Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 28-C Bài 151-186 Thái độ của 10 người phong cùi

Chủ nhật - 09/10/2022 05:22
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 28-C Bài 151-186 Thái độ của 10 người phong cùi
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 28-C Bài 151-186 Thái độ của 10 người phong cùi
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 28-C Bài 151-186 Thái độ của 10 người phong cùi
------------------------
Phúc Âm: Lc 17, 11-19: "Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười
người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". - Ðó là lời Chúa.
-------------------------------------
TN 28-C151: Suy niệm Chúa Nhật 28 Thường Niên. 2
TN 28-C152: Nhận ra ân huệ Chúa ban. 4
TN 28-C153: Sống tri ơn sống hạnh phúc. 6
TN 28-C154: Đẹp lắm lời tạ ơn. 9
TN 28-C155: BIẾT ĐỂ SỐNG.. 13
TN 28-C156: LỜI CÁM ƠN VÀ TẠ ƠN.. 14
TN 28-C157: MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI 16
TN 28-C158: CA TỤNG CHÚA.. 18
TN 28-C159: ĐÓN GẶP CHÚA.. 20
TN 28-C160:  VƯỢT LÊN CHÍNH MÌNH.. 21
TN 28-C161: LÒNG BIẾT ƠN VÀ LÒNG TIN.. 22
TN 28-C162: THỂ HIỆN LÒNG BIẾT ƠN.. 24
TN 28-C163: CHỨNG TRẦM KHA.. 34
TN 28-C164: GẶP ĐẤNG KITÔ.. 40
TN 28-C165: LÒNG BIẾT ƠN.. 41
TN 28-C166: “MẮC NỢ!”. 43
TN 28-C167: SỐNG TÂM TÌNH CẢM TẠ THIÊN CHÚA.. 48
TN 28-C168: BỆNH PHONG CÙI 50
TN 28-C169: Ý NGHĨA CỦA PHÉP LẠ.. 52
TN 28-C170: NHẬN RA ƠN CHÚA.. 55
TN 28-C171: LÀM ƠN ĐỪNG NHỚ, CHỊU ƠN CHỚ QUÊN.. 57
TN 28-C172: TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA.. 60
TN 28-C173: SỐNG LÒNG BIẾT ƠN THIÊN CHÚA.. 62
TN 28-C174: NGƯỜI SAMARI TRỞ LẠI TÔN VINH THIÊN CHÚA.. 65
TN 28-C175: BIẾT ƠN. 68
TN 28-C176: KHÔNG PHẢI TẤT CẢ ĐỀU SẠCH CẢ SAO?. 70
TN 28-C177: CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_C.. 72
TN 28-C178: LÒNG BIẾT ƠN.. 74
TN 28-C179: TẠ ƠN CHÚA: MỘT ĐIỀU CẦN THIẾT! 76
TN 28-C180: HÃY LÀ NGƯỜI BIẾT ƠN.. 78
TN 28-C181: SỐNG LÀ ĐỘI ƠN và ĐỘI ƠN LÀ SỐNG.. 80
TN 28-C182: MỘT VÀ CHÍN.. 83
TN 28-C183: NIỀM TIN VÀ LÒNG BIẾT ƠN.. 86
TN 28-C184: HÒA LỜI CẢM TẠ.. 90
TN 28-C185: NHẬN BIẾT VÀ CẢM ƠN, CHỮA LÀNH VÀ CỨU ĐỘ TẠ ƠN.. 92
TN 28-C186: THÓI TRỜI THÓI ĐỜI 96
----------------------------------
 

TN 28-C151: Suy niệm Chúa Nhật 28 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
 

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa chữa 10 người phong cùi được lành bệnh, nhưng trớ trêu thay trong TN 28-C151


Bài Tin Mừng hôm nay Chúa chữa 10 người phong cùi được lành bệnh, nhưng trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.

Đầu tháng 10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không Panam (Mỹ), chở mấy trăm Giám mục người Mỹ đi họp Công Đồng chung Vatican II. Trên máy bay có một cô tiếp viên hàng không đẹp tuyệt vời. Đức Cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục giáo phận New York , đã lưu ý đến sắc đẹp kiều diễm của cô tiếp viên này. Thế rồi, khi phi cơ hạ cánh, cô đứng bên cửa xuống cầu thang chào tạm biệt và hành khách đáp lại hai tiếng cảm ơn. Nhưng đến lượt Đức Cha Fulton Sheen, người ta thấy ngài ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia và nói nhỏ một câu gì không ai nghe được.

Bốn tháng sau, khi khóa I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các Giám Mục về nước.

Rồi bỗng một hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ tìm đến gặp Đức Cha Fulton Sheen: “Thưa Đức Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai không?”

– “Tôi còn nhớ lắm, cô là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa chúng tôi đến Rôma”.

– “Nhưng Đức Cha còn nhớ Đức Cha đã nói gì với con không?”

– “Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời như thế không?”

– “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con đến hầu chuyện Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà Cha nghĩ con phải làm gì để tạ ơn Chúa?”.
Trước một câu hỏi đột ngột, Đức Cha Fulton Sheen lúng túng không biết trả lời làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực, rồi ngước mắt lên trời như thể xin ơn soi sáng. Sau đó ngài nói: “Cha vừa mới được một tin từ Việt Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp đang là Giám Mục giáo phận Sài Gòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trại phong cùi ở Di Linh – Lâm Đồng. Những người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con ạ! Họ đang chờ cái chết đến với họ. Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng Ngài hơn cả và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên sắc của con để an ủi họ”.

Mặt cô tiếp viên tái mét. Cô đứng lặng yên một hồi lâu. Sau đó cô cúi đầu tạm biệt không nói một lời.

Thế rồi đầu năm 1963, đài phát thanh cũng như báo chí ở Sài Gòn loan tin: “Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng để sống với những người phong cùi trong sáu tháng”.

Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt.

Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (Lv13,1-44).

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa chữa 10 người phong cùi được lành bệnh, nhưng trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.

Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cảm ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân!

Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người.

Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói "cảm ơn" với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.

Người ta có muôn vàn cách để cảm ơn. Có rất nhiều chuyện mà người ta không thể cảm ơn bằng tiền bạc được, người ta có thể cảm ơn bằng nụ cười, một thoáng quan tâm hay một cử chỉ thân thiện. Hoặc như cô chiêu đãi viên hàng không trong câu chuyện đã cảm ơn Thiên Chúa bằng cách bỏ ra 6 tháng trời để đến chung sống với những người phong cùi tại Di Linh.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: "Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" (Lc 17, 17-18). Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng chính vì ích lợi của kẻ được ơn. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin của anh. Người nói: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17, 19).

------------------------------
 

TN 28-C152: Nhận ra ân huệ Chúa ban


(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
 

Vào thời Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng tại Do-thái, bệnh phong hủi là căn bệnh khủng khiếp vô TN 28-C152


Vào thời Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng tại Do-thái, bệnh phong hủi là căn bệnh khủng khiếp vô phương chữa trị. Người bệnh bị cách ly khỏi gia đình, làng mạc nên phải sống trong những nơi vắng vẻ, cô tịch. Cuộc sống còn tệ hơn cái chết.

May thay, có mười người phong tốt số được gặp Chúa Giêsu và được Ngài cứu chữa lành bệnh. Họ chỉ cần đến gặp các tư tế để kiểm tra trước khi được phép về đoàn tụ với gia đình, họ hàng, làng xóm.

Khi được chữa lành khỏi chứng bệnh khủng khiếp như thế và được phép về đoàn tụ với những người thân yêu… họ vui mừng hân hoan như kẻ chết sống lại. Ấy vậy mà trong mười người được chữa lành, chỉ có một người ngoại bang biết quay lại cảm ơn Chúa Giêsu đã cứu chữa mình, còn chín người kia thì không!

Nhận được hồng ân lớn lao như thế mà không biết tạ ơn thì thật là những người vô ơn, bạc nghĩa rất đáng trách.

Tuy nhiên, chúng ta hãy nhìn lại mình, xem chúng ta thuộc thành phần nào trong hai thành phần trên đây? Là người biết tạ ơn vì những hồng ân mình lãnh nhận hay là vô ơn như chín người phong được chữa lành.

Tôi thuộc hạng người nào?

Một chén cơm ta ăn hằng ngày là thành quả của bao nhiêu lao công vất vả của rất nhiều người: Người nông dân phải bỏ công để chọn giống lúa tốt, phải thận trọng ủ giống mất một hai ngày, phải cày, bừa, trục, trạc… cho mặt ruộng sẵn sàng đón nhận những hạt giống gieo… Một khi đã gieo hạt xuống rồi, phải ngăn ngừa chim trời hay chuột đồng phá hại những hạt lúa mới nhú mầm, tiếp theo là cung cấp đầy đủ phân và nước cho lúa lớn lên, lo diệt côn trùng bảo vệ lúa… đến mùa thì lo thu hoạch, phơi phóng rồi nhập lúa vào kho.

Khi muốn chế biến lúa thành gạo thì phải lo xay xát, sàng sảy, rồi mới có thể đưa sản phẩm ra thị trường.

Để cho những hạt gạo đó biến thành cơm ngon thì người nội trợ lại phải tốn công nấu dọn cho người nhà ăn.

Như thế, mỗi chén cơm là một ân huệ Chúa ban, được kết tinh bởi vô vàn mồ hôi, lao nhọc, công sức của bao người. Vậy mà khi hưởng dùng chén cơm đó, có bao giờ chúng ta biết tạ ơn Chúa, tạ ơn những người đã chịu cực nhọc vất vả để cung ứng cho ta chén cơm đó chưa? Nếu ai chưa tạ ơn thì thuộc về nhóm chín người vô ơn trên đây rồi.

Người mẹ cưu mang con 9 tháng 10 ngày với bao ưu tư, khắc khoải. Khi đủ ngày đầy tháng, mẹ sinh con trong đau đớn và âu lo. Khi con chào đời, mẹ ấp ủ con với tất cả tấm lòng thương mến, canh chừng con khi con ngủ cũng như con chơi, bồn chồn lo âu khi con gặp hoạn nạn, thức trắng đêm bên giường khi con đau ốm, lo cho con từng miếng ăn, từng tấm áo, lao động gian lao vất vả đêm ngày để liệu cho con học thành tài… Đến khi con trưởng thành thì lo gầy dựng gia đình cho con…

Kể sao xiết công ơn của cha mẹ đối với con cái mình. Nhưng thử hỏi được bao nhiêu người nhận biết công ơn cha mẹ để đền ơn đáp nghĩa cho cân? Nếu ai quên thì thuộc về thành phần chín người phong hủi vong ân.

Bước sang lĩnh vực tâm linh, Chúa Giêsu tuy là Ngôi hai Thiên Chúa cao cả vô song, đã chấp nhận hạ mình xuống thế làm người phàm, gánh lấy tội lỗi muôn dân và hy sinh chịu khổ nạn, chịu chết đau thương để đền tội thay cho muôn người, chết thay cho nhân loại và nhờ đó, Ngài cứu muôn dân khỏi chết và mở cửa cho họ vào cõi trời vinh hiển. Vậy mà có được bao nhiêu người nhận biết hồng ân vô cùng cao quý đó đó để cảm tạ, tri ân? Nếu ai chưa cảm tạ hồng ân thì thuộc vào hàng ngũ chín người phong vô ân bạc nghĩa.

Khi chúng ta trợ giúp ai đó vài ba lần liên tiếp mà lần nào người nhận cũng quay đi không một tiếng cảm ơn, thì chắc chắn lần sau, chúng ta không tiếp tục trợ giúp hạng người đó nữa, vì người vô ơn như thế thì không đáng được trợ giúp.

Vậy thì khi chúng ta nhận được vô vàn ơn phúc Thiên Chúa ban trong từng phút, từng giây mỗi ngày, mà không biết tạ ơn Thiên Chúa thì chúng ta cũng chẳng xứng đáng để được Ngài ban ơn thêm.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa ban cho chúng con vô vàn hồng ân không thể nào kể xiết. Xin giúp mỗi người chúng con nhận ra hồng ân vô giá Chúa ban và không ngớt dâng lời tạ ơn Chúa với tất cả tấm lòng yêu mến.

-------------------------------
 

TN 28-C153: Sống tri ơn sống hạnh phúc


(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)
 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, mười người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành bệnh, nhưng chỉ TN 28-C153


Trong bài Tin Mừng hôm nay, mười người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành bệnh, nhưng chỉ có một người, quay trở lại tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu thấy lạ nên hỏi: “Không phải cả mười người được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc17, 17).

Chúng ta cũng thử hỏi: Vì sao chín người Do Thái kia không quay lại để tạ ơn Chúa Giêsu?

Có thể có nhiều lý do khác nhau, nhưng điều chắc chắn hơn cả, là họ đã không nhận biết mình đã được ân sủng. Bởi lẽ, để tạ ơn thì phải biết mình đã nhận được ân sủng.

Chúng ta hãy xem sự biết ơn diễn ra trong ta như thế nào?

Trước tiên, ta nhận biết mình có được hay hưởng được một điều quý giá, rất là quý giá. Thứ đến, ta đồng thời nhận biết đó là món quà, được ban tặng một cách nhưng không. Nó được ban tặng như một món quà chứ không phải do mình kiến tạo ra, không do công lao ta làm ra, cũng không do ta mua được. Nó là món quà quý giá.

“Điều quý giá” và “quà tặng” là hai điều đi liền với nhau. Khi nhận ra hai điều này, thì trong ta nổi lên một cảm xúc, một niềm biết ơn dâng trào trong tim ta, một niềm vui sướng hạnh phúc nổi lên trong ta. Một chú bé, được cho một hộp bánh, chú rất sung sướng, reo mừng. Một người bị bệnh tật nan trị lâu năm, được chửa khỏi tất nhiên rất vui mừng sung sướng, tạ ơn bác sĩ, tạ ơn Trời!

Chín người phong hủi kia, chỉ nhận ra điều thứ nhất, điều “quý giá”. Đó là thấy mình được khỏi bệnh, một điều quý giá về sức khỏe, về cuộc đời. Thế nhưng họ lại không nhận ra được điều thứ hai, đó là “quà tặng”, quà tặng nhưng không của Thiên Chúa.

Họ không nhận ra, vì có thể, trong khi đi đường đến trình diện các tư tế, họ nghĩ rằng, mình đã giữ đúng lề luật của Chúa nên đã được ban thưởng công lao; hoặc họ nghĩ rằng mình đã sống nhân đức nên Chúa ban ơn; hoặc họ có thể nghĩ rằng do mình uống những loại thuốc, hoặc đã ăn uống cái gì đó dọc đường và nhờ đó được khỏi bệnh.

Chỉ có một người phong cùi ngoại giáo, nhận ra “điều quý giá” mà mình có được và là một “quà tặng”, nên anh quay trở lại để cảm ơn Chúa Giêsu.

Nhận ra điều mình đang được hưởng, đang có, là điều quý giá và cũng nhận ra đó là món quà, quả thực mới tạo nên tâm tình biết ơn và đồng thời tạo nên niềm vui sướng hạnh phúc cho chúng ta.

Có những người có đủ mọi thứ: sức khỏe, tiền bạc, quyền lực... Thử hỏi họ có hạnh phúc không? Nhiều người sẽ trả lời rằng: không, vì họ thấy mình còn muốn điều khác, hoặc vì họ muốn có nhiều hơn nữa.

Một người luôn than van, cho dù mình có đầy đủ, cuộc đời người đó chăc là luôn đau khổ, buồn bực. Có dịp tôi đọc muốn quyển sách về tướng học; sách nói: “Người hay than van thì có số nghèo khổ”!.

Ngược lại, một người không than van, dù người đó thiếu thốn nhiều thứ, nhiều khi họ lại thấy mình hạnh phúc. Tại sao vậy? Thưa vì họ nhận ra rằng, những gì mình đang có là quà tặng của những người khác, của xã hội, của ông Trời hay Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa.

Một vị giám mục gặp một bà cụ già nằm liệt gường. Ăn uống vệ sinh đều phải nhờ người giúp. Nhưng hôm ấy, dù bửa ăn đã được dọn tới nhưng người giúp việc vẫn chưa thấy đến. Thế là vị giám mục đảm nhận luôn việc đút thức ăn cho bà cụ. Sau đó lúc từ giã, ngài nói:

- Tôi sẽ nhớ cầu nguyện cho bà nhiều.

- Thôi ạ, bà cụ trả lời, xin Đức Cha đừng bận tâm cầu nguyện cho con, bởi vì con một khi đã tin vào Chúa Kitô con có đủ mọi sự rồi.

Tiếp đó, vị giám mục này đến thăm một ông nhà giàu. Ông này sống rất sung túc và có đầy đủ mọi tiện nghi bên mình. Thế mà, ngay khi vị giám mục vừa đến ngưỡng cửa, ông ta nói ngay rằng:

- Kính chào Đức Cha, Đức Cha thấy không, có phải đây là một hỏa ngục không nào?

Bà cụ già nghèo, thiếu tiện nghi nhưng thấy bình an hạnh phúc. Cụ nói rất vui vẻ “một khi con đã tin vào Chúa Kitô con có đủ mọi sự rồi”. Trong khi đó, ông nhà giàu thì than van, chê trách người khác. Ông sống trong sự buồn bực luôn luôn, như là ông nói: Có phải đây là một hỏa ngục không nào?

Tuy nhiên, bạn có thể hỏi rằng: Tôi cũng có biết ơn nhưng sao vẫn không thấy hạnh phúc?

Thưa, đó là bạn lâu lâu mới biết ơn và do đó lâu lâu bạn mới cảm thấy sung sướng hạnh phúc. Cái chìa khóa quan trọng để tạo ra hạnh phúc là bạn nhận ra mình được ban ơn trong mọi hoàn cảnh, trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.

Mỗi khoảnh khắc của cuộc sống là một quà tặng của Thiên Chúa, mỗi khoảnh khắc của cuộc sống là một cơ hội quý giá.

Tôi không nói là chúng ta cần biết ơn mọi thứ. Ta không thể biết ơn chiến tranh, bao lực, bóc lột, sự nghèo đói và bệnh tật. Nhưng những điều này lại là cơ hội. Cơ hội trong khoảnh khắc, trong thời gian, nếu không nắm bắt, cơ hội sẽ qua đi. Khoảnh khắc nối tiếp khoảnh khắc; cơ hội đến rồi đi. Không nắm bắt nó sẽ qua đi. Chín người phong cùi kia đã được ơn, nhưng họ đã đánh mất cơ hội quý giá để biết ơn.

Tại sao những sự xấu lại có thể là cơ hội? Nhận ra đó là cơ hội chỉ khi ta tin vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với người phung cùi: Đức tin con đã cứu chữa con (Lc 17,19).

Bà cụ già trên gường bệnh thiếu thốn mọi tiện nghi, lại rất vui vẻ nói: “Một khi con đã tin vào Chúa Kitô con có đủ mọi sự rồi”.

Tin vào Đức Kitô có gì liên quan đến sự xấu xa, tội lỗi, bất công, nghèo đói, bệnh tật...?

Vì tin vào Đức Kitô, ánh sáng Tin Mừng sẽ soi chiếu cho ta biết rõ hơn về những sự kiện của cuộc đời, của thế gian, về giá trị của chúng. Tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là tin vào thập giá, tin vào sự chiến thắng của Đức Kitô trên tội lỗi; tin vào giá trị của những sự bị sỉ nhục, bị đối xử bất công... như những hạt lúa mì rơi xuống đất phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt; tin vào sự hy sinh, yêu thương tha thứ; tin rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương; tin vào sự phục sinh từ cõi chết... Những sự xấu xa tội lỗi, bất công, nghèo đói, bệnh tật... mà chúng ta phải trải nghiệm, trở thành những cơ hội giúp chúng ta học hỏi hiểu biết hơn về đời sống con người, để thực tập sống, để rèn luyện, để trở nên giống, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và được phục sinh với Ngài.

Vậy thì, đúng là Đức tin sẽ giúp chúng ta sống những khoảnh khắc nối tiếp nhau trong cuộc đời như những cơ hội để tri ân, để sống hạnh phúc đời này và đời sau.

-----------------------------
 

TN 28-C154: Đẹp lắm lời tạ ơn


(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Lc 17: 11-19: Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Trong số mười người được chữa lành, thì chỉ có một người quay lại ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài.
 

Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời TN 28-C154


Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa.

Thực vậy, sau khi mắc phải chứng bệnh nan y này, thì lập tức, những bệnh nhân sẽ bị khai trừ khỏi xã hội. Đi đâu cũng phải ra dấu để mọi người xa tránh. Đây không phải chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm ngăn chặn sự lây lan, mà hơn thế nữa trong bầu khí tôn giáo, người ta có thói quen coi bệnh này như là một hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ tội lỗi. Nếu không phải do chính tội của bệnh nhân, thì cũng do tội của cha mẹ họ. Vì thế người bệnh bị xã hội coi là kẻ tội lỗi.

Chúa Giêsu thì khác, Ngài không thể không xót thương họ, nhất là khi họ đã lên tiếng van xin. Và tất cả 10 người phong cùi đều được khỏi. Chúa Giêsu bảo họ tới trình diện với hàng tư tế để được chứng thực là mình đã khỏi và nhờ đó mà trở về với xã hội loài người. Đây là lần thứ nhất họ được chữa lành.

Theo luật quy định, nếu có người nào mắc bệnh phong có cơ duyên lành bệnh, thì phải đến trình diện với các tư tế, để khám xét lại. Nếu thực sự được lành bệnh thì họ mới được cho hoà nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu bảo mười người phong đến trình diện với các tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng nhận là khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được xem là thuộc phường rối đạo, biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giêsu. Còn chín người kia thì không. Chưa được ơn thì van vái cầu xin, được ơn rồi thì nín thinh như hến.

Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Trong số mười người được chữa lành, thì chỉ có một người quay lại ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu hẳn đã chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt lên: Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà thôi. Tỷ lệ quá thấp, chỉ có một phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu nhận xét lại là thành phần ngoại giáo. Mặc dù là goại giáo theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại rất có đạo theo nghĩa đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể hiện của đạo Chúa, cho nên người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, hẳn phải là người có đạo hơn chín người Do Thái kia, bởi vì người này đã thực thi cái nhân đức cao quý nhất của con người là lòng biết ơn.

Con người không thể là người một cách sung mãn mà không cần đến người khác. Nói lên hai tiếng cảm ơn là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa người với người. Tôi không thể là tôi nếu không có người khác. Tôi cần có người khác để sống hoàn thiện, để được hạnh phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, những người thân thích của tôi cho đến cả những kẻ thù của tôi...Tất cả đều đã đóng góp vào sự trưởng thành của tôi. Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Cuộc đời là một chuỗi những lãnh nhận, từ sự sống cho đến những thành đạt. Không có gì chúng ta đang có mà không do lãnh nhận từ người khác. Do đó biết ơn là một đòi hỏi thiết yếu nhất của trái tim con người. Không có lời rủa sả nào thậm tệ bằng ba tiếng: Đồ vô ơn. Hơn nữa, lòng biết ơn còn là con đường dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn mọi ơn huệ.

Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cảm ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cảm ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.

Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Ngài đã hy sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình của Người Con dâng lên Chúa Cha.

Cuộc đời của Chúa là bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những giây phút hân hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria (Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.

Ta đã nghe "Cho người có lòng biết ơn là cho vay". Quả thật, cuộc sống hiện tại của mọi người sẽ đẹp biết bao khi mọi người biết chia sẻ tình thương cho nhau. Mỗi cử chỉ yêu thương sẽ được đánh dấu bằng lời "cảm ơn", sẽ làm giàu thêm tình người. Mọi người sẽ sống trong tình huynh đệ với những "món nợ tình thương" trao trả cho nhau.

Dẫu biết rằng mọi sự trên thế gian này đã qua, đang qua và sẽ qua mau. Mỗi ngày chúng ta sống là mỗi giây phút rút bớt đời sống của chúng ta. Chẳng mấy ai nói rằng cuộc sống như thế là qúa đủ hay quá dài. Cho dù người thượng thọ cao niên vẫn muốn sống thêm, dù một ngày vắn gọn. Chúng ta cần trân quí món qùa của sự sống. Mỗi giây phút sống là hồng ân Chúa ban. Nếu buông bỏ giữa chốn hoang địa, chúng ta đã biến mất từ lâu. Ngay từ lúc được thụ thai trong lòng mẹ, chúng ta đã tùy thuộc vào người khác. Cha mẹ sinh chúng ta vào đời trần trụi. Từng giây phút, chúng ta bắt đầu nhận lãnh và chịu ơn suốt dọc cuộc sống. Hồng ân sự sống là cao trọng nhất. Thiên Chúa đã an bài môi trường chung quanh để đón nhận chúng ta vào đời. Xã hội con người đã gầy dựng và dọn sẵn sàng để đáp ứng nhiều nhu cầu cuộc sống. Chúng ta chỉ cần cố gắng bỏ công sức để đón nhận, góp phần và hoàn thành sứ mệnh.

Lời tạ ơn Thiên Chúa của chúng ta còn là những bông hoa đẹp đẽ nhất của tấm lòng mà chúng ta dâng cho Chúa mỗi ngày. Những bông hoa ấy trang điểm cho tâm hồn chúng ta thêm xinh đẹp nhờ những ân sủng Thiên Chúa tặng ban. Vì "thật ra, Chúa không cần chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ muôn đời" (Kinh Tiền Tụng Chung, IV).

Đúng như vậy, những lời tạ ơn của chúng ta như làn hương tỏa bay lên cao và kéo thêm nhiều cơn mưa hồng phúc xuống cuộc đời chúng ta, vì thế, khi người Samaria quay trở lại tạ ơn Chúa, Chúa nói: "Ngươi hãy ra về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Người Samaria không những được ơn lành bệnh mà còn được ơn cứu rỗi nữa. Cũng thế, sau khi được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman người xứ Syria đã trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa.

Dấu hiệu để nhận ra người có văn hoá là biết nói tiếng cảm ơn. Trong xã hội văn minh, dường như hai tiếng cảm ơn liên tục được phát ra làm ấm lòng người nghe và làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cảm ơn, khi được người khác làm ơn cho mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là người văn hoá, văn minh.

Xin cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra trên thế giới này Thiên Chúa vẫn đang sống, vẫn đang hành động, đang ở với chúng ta, để chúng ta chúc tụng và tạ ơn. Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin và xin cho mỗi người chúng ta cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta chúc tụng, tạ ơn Chúa.

--------------------------------
 

TN 28-C155: BIẾT ĐỂ SỐNG


Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc
 

Vô duyên bất tài, phận bạc duyên đen, ăn không ngon, ngủ không yên, đó là dấu hiệu xấu, xem TN 28-C155


Vô duyên bất tài, phận bạc duyên đen, ăn không ngon, ngủ không yên, đó là dấu hiệu xấu, xem như mất cả chì lẫn chài ở đời này rồi. Đồng ý rằng, cuộc sống có vui buồn sướng khổ, có giầu nghèo, có đắng cay ngọt bùi, tuy nhiên ai cũng ngán cảnh hết tình cạn nghĩa ! Người xưa có câu: cây khô tưới nước vẫn khô, kẻ hèn đi đến đâu vẫn hèn; nghèo không phải là xấu, bệnh tật chưa phải khổ tột cùng, người không có chí khí, mới thực sự là hết thuốc chữa. Trong cái khó, ló cái khôn, trăm cái lý, không bằng tí cái tình, trong tình thế khẩn cấp, sự liều lĩnh thay thế cho sự khôn ngoan. Mỗi người có thể nghèo, có thể giầu, thân xác ốm yếu hoặc cường tráng, tuy có khác nhau về tình cảnh, nhưng thực ra họ đều có chung một khao khát hạnh phúc.

Tục ngữ có câu: nhất lý nhì lỳ, thực tế xã hội luôn khiếp sợ trước cảm nhận: chín thằng lỳ không bằng một thằng liều. Đúng, mười người phong cùi họ vừa lỳ vừa liều, khi đồng thanh “hô to, hét lớn”: “lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Trong tư cách là thầy dạy, Đức Giêsu đã bày tỏ lòng thương xót, đã chỉ giúp họ: “các ngươi hãy đi trinh diện với các tư tế”. Vâng, không đề nghị “giá cả” việc chữa trị bệnh nan y, nhưng có ý nói đến việc “thưa vâng”. Không đặt vấn đề quyền năng và sám hối, nhưng chỉ ra “tin yêu”, chính là điều kiện để được lành sạch. Qua việc gặp gỡ mười người “bệnh phong”, Đức Giêsu đã thực thi sứ mạng là Thầy dạy đức tin, là Đấng có quyền năng chữa trị xác hồn. Mười người phong, vừa thể hiện được tình đoàn kết kêu xin lòng thương xót Chúa, vừa là cơ duyên gặp Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.

Biết để sống, biết để niềm tin được trưởng thành, biết để xác tín hơn tin theo Chúa không có “ai đỏ ai đen”, biết để tâm phục khẩu phục về tình yêu và lòng thương xót Chúa, luôn đồng hành với từng hoàn cảnh là sự thật. Ngày hôm nay, biết bao người cho rằng: có bệnh vái tứ phương, hoặc cảm thông, động viên các bệnh nhân: còn nước còn tát. Đồng ý rằng, đau khổ, nhu cầu cần được giải toả những vướng mắc, ai cũng có, quan trọng hơn là những u nhọt, những tâm bệnh, ta có biết tìm gặp bác sĩ không ? Thầy thuốc tài giỏi thời nào cũng có, nhưng thầy thuốc chữa trị xác hồn phải tìm gặp nơi Thầy Giêsu mới thực sự khỏi. Đức Giêsu thấu biết đau bệnh thể xác hay tâm hồn, đều khổ và cần được cứu chữa, Đức Giêsu không cần người bệnh phải “lỳ hay liều”, miễn là biết sống niềm tin, biết sống lời thưa vâng cách nhanh lẹ nhất,

Theo binh pháp của Tôn Tử: biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, đã là hợp lý, là thành công trong việc điều quân khiển tướng. Trong tương quan xã hội, biết mình là ai, biết mình đầy giới hạn, cần được cảm thông, yêu thương, đó là chọn lựa lựa khôn ngoan. Trong tương quan với Đấng ta tin thờ, ai cũng phải biết mình chưa phải là thánh, nghĩa là còn đầy tội lỗi bất xứng, cần đến Chúa xót thương biến đổi, chữa trị xác hồn. Mười người phong cùi biết mình mắc bệnh nan y, họ biết hiệp nhất với nhau kêu cầu lòng thương xót Chúa, thì đúng và đẹp, nhưng sẽ chuẩn hơn, khi được lành sạch, họ phải biết sống lời tạ ơn, sống ơn ban Đấng cứu chữa họ. Hồng ân giữa cho và nhận nơi mười người phong với Đức Giêsu thật giống với câu ca dao: đắng cay cũng thể ớt nồng, ngọt ngào chi lắm mà không say tình ? “Chớ gì không phải mười người được lành sạch sao, còn chín người kia đâu” ?

Biết mình cần một tinh thần minh mẫn để cư xử đúng đẹp, biết nói lời yêu thương với đấng bậc sinh thành, biết nói lời xin lỗi với anh chị em, nhưng còn phải biết cám ơn, biết sống chân thành, khiêm tốn, mới đầy đủ tình và lý. Văn hoá cám ơn, biết ơn, không phải là điều khó, những ai cũng phải tập luyện, phải thực hành, dù ở phạm vi tự nhiên hay siêu nhiên. Đức Giêsu vô tình hay mười người bệnh phong cố tình kêu xin lòng thương xót Chúa, đều có lý và hợp lý, nghĩa là khi ốm đau cần thầy thuốc, khi tội lỗi cần được thứ tha. Mười người bệnh phong biết Đức Giêsu là thầy thuốc, biết Đức Giêsu là hiện thân của tình Chúa, họ cần được chữa bệnh thể xác, nhưng họ cần phải biết Đức Giêsu là Đấng cứu chữa phần hồn nữa. Đức Giêsu rất muốn nói đến tất cả nhân loại: “hãy đứng dạy mà về đi, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.

Biết để sống tốt với bổn phận của mình, biết để sống cho có ý nghĩa hơn, biết Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu độ trần gian, nhưng phải làm gì để được lành sạch trong ơn gọi làm môn đệ Chúa ? Kinh nghiệm luôn cần thiết cho chúng ta: niềm vui của kẻ được no say, hạnh phúc của đôi trai tài gái sắc, cũng như lòng biết ơn không bao giờ tự đến theo kiểu cầu được ước thấy. Cổ nhân cũng nói đến một thực tế: có lòng tri ân sẽ không bao giờ thiếu vắng hạnh phúc, vì người ấy sẽ nhận ra mình mãi mãi được yêu thương. Thánh Inhaxiô nói: tội lớn lao hơn cả là tội vô ơn, còn sự ray rứt nhất của người mắc bệnh nan y, đó là tiếc nuối vì đã sống vô chừng mực. Được biết Chúa yêu thương không phải chỉ là người đạo gốc đạo dòng, được sạch sẽ thơm tho không phải chỉ nơi người mắc bệnh phong, nhưng là tất cả những ai tin và biết sống niềm tin vào Đức Giêsu trọn vẹn nhất. Amen.

---------------------------------
 

TN 28-C156: LỜI CÁM ƠN VÀ TẠ ƠN


Lm Giuse Hoàng Kim Toan
 

Lời cám ơn mang đến cho con người những điều tốt đẹp trong tương qua với nhau. Lời tạ ơn TN 28-C156


Lời cám ơn mang đến cho con người những điều tốt đẹp trong tương qua với nhau. Lời tạ ơn đối với Thiên Chúa cũng làm cho con người được thấy sự phong phú của Thiên Chúa ở giữa loài người. Câu truyện Tin Mừng ghi lại chỉ có một người đến tạ ơn, còn chín người kia đâu? Cũng đặt ra cho con người một câu hỏi.

Lời cám ơn giữa con người với nhau.

Lời cám ơn bày tỏ con người khiêm cung, biết trân trọng những việc người khác đã làm cho mình. Lời cám ơn chân thành, không sáo ngữ, rút ngắn được những khoảng cách giữa người và người.

Người nhận cũng vui và người cho cũng vui, khi trao nhau những lời cám ơn thật thà. Con người sống với nhau đâu cần những lớn lao, chỉ một nụ cười, một câu nói nhân từ, một lời cám ơn, một ánh mắt nhìn dễ thương, cũng đủ làm cho cuộc sống thêm phần vui tươi.

