Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô ABC Bài 1-50 Dấu Chỉ của Tình Yêu
(Thứ 6 sau lễ MMTC) --------------------------------- Năm A:
Phúc Âm: Ga 6, 51-59: "Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là lời Chúa.
Năm B:
Phúc Âm: Mc 14, 12-16. 22-26 :“Này là Mình Ta. Này là Máu Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: ‘Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?’ Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. - Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. - Ðó là lời Chúa.
Năm C:
Phúc Âm: Lc 9, 11b-17: "Tất cả đều ăn no nê".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa". Nhưng Người nói với các ông: "Các con hãy cho họ ăn đi". Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này". Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: "Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người". Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. - Ðó là lời Chúa.
Nhân ngày lễ kính Mình và Máu thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn trình bày về mối liên hệ giữa thánh lễ với cuộc đời mỗi người chúng ta. Mối liên hệ ấy được diễn tả qua hai ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất: cuộc đời chính là một thánh lễ được nối dài.
Thực vậy, có nhiều người trong chúng ta chỉ sống đạo trong nhà thờ, nhưng lại không sống đạo giữa lòng cuộc đời. Tới nhà thờ, họ là những con chiên ngoan. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, bước xuống cuộc đời, họ lại vội vã dẹp bỏ niềm tin, như cởi bỏ bộ quần áo đẹp họ mặc vào khi đi tham dự thánh lễ, cất kỹ trong tủ, để hóa kiếp trở thành một loài lang sói bằng những hành động thù oán, bất công và ghen ghét.
Họ tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc đời và trong suốt khoảng thời gian còn lại, họ quên đi mình là người Kitô hữu.
Tôi nghĩ rằng cách sống đạo chỉ hạn hẹp trong bốn bức tường nhà thờ chắc chắn sẽ không thể nào làm đẹp lòng Chúa, bởi vì chính Ngài đã muốn chúng ta phải sống đạo giữa đời. Ngài đòi hỏi chúng ta phải trở nên như men trong bột, như muối trong thức ăn, như ánh sáng trong đêm tối. Nghĩa là tình thần của Phúc âm phải thấm nhiễm vào toàn bộ cuộc sống chúng ta, rồi từ nền tảng ấy, nó dần dần cải tạo cái môi trường xã hội chúng ta đang tiếp xúc.
Khi vị Linh mục nói với chúng ta:
- Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều ấy không có nghĩa là: thánh lễ đã kết thúc khi cánh cửa nhà thờ khép lại, trái lại còn phải mở ra cho chúng ta một thánh lễ khác nữa, thánh lễ giữa lòng cuộc đời, thánh lễ của chính cuộc sống.
Điều ấy còn muốn nói lên rằng chúng ta phải kéo dài thánh lễ từ nhà thờ đến cuộc sống, phải biến cuộc đời chúng ta trở thành một thành lễ nối dài, phải thực hiện tinh thần thánh lễ trong chính môi trường và hoàn cảnh xã hội. Hay nói một cách khác: điều quan trọng không phải chỉ là phải sống đạo trong nhà thờ, mà còn phải sống đạo trong cuộc đời. Mỗi người chúng ta phải trở nên muối ướp cho xã hội khỏi ươn thối, phải trở nên men làm cho xã hội dậy lên hương thơm thánh thiện, phải trở nên ánh sáng phá tan bóng tối đang bao phủ xã hội. Và như vậy, cuộc đời chính là một thánh lễ được nối dài.
Ý tưởng thứ hai: Dưới một góc độ nào đó, Thánh lễcũng chính là cuộc đời được kết đọng lại.
Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã có quan niệm sai lạc, coi việc đi tham dự thánh lễ như đi xem một vở kịch, một cuốn phim, để rồi có thái độ hoàn toàn thụ động và dửng dưng.
Trong khi đó, thánh lễ đòi hỏi mỗi người tham dự phải có một thái độ tích cực. Chúng ta cùng dâng thánh lễ với vị Linh mục, bởi vì chúng ta cùng sống một tâm tình, cùng dâng một lễ vật là Mình và Máu thánh Đức Kitô.
Ngoài ra, lễ vật riêng tư của mỗi người còn là những lao công vất vả, những khổ đau buồn phiền, những gian nguy thử thách mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta dâng lên cùng với Mình và Máu thánh Đức Kitô, nhờ đó những hy sinh nhỏ bé và tầm thường của chúng ta sẽ có được một giá trị thiêng liêng to lớn, trở nên như một góp phần vào hy lễ thập giá, đồng thời trở nên như những sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời của chúng ta.
Như thế, dưới một góc cạnh nào đó, thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại. Chúng ta nên nhớ rằng: Thánh lễ trong nhà thờ cần phải được tiếp nối trong cuộc sống thường ngày bằng cách chấp nhận những gian khổ là như thập giá Chúa muốn chúng ta vác lấy, cũng như bằng cách thực thi những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ bằng cách dâng lên Chúa những thập giá, những hy sinh chúng ta gặp phải.
Và như vậy, có một sự pha trộn, có một sự hòa nhập, có một sự liên hệ mật thiết giữa thánh lễ được cử hành trong nhà thờ với cuộc đời chúng ta đang sống.
Mới sinh ra, cậu đã bị người ta quăng trước cửa tu viện, và đã được các tu sĩ đem về nuôi.
*****
Vốn tính hay nghịch ngợm, nên thày đầu bếp không cho cậu leo lên gác.
Nhưng vì tò mò, một ngày kia Macxilanô lén leo lên.
Cậu ngạc nhiên vô cùng, khi thấy một người khổng lồ bị treo trên thập giá.
Nghĩ rằng: Người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy, Macxilanô đã lẻn vào nhà bếp ăn cắp bánh, mang lên cho ông. Người khổng lồ đã đưa tay ra nhận bánh và mỉm cười với cậu.
Từ đó, ngày nào cậu cũng đem bánh cho Người khổng lồ ấy.
*****
Ngày kia, ông khổng lồ âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:
- Con thích nhất điều gì trên trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
- Con muốn được gặp mẹ con.
Người ấy liền nói với cậu bé:
- Con sẽ được gặp mẹ con ngay tức khắc, nếu con chấp nhận phải chết đi.
Hôm sau, các thầy đi tìm cậu khắp nơi, không thấy, bèn cùng nhau lên gác, thì thấy cậu nằm chết, như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.
*****
1- Vì yêu thương mẹ, muốn được ở bên mẹ, mà Macxilanô đã bằng lòng chịu chết.
2- Vì yêu thương con người, Đức Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống.
3- Hơn nữa, Người còn có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở mãi với con người, để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên cuộc hành trình về quê trời.
4- Người đã hứa: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
*****
Thánh thể là Bí tích Tình Yêu.
Khi mời gọi:”Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Giêsu muốn các Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban.
Khi lãnh nhận bánh Thánh Thể, người tín hữu ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu Chúa. Và như dòng suối ân tình, họ lại tuôn trào tình yêu Chúa sang cho anh em đồng loại.
Khi chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu cũng muốn chia sẻ cơm bánh cho tha nhân, chia sẻ hồng ân của Đức Kitô cho những kẻ đói nghèo, túng thiếu, không nơi nương tựa.
Chính khi nhận lãnh Thánh Thể, để rồi chia sẻ trao ban, người tín hữu lại nhận được sự sống trường sinh và niềm vui lại tràn ngập tâm hồn.
Vì thế,
- sống Bí tích Thánh Thể chính là sống yêu thương, - sống Bí tích Thánh Thể là sống cho và vì Đức Kitô, - sống Bí tích Thánh Thể là sống như Đức Kitô đã sống và đã hiến trao cách quảng đại cho tha nhân.
Người tín hữu không lãnh nhận bánh Thánh Thể để cất giữ cho riêng mình, nhưng là để biến con người mình thành lương thực nuôi dưỡng anh em.
Việc chia nhau một tấm bánh nhắc nhở chúng ta sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau.
*****
Trong thánh lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 45, Đức Thánh Cha kêu gọi:
“Chúng ta rước Mình Thánh Chúa Kitô, mà đồng thời lại sống xa lạ với những người đang đói khát, kẻ bị bóc lột, tù đày hay đau yếu được sao ?”.
*****
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con sống yêu thương là chúng con đang làm chứng rằng: Chúa chính là sức sống mãnh liệt của chúng con. Xin cho chúng con, khi lãnh nhận bánh Thánh Thể, cũng đón nhận được sức sống mới của Chúa, để chúng con ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống chúng con. Amen.
Một số anh chị em dự tòng sau khi được học hỏi về sự cao quí, về tầm quan trọng và về sự cần thiết của thánh lễ cũng như của bí tích Thánh Thể đã đưa ra câu hỏi: Nếu thánh lễ và mầu nhiệm Thánh thể cao quí và cần thiết cho đời sống thiêng liêng như vậy, thì tại sao nhiều người Công giáo lại không đi dâng lễ, hay nếu có đi thì lại ngồi ở ngoài hút thuốc, nói chuyện, chơi giỡn và hầu như không bao giờ rước Mình Thánh Chúa?
Một câu hỏi quả là gây nhức nhối và rất đáng để những người mang danh là Kitô hữu phải suy nghĩ. Có lẽ ta khó có thể tìm được một lý do nào chính đáng để trả lời cho thắc mắc này ngoài việc nhận thực rằng ; do yếu kém về giáo lý, do thiếu hiểu biết về Chúa, về những gì Người đã dạy và đã làm, do thiếu ý thức về những sự thánh thiêng, do thiếu trưởng thành trong đời sống đạo nên mới xảy ra những trường hợp như vậy. Vì những cái thiếu kể trên nên nhiều người đã không thấy được sự cao quí và tầm quan trọng của việc dâng lễ và việc rước Thánh Thể. Những người này coi việc đi dâng lễ ngày Chúa nhật chỉ là một khoản luật phải giữ để khỏi có tội, để khỏi bị phạt mà thôi. Họ không ý thức rằng thánh lễ và Thánh thể là những điểm hẹn để họ gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Họ cũng không biết rằng đây là cơ hội rất quí báu để có thể kín múc lấy nguồn sự sống, nguồn ân sủng cần thiết cho cuộc đời.
Thánh lễ và bí tích Thánh Thể không do Hội thánh, không do bất cứ ai bịa đặt ra, nhưng là do chính Chúa Kitô thiết lập. Thánh lễ ngày nay tái diễn và làm sống lại thánh lễ Chúa Kitô đã dâng khi xưa trên thánh giá để tiếp tục chuyển thông ơn cứu rỗi cho mọi người, mọi thời và mọi nơi. Và Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn ta trong hành trình làm người, cũng là hành trình đi về quê hương trên trời. Chúa Giêsu đã nói đi nói lại nhiều lần:”Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì sẽ được sống đời đời”. Ngay cả khi Người biết rõ ràng rằng: Nếu Người nói ra những điều ấy, người ta sẽ không tin, sẽ nhạo cười và sẽ bỏ đi, Người vẫn cứ nói. Điều đó cho thấy vấn đề Chúa Giêsu nói ra quan trọng và cần thiết như thế nào.
Con người không chỉ có thân xác nhưng còn có linh hồn. Và mục đích của đời sống làm người không chỉ là sự no đủ cơm áo phần xác mà còn là sự no đủ của đời sống tâm linh nữa:”Người ta sống không chỉ bởi bánh”.
Thiết tưởng mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây đều có dư khả năng để nhận thức điều này. Vấn đề còn lại là thái độ của chúng ta đối với thánh lễ và Thánh Thể như thế nào mà thôi.
Hai người lính vào một Giáo đường, họ đứng giữa cộng đoàn đang sốt sắng cầu nguyện, người lính lớn tiếng đe dọa:
Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn chết tại chỗ. Ai bỏ đạo thì đứng sang bên phải và được thả về, những người còn lại chuẩn bị để chết vì niềm tin của mình.
Nhưng trong bầu khí hoàn toàn tin tưởng, không một ai rời khỏi vị trí mình đang cầu nguyện.
Trước bầu khí thinh lặng và thánh thiêng ấy, hai người lính kia thả súng xuống và nói:
Chúng tôi là những người Kitô, sở dĩ chúng tôi đã hành sử như vừa rồi là vì chúng tôi muốn thử xem có ai là người sẵn sàng chết cho niềm tin của mình không? Và chỉ những người như thế mới đáng được về.
Bài Phúc âm của Chúa nhật lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa tra vấn các người Kitô, mỗi người chúng ta có quyết liệt đến mức sẵn sàng chết về điều mình tin chăng?
Toàn bộ chương VI của Phúc âm thánh Gioan đặt các môn đệ trước thái độ quyết liệt này, các ông đã được thấy Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều, rồi đi trên mặt nước và trong nháy mắt thuyền đã cập bến không cần chèo chống. Rồi cuối bài giảng tại hội đường Capharnaum, ở đó Chúa Giêsu xưng mình là Bánh Hằng Sống. Bài Phúc âm hôm nay rút từ bài diễn văn của Chúa tại hội đường Capharnaum:”Ta là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời và bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây để cho thế gian được sống”.
Sau bài Tin mừng, tác giả cho biết nhiều môn đệ của Chúa Giêsu không ngần ngại nói trắng ra điều họ nghĩ:”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”. Kết quả là nhiều môn đệ rút lui không còn tin vào Chúa Giêsu nữa, không còn đồng hành chung với Ngài nữa. Đó là lúc chính Chúa Giêsu đã muốn nhóm mười hai phải xác định rõ lập trường về niềm tin của mình:”Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Chúng ta biết, một bên là Phêrô đã tuyên xưng thay cho các tông đồ:”Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Và bên kia là Giuđa Iscariô không những bỏ Thầy mà còn phản Thầy nữa.
Chúng ta có còn tin tưởng vững vàng vào lời Chúa phán hay không ?
Một hôm, người ta hỏi một em bé chín tuổi mới được rước lễ lần đầu:”Đâu là sự khác biệt giữa cây thánh giá và Mình Thánh Chúa?”. Em bé ấy đã trả lời rất hay và rất đúng rằng:”Trên cây thánh giá, người ta thấy Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không có ở đó. Còn trong bánh Thánh, người ta không thấy Ngài, nhưng Ngài ở trong đó”.
Đúng vậy, về phép Thánh Thể người ta không thể nhìn bằng con mắt xác thịt, mà chỉ có thể nhìn bằng con mắt đức tin, bởi vì đây là một mầu nhiệm đức tin, nhưng đây cũng là một mầu nhiệm của tình yêu thương. Chúng ta hãy tìm hiểu nhân ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hôm nay. Trong bữa tiệc ly, bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa đã làm một việc rất quan trọng, đó là biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài, đồng thời Chúa truyền cho các môn đệ hãy làm như vậy để tưởng nhớ đến Ngài. Như vậy, bữa tiệc ly này đã trở thành thánh lễ đầu tiên do chính Chúa Giêsu, là linh mục tối cao, cử hành, và việc biến bánh rượu trở nên Mình Máu Ngài là bí tích Thánh Thể do Chúa thiết lập và Chúa muốn sự kiện cao quí này, tức là thánh lễ, được tiếp diễn luôn mãi qua các môn đệ của Ngài.
Vì thế, trong thánh lễ, khi linh mục lặp lại những lời của Chúa Giêsu:”Này là Mình Thầy”, này là chén Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây là một chân lý cao siêu, vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm một tấm bánh chưa truyền phép và một hình bánh đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau, hay là có đưa vào phòng thí nghiệm để phân chất, chúng ta vẫn thấy như thường về phẩm chất, khối lượng và hình thức. Tuy nhiên, theo đức tin, thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, một đàng là tấm bánh nhỏ bé, tầm thường. Chính vì thế, sau truyền phép, linh mục lớn tiếng công bố: Đây là màu nhiệm đức tin.
Đúng vậy, Thánh thể là một bí tích đức tin. Nhưng cũng còn là bí tính tình yêu. Tại sao vậy ? Thánh Gioan tông đồ đã viết: Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Chúa Giêsu ở đây là việc lập phép Thánh Thể, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa Ngài với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.
Sau hết, Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ. Chúng ta biết: Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ để các môn đệ làm mà nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho nhau tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Bí tích Thánh thể cao quí biết bao và đem lại ơn ích biết bao nhiêu. Thế mà nhiều người vẫn còn thờ ơ hoặc chưa yêu mến cho thật đầy đủ. Được bao nhiêu người rước lễ, có người chỉ rước lễ một năm một lần. Nhiều người rước lễ không nên, hoặc không chuẩn bị đầy đủ hoặc không cám ơn đàng hoàng. Đến nhà thờ là gặp Chúa, tâm sự với Chúa, thế mà có những thái độ bất kính: nói chuyện riêng, có những cử chỉ bất kính. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và cố gắng sống tốt đẹp hơn.
Là con người, chúng ta không thể chỉ sống bằng cơm bánh. Chúng ta còn phải chịu đựng nhiều kiểu đói khát. Chúng ta hãy mở Tin mừng, để hiểu về những loại tấm bánh khác nhau, mà Đức Giêsu đã ban cho nhân loại, từ đó, Người đang làm thỏa mãn nhiều khao khát của họ.
Đối với những người đã đi theo Chúa vào sa mạc, và những người đang đói khát, Người đã ban cho họ bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã làm thỏa mãn được cơn đói về thể lý của họ.
Đối với những người phong cùi mà thân thể đang bị héo mòn, Người đã ban cho họ tấm bánh duy nhất có ý nghĩa quan trọng đối với họ – đó là được chữa lành bệnh tật.
Đối với người phụ nữ đang ở một mình tại giếng Giacóp, Người đã ban cho bà tấm bánh của lòng ân cần tử tế, và do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được chấp nhận.
Đối với những người tội lỗi, Người đã ban cho họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cứu độ.
Đối với những người bị khước từ và ruồng bỏ, bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ. Người đã ban cho họ tấm bánh của tình thân hữu, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cảm thấy mình có giá trị.
Đối với người góa phụ thành Naim, một người đã chôn cất đứa con trai duy nhất, và đối với Marta và Maria, là những người chị vừa mới chôn cất em trai họ là Lagiarô, Người đã ban cho họ tấm bánh của lòng thương xót, và đã chứng tỏ cho họ thấy rằng ngay cả trong cái chết, chúng ta vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp. Đối với Giakêu, một người thu thuế giàu có, đã tước đoạt bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã bắt đầu bằng cách tự để cho Người được mời vào bàn ăn của ông ta. Sau đó, Người đã đánh thức nơi ông ta một niềm khao khát được có một đời sống tốt đẹp hơn, Người đã giúp ông ta biết chia sẻ cho người nghèo tiền bạc bất chính của mình.
Đối với kẻ trộm chết bên cạnh mình, Người đã ban cho anh ta tấm bánh của sự hòa giải với Thiên Chúa, do đó, Người đã ban lại bình an cho tâm hồn bị bối rối của anh ta. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, có một người lại khước từ tấm bánh Đức Giêsu ban.
Có một thanh niên giàu có, được Người ban cho tấm bánh của đời sống ngay chính, nhưng đã từ chối, vì anh ta không muốn từ bỏ những của cải của mình.
Có những ký lục và Pharisêu được Người ban cho không chỉ một lần, mà nhiều lần, tấm bánh của sự hoán cải, nhưng họ đã từ chối dù chỉ một mẫu bánh.
Có những người dân thành Giêrusalem mà Người yêu dấu, trong những dòng nước mắt, Người đã ban cho tấm bánh của sự bình an, nhưng họ đã từ chối, và hậu quả là thành phố của họ bị phá hủy.
Có một ông quan Philatô, mà Người ban cho tấm bánh của sự thật, nhưng ông ta không hề thèm khát muốn ăn, vì nó đặt địa vị của ông ta vào tình trạng rủi ro. Đức Giêsu đã chia sẻ chính Người cho mọi người, bằng nhiều cách thức khác nhau, và dưới nhiều hình thức khác nhau, trước khi ban cho họ bản thân mình như là thức ăn và nước uống, trong bữa Tiệc Ly.
Đức Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng rất nhiều cách đặc biệt trong Phép Thánh Thể. Chỉ khi nào chúng ta đánh mất ý nghĩa sự hiện diện của Đức Kitô trong tất cả mọi mặt, thì sự hiện diện của Người trong Phép thánh Thể trở nên một vấn đề. Những người có ý thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa trong toàn bộ tạo vật, thì sẽ không gặp khó khăn gì lớn, trong việc tin tưởng rằng Người đang hiện diện bằng một cách thức rất đặc biệt trong Phép Thánh Thể.
Chỉ duy nhất Thiên Chúa là Đấng thỏa mãn được những khao khát và mong mỏi của tâm hồn chúng ta, vì chỉ một mình Người có thể ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời. Đây là tấm bánh mà chúng ta được đón nhận trong Phép Thánh Thể. Nếu không có tấm bánh đó, chúng ta sẽ không có sức mạnh để đi theo Đức Kitô.
Trong suốt những năm từ 1984 đến 1986, Ethiopie đã phải chịu đựng một nạn đói khủng khiếp. Đức Hồng y Hume ở Westminster kể lại một sự kiện đã xảy ra, khi ngài thăm viếng Ethiopie giữa thời kỳ nạn đói. Một trong những nơi mà ngài thăm viếng là một trại định cư nằm trên các sườn đồi, tại đó, dân chúng đang chờ đợi thực phẩm không chắc sẽ được gửi tới. Đức Hồng Y đã được chở đến đó bằng trực thăng.Ngay khi ngài vừa mới bước ra khỏi trực thăng, thì có một bé trai, khoảng độ 10 tuổi, chạy đến và nắm bàn tay của ngài. Cháu bé không mặc quần áo gì cả, chỉ đóng một cái khố nhỏ mà thôi. Suốt thời gian mà Đức Hồng Y có mặt ở đó, cháu bé này không hề buông tay mình ra khỏi bàn tay của ngài.
Trong khi Đức Hồng y và bé trai này đi bên nhau, cháu bé có hai cử chỉ: cháu dùng một bàn tay chỉ vào miệng của mình, còn bàn tay kia vẫn nắm chặt bàn tay Đức Hồng Y, và ép sát bàn tay ngài lên má của mình.
Sau này, Đức Hồng Y đã nói:”Đây là một đứa trẻ mồ côi, đã bị mất hết cha mẹ vì nạn đói. Tuy nhiên, bằng hai cử chỉ đơn giản đó, cháu bé đã chứng tỏ hai nhu cầu đói khát căn bản của con người. Bằng cử chỉ đầu tiên, cháu bé đã cho tôi thấy cơn đói ăn của mình, và bằng cử chỉ kia, cháu đã nói lên nhu cầu được yêu thương.Không bao giờ tôi quên được sự kiện đó, và cho đến hôm nay, tôi vẫn thắc mắc không biết cháu bé đó còn sống không. Tôi còn nhớ là khi bước lên trực thăng, cháu cứ đứng nhìn tôi bằng một cái nhìn đầy trách móc”.
------------------------------
Bài đọc hôm nay (Năm A: Sách Dệ Nhị Luật 8,2-3.14b-16a) nói:”Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra”. Đức Giêsu đã trích dẫn những lời này, trong khi Người bị cám dỗ ở trong sa mạc.
Chúng ta cần có cơm bánh hàng ngày. Đó là nhu cầu đầu tiên và cơ bản nhất của con người. Nhưng chúng ta còn cần nhiều hơn thế nữa. Cơm bánh chỉ nuôi dưỡng chúng ta phân nửa mà thôi – đó là về mặt thể lý. Nhưng chúng ta còn có mặt tinh thần nữa. Tinh thần cũng kêu gào đòi được nuôi dưỡng. Ngay cả đứa trẻ đang chết đói trên đây cũng đã nhận ra điều đó. Trong Phép Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng bằng lương thực là lời của Thiên Chúa, lời hằng sống có tác động an ủi, hướng dẫn, truyền cảm hứng, và thử thách chúng ta. Và trong sự hiệp thông Thần Thánh, chúng ta được nuôi dưỡng bằng lương thực là sự sống đời đời.Trong bữa tiệc Thánh Thể, chúng ta có lương thực nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn và tinh thần của mình. Ở đây, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện kéo dài của Đức Kitô với chúng ta. Người không hiện diện với tư cách như là một ký ức mơ hồ của một con người đã sống từ trước đây rất lâu, nhưng là một sự hiện diện đích thực, ban sự sống làm biến đổi chúng ta. Bằng cách đón nhận lương thực là Phép Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng, và giống như Đức Kitô, chúng ta cũng có khả năng nuôi dưỡng cả những người khác nữa.
Một người đến gặp linh mục và muốn khôi hài một chút về niềm tin của mình, nên anh hỏi:”Làm thế nào mà bánh và rượu trở nên thịt và máu Chúa Giêsu được?”
- Chẳng khó gì. Chính anh cũng biến đổi thức ăn thành thịt và máu. Tại sao Chúa Giêsu lại không làm được điều tương tự như vậy?
Chưa chịu thua, anh hỏi: “Bằng cách nào mà Chúa Giêsu ngự trọn vẹn trong tấm bánh nhỏ như vậy?”
- Cũng tương tự, quang cảnh bao la ở trước con mắt nhỏ bé của bạn.
Nhưng anh vẫn cố chấp:”Làm sao Chúa Giêsu có thể hiện diện ở tất cả các nhà thờ cùng một lúc?”
Linh mục cầm chiếc gương, đập bể nát, rồi cho anh nhìn vào và nói: “Chỉ có một mình anh nhưng bây giờ anh có thể nhìn thấy mặt mình được phản chiếu trong mỗi mảnh gương vỡ này cùng một lúc”.
Đức Giêsu là một thứ Bánh có thể thỏa mãn mọi cơn đói của loài người:
- Với những người theo Ngài trong sa mạc đã ba ngày và đang đói, Ngài đã cho họ bánh tự nhiên thỏa mãn cơn đói thể xác của họ.
- Với người cùi bị mọi người ghê tởm lánh xa, Ngài đã cho bánh chữa lành cơn bệnh.
- Với người phụ nữ nhiều chồng bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã cho chị thứ bánh nhân ái làm thỏa mãn cơn đói muốn được chấp nhận. - Với những người tội lỗi, Ngài ban bánh thứ tha.
- Với những người bị xã hội ruồng bỏ, Ngài cùng ăn với họ và ban cho họ bánh cảm thông để thỏa mãn cơn đói muốn được người ta nhìn nhận phẩm giá của mình.
- Với người mẹ Naim đang đi chôn đứa con độc nhất của mình, và với Matta, Maria đang khóc vì Ladarô vừa mới chết, Ngài ban bánh sự sống cho người thân của họ sống lại.
- Với người thu thuế Giakêu bấy lâu nay đã quen ăn cắp phần bánh của người nghèo, Ngài đến nhà và ăn cùng bàn với ông, Ngài ban cho ông bánh một đời sống mới tốt đẹp hơn.
- Với tên trộm bên phải thập giá Ngài, Ngài ban cho hắn bánh hòa giải và một chỗ trên bàn tiệc thiên quốc.
Tuy nhiên, cũng có những người không rộng tay đón nhận bánh của Ngài:
- Đó là người thanh niên giàu có đã buồn bã bỏ đi khi Ngài khuyên anh từ bỏ tài sản.
- Đó là những người biệt phái và luật sĩ nhiều lần cố tình không muốn hiểu Tin mừng của Ngài.
- Đó là dân thành Giêrusalem đã khiến Ngài phải khóc vì họ không đón nhận bình an Ngài mang tới.
- Và đó là Philatô đã mỉa mai khi Ngài xưng mình là chứng nhân của sự thật.
1. Những câu nói của Đức Giê-su như: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống", "Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống" có ý nghĩa gì?
2. Bản thân Đức Giê-su có thể ví như chiếc bánh bị ăn không? Tại sao?
3. "Ăn thịt uống máu" Đức Giê-su là gì? Cụ thể là gì?
SUY NIỆM
1. "Bánh hằng sống từ trời xuống" ở đây nghĩa là gì?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tuyên bố: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Chúng ta cần phải hiểu câu nói đó theo nghĩa nào? Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là nghĩa vật chất được.
Viết tới đây tôi nghĩ tới Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký: nhiều yêu tinh quyết bắt ông cho bằng được để ăn thịt, vì tin rằng cứ ăn thịt ông thì sẽ trường sinh hay trường thọ. Chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta tin được rằng thịt của Đức Giê-su (hiểu theo nghĩa vật chất) là một thứ thuốc hễ ăn vào thì được sống đời đời theo kiểu các yêu tinh tin vào thịt của Đường Tam Tạng.
Cũng khó mà hiểu được một cách thuần túy rằng Thịt đem lại sự sống đời đời ở đây chỉ là bánh Thánh Thể mà người ta vẫn nhận lãnh khi rước lễ. Vì quả thật không thể tin được là tất cả những ai lên rước lễ dù là hằng ngày thì sẽ được sống đời đời mà không cần một thái độ nội tâm nào (xin nhấn mạnh những chữ viết nghiêng này). Nếu thế thì muốn được sống đời đời quả thật quá dễ dàng! Và nếu thế thì bánh Thánh Thể quả là một thứ phù phép hay bùa chú vượt trên mọi thứ phù phép trong mọi tôn giáo! Những phù phép trong các tôn giáo nhiều lắm thì hứa hẹn một cái gì tạm thời chóng qua, chứ không hứa hạn một quyền lợi vô cùng to lớn mang tính đời đời, mà người thụ hưởng chỉ bị đòi hỏi làm một việc mang tính vật lý quá đơn giản!
Theo tôi nghĩ, chính thái độ nội tâm của ta mới là yếu tố quyết định về phía ta để Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho ta hay không. Vì thế, việc ăn thịt và uống máu Đức Giê-su là một thái độ hay hành vi nội tâm hơn là thể lý! Không có thái độ hay hành vi nội tâm ấy, thì có rước lễ hằng ngày suốt đời cũng chẳng thể có sự sống đời đời. Thật vậy, có ai dám bảo đảm rằng những người rước lễ hằng ngày thì chắc chắn có sự sống đời đời chăng? Riêng tôi, tôi tin tưởng chắc chắn 100% rằng những ai có thái độ nội tâm giống như Đức Giê-su thì tất nhiên sẽ được Ngài ban sự sống đời đời.
Thiết tưởng, câu nói của Đức Giê-su đang được bàn tới cần hiểu theo nghĩa tâm linh, huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vì nói chung, trong bất kỳ tôn giáo nào, những câu Kinh Thánh có ý nghĩa quan trọng thường được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn theo nghĩa đen. Vả lại, chính Đức Giê-su đã từng dùng từ "lương thực" hay "thức ăn" theo nghĩa tâm linh: ""Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" Đức Giê-su nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"" (Ga 32-34). Thiết tưởng chữ "bánh", "của ăn", "của uống" trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nên hiểu theo nghĩa ấy.
2. Cuộc đời và bản thân Đức Giê-su là một "chiếc bánh bị ăn"
Một trong những đặc tính căn bản nhất của đồ ăn là nó không hiện hữu vì ích lợi của nó, mà hoàn toàn vì ích lợi của người ăn nó. Nói cách khác, đặc tính căn bản của đồ ăn là hoàn toàn vị tha, không vương một chút vị kỷ nào. Đức Giê-su cũng hiện hữu và sống hoàn toàn vì Chúa Cha và vì loài người, không hề vì bản thân mình chút nào. Ngài từng nói: "Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi" (Ga 6,38); "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).
Cả cuộc đời Đức Giê-su, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, từng hành động, ta thấy Ngài hoàn toàn vị tha, nghĩa là sống vì Chúa Cha và vì nhân loại. Không một hành vi nào chứng tỏ Ngài vị kỷ cả. Cụ thể và hùng hồn nhất là cuộc tử nạn hết sức thê thảm của Ngài: đau khổ đến tận cùng và chết thê thảm không vì ích lợi gì cho mình, mà hoàn toàn vì yêu thương Chúa Cha và nhân loại.
Hãy nghe Ngài cầu nguyện hai lần với Chúa Cha trước khi chịu tử nạn: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39; x. 26,42). Sự vị tha ấy đã có từ nguyên thủy khi Ngôi Hai xuống thế: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2,6-8).
Như vậy, cả cuộc đời Ngài là một cái "bánh bị ăn", nhờ thế Thiên Chúa được vinh danh. Con người cũng nhờ thế mà "được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10), được phục hồi lại sự sống đời đời đã bị mất vì tội nguyên tổ.
3. "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời"
Đức Giê-su nói: "Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống". Điều ấy chắc chắn là sự thật, nhưng phải hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vấn đề còn lại là "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su để "được sống muôn đời" là gì? Muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su thì phải làm gì?
Khi tôi ăn hay uống một thức gì, thì thức ấy được tiêu hóa để trở thành thịt và máu tôi, thành các tế bào của tôi. Thức ấy mà bổ dưỡng hoặc có tính chữa bệnh thì tôi trở nên mạnh khỏe, và bệnh tôi được chữa lành. Nếu tôi ăn hay uống những thức độc hại, thì chất độc ấy cũng trở nên những tế bào độc hại trong thân thể tôi và làm cơ thể tôi suy yếu. Chắc chắn rằng tất cả các tế bào hiện nay của tôi sau mấy chục năm sống ở đời đều hoàn toàn được cấu tạo từ những thức tôi ăn hay uống vào từ bên ngoài. Chính nhờ thức ăn và thức uống mà tôi sống được. Nhưng tôi sống mạnh khỏe hay bệnh tật tùy thuộc vào thức ăn thức uống tôi đưa vào cớ thể, và cũng tùy thuộc cách thức tôi ăn uống nữa. Thức ăn hay thức uống tôi ăn vào từ từ thay thế những tế bào cũ bằng những tế bào mới trong thân thể tôi. Vì thế, nhiều thầy thuốc hay nhà sinh vật học chủ trương người ta có thể cải tạo lại sức khỏe bằng cách thay đổi đồ ăn thức uống và cả cách ăn uống nữa.
Từ thực tế trên, ta có thể hiểu được cách thức "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su. Đức Giê-su là Ngôi Lời, nên bản chất của Ngài là "Lời". Lời của Ngài cũng chính là của ăn thức uống. Đời sống và bản thân của Ngài cũng là của ăn thức uống như đã nói ở phần trên.
Ăn uống Ngài chính là dùng lời của Ngài, dùng gương mẫu đời sống Ngài, để suy niệm, thực hành, bắt chước hầu thay thế dần dần "chất của ta" bằng "chất của Ngài", nghĩa là ta càng ngày càng trở nên "có chất Giê-su" hơn trong quan niệm, tư tưởng, lời nói, và hành động của ta.
Nếu mỗi ngày ta thay thế 1% hay 1‰ "chất tôi" thành "chất Ngài" - ít hay nhiều tùy sự cố gắng hay quyết định của ta - thì chỉ một thời gian sau "chất tôi" đầy ích kỷ, tham lam, ghen ghét sẽ giảm đi, và "chất Ngài" đầy vị tha, đầy tình yêu sẽ tăng lên. Và tới một lúc nào đó, "chất Ngài" ở trong tôi trở thành viên mãn, nghĩa là đạt tới mức 100% (Đương nhiên thực tế không đơn sơ như vậy).
Lúc ấy tôi có thể nói như Phao-lô: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 10,20). Lúc ấy, một cách nào đấy, tôi không còn là tôi mà là Đức Ki-tô. Điều đó không có nghĩa là tôi bị vong thân, mà tôi trở nên một cái tôi hoàn hảo nhất, đúng với ước muốn sâu xa nhất của tôi là nên một con người hoàn hảo. Chính lúc ấy tôi mới tìm lại được bản thân tôi một cách trọn vẹn nhất. Đấy là cách "ăn thịt uống máu" Ngài - mà tôi nghĩ theo thiển ý mình - là hợp lý và ý nghĩa nhất. Và đó cũng là cách bảo đảm nhất để có sự sống đời đời.
Vậy thiết tưởng, mỗi khi dâng thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thể, tức là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách bí tích, ta cần có một thái độ hay hành vi nội tâm tương xứng là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách huyền nhiệm hay tâm linh như đã nói trên. Có sự phối hợp bên trong lẫn bên ngoài như thế, việc lãnh nhận Thánh Thể sẽ đem lại cho ta sự sống và sức mạnh tâm linh bội phần.
4. Hãy trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giê-su
Như vậy, "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế "chất tôi" thành "chất Ngài", biến "tôi" thành "Ngài". Nói cách khác, đó là trở nên giống Đức Giê-su hoàn toàn. Giống Đức Giê-su là giống Thiên Chúa, mà "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha, không một chút vị kỷ. Vì thế, giống Đức Giê-su là biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu vị tha, nghĩa là sẵn sàng trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giê-su (theo cách nói của cha Antoine Chevrier, tu hội Prado). "Bị ăn" bởi những người chung quanh ta, nhất là những người gần gũi ta nhất (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn bè ta). Sống như thế, hay ít nhất là cố gắng hết sức để sống như thế, chính là "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su, và như thế thì chắc chắn ta sẽ được sự sống đời đời.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su bằng cách mỗi ngày nhìn vào đời sống của Ngài để biến một phần rất nhỏ "chất tôi" trong con thành "chất Giê-su". Nếu mỗi ngày con chỉ biến 1‰ (một phần ngàn) "chất tôi" thành "chất Giê-su" một cách thật nghiêm túc và thành công, thì trên nguyên tắc chỉ 1.000 ngày sau - tức khoảng 3 năm - con đã được biến đổi hoàn toàn nên giống Đức Giê-su. Đó là tính theo kiểu toán học, thực tế không đơn sơ, dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Xin cho con biết "ăn thịt và uống máu" Ngài theo kiểu ấy, để nhờ đó con có sự sống đời đời.
Giáo Hội hôm nay trên toàn thế giới, hân hoan mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.Trong niềm vui được làm con cái Chúa, toàn thể dân Chúa quì gối, phủ phục trước một bí tích vô cùng cao cả: BÍ TÍCH MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ. Đây là bí tích lớn lao đã làm cho tất cả mọi người phải suy phục, tôn kính vì chính Đức Kitô đã hiến thân chịu chết để cho con người được sống và sống dồi dào. Đi vào thánh lễ giờ đây là mục đích chính của chúng ta.
I. ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐÃ LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể vào chiều thứ NămTuần thánh. Biến cố chết của Chúa không chỉ có ý nghĩa cứu chuộc một lần rồi hết, nhưng ngang qua biến cố tử nạn của Ngài, Đức Giêsu Kitô đã để lại cho các môn đệ và toàn nhân loại một bí tích cao cả, quí hóa hơn hết mọi sự: Chính Ngài đã cho nhân loại ăn thịt và uống máu của Ngài.
Soi chiếu lại biến cố ấy, bài Thứ Luật hôm nay gợi lại cảnh tượng trong sa mạc mà sách Xuất Hành đã đề cập tới: Dân Do Thái đi trong sa mạc tiến về đất hứa, kêu trách Môsê đưa họ đi, bỏ họ chết đói, chết khát. Môsê đã kêu cầu Chúa, Chúa đã tiếp cứu dân bằng cách nhậm lời Môsê kêu xin. Chúa cho Manna rơi từ trời xuống nhiều vô kể trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của dân, họ kêu lên "Manhu"có nghĩa là cái gì vậy ? Môsê đã cắt nghĩa cho dân, đây là bánh Manna Chúa cho từ trời rơi xuống để nuôi sống dân và Ngài đã truyền cho Môsê giơ cao cây gậy, đập vào đá tảng, nước vọt chảy ra để cho dân có nước mà uống. Dân chúng đã ăn uống no nê ròng rã nhiều năm đi trong sa mạc.
Gợi lại hình ảnh ấy,sách Thứ Luật mượn lời của Môsê nói với dân, mặc dầu Thiên Chúa đã nuôi dân bằng chính lương thực Manna, chim cút và nước, nhưng điều chính yếu không sống nguyên bởi bánh mà còn bởi lời Thiên Chúa. Thiên chúa đòi hỏi nơi con người sự tín thác, lòng cậy trông bền chặt. Hình ảnh Mannna, chim cút và nước uống là tiên trưng cho phép bí tích Chúa Giêsu sẽ lập sau này trong thời Tân Ước.
