“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.” (Lc 9, 23)
Trong phim “Quo Vadis” có kể: khi cơn bắt đạo tại Rôma đã lên cực điểm, thánh Phêrô theo lời: TN 12-C51
Trong phim “Quo Vadis” có kể: khi cơn bắt đạo tại Rôma đã lên cực điểm, thánh Phêrô theo lời anh em khuyên, liền đi ra vùng ngoại ô để lánh nạn. Đang trên đường đi, Phêrô thấy Chúa hiện ra vác thập giá đi nguợc lại phía mình; Phêrô hỏi Chúa: Quo vadis, Domine? Lạy Chúa, Chúa đi đâu vậy? Chúa trả lời: Ta đi vào Rôma, để chịu đóng đinh một lần nữa thay cho con… Phêrô nghe vậy liền tức tốc trở lại Rôma, ở đó… ông đã lãnh triều thiên tử đạo. Đây là câu chuyện trong tiểu thuyết Quo vadis, đã được dựng thành phim. Câu chuyện này có hay không, xem ra không cần bàn; có điều câu chuyện này nói lên đúng đắn giáo lý của Chúa Kitô: người là Đấng Cứu thế của Thiên Chúa gởi đến, không chỉ là hình ảnh của một vị anh hùng tầm thường của của nhân loại. Bài TM hôm nay nói rõ điều đó.
a. Chúa Kitô, Ông là ai? Nhân loại nghĩ Người là ai?
Ngay cả ngày hôm nay, nhân loại cũng không hiểu bao nhiêu về Chúa Kitô; cùng lắm chỉ hiểu lỏm bõm như lời các tông đồ trả lời cho Chúa: người ta nói Thầy là Gioan tẩy giả, hay một tiên tri nào đó… Ngày nay, cứ trong 7 người, thì có một người tin Chúa; dù vậy trong 7 người này, thực sự hưa hẳn họ biết rõ về Thiên Chúa cả đâu. Xã hội hôm nay, có rất nhiều hạng người cho rằng mình biết Chúa kitô: 1. trước tiên, người không tin gì hết, thì cho rằng Chúa chỉ là một ý niệm do người ta thêu dệt mà thôi – 2. Người thích làm cách mạng, thì cho rằng Chúa là một nhà cách mạng, vì Chúa muốn biền đổi thế giới – 3. người Cao Đài cho Chúa Giêsu chỉ là bậc thánh nhân – 4. người không tin gì cả thì cho Chúa Giêsu là một nhà triết gia dạy người ta sống tốt ở đời. –5. có mấy ai tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi , để được sống thật trong chân lý và bình an; thứ Chân lý, bình an này thế gian không bao giờ ban cho được…
a. Chúa Kitô, Ông là ai? Kitô: tiếng hi lạp là Christos, có nghĩa là Đấng Cứu tinh, Cứu thế, Đấng được xức dầu. Tiếng Do thái là: Meshia: Đấng Thiên sai, giải thoát toàn dân.
Người Do thái, theo Lời Hứa trong Cựu Ước, họ sẽ đón nhận Đấng Meshia; vì thế họ thường mơ có một vị như David thứ 2 xuất hiện, một vị cứu tinh, một thủ lãnh tối cao, Đấng chăn dắt Israel, như một vị Vua oai hùng luôn thắng trận trong mọi cuộc chiến… Hình ảnh một Vị Cứu tinh, một Đấng Cứu thế trong đầu của mọi người Do thái là như thế. Chính vì vậy khi Chúa Kitô nói rõ cho mọi người được biết: Đấng Cứu thế của Thiên Chúa, chính là Người Tôi tớ đau khổ của Giavê trong sách tiên tri Isaia – chính là Con chiên vô tội, không tỳ vết, bị người ta đem đi làm thịt mà không hề hé môi, dù đó là Con Chiên gánh lấy tội trần gian. Chúa còn nói mạnh hơn: Đấng đó sẽ bị người Do thái loại bỏ, bị hành hạ và giết đi, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại…. Nhưng người Do thái đã không hiểu
Chúa Giêsu đã tiên báo như thế; chính các môn đệ cũng đã nghe, nhưng cũng không hiểu, vì thế thánh Phêrô còn khuyên can Chúa và cầu xin cho Người khỏi phải chịu cảnh như vậy. Chúa đã quở trách Phêrô nặng lời và còn gọi Phêrô là satan, cản trở công việc của Chúa.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Trần gian không tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế có khả năng cứu vớt, giải phóng con người. Phần chúng ta là Kitô hữu, là môn đẽ Chúa Kitô, ta có tin không? Đấng Cứu thế mà chúng ta tin, không phải là một anh hùng dân tộc, đánh đông dẹp bắc, nhưng là một Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, luôn vâng phục, khiêm tốn; chính nhờ đó mà nhân loại được cứu chuộc, được ơn tha thứ.
"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì: TN 12-C52
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Người lại phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình". Suy Niệm:
Bài sách Dacaria hôm nay với những lời: "Chúng sẽ nhìn lên Ta, người chúng đã đâm" (13,10) gợi lại cho chúng ta bầu khí của ngày lễ Thánh Tâm cử hành trong tuần qua. Nhưng phụng vụ hôm nay không muốn kéo dài lễ Thánh Tâm đâu. Nằm trong số các Chúa nhật thường niên sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, hôm nay phụng vụ chỉ muốn cho chúng ta nhìn vào công cuộc cứu độ vừa hoàn tất trong cuộc đời trần gian của Đức Giêsu để chúng ta đón nhận mọi hồng ân được ban xuống cho chúng ta và để chúng ta cố gắng sống phù hợp với ơn cứu độ đã nhận được. Thế nên các bài Kinh Thánh vừa nhắc lại mầu nhiệm Cứu Thế vừa nói lên yêu sách của đời sống mới. Chúng ta hãy mở lòng đón nhận mạc khải để được sức trung thành với ơn gọi Kitô hữu.
1. Đấng Tiên Tri Sẽ Cứu Chuộc Chúng Ta
Thiên Chúa quá thương dân Người. Không bao giờ Người bỏ họ bơ vơ, không được hướng dẫn. Càng khi họ gặp cảnh thử thách tối tăm mặt mũi, Chúa càng soi sáng dẫn đưa họ. Bài sách Dacaria hôm nay làm chứng điều ấy.
Đây là một đoạn sách khó hiểu. Trước hết nó nằm trong phần II của sách mang tên Dacaria. Phần này gồm các chương 9-14; khác hẳn với phần trước gồm 8 chương đầu là của Dacaria thật sự. Ông thuộc dòng tư tế, xuất hiện công bố Lời Chúa vào khoảng năm 520, tức là gần lúc dân Chúa trở về sau lưu đày ở Babylon. Phần II trong sách của ông ám chỉ những biến cố lịch sử muộn hơn nhiều, có thể là 200 năm sau những việc đã xảy ra trong phần I. Thế nên, chúng ta phải đặt bối cảnh của Phần II sách Dacaria vào thời "Thiên Cư" (diaspora), tức là vào lúc Israen không còn là một quốc gia nữa, nhưng đã trở thành một dân phiêu bạt, sống từng đám một ở nhiều quốc gia khác nhau.
Chúa đã bỏ hẳn dân Người rồi sao? Các kinh nghiệm sau lưu đày cho thấy hết hy vọng xây dựng lại dân tộc. Tác giả phần II sách Dacaria không phủ nhận sự thật phũ phàng, nhưng không mất lòng tin ở lòng Chúa thương xót. Ông chắc chắn Chúa không bỏ rơi dân Người. Người là Đấng Trung Tín cho dù dân Người vẫn bội phản. Nhưng có thể Người sẽ thương dân một cách khác và kỳ diệu hơn. Cách ấy thế nào? Đoạn sách hôm nay trả lời điều ấy.
Sấm của Giavê như sau: "Sẽ xảy ra là trong ngày ấy Ta sẽ đổ xuống nhà Đavít và dân cư Giêrusalem một thần khí ơn huệ và khẩn nguyện...". Lời tuyên bố chắc như đinh đóng cột. Nó nói lên tư cách trung thành của Thiên Chúa. Người không bỏ nhưng sẽ thi hành mọi lời hứa. Người kiên quyết dùng nhà Đavít biến dân cư Giêrusalem nên dân thiết nghĩa với Người. Qua Giêrêmia Người đã hứa ban cho dân một tinh thần và một thần khí mới để họ không còn giữ đạo hình thức và tội lỗi nữa, nhưng sẽ có trái tim thịt để thi hành lòng yêu mến. Hôm nay dùng miệng Dacaria, Người khẳng định lại sẽ đổ thần khí ấy xuống cho dân để họ thành khẩn với Người mà được đầy ân sủng.
Nhưng Chúa sẽ không thi hành lời hứa như trong quá khứ nữa. Trước đây Người đã đưa dân ra khỏi Ai Cập để lập giao ước, nhưng rồi họ đã không trung thành. Gần đây, Người đã cho họ từ Babylon trở về nhưng rồi họ cũng không xây dựng lại được một dân tộc đạo đức. Lần này Người nghĩ ra một kế hoạch huyền diệu. Người sẽ gởi đến cho dân một tiên tri mới, một vua hòa bình, một nhân vật mầu nhiệm giống như Người nhưng vẫn khác Người. Dân tưởng Ngài cũng chỉ là một vị tiên tri như mọi tiên tri khác.
Thành ra cuối cùng họ cũng xử với Ngài như với các tiên tri trước đây. Họ đâm giết Ngài. Nhưng kỳ diệu làm sao! Khi nhìn vào Người mà họ vừa đâm chết, dân sẽ oà khóc lên, ân hận vô cùng. Sự vô tội của Ngài mở mắt cho họ thấy tội lỗi của họ. Lòng thống hối ăn năn thay đổi trái tim chai đá của họ thành trái tim thịt. Nhờ đó họ được thần khí mới và trở nên dân mới.
Nội dung của sấm thì rõ đấy. Nhưng lời văn không phải dễ hiểu ngay đâu. Tác giả viết: "Chúng sẽ nhìn lên Ta, Người chúng đã đâm". Câu này như khẳng định chính Thiên Chúa là người bị thương tích. Nhưng câu sau, tác giả lại ghi: "Chúng sẽ khóc than trên Người, như người ta khóc than người con một". Và như vậy, người bị đâm lại không phải là chính Thiên Chúa nữa. Danh từ "người con một", hay "người con đầu lòng", thường ám chỉ người quý hóa nhất trong gia đình, trong dân được chọn, và cũng có khi là toàn dân Thiên Chúa nữa.
Ngày nay với mạc khải trọn vẹn ở nơi Đức Giêsu, chúng ta thấy lời sấm quả thực đã nói về Đấng Thiên Sai cứu thế một cách rất phong phú. Người vừa có bản tính Thiên Chúa vừa là loài người; Người vừa là Con Một và Con Đầu Lòng vừa cũng là toàn thể Dân Chúa. Do đó thánh Gioan thật có lý khi đứng dưới chân thập giá, nhìn lên Đấng bị đâm thâu, mà nhớ lại lời sách Dacaria chúng ta đọc hôm nay (Ga 19,37).
Nhưng khi chưa có mạc khải toàn bộ nơi Đức Giêsu Kitô, lời sấm ở đây chắc chắn phải mầu nhiệm. Nhưng nếu chúng ta đọc với nhiều đoạn Dacaria khác nói về vua hòa bình đến ngồi trên lưng lừa (9,9) nói về người mục tử đến bênh vực chiên Israen nhưng bị bạc đãi (11,4-17; 12,10-13; 13,7-9), chúng ta sẽ thấy tác giả ở trong truyền thống tiên tri và nói về Đấng Thiên Sai sẽ đến. Đặc biệt chúng ta hãy so sánh những đoạn Dacaria ở đây với những bài ca về Người Tôi Tớ Thiên Chúa trong sách Isaia, và sẽ thấy: "Ngài cũng đã bị đâm vì những ngỗ nghịch của chúng tôi... và đứng ra bầu chữa cho những kẻ ngỗ nghịch" (53,5.12).
Như vậy, đoạn sách Dacaria hôm nay là một trong những yếu tố quan trọng dựng lên hình ảnh về Đấng Thiên Sai cứu thế. Tự nó, những lời sấm này còn nhiều vẻ mầu nhiệm. Nhưng được đọc dưới ánh sáng tử nạn phục sinh của Đức Giêsu, nó đã trở nên hầu như hiển nhiên. Dù vậy nó vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Chẳng hạn nó chưa nói gì về việc Đức Kitô sống lại. Tác giả Gioan nhận thấy như vậy, nên sau khi vận dụng lời Dacaria vào việc Đức Giêsu chết trên thập giá và trích lại câu: "Chúng nhìn xem Người chúng đã đâm", Gioan trong sách Khải huyền đã muốn bổ túc khía cạnh Phục sinh và đã viết: "Này Ngài đến với ánh mây trời, và mọi mắt phàm sẽ trông thấy Ngài, kể cả những kẻ đã đâm Ngài" (1,7).
Nhưng đó là Gioan muốn làm cho lời Dacaria được đầy đủ. Chúng ta chẳng cần làm như thế. Phụng vụ hôm nay chỉ muốn chúng ta nhớ rằng: Dacaria đã báo trước về cuộc tử nạn cứu độ của Đức Giêsu, điều mà không ai để ý khiến chính Người hôm nay phải báo lại cho môn đệ biết trong bài Tin Mừng Luca mà chúng ta cần suy niệm thêm.
2. Người Sẽ Chịu Nhiều Đau Khổ
Thật vậy, cho dù có cả một truyền thống tiên tri báo trước về cuộc khổ nạn của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, người Do Thái hầu như không để ý gì. Họ chỉ trông đợi một vị hoàng tử, một bậc hoàng đế mà họ tin rằng sẽ cứu độ cho họ với những chiến công hiển hách. Não trạng của môn đồ Đức Giêsu trong đoạn đầu cũng như vậy. Họ mơ ước một ngày nào đó được ngồi bên tả hữu ở trong nước của Người. Nhưng Người thì ý thức rõ rệt về kế hoạch của Thiên Chúa trong sách Isaia và Dacaria. Người biết: Con Người sẽ phải chịu rất nhiều đau khổ. Và Người phải đưa môn đệ vào mầu nhiệm này.
Cũng như mỗi khi phải làm công việc nào quan trọng (xem Lc 3,21; 5,16; 6,12; 9,28; 11,1; 23,24) hôm nay trước khi mạc khải cho môn đệ chân lý cao cả này, Đức Giêsu đã cầu nguyện (9,18). Rồi Người đối thoại, đi từ những vốn liếng tri thức mà họ có, dần dần giúp họ khuất phục các tồn tại và đi đến mạc khải chân lý. Người đi từ sự kiện Hêrôđê cũng như mọi người bấy giờ bắt đầu đặt những dấu hỏi về bản thân Người. Ai ai cũng đã nghe nói và chứng kiến cách thức Người đã sinh sống, giảng dạy và chữa bệnh. Bề ngoài Người thật đơn sơ, bình dị. Nhưng chắc chắn sự thật không phải chỉ như vậy. Người là con người rất khác thường. Phải nói, Người thật độc đáo. Không thể kể Người vào hạng người nào. Không phải chỉ là một vị tiên tri. Nơi Người có một sự sống thần linh. Nên phải nói Người là một tiên tri đã sống lại. Có lẽ là Gioan Tẩy giả đã phục sinh? Hay là Êlya hiện về. Hoặc phải là một tiên tri nào đó? Chính Hêrôđê cũng phải lưỡng lự không dám khẳng định thế nào và đang chờ xem (9,7-9).
Còn các môn đồ Đức Giêsu thì nghĩ thế nào? Họ vẫn đi theo Người và ở gần Người hơn hết. Họ phải có nhận định về Người hơn người ta chứ? Đức Giêsu muốn họ phải nói lên suy nghĩ của họ. Phêrô thay mặt anh em thưa: "Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa".
Chúng ta không thấy Đức Giêsu công nhận hay phủ nhận câu trả lời một cách trực tiếp và minh bạch. Tức là trả lời như vậy đúng nhưng chưa được sáng tỏ. Người là Đức Kitô, chắc rồi; nhưng Đức Kitô là gì? Theo nguyên tự, Kitô là người được xức dầu để lo việc của Thiên Chúa. Trong dân Chúa, chỉ có hoàng đế, tư tế và tiên tri đươc xức dầu để có ơn của Chúa mà phục vụ dân, nhưng dần dần, với truyền thống của các tiên tri, danh từ "Đấng được xức dầu" tức là Đấng Kitô được dành để ám chỉ Đấng Thiên Sai - cứu thế sẽ đến khi thời gian đã sung mãn. Vậy khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, ông Phêrô nói lên niềm tin Ngài là Đấng Thiên Sai cứu thế. Lời khẳng định của ông rất đúng nên trong một đoạn văn tương tự ở sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu đã khen Phêrô là người có phúc vì không phải xác thịt đã nói cho Phêrô biết được như vậy, nhưng là chính Cha trên trời đã soi sáng dạy dỗ ông. Ở đây, trong sách Luca, Đức Giêsu không khen Phêrô. Người cũng không trực tiếp chấp nhận lời ông tuyên xưng. Người còn muốn dạy dỗ ông hiểu thêm nữa và hiểu cho thật đúng.
Là vì khi công nhận Người là Đấng Kitô, người ta vẫn còn có thể ngộ nhận về Người, khi có một quan niệm không đúng về Đấng Kitô. Người ta có thể hình dung Ngài là Đấng sẽ đến để cứu chuộc dân Chúa bằng những chiến công hiển hách. Và ở đây là quan niệm của hầu hết mọi người, kể cả các môn đồ của Đức Giêsu. Họ nghĩ rằng Đấng Kitô sẽ phải sống mãi... bởi vì, như bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, họ quan niệm Ngài như một bậc đại tiên tri đã sống lại để không bao giờ chết nữa. Người ta đâu có để ý đến những lời tiên tri về một Đấng Thiên Sai sẽ bị đau khổ và bị đâm thâu, như bài sách Dacaria hôm nay loan báo.
Thế nên, Đức Giêsu không muốn môn đồ cứ hiểu lầm mãi, mặc dù lời họ tuyên xưng hôm nay thật đúng, nhưng nội dung lời ấy chưa được họ hiểu rõ. Đức Giêsu lôi kéo tâm trí họ đi vào nội dung và cho họ biết: Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ, bị các đầu mục và hàng tư tế phế thải, bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại... lúc đó họ hãy tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô của Thiên Chúa; và khi ấy lời tuyên xưng mới có nội dung chân thật. Trong khi chờ đợi, họ không nên đọc lại lời tuyên xưng ấy với ai, kẻo người ta tiếp tục ngộ nhận, coi Người là Đấng Kitô sẽ phải sống mãi, đang khi như các lời tiên tri đã loan báo, Người còn phải đi qua đau khổ và sự chết rồi mới phục sinh. Đồn thổi tin Người là Đấng Kitô lúc này chỉ tổ làm cho người ta không được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận việc Người sắp bị nộp và bị giết.
Đức Giêsu không làm như vậy. Người phải kéo tâm trí người ta vào kế hoạch của Thiên Chúa; nên Người nói với mọi người: Ai muốn đi theo Ta, thì phải chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày và hãy theo Ta. Tôi dám nghĩ tác giả Luca khi viết sách đã muốn áp dụng Lời Chúa vào trường hợp cụ thể của độc giả, nên đã nói rõ ràng là mọi người phải vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày mà theo Chúa. Chứ thực ra có lẽ Đức Giêsu đã chỉ vắn tắt nói rằng mọi người phải vác lấy thập giá mà đi theo Chúa, vì chính Người sẽ phải vác thập giá đi trước. Và như vậy, Người muốn dạy người ta biết, kẻ đi theo Người đừng ngộ nhận tìm ngồi bên tả, bên hữu một Đấng Kitô chiến thắng oanh liệt ở trần gian. Họ phải biết uống chén đắng với Người. Còn chuyện ngồi bên tả, bên hữu trong vinh quang, thì cứ để Chúa Cha định liệu, tức là chỉ nên trông đợi trong bình diện mầu nhiệm Nước Trời, chứ không phải ở trần gian này.
Như thế bài Tin Mừng Luca hôm nay không những rõ rệt và cụ thể hơn bài sách Dacaria vì xác định công khai Đức Kitô sẽ bị bắt, bị giết nhưng sẽ sống lại; mà còn cho chúng ta thấy mọi kẻ đi theo Người, tức là mọi Kitô hữu đều phải vác lấy thập giá của mình mà bước theo. Như vậy, sứ điệp của Đức Kitô còn có thể là một Tin Mừng cho mọi người nữa không? Nói cách khác, chúng ta có nên sợ cho thân phận những người đi theo Đức Kitô mà phải vác thập giá hằng ngày không? Bài thư Phaolô tuy không trả lời hết mọi khía cạnh, nhưng cũng nói lên một điều rất đáng chú ý suy nghĩ.
3. Chúng Ta Được Thừa Tự Lời Hứa
Thánh Phaolô biết rõ các đòi hỏi của ơn gọi Kitô hữu khi viết: "Phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô", người đã cân nhắc nội dung của những lời ấy. Theo Người, "được thanh tẩy trong Đức Kitô" là đã cùng chết với Ngài cho xác thịt, thế gian và tội lỗi, để đóng đinh con người cũ vào thập giá và mặc lấy con người mới. Không bao giờ thánh Phaolô nói đến thanh tẩy mà không nghĩ đến mầu nhiệm thập giá, tức là đối với người, chẳng ai là Kitô hữu nếu không vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà đi theo Đức Kitô đã chịu đóng đinh.
Nhưng đồng thời thánh Tông đồ cũng đã nghĩ đến những ơn lành phong phú đi kèm theo việc vác thập giá, đến nỗi đối với người, thập giá đã trở thành thánh giá đem lại vinh quang và sự sống dồi dào. Ở đây người chỉ khai triển một khía cạnh vinh quang của vinh quang thánh giá. Người nói, nhờ mặc lấy Đức Kitô, chúng ta hết thảy là con cái Thiên Chúa. Không còn Do Thái hay Hy Lạp, nam hay nữ nữa, vì hết thảy đã là một trong Đức Kitô. Và chúng ta trở thành miêu duệ của Abraham và được thừa tự lời hứa.
Những quan niệm này rất quan trọng. Lập tức chúng ta được đưa sang bình diện khác hẳn nếp sống thế tục. Người đã được thanh tẩy như đã cởi bỏ hết mọi cái cũ kỹ của trần gian. Họ nên con người mới. Phái tính, chủng tộc, giai cấp xã hội không còn quan trọng nữa. Hết mọi người là con cái Thiên Chúa, là chi thể trong thân thể Đức Kitô, là những kẻ thừa tự mọi lời hứa. Lối nhìn mới mẻ này là cách nhìn của đức tin, của ý thức về ơn gọi Kitô hữu. Nó thôi thúc chúng ta hãy nhìn xã hội loài người và tương lai của tất cả một cách mới mẻ hẳn, để chúng ta biết bù đắp cho nhau như để xây dựng một thân thể và một hạnh phúc chung. Nó cho đời ta một phương hướng mới vô cùng phấn khởi, phát xuất từ mầu nhiệm Đức Giêsu.
Giờ đây chúng ta cử hành mầu nhiệm nầy. Lời Chúa cho chúng ta biết Người đã đến để trở thành "Đấng bị đâm thâu" ban ơn cứu độ cho mọi người. Thánh Thể kêu gọi chúng ta kết hợp với mầu nhiệm Tử nạn để được sự sống mới. Bổn phận của chúng ta sau khi cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể là chứng tỏ trong đời sống những ơn ích mà mầu nhiệm Thánh giá của Chúa Giêsu mang lại: đó là nếp sống làm con Thiên Chúa, hợp nhất với nhau trong Đức Kitô và xây dựng Trời mới Đất mới như Lời Hứa.
Chúng ta hãy phấn khởi tuyên xưng niềm tin mà chúng ta sẽ đem ra thực hành.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 9:18-24)
Có thể chúng ta lấy làm lạ khi thấy Chúa Giê-su dù đã sống với các môn đệ một thời gian dài: TN 12-C53
Có thể chúng ta lấy làm lạ khi thấy Chúa Giê-su dù đã sống với các môn đệ một thời gian dài mà Chúa còn đặt lại vấn đề các ông nghĩ Người là ai. Trước khi muốn biết họ phát biểu Người là ai, Chúa đã “cầu nguyện một mình”. Dĩ nhiên là Chúa Giê-su cầu nguyện, xin cho chính Người giữ trọn được chân tính và sứ mệnh Chúa Cha trao phó. Người cũng cầu nguyện, xin cho các môn đệ biết chấp nhận sứ mệnh cứu độ của Người, mặc dù sứ mệnh ấy đi ngược lại hy vọng trần tục của họ.
Chúa Giê-su nêu câu hỏi: “Dân chúng nói Thầy là ai?” và tiếp theo những câu trả lời họ nghe được từ dân chúng, Chúa hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Tuy hai câu hỏi không có gì khác biệt, nhưng chúng ta tin chắc rằng trong thâm tâm Chúa, có sự khác biệt rất lớn. Câu hỏi dân chúng là câu hỏi bình thường, Chúa Giê-su có là ai đi nữa thì cũng không liên hệ gì đến các môn đệ. Nhưng câu hỏi các môn đệ phải là câu hỏi mang sắc thái hoàn toàn khác. Do đó, thay vì đọc “Anh em bảo Thầy là ai?”, chúng ta nên đọc là “Anh em TIN Thầy là ai?”
Đúng thế, là người môn đệ Chúa, chúng ta không chỉ biết Chúa một cách hời hợt qua những chi tiết bề ngoài hay do những điều nghe được từ những người khác. Nhưng cái biết của chúng ta đi xa hơn thế nữa. Nó vượt hàng rào thông tin để tiến vào lãnh vực tâm lý và tình cảm cá nhân. Biết có nghĩa là yêu mến. Khi chúng ta biết Chúa bằng trái tim, biết Chúa yêu thương chúng ta, biết Chúa sẵn sàng chết vì chúng ta, thì những cái biết đó không dừng lại ở một khoảng cách giữa chúng ta với Chúa. Trái lại, chúng đem chúng ta vào một cuộc sống mới, sống trong mối quan hệ mật thiết với Chúa. Cũng như các môn đệ Chúa ngày xưa, chỉ trong mối quan hệ này, chúng ta mới thực sự có thể nhận ra Chúa là “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Tiếp theo, chúng ta mới có thể chấp nhận thực tại “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết và sẽ sống lại”. Nhưng đặc biệt nhất, chỉ khi nào chúng ta thực sự sống mối quan hệ với Chúa rất thân mật, chúng ta mới có thể “từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa”.
Sống Sứ Điep Tin Mừng
Biết Chúa và yêu mến Chúa là những bước dẫn chúng ta tới một hành vi đòi hỏi chúng ta phải dứt khoát quyết định chọn lựa, đó là theo và làm môn đệ Chúa. Đó là lý do tại sao Chúa Giê-su đã hỏi các môn đệ Người nói Người là ai, hay đúng hơn, có tin Người là Con Thiên Chúa hay không, trước khi Người đề cập tới việc theo Người thì phải chấp nhận những điều kiện nào. Mặc dù mang danh là Ki-tô hữu, nhưng có thể Chúa Giê-su của chúng ta vẫn còn là một Chúa Giê-su của sách vở, hoặc là hình ảnh lu mờ còn sót lại sau những lớp giáo lý không đầy đủ khi còn nhỏ. Làm sao có được một Chúa Giê-su thuộc sở hữu của chúng ta, để Người có thể hoàn toàn ảnh hưởng trên chúng ta và làm thay đổi con người chúng ta thành Ki-tô hữu đích thực? Chúng ta hãy suy nghĩ về điểm này và tìm ra câu trả lời đích đáng. Nếu quả thực chúng ta chưa thực sự biết Chúa bằng trái tim chúng ta, chúng ta vẫn còn cơ hội để thay đổi, để mở lòng đón tiếp Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước và còn yêu thương chúng ta vĩnh viễn. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta. Tin Chúa chính là biết Chúa bằng trái tim vậy.
Tại một vùng đất của Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt TN 12-C54
Tại một vùng đất của Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.
Một Chúa Nhật nọ, tất cả các vị Mục Sư tại các Nhà Thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.
Vào giữa trưa một ngày thứ bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị Mục Sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài Thánh Ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta đều cùng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa.
Thánh Augustinô đã nói: "Có Đức Tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của Đức Tin là thấy những gì chúng ta tin."
Trong câu chuyện trên đây, mọi người tham gia buổi cầu nguyện xin trời đổ mưa đều là những người có Lòng Tin nhưng người duy nhất nhận được phần thưởng của Lòng Tin là em bé trai cầm theo chiếc dù để trú mưa. Lắm khi trong cuộc sống Đức Tin, chúng ta tưởng mình tin, nhưng kỳ thực chúng ta chưa dám thể hiện những cử chỉ đích thực của Lòng Tin. Ðúng hơn, niềm tin của chúng ta chưa đủ mạnh được thể hiện bằng những hành động cụ thể đòi hỏi nhiều hy sinh và từ bỏ. Một em bé cầm dù giữa đám đông, đó là hình ảnh của những đòi hỏi của Đức Tin… ( Radio Veritas Asia, Sức Mạnh Của Ðức Tin, Chiếc Áo Từ Nhân ).
Đức Tin cần thể hiện bằng hành động cụ thể, bằng chứng từ thuyết phục, không thể lửng lơ, mơ hồ hay bất định. Bởi vì Chúa sẽ từ chối, tẩy chay kẻ bắt cá hai tay, dấm dớ, tham lam: “Ta biết các việc làm của ngươi: ngươi không lạnh mà cũng không nóng; phải chi ngươi lạnh hẳn hoặc nóng hẳn đi ! Bởi vì ngươi hâm hẩm, không lạnh không nóng, nên Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta ( Kh 3, 15-16 ).
Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu trắc nghiệm các môn đệ, thử xem các ông có biết Người là ai không. Có tin Người là Đấng Thiên Sai chăng. Người vẫn biết các ông còn hồ đồ, còn tăm tối, chưa nhận biết chính xác Người là Con Thiên Chúa. Các ông vẫn còn đang hết sức kỳ vọng rằng, Người sẽ lên ngôi vua, giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Rôma, rồi sẽ bá chủ toàn cầu. Thế nên Đức Giêsu không muốn các ông vỡ mộng khanh tướng, cũng chẳng muốn các ông hiểu lệch lạc sứ vụ của Người, mới ân cần mặc khải cho các ông hiểu sứ vụ cao cả của Người.
Nhận diện
Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa." Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, ông Phêrô thay mặt quý anh em đồng môn, tuyên xưng rất chính xác, làm Đức Giêsu hiểu ngay nhờ đâu ông được mặc khải.
“Đức Giêsu nói với ông: "Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt 16, 17 ).
Trong xã hội Do Thái bấy giờ, từ các Kinh Sư, Luật Sĩ, Pharisêu, đến dân chúng hầu như đều không tin Đức Giêsu là Đấng Mêsia, hay Đấng Kitô theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là Đấng Được Xức Dầu, Đấng được Thiên Chúa sai đến. Theo quan niệm của họ, Đấng Mêsia phải đến một cách oai hùng, tiền hô hậu ủng, chứ chẳng thể lặng lẽ sinh hạ khiêm tốn nơi chuồng lừa bò, chẳng thể nào là con ông thợ Giuse và bà Maria nghèo nàn, chất phác, quê mùa.
Nay Đức Giêsu đi rao giảng đầy vẻ phong trần, chẳng cần cơ sở nguy nga, đồ sộ, tiện nghi, chẳng cần cơ cấu tổ chức quy mô, chặt chẽ, đầy đủ ban bệ, cũng chẳng hậu cần tiếp tế quy củ, bền vững, hiệu quả, chỉ như người khách lữ hành, không bị ràng buộc, không bị chôn chân vào đâu. Người còn vui vẻ, hóm hỉnh tự trào: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu.” ( Mt 8, 20 ).
Người lãnh đạo cũng chẳng giống ai, vì đã trở nên tôi tớ hầu hạ, phục vụ môn đệ, đến hiến thân cứu độ muôn người. “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mt 20, 26-28 ).
Linh đạo
Con đường sứ vụ rao giảng của Người chẳng hoa thơm, cỏ lạ, chẳng quyền cao chức trọng, chẳng xuôi dòng mát mái, mà tràn trề, đầy rẫy chông gai, thách đố, cạm bẫy, nguy hiểm, thậm chí bị khổ nạn, chịu chết nhục nhã, thê thảm trên thập giá. Có thể nói đó chính là Linh Đạo Thập Giá. "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các Kỳ Lão, các Thượng Tế, và các Luật Sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại." Đức Giêsu không hề muốn giấu diếm các môn đệ tương lai sắp đến hết sức gian truân bĩ cực, mới hồi thái lai.
Cảnh cáo các môn đệ thức tỉnh khỏi giấc mơ quyền lực, “ngồi bên tả, bên hữu Thầy”, thoát khỏi cám dỗ danh lợi, Đức Giêsu đã tiên báo cuộc khổ nạn của Người, cũng như số phận những ai đi theo Người sẽ không thể khá hơn. "Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” ( Mt 10, 17-18 ).
Đường hy vọng
Với các môn đệ, cùng tất cả những ai muốn theo Người, mong được hưởng hồng ân cứu độ, Đức Giêsu thẳng thắn kêu gọi: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình."
Bước đi theo Chúa tiên quyết bỏ mình, bỏ ý riêng, bỏ cả thân xác, của cải, tiền bạc, nhà cửa, tiện nghi, bỏ cả những tình cảm dây dưa, riêng tư, bỏ tất tần tật những gì níu kéo, ràng buộc cản trở. Đây là thách đố quan trọng và khó khăn cho tất cả những ai theo Chúa. “Của Xêda hãy trả về Xêda. Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” ( Mt 22, 21 ). Hãy buông xả tất cả những gì thuộc về thế gian, để chúng không thể ngăn trở, không thành chướng ngại vật, khi đến với Chúa.