Lời cám ơn làm cuộc sống dễ dàng xua đi căng thẳng giữa những công việc, êm đi giữa những bộn bề lo âu, giảm bớt những đau khổ cuộc sống. Hạnh phúc đơn sơ với lời cám ơn thật thà.

Đôi khi cũng cần cám ơn những nghịch cảnh đến vì nhờ đó con người được thêm kinh nghiệm và mạnh sức tiến lên. Không có gì đến với con người mà vô ích nếu nhận ra đó một cơ hội sửa sai và tiến lên phía trước.

Tạ ơn

Hầu như quốc gia nào, dân tộc nào cũng có lễ tạ ơn. Tạ ơn mang một ý nghĩa đặc biệt để nhắc tới một ơn huệ lớn lao của trời, của thượng đế hay Thiên Chúa hoặc tổ tiên đã ban cho dân tộc, quê hương xứ sở mình.

Thông thường đã gọi là lễ lúc nào cũng có phần trang trọng để kính nhớ và hoài tưởng. Khi hoài tưởng những ký ức về những gì đã qua trong quá khứ, người ta muốn nhắc lại cho con cháu sự kiện ghi nhớ về cội nguồn, đồng thời cũng sống lại những ký ức ấy trong hiện tại và cùng ước mong ơn lành đó tiếp tục để được sống tâm tình tạ ơn.

Trong khi chữa lành mười người phong hủi, chỉ có một người đến tạ ơn, lại là người dân ngoại. Câu hỏi chín người kia đâu? Gợi lên biết bao điều đã vô tình bỏ qua trong đời sống.

Thiếu tạ ơn. Cuộc sống đôi khi con người đang sống mất đi ý nghĩa của đời sống, sống như một cỗ máy: ăn, làm, hưởng thụ, nghỉ ngơi, cứ vậy ngày qua ngày. Không thấy gì mới, không cảm nghiệm gì vui, sống như trả nợ từng ngày sống, cứ vui chóng qua rồi lại tiếp tục sống. Vui là mấy mà toàn là buồn sầu, khổ đau!

Không biết tạ ơn. Không bao giờ bằng lòng với cuộc sống mình đang có. Lúc nào cũng cảm thấy thua kém người khác, lúc nào cũng cảm thấy chẳng đủ đầy. Cứ vất vả ngược xuôi, cứ cày sâu, cuốc bẫm trong công việc. Cuộc đời buồn tênh theo con nước trôi, hơn thua nhau giữa đời.

Không cám ơn, chẳng thấy gì mới, không nhận ra điều hay, cứ nghĩ do mình gặp may, do mình tài khéo, hoặc do mình đã cố gắng. Không nhận ra được dấu ấn từ Trời ban cho, nên con người chỉ thấy trách nhiệm hoặc chỉ thấy mình đáng thương trong cuộc sống, nên cứ mãi xin lòng xót thương.

Cám ơn và tạ ơn luôn làm nên đời sống phong phú, nối gần các tương quan với Chúa với anh chị em và quan trọng nhất là mình “đón nhận nhiều hơn những gì mình kiến tạo”.

“Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh” (1Cr 4, 7)

--------------------------------
 

TN 28-C157: MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI


Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
 

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta được đưa đi từ ngạc nhiên này tới bất ngờ khác. Có những TN 28-C157


Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta được đưa đi từ ngạc nhiên này tới bất ngờ khác. Có những câu chuyện làm ta thú vị. có những dụ ngôn làm ta dở mếu dở khóc. Có những thí dụ làm ta nực cười.Có những dụ ngôn gây ấn tượng sâu xa trong cuộc đời con người.Có những chuyện làm ta suy nghĩ nát óc. Vâng, Chúa Giêsu khi đi rao giảng, loan báo Nước Trời, Ngài đã dùng những hình ảnh, những sự việc, những câu chuyện thực trong xã hội Do Thái thời Ngài sống để nói lên Đạo lý, giới răn, luật lệ mà Chúa Giêsu dạy dỗ nhân loại, con người, chúng ta hiểu, nhận ra Thiên Chúa là ai ? Nước Trời ở đâu ? Dụ ngôn mười người phong cùi được Chúa chữa lành nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Ngài mà người ấy lại là người ngoại giáo khiến chúng ta vô cùng suy nghĩ…

Tin Mừng của thánh Luca 17,11-19 thuật lai cho chúng ta về việc mười người bị mắc bệnh phong được Chúa chữa lành.Cai trớ trêu của du ngôn này là trong mười người phong cùi đã có chín người có đạo, có nghĩa là tin Chúa, còn một người bị xếp vào lại vô đạo, đứng ngoài và chưa biết Chúa. Tất cả những người này đều nghe danh Đức Kitô, đều một cách nào đó tin rằng chỉ mình Đức Kitô mới có thể chữa lanh cho họ được. Bệnh phong là bệnh nan y, bệnh truyền nhiễm lây lan. Họ bị tách ra khỏi xã hội loài người, họ không được đến gần người nào. Từ xa họ đã phải la to lên họ là cùi hủi, hãy tránh xa họ. Họ tủi nhục sống không được như con vật. Họ bị xã hội ruồng bỏ, gia đình ruồng rẫy và mọi người xa tránh. Họ sống nhưng giống như đã chết. Do đó, gặp được Đức Giêsu là niềm mong ước sâu xa của những người bị bệnh phong cùi này. Nghe tin Đức Giêsu sẽ đi ngang qua đó, họ đứng xa xa trông chờ Ngài đi qua để họ van nài Ngài ban ơn huệ chữa lành cho họ. Đứng xa vì họ sợ làm lây nhiễm, làm ô uế kẻ khác.Luật không cho phép họ được tới gần ai. Luật không cho phép họ được tiếp cận với ai.   Cho nên,từ rất xa họ đã lớn tiếng kêu la:” Lạy Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót chúng tôi “. Chúa đã làm cho cả mười người phong được lành sạch.Ngài trả lại sự sống cho họ, đưa họ trở lại đời sống bình thường và cho họ nhập vào xã hội con người…Chúa truyền cho họ phải đi trình diện với các tư tế vì mình đã được lành sạch, để các tư tế xác nhận và cho họ nhập vào, sinh hoạt với tập thể, với xã hội mà lâu nay họ đã bị đẩy xa.

Sau khi được chữa lành và đã trình diện với các tư tế thì chỉ có một người ngoại đạo trở lại tạ ơn Chúa Giêsu. Cái nghịch thường, trớ  trêu nằm ở chỗ:” Chín người được lành sạch có đạo lại không biết ơn Chúa mà chỉ có một người ngoại đạo đã trở lại để cám tạ ơn  Chúa vì tình thương bao la của Ngài “. Vô ơn thường xẩy ra nơi con người. Sự dí dỏm, ngạc nhiên đến ngỡ ngàng khi Chúa hỏi người ngoại giáo:” Không phải cả mười người đều được lành sạch sao, mà chỉ có một mình anh trở lại cám ơn Ta ? “. Xem ra con người dễ vô ơn bội nghĩa. Biết ơn ai một chút cũng phải trả ơn, cũng phải cám ơn . Con người thường ích kỷ muốn người khác biết ơn mình, nhưng mình không cần biết ơn ai. Đáng lẽ con người phải “Uống nước nhớ nguồn “,nhưng thường con người hay “ Vắt chanh bỏ vỏ hay ăn cháo đá bát vv và vv…”. Trường hợp của chín người phong cùi trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng thế . Khi chưa được Chúa chữa lành, họ chỉ ước mong gặp Chúa để xin Chúa thi ân cho họ, nhưng khi được lành bệnh, sạch sẽ rồi, họ lại “ Ăn mật trả gừng “. Họ thật vô ơn đối với Đấng thi ân giáng phúc cho họ,yêu thương, chữa lành bệnh nan y cho họ. Thật thế, người ta dễ vô ơn đối với người khác khi ai cũng hàm ơn nhau.

Vâng, lời của Chúa hôm nay dạy chúng ta bài học thật rõ ràng:

1.Chúng ta luôn phải biết ơn Chúa và cảm tạ tri ân Chúa.

2.Biết ơn Chúa và tạ ơn Chúa, đó là điều ai cũng phải làm vì Chúa chính là Đấng dựng nên ta, ban cho ta sự sống và Ngài tiếp tục dưỡng nuôi ta, đồng thời chúng ta phải biết ơn nhau vì chúng ta   người cách này hay cách khác đều hàm ơn nhau.

Biết ơn và cám ơn nói lên lòng nghĩa thiết của con người vì thiếu những điều này con người sẽ sống ích kỷ và chai đá, như thế sẽ không đi đúng đường lối của Chúa bởi Chúa luôn sống hiếu thảo, luôn biết tạ ơn và biết ơn Chúa Cha. Chúa Giêsu là mẫu gương của sự biết ơn và tạ ơn.

 Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương bắt chước Chúa, luôn biết nói lời biết ơn và cám ơn anh chị em của chúng con. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Tại sao những người phong không được tiếp xúc với xã hội, với người khác ?

2.Biết ơn là gì và vô ơn là gì ?

3.Tại sao chỉ có một người phong cùi ngoại giáo được Chúa chữa lành lại biết quay trở lại để cảm tạ Chúa ?

---------------------------------
 

TN 28-C158: CA TỤNG CHÚA


Lm Vũđình Tường
 

Thời xưa mắc chứng cùi hủi là một đại hoạ không những cho cá nhân người đó mà còn cho cả TN 28-C158


Thời xưa mắc chứng cùi hủi là một đại hoạ không những cho cá nhân người đó mà còn cho cả gia đình nạn nhân. Nạn nhân bị xua đuổi ra khỏi cộng đoàn, xóm làng. Thân nhân nạn nhân bị cấm, không được tự do thăm nom, nuôi nấng. Khi xuất hiện nơi công cộng nạn nhân luôn phải hô to ‘dơ bẩn, dơ bẩn’. Kẻ cùng hoạn nạn tụ nhau để vừa nâng đỡ, an ủi để sống còn. Nhóm mười người phong hủi sống ở biên giới vùng Samaria và Galilê may mắn gặp Đức Kitô. Họ cùng lớn tiếng nài van Ngài cứu chữa họ. Chạnh lòng thương Đức Kitô nói với họ. Đi trình diện với vị tư tế để thầy tư tế giúp họ trở lại cộng đoàn, sống cuộc sống bình thường như trước. Lời yêu cầu trên thật là khó, bởi khi gặp thầy tư tế họ biết ăn nói làm sao, ngoài việc nói Đức Kitô bảo họ đến gặp. Bệnh của họ chưa khỏi, da trên cơ thể còn sần sùi, bệnh phong cùi vẫn còn. Khi bị chất vấn lấy đâu ra bằng chứng cho thầy tư tế biết họ đã khỏi bệnh. Biết là khó khăn, họ vẫn tin vào lời Đức Kitô, và họ ra đi. Trên đường đi cả nhóm nhận biết da họ sạch sẽ, tươi mát, không còn bị ngứa như trước. Một trong số đó lập tức quay trở về gặp Đức Kitô và dâng lời cảm ta, ca tụng kì công của Thiên Chúa. Người đó là dân ngoại thành Samaria. Chín người kia cũng khỏi bệnh nhưng không trở lại dâng lời tạ ơn. Thấy thế, Đức Kitô nói với người Samaria. Không phải cả nhóm mười người đều khỏi bệnh sao? Bạn anh đâu, không trở lại tạ ơn Thiên Chúa mà chỉ có một mình anh. Người trở lại tạ ơn Đức Kitô được chữa lành cả bệnh thể xác lẫn tâm hồn, bởi chính Đức Kitô nói với anh.

Đứng dậy mà đi. Đức tin anh đã cứu anh c.19

Chín người kia nhận ơn mà không biết tạ ơn. Họ khỏi bệnh thể xác, họ tin vào điều Đức Kitô nói, nhưng không thực hiện việc tạ ơn. Nhận ơn mà không mang trong lòng tâm tình cảm tạ là một thiếu sót lớn trong đời. Cách hành xử của chín người nhắc nhở chúng ta tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Kitô hữu thiếu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa mỗi ngày là một thiếu sót, đó chính là hành động của chín người phong cùi khỏi bệnh. Dâng lời cầu xin và dâng lời cảm tạ là điều không thể thiếu trong đời sống tâm linh. Thực ra, cầu xin là lo cho nhu cầu nơi trần thế; dâng lời cảm tạ là là làm Sáng Danh Chúa. Đây chính là điều Đức Kitô dậy chúng ta khi cầu nguyện. Câu đầu tiên trong kinh Lậy Cha chính là xin cho Danh Cha cả sáng. Như thế dâng lời tạ ơn là làm Sáng Danh Chúa. Làm thế nào để cuộc sống hàng ngày của các Kitô hữu làm cho người khác nhận biết và ca tụng Danh Chúa. Theo tinh thần của kinh Lậy Cha thì việc làm Sáng Danh Chúa chính là lời cầu quan trọng và cần thiết. Xét kĩ hơn sẽ thấy cầu nguyện tồn tại nơi cuộc sống trần gian; ca tụng Thánh Danh Chúa là cuộc sống nơi Thiên Quốc. Khi vào thiên đàng sẽ không còn cầu nguyện. Các thánh nơi thiên quốc, ngoài việc ca tụng Thánh Danh Chúa, các ngài làm công việc chuyển lời cầu của ta lên Thiên Chúa. Ca tụng Danh Chúa vì những kì công Ngài thực hiện cho muôn dân. Ngoài việc tạo dựng vũ trụ, sông ngòi, biển cả, trời cao, núi thẳm, Thiên Chúa còn tạo dựng nên ta, ban cho nhiều đặc ân giúp ta sống an vui, hạnh phúc. Thiên Chúa ban cho ngay cả những điều chính ta cũng không biết để xin nhưng Ngài vẫn ban.

Mười người phong hủi đến với Đức Kitô trong ốm đau, bệnh tật, dơ bẩn nhưng Đức Kitô không chê bai, chỉ trích trái lại còn giúp chữa bệnh cho họ. Chúng ta cũng đến với Đức Kitô với tất cả lòng thành, với đau khổ, bệnh tật và cả tội của ta, phơi bày tra trước mặt Thiên Chúa, xin Ngài thánh hoá, thanh tẩy, chữa lành. Đức tin và tình yêu giúp mở tim và tâm hồn ta ca tụng Thiên Chúa để đón nhận ân sủng Ngài ban. Bởi tình yêu Chúa chứa đựng ơn thánh hoá và ơn tha thứ. Không phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn Chúa mà chính là Thiên Chúa không quản ngại dơ bẩn, tội lỗi ta mà ban cho ta làm con cái Chúa. Tình yêu Chúa ban cho tất cả, không trừ một ai. Bất cứ ai thành tâm đến với Ngài đều nhận được ơn Ngài ban; phần chúng ta đừng bao giờ quên dâng lời cảm tạ, bởi dâng lời cảm tạ có lợi cho phần rỗi linh hồn ta.

-------------------------------
 

TN 28-C159: ĐÓN GẶP CHÚA


Bông hồng nhỏ
 

Khi biết mình mắc bệnh, nhất là những bệnh nan y, ai cũng mong mỏi gặp thầy gặp thuốc để được TN 28-C159


Khi biết mình mắc bệnh, nhất là những bệnh nan y, ai cũng mong mỏi gặp thầy gặp thuốc để được chữa lành. Mắc bệnh đã khổ, bị người thân xa tránh lại càng khổ tâm hơn gấp ngàn lần, bị gạt ra bên lề xã hội thì xem như đã chết. Đó là trường hợp của mười người phong mà thánh sử Luca hôm nay kể lại. Điều đặc biệt hơn là, cả mười người mắc bệnh phong ấy đã không rơi vào cái gọi là “bất cần”, tất cả đều được nhen nhúm trong lòng niềm hy vọng được chữa lành. Niềm hy vọng của họ đặt trọn vào Đức Giêsu.

Khi biết tin Thầy Giêsu vào làng, cả mười người phong đã đồng tâm nhất trí đón gặp Người. Chắc hẳn họ đã phải nương tựa vào nhau trong suốt quãng thời gian mắc bệnh và ngay lúc này đây, họ cùng nhau vượt qua đoạn đường đầy khó khăn để gặp được Thầy. Tiếng kêu của một người thì yếu ớt nhưng cả mười người hợp lực thì tiếng kêu xin không chỉ lớn tiếng hơn mà còn tha thiết hơn nữa. Thầy Giêsu đã chỉ nói: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17, 14) và cả mười người đã lên đường đang khi vẫn còn mắc bệnh. Trong cuộc sống, nhiều lúc, bản thân ta cũng nhận được một lời mời gọi của Chúa, lời mọi gọi lên đường với một niềm tin mạnh mẽ và sâu xa. Quả thật, như mười người phong hôm nay, ta nhận được lệnh truyền nhưng tay chưa chạm tới điều ta mong ước. Chỉ khi dám can đảm lên  đường, bất chấp những khó khăn sẽ xảy đến mà ta vẫn một lòng tín thác nơi tình thương và quyền năng của Thiên Chúa, phép lạ sẽ xảy ra. Đang khi đi trình diện với các tư tế thì cả mười người phong đã được chữa lành. Niềm vui của một người được chia sẻ sẽ được tăng thêm, niềm vui của mười người như một thì quả là tuyệt vời. Trong số họ, có một người đã quay trở lại, anh tìm gặp Đấng đã chữa anh lành bệnh. Những người còn lại, họ tiếp tục đoạn đường.

Điều gì đã thôi thúc con người này quay trở lại gặp Thầy Giêsu? Anh có thuyết phục các bạn mình quay trở lại gặp Người không? Cuộc sống có nhiều lúc đặt ta trước những chọn lựa khó khăn: Chọn đi theo tiếng lương tâm mách bảo hay chọn đi theo quyết định của đám đông. Có lẽ, khi quyết định quay trở lại gặp Thầy Giêsu, anh cũng đã gặp sự phản đối của các bạn. Anh cần đến trình diện với các tư tế để được chứng nhận đã lành bệnh, sẽ trở về báo tin vui cho người thân biết hơn là quay trở lại gặp Thầy Giêsu. Liệu rằng khi quay trở lại, anh có còn gặp được Thầy nữa chăng? Biết bao nhiêu điều cản trở nhưng anh đã một mình vượt qua tất cả chỉ để được gặp gỡ Thầy, để tỏ lòng biết ơn, để tôn vinh Thiên Chúa. Có nhiều khi, ta cũng đi trên con đường Thánh Ý vạch ra và đường ấy lắm lúc là đường đi một mình.

Lạy Chúa Giêsu! Mỗi ngày xin Chúa đặt để trong con niềm thôi thúc mãnh liệt được gặp Chúa. Quả thật, nếu “qua mỗi ngày đời con không gặp Chúa thì ước mơ ươm thơ để làm chi” (bài hát Mỗi ngày đời con- Lm. Thái Nguyên). Mỗi lần gặp Chúa, con tin rằng con được nhận lãnh một nguồn sức mạnh vô biên và được thỏa nỗi khát khao. Xin Chúa cũng giúp con nhận ra những ơn mà con được nhận lãnh từ bàn tay quan phòng của Chúa, những ơn con nhìn thấy và cả những ơn mà con chưa ý thức đó là ơn, con cũng xin tạ ơn Chúa. Amen.

-------------------------------
 

TN 28-C160:  VƯỢT LÊN CHÍNH MÌNH


Anna Cỏ may
 

Đã là người, chúng ta không tránh khỏi bệnh tật. Có người đang trên đường thành công, bất chợt TN 28-C160


Đã là người, chúng ta không tránh khỏi bệnh tật. Có người đang trên đường thành công, bất chợt biết mình mắc bệnh ở giai đoạn cuối thì thường họ rất khó để đón nhận. Họ vùi mình trong sự rên xiết và than trách số phận của mình. Ngược lại cũng có không ít người vui vẻ và cố gắng vượt qua chính mình mỗi ngày.

Trong Tin Mừng Luca thuật lại câu chuyện mười người mắc bệnh phong cùi đã tìm đến với Thầy Giêsu và được chữa lành. Khi mắc bệnh, họ đã bị mọi người xa lánh và khinh chê. Tuy nhiên, trong thâm tâm, họ vẫn khát khao được khỏi bệnh, được sống và được yêu như bao người khác. Họ chưa từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Họ chỉ được nghe người khác nói cho hay về quyền năng của Ngài. Vậy mà, khi nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua, họ liền đón Ngài từ xa và kêu xin một cách khẩn thiết: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13). Trước lời kêu xin tha thiết, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót họ. Lòng thương xót ấy không chỉ được thể hiện qua việc Ngài chữa lành bệnh tật về thể xác mà còn tăng thêm niềm tin và đổ tràn niềm vui nơi tâm hồn các ông. Ngài bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14). Lời Chúa Giêsu nói có vẻ không liên quan đến việc các ông sẽ được chữa, nhưng họ vẫn lên đường như lời đã nói. Bởi vì trong lòng họ đã đặt niềm tin và sự hy vọng vào Chúa Giêsu. Nhờ niềm tin ấy, họ đã được sạch trên đường đi. Trong số người được sạch, chỉ có một người thay vì đi gặp tư tế, anh đã quay lại tìm Đấng đã chữa mình. Hành động quay lại của anh biểu hiện một con người biết sống tâm tình biết ơn, biết quên đi niềm vui bên ngoài mà đi tìm niềm vui bên trong. Anh nhận ra niềm vui ấy xuất phát từ Chúa Giêsu, nên không gì hơn là anh quay lại tìm Ngài. Anh trở lại lòng tràn đầy hân hoan và tôn vinh Thiên Chúa. Anh sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Bây giờ, Chúa Giêsu nói với anh: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,19). Anh đã hoàn toàn được chữa lành.

Nhìn lại mình, mỗi người chúng ta đang mắc bệnh gì? Chúng ta đang sống với bệnh của mình ra sao? Với tinh thần thế nào? Cha Casaigne và thi sĩ Hàn Mạc Tử là những người mắc bệnh phong cùi. Các ngài không được chữa lành về phần xác nhưng được ban ơn đức tin cách lạ lùng. Các ngài tôn vinh Thiên Chúa bằng cả cuộc đời mình, chấp nhận sống chung với bệnh tật. Với Đức Cha Lambert, Đấng Đại Diện Tông Toà đầu tiên của Đàng Ngoài Việt Nam, trong những ngày cuối đời trên giường bệnh, môi miệng ngài không ngớt nài xin: “Xin thêm nỗi đau khổ, xin thêm lòng kiên nhẫn”. Ngài muốn trở nên giống Chúa Giêsu trên Thánh Giá.

Là Kitô hữu, chúng ta được sống trong lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta có điểm tựa là Chúa Giêsu, tại sao chúng ta không đến kêu xin, không đến lắng nghe và làm theo lời Ngài nói? Đến với Ngài, chúng ta sẽ có được sự bình an, niềm vui và được chữa lành. Chúa Giêsu hằng đứng đó lắng nghe và sẵn sàng ban cho những ai đặt niềm tin vào Ngài. Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy đến với Ngài.

Lạy Chúa! Chúa biết chúng con đang mang trong mình bệnh tật nào. Xin Chúa chữa lành và giúp chúng con nhận ra hồng ân Chúa ban cho chúng con, để chúng con phụng sự Chúa cho xứng đáng ngay trong cuộc sống này. Amen.

---------------------------------
 

TN 28-C161: LÒNG BIẾT ƠN VÀ LÒNG TIN


Têrêsa Tuyết Ngọc
 

Trong cuộc sống, những câu chuyện về sự vô ơn bất hiếu vẫn xảy ra hằng ngày, hằng giờ ngay TN 28-C161


Trong cuộc sống, những câu chuyện về sự vô ơn bất hiếu vẫn xảy ra hằng ngày, hằng giờ ngay bên cạnh chúng ta, khiến nhiều người vẫn cho rằng trong xã hội hiện nay đã lãng quên lòng biết ơn, vì người ta chỉ sống với nhau bằng sự sòng phẳng mà không còn liên đới với nhau bằng lòng biết ơn chân thành nữa. Vậy biết ơn là một thái độ mà con người cần phải có, cần học biết để bày tỏ lòng biết ơn với những người đã làm ơn cách vô vị lợi cho chúng ta. Đó là một nghĩa cử cao đẹp mà Chúa đã nhắn gửi cho chúng ta trong bài Tin mừng Chúa Nhật XXVIII TN.

Lời Chúa mời gọi chúng ta phải có một thái độ biết ơn chân thành, phát xuất từ tận đáy lòng mình đối với Thiên Chúa. Thánh Luca đã kể lại câu chuyện về mười người phong cùi đến cầu xin Đức Giêsu: “Lạy Thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng tôi!” (Lc17, 13) và họ được truyền đi trình diện tư tế, trên đường đi thì cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người biết quay lại để cảm ơn và tôn vinh Thiên Chúa, còn chín người kia thì nhanh chóng quên ơn. Có thể họ cho rằng việc họ được sạch là một chuyện tự nhiên chứ không hẳn là nhờ vào quyền năng của Đức Giêsu. Người Samaria là dân ngoại nhưng đã nhận ra Đức Giêsu và bày tỏ lòng biết ơn với Người, Đấng đã chữa lành bệnh cho mình; còn chính những người Israel là dân của Thiên Chúa thì lại tỏ ra vô ơn với Người.

Người Samaria bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Giêsu bằng cách lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Người để tạ ơn Người. Đức Giêsu đã đón nhận lòng biết ơn của anh và trách chín người kia: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy trở lại mà tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này?” (Lc17, 17) Đáng lẽ ra chín người Israel kia là những người phải nhận ra ơn Chúa và bày tỏ lòng biết ơn của họ với Người hơn cả người Samaria này, nhưng đáng buồn thay là họ lại vô ơn mà ngoảnh mặt đi.

Đức Giêsu còn nói với người Samaria: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứ chữa anh.” (Lc17, 19) Lời ấy như đã gội mát tâm hồn anh, anh không chỉ được chữa lành bệnh về thể xác mà còn được chữa cả căn bệnh ở trong tâm hồn và được biến đổi bản thân mà đón nhận ơn đức tin. Thế nên, nếu chúng ta biết nhận ra ơn Chúa ban và biết bày tỏ lòng biết ơn cách chân thành thì Thiên Chúa lại tiếp tục ban ơn cũng như cho ta nhận ra sự hiện hữu và quyền năng của Người.

Hơn hai ngàn năm đã qua kể từ ngày Chúa kể câu chuyện về mười người phong cùi nhưng nhìn vào cuộc sống hôm nay, chúng ta vẫn thấy vấn nạn ấy lặp lại không ít. Đó là thái độ sống vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, với anh chị em và với những người xung quanh. Nhiều người tự kiêu, tự mãn cho rằng họ có khả năng làm được mọi sự mà không cần nhờ đến ai, họ quên rằng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa thì họ sẽ không làm được gì cả, họ quên đi mọi sự đều là ân huệ của Thiên Chúa.

Nhiều lúc chúng ta tỏ lòng biết ơn và cảm mến đối với một người nào đó đã làm ơn cho mình, dù là một việc nhỏ nhoi, nhưng chúng ta lại quên đi những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta lớn lao biết nhường nào. Nhiều người không quan tâm đến việc bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa qua việc thờ phượng Người và đã không cảm tạ Người mỗi khi được nhìn thấy một ngày mới tươi đệp. Lại có người không dám nói cho người khác về Thiên Chúa và về ơn mà Người ban cho chúng ta. Cũng có người biết ơn sự giúp đỡ tận tình của bạn bè hay một ai đó, mà lại không hề biết cảm động và bày tỏ lòng biết ơn đối với ông bà, cha mẹ hay anh chị em mình. Thật là những nghịch lý không đẹp lòng Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra ơn ban của Chúa và biết bày tỏ lòng biết ơn của mình. Trước hết là với Chúa qua việc thờ phượng và tôn vinh Người; sau nữa là biết ơn đối với những bậc sinh thành đã được Chúa ban cho để dạy dỗ chúng con. Xin đừng để chúng con có thái độ vô ơn như chín người Israel trong bài Tin Mừng hôm nay nhưng xin giúp chúng con sống xứng đáng với ân huệ Chúa ban trong từng giây phút trong đời. Amen.

-------------------------------
 

TN 28-C162: THỂ HIỆN LÒNG BIẾT ƠN


Lm Giuse Đinh lập Liễm

A-. DẪN NHẬP.
 

Người ta hay nói:”Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất”. Câu nói ấy có ý TN 28-C162


Người ta hay nói:”Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất”. Câu nói ấy có ý chỉ trích thói vô ơn của nhiều người. Theo thói thường, người ta chỉ muốn nhận chứ không muốn cho đi. Nếu nhận được một ân huệ nào của ngưới khác thì dễ quên đối với vị ân nhân, còn khi mình làm ơn cho ai thì nhớ rất dai và muốn người ta phải thể hiện lòng biết ơn đó. Bài Tin mừng hôm nay cho biết Đức Giêsu đã chữa lành cho mười người phong cùi mà chỉ có một người dân ngoại Samaria trở lại ca tụng hồng ân Thiên Chúa, còn chín người Do thái kia bỏ đi luôn không nghĩ gì đến hồng ân đã lãnh nhận. Những người này không tỏ lòng biết ơn vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Họ là những người vô ơn.

Người đời thường nói:”Uống nước nhớ nguồn” hay “An quả nhớ kẻ trồng cây”. Biết ơn là một chuyện xem ra rất bình thường nhưng cũng là một bổn phận mà ít người làm trọn. Ngày nay người ta ít dùng hai tiếng “cám ơn”, người ta rất hà tiện trong việc dùng hai tiếng đó. Ngạn ngữ Pháp có câu:”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”, vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hóa, có giáo dục. Vì vậy, chúng ta có thể nói: biết ơn là một việc khó, và thể hiện lòng biết ơn bằng những việc làm cụ thể lại càng khó hơn.

Cuộc đời của chúng ta được đan dệt bằng những hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói:”Tất cả là hồng ân”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng nói như thế. Đối với người chịu ơn thì phải tỏ lòng biết ơn đối với người làm ơn. Đối với Thiên Chúa, lời cảm tạ của chúng ta không cần thiết vì nó chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng nó lại cần thiết cho chúng ta vì đem lại lợi ích cho chúng ta. Chúng ta phải có tâm tình tạ ơn Chúa như ông Naaman đối với tiên tri Elisê và người phong cùi Samaria đối với Chúa. Cách thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa không gì tốt hơn là Thánh Thể và Thánh lễ, vì Thánh Thể và Thánh lễ đều là tạ ơn.  Đi tham dự Thánh lễ là đi tạ ơn Chúa. Ngoài ra, tinh thần biết ơn ấy còn phải được thể hiện bằng sự chia sẻ với những người khác về tinh thần cũng như vật chất.

B-. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài đọc 1: 2V 5,14-17.

Ông Naaman là tổng tư lệnh quân đội Syria bị mắc bệnh phong cùi. Nghe tin bên Israel có ông Elisê có thể chữa được, nên ông đã đến xin tiên tri Elisê chữa cho ông.

Tiên tri Elisê bảo ông hãy xuống sống Giorđan tắm 7 lần thì khỏi. Ông thấy đây là phương pháp quá tầm thường và nước sông ở đây cũng không hơn gì nuớc sông ở xứ sở mình. Lúc đầu ông không chịu, nhưng do một người hầu gái thuyết phục, ông đã đi tắm 7 lần và sau đó ông được khỏi bệnh cùi.

Sau khi khỏi bệnh, ông Naaman muốn tạ ơn tiên tri Elisê nhưng ông nhất định từ chối, vì ông muốn quan chỉ cám tạ ơn Thiên Chúa mà thôi.

          +  Bài đọc 2: 2Tm 2,8-13.

Lúc đó, thánh Phaolô đang bị giam cầm tại Rôma lần thứ hai.  Ngài viết cho Timôthêô những lời di huấn: hãy chịu đau khổ và chết với Đức Kitô để được cùng sống lại và hiển trị với Ngài.  Còn riêng với thánh Phaolô, mặc dầu đang chịu khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết tâm trung kiên với Ngài.

          +  Bài Tin mừng: Lc 17,11-19.

Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành ba đoạn nhỏ:

a) Nhận biết phận mình: Mười người phong cùi đến với Đức Giêsu xin Ngài cứu chữa. Nhận biết phận mình là những người bị xã hội loại bỏ nên không dám đến gần Đức Giêsu mà chỉ “đứng đàng xa” mà kêu xin.

b) Đức Giêsu thử thách họ: Ngài không chữa cho họ ngay mà chỉ bảo họ:”Hãy đi trình diện với các tư tế”. Nếu có đức tin thì họ sẽ đi ngay và sẽ được khỏi. Trường hợp này họ có đức tin vì đang đi trên đường thì họ được khỏi.

c) Kết quả: Mười người đều được khỏi bệnh: 9 người cùi Do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Còn người cùi xứ Samariatrở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.

C-. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. CHỮA LÀNH MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI.

Hoàn cảnh:
 Trên đường tiến về Giêrusalem, nơi Đức Giêsu thực hiện công trình cứu độ bằng việc chịu thương khó, chịu chết và sống lại. Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một biến cố xẩy ra trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, đồng thời cũng là một phép lạ: Chúa chữa lành mười người phong cùi ở biên giới Samaria và Galilêa.

Mười người phong cùi xin cứu giúp.
Bệnh phong cùi vẫn được giới y học cho là phát sinh từ Ai cập truyền qua Palestine, An độ rồi hai đế quốc La Hy. Sau đó truyền sang Au châu.  Phong cùi là một bệnh nan y nhơ nhớp, người bệnh phải sống cách biệt với người lành và vì thế họ không được ở trong thành, chỉ được sống ở những làng mạc chung quanh thành. Vì thế, trước khi vào Giêrusalem. Đức Giêsu đi qua làng thì gặp mười người phong cùi.

Phong cùi là một bệnh khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Đức Giêsu, nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ. Luật của Maisen thật là hà khắc nhằm tránh dịch bệnh lan truyền: người mắc bệnh phong cùi  phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên:”Ô uế ! Ô uế !”. Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên bị cấm  đến ở những nơi dân cư và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phượng.

Mười người phong cùi này sống chung với nhau lẫn lộn cả Samaria và Do thái,  không còn phân biệt như trong các cộng đồng của họ ở trước. Họ sống vui vẻ hòa hợp. Chính đau khổ đã đưa con người đến tình liên đới nhân loại. Khi họ bị loại ra khỏi xã hội con người, họ đã trở thành một xã hội đầy tình người hơn.