Chúa Giêsu đã lập nên bí tích tình yêu, bí tích lớn lao , cao quí khiến nó có sức mạnh nuôi sống con người về mặt linh thiêng và cả về phần xác nữa. Chúa Giêsu, ngày thứ Năm Tuần thánh đã tụ họp các môn đệ lại và trong khi dùng bữa với họ, Ngài đã lập bí tích thánh thể cho con người muôn thời được hưởng nhờ. Công bố bữa tiệc ly cuối cùng, Chúa Giêsu đã để lại bí tích thánh thể: Đang lúc họ ăn, thì Đức Giêsu cầm lấy bánh và chúc tụng, rồi bẻ ra,ban cho họ, ngài nói:" Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta .(cũng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối ), Ngài cầm lấy chén và tạ ơn, Ngài ban cho họ và nói rằng:" Hãy uống chén này hết thảy. Vì này là máu Ta, máu giao ước đổ ra vì nhiều người để nên ơn tha tội . Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta " ( Mt 26, 26-29; Mc 14, 22-25; Lc 22, 19-22 ).Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một bí tích lớn lao khiến mọi người được thừa hưởng chính Mình và Máu thánh Chúa. Đó là hồng ân, là niềm tin mà mọi người Kitô hữu đều phải tuyên xưng.
Thánh Phaolô cũng minh chứng về bí tích Chúa Giêsu đã lập ra, Ngài nói: " Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp, Ngài đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra và nói:Này là Mình Ta vì các ngươi,hãy làm sự này mà nhớ đến Ta. Cũng vậy về chén, sau khi đã dùng bữa ăn tối xong, Ngài nói:chén này là Giao Ước mới trong máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống, mà nhớ đến Ta. Vì mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa, cho tới lúc Ngài đến "( 1co 11, 23-26 ). Thánh Phaolô gọi là sự hiệp thông, vì mọi người đều thông hiệp vào một bánh và một chén rượu là máu Đức Giêsu Kitô.
II. PHÉP MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ ĐỐI VỚI CHÚNG TA:
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta cùng hiệp thông vào một bánh và một chén máu Chúa. Đó là sự thông hiệp kỳ diệu trong tình thương của Chúa. Bí tích Chúa lập ra là bí tích tình thương, vì tình thương con người được liên kết trong một thân thể của Chúa. Niềm tin mà con người được thông hiệp và được liên kết là niềm tin vào chính Đức Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh. Mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa có ý nghĩa làm cho con người được hòa hợp, liên kết trong tình yêu của Chúa.
Đức Giêsu Kitô đã nối kết mọi người trong một thân thể của Chúa.Ngài là đầu và mọi người đều là chi thể của Ngài. Ngài ước nguyện cho mọi người nên một như Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Cha. Trong niềm tin vì có Chúa là Cha, có chúa nuôi dưỡng con người bằng chính thân xác và máu của ngài, chúng ta được sống trong hạnh phúc vì có chúa nuôi dưỡng ta:" Chúa là Mục Tử , có Chúa chăn nuôi ta, ta chẳng còn thiếu thốn chi " (Tv 23). Lời của Chúa quả là xác đáng và an ủi con người biết bao ! Chính vì thế, hiến lễ tạ ơn Chúa để lại cho ta trong bữa tiệc thánh làm cho ta cảm thấy được hạnh phúc hân hoan. Là Chúa, Chúa đã chẳng ở trên cao xa vời, nhưng Chúa hằng hiện diện trong bí tích thánh thể, trong bữa tiệc thánh hằng ngày khi linh mục diễn lại hiến lễ tạ ơn. Ta được thông dự vào tiệc thánh là thông phần vào chính sự sống của Chúa Giêsu, vào chính con người đầy tình yêu của Ngài .
Ta hãy sống xứng đáng để mỗi lần khi tham dự thánh lễ, là ta được dự phần vào bữa tiệc thánh đầy hân hoan và đầy sự sống của Chúa. Trong niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng yêu thương và Đấng luôn bênh vực chở che ta, ta hãy vững bước hiên ngang và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Ước gì Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ là nguồn lương thực linh thiêng cho mọi người chúng ta hằng ngày và nhất là suốt cả cuộc sống của đời chúng ta . Amen .
Được trở thành môn đệ thân tín của Đức Kitô, nghe lời giảng của Ngài, chứng kiến những việc Ngài làm, chia sẻ những tâm tình buồn vui với Ngài, và nhất là được "dựa đầu vào ngực Thày mình trong bữa tiệc ly chiều thứ năm trước lễ Vượt Qua, khi Bí Tích Thánh Thể được thiết lập, Gioan đã không ngần ngại tuyên bố: "Thiên Chúa là tình yêu".
Thật vậy, nếu đọc kỹ chương 22 (1-38) của Luca và các chương 13, 14, 15, 16, 17, 18 của Gioan liên quan tới Bữa Tiệc Ly, chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa lập Bí Tích Thánh Thể. Nói khác, Bí Tích Thánh Thể là một sáng kiến phát xuất từ một tình yêu quá bao la, sâu đậm và nồng nàn của Thiên Chúa, đúng như Gioan nhận định: "Chúa Giêsu biết đã đến lúc mình phải bỏ thế gian để về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian thì Người đã yêu thương họ đến cùng". Luca thì viết: "Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu sai Phêrô và Gioan đi và nói: các con hãy dọn lễ để chúng ta mừng lễ Vượt Qua" (Lc. 22,8). Ông tiếp: "Khi đến giờ, Người ngồi vào bàn ăn. Người nói với các môn đệ: Thày tha thiết ao ước ăn lễ Vượt Qua này với các con trước khi Thày chịu khổ nạn" (Lc. 22, 14-15). Việc Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ chuẩn bị và niềm ước mong mừng lễ Vượt Qua là gì, nếu không phải là Chúa muốn dùng cơ hội cuối cùng này để nói lên tất cả tâm tư của Ngài, nhất là để thiết lập Bí Tích Thánh Thể như một phương tiện tuyệt hảo diễn tả tình yêu của Ngài và cũng là cách Ngài duy trì sự hiện diện của mình giữa chúng ta. Thật vậy, khi đã thương yêu đến cùng, khi tình yêu đã dâng lên tột đỉnh, Đức Kitô đã thực hiện một "sáng kiến táo bạo" mà Ngài ấp ủ từ lâu, một sáng kiến làm nhân loại phải kinh ngạc qua bao thời đại- kinh ngạc đến mức độ không thể hiểu; do đó, nhiều người đã không chấp nhận, nói rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" (Jn 6, 52a).
Xa nhau là một đau lòng xé nát con tim giữa những người yêu nhau. Chỉ cần nghĩ đến giờ phút ly biệt, người ta đã buồn lắm. Do đó, trước khi xa nhau, người ta thường tìm cách níu kéo thời gian lại, tận dụng những giây phút cuối cùng để ở bên nhau, nhìn nhau, tâm sự với nhau, hứa hẹn với nhau, trao cho nhau những kỷ vật, đồng thời có những sáng kiến nhằm cứu vãn những gì có thể cứu vãn được. Vì từ nay không còn được gần gũi bên nhau, thì kỷ vật này sẽ là chứng tích của một tình yêu chung thủy, của một thời sống bên nhau. Vì từ nay không còn được nhìn thấy nhau, không còn được nghe tiếng nói của nhau, không còn được ngắm nhìn những dáng dấp thân thương của nhau, thì cuốn video tape này sẽ là món quà tuyệt hảo nhất trao cho nhau... Đấy là những sáng kiến nơi con người. Và còn người chỉ làm được như thế.
Còn Chúa Giêsu?. Là con người với một trái tim nồng nàn yêu thương, Chúa cũng cảm thấy hạnh phúc khi được sống với những người mình yêu, và thấy mất mát khổ đau khi phải biệt ly. Bởi thế, Ngài cũng muốn tận dụng tối đa những giờ phút cuối cùng trước khi giã từ các môn đệ, để ở bên họ và tâm sự với họ. Ngài cũng gởi đến họ những lời nhắn nhủ quan trọng nhất mà Ngài coi như của riêng Ngài, đó là Giới Luật Yêu Thương... Là Thiên Chúa, Ngài đã dùng quyền năng của mình để thực hiện một "phát minh" có một không hai, vượt trên mọi khả năng của nhân loại, đó là Bí Tích Thánh Thể. Với "phát minh" mới này, Ngài không cần đến một video tape hay bất cứ tặng vật nào để trao tặng chúng ta, nhưng Ngài đã ban tặng cho chúng ta chính con người của Ngài, chính sự hiện diện của Ngài, để tiếp tục có mặt bên chúng ta, và hơn thế, trở thành lương thực nuôi sống chúng ta. Từ nay, bất cứ khi nào muốn gặp Ngài, chúng ta chỉ cần lặp lại những gì Ngài đã làm trong bữa tiệc ly đó, lập tức Ngài có mặt. Ngoài ra, Ngài còn cho phép chúng ta ăn uống chính mình và máu Ngài, để được kết hợp với Ngài cách trọn vẹn. Ngài xác quyết: "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở trong tôi, và tôi sẽ ở trong người ấy" (Jn 6, 56).
Như vậy, thái độ và tâm tình của chúng ta đối với Bí Tích Thánh Thể chính là niềm tin và lòng mến:
- Với niềm tin, chúng ta xác tín rằng: Đức Kitô thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta và trở nên lương thực cho chúng ta.
- Với lòng mến, chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Ngài qua việc năng tiếp nhận Mình Máu Thánh Chúa, để được sống và liên kết với Chúa mỗi ngày một bền chặt hơn.
Là người Việt Nam, hầu như ai cũng biết, hoặc được nghe kể lại về nạn đói năm Ất Dậu 1945: THÁNHTHỂ-12
Là người Việt Nam, hầu như ai cũng biết, hoặc được nghe kể lại về nạn đói năm Ất Dậu 1945. Đây là một vết thương lớn không phai trong lòng người dân Việt. Một khi cơn đói cồn cào, họ tìm kiếm bất cứ thứ gì có thể ăn được dù đó là những củ chuối ngoài đồng hay các lá non của cây cỏ, thậm chí ngay cả đến những con rắn mối, thằn lằn họ cũng bắt và cho vào miệng ăn không chút đắn đo. Nhưng cuối cùng những con người xấu số ấy cũng bị tử thần cướp đi vì đói.
Ngày nay, chuyện chết đói nào đâu đã hết, các nước nghèo trên thế giới vẫn còn thảm cảnh này xẩy ra. Chúng ta hãy xét đến sự tương trợ nhau phát sinh từ tình yêu nhân loại.Tuy cũng có viện trợ và giúp đỡ nhưng vẫn chưa bù đủ vào con số đói nghèo trên thế giới.
Trong lãnh vực niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa, hôm nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa. Đây chính là lương thực thần linh nuôi sống linh hồn tín hữu chúng ta. Trong tiếng La Tinh “ Corpus Christi” nghĩa là “ Thân Thể Chúa Kitô”. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu tình yêu trao ban của Ngài đối với nhân loại chúng ta.
1. Bánh nuôi nhân loại:
Trong bài đọc một, sách Đệ nhị luật đã trình thuật việc dân Do Thái được Thiên Chúa Giavê bảo vệ và dẫn đưa ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi hoang địa và nọc rắn độc. Thiên Chúa đã khiến nước từ tảng đá vọt chảy ra và cho Manna nuôi dân sống để tiến về đất hứa. Còn trong Tin mừng chúng ta cũng thấy những phép lạ được nhân lên qua bánh và cá. Với năm chiếc bánh và hai con cá đã trở thành lương thực nuôi được 5000 người, sau đó thu lại còn dư những 12 thúng vụn. Riêng bài Phúc âm hôm nay Chúa không còn dùng hình bóng hay úp mở gì nữa mà Người đã xác định với dân của Ngài: “ Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời, và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Quá hiển nhiên và rõ ràng. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã trở nên lương thực cho linh hồn ta ăn. Con Chiên vượt qua lại càng rõ và tiêu biểu hơn. Hình ảnh này được yêu chuộng đến độ chính Chúa Giêsu cũng được xưng tụng là: “ Chiên Thiên Chúa”.
Đọc Tin mừng, cả ba tác giả của Phúc âm nhất lãm đều đề cập đến bữa tiệc ly. Chính trong bữa ăn tối này Bí tích Thánh Thể được thiết lập và một lễ vượt qua cũ được chuyển đổi sang lễ vượt qua mới. Biến cố làm nên nhiệm tích Thánh Thể chính là cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Qua tình yêu này chúng ta thấy Thánh Thể ban cho chúng ta ví như một tuyệt tác và tặng ân của Ba Ngôi Thiên Chúa, toàn thể Ba ngôi đều cộng tác vào việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể: Ngôi Con tự hiến, Ngôi Cha đón nhận hiến lễ, và nhờ Ngôi Thánh Thần Ngôi Con hiến tế cho Ngôi Cha.
2. Thông hiệp với Mình và Máu Chúa Kitô.
Theo tự nhiên, khi chúng ta ăn thực phẩm, dạ dày sẽ bóp, nghiền và biến thành chất bổ để châu lưu nuôi sống con người. Khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được thông hiệp với mình và máu Chúa Kitô. Thánh Phao lô đã viết: “Chén chúc tụng Ta cầm lên tạ ơn không phải là thông phần Máu Chúa Kitô sao? Và bánh Ta bẻ ra không phải là thông phần Mình Chúa Kitô sao?” ( 1 Cr. 10,16 ). Mỗi lần hiệp lễ linh hồn và con tim chúng ta trở nên cung điện của Chúa Ba Ngôi cực thánh, và khi Thiên Chúa đến, thì toàn thể thiên đàng cũng hộ giá và đến với chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa chiếm trọn tâm hồn và chúng ta bước vào sự thông hiệp nhiệm mầu, xác thực, sâu xa với cả Ba Ngôi.
Hơn nữa, chúng ta cũng có thể thấy rõ rằng: khi hiệp lễ, chúng ta mở cửa tâm hồn ra đón nhận Chúa Giêsu ngự vào. Ngài là vị thượng khách của linh hồn ta. Chúng ta cũng nhận ra khi thân xác đói khát sẽ trở nên thờ thẫn và yếu đuối nhưng khi đã no nê thì trở nên nhanh nhẹn và tỉnh táo. Linh hồn một khi được no thoả bởi Mình và Máu Thánh Chúa cũng vậy. Khi ấy, căn nhà tăm tối sẽ trở nên sáng láng, căn phòng lạnh lẽo sẽ trở nên ấm áp. Sự đói khát tình yêu sẽ bù đắp vào thay thế một hạnh phúc đầy tràn dư dật. Lúc ấy, hết thảy những ai lãnh nhận từ tình yêu cách chân thật, thì họ cũng ban phát tình yêu ấy một cách tràn đầy. Thánh Thể Chúa là lò sưởi ân tình. Chúa phán: “ Hết thảy những ai đến với Ta, họ sẽ không còn đói khát”. Sở dĩ Chúa xác định cách cụ thể như vậy vì chính lúc đó họ đã hoà nhập với Đấng Toàn Yêu của họ, và cũng từ nơi ấy, họ học được Tình Yêu từ Thầy Chí Thánh của họ: “ Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
3. Cảm nhận của Tình Yêu:
Trong lời nói chậm rãi và trịnh trọng, tựa như một di chúc vọng ra sự truyền khiến, căn dặn tràn ngập ân tình: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.Chúng ta có nhận ra đây là một kho tàng, gia tài vô giá mà Thiên Chúa đã để lại qua “ Di chúc” của Ngài. Thử hỏi xem có người con hiếu thảo nào lại không thi hành di chúc của cha mẹ? Xét về lãnh vực thiêng liêng đây là kho báu Đức Giêsu Kitô để lại cho nhân loại. Kho tàng tình yêu không bao giờ tàn phai hay huỷ hoại. Kho tàng Thánh Thể Chúa Kitô. Cảm nhận tình yêu của Chúa đối với chúng ta, thì chúng ta cũng có sự đáp lại ân tình ấy. Thánh Thể Chúa đợi mong ta từng giây phút, ao ước ta no thoả Ngài trong mọi phút giây. Ngài là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là trao tặng, cho đi. Đáp trả ân tình, chúng ta hãy đến với Thánh Thể bằng sự chiêm niệm với tấm tình người con hiếu thảo. Thánh Thể và Chiêm niệm là hai con đường dẫn linh hồn người tín hữu đến tận hưởng Thiên Chúa, làm cho linh hồn kết hợp mật thiết với Chúa cách hạnh phúc và no thoả.Tuy nhiên Thánh Thể mang tính khách thể, còn Chiêm niệm thiên về niệm hướng. Tuy có phần khác biệt hay độc lập nhau chút ít thế nhưng cốt lõi vẫn là một trao đổi tình yêu. Bảo rằng tôi kính thờ Thánh Thể nhưng không bao giờ hướng lòng chiêm ngưỡng thì sao gọi được là đầy tràn tình yêu? Thuỷ triều càng dâng cao thì những vẩn đục của giòng sông sẽ loãng lỏng dần rồi trở nên trong sạch hoàn toàn. Do đó tính phủ bọc và tha thứ của Thánh Thể tình yêu cũng luôn biến đổi chúng ta như thế. Miễn là chúng ta biết đáp trả lại tiếng gọi “ Ta khát” liên tục phát ra trong nhà tạm hằng giây, hằng phút.Tiếc thay! Ngày nay cũng như ngày xưa, sự thờ ơ, lãnh đạm của tâm dạ con người thường hay đổi thay như chong chóng.
Vào thời Chúa Giêsu, dân chúng cũng đã tung hô Ngài, nhưng sau đó lại hô to tiếng: “Đóng đinh nó vào thập giá”. Thì ngày nay trong các nhà tạm trên thế giới, Chúa Giêsu Thánh Thể cũng vẫn luôn cô đơn và chờ đợi. Phải, Ngài chẳng cô đơn sao được khi chính những con cái Ngài thương yêu hết mực lại quay đầu chống lại Chúa. Một Giuđa đã chứng minh cho nhân loại nhận ra sự bội phản không một chút thể hiện sám hối. Hơn nữa, những linh hồn sống trong tội lỗi vẫn chưa trở lại giao hoà với Chúa, họ tiếp tục sống trong tình trạng chết phần linh hồn. Những thái độ này là nguyên nhân làm cho Thánh Thể Chúa tiếp tục “ khát”.Vậy hỡi nhân loại! Hãy mau thay đổi và hoán cải, và tức tốc an ủi Chúa đang ngày đêm cô đơn, giam cầm trong nhà tạm vì thiếu sự đáp trả tình yêu của loài người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con ao ước và quyết tâm sống kết hợp mật thiết với Chúa, con luôn cố sống trong sạch để linh hồn con trở thành nhà tạm và đền thờ chứa Chúa Thánh Thể. Con tin Thánh Thể Chúa chính là Con Đức Chúa Cha xuống thế làm người đã giáng sinh ở Belem vào đêm đông giá lạnh. Con tin Tấm Bánh thần linh ngự trong các nhà tạm thánh chính là Đấng đã chết treo trên thập giá trên đồi Golgotha để qua cái chết, Chúa huỷ diệt tội lỗi. Con vững tin hơn cả qua sự phục sinh của Chúa để huỷ diệt sự chết. Tất cả là tình yêu, tất cả vì sự cứu độ trần gian.
Lạy Mẹ Maria, bằng tiếng Xin Vâng, Cung lòng Mẹ đã trở nên nhà tạm để Chúa Giêsu cư ngụ. Xin Mẹ cầu cho chúng con luôn biết trang điểm nhà tạm linh hồn mình bằng những quà tặng của đức bác ái để xứng đáng cho Chúa Giêsu con của Mẹ mãi mãi hiện diện trong tâm hồn con.
Tác giả Tin Mừng nói rõ, chúng ta ở vào thời kỳ “ít lâu trước lễ Vượt qua, một đại lễ của người Do Thái” (6,4). Tác giả đưa biến cố được sống thời Đức Giêsu (bánh hoá nhiều, bài giảng ở Capharnaum) về với thời của Israel (Manna thời xuất hành với sự hướng dẫn của Môsê) để các độc giả thấy rõ hơn tính thời sự trong thời của Giáo Hội (sau khi Đức Giêsu phục sinh, trong việc chia sẻ Lời Chúa và bánh của bí tích Thánh Thể).
Vì lòng thương xót đám đông đã theo Ngài, Đức Giêsu đã nuôi họ bằng “năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá” (6,9), như thế Ngài cho thấy rõ phần nào căn tính đích thực của Ngài. Bởi thế các chứng nhân đã không lầm, họ đồng hoá Ngài với vị đại ngôn sứ, Đấng đã được ông Môsê loan báo trong sách Đệ Nhị Luật (18,15): “Giữa các ngươi, trong số anh em các ngươi, Chúa là Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi”. Thật vậy, trước những dấu lạ mà Đức Giêsu đã thực hiện, người ta nói chính “Ngài là vị đại ngôn sứ, Đấng phải đến trong thế gian”. Nhưng, thánh Gioan viết, hiểu lầm sứ mạng của Ngài, họ “toan bắt ép Ngài làm vua của họ” (6,14-15). Vì thế để tránh họ, Đức Giêsu rút lui “một mình lên núi” trước khi đi qua bờ bên kia cách kín đáo với các môn đệ của Ngài.
Chính “ở trong hội đường Capharnaum” (6,59) đám đông đi tìm và gặp Ngài, Đức Giêsu giảng cho họ một “bài về bánh ban sự sống”, trong đó Ngài đào sâu ý nghĩa của bánh, ý nghĩa đã hiện hữu trong dấu chỉ, và dạy họ rằng, đối với họ, Đấng đã hoá bánh ra nhiều cũng chính là bánh của nhân loại.
Câu 51 đến 58, đã được ghi trong sách bài đọc năm A này, và đã làm thành đoạn cuối của bài giảng, không thể tách rời khỏi các câu trên, bởi sự song song rất rõ ràng giữa phần đầu và phần cuối của bài giảng tại Capharnaum.
- Cũng lời mở đầu: “Ta là bánh sự sống” (câu 35) và “Ta là bánh hằng sống” (câu 51). - Cũng lời cuối về sự sống vĩnh cửu: “Ai tin Ta sẽ có sự sống đời đời” (câu 58). - Cùng lời quảng diễn về những “xì xầm” (đối chiếu với những “xì xầm” trong sách Xuất Hành, và những chống đối của người Do Thái) “Làm sao ông ta có thể nói: Ta từ trời xuống” (câu 42), và “làm sao con người ấy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” (câu 52).
Nhưng trong lúc phần đầu của bài giảng trình bày “bánh sự sống” trong Đức Kitô với tư cách là Đấng mặc khải của Chúa Cha, Lời Thiên Chúa từ trời xuống, thì phần hai lại qui chiếu cách rõ nét về bí tích Thánh Thể.
ĐỨC GIÊSU BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG.
Ở phần đầu của bài đọc của sách này, khi quảng diễn Đệ Nhị Luật 8,3 Đức Giêsu tự giới thiệu mình trước hết như là “Bánh sự sống” cho những ai tiếp nhận sứ điệp của Ngài. Bánh hằng sống từ trời xuống, đó là mặc khải cuối cùng cho loài người. Đức Giêsu đã mặc khải bằng lời nói và việc làm của Ngài, bằng mầu nhiệm trọn vẹn của Ngài, bằng chính con người của Ngài vì Ngài là “Ngôi Lời trở thành xác phàm” (Ga 1,14). Ngài có thể áp dụng cho chính mình những gì mà Cựu Ước đã nói về Lời của Thiên Chúa hay sự khôn ngoan thần linh, là của ăn duy nhất có thể làm dịu cơn đói khát của con người: “Ta là bánh sự sống, ai đến với Ta, sẽ không bao giờ đói nữa, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ” (cf. Pro. 9,5, - Sir.24,21).
- Một giai đoạn mới đã vượt qua với phần hai của bài giảng.
- Ở đây sự gợi lại cái chết của Đức Giêsu, như nguồn sống, được làm rõ nét hơn “bánh mà Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, ban cho thế gian được sống”. Và chữ “THỊT” làm nhớ lại lời mở đầu của thánh Gioan 1,14: “Ngôi Lời đã hoá thành xác phàm”. A. Marchadour quảng diễn: chính Đấng nhập thể hiện diện. Nhưng ở đây lời lẽ thích đáng được diễn đạt: cái chết của Đức Giêsu như nguồn sống cho nhân loại. “Ngôi Lời trở thành xác phàm” (1,14). Thịt trở thành bánh (6,51). Giữa việc nhập thể, cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể có một sự liên tục mật thiết. (Phúc Âm thánh Gioan “Centurion”, 1992, trang 108).
- Và nếu, cho đến bây giờ các tiếng chính là “TIN”, “ĐẾN VỚI TÔI” thì bây giờ chúng ta lại thấy những từ: “BAN”, “ĂN và UỐNG”. A. Marchadour viết tiếp: “Trong phần cuối của bài giảng của Đức Giêsu, những từ về Thánh Thể (eucharistiques) chiếm chỗ quan trọng với tính hiện thực mà người ta chỉ có thể hiểu vào thời đại của Giáo Hội. Giữa các câu 53, 54-56, thay vì từ “Ăn” truyền thống, Gioan dùng một từ có vẻ sống động hơn: “nhai, cắn” điều đó còn nhấn mạnh hơn đến sở hữu và nghĩa nội tâm hoá cần thiết.
- Trong trường hợp này, phần bài giảng này có thể chịu ảnh hưởng những cuộc tranh cãi trong cộng đồng Kitô giáo của Gioan trên tính hiện thực của Thánh Thể (Phúc Âm thánh Gioan “Centurion”, p.109) Đức Giêsu cũng là bánh từ trời xuống vì trong bí tích, cái mà Ngài ban làm của ăn chính là “thịt” Ngài hiến dâng cho sự sống của thế gian. Ăn thịt (động từ lặp lại 8 lần trong một ít câu) và “uống” máu Ngài, là nhận lấy sự sống của Ngài, là thông hiệp với mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài: chúng ta ở vào thời “ít lâu trước lễ Vượt qua, thịt của Đức Giêsu được ban để cho thế gian được sống” (câu 51). Giờ Giuđa nộp Thầy mình đã gần đến, Gioan lưu ý (câu 64 và 70-71). Đến phiên mình, nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài, Ngài chấp nhận liều mình trở nên “tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới”. (Đại hội Thánh Thể Lộ Đức, 1981).
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Ngày nay cũng thế, khi thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin, người Kitô hữu ở trong Ngài và nhận được sự sống đời đời (A. March, “Dossier biblique” số 41, trang 13-14).
Khi giảng tại Capharnaum, Chúa Giêsu đã không thể nói rõ cách trực tiếp về Thánh Thể, điều người ta không thể hiểu nỗi trước bữa tiệc ly, trước cái chết và sự sống lại của Ngài. Cụm từ “bánh sự sống” trước hết là một cách nói về Đức Giêsu như Đấng mặc khải từ trời đến và lời Ngài là của ăn và của uống (Hãy đến mà ăn bánh của Ta hãy uống rượu nho mà Ta đã dọn sẵn cho các con: Prov. 9,5). Tất cả bài giảng trước hết gợi lên lòng tin vào Đức Giêsu Đấng mặc khải, nhưng việc thực hiện Thánh Thể cũng lộ ra trong thuật ngữ Kitô giáo: “ăn, uống, có sự sống”. Tuy nhiên phần cuối thì trực tiếp chỉ về “Thánh Thể” chúng ta hãy quan sát.
Thật vậy, từ câu 51, Đức Giêsu gợi lên cái chết của Ngài như là nguồn sự sống: bánh mà tôi sẽ ban cho, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống. Từ “thịt” làm nhớ đến lời mở đầu: Lời trở nên xác phàm (1,14). Chính việc nhập thể (Incarnation) được diễn tả ở đây, trong giai đoạn kết thúc: cái chết của Đức Giêsu, Ngôi Lời trở nên thịt (xác phàm), thịt làm thành của ăn. Giữa việc nhập thể, cái chết và Thánh Thể có một sự liên tục. Ngày nay Đức Giêsu vắng mặt trong thân thể Người, sự mặc khải của Ngài vẫn còn đó và Thánh Thể là trọng tâm mà loài người được mời gọi, cùng với cơ may cũng như rủi ro bị từ chối như vào thời Đức Giêsu vậy: Lời này chói tai quá, ai mà nghe được! (6,60).
Ở câu 53-56, thay vì động từ “ĂN”, Gioan dùng một từ rất mạnh: “nhai, cắn”. Có lẽ là để nhấn mạnh đến tính hiên thực của Thánh Thể. Thật vậy, một số Kitô hữu, những người thuộc phái ngộ đạo, từ chối sự trung gian thể chất của các bí tích để kết hiệp với Đức Giêsu, cũng như họ từ chối không tin sự hiện hữu của nhân loại tính trong Đức Giêsu, đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Nhưng vì thế, để sự trung gian của bánh không phải là ma thuật: “Chính tinh thần làm cho sống, xác thịt có ích chi” (Ga 6,56). Thánh Thể, Mình Máu thông ban cho tín hữu ơn mà những người đồng thời với Đức Giêsu tìm kiếm: sự sống vĩnh cửu từ bây giờ và mãi mãi, ở với Đức Giêsu. Hôm nay cũng vậy, người Kitô hữu thông hiệp với Đức Giêsu trong đức tin, ở với Ngài và có sự sống đời đời.
2. “Cao quí thay mầu nhiệm đức tin” (Mgr. L.Daloz trong “Chúng ta đã thấy vinh quang Ngài” Desclée de Brouwer, trang 87-88).
Đức Kitô phải mời gọi chúng ta đặt mình vào đỉnh cao của đức tin để mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm đức tin. Chúa nhắc lại lời khẳng định đã đưa đến những lời “xì xầm": “Ta là bánh ban sự sống”. Ngài bác lại lời bắt bẻ về manna mà người ta nại ra để chống lại Ngài: “Trong sa mạc, cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, cho nên chưa phải là thứ bánh ban sự sống. Trái lại, ai ăn bánh bởi trời sẽ không hề chết bao giờ: ai tin và ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Và đây là lời tuyên bố gây vấp phạm..."Bánh mà Ta ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống...”.
Tuy nhiên trước sự chống đối, Chúa Giêsu chẳng những không dịu giọng mà trái lại còn nhấn mạnh bằng bốn câu rất rõ ràng và thực tế: “Nếu các ông không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài... ai ăn thịt Ta và uống máu Ta... thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống... ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy...”. Không có lối thoát nào cả, không có cách nào khác để có sự sống, có sự phục sinh để ở trong Ngài. Không thể rõ ràng hơn được nữa. Hòn đá, vật chướng ngại, chính là hòn đá gốc để các môn đệ được sống, hòn đá thử thách của sự thật về đức tin. Như thế, Thánh Thể cắm sâu vào trung tâm của hiện hữu Kitô giáo. Trong bóng tối của mầu nhiệm, những ai muốn có sự sống phải hướng về đó, vì đó là của ăn để sống: bánh bởi trời là như thế: rất khác với thứ bánh mà cha ông các ngươi đã ăn, họ đã chết, nhưng ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Không một lời diễn giảng, thánh sử kết thúc đơn sơ: Đó là những lời dạy của Đức Giêsu trong hội đường Capharnaum. Đó là cách bánh hằng sống và chén cứu độ được đặt vào tay chúng ta không một lời giải thích nào. “Cao cả thay mầu nhiệm đức tin”.
3. “Hai Bàn Tiệc” (J.Perron, trong “Đọc Kinh Thánh” số 52, trang 139-140).
Nếu tách rời những câu trước với đoạn văn này, sẽ đi đến nguy hiểm là làm nghèo nàn đi, hơn nữa làm sai nghĩa về lời dạy về Thánh Thể của Gioan. Những gì nói về bí tích phải để mở ra một nhãn quan rộng hơn nhiều hơn những gì nói trong bài thuyết giảng. Nếu Đức Giêsu là bánh ban sự sống trong Thánh Thể, là bởi trước hết Ngài là bánh cho những ai tiếp nhận lời Ngài và chứng của Ngài, và vì thế phần đầu chỉ nói đến người “tin vào”, phần hai nói đến người “tin-hiệp-thông”, nhưng hai phần, phần nào cũng không thể thiếu, bởi lẽ không thể nói đến “người hiệp thông” mà trước hết người ấy không phải là kẻ tin, nếu không có sự khẳng định ở câu 47 thì câu khẳng định 54 chẳng có nghĩa gì hay là dẫn đến tình trạng làm cho Thánh Thể chỉ là một nghi lễ ma thuật. Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở rằng mọi bí tích đều là “bí tích đức tin” (sacra menta fidei).
Cuối cùng nếu đức tin có thể bỏ qua bí tích (không nói đến rước lễ thiêng liêng hay rửa tội bằng lòng muốn) thì bí tích không thể có nếu không có đức tin. Đức tin là sự kết hiệp đầu tiên với Đức Kitô, phải đi trước nghi lễ bí tích và hướng về đó” (A.Feuillet).
Sự trình bày về Thánh Thể này cũng mời gọi chúng ta, như các cải tổ Công đồng đã làm, tìm lại chỗ đứng của phụng vụ Lời Chúa đi trước và chuẩn bị cho nghi lễ bẻ bánh trong các cử hành của chúng ta - cả hai phải kết hợp với nhau cách sâu xa như hai đoạn của bài giảng thuyết của Gioan. Các tác giả Kitô giáo xưa đã hiểu như thế khi họ nói đến “hai bàn tiệc” trong Giáo Hội: “Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh”. Có lẽ vì thế mà sinh ra những hậu quả đáng giận của phong trào Cải cách: sự chia cắt mà người ta có thể diễn tả một cách hài hước: người Tin lành thì ra khỏi cửa với cuốn Kinh Thánh trong túi và người Công giáo đi ra mang theo Mình Thánh Chúa. Lời dí dỏm, trên đây, nếu có thể nói lên một cái gì về thực tế của sự kiện, thì phải nói rằng cả hai cộng đồng, mỗi bên chỉ giữ cho mình một nữa mầu nhiệm Thánh Thể, một phần của bài giảng thuyết trên chủ đề “bánh ban sự sống”.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời”. Lời giảng đó của Chúa Giêsu chỉ: THÁNHTHỂ-14
I/ “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời”. Lời giảng đó của Chúa Giêsu chỉ rõ về phép Thánh Thể. Thịt máu Chúa Giêsu là toàn diện con người Chúa gồm thiên tính và nhân tính. Xét về thiên tính, Người là Ngôi Hai Thiên Chúa, nên Người nói “Tôi là Bánh Hằng sống từ trời xuống”. Xét về nhân tính, Người có thịt máu, hồn xác, nên Người nói “Thịt Tôi thật là của ăn, máu Tôi thật là của uống”. Khi rước Mình Máu Người là rước chính Chúa Giêsu trót thiên tính và nhân tính, là rước Ngôi Hai xuống thế làm người, là rước chính Đức Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, cho nên Mình Máu Người là của ăn, là bánh hằng sống, ban cho kẻ ăn được sống lại và được sống muôn đời.
Dân Do Thái không hiểu như thế. Họ chỉ hiểu theo góc độ ăn uống thịt máu vật chất loài người như ta ăn thịt heo, thịt cá và uống tiết canh. Họ hiểu như câu hát thề phanh thây uống máu quân thù, thì làm sao ai dám lấy thịt máu mình cho kẻ khác ăn. Họ chỉ thấy Đức Giêsu là con ông Giuse, anh thợ mộc, chứ không phải từ trời xuống. Họ mới được Chúa làm phép lạ cho bánh hóa nhiều nuôi bao nhiêu ngàn người ăn khỏi đói, thế mà họ cũng không tin Người là Thiên Chúa. Họ càng thấy chói tai ghê tởm và cãi nhau dữ dội khi Người nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta”, họ tưởng như những bè đảng “uống máu ăn thề” nên họ thấy chói tai quá, họ đã bỏ đi và một số môn đệ cũng bỏ Thầy. Đây là một thử thách lòng tin, một thách đố lý trí vô phương giải cứu, thử thách này kinh khủng hơn thử thách cha ông họ đã nếm mùi khổ nhục trong “sa mạc mênh mông khô cằn khủng khiếp, đầy rắn lửa, bọ cạp, núi non hiểm trở ...” (Bài đọc 1: Dnl, 8, 2-3, 14b-16)
Trong sa mạc, chỉ có Môsê vững tin Thiên Chúa ông đã vượt mọi thử thách cam go để tuân hành lệnh Ngài truyền và Thiên Chúa đã khiến nước chảy ra từ tảng đá cho dân uống và ban manna cho dân ăn (Dnl. 8, 3. 16)
Trong hoang địa, nơi Chúa Giêsu đang giảng chỉ có Phêrô đứng ra tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga. 6, 68-69)
II/ Tại sao Đức Giêsu dùng kiểu nói ăn thịt và uống máu như vậy ?
Thứ nhất, đối với người Do Thái: ăn thịt và uống máu, nhắc họ nhớ tới thịt máu con chiên vượt qua, máu chiên bôi lên cửa nhà họ làm dấu cứu con cháu họ khỏi bị tiêu diệt, còn nhà dân Ai Cập không có dấu máu chiên thì các con đầu lòng từ người đến vật và các thần đều bị tiêu diệt (Xh. 12, 1-14). Máu chiên vượt qua sẽ giúp họ thấy máu Người đổ ra trên Thập giá là dấu cứu họ vượt qua cõi chết để sống muôn đời. Còn thịt chiên vượt qua làm của ăn tăng sức mạnh cho họ ra đi thoát khỏi ách nô lệ Ai cập để trở về đất Hứa, miền đất quê hương tự do. Thịt của Đức Giêsu chẳng những ban cho họ sức mạnh thoát khỏi nô lệ, tội lỗi mà còn giúp họ thẳng tiến về quê trời vinh phúc muôn đời.
Thứ hai, đối với cả loài người: Thịt và máu Đức Giêsu thể hiện lễ hy sinh của Người trên Thánh giá. Sự hy sinh mạng sống là luật hy sinh trong vũ trụ này, con vật này phải chết đi làm của ăn cho con vật khác. Sự chết hy sinh cho sự sống, sự chết của hàng trăm sinh vật như tôm, cá, heo, gà, rau cỏ... đã hy sinh chết đi cho sự sống của tôi. Chúng phải chịu bắt, đánh đập, mổ xẻ, cắt chặt, nghiền nát, nung đốt để trở thành của ăn của uống cho tôi ăn để tôi sống, tôi khỏe mạnh, tôi phát triển. Đức Giêsu muốn cho chúng ta được sống và được sống dồi dào muôn đời, Người phải hy sinh mạng sống để nuôi chúng ta sống, mạnh mẽ, sống sinh nhiều hoa trái tồn tại đến muôn đời.
Sau hết, đối với Đức Giêsu, kiểu nói: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” là kiểu nói duy nhất chỉ về sự thương khó, về lễ hy sinh trên Thánh giá, về lễ truyền phép bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Người làm của nuôi linh hồn ta đời đời, để cho ta được sống liên kết chặt chẽ với Người như những chi thể trong một thân thể Đức Kitô (Bài đọc II. 1Cr. 40, 16-17).
III/ Trong đoạn Tin mừng hôm nay chỉ có chín câu ngắn gọn mà Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến 12 lần về sự sống: Bánh hằng sống, được sống muôn đời (3 lần), được sống (2 lần), không có sự sống, sống lại, sống mãi (2 lần), Cha là Đấng hằng sống, tôi sống nhờ Cha, chứng tỏ Người thiết tha chăm lo đến sự sống chúng ta vô cùng. Người sẵn sàng hiến mạng sống mình cho chúng ta. Hơn nữa Người còn hạ mình xuống như một thứ đồ vật vô tri vô giác làm đồ ăn cho chúng ta được sống, sống lại, sống mãi, sống muôn đời như Cha là Đấng hằng sống, như Con sống nhờ Cha.
