nhờ đó, ông Simon biết mình là ai, cần thay đổi não trạng và thái độ như thế nào cho phù hợp với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Nếu không, ông không thể thấy được sự thật là Đức Giêsu giải thoát, dù ông đã có nhã ý thiết tiệc Người. Khi tâm hồn không mở rộng tiếp đón Thiên Chúa, làm sao có thể sẵn sàng thông cảm với tha nhân? Làm sao có thể cảm tạ Thiên Chúa và dễ dàng tha thứ cho người khác? Mỗi khi tha thứ, chúng ta lớn lên theo chiều kích Thiên Chúa. Người được tha thứ cũng mặc lấy toàn bộ chiều kích ân sủng và tình yêu Thiên Chúa.
CHIỀU ÁO TÍM
Đường công chính của người Pharisêu không dẫn tới ơn cứu độ, vì không có bóng dáng tình yêu cảm thông và tha thứ của Tin Mừng. Họ càng nghi ngờ, Chúa càng tỏ hết quyền lực để cứu nàng khỏi nanh vuốt ma quỷ. Chính khi tha tội cho nàng, Chúa tự đặt mình cao hơn bất cứ một ngôn sứ hay tôn sư nào. Người nại đến uy quyền Thiên Chúa. Đó là điều làm cho ông Simon và các thực khách thấm buồn. Họ đau buồn hơn bao giờ. Dĩ nhiên. Nhưng không vì thế, Chúa không tiếp tục hướng tới con đường phía trước. Đó là con đường đức tin dẫn tới ơn cứu độ. Ơn cứu độ mang lại hòa bình. Nói tóm, không tin vào Thiên Chúa, không thể có sự tha thứ và bình an đích thực.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã đến trần gian như một Đấng Cứu thế. Người đi tìm những gì đã mất. Người nong nả săn đón người tội lỗi. Người đàm đạo lâu giờ, mạc khải tình yêu, chữa lành và tha thứ cho họ. Con đường Thiên Chúa dẫn vào lòng người, thấm nhập tư tưởng thâm sâu nhất. Từ đó Đức Giêsu khơi dậy những gì là chân thiện mỹ và những gì thuộc về Thiên Chúa.
Noi gương Chúa, người Kitô hữu chân chính chỉ nhìn thấy điều tốt đẹp nơi những gì xấu xa nhất của con người tội lỗi. Họ không nhìn vào tội lỗi, nhưng chấp nhận mọi người như những người con được Thiên Chúa cứu độ. Người Kitô hữu chân chính nhận mình tội lỗi và quay về với Thiên Chúa để xin ơn tha thứ và cảm nghiệm tình yêu của Người như người phụ nữ tội lỗi.
Nàng quả thực là mẫu điển hình cho chúng ta. Nàng ý thức tình trạng tội lỗi. Đức tin mở mắt cho nàng thấy Chúa đã tha thứ cho nàng nhờ Đức Giêsu. Bởi đấy, nàng mới có thái độ yêu thương và biết ơn rất khác thường để tỏ lòng tôn kính Chúa.
Nhưng không phải chỉ có mình nàng. Nhiều phụ nữ cũng đi theo Chúa. “Các bà lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ.” (Lc 8:3) Tại sao các bà lại dành thời giờ và của cải cho Chúa như thế? Tất cả đều bắt đầu từ một cảm nghiệm về lòng thương xót của Chúa trong việc Chúa Giêsu trừ quỷ và chữa bệnh cho các bà (x. Lc 8:2). Nhưng chẳng lẽ các ông không đón nhận được những ơn lành đó? Ngoài Nhóm Mười Hai, sao chẳng thấy ông nào?