Theo luật Maisen, họ không được đến gần, phải đứng đàng xa mà kêu xin:”Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Đức Giêsu không chữa lành họ tức khắc mà chỉ bảo họ  hãy đi trình diện với các tư tế. Những người phong cùi phải đến trình diện thầy tư tế, không phải để được khỏi bệnh nhưng để xác nhận là đã khỏi bệnh. Ở đây ra lệnh cho người bệnh đi trình diện khi chưa khỏi bệnh là để thử luyện lòng tin của họ, vì theo luật khi khỏi bệnh mới đi trình diện các thầy tư tế.

Đức Giêsu đã chữa lành họ.
Để được khỏi bệnh, Đức Giêsu đòi hỏi phải có lòng tin. Những người cùi này đã tỏ bầy lòng tin vào Đức Giêsu khi họ tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy và xin Ngài thương xót, đồng thời họ cũng đã tỏ lòng tin ấy  bằng hành động: vâng lời Chúa đi trình diện ngay với các vị tư tế mà không chờ một hành động gì khác để chữa bệnh. Việc này cũng làm cho chúng ta  nghĩ đến thử thách lòng tin mà tiên tri Elisê bắt ông Naaman, người gốc Syria  phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp… điều này làm ông ta nổi giận. Vì thế, hiệu quả của lòng tin ấy làm họ thấy mình được khỏi bệnh trên đường đi trình diện theo Luật.

Lời tạ ơn sau khi được lành.
Trong khi đi trình diện, cả mười người đều được lành sạch. Chúng ta nhận thấy trong khi 9 người tiếp tục đi “trình diện với các tư tế”, thì riêng có một người, thay vì vâng lệnh Chúa và Luật dạy, “liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Thật ngạc nhiên, chỉ đến lúc này, lúc mà cách xử sự của anh đã gây ấn tượng tốt nơi chúng ta, thì chúng ta mới biết anh thuộc dòng tộc nào: anh là người Samaria. Đối với anh, tuy đã khỏi bệnh cùi, nhưng vẫn phải mang thân phận của người bị khinh khi vì lạc đạo, nên không có vấn đề đi đến đền thờ… hơn nữa, anh đã gặp Đấng Thiên Sai trên đường, Đấng vừa cứu chữa anh, như rồi đây ta sẽ thấy: chính nơi Đức Giêsu mà ta tôn vinh Thiên Chúa.

Cử chỉ anh làm là một cử chỉ trong phụng vụ,”anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Anh nghĩ chắc hẳn đó là cách tuyên xưng công khai Đức Giêsu là người gần gũi với Thiên Chúa.  Roland Meynet chú giải:”Người Samaria vừa khỏi bệnh đã kết hợp Thiên Chúa với Đức Giêsu trong cùng một lời ngợi khen và tạ ơn. Ơn cứu độ vừa đón nhận được anh công bố cho mọi người biết, đó là công trình của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Lòng tin của anh không phân biệt hai Đấng ấy, và anh sấp mình dưới chân Đấng  đã làm cho anh nên sạch, như sấp mình dưới chân Đức Chúa” (Fiches dominicales C, tr 328-329).

 “Chớ thì không phải cả mười người được lành sao” ? Đức Giêsu đợi tất cả mọi người đến tôn vinh Thiên chúa qua trung gian của Ngài. Những người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Ở đây Chúa có ý ám chỉ đến người Do thái, đến riêng các biệt phái, luật sĩ là những người ỷ lại vào danh nghĩa (con cái Israel) dân riêng của Chúa, mà tự phụ kiêu căng, khép kín không tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Đang khi ấy chỉ có người dân ngoại là ngườiSamaria đã tỏ bày lòng biết ơn bằng cách trở lại tôn vinh Thiên Chúa.

II. HAI TIẾNG “CÁM ƠN” TRONG ĐỜI THƯỜNG.

 Biết ơn, một chuyện bình thường.
Trên bình diện con người thì biết ơn rất ư là chuyện bình thường. Khi chịu ơn ai thì tỏ lòng biết ơn qua một hình thức nào đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp vì người ta thường nói:

Uống nước nhớ nguồn

Hoặc

An quả nhớ kẻ trồng cây,

An cơm nhớ kẻ đâm, say , giã, sàng.

Thế nên lòng biết ơn thường là “có đi có lại”. Dĩ nhiên cũng có người chỉ muốn cho đi mà không muốn nhận lại, dù chỉ là lời cám ơn. Nhưng quả là hiếm !

Ngày nay, hai tiếng “cám ơn” hình như càng ngày càng thiếu vắng trong cuộc sống hiện nay. Chúng ta ngày hôm nay, ngần ngại khi phải nói tiếng “cám ơn”. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy hai tiếng “cám ơn” hình như bớt dần đi với tuổi tác. Càng lớn tuổi, người ta càng khó nói tiếng “cám ơn”. Nhưng nếu chỉ hai tiếng “cám ơn” mà chúng ta không nói được, thì cho thấy tình trạng luân lý của xã hội đang tuột dốc một cách nguy hiểm.

Biết ơn, là trí nhớ của trái tim.
Người Pháp có câu ngạn ngữ:”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác đã làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hóa, và có giáo dục. Thi sĩ người Anh, Samuel Johnson, đã nói rằng:”Lòng biết ơn là một hoa trái của công trình rèn luyện cao quí, bạn không tìm thấy nó ở những kẻ thô lỗ”.

Còn Chu Văn, tác giả Chuyện Tử Tế thì chia sẻ với chúng ta:”Một tiếng nói cám ơn với tất cả thành thật, một cử chỉ biết ơn  đối với những ai đã làm ơn cho chúng ta cách này hay cách khác, một thái độ như thế không những làm cho chúng ta được nên người hơn, mà là thể hiện của một niềm tin sâu sắc nữa. Có lẽ không gì tử tế bằng khi hai tiếngcám ơn luôn được thốt lên với tất cả chân thành và trân trọng”.

Công ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.

Truyện: Anh lính biết ơn.

Kurt Emmerich, một bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga sô. Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.

Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết  toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh, “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh”.

Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận, và rồi với nụ cười mỉm chi đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ:”Cám ơn”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr 343).

Biết ơn là một việc khó.
Đừng tưởng việc biết ơn, nhớ ơn, biết nói lời cám ơn là một chuyện dễ dàng, không mấy khó khăn. Nếu nghĩ như thế là lầm vừa chưa biết cám ơn bao giờ vì qua cách sống của mỗi người và qua thực tế như bài Tin mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta thấy rằng: nhận ơn thì ai cũng muốn, còn nhớ ơn lại rất ít người làm hoặc cho ai cái gì người ta nhớ rất dai, còn khi nhận được cái gì thì lại quên mau chóng. Như thế, chỉ những ai có tâm hồn đạo đức, một lòng trí trong sáng mới có thể biết ơn ân nhân của mình cách đúng đắn.

Nếu biết năng dùng hai tiếng “cám ơn” thì nó cũng sẽ giúp người ta rất nhiều:

          – Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sằn sàng giúp ta nữa.

          – Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.

Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn các em học trò, chủ cám ơn tớ…

Nhưng tại sao người ta cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn người nhà”(Frank Mihalic).

Làm ơn đừng nhớ, chịu ơn đừng quên.
Bài đọc 1 đưa ra cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp: Tướng của Syria là Naaman bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với tiên tri Elisê một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin tiên tri nhận cho. Còn Elisê thì kiên quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.

Cả hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của chúng ta khi chịu ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra  những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai:

Những người phụ nghĩa quên công,

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.

Truyện: Không ai cám ơn tôi cả.

Cách đây đã lâu, một con tầu bị đắm vì giông bão trong vùng Ngũ Đại Hồ, Hoa kỳ. Những toán cấp cứu được phái đến giúp đỡ, trong đó có một nhóm sinh viên của trườngNorthwestern University ở Chicago. Một sinh viên trẻ tuổi, tên là Edward  Spencer, đã cứu được 16 người từ con tầu đang bị chìm. Anh làm việc hăng say cho đến khi gần kiệt sức. Khi được phỏng vấn, anh còn lúng túng e ngại  vì sợ rằng vẫn chưa làm hết sức mình:”Tôi đã làm việc hết sức chưa ? Quý vị có nghĩ rằng  tôi đã làm việc hết mình không”?

Nhiều năm sau đó, trong buổi họp mặt của các cựu sinh viên, một thuyết trình viên đã nhắc lại hành động anh hùng này. Bỗng nhiên có một người la lớn rằng Edward Spencer đang hiện diện ở đây. Thế là Spencer được mời lên bàn cử tọa. Bây giờ ông đã già, tóc bạc, buớc lên bục đài giữa tiếng hoan hô vỗ tay của khán giả. Thuyết trình viên hỏi ông:”Trong biến cố đó, sự kiện nào đáng ông ghi nhớ nhất” ? Ông cụ bèn trả lời:”Chỉ có một điều này làm tôi nhớ mãi, khoảng 16 hay 17 người đã được tôi cứu vớt, không một người nào đã cám ơn tôi cả”.

Biết ơn là thái độ sống căn bản.
Thái độ biết ơn Thiên Chúa là một thái độ căn bản của các tạo vật và chỉ con người mới ý thức và nói lên được hai tiếng cám ơn. Trong Cựu ước, dân Israel đã dâng các lễ vật đầu mùa để cám ơn Thiên Chúa (Đnl 26, 1-10). Trong Tân ước, một hành động cảm ơn trọn vẹn và xứng đáng nhất là phép Thánh Thể thường được gọi là Lễ Tạ Ơn. Sách Talmud nói:”Một ngày kia khi mọi lời nguyện sẽ im bặt trên môi miệng con người, ngoại trừ kinh nguyện tạ ơn”.

Thánh Bênađo đã nói:”Anh em, tôi xin anh em điều này là hãy xa tránh một nết xấu lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời ta là một đời sống, một lời cám ơn liên lỉ. Chúng ta đừng cảm ơn suông bằng môi bằng miệng, nhưng bằng các việc làm và bằng chân lý của đời ta: đừng nói cám ơn, nhưng hãy thực hành việc cám ơn. Đó là điều mà Chúa mọi ơn lành đòi hỏi chúng ta”.

III. THỂ HIỆN TÂM TÌNH BIẾT ƠN.

 Tất cả đều là hồng ân.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng “cám ơn”, hoặc chẳng bao giơ bầy tỏ tấm lòng tri ân.

          Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công,
          Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh,
          Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười,
          Chúa cho con hai tay,  bưng chén cơm, cầm bút,
          Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường,
          Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư,
          Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.
          Mà đã lần nào  con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.

          Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật cao quí.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con biết luôn nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân.

Amen .  (Hosanna).

Truyện: Hồng ân Chúa quá nhiều.

Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói:”Bố ơi, con sẽ đếm sao trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai  và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123,124,125… Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi:”Bố ơi, con không dè trên trời  lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là  thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa:”Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi:”Lạy Chúa, con không dè đời con  lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”(Phạm văn Phượng).

2. Có nhiều cách tỏ lòng biết ơn.

Tâm tình biết ơn thường được gói ghém trong hai tiếng “Cám ơn”. Cám ơn không những là một bổn phận mà còn là một nhân đức bởi vì người ta rất hà tiện trong việc cám ơn. Người ta có muôn vàn cách để cám ơn. Có rất nhiều chuyện mà người ta không thể cám ơn bằng tiền bạc được, người ta có thể cám ơn bằng nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những ngưởi bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này:”Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm  tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bầy tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.

Hãy tạ ơn Chúa về mọi sự trong cuộc đời.

Về việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cám ơn của chúng ta, nhưng chúng ta cần cám ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi việc mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cám ơn Thiên Chúa về điều xẩy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời mình: điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thực sự gọi mình là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cám ơn về mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta  và coi nó như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta đến giây phút này.

Cám ơn Chúa trong Thánh Lễ.

Ngay từ ban đầu khi thành lập Giáo hội, các tín hữu đã qui tụ nhau lại hằng tuần để cử hành tiệc “Thánh Thể” (Cv 2,42). Chữ Eucharistia – “Thánh Thể” dịch từ tiếng Hy lạp “Eucharistos”, có nghĩa là “Biết ơn – Tạ ơn”.  Vì thế ngay từ hồi Giáo hội sơ khai, người Kitô giáo đã ý thức về nhu cầu tạ ơn Thiên Chúa, và họ nhận thức rằng một cách tốt nhất để tạ ơn  là việc dâng lễ. Khi mọi người tín hũu thời Giáo hội sơ khai đi dâng lễ, cái ý nghĩ và tâm tình của họ dựa trên cái ý niệm tạ ơn. Thánh lễ, theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là tạ ơn. Vậy đi lễ là đi tạ ơn Thiên Chúa.

Trong Thánh lễ, ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa bằng lời tạ ơn và tâm tình biết ơn. Bằng một biểu hiệu tạ ơn và biết ơn, ta dâng lên Thiên Chúa bánh rượu là do kết quả của sức lao công hằng ngày, được trở thành Mình và Máu thánh Chúa do lời truyền phép của Linh mục tế lễ. Do đó lễ vật tạ ơn của ta được hiệp nhất với Mình Máu Thánh Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội, ca tụng và cảm tạ.

Để kết thúc, chúng ta có thể nói rằng Chúa không cần chúng ta phải cảm ơn nhưng lại cần cho chúng ta,  bởi vì việc đó có lợi cho chúng ta như kinh Tiền tụng Thánh Thể IV đã nói:”Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”.

Truyện: Cám ơn.

Thi sĩ Lamartine, người Pháp có kể lại một giai thoại như sau: một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ: cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn ! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt ra hai tiếng “cám ơn”.

Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, ngưởi thợ đá mới giải thích:”Tôi tạ ơn Chúa” ! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo:

          – Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao  bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài ?

          – Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao ?

          – Dĩ nhiên – Lamartine thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi !

Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên:

          – Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao ? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa !

          Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho ông thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông: vừa đập đá vừa cám ơn Chúa.

 “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103,2)

--------------------------------------
 

TN 28-C163: CHỨNG TRẦM KHA


Trầm Thiên Thu
 

Một trong các nỗi khổ của con người là bệnh tật. Đau đâu khốn đó, dù chỉ là nhức răng. Bệnh càng TN 28-C163


Một trong các nỗi khổ của con người là bệnh tật. Đau đâu khốn đó, dù chỉ là nhức răng. Bệnh càng nặng càng khổ, khổ đủ thứ, khổ mình mà cũng khổ cả người khác.

Bệnh nặng gọi là “trầm kha”. Đó là bệnh trạng nghiêm trọng, kéo dài, khó chữa. Theo Hán Việt: “Trầm” là chìm, đắm, lặn, nặng; “Kha” là bệnh tật, ốm đau. Ngày nay, chữ “trầm kha” cũng thường được hiểu theo nghĩa bóng, dùng để nói về các dạng tình trạng trầm trọng, khó giải quyết, mãn tính,… liên quan nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, đặc biệt là các thói xấu. Chứng kinh niên đã thành “thói quen” thì thật đáng sợ, nguy hiểm hơn cả chứng ung thư!

Một trong các chứng bệnh nan y là bệnh phong [còn gọi là (phong) cùi hoặc (phung) hủi] do vi khuẩn Hansen gây ra, nhất là ngày xưa, ngày nay đã giảm bớt – cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bệnh nhân phong trông rất “kỳ dị” (sần sùi, lở loét, rụng tóc, mất ngón chân, ngón tay), và tất nhiên họ rất đau khổ – không chỉ thể lý mà cả tinh thần, vì bị người ta xa lánh.

Ngày nay, khoa học đã có thể chữa trị được bệnh phong nhưng di chứng phong sẽ không bao giờ có thể chữa khỏi. Các nhà nghiên cứu phân ra ba loại bệnh phong:

[1] Thể Củ: dạng nhẹ, ít nghiêm trọng và ít lây hơn. Những người mắc bệnh này chỉ xuất hiện một hoặc vài mảng da phẳng, màu nhợt nhạt. Vùng da bị ảnh hưởng có thể cảm thấy tê liệt do các dây thần kinh bên dưới bị tổn thương.

[2] Thể U: dạng nghiêm trọng và dễ lây hơn. Người mắc bệnh bị u da và nổi ban (đa cùi phiến), tê và yếu cơ.

[3] Thể Trung Gian: dạng này có các triệu chứng của cả hai dạng thể củ và thể u.

Chắc hẳn ai cũng biết rằng trại phong Di Linh (Djiring), thuộc GP Đà-lạt, tỉnh Lâm Đồng, do ĐGM Jean Cassaigne sáng lập. Ngài là một chủ chiên vì đoàn chiên, như Đức Kitô xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Thật “ăn khớp” với khẩu hiệu giám mục của ngài: “Caritas et Amor” (Bác Ái và Yêu Thương). Câu nói đáng nhớ của ngài nhắn nhủ những người phong cùi: “Suốt 47 năm dài (1926-1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…” Chính ngài cũng bị lây nhiễm và qua đời ngày 31-10-1973.

Tại Việt Nam, trong số các bệnh nhân phong có một bệnh nhân đặc biệt: Hàn Mặc Tử (Phanxicô Nguyễn Trọng Trí, 1912-1940), thi sĩ Công giáo nổi tiếng và có lòng sùng kính Đức Mẹ. Trong thi phẩm “Trăng Vàng Trăng Ngọc”, ông đã thốt lên: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho.” Tại sao ông đòi bán trăng vậy? Vào những mùa trăng, các bệnh nhân phong càng đau đớn hơn, đêm nào trăng càng sáng thì họ càng khổ sở, bởi vì vi trùng đục khoét các vết thương và gây nhức buốt nhiều hơn.

Thời Cựu Ước, bất cứ người nào mắc bệnh phong cũng bị coi là “ô uế” – có thể ngày nay quan niệm của người ta cũng chẳng khác. Người ta coi các bệnh nhân phong là BẨN, ngụ ý tự nhận mình là SẠCH. Có lẽ nên nhớ lại lời Chúa Giêsu đã có lần xác định: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7:15) Quả thật, ai dám chê người khác bẩn mà nhận mình sạch thì đều là kẻ mạo nhận, ảo tưởng, giả đối, giả hình, có “máu” Pharisêu, thậm chí là bất công và nhẫn tâm – bởi vì không bác ái, thiếu yêu thương.

Giả gì cũng nguy hiểm, dù là vật chất hay tinh thần. Đề cập thói giả dối, Thánh Giacôbê nói: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.” (Gc 1:26-27) Miệng lưỡi không đơn giản: “Ách của cái lưỡi là ách sắt, và xiềng của nó là xiềng đồng.” (Hc 28:20) Tiền nhân Việt Nam cũng đã cảnh báo: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười.” Thật là thấm thía, nhưng thú vị và chí lý. Vẫn thường xảy ra đúng y như vậy!

Ngày xửa ngày xưa, ông Naaman mắc bệnh phung hủi, ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời người của Thiên Chúa là ông Êlisa. Lạ thay, da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Vậy là ông đã được sạch. Ông cùng với đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa để cảm ơn. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ítraen. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” (2 V 5:15) Tục ngữ Việt Nam dạy về lòng biết ơn qua cách nói giản dị nhưng cụ thể với hàm ý sâu sắc: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.”

Ngay sau khi thấy mình được sạch, ông Naaman trở lại để cảm ơn nhưng ông Êlisa nói: “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” (2 V 5:16) Ông Êlisa chí công, vô tư, thanh liêm và chính trực. Ngôn hành song song, ông không nói suông hoặc nói một đàng làm một nẻo. Ông Naaman cố nài ép nhưng ông Êlisa vẫn một mực từ chối, nhất quyết không nhận gì, bởi vì ông sống khiêm nhường và mặc nhiên tự nhận mình vô dụng. Ông Naaman năn nỉ: “Nếu ngài từ chối, xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.” (2 V 5:17) Cả người thi ân và thụ ân đều chân thành, đơn giản là vì cả hai đều có lòng kính sợ Thiên Chúa – Đấng mà họ hết lòng tôn thờ.

Trong cuộc đời con người, không ai lại không hàm ân – từ hồng ân của Thiên Chúa đến tình nghĩa của tha nhân. Vì thế, lòng biết ơn rất cần thiết, như người Việt nói: “Ăn cây nào rào cây nấy.” Đối với Thiên Chúa thì chúng ta lại càng phải biết ơn. Hồng ân đơn giản nhất nhưng lại cần thiết nhất cho sự sống, đó là không khí – cụ thể nhưng không thể thấy hoặc sờ, chỉ có thể cảm nhận. Vô cùng kỳ lạ! Vì vậy, không thể không tạ ơn Chúa từng phút, từng giây, ngay từ mỗi sớm mai mở mắt ra thì chúng ta phải biết tạ ơn Ngài rồi. Tại sao vậy? Bởi vì “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.” (Tv 104:29)

Chính xác như vậy, thế nên Thánh Vịnh gia đã lên tiếng – vừa mời gọi vừa động viên: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.” (Tv 98:1) Thiên Chúa muốn chúng ta nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất nên Ngài “đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân” (Tv 98:2) để chúng ta có thể chân nhận Ngài và chỉ tôn thờ một mình Ngài mà thôi. Điều đó vừa là bổn phận vừa là sự công bằng mà chúng ta phải dành riêng cho Ngài.

Có điều kỳ diệu là chúng ta chúc tụng, tôn vinh và kính thờ Ngài thì chúng ta lại hưởng lợi, chứ chúng ta không hề thêm chút gì cho Ngài. Thiên Chúa là Đấng trung tín tuyệt đối, chính Ngài đã “nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ítraen” – và cũng là chúng ta, thế nên “toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” (Tv 98:3) Vâng, “Thiên Chúa của chúng ta” chứ không của ai khác, chúng ta vui mừng được tuyên tín như vậy. Đúng vậy, không một quốc gia nào lại không có những nhân chứng sống động của Ngài, bằng cách này hoặc cách khác, vì Tin Mừng đã lan rộng khắp thế giới, tới tận các hang cùng, hẻm cụt, và từ đời nọ đến đời kia.

Bất cứ ai là tín nhân cũng có bổn phận đem Chúa đến với người khác, đồng thời phải thể hiện lòng thương xót đối với mọi người. Nhờ vậy chúng ta mới khả dĩ đồng thanh: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát.” (Tv 98:4) Đó là điệp khúc tuyên tín của mọi Kitô hữu.

Thánh Phaolô nói rõ ràng với đệ tử Timôthê: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít. Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích! Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời.” (2 Tm 2:8-10) Đó là những lời tâm huyết mà Thánh Phaolô trút cả lòng mình nhân danh Đức Kitô, cho chúng ta thấy rằng không ai có thể sung sướng hưởng nhàn khi chấp nhận theo bước Đức Kitô, ai sống ung dung tự tại thì không thể xứng đáng là môn đệ của Ngài. Chắc chắn như thế!

Với cách nói rạch ròi hơn, Thánh Phaolô xác định: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.” (2 Tm 2:11-13) Một chuỗi chữ “nếu” vô cùng quan trọng. NẾU là một giả định, nhưng ở đây là một giả-định-có-thật, đồng thời cũng ngụ ý rằng trong đó có sự tự do. Thiên Chúa cho phép tùy ý mỗi người chọn cách sống, chứ Ngài không ép buộc, không muốn ai miễn cưỡng thi hành. Khó là chỗ đó.

Trong hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Khi Ngài vào một làng kia, có mười người phong hủi đón gặp Ngài. Họ không dám đến gần, vì sợ luật. Họ dừng lại từ đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:13) Họ thực sự tin Ngài nên mới cầu xin như thế. Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Thật lạ lùng, Chúa không làm gì để chữa họ mà chỉ bảo họ “đi trình diện các tư tế”. Có điều ngạc nhiên là họ cũng không hề thắc mắc chi cả, chứng tỏ họ đã thực sự tin sẽ khỏi dù thân thể họ lúc đó vẫn đau nhức vì các vết lở loét. Và niềm tin của họ đã được như ý muốn: Họ được sạch khi đang trên đường đi. Việc “đi trình diện các tư tế” chỉ là quy ước phần đời thời đó để được công nhận là sạch, vì luật buộc phải làm như vậy.

Ngay khi thấy thân thể mình sạch boong, một người trong bọn liền quay trở lại (dù chưa trình diện các tư tế) và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sụp lạy dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Có điều đáng quan ngại: Anh ta là người Samari – người ngoại giáo. Người Việt có cách ví von: “Khi vui chẳng nhớ đến ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ.” Khi cầu xin điều gì thì ai cũng đều muốn được thỏa nguyện, không được thì “ấm ức”, được rồi thì “qua đò rút ván.” Trở tay hoặc phủi tay là điều dễ làm nhất, sẵn sàng “ăn cháo đá bát” mà không cần đắn đo gì. Làm toán trừ luôn dễ hơn các loại toán khác. Có lẽ chúng ta vẫn thường ảo tưởng mà mạo nhận mình là người “biết điều” – biết trước, biết sau, có tình, có nghĩa. Ôi, thấy ngại ghê đi!

Chắc chắn rằng bẩn ngoại tại không đáng lo, bẩn nội tại mới đáng sợ. Chứng phong cùi thân xác chưa nguy hiểm, phong cùi tâm hồn mới thực sự khủng khiếp và đáng sợ. Chứng phung hủi tâm linh nguy hiểm biết bao! Có khi chính mình bẩn mà lại tỏ ra ghê tởm người khác, chính mình mắc chứng phong cùi nặng mà không biết, thế mà lại dè bỉu và xa lánh người khác vì sự nọ hoặc lẽ kia. Cố ý bới bèo ra bọ vì tự tin hão huyền: “Tôi tự thấy tinh tuyền” – nhóm 5T thật đáng sợ!

Chỉ thấy một người trở lại, còn chín người kia biết mất, Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17:17-18) Một câu hỏi nhẹ nhàng nhưng có thể xoáy sâu vào tâm khảm. Sự thật rõ ràng quá! Sự vô ơn đáng trách quá! Vấn đề nhức nhối quá! Đã không ít lần chính mình vô ơn với Thiên Chúa, bạc nghĩa bạc tình với tha nhân, thế mà lại cứ tưởng mình là người có lối sống đạo đức và tốt lành. Chúa Giêsu hỏi vậy là để mỗi người tự rà soát lương tâm, bởi vì điều tiên quyết phải là “tu thân” rồi mới có thể tính chuyện khác. Không vượt lên chính mình thì đừng mong vượt được gì. Cuối cùng, Chúa Giêsu ôn tồn nói với người-cùi-được-sạch: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 17:19) Và Ngài minh định rằng Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa họ, và cũng ở giữa chính chúng ta ngày nay.

Khi nghe Chúa Giêsu nói vậy, những người Biệt Phái hỏi về thời gian Triều Đại Thiên Chúa sẽ đến. Đúng là Pharisêu (Phái Rởm Xạo), chỉ tìm cớ để mai mỉa xỉa xói người khác, tìm cách làm hại người khác, cố ý chèn ép và chà đạp người khác. Trong cuộc sống – cả đời và đạo, thậm chí cả trong các cộng đoàn tu trì, vẫn thấy có các “phong cách” Biệt Phái như vậy. Và rồi Chúa Giêsu trả lời thẳng thắn: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được.” (Lc 17:20) Đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức luôn luôn – mọi nơi và mọi lúc, kẻo không kịp nhảy khi nước đã chạm đến chân!

Kinh Thánh xác định và cảnh báo: “Trong ngày thịnh nộ, của cải ích lợi chi, chỉ Đức Công Chính mới cứu khỏi tử thần.” (Cn 11:4) Và Chúa Giêsu cũng đã nói rõ: “Đến Ngày Phán Xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi ĐIỀU VÔ ÍCH mình ĐÃ NÓI. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.” (Mt 12:36-37) Chỉ là lời nói mà gió cũng không thể thổi bay mất đâu!

Lạy Thiên Chúa, xin ban ơn soi sáng để chúng con khả dĩ nhận biết mình ô uế với chứng bệnh trầm kha nguy hiểm, xin giúp chúng con tìm liệu pháp hiệu quả nhất để thanh tẩy và triệt mọi di căn, nhờ đó mà chúng con nên “thanh sạch”, không dám liếc xéo hoặc buông lời sắc bén làm tổn thương người khác. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

----------------------------
 

TN 28-C164: GẶP ĐẤNG KITÔ


Lm. Jos. DĐH.
 

Chỉ một giây phút tình cờ, ý tưởng tuôn trào, người nhạc sĩ có thể “sinh ra” các nhạc phẩm để TN 28-C164


Chỉ một giây phút tình cờ, ý tưởng tuôn trào, người nhạc sĩ có thể “sinh ra” các nhạc phẩm để đời. Có những thông tin rất đỗi bình thường, lại là cơ duyên mang đến cho anh chị em chúng ta việc làm ổn định, không gì hạnh phúc hơn cảnh: anh hùng gặp mỹ nhân. Có những tiếng nổ không gây thiệt hại đến vật chất, tính mạng, vậy mà chúng có thể làm tê tái nhiều tâm hồn, các chuyên gia gọi đó là tiếng sét ái tình, đầy thú vị. Trong khi đó, cụ Nguyễn Du lại gieo lên những vần thơ đầy ai oán: người ơi gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không ? Cũng không thiếu những bất ngờ xung quanh ta đang phát sinh nhiều điều kỳ diệu, có cả những cuộc gặp gỡ vô tình, để lại nhiều cảm xúc: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim, hồn tôi là một vườn hoa lá, rất đậm hương và rộn tiếng chim … (Tố Hữu)

Hành trình đi Giêrusalem năm xưa, Thầy trò Đức Giêsu tình cờ đã gặp, đã thấy, đã nghe, những thanh âm thật khẩn thiết: “lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi” ! Từ những lời kêu xin của 10 người mắc bênh nan y hôm đó, chúng ta không thấy xuất hiện một bản nhạc hay “trình làng” ; không tạo nên cơ hội làm giầu cho ai, không thấy trái tim đơn phương của bạn trẻ nào phải tê tái, nhưng tâm hồn một người ngoại giáo trở lại gặp Đức Giêsu để tôn vinh Thiên Chúa. Kinh nghiệm của tiền nhân: tiếng lành đồn xa, thực tế Đức Giêsu vẫn đang chứng minh: giầu nghèo, ốm đau, khoẻ mạnh, người tốt kẻ xấu, đều là đối tượng lòng thương xót Chúa, ai cũng xứng đáng để tận hưởng hồng ơn cứu độ. Thầy Giêsu được 10 người mắc bệnh phong biết đến là do danh tiếng Ngài là thầy thuốc, chữa được các loại tật bệnh, xa hơn nữa, người đương thời và muôn thế hệ sẽ còn nhận ra Đức Giêsu dạt dào tình yêu thương và là Thiên Chúa cứu độ.

Ngày hôm nay, chúng ta gặp Đức Giêsu không phải vì dư luận, không phải vì mắt thấy tai nghe, nhưng là bằng sự tự do của con tim và khối óc, bằng thao thức của tin yêu và hành động trong tin yêu. Ngày hôm nay, biết bao người được ơn gặp thầy gặp thuốc và khỏi bệnh, không dừng lại ở việc được chữa bệnh thể xác, Đấng Kitô còn cho thấy Ngài có sứ mạng làm cho mọi người mọi thời tin nhận lòng thương xót của Chúa là Thiên Chúa cứu chữa cả xác hồn. 10 người mắc bệnh phong không xin được khỏi bệnh, họ xin lòng thương xót của Đấng mà họ đặt niềm tin tưởng, Đức Giêsu đã hào phóng đáp ứng cả hai điều: được Chúa xót thương, được khỏi bệnh nan y. Những con người tội nghiệp ấy mong muốn được chia sẻ, cảm thông hoàn cảnh khổ đau, cùng cực của họ, Đức Giêsu đã gián tiếp, trực tiếp, dủ lòng xót thương từ khi họ khẩn cầu cho tới lúc đi trình diện các tư tế.

Phép lạ chữa lành giải thoát khỏi khổ đau bệnh tật, không cho biết có bao nhiêu người đạo gốc đạo theo, câu truyện nhắc đến chỉ có một người trở lại tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Đức Giêsu, mà anh ta lại là người ngoại giáo. Đức Giêsu không hối tiếc về việc thực thi lòng thương xót Chúa, chữa lành, Ngài có ý nhắc cho mọi người biết rằng 10 người mắc bệnh phong đều được khỏi, nhưng người lành sạch cả xác hồn chính là người biết tạ ơn Thiên Chúa. Gặp gỡ người tài giỏi là cơ duyên giữa tình người với nhau, gặp thầy gặp thuốc là do phúc đức tiền nhân để lại. Gặp gỡ Đức Kitô là do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, và được cứu độ hệ tại nơi mỗi người biết thể hiện niềm tin Đức Giêsu kitô là Thiên Chúa như thế nào ?

Tục ngữ có câu: trẻ cậy cha, già cậy con, thông thường chúng ta vẫn hiểu là tiền nhân có ý nhắn nhủ về dấu chỉ tình yêu thương giữa đấng bậc sinh thành và con cháu ; sâu xa hơn mỗi người phải biết đến tình liên đới trách nhiệm mà ai cũng phải chu toàn. Tâm lý chung, người thiếu tiền sẽ tìm tiền, người thiếu tình sẽ lưu ý đến tình đến nghĩa, tuy nhiên, đối tượng nào cũng cần được niềm vui hạnh phúc. Đức Giêsu tìm gặp thánh ý Chúa Cha và Ngài dành hết ưu tiên để chia sẻ tình yêu thương cho mọi đối tượng không phân biệt, không kỳ thị. 10 người phong cùi tìm gặp lòng thương xót nơi thầy thuốc Giêsu thì “quá chuẩn”, nhưng chính Đấng Kitô là niềm tin, là tình yêu, sẽ chữa lành cả xác hồn mà ai cũng phải thể hiện và bày tỏ niềm tin của mình.

Xưa hay nay gì thì Đức Kitô vẫn là Thiên Chúa yêu thương, mỗi người gặp Đấng kitô trong hoàn cảnh khác nhau: từ lúc lọt lòng mẹ, từ ốm đau bệnh tật, từ thành công, thất bại, tất cả đều là cơ hội, là dịp để được gọt giũa, biến đổi, hầu đáng được dự phần vào mầu nhiệm cứu độ của Con Thiên Chúa. Cơ hội gặp Đấng kitô với người thời nay luôn rộng lớn, Đấng kitô luôn hiện diện nơi cha mẹ ông bà, nơi giáo hội, nơi anh chị em mình là sự thật. Xin tình yêu của Đấng đã chết vì tội lỗi nhân loại, tiếp tục hiện diện và giúp từng tâm hồn anh chị em xung quanh chúng con nhận ra phép lạ Chúa sẽ chữa lành hồn xác chúng con. Amen.