Tình yêu của Chúa không lời nào của loài người diễn tả nổi, không việc làm nào của loài người có thể cảm tạ đẹp lòng Thiên Chúa, chỉ có cách duy nhất là: “Hãy siêng năng nâng chén lễ tạ ơn mà cảm tạ Thiên Chúa, để dự phần vào máu Đức Kitô. Hãy sốt sắng cùng nhau bẻ bánh thánh, để dự phần vào thân thể Người” (1Cr. 10, 16).
Vậy chỉ có cách siêng năng, sốt sắng rước lấy bánh hằng sống mới làm thỏa lòng Chúa tha thiết yêu ta.
Lạy Chúa Giêsu, không một người cha nào nuôi con bằng thịt mình, nhưng Chúa đã lấy thịt mình nuôi con, không một người mẹ nào nuôi con bằng máu mình, nhưng Chúa đã ban máu mình cho con làm của uống, không cha mẹ nào vui lòng chết khổ nhục vì con, nhưng Chúa đã chịu chết treo trên Thánh giá thay con. Xin Chúa cho con biết suốt đời dâng lễ cảm tạ Chúa, suốt đời dự phần vào Mình Máu Chúa, để thỏa lòng Chúa yêu con.
Vào ngày 13.6.1993 lại bên Tây Ban Nha, trước sự hiện diện của Đức Thánh Cha Gioan: THÁNHTHỂ-15
Vào ngày 13.6.1993 lại bên Tây Ban Nha, trước sự hiện diện của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã diễn ra một biến cố vô cùng quan trọng, đó là lễ nghi bế mạc Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế tần thứ 45.
Nguyên một tuần lễ, Đại Hội đã xoay quanh chủ đề: "Đức Kitô là ánh sáng muôn dân - Thánh Thể và truyền giáo".
Kể từ năm 1981 cho đến nay, khi một thiếu nữ người Pháp đề ra một sáng kiến tổ chức Đại Hội Quốc Tế quây quanh Chúa Giêsu Thánh Thể, thì Giáo Hội đã không ngừng làm chứng cho thế giới thấy rằng: "Con người không thể chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bởi mọi lời do Mtệng Thiên Chúa phán ra".
Đành rằng, cuộc sống không thể khép kín trên trần thế này, nhưng còn phải hướng mở về những giá trị siêu việt và vĩnh cửu. Trong tuần lễ của Đại Hội Thánh Thể ấy, những cuộc rước kiệu, nhưng giờ cầu nguyện và thờ Lạy trước Thánh Thể, những buổi gặp gỡ và chia sẻ từ nhiều ngôn ngữ văn hoá khác nhau đã được tổ chức một cách thật trang nghiêm và sốt sắng.
Qua tất cả những sinh hoạt ấy của Đại Hội Thánh Thể tần thứ 45 này, Giáo Hội muốn nêu bật một chân lý, đó là: "Đức Kitô đang thự sự hiện diện giữa nhân loại và con người không thể sống sung mãn được, nếu họ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi cuộc sống". Đức Kitô là ánh sáng của muôn dân, Đức Kitô là sức sống đích thực của con người. Đó là chân lý mà các tín hữu Kitô cam kết thực hiện và loan báo mỗi ngày. Thật thế, trong Thánh lễ mỗi ngày, chúng ta đón nhận lời của Chúa Giêsu như một mệnh lệnh: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Việc làm của Chúa Giêsu mà các tín hữu Kitô phải tặp lại chính là cái chết của một con người đã hiện trọn cuộc sống của mình cho nhân loại. Làm lại ở đây không phải chỉ làm một nghi thức để tưởng niệm, mà chính là sống lại cái chết ấy bằng một cuộc sống dấn thân, hy sinh, quảng đại như Chúa Giêsu.
Đó là lý do lại sao sau mỗi lần truyền phép, người giáo dân lại phải tung hô: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến". Thật ra, Kitô giáo không phải là một tôn giáo của sự chết chóc. Người Kitô hữu chúng ta không loan truyền một cái chết bất kỳ nào, nhưng là loan truyền một cái chết vì yêu thương. Bằng cả cuộc sống, người tín hữu Kitô chúng ta hiện thực hoá tình yêu của Đức Kitô, nghĩa là trở thành khí cụ của sự hiện diện và tình yêu của Đức Kitô đối với con người.
Cũng bằng cả cuộc sống của mình, người tín hữu Kitô minh chứng cho nhân loại thấy rằng, sống đích thực là phải sống yêu thương, sống đích thực là phải sống cho và vì Đức Giêsu Kitô, sống đích thực là phải sống như Đức Giêsu Kitô. Tất cả mọi cử hành Thánh Thể đều là một nhắc nhớ về tình yêu của Đức Giêsu Kitô và về cuộc sống chứng tá của người tín hữu Kitô. Đức hồng y Mailer, Tổng Giám mục bên Đức đã nhấn mạnh điều đó trong bài diễn văn đầu tiên lại Đại Hội Thánh Thể tần này, Ngài nói như sau: "Việc rước lễ phải biến đổi người tín hữu Kitô như thế nào để họ sống đức tin và thông truyền đức tin qua những cuộc tiếp xúc với tha nhân".
Gương sáng là hình thức tốt nhất để giảng dạy giáo lý. Các tín hữu Công giáo không phải là những tín hữu tiêu thụ Mình Thánh Chúa Kitô, nhưng còn phải tham dự vào lối sống của Ngài nữa. Đức tin không được thông truyền bằng những quảng cáo hay tuyên truyền, mà phải bằng cả cuộc sống chứng tá. Đó là điều mà thánh Phaolô muốn nhắn gởi chúng ta trong thư I gởi giáo đoàn Côrintô được Giáo Hội trích đọc trong Thánh lễ hôm nay: "Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên để chúc tụng Chúa không phải là thông hiệp với Đức Giêsu Kitô đó sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là Thân Mình Chúa Giêsu đó sao? Vì chỉ có một tấm bánh nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì tất cả chúng ta thông phần cùng một tấm bánh".
Chia nhau một tấm bánh là chính Đức Giêsu Kitô, cử chỉ này nhắc nhớ cho chúng ta rằng sống là trao ban, sống là chia sẻ, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau. Sống như thế chúng ta làm chứng tá cho những người xung quanh thấy rằng, Đức Giêsu Kitô chính là sức sống của con người và sống đích thực là sống yêu thương.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Tấm Bánh mà chúng ta sắp chia cho nhau trong Thánh lễ hôm nay mang lại cho chúng ta sức sống mới, để chúng ta tiếp tục thành chứng nhân tình yêu của Ngài. Amen.
Một trong những hay nhất của cuộc đời Chúa Giêsu là truyện Chúa bồng ẵm một em bé. Các: THÁNHTHỂ-16
Một trong những truyện hay nhất của cuộc đời Chúa Giêsu là truyện Chúa bồng ẵm một em bé. Các tông đồ tranh cãi xem ai là người cao cả nhất. Chúa Giêsu bảo các ông: “Ai muốn ở bậc nhất thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”. Rồi Chúa dắt một em bé lại và để em đứng giữa các ông. Chúa bồng ẫm em và nói: “Ai đón nhận một trẻ nhỏ như em bé này vì danh Ta là đón nhận Ta, và ai đón tiếp Ta, thì không phải đón tiếp Ta, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Ta” (Mc 9,36).
Theo truyền tụng thì em bé này sau trở nên thánh Ignatiô thành Antiochia, Ngài đã hiến dâng mạng sống vì Chúa Kitô năm 107. Khi còn là thiếu niên, Ignatio thường dẫn bạn bè tới nơi mà Chúa Giêsu đã bồng ẵm cậu và bảo bạn bè: “Các bạn coi đó. Đây là chỗ Chúa Giêsu đã bồng ẵm tôi”.
Nếu bạn muốn, bạn có thể coi đó là câu chuyện tưởng tượng của thời trung cổ, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã bồng ẵm một em bé. Sự kiện đó hôm nay làm nổi bật tư tưởng của tôi, nghĩa là trong sự Hiệp lễ, chúng ta không chỉ ôm ẵm Chúa Giêsu, nhưng chính Ngài cũng ôm ẵm chúng ta.
Có lẽ không bao giờ bạn nghĩ đến sự Hiệp lễ trong cách này. Chúng ta nói trực riếp: “Tôi đón nhận Chúa Giêsu trong sự hiệp lễ... Chúa Giêsu ngự vào trong lòng tôi”. Chúng ta nói về những hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta. Chúa Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Ai ăn Thịt ta và uống Máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Chúng ta có thể nói như thánh Ignatiô: “Đây là nơi Chúa Giêsu bồng ẵm tôi”.
Thánh Cyrilo thành Alexandries so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hòa lẫn với nhau. Thánh Têrêxa thành Lisieux đã diễn tả sự hiệp lễ lần đầu của Ngài như là sự hoà tan với Chúa Kitô.
Bạn hãy tưởng tượng một em bé chạy lại gặp cha nó. Nó giang cánh tay nhỏ bé quàng vào cổ cha nó. Cố sức ôm chặt lấy cha nó. Nhưng người cha bồng lấy đứa con trong vòng tay to khỏe, ôm ấp đấ yêu thương. Sự hiệp lễ cũng phần nào giống như thế. Chúng ta ôm ẫm Chúa Kitô. Chúng ta đón rước Ngài ngự vào lòng ta. Chúa Giêsu ôm ẫm ta, đưa ta vào lòng Ngài.
Bạn hãy suy nghĩ điều này và bạn bắt đầu nhận thức rằng sự quan trọng không phải là tình yêu, lòng khát khao hay những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dầu tất cả cần phải có. Sự quan trọng nhất là tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Ngài ước mong ôm ẵm chúng ta, chia sẻ chính đời sống Ngài cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ở lại trong Ngài như chúng ta muốn Ngài ở lại trong chúng ta.
Sự thật kỳ lạ này chúng ta cử hành hôm nay, ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, tôn vinh Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Trong sự buồn thảm của tuần thánh, chúng ta đã làm mới lại ngày thứ năm thánh đầu tiên, khi Chúa Giêsu trao ban chính Ngài cho các tông đồ, và các ông được dâng chính mình cho Ngài. Sự thật vui mừng lớn lao quá, chúng ta muốn cử hành một cách dặc biệt trong một ngày đặc biệt, Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta ước ao làm mới lại ước vọng được ôm ẵm Chúa Kitô và được Ngài ôm ẵm chúng ta.
Trái bom nguyên tử đầu tiên đã nổ tại Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945. Năm giờ rưỡi sáng hôm sau, một thánh lễ được cử hành ở ngoại ô thành phố giữa những nạn nhân nằm la liệt.
Linh mục giám đốc tập viện Dòng Tên mở cửa nguyện đường đón nhận họ và tìm cách săn sóc họ. Về sau, khi đã trở nên Bề Trên Cả Dòng Tên, cha giám đốc tập viện Pedro Arrupe kể lại cảnh tượng sáng hôm đó như sau: “Nguyện đường tập viện chúng tôi phân nửa đã bị tàn phá, khi ấy tràn ngập những người bị thương do bom nguyên tử. Họ nằm la liệt bên nhau trên nền nhà, co quắp lại, bị đau khủng khiếp. Tôi khởi sự dâng thánh lễ, ráng tập trung trong một thế giới chẳng hiểu biết gì về những điều đang thực hiện trên bàn thờ. Họ là người ngoại đạo chưa hề dự một thánh lễ. Tôi không thể nào quên được cử chỉ tôi làm khi hướng về họ và nói: Chúa ở cùng anh chị em, giữa cảnh họ đang chịu đau đớn. Tôi hầu như bị tê liệt với hai tay giang ra mà tôi nghĩ tới thảm kịch con người dùng tiến bộ khoa học và kỹ thuật để tiêu diệt loài người. Đáp lại là những cặp mắt của những nạn nhân đang chờ nguồn an ủi nào đó từ bàn thờ giữa cảnh họ đang hấp hối và tuyệt vọng (...)
Sáu tháng sau, tất cả các nạn nhân được chữa trị đều trở về nhà, chỉ trừ hai người đã chết. Nhiều người trong số họ đã chịu Phép Rửa và ai thì cũng được biết thế nào là đức Ái Kitô giáo. (...)
Bài Tin Mừng hôm nay nói về nguồn gốc của Đức Ái đó khi vọng lại lời Đức Giêsu tuyên bố tại Caphacnaum rằng: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (c.56). Lời tuyên bố ấy có ý nghĩa gì?
Tìm hiểu nội dung bài Tin Mừng
Quả thật, lời đó làm chói tai người nghe (c.60) đến nỗi nhiều môn đệ rút lui không đi theo Đức Giêsu nữa (c.66). Với người Pharisêu và một số môn đệ, Đức Giêsu có vẻ ăn nói chẳng nghiêm túc, thậm chí có vẻ điên rồ và thô thiển, không thể chấp nhận được.
Thực ra, trong Tin Mừng Gioan, lời Đức Giêsu nói rất thường xuyên có hai nghĩa: Nội dung lời nói thế này mà lại ám chỉ đến những điều khác sâu xa, quan trọng hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, các từ thịt và máu ám chỉ con người toàn diện. Như vậy, khi nói rằng thịt và máu Ngài là của ăn, Đức Giêsu không muốn nói đến thịt và máu Ngài nhưng chính Con Người của Ngài, một Con Người Thiên Chúa. Hình ảnh tuyệt hảo của Thiên Chúa Cha. Chính Con Người đó mới có thể làm thoả mãn những cơn đói sâu xa và kinh khủng của loài người.
Ăn uống là một việc rất quen thuộc và cần thiết của con người. Sống là người thì có nghĩa là phải ăn. Ăn uống không hề là một việc tầm thường hay là một việc đáng khinh bỉ, hoặc phải tránh né, vì nó gắn liền với sự sống con người vốn là chuẩn mực cho mọi giá trị cao quí nhất, đáng theo đuổi nhất. Như vậy, con người, theo bản chất của mình, khi nói đến sự sống là phải nói đến việc ăn uống.
Việc phải ăn, phải uống nói lên giới hạn của con người. Giới hạn đó còn được thể hiện nơi vô số những cơn đói khác của con người.
Ngoài cơn đói chất dinh dưỡng, con người luôn thấy mình khắc khoải, nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Dường như khát mong hạnh phúc của con người chưa bao giờ được đáp ứng cách thoả mãn. Đức Giêsu hôm nay hứa sẽ lấp đầy vực thẳm khát vọng đó bằng của ăn thật là chính Ngài.
Đức Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể đã dùng khái niệm ăn uống của con n gười để nói về sự sống. Nhưng Người nói đến của ăn thật và sự sống thật. Của ăn thật là chính Con Người “từ trời xuống” mà Chúa Cha ban cho nhân loại. Của ăn đó không những siêu việt trên mọi của ăn dinh dưỡng bình thường do bàn tay con người làm ra mà còn trên cả của ăn do lòng tin tôn giáo của Cựu Ước tin là do bàn tay Thiên Chúa ban tặng nữa, đó chính là Manna vậy. Sở dĩ như thế là vì của ăn đó trao ban sự sống thật cho con người, không phải sự sống bị ăn mòn do thời gian và phải dừng lại trước cái chết, mà là sự sống phát xuất từ Cha, Đấng sai phái và là nguồn sống của Đức Giêsu.
Nhưng sự sống đó là như thế nào? Nếu như câu 54 nói: ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời..., thì câu 56 nói: ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Vậy sự sống ấy hệ tại ở việc kết hợp với Đức Giêsu. Nó không hệ tại ở một hiện hữu trong không gian và thời gian, một hiện hữu vật lý, hay tâm lý, nhưng là nơi một hiện hữu trong Đức Giêsu, Đấng cũng đã hiện hữu trong không gian và thời gian; đã chết và phục sinh, và nay đang hiện hữu cách hữu hình nơi Bí Tích Thánh Thể. Bất cứ ai, ở mọi thời mọi nơi, nếu tiếp nhận Đức Giêsu, một người Nadarét, như Đấng đến từ Cha, thì sẽ có được sự sống dồi dào, thoả mãn mọi khát vọng của mình.
Bí Tích Thánh Thể - Dấu chỉ hữu hình của Tình Yêu siêu việt
Bí Tích Thánh Thể lại một lần nữa làm cho tôi kinh ngạc và cúi đầu thán phục trước sáng kiến vĩ đại của mầu nhiệm Nhập Thể, một sáng kiến chỉ có thể là sáng kiến của Tình Yêu. Chính để cứu chuộc con người mà Thiên Chúa đã nên một Con Người như ta. Chính để trao ban Sự Sống Đích Thực cho ta, mà Ngài đã trở nên của ăn thật sự, cụ thể cho ta. Điều kỳ diệu là sức sống thiêng liêng lại có thể ban cho ta qua Bàn Tiệc rất hữu hình và cụ thể. Ta không chỉ ăn Đức Giêsu cách biểu tượng và mầu nhiệm, mà còn một cách thực sự hữu hình và vật chất. Đó chính là sự kỳ diệu của Bí Tích vậy. Hội Thánh của Đức Giêsu được nuôi dưỡng bởi chính những dấu chỉ hữu hình đó. Thán phục trước sự kỳ diệu đó, tôi thấy mình được mời gọi yêu mến Hội Thánh, Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Giêsu hơn, với những phương tiện hữu hình, giới hạn nhưng đem lại sức sống dồi dào của Mẹ Thánh.
Đức Giêsu ban sự sống cho ta không với tư cách một người ban phát từ bên ngoài, nhưng Ngài tự nguyện trở thành của ăn cho ta. Đó là một hành vi tự nguyện tiêu tan đi, để cho kẻ khác nhờ đó mà được sống, tựa như hạt giống kia mục nát đi để đem lại sự sống cho vô số hạt khác. Một hành vi phục vụ đúng nghĩa. Tôi tự hỏi mình đã có một ước muốn phục vụ đích thực theo nghĩa là dám tự nguyện quên mình để nghĩ đến lợi ích người khác hay chưa.
Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của sự hiệp thông. Thánh Thể hiện diện nơi Nhà Tạm là trung tâm của cộng đoàn tụ họp lại trong tình huynh đệ, dâng lên Cha hiến lễ chính Người Con. Vì Hội Thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, nên khi dâng lên Cha Người Con, cộng đoàn tụ họp cũng dâng lên Cha chính mình với tư cách là Hội Thánh, Thân Mình của Đức Kitô vậy. Và khi cử hành Bàn Tiệc Thánh, cộng đoàn cũng cử hành mầu nhiệm hiệp thông vậy. Làm cho tôi được kết hợp với Đức Giêsu Phục Sinh, Bí Tích Thánh Thể còn liên kết tôi với anh chị em khác vốn cũng đang mang Đức Giêsu trong mình: bởi vì họ cũng được Ngài yêu mến, hiến thân cho. Liệu tôi có thể yêu mến Đức Giêsu đích thực không khi tôi chẳng yêu thương những người mà chính Ngài yêu thương đến nỗi hiến mạng vì họ? Nếu tôi yêu mến Thánh Thể của Đức Giêsu, thì liệu tôi có sẵn sàng quan tâm, săn sóc những thành phần đau yếu nghèo đói, bị bỏ rơi của Nhiệm Thể Ngài là Hội Thánh chăng? Còn biết bao anh chị em trong cùng Thân Thể với tôi đang rên xiết dưới sức nặng của đau khổ và cần tôi giúp đỡ và yêu mến. Chính Bí Tích Thánh Thể là nguồn sức mạnh khiến tôi có khả năng yêu mến và thể hiện Tình Yêu đó cho anh chị em tôi.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Các nạn nhân bom nguyên tử Hiroshima được chữa lành tại tập viện Dòng Tên, dễ dàng nhận biết Đức Giêsu ở trong ai đang thúc đẩy người ấy săn sóc họ?
2. Bạn nghĩ gì về phản ứng của người Do Thái trước lời tuyên bố của Đức Giêsu trong câu 56? Nếu bạn là họ, bạn sẽ phản ứng ra sao?
3. Có khi nào bạn nghiệm được điều gì lạ thường về Bí Tích Thánh Thể? Xin vui lòng chia sẻ kinh nghiệm đó.
“Bánh hằng sống chính là Ta... Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời'' (Gn 6:51-58).
Theo sinh vật học, khi cơ thể con người thiếu đi những chất dinh dưỡng cần thiết, lúc bao tử: THÁNHTHỂ-18
Theo sinh vật học, khi cơ thể con người thiếu đi những chất dinh dưỡng cần thiết, lúc bao tử không đủ cung cấp cho các tế bào những sinh tố căn bản thì tay chân run lên, tai ù đi, mắt mờ lại. Các hoạt động của mọi cơ phận khác cũng bị trì trệ. Lý trí dễ mất khả năng cảm nhận, suy xét và quyết định chính xác. Hậu quả là người ta mất dần những cảm quan và tương giao với tha nhân và với môi trường chung quanh. Khi bị cơn đói dày xéo, con người có thể trở nên tàn nhẫn với người khác hay bán đứng nhân phẩm của mình.
Trong Tân ước, hình ảnh của "người con hoang đàng" cũng đủ cho thấy cơn đói không những dễ khiến người ta đánh mất nhân quyền, nhưng còn nhân phẩm, và danh dự dân tộc. Vì đói anh ta chấp nhận đồng hàng với... heo.
Người Do thái coi heo là con vật ô uế bẩn thỉu. Lịch sử chứng nhận có người thà mất mạng sống còn hơn ăn thịt heo, như trường hợp "Cụ Già Elêaza" hay "Bà Mẹ Với Bảy Người Con" trong sách Macabêô. Truyền thống oai hùng xa lánh loài heo là thế. Vậy mà, vì đói người con hoang đàng chẳng màng chi nhân phẩm hay danh dự; anh chỉ mong ngốn cho đầy bụng đồ ăn của heo, một sản phẩm còn dơ nhớp hơn cả thịt heo. Thật là nhục nhã!
Người đói, kẻ nghèo không chỉ thuần tuý chịu đựng những hành hạ của thiếu thốn, nhưng lắm khi còn bị đồng loại khinh miệt và đối xử kém thua loài vật. Hình ảnh Lazarô và ông phú hộ trong Phúc âm Luca đã phác hoạ hố sâu ngăn cách giữa hai con người và hai cảnh sống. Lazarô thì nghèo quá và đói quá. Nhà phú hộ lại giàu quá và no đủ quá, cứ ngày ngày "yến tiệc linh đình". Khoảng cách giữa hai con người còn bị đào sâu bởi thái độ lạnh lùng thờ ơ của nhà phú hộ. Tâm hồn ông dường như không chút dao động trước con người sắp chết vì đói. Riêng Lazarô, không được dự phần bàn tiệc với người giàu đã đành, ngay như muốn dự phần với chó mà đợi hoài cũng chẳng thấy chi.
Đói nghèo đúng là kẻ thù của nhân phẩm, nhân quyền và sự sống. Thế nên, Giáo hội không thể ngồi yên khi phẩm giá con người bị đe doạ và tổn thương. Giáo hội Chúa Kitô không bao giờ chấp nhận vì giàu nghèo mà có cảnh con người bị đối xử như con thú.
Từ thuở khai sinh, Giáo hội không ngừng lên tiếng kêu gọi con cái mình đối xử công bằng và tôn trọng lẫn nhau, đừng khinh nghèo chuộng giàu, đừng thấy người ăn mặc bảnh bao mà xun xoe: "Mời ông an toạ nơi này", "mời ngài ngự tới nơi kia", còn người nghèo thì: "Hãy ngồi dưới bệ chân tôi" hay "anh hãy đứng đó" (Gc 2).
Nhưng do đâu có cảnh giàu nghèo? Phải chăng vì lòng ích kỷ, tham lam, và bất công của con người. Vì ích kỷ nên không muốn mất đi những gì đang có, sợ phải chia sẻ trao ban. Vì tham lam nên mạnh tay thu vét, bất chấp đúng sai, miễn sao có càng nhiều càng tốt.
Lòng ích kỷ, tính tham lam, sự bất công là những nguyên nhân trực tiếp tạo nên đói nghèo. Nhưng suy cho cùng, nguyên do chính yếu khiến cho con người trở nên hà tiện, gian dối, tàn ác, bất công là vì thiếu yêu thương.
Thiếu yêu thương nên khoá lòng khi gặp người đói khổ, không muốn san sẻ với kẻ chẳng may, đối xử với nhau mất hết tình người, và đánh mất nhân phẩm của mình cũng như đồng loại.
Vì thiếu yêu thương mà đói nghèo nảy sinh, không chỉ về thân xác vật chất, song còn cả linh hồn thiêng liêng.
Đức Giêsu đã đến trong thế gian để rao giảng cho con người Tin Mừng Tình Yêu và cũng là Tin Mừng Sự Sống. Ngài mời gọi con người chia cho nhau những nén bạc hồng ân mà Thiên Chúa ban tặng, làm phong phú sự sống tha nhân trong tinh thần yêu thương sẻ chia.
Không chỉ mời gọi, Đức Giêsu còn là mẫu gương của thương yêu và trao ban tận cùng. Ngài trao ban chính mình để thế gian được sống và sống dồi dào (Gn 10:10). Ngài tự hiến toàn thân làm lương thực xoa dịu cơn đói khát của tâm hồn nhân thế.
Làm no thoả cơn đói sâu thẳm nơi con người là mục tiêu căn bản trong hành trình rao giảng của Đức Giêsu. Qua tấm bánh vật chất, Ngài hướng nhân loại đến với tấm bánh thần linh: "Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống... cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời" (Gn 6:51-59).
Như thế, tấm bánh thần linh chính là Ngài. Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể sẽ xoa dịu cơn đói khát tận cùng nhất của con người là yêu và được yêu.
Khi yêu thương người ta muốn hoà chung sự sống trong nhau để không còn là hai nhưng là một. Phải chăng đó cũng là lý do nhiều người hôn nhau mà cứ như ăn nhau? Có những bà mẹ thương con, vừa hôn vừa nựng: "Mẹ muốn ăn con".
Phải chăng yêu thương cũng chính là động lực khiến Thiên Chúa hủy mình, trở nên tấm bánh đơn sơ để được ăn và nên một với con người. Bài Phúc âm trong Chúa nhật Mình Thánh Chúa tuần này không dài nhưng động từ "ăn" lại được lập đi lập lại đến 9 lần.
Thiên Chúa không ăn con người nhưng lại để con người ăn Thiên Chúa. Song khi ta ăn Chúa thì không thuần tuý là ta rước Chúa vào lòng, nhưng đúng hơn, Ngài rước ta vào cung lòng yêu thương bao la của Ngài.
Trong Bí tích Thánh Thể, bạn và tôi được mời gọi nên một với Thiên Chúa bằng tình yêu đón nhận, đồng thời nên một với tha nhân trong tinh thần chia sẻ trao ban, hầu tất cả cùng được sung túc trong tình Chúa và tình người.
Nếu đặt câu hỏi: "Tại sao ông bà (anh chị) tham dự thánh lễ?", chúng ta sẽ có nhiều câu trả: THÁNHTHỂ-19
Nếu đặt câu hỏi: "Tại sao ông bà (anh chị) tham dự thánh lễ?", chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau: nào là để gặp lại anh chị em Kitô hữu làm thành một cộng đoàn, hiệp nhất trong một niềm tin, nào là để cầu nguyện, để nuôi dưỡng đức tin, để lắng nghe Lời Chúa... Qua tất cả những câu trả lời này, chúng ta thấy rằng đi lễ đem lại rất nhiều lợi ích. Tốt! Nhưng chúng ta chưa đề cập đến điểm chính yếu của thánh lễ.
Thánh lễ là một bí tích, một hiện thực cứu độ trong đó Chúa Kitô tự hiến mình cho chúng ta qua nghi thức phụng vụ. Chúa Giêsu nói: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ai bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Khi Chúa Giêsu nói về thịt Người làm lương thực, đó không phải là xương, thịt, gân cốt hoặc một phần thân thể nào đó, mà là toàn diện bản thân Người. Khi Chúa Giêsu nói đến việc cho máu của Người làm thức uống, không phải Người nói đến thứ chất lỏng màu đỏ mà là sự sống làm cho con người được sống. Nói đến mình và máu Chúa Giêsu tức là nói đến chính bản thân và sự sống của Người.
Chính bởi thân thể và máu của mình, Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử loài người. Thánh lễ là sự nhập thể luôn tiếp diễn. Thánh Tôma Aquinô có nói: "Thánh lễ là phép lạ lớn nhất của Chúa Giêsu".
Trong thánh lễ, chúng ta cử hành việc hiến mình của Chúa Kitô làm lễ dâng lên Chúa Cha, và cùng với Người, chúng ta dâng hiến bản thân của mình. Chúng ta dâng bánh và rượu, là hoa màu ruộng đất và cũng là thành quả lao động con người. Bánh và rượu là những thức ăn thuộc về con người. Do đó, khi dâng lên Chúa Cha bánh và rượu để trở thành mình và máu Chúa Kitô, chúng ta dâng lên Người những hoạt động chân tay và tinh thần, dâng lên Người đời sống của chúng ta với tất cả nỗi vui buồn. Kết hợp với hy lễ của Chúa Kitô, Chúa Cha làm cho của lễ này có tầm vóc thần linh và vĩnh cửu. Từ đó, bánh và rượu biểu tượng cho cuộc sống toàn diện của chúng ta. Tóm lại, bánh và rượu đại diện cho chính chúng ta. Trong đức tin, bánh và rượu này, tuy không thay đổi thành phần vật lý và hóa học, bấy giờ trở thành chính Chúa Kitô, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Thánh lễ là sự chuẩn bị cho hiệp lễ (communion, kommunion), hay nói một cách chính xác hơn, toàn thánh lễ trở thành hiệp lễ. Thánh lễ phát triển tác động của Chúa Kitô làm cho chúng ta trở thành thân thể huyền nhiệm của Người, tức là Giáo Hội. Vậy là chúng ta đã hiểu hiệp lễ quan trọng như thế nào: hiệp lễ tóm lược toàn bộ thánh lễ.
Nhiều lúc chúng ta không dám lên rước lễ vì nghĩ rằng mình không xứng đáng. Thực ra, rước lễ không phải là một công trạng hay phần thưởng cho những ai sống gương mẫu, thánh thiện. Rước lễ là một lương thực. Chúng ta hãy nhớ lại câu mà cộng đoàn đọc trước khi rước lễ: "Lạy Chúa, con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh". Qua câu nói này, điểm chính yếu không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, mà ngược lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi, nhưng là một ân huệ. Hơn nữa, thánh lễ không phải là một ân huệ trong số những ân huệ khác. Thánh lễ là chính Chúa, Đấng ban ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của chúng ta lớn đến mức không thể nào nêu lên vấn đề chúng ta có xứng đáng hay không để rước Chúa Kitô vào lòng.
Lời nguyện trên lập lại lời của viên sĩ quan đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình: "nhưng xin Ngài phán một lời" (Lc 7,7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu "Hãy cầm lấy mà ăn" quan trọng hơn là việc tìm kiếm phẩm cách của chúng ta.
Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị vạ tuyệt thông hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể vào lúc rước lễ, chúng ta cảm thấy thực sự chưa sẵn sàng trong tâm hồn để tiến lên đón nhận Mình thánh Chúa. Rước lễ là một cử chỉ biểu hiện đức tin cao độ, vì thế phải cố gắng làm sao tránh rước lễ một cách máy móc và nhàm chán.
Tuy nhiên, cử hành thánh lễ mà không thể rước lễ là một thái độ đáng tôn trọng. Đức Cha Jacques Jullien, trong tác phẩm "Demain la famille" (Gia đình ngày mai) đã viết: "Có một số người không thể rước Chúa một cách trọn vẹn, đó là nỗi khổ của họ. Nhưng họ có thể rước Lời Chúa, kết hiệp với Chúa, với nhiệm thể của Người là Giáo Hội và hoạt động theo ân huệ của họ".
Khi chia sẻ tấm bánh duy nhất, Chúa Kitô thực hiện ý muốn của Người là làm cho chúng ta thành một thân thể, thân thể của chính Người. Rồi Người sai chúng ta đến với anh chị em. Chúa cần và mong chờ chúng ta xây dựng một thế giới công bằng và bác ái.
Ước gì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa và kết hiệp với nhau. Amen.
Truyện xưa Trung Hoa kể lại: Ở đất Ngô có người nọ đi đến kinh thành, người quen thân ở trong thành: THÁNHTHỂ-20
Truyện xưa Trung Hoa kể lại: Ở đất Ngô có người nọ đi đến kinh thành, người quen thân ở trong thành bày yến tiệc đãi ông ta. Trên bàn có một loại sản phẩm sữa gọi là lạc tô, mùi thơm hợp khẩu vị, nhưng không thể ăn nhiều trong một lúc, người đất Ngô lần thứ nhất được ăn, cảm thấy ăn rất ngon, bèn ăn một bữa đến to bụng, chủ nhân cũng không tiện ngăn cản. Kết quả là sau khi về nhà không ngừng nôn ọe, toàn thân trong tình trạng mệt mỏi đến cực độ. Người đất Ngô nghĩ rằng chủ nhân ở kinh thành cho ông ta ăn đồ nhiễm độc, bèn nói với các con rằng: “Từ này về sau các con đi đến miền Bắc, cần phải cẩn thận không được bạ đâu ăn đó đồ của người miền Bắc".
Cách ăn uống cũng diễn đạt được văn hóa của con người. Có người khi vào bàn ăn thì y như là chết đói... trăm năm, gắp món này, chọn món nọ mà không ý tứ giữ phép lịch sự; có người khi vào bàn ăn thì nói... văng cả nước bọt trên thức ăn, thấy mà ghê ! Và như thế, họ trở thành những con người thiếu văn hóa, ai nhìn cũng chê cười.
Đi rước Mình Thánh Chúa là biểu lộ niềm tin của mình vào Đấng mình tin và yêu, cho nên cần phải có “thái độ văn hóa”, “hành vi văn minh”, có nghĩa là khiêm tốn trong hành vi, nhã nhặn trong thái độ, để tham dự tiệc Chiên Thiên Chúa, đó cũng là một cách truyền giáo của người Ki-tô hữu.
Có rất nhiều lần tôi đã có thái độ thiếu văn hoá văn minh khi rước Mình Thánh Chúa: ăn mặc "kinh dị", áo quần xộc xệch, thái độ không cung kính nghiêm trang, và khi đi rước Thánh Thể thì giống như đi... mua vé vào cửa để coi phim, nói nói cười cười v.v... Và tệ hơn nữa là tôi chưa chuẩn bị tâm hồn thật trong sạch để rước Chúa.
Khi được hỏi: "Động lực nào thúc đẩy bạn đi tìm hiểu đạo ?" Một trong các bạn dự tòng viết: “Tôi có vài người bạn Công Giáo mấy lần ngồi uống cà-phê hay bàn chuyện làm ăn. Họ xem đồng hồ cáo từ để về đi Lễ Chúa Nhật. Tôi thấy thắc mắc, từ chỗ thắc mắc dẫn đến tò mò vào đi Lễ thử. Sau vài lần bắt đầu suy nghĩ và tìm hiểu đạo...”
Ngược lại có lần một người Công Giáo hỏi tôi: “Cha có thấy trái tai gai mắt khi thấy cảnh người ta đi lễ mà đứng ở ngoài đường vừa nói chuyện vừa xem lễ không ?” Khách quan mà nói thì đôi khi cũng không còn chỗ ngồi nên họ mới đứng ở ngoài. Nhưng cũng phải nói thật là cũng có một số người thích đứng ở ngoài. Tự nhiên tôi nghĩ: Hành động ấy có phải xuất phát từ một quan niệm hơi thô thiển và ngây ngô về Đức Tin chăng ? Ví dụ như phải đi Lễ vì sợ hãi mất linh hồn.
Thánh Lễ không phải chỉ đơn thuần là một bổn phận đạo đức mà chúng ta phải thực hiện cho xong. Thánh Lễ là tóm kết tất cả những ý nghĩa và hướng đi đời sống của người Công Giáo. Đấy chính là điều hôm nay tôi muốn chia sẻ với anh chị em.
Trong Bữa Tiệc Ly cuối cùng với các môn đệ Chúa Giê-su cầm lấy tấm bánh, chúc tụng, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, Ngài phán: "Này là mình Thầy" ta thấy có 4 động từ đơn sơ lắm: "cầm lấy – tạ ơn – bẻ ra – trao cho". 4 động từ này tóm hết tất cả ý nghĩa và hướng đi đời sống chúng ta.
"Cầm lấy". Người tin vào Chúa thì tin rằng Thiên Chúa chạm đến cuộc đời hay nói theo ngôn ngữ của Kinh Thánh là Thiên Chúa kêu gọi, Thiên Chúa tuyển chọn. Đây là cái nhìn đặc biệt của người Ki-tô hữu về cuộc sống. Chúng ta tin rằng mình có mặt ở trong cuộc đời là xuất phát từ tiếng gọi yêu thương của Thiên Chúa. Cha mẹ là người cộng tác với Thiên Chúa để ban tặng sự hiện hữu của mình. Nhưng chính Chúa mới là cội nguồn của sự sống. Chính vì vậy ngươi Công Giáo Việt Nam không phủ nhận việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đặt việc thờ cúng vào đúng vị trí của nó. Bởi vì tổ tiên ban tặng sự sống cho tôi, đồng thời tổ tiên của tôi cũng đón nhận sự sống từ nơi Thiên Chúa.
Khi chúng ta tuyên xưng: cuộc đời mình xuất phát từ yêu thương của Chúa. Điều đó có nghĩa là ta sẽ sống cuộc đời này với một cảm nhận rằng: Tôi được yêu. Về mặt tâm lý, các nhà tâm lý nói rằng cảm nhận này quan trọng lắm. Chúng ta đã sống trong sự cảm nhận được Cha Mẹ yêu thương thì cũng dễ cảm nhận được sự yêu thương của Thiên Chúa.
Tâm tình thứ 2 là “chúc tụng, tạ ơn” Chúa. Hình như nhiều khi chúng ta quên chúc tụng – tạ ơn. Nếu được đọc những lời kinh của người Do-thái chúng ta sẽ khám phá một điều rất lạ: Lời kinh của họ toàn là lời chúc tụng tạ ơn. Vừa thức dậy: "Lạy Chúa, con chúc tụng Chúa, tạ ơn Người, vì người ban cho con sự sống". An sáng đi làm: "Lạy Chúa, con chúc tụng tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho con cơm ăn, áo mặc." Còn chúng ta quên điều tốt đẹp này mà chỉ quen xin xỏ, đôi khi còn xin những điều không nên.
Động từ thứ 3 "trao cho". Cuộc sống của người tin vào Chúa là một cuộc sống ý thức rằng: Mình là một tấm bánh mà Thiên Chúa trao ban cho người khác. Hiện hữu Ki-tô Giáo là một hiện hữu được cho đi. Trong đời chúng ta có khi nào cảm nhận một ai đó trở thành như một tấm bánh trao cho mình. Nhờ tấm bánh đó mà đời mình thay đổi, đời mình được vui hơn không ? ý nghĩa hơn không ? Người đó có thể là cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè. Muốn là một tấm bánh ngon để trao cho người khác, ta phải chấp nhận sống động từ thứ 4. "bẻ ra".
Để có một tấm bánh ngon phải có muôn ngàn hạt lúa miến được nghiền nát thành bột. Trộn với nước, tráng nướng trên lửa.Tấm bánh lớn như vậy được bẻ ra trao cho chúng ta. Cho nên hệ thống của mầu nhiệm Thánh Thể chính là hệ thống của tấm bánh chấp nhận bẻ ra, chấp nhận hy sinh chính mình mới có thể trở thành của ăn nuôi sống người khác.
Có 4 động từ chúng ta nên nhớ. Dù mình là thành phần nào chúng ta cũng được mời gọi sống ý nghĩa đó. Có chăng là mỗi người thể hiện một cách khác.