Bỏ mình, cũng bỏ lại sau lung nhưng vương vấn gia đình, những tình cảm huyết tộc, linh tộc, uỷ mị, sướt mướt, yếu đuối, bỏ đi tất cả những gì vướng víu lên đường theo Chúa. "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa" ( Lc 9, 60 ).
Theo Chúa toàn tâm toàn ý, chẳng hề tiếc nuối, chẳng quyến luyến, tính toán hơn thiệt, chẳng bối rối, so đo. "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa" ( Lc 9, 62 ).
Hằng ngày vui lòng vác thập giá bổn phận và trách nhiệm, chẳng chối bỏ hay tránh né, cũng chẳng than phiền hay bất bình, bất mãn nặng nhọc, khó khăn dai dẳng. Luôn ý thức rằng vác thập giá theo chân Chúa lên Núi Sọ, chịu đóng đinh và chịu chết với Người. Bởi chưng tìm sự sống thế gian thì rồi sẽ tàn héo, sẽ mòn mỏi chết theo năm tháng, còn theo Chúa dấn thân chịu thua thiệt, chịu chết đi, sẽ được sống vinh quang với Người.
“Trên thánh giá, Chúa nghèo lắm ! Con chỉ xin Chúa Giêsu chịu đóng đinh một điều: yêu thương, đau khổ và luôn luôn hy vọng” ( Đường Hy Vọng, số 956 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận diện ra Chúa trong mọi người, nhất là trong những anh chị em cơ nhỡ, đau khổ, nghèo đói, bị bỏ rơi, bệnh hoạn, tù đầy, để chúng con thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ, trong niềm hy vọng hạnh ngộ cùng Chúa mai sau.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ an ủi, cầu bầu, giúp đỡ, khích lệ chúng con biết trung thành theo Chúa đến cùng, như xưa Mẹ theo Chúa đến tận chân thập giá trên đồi Calvaire. Amen.
Ngay sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng đức tin của thánh TN 12-C55
Ngay sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Thương Khó của Ngài. Trong khi đó, thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu phân cách hai biến cố này. 1. Bối cảnh: Về khía cạnh này, thánh Lu-ca gần với thánh Gioan. Thánh Gioan đặt ngay liền sau phép lạ hóa bánh ra nhiều diễn từ của Đức Giê-su về “bánh hằng sống” và việc nhiều môn đệ bỏ Ngài mà ra đi. Buồn rầu, Đức Giê-su hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Thánh Phê-rô khẳng khái trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6: 67-69). Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dấu chỉ rõ nét thời Mê-si-a, Đức Giê-su cho rằng thời điểm đã đến để thăm dò tư tưởng của các Tông Đồ về Ngài và cho họ thấu hiểu hơn nữa mầu nhiệm con người và sứ mạng của Ngài. 2. Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô: Thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô định vị cuộc chuyện trò của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài trong thung lũng thanh bình dẫn đến thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ngoài miền Ga-li-lê. Còn thánh Lu-ca thì không cho biết bất kỳ địa danh nào, nhưng mang đến một sự chính xác thuộc trật tự tinh thần: Đức Giê-su cầu nguyện một mình khi các môn đệ của Ngài gặp lại Ngài. Thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ phút long trọng. Chúa Giê-su hỏi các môn đệ, trước hết về dư luận quần chúng đối với Ngài: “Theo dư luận quần chúng, thì Thầy là ai?”, để giúp các ông hiểu rõ hơn rằng đức tin của họ phải thoát khỏi những ý kiến của quần chúng. Câu trả lời của các Tông Đồ là lập lại chính xác lời tường thuật cho Hê-rô-đê An-ti-pát, tiểu vương miền Ga-li-lê, khi ông này tra hỏi về nhân cách của Đức Giê-su: “Tiểu vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói: ‘Đó là ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy’. Kẻ khác thì nói: ‘Ông Ê-li-a xuất hiện đấy!’ Kẻ khác nữa lại nói: ‘Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại’” (Lc 9: 7-9). Dư luận cho rằng Gioan Tẩy Giả sống lại ở nơi Đức Giê-su thì thật lạ lùng; thật ra thánh Gioan đã chết với hào quang của vị ngôn sứ bị sát hại. Trái lại, việc ngôn sứ Ê-li-a tái lâm để là vị tiền hô của Đấng Mê-si-a là một niềm tin được chứng thực, vả lại dựa trên sấm ngôn của Ma-la-khi: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3: 23). Còn về các ngôn sứ thời xưa đã sống lại, vài bản văn Kinh Thánh có lẽ gợi lên ngôn sứ Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ được xem là người bảo vệ dân Ít-ra-en, như trong một giấc mơ của ông Giu-đa (2Mcb 15: 14-15). Thánh Mát-thêu, trong bản văn song đối, trích dẫn câu này. Nói tóm lại, đám đông dân chúng lầm lạc giữa những giả thuyết khác nhau này; họ đã không nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a (Đấng Ki-tô). Vì thế, Chúa Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các Tông Đồ nên hỏi họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Thánh Phê-rô nhân danh nhóm Mười Hai trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Nhưng Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai. Đám đông dân chúng có một quan niệm về Đấng Ki-tô không đúng; chân dung đích thật của Đấng Ki-tô Đức Giê-su sắp vén mở cho các Tông Đồ lần đầu tiên: đó là chân dung của Đấng Ki-tô chịu đau khổ. 3. Đức Giê-su loan báo lần đầu cuộc thương khó của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vào lúc này, Đức Giê-su thận trọng tránh nói về việc Ngài bị đánh đập và chịu đóng đinh vào thập giá, nhưng chỉ đơn giản nói rằng Ngài sẽ phải chịu đau khổ nhiều và bị giết chết; đồng thời Ngài tức khắc gợi lên cuộc Phục Sinh của Ngài. Ngài sẽ kể ra cuộc Phục Sinh của Ngài trong mối liên quan với một trong những sấm ngôn về cuộc Tử Nạn của Ngài (sẽ còn có hai sấm ngôn khác nữa). “Con Người phải chịu đau khổ nhiều”. Ở đây, sự tất yếu (“phải chịu”) mà Chúa Giê-su gợi lên không phải là sự tất yếu của số mạng: đây là một sự tất yếu thuộc trật tự thần học, đây là một sự tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Tử Nạn không là một tai nạn mà cuộc Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng là dự phần vào mầu nhiệm cứu độ loài người. Đức Giê-su không đưa ra bất kỳ giải thích nào khác ngoài “cái tất yếu này”. Ngài cũng sẽ nói với hai môn đệ trên đường Em-mau cái tất yếu như vậy: “Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24: 25). Khác với thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, thánh Lu-ca không nói cho chúng ta phản ứng quyết liệt của thánh Phê-rô đối với những viễn cảnh tăm tối mà Thầy mình vén mở về số mệnh của Ngài. 4. Lời dạy cho hết mọi người: Đoạn văn cuối được định vị vào trong cái hợp lý của điều đi trước đó nhưng không vào trong cái khả dĩ; vì không có đám đông chung quanh Đức Giê-su khi Ngài mặc khải cho các Tông Đồ số mệnh đầy đau khổ của Ngài; không có đám đông ở nơi Ngài tách riêng ra mà cầu nguyện một mình. Nhưng Chúa Giê-su liên kết các môn đệ của Ngài - và bên kia họ tất cả những ai muốn theo Ngài – với con đường từ bỏ chính mình và chấp nhận đau khổ này. Chính qua con đường này mà người ta “cứu được mạng sống mình”. Tác giả bài viết: Lm Hồ Thông HT68 Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Nghiêm túc xác định lại Đức Giêsu là ai và sống đúng theo xác định ấy
ĐỌC LỜI CHÚA
· Dcr 12,10-11.13,1: (10) Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện.
· Gl 3,26-29: (27) Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. · TIN MỪNG: Lc 9,18-24
Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu
(18) Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: «Dân chúng nói Thầy là ai?» (19) Các ông thưa: «Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại». (20) Người lại hỏi: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» Ông Phêrô thưa: «Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa». (21)Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. Tiên báo cuộc Thương Khó và điều kiện để theo Đức Giêsu
(22) Người còn nói: «Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy». (23) Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. (24) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Đức Giêsu hỏi các môn đệ 2 câu: «Dân chúng nói Thầy là ai?» và «Còn anh em bảo Thầy là ai?»: TN 12-C56
1. Đức Giêsu hỏi các môn đệ 2 câu: «Dân chúng nói Thầy là ai?» và «Còn anh em bảo Thầy là ai?». Trong hai câu ấy, câu nào quan trọng hơn? Tại sao?
2. Nếu Ngài hỏi ta câu thứ hai, ta sẽ trả lời thế nào, theo bài giáo lý ta đã học, hay theo tiếng nói từ sâu thẳm lòng ta? Tiếng nói ấy thế nào?
3. Một khi đã xác định Ngài là ai đối với ta, nhưng ta lại sống như thể Ngài không phải là như vậy, thì ta là người thế nào?
4. Nếu ta xác định Ngài là Thầy, còn ta là môn đệ theo Ngài, thì ta phải theo Ngài thế nào? Phải sống thế nào mới đúng là theo Ngài?
Suy tư gợi ý:
1. Hai loại hiểu biết về Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu hỏi các môn đệ hai câu về Ngài: «Dân chúng nói Thầy là ai?» và «Còn anh em bảo Thầy là ai?». Điều này gợi ý ta thấy: trong đời sống Kitô hữu, có hai thứ hiểu biết về Đức Giêsu:
– Một là những điều người khác nói về Ngài. Đó là những gì Giáo Hội dạy chúng ta về Đức Giêsu trong những bài giáo lý, trong những lớp thần học, trong những tác phẩm của các thần học gia. Ngoài ra, còn có những luồng dư luận khác về Ngài của người vô thần, của những tín đồ tôn giáo khác, v.v… Đây là thứ hiểu biết ở bên ngoài ta, cho dù chúng có thể ảnh hưởng gián tiếp đến suy nghĩ và hành động của ta.
– Hai là những gì chính bản thân ta nghĩ và cảm nghiệm về Ngài. Đây mới chính là điều quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ và sự dấn thân của ta đối với Đức Giêsu.
Nhiều khi ta biết rất rõ Giáo Hội nói gì về Đức Giêsu, và ta cũng tuyên xưng mạnh mẽ ra bên ngoài tất cả những gì Giáo Hội dạy. Nhưng trong thực tế, có thể Đức Giêsu chưa là gì đối với bản thân ta. Ngài vẫn như một ai đó xa lạ với ta, ở bên ngoài ta. Ta chưa cảm nghiệm được sự hiện diện hữu hiệu của Ngài ở trong ta. Giữa ta và Ngài chưa có một quan hệ thân thiết đầy tình nghĩa, chiếm nhiều đầu óc của ta, có khả năng ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của ta, chi phối và thúc đẩy ta hành động. Rất nhiều khi ta đến nhà thờ để gặp Ngài, rước Ngài vào tận trong cơ thể ta, nhưng dường như giữa ta và Ngài chẳng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Quan hệ giữa ta với Ngài nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Sở dĩ như vậy là vì bản thân ta vẫn chưa xác định được Ngài là gì đối với ta.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi ta: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» Ngài muốn ta xác định lại chỗ đứng đích thực của Ngài trong tâm hồn ta, để từ đó xác định lại mối quan hệ giữa ta với Ngài.
2. «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?»
Tại sao cần phải xác định như thế? Vì có xác định Ngài là gì đối với ta, và ta là gì đối với Ngài, ta mới hành xử với Ngài thích hợp với quan hệ đã xác định ấy. Tương tự như quan hệ của ta với một người nào đó: nếu ta xác định người ấy chẳng là gì đối với ta, thì ta đối xử với người ấy sao cũng được, chẳng cần phải tỏ ra nồng thắm hay tình nghĩa. Nhưng một khi đã xác định người ấy là cha mẹ ta, là vợ chồng hay người yêu ta, là con cái của ta, hay là ân nhân, bạn bè ta, thì ta phải đối xử sao cho xứng hợp với quan hệ của người ấy với ta. Không thể cư xử với cha mẹ hay người thân tương tự như với người dưng được.
Vì thế, một khi ta đã nhìn nhận Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Đấng Cứu Thế, hay là Bạn, là Người Yêu… thì ta phải đối xử với Ngài đúng với những tư cách ấy của Ngài. Nếu nhìn nhận Ngài là Vua là Chúa thì đối với Ngài ta phải hành xử như một thần dân. Nếu nhìn nhận Ngài là Cha thì ta phải hành xử như một người con. Nếu coi Ngài như lẽ sống cuộc đời mình, thì ta phải sẵn sàng sống chết với Ngài… Nếu nhìn nhận một đằng, nhưng lại hành xử một đằng, thì sự nhìn nhận đó là giả dối.
3. Đối xử cho xứng hợp với quan hệ đã xác định
Nếu đã coi nhau là người thân, mà khi hoạn nạn không giúp đỡ nhau, không thăm hỏi nhau, thì còn gì là thân nữa. Quan hệ thân tình kiểu đó chỉ là trên môi miệng. Cũng thế, một khi đã nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa của mình, là Thầy của mình, và mình là môn đệ của Ngài, mà mình không sống hết mình với Ngài, thì sự nhìn nhận trên chỉ là môi mép.
Vì thế, chỉ sau khi hỏi các môn đệ mình: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?», và nghe các ông xác định: «Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa», Đức Giêsu mới cho các ông biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ, bị loại bỏ, bị giết chết. Ngài nói thế để các ông có thời gian chuẩn bị tinh thần hầu khi sự việc xảy ra thì ứng xử cho phù hợp. Thế nhưng như chúng ta biết, khi Ngài lâm nạn, các ông đã bỏ trốn hết, riêng Phêrô thì chối Ngài.
Ngày nay, Đức Giêsu cũng hỏi ta câu đó: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?», để chúng ta xác định và hành xử theo xác định đó. Hiện nay, Ngài đang chịu đau khổ, bị loại bỏ và bị giết chết hằng ngày một cách thê thảm trong những con người đang đau khổ, bệnh hoạn, đang chịu bất công, áp bức chung quanh ta, trong xã hội và giáo hội ta đang sống. – Con mắt đức tin của ta có đủ sáng để nhận ra điều đó không? Ta đã, đang và sẽ làm gì cho Ngài một khi đã xác định Ngài là ai đối với ta? Nếu ta không cảm thấy mình phải làm gì cả, thì liệu xác định của ta có thật lòng không? Hay đó chỉ là một xác định bâng quơ, ngoài miệng, vô giá trị?
Khi ta đã xác định Ngài là Chúa, là Thầy, và ta là môn đệ theo Ngài, Ngài cho ta biết điều kiện để theo Ngài: «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo». Ngài muốn ai theo Ngài thì phải thực hành đúng như vậy. Không thực hành như vậy thì không phải là theo Ngài đúng nghĩa.
Như vậy, nếu ta xác định mình là người theo Đức Giêsu
– mà lại không chịu từ bỏ bản thân, vẫn tiếp tục sống ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện vun vén mọi sự cho mình,
– mà không chịu dấn thân sống tinh thần yêu thương, là điều cốt tủy nhất trong sứ điệp của Ngài,
– mà không chấp nhận vác thập giá theo Ngài, lúc nào gặp khó khăn cũng than phiền, cũng đổ lỗi cho người khác, cũng muốn lánh nặng tìm nhẹ, tránh khổ tìm sướng,
thì việc xác định của ta chỉ là giả dối, việc theo Chúa của ta chỉ là trên danh nghĩa chứ không phải trên thực tế.
4. Tâm lý bám víu, ham sướng sợ khổ của con người
Người Kitô hữu nào cũng tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh, là Con Thiên Chúa, và muốn dấn thân theo Ngài. Nhưng điều kiện theo Ngài quả là khó. Ngài đòi hỏi kẻ theo Ngài phải «từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo». Nhưng tâm lý của con người chúng ta là muốn bám víu vào mọi sự mà mình có, mình thích, và rất sợ phải từ bỏ chúng. Ta sợ rằng nếu không bám víu, không nắm chặt, không gắn bó vào những thứ ấy, ta sẽ mất hết. Ta giống như người nắm một vật quý trong tay theo hướng lòng bàn tay úp xuống dưới. Nếu không nắm lại thì vật quý ấy sẽ rơi xuống ngay tức khắc. Vì thế, ta thấy cần phải nắm cho thật chặt. Và đối tượng mà ta muốn cầm nắm và bảo vệ nhất là chính bản thân ta. Ta sợ bản thân ta đau khổ, ta ham muốn được vinh quang, hạnh phúc.
Nhưng quả thật có một sự rất nghịch lý trong cuộc đời, đó là càng bám víu vào sự vật, của cải, tiền bạc, danh vọng, quyền lực, ta càng trở nên nô lệ cho chúng, và bị chúng quay quắt, vật vã, hành hạ. Nhiều khi chúng bắt ta phải hành xử ngược với lương tâm, với chủ trương hướng thiện của ta. Và kết cuộc là ta lún sâu vào tội lỗi và đau khổ. Càng sợ hãi đau khổ thì ta càng nhạy cảm với đau khổ và càng là mồi ngon của đau khổ. Ta càng ham hạnh phúc thì hạnh phúc dường như càng tránh xa ta.
Tại sao vậy? Vì nguyên nhân làm phát sinh hạnh phúc chính là Thiên Chúa: hạnh phúc chỉ là kết quả. Ta thường chỉ nhắm đến kết quả mà không chú ý đến nguyên nhân. Ta giống như người muốn nấu cơm mà không biết cơm do cái gì biến thành. Ta chỉ chú ý đến việc nấu cơm, nên nhiều khi ta nấu cơm bằng cát, hay bằng một thứ gì khác không phải gạo, nên ta có chăm chỉ nấu cách mấy cũng không bao giờ thành cơm. Cũng vậy, tìm hạnh phúc hay sự sống mà không biết nguyên nhân phát sinh ra nó là Thiên Chúa thì sự tìm kiếm ấy vô ích. Còn ai tìm chính Thiên Chúa chứ không phải hạnh phúc, người ấy mới gặp được hạnh phúc. Để diễn tả chân lý ấy, Đức Giêsu nói: «Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, mang danh là môn đệ Đức Giêsu, nhưng nhiều khi con chưa cảm nghiệm được Ngài là ai. Con chỉ được học được nghe Giáo Hội nói Ngài là Đấng Cứu Thế, và con tuyên xưng mạnh mẽ rằng con tin điều đó. Nhưng nhiều khi con chỉ tin điều ấy như một kiến thức không ăn nhập gì đến đời sống thực tế của con. Vì bản thân con chưa bao giờ xác định Ngài là gì đối với con. Xin Cha hãy giúp con có được cảm nghiệm thật sự về sự hiện diện sống động của Đức Giêsu trong tâm hồn con, và thật sự xác tín Ngài chính là lẽ sống của con. Có thế con mới có thể dấn thân hết mình cho Ngài và cho công cuộc của Ngài, để nhờ đó con tìm được sự sống và hạnh phúc đích thực. Joan Nguyễn Chính Kết
Tôi gợi nhớ trong cuộc trao đổi kinh nghiệm mục vụ giữa các linh mục thuộc năm giáo phận miền tây TN 12-C57
Tôi gợi nhớ trong cuộc trao đổi kinh nghiệm mục vụ giữa các linh mục thuộc năm giáo phận miền tây trong cuộc hội ngộ tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Tp. HCM mấy năm trước, một linh mục lớn tuổi đã chia sẻ: trong giờ giáo lý khi ngài ra câu hỏi: ‘có mấy mầu nhiệm chính trong đạo, ba hay là hai?’ Một giáo dân đã trả lời: ‘Hai cũng được mà ba cũng thế thôi!’ Nghe Phêrô tuyên xưng: “Thầy là đấng Kitô của Thiên Chúa” (về nội dung rất khác với câu trong Mt 16:16 “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”), tôi cũng thấy có điều gì bàng bạc như thế; Phêrô thực tế đã thốt lên một công thức thật trịnh trọng, một tuyên xưng rất phổ biến trong suy nghĩ của nhiều người Do Thái thời bấy giờ. Thời đó hầu như mọi người Do Thái đều quan niệm rằng: đấng Ki-tô là vị thiên sai được phái tới để giải phóng dân, Ngài đầy vinh quang và uy quyền. Toàn thể các môn đệ, trong đó có cả Phêrô, đều có cùng một quan niệm đó! Do đó câu tuyên xưng này, đối với Đức Giê-su, chẳng có ý nghĩa gì lớn cho lắm…, hơn nữa nó còn có thể dẫn tới một sai lầm trầm trọng. Đó là lý do tại sao Người ‘nghiêm giọng truyền cho các ông không được nói với ai điều ấy’. Trước khi cuộc tử nạn xảy ra, đấng Ki-tô mà Đức Giêsu muốn phác họa lên những nét lớn để các môn đệ hình dung và nắm bắt, lại là: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết”. Theo ghi nhận của các thánh sử, thì không dưới ba lần Người đã đề cập tới đề tài này, thế nhưng xem ra bài học vẫn hoàn toàn khó hiểu, vẫn chưa thể lọt vào tai vào đầu các môn đệ.
Chấp nhận một đấng Thiên Sai bị tiêu diệt là cả một nghịch lý đối với bất kỳ người Do Thái nào! Theo họ, đấng Kitô dứt khoát phải toàn thắng vì Ngài phải là vua thống trị vinh quang. Theo họ: giải phóng Ngài mang tới phải là tiêu diệt mọi địch thù, vương quốc của Ngài phải rộng mở tới tận cùng trái đất, và quyền uy của Ngài tồn tại đến muôn đời. Tất cả các môn đệ của Đức Giêsu đều là những người Do Thái nên họ không thể nghĩ khác! Các ông đã rắp tâm theo Ngài là để thống trị chứ đâu phải để bị tiêu diệt, được quyền cao chức trọng chứ đâu phải để phải ngồi vào chỗ rốt hết! Ấy vậy mà Người lại lên tiếng tuyên bố ngược hẳn: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình… phải liều mất mạng sống mình…”
Quả thật tin rằng: có một Thiên Chúa tự hủy dám chết cho tôi là chẳng dễ chút nào. Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa quyền phép, một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt hơn, vì điều đó hoàn toàn hợp với suy luận loài người. Tôi rất mong muốn được cùng Ngài thống trị, vì thế cho nên tôi đòi Ngài phải oai phong hiển hách! Để đạt được mục tiêu này tôi sẵn sàng chấp nhận trả giá, dầu có phải nỗ lực bao nhiêu, phải kiên trì tu thân tích đức, phải hy sinh từ bỏ tới mấy… Tóm lại, tôi vẫn thấy điều này dễ chấp nhận hơn vì tính hợp lý thường tình của nó!
Chấp nhận tin vào một Đức Kitô bị loại bỏ, bị giết chết (vì lòng nhân ái và xót thương) cũng đồng nghĩa với việc, tôi phải đi vào sự hiến dâng mạng sống như Người; đây quả là một thách thức quá lớn! Tông đồ Phaolô đã quả quyết: ai muốn đón nhận và sống lòng từ bi nhân ái như Đức Kitô, thì cũng phải đóng đinh mình vào thập giá với Người. Chỉ có sự tự hiến của Đức Kitô mới có quyền đòi tôi phải từ bỏ và phải tự hủy diệt như thế; chỉ có niềm tin đặt nơi một Thiên Chúa nhân ái và hay thương xót tới mức độ phó nộp chính Con Một của Người mới có thể đòi tôi phải trọn vẹn hiến mình cho tha nhân. Nếu chỉ tin vào một Thiên Chúa quyền phép và công thẳng, thì tôi sẽ chẳng bao giờ có đủ sức đi cho tới cùng con đường tự hiến và hy sinh đâu!
Như thế tôi mới nhận ra: sức mạnh vô địch của Thiên Chúa hệ tại nơi lòng từ bi nhân hậu vô biên của Người. Các Thánh (Don Bosco hay Mẹ Têrêxa chẳng hạn), vì đã được tham gia một phần nhỏ vào sức mạnh nhân ái đó, nên các ngài mới có khả năng toàn tâm toàn lực hiến mình phục vụ tha nhân, đặc biệt những ai nghèo khổ bất hạnh nhất (đối với Don Bosco: hiến mình cho thanh thiếu niên, đặc biệt các em nghèo khổ nhất, đối với Mẹ Têrêxa Kơn-ka-ta: cho những người nghèo nhất trong số các người nghèo khổ).
Ôi, sức mạnh của tình yêu nhân ái quả là vô địch, không gì cưỡng lại nổi!
Lạy Thiên Chúa nhân ái và giầu lòng xót thương, xin cho con hiểu rõ sức mạnh vô địch của Thập Giá; sức mạnh sẽ giải phóng con khỏi một thứ thánh thiện khép kín, ích kỷ và tự tôn; Thập Giá sẽ thông truyền cho con khả năng tự hiến và trao ban. Cho tới nay, dầu đã qua nhiều năm sống đời tu sĩ thánh hiến, sự tự hiến của con vẫn rất nông cạn và nghèo nàn lắm. Xin cho con đi sâu vào lòng lân tuất Chúa, để càng tiến sâu vào, con càng có sức mạnh trao ban và tự hiến cho tha nhân hơn. A-men
Câu truyện ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa không: TN 12-C58
Câu truyện ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa không giản dị như chúng ta thường nghe. Nó cần phải được bổ túc bằng giải thích của Chúa Giê-su cho ta biết Đấng Ki-tô ấy là đấng nào và được kết luận với khẳng định rõ ràng những điều kiện phải có để đi theo Người. Nghĩa là ta không thể tách rời hành vi tuyên xưng Chúa Giê-su với việc tiếp tục sống quan hệ với Người và đi theo Người. Chính vì thế, Phụng vụ Lời Chúa đã trích dẫn luôn cả việc Chúa Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó và nói về điều kiện ta phải có để theo Người.
a) Thế nào là tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô cho đúng nghĩa?
Ông Phê-rô đã thay mặt anh em tông đồ trả lời câu hỏi “anh em bảo Thầy là ai” của Chúa Giê-su: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa.” Nhưng người ta bỡ ngỡ khi đọc dòng tiếp theo lời tuyên xưng của Phê-rô. Đó là: “Nhưng Chúa Giê-su nghiêm giọng truyền cho các ông không được nói điều ấy với ai.” Tại sao Chúa lại nghiêm giọng và cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai?
Muốn nói về Đức Ki-tô cho người khác, các tông đồ không những cần phải biết rõ Đấng mình muốn nói đến đích thực là ai, mà còn phải chia sẻ cả những cảm nghiệm đức tin về Đấng ấy. Do đó lời nghiêm cấm của Chúa Giê-su cho ta hiểu là hiện thời Phê-rô và các bạn tông đồ chưa hội đủ điều kiện để thi hành sứ vụ rao giảng về Chúa Giê-su và sứ vụ cứu thế của Người. Lời tuyên xưng của Phê-rô còn quá thô sơ, mới chỉ là điều mặc khải ông nhận được do Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đó là bước đầu để từ đó ông lên đường, hành trình sống mối quan hệ giữa ông với Chúa Giê-su. Tin Mừng Mát-thêu (Mt 18:18-19) nói cho ta biết rõ hơn về hành trình ấy, theo đó Chúa Giê-su sẽ chủ động mời gọi và Phê-rô sẽ phải quảng đại đáp lại. Ông Phê-rô sẽ trở thành “Tảng Đá” để Chúa xây Hội Thánh trên đó, giữ trọng trách điều hành Hội Thánh. “Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” là chân lý ông cần phải khám phá dần dần. Khám phá không phải chỉ bằng trí óc học hỏi tìm tòi, thí dụ qua những điều “người ta nói Con Người là ai?”, nhưng quan trọng là qua chính những giao tiếp cá nhân giữa ông với Chúa, những lắng nghe lời giảng dạy của Người, những chiêm ngưỡng công việc và lối sống của Người, những cảm nghiệm tình thương yêu Người dành cho dân chúng và những người nghèo khổ yếu đau... Từ những cảm nghiệm ấy, tình yêu ông dành cho Chúa sẽ mỗi ngày một thắm thiết hơn mà đáp lại lệnh truyền của Người: “Hãy theo Thầy” (x. Ga 21:15-19).
Câu truyện của Phê-rô dạy ta phải tuyên xưng Chúa Giê-su như thế nào. Không chỉ là lời tuyên xưng ngoài môi miệng. Có nhiều người ngoài miệng nói mình tin Chúa, nhưng đấy chỉ là một ý niệm rỗng tuyếch trong đầu họ chứ không phải là một quan hệ tình cảm tự trong trái tim. Họ giống như loại người Chúa Giê-su gọi là những kẻ kêu “lạy Chúa, lạy Chúa” (Mt 7:21). Nhưng tuyên xưng Chúa Giê-su phải là một lý tưởng sống, khởi đầu với chân lý về Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, tiếp tục với hành trình sống mối quan hệ với Người và trung thành theo Người cho đến hết cuộc đời.
b) Đấng Ki-tô của Thiên Chúa
Lý do Chúa Giê-su nghiêm cấm các tông đồ không được nói với ai biết Người là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa không phải vì điều ấy sai, mà là vì các ông hiểu sai điều ấy. Cũng như đám dân chúng và quan niệm thông thường của tư tưởng sê-mít, các ông vẫn hiểu lầm vai trò của Con Người, hoặc Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Vai trò của Đấng Ki-tô không phải là lãnh đạo một vương quốc trần gian, nhưng là vương quốc của Triều Đại Thiên Chúa, là trung tâm của lịch sử cứu rỗi như thư Do-thái 1:1-3 đã diễn tả: qua Đấng Ki-tô, Thiên Chúa phán dạy nhân loại; nhờ Đấng Ki-tô, Thiên Chúa tạo dựng nên ta và duy trì cho ta được tồn hữu; trong Đấng Ki-tô, Thiên Chúa tỏ ra cho ta biết bản thể của Người; nhờ Đấng Ki-tô, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu rỗi ta; với Đấng Ki-tô, Thiên Chúa cho ta được dự phần vinh hiển với Người.
Ba lần tiên báo về cuộc Khổ nạn, Chúa Giê-su muốn các môn đệ Người hiểu rõ tường tận sứ mệnh của Đấng Ki-tô, nhưng lần nào các ông cũng không hiểu, hoặc đúng hơn, các ông không muốn hiểu, vì điều ấy đi ngược với tham vọng trần tục của họ. Chính vì thế, Chúa Giê-su đã thẳng thắn đưa ra những điều kiện để họ theo Người. Toàn là những điều kiện khắt khe, nghịch lý. Mà không nghịch lý sao được, vì theo Chúa thì phải theo lý lẽ của con tim là những lý lẽ trí óc không thể hiểu!
Con đường thập giá chính là trở ngại khiến ta khó chấp nhận sứ mệnh của Đấng Ki-tô. Nhưng đó là nền tảng của tất cả kế hoạch cứu rỗi. Chỉ có con đường trút bỏ vinh quang (Pl 2:7-8) mới đưa Đấng Ki-tô đến địa vị làm Chúa của muôn loài trên trời dưới đất. Mầu nhiệm Ki-tô được tỏ ra cho ta nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng đưa ta tới sự thật toàn vẹn.
c) Theo Chúa Ki-tô
Sau khi đã giải thích Đấng Ki-tô là ai trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã thẳng thắn mời gọi: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” Quả thực là một lời mời gọi lạ lùng, chưa từng thấy ai làm như thế. Mời gọi người khác theo mình, ta phải cho họ thấy rõ điều lợi, thoải mái, sung sướng, chứ ai lại đòi họ phải chấp nhận “bỏ mình, vác thập giá.” Theo lô-gích của người đời, không ai dại dột như thế. Nhưng Chúa Giê-su còn quả quyết thêm: Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Người không “mất trí” (Mc 3:21) như người ta tưởng đâu! Nhưng Người xác tín con đường cứu rỗi Thiên Chúa đã hoạch định là như thế, cho Người cũng như cho tất cả những ai muốn theo Người.
Cái lẽ “liều mất mạng sống” để “cứu được mạng sống” có thể hiểu như sau. Khi ta dám bỏ đi chính con người tội lỗi của ta để mặc lấy con người của Chúa Ki-tô là ta sẽ có cuộc sống mới đưa ta đến với Thiên Chúa hằng sống. Khi ta dám rũ bỏ lối sống theo lô-gích của người đời để sống theo lô-gích của Chúa Giê-su. Khi ta dám yêu thương kẻ thù thay vì ghét họ. Khi ta dám lên tiếng bênh vực cho những người bị xã hội loại bỏ... Có biết bao nhiêu cái “liều” ta phải chấp nhận nếu ta muốn sống giống như Chúa Giê-su. Liều như vậy sẽ trở thành một thứ thập giá làm cho ta nhiều khi muốn bỏ cuộc. Nhưng đó cũng là con đường đưa ta tới sự sống đời đời.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi thuộc loại Ki-tô hữu có tên thôi hay đích thực là một người theo Chúa Ki-tô?
Chúa Ki-tô của tôi là Đấng nào? Là Đấng để tôi xin xỏ điều này điều kia mỗi khi tôi gặp khốn khó? Hay là Đấng dạy dỗ, dẫn dắt tôi và nâng đỡ tôi trên nẻo đường hẹp đưa tôi đến với Thiên Chúa? Tôi đã tiếp tục tuyên xưng Chúa bằng cách kết thân với Người chưa? Phương thức nào giúp tôi sống thân mật với Chúa mỗi ngày một hơn?
Khi bảo tôi “hãy từ bỏ chính mình”, Chúa Giê-su muốn tôi từ bỏ những gì? Tôi có dám làm điều ấy không? Tại sao?
Cầu nguyện:
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá, bao lâu tùy ý Cha định liệu. Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau. Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen. Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha. Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng. Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối, nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi. A-men. - Cha Karl Rahner (Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
PHÊRÔ TUYÊN TÍN, ĐỨC GIÊSU LOAN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN THỨ NHẤT
1) Phêrô tuyên tín
Khi Đức Giêsu hỏi các Tông đồ: "Người ta bảo Thầy là ai?", Ngài hỏi không vì lợi ích của riêng Ngài TN 12-C59
Khi Đức Giêsu hỏi các Tông đồ: "Người ta bảo Thầy là ai?", Ngài hỏi không vì lợi ích của riêng Ngài, mà vì lợi ích của họ, bởi Ngài biết chắc Ngài là ai. Còn họ và đám đông vẫn hàm hồ. Với đám đông, Ngài là Gioan Tẩy Giả, Êlia, hay một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Các Tông đồ khá hơn. Phêrô đại diện anh em thưa: "Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa".