-----------------------------------
 

TN 28-C165: LÒNG BIẾT ƠN


Lm. John Nguyễn
 

Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn TN 28-C165


Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn một đồng trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để ăn xin. Một phụ nữ trẻ đẹp, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói bụng, nên cô mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm uống sữa, rồi hỏi: Cháu phải trả cho cô bao nhiêu tiền? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả.

Mẹ cô dạy rằng, không bao giờ nhận tiền cho lòng tốt. Cậu bé cảm động nói: Cháu sẽ luôn biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim của cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe mạnh hơn và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng với số phận.

Nhiều năm sau đó, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không thể chữa được. Họ chuyển bà đến một thành phố lớn, nhờ các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ này. Lúc ấy, tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh nhân. Ông nhận ra ngay người ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng, ông quyết tâm hết sức lực để cứu sống bệnh nhân này.

Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài hàng chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường, bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “Trị giá hóa đơn = một ly sữa.” (câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).

Qua câu chuyện này, chúng ta đều nhận ra ý nghĩa của nó, chính là lòng biết ơn. Bác sỹ Howard Kelly là một mẫu gương cho chúng ta. Lòng tốt luôn được đền đáp. Người mang ơn thì phải biết trả ơn. Con thì phải biết ơn cha mẹ, vì cha mẹ đã sinh ra, nuôi dưỡng, dạy dỗ ta nên người. Học trò phải biết ơn thầy cô vì họ dạy chúng ta, và chúng ta cũng phải biết ơn người giúp đỡ ta trong cuộc sống. Đó là đạo làm người. Khi ta sống đúng với đạo lý làm người, là ta sống đạo tốt.Ngay cả Chúa Giêsu cũng dạy và đặt câu hỏi với mười người bị bệnh phong cùi được Chúa chữa lành bệnh.

Họ đến van xin Chúa chữa cho họ, nhưng đến khi hết bệnh, họ lại quay lưng bỏ đi, không nói một lời cám ơn hay tạ ơn Thiên Chúa. Trong khi đó, chỉ có một người Samaria, anh ta là người ngoại bang, là người dân ngoại đến tạ ơn Chúa. Chúa Giêsu nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

Chúng ta nghĩ gì về chín người bỏ đi kia. Được Chúa Giêsu chữa hết bệnh phong cùi là một điều vui sướng và hạnh phúc, họ không còn bị mọi nguời xa lánh, ruồng bỏ, họ được hội nhập vào xã hội và trở thành những con người mới. Ấy thế mà họ lại vô ơn. Con người dễ vô ơn với Chúa khi họ đạt được mục đích. Con người ngày nay khi gặp hoạn nạn, bệnh tật, ốm đau thì van xin Chúa đủ điều, nhưng khi được rồi thì lại quay lưng. Đó là căn bệnh của thời đại.

Chín người bệnh được chữa lành bệnh hôm nay là con số đại diện cho con những người chúng ta hôm nay cũng đang vô tâm bạc bẽo với Thiên Chúa. Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng, chúng ta sống được là do Thiên Chúa cho ban không? Chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí. Mọi sinh vật trên trái đất này, Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng. Vậy có bao giờ chúng ta nhớ đến Chúa hay nói lời cám ơn Chúa không? Thật ra, lòng biết ơn của chúng ta chẳng mang lại gì cho Chúa, nhưng Chúa muốn chúng ta phải biết nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa dành mỗi nguời chúng ta trong cuộc sống này.

Lạy Chúa, xin Ngài dạy con lòng biết ơn:
Biết ơn Chúa cho con có cha có mẹ.
Biết ơn Chúa cho con được sinh ra.
Biết ơn Chúa cho con đức tin.
Biết ơn Chúa cho con đức mến.
Biết ơn Chúa cho con hơi thở.
Biết ơn Chúa cho con mạnh khỏe.
Biết ơn Chúa cho con hạnh phúc.
Biết ơn Chúa cho con điều tốt lành.
Biết ơn Chúa cho con biết chia sẻ.
Biết ơn Chúa cho con biết sống yêu thương.
Biết ơn Chúa cho con thành công.
Biết ơn Chúa vì Ngài yêu con.
Tất cả là hồng ân Chúa ban cho con. Amen.

---------------------------------
 

TN 28-C166: “MẮC NỢ!”


Lm. Giuse Nguyễn
 

Khi đọc các bài đọc lời Chúa hôm nay, tôi nhớ đến hình ảnh một chàng trai khiếm thị mà báo TN 28-C166


Khi đọc các bài đọc lời Chúa hôm nay, tôi nhớ đến hình ảnh một chàng trai khiếm thị mà báo Mực Tím đăng cách đây đã hơn 20 năm. Anh ta bị mù, nhưng anh không hề oán hận cuộc sống, ngược lại anh còn cảm thấy mình mắc nợ cuộc đời, mắc nợ những người xung quanh, và mắc nợ những thứ mà những người sáng mắt chưa từng nghĩ là mình mắc nợ. Từ tâm tình đó anh đã sáng tác một bài thơ, rồi phổ nhạc. Bài hát này đã một thời làm cho nhiều người xúc động ngay từ cái tên của nó. Đó là tác phẩm Mắc Nợ của Nguyễn Vân Thiên:

“Ta nợ mùa thu một bài thơ lá rụng sương mù
Ta mắc nợ ai bao năm rồi vẫn chưa trả nổi
Nợ quê hương một chùm khế ngọt
Nợ cuộc đời một lần đắng cay
Nợ cơn mưa một lần ướt áo
Nợ trời quê một cánh diều bay
Ta nợ lời ru mẹ ầu ơ bên cánh võng năm nào
Nợ bạn bè lần hẹn hò cuối phố
Nợ trường xưa nét chữ ban đầu
Cả cuộc đời trả mãi – chắc chi xong!”

Có những món nợ chúng ta trả được, nhưng có những món nợ “Cả cuộc đời trả mãi – chắc chi xong!”. Phụng vụ lời Chúa hôm nay còn chúng ta thấy một món nợ mà dường như chúng ta chưa từng nghe bao giờ, đó là nợ Thánh Ân. Đối với món nợ này, chúng ta chỉ có thể đáp đáp trả bằng lòng biết ơn mà thôi.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài Đọc I: 2 V 5, 14-17

Đoạn sách này kể về việc tướng Naaman của nước ngoại giáo Aram được tiên tri Êlisê chữa cho khỏi bệnh cùi. Ông đã quay trở lại để cám ơn người của Thiên Chúa. Ông đòi tặng cho tiên tri Êlisê nhiều vàng bạc, châu báu, nhưng tiên tri Êlisa từ chối: “Tôi thề sẽ không nhận gì cả” (2V 5, 16).

Điều chúng ta chú ý là để tỏ lòng biết ơn bằng của cải vật chất không được, tướng chỉ huy Naaman đã xin “mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở” (2V 5, 17). Lý do mà tướng Naaman nêu ra là: “Vì tôi tớ Ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa”. (2V 5, 17).

Chúng ta phải biết rằng ông là vị tướng của nước Aram, một nhân vật có thế giá trong triều đình. Vì vậy mọi nghi lễ của đất nước ông phải tham dự. Và theo nghi thức thì đương nhiên ông cũng phải sụp lạy trước các tượng thần của đất nước ông. Nhưng từ nay nó chỉ đơn thuần là một nghi thức, chứ trong lòng ông đã có Đức Chúa của Israel, Đấng đã cứu chữa ông. Từ nay ông sẽ quỳ trên mãnh đất mà ông đã xin về từ đất nước Do Thái, đặt trang trọng trong căn phòng của ông để thờ lạy Đức Chúa. Đó là thái độ biết ơn vô cùng sâu xa, vượt sức con người. Ông biết món nợ này ông không thể trả được, chỉ có lòng biết ơn, thái độ suy phục mới có thể làm cho lương tâm ông yên ổn. Và đó là nợ Thánh Ân.

Tin Mừng: Lc 17, 11-19

Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem. Hôm nay Ngài đi ngang qua biên giới của người Samaria và Galilêa. Đây là vùng đất mà nếu một người giữ đạo đàng hoàng thì tốt nhất đừng nên đi vào. Ấy vậy mà chính tại nơi đây, chính tại vùng đất bị người Do Thái khinh rẽ lại xảy ra một phép lạ, mà phép lạ chẳng những cho một người, nhưng cho mười người. Đó là cho họ được khỏi bệnh phong cùi. Người Do Thái không chấp nhận cho người cùi sống chung trong làng. Họ phải sống cô lập ngoài sa mạc, xa xôi ngoài cánh đồng. Trong đoạn Tin Mừng này thánh Luca cũng cho biết là “Họ dừng lại đằng xa” (Lc 17, 12) chứ không dám lại gần Đức Giêsu. Họ bị coi là những kẻ tội lỗi, những người bị Thiên Chúa phạt. Hiểu như thế chúng ta cảm được nỗi đau của những người cùi, đau đớn về thể xác và nhất là khổ sở về tinh thần.

Chính vì vậy khi vừa nghe tiếng họ kêu cứu: “Lạy Thầy Giêsu xin dủ lòng thương chúng tôi” (Lc 17, 13), Đức Giêsu đã dừng lại. Chỉ sự dừng lại của Chúa thôi cũng đã làm cho họ được an ủi phần nào, cũng làm họ phải “mắc nợ” suốt đời, vì những người bình thường thấy họ là lo chạy nhanh, chạy xa như tránh một thứ độc hại. Chẳng những dừng lại mà Ngài còn làm nhiều hơn sự mong chờ của họ là cho họ được sạch. “Đang khi họ đi thì họ được sạch” (Lc 17, 14).

Nghĩ cũng lạ, họ đâu xin Chúa cho được sạch đâu, chỉ “xin dủ lòng thương”. Chúa cũng đâu nói với họ đi trình diện tư tế là sẽ được sạch đâu? Vậy mà đang khi đi họ được sạch. Qua những câu ngắn ngủi của Tin Mừng, chúng ta cảm nhận dường như họ đọc được nỗi niềm của nhau, biết được suy nghĩ của nhau.

Chúng ta cần để ý đến việc chữa lành thể xác và chữa lành tâm hồn. Cả 10 người cùi đều được chữa lành thể xác, vì khi đang đi trình diện tư tế thì họ được khỏi. Nhưng chỉ duy nhất người cùi xứ Samari là được chữa lành tâm hồn, được ơn cứu độ. Tại sao vậy? Thưa bởi vì anh ta biết ơn và quay trở lại để được gặp gỡ người làm ơn cho mình.

Niềm tin đã thúc đẩy cả 10 người cùi đi trình diện các tư tế. Nhưng dấn thân để có một liên hệ mật thiết với Đức Kitô mới đem đến ơn cứu độ mà thôi, và đó là niềm tin trọn vẹn nơi anh cùi xứ Samari. Niềm tin đó khởi sự từ lòng biết ơn.

II. SUY TƯ

Từ đoạn Tin Mừng này xin chia sẻ 2 suy tư.

Nợ nhau

Suy tư thứ nhất là trong đau khổ người ta sẽ dễ yêu thương nhau hơn. Đó là hình ảnh rất đẹp nơi 10 người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Nếu những người Do Thái bình thường thì không bao giờ được phép gần gũi, gặp gỡ, sống chung với người ngoại giáo. Vậy mà trong nhóm người cùi này có một người ngoại giáo. Họ đi chung một con đường để tiến đến gặp gỡ Đức Kitô. Đẹp quá một hình ảnh như thế! Họ đi chung một con đường vì không còn đường nào khác. Họ đi chung một con đường vì những đường khác đã bị “kéo dây chì”. Họ đi chung một con đường vì đường khác đã dành cho những người lành lặn… Biết nương tựa vào ai đây ngoài những người cùng cảnh ngộ. Từ nay cùi đi với cùi, cùi chơi với cùi, cùi sống với cùi thôi chứ biết đi, biết chơi, biết sống với ai đây?

Thực trạng của xã hội Do Thái vẫn là thực trạng của xã hội hôm nay. Chỉ những ai cùng chung cảnh ngộ mới dễ thông cảm cho nhau. Cùng chung một nghề nghiệp, cùng chung một hoàn cảnh, cùng chung một tâm trạng, cùng chung một trình độ, thậm chí là cùng chung tội lỗi nữa…

Nhà thơ Chính Hữu đã mô tả tình đồng chí rất đẹp: “Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá, miệng cười buốt giá chân không giày, thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Trong những lúc gian khổ, “hột muối cắn làm đôi”, người ta dễ yêu thương nhau. Nhưng biết đâu mai kia có một người làm lãnh đạo, có chức, có quyền trong xã hội, không biết có còn nhớ đến thằng đồng chí mặc quần rách không?

Hay có những cặp vợ chồng đùm bọc nhau khi nghèo khó: “Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”; cùng đẩy chiếc xe bán hàng rong, cùng chèo chiếc ghe bán hàng bông… có gian khổ nhưng sao thấy hạnh phúc quá chừng… Bỗng dưng trúng số độc đắc nên đổi đời, và vì thế cũng đổi lòng đổi dạ, không còn yêu thương nhau, không còn những ngày xưa thân ái nữa.

Chín người cùi kia sau khi được lành sạch liệu có còn sống chung với người cùi xứ Samaria không? Chắc chắn là không!

Tình đời, tình người là thế. Vì vậy chúng ta hãy biết quý trọng tình nghĩa, dù là lúc gian khổ hay lúc sướng vui. Trong tất cả, chữ tình là trên hết. Đó là món nợ mà mỗi người chúng ta còn thiếu. Hãy thiếu hoài, thiếu mãi đừng bao giờ trả, vì nếu có trả, trả cũng không xong. Thánh Phaolô nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái”.

Nợ Thánh Ân

Thiết nghĩ 9 người cùi kia không quay trở lại là vì nghĩ rằng họ không mắc nợ, mà chuyện được chữa lành là lẽ đương nhiên khi họ tin Chúa. Họ nghĩ Chúa là Cha thì phải có trách nhiệm lo cho con cái. Cha mà không lo lắng cho con cái là một người cha không tốt. Sống đạo họ chỉ cần giữ những gì luật dạy chứ không giữ tâm tình với Chúa.

Suy nghĩ của họ hoàn toàn phàm tục. Thiên Chúa không phải là người cha theo kiểu trần gian, mà là Đấng Thánh. Trước Đấng Thánh thì thái độ của con người là suy phục, thờ lạy chứ không phải là đòi hỏi và công bằng, vì con người thì không có quyền đòi hỏi thần minh, cũng như cái bình không có quyền đòi hỏi người nắn ra nó phải làm theo hình dáng nó muốn.

Thụ tạo phải luôn luôn có tâm tình cám ơn vì mỗi một nét họa trong cuộc đời là một hồng ân của Thiên Chúa, cho dù đó là đẹp hay xấu (theo kiểu nghĩ con người); còn đối với Chúa thì luôn luôn là tốt cho chúng ta.

Vì vậy họ tưởng trong những lúc họ bị cùi là Chúa không thương họ, Chúa không đúng, giờ Chúa cho họ được sạch là chuyện đương nhiên Chúa phải làm. Họ nghĩ mình không mắc nợ.

Còn anh cùi Samari thì không thể tưởng tượng được ơn lành này. Chúa kêu anh đến trình diện tư tế, anh cũng đi. Nhưng khi anh được sạch thì anh biết các tư tế không thể làm cho mình được sạch, mà chỉ có Thiên Chúa mới cho mình được sạch thôi. Vì vậy anh đã quay trở lại để cám ơn Chúa. 9 người kia đến với các tư tế là theo luật. Còn anh trở lại với Chúa Giêsu là theo lòng biết ơn phát xuất từ con tim. Anh biết mình mắc nợ, món nợ không thể nào trả được. Món nợ Thánh Ân.

Đời sống của chúng ta quá bộn bề với những lo lắng, bon chen, khiến chúng ta đôi khi, thậm chí là thường khi ít nghĩ đến món nợ Thánh Ân. Chúng ta cứ tưởng mình hiện hữu ở trên đời này là chuyện bình thường, mình có đạo là điều tự nhiên, thậm chí có người còn cho là mình “lỡ có đạo”. Chúng ta nghĩ rằng Chúa đương nhiên phải lo liệu cho tôi theo như những gì tôi muốn. Chúa không cho thì tôi không đến với Chúa nữa là chuyện bình thường. Một lối sống đạo hết sức sai lầm. Chúng ta phải nhớ đức tin là đặt mình trước sự hướng dẫn của một vị Thiên Chúa. Vì vậy món nợ Thánh Ân không khi nào ta trả nỗi. Thái độ tốt nhất là cám ơn bằng cách gắn kết đời mình với Đức Giêsu như anh cùi Samari trong bài Tin Mừng hôm nay.

Xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn có tâm tình biết ơn, biết ơn những con người đã, đang và sẽ đi ngang qua cuộc đời chúng con. Cám ơn Chúa vì món nợ Thánh Ân mà chúng con không bao giờ trả được. Chính thái độ biết ơn sẽ làm cho chúng con gắn kết với Chúa và với anh chị em.

------------------------------
 

TN 28-C167: SỐNG TÂM TÌNH CẢM TẠ THIÊN CHÚA


         Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (2 V 5:14-17;  2 Tm 2:8-13;  Lc 17:11-19)
 

Thỉnh thoảng tôi có dịp nghe giới thiệu trên TV công việc của Hội “Bạn những người cùi ở TN 28-C167


Thỉnh thoảng tôi có dịp nghe giới thiệu trên TV công việc của Hội “Bạn những người cùi ở Việt Nam”.   Những người cùi vừa vỗ tay (dù bàn tay không còn ngón nào cả!) vừa cất tiếng hát:  “Xin tạ Ơn Trên, người vẫn thương người”.  Nghe mà cảm động làm sao!  Họ cảm tạ Chúa vì vẫn có những tấm lòng quảng đại đã giúp đỡ họ qua Hội.  Đó là câu chuyện ngày nay.  Nhưng ngày xưa cũng có nhiều câu chuyện như thế, cụ thể là chuyện ông Na-a-man trong sách Vua quyển thứ 2 và chuyện Mười người phong hủi được Chúa Giê-su chữa lành theo sách Tin Mừng Lu-ca.  Cả hai câu chuyện không nhấn mạnh đến việc chữa lành, nhưng chuyển sang chủ đề tạ ơn Thiên Chúa.  Trước khi trở về quê nhà là nước A-ram, ông Na-a-man đã quay lại cám ơn ngôn sứ Ê-li-sa và tuyên xưng Thiên Chúa của Ít-ra-en.  Trong số mười người phong hủi được chữa lành, chỉ có người ngoại bang Sa-ma-ri trở lại cảm tạ Chúa Giê-su, còn chín người Do-thái thì không ai tỏ lòng biết ơn Chúa.  Hai câu chuyện này khiến những người tự hào là con cái Chúa, là người “có đạo” phải nghĩ lại về thái độ vô ơn của mình.

          Tạ ơn Thiên Chúa là một điệp khúc được lập đi lập lại trong Cựu Ước, nhất là sách Thánh Vịnh.  Tác giả Thánh Vịnh kêu gọi mọi người hãy cảm tạ Chúa vì những ơn lành Người ban.  Lời ca tạ ơn được cất lên từ mọi hạng người, thứ dân cho đến hàng vua chúa.  Lý do để tạ ơn Chúa thì lại càng nhiều không sao kể hết.  Có thể nói, cứ cách vài ba Thánh Vịnh, chúng ta lại gặp một Thánh Vịnh chứa đựng những lời cảm tạ Chúa.  Câu chuyện ngôn sứ Ê-li-sa bảo tướng Na-a-man xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan thì sẽ khỏi bệnh phong hủi.  Chúng ta thử tưởng tượng mình đóng vai ông tướng Na-a-man để hiểu được tâm trạng bất mãn của ông.  Ông là một danh tướng nước A-ram, hạ mình đến để cầu xin ngôn sứ người Ít-ra-en chữa bệnh phong cùi cho ông.  Nhưng ngôn sứ không tự tay chữa lành ông, mà chỉ bảo ông làm một việc hết sức vô nghĩa:  dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan.  Mà nước sông Gio-đan có hơn gì những dòng sông tại quê hương ông đâu!  Nhưng cuối cùng, ông cũng hạ mình thêm một lần nữa, làm theo điều ngôn sứ nói.  Ông được lành bệnh, da thịt lại trở nên giống như trẻ nhỏ.  Được khỏi bệnh, ông mừng lắm.  Nhưng ông không quên điều phải làm là cùng đoàn tùy tùng quay lại cám ơn ngôn sứ Ê-li-sa, nhất là để tạ ơn Thiên Chúa của dân Ít-ra-en.  Ông còn xin ngôn sứ cho ông đưa một ít đất của nước Ít-ra-en về nhà.  Để làm gì với mấy bao đất ấy?  Để ông được tiếp tục đứng trên miền đất Ít-ra-en mà “dâng lễ toàn thiêu và hy lễ” tạ ơn Thiên Chúa của Ít-ra-en.  Ông quyết tâm từ bỏ bất cứ thần nào khác để phụng thờ duy một mình Thiên Chúa mà thôi.  Đây là một cách tạ ơn Chúa thật tuyệt vời.  Chúng ta đừng quên ông Na-a-man là người ngoại giáo, tức không phải người Do-thái.

          Một câu chuyện tạ ơn khác được thánh sử Lu-ca kể lại.  Chúa Giê-su và các môn đệ từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem.  Khi các ngài đi tới biên giới Ga-li-lê và Sa-ma-ri thì có mười người phong hủi ra đón gặp Chúa.  Chắc chắn họ đã nghe nói về Chúa Giê-su.  Nhưng theo luật thanh tẩy, họ phải đứng ở đằng xa và kêu lớn tiếng, xin Chúa thương xót họ.  Đấng giầu lòng thương xót bảo họ cứ đi trình diện tư tế, vì theo luật, người phong hủi sau khi lành bệnh phải trình diện tư tế để được nhận lại vào trong cộng đồng.  Thánh Lu-ca kể rõ ràng:  “Đang khi đi thì họ được sạch”.  Tiếp theo, bằng giọng văn khá mỉa mai, ngài kể tiếp:  “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.  Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn.  Anh ta lại là người Sa-ma-ri”.  Đó là lời kể của Lu-ca.  Nhưng chúng ta hãy đọc thật chậm những lời chua xót của Chúa Giê-su để thấy được Người muốn nhấn mạnh đến tâm tình tạ ơn Thiên Chúa:  “Không phải cả mười người đều được sạch sao?  Thế thì chín người kia đâu?  Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”  Vô cùng chua xót chứ!  Không biết giọng của Chúa như thế nào khi Người hỏi:  Thế thì chín người kia đâu?  Phải, chín người là đồng bào của Người, là những người được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương, vậy mà họ lại là những kẻ vô ơn, thua xa người ngoại bang Sa-ma-ri kia.  Chúa Giê-su đâu cần họ phải cám ơn Người, nhưng Người chỉ muốn họ hãy “trở lại tôn vinh Thiên Chúa” mà thôi!  Chắc chắn trong cuộc đời Ki-tô hữu, nhiều lần chính chúng ta cũng phải giật mình khi thấy mình ở trong số chín người này đấy.  Người Sa-ma-ri đã làm một cử chỉ đầy ý nghĩa:  anh sấp mình dưới chân Chúa Giê-su mà tạ ơn.  Sấp mình là cử chỉ thờ lạy dành riêng cho việc thờ lạy Thiên Chúa.  Vậy anh đã nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa của anh rồi.  Chúa Giê-su chấp nhận lòng tin của anh khi Người bảo:  “Đứng dậy về đi!  Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.  Thế là anh vừa được Chúa cứu thể xác vừa được Chúa cứu phần linh hồn.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Một lần nữa, thánh Phao-lô lại khéo léo dạy môn đệ Ti-mô-thê bài học cảm tạ Thiên Chúa.  Ngài khuyên anh bắt chước ngài mà “nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô”.  Tạ ơn là nhớ đến.  Phao-lô nhớ đến Chúa Giê-su vì Chúa đã làm cho ngài thật nhiều.  Cho nên ngài nhớ đến thì ngài muốn nói cho người khác biết về Chúa, về lời Chúa và về ơn cứu độ Chúa ban cho ngài và cho chúng ta nữa.

------------------------------
 

TN 28-C168: BỆNH PHONG CÙI


Jos. Hồng Ân
 

Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi, cùi hay bệnh Hansen, do vi khuẩn Mycobacteri- um leprae gây TN 28-C168


Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi, cùi hay bệnh Hansen, do vi khuẩn Mycobacterium leprae gây ra. Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn vết thương lõm vào da thịt.

Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Vi trùng bệnh cùi làm cho thân thể bệnh nhân bị đau đớn cả trong xương thịt, nhất là ban đêm, mà còn tấn công các chỗ xương sụn. Vì thế tai mũi và các khớp xương bị ăn mòn. Tai sưng lên rồi biến mất dần dần, mũi cũng biến đi để lại giữa mặt một hố mủ máu hôi thối. Các ngón tay rụng dần. Đàng khác bệnh nhân mất cảm giác, nên có bị phỏng, vết thương cũng không thấy đau, vì thế có khi cầm thanh củi cháy đến tay cũng không cảm thấy nóng, nên dễ bị thương nặng, có thể chết mà không biết.

Ở Việt Nam người bị nhiễm bệnh phong chịu thành kiến, chịu sự hắt hủi, xa lánh của cộng đồng, thậm chí bị ngược đãi cho trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt.

Trong Cựu Ước, nếu một người bị tình nghi mắc bệnh phong cùi thì người ta dẫn người ấy đến một vị tư tế có kinh nghiệm chuyên môn về bệnh này. Vị tư tế sẽ cho người ấy sống cách ly với cộng đoàn bảy ngày, sau đó tái khám, nếu không thấy dấu vết phong cùi ra nặng thì họ được về với gia đình. Nếu có những dấu bệnh lây lan thì vị ấy tuyên bố công khai người ấy quả đã bị phong cùi. Tức khắc người ấy bị đuổi ra khỏi làng, dù cha mẹ hay con cái có thương cũng không dám che giấu, vì ai ai cũng sợ bị lây. Mà lây bệnh cùi thì không còn phương dược nào chữa được.

Nếu bị tư tế kết luận là đã mắc bệnh phong, người bệnh buộc phải theo quy chế là: “mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế, ô uế” (Lv 13,45). Khi xác định là mắc bệnh phong thì người bệnh bị đuổi ra khỏi nhà, bị tách biệt khỏi cộng đồng, phải sống lang thang vất vưởng ở những nơi hoang vắng, rừng núi, chui rúc trong các hang hốc để che mưa tránh nắng. “Bao lâu còn mắc bệnh phong thì nó ô uế, nó ô uế nó phải ở riêng ra. Chỗ ở của nó là một nơi bên  ngoài trại” (Lv 13,46).

Theo luật Do Thái thời xưa, người mắc bệnh phung phải ở cách xa người không mắc bệnh (kể cả thân thích ruột thịt) khoảng 1,8 mét; nếu có gió thổi, thì khoảng cách phải là 45 mét (x. http://www.gotquestions.org/Bible-leprosy.html). Vì vậy, người bệnh phong phải sống chung với người đồng cảnh ngộ cho tới khi chết, nếu bệnh không thuyên giảm. Đây là biện pháp thi hành ở Do Thái thời xưa để ngăn ngừa bệnh lây lan.

Vào thời của Chúa Giêsu cũng vậy, những người mắc bệnh phong cùi bị xã hội đối xử rất tồi tệ, có thể nói là tàn ác nữa. Vì bệnh phong là một căn bệnh nan y, không có thuốc, cũng không có cách nào, không ai có thể chữa trị được.

Tin Mừng Thánh Luca hôm nay mô tả Chúa Giêsu đang đi “Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người”. (Lc 17,12). Họ là những người đang mắc bệnh phong, theo luật họ không được đến gần người khác không mắc bệnh, khi có người không mắc bệnh đến gần họ phải kêu lên “Ô uế, ô uế” (x.Lv 13, 45). Để cho mọi người biết mà tránh xa.

Trong lúc cùng cực của sự đau khổ cả về thể xác và tinh thần. Họ nghe tin Đức Giêsu có tài chữa bệnh, hôm này Ngài đi ngang qua nơi đó, họ không dám lại gần chỉ đứng đàng xa mà kêu xin: “Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi” (Lc 17,13-14). Đức Giêsu thấy vậy Ngài thương xót và chữa lành cho họ. Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14a). Bởi vì chính các tư tế khám cho họ và xác định là họ mắc bệnh phong và bị ô uế, nên để xác định là được khỏi bệnh thì họ phải trình diện các tư tế, để các tư tế khám và xác định họ được lành sạch và cho phép họ về nhà, hòa nhập với cộng đồng. Nhưng “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17, 14b).

Mười người phong cùi đã được chữa lành nhưng chỉ có một người trở lại cảm ơn Chúa, người này lại là người Samari, bởi anh ta chân thành cảm tạ Chúa từ trong đáy lòng. Trong khi các người kia thì lo sao để các tư tế khám và công nhận mình được lành sạch và cho phép họ trở về sống giữa gia đình và xã hội, thì riêng anh, anh muốn ngay lập tức cảm tạ Thiên Chúa ở chính nơi mà ơn của Người đến với anh, lòng tin đã cứu thoát và biến đổi con người anh.

Chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn” (Lc 17,16). Chúa Giêsu thấy rõ con người của họ, sự vô ơn, bạc nghĩa của họ Ngài đã phải thốt lên “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18).

Về đàng thiêng liêng, tội lỗi được ví như một thứ bệnh phong hủi tôn hồn. Phong hủi là hình bóng của tội lỗi: thân thể người phong hủi bị hư nát dần dần, trước ngoài da, sau đến thịt, rồi đến xương thật là ghê tởm! Bệnh phong hủi làm cho thân xác mất mọi vẻ đẹp bên ngoài, nơi mặt, mắt, mũi, miệng, tay chân …

Tội lỗi cũng làm cho linh hồn ra ô uế, mất mọi vẻ đẹp bên trong, người mắc bệnh hủi tâm hồn thì: so đo tính toán, ích kỷ hẹp hòi, ghen ăn tức ở, tham lam gian dối, mưu mô giảo quyệt, nói năng tục tĩu, cho vay nặng lãi, đặt điều bịa chuyện, tâm trí hèn hạ, tâm tình đê tiện, bên ngoài thơn thớt nói cười, bên trong nham hiểm giết người không dao, hay miệng thì nam mô, bụng bồ dao găm… Nói tóm lại là bao nhiêu thứ xấu xa, tội lỗi đều đổ cho hủi, người đời vẫn thường gán cho những kẻ xấu, ở bẩn, lười, tham lam: xấu như hủi, bẩn như hủi, lười như hủi, tham như hủi…

Bệnh phong hủi làm cho mọi người lánh xa, còn bệnh hủi tâm hồn làm chúng ta xa Chúa. Bệnh phong hủi gây đau khổ cho người bệnh, lây lan đến mọi người chung quanh. Tội lỗi là thứ bệnh hủi tâm hồn gây ra gương xấu, lôi kéo nhiều người phạm tội, chạy theo ma quỷ.

Để chữa trị thứ bệnh phong hủi tâm hồn thì người bệnh phải nhận ra mình ô uế, chạy đến với Chúa và kêu xin người cứu chữa, nếu không thì suốt đời mang căn bệnh nan y, sống trong đau khổ và tủi nhục, bị mọi người xa lánh.

------------------------------
 

TN 28-C169: Ý NGHĨA CỦA PHÉP LẠ


Phêrô Nguyễn Văn Hương
 

Khi Chúa Giêsu trên đường lên Giêrusalem, có mười người phong cùi đến gặp Người tại cửa TN 28-C169


Khi Chúa Giêsu trên đường lên Giêrusalem, có mười người phong cùi đến gặp Người tại cửa vào một làng. Họ đứng từ đàng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Chúa Giêsu động lòng thương và nói với họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Khi đi gặp các tư tế, cả mười người phong cùi nhận thấy mình được khỏi bệnh. Một người trong số họ quay trở lại tạ ơn Chúa Giêsu, người đó lại là người Samari. Đây là phép lạ Chúa Giêsu chữa lành những người phong cùi được thánh Luca trình thuật trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe.

1- Các phép lạ trong Kinh Thánh

Bài đọc I cũng nói về việc tiên tri Êlisa chữa lành một cách lạ lùng cho một người phong cùi, đó là Naaman, người Syria.

Rõ ràng ý hướng chủ đạo của phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về ý nghĩa của phép lạ chữa lành người phong cùi.

Thật vậy, Kinh Thánh cho thấy dân chúng rất trông chờ Chúa Giêsu làm những phép lạ trong sứ vụ của Người. Đối với họ, ý tưởng nổi bật nhất mà họ quan niệm về Người là Đấng có quyền năng thực hiện nhiều phép lạ. Người ta thích thú hình ảnh này hơn hình ảnh Chúa Giêsu như là vị ngôn sứ. Một cách nào đó, chính Chúa Giêsu nhìn nhận và xác thực về sứ mạng cứu độ của Người khi nói rằng: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5). Nếu các phép lại bị xóa bỏ khỏi cuộc đời Chúa Giêsu thì cốt lõi của toàn bộ Tin Mừng cũng bị phá hủy.

Trong Tin Mừng, các phép lạ thường được đón nhận cách khác nhau. Đôi khi chúng được nhìn cách tích cực và đôi khi trở thành tiêu cực. Tích cực, khi chúng được đón nhận với lòng biết ơn và niềm vui, khi chúng đánh thức đức tin vào Chúa Kitô và hy vọng vào một thế giới tương lai không có bệnh tật và chết chóc; tiêu cực, khi người ta chạy theo phép lạ, chỉ tìm kiếm phép lạ hoặc đòi Chúa làm phép lạ rồi mới tin, như trong cuộc hội thoại giữa Chúa và người Do Thái: “Đâu là dấu chỉ ông làm để chúng tôi có thể tin vào ông?” (Ga 6,30). Chúa Giêsu luôn từ chối làm phép lạ nếu họ thiếu niềm tin và vì mục đích này.