Xã hội hiện tại ngày nay càng có nhiều gia đình đổ vỡ, tình yêu của các bạn nam nữ càng lúc càng trở nên dung tục, nặng nề tình dục, chiếm hữu và chiếm đoạt. Tại sao các bạn nam nữ không thấy cử chỉ Thánh Thể đó như là nguồn sáng soi dẫn cho đời sống của mình. Khi dâng lễ cưới tôi nhớ có một lời cầu nguyện của Giáo Hội có ý nghĩa rất hay: "Lạy Cha xin cho hai người vừa cử hành Bí Tích Hôn Nhân biết chia sẻ cho nhau nhiều hồng ân mà vì yêu thương Chúa đã ban tặng". Khi người này tỏ ra cho người kia thấy mình là dấu chỉ sự hiện diện của Cha, là quà tặng của Cha thì cả hai được nên ý hiệp tâm đầu.
Nếu hai bạn trẻ biết nhìn nhau như là quà tặng của Thiên Chúa trao ban thì tình yêu ấy rất thiêng liêng, cao cả. Ta không thể biến người bạn của mình như một thân xác chỉ cần chiếm hữu rồi thôi, sống tâm tình ấy, thì chính ta cũng phải là một món quà mà Thiên Chúa trao gởi cho người bạn đời của mình. Như vậy thì chúng ta phải làm sao để cuộc đời mình trở thành Món Quà dễ thương, trở thành một tấm bánh ngon.
Khi ta mong muốn bạn mình tốt đẹp, hoàn thiện thì chúng ta cũng đừng quên chính bản thân mình cũng phải thực hiện điều ấy. Như trong đời sống gia đình ai cũng hướng đến mục tiêu đòi hỏi người bạn đời của mình phải hoàn thiện, nhưng chính bản thân thì lại không hoàn thiện.
Trong Thánh Lễ thì thực hiện cử chỉ Thánh thể là nhắc ngay đến đời sống gia đình, ngay trong tình yêu rất đẹp của các bạn nam nữ. Chúng ta phải làm sao để nhìn nhau như là quà tặng của Thiên Chúa. Và chúng ta cố gắng biến cuộc đời mình thành một quà tặng dễ thương của Chúa trao ban cho bạn mình.
Mỗi khi dâng Thánh Lễ vừa được nhắc nhở, vừa đón nhận sức mạnh của Chúa Giê-su để sống ý nghĩa thiêng liêng cao cả, Thánh Lễ không chỉ là bổn phận đạo đức mà chúng ta phải cố làm cho xong. Chúng ta phải hiểu Thánh Lễ thực sự là trung tâm của đời sống Đức Tin của mình.
Ước gì mỗi lần tề tựu lại đây để dâng Thánh Lễ, chúng ta sẽ được Thiên Chúa nhắc nhớ về ý nghĩa đời sống cũa mình như một tấm bánh. Ước gì khi chúng ta rước lễ Chúa sẽ ban sức mạnh để chúng ta được phần nào giống như Chúa là tấm bánh được bẻ ra trao cho chúng ta. Nhờ thế chúng ta được sống. Amen
Ethiopia đã trải qua một nạn đói kinh khủng trong những năm 1984-1986. Hồng y Hume của giáo phận Westminter kể lại một chuyện đã xảy ra khi ngài viếng thăm đất nước này giữa nạn đói những năm ấy. Một trong những nơi ngài đã viếng thăm là một khu định cư nằm trên những ngọn đồi nơi mà cư dân đang chờ lương thực tiếp tế nhưng không thể nào tới được. Một chiếc trực thăng đã đưa ngài đến đó.
Khi ngài vừa bước xuống trực thăng thì có một cậu bé độ mười tuổi, chạy đến và nắm tay ngài. Cậu bé chẳng mặc gì cả ngoại trừ một chiếc khố. Cậu bé không rời vị Hồng y nửa bước và không chịu bỏ tay ngài ra từ lúc ngài đến nơi này.
Khi mọi người đi dạo quanh thì thằng bé đã làm hai cử chỉ: một tay nó chỉ vào miệng của nó, còn tay kia nó nắm lấy tay của vị Hồng y và xoa trên gò má của nó.
Sau đó vị Hồng y nói tiếp, ‘Đây là một cậu bé mồ côi bị lạc và bị đói. Song qua hai cử chỉ đơn giản, cậu bé đã biểu lộ hai nhu cầu hay hai ước muốn căn bản của chúng ta. Với một cử chỉ, cậu bé chứng tỏ cho tôi biết nó đang đói cần ăn uống, và cử chỉ kia bày tỏ ước muốn được yêu thương.
“Tôi không bao giờ quên chi tiết này, và đến ngày hôm nay, tôi không biết cậu bé đó có còn sống hay không nữa. Tôi nhớ rằng khi tôi bước lên phi cơ, cậu bé đứng đó và nhìn theo tôi một cách hờn dỗi”.
Một người nào đó đã từng nói tiền là một loại giấy thông hành có thể giúp ta đi khắp nơi trừ thiên đàng. Tiền có thể giúp ta mua được mọi thứ, trừ hạnh phúc… Và Chúa Giê su cũng đã từng dạy ta rằng người ta sống không chỉ bằng cơm bánh nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (x. Mt 4, 1-11). Không phải chỉ có tiền, có cơm ăn áo mặc là chúng ta có đủ hạnh phúc, chúng ta còn cần một thứ khác đáng quí hơn: tình yêu - hạnh phúc. Dĩ nhiên chúng ta không thể phủ nhận việc cơm áo gạo tiền hàng ngày vì đó là những gì giúp chúng ta phát triển về thể lý. Song chúng ta cũng cần có một tinh thần lành mạnh bên trong – một tinh thần lành mạnh trong thể xác tráng kiện. Đứa bé mà vị hồng y kể trên cũng nhận thức được điều đó. Nó rất đói và cần cái ăn, song nó cũng cần một điều quan trọng khác nữa, một cử chỉ yêu thương.
Lạy Chúa, nhiều lúc con đã đánh mất Chúa khi con chỉ biết chăm lo cái bên ngoài - thứ mà mối mọt có thể đục khoét và dễ dàng tiêu vong. Xin cho con cần biết quan tâm đến một thứ khác quí giá hơn, thứ mà không ai có thể lấy mất được đó là tình yêu, lòng mến Chúa. Xin cho con có một sự quân bình trong cuộc sống: Lời Chúa và Cơm bánh. Điều quan trọng là con phải biết nhận ra đâu là lẽ sống của đời con. Amen.
1. Thánh Thể là Man-na mới của Giao Ước Mới với Ít-ra-en Mới
a) Trong cuộc hành từ Ai-cập xuyên qua sa mạc khô cằn và nóng cháy hướng về miền đất hứa, dân Ít-ra-en đã gặp phải những đe dọa nghiêm trọng đến sự sống. Họ thiếu cả nước uống lẫn lương thực. Và giữa cơn khốn khó ấy, họ chẳng biết trông cậy vào ai khác ngoài Gia-vê Thiên Chúa, Đấng đã ký kết giao ước và đã luôn trung tín với họ. Thiên Chúa đã ban cho họ nước mát cũng như đã ban cho họ man-na là một thứ của ăn lạ mà chính họ cũng như cha ông họ chưa bao giờ biết tới. Nhờ có nước và man-na Thiên Chúa ban mà họ có đủ sức tiếp tục cuộc hành trình. Nhận man-na mỗi buổi sáng, người Ít-ra-en ý thức rằng cuộc sống của họ tùy thuộc vào Thiên Chúa. Họ cũng hiểu ra rằng con người sống không phải chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ vào Lời Hằng Sống của Thiên Chúa.
b) Đức Giê-su đã dựa vào kinh nghiệm độc đáo ấy của dân mà nói về Thánh Thể. Thánh Thể là Man-na mới cho một giai đoạn mới của lịch sự là Giao Ước Mới. Man-na cũ nuôi dân qua sa mạc. Man-na mới nuôi người tín hữu trong cuộc lữ hành về Quê Trời. Man-na cũ là một loại thức ăn nuôi dưỡng thể xác. Man-na mới là lương thực thiêng liêng, nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Man-na cũ là lương thực chóng hư. Man-na mới là lương thực không bao giờ hư nát.
2. Thánh Thể là sự thể hiện Tình Yêu và Quyền Năng của Con Một Thiên Chúa làm người
a) Nếu chỉ vì yêu thương và trung tín với dân riêng mà Thiên Chúa đã ban man-na để cho họ khỏi bị đói trong sa mạc, thì cũng chỉ vì yêu thương và trung tín với dân được tuyển chọn trong Giao Ước mới mà Đức Giê-su ban Mình Máu mình cho chúng ta. Trước hết và trên hết, Thánh Thể là sự kỳ diệu của Tình Yêu của Con Một Thiên Chúa làm người, một Tình Yêu đầy quyền năng và sáng tạo. Khi nghe Đức Giê-su công bố về ý định thiết lập Thánh Thể, các người Do-thái đã rất có lý khi nêu thắc mắc trong sự kinh ngạc tột cùng: "làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ? - làm sao ông này có thể cho chúng ta uống máu ông ta được ?"
Đức Giê-su đã làm được điều mà con người không thể làm được. Đức Giê-su đã làm được điều mà con người không thể nghĩ ra được. Tình Yêu và Quyền Năng làm nên Phép Thánh Thể. Vì thế khi rước Mình và Máu Đức Giê-su là chúng ta đón nhận Tình Yêu và Quyền Năng của Người, để Tình Yêu và Quyền Năng ấy biến đổi chúng ta ! Chúng ta thử suy nghĩ và tự hỏi: tại sao tôi đã Rước Lễ không biết bao nhiêu lần mà đời sống của tôi không thay đổi được bao nhiêu, mà "vẫn như cũ": hẹp hòi, ích kỷ, ươn lười, biếng nhác, đắm say tội lỗi, ghen tương, đố kỵ người khác ?
b) Nhưng chúng ta không chỉ đón nhận Tình Yêu và Quyền Năng của Thiên Chúa cho riêng chúng ta và "nhốt chặt" Tình Yêu và Quyền Năng ấy nơi chúng ta. Chúng ta phải sống Tình Yêu và Quyền Năng ấy trong đời sống thường ngày của mình, bằng cách làm cho Tình Yêu ấy lan tỏa ra chung quanh và làm cho Quyền Năng thần linh ấy tác động trên những người mà chúng ta gặp gỡ tiếp xúc, trên các thực tại trần thế mà chúng ta đụng tới.
3. Thánh Thể làm nên cộng đoàn hiệp nhất những người cùng ăn một Bánh và cùng uống một Chén
a) Trong bài đọc 2 có lời này của Thánh Phao-lô: "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." Hệ quả đương nhiên của Thánh Thể là tình hiệp thông, là sự hợp nhất, là sự đoàn kết yêu thương gắn bó giữa những người cùng rước Mình và Máu Đức Ki-tô. Vì thế mỗi hội đoàn Giáo Dân, mỗi cộng đoàn Dòng Tu, mỗi Giáo Xứ, mỗi Giáo Phận phải là một cộng đoàn làm nổi bật sự "đồng tâm nhất trí" giữa những con người rất khác nhau xét về mặt tự nhiên.
b) Đối chiếu với thực tế, chúng ta phải thừa nhận rằng Rước Lễ thì dễ, nhưng thực hiện "đòi hỏi hiệp nhất" của Thánh Thể là một việc vô cùng khó. Không phải vì khó mà chúng ta nghĩ sai rằng Thiên Chúa đòi hỏi ở chúng ta điều mà chúng ta không thể làm được. Thật ra thì việc chúng ra cần làm là ý thức đòi hỏi ấy mỗi khi đến gần Bàn Thánh và khẩn khoản nài xin Chúa Giê-su Thánh Thể thực hiện sự hiệp nhất giữa những con cái Chúa.
4. Thánh Thể còn là sự thể hiện một Tình Yêu Chia Sẻ của những người đã được ăn Bánh và uống Chén của Chúa Ki-tô
a) Thánh Thể không chỉ là sự thể hiện Tình Yêu và Quyền Năng của Thiên Chúa làm người, cũng không chỉ là nguyên lý tạo nên một cộng đoàn hiệp nhất giữa những người cùng ăn một Bánh và cùng uống một Chén, mà còn là sự thể hiện một Tình Yêu Chia Sẻ của những người tín hữu. Chia sẻ tất cả những ân phúc mà chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa, cách trực tiếp hay gián tiếp. Chia sẻ với hết mọi người, nhất là với những người nghèo sống chung quanh. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 1397 viết: "Bí Tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải chăm sóc người nghèo. Để thực sự lãnh nhận Mình và Máu Đức Ki-tô đã phó nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhận ra Người trong những người nghèo nàn nhất, những anh em của Người."
Thánh Gio-an Kim Khẩu đã giảng dạy như sau: "Anh đã rước Máu Thánh Chúa, thế mà anh đã không nhận ra người anh em của mình. Anh đã hạ giá Bàn Tiệc Thánh, khi những người được Thiên Chúa coi là xứng đáng tham dự Tiệc Thánh, lại bị anh coi là không xứng đáng chia sẻ cơm áo với anh. Thiên Chúa đã giải thoát anh khỏi mọi tội lỗi và mời anh vào bàn tiệc mà anh đã không tỏ ra nhân từ hơn chút nào"
b) Rõ ràng một tâm hồn và cách sống ích kỷ, thủ đắc cá nhân, không chịu chia sớt những gì mình có cho kẻ túng thiếu hơn mình, không phù hợp với Thánh Thể là lễ vật tự hiến của một Tình Yêu cho đi, không biết tính toán thiệt hơn.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con cảm tạ Chúa đã ban chính Thịt Máu Chúa cho chúng con. Xin giúp chúng con nhận ra Tình Yêu và Quyền Năng của Chúa. Xin Chúa liên kết chúng con với các chi thể khác thành một Tấm Bánh và một Chén Rượu của Chúa. Chúng con ước ao trở thành những mẩu bánh nhỏ được ăn, những ly rượu ngon được uống, để được giống như chính Chúa và để người khác được no say và hạnh phúc trường sinh. Amen.
Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội
Hôm nay, mừng kính Mình và Máu thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau dừng lại để chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về bí tích Thánh thể.
Trước hết, bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa.
Thực vậy, khi yêu thương ai, chúng ta muốn được ở gần người đó để hàn huyên tâm sự, như ca dao đã bảo:
- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, Thất bát sông cũng lội, Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
- Yêu nhau chẳng quản xa gần, Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không bờ không bến, vì Ngài không phải chỉ đi qua vài ba ngọn đồi, lội qua dăm bảy con suối để đến với chúng ta. Trái lại, Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ vô biên đến hữu hạn, con đường từ trời xuống đất, con đường từ một Thiên Chúa toàn năng đến một kẻ nghèo hèn, để trở thành một Emmnuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Ở cùng chúng ta hơn ba chục năm mà thôi chưa đủ, Ngài lại còn muốn ở cùng chúng ta mãi mại, cho đến tận cùng thời gian qua bí tích Thánh thể.
Tuy nhiên, Ngài không phải chỉ ở bên cạnh chúng ta, đi bên lề cuộc sống chúng ta như một kẻ xa lạ. Trái lại, Ngài còn muốn thấm nhập và trở nên một với chúng ta.
Bởi đó, mỗi khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp và gắn bó mật thiết với Chúa. Sự kết hiệp và gắn bó này còn mật thiết hơn cả tình bè bạn, tình cha mẹ, tình vợ chồng, bởi vì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
Giọt nước hòa tan trong rượu thế nào, chúng ta cũng sẽ được hòa tan trong Chúa như vậy. Thanh sắt nung trong lửa, sẽ nóng và đỏ như lửa thế nào, chúng ta cũng sẽ được trở nên giống Chúa như vậy.
Ngoài ra, khi yêu thương ai, ngoài việc muốn được ở gần người đó, chúng ta còn cố gắng làm cho người đó được hạnh phúc: nào là thư từ, nào là quà cáp, nào là thăm hỏi…
Nếu hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không bờ không bến bởi vì Ngài đã xuống thế để làm gì nếu không phải là để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và án phạt đời đời.
Rồi suốt cả cuộc đời, Ngài đã thực hiện biết bao nhiêu hành động yêu thương. Ngài đã cúi xuống xoa dịu những đớn đau, chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỉ. Hơn thế nữa, Ngài còn chết trên thập già để cứu độ chúng ta như lời Ngài đả phán: - Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bằng đó mà thôi cũng chưa đủ, Ngài còn theít lập bí tích Thánh thể để trở nên của ăn nuôi sống linh hồn và đảm bảo cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Một người Cha trước khi chết thường trối lại cho con cháu bản chúc thư. Những người yêu nhau trước khi đi xa, thường trao tặng cho nhau những kỷ vật. Cũng vậy, là một người cha, Đức Kitô trước khi chịu chết, đã trối lại cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta một bản chúc thư, đó là giới luật yêu thương. Là một người tình, Đức Kitô trước khi ra đi, đã trao tặng cho chúng ta một kỷ vật, đó là thịt máu Ngài.
Và như thế, bí tích Thánh thể chính là dẩu chỉ tình yêu bao la mà Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta.
Tiếp đến, bí tích Thánh thể còn là dấu chỉ của tình người.
Thực vậy, nhìn vào một bữa ăn, một bàn tiệc, chúng ta tìm thấy ngay được dấu chỉ của sự yêu thương và hiệp nhất.
Tiên vàn, những người ngồi cùng bàn đều có một mẫu số chung nào đó. Có thể là chia sẻ một niềm vui như đi tự tiệc cưới. Có thể là chia sẻ một nỗi buồn như đi ăn đám giỗ. Có thể là chia sẻ một băn khoan lo lắng như bữa tiệc trước khi tính toán và bắt đầu một công việc quan trọng.
Ngoài ra, khi quây quần chung quanh một bàn ăn, chúng ta còn chia sẻ với nhau một nguồn sống, là những thức ăn do lao công vất vả của nhiều người làm nên. Chính những thức ăn này sẽ được tiêu hóa và trở nên thịt máu, trở nên một phần cơ thể chúng ta. Bởi đó, chúng ta thường phải tránh đi những bất hòa, xích mích trong bữa ăn: trời đánh còn tránh bữa ăn.
Chúa Giêsu cũng đã thiết lập bí tích Thánh thể dưới hình thức một bữa ăn, một bàn tiệc. Chính vì thế, ý nghĩa của sự yêu thương và hiệp nhất cần phải được nổi bật, bởi vì chúng ta cùng ăn một của ăn thiêng liêng muôi sống linh hồn, như thánh Phaolô đã viết:
Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô.
Hơn thế nữa, nơi bàn tiệc Thánh thể, mọi người đều bình đẳng vì tất cả đều là con cái Chúa, không còn phân biệt già hay trẻ, sang hay hèn…Các tín hữu sơ khai đã ý thức được chân lý căn bản này, họ đã biến nghi thức bẻ bánh, hay bàn tiệc Thánh thể trở nên nơi qui tụ cho tình thương. Họ mang rượu bánh đến góp chung để dâng lễ, để nuôi sống linh mục và tu sĩ, cũng như để giúp đỡ những người nghèo.
Tình bác ái huynh đệ này không phải chỉ đóng khung trong khi tham dự nghi thức bẻ bánh, mà còn được nối tiếp trong cuộc sống, vì trong cuộc sống, họ đã góp chung tiền bạc, tài sản để cho các tông đồ phân phối theo nhu cầu.
Từ những xác quyết trên, chúng ta đi tới hai kết luận. Kết luận thứ nhất, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa, nên chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ và nhất là rước lễ mỗi khi có thể, để đáp trả những yêu thương Ngài đã dành cho chúng ta.
Kết luận thứ hai, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình người, nên chúng ta hãy cố gắng sống bác ái. Không phải chúng ta chỉ hòa giải và yêu thương trong thánh lễ, trong nhà thờ, mà còn phải hòa giải và yêu thương trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống ngập tràn tình bác ái chính là một thánh lễ nối dài, và những hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì người khác sẽ là những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc đời, chúng ta dâng tiến Chúa.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Suzanna. Mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình máu mủ đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta cứu 2 mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
Câu chuyện trên thật cảm động. Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Đức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con khi bà biết rằng chắc chắn bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa con được sống. Đó là sự hy sinh trong một tình thế bó buộc. Còn Đức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả: Ngài đến trần gian để chết cho loài người. Càng ngày Ngài càng tiến gần đến cái chết. Tuy nhiên bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương quyết lấy thịt máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng ta. Thật đúng là: “Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người dám chết cho người mình yêu thương”. Điểm thứ hai khác biệt giữa bà Suzanna với Đức Giêsu là: việc bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa con chỉ xảy ra một lần ; còn việc Đức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy “Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Mỗi lần Giáo hội dâng Thánh lễ là mỗi lần việc hy sinh của Đức Giêsu được lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm mà lập lại với tất cả hiệu quả có nó. Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Một điều đáng buồn là lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm lòng của Chúa mà lẽ ra phải khiến chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương Tây, số giáo dân Pháp, chỉ còn có 10% giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên Việt Nam chúng ta, số người bỏ lễ Chúa Nhật cũng càng ngày càng nhiều. Trong số những kẻ còn đi lễ thì nhiều người đứng ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện và hút thuốc. Hình như rất nhiều người đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
Khi Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở bác ái, Bà đã gặp các vị lãnh đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng. Tuy nhiên khi bà xin cho có Linh mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần ngại. Lúc Mẹ Têrêxa giải thích: Nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do Mình Thánh Chúa. Nhờ mỗi ngày được rước Mình Thánh Chúa nên các Nữ Tu chúng tôi có sức hy sinh quên mình để phục vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh Lễ và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Bà là những người đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép Mình Thánh Chúa “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Hôm nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Chúng ta ôn lại tình yêu bao la của Đức Giêsu khiến Ngài chịu chết vì chúng ta và trước khi chết đã ban Mình và Máu Ngài làm thương thực nuôi linh hồn chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng nhận thấy sự giảm sút lòng sốt săng của chúng ta đối với việc dự lễ và rước lễ. Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực quý giá mà Chúa đã ban. Chúng ta bỏ mất biết bao ơn ích do việc rước lễ mà nhiều người đạo đức rất quý chuộng.
Giờ đây chắc chúng ta biết mình phải làm gì:
- Trước hết, là những người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy nhắc nhở và khuyến khích con cháu mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
- Phần chúng ta, mỗi khi dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng sốt sắng. Đừng làm một cách máy móc theo thói quen, nhưng hãy đặt hết tâm tình vào đó.
Để kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của một người đã biết cách dự lễ và rước lễ sốt sắng: “Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy có điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn đặt lên đĩa Thánh một chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức… Tôi không đi dự Thánh Lễ với 2 bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời tôi. Trong mỗi Thánh Lễ, Lời Chúa lại tác động đến tôi, những lời nói đã nghe nhiều lần tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải trở nên tấm bánh bẻ ra cho anh chị em tôi”.
Du khách đến Huế không thể quên được Nam Giao, cũng như đến Bắc Kinh không thể bỏ qua Điện Trời. Chính tại nơi đây, hàng năm nhà vua sẽ tế Trời thay cho toàn dân.
Tại Huế, Điện Thái Hòa, cửa Ngọ Môn và đàn Nam Giao cũng nằm ngay trên một đường Thẳng. Điện Thái Hòa là nơi vua quan lo việc triều chính. Cửa Ngọ Môn quay về hướng nam. Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, lúc 12 giờ trưa, tức là giờ Ngọ, thì hình và bóng sẽ trở nên đồng nhất.
Từ Điện Thái Hòa, vua sẽ qua cửa Ngọ Môn, tiến về phương nam đển lên đàn Nam Giao thay dân tế Trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua sẽ bước lên tế đàn hình vuông tượng trưng cho đất, rồi mới tiến lên tế đàn hình tròn, tượng trưng cho Trời. Chính tại nơi đó, vua sẽ long trọng thay mặt toàn thể con dân tế Trời.
Vua trần gian thay dân tế Trời bằng những của lễ vật chất. Vua vũ trụ, Đức Giêsu Kitô dùng chính thân xác và linh hồn của Người để tế lễ cho Thiên Chúa.
Vua trần gian thay dân tế Trời rồi trở lại với công việc triều chính. Vua Giêsu khi tế lễ cho Thiên Chúa lại dùng chính thân xác mình làm của ăn của uống nuôi toàn dân.
“Này là Mình Ta, các con hãy cầm lấy mà ăn… Này là Máu Ta các con hãy cầm lấy mà uống”. Tiệc Thánh Thể này đã được chính Đức Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, đã được Người hứa ban cho dân ở Caphanaum, đã được Người thiết lập ở Giêrusalem trước khi bước vào cuộc khổ nạn, và đã được chính Người cử hành đầu tiên tại làng quê hẻo lánh Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện, đan kết với nhau tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa.
Thánh Thể chính là trung tâm đời sống người tín hữu Kitô.
Thánh Thể chính là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh thể chính là món quà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại.
Thánh Thể chính là lương thực thiêng liêng cho cuộc sống người tín hữu.
Thánh Thể chính là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Mầu nhiệm tình yêu này vượt quá tầm trí mọn của con người. Đức Giêsu đã tự hiến trọn vẹn cho chúng ta, đến nỗi Người không thể cho chúng ta điều gì hơn thế nữa.
Thánh Thể chính là sáng kiến táo bạo nhất của Thiên Chúa đang yêu. Trước khi giã từ cõi thế. Người không còn gì quí hơn để ban tặng cho con người. Người đã trao ban cả thân xác, để thấm nhập vào xác thân con người. Yêu là cho đi, là cho hết, cho cả cuộc đời.
Sau câu chuyện Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, câu chuyện về giao ước của Thiên Chúa với Abraham chính là thời điểm chủ chốt trong Cựu ước. Câu chuyện cứu độ của chúng ta bắt đầu từ đây. Thời điểm này trong Kinh Thánh đã trở thành câu chuyện về mối tương quan của Thiên Chúa với dân Người. Câu chuyện này được tóm tắt trong một công thức đã được lập đi lập lại nhiều lần trong Cựu ước “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.
Giao ước này không giống như mối quan hệ tồn tại giữa các bên đối tác trong thương mại – đó là một cách sắp xếp kinh doanh một cách chặt chẽ. Giao ước này giống như giao ước tồn tại giữa đôi vợ chồng nhiều hơn. Trên thực tế, đây đúng là cách thức mà một số ngôn sứ đã mô tả về giao ước này: họ so sánh giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người với mối quan hệ trong hôn nhân. Về phần mình, Thiên Chúa luôn luôn trung thành; tình yêu của Người không hề thay đổi. Nhưng thật đáng buồn, không phải lúc nào dân của Người cũng trung thành với Người.
Để yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta sự tự do để chọn lựa. Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì quan trọng hơn, so với việc Thiên Chúa toàn năng ban bố lề luật, Thiên Chúa cần có sự vâng phục của chúng ta, chứ không cần đến tình yêu của chúng ta. Nhưng giao ước này phải là một hợp đồng được thực hiện một cách tự do, giữa hai bên hoàn toàn tự do.
Trong bài đọc 1 của ngày hôm nay, chúng ta nhận thấy cách thức Môsê phê chuẩn giao ước, trước khi dân chúng tiến vào đất hứa. Nhưng dân chúng đã không giữ giao ước. Họ rơi vào cảnh sùng bái ngẫu tượng. Mặc dù vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Rất nhiều lần, Người đề nghị với họ một giao ước, và thông qua các ngôn sứ, Người dạy họ biết hy vọng vào ơn cứu độ.
Và khi đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã gửi Chúa Con đến làm Đấng cứu độ chúng ta. Thông qua Người, Thiên Chúa thiết lập với chúng ta một giao ước mới và kéo dài đến muôn đời. Đức Giêsu đánh dấu giao ước này bằng máu của Người. Đức Giêsu chính là người đứng đầu dân tộc mới của Thiên Chúa. Vùng đất mà Người dẫn đưa chúng ta tới không phải là mảnh đất trần gian này, mà là vùng đất của cuộc sống muôn đời. Thông qua Người, chúng ta có một ràng buộc gần gũi hơn bao giờ hết đối với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thiên Chúa, mà còn là những người con trai và con gái là gia đình của Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, chúng ta đang có một giao ước với Thiên Chúa, Đấng luôn luôn trung thành. Chúng ta được mời gọi sống theo cách thức nhất quán với mối tương quan này. Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta phải thành công, Người chỉ cần sự trung tín mà thôi.
Trên một ngọn đồi ở gần Cape Town, Nam Phi, ngay bên dưới ngọn núi Table nổi tiếng, có một khẩu súng mỗi ngày đều được bắn vào mỗi buổi trưa. Ngọn đồi đó được biết đến như là ngọn đồi Đánh Dấu. Việc bắn súng đã từng phục vụ cho một mục đích tốt đẹp. Nó báo hiệu có một con tàu trên đường đi tới hoặc rời khỏi An Độ, đã đến bến cảng, với đầy hàng hóa, và được cung cấp thực phẩm và thức uống. Kết quả là một cuộc trao đổi đẹp đẽ. Có sự tiếp nhận và có sự cho đi.
Nhưng cảnh đó diễn ra từ trước đây rất lâu. Hiện nay, mục đích này không còn tồn tại nữa. Tuy nhiên mỗi ngày, khẩu súng đó vẫn còn được bắn một cách nghiêm túc, mặc dù bây giờ, tiếng súng bắn nhỏ hơn, như một lễ nghi không có nội dung. Việc bắn súng này đã từng mang một ý nghĩa thật đẹp. Hiện nay, ý nghĩa này không còn nữa. Hầu hết người dân địa phương đều không để ý tới tiếng súng đó. Người ta nói với các du khách “nếu giữa trưa, bạn nghe thấy môt tiếng nổ lớn, thì đừng lo lắng gì cả. Đó chỉ là tiếng súng thôi”.
Tuy nhiên, lễ nghi đó vẫn còn có một mục tiêu. Hầu hết mọi người đều biết về câu chuyện phía sau lễ nghi đó. Nếu câu chuyện này bị mất đi, thì lễ nghi đó sẽ lại càng trở nên nghèo nàn hơn.
Phép Thánh Thể cử hành một sự kiện tuyệt vời – ân sủng mà Đức Giêsu đã thay mặt chúng ta thực hiện bằng chính sự sống của Người. Mỗi lần chúng ta cử hành Phép Thánh Thể, là chúng ta kể lại câu chuyện này. Nhưng giống như bất cứ điều gì được lập đi lập lại, có một nguy cơ là điều đó có thể trở thành một thứ lễ nghi mà thôi.
Trong Phép Thánh Thể, Đức Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng bánh ban sự sống. Nhưng điều đó không có nghĩa là sự giao thông một chiều. Khi được đón nhận Đức Giêsu, Người chờ đợi chúng ta có một gì đó để đáp trả lại – không phải là cho bản thân Người, mà cho nhau. Nhưng thông thường, việc đón nhận Phép Thánh Thể lại không tạo ra được hiệu quả đáng lẽ phải có – hiến thân phục vụ người khác một cách vô vị lợi.
Chúng ta vẫn tiếp tục công bố về bánh và chén, “Đây là mình Thầy, hiến thân vì anh em… Đây là máu Thầy, đổ ra vì anh em”. Tuy nhiên, dường như Phép Thánh Thể ít có hiệu quả trên con người. Chúng ta không nhìn thấy người nào chịu hiến mạng sống của mình, trong việc phục vụ người khác. Người nào ăn bánh và uống chén này mỗi ngày, thì thường đang được sống cuộc sống trung tâm của mình.
Đối với người Do thái, sự ghi nhớ không chỉ là kể lại. Đó là trình bày cho mỗi thế hệ về những sự kiện mang tính cách giải quyết trong quá khứ. Cũng tương tự như vậy, Phép Thánh Thể không chỉ là giới thiệu về Mình và Máu Đức Kitô, mà còn loan báo và tưởng nhớ về cái chết ban sự sống của Người.
Phép Thánh Thể là trung tâm của tất cả mọi sự. Nhưng không bao giờ có thể tách rời Phép Thánh Thể ra khỏi sự thanh tẩy bản thân. Có hai chân lý được nối kết với nhau – chúng ta được hiệp thông với Đức Giêsu, để có thể hiệp thông với người khác.
Thật là một điều đáng tiếc, nếu Phép Thánh Thể chỉ là một lễ nghi, một thứ lễ nghi trống rỗng. Ở đây, Đức Giêsu hiến thân cho chúng ta, để đến lượt mình, chúng ta có thể hiến thân cho anh em.
Đôi khi người ta cũng cần ở một mình, bởi vì linh hồn đòi hỏi sự cô tịch, để giữ được tính cách cá nhân của nó. Nhưng chúng ta không thể sống cô đơn được. Chúng ta sẽ hóa điên. Sự thật là: rõ ràng chúng ta lệ thuộc vào nhau. Trong cuộc sống của mình, chúng ta cần đến người khác – để nâng đỡ, xác nhận, khích lệ, đồng hành với chúng ta. Họ nuôi dưỡng và hỗ trợ chúng ta theo hàng trăm cách thức khác nhau. Và tất nhiên, chúng ta cũng nuôi dưỡng họ nữa.
Ngày nay, con người được giáo dục theo chủ nghĩa cá nhân, hậu quả là người ta cảm thấy đời sống cộng đồng là khó khăn. Trong thế giới hiện nay, có nhiều nỗi cô đơn. Nhiều người đang kêu gào một người bạn, một người đồng hành, theo nghĩa thuộc về nhau.
Từ ngữ “bạn đồng hành” là một từ ngữ rất hay. Nó xuất phát từ tiếng Latinh: cum, nghĩa là cùng với, và panis, nghĩa là bánh. Như vậy, hiểu theo từng chữ, “bạn đồng hành” nghĩa là một người nào đó mà chúng ta chia sẻ bánh. Không phải bất cứ ai bạn cũng mời vào uống trà với bạn. Đó phải là một người có quan hệ với bạn. Và mối quan hệ này được đào sâu thêm, nhờ việc chia sẻ đồ ăn và thức uống với nhau.
Khi có người nào mời chúng ta tới bàn của họ, là họ hiến tặng chúng ta một thứ gì đó còn nhiều hơn là thức ăn. Họ hiến tặng chúng ta sự tin tưởng, đón nhận và tình bạn. Chúng ta cảm thấy được tôn trọng. Câu chuyện là một phần lớn của thức ăn. Sau đó, chúng ta cảm thấy được nuôi dưỡng, không phải chỉ về mặt thể xác, nhưng còn về mặt tinh thần và tâm hồn nữa.
Phép Thánh Thể chính là bữa ăn mà chúng ta chia sẻ với nhau, để tưởng nhớ Chúa và vâng theo lời truyền dạy của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta trở thành những người đồng hành và bạn bè của Người, bằng cách mời gọi chúng ta đến chia sẻ thức ăn đã được hiến thánh của Phép Thánh Thể. Và trong khi làm như vậy, chúng ta trở thành những người đồng hành và bạn bè của nhau. Nhưng điều này có xảy ra được không ?
Ngày nay, người ta có thể ngồi trong xe hơi để tham dự thánh lễ, và sau đó, ra đi, mà không hề có quan hệ với bất cứ ai. Một người như thế nói rằng mình đã thực sự và chân thành tham dự thánh lễ không ? Chúng ta đã được gặp gỡ Thiên Chúa, nhưng liệu chúng ta có gặp gỡ các Kitô hữu đồng chí hướng với chúng ta, những người lân cận của chúng ta không ? Có hai chân lý được kết nối với nhau – chúng ta được hiệp thông với Đức Giêsu, để có thể hiệp thông với người khác.
Người ta có thể bị đổ vỡ, mà không một người nào biết đến, không một ai quan tâm cả. Việc xây dựng cộng đoàn không gay go như vậy. Chỉ cần sự thân thiện bình thường mà thôi. Bước đầu tiên là phải trở nên quen biết với nhau.
Nếu chúng ta có thể đi vào căn phòng, nơi Đức Giêsu cùng ăn Bữa Tiệc Ly với các tông đồ của Người, thì ngay tức khắc, chúng ta sẽ cảm thấy được mối quan hệ đó. Ở đây, có một nhóm người đang ngồi chung quanh một cái bàn, để chia sẻ bữa ăn với nhau. Đôi khi, trong các nhà thờ của chúng ta, người ta ngồi càng xa nhau càng tốt. Tại sao như vậy ? Dường như người ta miễn cưỡng trong việc gặp gỡ nhau. Và nếu không gặp gỡ nhau, thì chúng ta không thể chia sẻ được với nhau. Điều mà chúng ta đem đến cho nhau ở đây, thì chúng ta sẽ được nhận lại gấp trăm. Nhưng nếu không biết cho nhau, thì chúng ta sẽ chẳng nhận được gì cả.
Chúng ta cần đến Đức Kitô – đó là điều rõ ràng. Nhưng chúng ta cũng cần đến nhau nữa. Trong thế giới ngày nay, để trở thành một người có lòng tin, hoặc chỉ là một người có đời sống tinh thần mà thôi, thì có thể đó là một công việc cô độc. Đây là một nơi mà cộng đoàn gia nhập vào. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, niềm tin chung của mọi người củng cố cho niềm tin của mỗi cá nhân.
Những Kitô hữu tiên khởi nâng đỡ nhau. Họ tha thứ cho những sự xúc phạm đến nhau, chia sẻ tài sản cho nhau, và tăng cường tinh thần cộng đoàn. Sự chia sẻ tạo ra mối quan hệ, và mối quan hệ đưa đến sự chia sẻ. Phép Thánh Thể là trung tâm của tất cả mọi sự. Chính Phép Thánh Thể nối kết mọi người với nhau, và đem đến cho họ khả năng để hiến tặng cho nhau một cách thức phục vụ đầy yêu thương.
Trong ý nghĩa yêu thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để lại cho loài người một vật kỷ niệm. Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ: một cuốn sách, một khăn tay, một tấm hình, một cái áo, một chiếc nhẫn v.v… Đối với Chúa Giêsu, những vật đó hay bất cứ vật nào cũng đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương nồng nhiệt của Chúa đối với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Chúa.
Nhưng bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa đã thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân dưới hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu biến đổi thành Mình và Máu Ngài: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”. Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quí này để tưởng niệm đến Ngài.
Như thế, trong bữa tiệc ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Như vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh và hình rượu, Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Thánh thể còn là bí tích của sự hiệp nhất. Trước hết, Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta dưới hình bánh hình rượu, làm cho chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài. Đồng thời, khi kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, thì thánh thể cũng kết hiệp chúng ta với nhau: được qui tụ chung quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một chén, chia sẻ cùng một của ăn, chúng ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình thương, chúng ta càng hiệp nhất với nhau còn hơn là con cái của một gia đình.
Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ: Bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Tóm lại, về Phép Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ: Thánh Thể là một bí tích. Trong Thánh Thể, có Chúa Giêsu thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép, không còn bánh và rượu trên bàn thờ nữa. Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ. Mỗi lần dâng thánh lễ là chúng ta cử hành việc Chúa lập Phép Thánh Thể. Đàng khác, chúng ta hãy cố gắng rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô và hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh cũng như nghị lực cho chúng ta trên đường lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống đời đời của chúng ta. Như thế, bàn tiệc Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đó, chúng ta được nối kết với Chúa Kitô và nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta long trọng cử hành thánh lễ tôn kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh lễ này nhắc nhở cho chúng ta nhớ rằng Chúa Kitô đã và đang trao ban chính Mình Máu Ngài làm lương thực không hư nát để ban sự sống cho chúng ta, tiếp nhận chúng ta vào hiệp thông sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đồng thời thánh lễ hôm nay cũng nhắc nhớ rằng: chúng ta luôn được Thiên Chúa mời gọi hãy ra công làm việc vì của ăn không hư nát này và hãy cùng Ngài trao ban sự sống cho người khác bằng đời sống bác ái yêu thương, hy sinh phục vụ.
Chúng ta biết rằng, mọi sinh vật trong đó có con người cần thức ăn vật chất để sống, tồn tại và phát triển thân xác, con người lại còn trổi vượt hơn các loài sinh vật khác nhờ có đời sống lý trí và tinh thần. Chính đời sống lý trí và tinh thần làm cho con người ra con người và sống ngày càng ra người hơn, nhân bản hơn trong mối tương quan với người khác và vũ trụ vạn vật. Đời sống này cũng cần có lương thực phù hợp là tri thức và văn hóa. Không có tri thức và văn hóa, con người sẽ phải sống trong lạc hậu, u mê chẳng hơn con vật là mấy.