Hình như Chúa Giêsu hấp dẫn phụ nữ hơn phái tu mi, vì họ chấp nhận cách Chúa đối xử với những con người yếu đuối. Về nhiều phương diện, các bà khiến phái tu mi phải ghen lên. Ước vọng sâu xa của phụ nữ là được thuộc về ai. Đối với họ, tất cả hầu như tự nhiên như hơi thở: liên đới, chia sẻ, đón nhận, yêu đương và thánh thiện. Các bà rảo qua các thành phố và làng mạc với Chúa. Càng theo sát gót Chúa, họ càng vui mừng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi vào cõi huyền nhiệm sự sống. Bởi đấy, họ càng dễ dàng bắt được mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa, Đấng đã đến để tha thứ và hòa giải với nhân loại. Con người không thể tự mình bước từ thế giới đầy tội lỗi sang vương quốc đầy ân sủng. Tất cả đều do lòng Chúa xót thương mà thôi. Thái độ biết ơn của phụ nữ làm chứng Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Cũng như các người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa.
Chỉ có lòng thương xót của Chúa mới biến cải chúng ta và toàn thể nhân loại. Chính vì xa lìa lòng thương xót của Chúa, con người đã phá hỏng nhiều mối tương quan. Vì thương xót, Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Nếu không cảm nghiệm lòng thương xót trời bể đó, chúng ta không thể tha thứ cho nhau và canh tân cuộc sống. Quả thực, “nếu muốn thực sự yêu thương, chúng ta phải học cách tha thứ.”(4) Sống giữa cuộc đời rất tương đối này, nhiều người không hề biết gì ngoài những đòi hỏi tuyệt đối. Sống chung với họ, chúng ta không thể phát triển, vì họ không biết thông cảm và tha thứ. Tuy thế, dù sống giữa những giới hạn của kiếp người, chúng ta vẫn có thể vươn lên tới mức viên mãn trong Đức Kitô. Quả thế, thánh Phaolô khuyên: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại.” (Cl 3:12)
RỒNG GẶP MÂY
Như thế, vì ơn gọi cao cả, Kitô hữu có bổn phận phải biết thương cảm như Đức Kitô, lý tưởng tuyệt vời cho mọi người, nhất là giới trẻ hôm nay. Sinh ra trong thân phận con người Việt nam, chúng ta càng cảm thấy có trách nhiệm trước những bất công đang diễn ra tại quê hương và trên thế giới. Chỉ khi nào cảm nghiệm được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy rõ mình phải làm gì để chống lại những bất công đang hoành hành giữa lòng dân tộc.
Thực tế, Kitô hữu Việt nam rất khó thực hiện ơn gọi và sứ mệnh của mình. Tha thứ và hòa giải là những từ mới lạ trong tự điển và hiếm thấy giữa những tương quan xưa nay. Muốn tha thứ và hòa giải, cần phải cởi mở. Tiếc thay, tự bản chất, con người Việt nam rất ích kỷ, khép kín, độc đoán, độc tài. Chủ nghĩa cộng sản đã tìm được mảnh đất mầu mỡ nơi một xã hội nghèo nàn nhưng lại quá giàu não trạng độc tôn, độc đoán, độc tài như Việt nam. Có thể nói xã hội Việt nam tràn ngập những Pharisêu thời đại. Dựa trên giáo điều Mác Lê, họ chỉ biết kết án kẻ khác. Phải chăng đó là đường lối hòa hợp và hòa giải dân tộc? Dưới cái nhìn một chiều, họ thấy chung quanh mình đầy dẫy kẻ thù. Không biết nền kinh tế và an ninh xã hội được nâng lên tới mức nào, khi họ đàn áp nhân quyền và tôn giáo? Phải chăng đàn áp là phương thế hữu hiệu hiệp nhất và phát triển dân tộc?
Sau những sai lầm trong lịch sử, theo ông Võ Văn Kiệt, Đảng Cộng sản Việt nam đã phải xét lại chủ trương độc quyền yêu nước của mình. Trong khi đó, nhiều người ở Hải Ngoại vẫn bám riết độc quyền “chống cộng.” Óc độc tài đã ăn sâu vào con người và nếp sống Việt nam. Những ai không theo đường lối “chống cộng” của họ đều dễ dàng bị chụp mũ “Cộng sản.” Từ đó, hận thù và chia rẽ càng khơi sâu. Dân tộc càng lụn bại.