2- Sự bất cập hoặc thái quá khi nói về phép lạ

Ngày hôm nay, tính hiếu kỳ và thói chạy theo dấu lạ vẫn cứ tiếp tục trong dân chúng dưới muôn vàn hình thức khác nhau. Một đàng, có những người thích tìm kiếm phép lạ, tìm kiếm những chuyện ngoại thường xảy ra, rồi nhẹ dạ cả tin vì được chứng kiến tận mắt những hình ảnh, cảnh tượng như việc Đức Mẹ chảy dầu, tượng Chúa chảy mồ hôi, ảnh Lòng Thương Xót Chúa trổ hoa v.v… trong khi phép lạ Thánh Thể mỗi ngày diễn ra trên bàn thờ nơi thánh lễ thì họ rất ít quan tâm và đến tham dự…

Đàng khác, có những người lại phủ nhận hoàn toàn các phép lạ trong cuộc sống. Quả thế, họ nhìn phép lạ với một thái độ khó chịu nào đó và cho rằng những chuyện như thế là hoàn toàn bịa đặt. Theo họ, phép lạ như một lệch lạc của niềm tin tôn giáo, hay là do sự ngu muội, chủ quan, dốt nát, cả tin. Tuy nhiên, họ không nhìn nhận rằng trong lịch sử và trong cuộc sống, có những điều kỳ diệu xảy ra mà chỉ có đức tin mới lý giải được, đó là những can thiệp của Thiên Chúa, là dấu chỉ tình yêu Chúa dành cho con người khi chữa lành, hay cứu vớt một ai đó. Chẳng hạn như những trường hợp bệnh nhân được chữa lành ở Lộ Đức, hay trường hợp một người phụ nữ không có con ngươi, nhưng khi tiếp xúc với cha Piô Năm Dấu, thì bà nhìn thấy được.

3- Tiêu chuẩn để phân định

Cùng với những tường thuật về các phép lạ, Kinh Thánh cho chúng ta những tiêu chuẩn để phân định tính xác thực và mục đích của các phép lạ.

Trong Kinh Thánh, phép lạ tự thân không bao giờ là mục đích; phép lạ chỉ là một phương tiện để dẫn người ta đến với Thiên Chúa; Chúa Giêsu không làm phép lạ với ý định đề cao mình hay để chứng tỏ cho mọi người thấy quyền năng ngoại thường trổi vượt của mình. Người không giống như hầu hết những nhà phù thủy khi chữa bệnh, họ thường quảng cáo về mình. Đúng hơn, phép lạ được thực hiện như là sự khích lệ và phần thưởng của Đức tin. Phép lạ là một dấu chỉ giúp con người hướng tới ý nghĩa cao cả hơn của cuộc sống. Tự bản chất, phép lạ là “dấu chỉ” hướng đến Thiên Chúa và cũng dẫn con người đến Người. Thiên Chúa tự tỏ mình trong quyền năng yêu thương qua các phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu và của các Tông Đồ. Chữa lành là một chiều kích chính yếu của sứ vụ Tông Đồ và của niềm tin Kitô giáo nói chung. Trong ý nghĩa đó, Kitô giáo được gọi là “tôn giáo chữa lành.” Ơn cứu độ xét cho cùng đó chính là sự chữa lành. Ai thực sự muốn chữa lành, người đó phải nhìn nhận rằng việc cứu chữa cuối cùng chỉ có thể đến từ tình yêu Thiên Chúa.

Bởi thế, chúng ta cần phải tránh rơi vào hai thái cực, hoặc là chạy theo tìm kiếm dấu lạ, hoặc là phủ nhận hoàn toàn các dấu lạ của cuộc sống, nhưng phải biết đón nhận những phép lạ với một thái độ biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa. Con người thường thích nhận quà mà quên người tặng quà. Nên chúng ta cần học thái độ biết ơn của người phong ở Samari.

Xin Chúa giúp chúng ta có cặp mắt đức tin trong suốt để chúng ta thấy được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện trong cuộc sống, nhờ đó chúng ta biết ngạc nhiên, tạ ơn và thực thi thánh ý của Thiên Chúa qua những phép lạ Người làm. Amen!

-----------------------------
 

TN 28-C170: NHẬN RA ƠN CHÚA


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
 

Con người hiện hữu trên trái đất, dù tin Chúa hay không, vẫn sống trong tình yêu thương ngập tràn TN 28-C170


Con người hiện hữu trên trái đất, dù tin Chúa hay không, vẫn sống trong tình yêu thương ngập tràn của Ngài. Đời sống nhân sinh cần Chúa như thân xác cần hơi thở, như trái đất cần nước mưa, như cây cỏ cần ánh mặt trời.  Cũng như mặt trời luôn hiện hữu, dù người khiếm thị không nhìn thấy, Thiên Chúa luôn hiện diện, dù người vô tín không nhận ra. Tuy vậy, dù nhận ra hay không thì Ngài vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để chúc lành và dẫn dắt chúng ta trên mọi nẻo đường trần gian.

Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta hai cá nhân, dù là “người ngoại”, đã nhận ra tình thương và quyền năng của Chúa, đồng thời dâng lời tôn vinh cảm tạ Ngài.

Trường hợp thứ nhất là một vị tướng của Syria, tên là Naaman. Ông bị bệnh phong cùi, tìm thầy kiếm thợ mãi không khỏi. Ấy vậy mà khi đến với Ngôn sứ Elisê, chỉ đơn giản là tắm dưới dòng nước sông Giordan của Israen, ông đã được sạch. Thoạt đầu, khi nghe đề nghị của vị ngôn sứ, ông tỏ ra khó chịu, vì cách thức chữa bệnh quá đơn giản, không có sức thuyết phục. Nhưng sau đó, ông đã nhận ra, ông được chữa lành không phải là do thuốc trần gian, mà nhờ thuốc thiêng liêng. Ông không thiếu gì tiền bạc, nhưng bệnh của ông đã được chữa khỏi không phải nhờ tiền bạc và tài năng con người. Chính Thiên Chúa đã chữa lành ông, khởi đi từ niềm tin của ông qua việc chấp nhận dìm mình xuống dòng sông, theo lệnh truyền của vị ngôn sứ. Nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, ông đã xin đất chở về quê hương để tôn thờ Ngài.

Người thứ hai là người cùi ở Samaria. Chúa Giêsu không nói với chúng ta chín người kia là người Do Thái hay dân ngoại, nhưng người duy nhất trở lại tôn vinh Thiên Chúa là người xứ Samaria. Dưới cái nhìn của người Do Thái, người Samaria là những người vô thần. Cả mười người cùi đều được chữa lành, nhưng duy nhất mình anh ta trở lại để nói lời cám ơn và tôn vinh quyền năng của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu. Có lẽ chín người kia đã quá vui mừng khi được chữa lành, hoặc quá vô tâm không nhận ra nhờ đâu mà mình được lành sạch. Dù vì lý do nào đi nữa, thì việc quên lãng người đã làm ơn cho mình là một điều đáng trách.

Mỗi chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, có nhận ra những điều tốt lành Chúa ban, thông qua những biến cố hoặc những người đang sống xung quanh? Nhiều người cho rằng những điều tốt lành ấy là do ngẫu nhiên ta nhận được, chứ không phải do tình thương của Thượng Đế. Lời Chúa hôm nay muốn nhắn nhủ chúng ta, hãy luôn biết nhận ra ơn Chúa, để dâng lời cảm tạ và tôn vinh Đấng cao cả. Tạ ơn Chúa vừa là bổn phận của chúng ta, vừa là điều kiện để Chúa tiếp tục ban ơn lành.

Chân thành cám ơn Chúa vì những điều tốt lành Ngài ban, chúng ta cũng biết nói lời cám ơn nhau. Cuộc sống vắng tiếng cám ơn sẽ trở nên khô khan, buồn tẻ, và sẽ biến con người thành những cỗ máy di động. Cám ơn không phải là hèn hạ, phụ thuộc như một thời nhiều người lầm tưởng. Con người sống ở đời phụ thuộc và liên đới với nhau. Người nông dân mua vải của người thợ dệt. Nguời thợ dệt mua nông sản của người nông dân. Sự trân trọng công lao và việc làm của người khác là biểu hiện của người có văn hóa và có nghĩa có tình. Lời cám ơn đối với những người cùng chung sống không chỉ thể hiện qua lời nói, nhưng còn là sự cảm thông, tình liên đới và bao dung.

Tạ ơn Chúa khi gặp điều may lành, người tín hữu còn biết dâng lời cảm tạ Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, ngay cả khi gặp khó khăn thử thách, vì họ xác tín rằng Chúa luôn muốn những điều tốt đẹp cho những ai yêu mến Ngài. Thánh Phaolô đã khuyên người môn sinh của mình là ông Timôthê hay luôn kiên tâm chịu đựng và phó thác vào tình thương của Chúa. Thánh nhân viết thư này từ trong tù, lúc bị xiềng xích, mà vẫn lạc quan hy vọng và tin tưởng vào Chúa, là Đấng trung thành. Trong xiềng xích tù đầy, thánh nhân vẫn nhận ra ơn của Chúa ban và đón nhận chiu đựng tất cả, vì lòng mến Chúa (Bài đọc II).

Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con, để chúng con biết chiêm ngưỡng những điều kỳ diệu Chúa làm cho nhân loại, và để chúng con nhận ra tình thương bao la hải hả của Chúa, xuyên qua những điều kỳ diệu ấy. Amen.

----------------------------
 

TN 28-C171: LÀM ƠN ĐỪNG NHỚ, CHỊU ƠN CHỚ QUÊN


JM. Lam Thy
 

Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm TN 28-C171


Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, khi làm được việc tốt cho ai đó thì lại mong họ nhớ ơn và trả ơn bội hậu cho mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì đâm ra buồn phiền, tức tối, thậm chí còn sẵn sàng lên tiếng chê bai, oán trách. Chính vì thế nên kho tàng thành ngữ Hán Nôm của Việt Nam có câu: “Thi ân bất cầu báo, thọ ân mạc khả vong:  , ” (làm ơn không cần báo đáp, chịu ơn chớ nên quên) là để trả lời cho cái cảnh “Thói đời được cá quên nơm, Được chim bẻ ná quên ơn sinh thành”. Văn chương bình dân Việt Nam cũng truyền tụng 2 câu thơ các cụ răn dạy con cháu (có lẽ dịch từ thành ngữ nêu trên): “Làm ơn chẳng đợi đền bồi, Chịu ơn thì chớ là người vong ân”; “Làm ơn đừng nhớ làm chi, Chịu ơn nên chớ quên đi, mới là”. Bài đọc I hôm nay (CN XXVIII/TN-C – 2V 5, 14-17) là một minh họa sinh động cho thành ngữ đó:

Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram (Sy-ri). ĐỨC CHÚA đã dùng ông mà ban chiến thắng cho A-ram. Nhưng ông lại mắc bệnh phong hủi. Theo lối suy nghĩ của người Do-thái thời bấy giờ, bệnh phong cùi là một thứ bệnh dơ bẩn, ô uế. Vì thế, người mắc bệnh này chắc chắn bị cô lập. Họ không được sống một cuộc sống bình thường như mọi người, và lẽ đương nhiên bị người cùng thời khinh bỉ. Cuộc sống của họ thường ở ngoại ô, hay nơi vùng sâu vùng xa, nơi ít người qua lại. Nhưng có lẽ khổ tâm hơn cả, chính là họ bị mọi người coi mình như là dấu chỉ bị Thiên Chúa trừng phạt. Những ai mắc bệnh này thì kể như là kẻ bị chúc dữ. Sách Lê-vi cũng đã trình bày sự phân biệt và kỳ thị đối với người bị bệnh phong hủi thời bấy giờ như sau: “Người phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó còn ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13, 45-46).

Ở Việt Nam ngày xưa cũng vậy, ai mắc bệnh phong hủi đều bị cách ly khỏi cộng đoàn và cũng chẳng có nơi tập trung bệnh nhân để săn sóc, chữa trị. Làng nào có người mắc bệnh thì ngay lập tức người thân phải dựng một túp lều nơi hẻo lành ngoài đồng không mông quạnh và nhốt người bệnh ở đó, cấm không được vào làng xóm. Nếu cố tính về lại nhà thì sẽ bị đánh đòn nhừ tử. Hương chức trong làng không còn coi những bệnh nhân ấy là người làng nữa; chỉ khi nào hết bệnh, được hương chức công nhận, mới được về làng và sinh hoạt chung với cộng đồng. Những hương chức uy quyền đó, ở bên Do-thái không ai khác hơn là những thầy tư tế, kinh sư, luật sĩ.

Trở lại với bài đọc 1 (2V 5, 14-17) trinh thuật về bệnh phong hủi của tướng Na-a-man: Nghe nói ngôn sứ Ê-li-sa có thể chữa được bệnh, ông Na-a-man dùng cả xe và ngựa đi đến đứng trước cửa nhà ông Ê-li-sa. Ông Ê-li-sa sai sứ giả ra nói với ông: “Ông hãy đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước, và ông sẽ được sạch.”  Không tin lời ngôn sứ, ông Na-a-man quay lưng lại và tức tối ra đi. Nhưng các tôi tớ của ông đến gần và nói: “Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, chẳng lẽ cha lại không làm? Phương chi ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!” Nghe lời khuyên, ông Na-a-man xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời “người của Thiên Chúa” (Ê-li-sa). Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ, ông đã được sạch. Na-a-man bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với ngôn sứ Ê-li-sa một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin ngôn sứ nhận cho, nhưng ngôn sứ Ê-li-sa thì cương quyết từ chối.

Đó là thời Cựu Ước. Sang đến Tân Ước thì chuyện lại khác: Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 17, 11-19) trình thuật chuyện 10 người phong hủi được Đức Giê-su chữa lành. Phép lạ lần này có một đặc điểm khác với những lần khác, đó là Đức Ki-tô không hề đụng tay vào bệnh nhân, Người chỉ nói ngắn gọn: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Làm theo Lời Chúa, đang khi đi tới Đền Thờ để “trinh diện tư tế” thì cả 10 người được sạch bệnh. Một người trong bọn (người Sa-ma-ri.), thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Mười người phong hủi được chữa lành, nhưng chỉ có một người quay trở lại để cảm ơn Đức Giê-su, mà người ấy lại là dân ngoại. Còn chín người kia vẫn mang danh là người của Chúa mà lại vong ân bội nghĩa một cách ngon lành. Đức Giê-su đã phải chua chát thốt lên: ”Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18 ). Một hiện thực có thể nói là chua xót khi chính những người là dân được tuyển chọn, đã biết, đã được nhận là con Thiên Chúa, là dân Chúa chính hiệu, mà rốt cuộc lòng tin còn thua xa những người ngoại giáo. Thế đấy!

Chỉ có một trong 10 người phong hủi được chữa lành bày tỏ lòng biết ơn, một tỉ lệ thật khiêm tốn (1/10). Điều đó cho thấy trong xã hội nhiễu nhương của loài người, cái nhân tâm, cái “nhân chi sơ tính bản thiện” hầu như không còn và chẳng cứ ở thời cổ xưa mà ngay trong thời đại hoàng kim này cũng xảy ra nhan nhản. Điều đáng phàn nàn là chính cái luân thường đạo lý của con người vẫn đề cao lòng biết ơn và coi đó là giềng mối đạo đức căn bản cần phải được lưu truyền và giáo dục con người cho nên hoàn thiện. Vâng, luân lý đã coi lòng biết ơn là một trong những đức tính căn bản của con người. Khi có ai đó giúp đỡ hay hy sinh cho mình, thì người đó là ân nhân của mình và mình có bổn phận đền ơn đáp nghĩa cho dù người thi ân có nhận hay không.

Thông thường thì những người giúp đỡ kẻ khác là do lòng thương người, họ giúp đỡ vì tính nhân đạo chớ không vì mong được trả ơn. Nhưng như thế không có nghĩa là kẻ chịu ơn cứ thoải mái vong ân. Đó chỉ là nói về đạo xử thế giữa con người với nhau, nhưng trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, thì cả 10 người đã nhận biết Đức Giê-su là ai mới có thể chữa lành bệnh phong hủi (một căn bệnh bất trị) cho mình. Vì thế, họ mới khẩn khoản cầu xin: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Một cách cụ thể thì họ đã biết người thầy thuốc ở đây chính là Người Thầy Chí Thánh Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Vậy mà một dân ngoại (chưa được công nhận là con dân Thiên Chúa) khi biết mình được chữa lành đã bày tỏ lòng biết ơn một cách sâu sắc, trong khi dân được tuyển chọn (vẫn từng hãnh diện mình là “hàng nội” 100%) lại là những kẻ vong ân số 1 (number one)!

Tưởng vẫn không thừa khi cần tái khẳng định: Biết ơn là làm đẹp lòng Thiên Chúa cho dù Người luôn thi ân một cách quảng đại nhưng không, chẳng hề đòi đáp trả. Kinh Thánh cũng luôn đề cao lòng biết ơn (“Tỏ lòng biết ơn là dâng bột tinh hảo, làm việc bố thí là dâng lễ ngợi khen” – Hc 35, 2; “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” – Cl 3:16); “Bởi vì chúng ta được lãnh nhận một vương quốc vững bền không lay chuyển, chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người” – Dt 12, 28). Chính Đức Giê-su là một tấm gương chói sáng về lòng biết ơn đối với Chúa Cha. Trong các biến cố như cho La-da-rô chết sống lại, khi làm phép lạ cho bánh, cá hóa nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, và nói chung là trong bất cứ một biến cố nào xẩy đến trong cuộc đời của Người, bất cứ phải quyết định, phải làm công việc gì, Người đều cầu nguyện và dâng lời tạ ơn Chúa Cha.

Đúng như Thánh Gio-an Tẩy Giả nói: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3, 27). Nguồn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại là vô cùng vô tận và vì thế, lòng biết ơn của ta đối với Người phải được đặt lên hàng đầu. Mặc dù khi ban ơn cho ta, Thiên Chúa không cần ta đáp lại, nhưng chính vì vậy ta càng phải biết ơn Người nhiều hơn nữa. Vâng, “Chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người.” (Dt 12, 28). Cách biết ơn tốt nhất đối với Thiên Chúa là kính sợ và phụng thờ Người. Và cách phụng thờ Người tốt nhất chính là cố gắng trở nên giống Người, nghĩa là sống yêu thương và sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc tha nhân, vì bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4, 8-16).

Nói đến Tình Yêu là nói đến “cho” và “nhận”. Tình yêu Thiên Chúa luôn luôn và mãi mãi là Tinh yêu “cho đi”, Người không hề đòi đáp trả. Và nếu người được “nhận về” Tình Yêu của Thiên Chúa muốn đáp trả thì hãy làm theo Lời Người dạy: “Anh em đã được cho không thì cũng hãy cho không như vậy” (Mt 10, 8). Quả thật tất cả những gì con người nhận được và cho đi đều xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải của loài người. Từ đó, người Ki-tô hữu hãy khắc ghi trong lòng tất cả những gì mình có trong cuộc đời này đều là do Thiên Chúa ban tặng. Vậy khi cho đi, thì đừng nghĩ đến đáp trả hay nói cách khác là đừng đòi hỏi đối tượng phải biết ơn. Tốt hơn cả là chính chúng ta phải luôn đòi hỏi mình phải có tâm tình biết ơn Thiên Chúa và tha nhân, hơn là đòi hỏi tha nhân phải biết ơn mình. Đó cũng là một hình thức “từ bỏ mình” mà Đức Giê-su mong muốn nơi tất cả những ai theo Người.

Tóm lại, người đời thường vô ơn (bài Tin Mừng hôm nay là một minh hoạ), nhưng với Thiên Chúa thì hoàn toàn khác, vì “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc 6, 38). Ôi! Lạy Chúa! Xin cho con luôn tỉnh táo cảm nhận được ơn Chúa đã ban cho con trong suốt cuộc đời trần thế này, để con thấu hiểu được hạnh phúc con đang có. Xin cho con luôn có tâm tình biết ơn và cảm tạ Chúa, đồng thời con cũng sẽ luôn luôn biết ơn những người Chúa đã dùng để tuôn đổ ân sủng xuống cho con. Và khi con ý thức được hạnh phúc to lớn mà Chúa vẫn ban cho con, thì xin Chúa cũng hãy giúp con luôn chia sẻ hạnh phúc ấy một cách quảng đại cho mọi người chung quanh con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. 

--------------------------------
 

TN 28-C172: TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA


Lm. Jos. DĐH
 

Cha ông chúng ta cho rằng: đói thì đầu gối phải bò, vì đó là nhu cầu, nên người ta sẽ bớt sĩ TN 28-C172


Cha ông chúng ta cho rằng: đói thì đầu gối phải bò, vì đó là nhu cầu, nên người ta sẽ bớt sĩ diện, hay đỡ ngại ngùng xấu hổ, với hy vọng là được chia sẻ, là được ăn. Người mạnh khỏe mấy ai đi tìm thầy thuốc, nhưng họ kiếm công ăn việc làm, hoặc tìm cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Có bệnh vái tứ phương, đó là trường hợp của người có điều kiện vật chất ; đau ốm bệnh tật mà không tiền không của thì đến với ai, khiếu nại ở đâu ? Lời khuyên chung chung có thể là hãy tới nhà giầu mà xin trợ giúp, hãy tới cầu cạnh chính phủ, đến với niềm tin tôn giáo của mình mà thố lộ tâm tư !

Tính thời sự của câu truyện 10 người bệnh phong, “rất ư” là thực tế, ta mong gặp thầy gặp thuốc mỗi khi ốm đau. Lời khuyên còn nước còn tát, ta từng an ủi kẻ thất vọng ; ta nhiều lần thiếu sót quên ơn, dù vẫn tự nhủ đừng để ai oán trách ta: qua cầu rút ván. Gặp Thầy Giêsu trong tình trạng đau bệnh, đến với Đức Giêsu trong thân phận kẻ tiểu nhân, đại nhân, giầu nghèo, thông thái đạo đức, hay tầm thường tội lỗi, đều là diễm phúc, là cơ may để được hạnh phúc.

Mười người mắc bệnh phong, hay vô số người gặp Đức Giêsu trên hành trình Giê-ru-sa-lem, họ chưa đồng lòng kêu lên: lạy Thầy Giêsu xin thương xót tôi, hay cùng bái gối tạ ơn, họ vẫn là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Phép lạ chữa lành những người mắc bệnh phong, không phải bởi vô tình họ gặp may, cũng không vì công trạng họ gào thét van xin, mà do bản tính yêu thương của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Nếu người đời nói: khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện ra chân tay, hẳn cha ông ta cũng dễ dàng phát hiện được thật giả, tốt xấu, hầu chữa trị hoặc từ chối họ.

Chúa Giêsu dư biết tâm tính sâu thẳm nơi 10 người phong, Ngài chữa lành vết thương thể xác, Ngài còn tha thiết mong họ được lành sạch cả tâm hồn. Chúa Giêsu không cần thỏa thuận hay đòi hỏi với những kẻ van xin Ngài, các bạn có tin ta là Chúa không ? Nếu các bạn khỏi bệnh, các bạn sẽ tạ ơn ta bằng thứ quý báu gì ? Dưới mắt người đương thời, việc làm và cách sống của các tư tế, các luật sĩ biệt phái, chưa thể thuyết phục được mấy ai, nhưng Chúa Giêsu vẫn đề nghị họ đi gặp các tư tế theo lề luật quy định.

Trong cảm nhận của 10 người mắc bệnh phong, nỗi đau của họ vơi đi, niềm vui của những người tội nghiệp ấy được trở lại từ khi gặp Đức Giêsu. Mười người mắc bệnh nhận ra “tình thương của Chúa” từ lúc họ lên đường theo lời chỉ dẫn “hãy đi trình diện với tư tế”. Chúng ta hôm nay, thường cho rằng phép lạ sẽ trọn vẹn, nếu 10 người phong biết quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu, nhận định đúng sai, chỉ người thi ơn và nhận ơn mới rõ. Giả như có cơ hội nói với thế hệ chúng ta, hẳn 10 người được khỏi bệnh hôm đó sẽ quả quyết: tình thương của Chúa đã đến với chúng tôi từ lúc chúng tôi chưa gặp Ngài.

Công bằng yêu thương giữa con người là sòng phẳng, có đi có lại mới toại lòng nhau, mang ơn đền ơn, mang nợ trả nợ. Tình thương của Chúa, phép lạ của Chúa không hề mâu thuẫn, một người quay trở lại tạ ơn, và 9 người chưa quay trở lại gặp Đức Giêsu, ơn ban vẫn không hề thay đổi. Mười người bệnh được lành sạch, sẽ trở lại với cuộc sống bình thường, trong đó một người hạnh phúc hơn, khi anh nghe rõ: “hãy về đi, niềm tin của anh đã cứu chữa anh”. Con số 1 so với số 9 thì quá chênh lệch, chính tình thương của Chúa, số ít đó, và khắp muôn thế hệ sẽ còn nhận ra Đức Giêsu là Thầy thuốc, chữa trị cả bệnh nan y nơi thể xác và tâm hồn nữa.

Cha mẹ thương con biển hồ lai láng là chính xác với chữ tình, không ai phải bàn cãi. Đất nước, xã hội, thời nào cũng có những người tài đức là điều không ngạc nhiên, quan trọng hơn là làm sao để “tình” được duy trì phát triển, và “tài” mãi được sử dụng. Thời tiết lúc nắng lúc mưa là tự nhiên, làm người đau ốm, mạnh khỏe là quy luật, khó khăn ở chỗ ta phải làm gì để biết sống hòa hợp với quy luật tự nhiên. Không phải tất cả mọi người đều hiểu, và biết trân trọng giá trị của tình cha nghĩa mẹ, không phải cứ có tài có đức là biết “lấy tâm, lấy tình” để dấn thân phục vụ. Không phải chỉ 10 người phong được Chúa Giêsu yêu thương và cho họ được lành sạch, đúng hơn là những đau đớn bệnh tật của chúng ta hôm nay, đều vẫn được cứu chữa cả xác hồn.

Kinh nghiệm ở đời, chúng ta thường thấy: phú quý sinh lễ nghĩa, thành danh, thành tài, rồi sinh ra nhiều “lễ nghĩa” bất thường, dẫn đến sai lầm, mất cả tình nghĩa gia đình lối xóm. Chúa Giêsu chỉ dạy những người bệnh phong đi trình diện các tư tế, Ngài cũng gián tiếp nhắc nhớ chung, đừng ai ảo tưởng nghĩ mình đáng được Chúa thực hiện phép lạ. Đừng suy nghĩ tiêu cực, 10 người mắc bệnh phong gặp Chúa có một lần, kêu xin Chúa thương có một lần, vậy mà họ được lành sạch. Tôi gặp Chúa trong cầu nguyện hàng ngày, tôi ăn ngay ở lành, sống luật Chúa, tại sao chưa thấy Chúa thực hiện phép lạ, ban ơn như ý cho tôi ! Xin tình thương của Chúa tiếp tục hiện diện, biến đổi tâm tính và cách sống đạo của mỗi chúng ta. Amen.

----------------------------------
 

TN 28-C173: SỐNG LÒNG BIẾT ƠN THIÊN CHÚA


Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
 

Noi gương hai “kẻ ngoại” trong phần Phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật tuần này, Chúa nhật XXVIII TN 28-C173


Noi gương hai “kẻ ngoại” trong phần Phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật tuần này, Chúa nhật XXVIII thường niên, chúng ta hãy sống và thực hành lòng biết ơn Thiên Chúa.

NỘI DUNG LỜI CHÚA.

“Kẻ ngoại” thứ nhất: Trích sách Các Vua quyển thứ II, kể chuyện tướng Naaman, người Aram, được tiên tri Êlisa, nhân danh Thiên Chúa chữa lành bệnh cùi. Naaman trở lại tạ ơn Chúa. Trước mặt vị tiên tri, Naaman cất cao lời tuyên xưng danh Chúa:

“Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel”. Naaman thực hiện nghĩa cử hết sức ý nghĩa: Trong khi hạ mình trước mặt tiên tri Êlisa, ông xin ít đất để lập bàn thờ, thờ Thiên Chúa: “Xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa”.

“Kẻ ngoại” thứ hai: Tin Mừng cho biết, có mười người đến xin Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi. Chín người Dothái giáo, sau khi được lành, không bao giờ trở lại. Họ quên ơn. Chỉ một người Samari tạ ơn Thiên Chúa. Hành động của “kẻ ngoại” đáng ta phục: Anh “quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn”.

Thực tế có bao nhiêu kẻ “có đạo” sống vô ơn. Có khi kẻ đó chính là bản thân ta. Hãy học cách sống lòng biết ơn Thiên Chúa. Hãy “mắc cỡ” trước tấm gương biết ơn Thiên Chúa của những người ngoài Kitô giáo, những kẻ mà nhiều khi ta xúc phạm, gọi họ là “kẻ ngoại”.

Biết bao nhiêu người trong những “kẻ ngoại”, những kẻ bị ta xúc phạm, hơn ta nhiều về lòng tin, về tình mến dành cho Thiên Chúa. Hãy để tấm gương biết ơn Thiên Chúa của những anh em ngoài Kitô giáo dạy ta bài học SỐNG LÒNG BIẾT ƠN THIÊN CHÚA.

SỐNG LÒNG BIẾT ƠN THIÊN CHÚA.

Tôi từng đọc “Năm chiếc bánh và hai con cá” của Đức Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận. Xin ghi nhận tư tưởng của Đức Hồng y để giúp sống lòng biết ơn Thiên Chúa. Nhờ biết ơn Chúa, ta chấp nhận để Chúa sử dụng mình, nhằm lợi ích cho danh Chúa, cho phần rỗi muôn người, cho chính phần rỗi của mình, như bánh và cá trong tay Chúa vậy:

– Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại. Sử dụng cách tối đa giây phút mà tôi đang có đây để làm được bất cứ điều gì cho sáng danh Chúa, cho tình yêu Hội Thánh, cho Nước Trời, tôi sẽ thực hành ngay, không chần chừ.

– Chiếc bánh thứ hai: Phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa. Chúng ta hay bị cám dỗ lao vào công việc. Lắm lúc mất ăn, mất ngủ vì công việc. Đến khi phải chuyển công tác, ta lại cảm thấy thất vọng, muốn buông xuôi. Sự năng động ấy tốt, nhưng đó không phải chính Chúa. Thậm chí, nhiều lúc lao vào công ciệc, dễ làm ta kiêu ngạo.

Điều quan trọng là ta vâng Thánh ý Chúa. Ta tìm chính Chúa, khám phá Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi thái độ vâng phục của mình. Nếu cần lao vào việc, thì hãy tìm chính Chúa nơi sự miệt mài mà ta có với việc ấy. Chúa muốn ta tìm Chúa chứ không tìm việc của Chúa.

– Chiếc bánh thứ ba: Một bí quyết: Cầu nguyện. Hãy cầu nguyện. Hãy chuyện trò với Chúa để Chúa soi sáng, Chúa dạy dỗ từ trong nội tâm. Cầu nguyện sẽ mang lại niềm bình an vô song, bù đắp tất cả những gì thiếu thốn nơi con người mỏng dòn của ta.

– Chiếc bánh thứ tư: Sức mạnh duy nhất: Phép Thánh Thể. Sống và kết hợp với Thánh Thể Chúa phải là việc đạo đức hàng đầu, không bao giờ quên. Thánh Thể Chúa là sức mạnh huyền diệu giúp ta vững vàng trong mọi nguy biến. Thánh Thể Chúa tăng lực để ta đạp dưới chân mọi đá sỏi gai góc nhất. Thánh Thể là liều thuốc cực mạnh đưa ta đến bến bờ bình an.

– Chiếc bánh thứ năm: Yêu thương đến hiệp nhất. Chúc thư Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu yêu thương hết mọi người, ta yêu thương không phân biệt người ngay, kẻ gian. Như Chúa Giêsu tha thứ cho hết mọi người, ta tha thứ cho cả địch thù, cả kẻ sát hại ta. Như Chúa Giêsu cầu nguyện cho hết mọi người, ta cầu nguyện cho cả người không thiện cảm với mình. Như Chúa Giêsu hiến mình cho hết mọi người, ta không chối từ hy sinh, nếu hy sinh ấy cứu được linh hồn hay sự sống đồng loại quanh mình…

Tình yêu là sợi dây xiết chặt mọi trái tim con người. Tình yêu biến đổi thù hận thành bạn bè. Tình yêu mang lại tươi vui, bình an. Tình yêu làm cho cuộc đời đáng sống, đáng phục vụ.

– Con cá thứ nhất: mối tình đầu của tôi: Mẹ Maria vô nhiễm. Đức Mẹ từng hạnh phúc và đau khổ khi đồng hành cùng thánh ý Chúa suốt đời. Hạnh phúc, đau khổ đan xen suốt đời Đức Mẹ từ khi được chọn làm mẹ của Chúa, trải dài qua các mầu nhiệm Giáng Sinh, Ẩn Dật, Công Khai, Vượt Qua của Chúa, đến tận cùng cuộc đời dương thế của Đức Mẹ.

Đức Mẹ hiểu chúng ta. Trong vui – buồn – sướng – khổ của đời mình, hãy chạy đến cùng Đức Mẹ để được Đức Mẹ đồng hành, sớt chia, cùng hiến dâng và cùng chấp nhận.

– Con cá thứ hai: Tôi chọn Chúa. Chúa là giá trị độc nhất vô nhị của đời tôi. Chỉ có Chúa, chỉ vì Chúa mà tôi yêu; tôi hoạt động; tôi thao thức; tôi suy tư; tôi cảm thông; tôi vui; tôi làm việc; tôi tương quan với mọi người, với thiên nhiên, với muôn vật, với mọi cảnh huống…; tôi cầu nguyện cho tôi, cho con người, cho sự vật…; tôi học tập; tôi rao giảng; tôi truyền giáo… Chúa là khởi và đích của tôi, để trong tất cả, tôi ra đi từ Chúa và quay về với Chúa.

Với hình ảnh “năm chiếc bánh và hai con cá” trong trình thuật Tin Mừng của thánh Gioan (Ga 6,1-15), qua tấm gương và những gợi ý của Đức Hồng y, chúng ta bước theo Chúa Giêsu, dâng chính đời mình trong tay Chúa. Xin Chúa làm cho chúng ta nên ích lợi như Chúa muốn, theo cách Chúa thực hiện trên “năm chiếc bánh và hai con cá”, là chính lòng biết ơn của ta.

Hãy đọc lại Thánh vịnh 32, hòa cùng mạc khải của Chúa, ta cảm tạ Chúa. Thời điểm năm Lòng thương xót, lời Thánh vịnh càng là động lực thúc đẩy ta thường xuyên tạ ơn Chúa.

Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa,
kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen.
Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm,
kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.
Nào dâng Chúa một khúc tân ca,
rập tiếng hoan hô, nhã nhạc vang lừng.
Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin…
Lòng mỗi người, chính Chúa dựng nên,
việc họ làm, Chúa thông suốt cả…
Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
hầu cứu họ khỏi tay thần chết 
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.