Thế nhưng, con người không chỉ có thể xác, lý trí và tinh thần, con người còn có tôn giáo, nghĩa là con người còn có đời sống niềm tin, đời sống giúp con người vươn lên những tương quan cao hơn, lớn hơn, chi phối mọi tâm tư, tình cảm và sinh hoạt đó là đời sống thông hiệp với thần minh hay Thiên Chúa. Đối với chúng ta, những người tin vào Chúa Kitô thì đời sống đức tin giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa tình yêu. Chính đời sống này không những làm cho chúng ta nên hoàn thiện mà còn hoàn thiện tốt lành như Thiên Chúa là Cha Tốt Lành trên trời, và chúng ta đến đón nhận sự sống đời đời của Thiên Chúa.
Lương thực cho đời sống này chính là Đức Kitô. Ngài là bánh bởi trời ban sự sống đời đời: Ai ăn thịt và uống máu Ngài thì có sự sống đời đời. An và uống chính mình máu Ngài sẽ không còn phải đói khát.
Chúng ta cần cơm gạo để sống, cần trau dồi tri thức và văn hóa để làm người thì chúng ta cũng cần phải tiếp nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô để sống đức tin, để nên thánh.
Cũng như mọi lương thực khác, Mình Máu Thánh Chúa tuy là hồng ân Thiên Chúa ban tặng nhưng không, nhưng Ngài vẫn mời gọi sự nỗ lực cộng tác của con người tìm kiếm và tạo tác nên lương thực cho đời sống của mình.
Tin Mừng hôm nay thuật lại, phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều không phải từ không ra có, nhưng từ năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp của con người. Cũng vậy, bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa được hiến dâng trên bàn thờ chính là hoa màu ruộng đất, sản phẩm của cây nho và lao công khó nhọc của con người. Thiên Chúa không muốn làm một mình dù Ngài có thể, nhưng Ngài muốn con người chúng ta cộng tác với Ngài. Được cộng tác với Ngài chính là hồng ân, là vai trò tuy nhỏ bé nhưng hết sức cao quí và sinh hiệu quả được dành riêng cho chúng ta trong mầu nhiệm Thánh Thể. Chính từ bánh, từ cá, từ đời sống của chúng ta mà Thiên Chúa đã tháp nhận vào ơn huệ Bí tích thánh Thể, làm nên Thánh Thể Đức Kitô.
Phần đóng góp công sức của chúng ta chẳng đáng là bao so với nguồn lương thực lớn lao này, tuy nhiên, không có phần của chúng ta, Bí tích Thánh Thể sẽ chỉ là ma thuật. Đức Kitô sẽ biến đổi, thánh hiến sự đóng góp nhỏ nhoi, khiêm hạ của chúng ta thành nguồn lương thực dồi dào cho mọi người.
Vì thế, chúng ta hãy nỗ lực góp phần cộng tác với Thiên Chúa. Chúng ta đóng góp không chỉ bằng của cải vật chất, nhưng cần thiết hơn còn bằng chính đời sống lao động khó nhọc để phục vụ người khác ; bằng chính việc chu toàn bổn phận hằng ngày của mỗi người và bằng chính đời sống yêu thương, chia sẻ bác ái.
Chúng ta cộng tác với Thiên Chúa không phải chỉ tìm kiếm lương thực cho riêng mình, nhưng còn cho anh em khác nữa. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, Ngài cũng đồng thời mời gọi chúng ta trao ban cho người khác. Đón nhận lương thực để rồi chuyển hóa thành sự sống tình yêu. Thánh Thể phải được chuyển hóa thành năng lượng tình yêu.
Thiên Chúa không làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chỉ một mình Người có bánh hay chỉ cho các môn đệ thân tín của Ngài, nhưng là cho mọi người. Thánh Thể cũng không chỉ dành cho một ai, một số người nào đó nhưng là cho mọi tín hữu. Không phải chỉ chúng ta no đủ phần hồn phần xác mà còn phải biết chia sẻ cho anh em khác nữa. Chia sẻ ở đây không có nghĩa là đi trao Mình Chúa cho người khác, nhưng là trao chính sự sống của mình. Vì một khi đã đón nhận Thánh Thể chúng ta đón nhận chính Đức Kitô để Ngài ở trong ta và ta ở trong Ngài: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Đời sống Đức Kitô là đời sống của yêu thương và hiến mình cho người khác. Đón nhận Ngài thì cũng chỉ có một đời sống như Ngài mà thôi, đó là sống cho và vì người khác trong yêu thương và phục vụ.
Nếu chỉ biết đón nhận mà không biết trao ban, không triển nở ơn thánh thì coi chừng mắc phải chứng bệnh “béo phì ân sủng”. Ngày nay, người ta sợ hội chứng béo phì vì sẽ làm tăng mỡ máu đưa tới xơ cứng động mạch, nhồi máu cơ tim, gây khốn khổ cho cuộc đời và nguy hiểm cho sinh mạng. Cho nên, phải giảm ăn thậm chí sợ ăn và tăng cường hoạt động để tiêu bớt mỡ, giảm bớt trọng lượng.
Cũng thế, nếu bị “béo phì ân sủng” sẽ có nguy cơ đưa tới xơ cứng trái tim yêu thương khiến cho không triển nở được tình yêu và sự sống của Thiên Chúa. Và lúc đó, việc tham dự thánh lễ cũng trở nên máy móc, theo thói quen nhàm chán, thậm chí ngại và sợ thánh lễ, đôi khi còn xúc phạm vì ý chẳng ngay lành. Nếu như thế, thì thật khốn cho ai ăn và uống Mình máu Thánh Chúa cách bất xứng. Nói như thánh Phaolô: “An uống như thế là ăn uống án phạt mình” chẳng lợi gì chỉ thêm nguy hại mà thôi.
Do đó, cần phải sống như Chúa: cho đi chính mình, trao ban chính sự sống mình. Lương thực Thánh Thể, nguồn sự sống phải được chuyển hóa tiêu hao thành tình yêu, thành bác ái hy sinh để cuộc sống mỗi người và mọi người luôn được no nê ân sủng, tình yêu và sự sống của Thiên Chúa.
Hãy đón nhận Thánh Thể là nguồn lương thực của đời sống Kitô hữu, là của ăn không hư nát mang lại sự sống đời đời. Hãy lao công khó nhọc vì của ăn không hư nát này và hãy cùng nhau chia sẻ của ăn ấy trong tình bác ái huynh đệ để thực sự chúng ta được sống và sống dồi dào.
Trong cuộc bắt đạo năm 1980, những người Công Giáo tại Guatemala vẫn tiếp tục tụ tập tại nhà thờ mỗi Chúa Nhật cho dù là không có linh mục để cử hành Thánh Lễ, cho dù toàn quốc không có một linh mục nào cả.
Diễn tả lại những lúc tụ tập lại mà không có linh mục, Fernando Bermudez viết trong cuốn “Death and Resurrection in Gautemala, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Gautemala” như sau: “Tất cả mọi người, quì trước mặt nhau, đều xưng tội lỗi mình ra, và cùng nhau hát bài xin Thiên Chúa tha thứ. Và một người làm đầu trong nhóm đứng lên đọc một đoạn Phúc Âm rồi giảng giải với hết khả năng theo sự hiểu biết của anh. Sau đó, anh mời mọi người trong nhóm chia sẻ ý nghĩ của họ về bài Phúc Âm đó.
Mỗi tháng một lần, các giáo xứ gởi đi một đại diện đến một chỗ mà các linh mục vẫn còn được hoạt động. Người đại diện đó phải đi bộ mất 18 tiếng đồng hồ để tham dự Thánh Lễ nhân danh giáo xứ của họ.
Diễn tả về Thánh Lễ này, Bermudez viết: “Bàn thờ được chẩn bị những rổ bánh. Sau Thánh Lễ, các đại diện đến nhận lại cái rổ bánh của mình, bây giờ là Mình Thánh Chúa, đem về giáo xứ của mình để chia sẻ với những anh chị em khác.”
Đó là lòng yêu mến Thánh Thể mà Thánh Lễ hôm nay, kính Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta đang kính nhớ.
Thánh Lễ đặc biệt này cử hành để kỷ niệm món quà rất quí giá mà Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ trong Bữa Tiệc ly. Thánh Luca đã tả lại như sau:
“Người cấm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con; hãy làm sự này mà nhớ đến Ta”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu mà nói: “Này là máu Ta, máu Giao ước mới, đổ ra vì các ngươi” (Lc 22:19-20).
Lời của Chúa Giêsu thật quan trọng. Ngài phán: “Đây là mình Ta, sẽ bị nộp vì các con” và “Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra vì các con.”
Những lời này, “sẽ bị nộp vì các con” và “sẽ đổ ra vì các con” nói lên tinh thần hy sinh cao cả. Những lời này nói lên hy tế Thân xác và Máu của của Chúa Giêsu trên thánh giá.
Diễn tả về hy tế cực thánh trong Thánh Thể, Thánh Phaolô đã viết: “Chén chúc tụng ta (cầm lên mà) đội ơn, lại không phải là thông phần Máu Đức Kitô sao? Bánh ta bẻ, lại không phải là thông phần Thân mình Đức Kitô sao?” (1 Cor 10:16).
Thánh Phaolô nêu ra cho chúng ta một điểm quan trọng. Mỗi lần khi chúng ta cùng nhau cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta tham dự vào hiến tế của Chúa Kitô lên Thiên Chúa Cha.
Nói một cách khác, bữa tiệc Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi Chúa Nhật là một hy tế giống như hy tế mà Chúa Giêsu đã bắt đầu trong Bữa Tiệc ly và hoàn tất trên đồi Golgôtha. Khi chúng ta hiểu được điều đó thì Thánh Thể sẽ mang một ý nghĩa mới.
Đó là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tụ họp nơi đây để cùng nhau cử hành cách đặc biệt trong Thánh Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Trong một vài phút nữa, khi vị chủ tế cầm Mình Thánh và nói: “Mình Thánh Chúa Kitô”, xin các bạn hãy nỗ lực nhận thức cách đặc biệt cái gì bạn đang đón nhận.
Đại lễ Vượt qua gần đến. Chúa Giêsu ước ao ăn lễ Vượt qua lần cuối với các môn đệ trước khi chịu khổ hình (Lc 22,15). Ngài đã tiên liệu nơi tổ chức bữa tiệc. Một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã chuẩn bị sẵn sàng. Các môn đệ chỉ phải lo những gì cần cho bữa ăn: bánh không men, rượu, chiên và rau đắng. Thế nhưng chỉ mình Chúa Giêsu biết Ngài sẽ làm gì trong bữa tiệc Vượt qua này.
Bữa tiệc cuối là thánh lễ đầu tiên của Chúa. Vẫn bánh đó, vẫn rượu đó trên bàn tiệc. Nhưng đối với các môn đệ, thật là bất ngờ. Khi Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho họ và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Ngài còn mời họ uống rượu và nói: “Đây là Máu Thầy, Máu giao ước, đổ ra vì muôn người.”
Như thế bánh rượu đã được biến đổi tận căn để trở thành Mình Máu Chúa. Ăn bánh và uống rượu trở nên hành vi thông hiệp vào cái chết sắp đến của Thầy.
Ngay hôm sau, trên núi Sọ, máu Chúa đã đổ, và tấm thân Chúa bị nát tan. Hy lễ núi Sọ chỉ diễn ra một lần, nhưng ảnh hưởng trên cả dòng lịch sử.
Bữa tiệc ly chỉ diễn ra một lần, nhưng Chúa muốn nó được lặp lại cho đến tận thế: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc ly, vị linh mục lặp lại cử chỉ và lời nói của Chúa.
Mỗi thánh lễ là một tưởng nhớ hy tế thập giá. Cái chết cứu độ năm xưa, nay trở thành hiện tại để đem đến sự sống cho tín hữu thuộc mọi thời.
Rước lễ là gặp gỡ Đấng hy sinh chịu chết, là kết hợp với Đấng đã yêu đến cùng.
Ta được mời gọi sống như Đấng ta lãnh nhận, nghĩa là bẻ ra, chia sẻ, phục vụ và hiến trao.
Ta không thể tiếp tục sống ích kỷ và khép kín, khi ngày ngày rước lấy Đấng đã chết vì muôn người.
Rước lễ không phải chỉ là nhận Chúa vào miệng, mà là để Chúa chiếm lấy mọi ngõ tối của đời mình, nhờ đó đời ta được hoàn toàn biến đổi.
Nhiều khi có một khoảng cách quá xa giữa thánh lễ và đời thường của người Kitô hữu. Thực sự gặp Chúa dưới hình bánh rượu sẽ đưa ta gặp Chúa nơi những người nghèo khổ, vì họ cũng là sự hiện diện thật sự của Chúa (x. Mt 25, 35).
Mặt khác, càng say mê phục vụ con người, ta càng cảm thấy nhu cầu rước lấy Đấng phục vụ.
Khi dự lễ, bạn hãy đem theo hy lễ đời mình để kết hiệp với Hy lễ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều bạn trẻ dự lễ ngày Chúa Nhật chỉ vì sợ mắc tội. Họ chán xem lễ”. Theo ý bạn, những nguyên nhân nào đưa đến thái độ này? Có cách nào giải quyết không?
Rước lễ có thể trở thành một thói quen nhàm chán, vô nghĩa, nặng phần hình thức. Theo ý bạn, làm thế nào để việc rước Chúa thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con một tâm hồn theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh:
Một tâm hồn trong trắng, cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ tìm chiếm chỗ nhỏ bé, nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ, không biết đến những phức tạp của ích kỷ, và tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ, hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình không được người khác biết đến.
Một tâm hồn nghèo khó, chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được chính Chúa. Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa, và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.
Mặc dù tuổi đời đã ngoài 70, song tôi không sao quên được những kỷ-niệm của ngày còn thơ. Một trong những kỷ-niệm khó quên ấy là bữa cơm chiều. Dưới ánh đèn dầu leo lét, hoặc dưới ánh trăng vàng sáng tỏ, cả nhà quây quần bên mâm cơm, tuy chỉ có muối dưa thanh đạm nhưng dạt dào tình thương.Làm sao tôi quên được bữa cơm gia-đình, ngày tôi đi vào Tiểu-chủng-viện lúc mới lên 12 tuổi. Làm sao tôi quên được bữa cơm gia-đình, ngày tôi lên đường nhập ngũ.
Trong lịch sử cứu-độ, cũng có những bữa ăn đáng được ghi nhớ muôn đời.Dân Israel làm sao có thể quên được bữa ăn vội vả trưóc ngày được cứu thoát khỏi cảnh nô-lệ lầm than nơi đất Ai-cập (Lễ Vượt-qua). Các môn đệ làm sao quên đuợc bữa ăn cuối cùng với Thầy mình đêm hôm thứ Năm trước khi Thầy mình tử-nạn (Tiệc-ly).
Khi ta được mời đến nhà bạn ăn một bữa cơm, ta như là được mời đến chia sẻ đời sống của bạn trong một khoảng thời gian. Không phải chỉ được thưởng-thức những món ngon vật lạ, nhưng là để nối kết lại, hoặc phong-phú thêm mối tương-giao giữa ta và bạn.
Dưới chân núi Sinai hôm ấy, sau khi giao-ước đã được ký kết, cùng với lễ vật toàn thiêu tiến dâng Đức Chúa, dùng phần lễ vật còn lại, dân chúng ăn mừng, nhảy múa trước nhan Đức Chúa, khởi đầu cho một tương-giao mới. Dấu chỉ mọi tội lỗi đã được tẩy xoá và được mời gọi gia-nhập vào gia-đình của Đức Chúa. Giao-ước được xác nhận bằng hy-sinh (sát tế) ấn dấu của sự tín-thác hoàn toàn và được kết thúc bằng bữa ăn lớn (tiệc), ấn dấu của giao-ước đã được xác-định, được nuôi dưỡng và thăng-tiến.
Hôm nay giáo-hội mừng Lễ Mình Máu thánh Chúa, kỷ niệm bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Kẻ ra đi ngậm ngùi thương người còn ở lại, nhất là đối với Đức Giêsu, con người rất giàu tình-cảm. Người đã một lần hứa: Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 18:20). Bí-tích Thánh-thể là dấu chỉ sự hiện-diện tích cực của Người ở giữa chúng ta và trong chúng ta nữa: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong ngưòi ấy (Ga 6:56) và bảo-đảm chắc chắn rằng chúng ta sẽ được gặp lại Người: Ai ăn bánh nầy sẽ sống muôn đời. (Ga 6:58).
Hằng tuần, chúng ta được mời đến đây tham dự bàn tiệc Thánh-thể, hay nói đúng hơn là hiệp dâng Thánh-lễ, mà của lễ chính là Đức Giêsu và của lễ cũng là chính chúng ta nữa. Chúng ta đang chứng kiến một phép lạ cả-thể. Sau khi Linh-mục đọc lời truyền phép, bánh và rượu trở nên máu, thịt Con Người. Chúng ta có tin không điều ấy không? Thưa, chúng tôi tin! Cũng như dân Do-thái xưa họ đã thưa: Tất cả những gì Đức Chúa phán ra chúng tôi sẽ tuân giữ và thi hành (Xh 24:7).
Tham dự Hội ngộ Niềm tin tại Roma vào cuối tháng Bảy nầy, đoàn chúng tôi có chương trình sẽ đến viếng thành phố Orvieto, nơi mà năm 1263, một vị Linh mục người Hung gia lợi hồ nghi về sự hiện diện của Chúa trong bí-tích Thánh-thể. Đang khi dâng thánh lễ, lúc truyền phép, ngài nâng tấm bánh lên, bánh trở nên thịt và có máu chảy ra nhỏ giọt trên khăn thánh. Chứng tích nầy còn lưu giữ tại Vương cung thánh đường của thành-phố. Hy vọng chúng tôi sẽ được nhìn tận mắt chiếc khăn đẩm máu nầy.
Mừng lễ Mình, Máu thánh Chúa, mừng việc Chúa biến bánh và rượu trở nên máu, thịt của Người và Người cũng dùng quyền năng của Người để biến chúng ta thành những tấm bánh nữa.
Mùa hè năm nay có nhiều Phó-tế được thụ phong Linh mục. Trong lễ mở tay, lúc đọc lời truyền: Nầy là mình ta, vị Linh mục ấy thực sự đã trở nên tấm bánh của mọi người. Đức cha Cassaigne, từ chức Giám mục Sàigòn, lên sống với người cùi tại Di-linh, ngài thực sự đã trở nên tấm bánh của những người cùng khốn nầy trong suốt 18 năm trời. Vị mục tử là tấm bánh của đàn chiên. Thầy cô giáo là tấm bánh của học trò. Người cha là tấm bánh của gia-đình. Người mẹ là tấm bánh của đàn con. Vợ chồng là tấm bánh của nhau và tất cả chúng ta đều là tấm bánh cho nhau.
Vây quanh bàn thánh, cùng ăn chung một thứ bánh, cùng uống chung một thứ rượu, chúng ta thực sự trở nên nhiệm thể của Đức Kitô (Body of Christ) trong yêu thương và hiệp nhất. Cho nhau nụ cười, cái bắt tay thân mật, lời nói dịu dàng, cử chỉ lịch thiệp, gương lành bác ái, giúp nhau trong lúc hoạn nạn. . . đó là những tấm bánh mà chúng ta mang đến cho nhau. Đó là bí-tích Thánh-thể, Bí-tích của tình yêu.
Qua sự hiện-diện của Đức Kitô trong bí-tích Thánh-thể, Chúa đã kéo trời và đất lại gần nhau, xin Chúa cũng liên kết chúng con nên một, để một ngày kia tất cả chúng con quay quần bên nhau quanh bàn tiệc Nước Trời.
Trong một buổi sinh hoạt, có một cụ già đã kể lại câu chuyện này: “Vào tháng 5, đã nhiều năm lắm rồi, một trận cuồng phong chưa bao giờ có, đã làm ngã đổ biết bao nhiêu gia đình, bao người màn trời chiếu đất. Một cảnh thương tâm đã làm xúc động nhiều người: một gia đình kia bị gió làm sập nhà, đã đè chết người vợ, để lại chồng và ba đứa con dại, trước khi nhắm mắt lià đời, bà đã rút chiếc nhẫn cưới trao cho chồng và thều thào trong hơi thở cuối cùng và cố nói: “Anh hãy giữ lấy báu vật này”. Chiếc nhẫn cưới là bảo vật quí giá nhất mà hai vợ chồng khi cưới đã trao cho nhau như lời thề nguyền yêu thương, trung tín nhất. Mỗi khi nhìn vào chiếc nhẫn cưới người ta cảm thấy an lòng và được yên ủi vì nó là biểu tượng của tình yêu chung thủy và son sắt nhất. Hình ảnh của người vợ rút chiếc nhẫn, trao cho chồng là lời trối quí giá, là lời dặn dò và là cử chỉ tình thương chung thủy, người vợ nhắn nhủ chồng mình trước khi biết mình không thể nào tồn tại ở thế gian nữa.
Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ, đã để lại một lời trăn trối không tiền khoáng hậu cho các môn đệ và cho nhân loại, Ngài để lại chính Thịt Máu của Mình để nuôi sống nhân loại.
MỘT SỰ THỰC MUÔN ĐỜI TỒN TẠI:
Vào chiều thứ năm trong bữa tiệc ly, cách đây hơn hai nghìn năm, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đang ăn bữa vượt qua, nghĩa là bữa ăn cuối cùng của Ngài với các đệ tử thân tín của Ngài, trước khi Ngài thực hiện ý định của Cha cứu độ nhân loại (Lc 22,5-16 và Ga 13,1). Lễ vượt qua là ngày lễ trọng nhất của người Do Thái, lễ để cho người Do Thái tưởng nhớ tới hồng ân cao cả Thiên Chúa đã giải cứu dân ra khỏi đất Ai Cập. Trong lễ vượt qua này, người Do Thái ăn bánh không men với thịt chiên nướng, rau diếp đắng và uống rượu nho. Chúa Giêsu đã giữ đng các nghi thức ăn lễ vượt qua của người Do Thái một cách hết sức tỉ mỉ với các môn đệ trong bữa tiệc ly. Một biến cố muôn đời tồn tại, đáng ghi nhớ đã xẩy ra trong bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu, Ngài đã chỗi dậy nửa chừng giữa bữa ăn, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu, đoạn rửa chân cho các môn đệ, lấy thắt lưng mà lau, rồi về chỗ của mình (Ga 13, 4-15). Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, trước khi lập Bí Tích Thánh Thể ban Bánh trường sinh là Mình Máu của Ngài, để nói cho các môn đệ và thế giới biết rằng: Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu. Chính vì tình yêu mà Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể. Tình yêu nối kết mọi người, để tất cả những ai lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô, lãnh nhận Bánh trường sinh là Máu và Thân Xác Chúa Kitô cũng được có sự sống đời đời, vì khi lãnh nhận Mình Máu Chúa là trở nên như thánh Phaolô đã viết: “Chén chúc tụng ta cầm mà đội ơn, lại không phải là thông phần Mình Máu Chúa Kitô sao? Vì chưng chỉ có một bánh, nên tuy ta là nhiều, ta cũng chỉ là một thân mình, vì hết thảy ta cùng chia phần một bánh” (1Co 10,16-17).
Chúa Giêsu là chiên lễ vượt qua mới. Chúa chịu sát tế để cứu chuộc mọi người. Tin Mừng hôm nay cũng cho ta hay Chúa Giêsu và các môn đệ đang sống Giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Chúa lập Bí Tích Thánh Thể và truyền cho các tông đồ làm lại nghi lễ đó để tưởng niệm cuộc tử nạn của Chúa. Khi Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, trao cho các môn đệ và cầm lấy chén rượu cũng tạ ơn Chúa Cha, rồi trao cho các môn đệ, Ngài nói cho các môn đệ về chính Mình và Máu của Ngài, về cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài, Ngài cứu chuộc cho nhiều người. Các môn đệ với con số 12 đại diện cho toàn nhân loại, đại diện cho nhiều người, đang đồng bàn với Chúa Giêsu, họ cũng chỉ là những con người yếu đuối, tội lỗi, phản bội, những con người sợ chết, chạy thục mạng để thoát thân vì trong cuộc thương khó của Chúa, họ sợ cũng bị bắt như Thầy. Các môn đệ khi cử hành lại lễ hy tế của Chúa Giêsu nơi bàn thánh, họ được Chúa loan báo ơn tha thứ và rồi khi Chúa sống lại với con người bất xứng, yếu đuối, các môn đệ khi cử hành hy tế thập giá, họ được Chúa ban ơn giao hòa, được thứ tha và được lãnh nhận ơn cứu độ. Bí Tích Thánh Thể trở nên vĩnh cửu, tồn tại tới muôn muôn đời...
HỘI THÁNH TIẾP TỤC SỨ MỆNH CỦA CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TÔNG ĐỒ:
Cử chỉ của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cùng với lời truyền của Ngài: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”, đã là lệnh khẩn cấp cho Giáo Hội để Hội Thánh tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu và của các tông đồ: tiếp tục cử hành nghi lễ tạ ơn. Nghi lễ tạ ơn được cử hành dựa theo lời Chúa và cách thức của Chúa đã làm: “Đang lúc họ ăn, thì Đức Giêsu cầm lấy bánh và chúc tụng, rồi bẻ ra và ban cho họ, Ngài nói: Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta. Đoạn cầm lấy chén và tạ ơn, Ngài ban cho họ mà rằng: Hãy uống chén này hết thảy, vì này là Máu Ta, Máu Giao ước, đổ ra vì nhiều người, để nên ơn tha tội” (Mt 26, 26-28). Thánh Phaolô sau này cũng nói: “Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em hãy loan truyền sự chết của Chúa, cho đến khi Chúa lại đến” (1Cr 11, 26). Giáo Hội ngay từ thuở ban đầu cho tới ngày nay không ngừng cử hành cuộc hy tế của Chúa xưa trên thập giá. Người Kitô hữu khi tới nhà thờ hiệp dâng thánh lễ, cử hành Bí Tích Tạ Ơn, đã muốn cho thánh lễ được nối dài trong đời sống và ngược lại đời sống của người Kitô hữu phải là thánh lễ nối dài. Thánh lễ của người Kitô hữu phải là khởi điểm và kết thúc cho một sự dấn thân mới, một sự chọn lựa sống Tin Mừng: yêu thương, quảng đại, trung tín và chia sẻ. Một sự dấn thân theo Tin Mừng sẽ giúp cho người Kitô hữu sống Bí Tích Thánh Thể sâu xa và đầy niềm tin.
Người đàn bà trước khi lià đời đã trao cho chồng chiếc nhẫn ngày cưới để nói lên với chồng bà luôn yêu thương, luôn chung thủy với chồng và gần gũi các con của bà. Chúa Giêsu khi lập Bí Tích Thánh Thể tức Bí Tích Tình Yêu đã chỉ ra rằng Ngài luôn hiện diện, luôn yêu thương nhân loại, yêu thương mọi người bằng chính sự hy sinh cao cả của Ngài là chết vì yêu: “Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Chúa luôn hiện diện giữa mọi người, giữa nhân loại, Ngài tiếp tục yêu thương nuôi dưỡng con người bằng chính Mình Máu Thánh của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho nhân loại luôn biết yêu mến và tôn kính Bí Tích Thánh Thể.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn cảm nghiệm thế nào về Bí Tích Thánh Thể ? 2. Bạn có yêu mến Bí Thánh Thể không ? 3. Bạn đã đọc tông huấn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết về”Bí Tích Thánh Thể ?”.
1. Tại sao Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể khi ăn mừng lễ Vượt Qua, và Ngài cũng tử nạn và phục sinh vào dịp đại lễ này? Điều đó có ý nghĩa gì?
2. Khác với lễ vật bị đốt cháy hoàn toàn trong hy lễ toàn thiêu, con chiên bị sát tế vào dịp lễ Vượt Qua lại trở nên của ăn cho con người. Bạn có nhìn thấy tương quan giữa hy lễ thập giá và bí tích Thánh Thể không?
3. Đức Giêsu không chỉ chịu đau khổ và chết cho con người, mà còn trở nên của ăn cho họ. Bạn có thấy đó là mẫu gương để chúng ta bắt chước không?
Suy tư gợi ý:
1. Sự trùng hợp giữa ba biến cố quan trọng
Đã đến thời điểm Đức Giêsu phải sát tế chính bản thân mình làm lễ hy sinh toàn thiêu để thờ phượng Thiên Chúa và đền tội thay cho toàn thể nhân loại. Thời điểm ấy trùng vào dịp mừng lễ Vượt qua hàng năm của người Do-thái. Và cũng nhân dịp này Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể, ngay trong bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua với các tông đồ. Sự trùng hợp giữa ba biến cố này - lễ Vượt Qua, việc lập bí tích Thánh Thể, và cuộc tử nạn phục sinh của Đức Giêsu - ắt phải có một ý nghĩa rất lớn, và ba biến cố này ắt phải liên hệ với nhau rất mật thiết. Chúng ta hãy tìm hiểu.
2. Lễ Vượt Qua của người Do-thái
Đại lễ này bắt nguồn từ biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Do-thái khỏi ách thống trị của Ai Cập, xảy ra trước Đức Giêsu khoảng 1250 năm (x. Xh 7,8-15,21). Nhờ sự can thiệp giải phóng của Thiên Chúa, dân Do-thái được vượt từ cảnh nô lệ qua tự do. Đức Giêsu cũng đến để giải phóng con người, làm cho họ vượt từ ách nô lệ tội lỗi và ma quỉ qua tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, từ tình trạng chết trong tội lỗi qua tình trạng sống trong ân sủng, từ đau khổ qua hạnh phúc. Ngài thực hiện sự giải phóng đó bằng cả cuộc đời của một vị Thiên-Chúa-Nhập-Thể, đặc biệt bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Cuộc tử nạn và phục sinh này cũng là một cuộc vượt qua: vượt từ cõi chết qua cõi sống, từ tình trạng hay hư nát qua tình trạng bất diệt. Như vậy, cuộc vượt qua của dân Do-thái qua Biển Đỏ là biến cố đi trước làm hình bóng hay ẩn dụ cho cuộc vượt qua của Đức Giêsu, cũng là cuộc vượt qua của những ai tin vào Ngài: vượt từ cảnh nô lệ tội lỗi qua cảnh tự do của con cái Thiên Chúa. Vì thế, việc Đức Giêsu chọn thời điểm mừng lễ Vượt Qua để thực hiện cuộc tử nạn và phục sinh của mình bao hàm một ý nghĩa hết sức sâu xa.
3. Hy tế toàn thiêu và hy tế chiên vượt qua
Để cứu chuộc và giải phóng nhân loại, Đức Giêsu phải trả giá bằng đau khổ tột cùng và chết thê thảm như một của lễ vật bị sát tế dâng lên Thiên Chúa. Để hiểu được sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu là một hy tế thờ phượng Thiên Chúa Cha và đền tội nhân loại, và để hiểu được việc lập bí tích Thánh Thể như một của ăn tâm linh mà Đức Giêsu để lại khi bị sát tế như một lễ vật, chúng ta cần hiểu ít nhiều về lễ hy sinh toàn thiêu và lễ sát tế chiên Vượt Qua của người Do-thái.
Ngày xưa - ít nhất kể từ ông Nôê trở về sau (x. St 8,20) - dân Do-thái thờ phượng Thiên Chúa bằng cách dâng lên Ngài những hy lễ toàn thiêu. Theo tập tục được đặt ra sau này từ thời Môsê, thì người muốn dâng hy lễ toàn thiêu phải đặt tay trên con vật khi nó bị giết để nói lên mình là người chủ muốn dâng lễ vật ấy. Vị tư tế lấy máu của con vật rẩy quanh bàn thờ. Rồi con vật được chặt ra thành mảnh. Vị tư tế đặt các mảnh thịt lên bàn thờ để thiêu hủy hoàn toàn, chứ không phải thiêu cho chín để sau đó đem ăn. Ý nghĩa của lễ toàn thiêu là con người muốn biểu lộ sự toàn phục của mình đối với Thiên Chúa, là Chúa Tể của vũ trụ, có toàn quyền sinh sát trên toàn thể tạo vật. Đáng lẽ con người phải tự sát tế chính mình, nhưng nếu như thế, con người sẽ phải chết, là điều Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người dùng một con vật nào đó tượng trưng cho sinh mạng của mình để giết và thiêu cháy hoàn toàn. Điều này muốn nói lên lòng thành của con người, không tiếc với Thiên Chúa điều gì, vì tất cả đều thuộc về Ngài. Lễ vật toàn thiêu vừa để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, vừa để đền tội và xin ơn cho mình.
Nhưng trước ngày giải phóng dân Do-thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa truyền dạy một hình thức sát tế mới được thực hiện vào các dịp đại lễ Vượt Qua hàng năm. Cách hy tế mới khác với cách cũ ở chỗ: trong hy tế cũ - tức hy lễ toàn thiêu - thì lễ vật bị thiêu hủy hoàn toàn, còn trong hy lễ Vượt Qua thì lễ vật cũng bị sát tế, nhưng bị không thiêu hủy hoàn toàn: thịt con vật chỉ được nướng lên để sau đó con người ăn nó (xem Xh 12,3-14). Trong nghi thức sát tế mới này con người cũng được dự phần vào lễ vật, và lễ vật trở thành của ăn nuôi dưỡng con người. Đây chính là hình bóng hay ẩn dụ cho bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập vào dịp này.
4. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu với hy lễ Thánh Thể
Cuộc tử nạn của Đức Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là chủ dâng, vừa là tư tế, vừa là lễ vật. Bình thường ba khoản này khác nhau; tuy nhiên, cũng có thể chủ dâng cũng là tư tế, nhưng cả hai người ấy dường như không bao giờ lại là lễ vật. Vì lễ vật là đối tượng bị giết, chịu đau khổ và chết thay cho chủ dâng hay thay cho kẻ có tội phải đền mạng. Trong hy lễ toàn thiêu này, Đức Giêsu tự nguyện làm lễ vật bị sát tế, chẳng những để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa thay cho con người, mà còn để đền tội cho toàn thể nhân loại, đồng thời xin ơn tha thứ cho họ. Sự tự nguyện khủng khiếp này chỉ có thể phát xuất từ tình yêu cao cả đối với Thiên Chúa và toàn thể con người, đồng thời từ sự toàn phục đối với Thiên Chúa Cha.
Nhưng hy lễ này, Đức Giêsu không muốn thực hiện theo kiểu hy lễ toàn thiêu, trong đó lễ vật hoàn toàn bị thiêu hủy. Kiểu hy tế ấy biểu hiện tính «vì Thiên Chúa» một cách triệt để. Ngài muốn thực hiện hy lễ của Ngài theo kiểu hy lễ chiên vượt qua, trong đó lễ vật ngoài việc dâng hiến cho Thiên Chúa, còn trở nên của ăn cho con người. Kiểu hy tế này mang tính hai chiều: vừa «vì Thiên Chúa» mà cũng vừa «vì con người ». Đó là hai chiều kích căn bản trong việc nhập thể của Ngài và trong Giao Ước Mới do Ngài thiết lập. Khi tự nguyện làm lễ vật bị giết, Ngài chọn chết trên thập giá - là bàn thờ của hy tế này - được cấu tạo bằng hai chiều ngang và dọc, tượng trưng cho hai chiều kích căn bản ấy.
5. Tình yêu Đức Giêsu dành cho con người
Vì thế, trước khi ra đi chịu tử hình thập giá, tự nguyện làm «Con Chiên Vượt Qua» bị sát tế, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Ngài trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Tôi thật xúc động khi nghĩ đến điều này. Ngài vốn là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài lại yêu thương con người chúng ta vô hạn. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là một đối trọng cho tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa. Và chính Thiên Chúa cũng hài lòng khi thấy Con mình biết chia sẻ cho nhân loại tình yêu mà đáng lẽ phải dành trọn vẹn cho mình. Tại sao? Chính vì Thiên Chúa cũng yêu thương con người. Điều này có phần nào tương tự như người chồng đòi hỏi người vợ phải dành trọn vẹn tình yêu và sự trìu mến cho mình, nhưng lại rất hài lòng khi thấy vợ mình chia sẻ tình yêu và sự trìu mến ấy cho con cái, vì chính người chồng cũng yêu thương con cái không kém gì người vợ. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa đã chia sẻ cho chúng ta tình yêu mà đáng lẽ các Ngài phải dành trọn vẹn cho nhau. Điều đó chúng ta thấy được nơi Đức Giêsu.
Ngài đến thế gian không chỉ nghĩ đến việc thi hành thánh ý Chúa Cha, đến việc biểu lộ tình yêu, sự vâng phục đối với Chúa Cha, mà còn nghĩ rất nhiều đến con người, đến việc sáng kiến ra những điều Ngài có thể làm cho con người. Ngài yêu con người, chắc chắn không chỉ vì con người là tạo vật của Thiên Chúa được nâng lên hàng con cái Ngài, mà còn vì thấy con người rất đáng thương, quá đau khổ do tội lỗi. Càng chia sẻ đau khổ với con người, càng cảm nghiệm được sự dày vò khó chịu của đau khổ, Ngài càng yêu thương con người hơn. Tình yêu đầy tính cảm thông đó khiến Ngài không chỉ đau khổ và chết thay cho chúng ta, mà còn mà trở nên của ăn để nuôi dưỡng chúng ta, để ở lại với chúng ta, để có thể ban sức mạnh thần thiêng cho chúng ta, để đời sống chúng ta nên mạnh mẽ, hạnh phúc hơn.
6. Áp dụng tinh thần yêu thương của Đức Giêsu vào đời sống
Thiên Chúa cảm thông và yêu thương chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta lại không cảm thông và yêu thương nhau? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích: yêu Thiên Chúa và thương con người, lẽ nào chúng ta cùng là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau? Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại sao? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa - Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề ích kỷ - Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng những người chung quanh đang sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan tâm tới Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu: chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên «của ăn» cho anh chị em mình nữa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu là Thiên Chúa mà lại yêu thương con người như vậy, đang khi chúng con cùng là con người với nhau, cùng chịu đau khổ như nhau, mà chúng con lại không thông cảm với nhau, không yêu thương nhau, không quan tâm tới nhau. Chúng con quá ích kỷ, tình yêu của chúng con quá nghèo nàn. Xin Cha hãy ban tình yêu cho chúng con.
Hôm nay toàn thể Giáo hội mừng lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Trước khi về trời, Chúa không lỡ bỏ rơi loài người mồ côi, Chúa để lại cho loài người một kỷ vật cao quí là mình máu Thánh Người trong Bí tích Thánh thể để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người, để ban sức mạnh thiêng liêng và an ủi loài người: Đây là Mình Thày (Mc 14:22), Đây là Máu Thày, máu giao ước đổ ra cho muôn người (Mc 14:24). Cái giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người không phải được ký kết bằng máu hiến tế của chiên cừu, mà Mô-sê đã dùng trong Cựu ước, nhưng bằng máu Con Thiên Chúa như Chúa phán trong Phúc âm hôm nay và được Thánh Phao-lô thuật lại trong Thư gửi tín hữu Do thái (Dt 9:14).