Làm cách nào nâng dân tộc trỗi dậy bây giờ? Trước hết, phải nâng mức sống công chính của con người Việt nam lên. Bất công lan tràn ngập quê hương. Làm sao có hòa bình nơi đầy bất công như thế. Thực vậy, “hòa bình đích thực là kết quả của công lý … Nhưng vì công lý của con người mong manh và bất toàn, lệ thuộc vào những giới hạn và tính ích kỷ cá nhân và tập thể, nên nó phải bao gồm và được bổ sung bằng sự tha thứ. Sự tha thứ hàn gắn và tái thiết những tương quan rối loạn của con người tận nền tảng. Sự tha thứ không hề đối nghịch với công lý. Đúng hơn, đó là công lý trọn vẹn, đưa tới sự quân bình trật tự, hơn là chỉ chấm dứt tình trạng thù nghịch, vì chữa trị những vết thương sâu xa đang mưng mủ trong tâm hồn con người. Công lý và sự tha thứ đều tối cần cho việc chữa trị đó.”(5)
Làm sao tha thứ cho nhau, nếu không có một tấm lòng bao dung như như Thiên Chúa? Tính ích kỷ là thủ phạm gây nên cảnh huynh đệ tương tàn. Vỏ ốc bây giờ đã biến thành bức tường dầy đặc. Làm sao chọc thủng nổi bức tường đó, nếu chúng ta không biết tha thứ cho nhau? Câu trả lời chỉ có thể tìm thấy nơi Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm sâu xa lòng thương xót của Chúa trong cuộc đời của con. Xin cho con có một tấm lòng bao dung như Chúa, hầu con có thể tha thứ và chấp nhận anh em trong công cuộc xây dựng Nước Chúa trên quê hương con hôm nay. Amen.
Đỗ Lực
17.06.2007
Ghi Chú: Lời Chúa Cho Mọi Người, 2006:1748. xin so sánh c. Lc 7:47 với c. 42. sđd. Mẹ Têrêsa Calcutta. ĐGH Gioan Phaolô II, Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, 01.01.2002.
Trong tiểu thuyết "Giường đàn bà" đã kể lại những cuộc tình bị đồng tiền làm hoen ố. Tình yêu chỉ: TN 11-C49
Trong tiểu thuyết "Giường đàn bà" đã kể lại những cuộc tình bị đồng tiền làm hoen ố. Tình yêu chỉ là một món hàng mà người có tiền hay không có tiền đều dùng nó để mua bán trao đổi. Câu chuyện xoay quanh các nhân vật: Mạch - một phóng viên trẻ, đang học đại học, là nhân tình của một tổng biên tập giàu có và đa tình - người trả tiền nhà và đóng học phí cho cô.
Sau khi tan vỡ mong ước được làm mẹ do người tình một mực đòi cô phá thai, cuộc sống tinh thần của Mạch bị đảo lộn. Cô quyết định trả thù người tình bằng cách cặp với Bob - một nhà văn nghèo đang tìm kiếm vốn tài trợ cho bộ phim mà anh chuyển thể kịch bản từ tiểu thuyết của mình.
Tình yêu khó khăn giữa Mạch và Bob vừa nhen nhóm đã bị những giá trị vật chất trong cuộc sống lấn lướt và dập tắt. Bob phải ngủ với bà Thẩm Xán - một chủ doanh nghiệp giàu sang để hòng moi tiền đầu tư làm phim. Mạch bị sự giàu sang và phong trần của giám đốc đẹp trai Trần Tả - chồng của Thẩm Xán - quyến rũ. Bob chấp nhận cầm tiền của Trần Tả để bỏ rơi Mạch. Mạch bị Thẩm Xán đánh ghen tới trụy thai...
Tiểu thuyết hé lộ một phần sự thật về cuộc sống tàn nhẫn ở các thành phố lớn, hiện đại - nơi giá trị vật chất chiến thắng giá trị đạo đức và con người không vượt qua nổi chính mình. Đồng tiền trôi nổi cũng kéo theo phận người nổi trôi đầy sóng gió nghi nan. Con người lao vào vòng xoáy của vật chất đến vong thân chính mình. Con người đã quên mất mục đích sống của mình nên cũng đánh mất phẩm giá làm người của mình.