----------------------------------
 

TN 28-C174: NGƯỜI SAMARI TRỞ LẠI TÔN VINH THIÊN CHÚA


Lm Uyen Nguyen
 

Trở lại’ là hành vi ‘đồng thuận’ giữa tinh thần và thể xác. Trở lại thực hiện được nhờ thể xác đón TN 28-C174


‘Trở lại’ là hành vi ‘đồng thuận’ giữa tinh thần và thể xác. Trở lại thực hiện được nhờ thể xác đón nhận sự hướng dẫn của tinh thần. CN 28 TN C này đề cao hai đương sự có chung hành động trở lại. Một thuộc về quan Naaman, người nước Aram, dân tộc lân bang Do Thái, hai là người Samari, Do Thái lạc giáo. Cả hai có hành vi trở lại vì cùng chung lý lẽ tương đồng: sụ thiện cảm và hạnh ngộ nhờ lãnh nhận ơn cả nghĩa dày: cứu mạng.

            Hai nhân sự này có mặt trong hai bài đọc 1 và 3 dành làm nền minh họa cụ thể, chuẩn mực, thời sự cho giáo huấn sống hạnh, sống đức thỏa đáng.

            Bài đọc 1, sách 2 Vua. Naaman quan chỉ huy quân đội nước Aram bị bệnh phung, nghe lời khuyên của nhiều người, ông sang Do Thái gặp người của TC là Elisa. Người của Chúa bảo ông ra tắm sông Giordan 7 lần. Ông làm theo và được sạch bệnh. Ông trở lại gặp Elisa bày tỏ lòng biết ơn cứu mạng kèm với lời hứa tuyên tín: ‘Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hi lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa của ngài’ (c.17).

            Bài đọc 3, TM Luca, kể về nhóm 10 người phong hủi đồng cảnh ngộ kết thân nhau trên ranh giới giữa Samari và Galilê, 9 người đạo, một người ngoại bang. Tất cả đồng thanh kêu xin ĐGS giúp đỡ. ĐGS ra lệnh họ đi trình diện với các thầy tư tế. Họ tin và ra đi. Dọc đường đã nhận ra khỏi bệnh, người ngoại bang liền quay trở lại gặp ĐGS với cử chỉ đầy khiêm tốn và hết tâm hết trí quy phục ghi đậm ơn cả: ‘Anh ta sắp mình dưới chân ĐGS mà tạ ơn Người’ (c.16).

             Bài đọc 2, thư Phaolô gởi Timôthê ra huấn dụ về việc gắn bó với ĐGS trong sự kiên tâm chịu đựng vì Người để cùng được sống và hiển trị với Người: ‘Cùng chết với Người để cùng sống với Người. Trung tín với Người vì Người hằng trung tín’ (c.11-13). Như thế cũng là cách mà Phaolô đã làm: chịu khổ, bị xiềng xích, cam chịu mọi sự vì mưu ích cho những người được TC tuyển chọn để họ cùng đạt tới ơn cứu độ trong ĐKT Giêsu và được hưởng vinh quang muôn đời. Giáo huấn được rút ra từ thái độ của hai nhân sự trở lại điển hình trong ngày CN này: tin và gắn bó với ĐGS.

            Trở lại là hành vi chuyển hướng cả trong lẫn ngoài con người. Nói theo Phaolô là hành vi toàn diện: cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Người ngoại bang Samari ở đây bây giờ là như thế khi đã trở lại sấp mình dưới chân tạ ơn ĐGS và tôn vinh TC. Gã không cùng đi tiếp với 9 người kia để trình diện với các tư tế, vì gã có lý của gã. Cụ thể gã có đến trình diện tư tế thì cũng được ích gì nếu không sinh thêm phiền muộn, vi lẽ gã đang trong tình trạng phân rẽ theo luật cấm tương giao tình cảm giữa người Samari ‘tội lỗi’ và Do Thái truyền thống. Đàng nào thí gã cũng bị người Do Thái liệt vào hàng ngũ bội tín đáng chê trách, hà tất buộc xa tránh. Tuy nhiên đây không là lý tất cả khiến gã trở lại gặp ĐGS. Mà là niềm tin vào Đấng đã vừa ban sinh lực an lành thể xác tạo bước chuyển biến và chuyển hướng tâm hồn, thức đẩy gã bước trở lại không thể cưỡng chống. Đức tin dẫn đến yêu mến. Tạ ơn là con đẻ của một toàn vẹn tâm trí thần phục và cái tâm yêu mến ấy. Từ nay gã khả thi gắn bó đời mình với Đấng gã đã gặp, đã được biến đổi và đã thụ ơn.  

             ‘Còn chín người kia đâu’, ĐGS dặt nghi vấn dành cho những người không biết trở lại, không thấy bóng dáng, ra sao, có ‘sạch bệnh’ (?). Chủ đích phép lạ của ĐGS là mở lối dẫn người đến với Người. Đến với Người không chỉ bằng thân xác mà cả con người: cái tâm, cái trí, tâm hồn tin vào Người. Phải chăng Người đã chẳng nói: ‘Ai tin vào Tôi thì được sống và sống trường sinh’. Đức tin ấy dẫn đến chữa lành thể xác, ban sự sống mới do sứ vụ mà Chúa Cha đã trao; Đấng cứu Sống, Đấng ban sự Sống bất tử, Đấng Cứu Độ. Tất yếu là nhóm 9 người kia không trở lại có nghĩa là dù sinh lực phần xác được chữa lành, tâm hồn vẫn trầm kha trong tê liệt bệnh phong, nghĩa là chưa được thấm ơn ban như người Samari: nhìn nhận ĐGS là Đấng cứu độ.

Với người Samari ngoại bang, tin vào ĐGS không chỉ như một biệt riêng nhưng với gã là đại diện cho toàn thể nhân trần, dù nhận biết hay chưa nhận biết TC. Luca cố ý thế nên đã gắn thêm cặp từ chỉ đặc thù: ‘ngoại bang’ kèm với danh tánh chung gọi là ‘người Samari ngoại bang’, cố ý xác định ơn cứu độ là phổ biến trong ĐGS.

            Nhìn lại, bao đời, bệnh phong để lại các di chứng trên thể xác đáng sợ. Tội, dù không thấy, cũng để lại hệ lụy nặng nề cho tâm hồn. Người Do Thái coi bệnh phong ngang với tội nặng, để lại bao tác hại vào sự sống, nhất là sự sống ân sủng, hình ảnh TC. Niềm tin đưa dẫn con người đến với ĐGS là Đấng cứu chữa. Vì thế Phaolô không ngơi nghỉ giáo huấn giáo đoàn liên kết chặt với ĐGS,  cả đến Timothê nữa, kiên trì vì Người, chịu đựng vì Người, cùng chết với Người đổi lấy hoàn thiện trong cuộc thi trên thao trường đạt lấy vinh quang phục sinh bất tận.

            Lạy TC là Cha chí nhân, chí lành. Xin bồi dưỡng Đức Cậy trong con để có sức thần lực chống lại ba thù mong được hằng tín trung son sắt với Con Chúa, ĐKT Đấng cứu độ, là TC hằng sống, hiển trị…  

-----------------------------------
 

TN 28-C175: BIẾT ƠN.


Lm. Trầm Phúc
 

Chúa Giêsu đang đi về Giêrusalem, mười người phong cùi đón gặp Ngài. Họ đứng xa và kêu lớn TN 28-C175


Chúa Giêsu đang đi về Giêrusalem, mười người phong cùi đón gặp Ngài. Họ đứng xa và kêu lớn tiếng : “ Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Tại sao họ lại đứng xa ? Vì họ là những người mắc bệnh phong cùi. Theo sách Lêvi là Luật Do thái, những người cùi là những người mắc bệnh ô uế không được sống trong cộng đoàn, phải cách ly, không được đến gần người khác. Nếu chẳng may họ đến gần người nào có khi họ bị ném đá. Vì thế chúng ta thấy ở đây có cả một nhóm mười người tật phung sống với nhau.

Họ đứng xa và kêu lớn tiếng, xin Chúa thương xót. Họ không xin gì cả, chỉ xin Chúa thương xót họ thôi. Đây chính là một lời cầu khẩn khiêm tốn. Họ không dám xin gì cả vì họ biết thân phận cùi đày của họ. Thế nhưng Chúa Giêsu lại đáp trả lời cầu xin của họ. Ngài chỉ nói với họ một lời duy nhất : “  Hãy đi trình diện với các tư tế”. Ngài không nói là Ngài sẽ chữa cho họ. Câu nói của Chúa rất bí ẩn. Trình diện với các tư tế có nghĩa là họ được lành sạch rồi. Các tư tế sẽ kiểm chứng là họ đã được lành và họ về nhà mang của lễ đến tạ ơn Chúa và sẽ được hòa nhập lại với cộng đoàn.

 Nghe Ngài nói, cả mười người kéo nhau đi. Họ chưa được lành sạch. Có thể Chúa muốn thử thách lòng tin của họ chăng. Nhưng họ đã tin lời Ngài không do dự. Đây là một niềm tin vô điều kiện. Chưa được lành sạch mà làm sao có thể đến với các tư tế để xin kiểm chứng ? Nhưng họ đã tin vào lời Ngài. Niềm tin đó đã được nhậm lời. Trong lúc họ đi trên đường họ đều được lành sạch. Chúng ta không thể tưởng tượng được niềm vui của họ trong lúc thấy cơ thể của họ trở lại nguyên tuyền, không còn một dấu vết của căng bệnh quái ác đã làm cho họ đau khổ bấy lâu nay.

Một người trong bọn họ, khi thấy mình lành sạch đã quay gót trở lại với Chúa Giêsu. Thánh Luca tường thuật lại một cách tỉ mỉ hành động của người nầy. Anh đã làm gì ? Anh lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.  Một cử chỉ đẹp tuyệt vời ! Chúa Giêsu cũng chú y đến điều nầy : tôn vinh Thiên Chúa.

Đây là một phép lạ, nghĩa là một việc phi thường chứng tỏ quyền năng siêu vời của Thiên Chúa và là một kỳ công. Lịch sử dân Do thái là một chuỗi dài những kỳ công của Thiên Chúa cho dân của Ngài, và dân Chúa luôn tôn vinh Chúa vì đã được hưởng nhờ những hồng ân đó. Các thánh vịnh là những lời tôn vinh cảm tạ mà người Do thái đạo đức luôn đọc để tỏ lòng biết ơn vì Chúa đã đoái thương viếng thăm dân Người.

Anh cùi đã được lành sạch đã tôn vinh Chúa và ca tụng lòng thương của Chúa. Anh sắp mình dưới chân Chúa Giêsu.  Đây là một cử chỉ tôn thờ, người nầy nhìn nhận  Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế chăng, thánh Luca không nói rõ, nhưng cử chỉ của anh cho chúng ta thấy điều đó. Thánh Luca cũng khéo léo không nói ngay người đó là một người Samari mà sau cùng mới nói. Có lẽ ngài muốn gây ngạc nhiên vì người Samari trước mặt người Do thái là những người lạc đạo và họ khinh thường người Samari. Ngài cũng muốn nhấn mạnh tính cách phổ quát của đức tin. Lòng tin không dành riêng cho một ai mà là cho mọi người. Chúa Giêsu đến không chỉ cho người Do thái mà cho cả toàn thể nhân loại. Ai tin, người đó sẽ được Chúa đón nhận.

Chúa Giêsu nói : “ Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Sao không thấy họ trở lại và tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy ?” Chúa Giêsu tỏ ra hơi phiền vì sự vô tình của chín người kia, và họ lại là người Do thái !  chỉ có người ngoại bang nầy !

Chúa Giêsu cũng thường nói đến người Samari. Ngài đã đến ngồi nơi bờ giếng Giacob để gặp người phụ nữ Samari và đã ban cho chị niềm tin. Trong dụ ngôn, Chúa cũng lấy hình ảnh của người Samari nhân hậu để làm gương cho mọi người.

Chúng ta có lẽ cũng giống như chín người phong kia. Khi gặp thử thách, chúng ta thành khẩn kêu xin, nhưng khi được toại nguyện, chúng ta lại không nhớ. Chúa không cần chúng ta biết ơn, nhưng Chúa muốn chúng ta tôn vinh Thiên Chúa. Hằng ngày, chúng ta cầu xin cho danh Cha cả sáng, nhưng đến lúc cần tôn vinh Chúa thì lại lãng quên.

Những người phong cùi kia đã tin Chúa khi Ngài bảo họ đi trình diện với các tư tế, nhưng khi lành sạch rồi, họ chỉ nghĩ đến bản thân họ thôi. Niềm tin của họ vẫn chưa thoát ra được khỏi tính ích kỷ của họ. Họ chỉ nghĩ đến bản thân mà không nhìn thấy tình thương của Chúa.

Chúng ta cũng thế. Chúa đã cứu chúng ta, đã thương chúng ta đến tận cùng, nhưng mấy người đã yêu mến Chúa ? Nghĩ lại mà đau đớn cho Chúa. Chúng ta chỉ gây thương tích cho Chúa thôi. Chúng ta vẫn vô ơn. Hãy nhìn lại. Chúa đã ban biết bao ơn lành cho chúng ta, biết bao nhiêu lần Chúa đã cho chúng ta được lành sạch khỏi bệnh cùi tâm hồn, chúng ta có tôn vinh Chúa không, có nhìn thấy tình yêu của Chúa không ? Biết bao lần Chúa phải đau đớn và nói trong thổn thức : “ Còn những người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa ?”

Trong mười người được lành sạch, chỉ có một người biết tạ ơn. Và Chúa nói :  “Đứng dậy đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Chỉ có một người được  đứng dậy,  nghĩa là được sống lại trong tình yêu Chúa thôi, vì người đó đã tin. Phép lạ chỉ mang lại kết quả khi được lãnh nhận trong niềm tin. Trong các sách Tin Mừng, chúng ta đã thấy nghe Chúa nói nhiều lần với những người được chữa lành : “  Lòng tin của anh đã cứu chữa anh… Anh tin thế nào thì được thể ấy”. Chúng ta chỉ lãnh nhận hồng ân một cách hiệu quả khi chúng ta dám tin. Chúng ta chỉ được chữa lành thực sự khi chúng ta tin vào quyền năng và tình thương của Chúa. Chúng ta có thực sự được chữa lành không ? Biết bao nhiêu lần chúng ta mang đến cho Chúa thân phận cùi đày của chúng ta nơi tòa giải tội và Chúa đã chữa lành, nhưng vì chúng ta kém tin, chúng ta vẫn tiếp tục rơi vào cơn bệnh phong cùi của chúng ta. Maria Mađalêna, ông Giakêu, thánh Âutinh, chân phước Charles de Foucauld đã được chữa lành một lần và đã lành hẳn và cuộc sống của các ngài đã trở thành lời tôn vinh Chúa. Còn chúng ta ?

Chúng ta luôn nhìn thấy phép lạ gần như hằng ngày nơi bí tích Thánh Thể, được ăn lấy Chúa hằng ngày nếu chúng ta muốn, nhưng chúng ta có thực sự yêu mến Chúa như Chúa mong đợi không ? Thánh Thể Chúa vẫn là của ăn và là liều thuốc chữa lành cơn bệnh tâm hồn chúng ta, nhưng hiệu quả như thế nào ? Chúng ta vẫn tiếp tục ăn lấy Chúa mà không nhìn thấy chúng ta đang được hưởng một phép lạ gần như hằng ngày, một phép lạ chữa lành. Chúng ta có tin như thế không ? Chúa Giêsu vẫn tiếp tục công trình của Ngài giữa chúng ta bằng một kỳ công vượt sức tưởng tượng của chúng ta là trở thành một tấm bánh, một dấu hiệu cụ thể của tình yêu vô biên của Ngài. Hãy đến với Chúa, ăn lấy Chúa. Tình Yêu Chúa vẫn còn đó, cụ thể, khiêm tốn nhưng vẫn hữu hiệu nếu chúng ta tin.“ Niềm tin của anh đã cứu lấy anh”.

-------------------------------------
 

TN 28-C176: KHÔNG PHẢI TẤT CẢ ĐỀU SẠCH CẢ SAO?


Fx. Đỗ Công Minh
 

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại chuyến đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem, Người đi qua TN 28-C176


Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại chuyến đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem, Người đi qua vùng Samari, một vùng cư ngụ của dân ngọai, mà người Do Thái phân biệt đối xử, xem họ là người tội lỗi. Người vào một làng kia, cùng với đám đông dân chúng ra đón, có mười người phong cùi đứng từ xa chờ sẵn. Sở dĩ như vậy vì xã hội thời ấy coi bệnh phong cùi là lọai bệnh nguy hiểm, người bệnh phải sống cách ly, đi tới đâu phải la lớn hay dùng hiệu lệnh để người khác biết mà tránh. Họ cũng bị xã hội lúc đó coi là người tội lỗi, bị Chúa phạt. Những người phong cùi này kêu lớn tiếng :”Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi “. Đức Giêsu, Đấng không hề phân biệt đối xử, Đấng sẵn sàng đến với hết mọi người mà không lọai trừ ai. Người đến để đem Tin vui đến cho những ai đón nhận Người và cả những người không hay chưa tin vào Người. Nghe được tiếng kêu than của những người bệnh, Người nói với  họ” Hãy đi trình diện với các tư tế “, một cách giữ đúng luật LêVi, để được  chứng thực rằng người bệnh được sạch. Họ mạnh dạn ra đi và đang khi đi thì họ được ơn chữa lành.

Hẳn rằng đang lúc họ đi trình diện thì phép lạ đã xảy ra. Những người này biết họ đã được Chúa chữa cho họ. Chúa không trực tiếp chạm tay vào, Chúa không dùng thuốc cho họ uống lúc đó, nhưng bằng quyền uy, Chúa cho dân chúng thấy rằng, Người có quyền trên các thần ô uế. Chúa đến trần gian không chỉ rao truyền tin mừng về Chúa Cha, chữa cho con người khỏi những tật bệnh thân xác mà còn giải thóat con người khỏi sự thống trị của ác thần, được giải phóng khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Còn những người phong cùi, họ kêu lên với Chúa từ xa, họ trông cậy vào lòng thương xót của Chúa. Chắc hẳn họ đã nghe biết nhiều về Người, biết Người là đấng nhân lành sẵn sàng đáp ứng lời kêu cầu của họ. Vì phong tục, vì luật lệ không cho phép họ đến gần bên Chúa, nhưng lòng tin của họ đã vượt thắng tất cả. Chỉ một lời của Chúa nhắc, họ mạnh dạn đi trình diện các bậc tư tế. Họ tin rằng khi được Chúa đáp lời, chắc chắn Người sẽ chữa cho họ. Một niềm tin tuyệt đối mà ít người có được.

Gặp được Chúa, được Chúa lắng nghe và biết tin, đón nhận lời Người, quả là một ao ước của con ngày hôm nay. Và còn hơn thế nữa, được Người chữa lành các bệnh tật, được sống lại về phần linh hồn thì còn hạnh phúc nào hơn. Những người phong cùi ngày ấy hẳn vui lắm khi biết mình lành bệnh. Cũng có thể vì vui quá, hạnh phúc quá, sung sướng quá mà khi lành bệnh, chín người chạy vội về nhà, về xóm ngõ, ra chợ đời để reo mừng, để tung hô Thiên Chúa? Họ vô tình quên mất Đức Giêsu, người đã chữa cho họ vẫn đang trong làng đó. Một người trong số đó, trớ trêu thay lại là một người dân ngọai( Samari) trở lại sấp mình dưới chân Chúa mà cảm tạ, tôn vinh Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc khéo mà cũng là khen ngợi anh về lòng biết ơn “ Không phải cả mười người được sạch sao? Thế chín người kia đâu?Sao không thấy họ trở lại mà tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngọai bang này ? “. Một lời trách nhẹ nhàng, một bài học về nhân bản cho con người : Lòng biết ơn. Chúa không hề nổi giận, không bực bội. Đã có lúc con nghĩ: biết vậy sao Chúa không để cho chín người kia bị bệnh trở lại cho bõ ghét. Một suy nghĩ hết sức nhỏ nhen của con, thật không xứng đáng với lòng rộng lượng, từ bi bao dung của Chúa.

     Lạy Chúa,

Ngày hôm nay, với Hội Thánh Chúa nơi trần gian, Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp kết thúc, nhưng lại mở ra cho con một giai đọan mới trong cuộc đời sống đạo của con. Lời Chúa nói với người bệnh Phong được chữa lành :”Đứng dậy về đi, lòng tin của con đã cứu chữa con “ sẽ là lời khẳng định cho con.

Chúa mãi mải là đấng nhân lành, chậm bất bình và lại hay xót thương. Xin Người cho con được ơn chữa lành các bệnh tật linh hồn, thân xác của con và của những ai biết chạy đến thưa : “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng con “.

--------------------------------
 

TN 28-C177: CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_C


Lm. Antôn
 

Hôm nay, Chúa nhật, ngày 13 tháng 10, 2019,  kỷ niệm 102 năm Đức Mẹ hiện ra lần cuối tại TN 28-C177


Hôm nay, Chúa nhật, ngày 13 tháng 10, 2019,  kỷ niệm 102 năm Đức Mẹ hiện ra lần cuối tại Fatima, Bồ Đào Nha, với ba trẻ chăn chiên là Francisco, Jancinta và Lucia.  Vào ngày 13 tháng 10 năm 1917, ba em với đám đông dân chúng, đã chứng kiến lần hiện ra cuối cùng của Đức Mẹ.  Mặc dầu chỉ có ba em được nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra, còn tất cả những người hiện diện chỉ nhìn thấy những vòng tròn lửa xoay chung quanh như mặt trời, tưởng chừng như sà xuống thiêu đốt trái đất, làm cho mọi người cảm thấy kinh hoàng.

Trong những lần hiện ra với 3 em, từ tháng 5 tới tháng 10, Đức Maria đã trao cho các em ba mệnh lệnh, mà chúng ta gọi là Mênh Lệnh Fatima, đó là: Cải thiện đời sống; Tôn sùng Mẫu tâm và Năng lần hạt Mân côi.  Vì thế đặc biệt trong 10, tháng Mân côi này, tôi kêu gọi mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ cố gắng thi hành Ba Mệnh lệnh của Mẹ Maria, để xin Mẹ tiếp tục thánh hóa, dẫn chúng ta đến gần và yêu mến Chúa Giêsu, Con của Mẹ hơn.  Đồng thời chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân Mẹ, vì Mẹ đã luôn luôn gần gũi, che chở và cầu bầu cho chúng ta.  Chúng ta tin rằng những ai thành tâm đến với Mẹ sẽ không bao giờ về không.   Xin Mẹ luôn giúp chúng ta biết noi gương Mẹ, sống “Xin Vâng” theo thánh ý, Lời Chúa dạy để được Chúa ban ơn cho chúng ta trong cuộc hành trình dương thế với bao nhiêu nguy hiểm, khó khăn và thử thách.

Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta về sự nhận ơn và biết ơn. Bài đọc 1 trích sách các Vua quyển thứ hai ghi lại câu chuyện tướng Na-a-man, người ngoại đạo, được ngôn sứ Êlisa chữa khỏi bệnh phong cùi.  Phản ứng trước hết của ông là dâng lễ vật tạ ơn Thiên Chúa.  Nhưng khi ngôn sứ Êlisa từ chối không nhận lễ vật, thì tướng Na-a-man mới xin chở một ít đất ở nơi ông được chữa khỏi bệnh đem về xứ sở để luôn nhắc nhở cho ông về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa của người Ís-ra-en.  Ông còn hứa là từ nay ông sẽ không dâng hy lễ toàn thiêu cho thần nào khác, ngoài Thiên Chúa.

Trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta nghe câu truyện Chúa Giê-su chữa 10 người bị bệnh phong cùi được lành sạch.  Nhưng một chi tiết đánh động chúng ta nhất là trong số 10 người cùi đã được Chúa chữa khỏi, chỉ có một người biết quay lại tạ ơn Người, mà người này lại là một người Samaria ngoại đạo.

Có câu chuyện về một người đàn ông đi câu cá vào một buổi tối trên một con thuyền nhỏ.  Đêm đã khuya và một vật đều yên tĩnh.  Gần đó có một du thuyền, trên thuyền có một người đàn ông đang uống rượu, và hình như đã say, cho nên thỉnh thoảng la to lên những câu giận dữ, tục tĩu. Người câu cá không màng tới ông ta chỉ chú tới việc câu cá của mình.

Thình lình ông ta nghe một tiếng động mạnh trên mặt nước.  Ông ngoảnh mặt lại nhìn, thì dưới ánh trăng, thấy người đàn ông trên du thuyền đã rớt xuống biển và đang chới với.  Ông vội vã cởi quần áo ngoài, nhảy xuống nước và bơi đến người đàn ông.  Sau khi đã dùng hết sức mình và kéo được ông lên thuyền thì nhận thấy hơi thở của ông kia thoi thóp.  Thất kinh, người câu cá làm hô hấp nhân tạo để cứu ông.  Khi nhận thấy người đàn ông đã tỉnh, người câu cá liền đặt ông vào gường và trở về chiếc thuyền nhỏ của mình.

Sáng sớm hôm sau, người câu cá trở lại chiếc du thuyền để hỏi thăm người đàn ông trên du thuyền có cần gì không.  Người đàn ông trên du thuyền tỏ vẻ tức giận và chửi bới om sòm.  Người câu cá nhắc cho ông biết là đêm qua đã liều mạng cứu ông khỏi chết đuối. Thay vì cám ơn, ông đã quát tháo và ra lệnh đuổi người câu cá đi xa ra chiếc du thuyền của mình.

Người câu cá bơi chiếc thuyền nhỏ của mình về mắt nhòa lệ.  Ông ta không tin cái gì vừa xảy ra trước mắt.  Do đó ông ta ngước mắt lên trời và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, bây giờ con mới hiểu tâm tư của Chúa như thế nào.  Chúa đã hy sinh chính thân xác để cứu chúng con. Nhưng giống như người đàn ông trên du thuyền, thay vì cảm tạ tri ân, chúng con đã vô ơn với Chúa.”

Thế thì, nếu chúng ta thành tâm nhìn vào đời sống hôm nay và tự hỏi: “Chúng ta có vô ơn đối với Chúa như người đàn ông trên du thuyền không?” “Chúng ta tạ ơn Chúa bằng cách nào?’  Tôi nghĩ rằng chúng ta không phải là những người vô ơn với Chúa.  Có lẽ là vì chúng ta quá bận rộn, và đôi khi bận rộn với những công việc không cần thiết, cho nên quyên đi hay xao lãng tạ ơn Chúa hàng ngày về bao nhiêu ơn lành Chúa đã thương ban.

Trong cuộc sống, chúng ta muốn người nhận ơn của chúng ta phải tỏ lòng biết ơn chúng ta, thế nhưng khi nhận ơn người khác chúng ta lại ít hay miễn cưỡng tỏ lòng biết ơn. Điều này bộc lộ khuynh hướng ích kỷ của chúng ta, chúng ta làm ơn là để được biết ơn. Nói cách khác, chúng ta làm vì mình chứ không vì người khác.  Chúa Giêsu thì ngược lại.  Chúa muốn chúng ta tỏ lòng biết ơn Người không phải vì Người, mà vì ích lợi của chính chúng ta, bởi vì khi thể hiện lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình yêu thương của Chúa, chúng ta nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo hèn của mình, điều đó sẽ giúp chúng ta gắn bó mật thiết và nương tựa vào Chúa nhiều hơn.

Thánh lễ còn được gọi bằng một tên khác đúng với ý nghĩa hơn, đó là Lễ Tạ Ơn.  Nhiều người hiểu lầm tham dự Thánh lễ là để xin ơn.  Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Người đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Người ban qua Con Một của Người là Chúa Giêsu Kitô. Nếu chúng ta thành tâm và sốt sắng tham dự Thánh lễ, tôi tin Chúa sẽ nhận tấm lòng tạ ơn của chúng ta và ban ơn cho chúng ta.

Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra tình yêu thương và những ơn lành hồn xác Chúa ban trong cuộc sống.  Luôn tâm niệm là tất cả những gì chúng ta đang có là do Thiên Chúa và có đời sống tạ ơn, ngợi khen, ca tụng Chúa qua những việc hy sinh, bác ái và quảng đại để làm sáng danh Chúa.

--------------------------------
 

TN 28-C178: LÒNG BIẾT ƠN

 

Có một thời, người ta có khuynh hướng bỏ hẳn lời cám ơn trong mối tương quan hằng ngày. Trong TN 28-C178


Có một thời, người ta có khuynh hướng bỏ hẳn lời cám ơn trong mối tương quan hằng ngày. Trong thời bao cấp, những nghi thức giao tế bị coi là những hủ tục và tàn dư của thời phong kiến. Người ta chủ trương cuộc sống sòng phẳng, không ai mắc nợ ai, cho nên không ai phải cám ơn ai. Hậu quả là những gương mặt khô như ngói ở những văn phòng hành chính, những cái nhìn lạnh nhạt ở nơi công cộng và những lời nói trống không trong giao tiếp với những người lớn tuổi hơn mình. Cuộc sống thiếu lời cám ơn sẽ trở nên khô khan, đơn điệu, giống như vườn thiếu cây xanh. Lược bỏ phép lịch sự sẽ biến cuộc sống này thành sa mạc hoang dã. Có lẽ vì đã nhận ra hậu quả đáng tiếc của quan niệm này nên gần đây, một số cơ quan mở những lớp dạy cười, dạy nói lời cám ơn và chào hỏi cho nhân viên của mình.

Biết nói lời cám ơn nhau, con người cũng cần thể hiện lòng biết ơn đối với Thượng Đế. Đó là một trong những mục đích quan trọng của các tôn giáo. Đó cũng là nội dung của lời cầu nguyện Kitô giáo. Thông thường, chúng ta đến với Chúa chỉ để xin ơn. Ít khi chúng ta bày tỏ lòng khâm phục, tri ân và mến mộ đối với Chúa và các thánh. Chúa Giêsu hôm nay khiển trách những người cùi đã được ơn mà không biết cảm tạ Thiên Chúa. Trong mười người cùi được ơn chữa lành, duy nhất có một người quay lại tạ ơn Chúa Giêsu mà người đó lại là người ngoại. Khi ghi lại lời phàn nàn của Chúa, chắc hẳn Thánh Luca cũng nhằm phê phán những người Do Thái luôn cậy mình là dân riêng của Chúa nhưng lại không sống đúng với danh dự cao quý đó. Không những thế, họ lại coi thường những người ngoại. Dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, một người ngoại lại mang một tâm hồn đạo đức và biết tạ ơn Chúa. Và như thế, người ấy không còn phải là “người ngoại” nữa, vì đã biết dâng lời tạ ơn Chúa và nhận ra quyền năng của Ngài. Ý tưởng này, chúng ta cũng thấy trong sách Các Vua quyển thứ hai, với trường hợp ông Naaman, một vị tướng của Syria. Sau khi được chữa khỏi, dù là người ngoại, ông đã trở thành một “tín hữu” vì ông tuyên xưng Thiên Chúa của người Ítraen là Thiên Chúa thật: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ítraen”. Việc xin một khối lượng đất đủ hai con la chở được để đem về quê hương đã chứng minh niềm tin chân thành ấy.

Nhờ biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, chúng ta luôn nhận ra Ngài hiện diện trong cuộc đời. Việc tạ ơn Chúa cũng giúp chúng ta nhìn cuộc sống lạc quan hơn, bởi vì vũ trụ và cuộc sống này là do Chúa tạo dựng. Ngài kêu gọi chúng ta bằng khả năng của mình, cộng tác với Ngài để tô điểm cho trần gian thêm tươi đẹp. Nếu cuộc sống trần gian còn nhiều khiếm khuyết là do con người chưa thiện chí cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo của Ngài. Thậm chí có người còn đi ngược với chương trình sáng tạo của Chúa, phá vỡ sự hài hòa của môi trường cuộc sống và gây tai họa cho đồng loại cũng như cho thiên nhiên. Một khi sống tâm tình tạ ơn và tôn thờ Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban những ơn cần thiết phần hồn phần xác. Thiên Chúa như người cha yêu thương con cái. Ngài biết chúng ta cần thiết những gì. Ngài cũng biết rõ những gì đem lại ích lợi đích thực và lâu dài cho chúng ta. Chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn lành, theo ý của Ngài và nhằm đến những điều tốt đẹp cho mỗi chúng ta. Cách đây vài ngày (ngày 4-10), chúng ta vừa mừng kính thánh Phanxicô thành Átsidi, cũng gọi là thánh Phanxicô khó khăn. Thánh nhân là người yêu thiên nhiên vũ trụ, vì qua thiên nhiên, ngài khám phá ra sự hiện diện quyền năng của Chúa. Nếu những loài cỏ cây, những bông hoa vô danh nhỏ bé mà còn được Chúa trang điểm yêu thương săn sóc như thế, huống chi con người chẳng lẽ Chúa không thương. Dưới cái nhìn của vị thánh nghèo, mọi vật mọi loài đều luôn cất tiếng ca tụng Chúa, làm thành một bản giao hưởng bất tận tuyệt vời.

Lòng biết ơn đối với Chúa không chỉ dừng lại ở ngôn từ nơi môi miệng, nhưng phải thể hiện qua việc tuân giữ giáo huấn của Người. Cũng như trong mối tương quan trong gia đình, con cái không thể chỉ biết ơn cha mẹ bằng những lời khuôn sáo, mà lòng biết ơn và yêu mến cha mẹ cần phải được chứng tỏ bằng những việc làm đích thực. Tuân giữ Lời Chúa là cách thể hiện lòng biết ơn tốt đẹp nhất. Một khi chú tâm tuân giữ Lời Chúa, chúng ta mới có khả năng thông truyền Lời Chúa cho anh chị em mình.

Tin vào lòng thương của Chúa giúp chúng ta kiên vững trong gian nan đau khổ. Thánh Phaolô, một tù nhân vì Chúa Giêsu, đã khích lệ con thiêng liêng của mình là Timôthê. Ngài khẳng định: dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa luôn trung thành.

“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Lời cầu xin thống thiết kèm theo sự xác tín của những người cùi đã được Chúa nhận lời. Họ đã được lành bệnh sau khi đi trình diện với các tư tế theo Luật ông Môisen đã quy định. Người tín hữu khi đến với các linh mục là những tư tế của Tân Ước để thú nhận mọi tội lỗi nơi tòa giải tội cũng được Chúa tha thứ và chữa lành. Qua hành động trung gian của các linh mục, chính Chúa Giêsu chúc lành và nâng đỡ chúng ta, nhờ đó, chúng ta có thể trở lại hòa nhập với đời sống cộng đoàn, nhất là chúng ta được nối kết trong mối tình thân thiêng liêng với Chúa, nhờ lòng yêu mến thiết tha mà chúng ta bày tỏ với Người.