Thánh lễ mi-sa là việc làm mới lại lễ hi sinh thánh giá. Tham dự vào bàn tiệc thánh là dấu chỉ ta chấp nhận giao ước mới với Thiên Chúa. Nếu người công giáo được hỏi xem có tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể không, chắc đa số sẽ trả lời là có. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa người Công giáo và người Tin lành. Người Công giáo tin có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể do lời truyền phép của linh mục. Tuy nhiên đôi khi ta có thể nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa trong Bí tích Mình thánh. Có khi nào ta nghe tiếng cám dỗ bảo ta điều gì không nên tin, việc gì không nên làm, vấn đề gì cần phải được xét lại không? Có bao giờ ta tự hỏi không biết khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép trong thánh lễ: Này là mình Ta.. Này là máu Ta có thực sự như vậy không? Không biết bánh rượu sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép có thực sự trở thành mình máu thánh Chúa không? Sở có những câu hỏi như vậy là vì ta thấy bánh rượu sau khi được truyền phép trông bề ngoài không có gì khác với bánh rượu trước khi truyền phép ? Có một linh mục kia tự nghĩ nếu quả thật bánh rượu sau khi được truyền phép không phải là mình máu thánh Chúa thì những lần ngài dâng lễ quả là vô ích. Nếu quả thật không có sự biến đổi thực sự do lời truyền phép của linh mục dâng thánh lễ, thì vị linh mục đó không thể tự lừa dối mình, nghĩa là không thể tiếp tục dâng thánh lễ. Và vị linh mục đó lý luận chẳng lẽ từ khi Chúa lập Bí tích Thánh thể và lập chức linh mục đã có cả hàng triệu linh mục trên thế giới đã đọc lại lời Chúa hàng ngày: Đây là Mình Ta…Đây là Máu Ta lại tiếp tục dâng thánh lễ được sao?
Ta cứ giả sử người công giáo tin trong đầu óc có Chúa hiện diện trong Bí tích Thánh thể, và khi rước lễ là rước mình thánh Chúa. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được bằng con tim có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Mình Máu thánh không lại là chuyện khác. Để có thể cảm nghiệm được có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể, ta hãy đáp lại lời Chúa mời gọi: Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với ta, ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28). Nếu chưa có kinh nghiệm cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa, ta hãy đến cầu nguyện và thờ lạy trước Mình thánh Chúa, để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút những gánh nặng của cuộc sống, những nỗi khổ tâm của lòng mình vào lòng từ ái của Chúa. Ta có thể cầu nguyện riêng một mình, hay với nhóm, hay chỉ cần ngồi đó thinh lặng để cho lòng mình nói với Chúa. Khi mẹ Teresa, thành Calcutta được hỏi tại sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục phục phụ người nghèo bên Ấn Độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời Chúa Thánh thể là sức mạnh của bà và bà cầu nguyện hàng giờ trước Mình thánh Chúa. Chúa bảo ta qua các tông đồ: Các con lại không thức với Thày được một giờ sao (Mc 14:37)?
Để đáp lại lời Chúa mời gọi, ta hãy thức với Chúa một giờ, hãy cầu nguyện với Chúa một giờ trước Thánh thể Chúa, hoặc ban ngày hay ban tối, hoặc với ngưòi khác hay một mình xem ta cảm thấy thế nào? Nếu lần này không cảm thấy gì, thì lần sau, rồi lần sau nữa. Ta hãy thức với Chúa một giờ xem lời Chúa và Mình thánh Chúa có sức tác động và biến đổi tâm hồn và đời sống ta không, xem Chúa có thực sự là sức mạnh, là nguồn vui, là niềm an ủi, là sự cậy trông và là lẽ sống của đời ta không ?
Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,bẻ ra trao cho các môn đệ và nói:Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói: Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. (Mt 26,26-29; Lc, 22,14-20). Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy . Tiệc Thánh Thể này được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô.Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá.Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian.Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần,tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần.Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội.Thánh Thể làm nên Giáo Hội.Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một bánh là thân mình Đức Kitô ( 1Cor 10,17).
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô.Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô- hóa bánh rượu,làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi Linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép.Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục.Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài.Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa Linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa.Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là Linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép:
“Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng con” ( Kinh Nguyện Thánh Thể II ).
“ Lạy Cha,chúng con tha thiết nài xin Cha,cũng nhờ Chúa Thánh Thần,mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây,để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” ( Kinh Nguyện Thánh Thể III ).
“Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” ( Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo,vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống …” ( Mt 25,35- 36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô,là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài.Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi Linh mục đọc Lời Truyền Phép. ( x trang Web: simonhoadalat.com, Mục Thần học, Tặng phẩm Thần Linh, Đức Cha Bùi Văn Đọc)
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. Thiên Chúa đã yêu thế gian nổi ban chính Con Một …….. (Ga 3,16) và Con Một là Đức Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng laị là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
Cuộc sống mỗi ngày quanh ta kết thành vô vàn dấu chỉ. Một tấm biển báo trên đường đi: dấu chỉ của luật giao thông; Một cử chỉ cúi chào: dấu chỉ của lòng kính trọng; Một bông hoa, một cánh thiệp: dấu chỉ của lòng yêu thương, tình bạn, sự luyến nhớ…
Đời sống của Giáo Hội cũng không hề khác. Để diễn tả một chân lý đức tin nào đó, Thiên Chúa, Chúa Kitô và Giáo Hội đã sử dụng rất nhiều biểu tượng và dấu chỉ. Chẳng hạn: Cột lửa, cột mây đồng hành với dân Chúa suốt bốn mươi năm trường trong sa mạc là dấu chỉ của sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người; Hòm bia thánh chứa đựng Thập điều là dấu chỉ của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân; Ngón tay, cánh tay, chim bồ câu, lưỡi lửa là dấu chỉ của ơn Thánh Thần; Ánh lửa, nến cháy sáng là biểu trưng của đức tin, của lòng mến…
Và trong muôn vàn biểu tượng ấy, có một biểu tượng trở thành dấu chỉ chất chứa nơi mình nó ơn cứu độ đời đời, mang lại ơn cứu độ cho bất cứ ai tin tưởng và lãnh nhận bằng tất cả lòng thành kính, tất cả tình yêu và tôn thờ Thiên Chúa. Tôi muốn nói đến các bí tích Chúa Kitô đã thiết lập và trao lại cho Giáo Hội.
Vậy bí tích là gì? Thánh Augustinô định nghĩa rất đơn giản: bí tích là DẤU CHỈ HỮU HIỆU.
Dấu chỉ là điều gì đó hữu hình giác quan có thể tiếp thu: mắt có thể nhìn thấy, tay có thể đụng chạm… Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ dù chỉ là một thực tại hữu hình nhưng bản thân nó lại nói cho ta biết một điều gì đó lớn lao, vượt ra ngoài trí hiểu và sự khôn ngoan của ta. Nói chính xác, dấu chỉ của bí tích là biểu tượng của lòng tin cho ta biết những thực tại thuộc về Thiên Chúa, những thực tại dẫu vô hình nhưng là những thực tại có thực mà ta không thể nhìn thấy, chỉ có thể chấp nhận trong đức tin.
Cuộc sống nói chung và cuộc sống đức tin của người Công giáo được đan kết bằng những dấu chỉ, để từ những dấu chỉ đó, diễn tả một chiều kích cao sâu xuyên qua cái hữu hình.
Nhưng không đơn thuần là dấu chỉ, mà bí tích còn là dấu chỉ hữu hiệu. Hữu hiệu vì nó sinh hiệu quả, nó có cả một thực tại ở phía sau những gì nó diễn tả. Nói như thế hơi khó hiểu. Bạn có thể hiểu nôm na thế này: ví dụ bạn tặng người yêu một bông hoa. Bông hoa ấy, tự nó không nói lên điều gì, nhưng khi bạn cầm lấy nó mà tặng cho người yêu, bông hoa ấy có một giá trị. Bông hoa ấy trở nên biểu trưng của lòng yêu thương, quý mến mà bạn dành cho người yêu của mình.
Nhưng đấy chỉ mới là dấu chỉ. Chẳng hạn sau khi nhận bông hoa, tự dưng người yêu của bạn cảm động, nghe tâm hồn ấm áp. Chỉ với một bông hoa nhỏ bé ấy thôi, nhưng cả hai dù là người tặng lẫn người nhận sao mà sung sướng, hạnh phúc và gần gũi lạ thường. Bạn ạ, đấy chính là sự hiệu nghiệm của một dấu chỉ, là hiệu quả, là thực tại phía sau những gì mà cành hoa diễn tả.
Bí tích là như thế: những dấu chỉ hữu hiệu. Hữu hiệu vì khi lãnh bí tích, ta cũng đồng thời lãnh nhận tình yêu của Chúa, lãnh nhận sức sống thần linh Thiên Chúa ban tặng cho ta, làm tâm hồn ta mạnh mẽ, đủ cứng cát mà chống lại cám dỗ, chống lại thói hư tật xấu nơi chính bản thân mình. Ngang qua những dấu chỉ của bí tích, ơn Bảo Trợ lớn lao là chính Thánh Thần được ban cho ta. Và ngang qua dấu chỉ của bí tích, ta tham dự vào sự sống hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa chúng ta. Bởi đó, một thực tại hữu hiệu thật lớn lao mà bí tích là dấu chỉ đã diễn tả.
Bí tích Thánh Thể cũng là một dấu chỉ: DẤU CHỈ CỦA SỰ HIỆP THÔNG. Hiệp thông có nghĩa là nên một. Nói cách khác: bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của sự nên một, như Hội Thánh luôn tuyên xưng và cầu nguyện rằng: “Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô” (Kinh Tạ Ơn II). Hay: “Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô” (Kinh Tạ Ơn III). Chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56). Động từ “ở trong” mà Chúa nói, diễn tả mạnh mẽ ơn hiệp thông. Có ai trong chúng ta dám khẳng định dứt khoát và mạnh mẽ như Chúa Giêsu? Dẫu là tình yêu mặn nồng của đôi lứa yêu nhau hay ngay cả vợ chồng đi nữa, có chắc là họ ở trong nhau như Chúa trong ta và ta trong Chúa? Chỉ có bí tích Thánh Thể làm nên sự hiệp thông kỳ diệu, sự hiệp thông toàn vẹn: Chúa với ta và ta với Chúa: một thân thể không thể tách lìa.
Trong bí tích Thánh Thể, ta không chỉ nên một với Chúa mà thôi, nhưng còn với anh chị em của mình nữa. Vì khi cùng chia sẻ một tấm bánh là chính thân mình Chúa Kitô, tất cả mọi người sẽ nên những chi thể của Người. Thánh Phaolô đã từng nói: tất cả chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh, vì thế chúng ta làm nên một thân mình. Thân mình mầu nhiệm này sẽ được sống nhờ sức sống của Chúa Kitô là chính Thánh Thần của Chúa Kitô mà Người ban cho ta.
Bởi thế, trong Chúa Kitô, nhờ Thánh Thể của Người, tất cả chúng ta thật xứng đáng gọi Thiên Chúa là Cha còn ta chỉ là một với nhau, cùng làm con của Cha.
Nói như thế, không có nghĩa là trong thực tế, chúng ta đã có thể hiệp thông hoàn toàn với nhau. Hiệp thông toàn vẹn là một ước mơ lớn lao của người Kitô hữu. Bởi trong Giáo Hội vẫn còn đó nhiều chia rẽ, mà nỗi đau không phải chỉ một ngày, hai ngày mà nỗi đau bởi thiếu hiệp thông, thiếu sự nên một, trở thành vết thương lở lói qua từng thế kỷ, qua mỗi thế hệ: hết cha ông đến con cháu, vậy mà vẫn chưa có thể lành lặn.
Hiệp thông vẫn là ước mơ bởi lòng ta vẫn còn đó nỗi oán hận anh em, vẫn còn đó sự ganh ghét, và không thể tha thứ cho nhau. Bởi trong gia đình ta còn đó nhiều chia rẽ, đố kỵ. Gia đình ta còn quá coi trọng đồng tiền, vì thế kẻ có tiền trở thành chủ gia, người già yếu, người thất nghiệp bị coi là phế nhân. Quá coi trọng vật chất cho nên trật tự gia đình bị đảo ngược: đứa con có tiền cho nên mặc sức đi sớm về khuya, mặc sức tự tung tự tác, dẫu là cha mẹ cũng trở nên người phục phụ cho nó thay vì nó phải đền ơn báo nghĩa.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu hiểu rõ sự giằn co giữa ranh giới của hiệp thông và chia rẻ. Vì thế nơi Thánh Thể của Người, Chúa ban tặng cho ta tình yêu vàsức mạnh. Tình yêu ấy, sức mạnh ấy đã đưa Người hiến dâng mạng sống để làm bùng lên một sức sống mới, một sức sống mãnh liệt có khả năng phá tan hận thù, phá tan chia rẽ cho ta đến gần với ơn hiệp thông. Ay chính là sức sống của người biết tha thứ, biết đặt tình yêu lên trên mọi hố sâu của hận thù, chia rẻ và dám hiến thân cho anh chị em, cho chân lý, cho lẽ sống, để tình yêu, sự hiệp thông được nêu cao và bền vững. Bởi thế mỗi một lần tham dự thánh lễ, mỗi một lần rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể, là mỗi một lần ta học lấy và tập tành lối sống của Chúa Giêsu, đó là một lối sống biết ra khỏi con người mình, biết vượt lên trên mọi ích kỷ, mọi vụ lợi riêng tư mà đến với anh chị em bằng một tấm lòng yêu thương chân thành, một tấm lòng đã mang lấy sự sống của Chúa Giêsu, hơn thế nữa: mang lấy chính Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng ngự trong ta và ta trong Người.
Trong đời sống con người, không gì sáng tạo và nhiều bất ngờ thú vị cho bằng tình yêu. Vì thế mà tình yêu luôn là đề tài của thơ ca, tiểu thuyết, hội họa, điêu khắc và phim ảnh. Trong đời sống tâm linh của người tín hữu cũng tương tự như thế. Xuất phát từ bản chất là Tình Yêu, Thiên Chúa đã thể hiện mình qua muôn vàn phương cách. Sáng tạo là một cách. Cứu độ là một cách khác. Thánh hóa là một cách khác nữa. Trong công trình thánh hóa thì các bí tích đóng một vai trò quan trọng. Thật vậy, bẩy bí tích được ví như bẩy nguồn suối ban ơn cho kẻ tin. Trong bẩy Bí tích thì Thánh Thể là cách biểu hiện cao nhất và tuyệt vời nhất của Tình Yêu Thiên Chúa. Hôm nay Giáo hội mừng kính Mình Máu Thánh Chúa là để chúng ta tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa và giúp chúng ta biết đáp lại Tình Yêu ấy mà sống hiến dâng phục vụ như Chúa Giêsu Thánh Thể.
ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
1. Kitô hữu là dân của Giao Ước: Đó là một trong nhiều nội dung của các bài Thánh Kinh hôm nay. Công đồng Vatican II đã dạy rằng: Giáo hội là Dân Chúa, có nguồn gốc hay bắt đầu từ dân Ítraen là Dân riêng của Thiên Chúa Giavê bằng Giao Ước Sinai và kéo dài trong lịch sử loài người nơi dân tộc mới là Giáo hội nhờ Giao Ước Thập Giá của Chúa Giêsu. Dân cũ bao gồm những người cùng một chủng tộc là dân Do Thái; còn dân mới bao gồm tất cả mọi tín hữu có chung một Niềm Tin. Giao Ước cũ được ký kết qua máu chiên bò dê. Giao Ước mới được ký kết bằng Máu Cực Thánh Con Thiên Chúa Ngôi Hai làm người. Giao Ước Cũ là bước chuẩn bị, là lời loan báo, là hình bóng rất mờ nhạt của Giao Ước Mới. Trong Giao Ước Cũ vị thượng tế và lễ vật dâng lên Thiên Chúa là hai thụ tạo khác nhau, thượng tế là một con người được Chúa tuyển chọn để thi hành công việc thờ phượng thay cho dân, còn lễ vật là chiên, bò, dê là những con vật được sát tế. Cả hai đều chỉ là tạo vật. Còn trong Giao Ước Mới, chính Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Của Lễ Toàn Thiêu đẹp lòng Thiên Chúa và có khả năng ban Ơn Cứu độ cho nhân loại.
2. Bí tích Thánh Thể là trung tâm đời sống của Dân Giao Ước
Hiến tế Thập giá của Đức Giêsu cũng là lễ tế trong Nhà Tiệc Ly. Từ cạnh sườn Chúa Giêsu máu và nước chẩy ra là sự khai sinh của Giáo hội. Từ tấm bánh được bẻ ra, từ ly rượu được trao ban cho các môn đệ là một cộng đoàn cứu độ được chào đời. Mặt khác, nhờ Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu bị đóng đinh thập giá hiện diện cách huyền nhiệm giữa lòng Giáo hội và giữa lòng thế giới qua mọi thời đại. Giáo hội xuất phát từ Thánh Thể và sống nhờ Thánh Thể. Cộng đoàn tín hữu đầu tiên đã hiểu và thực hành điều ấy: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
3. Ước nguyện của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khi ban hành Thông điệp Thánh Thể
Chính vì Thánh Thể có tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo hội mà ngày 27.4.2003 vừa qua, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ban hành Thông điệp “Ecclesia de Eucharistia: Hội Thánh từ Thánh Thể”. Khi công bố Thông điệp này, Đức Thánh Cha theo đuổi nhiều ước nguyện thâm sâu của Ngài. Đó là:
3.1 Lôi kéo toàn thể Hội Thánh suy nghĩ đặc biệt hơn nữa về Thánh Thể, và mời gọi Giáo hội hãy cảm tạ Thiên Chúa nhiều hơn nữa vì quà tặng là Bí tích Thánh Thể và chức linh mục;
3.2 Mời gọi Hội Thánh chiêm ngưỡng Đức Kitô trong bí tích sống động của Mình và Máu Người tại trường học của Đức Maria, theo chương trình đã đề ra trong Tông Thư Khởi đầu Thiên niên kỷ mới và tài liệu bổ sung mang tính thánh mẫu học là Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria;
3.3 Mời gọi Hội Thánh múc nguồn sự sống từ Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể: nhờ Người Hội Thánh được nuôi dưỡng và nhờ Người Hội Thánh được soi sáng;
3.4 Tích cực loại bỏ những áng mây đen tối là những giáo thuyết và thực hành không thể chấp nhận được, để Thánh Thể tiếp tục toả sáng vẻ huy hoàng của mầu nhiệm trong và ngoài cuộc sống của Giáo hội.
4. Sống Bí tích Thánh Thể hôm nay
4.1 là hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô tự hiến vì phần rỗi muôn người: Đó là sứ điệp thứ nhất của Lời Chúa hôm nay. Lương thực được cơ thể tiếp nhận thì để trở thành những tế bào máu nuôi sống thân thể thế nào, thì Mình Máu Chúa chúng ta lãnh nhận cũng biến chúng ta thành chi thể của Chúa Giêsu như vậy! Nhờ Thánh Thể, chúng ta nên một với Người, hiệp thông sâu sắc với Người. Giữa Người và chúng ta không còn có thể có khác biệt nữa. Đó là lý tưởng, là điều đáng lẽ phải xẩy ra nơi tất cả những người đón rước Thánh Thể vào lòng mình. Nếu thực tế chưa được như vậy thì là vì chúng ta chưa để cho Chúa Giêsu Thánh Thể tiêu hóa chúng ta, biến chúng ta thành Thịt Máu, Tư Tưởng và Hành Động của Người mà thôi!
4.2 là trở thành lương thực nuôi sống tha nhân: Đó là sứ điệp thứ hai của Lời Chúa hôm nay. Vì chưng khi chúng ta đón rước Thánh Thể là để chúng ta sống cho tha nhân, chứ không phải để chúng ta sống cho chính mình ta nữa. Sống cho tha nhân tức trở thành lương thực nuôi sống tha nhân là hệ quả tất nhiên của Phép Thánh Thể nói riêng, của Tình Yêu Thiên Chúa nói chung. Chúng ta có rất nhiều cơ hội, hoàn cảnh, điều kiện thuận lợi để thực thi điều này. Từ trong đời sống vợ chồng hay gia đình cho đến trong đời sống cộng đồng hay xã hội….. người này vẫn có thể hy sinh cho những người khác một cách quảng đại, không tính toán so đo theo tinh thần và cung cách tự hiến của Chúa Giêsu trên Bàn Tiệc Thánh và trên Cây Thập Giá.
CẦU NGUYỆN
Bone pastor, panis vere, Iesu, nostri miserere...
Lạy Chúa Giêsu, là Mục tử nhân lành, là bánh thần linh, xin tỏ lòng thương xót chúng con; xin nuôi dưỡng, che chở chúng con; xin cho chúng con thấy vinh quang của Ngài chiếu toả trong đất những kẻ hằng sống.
Lạy Chúa là Đấng thấu suốt và làm được mọi sự, là lương thực cho chúng con ở đời này, là nơi an nghỉ cho chúng con trong tương lai, xin cho chúng con được đồng bàn và đồng thừa hưởng với các thánh muôn đời. (Lời cầu nguyện của Gioan Phaolô II ở cuối Thông điệp Thánh Thể).
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một bữa ăn. Đó là bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu và các môn đệ. Bữa ăn mà chúng ta quen gọi một cách trang trọng là bữa tiệc ly. Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể sau khi đã tâm sự hết với các môn đệ. Chúa Giêsu đã dùng bữa ăn cuối cùng với các ông vào đúng ngày người Do-thái ăn mừng lễ Vượt qua.
Ăn uống lả nhu cầu thiết yếu của đời sống. Người ta ăn để sống và có sức khỏe làm việc. Đã ngồi ăn chung với nhau là người ta phải có mối liên hệ nào đó với nhau. Còn biết ngồi ăn chung với nhau là dấu hiệu người ta còn quan tâm đến nhau. Những người cùng một gia đình, họ hàng, dòng tộc, bạn bè, đồng nghiệp thường hay ngồi ăn với nhau. Họ ngồi ăn chung với nhau để trao đổi công việc hàn huyên tâm sự, lắng nghe, chia sẻ và gỡ rối mọi khúc mắc. Sau một bữa ăn với nhau, người ta hiểu thêm về nhau và tình người được hâm nóng.
Hơn ai hết, Đức Giêsu đã thấy rõ giá trị cần thiết của một bữa ăn. Đối với Ngài, ăn chung không chỉ đơn thuần là để no cái thân xác, mà nhất thiết là tinh thần được thỏa mãn. Ngoài ra món ăn tinh thần và món ăn thiêng liêng còn cần thiết hơn món ăn vật chất nữa. Chính vì thế, mà trong cuộc đời công khai, Đức Giêsu đã nhiều lần dùng bữa với người này người nọ. Chúa đã đi ăn tiệc cưới của người bà con ở Cana. Chúa đã dùng bữa nhà ông Giakêu. Chúa đã ăn bữa cơm thịnh soạn ở nhà ông Lagiarô. Ngài bị chỉ trích vì ngồi đồng bàn với người tội lỗi và những người Pharisêu. Tất cả những bữa ăn đó đều đem lại ơn ích cho ngườI có lòng mời Chúa. Trường hợp tiệc cưới Cana và bữa ăn ở nhà ông Giakê là một điển hình: Họ đã được hưởng một niềm vui trọn vẹn của bữa tiệc mừng.Chúa ra tay cứu giúp trong những bế tắc mà nhiều khi họ cũng không ngờ. Song đỉnh cao của các bữa ăn chính là bữa tiệc ly của Chúa trước khi chịu chết. Đó là một bữa ăn giá trị cứu độ con người. Một bữa ăn không thể nào quên trong trí nhớ của những người được kêu mời là môn đệ. Chúng ta hôm nay cũng đang được tham dự bữa ăn đó qua thánh lễ. Bữa ăn đó là tiền thân của Thánh lễ hôm nay . Thánh lễ là hiện thực lại bữa ăn cuối cùng của Chúa.
Bởi trong thánh lễ Chúa Giêsu ban chính Mình và Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng ta. Nhờ sự chết và Phục Sinh của Chúa con người được mời gọi tham dự vào sự sống vĩnh cửu qua việc tham dự thánh lễ.Trước tiên, Chúa Giêsu là lương thực của bữa ăn của đại gia đình dân Chúa. Đồng thời Ngài cũng là chủ tiệc, là người đồng bàn với chúng ta. Tham dự thánh lễ là chúng ta nối liên lạc yêu thương với Ngài. Chúng ta được gặp gỡ chính Ngài là thượng nguồn của sự sống. Chúng ta ăn và uống Mình và Máu Ngài để được sống viên mãn trong Thiên Chúa. Là người đồng bàn, Ngài lắng nghe chúng ta tâm sự qua những lời cầu nguyện của cộng đoàn trong thánh lễ.
Như vậy, thánh lễ là trung tâm cuộc sống của người tín hữu, luôn chi phối mọi hành động của chúng ta, là cơ quan đầu não điều khiển cho chúng ta biết sống trong mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Khi đi tham dự thánh lễ đức tin của chúng ta sẽ được vững vàng, sẽ không còn những giằng co tranh chấp, những ham muốn ích kỷ, chúng ta tự biết làm gì cho Chúa và cho tha nhân.
Nhân ngày lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay, chúng ta đã có dịp đào sâu về giá trị của thánh lễ và bí tích Thánh Thể. Chúng ta phải biết thay đổi suy nghĩ chỉ xem Thánh lễ như là một thói quen, hay là một gánh nặng phải thực hiện, một việc xưa cũ nhàm chán, mà biết tím được trong thánh lễ một nguồn sức dồi dào để chúng ta cảm thấy phấn khởi hào hứng khi đến thánh đường của giáo xứ tham dự thánh lễ mỗi Chúa Nhật.
Lạy Chúa, nhiều khi chúng con đến tham dự thánh lễ ở nhà thờ mà tâm hồn lại để ở nơi khác. Chúng con tận dụng cả giờ lễ để lo nghĩ cho một công việc sắp làm hoặc đã làm mà còn đang dở dang. nhiều khi chúng con đã quên mất gái trị cứu độ của Thánh lễ. Xin cho chúng con biết quý trọng thánh lễ như một viên ngọc quý, để chúng con được sống bằng chính sự sống của Chúa. Vì trong thánh lễ Chúa đã ban Mình Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng con. Amen
* BÀI ĐỌC 1: Xuất hành 24,3- 8= Máu của Giao ước: Tân ước nhìn dân Chúa là Israel mới liên hệ với Chúa trong Giao ước mớị/ Blood of.. .: The New Testament sees GodỴs people as a New Israel, related to God in a new covenant.
* BÀI ĐỌC 2: Do Thái: 9, 11- 15= Đức Giêsu vị Thượng Tế: Người đã đổ máu mình ra trên thập giá là vị Thượng Tế dâng lên Chúạ/ Jesus the High Priest: Our Lord sheđing His blood on the cross as a high priest offering God.
* BÀI TIN MỪNG(Gospel): Mc. 14, 12- 16; 22- 26= Một Giao ước mới giữa Thiên Chúa và nhân loai: Đây là mình Thầy, máu Thầy hy sinh vì anh em./ A new Covenant between God and humankind: “This is my body, this is my blood.. .
A- Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Trong bữa tiệc ăn lễ Vượt Qua xảy ra cùng bữa tiệc ly: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầỵ” Bẻ bánh và phân chia bánh là hai tác động có ý nghĩa: những người đồng bàn cùng chia một chiếc bánh. Hai tác động này Chúa có ý dạy tôi sự hiệp nhất trong cộng đoàn. Nói việc làm sống hòa hợp của tôi với mọi ngườỉ
They were eating, He took bread, said the blessing, broke it, gave it to them, and said: “Take it; this is My bodỵ” (Mc. 14, 22)
2/ Sau khi mọi người đều uống chén Chúa trao, Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, Máu Giao ước, đổ ra vì muôn ngườị” Máu Ịức Giêsu là yếu tố nhờ đó Giao Ước mới được thiết lập, cũng là dấu chỉ hiệp thông giữa Thiên Chúa và cộng đoàn tín hữụ Bí tích Thánh Thể là sự mầu nhiệm, là quên mình, là cho đị Bạn đã sống mầu nhiệm Thánh Thể là chia sẻ, là phân phát cho người khác được những gì như Chúa ?
He said to them. “This is my blood of the covenant, which will be shed for manỵ” (Mc. 14, 24)
3/ Trong thư gởi Tin hữu Do Thái, thánh Phaolô nhấn mạnh::"Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúạ” Mầu nhiệm Nhập Thể đã được quy chiếu về Chúa Thánh Thần, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần tác động, Người đã nhập thể trong lòng Đức MariạHôm nay Chúa Thánh Thần đang làm gì trong Tín hữủ Riêng tôi đã lắng nghe Ngài dạy bảo những gỉ
Through the eternal Spirit offered himself unblemished to God, cleanse our consciences from dead... (Dthái 9, 14)
4/ Trong sách Xuất hành nói về ký Giao ước như sau: “Bấy giờ ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói:Đây là Máu Giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nàỵ” Ông Mô-sê là môi giới giữa Yavê và dân, nối kết hai bên lạị Bạn cần làm gì cho tha nhân để sống Mầu nhiệm Thánh thê
Then he took the blood and sprinkled it on the people, saying: “This is the blood of the covenant that... (Xhành 24, 8)
B- Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: (The Best GodỴs Word)
. . . “ANH EM HÃY CẦM LẤY, ĐÂY LÀ MÌNH THẦỴ” (Mc.14, 22) . . . “Take it, this is My body”
C- Ngay hôm nay tôi phải làm gì để Sống Mầu nhiệm Thánh Thể: (So what am I doing / For Action )
a/ Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
b/ Bạn nên Sống mầu nhiệm Thánh Thể bằng cách chia sẻ vật chất và tinh thần cho anh em túng nghèọ
Tôi cầu nguyện và thưc hiện lời tôi cầu xin với anh em: ( I pray and practice / Pray in Action )
Tôi dựa vào 4 câu Kinh Thánh ở phần A để nói bộc phát với Chúa những điều mình đang thao thức.
Bạn có thể tâm sự với Chúa như người bạn về lòng khát khao, muốn chia sẻ cho anh em...
Lời hay ý đẹp: CA NGỢI LÀ NGÔN NGỮ CỦA NHỮNG TỘI NHÂN ĐƯỢC PHÓNG THÍCH
1) Ý chính: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14,22):
Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly Vượt qua của đạo Do thái, trước khi hiến: THÁNHTHỂ-43
Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly Vượt qua của đạo Do thái, trước khi hiến thân chịu tử nạn và phục sinh, thiết lập một Giao ước Mới thay thế Giao ước Cũ thời Môsê, để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa và ban ơn Cứu độ cho loài người.
2) Chú thích:
- Ngày thứ Nhất trong tuần Bánh không men, là ngày sát tế chiên Vượt qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt qua ở đâu ? Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó (Mc 14,12-13):
+Tuần lễ Bánh không men: Luật Môsê qui định về lễ Vượt qua và lễ Bánh không men như sau: Ngày 14 thánh Ni-xan (tháng thứ nhất theo lịch Do thái, tức là vào khoảng tháng 3-4 dương lịch ngày nay), là đại lễ Vượt qua kính Đức Chúa. Ngày này người ta sát tế chiên để lúc chập tối sẽ ăn tiệc chiên Vượt qua với bánh không men (x. Xh 12,21-27). Hôm sau, ngày 15 Ni-xan, là bắt đầu lễ Bánh không men kính Đức Chúa. Lễ này kéo dài một tuần lễ. Trong bảy ngày, người Do thái phải ăn Bánh không pha men, để nhắc nhớ cuộc Xuất hành thời Môsê. Ngày 15 Ni-xan, họ phải họp nhau để thờ phượng Đức Chúa và kiêng việc xác. Trong 7 ngày, họ phải tiến dâng lễ vật hỏa tế lên Đức Chúa. Đến ngày thứ Bảy là ngày kết thúc, họ phải tập họp lại để thờ phượng Đức Chúa và kiêng việc nặng (x. Lv 23,5-8; Ds 28,16-17).
+ Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt qua tại đâu ?:Môn đệ hỏi Đức Giêsu như hỏi một người chủ gia đình, người có trách nhiệm cử hành lễ Vượt qua. Đức Giêsu và các môn đệ mừng lễ trước một ngày, tức vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ Năm (bắt đầu ngày thứ sáu), thay vì lẽ ra mừng vào 6 giờ chiều thứ Sáu (bắt đầu ngày Thứ Bảy), mà năm ấy lễ Vượt qua lại trùng vào thứ Bảy (x. Ga 19,14.31.42).
+ Người sai hai môn đệ đi: Hai ông này là Phêrô và Gioan (x. Lc 22,8). + Sẽ thấy một người mang vò nước& Đức Giêsu làm chủ cả không gian và thời gian: Người nhìn thấy trước mọi sự việc đúng như nó sắp xảy ra, cũng như Người nhìn thấy Na-tha-na-en ngồi dước gốc cây vả trước khi Philípphê gọi ông (x. Ga 1,48).
- Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt qua với các môn đệ của tôi ở đâu ? Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng. Và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta”. Hai môn đệ ra đi, vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt qua (Mc 14,14-16):
+ Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà&: Chắn chắn đây là nhà của một môn đệ thân thiết của Đức Giêsu. Có người cho là nhà ông bố của Máccô vì Máccô thuật lại bữa tiệc này chi tiết hơn các Tin Mừng khác. Có người lại phỏng đoán là nhà của Nicôđêmô hay Giô-sép người A-ri-ma-thê, là hai nhân vật vị vọng, môn đệ âm thầm của Đức Giêsu, và đã xuất hiện công khai sau khi Người chết trên thập giá để mai táng Người (x. Ga 19,38-40).
+ Các ông dọn tiệc Vượt qua: Theo tục lệ cổ truyền, khi ăn thịt chiên tại nhà, mọi người phải đứng, lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã (x. Xh 12,11).Nhưng vào thời Đức Giêsu, người Do thái không giữ tục lệ ấy nữa. Khi ăn tiệc, họ cũng làm theo cách thức ăn tiệc của văn hóa La-Hy (La-tinh Hy-lạp) đương thời: Thực khách dự tiệc nằm trên một tấm thảm, đầu nghiêng về một bên, dựa vào cánh tay trái làm gối. Còn tay mặt dùng để ăn. Về vị trí trong bữa Tiệc Ly Vượt qua: Người môn đệ được Đức Giêsu quí mến là Gioan ở bên phải Đức Giêsu và có lúc đã tựa đầu vào ngực Thầy (x. Ga 13,25). Tiếp đến là Phêrô ngồi cạnh Gioan. Chính Phêrô đã làm hiệu và bảo Gioan: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai vậy ?” (Ga 13,24). Còn Giuđa ở bên trái Đức Giêsu. Điều này giải thích tại sao Đức Giêsu trả lời cho Giuđa mà các môn đệ khác không nghe được (x. Mt 26,25), và việc Đức Giêsu dễ dàng “chấm một miếng bánh trao cho Giuđa” (x. Ga 13,26). Ngoài ra, về vị trí của các môn đệ khác thì khó lòng xác định.
- Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” (Mc 14,22): + Cũng đang bữa ăn: Máccô tường thuật việc Đức Giêsu lập Phép Thánh thể trong khung cảnh bữa Tiệc ly Vượt qua. Người đã dựa vào diễn tiến nghi thức phụng vụ bữa tiệc Chiên Vượt qua của đạo Do thái để thiết lập Bí Tích Thánh thể mà Người đã hứa khi giảng tại hội đường Ca-phác-na-um (x. Ga 6,51-58).
+ Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông: Đây là những cử chỉ Đức Giêsu đã làm nhiều lần trước đó như: Hai lần Đức Giêsu làm cho bánh nhân ra nhiều (x. Mc 6,41; 8,6); Một lần trong bữa Tiệc ly vượt qua (x. Mc 14,22; Lc 22,19); một lần Đức Giêsu Phục sinh đã làm khi ngồi ăn với hai môn đệ làng Em-mau (x. Lc 24,30)&Cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng là cử chỉ của gia trưởng làm trong nghi lễ bữa tiệc Chiên Vượt qua theo luật Môsê, sau khi các người đồng bàn hát kinh Ha-len phần I (gồm Thánh vịnh 112-113) và uống chén rượu thứ hai. Bẻ bánh ra và trao cho các ông là hai cử chỉ mang ý nghĩa hiệp thông và huynh đệ cộng đoàn.
+ Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy: Trong niềm tin Kitô giáo, Đức Giêsu đã dùng quyền năng để biến bản chất của tấm bánh trở nên Thân Mình của Người, chứ không phải bánh chỉ là tượng trưng Thân Mình Chúa, như có người lầm tưởng (x. Ga 6, 51-58; 1Cr 11,23-25).
- Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này, Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao ước đổ ra vì muôn người.Thầy bảo thật anh em: Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14,23-25):
+ Và Người cầm chén rượu&: Chén rượu với lời tạ ơn là chén rượu thứ ba của nghi lễ tiệc Chiên Vượt qua. Đức Giêsu dùng chén rượu thứ ba này để thiết lập một Giao ước Mới.
+ Đây là Máu Thầy, Máu Giao ước, đổ ra vì muôn người: Đây là Máu Giao ước Mới, nhắc nhớ Giao ước Cũ Xi-nai thời Xuất hành, đã được ghi lại như sau: “Bấy giờ ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu Giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,8). Giao ước Xi-nai được thiết lập giữa Thiên Chúa với dân Israen. Trong nghi lễ Giao ước Xi-nai, người ta giết bò, rồi tư tế lấy máu nó rảy lên bàn thờ và lên dân chúng. Máu đó là dấu chỉ mối tương quan mới và sự hiệp thông giữa Đức Chúa và dân Israen. Trong thời Tân Ước này, Máu Đức Giêsu là yếu tố nhờ đó Giao Ước mới được thiết lập. Máu của Người cũng là dấu chỉ sự hiệp thông mới giữa Thiên Chúa và dân Israen Mới là Giáo Hội. Máu sắp đổ ra ám chỉ cái chết của Đức Giêsu trên cây thập giá. Cái chết của Người để đền tội thay cho loài người và ban ơn cứu độ cho mọi người hay cho muôn người.
+ Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa: Đến ngày tận thế, sau khi lịch sử nhân loại chấm dứt, Đức Giêsu và các tín hữu được ơn cứu độ sẽ uống rượu mới tại bữa tiệc cánh chung trong Nước Thiên Chúa. Hình ảnh này diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn và chung cuộc của các môn đệ với Đức Giêsu và với Thiên Chúa.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy” (Mc 14,22):
Câu chuyện: Phép lạ về sự biến thể trong phép Thánh thể:
Vào năm 1263, có một linh mục người đức đang cử hành Thánh lễ tại một nhà thờ kính thánh Kít-xi-a-na (Christiana), thì lúc bẻ bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy Mình thánh hình bánh đã biến thành Thân Xác Đức Giêsu tử nạn. Trên thân mình Chúa, máu đang rịn ra qua các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ bàn thờ. Vị linh mục vội gấp các tấm khăn kia lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu lại thấm ra tới đó. Cuối cùng Máu thấm qua tới 25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi đến nỗi vị linh mục không thể tiếp tục dâng hết Thánh lễ được.
Sau đó, ông đến xin yết kiến Đức Giáo Hoàng Ur-ba-nô và tường trình sự kiện lạ lùng ấy. Đức Giáo hoàng liền sai một phái đoàn, đứng đầu là một Giám Mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa cùng các khăn bàn thờ đã thấm Máu thánh kia về Rôma và đặt tại một nhà thờ dâng kính phép Thánh thể, và mời gọi giáo dân đến chầu Mình thánh liên tục. Sau đó, vào ngày mùng 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Ur-ba-nô đã ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu và truyền mừng lễ trong toàn thể Hội thánh.
Suy niệm và quyết tâm:
- Trong lịch sử Hội Thánh, có nhiều phép lạ tương tự đã xảy ra chứng minh có sự biến thể thực sự trong Bí tích Thánh thể. Chúng ta xác tín rằng trong Thánh lễ: Sau lời truyền phép “Này là Mình Thầy và này là Chén Máu Thầy”, thì nhờ quyền năng Thánh Thần, tấm bánh và chén rượu trên bàn thờ đã có sự biến hóa thiêng liêng. Dù mắt ta vẫn chỉ thấy tấm bánh và chén rượu nho, với hình dạng chất liệu, mầu sắc và mùi vị y như trước khi truyền phép. Nhưng ta tin rằng: tấm bánh ấy đã trở nên Mình Chúa và chén rượu kia hóa thành Máu thánh Chúa Giêsu.
- Qua phép lạ nói trên, Chúa muốn củng cố đức tin của các tín hữu chúng ta về Bí tích cực trọng này, giúp chúng ta hiểu được ý Chúa khi lập Bí tích Thánh thể là lấy Thịt Máu Người sắp chịu khổ hình thập giá và phục sinh vinh quang, làm lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta.