Nhân loại hôm nay dường như người ta chỉ cần tiền và bằng mọi cách kiếm ra tiền. Vì tiền mà người ta bỏ ra ngoài tất cả những giá trị đạo đức, tình yêu, lòng chung thuỷ...; Cuộc sống nếu đề cao đồng tiền lên trên mọi thứ luân lý, đạo đức thì đó là một xã hội suy đồi, nơi đó con người khó mà có những giây phút hạnh phúc đích thực, mà chỉ là những hạnh phúc giả tạo, mong manh dễ tan vỡ mà thôi.
Điều đáng tiếc cho xã hội hội hôm nay là người ta mất ý thức về tội. Người ta đề cao tự do đến nỗi luôn làm theo ý mình mà gạt bỏ lề lật của Chúa hay những luân thường đạo lý. Người ta luôn dùng mục đích để biện minh cho phương tiện, cho dù đó là phương tiện xấu xa, đê tiện. Có biết bao cô gái trẻ bán thân vì lý do để lấy tiền trang trải cho gia đình, hay cho việc học bản thân. Có biết bao người ngoại tình vì để đền ơn cho kẻ giúp đỡ thi ân. Có biết bao người phá thai vì đông con, vì nghèo đói...; Có phải vì nghèo đói để rồi mình có thể làm tất cả mọi chuyện cho dù đó là những chuyện phi nhân thất đức hay không? Có phải vì tiền mà mình có thể loại bỏ luân thường đạo lý hay không? Cuộc sống nếu không còn những giá trị đạo đức sẽ là một bể khổ đối với con người. Vì con người luôn phải đối đầu với biết bao con người xấu, với biết bao tệ nạn xấu. Xã hội loài người sẽ hỗn loạn nếu con người đặt vật chất lên trên mọi giá trị tinh thần. Nếu con người đề cao vật chất thì người ta sẽ dễ dàng chà đạp lên nhau chỉ vì một chút vật chất tầm thường mau qua.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một tấm lòng sám hối chân thành như Đa-vít, hay như người phụ nữ tội lỗi đã khóc dưới chân Chúa và lấy tóc mà lau chân Chúa. Họ đều là những con người có quá khứ tội lỗi. Họ đều mang thân phận yếu đuối của con người. Họ đã phạm tội nhưng họ đã biết trỗi dậy. Cuộc đời họ đã ngụp lặn trong biết bao đam mê lầm lạc nhưng lương tâm luôn làm họ cắn rứt. Họ đã từng chọn những phù phiếm trần gian hơn là những giá trị đạo đức. Thế nhưng, họ không có bình an tâm hồn khi sống xa luật Chúa để lao vào những chuyện phi nhân thất đức. Họ đã trở về với lòng sám hối chân thành. Đa-vít đã mặc áo nhặm để sám hối ăn năn. Người phụ nữ đã quyết tâm đập bể bình ngọc như phá bỏ những hào nhoáng, phù phiếm mau qua. Họ đã nhận ra giá trị đích thực của con người là biết làm chủ chính mình, biết giữ được phẩm giá làm người của mình. Một con người có lý trí để biết đâu là thiện là ác, có ý chi để hướng dẫn hành vi mình đi theo lẽ phải. Giá trị của con người là biết làm chủ bản thân để sống đúng với phẩm giá làm người, với luân thường đạo lý. Nếu con người không còn khả năng làm chủ bản thân để đi theo lề luật thì con người đâu hơn loài vật. Nếu con người sống chỉ biết tranh giành nhau danh lợi thú trần gian thì con người đang tự đầy đoạ mình trong khổ ải trần gian.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết chọn Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian. Ước gì mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng nói sự thật như Đa-vít để thật lòng ăn năn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót xin giúp sức để chúng ta can đảm sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’ – Charles E. Miller)
Thiên Chúa thật sự trông như thế nào? Ngài có phải quá xa xôi, mơ hồ, không dễ gì tiếp cận và rất khác: TN 11-C50
Thiên Chúa thật sự trông như thế nào? Ngài có phải quá xa xôi, mơ hồ, không dễ gì tiếp cận và rất khác biệt với chúng ta và thế giới này? Liệu Ngài có quan tâm đến nhân loại hay những gì xảy đến với chúng ta? Làm sao có thể biết Thiên Chúa trông như thế nào?
Giáo Hội quả quyết rằng ta phải thấy sự mạc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, bởi lẽ Người là Thánh Tử của Thiên Chúa, là hình ảnh toàn hảo của Chúa Cha và giống Ngài. Đến thời viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống trần gian, mặc lấy xác thịt phàm nhân giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Với nhân tính của Người, Chúa Giêsu giống như một bảng thiết kế, một chương trình mang lấy thịt và máu. Chúng ta biết Thiên Chúa trông như thế nào bằng cách nhìn vào con người Chúa Giêsu.
Gặp Chúa Giêsu trong Phúc Âm và nghe lời Người dạy, ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng hết lòng yêu thương nhân loại: Ngài sai Con Một đi tìm con chiên lạc (x. Mt 18,12-14), và mừng đón ta như người cha nhân hậu chạy ra ôm lấy đứa con hư hỏng nay biết ăn năn hối cải trở về (x. Lc 15,11-32). Chúng ta cũng biết trong cơn hấp hối, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ” (Lc 23,34). Chưa hết, Người còn bào chữa cho những kẻ đã đóng đinh Người, “vì họ không biết việc họ làm”. Đó là dung mạo, là bản tính của Thiên Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay đưa ra một bài học độc đáo. Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa là Đấng không những đi tìm kẻ tội lỗi, mà còn dùng mọi phương tiện giúp ta yêu mến Ngài nhiều hơn.
Một người thuộc nhóm Pharisêu tên là Simon tin Chúa, nhưng biết rất ít về Người. Ông không hiểu làm sao Đức Giêsu lại có thể đoái thương người phụ nữ tội lỗi đã lấy dầu thơm rửa chân cho Người. Ông không nhận ra là Đức Giêsu nức lòng tha tội cho chị ta để chị sẵn sàng đáp lại bằng tình yêu. Người muốn người phụ nữ ấy phải yêu mến Chúa nhiều.
Vì đã được tha nhiều, chị đáp lại bằng cách yêu mến Chúa nhiều. Về mặt nào đó, Đức Giêsu, “Đấng săn đuổi từ trời”, kết tội người phụ nữ tội lỗi, cũng như Đức Chúa kết tội Vua Đavít là người đã phạm tội ngoại tình, rồi còn làm trầm trọng hơn với tội sát nhân. Tại một số nơi, Hội Thánh đã có thời chủ trương không tha hai loại tội này. Đây là một thái độ nghiêm khắc vượt quá cách hành xử của Thiên Chúa, như anh chị em vừa nghe qua bài đọc một. Ngài sai ngôn sứ Nathan đến ban cho Đavít ơn hối cải. Theo tiếng Hipri, “Đavít” có nghĩa “được yêu mến”. Thiên Chúa yêu Đavít đến nỗi quyết tâm không để mất ông. Và để đáp lại lòng sám hối của Đavít, Ngài tha hết các tội sát nhân và ngoại tình ông đã phạm. Đức khoan dung của Thiên Chúa khiến Đavít yêu mến Ngài.
Và Thiên Chúa muốn chúng ta cũng yêu mến Ngài. Ngài hy sinh cả mạng sống Con Ngài ngõ hầu ta được tha tội. Trong mỗi Thánh Lễ, ta nghe Chúa Giêsu tuyên bố: “Này là chén Máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Anh chị em phải hiểu đây là Chúa Giêsu đang nói với chúng ta qua miệng linh mục chủ tế. Chúng ta nằm trong số “các con” ấy, những người mà Đức Kitô đã đổ máu mình ra để cứu chuộc.
Anh chị em đừng bao giờ ngưng chiêm niệm về mức độ bao la của tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, như đã thấy qua cuộc thương khó của Đức Kitô. Chúng ta quả diễm phúc xiết bao vì tội của mình đã được cất đi. Vậy Thiên Chúa muốn ta làm gì để đáp lại? Thiên Chúa muốn chúng ta yêu mến Ngài.