+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

---------------------------------
 

TN 28-C179: TẠ ƠN CHÚA: MỘT ĐIỀU CẦN THIẾT!


"Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?” (Lc 17:17-18).
 

Tại sao chín người được chữa khỏi bệnh phong cùi không quay trở lại để cám ơn Chúa Giêsu? Có TN 28-C179


Tại sao chín người được chữa khỏi bệnh phong cùi không quay trở lại để cám ơn Chúa Giêsu? Có thể là bởi vì chín bệnh nhân đó vui mừng quá đỗi, phấn khởi quá sức, cho nên họ đã chạy ngay về đoàn tụ với gia đình, sum họp với vợ con sau những tháng ngày xa cách. Hoặc là bởi vì họ nghĩ, chỉ cần âm thầm tạ ơn Thiên Chúa là đủ rồi, không cần phải đến gặp Ngài để cám ơn nữa chăng?

Nhìn người rồi nghĩ đến ta, bạn có bao giờ nghĩ rằng mình đang ở trong tình trạng như chín người phong cùi khi xưa không? Tôi nghĩ có những lần, và có lẽ không ít lần, tôi và bạn đã quên cám ơn Chúa, hay có thể vì chủ quan, nên nghĩ rằng Thiên Chúa không cần những lời cám ơn của tôi, hoặc là vì những ơn lành Chúa ban cho tôi quá bình thường, quá quen thuộc, cho nên tôi không cần phải cảm ơn Ngài nữa?

• Ngày nào tôi cũng nhận được ba món quà vô cùng quý giá từ Thiên Chúa, đó là KHÔNG KHÍ, ÁNH SÁNG & NƯỚC, Ngài ban cho tôi ba món báu vật ấy một cách nhưng không, hoàn toàn miễn phí…Nhưng tôi chẳng bao giờ TẠ ƠN Chúa và CÁM ƠN Ngài cả!

• Bạn được sanh ra và lớn lên trong một gia đình Việt Nam, có cha có mẹ, Chúa cho bạn sống ở một đất nước trù phú, văn minh, giàu có và tự do vào hạng nhất nhì trên thế giới, biết nói, biết đọc tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, được đến trường học trở thành bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, kỹ sư, y tá, hộ lý…có cơm ăn áo mặc, có nhà ở, có tiền bạc rủng rỉnh trong ngân hàng, không phải sống trong cảnh hồi hộp, lo sợ vì chiến tranh vì nghèo đói…Bạn có bao giờ cảm ơn Chúa vì những ơn lành đó hay không vậy?

• Thiên Chúa ban cho bạn có nơi thờ phượng, con cháu có chương trình Giáo Lý - Việt Ngữ, có các thánh lễ sáng tối mỗi ngày, có linh mục giải tội bằng tiếng Việt, có nhiều websites trên đó có đăng những bài giảng, những bài suy niệm, những bài giáo lý, những câu trả lời về Kinh Thánh, về những vấn đề luân lý…Bạn có nhận ra những ơn lành của Chúa ban, có đến tạ ơn và thưa với Chúa hai tiếng cám ơn vì những ơn lành này không?

Suy nghĩ thêm một chút, và kiểm điểm lại một tí đi, rồi thì bạn sẽ thấy, rất nhiều lúc, và có lẽ khá nhiều lần, bạn và tôi đã hành xử giống y chang như chín người bị bệnh phong cùi khi xưa, chúng mình đã nhận lãnh rất nhiều những ơn huệ lớn nhỏ từ Thiên Chúa, nhưng bạn và tôi đã quên, không quay trở lại cám ơn Ngài!

Bạn thân mến, nếu ngày hôm nay, bạn nhận ra những thiếu sót trong việc cám ơn Chúa, và nếu bạn đồng ý với tôi rằng, việc tạ ơn Thiên Chúa, là một công việc mà tôi và bạn cần phải làm, và phải làm một cách liên lỉ, thì chúng mình hãy cố gắng dâng lên Chúa những lời tạ ơn và tỏ thái độ biết ơn với Ngài bằng cách:

• Thứ nhất phải ghi nhớ, chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất ban cho tôi vô vàn ơn huệ, tất cả những gì mà tôi đang sở hữu, từ mạng sống, cho đến trí thông minh, tài năng, bằng cấp, tài sản, con cái, của cải vật chất, nhà cửa, xe cộ…Tất cả đều là hồng ân của Chúa ban cho tôi, tôi phải cám ơn Ngài.

• Thứ hai, hãy chia sẻ những ơn lành và những hồng ân, mà Thiên Chúa đã ban cho chúng mình, qua những việc làm từ thiện, qua những việc bác ái, và nếu có cơ hội, bạn đừng ngần ngại kể cho người khác nghe về những điều kỳ diệu, mà Thiên Chúa đã, và đang thực hiện cho bạn, cũng như cho gia đình của bạn, ví dụ như khi bạn được ơn hoán cải, được ơn chữa lành, được Chúa và Mẹ ban ơn cứu giúp qua những hiểm nguy…

• Thứ ba, hãy noi gương bắt chước người Samari sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Có nghĩa là phải biểu lộ lòng biết ơn một cách khiêm tốn, bằng những hành động thiết thực và cụ thể, ví dụ như tham dự thánh lễ, đi xưng tội, tham dự các Giờ Chầu Thánh Thể, lần hạt Mân Côi, đọc Kinh Thánh…

Chúng mình hãy cầu nguyện cho nhau để bạn và tôi luôn luôn là những người biết ơn Chúa, luôn luôn mở miệng cảm tạ Ngài, và nhất là luôn luôn biểu lộ lòng biết ơn Chúa, qua những hành động rất thiết thực và cụ thể. Nhờ vậy mỗi ngày, chúng mình sẽ trưởng thành hơn trong đức tin, và làm cho Chúa vui lòng hơn. Amen!

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

--------------------------------
 

TN 28-C180: HÃY LÀ NGƯỜI BIẾT ƠN

 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta lại gần với ông Naaman, vị tướng chỉ huy toàn thể TN 28-C180


Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta lại gần với ông Naaman, vị tướng chỉ huy toàn thể quân lực Syria thời Êlisê mắc bệnh phong cùi được chữa lành bệnh để học lòng biết ơn, và nghe lại câu hỏi đau xót, phiền trách của Chúa Giêsu: “Không phải là cả 10 người được sạch ư? Chín người kia đâu?” để học biết cám ơn.

Naaman được chữa lành bệnh nhờ nghe lời người của Thiên Chúa xuống tắm bảy lần ở sông Giođan. Ông trở lại xin người của Thiên Chúa dâng lễ vật mọn để bày tỏ lòng biết ơn và tôn vinh Thiên Chúa (x.2 V 5, 14-17).

Mười người phong cùi thời Chúa Giêsu được chữa lành, nhưng chỉ có một người quay trở lại cám ơn Chúa Giêsu; người đó lại là người ngoại đạo Samaria!

Vậy là chỉ có một người biết ơn, còn chín người kia không biết có quên ơn không, hay mừng quá về nhà ăn khao, chưa kịp trở lại tạ ơn Đấng chữa lành. Chúa Giêsu phải thốt lên: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này” (Lc 17,17-18).

Ngày nay, đạo đức xã hội đang ngày càng bị xói mòn. Trên mặt báo và xung quanh ta, thấy những câu chuyện đau lòng như con phụ công cha, quên ơn mẹ, bỏ nhà ra đi, đánh đuổi cha mẹ, ấy chưa nói đến có người coi trời bằng vung, hoặc sống như thể không có Thiên Chúa, giết cha, hại mẹ, bạc nghĩa thầy nữa. Phải chăng lòng biết ơn đang bị lu mờ trong tâm khảm con người.

Tại sao lại vô ơn? Có nhiều lý do: vì người ta không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn, vì thế, họ quên ơn.

Lòng biến ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác. Hầu hết chúng ta thức dậy với tâm trí lơ đãng. Thay vào đó, chúng ta hãy bắt đầu một ngày mới với lòng biết ơn. Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng chẳng bỏ con, chẳng để con hư không đời đời mà lại sinh ra con cho con được làm người… lại gìn giữ con hôm nay được mọi sự lành.v.v..

Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể khác Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ. Tạ ơn là lời cầu nguyện tốt nhất bất cứ ai cũng có thể làm. Lời tạ ơn thể hiện lòng biết ơn, sự khiêm tốn và hiểu biết.

“Biết ơn” là một cụm từ rất quen thuộc với mọi người chúng ta. Tạ ơn Chúa, cám ơn người, cám ơn đời, biết ơn ông bà, cha mẹ, biết ơn những người bao bọc, giúp đỡ mình những khi mình gặp khó khăn… Biết ơn là sự ghi nhớ và trân trọng những gì mình nhận được từ người khác.

Lòng biết ơn có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta. Hạnh phúc và thành công đều tạo dựng từ lòng biết ơn. Cho nên từ xưa đến nay, cha ông ta vẫn luôn căn dặn thế hệ mai sau “uống nước nhớ nguồn”, phải luôn khắc ghi công ơn của những người đã cho ta cuộc sống này. Như thế, lòng biết ơn luôn hiện diện xung quanh cuộc đời ta, chỉ là chúng ta không để ý nhận ra thôi. Đừng bao giờ quá bận rộn đến quên nói lời “làm ơn” hay “cảm ơn”. Sống mà không có lòng biết ơn là một cuộc sống vô nghĩa. Nếu đời chỉ là chuỗi những lời oán than về bất công và thua thiệt mà ta đã gặp phải, mà không nhớ đến những may mắn đã từng đến với ta, thì chắc chắn là chúng ta sẽ bị trầm cảm, một căn bệnh thường gặp trong xã hội ngày nay.

Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Người đời thường phê phán những kẻ “ăn cháo đá bát”, “có mới nới cũ”, lừa thầy phản bạn, bất hiếu với mẹ cha. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ.

Noi gương người Samaria chúng ta cùng tạ ơn Chúa, cám ơn những người làm ơn cho chúng ta, nhất là xin Chúa biến ta trở nên người luôn biết ơn. Amen. mục lục

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

---------------------------------
 

TN 28-C181: SỐNG LÀ ĐỘI ƠN và ĐỘI ƠN LÀ SỐNG

 

Bắt đầu bằng một truyện kể. Số là sau biến cố xẩy ra tại Việt Nam vào tháng 4 năm 1975, người dân TN 28-C181


Bắt đầu bằng một truyện kể. Số là sau biến cố xẩy ra tại Việt Nam vào tháng 4 năm 1975, người dân miền Nam Việt Nam sống trong hoang mang và lo sợ. Tất cả đều mới. Người lãnh đạo, kẻ thừa hành và dân chúng đã mò mẫm tìm hướng đi. Nhân lực, tài lực và hầu như tất cả mọi nguồn để xây dựng đất nước đã đổ vào chiến tranh hết. Nay, trước tình hình thực tế, các nguồn viện trợ bị cắt giảm.

Chính sách và đường lối điều hành thử đi nghiệm lại sao cho phù hợp với tình hình thực tế khiến mọi người đã nghèo, lại nghèo hơn, nhà nhà đều đói. Trong giai đoạn này, những ai gặp khó khăn về tinh thần cũng như vật chất thường hay chạy đến các cơ sở bác ái, tiêu biểu là chùa chiền và nhà thờ, để cầu may. Chúng ta nói cầu may là bởi vì các vị trụ trì tại các nơi đó cũng chưa chắc có đủ phần ăn hơn dân thường.

Vào một buổi chiều, trước cửa phòng khách của một tu viện xuất hiện một cô gái trẻ. Chị đến xin gặp linh mục bề trên. Sau hồi chuông báo, vị linh mục đó bước ra cửa nhà khách, rảo mắt nhìn chung quanh để tìm xem ai là người muốn gặp ngài. Trước mặt ngài là một cô gái. Sau những lời chào hỏi, chị kể lại các việc cha đã giúp chị vào mấy năm trước mà cha không còn nhớ. Nói xong chị gửi lại số tiền mà cha đã cho chị mượn. Với lòng biết ơn, chị nói: “Cảm ơn cha đã tin con. Chính nhờ vào niềm tin của cha đã khởi động niềm tin trong con. Và giờ đây, với lòng biết ơn con xin hoàn trả lại số tiền mà cha đã cho con mượn năm nào. Thật là quí hóa, bởi vì nếu không có sự giúp đỡ của cha, đời con rồi không biết sẽ trôi dạt đến bến bờ nào đây!”

Câu chuyện nói trên có thể minh họa cho nội dung của bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe.

Trình thuật Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su chữa lành cho mười người bị bịnh phong cùi, thế mà chỉ có một người bộc lộ lòng biết ơn, quay trở lại và tôn vinh Thiên Chúa, còn chín người kia tiếp tục đi trình diện với các tư tế.

Có một chi tiết mà chúng ta nên ghi nhận ở đây, đó là trong cơn hoạn nạn thì mười người phong cùi có nhau. Họ không bị gốc gác dân tộc, tôn giáo và niềm tin chia cách. Họ có chung một căn bịnh nên gắn bó để bảo vệ và nâng đỡ nhau. Bản sắc chung của những người bị khinh chê, ruồng bỏ đã đẩy họ trở thành những người thân của nhau. Thế mà, sau khi được chữa khỏi, được tự do, họ lập tức bị ngăn cách. Nhưng, chỉ còn một người xứ Sa-ma-ri-a, vẫn còn bị coi là giống dân ngoại, đã trở lại gặp Đức Giê-su, Đấng vừa ban on cho ông được khỏi bịnh.

Đứng trước phản ứng của chín người kia, những ai khó tính sẽ cảm thấy bị tổn thương và đau lòng vì sự vô ơn của họ. Thật ra, họ đâu có làm điều gì sai, họ vẫn vâng lời Chúa, đang trên đường đến gặp các vị tư tế để xin giấy xác nhận trở về với các sinh hoạt thường nhật như mọi người. Tuy nhiên, vì bám vào lề luật như một bảo đảm cho cuộc sống nên họ đã mất đi cơ hội đón nhận sự thay đổi, điều mới mẻ mà Đức Giê-su vừa thực hiện. Tuy họ không sai nhưng cơ hội để được đổi mới đã vuột khỏi tầm tay của họ. Thật đáng tiếc!

Chúng ta thì sao? Vẫn sống và chu toàn mọi khoản luật như là nguồn sức mạnh cứu thoát chúng ta hay sẵn sàng nhận biết ơn Chúa với lòng cảm tạ mà tôn vinh và thờ lậy Ngài. Không ai trả lời vấn nạn này thay cho chúng ta.

Đối với Thiên Chúa, điều làm cho con người có giá trị là thái độ và cách ứng xử của chúng ta trước lượng ân sủng vô biên của Thiên Chúa đổ trên chúng ta. Chúng ta đã làm gì với các hồng ân cao cả như thế. Thánh Gioan cho biết: “Tự nguồn sung mãn của Chúa, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” Ngài ban cho mỗi người những ơn họ cần, tùy thuộc vào khả năng đón nhận của từng người, nhưng cùng mục đích là để họ sống tốt đẹp và thánh thiện hơn. Có nhiều ơn rất tự nhiên, tự nhiên đến độ chúng ta quên luôn người đã tạo ra các ơn huệ đó.

Thí dụ không khí và hơi thở. Trong thời gian chống trả với nạn đại dịch Covid vừa qua, khi chứng kiến các bịnh nhân bị nhiễm Covid, hơi thở mệt nhọc vì thiếu dưỡng khí, tôi mới nhớ lại nguồn năng lực này. Nếu không có dưỡng khí, mấy ai trong chúng ta còn sống được. Hàng triệu người đã chết vì Covid, thế mà chúng ta vẫn còn sống. Không là hồng ân được ban tặng thì là điều gì nữa đây, thế mà chúng ta vẫn sống như người vô ơn!

Trong cuộc sống, đã có bao nhiêu dấu chỉ nói lên sự can thiệp và thông ơn của Thiên Chúa. Nếu không có ơn Chúa thì làm sao vợ chồng có thể yêu thương, kính trọng và luôn làm gương sáng cho con cái được? Nếu Chúa không hoạt động thì làm sao ông cha này bà phước kia hay thầy dòng nọ có thể quên ‘cái tôi’ của bản thân mà hết lòng phục vụ dân Chúa? Kể sao cho hết những ơn lành Chúa ban cho như ơn khôn ngoan, sự hiểu biết, cơ hội phục vụ, sức khỏe tráng kiện, đầu óc minh mẫn, con tim trong sáng, đồng cảm để tha thứ cho nhau, và ngay cả các đau khổ cũng là cơ hội để giúp mình nhận ra sự bất toàn và mỏng dòn của thân phận con người mà nương tựa vào Chúa hơn…, tất cả đều là ơn của Chúa. Điều quan trọng là mắt chúng ta có mở rộng đủ để nhận ra ơn Chúa hay là lại nghĩ rằng đó là những gì mình xứng đáng được, và nếu như thế thì hình như chúng ta đã coi Chúa như là người đầy tớ thay vì Đấng ban ơn rồi!

Đứng trước những ơn lành Chúa ban, chúng ta hay dùng các từ như tạ ơn, cảm ơn, ghi ơn, nhớ ơn, biết ơn…, để diễn tả thái độ của chúng ta, nhưng có lẽ một từ mộc mạc và đầy ý nghĩa nhất mà lâu nay chúng ta quên không dùng đó là ĐỘI ƠN: Ơn Chúa nhiều quá, nặng quá, đến độ ta không cầm, không thể mang, không cách nào khoác vào được, mà phải đội trên đầu, diễn tả sự kính trọng đối với Chúa, với ơn Chúa.

Đội trên đầu thì phải sấp mình, quì gối xuống mà tôn vinh Đấng ban ơn. Đó chính là mẫu mực và cách hành xử của người Sa-ma-ri-a làm hôm nay.

Bằng cử chỉ trở lại để đội ơn Chúa đã làm cho người Sa-ma-ri-a được chữa lành hoàn toàn, về phần xác anh được khỏi bịnh phung và phần hồn anh được đổi mới để nhận biết Chúa là gia nghiệp và là sức sống của anh. Thật vậy, điều Chúa phán “Đứng dậy về đi! Lòng tin của con đã cứu chữa con” đã ứng nghiệm trong cuộc sống của anh ngay trong giây phút anh gặp Chúa.

Xin cho cuộc sống của chúng con là một chuỗi ngày đội ơn Chúa, Đấng thường xuyên săn sóc, bảo vệ và ban ơn chữa lành cho chúng ta về phần hồn cũng như phần xác. Amen!

Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

----------------------------------
 

TN 28-C182: MỘT VÀ CHÍN

 

Một và Chín là hai số đối nghịch nhau về tỷ lệ – ít và nhiều. Cái ít là cái hiếm, càng hiếm càng quý TN 28-C182


Một và Chín là hai số đối nghịch nhau về tỷ lệ – ít và nhiều. Cái ít là cái hiếm, càng hiếm càng quý; nhiều là thứ không hiếm, càng nhiều càng thừa. Trình thuật Lc 17:11-19 liên quan vấn đề đó: Có tất cả mười người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng có CHÍN người vô ơn, chỉ có MỘT người biết ơn – mà người biết ơn lại là người ngoại giáo.

Một hôm, trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.”

Thật lạ lùng, khi họ đang đi thì được sạch. Thấy vậy, một người trong họ là người Samari liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả MƯỜI người đều được sạch sao? Thế thì CHÍN người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Rồi Ngài nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Đức tin luôn là điều tiên quyết!

Cuộc đời có nhiều thứ đối lập, một trong các dạng đối lập đó thuộc lĩnh vực ân huệ: biết ơn và vô ơn. Người ta khi xin thì muốn bằng được, không được thì không bằng lòng, nhưng được rồi thì không cần biết đến ai nữa. Quá tệ! Máu “di truyền” đó ư? Có lẽ vì vậy mà Thánh Vịnh 107 lặp đi lặp lại điều ước này: “Ước chi họ dâng lời CẢM TẠ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần.” (cc. 8, 15, 21, 31) Lòng biết ơn rất quan trọng, đó là văn hóa cao cấp, là viên ngọc quý. Maya Angelou (1928-2014), nữ thi sĩ người Mỹ, nói: “Hãy để sự biết ơn làm gối để bạn quỳ lên nói lời cầu nguyện hàng đêm. Và hãy để đức tin làm cầu để đưa giúp bạn đi khỏi cái xấu đến với cái tốt.”

Thomas Fuller (1608-1661), sử gia và giáo sĩ Anh giáo, nói: “Con người ưa trả thù vì bị tổn thương hơn là đền đáp cho lòng tử tế.” Chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, nhà ngoại giao và triết gia Hoa Kỳ) nhắn nhủ: “Khi được giúp đỡ, hãy ghi nhớ; khi giúp đỡ, hãy quên đi.” Tục ngữ Việt Nam có những câu nhắc nhở về ân huệ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,” hoặc “Ăn cây nào rào cây nấy.”

Quả thật, lòng biết ơn rất quan trọng, vì không ai lại không thụ ân của người khác bằng một cách nào đó – gián tiếp hoặc trực tiếp. Ngược lại, sự vô ơn bạc nghĩa là điều tệ hại, không ai có thể chấp nhận. Lòng biết ơn phải được thể hiện với mọi người, đặc biệt là đối với Thiên Chúa. Thánh Phaolô khuyên: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng.” (Cl 3:16)

Bài ca tạ ơn là tình khúc hay nhất, quý giá nhất, thâm thúy nhất, và tuyệt vời nhất. Thời nay người ta ưa dùng danh từ “soái ca.” Nhưng “soái ca” là gì? Đó là danh từ bắt nguồn từ các truyện ngôn tình, ý nghĩa của “soái ca” ngụ ý về một người đàn ông hoàn hảo trong con mắt phụ nữ. Soái ca là một người vừa có tài, vừa có chí, vừa có tình, có thể vừa điển trai vừa giàu có nữa, tất nhiên người đàn ông này rất dễ thương. Theo ý nghĩa thực tế, mỹ từ “soái ca” ngày nay không hẳn theo ý nghĩa nguyên ngữ như trước đây.

Soái ca chỉ là một con người rất bình thường nhưng có tâm hồn cao thượng, có tấm lòng nghĩa hiệp. Đẹp thay những tấm lòng đại nghĩa như vậy! Đơn giản hóa, chúng ta có thể hiểu “soái ca” là người tốt bụng. Kinh Thánh xác định: “CHO thì có phúc hơn là NHẬN.” (Cv 20:35) Cũng có thể hiểu rằng thi ân thì có phúc hơn là thụ ân. Có người mang nhãn hiệu 3V [Vội Vơ Vét], có người mang danh hiệu 3C [Chu Cấp Cho]. Ai đại phúc và ai đại họa? Chẳng ai lạ gì cái “thương hiệu” 3T [Tham Thì Thâm] mà ở Việt Nam hiện nay thấy rất nhiều. Buồn thay!

Trình thuật 2 V 5:14-17 cho biết: Ông Naaman là quan lãnh binh của vua xứ Syria, nhưng ông mắc chứng phong cùi. Nghe lời ngôn sứ Êlisa, người của Thiên Chúa, ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, và ông được sạch, da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Phép lạ nhãn tiền, da không chỉ lành mà còn đẹp và mịn, không loại kem dưỡng da nào có thể tác dụng tuyệt vời như vậy.

Kinh Thánh cho biết thêm rằng ông đã cùng với đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Gặp để làm gì? Tỏ lòng biết ơn: Deo gratias – Thank you so much – Merci beaucoup. Trong thi phẩm “Hễ Mai Tớ Hỏng,” thi sĩ trào phúng Tú Xương cũng đề cập cách nói cảm ơn là “Cống hỉ” (tiếng Quảng Đông) và “Mét-xì” (Merci, tiếng Pháp). Ý nói là dùng ngôn ngữ cơ bản nhất cũng đủ đi đây đi đó: “Cống hỉ, mét-xì đây thuộc cả – Chẳng sang Tàu tớ cũng sang Tây.” Điều đó chứng tỏ tiếng “cảm ơn” thực sự cần thiết khi giao tiếp trong cuộc sống đời thường, trong mọi lĩnh vực.

Ông Naaman vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” Nhưng ông Êlisa từ chối: “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” Ông Naaman nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. Cuối cùng, ông Naaman nói: “Nếu ngài từ chối, xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.” Ông Êlisa bằng lòng và chúc ông Naaman đi bình an.

Không nên nhớ khi thi ân, nhưng phải ghi tâm khắc cốt, ghi lòng tạc dạ khi thụ ân. Chớ theo “thói đời” mà qua cầu rút ván, hoặc phủi tay là xong. Sách Huấn Ca xác định: “Tỏ lòng biết ơn là dâng bột tinh hảo, làm việc bố thí là dâng lễ ngợi khen.” (Hc 35:2) Và tác giả phân tích: “Ân huệ người bảo lãnh, kẻ tội lỗi không đếm xỉa gì; người đã cứu mạng mình, đứa vô ơn không buồn nghĩ tới.” (Hc 29:16)

Mặc dù không đề cập trực tiếp với các từ ngữ mô tả lời cảm ơn, nhưng Thánh Vịnh gia vẫn chứng tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta cùng hiệp ý: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người. Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân.” (Tv 98:1-2)

Là Ngôi Hai Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu vẫn biết ơn Chúa Cha, chính Ngài đã làm gương để chúng ta học tập và thực hiện theo Ngài: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con.” (Ga 11:41) Thánh Vịnh gia giải thích và nhắn nhủ: “Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Israel. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát.” (Tv 98:3-4)

Chính Thánh Phaolô đã nhiều lần thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. (x. 1 Cr 1:4; 1 Cr 10:16; 1 Cr 14:18; 2 Cr 8:16; Pl 1:3) Và ông căn dặn: “Anh em có làm gì, nói gì thì hãy làm, hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” (Cl 3:17) Còn đối với đệ tử Timôthê, sư phụ Phaolô đưa ra lời khuyên: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít, Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích!” (2 Tm 2:8-9)

Tại sao? Thánh Phaolô giải thích: “Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời.” (2 Tm 2:10) Tiếp theo là những cái “nếu” quan trọng: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.” (2 Tm 2:12-13)

Cuối cùng, nếu chúng ta biết tín thác và tạ ơn Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ được lãnh nhận hơn cả những gì chúng ta mong ước. Kinh Thánh nói: “Ai kính sợ Đức Chúa sẽ thấy cuộc đời kết thúc tốt đẹp, ngày lâm chung họ sẽ được hưởng phúc lành. Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, ngay từ lúc thành hình trong lòng mẹ, các tín hữu đã được ơn khôn ngoan.” (Hc 1:13-14)

Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài về mọi sự trong cuộc đời chúng con mọi nơi và mọi lúc. Xin Ngài trả công bội hậu cho những người giúp đỡ chúng con bằng cách nào đó, dù trực tiếp hay gián tiếp. Xin tha thứ chúng con về tội vô ơn bất tín, dù hữu ý hay vô tình. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

-------------------------------
 

TN 28-C183: NIỀM TIN VÀ LÒNG BIẾT ƠN

 

Vào thời Chúa Giêsu, ở xã hội Do thái, những người mắc bệnh phong cùi, nặng nề hơn ngày nay TN 28-C183


Vào thời Chúa Giêsu, ở xã hội Do thái, những người mắc bệnh phong cùi, nặng nề hơn ngày nay rất nhiều, bị lên án là phải sống bên lề cộng đồng con người. Lề luật trong sách Lêvi làm chứng cho điều này: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế !Ô uế !" Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế ; nó ô uế : nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lev 13:45-46).

Và trên thực tế, chính tại lối vào một ngôi làng, Chúa Giêsu nghe thấy tiếng ai đó gọi Ngài: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17: 13). Mười người phong cùi ở đó, đồng hành trong đau khổ, nhưng quyết tâm nắm bắt cơ hội của đời mình, cơ hội cuối cùng, vì họ bị con người từ chối.

Theo lề thói thời đó và có lẽ cũng theo thói quen, vì sợ hãi những người khác, mười người phong cùi giữ khoảng cách xa xa với Vị Thầy Rabbi Giêsu: “Họ dừng lại đằng xa…” (Lc 17: 12) và điều ấy có lẽ đã làm cho Chúa Giêsu buồn lòng vì họ không dám đến gần; họ phải giữ khoảng cách vì lề luật bắt như thế, mà cũng vì họ cảm thấy mình ô nhơ, không xứng đáng đến gần Vị Thầy Giêsu khả kính đầy quyền năng và lòng nhân từ mà họ đã nghe nói tới.

Sự xa cách đó cũng có nơi chúng ta, trong mối tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu và với Thiên Chúa. Chúng ta có mặc cảm rằng bệnh phong cùi của chúng ta làm cho chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa, sợ đến gần Thiên Chúa và những gì là thánh thiêng. Chúng ta cố né tránh và sợ nhận ra bản thân tội lỗi như chúng ta vốn là; chúng ta cảm thấy khó có thể tin rằng Thiên Chúa lại yêu thương chúng ta đến như vậy, yêu thương chúng ta trong chính con người thật nhất của chúng ta. Chúng ta như thế nào, Thiên Chúa yêu thương chúng ta như vậy. Không phải Ngài yêu tâm linh bị cùi hủi – tức là thói hư tật xấu và tội lõi - của chúng ta, nhưng Ngài yêu con người của chúng ta, dù chúng ta cùi hủi ô uế đến thế nào. Thiên Chúa không ưa tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ ghét bỏ người tội lỗi, vì trong lòng Thiên Chúa không có chỗ cho việc chối bỏ hay ghê tởm một con người nào: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 51: 19).

Chúng ta liên tục tưởng tượng rằng có một khoảng cách ngăn cách chúng ta với Chúa Kitô. Nhưng chưa bao giờ Chúa Kitô lại gần gũi chúng ta hơn như vậy khi chúng ta đau khổ, khi chúng ta cảm thấy sức nặng của sự cô đơn và nghĩ rằng chính mình đã bị cắt đứt khỏi mọi sự giúp đỡ của con người.

Và Chúa Giêsu rất tế nhị trong bất cứ điều gì. Ngài hiểu rõ và tôn trọng mặc cảm xấu hổ của những người phong cùi này, những người cảm thấy mình thật xấu xí, dơ bẩn và gây khó chịu. Ngài không nói với họ, như các thầy lang hoặc bác sĩ thường nói các bệnh nhân đến với họ: “Hãy lại gần đây, hãy lại gần đây! Các anh bị sao vậy? À đây là bệnh phong cùi, nặng đấy nhé, không nhiều người chữa được đâu!  Tôi sẽ cố gắng chữa cho các anh khỏi bệnh, ở múc độ tốt nhất !” nhưng với sự dịu dàng và tế nhị, không đề cập chút gì đến tình trạng cùi hủi của họ, Tin mừng Luca trình thuật: “Thấy vậy, Chúa Giêsu bảo họ…” (Lc 17:14). Ngài chỉ nói đơn giản: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). 

Tin tưởng vào quyền năng và lòng xót thương của Thiên Chúa.

Thật vậy, theo Lề luật, trước tiên, các tư tế phải báo cáo chính thức về việc chữa khỏi bệnh, sau đó là dâng nhiều của lễ khác nhau, với chi phí của người được chữa lành và trong phạm vi khả năng tài chính của người ấy (Lêvi 14).

“Hãy đi trình diện,,,”! Chúa Giêsu yêu cầu họ thực hiện một hành động đức tin trọn vẹn: lên đường để việc chữa lành của họ được tư tế xác nhận, trong khi bệnh phong cùi của họ vẫn còn đó, trên người họ, đang gặm nhấm thân xác của họ. Tuy nhiên, họ đã đi, chỉ dựa trên lời duy nhất của Chúa Giêsu. Họ biết rằng họ không được đến gặp các tư tế vì họ không được sạch, hơn nữa các tư tế không phải là những người có thể chữa lành cho họ; các tư tế chỉ là người cấp giấy chứng nhận rằng họ đã khỏi bệnh và do đó họ có thể hòa nhập trở lại trong xã hội. Vậy ai là người chữa lành bệnh tật cho họ để họ được sạch trước khi gặp tư tế?  “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14).  Đó là một thông điệp kỳ lạ, mà Đấng Cứu Độ đã ban cho những người phong cùi này, Và ôi, niềm tin của những con người này! Chỉ với một khuyên bảo thoáng qua bề ngoài như vậy, thế mà họ cảm thấy có một lời hứa hiệu năng lớn lao bên trong, và họ hẳn đã tự nhủ: “Ngài sai chúng tôi đến với các tư tề không phải để không làm được gì; đó không phải là một lời khuyên khơi khơi nói cho vui miệng, hoặc là một cách đuổi khéo! Vị Thầy Rabbi Giêsu không đùa chơi trước sự khốn khổ của chúng tôi; Ngài hẳn có ý chữa lành cho chúng tôi”. Và vì vậy họ đã làm theo lời Vị Thầy và bước đi. Một niềm tin tuyệt vời! Chúng ta phải đến với Chúa Kitô trước khi chúng ta cảm thấy có bất cứ ân sủng nào bên trong chúng ta; Chúng ta không cần phải đợi cho đến khi cảm thấy mình được chữa lành rồi mới đến với Ngài. Hãy đến với Ngài với con người thật của chúng ta, dù không cảm nhận được ân ban, dù không có cái cảm giác mà chúng ta thường nghĩ là lẽ ra cần phải có trong cõi lòng chúng ta khi đó. Hãy đến với Ngài với những gì đang thực sự là chúng ta: bệnh tật, yếu đuối cũng như mọi thứ khuyết điểm tội lỗi: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi” (Lc 17:13). Phép lạ xẩy đến khi người ta đang làm những gì Chúa Kitô truyền bảo.

Tâm tình tạ ơn Thiên Chúa.