- Quyết tâm: Vậy trong tuần này, mỗi người chúng ta quyết tâm tham dự Thánh lễ thế nào để biểu lộ đức tin vào mầu nhiệm biến thế: Bánh rượu trở thành Mình Máu thánh Chúa Giêsu sau lời truyền phép của Linh mục Chủ tế trong Thánh lễ ?
(Đáp: Mỗi lần tham dự Thánh lễ, ta nên dọn mình để rước lễ, tức là đón Chúa Giêsu Thánh thể vào lòng cách sốt sắng. Cần siêng năng viếng Chúa khi ngang qua nhà thờ, tham dự các giờ chầu Mình Thánh Chúa hằng ngày, hằng tuần hay hằng tháng).
2) “Đức Giêsu đã yêu mến những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1):
Câu chuyện: Chiếc nhẫn kỷ vật của tình yêu:
Có một đội vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống với nhau thật hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày trước khi rời nhà đi làm vào buổi sáng, và chiều tối khi trở về ngôi nhà thân thương, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày một thêm bền vững. Nhưng rồi hạnh phúc của đôi vợ chồng bị đe dọa khi một hôm người chồng bị trúng mưa trên đường từ sở làm về nhà. Sau đó anh bị cảm nặng liệt giường và được người vợ săn sóc chu đáo. Anh được mang đến bệnh viện khám và điều trị. Anh được bác sĩ chẩn đoán là bị sưng cuống phổi. Tuy nhiên, dù được tận tình chữa trị và được chăm sóc chu đáo, nhưng bệnh tình người chồng ngày một thêm trầm trọng. Cuối cùng bệnh viện đã xác định anh mắc ung thư màng phổi ác tính ở vào thời kỳ thứ ba. Khi sắp chết, anh chồng kêu vợ lại gần trăn trối. Anh thều thào nói: “Em yêu quí ! Có lẽ sắp đến giờ Chúa gọi anh về.Anh đã chuẩn bị tâm hồn và giờ đây sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc có một điều là không còn tiếp tục sống bên em nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà hai vợ chồng mình đã trao tặng nhau, khi cầm tay kết ước trước bàn thờ Chúa cách đây hơn một năm. Bây giờ anh xin tặng chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn thấy chiếc nhẫn này, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu mong cho em được an vui hạnh phúc”. Nói xong, anh ta tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, như hai người đã làm cho nhau trong ngày cưới. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang ở gần nhà. Sau đó, hàng ngày người ta đều thấy một phụ nữ trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó bông đi vào nghĩa trang. Chị đứng trước một ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh và cầu nguyện cho người chồng quá cố. Trên tay chị ta có đeo hai chiếc nhẫn cưới: một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật thân thương của người chồng quá cố để lại cho chị.
Suy niệm và quyết tâm:
- Hai ngàn năm trước đây, Đức Giêsu đã làm một công việc tương tự: Ý thức rằng “Giờ đã đến, Giờ Con người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể, để lại cho Giáo Hội một dấu hiệu tình yêu lớn lao. Người để lại cho Giáo Hội một kỷ vật là Mình và Máu thánh của Người dưới hình bánh rượu, để làm của ăn của uống cho các tín hữu và nhờ đó họ được sống đời đời.
- “Đây là mầu nhiệm đức Tin”: Mặc dù trí khôn ta không hiểu thấu mầu nhiệm này. Dù khi rước lễ ta tiếp nhận Bánh thánh đã được biến hoá nên thân mình của Chúa, mà giác quan của ta không cảm thấy gì. Nhưng đức tin dạy rằng: Sau lời truyền phép của Chủ tế trong Thánh lễ thì bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa Kitô, ta tin có sự biến thể như Đức Giêsu đã phán: “Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,54-56).
- Thái độ Đức Giêsu trước phản ứng của thính giả: Sau bài giảng về Bí Tích Thánh thể, mặc dù biết người ta đang xầm xì, và cho là điều chói tai, không thể chấp nhận được, nhưng Người vẫn cương quyết tiếp tục khẳng định điều mầu nhiệm ấy (x. Ga 6,60). Các môn đệ hiểu đúng ý Chúa là “muốn lấy Thịt mình mà cho họ ăn” nên họ không tin Người và quyết định bỏ không theo Người nữa (x. Ga 6,66). Đức Giêsu vẫn không rút lại lời tuyên bố trên và còn nhấn mạnh rõ thêm về mầu nhiệm ấy (x. Ga 6,61-64). Người còn cho biết: để tin nhận mầu nhiệm này, đòi người ta phải được Chúa Cha ban ơn đức Tin (x. Ga 6,65). Người còn hỏi nhóm 12 tông đồ xem họ quyết định bỏ đi hay ở lại. Phê-rô đại diện nhóm mà thưa rằng: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
- Quyết tâm: Bạn có thật sự tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh thể hay không ? Bạn cần có thái độ nào để biểu lộ đức tin mỗi khi tham dự Thánh lễ ?
(Đáp: Phải có mặt trước giờ cử hành Thánh lễ ít phút và chỉ ra về sau khi Thánh lễ đã kết thúc; Vào ghế ngồi bên trong nhà thờ và tham dự cách trang nghiêm sốt sắng; Lắng nghe các Bài đọc, nhất là bài giảng của Chủ tế; Rước lễ và cám ơn sau đó cách sốt sắng; cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho tha nhân và cho Hội thánh. Đi bước trước để làm quen thêm nhiều bạn mới&).
3) “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người” (Lc 24,31):
Câu chuyện: Cánh cửa Thánh Đường và bốn bức tranh:
Một chàng họa sĩ nọ thiết kế một mẫu cửa khác thường cho một nhà thờ bên Đức. Ong ta phân chia hai cánh cửa chính Nhà Thờ thành 4 khung hình, mỗi khung vẽ biểu tượng liên quan đến một sự kiện trong Tin Mừng. Bốn khung hình ấy như sau:
Khung thứ nhất vẽ 6 cái chum nước ám chỉ phép lạ Ca-na, nơi Chúa Giêsu biến nước thành rượu ngon. Khung thứ hai vẽ 5 ổ bánh và hai con cá, ám chỉ phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn no tại thành Ca-phác-na-um. Khung thứ ba vẽ 13 người đang ngồi ăn uống ám chỉ đến bữa Tiệc Ly của Chúa. Khung thứ tư vẽ 3 người đang ngồi ăn ám chỉ bữa ăn tối tại làng Em-mau. Nhà họa sĩ đã vẽ 4 sự kiện này vì chúng liên quan mật thiết đến Thánh Lễ Misa. Chúng tường thuật việc Chúa Giêsu tự hiến mình cho chúng ta như một món quà tặng là chính thân xác Người dưới hình bánh rượu.
Suy niệm: Chúng ta hãy suy nghĩ về mỗi sự kiện được ghi lại trong 4 khung hình nói trên để thấy được mối liên quan với Thánh lễ Misa:
- Về phép lạ biến nước thành rượu nho (x. Ga 2,1-12): Thời Đức Giêsu, một bộ phận dân Do thái sống bằng nghề trồng nho và thường thấy điều tương tự xảy ra là nước lã biến thành rượu nho như sau: cây nho hút nước từ dưới đất và nhờ ánh sáng mặt trời, nước ấy dần dần chuyển hóa giúp cây nho sinh ra hoa trái, biến thành những chùm nho ngon ngọt, rồi được gặt hái và sau đó được ép trở thành rượu nho, Đức Giêsu làm phép lạ biến nước thành rượu không những để giúp cho đôi tân hôn, để củng cố lòng tin của các môn đệ đầu tiên, mà còn để chuẩn bị việc Người sẽ làm là biến rượu nho trở thành Máu huyết của Người trong bữa Tiệc ly sau này (x. Ga 6,54-56; 1 Cr 11,25).
- Về phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,11-13): Thời Chúa Giêsu dân chúng được ăn bánh Người nhân ra nhiều, cũng đã từng thấy điều tương tự xảy ra trên cánh đồng lúa mì của họ: vào mùa xuân, họ chỉ gieo 5 thùng lúa mì. Thế mà đến cuối mùa hạ, hạt lúa đã thành cây lúa cho nhiều bông hạt. Từ 5 thùng ban đầu đã được nhân ra thành từ 300 đến 500 thùng ! Khi làm phép lạ nhân bánh ra nhiều, không những Đức Giêsu muốn giúp đám đông dân chúng đang đói được ăn no, mà còn là cơ hội thuận tiện để Người trình bày về Bánh hằng sống như sau: “Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi ban tặng chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
- Về việc Đức Giêsu lập phép Thánh thể trong bữa Tiệc ly: Trong bữa tiệc Chiên Vượt qua cũng là bữa tiệc cuối cùng từ giã các Tông đồ trước khi lên đường chịu chết, Đức Giêsu đã lập phép Thánh thể bằng việc biến Bánh không men trở thành Thịt Mình và chén Rượu Nho trở thành Máu thánh của Người, để làm của ăn của uống ban ơn cứu độ cho muôn người. Thánh Máccô đã thuật lại sự kiện lập phép Thánh thể ấy như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông; Đây là Máu Thầy, Máu Giao ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14,22-24).
- Về việc Chúa Phục Sinh cử hành Bí Tích Thánh thể tại làng Em-mau: Đây là bữa tiệc Thánh thể đầu tiên, lặp lại bữa Tiệc ly vượt qua trước đó vài ngày. Luca đã thuật lại như sau: “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30).
Bốn khung cảnh trên cánh cửa nhà thờ nói trên là bản tóm lược về việc Chúa Giêsu lập phép Thánh thể: Từ phép lạ biến nước thành rượu tại tiệc cưới thành Ca-na, nơi Người tiên báo Bữa tiệc thánh, đến phép lạ nhân bánh ra nhiều ở Ca-phác-na-um, nơi Người hứa ban Bánh hằng sống, rồi đến bữa Tiệc ly tại thủ đô Giêrusalem nơi Người thiết lập Bí tích Thánh thể, và cuối cùng tại làng Em-mau nơi bữa tiệc thánh ấy được tái diễn lần đầu tiên, là khuôn mẫu cho Thánh lễ sau này. Mình Thánh Chúa Kitô là món quà quí giá nhất mà Đức Giêsu đã trao tặng cho loài người chúng ta. Mầu nhiệm tình yêu này vượt quá mọi sự tưởng nghĩ của chúng ta: Chúa Giêsu đã tự hiến cho chúng ta cách trọn vẹn bằng việc ban tặng chính bản thân Người làm đồ ăn thức uống nuôi dưỡng đức tin của chúng ta và để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Quả thật, chỉ có người cha yêu thương con cái tột cùng mới có thể có sáng kiến trao tặng con cái mình món quà thiết thực và kỳ diệu đến như vậy !
Quyết tâm: Để đáp lại tình thương tột cùng của Chúa Giêsu đã lập phép Thánh thể vì yêu thương ta, mỗi tín hữu chúng ta sẽ làm gì trong những ngày này ?
(Đáp: Siêng năng dự lễ và rước lễ cách sốt sắng; chầu phép lành Mình thánh Chúa, dâng những bông hoa hãm mình hy sinh hay bác ái, kèm theo lời nguyện tắt: “Lạy Chúa Giêsu Thánh thể. Con làm việc này như cắt một bông hoa nhỏ bé dâng lên Chúa để biểu lộ lòng con yêu mên Chúa. Xin Chúa vui nhận và ban muôn ơn lành cho một bệnh nhân sớm lành bệnh, hoặc cho một bệnh nhân sớm ăn năn sám hối quay trở về với Chúa, cho một người bên lương nhận biết tin thờ và yêu mến Chúa”)&
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, con muốn ngợi ca lòng từ bi nhân hậu và đầy yêu thương của Chúa, khi Chúa thiết lập bí tích Thánh thể để ban chính Thân mình làm của ăn nuôi dưỡng đức tin của chúng con, và để nhắc chúng con nhớ đến mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Chúa, qua đó chúng con sẽ nhận được Ơn Cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể, bàn ăn của Chúa luôn rộng mở đón tiếp mọi người có đức tin, để biểu lộ sự hiệp nhất yêu thương giữa các môn đệ của Chúa. Do đó, cần tránh sự chia rẽ, ích kỷ khi tham dự thánh lễ, như đã từng xảy ra tại giáo đoàn Côrinhtô, như thánh Phaolô đã quở trách như sau: “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau &Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say ! Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?... Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án !” (1 Cr 11,18-22.33-34).
Xin Chúa giúp con đến với Chúa cùng với anh em của con. Cho chúng con biết luôn sống trong tình bác ái huynh đệ. Nhất là cho chúng con thể hiện tình thương của Chúa không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng sự chia sẻ về tinh thần cũng như vật chất, như chính Chúa đã chia sẻ thân mình làm của ăn nuôi dưỡng đức tin của chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Xin Mẹ giúp chúng con kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể như Mẹ xưa đã luôn liên kết với Chúa. Xin cho chúng con siêng năng đón Chúa đến trong lòng chúng con, luôn sống hiệp nhất với Chúa, suy nghĩ nói năng như Chúa, yêu mến và hành động như Chúa … Để thiên hạ nhìn thấy Chúa đang sống trong chúng con.
Lạy Mẹ, xin cho chúng con ý thức rằng: “Sống Bí Tích Thánh thể là con phải bẻ tấm bánh là bản thân mình để thết đãi anh em. Sống bí tích Thánh thể là con tuyên bố với mọi người rằng: Đây là thân mình của tôi thuộc về anh em. Tôi phải luôn sống khiêm nhường vị tha, và phục vụ tha nhân, noi gương Đức Giêsu là người con yêu quý của Mẹ.”
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Trong mấy thế kỷ nay không ai phản đối, hay có ý tưởng khác hơn ý tưởng của thiên tài Toán: THÁNHTHỂ-44
Trong mấy thế kỷ nay không ai phản đối, hay có ý tưởng khác hơn ý tưởng của thiên tài Toán Học Pascal:”Con người là một cây sậy biết suy tưởng”. Như vậy mọi người đều đồng ý rằng con người gồm có hai phần: linh hồn và thể xác. Hay nói cách khác chúng ta cùng đồng ý với nhau trong con người có hai thực thể cùng hoạt động: hồn và xác. Và nếu thân thể cần phải được nuôi dưỡng bằng lương thực mới tồn tại được thì linh hồn cũng y hệt như vậy: cũng cần phải có lương thực để nuôi dưỡng mới hoạt động được. Chúng ta cùng tìm hiểu về những dinh dưỡng phải có để nuôi linh hồn mỗi người tín hữu Công Giáo, đó là: Mình và Máu Thánh của Chúa Kitô.
Nếu con người cần cơm bánh hằng ngày để nuôi sống cơ thể, thì lương thực để nuôi dưỡng linh hồn cũng cần phải được tiếp nhận thường xuyên. Vì nếu linh hồn thiếu bổ dưỡng nó sẽ tiều tụy, đi lần đến chỗ “chết”. Nếu tư tưởng chỉ đạo cho hành động, mà tư tưởng bị tê liệt vì thiếu dinh dưỡng, thử hỏi có trường hợp nào mà tư tưởng thì xấu xa, đen tối nhưng lại có hành động tốt lành, trong sáng không ? Người Công Giáo vô cùng diễm phúc khi chúng ta có Bí Tích Thánh Thể. Khi lãnh nhận Mình và Máu của Chúa Kitô, chúng ta được liên kết với Tình Yêu, với Đường, với Sự Thật và Sự Sống. Vua Louis IX của Pháp, một lần nọ hỏi vua Henry Đệ Tam của Anh quốc rằng:” Tại sao Ngài thích thú tham dự Thánh Lễ hơn là nghe những bài giảng thuyết?”. Vua Henry trả lời:”Bởi vì, ta muốn nói chuyện mặt đối mặt với Vua Bạn của ta trên Thiên quốc, hơn là nghe những người khác nói về Người”. Một hôm, có người đến gặp Thánh Louis, vua của nước Pháp, và nói với Ngài rằng:”Nếu Bệ hạ muốn, Ngài có thể đến xem một phép lạ đang xảy ra tại một nhà thờ gần đây: Chúa hiện diện trong bí tích Thánh Thể dưới hình của một em be”. Vua Thánh trả lời:” Hãy để cho những người không tin Chúa hiện diện thật sự, đến mà xem; còn đối với Trẫm, không những ta chỉ tin là Chúa Giêsu Kitô hiện diện thật sự trong bí tích Thánh Thể trên Bàn Thờ, mà ta còn tin một cách quả quyết hơn là ta nhìn thấy bằng cặp mắt của ta !”
Tuy thế hiện nay vẫn có nhiều Kitô hữu không hoàn toàn tin tưởng là Chúa hiện diện thật sự trong bí tích Thánh Thể, hoặc xem thường Thánh Thể. Đó cũng là nguyên nhân gây nên tình trạng thờ ơ hoặc bất xứng với Thánh Thể, cho rước lễ bừa bãi v.vv.. Xin nêu một vài dẫn chứng hết sức đơn giản sau đây về Thánh Thể: 1/ Nếu ngày xưa, khi chưa có vạn vật và vũ trụ này, Thiên Chúa phán:"Fiat lux!” -nghĩa là hãy có ánh sáng, tức thì có ánh sáng. Cũng một phương cách như thế, khi Đấng có quyền Tuyệt Đối, phán trong bữa cơm cuối:”Đây là mình ta...Đây là máu ta,” bánh và rượu không thể biến tức thì thành Mình và Máu Ngài sao ! 2/ Con người được tạo dựng từ hư vô, từ không mà thành có. Nếu Thiên Chúa có thể làm được điều đó, thì Ngài có thể làm được mọi thứ Ngài muốn. Nếu Ngài có thể làm cho nước lã hóa thành rượu ngon trong tiệc cưới ở Cana, thì Ngài có thể làm cho Mình hiện diện trong bí tích Thánh Thể được chứ! Thiên tài Pascal trong tác phẩm Pensées viết rằng:” Thật là đáng ghét cho những điên cuồng khi không tin sự hiện diện thật sự của Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể. Vì nếu tin Phúc Am là thật; tin Chúa Giêusu Kitô là Thiên Chúa, thì còn có điều gì khó khăn nữa đâu!”.
Trong ngày lễ Mình và MáuThánh Chúa hôm nay có một ý nghĩa hết sức trọng đại đối với người Công Giáo chúng ta. Vì chính sự hy sinh, hiến tế của Chúa Kitô đã làm cho chúng ta được trở thành con cái của Cha Ngài. Qua sự hy sinh, Ngài đã thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa Cha đến với chúng ta. Qua sự hy sinh, Ngài đã làm cho chúng ta liên kết được với Cha Ngài, và từ đó với tất cả anh chị em. Hôm nay chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Giao Ước mới được đóng ấn bằng máu châu báu của Ngài, mà chúng ta được nuôi dưỡng bằng Thần Linh Chúa. Chúng ta cũng tạ ơn Giáo Hội đã dùng năng quyền của mình cử hành bí tích Huyền Nhiệm; và ban phát lương thực Thánh Thiêng để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
Tóm lại, từ hư không Thiên Chúa đã dựng nên con người có linh hồn và thể xác. Trong cơ thể con người có hệ thần kinh trung ương để điều khiển tất cả châu thân. Đặc biệt một điều là hệ thống này chỉ có thể ghi nhận, đáp ứng một tín hiệu duy nhất dù cho lúc đó có nhiều tín hiệu gởi đến. Thí dụ như khi nhiều nơi trên thân thể bị đau cùng một lúc. Nhưng não bộ chỉ nhận tín hiệu từ chỗ nào đau nhiều nhất mà thôi. Do đó chúng ta không cảm thấy đau ở những chỗ bị đau ít hơn. Người ta gọi đây là hiện tượng chiếm ưu thế. Đối với linh hồn cũng thế, nó cũng chỉ có thể tiếp nhận một dinh dưỡng duy nhất mà thôi. Ai trong chúng ta cũng biết có hai loại lương thực: một là Thần Linh Chúa, hai là Thần Thế Gian (đây là ngôn từ Thánh Phaolô dùng). Bất cứ lúc nào chúng ta không được nuôi dưỡng bằng Thần Linh Chúa (Thánh Thể), ngay lập tức Thần Thế Gian sẽ tự động gởi lương thực của nó đến, hay nói cách khác, linh hồn chúng ta sẽ bị thần thế gian ngự trị hoặc chiếm hữu. Chúng ta là con cái sự sáng, là kẻ thù truyền kiếp của bóng tối, xấu xa, sự dữ. Do đó, phương thế hữu hiệu nhất để duy trì được tình trạng là muối, men, ánh sáng đó là: lãnh nhận Thánh Thể thường xuyên, hàng ngày. Ước gì mỗi người Công Giáo chúng ta ý thức được ý nghĩa, giá trị đích thực của bí tích tuyệt vời, chóp đỉnh của mọi bí tích này. Hãy đến thường xuyên với Thánh Thể khi còn có thể, nhiều khi đòi hỏi cả một sự hy sinh. Tuy nhiên, vì sự uy hiếp, áp đảo chực chờ của cái xấu, chúng ta phải khôn ngoan chọn lựa, vì hiện tượng chiếm ưu thế không cho chúng ta cơ hội để làm lại, một khi linh hồn chúng ta đã bị thần thế gian chiếm hữu. Phaolô Ngô Suốt
Trong Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã cùng nhau suy niệm về tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa: THÁNHTHỂ-45
Trong Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã cùng nhau suy niệm về tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một tình yêu rộng mở, một tình yêu luôn tôn trọng và làm cho người mình yêu ngày càng phát triển sung mãn hơn. Chính nhờ tình yêu đó, Ba Ngôi đã trở nên một, và cho dù chỉ có một Chúa, nhưng vẫn là Ba Ngôi. Và khi mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn từng người chúng ta cũng biết sống yêu thương như Ngài. Thế nhưng, thành thực với lòng mình, chúng ta cảm nhận được rằng sống yêu thương theo mẫu gương Ba Ngôi không phải là chuyện dễ. Cảm thông được sự giới hạn của chúng ta, trước lúc về Trời, Đấng Phục Sinh đã hứa: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Và để thực hiện lời hứa ấy, Đức Giêsu đã lập nên bí tích Thánh Thể, để lại Mình và Máu Ngài làm lương thực và là nguồn sức mạnh cho chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế này. Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa nơi Đức Giêsu thực sự ở cùng chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế”. Như thế, Thánh Thể chính là dấu chứng của một lời hứa, một giao ước đã trở thành hiện thực.
I. TỪ GIAO ƯỚC SINAI...
Bí tích Thánh Thể chính là giao ước mới, Đức Giêsu đã lập để kiện toàn giao ước mà trước đó, Thiên Chúa đã ký với dân Do thái tại núi Sinai mà chúng ta vừa nghe trong bài sách Xuất Hành. Lúc đó dân Do thái vừa ra khỏi Ai Cập. Khi cả đoàn dân đến chân núi Sinai, Môisen đã đọc lại cho dân nghe toàn bộ giao ước của Thiên Chúa đối với dân. Sau khi nghe xong, họ đã đồng thanh thưa lại: “Chúng tôi xin thi hành và tuân theo tất cả những điều Chúa đã phán”. Sau đó, ông giết những con bò tơ làm hy lễ giao hoà, đồng thời, lấy nửa máu của chúng rảy lên bàn thờ, tượng trưng cho Thiên Chúa, và nửa còn lại rảy lên dân. Với việc rảy máu lên bàn thờ và dân chúng cho thấy sự nối kết chặt chẽ giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Từ đây, dân được thông hiệp vào sự sống Thiên Chúa, bởi máu chính là tượng trưng cho sự sống.
Với giao ước này, dân tộc Do Thái chính thức trở thành dân của Thiên Chúa và Ngài sẽ là Chúa của họ. Từ đây, Thiên Chúa sẽ luôn đồng hành và gìn giữ họ. Giao ước này, còn là một dấu chứng nhắc nhở họ về quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã dùng cánh tay hùng mạnh của Ngài đưa họ Vượt Qua Biển Đỏ, giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Giao ước này đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc Do Thái. Hơn nữa, giao ước này còn là biểu hiện của một tình yêu vô cùng lớn lao của Thiên Chúa. Một tình yêu đã thúc đẩy Thiên Chúa vô biên hạ mình để kết ước với một thụ tạo giới hạn là con người.
II. … ĐẾN GIAO ƯỚC CỦA ĐỨC KITÔ
Tuy nhiên, suốt dọc dài lịch sử của mình, dân Do Thái đã nhiều lần phản bội lại giao ước này. Hơn nữa, giao ước Sinai vẫn còn những giới hạn. Nó không đủ sức thanh tẩy tận cõi lòng thâm sâu của mỗi người. Nó cũng không đủ sức đem lại cho con người một sự sống mới. Giao ước này chỉ là hình bóng báo trước một giao ước mới, hoàn hảo hơn, Giao ước mà Đức Giêsu sẽ ký kết bằng chính Máu của Người đổ ra trên thập giá.
Thánh sử Marcô thuật lại: “Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người”. Như thế, Giao ước mới của do chính Đức Giêsu thiết lập không còn giới hạn nơi dân Do thái nữa, nhưng là cho “nhiều người”, trong đó có chúng ta. Giao ước này có một giá trị vô biên và vĩnh cửu vì đã được ký không phải bằng máu chiên bò, nhưng bằng chính Máu của Con Thiên Chúa như lời khẳng định của tác giả thư Do thái, mà chúng ta vừa nghe: “Chúa Kitô xuất hiện như vị Thượng Tế cầu bầu mọi phúc lành tương lai. Người đi qua nhà tạm rộng rãi và hoàn hảo hơn, không phải do tay người phàm xây dựng,&, cũng không nhờ máu dê bò, nhưng nhờ chính máu của Người mà vào Cung Thánh chỉ một lần và đem lại ơn cứu độ muôn đời”. Và tác giả kết luận: “Máu đó sẽ tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những việc sinh sự chết, khiến chúng ta có thể phụng sự Thiên Chúa hằng sống. Vì vậy, Chúa Kitô là trung gian của Tân ước, vì nhờ sự chết của Người để cứu chuộc tội phạm dưới thời Cựu ước”.
Tóm lại, với hiến tế thập giá của mình, Đức Giêsu đã thiết lập một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, giao ước của tình yêu. Cùng với Giao ước mới này, Đức Giêsu còn để lại cho chúng ta Mình và Máu Thánh Ngài làm lương thực bổ sức cho linh hồn chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế và nhờ Thánh Thể, lời hứa “Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” đã trở nên hiện thực.
III. VÀ CHÚNG TA HÔM NAY:
Đức Giêsu đã hứa ở cùng chúng ta và Ngài đã giữ trọn lời hứa đó khi lập bí tích Thánh Thể. Thánh Thể quả thực là một hồng ân bao la vượt quá sự tưởng tượng của chúng ta, một Thiên Chúa lại lấy chính Thịt và Máu mình làm của ăn cho chúng ta. Ý thức điều đó, Giáo Hội đã mượn lời của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca để nói lên tâm tình của mình: “Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi?”. Quả thực, chúng ta sẽ chẳng có thể lấy bất cứ điều gì, hay làm gì để tạ ơn cho cân xứng, bởi vì tất cả đều là của Chúa. Và nếu chúng ta muốn làm một điều gì đó, thì có lẽ đó là ca ngợi và giữ trọn lời dạy của Ngài theo mẫu gương của tác giả Thánh vịnh: “Tôi sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sính lễ. Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài”.
Mặt khác, Thánh Thể là bí tích của Tình yêu, mà tình yêu thật thì luôn tôn trọng tự do của người mình yêu. Tình yêu thật không có sự cưỡng ép. Do đó, Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Như thế, phần còn lại là của chúng ta, hay nói theo cách nói của sách Khải huyền: Ngài đã đến và đứng trước cửa và gõ, nếu chúng ta mở cửa thì Ngài sẽ vào và ở lại dùng bữa với chúng ta. Còn nếu như chúng ta đóng kín cửa lòng mình lại, thì chắc chắn, dù có muốn Ngài cũng thể vào được (x. Kh 3, 20).
Khi lập nên bí tích Thánh Thể, Đức Kitô đã giữ trọn lời giao ước ở cùng chúng ta, và muốn trở nên một với chúng ta. Phần tôi và quý ông bà anh chị em, chúng ta vẫn nói mình yêu Chúa. Thế nhưng, chúng ta vẫn ơ hờ với bí tích Thánh Thể. Chỉ cần một lý do rất vụn vặt như: một cuộc hẹn với bạn bè, một bộ film trên truyền hình, một cuộc đi chơi& là chúng ta dễ dàng bỏ Thánh lễ, nơi cử hành hiến tế của tình yêu. Thậm chí khi đã đến nhà thờ dâng Thánh lễ, chúng ta cũng chẳng tha thiết gì đến việc hiệp lễ. Lúc nào thích thì lên rước lễ, còn không thích thì thôi. Và nếu chúng ta sống như thế, thì lời nói “Yêu Chúa” của chúng ta có thật không? Hay là tất cả chúng ta đang là những kẻ nói dối một cách công khai: Dối Chúa và dối anh chị em mình?
Ước gì kể từ giờ phút này, từng người chúng ta ý thức nhiều hơn đến tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể. Đồng thời, chúng ta hãy giữ trọn giao ước tình yêu với Thiên Chúa bằng một quyết tâm siêng năng tham dự Thánh Lễ và hiệp lễ mỗi khi có thể. Và nhờ sức mạnh của Thánh Thể ở trong mình, khi trở về nhà chúng ta cũng sẽ hết lòng sống yêu thương, hiến mình vì anh em như Ngài đã sống. Amen.
Có một bữa ăn của Chúa Giêsu đã được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại và thêm một chỗ thứ năm: THÁNHTHỂ-46
Có một bữa ăn của Chúa Giêsu đã được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại và thêm một chỗ thứ năm nữa cũng ghi lại, đó là trong thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô. Đó là bữa ăn cuối đời Ngài, bữa tiệc ly, lúc Ngài giã từ các môn đệ thân yêu để lên đường chịu khổ nạn và chết. Trong bữa tiệc này, Chúa Giêsu đã làm một việc rất quan trọng: biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài để nuôi linh hồn muôn người. Đây chính là phép Thánh Thể, là Bí tích Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Chúng ta hãy nhìn lại việc cao trọng này. Hôm ấy là ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men, là tuần lễ chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của người Do thái. Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan đến và trao cho hai ông công tác dọn tiệc mừng lễ Vượt Qua. Vâng lời Ngài, hai ông đi vào thành mượn được một căn phòng rộng rãi và chuẩn bị mọi sự cần thiết cho bữa tiệc. Đến chiều ngày thứ năm, Chúa Giêsu cùng đoàn tông đồ tới đó dự tiệc, gồm những tuần rượu, những món ăn cổ truyền, xen lẫn với việc đọc các thánh vịnh. Sau khi nhắn nhủ các môn đệ nhiều điều xoay quanh vấn đề chính là hãy yêu thương nhau, rồi Chúa Giêsu cầm lấy bánh và nói trước mặt các môn đệ rằng: “Tất cả các con cầm lấy mà ăn: Này là mình Thầy”. Chúa trao cho các môn đệ cùng ăn. Rồi Chúa cầm lấy chén rượu và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống: Này là chén máu Thầy”. Chúa trao cho các môn đệ cùng uống. Với những lời nói và những cử chỉ trịnh trọng đó, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quí này để tưởng niệm đến Ngài. Như thế, trong bữa tiệc lịch sử này và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ.
Từ đó trở đi cho đến ngày nay và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là mình Thầy”, “Này là chén máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của lý trí loài người. Bởi vì trước và sau khi đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta không thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một Bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Để củng cố đức tin của chúng ta vào Bí tích kỳ diệu và cực thánh này, Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ tỏ tường để minh chứng cho mọi người biết trong Phép Thánh Thể có Chúa Kitô thật sự và hoàn toàn. Sau đây là hai phép lạ điển hình. Phép lạ xảy ra ở làng Bônsênna nước Ý. Phép lạ này đã lưu lại cho chúng ta lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Có phép lạ này bởi vì Chúa muốn dẹp tan sự băn khoăn, nghi ngờ của nhiều người về sự Chúa Kitô hiện diện thật sự trong Thánh Thể. Đó là vào năm 1263, một linh mục người Đức cử hành thánh lễ tại nhà thờ thánh Christiana đồng trinh tử đạo. Đến khi bẻ bánh thì đột nhiên bánh thánh ấy biến thành Thịt và Máu thật sự, trừ phần nhỏ linh mục cầm trong tay. Những giọt máu ở Bánh thánh chảy loang ra thấm ướt khăn thánh. Linh mục ấy gấp khăn thánh lại, nhưng gấp đến đâu máu chảy ra đến đó và in lại dung mạo Chúa Kitô rõ ràng.
Một phép lạ khác xảy ra với thánh Antôn Pađua. Có một người Do thái, tên là Bônvilô, không tin và thường nhạo báng Phép Thánh Thể. Thánh Antôn nói thế nào ông ta vẫn cứ thế. Một hôm, ngài nói với ông ta như là một cuộc thách thức: “Nếu con lừa ông cưỡi mà quì xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình trong hình bánh thì ông có tin không ?” Ông ta cho là một câu nói chơi và nhận lời thách thức. Hai ngày liền, ông ta không cho lừa ăn, rồi dẫn tới chợ để có đông người chứng kiến. Giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Con lừa quên đói, không ngó ngàng gì đến lúa mạch, quay sang thánh Antôn quì xuống gật gật đầu thờ lạy Chúa cho đến khi thánh Antôn kiệu Mình Thánh đi. Mọi người quì xuống thờ lạy Chúa và hoan hô thánh Antôn.
Đối với chúng ta, trên lý thuyết, tất cả chúng ta đều tin Chúa Giêsu hiện diện thật trong Phép Thánh Thể, thì trong thực hành, chúng ta hãy sống đức tin đó. Xin đề nghị hai điều: Thứ nhất, mỗi khi bước vào hay bước ra nhà thờ, chúng ta hãy nghiêm trang, cung kính cúi sâu đầu để bái chào và thờ lạy Chúa. Thứ hai, mỗi khi đi dâng thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ và chuẩn bị cẩn thận trước khi rước lễ và cám ơn sau rước lễ, vì đó là cách hiệp dâng thánh lễ đầy đủ và tốt đẹp nhất.
Mỗi năm khi mừng Lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô, nhân loại sẽ không khỏi ngạc nhiên, bỡ: THÁNHTHỂ-47
Mỗi năm khi mừng Lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô, nhân loại sẽ không khỏi ngạc nhiên, bỡ ngỡ và sửng sốt vì con người có là gì mà lại được Thiên Chúa yêu thương đến như thế ! Thiên Chúa không chỉ sai Người Con Một là Đức Giê-su Ki-tô đến trần gian để sống với, sống vì, sống cho nhân loại, mà còn qua cái chết Thập Giá Cứu Độ con người, Chúa đã để lại cho chúng ta chính Mình Máu của Người làm Bánh Trường Sinh nuôi sống nhân loại. Chúa tiếp tục hiện diện mãi mãi với con người để thực hiện hành động yêu thương ấy nơi Bí Tích Thánh Thể. Hôm nay, tôi xin mời mọi người hãy hướng về anh chị em Dân Tộc Kơho, những người thiểu số đang sống trên các vùng sâu, vùng xa, vùng cao nguyên đồi núi, để xem họ cảm nhận thế nào về Bánh và Rượu, về Bí Tích Thánh Thể ?
SỰ CẢM NHẬN VỀ CÁI ĐÓI CÁI KHÁT CỦA ANH CHỊ EM KƠHO:
Với một niềm tin còn thô thiển, cái thực tế của anh chị em Dân Tộc Kơho vẫn là cái đói, cái khát, vẫn là cái bụng, cái miệng, cái mồm. Người Dân Tộc Kơho từ ngàn xưa vẫn có quan niệm: ỂCái bụng đi trước, cái đầu đi sauỂ, nghĩa là họ luôn hiểu một cách dân dã, rừng rú, mộc mạc như người Kinh chúng ta thường bảo rằng: ỂCó bột mới gột nên hồỂ Ố ỂCó thực mới vực được đạoỂ. Vì thế, trong cuộc sống thường nhật, người Dân Tộc luôn lo lắng đặt nặng việc làm rẫy, phát nương để trồng lúa, trồng bắp, trồng khoai. Lúc này đây, họ làm thêm ruộng nước và trồng thêm cây công nghiệp dài ngày...
Do việc, niềm hạnh phúc lớn của người Dân Tộc chính là được mùa lúa, mùa bắp, mùa cà-phê. Họ cảm nghiệm các thần giúp họ được mùa, nên họ cúng lúa được mùa, cám ơn thần đã giúp họ ( những người theo Ki-tô giáo thì nhận biết thần ấy chính là Thiên Chúa chứ không phải thần nào khác ). Có lúc họ cũng phải ăn cháo bép ( pòr biăp nse ), cháo măng ( pòr ma băng ). Những khi gặp quẫn bách mất mùa hạn hán hoặc chiến tranh tàn phá ruộng nương, họ cho là thần nổi giận nên đã không giúp đỡ họ nữa. Quan niệm hết sức thực tế về đời sống như thế, nên người Dân Tộc Kơho rất gắn bó với chuyện lúa, bắp, khoai, gạo, bánh... vốn là lương thực cần thiết nuôi sống con người. Họ cũng cảm nhận sâu xa những thực tại thần thiêng như chuyện thần luôn gần gũi con người, giúp con người vượt qua đường đời trần thế này mà trở về với thần...
Tôi còn nhớ một kỷ niệm rất ấn tượng: Có một gia đình Dân Tộc nọ, sau khi gặt xong mùa lúa, chất lúa vào trong lẫm ( ơn kòi tăm đăm ), đến Chúa Nhật, người chủ gia đình sau khi đã tham dự Thánh Lễ, đã chờ chực tìm cách gặp tôi bằng được để xin ông cha ( Bàp ) về nhà họ làm phép lúa và cám ơn Chúa ( ơn-ngăi Bàp Yàng ) vì đã cho gia đình họ được mùa lúa thu hoạch. Tôi đã thu xếp mọi việc để tới gia đình họ ngay, quây quần cả nhà lại giúp họ cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa vì lương thực trần thế Người đã ban cho họ, và sau đó tôi rảy Nước Thánh trên lẫm lúa của họ để gợi cho họ niềm tin phó thác vào Tình Yêu Chúa Quan Phòng, tin trong lòng với dấu chỉ bề ngoài là rẩy Nước Thánh, sẽ đưa họ tới việc khao khát tìm kiếm lương thực cao hơn là Bánh Hằng Sống, là Hạnh Phúc Nước Trời...
Người Dân Tộc khi gặt lúa về, bao giờ cũng làm một vài hũ rượu cần ( lơh hay be tơrnờm ) để ăn mừng mùa lúa. Chính vì gần gũi với thiên nhiên, với thực tại hàng ngày, nên họ luôn đụng chạm tới lúa, khoai, đậu, sắn ( bùm blàng ), rượu cần ( tơrnờm ), rượu đế ( alăk ), bánh, kẹo... Họ cũng rất thực tế trong vấn đề sinh sống: cái bụng, cái rốn, cái đầu... Được học Giáo Lý, được các Linh Mục ( bol Bàp ), giải thích, cắt nghĩa về Thiên Chúa, về Mình Máu của Chúa, họ xác tín ngay rằng Bánh và Rượu đã được Chúa biến đổi trở nên chính Thịt va Máu của Người khi Linh Mục đọc lời truyền phép.
Tôi còn nhớ khi dạy Giáo Lý cho anh chị em Dân Tộc, tôi đã dùng những hình ảnh ( rùp ) rất thô sơ, thực tế trong đời thường để diễn tả điều mình muốn nói, muốn chuyển tải cho họ. Tôi vẫn dùng các ví dụ như ruộng lúa, cây cỏ, núi đồi, khe, suối, thác nước để giải thích cho họ về sự tạo dựng của Thiên Chúa, về tình yêu của Chúa. Tôi nói với họ rằng trước khi Chúa sắp chết vì yêu mọi người, Chúa đã muốn ở với nhân loại, với mọi người mãi mãi, nên Người đã trối lại cho các đồ đệ của Người một Bí Tích, đó là Thánh Thể là chính Thân Mình của Người ( x. Lc 22, 5 Ố 16; Ga 13, 1 ).
Mà để thực hiện điều đó, chẳng lẽ cứ phải trông thấy cái thân xác ( să ), hoặc rờ được những cái xương ( ntìng ) của Chúa thì mới là được thấy Chúa hiện diện sao ? Vậy, Chúa đã dùng bánh miến ( như các anh chị em Dân Tộc lấy lúa, lấy khoai ) và rượu nho ( rượu nho phổ biến nơi dân tộc Do-thái, như rượu cần là đặc sản của người Dân Tộc ), tạ ơn Chúa Cha và trao cho các môn đệ, nói với các môn đệ hãy làm việc này mà nhớ đến Người ( x. Mt 26, 26 Ố 28 ). Tôi cắt nghĩa cho người Dân Tộc rằng khi Chúa nói điều đó thì bánh và rượu đã trở nên chính Mình và Máu của Chúa.
Tôi cũng giải thích cho họ hay rằng chỉ có các Linh Mục mới có quyền truyền phép ( lơh crơnggơs ), chứ các người thường và nhất là các thầy mo, thầy cúng thì không được phép, không có quyền ấy. Người Dân Tộc khi hiểu được ý nghĩa thâm sâu của Bánh và Rượu, của Bí Tích Thánh Thể, họ rất cung kính tôn thờ và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Chúa mỗi lần họ đi tham dự Thánh Lễ.
VẪN LÀ NIỀM TIN MỘC MẠC CỦA ANH CHỊ EM THIỂU SỐ:
Qua cuộc sống hằng ngày, anh chị em Dân Tộc Kơho luôn hướng về một tín ngưỡng, luôn gắn chặt đến một Đạo Giáo nào đó. Tin vào các thần, người Kơho xác tín rằng họ cần cậy dựa vào sức mạnh siêu nhiên nào đó, từ trên cao giúp họ, nâng đỡ họ, vực họ dậy lên khi họ gặp những khó khăn thử thách ( tăm tìp mơta kòl, kălke, bơnriăng tăm rài kis ) trong cuộc sống.
Hiểu được Đạo Chúa là Đạo Tình Thương do chính Thiên Chúa thiết lập, người Kơho có một sự tin tưởng thiêng liêng rất đáng trân trọng, ca ngợi. Học biết về Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu do Chúa Giê-su trối lại trước khi vĩnh viễn ra đi về với Thiên Chúa là Cha của Người, người Kơho đã hiểu một cách mộc mạc rằng: những người thân yêu của họ như Ông, Bà, Cha hay Mẹ trước khi lìa đời về bên kia thế giới, đã khuyên nhủ ( bơnsòr ) con cái, cháu, chắt hãy nhớ cái này, hãy giữ cái kia làm kỷ niệm ( cơnơi ), thì cũng vậy, Chúa Giê-su vì yêu mọi người, không phân biệt chủng tộc, mầu da, tiếng nói, đã để lại sự hiện diện của Người mãi mãi, hằng giây, hằng phút trong cuộc đời của nhân loại bằng chính Bí Tích Thánh Thể là Mình và Máu của Người đã được biến đổi từ bánh miến và rượu nho do lời truyền phép của các Linh Mục.
Người Dân Tộc tin tưởng một cách tuyệt đối vào Bí Tích Thánh Thể một khi họ đã được học, được giải thích kỹ càng và nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng tác động họ. Vì tin hết lòng như thế nên mỗi lần đi lễ, người Dân Tộc rất muốn được xưng tội, được làm hòa với Chúa trước khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Giê-su. Tâm hồn của họ xem ra rất tế nhị, rất nhạy cảm trước sự dữ, trước những yếu đuối tội lỗi của con người. Họ cảm nghiệm sâu xa lời Thánh Phao-lô: ỂMỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em hãy loan truyền sự chết của Chúa, cho đến khi Chúa lại đếnỂ ( 1 Cr 11, 26 ). Vì nhận ra Chúa thương họ, nên họ muốn phải sạch tội, phải xứng đáng mỗi khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa.
Hiểu được Thánh Thể còn là Bí Tích của sự hiệp nhất nên người Dân tộc cũng thấy rằng: đồng thời với việc phải làm hòa với Chúa, họ còn phải cư xử tử tế với người khác trước khi mời Chúa đến thăm nhà mình, đến ngự vào tâm hồn mình.
Học cũng khám phá ra rằng: Bí Tích Thánh Thể đã kết hiệp với Thân Mình của Chúa Giê-su, thì cũng đồng thời đưa họ tới kết hiệp với Chúa Cha: ỂAi tiếp nhận Ta chính là tiếp nhận Cha TaỂ và giúp họ hiệp nhất với nhau, với những người Ki-tô hữu khác, với mọi người chẳng trừ ai. Người Dân Tộc Kơho cảm nghiệm lòng xót thương, tình yêu vô biên của Chúa, họ ý thức một cách đơn giản rằng: ỂChúa yêu mình, nên mình phải sống đẹp với Chúa và phải sống tốt với mọi người !Ể
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến biến đổi tâm hồn của anh chị em Dân Tộc Kơho của chúng con để tất cả anh chị em chỉ một lòng gắn bó với Chúa và tin thật sự vào Bí Tích Thánh Thể là ỂBánh trường sinh nuôi dưỡng con ngườiỂ. Amen.
Lm. Giu-se NGUYỄN HƯNG LỢI, DCCT, Giáo Phận Đà Lạt
TRÊN ĐƯỜNG HY VỌNG PHẢI CÓ ĐỜI ĐỜI ĐỂ DỌN MÌNH
PHẢI CÓ ĐỜI ĐỜI ĐỂ TẠ ƠN VÌ DÂNG MỘT THÁNH LỄ
1. THÁNH LỄ LÀ GÌ ?
Thánh Lễ là việc tái diễn và tưởng niệm hy tế của Chúa Giê-su trên thánh giá, trong sự hiệp: THÁNHTHỂ-48
- Thánh Lễ là việc tái diễn và tưởng niệm hy tế của Chúa Giê-su trên thánh giá, trong sự hiệp thông với Hội Thánh.
- Thánh Lễ là cách thế hiện diện tích cực nhất của Chúa Giê-su ở trần gian.
2. TẠI SAO TA PHẢI THAM DỰ THÁNH LỄ ?
Ta phải tham dự Thánh Lễ vì:
- Ý thức giá trị và sự cần thiết của Thánh Lễ. - Thánh Lễ là nguồn mạch đời sống thần linh cho người Ki-tô Hữu. - Thánh Lễ là cách thế trọn hảo nhất để ta tôn vinh, cảm tạ, cầu xin, yêu mến Chúa và cứu rỗi nhân loại.
3. KHI THAM DỰ THÁNH LỄ TA PHẢI CÓ THÁI ĐỘ NÀO ?
Khi tham dự Thánh Lễ:
- Ta không nên có thái độ bàng quang, chiếu lệ, tùy hứng, nhưng tích cực tham dự với tất cả con người vào hy tế Chúa Giê-su, trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh.
- Ta phải có tâm tình yêu mến, tôn vinh, cảm tạ, cầu xin, muốn cứu nhân loại.
4. ĐÂU LÀ MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA THÁNH LỄ VÀ ĐỜI TA ?
a. Thánh Lễ mang lại cho đời ta:
- Ơn thánh hóa, sự sống đời đời. - Lương thực nuôi dưỡng đức tin, đời sống thiêng liêng và hồn Tông Đồ. - Ơn hiệp thông trong bác ái. - An ủi, khích lệ khi gặp khó khăn.
b. Ta phải sống Thánh Lễ bằng cách yêu quý Thánh Lễ, hướng cả cuộc đời về Thánh Lễ và nối dài Thánh Lễ trong cuộc sống, cụ thể qua việc dọn mình tham dự Thánh Lễ và tạ ơn.
Khóc rồi lại cười
Mặt mày Thánh Gio-an Ma-ri-a Vianney nhăn nheo, xấu xí; Nhà Thờ Xứ Ars lại lát gạch đất nung và nhỏ hẹp; ghế quỳ thì xiêu vẹo cũ kỹ, ngài cũng dâng lễ như mọi Linh Mục khác. Nhưng tại sao ai nấy lại chen chúc nhau đến dự Thánh Lễ của ngài ? Thưa vì ngài dâng lễ hết sức sốt sắng ! Có lần Giáo Dân thấy ngài cầm Mình Thánh Chúa trên tay một hồn, nước mắt chảy ròng ròng, sau đó nụ cười tươi nở lại trên môi... Họ lấy làm lạ mới tọc mạch hỏi: “Thưa cha, sao sáng nay cầm Mình Thánh Chúa, cha khóc rồi lại cười ?” Ngài đáp: “Lúc ấy ma quỉ cám dỗ cha ngã lòng trông cậy sẽ mất Chúa đời đời, nên cha lo sợ quá, cha khóc. Nhưng sực nhớ lại mình đang cầm Chúa trong tay nên cha thưa với Chúa: Lạy Chúa, con không chịu mất Chúa, con cần Chúa mãi, Chúa ở luôn với con ! Nói thế rồi cha sung sướng quá đỗi phải bật cười !” Chúa Giê-su với cha là một. Người ta thấy Chúa Giê-su tế lễ trong cha: bí quyết lôi kéo mọi người đến với cha là ở chỗ đó !
· Người thánh là người tiếp tục Thánh Lễ suốt ngày ( ĐHV 350 ).
· Mỗi lần dâng Thánh Lễ là mỗi lần giang tay đóng đinh con lại trên Thánh Giá, và uống cạn chén đắng với Chúa. Đây không có chỗ cho khán giả ( ĐHV 357 ).
Thánh Lễ của Cha Pio
Thường giáo dân thấy cha nào làm lễ lâu thì phàn nàn, kêu van, dài quá, mệt quá... Nhưng lạ thay, cha Piô dâng Thánh Lễ lâu đến 3 giờ rưỡi đồng hồ mà các Hồng Y, Giám Mục, giáo sĩ, giáo dân vẫn chen chúc nhau đến dự, còn lết đến gần Bàn Thờ để nhìn cha. Các Hồng Y, các Giám Mục ấy lại làm lễ đại triều không hơn ngài sao mà lại đi dự lễ của ngài ? Ai dự lễ do cha Piô làm cũng đều say sưa, sốt sắng, không biết mỏi mệt. Họ đồng thanh nói: “Thấy nét mặt cử chỉ ngài, chúng tôi như thể trông thấy Chúa Ki-tô đang phải thương khó trên bàn thờ thực sự. Đức tin chúng tôi nhờ thế càng thêm vững vàng, lòng ăn năn sám hối càng thêm quyết chí, lòng mến Chúa ngày càng gia tăng. Đi dự lễ ngài mấy lần cũng không chán !” Từ Mỹ Châu, Á Châu, Phi Châu, Úc Châu, người ta băng rừng vượt biển đến một thị trấn nhỏ Miền Nam nước Ý chỉ cốt để dự lễ của một tu sĩ già ! Ở quê nhà họ không có ai làm lễ sao ? Có chứ ! nhưng ở đây, họ thấy Chúa Giê-su làm lễ.
· Biết giá trị của Thánh Lễ, dù xa, dù khó con cũng tham dự; càng hy sinh, càng thấy con mến Chúa ( ĐHV 346 ).
· "Nhà tạm tốt đẹp nhất, hào quang sáng chói nhất, chân đèn rực rỡ nhứt, thánh đường uy nghi nhứt, là Linh Mục. Đặt một Linh Mục nguội lạnh ở Vương Cung Thánh Đường, không ai thèm gặp. Đặt một Linh Mục thánh thiện trong một nguyện đường nghèo nàn, hẻo lánh, ai cũng tìm đến." ( Cha Chevrier – ĐHV 352 ).
Thánh Lễ Giáng Sinh trong trại học tập
Một phóng viên bái chí người Anh bị cầm tù trong những tháng năm cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, lúc được trả tự do, có viết một bài báo nhan đề: “Thánh Lễ Giáng Sinh của Linh Mục Shah”. Trong đó, ông thuật lại một câu chuyện vô cùng cảm động:
“Tôi bị giam trong một trại ở miền Nam Trung Quốc. Trong trại, có một ông ìa trạc 40 tuổi, tên là Shah. Người ta biết ông là một Linh Mục Dòng Xi-tô, người Trung Quốc, trong trại ăn uống rất kham khổ, kỷ luật thì khắc khe, công tác lao động lại nặng nề. Chúng tôi phải đào đất và gánh những gánh thật nặng lên đổ trên một ngọn đồi cao. Lại còn phải khẩn trương không thì roi đòn vọt tới tấp, bị kỷ luật làm kiểm điểm. Linh Mục Shah là một người rất có lòng bác ái. Ông không khỏe nhưng ai mệt liền được ông gánh giúp. Ai gánh nặng không nổi thì ông đổi cho gánh nhẹ của mình. Ông luôn luôn vui vẻ, động viên anh em. Trong trại ai cũng đem lòng mến.
Tôi là người Công Giáo, nhưng suốt bao tháng năm tôi chẳng sống đạo tí nào. Tôi khô khan lắm. Không hiểu sao ông Shah biết tôi là người có đạo. Lạ quá ! Một hôm, giữa trời đông giá rét, vào giờ giải lao, ông Shah cầm tay kéo tôi đi theo và nói:
- Anh là người Công Giáo phải không ? – Phải ! - Hôm nay là lễ gì, anh có biết không ? – Tôi không biết ! - Lễ Giáng Sinh. Chắc anh nhớ gia đình, nhớ bao kỷ niệm. Thôi đi theo tôi, ta cùng xuống hố đất đàng kia. Tôi sẽ cùng anh dâng Thánh Lễ.
Có một sức gì nơi ông thu hút tôi khiến chân tôi phải bước. Cả hai chúng tôi xuống một hố sâu. Chung quanh miệng hố, đất đào lên được đắp lên cao thành hai mô vững chắc. Tôi chẳng hiểu làm sao, ông lại có một tí rượu nho trong cái bát nhỏ và một mẫu bánh mì. Ông để cả hai trên mô đất, giữa cảnh hoang tàn giá rét. Đôi tay ông giang ra. Ông cầu nguyện rồi đưa Mình Thánh Chúa lên cao. Nét mặt ông sáng ngời. Tôi chăm chú nhìn rồi tự nhiên đầu gối tôi khuỵu xuống. Tôi quỳ. Tôi cũng cầu nguyện. Tôi ăn năn sám hối. Ông cho tôi rước lễ. Mắt tôi nhòa lệ. Lòng tôi cũng như lòng ông ấm áp hẳn lên. Và chúng tôi vội vàng trở về chỗ cũ.
Một tên lính gác thấy chúng tôi tiến lại liền chạy ngay đến tóm cổ Linh Mục Shah và hỏi: “Mày đi đâu đàng kia ?” Ông thẳng thả đáp lời: “Hôm nay là Lễ Giáng Sinh. Giờ giải lao tôi đi cầu nguyện”. Tên lính liền vụt cho ông một trận đòn chí tử. Ông làm thinh chịu đựng. Hắn dẫn ông đi. Và từ hôm ấy, tôi không còn gặp lại ông ta nữa. Nhưng trong suốt cuộc đời tôi, tôi không bao giờ quên được cảnh tượng chiều hôm ấy: một dáng người cao cao, hai tay giơ lên, gương mặt gầy gò, nhưng toát vẻ thánh thiện, áo quần rách nát tung bay theo chiều gió, giữa trời đất, ông Shah với Chúa ! Chưa bao giờ và có lẽ sẽ không bao giờ trong đời tôi có một lễ Giáng Sinh sốt sắng như thế. Cũng từ ngày ấy, Đức tin sống lại trong tôi...”
· Dù cô đơn nơi đèo heo hút gió, dù tăm tối trong ngục tù, con hãy hướng về các bàn thờ trên thế giới, nơi Chúa Giê-su đang tế lễ; con dâng lễ và rước lễ thiêng liêng. An ủi và can đảm sẽ tràn ngập lòng con ( ĐHV 364 ).
· Thánh Thể làm cho ta hiệp nhứt trong Nhiệm Thể. Dâng lễ, dự lễ mà không yêu thương là mâu thuẫn, quái gở ( ĐHV 362 ).
Vết chân nóng hổi
Vua Thánh Venceslao xứ Tiệp Khắc ( 907 – 929 ) có thói quen đêm nào cũng thức dậy đến Nhà Thờ để viếng Thánh Thể. Một đêm nọ trời đông giá rét, viên thị vệ theo hầu thánh nhân phàn nàn: “Trời lạnh quá, đi trên tuyết, chân hạ thần cóng cả lên”. Ngài quay lui dịu dàng bảo: “Cứ chịu khó theo ta và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta”. Viên thị vệ tuân theo và bỗng nhiên thấy ấm áp lạ thường. Từ đó ông ta càng tin tưởng mến Chúa, theo gương Đấng mình đang dẫm bước theo.
· Mặt trời sáng và tung tỏa ánh sáng. Thánh Thể là sự sống và nguồn phát xuất sự sống Thần Linh, sự sống hòa hợp giữa các dân tộc: "Thịt ta làm cho thế gian được sống." ( ĐHV 361 ).
· Có thể tiêu diệt tất cả Linh Mục, nhưng đâu có hai hay ba người hiệp nhau vì Danh Chúa, thì vẫn có Chúa ở giữa họ ( ĐHV 388 ).
Các đèn chầu sống động
Trong lịch sử Hội Thánh, không vị Thánh nào mà lại không sùng kính Chúa Giê-su Thánh Thể. Nhưng trong số đó cũng có nhiều vị mà cuộc đời đặc biệt gắn liền với Thánh Thể như ngọn đèn chầu. Như Thánh An-phong, Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, tuy đến ngày sức khỏe già yếu nhưng đêm khuya vẫn lần mò từng bậc cấp lên xuống thang gác để đến cùng Chúa Giê-su Thánh Thể. Thánh Phan-xi-cô Carracciolo, Thánh Pascal Baylon... chuyên rao giảng về tình yêu Chúa Giê-su trong phép Thánh Thể, lập nhiều hội tôn sùng chầu kính Bí Tích cực trọng đó. Thánh Rymard thì lập Dòng Thánh Thể với đặc điểm ngoài các công việc mục vụ khác, trong Nhà Thờ của Dòng đêm ngày đều đặt Mình Thánh Chúa và cứ thay phiên nhau, mỗi lượt hai Linh Mục mặc áo các phép mang dây Stola quỳ chầu Chúa Giê-su Thánh Thể.
Thánh nữ Magarita Maria, ngay lúc còn nhỏ, đã có lòng yêu mến Chúa Giê-su Thánh thể đến nỗi mỗi khi cha mẹ ngài thấy con mình vắng mặt, thì chỉ cần chạy đến Nhà Thờ thì thấy ngay con bé đang quỳ chầu Chúa Giê-su Thánh Thể ở đó. Lòng trí Thánh nữ hằng luôn khao khát dự mọi Thánh Lễ, linh hồn thì luôn kết hợp theo dõi các Linh Mục dâng lễ trong mọi lúc, ngày cũng như đêm. Có thể nói được rằng, cuộc đời của Thánh nữ chỉ nghĩ đến Thánh Thể, không mấy lúc Ngài quên nhớ đến Chúa Giê-su ngự trong Bí Tích đó. Thánh nữ viết: “Chúa dạy tôi dâng lễ như sau: khi con dâng lễ phải cầm lòng, cần trí sốt sắng, nguyện cầu tha thiết như Đức Mẹ xưa đứng dưới cây Thánh Giá của Thầy”.
· Gia đình thánh thiện là gia đình hâm mộ Thánh Lễ ( ĐHV 353 ).
· "Phải có đời đời để dọn mình, phải có đời đời để tạ ơn, vì dâng một Thánh Lễ" ( Thánh Vianney – ĐHV 354 ).
· Linh Mục cùng tế lễ với Chúa Giê-su, cùng trao mình với Chúa Giê-su, làm của ăn cho mọi người, bất cứ lúc nào, trao tất cả ! ( ĐHV 355 ). Đền Thờ Montmartre
Trong thành phố Paris diễm lệ, vùng Montmartre được xem như một nơi đầy tội lỗi trụy lạc nhất. Nhưng cũng ngay tại đó lại có mọc lên một ngôi Đền Thờ rất lớn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su và có chầu Thánh Thể liên lỉ. Mình Thánh Chúa được đặt trong chiếc Hào Quang cao ba thước, phải có bậc thang để đi lên phía sau mới thay được. Điều đáng cho chúng ta cảm phục và bắt chước là khắp nơi nước Pháp cũng như nhiều nơi trên thế giới có người tình nguyện đăng ký đến chầu một hai ngày nhất định trong mỗi năm. Đúng ngày đã định, họ đến nhận phiên chầu tại Montmartre, hết phiên lại trở về. Ngay trong thành phố Paris cũng có một số người tự nguyện sẵn sàng “thay thế” trong trường hợp một ai đó ở xa bị trắc trở không thể đến được. Mỗi lần như thế ban tổ chức chỉ cần gọi điện thoại là họ đến ngay cùng Chúa Giê-su Thánh Thể để chầu thay cho người phương xa đang mắc kẹt, và cũng thế cho bao người tội lỗi đang mải mê trong những ổ trụy lạc dưới chân đồi.
· Đèn không sáng nếu hết dầu, xe không chạy nếu cạn xăng, hồn Tông Đồ sẽ suy mạt nếu không đến với Thánh Thể: "Ai không ăn thịt Ta và uống máu Ta, chẳng được sống đời đời." ( ĐHV 360 ).
· Người Công Giáo "Chúa Nhựt" không đủ sức để cải tạo thế giới vật chất ngày nay. Sống Thánh Lễ là bí quyết để đem Chúa cho thế giới và đưa thế giới đến với Chúa ( ĐHV 366 ).
Tông Đồ Thánh Tâm
Trên thế giới ai cũng biết tên Cha Matteo Crawley, một Linh Mục thuộc dòng Hai Thánh tâm ở Piepus nước Bỉ. Sau khi được Chúa cho lành bệnh thổ huyết rất nặng, ngài đã tình nguyện đi khắp thế giới để rao giảng về Thánh Tâm Chúa. Không ai lại không hay biết cuốn sách nổi tiếng của ngài: “CHÚA GIÊ-SU VUA TÌNH YÊU”. Ngài đã phổ biến khắp nơi một phương pháp “Chầu Giờ Thánh ban đêm trong gia đình”. Mỗi gia đình tự do nhận lãnh mấy giờ trong mỗi tháng và mỗi người trong gia đình đó tình nguyện thức một giờ ban đêm cầu nguyện, đền bồi phạt tạ, an ủi Thánh tâm Chúa Giê-su.
Cha đã thấy nhiều cụ già tại các Xứ Đạo Việt Nam hưởng ứng rất nồng nhiệt. Họ hy sinh rất nhiều cho công việc “Chầu Giờ Thánh ban đêm trong các gia đình”. Họ có cuốn sổ ghi tên đêm nào, gia đình nào, người nào sẽ làm Giờ Thánh. Và chiều chiều họ xách chiếc đồng hồ reo cũ kỷ lại đàng nhà ấy để nhắc nhở cho gia đình ấy nhớ mà thức cầu nguyện, chiều mai họ lại lấy đồng hồ mang sang gia đình khác. Họ làm thế với mục đích duy nhất an ủi Chúa Giê-su hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni.
· Cả cuộc sống con phải loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa Sống Lại ( ĐHV 369 ).
· Đời con là một Thánh Lễ: lúc sám hối đọc kinh "thú tội", khi tha thiết đọc kinh "Lạy Cha", lúc hân hoan hát kinh "Vinh Danh", hồi vui mầng hát "Ha-lê-lui-a". Nhưng con không ngừng "Dâng lên Chúa", "Anh chị em hãy cầu nguyện", "Tin kính một Thiên Chúa là Cha", "Hiệp nhứt cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần", "Thông hiệp cùng Hội Thánh Chúa lan rộng khắp hoàn cầu" ( ĐHV 372 ).
Thánh Lễ cuối cùng
Trong thời Cách Mạng Pháp, rất nhiều Linh Mục, tu sĩ bị giết, tong số đó có một Linh Mục khi vừa bước lên thang máy chém, đã hát to câu: “Tôi sẽ bước lên bàn thờ !” Vâng, đây là Thánh Lễ cuối cùng của đời ngài và là một Thánh Lễ đẹp nhất. Ngài dâng máu mình hòa với Máu Chúa Giê-su Thánh Thể.
Trong một Thánh Đường ở nước Đức có tấm bia: “Nơi đây Luther đã dâng Thánh Lễ cuối cùng”. Kinh khiếp và đau xót làm sao ! Vì sau Thánh Lễ ấy, Luther đã lìa bỏ Hội Thánh, bỏ Dòng Thánh Âu-tinh mà ông là Bề Trên Giám Tỉnh, để đi lấy vợ, lập giáo phái Cải Cách Luther. Một hôm giữa cảnh trời trăng sao, bà vợ ông bảo: “Anh xem cảnh trời trăng sao đẹp quá !” Ông đáp: “Nhưng không đẹp cho chúng ta đâu !”
· Mỗi khi trao Chúa Giê-su Thánh Thể cho Giáo Dân, con hãy ý thức trao cả đời con, thời giờ của con, sức khỏe, tài năng, tiền của, nghĩa là máu thịt con cùng với Mình Máu Thánh Chúa làm của nuôi mọi người và mỗi người không phân biệt ai ( ĐHV 376 ).
· Hằng ngày cùng với Chúa Giê-su, con dâng hiến mình, sẵn sàng từng giây phút, để "bị nộp" vì anh em con, để "đổ máu ra cho nhiều người được tha tội" ( ĐHV 377 ).
Thánh Lễ mở tay
Đức Cha Berteaud, Giám Mục Giáo Phận Tulle, luôn luôn mang trong mình kỷ niệm Thánh Lễ Mở Tay, Thánh Lễ đầu tiên ấy trong đời Linh Mục của ngài, đến nỗi sau đó 40 năm làm Linh Mục, khi thấy ngài làm lễ, có người đã nói: “Đức Cha Berteaud luôn luôn làm lễ mở tay !”
· Con muốn hỏi: "Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả ?" Hãy tham dự Thánh Lễ, vì không kinh, không tổ chức, nghi thức nào bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giê-su trên Thánh Giá ( ĐHV 349 ).
· Đời con chỉ có một mộng ước; nó thành trọng tâm thu hút và điều khiển tất cả tâm trí và hành động của con: Thánh Lễ như Chúa Giê-su suốt đời "rất mong ăn lễ Vượt Qua" ( ĐHV 349 ).
Thánh Lễ vô giá
Một Chúa Nhật nọ, trời mưa rét, lạnh lẽo, ông Mazoni ( 1785 – 1873 ), một thi sĩ trứ danh nước Ý, đứng lên từ giã các bạn để đến Nhà Thờ tham dự Thánh Lễ. Các bạn khuyên ông: “Trời mưa lạnh, Nhà Thờ lại xa, thôi để Chúa Nhật tới...” Thi sĩ Mazoni duyên dáng đáp: “Trong các bạn, nếu có ai mất 100.000 lires tiền Ý, chắc không chịu ngồi chờ cho đến khi ấm áp mới đi tìm. Nhưng 100.000 lires là gì sánh với Thánh Lễ”.
Xưa nay ai thấy những người dự lễ nghèo cực hơn kẻ khác vì mất giờ không ? ( ĐHV 347 ).
Đức Cố Hồng Y FX. NGUYỄN VĂN THUẬN ( Lm. Huỳnh San gửi về từ Úc )
* Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta đầy đủ cả hai hình dạng: Bánh và Rượu.
* Tại sao khi tôn thờ Thánh Thể, chúng ta chỉ tập trung vào Bánh mà quên Rượu?
Những tập quán trong phòng ăn và phòng bếp cho chúng ta một ý niệm chúng ta thuộc hạng người: THÁNHTHỂ-49
Những tập quán trong phòng ăn và phòng bếp cho chúng ta một ý niệm chúng ta thuộc hạng người nào xét về phương diện cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Từ thời thơ ấu, chúng ta đã có thành kiến rằng kiểu cách ăn uống của chúng ta chung với người khác đem lại cảm giác an toàn và xác nhận rằng chúng ta thuộc loại người nào. Chúng ta biết mình thuộc loại người nào hay không thuộc loại người nào tùy theo cách thức ăn uống, thời gian và nơi chốn ăn uống và cũng tùy cách chúng ta chia xẻ đồ ăn thức uống với những ai.
Cách thức chúng ta chuẩn bị, thù tiếp và chia xẻ đồ ăn thức uống kết hợp chúng ta với những cộng đồng quá khứ và hiện tại của gia đình (thực đơn bữa tiệc ngày lễ Tạ Ơn), của miền (món “bí tết tẩm cheese” tại Philadelphia hay món chili tại Cincinnati) và của quốc gia (“bảy con cá” của Ý trong bữa tiệc mừng Giáng Sinh hay món tamales Giáng Sinh tại vùng Tây Nam, Hoa Kỳ). Do đó, không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng rất nhiều người chống lại việc thay đổi các tập tục về ăn uống. Cố gắng thuyết phục người Mỹ bỏ mayonnaise vào trong món khoai tây rán như người Bỉ thường là một nỗ lực bất thành. Điều này có thể chấp nhận được ở bên kia bờ Đại Tây Dương, nhưng có vẻ khó xảy ra tại đây vì không phải là lối Mỹ.
Kể từ Công Đồng Vatican II, người Công giáo đã có nhiều thay đổi trong tập tục tham dự bàn tiệc thánh so với 13 thế kỷ trước! Cách thức ăn chay ít khắc nghiệt hơn. Chúng ta năng chịu Mình Thánh hơn, thường là đứng để rước lễ, đôi khi rước lễ từ các thừa tác viên giáo dân, và tùy nghi nhận Mình Thánh bằng tay. Chúng ta lại được tùy ý để có thể uống Máu Thánh Chúa Kitô từ trong một chiếc ly chung.
Các chuyên viên nghiên cứu về tính tình cho biết rằng con người thường chống đối mạnh mẽ việc thay đổi cách thức ăn uống đã có từ nhiều năm trước, từ đó chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy rằng chính chúng ta cũng ngại ngùng không kém khi phải thay đổi cách thức tham dự bàn tiệc thánh. Mặc dù việc rước lễ dưới hai dạng thức đã được thiết lập tại Hoa kỳ từ năm 1978, nhưng nhiều người Công giáo vẫn không chịu rước Máu Thánh Chúa từ trong ly.
Tại sao vậy? Người ta dè dặt điều gì? Và có thể những dè dặt này đã tạo dịp cho chúng ta duyệt xét lại Mầu Nhiệm Chúa Kitô ở giữa chúng ta?
Một số người dè dặt rằng rước Máu Thánh Chúa từ ly rượu có thể bị lây bệnh và truyền vi trùng cho người khác. Cuộc khảo cứu y khoa về việc này đã kết luận rằng không thấy có việc lây bệnh trực tiếp do việc cử hành phụng vụ này. Dĩ nhiên, những người mắc bệnh cảm thì không nên rước Máu Thánh từ ly rượu và cách thức chuyền ly rượu phải cho đúng cách để trách việc lây bệnh cho người khác.
Có lẽ một vấn đề sâu sắc hơn được phản ảnh qua lời phát biểu của người chống lại việc rước Máu Thánh từ ly rượu như sau: “ Trong Bữa Tiệc Ly chỉ có một nhóm nhỏ bạn hữu quây quần bên nhau thì uống chung ly cũng được”. Câu nói chân thành này ngụ ý rằng có nhiều người lạ đến dự Bí Tích Thánh Thể trong ngày Chúa Nhật, nên chúng ta không nên uống chung ly với những người xa lạ này.
Chính quan niệm cho rằng đây là việc quy tụ những người xa lạ mà đã gây ra một trở ngại lớn nhất và kiên cố nhất cho việc canh tân Giáo Hội. Cùng một lúc, phúc âm lại mời gọi chúng ta nhìn người khác bằng một nhãn quang mới: thực tế, chúng ta ở trong một gia đình của Chúa và không có gì rõ ràng hơn là lúc chúng ta quây quần bên nhau để lắng nghe lời Chúa, bẻ bánh và lãnh nhận chén cứu độ này. Việc cử hành bí tích Thánh Thể mỗi ngày Chúa Nhật mời gọi chúng ta thực hành trên thân thể điều mà chúng ta tuyên xưng trên môi miệng. Để đáp ứng lời mời gọi của Chúa “hãy nhận lấy mà uống” từ chén thánh thể, chúng ta được thách đố để đổi lại từ cái nhìn cho rằng Giáo Hội là nơi chúng ta tụ tập những người xa lạ sang cái nhìn là chúng ta hội họp với bạn bè - không hẳn vì chúng ta quan niệm mọi người là bạn bè với nhau, nhưng vì mỗi người chúng ta đã được Chúa Kitô gọi là bạn nghĩa thiết mà Máu của Người đã đổ ra để làm cho chúng ta hợp nhất thành một.
Một trở ngại khác cũng rất thịnh hành đối với việc lãnh nhận chén máu thánh là thiếu sự trân quý về một sự thực toàn diện, đó là sự hiện diện của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể dưới hình thức rượu. Thần học luôn luôn diễn tả lòng tin của chúng ta rằng Chúa Kitô hiện diện đầy đủ và thực sự trong rượu khi đã được truyền phép, cũng như trong bánh khi đã được truyền phép, nhưng cách thi hành phụng vụ đã không luôn luôn phản ảnh đúng quan niệm thần học này. Vấn đề ở đây không phải thuần túy là các giáo dân thuộc Giáo Hội La Mã đã chỉ chịu có Bánh Thánh từ các thế kỷ trước. Trong mọi phương cách thực hành, các giáo dân chỉ kính thờ Bánh Thánh. Việc tôn sùng phép Thánh Thể, ví dụ chầu Mình Thánh và phép lành, đã hầu hết chỉ tập trung vào Bánh Thánh.
Qua nhiều thế kỷ, sự thiếu vắng Máu Thánh trong đời sống tôn sùng Thánh Thể có thể đã dẫn đưa chúng ta đến tình trạng ít trân quý việc lãnh nhận chén cứu độ. Bởi vậy chúng ta có cơ may tái lập ý nghĩa đầy đủ hơn của bí tích Thánh Thể khi Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly đã trao ban cho chúng ta đầy đủ cả hai hình dạng. Giáo Hội trong phần dẫn nhập các nghi thức Thánh Thể đã minh thị trình bày trong Sách Lễ Roma như sau:
Dấu tích của phép Thánh Thể được đầy đủ hơn khi được trao ban dưới cả hai hình dạng, bởi vì trong hình thức này, dấu chỉ bữa tiệc thánh thể được tỏ bày rõ ràng hơn. Chúa Kitô muốn rằng giao ước mới và vĩnh cửu được chuẩn nhận trong máu Người phải được biểu lộ rõ ràng hơn, cũng như là mối liện hệ của bữa tiệc thánh thể với bữa tiệc trên thiên đàng (#240).
Khi chúng ta cố gắng tìm hiểu sâu xa phép Thánh Thể, hãy nhớ rằng việc canh tân phụng vụ trong các buổi tập họp ngày Chúa Nhật là một cuộc hành trình. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tới đích được nếu cuối cùng chúng ta không tới tụ tập chung với con cái Chúa nơi mà không có điều gì có thể che mờ nhãn quang của chúng ta và ngăn cản chúng ta coi người khác là anh chị em hay bạn hữu. Cho tới bữa tiệc cuối cùng và vĩnh cửu đó của Con Chiên, chúng ta được trao ban Bánh Sự Sống như sức mạnh cho cuộc hành trình đó. Chúng ta cũng được trao ban chén cứu độ này để thưởng thức hương vị của một bữa tiệc hiện đang trông chờ chúng ta trong vương quốc của Thiên Chúa Cha.
Trích trong tác phẩm “Chén Cứu Độ này”
Tác giả: Andrew D. Ciferni, O. Praem / Họa sĩ: Francis M. George / 1991, Ủy Ban Phụng Vụ các Giáo Phận / 415 Michigan Ave., NE, Suite 70, Washington, DC 20017 / ĐT: (202) 635-6990, Fax: (202) 529-2452
Khi Đức Thánh Cha ban phép để tùy nghi Rước Lễ bằng tay, ngài đã bày tỏ mối quan tâm là phải có những chỉ dẫn thích hợp cho các tín hữu để việc thực hành này sẽ “củng cố đức tin” và “gia tăng ý niệm về nhân phẩm”.Rước lễ bằng tay là trở về với một tập quán đã có từ lâu đời. Bữa Tiệc Ly là một bữa ăn nghi thức, tiếp nối nhiều tập quán theo dòng thời gian. Những Kitô hữu tiên khởi đã tiếp tục cử hành phép Thánh Thể như là một bữa ăn thánh thiêng và nhiệm mầu. Rước lễ bằng tay là một thông lệ vào thời đó. Mãi đến thế kỷ thứ chín việc rước lễ bằng tay mới trở nên “đặc quyền” dành cho các tu sĩ rải rắc tại một vài địa phương. Cũng như việc thay đổi dần dần qua hình thức rước lễ bằng lưỡi không phải là để tôn kính phép Thánh Thể hơn. Nhưng có lẽ việc thay đổi hình bánh được coi là một yếu tố quan trọng, cùng với ý niệm sai lầm của những người rước lễ cho rằng mình không xứng đáng cầm Mình Thánh.
Rước lễ bằng tay có thể đào sâu đức tin trong chức vụ cao quý của mỗi Kitô hữu như là một chi thể trong thân thể Chúa Kitô, bao gồm cả nhân phẩm cá biệt của chúng ta.
Sự bất kính trong bất cứ kiểu cách nào cũng phải nên tránh. Một trong những điều lạm dụng trong thời đại chúng ta là việc rước lễ có tính cách máy móc và bình thường trong các Thánh Lễ mà không chú ý tới việc cầu nguyện với Chúa hay chung với cộng đồng. Một ý niệm thái quá về sự bất xứng phải được chuyển sang quan niệm biết ơn khiêm tốn. Rước lễ bằng tay có thể giúp loại bỏ sự bất kính đối với con người và đặc biệt hơn, với thân xác con người, và không ám chỉ rằng một vài bộ phận của cơ thể con người ít quan trọng hơn những bộ phận khác. Như một cử chỉ cầu nguyện, việc rước lễ bằng tay có thể tái lập nơi các Kitô hữu trưởng thành một ý niệm về nhân cách, sự chín chắn và thánh thiêng.
* Rước lễ bằng tay cách nào?
Thánh Cyril thành Giêrusalem trong bài giảng lễ Phục Sinh năm 348 đã hướng dẫn cho các tân tòng như sau: “Khi anh chị em Rước Lễ, hãy đặt bàn tay phải trên lòng bàn tay trái, để đón nhận Vua Cả Trời Đất. Hãy nhận Mình Thánh Chúa Kitô trong lòng bàn tay ấy và thưa _AmenỴ. Rồi chịu lễ và đừng để rớt mảnh vụn nào.” Dưới đây là thứ tự những điểm hữu dụng, nhưng luôn luôn phải nhớ rằng sự tôn nghiêm là quan trọng hàng đầu.
1. Đặt một bàn tay trên lòng bàn tay kia.
2. Khi nghe lời “Mình Thánh Chúa Kitô” thì thưa “Amen” và thừa tác viên sẽ đặt Mình Thánh vào lòng bàn tay bạn.
3. Đứng tránh sang một bên để nhường chỗ cho người rước lễ kế tiếp.
4. Dùng tay dưới cầm lấy Bánh Thánh và bỏ vào miệng. Làm xong việc này thì mới quay trở về chỗ ngồi.
Bản quyền 1993 của Ủy Ban Phụng Vụ Các Giáo Phận P.O. Box 29039, Washington, D.C. 20017 Người dịch: Trần An Bài