Kitô là gì? Theo nguyên tự, Kitô hay Messia là Đấng được xức dầu, để lo việc của Thiên Chúa. Trong dân Chúa chỉ có hoàng đế, tư tế và ngôn sứ được xức dầu, để có ơn Chúa phục vụ dân. Nhưng dần dần, với truyền thống của các ngôn sứ, danh từ Đức Kitô, "Đấng được xức dầu" được dành để ám chỉ Đấng Thiên Sai cứu thế, sẽ đến khi thời gian đã sung mãn. Vậy, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Phêrô nói lên niềm tin Ngài là Đấng Thiên sai Cứu thế.
Trong đoạn văn tương tự của Matthêu, Đức Giêsu đã khen Phêrô là người có phúc, vì không phải xác thịt đã nói cho ông biết được như vậy, nhưng chính là Cha trên trời đã soi sáng dạy dỗ ông. Trong Tin mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu không khen, cũng không trực tiếp chấp nhận lời Phêrô tuyên xưng. Bởi lời tuyên xưng đó chỉ đúng về ngôn từ nhưng sai về nội dung. Thật vậy, cho dù có cả một hệ thống tiên tri báo trước về cuộc khổ nạn của Đấng Thiên sai Cứu thế, Isaia đã dành cả chương 53 để nói về Đấng Thiên Sai là người Tôi trung của Đức Giavê chịu đau khổ, Tiên tri Dacaria trong bài đọc I hôm nay loan báo một Đấng Cứu Thế bị đâm thâu (Dcr 12,10-11). Thế nhưng, người Dothái cũng như các Tông đồ không hề để ý, họ chỉ nghĩ đến Đấng Cứu Thế anh hùng, như vị hoàng tử với những chiến công hiển hách.
2) Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất.
Hugues Cousin nhắc lại: "Một văn bản Pharisêu được soạn thảo hai mươi bốn năm về trước (Thánh vịnh Vua Salômon 17) miêu tả Đấng Messia xua đuổi người di cư và ngoại kiều ra khỏi Đất thánh, để thanh tẩy mọi ô uế, và Người cai trị mọi dân nước trên hoàn cầu bắt đầu từ Giêsusalem". Vì thế, chẳng lạ gì khi thấy các Tông đồ tranh cãi nhau ai là người lớn nhất và Giacôbê, Gioan xin được ngồi bên tả, bên hữu Thầy, khi Thầy hiển trị trong nước của Thầy. Đức Giêsu không muốn môn đệ cứ hàm hồ hiểu lầm mãi, Người muốn họ hiểu đúng nội dung ngôn từ Messia, Ngài sẽ thực hiện, cho dù khi cho biết điều đó sẽ là cớ vấp phạm cho họ. Ngài vẫn nói: "Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ, bị các đầu mục và hàng tư tế phế thải, bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại".
Đối với các Tông đồ, lời loan báo này như một gáo nước lạnh giội vào người các ông. Ở đây Luca bỏ qua, nhưng hai thánh sử Mátthêu và Maccô ghi nhận: Phêrô đã can gián Đức Giêsu, kéo Người riêng ra một chỗ và nói với Ngài: "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy", và bị Đức Giêsu quở mắng là Satan. Có lẽ Luca bỏ qua vì hai lý do: Trước hết, sau khi cám dỗ Đức Giêsu ở hoang địa, Satan đã rút lui chờ đến cuộc thương khó mới xuất hiện ở vườn Giệtsimani. Tiếp đến, trong sách công vụ sứ đồ chương 1 đến 15, Luca đã giới thiệu Phêrô là bậc vị vọng nhất trong các Tông Đồ, không lẽ nào Phêrô là Satan, Luca thấy không thích hợp nên đã bỏ qua.
Tuy nhiên, cũng như Mátthêu và Maccô, sau khi Phêrô tuyên tín, Luca cho thấy: "Đức Giêsu đã nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai". Maccô gọi đó là "bí mật của Đấng Messia". Quả thật, nếu tỏ cho dân chúng biết sớm, e rằng chương trình của Thiên Chúa về sự đau khổ của Đấng Messia sẽ không thực hiện được, bởi khi nhân năm cái bánh và hai con cá lên nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người lên làm vua. Giờ đây, biết Người là Đấng Messia, họ sao có thể đóng đinh Người?
Thế nhưng, có một điều Đức Giêsu tỏ cho họ biết ngay, đó là: "Ai muốn theo Tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo". Vác thập giá mình là công việc hàng ngày, người tín hữu phải làm để đi theo Đức Kitô. Người môn đệ muốn nên giống Ngài, muốn hiệp nhất với Ngài, phải từ bỏ chính mình, nếu cần phải sẵn sàng chết trên thập giá như Ngài. Người ta chỉ có thể theo Đức Kitô và xứng đáng là tín hữu của Ngài, khi biết đón nhận sự đau khổ và bách hại vì đạo. Nói cách khác, chính trong mức độ biết liều mạng sống, để tuyên xưng Đức Giêsu Kitô trước mặt quân thù, mọi người Kitô hữu sẽ cứu mạng sống mình trong ngày Con Người đến phán xét. Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng Mesia chịu nhiều đau khổ, xin cho chúng con vác thập giá mình hàng ngày, để sau này được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời chúng con cầu xin.
Chúa Nhật hôm nay nói đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại. Bài Đọc I: TN 12-C60
Chúa Nhật hôm nay nói đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại. Bài Đọc I (Giacaria 12:10-11; 13:1): Tiên Tri Giacaria đã tiên báo về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu: “Chúng nhìn xem Đấng chúng đã đâm thâu qua.” Bài Đọc II (Galat 3:26-29): Tất cả chúng ta đều đã được chịu cùng một phép Rửa Tội trong Chúa Giêsu Kitô và được mặc lấy Chúa Kitô, nên chúng ta được nên một với Chúa, không còn phân biệt màu da, chủng tộc… Bài Phúc Âm (Luca 9:18-24): Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem các ông có biết thật sự Chúa là ai không. Thánh Phêrô đã thay mặt anh em trả lời “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Sau đó Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ “việc Chúa Giêsu sẽ chịu nạn chịu chết để chuộc tội nhân loại; nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.” Tiếp theo Chúa bảo “Những ai muốn làm môn đệ của Chúa cũng phải bỏ mình đi, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Chúa.” Đấng Kitô là ai? Sau khi ông Adong và bà Evà sa ngã phạm tội. Thiên Chúa đã ra hình phạt cho ông bà và dòng dõi loài người. Nhưng Thiên Chúa cũng hứa sẽ sai một Đấng Cứu Thế đến để chuộc tội cho nhân loại (Sách Sáng Thế, chương 3). Vị Cứu Thế đến để cứu độ nhân loại được gọi theo tiếng Do Thái thời đó là “Messiah” (Có nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”), dịch ra tiếng Hy Lạp là Christos, ra tiếng Pháp và tiếng Anh là Christ, Tiếng Việt Nam là Kitô, và trở nên danh hiệu để ghép vào tên riêng của Chúa Giêsu để thành “Kitô Giêsu” hoặc “Giêsu Kitô”. Người Do Thái luôn luôn trông đợi Đấng Cứu Độ đến: “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu Đời…” Hiện nay người Do Thái vẫn tin là Đức Kitô chưa đến, nên người Do Thái thường đến “Bức Tường Khóc’ (tường thành Giêrusalem cổ) để tiếp tục cầu nguyện xin Đấng Cứu Độ đến. Hơn nữa, theo dòng thời gian, người Do Thái thường có quan niệm Đấng Cứu Độ đến như một nhà lãnh đạo oai hùng để “đổi mới mọi sự” (Daniel 9:25-26) và lập nên một quốc gia Do Thái cường thịnh, vinh quang ‘thoát khỏi mọi áp bức của kẻ thù.” Những người đồng thời với Chúa Giêsu, dù được nghe lời xác quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả (Gioan 1:29-34), và được chứng kiến những phép lạ vĩ đại Chúa Giêsu làm “người què được đi, người mù được thấy…” nhưng họ vẫn không tin Ngài là đấng “Kitô Thiên Chúa sai đến”, họ chỉ coi Ngài “như một Gioan Tẩy Giả, hoặc Elia, hay một trong các tiên tri thời xưa sống lại!” (như bản tường thuật trong Bài Phúc Âm hôm nay); vì thế Chúa Giêsu mới hỏi các Tông Đồ “Còn các con bảo Thầy là ai?” Và Thánh Phêrô đã thay mặt anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Dù đã tin nhận Chúa Giêsu là “Đấng Kitô” nhưng các Tông Đồ vẫn giữ quan niệm là Ngài sẽ thành lập một “Nước hiển vinh”; và không thể tin được là Ngài sẽ phải chịu cuộc khổ nạn và chịu chết (Matthêu 20:18-19); vì thế mà khi Chúa Giêsu nói về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải chịu để cứu chuộc nhân loại thì thánh Phêrô đã “kéo Ngài riêng ra và ngăn cản…” (Matthêu 16: 22). Cũng vì quan niệm như thế, nên ông Giacôbê và Gioan mới xin cho được “một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả trong ‘Nước Chúa’ (Matcô 10:35-37). Ngay cả khi Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại, các tông đồ vẫn hỏi “Có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương Quốc Israel không?” (Công Vụ 1:6) Đức Kitô mà Thiên Chúa sai đến không phải như một vị Lãnh Đạo oai phong lẫm liệt để làm một cuộc cách mạng giải phóng Dân Tộc Do Thái; nhưng Ngài đến để “chịu nhiều đau khổ, bị các Kỳ Lão, các Thượng Tế và các Luật Sĩ chối bỏ, và giết chết; nhưng đến ngày thứ ba thì sống lại” (Matthêu 17:22-23) và lên trời để mở đường về trời Vinh Hiển cho chúng ta. Như vậy nước của Chúa là Nước Thiêng Liêng trong Vinh Quang Thiên Chúa, nước của Chúa không phải nước trần gian. Nước Chúa không thuộc về thế gian này (Gioan 18:36). Như vậy chúng ta theo Chúa không phải để được vinh quang, giàu sang ở đời này, nhưng để noi gương Chúa “từ bỏ mọi sự và kiên nhẫn chịu mọi khổ đau ở đời này, sống yêu thương tha thứ, rồi để chết đi với Chúa, táng xuống mồ, trước khi được sống lại trong vinh quang trong Nước Chúa.” Trong Thánh Lễ hôm nay chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta “đường đi của Chúa, xin hướng dẫn chúng ta trong Chân Lý của Ngài” để chúng ta luôn đi theo con đường mà Chúa đã đi mà Giáo Hội chỉ cho chúng ta. Con đường leo dốc thật cheo leo hiểm trở ; nhưng là con đường dẫn đến vinh quang nước Chúa, sau cuộc đời đau khổ trần gian này. Đó là ý nghĩa của sự đau khổ trần gian mà ai cũng phải trải qua. Những tín hữu của Chúa thì không thất vọng khi gặp đau khổ, bách hại , nhưng sống phó thác trong niềm hy vọng đời sau (Xin xem Matthêu 13:36-43). Hôm nay cũng là ngày “Tôn Vinh Cha” (Father’s Day): Chúng ta hãy tưởng nhớ đến công ơn của các người cha của chúng ta và cầu nguyện cùng Chúa xin cho các vị đã qua đời được thưởng công trên nước Chúa; cho các vị còn sống được an mạnh và vui sống trong tuổi già. Xin cho chúng ta luôn biết sống như những người con ngoan để đền đáp bao công lao nuôi dưỡng của cha mẹ chúng ta: “Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Lc 9:18-24: 18 Hom ay, Đức Gie-su cau nguyen mot mình. Cac mon đe cung ở đó với Người, va Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai? "19 Các ông thưa: "Họ bao Thay la ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng co kẻ thì bảo là ong E-li-a, kẻ khac lai cho là mot trong các ngôn sứ thời xưa đa sống lại."20 Người lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " Ông Phê-ro thưa: "Thầy là Đang Ki-tô cua Thien Chua."21 Nhưng Người nghiem giong truyen cac ong khong được noi đieu ay với ai.
22 Người con noi: "Con Người phai chịu đau kho nhieu, bị cac ky muc, thượng te cung kinh sư loai bo, bị giet chet, va ngay thứ ba se troi day."
23 Roi Đức Gie-su noi với moi người: "Ai muốn theo toi, phai từ bỏ chính mình, vac thap gia mình hằng ngày mà theo.24 Quả vay, ai muốn cứu mạng sống mình, thì se mất; còn ai lieu mat mang song mình vì tôi, thì se cứu được mang song ay.
Trong Luca đoạn tin mừng 9:18-24 theo sau phep la làm bánh nên nhiều (9:12-17). Cần phân biệt: TN 12-C61
Trong Luca đoan tin mừng 9:18-24 theo sau phep la lam banh nen nhieu (9:12-17). Can phan biet hai đoan ket tiep nhau: đoan 9:18-22 ban ve can tính va định menh cua Chua Giesu; đoan 9:23-24 thuoc đoan 9:23-27, ban ve viec đi theo Chua Giesu. Chu đe chính cua đoan 9:18-22 nam trong hai cau hoi “Dan chung noi Thay la ai?” va “Cac con, cac con noi Thay la ai?”(9:18.20). Chua Giesu đat những cau hoi nay với ho trong boi canh ho đang ở rieng với Người. Ho đa chứng kien phep la va nhan ra quyen nang cua Thien Chua the hien trong Người. Bo cuc cua đoan co the phan chia như sau: - Nhap đe với cau hoi ve can tính cua Chua Giesu (9:18); - Cau tra lời cua cac mon đe (9:19-20); - Menh lenh giữ thinh lang va tien bao ve sự chet va song lai cua Chua Giesu (9:21-22). Sang đoan 9:23-24, ban ve những đieu kien đi theo Người.
Trước khi to cho cac mon đe biết Người là ai, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình (c.18a). Không thấy điều nầy trong cac tin mừng khác. Chúa Giêsu thường rút lui cau nguyen như thế nơi thanh vắng, trước mỗi lần Người tỏ mot đieu quan trọng cho cac mon đe: chọn các môn đệ (6:12-13), day cac mon đe cầu nguyện với kinh “Lay Cha” (11:1). Điều nầy trước tiên cho thay Người luon hiep thong cach hoan hao với Chua Cha. Tiếp đến, các môn đệ se đón nhận những điều Người nói và day, như là y muốn của Thiên Chúa. Và như thế, Người se dẫn họ vao trong tương quan với Thien Chua.
Cau hỏi về can tính cua Chua Giesu “Ong nay la ai?” được đat ra moi lan Người hoan thanh mot đieu ky diệu: sau khi Người tha toi cho người phụ nữ tội lỗi “Ông nầy là ai mà co quyền tha toi” (7:49); sau khi Người lam cho sóng gió yen lang (8:25); sau khi Herôđe nghe noi ve những việc kỳ dieu Người đa làm (9:9). Qua lời noi va việc làm của Người, mọi người, nói chung la “dân chúng”, có đong quan điểm cho rang Người la một ngôn sứ: dan chung (7:16; 9:7-8); người Phariseô (7:39); hai môn đệ Emmaus (24:19). Các môn đệ lap lai đieu nay khi trả lời cau hoi đat ra cho ho (9:19).
Tuy nhien, Chua Giesu muon biet cac mon đe nói gì ve Người (c. 20). Pherô tuyen xưng “Đang Kito của Thiên Chúa”. Có sự khác biệt đáng kể cua lời tuyen xưng nay trong các tin mừng (x. Mt 16:21; Mc 8:29; Lc 6:20; Gio 6:69). Đặc điểm của lời tuyên xưng trong Luca là cum từ “của Thiên Chúa”. Qua đo Luca muon nhan manh nguon goc cua Đang Kito. Người thuộc về Thien Chua, va Người là con của Thiên Chúa (1:32-33), được tuyen chon (x. 23:35), xức dầu làm vua (23:2; x. 1 Sam 9:15-16; 10:1; 24:7; 26:9) va sai đen với dan Người (x. 1:16.78; 2:38). Trong Luca, tước hieu “Đang Kito” gan lien với sự cứu đo. Đang Kito chính la Đang Cứu đo (2:11). Ma quy goi Chua Giesu la Đang Kito, khi Người xua trừ chung ra khoi người bị chung am (4:41). Cac thu lanh ton giao nghĩ Đang Kito la đang co kha nang giai thoat mình khoi cai chet (23:35). Người cung bị đong đinh với Chua Giesu cung noi cach tương tự “Neu ong la Đang Kito, hay cứu chung toi” (23:39). Như the, Đang Kito ma dan chung (x. 3:15) va cac thu lanh mong đợi (22:67), chính la đang, theo cach suy nghĩ cua ho, giai thoat con người khoi benh tat, sự chet, va Người co the phuc hoi vinh quang tran the cho Israel (x. 24:21). Ho trong đợi mot Đang Kito như the.
Chua Giêsu là hien than cua Thien Chua, Đang Cứu Đo (7:16; 1:47). Người là Đang Kito cuối cùng Thiên Chúa sai đen với dan Người, đe ban ơn cứu độ vien man. Người khong chỉ là mot ngon sứ, mà con hơn mot ngon sứ nữa. Khi noi ve Gioan, Chua Giesu đa xem Gioan cao trong hơn mot ngon sứ. Thế ma Gioan chỉ là người đi trước dọn đường cho Người (7:26-27). Như the, Người trổi vượt trên cả cac ngon sứ Gioan va Êlia. Chính Người cũng ý thức Người la Đấng Kitô duy nhất của Thiên Chúa, như được nói trong du ngôn những tá đien (20:9-19; 22:67-68). Sau Người, Thiên Chúa không sai đen ai khác nữa. Đây chính là khac biet can ban trong cách suy nghĩ về Chua Giesu giữa dan chung va các môn đệ.
Tuy nhien, Người phai giữ thinh lang (c. 21), vì đo là y muốn của Chúa Cha, cho đến ngày Người khai tam cho hai mon đe Emmaus hieu vai trò cứu đo của Người (x. 24:26.46). Đe cứu độ, Đang Kito không đi theo con đường dân chúng nghĩ đen. Người phai chịu chet, nhưng sau đó Người se sống lại. Đây là lan thứ hai Người tien bao cuoc kho nạn của Người (c. 22; 8:31; 17:25). Dei, “phai” chỉ y muốn của Thiên Chúa phải được thực hien (9:22; 17:25; 22:7; 24:7); tuy nhien, Chua Giesu thường tự nguyen lam theo y cua Cha Người (x. 2:49; 4:43). Apodokimazo, “xem như khong that, thanh thử bị gat bo”. Đe hieu hơn y nghĩa cua đong từ tren, can hieu đong từ goc dokimazo, “thử hach”, “kiem thử mot vat la that hay gia”. Người được mời dự tiệc từ choi đen, vì ông bận đi thử năm đôi bò; nghĩa la ông xem thử bò co dùng được viec khong, va có đu tiêu chuẩn như ong mong uớc hay khong (14:19). Trong 12:56, Chúa Giêsu trách dân chúng, vì ho không thể xem xét và đưa ra ket luan từ những dấu hiệu và bien co của hiện thời để tin vào Chúa Giêsu. Vậy, Chúa Giêsu bị gat bo, apodokimazo (9:22; 17:25; 20:17), vì Người không vượt qua được những thử hach cua cac ky mục, thượng tế va kinh sư (x. 22:67); cung co nghĩa Người không phải là Đang Kito thật, nên bị tuyen an va bị đem đi giet (Cv 3:15). Tuy nhien Người se sống lại. Vậy, các môn đệ can đi từ long tin Chúa Giêsu là Đang Kito của Thiên Chúa đến Đấng Kitô nay phai chịu đau khổ chet, roi phuc sinh.
Hanh trình của Chúa Giêsu là lam theo ý cua Thien Chua (22:42). Ai muốn đi theo Người phải từ bo chính mình và vac thanh gia theo sau Người. Không có con đường nao khac.
Luca đọc đoạn nầy dưới ánh sáng Phục Sinh nghĩa là khi Giáo Hội đã tin chắc chắn Đức Giêsu: TN 12-C62
Luca đọc đoạn nầy dưới ánh sáng Phục Sinh nghĩa là khi Giáo Hội đã tin chắc chắn Đức Giêsu là Chúa và là đấng Cứu Thế (Kitô). Kitô là từ Hy lạp. Messia là Do thái. Khác nhau. Messia Do thái mang niềm hy vọng Do thái về một vị vua oai hùng giải phóng đất nước Do thái về mặt chính trị. Còn Kitô là đấng Cứu thế được rao giảng cho dân ngoại, không còn hơi hám Do thái. Là Cứu Thế chứ không phải cứu tinh Do thái. Là cho cả thế gian.Do đó Luca bỏ đi những chi tiết có trong Mathêu và Marcô là văn hoá Do thái. Nên chúng ta thấy câu chuyện rất suông sẻ, thoát ra khỏi những khúc mẳc vòng vèo của truyền thống Do thái vg. chuyện Phêrô chưa hiểu vì sau Phục Sinh đã hiểu rất rỏ rồi. Chẳng những đã hiểu mà còn đã tin như đinh đóng cột rồi. Luca viết lại như đã tin. Bài gồm 3 phần rõ rệt:
1/ Tuyên xưng Đức Giêusu là Đấng Kitô mà còn thêm cho rõ là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Không phải của loài người thì càng không phải của Do thái. Cũng không nói là mạc khải của Chúa Cha. Là một tuyên xưng đức tin của Giáo Hội( giả thiết đã hiểu và đã tin chắc chắn nên mới tuyên xưng).(c.20) Giữ lại c. 21 cho bản văn có vẻ nguyên thuỷ là "không được nói điều ấy với ai".
2/ Giải thích Đức Kitô của Thiên Chúa là:
Con Người phải chịu đau khổ……Đức Kitô là người đầy tớ đau khổ của Thiên Chúa theo như Isaia đã tiên báo.Bây giờ đây không phải là loan báo sự thương khó nữa mà ĐG đã chịu thương khó rồi , đã Phục Sinh vinh quang và đang sống. Nên không có chuyện cải lại của Pherô và câu chuyện tiếp theo như trong Mathêu và Marcô. Đây là lời rao giảng cho dân ngoại.
3/ Điều kiện để làm môn đệ theo Đức Kitô: "Ai muốn theo tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo". Theo là vác thập giá mình hằng ngày chứ không phải muốn ngồi tả hữu hoặc được vinh quang nào đó như trước kia mọi môn đệ đều mong ước.
Đức Kitô của tôi cũng phải là Đức Kitô của Thiên Chúa , là Đấng Thiên Chúa sai và làm ý của Thiên trong mọi sự.Xin Chúa Giêsu giúp con xác quyết ‘đi theo Chúa là từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo’.
-----------------------------------
TN 12-C63. CHÚA NHẬT 12 QUANH NĂM
Lc 9, 18 – 24.
Trước khi bắt đầu cuộc hành trình về Núi Thánh, thầy tu viện trưởng dẫn các tu sĩ của mình đến: TN 12-C63
Trước khi bắt đầu cuộc hành trình về Núi Thánh, thầy tu viện trưởng dẫn các tu sĩ của mình đến cửa hiệu bán thập giá lớn nhỏ đủ cỡ và nói: “ mỗi người hãy chọn lấy cho mình một thập giá để vác trong suốt cuộc hành hương. Các tu sinh chạy nhanh đến tranh nhau chọn cho mình một cây thập giá nhỏ nhất. Khi tất cả đã chọn xong thì còn lại cây thập giá to nhất cho thầy tu viện trưởng! Thầy bước đến, vác lấy cây thập giá đó và bước đi cách nhẹ nhàng. Trong khi đó, vị tu sĩ dành được cây thập giá nhỏ nhất lại vác đi cách nhọc nhằn mệt mỏi…
Câu chuyện vui trên đây nói lên thái độ mỗi người chúng ta đối với thập giá. Chúng ta nói mình yêu mến Chúa, sẵn sàng vác thập giá theo Chúa nhưng trong thâm tâm chỉ muốn có cây thập giá nhẹ nhất, theo ý riêng mình chứ không phải theo ý Chúa. Chúng ta vẫn còn sống theo thói đời, suy nghĩ theo kiểu thế gian, tìm sự dễ dãi hơn là theo Chúa!
Rất nhiều người cậy dựa vào của cải, quyền thế của mình, không muốn vác thánh giá. nhiều người nghèo vẫn đặt của cải, tiền bạc lên hàng đầu, hơn cả Chúa, họ cũng không sống tinh thần nghèo khó! Thế gian không muốn theo ý Chúa và thường bịt mắt làm ngơ trước những lời dạy của Chúa giêsu. Nhiều người trong thế hệ trẻ sống theo thói đời, buông theo dục vọng và cảm tính. Họ giống như những con thiêu thân không ngừng lao vào chỗ nguy hiểm dẫn đến cái chết đời đời mà họ tưởng là con đường sán lạn đem lại hạnh phúc cho mình. Có nhiều người sống theo sự lôi cuốn của người khác, của hàng xóm, của các bạn cùng lứa chứ không có lập trường đúng sai rạch ròi! Nếu gặp bạn tốt thì họ cũng tốt, nếu gặp người xấu thì họ cũng theo cái xấu mà sống.
Chúng ta là những người nghe biết lời Chúa, là người còn thức tỉnh, tuy không hẳn là ngọn hải đăng giúp cho người khác biết đâu là bến bờ hạnh phúc nhưng có thể là ánh nến đủ soi lối cho những người đang ở gần chúng ta: những người trong gia đình, những bạn bè thân thuộc. Chúng ta hãy làm muối ướp cho đời bớt đi những truỵ lạc vì thiếu vị mặn của lòng bác ái chân thành và tinh thần vị tha.
Để hướng dẫn người khác, chúng ta phải mang theo thánh giá Chúa Giêsu và bước đi theo Ngài. Vác thánh giá là từ bỏ ý riêng và sẵn lòng đón nhận ý Chuá. “Ai muốn theo ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thánh giá mình hàng ngày mà theo. Còn ai không vác thánh giá, chỉ nhắm việc chăm chút thân xác, hoặc chỉ lo đời này thì cũng không giữ được nó. Vì vậy, chúng ta phải lo vấn đề đời sau, đừng sống như những người không biết Chúa.
Chúng ta cần lội ngược dòng đời. Thế gian tìm của cải, nhưng chúng ta tìm hạnh phúc đời đời. Nhiều nơi trên thế giới phân biệt sắc tộc, tôn giáo hoặc phân biệt đối xử, phe phái. Còn chúng ta là con cái Chúa hãy tìm sự công bằng, huynh đệ, bình đẳng, không phải trên môi miệng nhưng bằng lòng bác ái chân thành xuất phát từ lòng yêu mến Chúa là Chân Thiện Mỹ.
Lạy Chúa, xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa qua những công việc bổn phận là những thập giá Chúa gởi đến thanh luyện chúng con, giúp chúng con luôn hướng về Chúa và sự sống đời đời.
“Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”
Hôm nay Chúa Giêsu cũng lại hỏi chúng ta: “Các con bảo Thầy là ai?” (Lc 9, 20).
Câu trả lời có thể là: Ngài là trái đất, là bầu trời xanh, là đại dương bao la, là bài ca, là cơn gió nhẹ: TN 12-C64.
Câu trả lời có thể là: Ngài là trái đất, là bầu trời xanh, là đại dương bao la, là bài ca, là cơn gió nhẹ ban mai, là thanh âm và hơi thở củ mọi loài sinh vật, là sự rực rỡ của mùa xuân, là nắng hè ấm áp, là những cơn mưa ngâu, là vẻ đẹp lúc sang thu, là cánh tuyết long lanh mùa đông, là ánh bình minh và hoàng hôn. Ngài là ánh mắt và nụ cười của trẻ thơ, là bàn tay êm ái của mẹ hiền, là cánh tay che chở của người cha, là tình huynh đệ của các anh chị em, là sự âu yếm của ông bà nội ngoại, là sự ồn ào tươi vui của bạn bè, là những lời thì thầm yêu đương, là sự ngây thơ của nụ hôn đầu tiên. Ngài là tiếng cầu cứu của trẻ thơ và người già bị bỏ rơi, là cơn đau sầu khổ của người bệnh, là bác sĩ, là niềm hy vọng, là người khách. Ngài là người bạn, là người yêu, là lối đi, là ánh sáng, là cuộc đời, là lời chúc lành, là bóng hình từ ái của người tu sĩ, là sự dịu ngọt linh thiêng trong bí tích Thánh Thể, là Đấng Cứu Độ của tôi. Và còn bao nhiêu trả lời khác nữa.
Thế nhưng, cảm nghiệm về “Chúa Giêsu là ai” trong cuộc đời của mỗi người rất khác nhau. Trong bài Phúc Âm ( Lc 9, 18-24) Chúa Giêsu hỏi các môn đệ “Thầy là ai” để giúp họ biết “họ là ai” trong tương quan giữa họ với Chúa Giêsu. Khi tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20). Phêrô cũng khẳng định ông là môn đệ của Ngài. Vì thế Chúa mới nói cho các môn đệ biết họ cũng phải đi theo con đường đau khổ giống như Ngài. “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,22-23). Đó là con đường bước theo Thầy Giêsu củangười môn đệ..
Trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô nhắc nhở dân Galát rằng: “Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3, 27). Mặc lấy Đức Kitô, hay mặc lấy chiếc áo trắng rửa tội là mang lấy thánh giá giống như Ngài. Đau khổ của thập giá tự bản chất là hình phạt của tội (St 3, 16-19). Nhưng qua Đức Kitô, đau khổ đã trở nên giá cứu chuộc nhân loại, thập giá trở thành Thánh Giá. Thánh Giá với tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh là một hình ảnh giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa của sự đau khổ. Chúng ta giữ thân xác khổ đâu của Chúa Giêsu trên thập giá để nhắc nhở chúng ta đừng quên rằng nhờ sự khổ đau của Chúa Giêsu mà chúng ta được ơn cứu rỗi và cùng chia sẻ sự Sống Lại với Ngài (Ga 1, 4; 1Ga 1, 7). Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên cây thập giá còn là một nhắc nhở về lời Ngài dạy bảo chúng ta hôm nay: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9, 23). Thập giá Chúa Giêsu đề cập chính là sự chọn lựa từ bỏ mình để dâng hiến hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa (Rm 6, 13; 12, 1). Từ bỏ những ý kiến, suy nghĩ riêng tư, cả cái tôi kiêu căng, tự ái, ích kỷ, và lòng ham hố danh lợi (Pl 2, 21). “Hãy từ bỏ mình” là con đường tu đức biến đổi đau khổ của thập giá trở thành ơn cứu độ của Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã dạy và chết vì yêu thương chúng ta. “Hãy từ bỏ mình” là con đường dài cho đến hơi thở cuối cùng. Con đường đó bắt đầu xem ra có vẻ dễ dàng, nhưng diễn tiến và kết thúc lại vô cùng khó khăn. Để hoàn toàn từ bỏ chính mình như Đức Kitô đã từ bỏ, chúng ta phải học biết cách yêu thương như Ngài đã yêu (Ga 15, 12; Ep 2, 4-6).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết từ bỏ mọi sự để dứt khoát bước theo Ngài đến cùng. Amen.
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
Cậu bé nọ có một con chiên, cậu rất yêu quý và hay chơi đùa với nó. Lần kia, con chiên quẹt phải bụi: TN 12-C65
Cậu bé nọ có một con chiên, cậu rất yêu quý và hay chơi đùa với nó. Lần kia, con chiên quẹt phải bụi gai khiến nó mất một mảng lông và bị chảy máu. Cậu bé một mực đòi bố chặt bỏ bụi gai đáng ghét kia đi, vì đã làm đau con chiên của cậu. Nhưng bố ngồi xuống bên cậu, không xa bụi gai lắm và thinh lặng quan sát. Một chú chim nhỏ bay đến đậu trên bụi gai và ngây ngất hót líu lo. Sau đó, nó nhặt một ít lông chiên còn vướng trên bụi gai và bay về làm tổ.
Câu chuyện này có tên là “Đau khổ sinh hoa trái”. Đau khổ đâu phải lúc nào cũng là tai ương. Nếu không nói là có lợi nữa. Con chiên mất ít lông, rồi nó sẽ lành lại. Nhưng ít lông bị mất đó sẽ là chiếc tổ ấm áp cho con chim. Đau khổ không phải là đề tài mới mẻ, nhất là trong Phúc Âm, nhưng tôi vẫn muốn chia sẻ đề tài này cùng các bạn. Bởi từ xa xưa cho đến hiện đại người ta ngại nói về đau khổ và chẳng mấy ai tha thiết với nó. Với Kitô giáo nói đến đau khổ là nói đến thập giá. Mà thập giá thì quả là chua cay đắng đót. Ngày nay mà nói đến đau khổ hay vác thập giá có thể gây khó chịu cho một vài người. Với hạng người trần mắt thịt đó điều ấy quả là khờ dại. Nhưng điều điên dại của con người lại là khôn ngoan với Thiên Chúa và chính Thiên Chúa đã dùng chính con đường khó nguy ngập tràn đó để cứu chuộc con người.
Đức Giêsu đã khẳng định: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều” (Lc 9, 22). Đức Giêsu chẳng phải đã chịu đau khổ mới bước vào vinh quang đó sao? Đệ tử không hơn thầy. Nếu Đức Kitô đã chịu đau khổ như thế thì chúng ta không thể có được quang vinh mà thoát qua được khổ đau. Cha linh hướng của tôi nói rằng: “Anh em không thể tránh được đau khổ đâu. Thiên Chúa sẽ kéo anh em cho đến khi anh em đến chân thập giá mới thôi”. Còn Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Nếu anh em không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không thể làm môn đệ của Thầy”. Lời nhắc bảo này đã đủ cho chúng ta biết. Thập giá có đó. Chúng ta không thể tránh khỏi. Lời thánh Phaolô vẫn còn bên tai chúng ta: “Chúng ta phải chịu nhiều đau khổ mới vào Nước Thiên Chúa” (Cvtđ 14, 22).
Nhưng trớ trêu thay. Chúng ta ngày nay muốn vinh quang mà ngại hy sinh, muốn vào nước trời nhưng không muốn vác thập giá mà theo. Muốn được kho tàng trên trời nhưng không dám bỏ của cải trần gian. Bạn hãy nghe lời kết luận của Thomas à Kempis: “Chúa Giêsu luôn có nhiều người yêu mến Nước Trời nhưng ít người muốn vác thập giá. Chúa có nhiều người mong muốn an ủi, nhưng ít người muốn thử thách. Chúa tìm thấy nhiều người muốn ngồi dự tiệc với Người nhưng ít người muốn ăn chay. Tất cả đều muốn hạnh phúc với Người nhưng ít muốn chịu đau khổ vì Người. Nhiều người theo Chúa đến chỗ bẻ bánh, nhưng ít người muốn uống chén đau khổ của Người. Nhiều người tôn sùng phép lạ nhưng ít người tôn sùng thập giá”. Ngày nay, người ta chẳng còn yêu chuộng sự đau khổ nữa. Người ta không muốn nói về hy sinh, khổ chế. Cho nên người ta muốn đi tìm những gì là nhanh, lẹ, thoải mái, êm dịu, dễ giải, thịnh vượng, hạnh phúc, tiến bộ. Và như thế những gì là rủi ro, bệnh tật, thất bại, tuyệt vọng, chán chường thì phải tránh bằng mọi giá.
Tuy vậy, nói như thế không có nghĩa là phía trước chúng ta chỉ toàn những đớn đau, vết thương, khó nhọc mà chúng ta phải chấp nhận một cách vô điều kiện. C. S Lewis viết: “Kitô giáo không lấy đi sự khó khăn của đời sống, nó chỉ đem lại một lý do để chịu đựng khó khăn ấy”. Thập giá có cho người khác thì cũng có cho chính bạn. Thiên Chúa không ưu tiên cho bạn hơn người khác. Thế nhưng, nếu bạn không dành cho thập giá một tình yêu thì thập giá thật sự nặng nề. Khi bạn cho rằng đó là cơ hội để bạn chịu đau khổ và nên giống Chúa Kitô thì thập giá là niềm hạnh phúc. Chấp nhận đau khổ theo Đức Giêsu còn là một điều phúc (x. Mt 5,5). Chấp nhận đau khổ, nhất là với một tinh thần tự ý còn là một thình thức sám hối hữu hiệu. Đau khổ mang giá trị thanh tẩy thật, giúp tâm hồn dễ dàng tiến triển trên con đường nhân đức. Đau khổ là cách thể tuyệt vời để luyện tâp tâm tính như Raymond Offner đã nói: “Đau khổ làm cho người ta trở nên khôn ngoan sáng suốt hơn”. Chúa chỉ thử thách những người chúa thương và muốn cho họ nên nghĩa thiết với Người trọn vẹn. Nên vấn đề ở đây không phải là tìm cách để loại trừ thập giá nhưng là tìm phương thế để vác lấy nó, mà vác cho có hiệu quả nữa.
Mỗi người sẽ có thập giá riêng, nặng nhẹ khác nhau. Niềm hy vọng nơi Tin Mừng Chúa phục sinh là nguyên cớ để chúng ta can đảm vác thập giá. Qua thập giá chúng ta hoàn tất cuộc đời mình và tìm được hạnh phúc vĩnh cửu, như lời khuyên của Padre Pio: “Sự từ bỏ chính mình không phải là món quà chúng ta dâng cho Chúa, nhưng là để Chúa làm nhiều hơn cho chúng ta”. Hay nói như Đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận: “Tránh đau khổ con đừng mong làm thánh”. Vì Đức Kitô, qua Đức Kitô và nhờ Đức Kitô mà chúng ta chịu trăm ngàn thử thách ở đời này.
Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua miền đất dân ngoại, đến địa hạt thành Cêsarê Philiphê, một thành TN 12-C66
Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua miền đất dân ngoại, đến địa hạt thành Cêsarê Philiphê, một thành phố được quận vương Philiphê chỉnh trang để tôn vinh Hoàng đế Cêsarê.
Trên chóp đỉnh của một khối đá đứng sừng sững, một ngôi đền nguy nga bằng cẩm thạch trắng thờ Hoàng Đế La Mã được coi là một kỳ công trong vùng.Một số nhà chú giải cho rằng, cảnh tượng vĩ đại đó đã gợi ý khi Chúa tuyên bố Giáo hội của Ngài sẽ được xây trên nền tảng Phêrô vững chắc như một bàn thạch. Tuy nhiên, ý tưởng ấy đã có từ khi Chúa quyết định đổi tên Simon thành Kêpha hay Phêrô, nghĩa là Đá trong cuộc gặp gỡ đầu tiên (Ga 1,42).
Theo thói quen trước khi quyết định những điều quan trọng, Chúa Giêsu vừa đến nơi liền đi vào một chỗ thanh vắng, một mình cầu nguyện với Chúa Cha. Các Tông đồ chờ Thầy ở ngoại ô thị trấn. Họ nghiệm rằng, mỗi khi Thầy xa họ và trở về là có diễn tiến mới.Thầy trò lại đi về phía những làng nhỏ. Dọc đường Ngài hỏi các ông: Người ta nói Thầy là ai? Các ông đáp lại: có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả. Một số nói là Êlia, một số khác cho là một trong các tiên tri thời xưa như Giêrêmia. Nhưng Chúa nhấn mạnh: Còn các con, các con nói Thầy là ai? Phêrô lên tiếng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Bài Tin Mừng cho thấy, có ba mức độ nhận biết về Chúa Giêsu.
Dân chúng nhận thấy Chúa Giêsu là một tiên tri như Gioan Tẩy Giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri là sứ giả của Thiên Chúa nên thường có quyền làm được vài phép lạ như chữa bệnh, cứu đói… Dân chúng đến với tiên tri chủ yếu để xin ơn này ơn khác. Họ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Ngài để xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại. Họ đến với Chúa Giêsu vì lợi ích, để cầu lợi cầu phúc. Cho nên họ không thể nhận ra Ngài là Đấng Kitô.
Các môn đệ nhận biết về Chúa Giêsu. Khi Chúa hỏi: “Các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18; Is 11. 61,1-2; 1V 19,16). Chúa Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.
Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Ngài siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất, Ngài là Đấng Thánh của Israel và nước Ngài tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11; 12).
Theo truyền thống tiền nhân, các môn đệ cũng quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế. Vì vậy, khi thấy Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin cho hai con trai: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Ngài ra và can ngăn Ngài đừng dại dột thế. Chúa Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 22-23).
Mức độ thứ ba chính là cao điểm của toàn thể Kinh Thánh và mầu nhiệm cứu độ nơi Thập Giá và Phục Sinh. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Đó là sứ mệnh chính yếu của Đức Kitô: tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-18; 15, 13).Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.
Suy niệm trang Tin Mừng này, Thánh Gioan Kim Khẩu viết: khi Chúa hỏi về dư luận quần chúng, mọi Tông đồ đều trả lời. Khi Chúa hỏi cảm nghĩ của các ông, Phêrô một mình lên tiếng trước các bạn. Không phải do xác thịt nhưng nhờ Chúa Cha mạc khải nên Phêrô nhận biết Thầy Giêsu là Đức Kitô ở tầm mức cao nhất. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người” có một Giêsu “Thiên Chúa ”. Phêrô nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của Chúa Giêsu có một thần tình cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Vì thế, Phêrô được Chúa khen tặng và tín nhiệm trao quyền tối thượng: “Phêrô, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Ba hình ảnh cụ thể mô tả quyền tối thượng của Phêrô trong Giáo Hội. Đó là, Phêrô được trao chìa khóa Nước Trời, Phêrô được quyền tháo gỡ, cầm buộc và cửa địa ngục sẽ không thắng được.
Tuyên tín Chúa Giêsu là ai tức là xác định đường mình đi. Phêrô đã tuyên tín trên đường hành trình với Chúa. “Các con nói Thầy là ai? ” Chúa không hỏi các môn đệ câu ấy trong lúc nghĩ ngơi mà lúc đi đường. Những ngày ở Giêrusalem, ở Galilê, ở Nazareth, người ta nói về Đức Giêsu, người ta xem Ngài làm phép lạ, họ gọi Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, là một tiên tri nào đó. Không ai biết Ngài là Đức Kitô. Để biết Ngài, phải sống và hành trình với Ngài và cùng đi với Ngài trên mọi nẻo lối trần thế.
Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Phêrô đã khám phá ra thần tính trong nhân tính của Chúa Giêsu. Phaolô trên đường Đamat, bị té ngựa do ánh sáng từ trời, đã hốt hoảng kêu lên: “Ngài là ai? ” và có lời đáp bất ngờ: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5), Phaolô khám phá ra nhân tính trong thần tính của Đấng đã gọi ngài.
Chúa Giêsu là tâm điểm đức tin của chúng ta, bởi lẽ “dưới bầu trời này, không có Danh nào khác”, ngoài Danh Giêsu “được ban cho loài người để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12). Nếu ai đó hỏi rằng điều gì làm nên một Kitô hữu, thì câu trả lời là: đó là người tin rằng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Niềm tin đó là đá nền, trên đó Hội Thánh được xây dựng (GLCG số 424). Tin vào Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Yêu mến Ngài như chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa (Đnl 6,4-5). Điều độc đáo và đặc biệt của niềm tin Kitô giáo là tin rằng Đức Giêsu, một con người được sinh ra dưới thời hoàng đế Cêsarê Augustô và chết trên thập giá dưới thời hoàng đế Tibêriô, người ấy chính là Thiên Chúa, là Con hằng hữu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đó là mầu nhiệm khôn dò của đức tin Kitô giáo “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,11).
Chỉ trong ánh sáng này chúng ta mới hiểu được tại sao tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là bước theo Ngài, và bước theo Chúa là đòi hỏi quan trọng hơn mọi cam kết khác trong đời. Làm sao một con người thuần túy mà có thể nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37)? Đòi hỏi ấy chỉ có thể đến từ Đấng là chính Thiên Chúa. Làm sao một con người mà có thể nói: “Tất cả những ai nhìn nhận Thầy trước mặt người đời thì Con Người cũng sẽ nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)? Điều đó lại chẳng có nghĩa rằng ơn cứu độ vĩnh cửu tùy thuộc vào thái độ của người ta đối với Chúa Giêsu sao?
Nếu chỉ nơi Chúa Giêsu mới có ơn cứu độ, nếu chỉ có Ngài mới là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” thì liệu có ai có thể được cứu độ mà không cần đến Chúa Giêsu? Nếu như thế, biết bao người chưa hề nghe đến Danh Chúa Giêsu, không có cơ hội để nhận biết và yêu mến Ngài thì sao ( GLCG số 846-847)? Chính Chúa Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này: đến giờ phán xét, Con Người sẽ tỏ cho thấy tất cả những hành động yêu thương chân chính dành cho tha nhân “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm…”, tất cả những hành động yêu thương ấy đều là cho chính Chúa: “Điều gì các ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, là làm cho chính Ta” (Mt 25; GLCG số 1038).
Sau lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã được biến đổi và trở nên khác với Simon ngày trước. Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Cả hai ngài đã trở nên cột trụ xây dựng Hội Thánh và cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi, đó là đức tin của Hội Thánh và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
“Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), bất cứ ai được tình yêu này chiếm hữu, bất cứ ai kinh nghiệm về sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và quyền năng phục sinh của Ngài, thì người ấy sẽ cảm thấy nỗi ước mong loan báo về Ngài, rao giảng Tin Mừng của Ngài, và dẫn mọi người đến niềm tin vào Chúa Giêsu (GLCG số 429).
Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi ấy, Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng, bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng.
Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi đã hơn hai ngàn năm cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay. Trả lời là sống niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô. Ngài là Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính yêu thao thức tìm kiếm gặp gỡ gắn bó. Ngài ở trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, Thánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Ngài hiện diện nơi anh chị chung quanh để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên đới trách nhiệm. Ngài hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.
Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô, yêu mến Ngài, bước theo Ngài. Và hơn nữa, “Anh em không còn là nô lệ nhưng là con” (Gal 4,7). Nhờ Chúa Giêsu, với Ngài và trong Ngài, chúng ta trở nên những “con cái của Thiên Chúa” (1Cor 6,18).
Tín đồ tôn giáo nào cũng hãnh diện và tôn sùng các vị thần mình của tôn giáo mình cả. Đay là điều TN 12-C67
Tín đồ tôn giáo nào cũng hãnh diện và tôn sùng các vị thần mình của tôn giáo mình cả. Đay là điều rất thường tình, đơn giản vì các vị thần mình ấy được tin nhận là có địa vị chí tôn, có uy quyền mạnh mẽ, có hào quang chói ngời...
Tuy nhiên, Đức Giêsu Kitô, Đấng sáng lập Kitô giáo thì đặc biệt hơn: Ngài cũng uy quyền, vinh quang và cao cả, nhưng Ngài còn mang vào mình thân phận yếu hèn của con người chúng ta; hơn nữa, Ngài còn chịu đau khổ với chúng ta và “vì chúng ta để cứu độ chúng ta”.
Do đó, một mặt, chúng ta được mời gọi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Thiên sai, Đấng Cứu Tinh vinh quang uy quyền. Mặt khác, chúng ta cũng được mời gọi tuyên rao Ngài là Tôi Tớ của Thiên Chúa Giavê, Vị Tôi Tớ đã phải kinh qua nhiều đau khổ và sự chết. Đau khổ vì bị người đời khinh khi, đau khổ vì bị chính những môn đệ thân tín phản bội và chối từ, đau khổ vì bị giới chức đạo đời Dothái loại trừ và cho đóng đinh vào thập tự giá.
Nếu ta chỉ tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế của một Thiên Chúa vinh quang quyền uy, nhưng lại không xưng tụng Ngài là Tôi Tớ của Thiên Chúa Giavê, Đấng đã chết nhục nhã trên cậy thập giá, thì quả là một thiếu sót.
Tuyên xưng một Đức Kitô là Đấng Cứu Thế uy quyền và tuyên rao một Đức Kitô chịu đau khổ, chịu chết trên cây Thập giá, chúng ta cũng được mời gọi tuyên nhận những đau khổ, thử thách như là những thập giá của phận người: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo.” Đón nhận những đau khổ, những nghịch cảnh trong đời để được liên kết với mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô và được nên giống như Ngài.
Hôm qua, một người quen ở Sài Gòn gọi điện nói: “Cha ơi, xin cha cầu nguyện cho con và gia đình con với. Con và gia đình con đang gặp chuyện đau khổ quá”…
Cách đây một tháng, người em rể của chị đi làm bị mất xe, sau đó mấy ngày lại bị tai nạn. Nay thì chuyện liên quan đến hai đứa cháu gái ruột. Cô chị mới 17 tuổi, học sinh lớp 11, có thai mà cả gia đình không ai biết. Cho đến khi sinh rớt trong nhà vệ sinh và được đưa đi bệnh viện cấp cứu thì gia đình bố mẹ, cô dì mới tá hoả. Chưa hết, ngay sau khi cô chị sinh thì phát hiện thêm cô em mới 15 tuổi cũng đang có thai 2 tháng. Đúng là đại hoạ. Hoạ vô đơn chí!
Chị ta vừa nói chuyện điện thoại vừa khóc: “Cha ơi, sao Chúa thử thách con nhiều thế, sao Chúa gửi thánh giá đến cho con và gia đình con nhiều thế? Con và gia đình con đã làm gì nên tội.”
Được biết, chị là một người rất tốt lành, rất đạo đức, đã có thâm niên phục vụ nhà bếp cho một giáo xứ lớn.
Tôi an ủi chị rằng có khi Chúa thương ai thì Chúa gửi thánh giá, đau khổ tới. Cuộc đời của nhiều vị thánh minh chứng cho điều này. Hầu như không có vị thánh nào mà không phải trải qua nhiều đau khổ. Mà các thánh là những người được Chúa yêu thương nhiều. Chị được Chúa thương nhiều lắm đấy.
Chị bảo:
- Chúa thương gì kỳ quá vậy cha.
- Đúng là có khi Chúa thương theo kiểu hơi kỳ cục, cũng giống như cha mẹ thương con, có khi cho roi cho vọt. Có điều thường khi gởi đau khổ, gửi thánh giá tới, thì liền sau đó Chúa sẽ gửi những viên thuốc bổ tới. Chúa sẽ gửi đến những viên thuốc bổ cho chị để tăng thêm sức cho chị, hầu chị đủ sức vác lấy những thánh giá ấy. Chị hãy chờ xem và nhận ra những viên thuốc bổ ngọt ngào mà Chúa sẽ gửi đến.
Thập giá khổ đau luôn gắn liền với thân phận của con người. Chúa Giêsu dẫu là Thiên Chúa vinh quang, quy quyền, nhưng một khi chấp nhận làm người, Ngài cũng chấp nhận mang lấy những hệ luỵ của kiếp người, tức là đau khổ và sự chết. Có điều Ngài đã hoá giải đau khổ và thập giá bằng chính Mầu nhiệm Phục sinh của mình, mầu nhiệm đem lại ơn cứu độ trào tràn.
Những đau khổ, những thử thách trong đời có giá trị giúp thanh luyện chúng ta, giống như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy. Và trong ý nghĩa đó, thử thách đau khổ sẽ trở thành những hạt mầm chất chứa nguồn ơn cứu độ khi chúng ta biết liên kết với những đau khổ của Đức Kitô.
Xin cho mỗi người chúng ta một khi tuyên rao về Đức Kitô và Mầu nhiệm Thập Giá của Ngài, chúng cũng biết sẵn sàng đón nhận những nghịch cảnh, những đau thương trong đời, không phải với thái độ bi quan, chán chường, nhưng với thái độ hân hoan vì được nên giống Chúa Kitô hơn và được hiệp thông phần mình trong mầu nhiệm cứu độ của Ngài. Amen.
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin TN 12-C68
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống tận đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Thế nhưng, dù chàng phải hì hụp suốt ngày ngoi lên lặn xuống để tìm kiếm, viên ngọc vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác chỗ ngọc rơi xuống nước để tìm cho nhanh.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai, ném nó xuống sông và nói: “Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm.”
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học vỡ lòng mà vị linh sư dạy là nếu anh muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự của mình. (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)
Qua trích đoạn Tin Mừng thánh Lu-ca được đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời khuyên tương tự. Người nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình.” (Luca 9, 23)
Chúa Giêsu không chỉ kêu mời ta từ bỏ những gì mình có, nhưng là từ bỏ chính bản thân ta, vì nếu chỉ từ bỏ mọi thứ ta có mà không từ bỏ “thằng-tôi” tham lam của mình, thì chính “thằng-tôi” nầy sẽ lấy lại tất cả những gì nó đã vứt bỏ đi.
Tại sao cần phải từ bỏ chính mình?
“Thằng-tôi / cái-tôi” kiêu hãnh và nhiều tham vọng nơi mỗi người là nguồn gốc gây ra đủ mọi thứ tội. “Bảy mối tội đầu” (bảy tội gốc làm phát sinh những tội lỗi khác) luôn hiện diện trong bản thân chúng ta và xô đẩy chúng ta xuống vũng lầy tội lỗi. Kiểm điểm lại, chúng ta thấy trong bản thân mình thường có những “thằng-tôi / cái-tôi” nổi cộm sau đây:
1. “Tôi-kiêu-ngạo”
Tên nầy đứng đầu trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy vênh vang tự đắc, tự đặt mình cao cả hơn người khác và không muốn cho người khác hơn mình nên đâm ra ghen tị, oán ghét những ai nổi trội hơn.
2. “Tôi-tham-lam-ích-kỷ”
Tên nầy chỉ biết nghĩ đến mình và tỏ ra vô cảm, thờ ơ trước những nỗi đau thương khốn khổ của người khác. Tên nầy chỉ biết thu vén lợi lộc cho mình mà không màng gì đến quyền lợi của tha nhân.
3. “Tôi-tà-dâm” đứng hàng thứ ba trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy là nguyên nhân của biết bao vụ ngoại tình, loạn luân, phá thai, mua bán dâm và rất nhiều tệ nạn khác.
4. “Tôi-lạc-thú” đứng hàng thứ năm trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy xui khiến người ta mê đắm ma túy, rượu bia, mê say bài bạc… làm suy đồi phẩm chất, làm tan cửa nát nhà, phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm hỏng cuộc đời của mình và của những người liên hệ.
Những “thằng tôi” hư hèn đó đang ngự trị trong lòng ta, đang chỉ huy, lèo lái bản thân ta - như người ta điều khiển con rối - và xô đẩy bao người vào thảm họa.
Làm sao thoát khỏi sự chế ngự, xô đẩy, lôi kéo của chúng?
Chúa Giêsu đưa ra một giải pháp, gói gọn trong cụm từ: “Hãy từ bỏ chính mình.” Người lên tiếng kêu gọi mọi người: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ chính mình” (Luca 9,23)
Khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giêsu muốn chúng ta kiên quyết triệt hạ những “thằng tôi / cái-tôi” mắc dịch nầy, không để chúng điều khiển, lèo lái, chỉ huy cuộc đời ta nữa.
Chúa Giêsu từ bỏ chính mình
Trước khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giêsu đã từ bỏ mình trước.
Người là Thiên Chúa cao sang quyền phép, nhưng đã huỷ mình đi để trở thành một trẻ sơ sinh yếu đuối nằm trong chuồng bò.
Nguời là Chúa Tể trời đất, nhưng đã tự hủy và trở nên nghèo thiếu không ai bằng. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 19,58)
Người là Thiên Chúa hùng mạnh nhưng đã hạ mình, trở thành tên tội nhân để cho người ta đánh đập, xỉ nhục và đóng đinh vào thập giá.
Người là Thiên Chúa quyền năng đồng hàng với Chúa Cha, nhưng Người đã xoá mình đi để trở thành Người tôi tớ hằng vâng phục Chúa Cha.
Thánh Phao-lô tóm tắt đời Người như sau:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2, 6-8)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hủy mình ra không nên đã chiến thắng thế gian và cứu rỗi được muôn người. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, kiên quyết từ bỏ chính mình để thực sự làm chủ bản thân và xứng đáng là người môn đệ chính danh của Chúa.
Trong cuộc đời công khai rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu được khen cũng nhiều và bị chê cũng TN 12-C69
Trong cuộc đời công khai rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu được khen cũng nhiều và bị chê cũng không ít. Ông này quả là một Tiên tri, một ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện, người ta ca khen Ngài. Nhưng cũng lắm kẻ, ông này là con bác thợ Giuse, Nazareth có cái gì hay đâu. Thôi thì “ miệng lưỡi thế gian mà”, hơi đâu cho mệt. Đức Giêsu biết tất cả, nhưng điều quan trọng không phải là cái gọi “ người ta” mà phần “chúng con”, Thầy là ai? Đức tin và niềm xác tín của những môn đệ mới là điều quan trọng, và cái mà Đức Giêsu lưu tâm, để ý đến.
Họ hay thế gian không nhìn nhận ở Chúa Giêsu là Ngôi Lời Hằng Hữu luôn tồn tại và nội tại trong chính Thiên Chúa Cha, bởi quyền năng Chúa Thánh thần. Dưới con mắt của những nhà thông thái, triết gia, thần học và chính trị, thì Đức Giêsu chỉ là một con người như mọi người, hoặc cùng lắm là một Ê-li-a hay Gioan Tẩy Giả mà thôi. Câu trả lời trắc nhiệm mà Phê-rô đưa ra như là một phần cơ bản của Kinh tin kính: “ Thầy là Đấng Kitô con Thiên Chúa”, vâng một lập trường dứt khoát và đầy cảm hứng của Chúa Thánh Thần. Không phải là một lời bột phát, nông nổi mà là một hành trình trong cảm nghiệm, bởi ý chí và lòng yêu mến. Có lẻ, phải bật nẩy môi trong cảm động và liều lĩnh, mà Phê-rô mới dám mạnh dạn tuyên xưng niềm tin, của một Tông đồ đứng đầu danh sách các người mà Chúa Giêsu tuyển lựa.
Tuyên xưng không chỉ ngoài môi miệng mà còn bằng chính đời sống của mình. Không ai có thể phàn nàn về lời bộc lộ của Phê-rô, bởi chưng thánh nhân đã kiên trung, một lòng theo Chúa Giêsu trên con đường Khổ giá, và hy sinh đến giọt máu cuối cùng cho lời mà mình đã thốt ra. Kỷ niệm 25 năm ngày Đức cố Giáo hoàng Gioan Pho-lô II tôn phong các Thánh tử đạo Việt nam, cũng nói lên rằng: Các Ngài đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và là Đấng cứu độ trần gian. Niềm tin của các Thánh Tử Đạo đã viết nên dòng lịch sử tràn đầy ân sủng, Thập giá và vinh quang triều thiên mà hôm nay, hậu thế vẫn mãi dõi theo.
Đức Giêsu không hứa ban một hạnh phúc nào ngoài chính Thập tự Giá của mình. Người môn đệ tin và đón nhận trong sự vâng phục, và tín thác hoàn toàn. Nếu câu hỏi được mở ra từ đoạn đầu Tin mừng, như là một phần của lý thuyết, thì càng dần về sau, bài học thực hành được hé lộ một cách hết sức rõ ràng: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác Thập Giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23).
Không trả lời được, hay trả lời sai, thì bạn là người dại dột và vô duyên. Vì không biết người mình: TN 12-C70
Không trả lời được, hay trả lời sai, thì bạn là người dại dột và vô duyên. Vì không biết người mình đi theo là ai, và là thế nào? Biết Chúa Giêsu là ai, đó là cốt lõi của tất cả mọi tín hữu. Vậy Chúa Giêsu là ai?
1. Là một tiên tri
Tiên tri là người được Thiên Chúa chọn, và sai đi, để truyền đạt ý muốn của Chúa. Trong Cựu Ước, có cả thảy 24 vị. Mười hai vị lớn và mười hai vị nhỏ. Lớn, nhỏ, là do cái trọng trách được giao nặng hay nhẹ, lâu hay mau. Vị tiên tri cuối cùng, mang trách nhiệm to lớn, nhưng thời gian rất vắn: Đó là ông Gioan tẩy giả. Nhìn ở góc độ sứ vụ, thì Chúa Giêsu là một tiên tri. Tuy sứ vụ của Chúa đem đến, là một sứ vụ mang tính cách tổng hợp và vĩnh cửu. Nó không chỉ là từng phần như các tiên tri khác, mà là toàn bộ những chân lý mà Thiên Chúa muốn mạc khải cho con người. Nhưng nhìn ở góc độ cơ bản, thì Chúa Giêsu không phải là một tiên tri, vì Ngài không phải là người thường như mọi người. Cũng không phải là một người thánh thiện để được Thiên Chúa chọn, cũng không phải là một siêu nhân, được Thiên Chúa sai đi, mà Ngài là Chính Thiên Chúa làm người.
2. Là Đấng Cứu Thế
Đây là một chân lý hết sức quan trọng và cao cả. Vì Ngài là Thiên Chúa, xuống trần gian trong thân phận của một con người. Sống như một con người, và múc trọn cái giới hạn, của một kiếp người. Vậy Ngài xuống thế để làm gì? * Thưa, để sống mẫu cho con người.
Trong con người, lúc nào cũng có sự giao tranh giữa tốt và xấu, sáng và tối, thân xác và linh hồn. Chính vì vậy, con người nhiều lúc đã rất phân vân, không biết phải sống thế nào mới là đúng, mới là đầy đủ trọn vẹn chữ NGƯỜI. Cho nên, Chúa đến sống mẫu. Phải có thái độ nào, tình yêu nào đối với Đấng dựng nên mình là Thiên Chúa. Phải có cư xử nào, đối với cha mẹ, hay những người nuôi nấng dạy dỗ mình. Phải có thái độ nào đối với chính quyền. Thái độ nào đối với những người đói khổ, tật nguyền. Phải có thái độ nào đối với những người tội lỗi, đối với những người ác độc, kẻ thù của mình.
* Thưa, là để mở đường cứu vớt con người.
Con người luôn bị cột trói và bị bắt làm nô lệ bởi những đam mê và tội lỗi. Tự mình không thể tự tháo gỡ để có được tự do. Cho nên, bằng một con đường mà Chúa Cha muốn, Ngài đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau, một cách tự nguyện dâng hiến, để lập nên một công phúc vô cùng; làm thành một lễ vật vô giá, để xin Thiên Chúa Cha, tha thứ hết tội đời cho con người. Và bất cứ ai, nếu muốn được bình an và hạnh phúc đời này lẫn đời sau, thì chỉ việc đến với Ngài, và bước theo lối đi mà Ngài đã bước trước.
Câu hỏi:
1- Có bao giờ bạn nghĩ, chỉ vì phần rỗi của bạn, mà Chúa phải xuống thế không? 2- Gạt Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời, bạn sẽ đặt niềm Tin vào ai, để được tự do và hạnh phúc?
Có một họa sĩ khá nổi tiếng muốn họa lại chân dung của Chúa Giêsu, đấng mà ông ngưỡng mộ. TN 12-C71
Có một họa sĩ khá nổi tiếng muốn họa lại chân dung của Chúa Giêsu, đấng mà ông ngưỡng mộ. Tuy nhiên, ông không biết phải làm cách nào để hiển thị những nét đẹp mà ông đã trải nghiệm. Ông lang thang khắp đó đây để tìm kiếm những hình mẫu. Thoạt đầu, ông gặp một đứa bé đang tươi cười với dáng vẻ trong sáng ngây thơ. Ông đưa nét đơn sơ ấy vào bức tranh. Gặp một vị ẩn sĩ đang đăm chiêu cầu nguyện, ông cũng đưa nét thanh thoát vào trong gương mặt của Chúa. Thoáng thấy một bà mẹ trẻ đang âu yếm đứa con, ông cũng họa lại nét dịu dàng nơi bức vẽ. Nói chung, bất cứ vẻ đẹp nào trong cuộc sống mà ông nhìn thấy, ông đều cố gắng lột tả nơi bức tranh, để phác lại chân dung thánh thiện tuyệt hảo của Đức Giêsu. Hoàn thành xong tác phẩm, ông vẫn cảm thấy như còn thiếu một điều gì. Cuối cùng, khi đi lang thang ngoài bìa rừng, ông gặp một bóng ma trông rất khiếp sợ. Đúng hơn, đây không phải là bóng ma, nhưng là một con người bằng xương bằng thịt, một con người cùng khổ đang bị xã hội ruồng bỏ. Người đàn ông này bị cùi. Ông ta phải lấy khăn che mặt và lầm lũi lê bước giống hệt một bóng ma. Chàng họa sĩ chợt nghĩ, đây chính là nét độc đáo nơi con người của Đức Giêsu, bởi vì Ngài vẫn luôn mãi là một mầu nhiệm ẩn dấu mà con người không thể hiểu thấu cách tường tận. Chàng nghệ sĩ trở về nhà và vẽ phủ lên khuôn mặt Đức Giêsu một tấm khăn mỏng, giống tấm khăn che mặt của người cùi mà ông đã gặp. Gương mặt của Chúa Giêsu trông mờ mờ, lúc ẩn lúc hiện, để nói cho chúng ta biết rằng, Ngài vẫn luôn là một mầu nhiệm bí ẩn đối với đầu óc suy lý của con người chúng ta.
Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?
Ngày xưa Chúa đã hỏi các tông đồ như thế. Câu hỏi này cũng được lặp lại cho chúng ta ngày hôm nay. Sau một thời gian chúng ta đi theo Chúa, Đức Giêsu cũng muốn hỏi lại một lần nữa để mời gọi chúng ta thẩm định lại cảm thức đức tin nơi mỗi người. Nếu chỉ đứng trên góc độ thuần lý theo sự suy tính nhân loại, có lẽ chúng ta là những con người xuẩn ngốc và khờ dại nhất. Chúng ta tin vào một con người cũng rất bình thường, một con người chưa từng bước chân vào giảng đường đại học, chẳng có một mảnh bằng để vắt vai, và cũng là một con người mà chúng ta chưa từng bao giờ gặp gỡ. Tệ hại hơn, con người chúng ta tin lại khác xa chúng ta về mầu da, về ngôn ngữ, về văn hóa, và chẳng có gì đặc sắc để chúng ta xem như thần tượng. Đã có một thời, một số cán bộ mỉa mai và nói với những người Công giáo rằng, đạo Công giáo của các anh chỉ là một thứ đạo lai căng, do thực dân hay đế quốc du nhập vào, không có ăn nhập gì với văn hóa Việt Nam cả. Ngày nay, nếu có ai lý luận như thế chúng ta sẽ phản kháng ngay tức khắc. Nhưng điều quan trọng hơn cả, là chúng ta phải tự hỏi mình xem, tôi đã lãnh nhận đức tin và đâu là động cơ để tôi đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Đồng thời, chúng ta cũng phải lục soát lương tâm để xem mình đã diễn bày niềm tin ấy cụ thể như thế nào. Câu hỏi của Chúa đối với các học trò năm xưa cũng được lập lại cho chúng ta ngày hôm nay: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Chúng ta vẫn xác quyết rằng Đức Giêsu, đối tượng đức tin của chúng ta không phải chỉ là một nhân vật lịch sử, hay là một siêu nhân nào đó có những đặc nét khiến chúng ta nể phục. Không phải thế. Đấng chúng ta tin là một Thiên Chúa đã đi sâu vào phận người, chung chia kiếp sống khổ đau với chúng ta, đã chấp nhận cái chết kinh hoàng trên Thập giá để khai mở cho chúng ta chân trời cứu độ. Chỉ đi sâu vào niềm tin này, chúng ta mới có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi coi tất cả mọi sự là thua thiệt so với mối lợi là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Vì người, tôi đành mất hết, tôi coi tất cả như rơm rác để chiếm được Đức Kitô và được kết hợp với Người (Phil 3,8-9).
Thể hiện đức tin cách cụ thể.
Vào năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thực hiện chuyến công du tại nước Pháp, một đất nước vẫn được mệnh danh là trưởng nữ của Giáo hội, và cũng là nơi mà đạo Công giáo có một lịch sử phát triển rất hùng mạnh. Điều lạ lùng, là trong lần thăm viếng đó, rất nhiều cuộc biểu tình đã xảy ra để chống lại Giáo hội, chống lại Đức Thánh Cha. Các nhóm xuống đường với nhiều khuynh hướng khác nhau. Có nhóm thì cấp tiến, có nhóm bảo thủ. Có nhóm chủ trương đòi Giáo hội phải cho phép ngừa thai, thậm chí cho phá thai. Có nhóm đòi quyền kết hôn đồng tính hay chủ trương sống phóng khoáng trong đời sống tình dục, không theo bất kỳ một luật lệ hay quy chuẩn luân lý nào. Đau lòng hơn cả là có khá nhiều bạn trẻ Công giáo đã đồng loạt ký tên vào một bản tuyên bố, công khai rút tên khỏi Giáo hội. Khi đến thăm Việt Nam vào năm 1989, Đức Hồng y Etchegarey cũng nói rằng, Giáo hội Việt Nam hiện nay giống Giáo hội Pháp 30 năm về trước, tức là giáo dân hiện vẫn còn sốt sắng giữ đạo và thực hành đức tin, nhưng sẽ đến lúc Giáo hội Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng giống Giáo hội Pháp bây giờ. Điều đó đang và sẽ còn tiếp tục xảy ra. Nhiều bạn trẻ đang lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ, làm mọi cách kiếm thật nhiều tiền, ăn chơi sa đọa và dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Người tín hữu Việt Nam hiện nay cho dù vẫn đến nhà thờ khá đông vào các ngày Chúa nhật, nhưng nền tảng đức tin vẫn chưa thực sự sâu xa như Đức Hồng y Etchegarey đã từng nhận xét: “Đa phần tín hữu Việt Nam vẫn chưa biết cầu nguyện”.
Kết luận
Trong bộ sách ‘Tự thuật’ (Confessio), Thánh Augustinô có viết một giai thoại với hai nhân vật: Ngài và người trộm lành. Ngài hỏi vị thánh ăn trộm: “Này anh bạn, anh chưa được rửa tội, chưa từng học giáo lý, chưa biết tí gì về Đức Giêsu, chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ, thế thì tại sao anh lại nhận ra ông Giêsu, người cũng bị xử tử trên Thập giá giống như anh, là Đấng Cứu thế và tin vào Ngài?” Người trộm lành trả lời: “Ông nói đúng. Tôi chưa hề biết Đức Giêsu là ai. Tôi cũng chưa phải là người Công giáo và chưa được rửa tội. Nhưng trong những giờ phút bi thương cuối cùng trước khi chết, tôi đã nhìn vào đôi mắt của Ngài. Từ ánh mắt hiền dịu ấy, tôi khám phá ra cả một bầu trời mênh mông của tình yêu vô tận. Cặp mắt Đức Giêsu đã chọc thủng bức màn tăm tối nơi tâm hồn tôi và tôi đã tin vào Ngài. Cuộc hành trình đức tin của tôi được khởi đầu bằng chính ánh mắt yêu thương của Chúa Giêsu”. Đây quả là một tên trộm kiệt xuất, bởi vì trước khi chết anh ta còn ăn trộm được cả nước Thiên đàng nữa.
‘Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?’. Chúng ta hãy học hỏi động thái đức tin của ông Thánh ăn trộm trên đây. Chúng ta cũng có thể bắt chước ông Dunan, người sáng lập hội Hồng Thập tự quốc tế, đã cho khắc trên ngôi mộ của mình hàng chữ: “Hoặc tôi là môn đệ của Chúa Giêsu, hoặc tôi không là gì cả”.
Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng: những người biết từ bỏ sẽ làm nên những cuộc đời đẹp cho TN 12-C72
Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng: những người biết từ bỏ sẽ làm nên những cuộc đời đẹp cho trần gian. Từ bỏ ở đây có thể là một cuộc sống giầu sang, với chức tước và địa vị cao, nhưng họ đã từ bỏ để sống cho người nghèo và như người nghèo. Từ bỏ ở đây cũng có thể là một quá khứ lầm lỗi, nhưng họ đã từ bỏ để sống cao đẹp hơn. Vâng, một cuộc từ bỏ bao giờ cũng đẹp. Trong hoàn cảnh nào cũng đẹp. Từ bỏ sẽ làm cho đời người có ý nghĩa với bản thân và với tha nhân.
Một tháng nay, thực khách đến với quán cơm từ thiện Nụ Cười ở quận 3 (TPHCM) hết sức bất ngờ và thú vị khi được một “ông Tây” phục vụ cơm cho mình.
Nhân viên bồi bàn đặc biệt đó là ông John Kelly, từng làm Giám đốc bưu điện ở thành phố Palo Alto, thủ phủ của thung lũng Silicon (Mỹ). Sau khi nghỉ hưu, ông John quyết định làm tình nguyện viên toàn thời gian tại quán cơm Nụ Cười.
Ông John Kelly chia sẻ: “Thông qua lời giới thiệu của một người bạn, tôi đến quán Nụ Cười tặng một ít tiền và trở thành tình nguyện viên ở đây. Công việc rất bận rộn nhưng tôi yêu bầu không khí ở nơi này”.
Hình ảnh ông John Kelly thật đẹp khi ân cần phục vụ trong quán cơm như người hầu bàn. Ông lau dọn. Ông chạy bàn khi khách yêu cầu. Ông luôn dễ mến đáng yêu đối với mọi người. Ông đã từ bỏ một đời sống nhung lụa, giầu sang, tiện nghi để sống cho người nghèo và vì người nghèo. Hình ảnh ông toát lên vẻ thanh thoát của con người biết từ bỏ chính mình để sống cho tha nhân.
Cuộc đời của người ky-tô cũng chỉ đẹp khi biết từ bỏ. Từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa. Từ bỏ tội lỗi để sống theo lề luật của Chúa. Từ bỏ bản thân để sống vì lợi ích tha nhân. Nhất là từ bỏ chính mình để Chúa được lớn lên trong ta. Từ bỏ không chỉ là một lời mời gọi mà còn là một mệnh lệnh cho những ai tin theo Chúa. Tin Chúa phải theo Chúa. Có đi theo là có bỏ lại đằng sau. Bỏ lại những gì không cần thiết trong đời sống. Bỏ lại những gì làm cản bước chân ta. Bỏ lại tất cả những ràng buộc trần gian để con người sống gắn bó với Chúa hơn, sống cho Chúa để vì Chúa mà phục vụ anh em.
Giáo hội đã từng có những con người làm đẹp cho vườn hoa giáo hội qua đời sống từ bỏ như: Một Phan-xi-cô khó khăn đã từ bỏ nhung lụa để sống nghèo và cho người nghèo. Một Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã từ bỏ danh vọng để sống cho Tin mừng. Một Augustino đã từ bỏ những lối đường lầm lạc để sống yêu mến Chúa trọn đời. Các ngài dám từ bỏ là vì niềm tin vào Đức Ky-tô. Các ngài đã khám phá ra Đức Ky-tô là kho tàng vô giá, là hạt ngọc quý báu để có thể đánh đổi tất cả mà chọn Đức Ky-tô là phần gia nghiệp đời mình. Không có Đức Ky-tô, các ngài vẫn chìm đắm trong danh lợi thú trần gian. Nhưng một khi đã gặp Đức Ky-tô, các ngài đã từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy từ bỏ để đi theo Chúa. Hãy từ bỏ những gì không xứng hợp với danh nghĩa ky-tô hữu. Hãy từ bỏ những gì làm cản trở bước tiến nhân đức của chúng ta. Hãy từ bỏ những gì làm nguy hại cho thân xác và linh hồn chúng ta. Hãy chọn Đức Ky-tô là gia nghiệp hơn là những vinh hoa phú quý mau qua. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa hơn là tìm kiếm những của cải mau hư nát. Đây là một cuộc từ bỏ không mất mát mà là một cuộc từ bỏ để chọn những điều thiện hảo hơn, chân thiện mỹ hơn. Đây là một cuộc từ bỏ để lấy lại chính mình. Nếu chúng ta còn bị ràng buộc bởi đam mê như từ bỏ tật xấu: uống rượu, cờ bạc... mà ta được thong dong và tự do hơn. Nếu chúng ta còn sống ích kỷ thì nhờ từ bỏ lối sống tầm thường này mà ta được nhìn nhận là cao thượng hơn, đáng kính trọng hơn trước mặt người đời.
Ước gì chúng ta luôn thể hiện niềm tin theo Chúa bằng việc từ bỏ để hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn. Amen.
Khi chúng ta cho ai cái gì, nếu là thứ quý giá thì tự nhiên chúng ta cũng cảm thấy tiếc xót. Nhưng TN 12-C73
Khi chúng ta cho ai cái gì, nếu là thứ quý giá thì tự nhiên chúng ta cũng cảm thấy tiếc xót. Nhưng nếu chúng ta cho một cái gì tầm thường, vô giá trị, cái mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ thì đúng là chúng ta cho, chúng ta thí chứ không phải là chúng ta tặng. Một món quà chỉ thực sự là quý giá khi nó biểu tượng cho lòng quý mến của chúng ta đối với người được tặng.
Người Việt Nam chúng ta thường nói: Của ít lòng nhiều, món quà chính là tấm lòng được cụ thể hoá, được diễn tả một cách công khai. Nhưng nếu chúng ta cho, chúng ta tặng để mong được cho lại, được tặng lại, hoặc là để được việc, thì đó là sự đổi chác, là sự mua chuộc, là sự hối lộ, chứ không phải là cái được cho không.
Từ đó ơn sủng của Chúa luôn phải đi đôi với sự dâng hiến, sự tặng không, hay nói theo ngôn ngữ của Kinh Thánh, khi Thiên Chúa ban ơn sủng, thì chính Ngài làm cho chúng ta trở nên dễ thương và dễ mến. Mà điều kiện tiên quyết để làm cho chúng ta trở nên dễ thương và dễ mến chính là gột rửa chúng ta khỏi những vết nhơ, nghĩa là tha thứ tội lỗi.
Ơn tha thứ do đó cũng chính là một ơn sủng. Và đã là ơn sủng thì cũng phải được ban cho. Mà cho đi là mất. Người Pháp gọi tha thứ là Par-doner. Donner là cho, Par là vượt trên, như vậy tha thứ còn hơn cả cho nữa. Và nếu cho là mất, thì tha thứ cũng là một cách mất, nghĩa là phải bỏ quên tự ái, bỏ quên sự bị xúc phạm. Nói tóm lại, tha thứ đòi hỏi phải hy sinh, phải quên mình.
Thực vậy, để có thể tha thứ, Đức Kitô đã phải quên mình đi, đã phải từ bỏ chính bản thân. Nói một cách mạnh mẽ hơn, Đức Kitô đã không lấy nước sông Giođan để thanh tẩy chúng ta, nhưng đã mở rộng trái tim của Ngài, lấy chính những giọt nước và máu cuối cùng từ trái tim bị đâm thâu qua để rửa sạch chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi.
Tuy nhiên, ơn cứu độ không phải chỉ hệ tại việc thanh tẩy, gột rửa và tha thứ, nhưng chủ yếu là làm cho chúng ta được sống chính sự sống của Ngài. Ngài đã chọn một cách thức triệt để nhất hầu chia sẻ sự sống của Ngài cho chúng ta, đó là hy sinh mạng sống của Ngài.
Để có thể sống, chúng ta cần phải ăn uống. Mà đã hễ ăn hễ uống thì phải có những vật hy sinh chẳng hạn như tôm cá, gà vịt, rau quả. Vì thế, Đức Kitô cũng đã muốn trở nên tấm bánh để được bẻ ra, nghĩa là hy sinh, là chết đi để chúng ta có thể ăn và nhờ đó mà được sống. Hơn thế nữa, Đức Kitô không chịu chết để trở thành như một biến cố, một vở kịch cho chúng ta xem. Trái lại mục đích của Ngài là đi trước để mở đường, để trở nên mẫu gương cho chúng ta noi theo và bắt chước.
Bởi thế, người môn đệ Đức Kitô không phải chỉ là kẻ tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa, mà còn phải là người bước theo Ngài. Người môn đệ mà không bước theo thầy thì không còn là người môn đệ đích thật. Nhưng bước theo Ngài mà vai không mang thập giá, lòng không sẵn sàng chịu khổ nhục và liều mất mạng sống, thì cũng chẳng phải là môn đệ chân chính.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: Tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu hôm nay chính là công bố, không phải chỉ bằng lời rao giảng, mà còn bằng một cuộc sống rập khuôn với cuộc sống của Đấng đã vì yêu thương nhân loại mà chấp nhận thập giá. Rao giảng Tin Mừng Đức Kitô là rao giảng về Đấng đã chịu đóng đinh, bằng cách chính mình cũng phải vác thập giá và cùng chịu đóng đinh với Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay Lc 9,18-24, sau khi Chúa Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?”, Chúa lại hỏi: TN 12-C74
Bài Tin Mừng hôm nay Lc 9,18-24, sau khi Chúa Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?”, Chúa lại hỏi: “Các con bảo Thầy là ai?”… Và Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa.”
Khi tuyên tín như thế, hẳn là ông Phêrô chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Đấng Messia, Đấng được Xức Dầu, gọi là Kitô. Vì thế Chúa đã giải thích thêm về “Đức Kitô của Thiên Chúa” rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Chúa Giêsu còn công khai nói với mọi người: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.
Như vậy, khi tuyên tín vào Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là phải mặc lấy Đức Kitô, sống như Ngài đã sống, suy nghĩ như ngài đã suy nghĩ, yêu như ngài đã yêu, và chấp nhận con đường khiêm hạ, từ bỏ, công chính, hiến thân, phục vụ, chết và sống lại, rồi cùng Ngài về trời. Nói cách khác là: phải nên đồng hình đồng dạng với Ngài, thì lời tuyên tín kia mới là lời tuyên tín giá trị.
Chúa cũng đã hỏi ông bà chúng ta câu này. Và cách nào đó, ông bà đã trả lời: “Chúa Giêsu là Đạo của chúng con”, “chúng con là kẻ có đạo”.
Chỗ tôi, trải qua 20 năm, 1975-1995, bà con nghèo khổ quá, bởi lúa bắp khoai chỉ được một vụ trong năm. Năm nào có mưa khá, thì còn có cái thu hoạch. Năm nào ít mưa là coi như công toi. Không có tiền để lo cho con cái, nhiều cha mẹ đành đi vay mượn, rồi chờ đến mùa lúa thì đong lúa cho người ta. Thế mới có chuyện “bán lúa non” mà “không có lúa già để trả!” Đành mắc nợ triền miên. Người mua lúa non, đong lúa già cũng phải kiếm cho mình phần lợi, nên không thiếu cảnh đong lúa mà người “bán lúa non” xót xa rơi lệ. Họ sàng sảy năm lần bảy lượt để chỉ lấy những hạt lúa chắc. Không một hạt lép nào có thể chen vào lẫm lúa họ. Người bán lúa non đành phải hốt đống lúa lép về mà sàng sảy lại để kiếm những hạt lúa đưng mà phơi, giã, nấu cháo cho con. Trong xóm tôi chỉ có một người mua lúa non tốt bụng. Đó là ông bà A. Ông luôn dặn bà: “Đừng mua quá rẻ của người ta. Người ta trả sao lấy vậy. Mình là người có đạo đó, nghe bà.”
Tôi vẫn nghĩ rằng câu nói “mình là người có đạo” của ông bà ta xưa, tuy rất đơn sơ mộc mạc, nhưng lại là một ý thức cơ bản, một đức tin sống động, một kim chỉ nam chính xác cho hành trình đức tin nơi dương thế.
Một ý thức cơ bản: “Mình là người có đạo”. Ngữ “người có đạo” lúc ấy dành cho người công giáo, cho các Kitô hữu, để phân biệt với từ “người lương” dành cho những người theo các đạo khác, và hiểu chữ lương là lương thiện. Tôi còn nhớ trong sách bổn ngày xưa có câu: “Có một đạo rất chính rất thật ấy là Đạo Thánh Đức Chúa Trời.” Và khi sử dụng từ “mình là người có đạo” cho một người và “mình con nhà có đạo” cho cả dòng họ, thì hiểu là: “Mình đã được rửa tội, là Kitô hữu, là người Công giao, thuộc dòng dõi của Chúa Giêsu Kitô, của Con Thiên Chúa và nhờ Chúa Giêsu Kitô, được ơn gọi là nghĩa tử của Thiên Chúa.” Ý thức ấy vốn là ý thức cơ bản nhất của một “người có đạo”. Và chính ý thức ấy đã hướng dẫn, chỉ đạo mọi tư tưởng lời nói việc làm của ông bà ta xưa.
Một Đức Tin sống động: Bởi vậy, đừng chê ông bà ta ít học giáo lý, cũng đừng xem vốn giáo lý của mình thời nay là khá, là nhiều, nhưng hãy xem cách “sống giáo lý” của ông bà thời ấy.
Từ ý thức “mình là người có đạo”, Mẹ tôi thường dặn dò: “Đi đâu, ở đâu, làm việc gì, cũng phải nhớ mình là người có đạo nghe con.” Sau này, chúng tôi mới hiểu là có ở đâu, làm gì, thì cũng phải giữ lề luật Chúa, giữ Lời Chúa cho nên, cũng phải “đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô”. Cha thì hay dùng lời Thánh Phaolô mà dặn: “Dầu khi ăn, dầu khi uống, dầu khi làm việc gì, cũng phải làm cho sáng danh Chúa.” Khi cha cho ý kiến về việc gì thì ý kiến cuối cùng vẫn là “nhưng phải xem coi có sáng danh Chúa không nghe con, không được sáng danh mình”.
“Mình là người có đạo” hẳn phải từ bỏ những tư tưởng, lời nói, việc làm không xứng với danh xưng quý giá ấy, hẳn phải từ bỏ “cái tôi” của mình để cho danh Chúa được cả sáng. Khi anh em chúng tôi nói, làm điều gì sai quấy, cha thường trách yêu: “Con quên mình là người có đạo sao?” Khi chị tôi chuẩn bị lập gia đình, Mẹ kể cho chị nghe câu chuyện Tobia và Sara: Tobia và Sara tâm sự: “Mình con nhà có đạo, không thể lấy nhau như lương dân.”
Kim chỉ nam chính xác: “Mình là người có đạo” như kim chỉ nam chính xác cho hành trình đức tin chúng ta. Bởi vì, khi đã tháp nhập vào Đức Giêsu Kitô là “Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, người có đạo có Con Đường để đi, con đường Thật bảo đảm một Sự Sống Thật thay cho những con đường gian trá chỉ đưa con người ta đến sự chết ngàn thu. Người có đạo là người đi Con Đường của Chúa Giêsu: con đường khiêm nhượng, từ bỏ, chấp nhận khổ đau, thập giá, con đường phục sinh và lên trời, và theo con đường ấy mà về trời. Đó là Sự Thật vĩnh cửu, thay cho sự thật về kiếp con người mong manh tàn lụi. Tôi vẫn mãi nghĩ rằng ngày ấy ông bà chúng ta chưa có văn minh, chưa có phương tiện, còn ít văn hoá, nhưng cái gọi là “Văn hoá Kitô giáo” thì có nhiều hơn chúng ta hôm nay. Bởi, ông bà đã chọn Chúa Giêsu Kitô và theo đúng con đường của Chúa Giêsu Kitô đã đi:
Người có đạo không chối đạo, nhưng xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ. Người có đạo không oán ghét, trả thù, nhưng yêu thương hết mọi người. Người có đạo không xảo trá điêu ngoa, lường gạt, nhưng thực thà chân chất.
Người có đạo không sống cách vô luân lý, không tham danh lợi dục nhưng sống đúng phẩm hạnh của người con Cha trên trời.
Người có đạo không ích kỷ, hẹp hòi, không thu quén cho mình nhưng rộng lượng, quảng đại mong phần lợi cho anh em.
Và người có đạo không tham nhũng, hối lộ, thanh trừng nhau kiểu quan to, trộm cắp giết người kiểu dân nhỏ, không lấy quyền mà hiếp đáp, ăn chơi, trác táng, cùng không hoang đàng, phung phí… nhưng là người sống đời công chính của Đức Giêsu.
Người có đạo không toa rập bán nước, nhưng yêu quê hương và bảo vệ tổ quốc.
… … …
Người có đạo không làm hoen ố hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng luôn là hoạ ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi xinh đẹp sáng láng thánh thiện.
Hôm nay, Chúa cũng đang hỏi chúng ta mọi lúc mọi nơi - “Các con bảo Thầy là ai?” - để chúng ta xác minh lại niềm tin của mình rằng “Thầy là Đức Giêsu Kitô, là Đạo của chúng con”, và Ngài cũng đang bảo chúng ta sống đức tin ấy cách sống động như ông bà ta xưa: “Mình là người có đạo”.
Xin cho ông bà yên tâm, xin cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam vui mừng vì dòng dõi “con nhà có đạo” Việt Nam thời nay đang bước theo Con Đường của Chúa Giêsu Kitô, noi gương đức tin sống động của ông bà, của các Thánh Tử Đạo.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhớ mình là “người có đạo” trong mọi lúc, mọi nơi, để vì yêu mến Đạo, vì yêu mến Chúa Giêsu, mà chúng con có thể từ bỏ tất cả những gì không làm đẹp lòng Chúa, không làm đẹp danh Chúa và sẵn sàng làm tất cả những gì có thể, cho vinh danh Chúa. Amen.
Phêrô đã tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, còn chúng ta, chúng ta có tin Ngài hay không: TN 12-C75
Phêrô đã tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, còn chúng ta, chúng ta có tin Ngài hay không? Hẳn chúng ta còn nhớ lời tiên báo của ông già Simêon: Con trẻ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp phạm. Và sự thật đã được minh chứng qua dòng thời gian.
Đúng thế, Đức Kitô đã chia nhân loại thành hai giới tuyến rõ rệt. Tin hay không tin, kiến thiết hay phá hoại như lời Ngài đã nói: Ai không cùng Ta kiến thiết đó là kẻ phá hoại. Đức Kitô không chấp nhận những thái độ lừng khừng và do dự, những thái độ đi nước đôi và bắt cá hai tay. Vì ngươi không nóng cũng không lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.
Tuy nhiên dầu tin hay không tin, tất cả mọi người đều biết rằng: Ngài không phải là một triết gia như những triết gia khác, lý thuyết của Ngài không phải là một lý thuyết suông, chẳng dính dáng gì đến đời sống con người và tín thư Ngài đã mang lại không thể để con người lãnh đạm được. Trái lại, nó gói ghém một vấn đề hệ trọng nhất của nhân loại, một vấn đề liên quan tới định mệnh của mỗi người chúng ta.
Những người đã đến với Đức Kitô, đã sống với Ngài và vì Ngài là những người cương quyết dành cho Ngài tất cả lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. họ đã trung thành cho đến chết, chết dưới nanh vuốt ác thú, chết dưới lưỡi gươm bạo chúa, hay ngã quỵ dưới làn đạn xé thịt. Còn những kẻ không nhận Ngài thì ghét Ngài và nhất quyết không đội trời chung với những ai tự xưng là môn đệ của Ngài.
Và như thế, những sự bách hại không làm cho người tín hữu ngạc nhiên, vì họ nhớ tới lời tiên báo của Thầy mình: Họ đã ghét Thầy thì họ cũng sẽ ghét các con. Họ ghét chúng ta vì chúng ta thuộc về Thầy. Đức Kitô của Đức Kitô luôn bị phản đối, bị bách hại, không phải chỉ bằng gươm giáo súng đạn, mà còn bằng những sự phỉ báng và bài xích. Chính Đức Kitô ngày xưa cũng đã bị vu oan, tố cáo là tên phản quốc, phá luật, phạm đến Thiên Chúa và bạn với bọn tội lỗi và thu thuế. Vấn đề Đức Kitô mãi mãi là một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho chúng ta phải băn khoăn suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh. Tin hay không tin.
Từ thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dường như nghe thấy một thứ tiếng gọi, tuy âm thầm nhưng mãnh liệt, đòi chúng ta phải trả lời dứt khoát, như là bước vào một cuộc mạo hiểm sống chết, bởi vì chính Chúa cũng đã nói: Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Và như thế vấn đề Đức Kitô là một vấn đề luôn quan trực tiếp đến mỗi tâm hồn, và chỉ được giải quyết bằng một cuộc trao đổi của mỗi người trong tin yêu và phó thác.
Đây là câu hỏi kiểm tra quan hệ giữa chúng ta với Chúa Giêsu. Một đàng, mầu nhiệm nhân tính của: TN 12-C76
Đây là câu hỏi kiểm tra quan hệ giữa chúng ta với Chúa Giêsu. Một đàng, mầu nhiệm nhân tính của Ngài lớn lao và làm hoang mang đến thế, đàng khác chúng ta tiến triển đến nỗi điều mà chúng ta trở nên trong tương quan với Ngài không ngừng phải được xác định lại. Những ngày này tôi đang nghiên cứu về một tác phẩm mới xuất bản về Kitô học và những tư tưởng mới làm giao động những tư tưởng cũ của tôi. Đột nhiên xuất hiện trước tôi khuôn mặt mà Chúa Giêsu phải có khi Ngài đã từng hỏi các môn đệ của Ngài: “Giờ đây, đối với con, Ta là ai?”
Luca xác định rằng Chúa Giêsu đi ra “cầu nguyện ở một nơi vắng”. Luôn luôn Ngài tự chuẩn bị như thế khi đến một giai đoạn mấu chốt trong cuộc đời của Ngài.
Trước khi bước vào những ngày khổ nạn, Ngài muốn kiểm chứng tình hình quan hệ giữa Ngài với các môn đệ. Nếu Ngài chỉ là một Luật sĩ, chính giáo huấn của Ngài là quan trọng nhất. Nhưng bởi vì tất cả những gì Ngài là, người ta chỉ có thể lắng nghe và theo Ngài nếu người ta tiến về chính con người của Ngài, về mầu nhiệm của Ngài. Câu “Theo các con, Thầy là ai?” Không phải là câu hỏi tò mò và tình cảm của một ông Thầy, đây là một sự kiểm chứng chủ yếu: nếu các con không cảm thấy Ta là ai, các con sẽ không đi vào được trong quan hệ tuyệt đối duy nhất nối kết các con với Ta.
Tuy nhiên thường gặp sai lầm này: chúng ta đọc Tin Mừng và cố gắng sống Tin Mừng mà không kiểm chứng đủ các ý tưởng của chúng ta về Chúa Giêsu. Phải có thể bắt đầu mỗi khi nghe hoặc đọc Tin Mừng –và hơn nữa là mỗi giai đoạn quan trọng của cuộc sống tín hữu- bằng cách tự đặt mình dưới câu hỏi: “Theo con, vào lúc này đây, Ta là ai?”.
Thế là chúng ta sẽ tiến bộ theo hai cách: trong việc nhận biết Chúa Giêsu và trong xác tín rằng chúng ta chỉ sống điều gì đó thực sự với Ngài (lắng nghe, yêu mến và đi theo Ngài) khi miệt mài tự đặt mình trước mầu nhiệm dưới đất và trên trời.
Mỗi lần chúng ta nắm vững một tước hiệu, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời, Thiên Chúa và Con Người, Đấng Giải Phóng và có thể là Ômêga của Teilhard de Chardin, chúng ta bị cám dỗ tin rằng chúng ta nắm vững mầu nhiệm. Nhưng không, quan hệ với Chúa Giêsu là một cuộc tìm kiếm vĩnh viễn có hai căn tính: “Giờ đây, ta là ai? Và giờ đây, đối với ta, Chúa Giêsu là ai?”
Đàng khác đây là chân lý của mọi quan hệ: quan hệ này là một sự điều chỉnh không ngừng từ hai phía bởi vì hai phía đều thay đổi. Đây là sự thường tình mà chúng ta rất thường hay quên trong việc thực hành các quan hệ thông thường với nhau, và hơn thế nữa với Chúa Kitô.
- Nhưng Chúa Kitô không thay đổi phải không?
- Có chứ, dưới hai khía cạnh. Trước tiên, Ngài luôn luôn được biết rõ hơn. Các nhà chú giải, các nhà thần học, các nhà thần bí và Dân Chúa được Thánh Linh tác động, không ngừng tìm hiểu mầu nhiệm của Ngài.
Đó là mầu nhiệm của một Đấng hằng sống! Kết quả của sự Nhập Thể và Sống Lại, điều mà Chúa Kitô sống với con người từ thời đại này tới thời đại khác, làm cho Ngài thành một Chúa Kitô đang thay đổi, một Chúa Kitô “hoàn toàn” hơn, trong khi chờ đợi ngày Ngài sẽ có được toàn bộ tầm vóc của Ngài. Thật sự chúng ta chỉ có thể lui tới với Ngài bằng cách để cho mình được tác động do câu hỏi luôn luôn thời sự này của Ngài: “Lúc này đây, theo con và theo thế giới trong đó con đang sống và đang ảnh hưởng tới con, Ta là ai?”.
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’ – Charles E. Miller)
Ngày thứ sáu Tuần Thánh, người ta lũ lượt kéo nhau đến nhà thờ; đây là một việc làm chính đáng. Họ: TN 12-C77
Ngày thứ sáu Tuần Thánh, người ta lũ lượt kéo nhau đến nhà thờ; đây là một việc làm chính đáng. Họ biết cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá quan trọng đối với đạo chúng ta đến mức nào. Rồi đến Chúa Nhật Phục Sinh, con số này tăng lên rất nhiều, chật cả nhà thờ; và đây là một việc làm chính đáng. Người ta nhận ra việc cử hành Chúa sống lại mang một ý nghĩa đặc biệt. Nhưng rồi những ai đi lễ thường xuyên ghi nhận số giáo dân dự lễ giảm dần sau ngày lễ Phục Sinh.
Những người đi lễ đều đặn thường dễ có xu hướng tự hỏi, “Thế trong những ngày còn lại trong năm số giáo dân kia ở đâu?”. Chúng ta phải trả quyền phán xét lại cho Thiên Chúa, đồng thời nên suy nghĩ theo bản năng nhận thức của mình rằng mọi Chúa Nhật đều quan trọng đối với chúng ta là những người Công Giáo, và Thánh lễ phải là một phần không thể tách rời của ngày Chúa Nhật để chúng ta có thể cử hành nghi thức cứu độ của mình. Thật vậy, Giáo Hội dạy rằng Chúa Nhật là ngày thánh thiêng nhất trong mọi ngày theo một truyền thống từ thời các Thánh Tông Đồ. Người Công Giáo không đi lễ Chúa Nhật cũng giống như các thành viên trong một ban nhạc mà không có đàn. Trong cả hai nố, không ai có thể đạt được mục đích của mình. Và mục đích của chúng ta trong ngày Chúa Nhật là cử hành các biến cố dẫn đến ơn cứu độ của chúng ta.
Các biến cố này –cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu– nối nhau diễn ra trong ba ngày, song ngày nay chúng kết hợp lại thành một thực tại duy nhất mà Giáo Hội gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua. Đây là toàn bộ mục đích của việc Con Thiên Chúa giáng trần. Từ thuở đời đời, Chúa Cha đã xác định là tội lỗi và cái chết sẽ không ngăn trở được việc thực thi kế hoạch của Ngài, và Chúa Con quả cứu chúng ta thoát khỏi tội lỗi và cái chết nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người.
Cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu là một phần ăn sâu vào suy nghĩ của Chúa Cha đến nỗi trong thời Cựu Ước, rất lâu trước khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, đã có những dấu cho thấy những gì sẽ xẩy đến. Là người phát ngôn của Thiên Chúa, Zacaria đã nói tiên tri về một nhân vật bí ẩn mà cư dân Giêrusalem sẽ khóc than như các bậc cha mẹ than khóc cái chết của đứa con một. Ông viết: “Chúng sẽ ngước nhìn lên… Đấng chúng đã đâm thâu”. Chúng ta biết Đấng ấy là Ai: là Con Một của Thiên Chúa, đã chịu chết trên cây thập tự, và cạnh sườn Người đã bị lưỡi đòng đâm thâu.
Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu trong Phúc Âm như đang trên một chuyến hành trình lên Giêrusalem. Người luôn hướng mặt về Thành Thánh, bởi lẽ ngay tại nơi đây, lời tiên báo mà chính Người đã ba lần thốt ra phải được ứng nghiệm: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều… bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”.
Chúng ta công nhận ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu qua lời tung hô Thánh Thể: “Chịu chết, Người tiêu diệt cái chết của chúng con, và sống lại, Người phục hồi sự sống cho chúng con”. Lúc một tên lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giêsu, “tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34). Truyền thống cổ xưa của Giáo Hội nhận ra nước ấy biểu trưng cho Bí Tích Rửa Tội và máu ấy biểu trưng cho Bí Tích Thánh Thể. Hôm nay, Thánh Phaolô nhắc nhở rằng lúc chịu phép Rửa, chúng ta “đều mặc lấy Đức Kitô”; thật vậy, ta lãnh nhận một chiếc áo trắng, nói lên mình đã được mặc lấy Đức Kitô, đã bắt đầu một cuộc sống mới –một cuộc sống mà Mầu Nhiệm Vượt Qua đã giành lại cho chúng ta và giờ đây được Mình Thánh Máu Thánh Chúa nuôi dưỡng.
Qua những lời tung hô khác lúc lên rước lễ, chúng ta thưa, “Khi ăn tấm bánh này và uống chén máu này, lạy Chúa Giêsu, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến trong vinh quang”. Mỗi Chúa Nhật, chúng ta cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua, một thực tại đã luôn chiếm vị thế hàng đầu trong tâm trí của Thiên Chúa từ trước muôn đời. Chúng ta đến dự lễ mọi ngày Chúa Nhật là để cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua.
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là Người – Chúa, Đấng thật sự làm người, muốn hoàn toàn: TN 12-C78
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là Người – Chúa, Đấng thật sự làm người, muốn hoàn toàn đi vào kinh nghiệm nhân loại chúng ta –ngoại trừ tội lỗi- một kinh nghiệm gồm cả tử vong. Ý nghĩ về sự chết đặt ra cho nhân tính Chúa khi Người nhận thức rằng sự thù nghịch của giới lãnh đạo và sự chống đối của dân chúng đưa Người đến chỗ chết. Đức Giêsu – Người chấp nhận rằng công cuộc cứu độ gồm cả giai đoạn chết. Tuy nhiên trong tâm hồn Đức Giêsu ý nghĩ về sự chết luôn luôn đi kèm theo ý nghĩ về sự sống lại. Chúa không nghĩ rằng sự chết huỷ diệt bản thể Người. Chúa đi đến cái chết, không phải vì tất nhiên phải chết, nhưng vì yêu thương và để đạt tới sự sống. Chúa tự do hiến mạng. Nhờ Chúa, chúng ta dễ dàng chấp nhận sự chết. Đối với chúng ta, sự chết tất nhiên phải đến, nhưng nhờ Đức Giêsu Kitô chúng ta có thể biến đổi việc tất nhiên ấy thành một hành vi yêu thương tự nguyện. Ở ngưỡng cửa sự chết của Người, Chúa đã nói: Lạy Cha, xin theo ý Cha! Chính chúng ta cũng có thể nói lên câu ấy. Quyền tự do tối thượng của Chúa len lỏi vào trong định mệnh cuối cùng của chúng ta, và giống Chúa, với Chúa, chúng ta có thể biến đổi sự vâng theo thánh ý Thiên Chúa thành một hành vi yêu thương. Phải chăng đó là phần nào ý nghĩa lời Chúa khuyến khích chúng ta hãy theo chân Người? Chúng ta suy niệm về một bí nhiệm, và một lời gọi.
1) Bí nhiệm là thế này. Sự thương khó và cái chết của Đức Giêsu là một điều đáng lý không bao giờ có được. Đức Giêsu, con người hoàn toàn, tuyệt đối vô tội, không bị chi phối bởi bất cứ quy luật tất nhiên nào, thế mà Chúa chịu đau khổ và chịu chết. Sau khi sống lại, Chúa sẽ nói: Các ngươi không hiểu rằng Đức Kitô phải chịu khổ nạn ư? Khi loan báo cuộc Thương Khó, Chúa nói: Con Người phải chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại. Có lẽ ở đây chúng ta đứng trước một vực thẳm, khoa tâm lý học nhân loại chưa thám hiểm tới. Chỉ có sự hy sinh mới thuyết phục được người ta, và cũng còn tuỳ trường hợp. Giêrusalem đã giết các ngôn sứ rồi sau mới tôn kính các ngài. Con người giết Thiên Chúa rồi sau mới nhìn nhận Người là nguồn sống… Chúng ta nghĩ rằng không thể nào như thế được. Đức Giêsu nói rằng vụ bội bạc ghê gớm ấy phải xảy ra. Một bí nhiệm không ai hiểu được.
2) Chúa mời gọi: Ai muốn đi theo Ta… Một phần nhân loại cố gắng theo Đức Giêsu. Xuyên qua rất nhiều vụ yếu đuối, thất bại. Giáo Hội dẫu sao gần một phần lớn nhân loại tiến bước theo chân Đức Giêsu. Về mặt cơ bản, Giáo Hội có một ước vọng giống ước vọng của Chúa, là cứu vớt con người. Còn gì cao quý hơn, đáng trọng hơn? Thế mà, đối với Giáo Hội cũng xảy ra một sự đáng lẽ không thể có được: Giáo Hội không được hiểu biết, bị bách hại, “bị đóng đinh vào thập giá”. Giả sử chúng ta hỏi Chúa, có lẽ Người trả lời: Chúng con không hiểu rằng tất nhiên phải như vậy ư? Đây cũng là một bí nhiệm. Nhưng (chữ nhưng ở đây quan trọng vô cùng) Đức Kitô đã sống lại, và Giáo Hội luôn luôn sống lại. Bí nhiệm là nguồn sống, thật vậy.
Bài Tin Mừng hôm naygồm hai phần liên hệ mật thiết với nhau. 1. Ông Phêrô tuyên xưng Đức: TN 12-C79
Bài Tin Mừng hôm naygồm hai phần liên hệ mật thiết với nhau.
1. Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa ( cc. 18 – 22 )
“Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người” ( Lc 9, 18a ). Vào những thời khắc quan trọng của việc thi hành sứ vụ, Đức Giêsu đều chìm vào cầu nguyện một mình với Thiên Chúa ( lc 3, 21; 5, 16; 6, 12; 9, 28 ). Và căn tính Mêsia của Người cũng chỉ có thể được hiểu đúng đắn nếu chúng ta xuất phát từ mối tương quan thân nghĩa của Người với Chúa Cha. Cũng chính trong mối tương quan con thảo thâm sâu này mà Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, sẽ đi vào cuộc thương khó và phục sinh của Người.
“Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai ?" Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại” ( cc. 18b – 19 ).
Đức Giêsu chủ động đặt vấn đề về căn tính của Người. Nguyên sự kiện này thôi đã là đòi hỏi rằng câu trả lời thực sự thích hợp sẽ cần phải vượt quá vẻ bề ngoài và hướng đến mầu nhiệm thâm sâu bên trong, hướng đến một cái gì đó mới mẻ liên quan đến con người và hành động của Người vượt quá tầm mức một ngôn sứ bình thường. Thật ra, câu hỏi của Đức Giêsu ở đây rất khó hiểu. Không ai hỏi một vị tôn sư hay một vị Ngôn Sứ rằng vị ấy là ai; điều người ta quan tâm là vị ấy dạy điều gì hoặc công bố điều gì. Chính vì thế, đối diện với vấn đề căn tính của Đức Giêsu, các câu trả lời của dân chúng mà các đồ đệ thuật lại, đã tỏ ra không xứng hợp. Những câu trả lời ấy không vượt quá được hình ảnh ngôn sứ, đóng khung Đức Giêsu vào những thực tại mà người ta đã từng thấy hay nghe biết, không có khả năng mở ngỏ cho những thực tại mới mẻ hoàn toàn mà Thiên Chúa muốn làm ra.
“Người lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?" Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” ( c. 20 ). Câu hỏi hướng trực tiếp về các đồ đệ, chất vấn lập trường của các ông. Nhưng chỉ một mình ông Phêrô trả lời. Ông là đại diện của các đồ đệ và của lòng tin Kitô giáo.
Tước hiệu quan trọng trong lời tuyên xưng của ông Phêrô: “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Tước hiệu này cần được minh định rõ hơn ở câu 22 ( Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy ) và sẽ được bổ túc bằng mạc khải của Thiên Chúa Cha trong biên cố hiển dung ở câu 35 ( Đây là Con Ta ).
“Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. Người còn nói: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” ( cc. 21 – 22 ).
Lời tuyên xưng của ông Phêrô về căn tính Mêsia của Đức Giêsu, phải được xác định rõ hơn. Chính mầu nhiệm khổ nạn – chết – phục sinh sẽ là con đường để Đức Giêsu được nhận biết là Mêsia. Người truyền lệnh nghiêm cấm các đồ đệ nói với người ngoài về căn tính Mêsia của Đức Giêsu, không phải chỉ vì những lý do chính trị, mà chính yếu là vì những lý do thần học. Chỉ sau khi Đức Giêsu đã chết và phục sinh, thực tại Mêsia mới có thể được hiểu đúng đắn. Tư cách Mêsia của Đức Giêsu phải được hiểu dựa trên chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu, chương trình sẽ chỉ được hoàn thành trong cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu.
2. Điều kiện để đi theo Đức Kitô ( cc. 23 – 24 )
Nếu lời báo thương khó ở câu 22 cho thấy “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” có nghĩa là gì, thì các câu 23 – 24 trong phần cuối của bài Tin Mừng lại có chức năng xác định vị thế mà người ta phải đứng vào đó để hiểu đúng và có thể thực sự tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.
Trước hết, “Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” ( c. 23 ). Đây là một đòi hỏi phổ quát và căn bản, được nói cho mọi người thuộc mọi thời ( thay vì cho đám đông và các môn đệ như trong Mc 8, 32 ). Động từ “nói” ở đây được chia ở thời vị hoàn ( thay vì thời aorist như trong Mc và Mt ) nhằm nhấn mạnh tính chất thường xuyên của giáo huấn được trình bày.
Khi nói “đi sau tôi”, Đức Giêsu không chỉ có ý nói là gia nhập vào trường của Ngài, trở thành đồ đệ của Ngài, mà còn là thực hành một cách cụ thể chính lối sống của Ngài. Trong Hội Thánh, lối nói “đi sau Đức Giêsu” đồng nghĩa với lối nói “là Kitô hữu”. Điều kiện thứ nhất để trở nên đồ đệ đích thực của Đức Giêsu là “từ bỏ chính mình”. Tác giả Tin Mừng không có ý nói đến một vài sự thực hành tu đức, mà là một thái độ căn bản của đời sống Kitô hữu không tìm sống tự tại nơi mình. Từ bỏ chính mình không có nghĩa là huỷ bỏ chính con người hay phẩm giá mình, mà là ý thức và đón nhận chính con người và cuộc sống của mình như là một ơn huệ và không tự tại nơi mình như thể mình là chủ tể của cuộc đời mình. Nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, thì đó là “tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).
Nhìn theo một khía cạnh khác, từ bỏ chính mình là “vác lấy khổ giá mình mỗi ngày”. Đó là chấp nhận đau khổ và vượt qua những khó khăn mỗi ngày mà trung thành với những đòi hỏi của Đức Chúa. Đó là quyết định bước đi trong một cuộc sống mà đích đến không còn là cái tôi vị kỷ của mình, không còn là chính mình nữa.
Đòi hỏi cuối cùng là “hãy theo tôi”. Thoạt nhìn, đây có vẻ là một sự lặp lại của “đi sau tôi”. Chúng ta biết: vào thế kỷ I, dân chúng xứ Palestina đã từng và sẽ còn chứng kiến nhiều cuộc hành hình đóng đinh vào thập giá, một cách thi hành án tử hình rất tàn khốc của đế quốc Rôma. Sinh thời, Đức Giêsu hoàn toàn có thể nghĩ đến kết cục bi thảm đó cho chính bản thân Ngài. Khi nói “hãy vác lấy khổ giá mình và theo tôi”, Đức Giêsu mời gọi các đồ đệ ý thức và đón nhận những thách đố quyết liệt của việc đi theo Đấng Mêsia, đến độ sẵn sàng chết và là chết một cách đau thương, nhục nhã và tàn khốc như người ta có thể đã từng chứng kiến trong các cuộc hành hình thập giá đương thời.
“Vác lấy khổ giá mình”, theo nghĩa đen, chính là việc người bị kết án tử hình vác lấy thanh ngang của cây thập tự trên vai, đi giữa đám đông đang la ó sỉ vả mà đến nơi hành hình. Ở đây, “vác lấy khổ giá mình” có nghĩa là người đồ đệ của Đức Giêsu phải sẵn sàng bị nhục mạ, bị vu khống, bị sỉ nhục và bị loại trừ khỏi xã hội. “Đi theo Đức Giêsu” là chấp nhận một cuộc đời cay đắng và đau thương như của một người bị kết án tử hình đang vác lấy khổ giá mình mà đi ra pháp trường vậy.
Sau khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết, lời mời gọi đó được hiểu là lời mời gọi chấp nhận bước đi trên chính con đường đau khổ mà Đức Giêsu đã đi, tức là sẵn sàng chấp nhận sống chính thân phận bi thương của Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh Hội Thánh đang trải qua những ngày tháng bị bách hại tàn khốc, thì lời mời gọi này thực sự có tính thời sự: lòng trung thành đối với Đức Giêsu đòi hỏi các tín hữu sẵn sàng đi vào cuộc tử vì đạo trong thực tế cụ thể.
Thánh Luca đã thêm vào yếu tố “mỗi ngày”, không phải để loại bỏ cách hiểu về sự sẵn sàng chịu tử vì đạo, nhưng là để thêm vào một sắc thái nữa: đó là đòi hỏi hàng ngày trong đời sống tín hữu. Đó không chỉ là đòi hỏi của những tháng ngày bị bách hại, mà còn là quy luật sống mỗi ngày của người tin.
“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( c. 24 ). Lời này có vẻ mâu thuẫn. Nhưng nội dung thì thật đơn giản: ai trốn tránh cái chết bằng cách từ chối Đấng Mêsia, thì sẽ bị kết án trong ngày Con Người đến để phán xét; còn ai sẵn sàng chết vì đạo, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình, thì sẽ không bị kết án trong ngày đó, tức là sẽ “giữ được mạng sống cho sự sống đời đời” theo kiểu nói của Ga 12, 25. Lời này quả thực ám hạp và mang tính thời sự trong những hoàn cảnh Hội Thánh bị bách hại. Khác với Mc 8, 35 ( “vì tôi và vì Tin Mừng” ), tác giả Luca chỉ ghi đơn giản: “vì tôi”. Ông muốn nhấn mạnh mối tương quan thiết thân của người tín hữu với Chúa Kitô xét như yếu tố căn bản chi phối thái độ sống và cách hành xử của Kitô hữu.
Tóm lại, phần thứ nhất của bài Tin Mừng nói về lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh mà Phêrô là đại diện: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, và xác định đâu là chân trời đích thực để hiểu đúng đắn căn tính Mêsia đó của Đức Giêsu ( mầu nhiệm chết và phục sinh ). Phần thứ hai của bài Tin Mừng nêu lên đòi hỏi căn bản dành cho người môn đệ của Đức Kitô. Chỉ khi sống theo đúng đòi hỏi này, người ta mới có thể hiểu biết và sống một cách đích thực lời tuyên xưng đức tin liên quan đến căn tính Mêsia của Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay Lc 9, 18 – 24, Chúa Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai ?” – “Các con bảo: TN 12-C80
Bài Tin Mừng hôm nay Lc 9, 18 – 24, Chúa Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai ?” – “Các con bảo Thầy là ai ?”… Và Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”.
Khi tuyên tín như thế, hẳn là ông Phêrô chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Đấng Mêsia, Đấng được Xức Dầu, gọi là Kitô. Vì thế Chúa đã giải thích thêm về “Đức Kitô của Thiên Chúa” rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Chúa Giêsu còn công khai nói với mọi người rắng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.
Như vậy, khi tuyên tín vào Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là phải mặc lấy Đức Kitô, sống như Ngài đã sống, suy nghĩ như ngài đã suy nghĩ, yêu như ngài đã yêu, và chấp nhận con đường khiêm hạ, từ bỏ, công chính, hiến thân, phục vụ, chết và sống lại, rồi cùng Ngài về Trời. Nói cách khác là: phải nên đồng hình đồng dạng với Ngài, thì lời tuyên tín kia mới là lời tuyên tín giá trị.
Chúa cũng đã hỏi ông bà chúng ta câu này và cách nào đó, ông bà đã trả lời: “Chúa Giêsu là Đạo của chúng con”, “Chúng con là kẻ có Đạo”.
Chỗ tôi, trải qua 20 năm, 1975 – 1995, bà con nghèo khổ quá, bởi lúa bắp khoai chỉ được một vụ trong năm. Năm nào có mưa khá, thì còn có cái thu hoạch, năm nào ít mưa là coi như công toi. Không có tiền để lo cho con cái, nhiều cha mẹ đành đi vay mượn, rồi chờ đến mùa lúa thì đong lúa cho người ta. Thế mới có chuyện “bán lúa non” mà “không có lúa già để trả”, đành mắc nợ triền miên. Người mua lúa non, đong lúa già cũng phải kiếm cho mình phần lợi, nên không thiếu cảnh đong lúa mà người “bán lúa non” xót xa rơi lệ. Họ sàng sảy năm lần bảy lượt để chỉ lấy những hạt lúa chắc. Không một hạt lép nào có thể chen vào lẫm lúa họ. Người bán lúa non đành phải hốt đống lúa lép về mà sàng sảy lại để kiếm những hạt lúa đưng mà phơi, giả, nấu cháo cho con. Trong xóm tôi chỉ có một người mua lúa non tốt bụng. Đó là ông bà A. Ông luôn dặn bà: “Đừng mua quá rẻ của người ta. Người ta trả sao lấy vậy. Mình là người có Đạo đó, nghe bà”.
Tôi vẫn nghĩ rằng câu nói “Mình là người có Đạo” của ông bà ta xưa, tuy rất đơn sơ mộc mạc, nhưng lại là một ý thức cơ bản, một Đức Tin sống động, một kim chỉ nam chính xác cho hành trình Đức Tin nơi dương thế.
Một ý thức cơ bản
“Mình là người có Đạo”. Ngữ “người có Đạo” lúc ấy dành cho người Công Giáo, cho các Kitô hữu, để phân biệt với từ “người lương” dành cho những người theo các đạo khác, và hiểu chữ Lương là lương thiện. Tôi còn nhớ trong sách bổn ngày xưa có câu: “Có một đạo rất chính rất thật ấy là Đạo Thánh Đức Chúa Trời”. Và khi sử dụng từ “mình là người có Đạo” cho một người và “mình con nhà có Đạo” cho cả dòng họ, thì hiểu là: “Mình đã được rửa tội, là Kitô hữu, là người Công Giáo, thuộc dòng dõi của Chúa Giêsu Kitô, của Con Thiên Chúa và nhờ Chúa Giêsu Kitô, được ơn gọi là nghĩa tử của Thiên Chúa”. Ý thức ấy vốn là ý thức cơ bản nhất của một “người có Đạo”. Và chính ý thức ấy đã hướng dẫn, chỉ đạo mọi tư tưởng lời nói việc làm của ông bà ta xưa.
Một Đức Tin sống động
Bởi vậy, đừng chê ông bà ta ít học Giáo Lý, cũng đừng xem vốn Giáo Lý của mình thời nay là khá, là nhiều, nhưng hãy xem cách “sống Giáo Lý” của ông bà thời ấy.
Từ ý thức “mình là người có Đạo”, mẹ thường dặn dò: “Đi đâu, ở đâu, làm việc gì, cũng phải nhớ mình là người có Đạo nghe con”. Sau này chúng tôi mới hiểu là có ở đâu, làm gì, thì cũng phải giữ lề luật Chúa, giữ Lời Chúa cho nên, cũng phải “đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô”. Còn cha thì hay dùng lời Thánh Phaolô mà dặn: “Dầu khi ăn, dầu khi uống, dầu khi làm việc gì, cũng phải làm cho sáng danh Chúa”. Khi cha cho ý kiến về việc gì thì ý kiến cuối cùng vẫn là: “Phải xem coi có sáng Danh Chúa không nghe con, không được sáng danh mình”.
“Mình là người có Đạo” hẳn phải từ bỏ những tư tưởng, lời nói, việc làm không xứng với danh xưng quý giá ấý, hẳn phải từ bỏ “cái tôi” của mình để cho Danh Chúa được cả sáng. Khi anh em chúng tôi nói hay làm điều gì sai quấy, cha thường trách yêu: “Con quên mình là người có Đạo sao ?” Khi chị tôi chuẩn bị lập gia đình, mẹ kể cho chị nghe câu chuyện Tôbia và Sara: “Tôbia và Sara tâm sự: “Mình con nhà có Đạo, không thể lấy nhau như dân ngoại không biết gì đến Thiên Chúa…”
Kim chỉ nam chính xác
“Mình là người có Đạo” như kim chỉ nam chính xác cho hành trình Đức Tin chúng ta. Bởi vì, khi đã tháp nhập vào Đức Giêsu Kitô là “Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, người có đạo có Con Đường để đi, con đường Thật bảo đảm một Sự Sống Thật thay cho những con đường gian trá chỉ đưa con người ta đến sự chết ngàn thu. Người có đạo là người đi Con đường của Chúa Giêsu: con đường khiêm nhượng, từ bỏ, chấp nhận khổ đau, thập giá, con đường phục sinh và lên Trời, và theo con đường ấy mà về Trời. Đó là Sự Thật vĩnh cửu, thay cho sự thật về kiếp con người mong manh tàn lụi.
Tôi vẫn mãi nghĩ rằng ngày ấy ông bà chúng ta chưa có văn minh, chưa có phương tiện, còn ít văn hóa, nhưng cái gọi là “Văn hóa Kitô Giáo” thì có nhiều hơn chúng ta hôm nay. Bởi, ông bà đã chọn Chúa Giêsu Kitô và theo đúng con đường của Chúa Giêsu Kitô đã đi:
Người có Đạo không chối Đạo, nhưng xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ. Người có Đạo không oán ghét hận thù, nhưng yêu thương hết mọi người. Người có Đạo không xảo trá điêu ngoa, nhưng thực thà chân chất. Người có Đạo không toa rập bán nước, nhưng yêu quê hương và bảo vệ tổ quốc. Người có Đạo không sống cách vô luân lý, không tham danh lợi dục nhưng sống đúng phẩm hạnh của người con Cha trên Trời.
Người có Đạo không ích kỷ hẹp hòi, không thu quén cho mình nhưng rộng lượng, quảng đại mong phần lợi cho anh em.
Và người có Đạo không tham nhũng, hối lộ, thanh trừng nhau kiểu quan to, trộm cắp giết người kiểu dân nhỏ, không lấy quyền mà hiếp đáp, ăn chơi, trác táng, cũng không hoang đàng, phung phí… nhưng là người sống đời công chính của Đức Giêsu.
…………
Người có Đạo không làm hoen ố hình ảnh của Thiên Chúa những là họa ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi xinh đẹp sáng láng thánh thiện.
Chúa cũng đang hỏi chúng ta mọi lúc mọi nơi “Các con bảo Thầy là ai ?” để chúng ta xác minh lại niềm tin của mình rằng: “Thầy là Đức Giêsu, là Đạo của chúng con”, và Ngài cũng đang bảo chúng ta sống Đức Tin ấy cách sống động như ông bà ta xưa: “Mình là người có Đạo”.
Xin cho ông bà yên tâm, xin cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam vui mừng vì dòng dõi “con nhà có Đạo” Việt Nam thời nay đang bước theo Con Đường của Chúa Giêsu, noi gương Đức Tin sống động của ông bà, của các Thánh Tử Đạo.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhớ mình là “người có Đạo” trong mọi lúc, mọi nơi, để vì yêu mến Đạo, vì yêu mến Chúa Giêsu, mà chúng con có thể từ bỏ tất cả những gì không làm đẹp lòng Chúa, không làm đẹp Danh Chúa và sẵn sàng tất cả những gì có thể, cho vinh danh Chúa. Amen.
PM. CAO HUY HOÀNG, 21.6.2013
----------------------------------
TN 12-C81: BỂ KHỔ TRẦN AI !
Người ta thường nói: “Ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”. Điều đó cho thấy cuộc đời không như: TN 12-C81
Người ta thường nói: “Ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”. Điều đó cho thấy cuộc đời không như thảm hoa hồng hoặc thảm nhung lụa, mà là con đường đầy những ổ gà, ổ voi, trắc trở rình rập đêm ngày. Quả thật, đời là bể khổ, và đoạn trường ai có qua cầu mới hay ! Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” ( Mt 6, 34 ). Tuy nhiên, những người đau khổ ( tinh thần hoặc thể lý ) là những người “mạnh khỏe” và thực sự can đảm.
Có ngụ ngôn này, sau thời gian dài tu luyện, vào một ngày đẹp trời, thầy trò dắt nhau xuống núi. Dọc đường, đệ tử nhìn thấy gì cũng lạ, luôn miệng hỏi sư phụ, nào là con gà, con chó, con trâu… nào là xe hơi, xe máy, vật nọ rồi vật kia… Sư phụ cũng muốn “đâu cái điền” ! Đường sá xa xôi, quanh co hiểm trở, vừa nóng vừa mệt, nắng như đổ lửa, bất ngờ đệ tử nhìn thấy xa xa trên cánh đồng có “chiếc nón lá”, thấy nó di động mà đoán mãi không ra là cái gì. Đệ tử đành vừa gãi cái đầu trọc lóc vừa hỏi: “Bạch thầy, kia là con gì vậy thầy ?” Sư phụ khá bất ngờ, nhưng cũng cảm thấy bối rối và khó trả lời. Sư phụ trả lời cách nào cũng không thỏa mãn đệ tử, ậm ừ cho qua mà đệ tử cũng không chịu, cứ hỏi mãi. Sư phụ đành nói ngắn gọn: “Khổ não trần ai đó con !”
Câu chuyện không ám chỉ phụ nữ là “mối tội đầu” mà muốn nói đến chuyện tình yêu nam nữ là điều “cấm kỵ” với người xuất gia, những người tu trì. Tuy nhiên, ở đây còn mang nghĩa chung, Đời là bể khổ ! Chắc chắn là khổ, vì chẳng thấy ai sinh ra mà cười bao giờ, ai sinh ra cũng “cất tiếng khóc chào đời” – chào đời bằng tiếng khóc là dấu báo hiệu “cuộc đời là bể khổ”.
Bản thân Thánh Gióp bị bệnh tật, con cái ông chết hết, thiên hạ dè bỉu và nguyền rủa ông, vợ ông nói: “Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi ? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi !” ( G 2, 8 ). Nhưng ông Gióp bảo: “Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao ?” ( G 2, 10 ). Trong mọi chuyện ấy, ông Gióp không để cho môi miệng thốt ra lời tội lỗi. Nhưng sức người có hạn, vì đau khổ đến tận cùng, Thánh Gióp đã mở miệng nguyền rủa ngày ông chào đời: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời” ( G 3, 3 ). Rồi ông than thân trách phận: “Phải chi ai cân được nỗi sầu của tôi, và đặt lên bàn cân nỗi đau tôi phải chịu !” ( G 6, 2 ).
Thế nhưng ông vẫn tín nguyện, “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ. Những đôi mắt từng nhìn thấy con chẳng nhận ra con nữa, nhưng nếu Ngài đưa mắt nhìn con, thì con sẽ chẳng còn” ( G 7, 7 – 8 ). Nhận biết yếu đuối của mình, Thánh Gióp thân thưa với Chúa, “Điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” ( G 42, 6 ). Và cuối cùng, Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với ông là khôi phục cả tài sản và con cháu, được nhìn thấy con cháu tới bốn đời.
Bài học về sự đau khổ: “Ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: ‘Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng Danh Đức Chúa !’ Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” ( G 1, 20 – 22 ).
Mọi thứ đều có ý nghĩa riêng, chính đau khổ cũng có ý nghĩa “độc đáo” riêng và mang ý nghĩa tích cực. Thật vậy, là Kitô hữu, văn sĩ Victor Hugo ( 1 ) đã cảm nhận, “Đau khổ là hoa quả, Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt không chịu nổi nó – Sorrow is a fruit, God does not make it grow on limbs too weak to bear it”. Còn văn sĩ Elbert Hubbard ( 2 ) nói, “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn Trời ! Đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống – If you suffer, thank God ! It is a sure sign that you are alive”. Cố Linh Mục Thiên Phong Bửu Dưỡng ( Dòng Đa Minh ) cũng đã viết cuốn sách dày nói về đau khổ với tựa đề là “Vấn đề đau khổ”. Chắc chắn đau khổ có giá trị cao chứ không như chúng ta tưởng ! Với tình yêu bao la và lòng thương xót vô tận, Thiên Chúa nói: “Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng” ( Dcr 12, 10 ). Thậm chí là “tiếng khóc than còn vang dội khắp Giêrusalem” ( Dcr 12, 11 ).
Cuối đường hầm luôn le lói ánh sáng. Thiên Chúa hứa: “Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế” ( Dcr 13, 1 ). Một khi Thiên Chúa đã hứa thì Ngài không bao giờ thất hứa hoặc rút lời.
Bổn phận của thụ tạo chúng ta là thờ lạy, tin yêu, cảm tạ, tôn vinh và chúc tụng Ngài: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” ( Tv 63, 2 ). Để làm gì ? Để “đến ngắm nhìn Ngài trong nơi Thánh Điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” ( Tv 63, 3 ). Đó là lẽ tất nhiên, “bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca” ( Tv 63, 4 – 6 ).
Cảm nghiệm Hồng Ân rồi, người ta không thể im lặng, mà phải bày tỏ: “Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui. Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” ( Tv 63, 8 – 9 ). Nhờ tin mà yêu, và nhờ yêu mà thêm tin. Thánh Phaolô nói: “Nhờ Đức Tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô” ( Gl 3, 26 – 27 ). Cũng vậy, nhờ tin và yêu mà người ta hòa đồng và hiệp nhất, “không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Mà nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em là dòng dõi ông Ápraham, những người thừa kế theo lời hứa” ( Gl 3, 28 – 29 ). Hành-trình-đức-tin thật kỳ diệu !
Một hôm, khi Đức Giêsu cầu nguyện một mình, các môn đệ cũng ở đó với Ngài. Rồi Ngài hỏi các ông: “Dân chúng nói Thầy là ai ?” ( Lc 9, 18 ). Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại” ( Lc 9, 19 ). Ngài lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô nhanh nhảu thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” ( Lc 9, 20 ). Thế là các đệ tử tin nhận rồi. Tốt lắm. Nhưng Ngài nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.
Vấn đề không là chỗ đó, mà đó chỉ là “đòn bẩy” để tới “đỉnh cao” thôi. Thế nên Ngài nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” ( Lc 9, 22 ). Mèn ơi ! Sao kỳ vậy ta ? Thầy ngon lành vậy mà sao lại bị hại tới chết chứ ?
Các môn đệ chả hiểu gì, tròn mắt nhìn nhau rất ngây ngô. Thật mắc cười khi thấy các đệ tử như chú Tàu nghe kèn, nhưng Sư Phụ Giêsu vẫn tiếp tục nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( Lc 9, 23 – 24 ). Lại là “chuyện ngược đời” nữa, càng khó hiểu, “căng” thật !
Vô tri bất mộ. Khi nào càng cảm nhận được đau khổ thì người ta càng thấy giá trị của nó. Thật vậy, đau khổ tôi luyện người ta thành nhân, sung sướng khiến người ta hư đốn. Vì thế mà Chúa Giêsu đề cao đau khổ và cảnh báo: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13 – 14 ).
Không ai muốn đau khổ, nhưng đau khổ vẫn tồn tại. Muốn thoát khổ, chỉ có cách duy nhất là đi xuyên qua đau khổ. Nhà ngoại giao kiêm văn sĩ Paul Claudel ( 1868 – 1955 ) đã nhận định: “Chúa Giêsu xuống thế không để diệt trừ khổ đau, cũng không giải nghĩa khổ đau, mà để chia sớt khổ đau”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ và đường thập giá mà Đức Kitô đã trải qua, để chúng con có thể sống theo phong cách Giêsu trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Chú thích:
( 1 ) Victor Hugo sinh ngày 26.2.1802 tại Besançon, là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp, ông còn là một nhà chính trị, một trí thức dấn thân tiêu biểu của thế kỷ XIX. Victor Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Ông đã xuất bản các tác phẩm, Odes et Ballades ( 1826 ), Les feuilles d'automne ( 1931 ) và Les Contemplations ( 1856 ). Nhưng ông cũng thể hiện vai trò của một nhà thơ dấn thân chống Napoléon III bằng tập thơ Les Châtiments ( 1853 ) và vai trò một nhà sử thi với tập La Légende des siècles ( 1859 và 1877 ). Thành công vang dội của hai tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris ( Notre-Dame de Paris, 1831, và Anh ngữ là The Hunchback of Notre-Dame – Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà ) và Những Kẻ Khốn Cùng ( Les Misérables, 1862 ) đã đưa Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công chúng. Về kịch, ông đã trình bày thuyết kịch lãng mạn trong bài tựa của vở kịch Cromwell ( 1827 ) và minh họa rõ nét thể loại này ở hai vở kịch nổi tiếng Hernani ( 1830 ) và Ruy Blas ( 1838 ). Với sự cống hiến lớn lao cho sự đổi mới thi ca và sân khấu, ông được người đương thời ngưỡng mộ nhưng cũng gây ra tranh cãi ở một số tác gia hiện đại. Cuộc lưu đày 20 năm của ông trong đế chế thứ hai đã khiến nhiều thế hệ phải suy ngẫm cho về vai trò của một nhà văn trong đời sống chính trị và xã hội. Ông qua đời ngày 22.5.1885 tại Paris, nhà nước đã cử lễ quốc tang và thi hài ông được đưa vào điện Panthéon.
( 2 ) Elbert Green Hubbard sinh ngày 19.6.1856 tại Blooming ( Illinois, Hoa Kỳ ). Ông là văn sĩ, họa sĩ, triết gia và nhà xuất bản. Ông sớm thành công với công ty xà bông Larkin. Ngày nay ông được biết đến là người sáng lập cộng đồng thủ công Roycroft ở Đông Aurora ( New York ). Các tác phẩm nổi tiếng của ông là bộ truyện “Little Journeys to the Homes of the Great” ( 9 cuốn ) và truyện ngắn “A Message to Garcia”. Ông mất trong vụ đắm tàu ngoài khơi Ireland vào ngày 7.5.1915.
Ngày 14.3.2007, cụ bà Irena Sendler, 97 tuổi, đã được Quốc Hội Ba Lan tôn vinh là nữ anh hùng: TN 12-C82
Ngày 14.3.2007, cụ bà Irena Sendler, 97 tuổi, đã được Quốc Hội Ba Lan tôn vinh là nữ anh hùng dân tộc, đồng thời đề cử là ứng viên cho giải Nobel Hòa Bình 2007. Vào năm 1939, khi Đức chiếm đóng Ba Lan, bà Irena Sendler là một nhân viên xã hội. Lúc này Gestapo đã tập trung khoảng 450.000 người Do Thái vào các khu trại tại thủ đô Warsaw.
Bà Sendler là một tín hữu Công Giáo, giả làm y tá xin phép ra vào trại để ngăn chặn dịch bệnh lây lan. Vào trại, Irena thông báo với những người Do Thái rằng họ sắp bị đưa đi, thuyết phục các bậc cha mẹ tin cậy giao con cho mình để cứu chúng.
Bà lập một nhóm bí mật gồm 20 thành viên chuyên che giấu các em, làm giấy tờ tùy thân mới cho chúng rồi đưa tới nơi an toàn. Bà và đồng đội lén chuyển bọn trẻ ra ngoài theo đường cống, trong vali và trên xe rác, xe cứu thương. Đôi khi họ phải đưa cả chó lên xe: tiếng chó sủa giúp che lấp tiếng khóc thét của những đứa trẻ không muốn rời bầu vú mẹ. Khoảng 2.500 trẻ em đã được cứu thoát bằng cách này.
Năm 1943, Sendler bị Gestapo bắt. Bà bị giam giữ và tra khảo suốt ba tháng trời, nhưng cả khi bị đánh gãy chân, bà cũng không hé một lời về thân phận những đứa trẻ được đưa đi. Tên tuổi, thân thế bọn trẻ bà viết ra giấy, bỏ vào lọ rồi chôn dưới gốc cây táo trong những khu vườn lân cận. Thật may mắn, bà đã cứu thoát ngay trước khi bị hành hình.
Chiến tranh kết thúc, bà đào những chiếc lọ này lên và tìm cách đoàn tụ các gia đình. Hầu hết những bậc cha mẹ không còn nữa. Tuy nhiên, nhiều đứa trẻ đã tìm được họ hàng sống nhiều nơi ở Châu Âu. Năm 1965, bà Irena Sendler được Đài Tưởng Niệm Nạn Diệt Chủng Yad Vashem của Israel trao tặng huy chương “Đạo Đức” được dành riêng cho những ân nhân có công cứu dân Do Thái.
Cụ bà Sendler hiện đang sống trong một nhà dưỡng lão tư ở Warsaw. Do sức khỏe yếu nên cụ chỉ gửi thư tới Quốc Hội Ba Lan. Và chị Elzbieta Ficowska, một trong những người được cụ cứu thoát khi còn là một bé gái sáu tháng tuổi, đã đọc thư này: “Mỗi đứa trẻ được tôi và những sứ giả bí mật khi đó cứu giúp, nhiều người nay không còn nữa, chính là lời biện minh cho sự tồn tại của tôi trên trái đất này, không phải là một cái cớ để tự hào”.
Điều duy nhất mà cụ hối tiếc là “không thể cứu được nhiều hơn” và nhắc nhở mọi người: “Đã hơn 50 năm trôi qua kể từ khi xảy ra địa ngục diệt chủng, nhưng bóng ma của nó vẫn lơ lửng trên thế giới, chúng ta không được phép quên”. Nhân chứng Elzbieta Ficowska chia sẻ: “Trên nền sự lãnh đạm của thời đại chúng tôi, tấm gương của Irena rất quan trọng” ( Theo Duy Văn, Tuổi Trẻ, dịch từ Boston Herald, Reuters ). Ngày 12.5.2008, bà Sendler qua đời, hưởng thọ 98 tuổi.
Bà Irena Sendler đã biết từ bỏ mình, chấp nhận vác thập giá, cứu thoát hàng ngàn trẻ em Do Thái thoát khỏi cái chết. Trong trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ Người là ai ? Rồi Người mặc khải mầu nhiệm Thương Khó, cùng điều kiện đi theo Người.
Từ bỏ và chấp nhận
Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” ( Lc 9, 23 ).
Từ bỏ chính mình là chết đi con người cũ, khuynh hướng vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Nhưng tiên vàn cần có đức Khiêm Nhường, noi gương Mẹ Maria, nhận ra mình là phận hèn tối tá Chúa, thì mới có thể bỏ mình, hoặc mới dám bỏ mình.
Bà Irena Sendler tỏ ra khiêm tốn khi được vinh danh là nữ anh hùng dân tộc. Nhưng đầu tiên, bà đã tỏ ra tự hạ, dứt khoát từ bỏ cuộc sống yên lành, hóa thân vào vai y tá tầm thường, dấn thân vào nơi bệnh dịch, cứu thoát các em bé sắp bị sát hại, dù biết nguy hiểm đến tánh mạng lẫn thân quyến.
Từ bỏ chính mình trong cuộc sống thường nhật là từ bỏ những ưu ái dành cho bản thân, như không lo lắng chăm sóc, trau chuốt những đam mê, những thói hư tật xấu. Từ bỏ nếp sống nô lệ cho những đòi hỏi xác thịt, từ bỏ nô lệ của cải, tiền bạc, địa vị, danh lợi. Từ bỏ chính mình là sống thanh đạm, đơn giản, nhân hậu trong tinh thần khiêm hạ, phục vụ, như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ta đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mt 20, 28 ).
Mỗi khi bực dọc, hằn học, ganh ghét, cộc cằn, thô lỗ, tham lam, so bì, tỵ hiềm, oán hận, xúc phạm tha nhân, là mỗi lúc chúng ta lại ra sức vuốt ve, nuông chiều, chăm lo cho cái tôi thậm tệ đáng ghét. Tệ hại thay, bản thân chẳng bao giờ biết thế nào cho vừa, chẳng biết sai trái, để tự điều chỉnh, cải thiện, đổi mới. Vì thế, chúng ta mới dễ dàng trở thành gia trưởng trong mái ấm, mới là một thứ “ông kẹ” trong xã hội và cả trong Giáo Hội, khiến ai cũng phải tránh mặt vì khiếp vía, sợ hãi. Vậy đâu phải dễ dàng từ bỏ mình ?
Nếu biết từ bỏ chính mình, thì mới có thể vui lòng chấp nhận đau khổ, vác thập giá hằng ngày, như chồng tệ, vợ dại, con hư. Những lời cằn nhằn than thở vô hồi kỳ trận, những lời trách móc, mắng nhiếc, giận hờn, oán than, nỉ nôi từng giờ, từng phút không bao giờ nguôi ! Hơn nữa, thập giá thường nhật còn là tha nhân, lối xóm, bè bạn, đồng nghiệp bất lương, bất nghĩa, bất tín, bất trung, phản phé, chống báng, quậy phá, xỏ xiên, vu khống, ném đá, đánh lén dưới thắt lưng, thậm chí đâm cả sau lưng…
Có một người tín hữu tốt lành nọ, ngày kia than phiến với Thiên Chúa: ”Lạy Chúa, con đã làm gì mà phải chịu đau khổ thế này ?” Thiên Chúa trả lời với anh: “Còn Cha, Cha đã làm gì mà bị dẫn lên núi Canvê ?” Thế là anh ta hiểu ra, khóc nức nở, xin Chúa tha thứ cho mình, và hứa sẽ không bao giờ còn dám than trách khi gặp đau khổ nữa. Người đời thường khổ sở khi gặp đau khổ, còn người tín hữu tốt lành thì khổ sở khi không có thập giá. Chúng ta phải sống giữa đau khổ như con cá sống trong nước vậy. ( Phaolô Vũ Đức Thành, Đau Khổ, Những bài giảng bất hủ của cha Thánh Gioan Maria Vianney ).
Chết đi để Sống
“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( Lc 9, 24 ). Một kết luận tuyệt vời, súc tích và đơn giản, tóm tắt toàn bộ ý nghĩa lời giảng dạy của Chúa bên trên. Đây là chân lý ngàn đời cho ai tin theo Chúa.
Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại Xaviê, thuộc Giáo Phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài sang Paris để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư đại học tại đó. Nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục. Nhưng một ngày kia, Chúa đã dùng miệng lưỡi Thánh Inhatiô, cũng là thầy dạy, để nói cùng ngài: "Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi ?" ( Mt 16, 26 ).
Và Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Năm 1539, cha Phanxicô Xaviê hăng hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô 3 là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ, Mã Lai, Nhật Bản ( Vietnamese Missionaries in Asia ).
Những lập luận từ bỏ và chấp nhận, chết và sống của Chúa Giêsu thoạt nghe thật mâu thuẫn và nghịch lý, điên rồ rất khó chấp nhận.
“Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được !"… Từ đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” ( Ga 6, 60 và 66 ).
Thánh Phaolô đã diễn giải sự phi lý điên rồ đó: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái cho là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” ( 1Cr 1, 22 – 25 ).
Nền văn minh sự chết ngày hôm nay, đang ra sức quảng bá những điều tưởng như tự do, nhân bản và tiến bộ, nhưng thật sự đang điên rồ chống lại tự nhiên, chống lại sự sống, và chống lại Thiên Chúa. Người ta hô hào hôn nhân đồng tính là tiến bộ, hợp với nhu cầu thời đại, Hô hào phá thai là tôn trọng tự do cá nhân. Há chẳng phải con người đang thoái hóa đạo đức, phản lại luật tự nhiên, hôn nhân nam nữ, sát nhân, tiêu diệt sự sống của thai nhi. Cái đà văn minh này chỉ đưa loài người đến chỗ diệt vong.
Vậy chỉ có những ai liều mình chết cho chân lý, sự thật, chánh đạo vì Thiên Chúa, thì chắc chắn được phần thưởng Sự Sống viên mãn đời đời. Thánh Phaolô không hề do dự khi mạnh dạn khẳng định: "Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài" ( 2Tm 2, 11 ).
Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo; Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui, Goretti liều mạng sống ( Đường Hy Vọng, số 8 ).
Lạy Chúa Giêsu, Người đã thực hiện chính xác những điều giảng dạy, khi dấn thân vào cuộc Thương Khó kinh hoàng, để cứu rỗi nhân loại. Xin Chúa giúp con biết can đảm đón nhận những đau khổ, và dâng hiến những đau khổ ấy thành của lễ cứu độ linh hồn con.
Lạy Mẹ Maria Bảy Sự Thương Khó, Mẹ đã chịu lưỡi gươm thâu qua Trái Tim Cực Sạch, cùng chịu đau khổ với Con Mẹ. Khấn xin Mẹ giúp sức con biết khiêm nhường từ bỏ bản thân, mà vác thánh giá theo Con Mẹ, hầu được cứu rỗi cùng với những người thiện tâm theo Chúa. Amen.
"Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo"
Hôm nay Chúa Giêsu cũng lại hỏi chúng ta: "Các con bảo Thầy là ai?" (Lc 9, 20). Câu trả lời có: TN 12-C83
Hôm nay Chúa Giêsu cũng lại hỏi chúng ta: "Các con bảo Thầy là ai?" (Lc 9, 20).
Câu trả lời có thể là: Ngài là trái đất, là bầu trời xanh, là đại dương bao la, là bài ca, là cơn gió nhẹ ban mai, là thanh âm và hơi thở củ mọi loài sinh vật, là sự rực rỡ của mùa xuân, là nắng hè ấm áp, là những cơn mưa ngâu, là vẻ đẹp lúc sang thu, là cánh tuyết long lanh mùa đông, là ánh bình minh và hoàng hôn. Ngài là ánh mắt và nụ cười của trẻ thơ, là bàn tay êm ái của mẹ hiền, là cánh tay che chở của người cha, là tình huynh đệ của các anh chị em, là sự âu yếm của ông bà nội ngoại, là sự ồn ào tươi vui của bạn bè, là những lời thì thầm yêu đương, là sự ngây thơ của nụ hôn đầu tiên. Ngài là tiếng cầu cứu của trẻ thơ và người già bị bỏ rơi, là cơn đau sầu khổ của người bệnh, là bác sĩ, là niềm hy vọng, là người khách. Ngài là người bạn, là người yêu, là lối đi, là ánh sáng, là cuộc đời, là lời chúc lành, là bóng hình từ ái của người tu sĩ, là sự dịu ngọt linh thiêng trong bí tích Thánh Thể, là Đấng Cứu Độ của tôi. Và còn bao nhiêu trả lời khác nữa.
Thế nhưng, cảm nghiệm về "Chúa Giêsu là ai" trong cuộc đời của mỗi người rất khác nhau. Trong bài Phúc Âm ( Lc 9, 18-24) Chúa Giêsu hỏi các môn đệ "Thầy là ai" để giúp họ biết "họ là ai" trong tương quan giữa họ với Chúa Giêsu. Khi tuyên xưng "Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa" (Lc 9, 20). Phêrô cũng khẳng định ông là môn đệ của Ngài. Vì thế Chúa mới nói cho các môn đệ biết họ cũng phải đi theo con đường đau khổ giống như Ngài. "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,22-23). Đó là con đường bước theo Thầy Giêsu củangười môn đệ..
Trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô nhắc nhở dân Galát rằng: "Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3, 27). Mặc lấy Đức Kitô, hay mặc lấy chiếc áo trắng rửa tội là mang lấy thánh giá giống như Ngài. Đau khổ của thập giá tự bản chất là hình phạt của tội (St 3, 16-19). Nhưng qua Đức Kitô, đau khổ đã trở nên giá cứu chuộc nhân loại, thập giá trở thành Thánh Giá. Thánh Giá với tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh là một hình ảnh giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa của sự đau khổ. Chúng ta giữ thân xác khổ đâu của Chúa Giêsu trên thập giá để nhắc nhở chúng ta đừng quên rằng nhờ sự khổ đau của Chúa Giêsu mà chúng ta được ơn cứu rỗi và cùng chia sẻ sự Sống Lại với Ngài (Ga 1, 4; 1Ga 1, 7). Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên cây thập giá còn là một nhắc nhở về lời Ngài dạy bảo chúng ta hôm nay: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta" (Lc 9, 23). Thập giá Chúa Giêsu đề cập chính là sự chọn lựa từ bỏ mình để dâng hiến hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa (Rm 6, 13; 12, 1). Từ bỏ những ý kiến, suy nghĩ riêng tư, cả cái tôi kiêu căng, tự ái, ích kỷ, và lòng ham hố danh lợi (Pl 2, 21). "Hãy từ bỏ mình" là con đường tu đức biến đổi đau khổ của thập giá trở thành ơn cứu độ của Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã dạy và chết vì yêu thương chúng ta. "Hãy từ bỏ mình" là con đường dài cho đến hơi thở cuối cùng. Con đường đó bắt đầu xem ra có vẻ dễ dàng, nhưng diễn tiến và kết thúc lại vô cùng khó khăn. Để hoàn toàn từ bỏ chính mình như Đức Kitô đã từ bỏ, chúng ta phải học biết cách yêu thương như Ngài đã yêu (Ga 15, 12; Ep 2, 4-6).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết từ bỏ mọi sự để dứt khoát bước theo Ngài đến cùng. Amen.
Đi theo Chúa Giêsu, Người Thầy tuyệt hảo, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ về mọi phương diện: TN 12-C84
Đi theo Chúa Giêsu, Người Thầy tuyệt hảo, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ về mọi phương diện. Ngài đã huấn luyện, giáo dục các môn đệ. Để minh chứng cho lời nói của Ngài, Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ, đã dạy giáo lý, đã làm chứng cho Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ngài vừa nói vừa làm để uốn nắn, hun đúc các môn đệ và để đào tạo các môn đệ trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng Phục Sinh. Sau khi ở với Chúa một thời gian tương đối lâu dài, Chúa đã nghe nhiều dư luận của quần chúng nhân dân nói về Ngài. Có người bảo Ngài là Êlia, người khác bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, nhưng lại có dư luận cho Ngài là một vị ngôn sứ nào đó...Tất cả đều con mơ hồ về Con Người, về lai lịch của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu muốn biết quan điểm và các môn đệ nghĩ Chúa là ai ?
Thực tế, có rất nhiều luồng dư luận nói về Chúa Giêsu. Tất cả các nguồn, các luồng dư luận về con người của Chúa đều còn mơ hồ và chỉ đúng một khía cạnh nào đối với Chúa Giêsu mà thôi. Đối với đám đông dân chúng này, Chúa Giêsu chỉ là một ngôn sứ thần thế nào đó, có sứ mạng lớn lao để dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến trần gian, còn Chúa Giêsu vẫn chưa phải là Đấng Cứu Thế muôn dân hằng mong đợi. Còn các môn đệ, những người sống gần gũi với Chúa Giêsu, những người thân tín với Chúa, những người phải xác tín, cảm nghiệm và nhận ra Đấng Cứu Thế...Các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu thật là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa phải đến. Chính Phêrô đã mạnh mẽ, không úp mở, tuyên xưng rõ ràng, cụ thể: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa ". Đây là lời mặc khải bởi vì lời này phát xuất từ cõi lòng, từ đức tin sâu xa của Phêrô dưới sự soi sáng, dưới mặc khải của chính Thiên Chúa. Phêrô và các môn đệ hoàn toàn khác với đám dân, các Ngài tin thật Chúa là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế phải đến trong thế gian. Ngài không chỉ là Đấng dọn đường cho Đấng Thiên Sai như đám đông quần chúng nhân dân nghĩ và nói ra.
Chúa Giêsu đã xác nhận lời tuyên xưng đức tin của Phêrô và các môn đệ. Ngài minh chứng Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Ngài không hứa bất cứ điều gì với các môn đệ như cho các Ngài giầu có, cho các Ngài được vinh dự nơi thế gian, nhưng Ngài đã loan báo cho các môn đệ:" Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy ".
Còn các con nghĩ Thầy là ai ? - Đây là câu hỏi về sự quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu. Một câu hỏi và một câu trả lời đòi hỏi lương tâm của mỗi người. Chúng ta theo Chúa Giêsu, nhưng liệu cuộc sống của chúng ta và thái độ của chúng ta có nói lên Chúa đang hiện diện trong chúng ta, và chúng ta có minh chứng, xác nhận cho mọi người biết Chúa đang ở trong chúng ta. "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi" không? Chúa Giêsu khi loan báo cuộc thống khổ và Phục sinh của Ngài là muốn kiểm chứng tính quan hệ giữa Ngài và các môn đệ. Vâng, nếu người ta chỉ nghĩ Chúa Giêsu là một Luật sĩ hay là một ngôn sứ thì giáo huấn của Ngài là điều quan trọng nhất, nhưng đàng này Ngài là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế thì Con Người và Mầu Nhiệm của Ngài là điều quan trọng nhất. Tuy nhiên, câu hỏi của Chúa Giêsu: "Các con nghĩ Thầy là ai?", không phải là câu hỏi tò mò, một câu hỏi bình thường nhưng Chúa Giêsu muốn kiểm chứng quan hệ đích thực, sâu xa của các môn đệ.
Để có thể biểu hiện, chứng tỏ chúng ta là Kitô hữu, cuộc sống, cử chỉ, thái độ của chúng ta, có cho người khác nhận ra chúng ta là người môn đệ của Chúa, có Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa hay không ? Muốn chứng tỏ chúng ta có Chúa và Chúa ở trong ta, chúng ta có sống đúng Tin Mừng nghĩa là chúng ta phải xóa bỏ những gì là ích kỷ, nhỏ nhen, căm ghét và cố gắng sống quảng đại, yêu thương, cảm thông và tha thứ với mọi người.
Lạy Chúa như các môn đệ xưa, chúng con xin thưa với Chúa:" Bỏ Chúa chúng con biết theo ai vì Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con xác tín và tuyên xưng mạnh mẽ:" Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống ". Amen.
Đôi khi Đức Giêsu được những thành viên của nhiều nhóm đạo đức gọi là Rabbi. Nhưng Người là: TN 12-C85
Đôi khi Đức Giêsu được những thành viên của nhiều nhóm đạo đức gọi là Rabbi. Nhưng Người là một kiểu thầy dạy khác lạ. Trong Tin mừng theo thánh Mátthêu, chúng ta nghe thấy rằng Người giảng dạy không như những những vị khác đã dạy, nhưng "Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư" (7, 28-29).
Một trong những cách thức các thầy Rabbi dạy là đặt câu hỏi. Những vị thầy giỏi thì đặt những câu hỏi sao cho hướng đến những câu trả lời của người hỏi đặt ra hơn là chỉ cho họ câu trả lời. (Có câu nói đùa rằng: một sinh viên hỏi Rabbi, "Thưa Rabbi, tại sao thầy luôn trả lời bằng một câu hỏi khác?" Vị Rabbi trả lời, "Thế tại sao tôi không nên trả lời bằng một câu hỏi?")
Nếu Rabbi đưa ra câu trả lời, thì đó là câu trả lời của thầy. Nhưng nếu thầy hỏi câu hỏi đúng, thì ông có thể có một câu trả lời khác và câu trả lời của đồ đệ được ghi nhớ và được tiếp thu. Thêm nữa, nếu Rabbi đưa ra câu trả lời thì vấn đề đã được xác định rồi. Nhưng nếu câu hỏi khác được hỏi thì vấn đề tiếp tục được mở rộng cho việc tìm kiếm và khám phá thêm. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các các môn đệ một câu hỏi quan trọng. Người không đưa ra câu trả lời, nhưng cho họ thời gian và thêm kinh nghiệm để tìm ra câu hỏi của riêng họ.
Khởi đầu Tin mừng của mình, tác giả Luca thuật lại việc cha mẹ Đức Giêsu tìm kiếm Người sau khi họ phát hiện ra Người không cùng đi với họ trong đoàn hành hương từ dịp lễ Vượt qua ở Giêrusalem. Sau ba ngày tìm kiếm, họ thấy đứa con trai 12 tuổi của mình trong đền thờ, "đang ngồi giữa các thầy dạy, nghe và hỏi họ" (2,46).
Khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ: "đám đông bảo thầy là ai?" Họ đã ở với Người một thời gian và đã thấy và đã nghe khi Đức Giêsu nói những nhu cầu của dân chúng, dạy đám đông và đối đáp trước những tấn công từ nhóm đạo đức. Những lời đáp đầu tiên của họ với Đức Giêsu được rút ra từ những điều họ đã quan sát và đã nghe người khác nói.
Thế rồi, Đức Giêsu đưa ra câu hỏi, "Còn anh em bảo Thầy là ai?" Câu hỏi của vị Thầy đòi hỏi các môn đệ trở về lòng mình, rút ra từ những kinh nghiệm ở cùng Đức Giêsu và rút ra quyết định của riêng mình. Phêrô đáp thay cho cộng đoàn: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Câu trả lời của ông không chỉ là một chút thông tin để mang theo trong cả phần đời còn lại. Ông sẽ có Đức Kitô hằng sống với ông và sẽ có thêm cho kinh nghiệm, sự hấp thụ và hành trình. Câu hỏi của Đức Giêsu sẽ luôn gắn chặt trong trí nhớ và ý thức của ông và ông sẽ phải trở lại lòng mình để trả lời nó nhiều lần nữa khi ông biết hơn về "Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Dù cho lời đáp của Phêrô đúng, nhưng ông sẽ phải củng cố nó cách quyết liệt để hợp với những sự kiện bi thảm sẽ nảy sinh khi ông tiếp tục theo Đức Giêsu. Đối với ông và các môn đệ khác "Đấng Kitô của Thiên Chúa" nghĩa là người cai trị đầy quyền lực sẽ lãnh đạo dân Israel và đánh đuổi người Rôma. Nhưng Đức Giêsu phá tan khái niệm đó khi Người khiển trách các môn đệ. Người hướng sự ám chỉ đến chính mình từ "Đấng Kitô của Thiên Chúa" đến "Con Người".
Bài tin mừng nằm trước bài Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ hóa bánh cho 5000 người ăn (9,10-17). Cách trình bày này hẳn sẽ đề nghị các môn đệ rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia hằng được mong đợi, "Đấng Kitô của Thiên Chúa". Cuối cùng, đây là Đấng Mêsia bắt đầu một thời đại mới. Điều này đủ thực, nhưng Đức Giêsu thêm rằng người ta chỉ vào được thời đại mới này khi họ có tình yêu hy sinh - sự hy hiến này đã được Đức Giêsu thực hiện trên thập giá. "Rồi Đức Giêsu nói với mọi người..." - Đức Giêsu đưa ra một lời mời gọi phổ quát cho bất kỳ ai khao khát chấp nhận nó. Nhưng những ai chấp nhận phải dám từ bỏ tất cả: tham vọng, những cách thức nhận biết tha nhân, những ưu tiên hằng ngày, những thói ích kỷ của họ - cuộc sống của họ chính là thế!
Nghe lời đáp của Phêrô Đức Giêsu hướng sự ám chỉ đến chính mình từ "Đấng Kitô của Thiên Chúa" tới "Con Người". Trong các Tin mừng, thuật ngữ này ám chỉ đến Đức Giêsu. Đây là một danh hiệu ưa thích dành cho Đức Giêsu trong Tin mừng Luca và mang các tầng ý nghĩa. Trước hết, đơn giản nó có nghĩa là "con người". Nhưng nó cũng là danh hiệu thiên sai được dùng 70 lần trong Tin mừng nhất lãm và 12 lần trong Tin mừng Gioan. Nó xuất hiện trong sách Đaniel (7,13) để mô tả "ai như con người", đại diện cho dân Israel mới và hiện ra trên mây trời để nhận vương quốc từ Đấng Lão Thành. "Con Người" được dùng thường xuyên qua các sách Tin mừng và thường ám chỉ sự vượt qua và cái chết - như trong bài Tin mừng hôm nay.
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, Phêrô sẽ mở rộng câu trả lời của ông cho câu hỏi của Đức Giêsu. Trong chương 3 quyển thứ 2 của Luca, Công vụ tông đồ, sau khi Phêrô và Gioan chữa trị người què ở cổng Đền thờ (3,1-26), Phêrô nói với đám đông và ám chỉ Đức Giêsu như: tôi tớ của Thiên Chúa, Đấng Thánh và Đấng Công Chính, Tác giả của Sự sống, và Đấng Mêsia. Rõ ràng trong các sách Tin mừng, Phêrô có nhiều thiếu sót và những hành động sai lầm, nhưng nhờ kết quả của việc Đức Giêsu phục sinh và quà tặng của Thánh Thần, cuộc đời Phêrô đã thay đổi. Lời đáp của ông cho câu hỏi của Đức Giêsu tăng trưởng vì những sự kiện làm thay đổi cuộc sống nhờ vào sự vượt qua và sự phục sinh của Đức Giêsu.
Kinh nghiệm của Phêrô dạy rằng chúng ta không thể dùng câu trả lời của người khác để trả lời cho câu hỏi mà Đức Giêsu đã hỏi các môn đệ và tiếp tục hỏi chúng ta, "Còn anh em bảo Thầy là ai?" Câu hỏi này đòi chúng ta phải trả lời mỗi ngày. Chúng ta trả lời câu hỏi này bằng những quyết định mà chúng ta có liên quan đến chọn lựa của các bạn bè chúng ta; chúng ta sử dụng thời gian của mình ra sao; đầu tư cho các nguồn của chúng ta; đối xử với tha nhân, đặc biệt ý nghĩa tối thiểu; một sự sẵng sàng để được nhận biết như các môn đệ Đức Kitô; và sự thực hành từ chối bản thân trước của cải của người khác.
Đức Giêsu hứa trong quá trình từ bỏ cuộc sống hằng ngày của mình, chúng ta sẽ tìm lại được. Thế gian khuyên chúng ta tìm kiếm lợi lộc riêng mình, cẩn trọng và tìm kiếm bằng nỗ lực tối thiểu. Tôi đang giữ lại cho bản thân những gì? Tại sao? Đức Giêsu đòi hỏi sự rủi ro và lòng quảng đại khi người khác cần đến mình. Ở chỗ khác có nói hạt giống được tích trữ sẽ mục nát. Đó không phải sự tối thiểu mà tôi có thể làm - nhưng là hết khả năng.
Đức Giêsu không phải là người thích đau khổ, việc chọn đau khổ vì mục đích đau khổ. Hơn thế nữa, có lẽ được hướng dẫn bởi những ngôn sứ như Dacaria (trong bài đọc 1), Người đã nhận ra vai trò thiên sai như một người bị ruồng bỏ, đau khổ và thập giá. Người dạy cho Phêrô biết khái niệm về Đấng Mêsia. Đấng Mêsia sẽ phải đau khổ và trong hành động cũng dạy cho chúng ta cách thức để theo Người bằng cách sống cuộc đời của chúng ta. Theo Đức Giêsu làm cho chúng ta mở ra với cùng cách đối xử mà thế thế gian đã gây ra cho Người. Tuy nhiên, nó không kết thúc bằng cái chết, nhưng trong sự chung chia trong sự phục sinh và sự sống mới của Đức Giêsu.
Tín hữu Galat đề nghị cách thức những ai cùng với đời sống mới mà Đức Giêsu trao tặng, phải nhìn chính họ và thế giới. Khi chúng ta chịu thua thiệt như các môn đệ và đón nhận thập giá của Đức Kitô, thì chúng ta đã bước vào mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa và với cả người khác. Vì đời sống mới, chúng ta sẽ thấy được giá trị của mỗi và mọi người. Đó là lý do chúng ta được Đức Giêsu gọi để thể hiện sự ưa thích tối thiểu. Vì Đức Giêsu chúng ta chia sẻ cách ngang bằng như con cái của Thiên Chúa. "Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô"
Truyện cũ: Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không kham chịu: TN 12-C86
Truyện cũ: Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không kham chịu, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó, muốn chọn cây nào tùy thích. Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: Có cây thì qúa dài, cây thì qúa ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù xì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng qúa... Và rồi đêm nào cũng thế, cho đến một lần kia, anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái, anh vác thập giá đó về nhà. Nhưng hỡi ôi, khi nhìn kỹ lại, thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào!
Tiên tri Zacharia thi hành sứ vụ tại Giêrsalem vào khoảng năm 520-518 trước Công Nguyên. Sau cuộc lưu đầy ở Babylon, tiên tri đã trở về Giêrusalem cùng thời với Zerubbabel. Quan niệm thần học của Zacharia chú ý đến chức vụ tư tế và xây dựng lại đền thờ. Khai mạc một thời kỳ mới trong sự thịnh vương và vinh quang cho Giêrusalem. Tiên tri đã tiên báo về thánh thánh và về Đấng sẽ cứu chuộc Dân Người: Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng (Zach 12, 10). Zachariah đã hình dung thấy sự đau khổ và sự chết của Đấng Cứu Thế.
Chúa Kitô xuất hiện trong lịch sử nhân loại một cách rất âm thầm. Ngài nhập thể và nhập thế để trở nên giống như mọi người. Chúa ra rao giảng và kết thân với những người đơn sơ thanh bần. Một cách khiêm hạ hòa trộn chung sống với những người chài lưới, thất học. Tuy nhiên qua cung cách giảng dạy đầy uy quyền của Chúa, nhiều người đã tin theo. Họ đi theo Chúa. Họ tin vào Chúa nhưng chưa nhận biết rõ Chúa là Đấng nào. Hình dáng bề ngoài giống như một tiên tri, một thầy dạy và một sứ giả tin mừng. Chúa đã dạm hỏi các môn đệ: "Còn anh em , anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa."(Lc 9, 20). Đấng Kitô bao hàm một ý nghĩa sâu thẳm. Chính Phêrô cũng không hiểu rõ. Đấng Kitô là Đấng được Xức Dầu loan báo Năm Hồng Ân. Ngài là Con Thiên Chúa giáng trần. Ngài là Đấng trung gian giữa trời và đất. Ngài là Đấng cứu độ trần gian.
Đấng Kitô hiện hữu từ đời đời. Đã hạ thân làm người trong thời gian và không gian. Ngài đã đồng hành với con người thời đại một cách rất kiên nhẫn. Đấng Kitô là Ngôi Lời và là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan thông suốt đã đối diện với sự nông cạn, hẹp hòi và ích kỷ của con người. Ngôn ngữ loài người rất giới hạn để Ngài mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Chúa đã thực hiện những phép lạ để nói lên quyền năng vô hạn của Ngài. Uy quyền đó có thể thay đổi mọi sự theo ý muốn của Ngài. Trong khi trí khôn hiểu biết của con người phàm trần còn u mê và giới hạn. Một biển cả mênh mông làm sao có thể chứa trong một lỗ còng cỏn con. Mầu nhiệm Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài vượt trên tất cả sự suy tưởng của con người, làm sao hiểu thấu. Kiêu căng không chấp nhận sự cao siêu, nên nhiều người tìm cách chối từ. Có nhiều người đã từ chối chính Đấng đã dựng nên mình.
Chỉ cần một phép lạ thay đổi bản thể sự vật đáng làm cho chúng ta suy nghĩ và chìm đắm trong ân sủng của Thiên Chúa. Có nhiều người tìm cách chế diễu và nhạo cười những người tin vào quyền năng Thiên Chúa. Truyện kể: Trong một cuộc họp, một giáo sư vô thần chứng minh Chúa Kitô chỉ là một anh phù thủy. Khi đó, ông có một ly nước trước mặt. Ông bỏ vào một thứ bột và nước liền hóa ra mầu đỏ. Ông nói: Đó là một phép lạ. Đức Kitô đã giấu trong tay áo một thứ bột giống như bột này. Ông nói tiếp: Ngài đã làm phép lạ khi biến nước thành rượu theo cách này. Hãy xem đây, tôi còn làm những chuyện lạ hơn Đức Kitô nữa: Tôi biến rượu thành nước lã. Rồi ông đổ một thứ bột khác vào nước, nước đổi ra mầu trắng, rồi lại đỏ như trước với thứ bột khác. Một Kitô hữu đứng dậy nói: Thưa ông, ông thật giỏi. Nhưng tôi xin ông hãy uống thứ rượu đó, thứ rượu ông vừa làm phép lạ xem sao? Ông ta không dám uống vì đó là chất hóa học độc hại. Người Kitô hữu nói tiếp: Thưa quí vị, đó là sự khác biệt giữa Chúa Kitô và ông giáo sư này. Với rượu nho của Ngài. Ngài đã rót cho chúng ta 2000 năm hoan lạc rồi.
Qua nhiều thời đại, con người vẫn luôn tìm cách loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Họ muốn hoàn toàn làm chủ đời mình nhưng họ đã hoàn toàn bất lực và bó tay với sức tàn của hơi thở sự sống. Chúa cất hơi thở là họ sẽ trở về hư không. Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu từ đời này sang đời khác. Vũ trụ và muôn loài cũng hiện hữu trong sự xoay vần và thay đổi luôn. Sự có mặt của mỗi người ở trần gian chỉ trong khoảnh khắc của thời gian và không gian. Sự hiện hữu của con người ví như một hạt bụi hay một giọt nước trong đại dương nay còn mai biến mất. Sự có mặt của con người cũng chẳng làm thay đổi được sự hiện hữu của vũ trụ vạn vật. Đời sống con người như hoa sớm nở tối tàn thôi. Từ hư không, Thiên Chúa ban cho sự sống hiện hữu làm con người và tới một ngày, thân xác lại trở về hư không.
Đấng Kitô đã đến để mang Tin Mừng cứu độ và mạc khải cho con người về lối bước của Chúa. Ngài chỉ dậy cho chúng ta con đường lên thiên đàng. Chính Ngài đã mở lối theo con đường hẹp: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cung kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy."(Lc 9, 22). Đấng Kitô đã hạ thấp xuống cùng tận để nâng chúng ta lên làm con Chúa và cho chung hưởng hạnh phúc đời đời. Giống như chiếc máy bay phải hạ cánh đáp xuống đất để đón khách và từ đó mới bay lên không trung. Chúa Kitô chịu xả thân nhục nhã, chịu chết và sống lại để mang ơn cứu độ cho chúng ta.
Thánh Phaolô đã dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Kitô. Chúng ta được lãnh nhận Bí Tích thánh tẩy. Chúng ta thuộc về Chúa và mang danh Chúa Kitô: Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô (Gal 3,28). Tất cả những người tin Chúa đều được chia sẻ sự sống ân sủng do giá máu của Ngài. Trong Chúa Kitô: Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy Lạp, nô lện hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô (Gal 3, 28). Thật nhiệm mầu và cao quí thay! Càng suy gẫm, chúng ta càng cảm thấy tình yêu thương của Thiên Chúa bao la tuyệt vời. Không còn tình yêu nào cao quí hơn nữa. Chúa Kitô đã dùng mọi cách để mời gọi, hướng dẫn và trao ban ân sủng để giúp chúng ta đạt đến sự sống đời đời.
Phần chúng ta: Chúa Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9, 23). Muốn dõi theo đường đi lối bước của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài Thập Giá Đức Kitô. Chúng ta không vác thánh giá cuộc đời trong đơn côi nhưng cùng vác với Chúa. Chúa Giêsu khuyến khích: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Ta êm ái và gánh Ta nhẹ nhàng (Mt 11, 28-30).
Sống trên đời này, chuyện hết sức quan trọng của cuộc đời mỗi người đó chính là việc xác định nguồn: TN 12-C87
Sống trên đời này, chuyện hết sức quan trọng của cuộc đời mỗi người đó chính là việc xác định nguồn cội của mình. Khi xác định được nguồn cội của mình thì mình sẽ sống hết lòng hết sức với cái nguồn cội ấy. Còn khi ta không biết nguồn cội của ta thì ta sẽ sống một cuộc đời vất vưởng.
Niềm tin của mỗi người sẽ hướng con người về cội nguồn ấy. Với Phật tử, họ tin rằng có kiếp luân hồi để rồi người ta sống ở đời này làm lành và cấm sát sinh để sau này khi trở về với vòng luân hồi thì họ sẽ không phải làm cái thân cái phận của những con vật thuở sinh thời họ đã giết. Cấm sát sinh là điều hết sức quan trọng của Phật tử. Người Công Giáo thì lại khác, người Công Giáo thì lại tin rằng con người phát xuất từ Thiên Chúa. Sau cái cõi nhân gian này, con người sẽ trở về với tro bụi và chờ thân xác phục sinh để hưởng phúc Thiên đàng mà Thiên Chúa đã hứa ban.
Trong hành trình cứu độ, Thiên Chúa lúc ẩn, lúc hiện để nhắc nhớ cho con người rằng chính Ngài là Chúa, là chủ cuộc đời của họ. Ngài nhắc nhở cho con người qua môi miệng của các ngôn sứ.
Dân Israel là một dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương và luôn ấp ủ trong lòng bàn tay của Ngài nhưng vì kém lòng tin, nhưng vì kiêu ngạo nên Israel đã nhiều lần muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình cho rảnh mắt.
Những ngôn sứ nói lời Thiên Chúa cho dân thì có người này người kia, người lớn người nhỏ. Có những ngôn sứ lớn và nổi tiếng như Isaiam Giêrêmia nhưng cũng có những ngôn sứ nhỏ bé như Hôsê, Xôphônia, Khácgai, Dacaria ... Hôm nay, chúng ta được nghe lời sấm của Thiên Chúa từ miệng của Dacaria, một ngôn sứ hết sức nhỏ bé.
Dacari đã công bố cho Israel biết rằng Đức Vua của Israel đang ngự đến trong khiêm tốn, trên một con lừa mà có cả con của nó đi theo mẹ. Đức Vua của Israel sẽ quét sạch chiến xa khỏi Épraim và chiến mã khỏi Giêrusalem, cung nỏ chiến tranh cũng sẽ bị Đức Vua bẻ gãy, Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng trái đất. Đức Vua của Israel sẽ xuất hiện giữa dân người, mũi tên của Người sẽ phóng đi tự tia chớp, Người sẽ tiến bước trong gió bão phương Nam. Đức Vua sẽ che chở cho dân và nghiền nát và chà đạp những viên đá phóng ... Đức Vua sẽ cứu thoát dân của Người như mục tử cứu thoát đoàn chiên ...
Qua miệng của Giacaria, hôm nay Đức Vua của Israel còn hứa: Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng. Ngày ấy, tiếng khóc than sẽ vang dội khắp Giêrusalem, như người ta than khóc thần Hađát Rimmôn ở cánh đồng Mơghítđô. Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế. Không chỉ thế, Đức Vua còn hứa thêm rằng: Ta sẽ đưa một phần ba này qua lửa, sẽ luyện chúng như người ta luyện bạc, và thử chúng như thử vàng. Chính chúng sẽ kêu cầu danh Ta, và Ta, Ta sẽ đáp lời chúng; Ta sẽ nói: "Chúng là dân của Ta", chúng thưa lại: "Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi."
Dừng lại một chút, chúng ta thấy mối tình giữa Thiên Chúa và dân Israel sao mà hay quá, sao mà đẹp quá ! Thiên Chúa đã quên hết tất cả tội lỗi, tẩy trừ tội lỗi cho dân để cho dân được trở thành con cái của Thiên Chúa như ngày xưa khi chưa phạm tội. Thiên Chúa luôn luôn hứa rằng Chúa là Chúa của dân và điều Ngài mong đợi duy nhất đó chính là dân nhận ra Ngài là Chúa của họ. Thế nhưng, đáng tiếc thay tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân đã bị dân bóp méo, bị dân làm cho nó ra hoen ố.
Thật sự ra mà nói thì cuộc đời nó không suông sẻ như người ta nghĩ. Giá như mà dân Israel lúc nào cũng tuyên xưng "Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi" thì hay biết mấy và chẳng có vấn đề gì cả. Dân Israel ngày xưa đã không trung thành giữ giao ước như lòng Chúa mong ước. Vì cái giao ước Tình Yêu được thiết lập bị bẻ gãy để rồi Thiên Chúa đã sai chính đứa con duy nhất, con Một của Ngài xuống trần gian để hàn lại, để sửa lại giao ước mà con người đã đánh mất.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian, đã sống trong trần gian một cách hết sức gần gụi, hết sức thân thương. Cũng đáng tiếc là trong cái hết sức gần gụi, hết sức thân thương đó đã làm cho người ta mờ con mắt ra và người ta không thấy Chúa Giêsu.
Trang Tin mừng hết sức vắn gọn hôm nay Thánh Luca thuật lại cho chúng ta hết sức là hay, vỏn vẹn chỉ có 4 câu thôi. Thật ra 4 câu nhưng chỉ có một câu quan trọng "Dân chúng nói Thầy là ai ?". "Dân chúng nói Thầy là ai ?" mới là chuyện quan trọng.
Chúa Giêsu hỏi và rồi người này kẻ nọ cũng trả lời nhưng phải chăng những câu trả lời ấy là những câu trả lời theo lối nhìn "phàm tục". Duy nhất chỉ có câu trả lời của thánh Phêrô là câu trả lời "thánh thiêng". Phêrô trả lời hết sức chính xác rằng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Câu trả lời hết sức quan trọng nhưng quan trọng hơn là sống câu trả lời đó như thế nào?
Thánh Phêrô trả lời đúng, các môn đệ khác trả lời chưa đúng nhưng cũng kịp thời sửa sai câu trả lời của mình theo như câu trả lời của Thánh Phêrô. Chuyện quan trọng là các môn đệ đã sống trọn vẹn cuộc đời của mình với câu trả lời của Thánh Phêrô.
Không phải ngày xưa Chúa Giêsu mới hỏi, ngày hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta: Ai là thầy của chúng ta và thầy của chúng ta là ai trong cuộc đời của chúng ta. Mỗi người chúng ta trong mỗi bậc sống đều phải trả lời cái câu hỏi này vì câu hỏi này là câu hỏi căn cốt, câu hỏi quyết định đời sống của chúng ta.
Là chồng, chúng ta có can đảm trả lời: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Là vợ, chúng ta có can đảm trả lời: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Là con, chúng ta có can đảm: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Là bề trên trong cộng đoàn tu, chúng ta có can đảm trả lời: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Là bề dưới trong cộng đoàn tu, chúng ta có can đảm trả lời: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Nếu chúng ta can đảm trả lời "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa" như Thánh Phêrô thì chúng ta cũng hãy diễn tả cuộc đời của chúng ta như Thánh Phêrô cũng như các môn đệ xưa đã diễn tả, đã sống. Đừng để cho lời nói của chúng ta xa lìa hành động của chúng ta. Khi chúng ta để lời nói xa rời hành động thì con người của chúng ta chẳng ra làm sao cả.
Văng vẳng bên tai lời của Chúa Giêsu: "Không phải những ai nói Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào Nước Trời". Nếu chúng ta tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa mà chúng ta không sống theo lời tuyên xưng ấy thì lời tuyên xưng của chúng ta cũng chỉ là lời tuyên xưng trống rỗng và sáo ngữ.
Nguyện xin Chúa Giêsu ban thêm sức cho mỗi người chúng ta để chúng ta can đảm tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa thì chúng ta cũng sống đúng như lời chúng ta tuyên xưng ấy. Xin Chúa ban sức cho chúng ta để chúng ta nhận ra Chúa chính là Thầy, là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống và là cùng đích của cuộc đời chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay có vẻ như một bài kiểm tra trong lớp học. Thầy giáo đặt câu hỏi và học sinh: TN 12-C88
Bài Phúc âm hôm nay có vẻ như một bài kiểm tra trong lớp học. Thầy giáo đặt câu hỏi và học sinh hăm hở đưa tay trả lời. Chúng ta nghe câu Chúa Giêsu hỏi: "Dân chúng nói Thầy là ai?" Câu trả lời ngay: "Ông Gioan Tẩy Giả", "Elia", "Một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại".
Chúng ta nghe các câu trả lời, nhưng các bạn có biết phản ứng của các gương mặt của những người trả lời ra sao không? Chắc những người này đã kéo đoàn hò reo đi theo một thủ lĩnh với đầy tham vọng và đắc ý. Họ đang đi với một thủ lĩnh đang rao giảng và được dân chúng ủng hộ. Họ chỉ có suy nghĩ đơn giản là coi Thầy họ ngang hàng với Gioan Tẩy Giả, Elia, hay một ngôn sứ? Các môn đệ đang nghĩ họ đang tiến đến vinh quang. Có thể đúng thật, nhưng không phải loại vinh quang như các ông đang nghĩ.
Trong lớp, khi học sinh không trả lời đúng câu hỏi, thì Thầy giáo đặt lại câu hỏi theo cách khác. Đó là việc Chúa Giêsu làm. Chúa Giêsu lại đặt câu hỏi chú trọng vào các ông, mong rằng các ông sẽ trả lời đúng kinh nghiệm của các ông về Thầy họ. "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Phêrô, thủ lĩnh của nhóm, đôi khi cũng không trả lời đúng câu hỏi được. Nhưng, lần này, Phêrô có vẻ trả lời đúng "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Gương mặt của Phêrô trong lúc trả lời trông ra sao? Có vẻ tôn kính, hay kính sợ? Hài lòng vì mình trả lời đúng? Phêrô trả lời đúng, nhưng ông ta hiểu sai về phong cách Chúa Giêsu là "Đấng Kitô của Thiên Chúa". Các môn đệ, kể cả Phêrô, còn phải tìm hiểu nhiều về Chúa Giêsu là ai. Vì thế khi thầy giáo bảo các học sinh im lặng có nghĩa là các em còn phải học hỏi nhiều. Cũng vậy, đối với các tông đồ, Chúa Giêsu muốn các ông luôn học hỏi về Ngài. Và các buổi học sau Chúa Giêsu dạy cho các ông về tin mừng Ngài đem đến. Là "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy."
Sau đó Chúa Giêsu bắt đầu hành trình đi Giê-ru-sa-lem. (Chúng ta sẽ nghe đoạn này phúc âm thánh Luca tuần tới). Ngài dạy các ông nhiều lần nữa trong lúc các ông đồng hành với Thầy lên thành thánh. Trên đường đi các ông sẽ nghe Thầy dạy dỗ; Thầy sẽ tranh luận với các lãnh đạo tôn giáo, và các ông sẽ trông thấy Thầy chữa bệnh và tha thứ cho người tội lỗi. Suốt mùa Hè cho đến tháng 11, chúng ta sẽ cùng đi với các ông, và sẽ nghe các câu chuyện Phúc âm trên đường lên Giê-ru-sa-lem.
Các môn đệ sẽ hiểu biết thêm Chúa Giêsu là ai. Nhưng cuối cùng, các ông sẽ ngỡ ngàng và bị khủng hoảng vì sự đau khổ của Chúa Giêsu và các ông sẽ bỏ chạy mất. Là Thầy các ông, Chúa Giêsu không bỏ rơi các ông. Ngài sẽ chịu đau khổ và chịu chết, nhưng, như Thầy đã nói với các ông là đó không phải là kết thúc câu chuyện "Đến ngày thứ ba" Thầy sẽ chỗi dậy. Lúc bấy giờ, các ông chưa hiểu Thầy muốn nói gì trên con đường vinh quang các ông đang đi. Nhưng, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục dạy dỗ các ông, cho đến khi Ngài trở về với Chúa Cha. Rồi Chúa Giêsu sẽ gởi Thánh Thần xuống trên các ông, vì ngay đoạn đầu Phúc âm chúng ta đã nghe Gioan Tẩy Giả nói: "Đấng đến sau ông sẽ "làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa" (Lc 3:16)
Các môn đệ cần phải hiểu các phép lạ Chúa Giêsu làm, và sự hoan hô của đám đông, không đáp đúng câu hỏi của Chúa Giêsu. "Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?" Tháng vừa qua, chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần. Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã hứa. Nhưng, thử hỏi chúng ta có biết gì nhiều hơn các môn đệ trong lúc các ông đi theo Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem không? Hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta chút ánh sáng để hiểu biết thêm về việc làm môn đệ của Ngài là thế nào, và tôi muốn nói sang đề tài khác. Tôi cũng như một học sinh đang gặp một bài học khó hiểu. Tôi đợi đến giờ chơi để ra khỏi lớp.
Đối với môn đệ của Chúa Giêsu, không có niềm vui sâu đậm nào mà không có bóng dáng ơn Chúa Thánh Thần. Nói vậy không có nghĩa là đối với người môn đệ, đường lên Giê-ru-sa-lem là một hành trình vui vẻ đâu. Hôm nay Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết là ai muốn theo Ngài có thể phải trả một giá đắt là sẽ bị chết. Nếu theo Chúa Giêsu là lên đường thắng cuộc, thì chúng ta nên kết luận rằng thắng cuộc là do bởi sự cố gắng của chúng ta. Chúng ta làm việc nhiều, cố gắng nhiều và chúng ta thắng cuộc. Nhưng, ngược lại, khi chúng ta theo chân Chúa Giêsu, chúng ta nghiệm lại sự yếu đuối, và thất bại như các môn đệ đã gặp. Và rồi, chúng ta lại tìm thấy sự vui vẻ mới, và chúng ta kiên trì trong đau khổ, và điều đó do bởi Chúa Thánh Linh của Đấng đã hứa là Ngài sẽ chỗi dậy vào ngày thứ ba phải không?
Chúng ta hiểu ngay vì sao bài Phúc âm hôm nay liên hệ đến bài đọc thứ nhất của ngôn sứ Zacaria.
Đối với nhiều người, ngôn sứ viết về người chịu khổ là một điều khó hiểu. Mặc dù chúng ta không hiểu ngôn sứ có ý gì, nhưng các Kitô Hữu tiên khởi hiểu đoạn văn này ám chỉ Chúa Kitô. Ngôn sứ Zacaria có thể viết về một số người tốt và huy hoàng trong quá khứ, và ngay cả đến bây giờ, đã bị chịu khổ hình vì họ giúp đỡ người khác. Tiếc thay số các thánh chịu chết vì đạo rất nhiều. Không ai có thể biết được người nào đại diện Thiên Chúa, và theo đường Thiên Chúa có thể dắt đến đỉnh tối cao đó.
Zacaria diễn tả Thiên Chúa là "Thần Khí ơn huệ và khấn nguyện" đối với những người chống đối lại. Và rồi, như một tấm màn được vén lên, những người đó sẽ trông thấy sự dữ họ đã làm (chúng sẽ nhìn lên Ta, người chúng đã đâm, chúng sẽ khóc than như người ta khóc than người con một...") và họ sẽ thay lòng đổi dạ và trở về với Thiên Chúa. Sự tha thứ của Thiên Chúa sẽ như "suối mở ra... để tẩy rửa tội lụy và uế nhơ".
Hãy trở về với lớp học chúng ta. Chúng ta tập ăn năn như các môn đệ một cách máy móc, không như đức tin mà chúng ta đã tuyên xưng. Chúng ta chỉ trả lời "xin vâng" trên môi hay "Thầy là Đức Kitô" mép thôi nhưng lại không chấp nhận lối sống của Đấng Kitô, vì chúng ta chọn sự khai thác hơn là phục vụ; chọn sự lấy lòng hơn ngay thẳng; chọn sự tích lũy hơn là chia sẻ; chọn quyền uy hơn bình đẳng; chọn lên án hơn là tha thứ.
Chúng ta thấy rõ là Chúa Giêsu đã nói là làm môn đệ của Ngài không phải là việc làm bán thời gian: Chỉ là vào ngày Chúa Nhật ở nhà thờ và đôi khi hãy làm vài việc thiện trong cả tuần. Vác thánh giá không phải là hành động trong ngày thứ Sáu Tuần thánh, nhưng phải luôn vác khi nào chúng ta cảm thấy có năng lực. Và cũng không phải hy sinh vì danh thánh Chúa Giêsu là việc dành riêng cho các thánh Tử đạo mà thôi. Trái lại, Chúa Giêsu đòi hãy hy sinh mạng sống mình vì danh Ngài hàng ngày. Vì thế, trong suốt đời theo làm môn đệ Chúa. Và việc vác thánh giá không chỉ dành riêng cho một số ít người, nhưng tất cả chúng ta, các môn đệ đều phải làm để theo Chúa Giêsu.
Bài Phúc âm hôm nay bắt đầu "Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình". Việc cầu nguyện là điểm chính trong phúc âm thánh Luca, và thường xảy ra trước một việc quan trọng. Thí dụ: trước khi Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:21); trước khi Chúa Giêsu chọn mười hai tông đồ (6:12); Phêrô tuyên xưng đấng Kitô trước khi Chúa Giêsu tiên báo sự đau khổ của Ngài (9:18); trước khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ đọc kinh "Lạy Cha" (11:2) v.v... Thánh Luca thường viết Chúa Giêsu đi một mình để cầu nguyện.
Người đọc Phúc âm thánh Luca cần phải học hỏi để trở nên môn đệ Chúa không chỉ do lời dạy của Chúa Giêsu, hay là người đó có lòng đạo đức tốt mà thôi. Nhưng thật ra, chúng ta học cầu nguyện nơi Chúa Giêsu vì Ngài luôn cầu nguyện; đó là hành trang của chúng ta trên đường đi theo Ngài, ngay cả khi chúng ta cùng chịu đau khổ vì Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Ai lại muốn theo Thầy khi nghe thầy bảo hãy chịu đau khổ? Ai lại muốn khi làm môn đệ thì phải luôn chịu hy sinh? Ở Brooklyn, người ta thường trả lời vấn nạn này bằng câu "hãy thử xem".
Nhưng, Phúc âm thánh Luca (và sách Công vụ Tông đồ) hứa với chúng ta là chúng ta không đi một mình chúng ta trên đường đời. Chúng ta, những người đã nhận Bí tích Rửa tội, đã được Chúa Thánh Linh cho chúng ta năng lực và xức dầu chúng ta để hàng ngày giúp chúng ta làm việc bổn phận. Có lẽ vì thế mà thánh Luca nói Chúa Giêsu năng cầu nguyện để nhắc chúng ta luôn cầu nguyện. Vì khi cầu nguyện, mắt chúng ta sẽ được mở ra, và chúng ta sẽ cảm nhận được Chúa Giêsu và Chúa Thánh Linh đang cùng đồng hành với chúng ta trên đường đi Giê-ru-sa-lem.
Theo báo tuổi trẻ đã đăng về cái chết đẹp của chị Trương Thị Hồng Phượng. Chị đã tình nguyện: TN 12-C89
Theo báo tuổi trẻ đã đăng về cái chết đẹp của chị Trương Thị Hồng Phượng. Chị đã tình nguyện hiến tặng giác mạc của mình để đem lại ánh sáng cho ai đó sau khi biết mình mắc bệnh ung thư dạ dày. Chị đã an nghỉ ngày 19.05 và gia đình cùng bác sĩ đã thực hiện theo đúng di nguyện của chị.
Chuyện chị Hồng Phượng hiến giác mạc đã làm rung động trái tim hàng triệu con người. Không phải đổi để lấy điều kiện vật chất cho gia đình, dù gia đình chị thuộc loại nghèo xơ nghèo xác, nghèo đến độ các bác sĩ điều trị không cầm nổi nước mắt... Nếu chị bán có rất nhiều người sẵn sàng bỏ tiền ra mua, thậm chí rất nhiều tiền đủ để gia đình chị xoay xở qua lúc khó khăn. Chị có quyền làm như vậy chứ. Chị hiến giác mạc để làm gì? Lấy tiếng ư?
Không! Đơn giản đối với chị con người khi chết rồi cũng trở về cát bụi, dù nghèo hay giàu, sang hay hèn, dù sáng mắt hay mù lòa. Rồi tất cả sẽ là quá khứ, sẽ chìm vào quên lãng, chỉ biết rằng sẽ có một người mù được nhìn thấy ánh sáng, được sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, được tái sinh bằng trái tim của một người phụ nữ nhà quê nghèo mà giàu lòng nhân ái.
Trong truyện Thiên long bát bộ của Kim Dung cũng từng có nhân vật Du Thản Chi vì quá yêu thương nàng A Tử nên đã tự làm mình mù để A Tử được sáng mắt. Đó là cái đẹp của tình yêu, nhưng cũng là cái ngu dốt và nông nổi của tình yêu vì cuối cùng A Tử đã tự móc đôi mắt mình để trả cho Du Thản Chi. Nàng không cảm kích tình yêu vô bờ bến của Du Thản Chi mà ôm xác người yêu Kiều Phong nhảy xuống vực thẳm.
Nếu so sánh với Du Thản Chi, sự hi sinh của chị Phượng có nhiều điều đáng để người đời khâm phục vì chị đâu biết mình sẽ làm cho ai được sáng mắt, đâu cần người sẽ được tái sinh một cuộc đời mới từ trong tăm tối phải cảm kích, trả công... vì chị đã thanh thản về nơi chín suối.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một cuộc sống đẹp. Một cuộc sống đẹp không phải là cuộc sống có nhiều tiền, nhiều của hay có công danh giữa đời. Một cuộc sống đẹp là cuộc sống biết hy sinh để đóng góp cho đời thêm niềm tươi vui và hy vọng. Một cuộc sống dám hiến dâng mạng sống mình cho lợi ích của tha nhân. Một cuộc sống từ bỏ những niềm vui cá nhân để sống vì hạnh phúc tha nhân. Một cuộc sống không tìm niềm vui cho cá nhân nhưng tìm niềm vui trong công việc phục vụ tha nhân.
Đó là một cung cách sống mà Chúa Giê-su đã sống và mời gọi chúng ta hãy sống theo mẫu gương của Ngài. Ngài hằng mời gọi chúng ta: "Ai muốn theo tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo tôi". Thập giá chình là những bổn phận phải có để chu toàn vì thiện ích của tha nhân. Thập giá qua những hy sinh, những vất vả vì hạnh phúc của tha nhân. Thập giá qua những từ bỏ những đam mê bất chính, những niềm vui tội lỗi để làm gương sáng cho anh em, cho bạn bè. Chính Chúa Giê-su Ngài đã sống chu toàn thánh ý Chúa Cha đã cứu độ nhân loại. Chính Ngài đã từ bỏ mọi sự kể cả vinh dự Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi vì hạnh phúc của chúng sinh. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì bạn hữu, và để cứu độ nhân gian. Đó là một tình yêu cao vời đến nỗi "không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám chết cho bạn hữu của mình". Đó là một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu không toan tính thiệt hơn chỉ mong sao mang lại hạnh phúc cho những ai đang ngụp lặn trong đêm tối thất vọng, trong bóng đêm khổ đau.
Có lẽ mỗi người chúng ta đều thán phục cách cho đi của chị Hồng Phượng. Chị đã cho đi mà không so đo tính toán. Chị đã can đảm làm chứng cho một tình yêu vô vị lợi giữa một xã hội mà tình người đang giảm giá để cho vật chất lên ngôi. Con người hôm nay cần tiền chứ không cần tình. Người ta sẵn sàng chà đạp lên công lý, lên tình nhân loại nếu vật chất của họ bị đe doạ. Người ta không còn tình người vì tưởng rằng đồng tiền có thể giải quyết tất cả. Thế nhưng, giữa sa mạc khô cằn tình người vẫn còn đó những con người không để danh lợi thú làm mất đi tấm lòng cao thượng. Họ thà sống nghèo nhưng tấm lòng họ thật thanh cao. Họ sẵn sàng cống hiến cho đời đến hơi thở cuối cùng. Đó phải là cuộc sống của những người môn đệ Chúa. Một cuộc sống trao ban mà không so đo tính toán. Một cuộc sống hiến dâng đầy quảng đại và vô vị lợi. Một cuộc sống dám chấp nhận như hạt lúa chịu mục nát để mang lại màu xanh cho cuộc đời.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết từ bỏ chính mình để sống một cuộc sống có ích cho tha nhân. Ước gì mỗi người chúng ta biết khôn ngoan chọn lựa những giá trị vĩnh cửu thay cho những phù phiếm mau qua, như cha ông ta từng nói:
"Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây phúc để đời về sau".
Nguyện xin Chúa là Đấng dám chết cho người mình yêu giúp chúng ta biết sống cao đẹp trong hy sinh từ bỏ, trong bác ái dấn thân vì lợi ích tha nhân. Amen
Tôi là ai? Một câu hỏi mà các triết gia xưa nay không ngừng tự vấn bản thân mình. Nhiều triết gia: TN 12-C90
Tôi là ai? Một câu hỏi mà các triết gia xưa nay không ngừng tự vấn bản thân mình. Nhiều triết gia cổ đại như Socrates đã khẳng định rằng biết mình chính là một trong những cái biết làm nền tảng của mọi sự hiểu biết và của sự thành công và cả sự thành nhân. Lão Tử nói: "Biết người là khôn. Biết mình là sáng". Khôn thì có thể dụng người, có thể lừa người, có thể thành đạt ở đời này trong lãnh vực kinh doanh, chính trị... Nhưng sáng thì có được nhận thức đúng đắn hơn về con người, về cuộc đời, về thế giới... Sáng thì giúp ta sống đúng phận người trong cõi nhân sinh, nói theo các hiền nhân thì cái sáng giúp ta sống đắc đạo dù nhiều khi có thể gặp vất vả hay lận đận trong cuộc đời này.
Nội dung bài Tin Mừng thánh Luca mà Giáo Hội cho trích đọc trong Chúa Nhật XII TN C cũng được Tin Mừng thánh Matthêu và Tin Mừng thánh Maccô tường thuật. Đây không chỉ là bằng cớ minh chứng tính lịch sử của sự kiện Chúa Giêsu tâm sự với các môn sinh mà còn có thể xem là một kỷ niệm khó quên đối với các ngài. Theo các chuyên gia nghiên cứu Tin Mừng, cách riêng các Tin Mừng Nhất Lãm thì cuộc đời hoạt động của Chúa Kitô có thể được phân thành ba giai đoạn chính như sau:
- Giai đoạn thứ nhất: Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, thi thố quyền năng và thu nạp môn đệ.
- Giai đoạn thứ hai: Chúa Giêsu huấn luyện các môn sinh.
- Giai đoạn thứ ba: Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn và phục sinh.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn bản lề, mang tính quyết định cho công cuộc cứu thế của Chúa Kitô. Thời gian Chúa Kitô dẫn môn sinh lánh xa quần chúng, tạm ngưng các hoạt động rao giảng, chữa lành bệnh tật... để hàn huyên tâm sự không chỉ là thời gian Người dành riêng để huấn luyện các tông đồ mà còn là thời gian đặc biệt để chính Người "biết mình" hơn. Khi đã nhận rõ và xác tín về căn tính của mình thì người ta sẽ thấy đúng con đường mình sẽ đi cũng như nhiệm vụ mình sẽ hoàn thành. Quả thật, nhiều khi chúng ta có thể bị những hoạt động tốt đẹp bên ngoài lôi cuốn đi lệch mục tiêu sứ mệnh của mình. Ngoài những giây phút hồi tâm từng ngày vốn là cần thiết để kiểm định việc đã làm và hoạch định việc sẽ làm, cũng rất cần những khoảng thời gian dừng chân nào đó tương đối dài giúp nhận thức đúng và xác định căn tính của mình để lại tiếp tục dấn thân thực thi sứ mệnh. Qua câu chuyện giữa Chúa Giêsu và các môn đệ cũng như qua các bài đọc của Chúa Nhật XII TN C, chúng ta có thể nhận ra một vài phương thế để "biết mình" như sau:
- "Dân chúng nói Thầy là ai?" (Lc 9,18). Để biết mình thì việc lắng nghe, tiếp thu nhận định của tha nhân là điều như không thể thiếu. Phận người chúng ta khó tránh khỏi sự chủ quan khi xét, nghĩ về mình. Cha ông chúng ta đã từng cảm nghiệm: "việc người thì sáng, việc mình thì quáng".
- "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" (Lc 9,20). Trong các ý kiến, các nhận định của tha nhân, thì các nhận định, các ý kiến của người thân quen xem ra khá gần với sự thật hơn cả. Khi hướng dẫn các em thiếu niên, thanh niên tìm hiểu các mặt mạnh-yếu của chúng, tôi thường nhắc nhớ các em ưu tiên lưu ý đến những nhận xét của cha mẹ, của anh chị em ruột thịt, của các bạn bè thân thuộc. Có thể nói rằng các nhận xét của những người này rất đáng lưu tâm vì chính họ là những người gần gũi chúng ta hơn nên biết nhiều về chúng ta, và nhất là, vì là những người có lòng với chúng ta, nên lời của họ trung thực hơn.
Các ý kiến, những nhận định của tha nhân dù gần hay xa, dù thân hay sơ tuy cần thiết và có giá trị nào đó, nhưng chúng không thể thay thể nhận định của bản thân mình. Trong niềm tin Kitô giáo thì sự tự nhận định của chúng ta không dừng lại ở việc tự kiểm thảo, tự suy tư, phân giải về mình mà theo ngôn ngũ triết học là phản tỉnh, mà còn phải nhận biết mình theo cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi tâm can bí ẩn lòng người, Đấng cho chúng ta từ hư vô được hiện hữu trong dòng đòi này. Nói như thánh Âugustinô thì chính Thiên Chúa mới cho chúng ta biết cách chính xác mình là ai và qua đó biết sứ mạng của mình là gì. Một lời cầu nguyện của thánh giáo phụ xem ra khá phổ biến, đó là: "Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết con".
Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế như qua kỳ công của Người là vũ trụ thiên nhiên, qua các biến cố lịch sử, qua tiếng lương tâm... nhưng trong các cách thế ấy thì có thể nói Thánh Kinh là cách thế Thiên Chúa tỏ bày chương trình và ý định của Người cách rõ nét hơn cả. Chúa Kitô khi vào đời trong thân phận phàm nhân, đã dùng phương thế này để nhận biết căn tính cũng như sứ mạng của Người.
"Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu... Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế" (Dcr 12,11;13,1). Khi khẳng khái tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa", chắc chắn Phêrô chưa hiểu đủ và hiểu đúng nội hàm về Đấng Kitô. Trong nhiều đoạn Thánh Kinh thì những lời của ngôn sứ Giacaria trên đây đã góp phần giúp Chúa Giêsu nhận rõ căn tính và sứ mạng Kitô của mình. Biết mình đến thế gian không phải để được người ta hầu hạ nhưng để hầu thiên hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người, vì thế "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy" (Lc 9,22). Sau khi nhận rõ căn tính và sứ mạng của mình, thì Chúa Giêsu đã cương quyết lên Giêrusalem, nghĩa là Người biết Người sẽ làm những gì (x. Mt 20,17-19; Mc 10,32-34, Lc 18,31-34).
Tôi là ai? Bởi đâu tôi được sinh ra làm người và sống ở đời này để làm gì? Những câu hỏi trên đã làm nhiều học giả, nhiều nhà hiền triết thao thức và dường như không thể có câu trả lời thỏa đáng. Một sản phẩm không thể nào tự minh định đầy đủ về mình về lý do cũng như ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Không một ai ngoài chính người làm ra sản phẩm ấy mới biết đích xác những điều ấy, nghĩa là sản phẩm ấy là gì, được làm ra như thế nào và để làm gì. Khi đã tin rằng chính Thiên Chúa dựng nên mọi sự và dựng nên chúng ta, thì chỉ có Người mới cho chúng ta biết cách chính xác chúng ta là ai, có mặt ở đời này để làm gì. Vì thế, những khoảnh khắc, những giai đoạn dừng chân để nhận thức căn tính cũng như sứ mạng của mình quả là điều không thể thiếu. Dừng chân để nghe tiếng Chúa qua nhận định của tha nhân, của người thân cận, qua dòng chảy của lịch sử tự nhiên và xã hội, qua lời Thánh Kinh mà đặc biệt là qua cuộc đời, việc làm, lời giảng dạy của Đấng chính là Ngôi Lời nhập thể. Biết mình là cái biết nền tảng để thành nhân và thành người con cái Chúa.