Một lát sau, “Và xảy ra là trong khi họ đi, họ đã được sạch” (Lc 17: 14). Đó là cách chữa bệnh của Chúa Giêsu, bất ngờ, trọn vẹn, cho mười người cùng một lúc. Mười người tin, mười người được khỏi, nhưng chỉ có một người tạ ơn: người nghèo nhất, người bị khinh bỉ nhất, người Samaria duy nhất trong băng nhóm nhỏ bé những người phong cùi. Chín người kia đã nhận được ân huệ của Chúa Kitô, và điều đó đối với họ dường như cũng chỉ là chuyện bình thường, “thường thôi mà, có gì to tát đâu mà vẽ chuyện!”. Sự tốt lành đến thế của Thiên Chúa đã không làm cho họ nghĩ đến điều gì khác ngoài bản thân họ, kéo họ ra khỏi sự ích kỷ của họ; họ nhanh chóng nắm lấy lợi ích, mà không còn chút khả năng nào nhận ra họ đã được chữa lành như thế nào, và cũng chẳng thèm bận tâm tìm hiểu xem họ phải làm gỉ cho người đã chữa lành cho họ, cứ như thể chuyện họ được chữa lành là điều tất nhiên phải xẩy ra cho họ, họ xứng đáng được như thé. Có thể họ, cũng giống như phần lớn những người Israel khác thời đó, vẫn nghĩ mình là người Israel, con cháu tổ phụ Abraham, dân tộc của các lãnh tụ vĩ đại như Môisê, dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn…không như  tên Samaria kia, dân tộc ngoại giáo: “Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê” (Lc 17: 11) [1]. Họ không hiểu ra rằng qua sự chữa lành này, Chúa Giêsu đang ban cho họ một dấu hiệu, rằng Thiên Chúa giải phóng họ để họ ngợi khen, phục vụ Thiên Chúa và người khác.

Một người phong cùi quay lại: “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại…” (Lc 17:15), “liền quay lại” có nghĩa là “quay lại ngay lập tức, không chậm trễ, đắn đo, trù trừ”, và có lẽ quên cả biên bản ghi nhận mà lẽ ra ông phải xin được từ vị tư tế và trình báo cho Chúa Giêsu; thực ra ông không cần trình diện vị tư tế nào hết, vì: “Anh ta lại là người Samari” (Lc 17:16). Ông quay trở lại một cách tự do, không bị ràng buộc bởi lề luật, và giờ đây cũng không còn bị giam hãm trong cảnh bệnh tật, vui mừng khôn xiết: “và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17:15). Ông ý thức rằng Đức Kitô đã yêu ông đến độ chữa lành cho ông, và trước bằng chứng “Chúa Giêsu đã yêu thương tôi” choáng ngợp này: “Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn” (Lc 17: 16). Ông đến sấp mình dưới chân Vị Thầy Rabbi Giêsu để nói lời cảm tạ hết lòng vì ơn ban lớn lao của Thiên Chúa dành cho ông, dù ông không thuộc về dân Israel chân chính, bằng chính thân thể đã được chữa lành của ông, bằng cõi lòng bất ngờ được xoa dịu với niềm vui sướng hân hoan.

Mười người được chữa khỏi, và chỉ một người cảm ơn! Chúng ta có xu hướng thầm nghĩ rằng chín người còn lại thực sự “bất lịch sự”,…thậm chí họ hành động quá đáng! Chắc chắn chúng ta có thể nhìn câu chuyện từ góc độ này.

Hãy dừng lại một chút và nhìn vào những ân sủng mà chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa,…. Chúng ta đã thực sự cảm ơn Thiên Chúa chưa? Đối với một số ân sủng chắc chắn chúng ta có tạ ơn Ngài, nhưng đối với những ân huệ khác, nhiều hơn, thì sao?

Tâm tình tạ ơn Thiên Chúa là việc rất quan trọng: Món quà đẹp nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là ngự vào tâm hồn chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ; nhưng chúng ta đã đón nhận Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta có dành thời gian để cảm ơn Ngài không hay chúng ta lại lợi dụng một lần nữa đưa cho Ngài bản liệt kê các yêu cầu của mình? Lối sống và hành vi của chúng ta sau Thánh lễ là gì, có thay đổi theo yêu cầu của Thiên Chúa qua lời dạy bảo của Chúa Giêsu Kitô hay không?

Tiếp theo, chúng ta hãy xem những gì Chúa Giêsu nói với người phong cùi được chữa lành: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Dĩ nhiên, đó là một lời mời gọi hãy trở lại con đường tuân giữ lề luật đạo đức, nhưng trên hết, đó là một lời mời gọi trở lại con đường sống với Thiên Chúa thường ngày. Thật vậy, nói lời cảm ơn vào lúc nhận lãnh ơn ban là một chuyện, tuy nhiên điều đó không giá trị gì cả, nếu không có sự hoán cải trong cuộc sống sau đó. Do đó, chúng ta hãy tự hỏi mình: tôi đã làm gì với những ân sủng nhận được? Làm thế nào để cuộc sống của tôi hôm nay như một sự đáp lại yêu thương đối với sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho tôi? Thánh Phaolô chỉ ra một cách giúp chúng ta thực hiện việc này, đối với Thiên Chúa thì: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Chúa Kitô Giêsu” (1Tx 5:16-18), còn đối với người khác thì: “Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người. Hãy coi chừng: đừng có ai lấy ác báo ác, nhưng hãy luôn luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau cũng như cho mọi người” (1Tx 5: 14-15).

Chúng ta có thực sự giống như  người phong cùi Samari được chữa lành này biết tạ ơn và tuân theo lời Chúa dạy không, hay chúng ta giống như chín người kia, nhận được ân huệ nhưng chỉ biết nghĩ đến bản thân… Câu trả lời là tùy vào sự chọn lựa và quyết tâm sống như thế nào của chúng ta, đối với Thiên Chúa và đối với người chung quanh! mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

---------------------------------------
[*] Và đã có lần những người Samaria này hành xử tệ bạc với thầy trò Chúa Giêsu: “Khi đã tới ngày Chúa Giêsu được rước lên trời, Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem. Ngài sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Ngài đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Ngài, vì Ngài đang đi về hướng Giêrusalem” (Lc 9: 51-53).

-------------------------------
 

TN 28-C184: HÒA LỜI CẢM TẠ

 

Lòng biết ơn là tình cảm nói lên sự trân trọng và ghi nhớ công ơn mà ai đó đã làm ơn cho mình TN 28-C184


Lòng biết ơn là tình cảm nói lên sự trân trọng và ghi nhớ công ơn mà ai đó đã làm ơn cho mình. Có thể xem lòng biết ơn như cơ sở giúp nhận ra hay thẩm định phẩm chất đạo đức của một người.

Thánh Gioan Vianey có lần kể: Ngày nào Chúa cũng sai hai thiên thần xuống trần gian ghi những lời cầu khẩn của loài người. Một vị chuyên thu nhặt lời cầu xin; còn vị kia thu nhặt những tâm tình tạ ơn.

Ngày nào cũng vậy, chiếc giỏ đựng lời cầu xin của thiên thần thứ I đầy ắp, thậm chí phải nén xuống thì những lời cầu xin mới không tràn ra. Còn chiếc giỏ đựng những tâm tình tri ân của thiên thần thứ II hầu như chẳng có gì.

Mỗi chiều hai vị đều trình các giỏ của mình lên Chúa, đều nghe Chúa phán chỉ một lời khiến các vị thuộc nằm lòng, nhưng cũng làm các vị buồn não nuột: "Con người thường chỉ biết nhận và không biết cho đi. Họ cứ xin xỏ điều này điều kia, nhưng chỉ biết thụ ơn mà không nhớ đến kẻ đã thi ân cho mình".

Hôm nay thánh Luca kể lại việc Chúa chữa mười bệnh nhân phong, nhưng chỉ có một người ngoại giáo trở lại tạ ơn Chúa. Chúa hỏi anh ta: "Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao? Còn chín người kia đâu? không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?".

Lời hỏi của Chúa như đượm buồn, như pha lẫn nỗi khao khát muốn gặp lại những kẻ mà Chúa đã ban ơn.

Chúa buồn không vì bị phụ ơn mà vì cả một số đông không hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Chúa, không hiểu được rằng, lành bệnh trên thân xác không quan trọng bằng việc được Chúa ban ơn tha thứ để chữa lành linh hồn.

Chúa khao khát muốn gặp lại họ không phải để thỏa mãn niềm vui được họ mang ơn, nhưng một khi gặp lại Đấng ban ơn cho mình, họ sẽ càng lớn lên, càng trưởng thành trong lòng tin, sự trông cậy và yêu mến mà họ dành cho Chúa, nhằm mang lại ích lợi cho họ khi họ có thể chạm đến ơn cứu độ của Chúa.

Hãy nhớ: Ơn cứu rỗi không thuộc về cả mười người, nhưng chỉ thuộc về người ngoại, kẻ đã có lòng biết ơn, đã quay lại mang theo lòng biết ơn để trình diện trước mặt Chúa. Chúa nói với người ngoại: "Lòng tin của anh đã cứu chữa anh", chứ không phải nói với cả mười người lời ấy.

Vô ơn không khiến người ban ơn thiệt thòi mà chỉ làm tâm hồn kẻ chịu ơn thêm chật hẹp. Nó cho thấy nhận thức giới hạn của người thọ ơn. Nó nói lên sự không cùng đẳng cấp với kẻ biết mang ơn. Nó cũng cho mọi người biết bộ mặt thật của người thọ ơn. Thật lòng mà nói: Vô ơn không chỉ là thái độ của một người kém văn minh mà còn kém văn hóa.

Người Mỹ, dù họ giàu đến đâu, sự phát triển của họ có đẩy đến mức độ nào, và họ có trở thành siêu cường quốc của thế giới đi nữa, đồng tiền của họ dù không có biên cương nhưng lan ra mọi ngỏ ngách của thế giới, thì trên mọi tờ bạc của họ cũng đều cho cả thế giới thấy niềm xác tín lớn lao vào Thiên Chúa: "In God We Trust - Chúng Con Tín Thác Vào Chúa"!

Tôi đã từng học thuộc lòng bài thơ: "Trời đành chịu thua", dù không còn nhớ tác giả, không còn nhớ mình đã học nó năm nào, chỉ biết là thời cấp I, nhưng nội dung bài thơ, dù nhiều chục năm đi qua đời mình, tôi vẫn không quên được: "Ngày xưa hạn hán cầu trời,Ngày nay hạn hán thì người trị ngay. Trị đêm rồi lại trị ngày, Cho tên giặc hạn biết tay của người. Vừa làm vừa thách cả Trời, Có muốn tắm mát thì mời xuống đây. Nước kia ở dưới đất này, Đào sâu vét kỹ nước đầy mương ao. Thách trời cứ hạn nữa vào, Đồng ta đủ nước hoa màu vẫn xanh. Chiều chiều nghe tiếng phát thanh, Người chăm thủy lợi Trời đành chịu thua". Tôi không thể hiểu, sao tôi lại có thể học những điều vô ơn đến vậy?!

Là Kitô hữu, trên hết mọi sự, chúng ta cần xác tín mạnh mẽ vào Thiên Chúa để sống trọn lòng biết ơn dành cho Ngài. Hãy luôn nhận thức, Chúa khao khát yêu con người, khao khát tuôn đổ ngập tràn mọi ơn cho con người, khao khát cháy bỏng được ôm ấp, được dắt dìu con người với tấm lòng rộng lượng vô biên đến mức trời không thể đo, đất không thể dò, vũ trụ không thể sánh ví. Chỉ một mình Thiên Chúa từ muôn đời cho đến muôn đời đã trót yêu con người.

Mời bạn cùng tôi cất cao lời Thánh vịnh 32, để chúng ta cùng hòa chung lòng cảm tạ Chúa:

"Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa,
kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen.
Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm,
kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.
Nào dâng Chúa một khúc tân ca,
rập tiếng hoan hô, nhã nhạc vang lừng.
Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin...
Lòng mỗi người, chính Chúa dựng nên,
 việc họ làm, Chúa thông suốt cả…
Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
hầu cứu họ khỏi tay thần chết 
và nuôi sống trong buổi cơ hàn".

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

------------------------------------
 

TN 28-C185: NHẬN BIẾT VÀ CẢM ƠN, CHỮA LÀNH VÀ CỨU ĐỘ TẠ ƠN

 

Các bài đọc và Phúc Âm hôm nay nói về nhận biết và cảm ơn hay là chữa lành và cứu độ. Bài TN 28-C185


Các bài đọc và Phúc Âm hôm nay nói về nhận biết và cảm ơn hay là chữa lành và cứu độ. Bài đọc 1 sách Các Vua (2 V 5:14-17) nói về một quan lãnh binh của vua Syria là Naaman đến cảm ơn tiên tri Elisha vì đã chữa lành bệnh cho ông. Bài Tin Mừng Luca nói về một trong 10 người bệnh phong được Chúa Giêsu chữa khỏi đã nhớ ơn và trở lại cám ơn Chúa. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nhắc nhở Timôthê hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã chịu chết và sống lại. Chúa chết và phục sinh nhắc nhở chúng ta phải biết ơn Chúa đã rửa sạch mọi tội lỗi và thêm sức mạnh cho chúng ta để đương đầu với mọi nghịch cảnh ở đời. Được ban ơn thì phải biết ơn.

QUAN NAAMAN ĐƯỢC RỬA SẠCH HAI LẦN

Tiên tri Elisha biểu Naaman tắm ở sông Jordan bảy lần thì bệnh cùi sẽ khỏi. Naaman đã nghênh ngang trả lời “Phải chăng các sông ở Damascus như sông Abana và Pharpar lại không có nước tốt hơn nước của Israel hay sao? Tại sao ta lại không thể tắm ở đó?” (2 V 5:12). Naaman có lý vì nước sông của Syria tốt hơn, mực nước lại cao hơn. Về mặt vệ sinh, nước sông Jordan không thể sánh được. Nhưng về mặt nghi lễ thì lại khác.  Tỏ ra thất vọng nhưng Naaman vẫn chờ đợi “tiên tri Elisha, người của Thiên Chúa” sẽ thực hiện một kỳ công ngoạn mục hơn. Ông không hồ nghi về lời khuyên của tiên tri Elisha. Ông đã vui vẻ làm theo lời tiên tri. Ông đã tắm ở sông Jordan và bệnh của ông đã lành. Nước sông Jordan tuy đục ngầu nhưng đã rửa sạch bệnh của Naaman. Da dẻ ông trở lại bình thường, tươi mát và tinh tuyền cách kỳ lạ gấp bội lần sự kiêu hãnh của ông về nước sông ở Syria.

Ông đã xin hai xe đất của Israel đem về Syria quê hương ông để xây một bàn thờ tôn kính Chúa Israel ở Aram. Naaman đã nhận ra quyền lực của Thiên Chúa Israel và hứa sẽ không thờ lạy chúa nào khác ngoài Chúa của Israel. Đây là bài học tuyệt vời và quan trong nhất mà Naaman đã học được. Ông là người ngoại được Chúa thương ban ơn chữa lành. Chúa thương sót ban ân phúc cho tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia, nhưng đối với dân Israel hồi xưa đó là một quan niệm khó hiểu và không thể chấp nhận được.

TRÊN ĐƯỜNG ĐI LÊN JERUSALEM

Bài Phúc Âm hôm nay đã được Luca viết thành một câu truyện kể, và bắt đầu với câu: “Trên đường đi lên Jerusalem...”. Câu này như thầm nói là cuộc khổ nạn của Chúa Giesu đang tới gần. Đây là điểm chính của toàn thể biến cố của đoạn Tin Mừng Luca (Lc 17:11-18:30). Những tài liệu này chỉ thấy trong Luca. Câu 17:11 chứng tỏ Luca đă nhìn thấy Jerusalem ở trước mặt và ông đã chỉ cho mọi người biết. Phần này sẽ kết thúc ở câu 18:30, bởi vì ở câu 18:31 Chúa Giêsu nói với nhóm 12 môn đệ: “Này đây chúng ta lên Jerusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về con người sẽ được hoàn tất” sẽ không giúp các môn đệ hiểu được ý nghĩa của cuộc hành trình; Người sẽ nói tiên tri về cuộc khổ nạn của Người lần thứ ba và là lần cuối cùng ở thị trấn thánh này.

CHỈ MỘT NGƯỜI ĐƯỢC CHỮA KHỎI TẠ ƠN CHÚA

Biến cố chữa người Samaritano (dân ngoại) khỏi bệnh phong cùi và cuộc đi lên Jerusalem của Chúa Giêsu được Luca kể lại (17:18) là một thí dụ để cho người Do Thái thời ấy biết, giống như câu chuyện người Samaritanô tốt lành (cf 10:33). Dù là người ngoại nhưng tin vào Chúa Giêsu thì cũng được ơn cứu độ (17:19). Địa thế cũng giữ một phần quan trọng trong Tin Mừng Luca, nó có thể hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa thần học.

Trong câu chuyên hôm nay, biên giới giữa Galilee và Samaria là địa danh rất phù hợp với câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người Samaritanô (c.16). Người bị phong cùi theo luật không được lại gần người bình thường, phải giữ xa một khoảng cách (c.12). Sách Lêvi (13:45-46; 5:2) cho biết họ phải sống biệt lập thành đoàn (2V 7:3) và thường tụ tập gần những giao điểm của xa lộ hay ngã ba, ngã tư đường để xin bố thí. Khi khỏi bệnh họ phải đến trình diện thầy cả tư tế (Lv 14: 2-32).

CHỮA LÀNH VÀ CỨU ĐỘ

Bài Tin Mừng hôm nay đặt ra một vấn đề khá quan trọng. Người Samaritanô, vì không phải là Do Thái nên không buộc phải giữ luật lệ Do Thái Giáo, thì có phải đi trinh diện thầy cả tư tế theo luật Do Thái không? Tại sao Chúa Giesu trách chín người kia không trở lại (c. 17-18) sau khi được chữa lành và đi trinh diện các thầy tư tế để được xác định bệnh đã hết và được xuất trại cùi?

Lời Chúa Giêsu nói với người Samaritanô trở lại: “Niềm tin của anh đã chữa anh lành” xem ra có vẻ thừa, vì tât cả 10 người đều được chữa lành cả. Nhưng thực sự câu đó có thừa không?

Bài Tin Mừng này phải được hiểu theo hai phần khác nhau. Phần đầu (cc 11-14) là câu chuyện chữa lành với những điều kiện căn bản: Tiếng cầu xin giúp đỡ và Chúa Giêsu trả lời. Chữa lành bệnh là ý định muốn và muốn khỏi bệnh thì phải vâng lời như các câu 5:12-16. Phần hai (cc 15-19) là ơn Cứu Độ cho người ngoại. Người ngoại trở lại và cầu xin Thiên Chúa, tỏ lòng biết ơn Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu nói: “Niềm tin của anh đã chữa anh lành” chắc chắn ám chỉ một số ơn huệ khác với ân huệ mà 9 người kia cũng đã được. Ân huệ “chữa lành” ở đây còn phải hiểu cao hơn nữa là “đã được cứu rỗi.”

ĐƯỢC CỨU RỖI VÌ CÓ NIỀM TIN

Bài Phúc Âm hôm nay nói về một người ngoại quốc với hai điều trái ngược nhau: là dân ngoại nhưng được ơn cứu rỗi vì có niềm tin. Người đó là người Samaritanô, không phải dân Israel nhưng đau khổ vì bị phong cùi. Ở đây, trước mặt Chúa Giesu thì chỉ có người ngoại quốc nhận được đầy đủ ơn phúc của sứ vụ chúa Giesu. Lại một lần nữa, tiên đoán của Luca rất chính xác về số phận của những người ngoại (dân ngoại quốc), người sống bên ngoài xã hội Israel, những kẻ ốm đau và tội lỗi. Câu chuyện cho chúng ta thấy trước một lịch sử vĩ đại về Công Vụ của Các Tông Đồ: Dân Israel thì ngày càng mù lòa không chấp nhận Chúa, còn dân ngoại lại hân hoan đón nhận Chúa. Chương trình của Thiên Chúa là cứu chuộc tất cả mọi người trên toàn thế giới không trừ một ai. Việc chữa lành bệnh phong cùi cho 10 người là một chủ đề có tính phổ quát ở chỗ “người ngoại quốc” là người duy nhất đã trở lại cám ơn Chúa vì được ơn chữa lành. Điều này đã được Chúa Giêsu nói rõ ràng nhiều lần rồi. Lời Cứu Độ được truyền cho những người đầu tiên nhưng họ lại không nhận thì sẽ được loan đi cho tất cả mọi người trên khắp thế giới.

Quả là khôi hài và cay đắng cho chúng ta, cho những vị lãnh đạo, vì chính dân Chúa lại chối bỏ Chúa! Lòng thương xót của Thiên Chúa đã được tỏ lộ cho tất cả mọi người, cả người biết ơn lẫn kẻ vô ơn. Chín trong số 10 người đã không trở lại cám ơn Chúa, nhưng họ vẫn được chữa lành. Lòng thương xót rộng mở ấy của Chúa vẫn đổ tràn trên những người bất nghĩa là chúng ta. Câu chuyện Naaman và ngụ ngôn 10 người phong cùi cho chúng ta bài học quí về nhận biết và cám ơn, chữa lành và cứu độ.

NHỮNG DẤU HIỆU TỎ LÒNG BIẾT ƠN

Biết ơn không phải chỉ nói lời “Cảm Ơn” là xong. Nó phải là một cảm nghiệm về sự huy hoàng và kỳ diệu của thế giới để nhận biết và ngỡ ngàng. Biết ơn là mở lớn đôi mắt để quan sát và ghi khắc trong lòng. Đâu là dấu chỉ biết ơn? Khóc thì nước mắt rồi cũng sẽ khô. Can đảm để nói lời cảm ơn, nhìn biết tặng vật và cảm nghiệm về thế giới với mọi tạo vật trên trời, dưới đất, trên núi, dưới biển, trong rừng sâu, nơi thị thành.…cộng lại như một tặng vật thật trân quí. Thay đổi không chỉ nơi người có cảm quan nội tâm, mà cả nơi ngoại cảnh, thế giới và tất cả những người chung quanh mình. Biết ơn là dấu ấn của người Kitô hữu thực sự. Những ai có lòng biết ơn thì thực sự giàu có lòng bác ái. Họ không chỉ biết họ được chúc phúc nhiều mà còn liên tục nhớ lại tất cả mọi điều tốt lành họ có đều do Thiên Chúa.

Tỏ ra biết ơn người và nói lời cảm tạ là một dấu chỉ can đảm. Nếu những người đó từ chối, vì nản chí không được khuyến khích nâng đỡ và mất cảm hứng thì chúng ta cần phải biểu lộ cho họ hiểu rằng chúng ta cũng nhận biết và tri ân họ, biết họ là ai và những điều họ đã làm. Những người có liên hệ và cộng tác với chúng ta vì biết ơn thì họ luôn luôn biết rõ những nguồn gốc của sức mạnh, đồng thời kích thich cho nó triển nở hơn lên. Một người càng có lòng biết ơn thì sức mạnh nội tâm ngày càng trở nên phong phú hơn. Một người biết ơn thì tích lũy trong tâm họ, trong ký ức họ tất cả mọi cảm nghiệm tốt mà họ có trong quá khứ như Jean Baptiste Massieu, nhà giáo dục người Pháp đã viết: “Biết ơn là ký ức của con tim”. Câu nói này hiện đã trở thành châm ngôn.

Tóm lại bài này nói về niềm tin và ơn cứu độ của Chúa Kitô biểu hiện qua cuộc hành trình lên Jerusalem với biết bao nhiêu biến cố vui buồn sầu thảm, tới thập giá trên đỉnh đồi Calvary….! Nhưng kết thúc lại tràn đầy phấn khởi và hy vọng…. Nhận biết và cảm ơn!

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

------------------------------------
 

TN 28-C186: THÓI TRỜI THÓI ĐỜI

 

Chuyện cổ tích kể rằng một hôm Thiên Chúa mở tiệc thết đãi tôi tớ Người là các nhân đức. Tất TN 28-C186


Chuyện cổ tích kể rằng một hôm Thiên Chúa mở tiệc thết đãi tôi tớ Người là các nhân đức. Tất cả đều đến và được thưởng thức một bữa thịnh soạn. Bác ái làm quản tiệc. Khiêm nhường ngồi chỗ thấp nhất. Quảng đại cắt thịt mà chẳng cần tính toán to nhỏ chi hết. Nhẫn nại ngồi ăn mà chẳng xét đến việc mình có được tiếp món sau hay không. Tin và Cậy vì đi đôi với nhau nên được xếp ngồi đồng bàn. Mọi người đều vui vẻ. Giữa bữa tiệc, nhận thấy có hai nhân đức đồng bàn không quen biết nhau, Bác ái lấy làm bỡ ngỡ, vì từ trước đến giờ vẫn nghĩ hai nhân đức ấy là một cặp và đã cố ý xếp cả hai ngồi cạnh nhau vì lý do đó. Đi xuống, Bác ái hỏi mỗi nhân đức xem đã nhận ra bạn đồng bàn chưa. Khi hai nhân đức đáp là chưa, Bác ái bèn giới thiệu: “Đây là chị Biết ơn, đây là chị Tử tế”. Cả hai mới bỡ ngỡ nhận ra nhau. Tử tế nói với Biết ơn: “Thiên hạ vẫn bảo chúng ta luôn đi với nhau như bóng với hình. Nhưng khi người ta nhận được lòng tử tế thì lại chẳng tỏ lòng biết ơn. Thực từ trước tới giờ chúng ta chưa gặp nhau có phải là đáng buồn không nhỉ?” Biết ơn đáp: “Thực đáng buồn, rất đáng buồn!”

Hồng Ân Lớn Lao
Trên đây là câu chuyện tưởng tượng. Bài Tin Mừng này là câu chuyện thực tế. Nó xảy ra khi Đức Giê-su đang tiến về Giê-ru-sa-lem để sống tuần cuối cùng của mình. Lu-ca nêu bật rằng Người đi qua Sa-ma-ri. Từ khước các quan điểm kỳ thị chủng tộc của kẻ đương thời, Người không ngần ngại băng qua tỉnh bị cư dân Giê-ru-sa-lem tuyệt thông (x. Ga 4,9). Sở dĩ có chuyện này là vì lúc Vương quốc Bắc sụp đổ và cư dân bị lưu đày năm 722, xứ Sa-ma-ri đã được quân xâm lược Át-xi-ri đem một mớ nô lệ đến ở. Nhiều dân tộc đủ nguồn gốc, từ mọi miền bị chuyển tới. Một hỗn hợp chủng tộc và tôn giáo, bị các giới chức ở Giê-ru-sa-lem xem như lũ rối đạo.

Trên mảnh đất bị nguyền rủa này, Đức Giê-su gặp những kẻ bị nguyền rủa hơn cả: những người phong hủi. Theo Kinh thánh (x. Lv 13-14), từ “phong hủi” chỉ mọi thứ bệnh về da, ghê tởm xét theo bên ngoài... chứ không nguyên chỉ bệnh phong theo nghĩa y khoa hiện đại. Kinh thánh còn coi phong cùi là hình phạt của Thiên Chúa, là hình ảnh của “tội lỗi” phá hủy con người, nên thật đáng sợ. Nhưng Đức Giê-su thì đâu có sợ. Người đã đến như sự an ủi Thiên Chúa ban cho những kẻ khổ đau bất hạnh nhất...

“Họ dừng lại đằng xa, và kêu lớn tiếng”. Ngay khi thấy một con người từ xa, thì họ có thói quen... và nghĩa vụ phải làm như vậy. Luật Mô-sê hà khắc đến thế để tránh bệnh dịch lan tràn: “Người phong cùi thì áo xống phải xé tả tơi, đầu để tóc rối, che mình đến râu mép và kêu: Nhơ, nhơ!” (Lv 13,45). Chẳng cần thêm là họ bị cấm cư ngụ trong những chỗ có người, và hoàn toàn loại khỏi các nơi thờ phượng. Đây là hạng khốn khổ nhất trong hạng khốn khổ. Một cái chết về mặt thể lý, xã hội và tôn giáo! Nhưng thay vì kêu báo động, họ lại gọi đích danh Đức Giê-su. Một sự kiện tương đối hiếm hoi trong các Tin Mừng. “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Trong tiếng A-ram, Yeshouah (Giê-su) có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Cái mà Đông phương Ki-tô giáo gọi là “lời nguyện tắt dâng Chúa Giê-su” chính là câu khẩn nài này, được không ngừng lặp lại: “Lạy Chúa Giê-su, xin thương xót chúng con... Lạy Chúa Giê-su, xin thương xót chúng con...” Lời cầu nguyện mà chúng ta cũng năng lặp lại trong Thánh lễ.

Đức Giê-su không ra tay chữa lành như thường lệ mà chỉ bảo: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Đây cũng là Lề luật (x. Lv 14, 2). Các tư tế là những người duy nhất đủ tư cách xác nhận bệnh lành. Lệnh này của Đức Giê-su thành thử đã được họ hiểu như một lời hứa chữa khỏi. Tuy nhiên ta không thể không ngạc nhiên trước vẻ cứng cỏi của Người. Thay vì cho khỏi tức thời, Người yêu cầu các kẻ khốn khổ đó hãy đi. Và này họ đang đi, luôn mang theo bệnh phong kinh khủng. Tất cả xảy ra như thể Đức Giê-su muốn thử thách lòng tin của họ. Ngôn sứ Ê-li-sa cũng đã bắt Na-a-man người Sy-ri chịu cùng thử thách ấy, khi yêu cầu ông làm một hành vi cá nhân... khiến ông đã phẫn nộ.

Đối với chúng ta hôm nay cũng thế, đức tin đôi khi là thử thách, là vượt qua đêm tối không thấy, không hiểu. Cần phải tin tưởng, dựa lời. Chúng ta xin Thiên Chúa giải thoát. Người hứa sẽ giải thoát một ngày kia. Phần chúng ta thì phải tiếp tục con đường của mình, với duy lời hứa của Người thôi.

Một lần nữa, phép lạ hoàn tất trong sự kín đáo, xa Đức Giê-su: “Trong khi đi thì họ được sạch”. Khía cạnh “giật gân”, lạ thường mà chúng ta rất sính, đã bị cố ý làm cho mờ nhạt. Cũng hãy ghi nhận tính cách tôn giáo của việc chữa lành này. Nó chẳng hề được mô tả dưới khía cạnh y khoa nhưng được trình bày như một sự “thanh tẩy”. Lời xin của các bệnh nhân gần như có tính chất phụng vụ: “Xin thương xót chúng tôi”. Còn Đức Giê-su thì yêu cầu họ “trình diện với tư tế”...

Tri Ân Ít Ỏi
Ân huệ thì như thế đó, nhưng lòng tử tế lại chẳng mấy gặp được lòng biết ơn. Chỉ duy một người trở lại “tôn vinh Thiên Chúa”! Anh ta “lớn tiếng, cao giọng” hát ca vinh quang Người, rồi “sấp mình dưới chân” ân nhân! “Sấp mình dưới chân” hay “phủ phục xuống đất”, một cử chỉ mà Ki-tô hữu thời nay chẳng mấy ai làm nữa. Chúng ta có cái bụng quá đầy, quá bự, khó rạp mình xuống sâu. Chúng ta quá tưởng rằng chỉ nhờ bản thân mình, nhờ khả năng mình, nhờ công việc mình thôi, mà mình có được những của cải mình đang đầy ứ. Bạn có bị đánh động bởi hình ảnh những người Hồi giáo hay Phật tử có khả năng gập mình làm đôi trong lúc thờ phượng đến nỗi trán chạm đất không? Một hôm nào đó, hãy thử làm vậy tại nhà, chẳng cần ai chứng kiến. Và trong tư thế kính cẩn ấy, hãy để tư tưởng mình bay xa cho đến lúc bạn phải ý thức: tôi chẳng là gì, tôi đã đón nhận tất cả... Lạy Chúa, con đang ở trước Chúa... con chỉ là hạt cát... là bụi đất trên đất bụi này.                       

Trong Kinh thánh, phủ phục xuống đất là cử điệu người ta chỉ làm trước Thiên Chúa. Ở đây, bệnh nhân được lành đã “sấp mình dưới chân Đức Giê-su”. Rõ ràng Lu-ca muốn nói Người chia sẻ vinh quang và danh dự của Thiên Chúa: một mầu nhiệm ẩn giấu đằng sau bản tính rất nhân loại của Người! Bệnh nhân đã nhận ra Thiên Chúa trong Người.

Nên anh ta sấp mình để “tạ ơn”. Ai trong chúng ta khi nói “tôi tham dự bí tích Thánh Thể” là bộc phát nghĩ rằng “tôi đi tạ ơn Thiên Chúa”? (Eucharistia = Thánh Thể = Tạ Ơn). Thánh lễ, trước hết đó là toàn thể Giáo Hội đi vào cuộc “tạ ơn” vĩ đại của Đức Giê-su khi “ra khỏi thế gian này mà về cùng Cha”. Được lòng đạo của dân tộc huấn luyện, Đức Giê-su không ngừng tạ ơn Thiên Chúa đã dựng nên thế giới bao la xinh đẹp này do lòng âu yếm, đã ban cho chúng ta muôn điều tốt đẹp (đặc biệt là sự sống và của ăn để sống), đã giải thoát chúng ta, cứu rỗi chúng ta, thông cho chúng ta sự sống đời đời... Hãy nhận chân điều này, vì chúng ta chẳng còn biết nói “cám ơn” Thiên Chúa nữa. Chúng ta buông từ lịch sự nầy về mọi chuyện, mọi nơi, do tập quán, do lề thói, tại bàn cơm, nơi cửa tiệm, trên lề đường... nhưng lại quên mất Đấng mà chúng ta phải cám ơn trên tất cả. Đó chỉ vì chúng ta suy giảm niềm tin. Đức tin là bầu khí duy nhất giúp phát sinh và phát triển lời cảm tạ.

Đấy là điều thấy được nơi bệnh nhân phong cùi duy nhất trở lại tìm gặp khuôn mặt ân nhân cứu tử. Anh lui lại để tạ ơn Người và đã được Người xác nhận đức tin! Mà anh ta lại thuộc dân Sa-ma-ri. Thành thử “tên ngoại quốc”, “tên lạc đạo”, “tên đáng khinh bỉ nhất” lại có cử chỉ tự nhiên nhất. Nhưng đối với Đức Giê-su, phép lạ của Người là một thất bại chua xót... vì không sản sinh hiệu quả như Người có quyền chờ đợi: đối với 9 trên 10 bệnh nhân, phép lạ đã chẳng phải giúp phát sinh “đức tin”, điều duy nhất đáng kể đối với Người. Và Đức Giê-su hết sức buồn bã. Cái thật sự phân biệt Ki-tô hữu với những “tín hữu” khác, đó chẳng phải là cầu nguyện, xin ơn và được nhậm lời... nhưng là biết “tạ ơn” qua Đức Ki-tô. mục lục

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây