Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Truyền Giáo: Bái 151-200 Hãy đi loan báo Tin mừng khắp thế gian ------------------------------------------ Matthêu 28,16-20: Đức Giê-su hiện ra tại Ga-li-lê, và sai môn đệ đi đến với muôn dân.
Khi ấy, 16 Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: ”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Hoặc:
Marcô 16,15-20: Khi ấy, 15 Chúa Giêsu nói với các môn đệ: ”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” 19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
----------------------------------- Mục Lục:
Được rửa tội và được sai đi, Giáo Hội Chúa ….. đó là chủ đề cho tháng Mười năm nay (10/2019) Truyền_giáo 151
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
“Được rửa tội và được sai đi, Giáo Hội Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới”, đó là chủ đề cho tháng Mười năm nay (10/2019), được Đức Thánh Phanxiccô tuyên bố là “Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường”. Mục đích của Tháng truyền giáo ngoại thường là giúp các tín hữu thấy tính thời sự và cấp thiết của công cuộc loan báo Tin Mừng, vì lời Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền Tin Mừng vẫn mang tính thời sự. Công đồng Vantican II khẳng định: “Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội lữ hành”. Tuy vậy, trong suy tư và thực hành của số đông những người Công giáo, khái niệm “Truyền giáo” thực sự ít được để ý đến. Làm thế nào để hâm nóng nơi mỗi người tín hữu tinh thần truyền giáo, là căn bản của đời sống Kitô hữu? Đó là một trong những băn khoăn của Giáo Hội, của Đức Thánh Cha và của những vị chủ chăn ở mọi cấp độ.
Khái niệm “được sai đi” gắn liền với Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ Bí tích này trao cho chúng ta ba sứ mạng quan trọng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Chính vì thế, người giáo dân không được giữ lối suy nghĩ cũ kỹ trước đây coi việc truyền giáo là của “nhà tu” hoặc của một số người được tuyển lựa. Mỗi tín hữu đều có bổn phận thực thi sứ mạng này, tùy hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của mình. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu sống trong Đan viện Các-men, không bao giờ ra ngoài và không tiếp xúc với ai. Tuy vậy, thánh nữ có tinh thần truyền giáo, qua những ước ao cháy bỏng để “đem Thánh giá đi trồng tại mọi miền đất trên thế giới” như lời Thánh nữ đã viết. Vì vậy, Thánh nữ cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện. Nhiệt huyết truyền giáo được thể hiện qua những lời cầu nguyện sốt sắng và những hy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó, Thánh Têrêsa được đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với Thánh Phanxicô Xaviê, là người rảo khắp vùng Á châu để rao giảng Tin Mừng. Qua việc chọn Thánh Têrêsa làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, Giáo Hội khẳng định với chúng ta: hiệu quả của công cuộc truyền giáo không chỉ đến từ những hoạt động bên ngoài, mà còn đến từ lời cầu nguyện và những thao thức làm cho Chúa Giêsu được mọi người nhận biết.
Nhìn lại thực tế các cộng đoàn tín hữu Công giáo tại Việt Nam, một tác giả đã nhận định: “Giáo dân tự hài lòng và an tâm với những sinh hoạt và tổ chức nội bộ, chưa ý thức vận dụng những thuận lợi sẵn có này cho công cuộc truyền giáo. Các linh mục chuyên chăm việc mục vụ hơn là truyền giáo, ưu tiên lo cho giáo dân hơn là đi tìm lương dân, hoạt động nghiêng về điều hành hơn là mở rộng, quản lý hơn là khám phá, suy nghĩ theo lối mòn hơn là tư duy cải biến, chuộng an thân hơn là dấn thân” (Trích bài viết của Lm G.B Trương Thành Công trong buổi gặp gỡ tại Vinh từ ngày 21-23/8/2019 do UB LBTM của HĐGM VN tổ chức). Quả vậy, hầu hết nơi các cộng đoàn và các cá nhân, chúng ta hài lòng với một tổ chức ổn định trong giáo xứ, nên ít để ý tới việc “đi ra các vùng ngoại biên” như Đức Thánh Cha mời gọi.
“Tháng truyền giáo ngoại thường” đã đến phần cuối và sẽ kết thúc. Tuy vậy tinh thần truyền giáo gắn liền với đời sống đức tin của người Kitô hữu. Cũng trong bài viết được nêu trên đây, tác giả nêu ba bước trong lộ trình truyền giáo cho lương dân: tiếp cận, xây dựng yêu thương và kể lại những điều may lành Chúa làm cho bản thân, như chứng từ chân thực về đức tin và vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Phương pháp này nhằm tạo sự thân thiện đối với anh chị em không cùng tôn giáo, không mang tính chiêu dụ nhưng khiêm tốn và chân thành trình bày đức tin của mình cho người khác.
Điều cần phải thực hiện trước hết khi nói đến truyền giáo, đó là xây dựng gia đình bền vững trong đức tin và trong tình yêu thương. Một gia đình tốt sẽ có sức lan tỏa sức mạnh truyền giáo đến môi trường xung quanh. Tình nghĩa vợ chồng, mối tương quan hài hòa giữa anh chị em và các thế hệ con cháu… tất cả là một chứng từ hùng hồn và hiệu quả cho đời sống đức tin. Khởi đi từ gia đình, chúng ta liên hệ đến khái niệm “gia đình” rộng lớn hơn, tức là giáo xứ, vì giáo xứ là một gia đình lớn gồm nhiều gia đình nhỏ hợp lại. Tình liên đới hiệp thông nơi cộng đoàn giáo xứ là một trong những điều kiện căn bản để thực thi sứ mạng truyền giáo. Tiếc thay đây đó còn tồn tại những chia rẽ nghiêm trọng nơi các cộng đoàn, như phản chứng của Tin Mừng và làm méo mó hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Những hoạt động từ thiện nhằm giúp những người cơ nhỡ, dù là người đồng đạo hay anh chị em lương dân, đều diễn tả sinh động đức Ái là cốt lõi của Tin Mừng và giúp mọi người nhận ra các tín hữu là con của Cha trên trời.
“Có một thuộc tính không thể thiếu đối với những người bước vào đời sống tông đồ. Một điều tối quan trọng và thiết yếu, đó là họ phải có đời sống thánh thiện, Bởi vì ai rao giảng Thiên Chúa thì bản thân họ phải là một người của Thiên Chúa…” (Maximum Illud, số 26). Sự thánh thiện của mỗi chúng ta là điều cần thiết để Tin Mừng của Chúa được lan tỏa trong cuộc sống hôm nay. Đó cũng là điều mỗi người phải thực hiện trước hết, nếu muốn trở nên tín hữu đích thực và những thừa sai loan báo Tin Mừng.
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”.
Thưa anh chị em,
Đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại Truyền_giáo 152
Đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được. Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc Truyền_giáo 153
Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được
Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc truyền giáo. Và thường chúng ta nghĩ rằng đó là việc của các linh mục, các nam nữ tu sĩ, của tiểu ban truyền giáo, hay của một số người có ơn gọi đặc biệt như Thánh Phaolô, Thánh Phanxicô Xaviê,... chứ chẳng phải là việc của mình. Tuy nhiên, truyền giáo là ơn gọi, là trách nhiệm gắn liền với mọi người Kitô hữu. Bao lâu còn là Kitô hữu, bấy lâu còn phải loan báo Tin Mừng. Có thể chúng ta không có khả năng lôi kéo, thuyết phục để cho người khác theo đạo, nhưng "nói" cho người khác biết về đạo bằng chứng tá đời sống thì ai ai cũng có thể làm được. Vậy chứng tá cụ thể đó là gì?
- Trước hết là chứng tá bằng đời sống cầu nguyện hy sinh
Đây là hoạt động đi đầu và không thể thiếu trong việc loan báo Tin Mừng. Nhìn thấy gương chúng ta cầu nguyện, gương chúng ta hy sinh, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá. Nếu đời sống tâm linh của chúng ta được cắm rễ sâu trong đời sống cầu nguyện hy sinh, thì mọi việc ta làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Như vậy, ngồi ở nhà, chúng ta vẫn có thể truyền giáo. Về điểm này, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Ngài nói: "Dù cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa, tôi cũng có thể cứu được một linh hồn".
Không ai có thể nói là tôi không có thì giờ để cầu nguyện. Không ai có thể nói là tôi không có cơ hội để hy sinh. Và để rèn luyện được nếp sống thấm nhuần tinh thần cầu nguyện hy sinh, có sức giới thiệu Đức Kitô cho người khác, thiết tưởng chúng ta có thể nhờ đến Chuỗi Kinh Mân Côi. Nhờ Mẹ dẫn chúng ta bước đi từng bước nhỏ trên đường vâng phục thánh ý Chúa và phục vụ các linh hồn.
- Thứ đến là chứng tá bằng lối sống hiệp nhất yêu thương
Truyền giáo bằng việc giảng dạy, bằng sách báo, bằng các lớp Giáo lý, bằng các lễ nghi, bằng các hoạt động tôn giáo, thực tế là rất cần. Nhưng cách truyền giáo hữu hiệu nữa là chính nếp sống đạo đức nổi trội của chúng ta về sự hiệp nhất yêu thương: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em hãy thương yêu nhau". Tình yêu thương hiệp nhất ấy được thể hiện qua cách suy nghĩ, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đối xử, cách phản ứng, cách hiện diện, cách phục vụ nói năng, ăn uống, giải trí, cách dùng thời giờ, sức khoẻ, của cải,...
Những dấu chỉ yêu thương hiệp nhất giữa mọi người trong gia đình, trong hội đoàn, trong giáo họ, giáo xứ là dấu chỉ loan báo Tin Mừng hữu hiệu nhất, giá trị nhất. Ngược lại, nếu thiếu tình bác ái yêu thương thì những việc tông đồ truyền giáo sẽ phản tác dụng. Xin dẫn chứng:
Một cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp người đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: "Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào". Tìm hiểu, người ta mới biết được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và đã từng bỏ ra gần cả một chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo. Do đó cô nhất quyết không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo sống tốt hơn.
Một khi tất cả nếp sống của chúng ta phảng phất hương thơm của tình hiệp nhất yêu thương thì dù ở đâu, nếp sống ấy cũng là truyền giáo.
- Sau nữa là chứng tá bằng nếp sống có văn hoá, văn minh
Ngày hôm nay, xã hội đang phải đối diện với biết bao tệ nạn, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, các giá trị đạo đức luân lý bị băng hoại. Chính vì thế, nỗ lực của xã hội là xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hoá, văn minh. Đi đâu chúng ta cũng thấy có các bảng hiệu "khu phố văn hoá", "thôn văn hoá, ấp văn hoá"..., lẽ nào chúng ta lại đứng ngoài, lẽ nào chúng ta lại không chung tay góp sức mình vào việc đó. Dĩ nhiên, nền văn hoá mà chúng ta phải xây dựng không phải là văn hoá sự chết, văn hoá tiêu diệt sự sống, mà là nền văn hoá bảo vệ và thăng tiến sự sống, sự sống ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Nền văn minh mà chúng ta phải kiến tạo không phải là văn minh của nền khoa học kỹ thuật khô cứng hay của chủ nghĩa duy vật hưởng thụ cực đoan, mà là nền văn minh của tình thương, nền văn minh của lòng bao dung tha thứ.
Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực: kinh doanh, sản xuất, buôn bán... với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được sứ mạng truyền giáo bằng chứng tá của mình, đặc biệt trong Năm Đức Tin, để ra sức sống tinh thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.
“Vinh quang những bước chân đi truyền rao Tin Mừng cứu độ, cho mọi người, khắp mọi nơi.... người về nơi hang sâu, người về nơi núi cao....người về nơi thị thành. Những bước chân rộn ràng....” (Lời bài hát “Vinh Quang Những Bước Chân” của linh mục Mi Trầm)
Để những bước chân của những nhà truyền giáo rộn ràng trên khắp nẻo đường, đến với mọi người Truyền_giáo 154
Để những bước chân của những nhà truyền giáo rộn ràng trên khắp nẻo đường, đến với mọi người khắp mọi nơi, không chỉ thành thị, nhưng cả nơi thôn trang và hang sâu. Những bước chân đó phải có động lực. Động lực đó không được là một cái gì khác ngoài đức tin vào Đấng Phục Sinh
Trong bối cảnh “ngôi mộ trống”, các môn đệ đứng giữa hai luồng thông tin. Các thượng tế đã xếp đặt với toán lính canh để tung tin thất thiệt. Đức Giêsu chỉ là cái xác chết, tin vui phục sinh chỉ là trò bịp bợm của những môn đệ đến trộm xác rồi loan ra. Hơn nữa, về mặt tâm lý, các môn đệ vẫn chưa hết hoang mang lo sợ sau biến cố Thầy mình bị hành hình. Các ông vẫn đóng kín cửa vì sợ người Do thái. Tất cả những điều đó làm nên một mảng tối của bức tranh Phục Sinh.
Mặt sáng của bức tranh được vẽ lên bởi Đấng Phục Sinh qua các phụ nữ. Các phụ nữ được sống một kinh nghiệm có thật về Đấng Phục Sinh. Hơn nữa họ nhận được lệnh truyền loan báo cho các Tông Đồ đến Galile, Đấng Phục Sinh sẽ đợi gặp họ ở đó. Khi nhận được lệnh truyền từ những người phụ nữ, các tông đồ đã tin và họ đã đáp lại bằng hành động lên đường đến Galilie, đến ngọn núi đã được cho biết để gặp Đấng Phục Sinh.
Người truyền giáo hôm nay, và ở mọi thời đại trước hết phải là người tin vào Đấng họ rao giảng. Vì có tin thật trong lòng mới xưng ra ngoài miệng... có xưng ra ngoài miệng mới có những hành động làm chứng cho điều mình tin (x Rm 10,10). Hành động đầu tiên và luôn phải lặp lại đối với người truyền giáo chính là gặp gỡ Đấng mình rao giảng, mình tin.
Các nữ tu của mẹ Têrêxa Calcuta mỗi ngày đã chẳng cầu nguyện và chầu thánh thể, trước khi hoạt động tông đồ sao? Cuộc gặp gỡ này rất quan trọng đối với người truyền giáo. Vì qua cuộc gặp gỡ này, họ nhận được quyền năng của Đấng được giao toàn quyền trên trời dưới đất. Họ không chỉ trình bày đức tin của mình theo như những gì đã lãnh nhận từ truyền thống, nhưng còn trình bày một đức tin cá vị với Đấng mà họ đã gặp gỡ một cách cá vị. Cũng chính trong cuộc gặp gỡ này họ lãnh nhận sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho mỗi người. Sứ mạng đó mời gọi họ ra đi làm nhân chứng
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần...” Nói cách khác, các tông đồ được mời gọi làm cho muôn dân tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng đã phục sinh nhờ Chúa Cha qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó muôn dân chịu phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng, đức tin lại là một hành vi tự do đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Vì thế các tông đồ cũng như các nhà truyền giáo không thể mị giáo, lại càng không thể cưỡng giáo. Các ngài chỉ có thể làm cho người ta tin bằng cách thu hút người khác bởi hương thơm đời sống của mình. Nói cách khác đó chính là cách thức truyền giáo.
Gần chúng ta có thánh Têrêxa Calcuta, mẹ đã dùng chính cuộc sống yêu thương phục vụ những người nghèo để làm chứng cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nhờ đó nhiều người đã tin vào Thiên Chúa. Xa hơn một chút, có thánh Phanxicô Xavier, người đã trở thành tông đồ của miền Á châu. Thánh nhân đã được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Cũng có một thánh nữ được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo, đó là thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Thánh nữ một đời ở trong tu viện kín, quanh năm trong bốn bức tường, vậy mà cũng được Giáo Hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo ngang hàng với thánh Phanxicô Xavier. Điều này nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của việc truyền giáo không hệ tại ở sức riêng con người, nhưng chính là quyền năng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là chủ mùa gặt, các đan sĩ chính là những người cầu xin, khẩn cầu Thiên Chúa ban nhiều thợ gặt cho cánh đồng truyền giáo. Còn các nhà truyền giáo chính là những thợ gặt trên khắp cánh đồng. Quyền năng của Thiên Chúa làm cho các tông đồ, các nhà truyền giáo có sự tin tưởng vào công cuộc truyền giáo
“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Trong mọi công việc, trong mọi hoàn cảnh trên cánh đồng truyền giáo, các tông đồ, các nhà truyền giáo luôn có Chúa ở cùng. Ngài cùng đi, cùng làm việc với họ. Chính thực tế này họ được mời gọi tin tưởng trong mọi thử thách, giữa muôn trở ngại trong công cuộc truyền giáo. Họ cũng được mời gọi tin tưởng vào thành quả của công cuộc truyền giáo, giữa những cám dỗ hiệu năng. Vì công việc này là của Thiên Chúa, và chính Ngài sẽ đưa tới sự thành toàn.
Khi nghĩ về những nhà truyền giáo, chúng ta vẫn thường nghĩ đó là những người xông pha ngoài kia. Họ là những người hoạt động không ngơi nghỉ. Nhưng đó không phải cách nghĩ đúng về họ. Trước hết, họ là những người gặp gỡ Thiên Chúa, họ nói với Thiên Chúa rồi mới đến việc nói về Thiên Chúa. Họ cũng là những người sống đời cầu nguyện, cộng tác vào công việc truyền giáo như những hậu phương vững chắc cho tiền tuyến khói lửa.
Thật vậy, công cuộc truyền giáo được thành toàn chính là nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Con người đứng vào vai trò những thợ gặt của Thiên Chúa. Cho nên không thể truyền giáo mà không cầu nguyện, nghĩa là không gặp gỡ Đấng ban quyền năng và sức mạnh.
Thiên Chúa là người Cha giàu lòng yêu thương, hết sức trân quý loài người là đoàn con chí ái Truyền_giáo 155
Thiên Chúa là người Cha giàu lòng yêu thương, hết sức trân quý loài người là đoàn con chí ái mà Ngài đã sinh ra và ấp ủ bằng tình yêu thương thắm thiết. Tiếc thay, hàng tỷ người trên mặt đất hiện nay không nhận ra Ngài là Cha yêu thương, chưa biết mọi người chung quanh là anh chị em ruột thịt con cùng Cha trên trời… Vì thế, họ quay lưng lại với Cha trên trời, họ sống thù nghịch với nhau, gây cho nhau vô vàn đau thương khốn khổ suốt dòng lịch sử loài người.
Trước thảm cảnh này, Thiên Chúa đau lòng vô hạn và Ngài khao khát, khao khát biết bao cho muôn dân nhận biết Ngài là Cha, nhìn nhận nhau là anh chị em một nhà, nhờ đó mới có thể chấm dứt bao cảnh huynh đệ tương tàn, để cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong đại gia đình Thiên Chúa.
“Cơn khát” này đã dày vò Thiên Chúa triền miên qua bao thời đại. Để xoa dịu, để giải tỏa “cơn khát” mãnh liệt này, Thiên Chúa không ngừng thôi thúc chúng ta là những đứa con trong nhà hãy lên đường dẫn đưa các anh chị em chưa biết Cha về đoàn tụ.
Lời thôi thúc mời gọi của Thiên Chúa
Rất nhiều lần, lời mời gọi của Chúa Giê-su vang dội trong tâm hồn chúng ta:
“Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”…
“Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28,19)”…
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2)…
Gần đây, qua Đức thánh Cha Phan-xi-cô, Thiên Chúa tiếp tục thúc giục chúng ta cách quyết liệt và khẩn thiết:
“Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc vì phải lên đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình” (Tông huấn Niềm vui Tin mừng số 49).
Thế nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó vẫn chưa lay động con tim vô cảm của chúng ta, vẫn chưa khơi lên được ngọn lửa truyền giáo đã tắt ngúm trong tâm hồn chúng ta, mà chỉ như một làn gió thoảng qua rồi tan biến.
Thiên Chúa làm thế nào để đưa những đứa con chưa biết Cha về đoàn tụ?
Để đưa những đứa con chưa biết Cha về đoàn tụ, Thiên Chúa trao cho chúng ta hai nhiệm vụ sau đây:
- Thứ nhất, Ngài muốn chúng ta trở nên môi miệng Ngài để loan báo cho muôn người nhận biết họ có một Người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa và mọi người là anh chị em ruột thịt con cùng Cha, để cùng nhau vui sống trong đoàn kết yêu thương.
- Thứ hai, Thiên Chúa muốn dùng chúng ta là những bàn tay của Ngài, phải đưa ra để dẫn dắt anh chị em lưu lạc về với Ngài.
Khi tôi khát nước khô cổ, cháy họng, tôi muốn giơ tay ra để bưng ly nước lên nhưng tay tôi bại xụi, không giơ ra được, không cầm ly nước đưa lên môi được… thì thật khốn khổ cho tôi! Khát lắm… nước sẵn đó, ngay trong tầm tay mà không với tới để uống được, buồn lắm thay!
Hôm nay, Chúa Giê-su đang khao khát đoàn con chưa nhận biết Cha quay về sum vầy đoàn tụ và Ngài muốn dùng chúng ta như đôi tay của Ngài để dẫn đưa những anh chị em này về với Chúa.
Như vậy, nếu chúng ta làm ngơ trước “cơn khát” của Chúa Giê-su. Nếu chúng ta cứ trơ trơ, im lìm, bất động… không đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Ngài, cứ để mặc Ngài bị cơn khát hành hạ… thì vô tình, chúng ta trở thành bàn tay bại xụi của Chúa, không đáp ứng “cơn khát” của Ngài! Như thế, chúng ta có xứng đáng là chi thể của Ngài nữa không?
Tự vấn
Giờ đây, xin mời mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi mình:
- Chúa muốn dùng tôi là môi miệng Chúa để loan báo Tin mừng, tôi đã loan Tin mừng cho ai chưa? Và nếu chưa thì chờ đến bao giờ tôi mới bắt đầu?
- Chúa muốn dùng tôi như bàn tay của Chúa để dẫn đưa anh chị em chưa nhận biết về với Chúa, tôi đã làm chưa? Nếu chưa thì đợi đến bao giờ tôi mới khởi sự?
Lạy Chúa Giê-su,
Từ thân phận bụi đất thấp hèn, Chúa đã đoái thương nâng chúng con lên làm chi thể Chúa và cho tham dự vào vai trò ngôn sứ của Chúa để loan Tin mừng cứu độ cho muôn dân.
Xin cho chúng con không bao giờ là bàn tay tê bại, nhưng luôn là bàn tay hoạt động thật nhiệt thành để Chúa sử dụng mà đưa nhiều người về đoàn tụ trong nhà Cha. Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Theo báo cáo tổng kết tình hình 25 giáo phận của các vị giám mục trong Hội nghị Thường niên 2005 Truyền_giáo 156
Theo báo cáo tổng kết tình hình 25 giáo phận của các vị giám mục trong Hội nghị Thường niên 2005 tại Đền thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, Vũng Tàu. Những dữ liệu trong bản báo cáo như phản ánh phần nào hiện tình của Giáo hội Việt Nam. Chúng ta sẽ căn cứ vào những dữ liệu ấy để xác định bước tiến của Giáo hội Việt Nam trong thời điểm vừa qua.
Dân số Công giáo
Tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. So với 45 năm trước (1960), lúc đó dân số cả nước là 29.200.000 người, số giáo dân là 2.094.540 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,17%. Như thế, trong 45 năm qua dân số Công giáo Việt Nam không tăng triển.
Tình trạng nhân sự
Số linh mục là 3.126 người, so với 1.914 người vào năm 1960.
Số chủng sinh là 1.249 người.
Tổng số tu sĩ là 14.413 người, trong đó có 2.072 nam và 12.341 nữ, so với 5.789 người vào năm 1960. Đây là dấu hiệu tốt, biểu lộ ơn gọi đời thánh hiến khá dồi dào trong Giáo hội Việt Nam, khiến nhiều dòng tu nước ngoài tìm đến để tuyển chọn.
Số giáo lý viên là 53.887 người.
Vấn đề nhân sự: Nếu tổng cộng số linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên là 75.353 người trong tổng số 5.776.972 tín hữu, chúng ta tự hỏi số nhân sự này đã được đào tạo ra sao, đã sống Tin Mừng thế nào để thu hút người khác tin theo Đức Kitô? Một vấn đề khác là những người ấy có biết liên đới và cộng tác với nhau để hình thành nên một sức mạnh tổng hợp hay bị chia rẽ bởi sự khác biệt về giáo phận, giáo xứ, dòng tu, linh đạo và đủ loại quan niệm cá nhân.
Chúng ta thử so sánh Giáo hội Việt Nam với một vài Giáo hội trong khu vực, như Giáo hội Hàn Quốc vào năm 2004 có 3.042 linh mục, 4.325.000 giáo dân trong tổng số 47.640.000 dân, chiếm 8,8% dân số, mà vào năm 1949 dân số Công giáo lúc đó mới chỉ chiếm 1% dân số toàn quốc. Có lẽ chúng ta phải nhìn lại cách đào tạo nhân sự cho Giáo hội Việt Nam hiện nay.
Tình trạng truyền giáo
– Số người rửa tội là 147.127 người, trong đó có 31.519 người lớn, 11.090 trẻ em (từ 1-7 tuổi) và 104.511 trẻ sơ sinh.
– Qua số người được rửa tội, chúng ta có thể suy đoán phần nào về kết quả của Năm Truyền Giáo vừa qua. Nếu số người rửa tội trong năm là 147.127 người, nhưng thực tế số người Công giáo tăng thêm cả năm so với năm trước là 109.544 người, ta có thể thấy số hao hụt là 37.583 người. Chúng ta phải giải thích thế nào về số người hao hụt này? Có thể họ là những người chết chưa được tính vào hay trừ ra trong tổng số dân Công giáo? Có thể họ là những người bỏ đạo?
– Nếu chỉ căn cứ vào số nhân sự tích cực cho công cuộc truyền giáo, dựa vào các linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo lý viên là 75.353 người, trong khi tổng số người lớn và trẻ em từ 1-7 tuổi được rửa tội là 42.609 người, thì trung bình mỗi người ưu tuyển đó chưa cuốn hút được 2 người theo đạo một năm. Vậy thì gần 6 triệu tín hữu khác truyền giáo như thế nào? Điều này cho thấy kết quả truyền giáo năm nay không cao hơn bao nhiêu so với năm trước (34.469 người) cũng như so với nhiều năm liên tiếp gần đây. Chúng ta đừng quên rằng rất nhiều người lớn theo đạo cũng chỉ để lập gia đình với người có đạo. Vậy đời sống đạo của chúng ta có thực sự thu hút được nhiều người khác tin theo Đức Kitô không? Tỷ lệ phát triển dân số Công giáo trong 45 năm qua hình như không xác định điều đó.
Như thế, xét về mặt truyền giáo, Giáo hội Việt Nam hình như chưa có bước tiến đáng kể.
Các cơ sở hoạt động mục vụ và bác ái xã hội
* Giáo hội Việt Nam có 1.552 giáo xứ và giáo họ có linh mục đảm nhận mục vụ và còn 890 giáo xứ, giáo họ chưa có linh mục phụ trách.
Như vậy, dù số linh mục là 3.126 người, nhưng chỉ có hơn một nửa đảm nhận chức vụ trong các xứ đạo. Số còn lại vì tuổi cao sức yếu nên không thể quản trị xứ đạo. Trong vòng 10 năm nữa, số linh mục vẫn còn thiếu tại nhiều giáo phận.
* Có tất cả 698 nhà trẻ mẫu giáo, 94 trường cấp I và 5 trung tâm văn hoá.
Trong tình hình mới của đất nước, chính quyền chủ trương xã hội hoá ngành giáo dục. Nhưng các xứ đạo cũng như các tổ chức dòng tu chỉ tập trung cho nhà trẻ mẫu giáo và ít quan tâm đến trường học các cấp, một phần do không còn quản lý các cơ sở giáo dục đã có từ trước năm 1975, một phần không còn đủ nhân sự để quản lý các cơ sở ấy. Tuy nhiên, nếu muốn thúc đẩy công cuộc Tin Mừng hoá xã hội, Giáo hội Việt Nam và cụ thể là các dòng tu, các tổ chức giáo dân nên quan tâm hơn cho công tác giáo dục các cấp, ngay cả cấp đại học bằng cách chuẩn bị đào tạo nhân sự ngay từ bây giờ.
* Người Công giáo, nhất là các tu sĩ, đang làm việc hoặc điều hành tại 99 trạm xá, bệnh viện, 8 trại phong, trung tâm dành cho người tâm thần, người nghiện ma tuý và nhiễm HIV/AIDS, 82 cơ sở khuyết tật, cô nhi viện và nhà dưỡng lão. Trong chủ trương xã hội hoá hoạt động y tế, người tín hữu Công giáo có nhiều điều kiện dễ dàng hơn để trực tiếp thành lập và quản lý các cơ sở từ thiện xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra vẫn là tình trạng thiếu hụt trầm trọng những người có khả năng chuyên môn để làm việc trong các cơ sở đó.
Ở Việt Nam, nhu cầu về công tác từ thiện xã hội rất cao, với hàng chục triệu người nghèo khổ, khuyết tật, mồ côi, goá bụa, nghiện ngập (rượu, ma tuý, thuốc lá)… nhưng nhiều tín hữu Công giáo dường như chỉ nghĩ đến việc bố thí, giúp đỡ chút ít về vật chất, mà không hiểu được rằng công tác xã hội, gồm thăng tiến con người toàn diện và phát triển cộng đồng, đòi hỏi phải được đào tạo kỹ lưỡng và tổ chức chặt chẽ hơn nhiều.
Những số liệu trên đây tuy không nói hết được tình trạng của Giáo hội Việt Nam nhưng có thể gợi ý cho ta suy nghĩ về bước phát triển và hướng tiến trong tương lai của Giáo Hội này. Chúng ta tự hỏi Giáo hội Việt Nam có thật sự bước đi dưới ánh sáng của Công đồng và Thư chung năm 1980 không?
CÔNG ĐỒNG VATICAN II VÀ CUỘC CANH TÂN GIÁO HỘI VIỆT NAM
Ảnh hưởng của Công Đồng 40 năm qua như mời gọi chúng ta nhìn lại đoạn đường Giáo hội Việt Nam dưới ánh sáng Công đồng Vatican II để lượng định xem mình đã đi được bao nhiêu, căn cứ vào những tiêu chuẩn và sự thay đổi từ khi mới có Công đồng.
Chúng ta nhận thấy rằng, trong khoảng thời gian 1965 đến 1975, Giáo hội Việt Nam ở miền Nam đã tích cực đổi mới theo chiều hướng Công đồng trong nhiều lĩnh vực như phụng vụ, đào tạo linh mục, đời sống tu sĩ, giáo dục Kitô giáo, tông đồ giáo dân, và các phương tiện truyền thông xã hội, dù tình trạng chiến tranh có làm chậm bước tiến đôi chút so với các giáo hội khác. Bước tiến này tương đối đồng đều và trải rộng trên toàn khu vực, khác với nhiều giáo hội ở châu Âu và châu Mỹ, đã bị những áp lực nặng nề của các khuynh hướng đối nghịch sau Công đồng.
Thật vậy, Công đồng như thổi một luồng gió mới trên các giáo hội địa phương. Đi đến đâu người ta cũng nhắc đến: cải cách, cải thiện, thích nghi, đối thoại, hoà đồng, dấn thân, cập nhật hoá, cởi mở và đón nhận, làm việc tập thể và cộng đồng… Nhưng do hiểu theo ý riêng mình, thay vì theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nên những ý niệm trên dẫn tới những thái độ, hành động thái quá, hay bất cập mà không tìm được sự quân bình. Từ đó, ta thấy có nhiều khuynh hướng khác nhau: thụ động, cấp tiến, thủ cựu và trung dung…
Nhóm thụ động, chiếm đa số, tỏ ra lãnh đạm trước những thay đổi của Công đồng. “Họ ngờ vực những nghị quyết của Công đồng và chỉ chấp nhận cái mà họ cho là giá trị” (Đức Thánh Cha Phaolô VI, Diễn văn ngày 28-9-1965). Nhóm cấp tiến muốn đảo lộn và phá bỏ tất cả quá khứ, gây hoang mang, chia rẽ trong Giáo Hội với những đòi hỏi như cho phép linh mục được lập gia đình, phụ nữ được làm linh mục, được tự do ngừa thai bằng mọi phương tiện… khiến Đức Thánh Cha Phaolô VI phải báo động: “Giáo Hội đang phải trải qua một thời kỳ lo âu, tự chỉ trích, có thể nói là tự phá hoại. Gần như đó là một cuộc khuynh đảo bên trong, trầm trọng và phức tạp, không ai ngờ xảy ra sau Công đồng” (Diễn văn ngày 7-12-1968). Nhóm thủ cựu đã phản ứng ngược lại tất cả những đổi mới của Công đồng khi thấy số linh mục, tu sĩ sút giảm kinh khủng và các xáo trộn tiếp theo, nên muốn tìm về quá khứ như các cộng đoàn theo Đức cha Lefèbre dâng lễ bằng tiếng Latinh… May mắn thay vẫn còn có những người thiện chí, biết canh tân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, dựa trên những truyền thống thánh thiện và kinh nghiệm quý báu ngàn đời của Giáo Hội.
Tuy nhiên, dường như cuộc canh tân tốt đẹp của Giáo hội Việt Nam đã bị ngừng lại từ năm 1975 cho đến một vài năm gần đây. Người ta hầu như quên hẳn Công đồng sau những xáo trộn trầm trọng từ năm 1975. Thậm chí nhiều bản văn Công đồng đã bị đốt bỏ vì nỗi sợ hãi nào đó, nhất là ở các xứ đạo miền quê. Nhiều linh mục, tu sĩ, do công tác mục vụ bận rộn hoặc do đời sống kinh tế khó khăn, nên không có thời giờ đọc những văn kiện Công đồng. Đôi khi trong bài giảng hay giờ học, người ta nhắc đến Công đồng như một thứ gia vị thêm thắt vào cho vui hơn là một sự học hỏi nghiêm túc. Còn giáo dân thì hầu như không cần để ý đến Công đồng vì chẳng có tài liệu học hỏi, và dù có muốn cũng không biết học hỏi ở đâu.
Kết quả là đời sống đạo không mấy thay đổi hay tiến triển đối với nhiều thành phần Dân Chúa. Người ta vẫn giữ đạo theo kiểu sáng lễ, chiều kinh trong khuôn viên của nhà thờ, xứ đạo, chứ chưa đem đạo vào đời để đưa Tin Mừng thấm nhập vào mọi lĩnh vực xã hội như Công đồng đã khuyến khích và định hướng qua 16 văn kiện của mình. Dấu hiệu cụ thể nhất là số người trở lại đạo rất ít so với dân số Công giáo. Tỷ lệ người có đạo càng ngày càng giảm so với dân số cả nước. Tỷ lệ dân số Công giáo của Việt Nam trước Công đồng Vatican II được xếp vào hàng thứ 2 ở châu Á, chỉ thua Philippines. Bây giờ tụt xuống hàng thứ 4 sau cả Hàn Quốc và Đông Timor.
Từ cột mốc so sánh này, chúng ta có thể nói ánh sáng Công đồng còn khá mờ nhạt nơi tâm trí người tín hữu Việt Nam, nhất là ở miền Bắc. Hy vọng những buổi hội thảo về Công đồng nhân dịp kỷ niệm 40 năm sẽ giúp chúng ta thích thú đọc và học hỏi các văn kiện Công đồng, đồng thời tìm ra câu trả lời cho việc đổi mới Giáo hội và dân tộc Việt Nam theo đường hướng Công đồng Vatican II.
Tìm lại ánh sáng của Công Đồng
Công đồng Chung Vatican II là tác động kỳ diệu của Chúa Thánh Thần để hướng dẫn cộng đồng Dân Chúa trong cuộc lữ hành đức tin và những văn kiện Công đồng có giá trị tuyệt đối trong lĩnh vực đức tin và phong hoá. Vì thế, việc học hỏi các văn kiện Công đồng rất đáng cho chúng ta quan tâm để ta có thể đi đúng con đường canh tân Giáo hội và xã hội Việt Nam. Thật vậy, Công đồng “không chỉ ngỏ lời riêng với những người con của Giáo Hội và tất cả những ai kêu cầu danh Chúa Kitô, mà còn không ngần ngại nói với tất cả mọi người. Công đồng ao ước trình bày cho mọi người biết mình quan niệm thế nào về sự hiện diện và hành động của Giáo Hội trong thế giới ngày nay” (HC Mục vụ Gaudium et Spes, số 2).
Việc học hỏi này nên bắt đầu ngay trong các chủng viện, dòng tu để đào tạo nhân sự cho tương lai, rồi tiếp tục với những khoá thường huấn cho các linh mục, tu sĩ đã tốt nghiệp hay đang hoạt động mục vụ. Việc học hỏi về Công đồng nên mở rộng cho giáo dân, nhất là các giáo dân ưu tuyển là những người đang giữ vai trò lãnh đạo trong các cộng đoàn như các thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, các huynh trưởng của các đoàn thể Công giáo Tiến hành… Nếu được, chúng ta cũng nên tổ chức các khoá hội thảo để trình bày cho cả những người ngoài Kitô giáo về các đề tài họ quan tâm.
Cần phải đánh tan quan niệm sai lầm nơi một số người cho rằng học hỏi về Công đồng là hoài cổ, là học một thứ gì đã lỗi thời, trong khi hiện nay có nhiều văn kiện của Toà Thánh cập nhật hơn, mới mẻ hơn và thực tế hơn. Văn kiện Công đồng thật ra chính là nền tảng cho tất cả những văn kiện sau này để xây dựng nên toà nhà giáo thuyết của Giáo Hội. Nếu không có nền tảng này, những gì xây dựng sau đó có thể dễ dàng sụp đổ.
Trong việc học hỏi và trình bày về Công đồng, chúng ta cần nhấn mạnh đến trục chính là Giáo hội học mà tất cả các văn kiện Công đồng nối kết vào đó để Giáo Hội nhìn lại mình và nhìn ra thế giới. Vì thế, 2 văn kiện nền tảng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn các văn kiện khác đó là Hiến chế Tín lý Lumen Gentium và Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes.
Để trợ giúp và thúc đẩy việc học hỏi cũng như nghiên cứu, HĐGM VN cần sớm hoàn thành bản dịch chính thức và yểm trợ tài chính để in các tài liệu, tổ chức các khoá hội thảo, các buổi thi đố vui cho các em thiếu nhi, thi tìm hiểu về Công đồng cho các bạn thanh niên…
Tuy nhiên, trong công cuộc tìm lại ánh sáng của Công đồng Vatican II để soi dọi cho bước tiến của mình, Giáo hội Việt Nam xác tín rằng ánh sáng thật sự soi chiếu cho mọi người chỉ phát ra từ Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,9.3-5).
III. TIẾN BƯỚC TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA
Từ Thư chung 1980
Có thể nói rằng Thư Chung năm 1980 của HĐGMVN gửi toàn thể dân Chúa ngày 1-5-1980 trong Hội nghị Thường niên đầu tiên của các giám mục hai miền Nam-Bắc kể từ ngày nước nhà được thống nhất, được xem là kim chỉ nam cho đường hướng mục vụ của HĐGM trong một số năm vừa qua. Phần thứ nhất của thư chung này giới thiệu một Hội Thánh vì loài người như một nguyên tắc nền tảng của Công đồng Vatican II (số 5-7). Phần thứ hai giới thiệu Hội Thánh trong lòng dân tộc như một sự áp dụng nguyên tắc trên đây vào hoàn cảnh đặc biệt của Giáo hội Việt Nam lúc đó để mời gọi người tín hữu gắn bó với Đức Giêsu Kitô (số 8), gắn bó với dân tộc và đất nước (số 9), cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc (số 10), xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc (số 11).
Khẩu hiệu hay phương châm rất ý nghĩa của thư chung này thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào (số 14). Phương châm ấy cũng gợi hứng cho các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài Giáo hội Việt Nam có những hoạt động hữu ích để phục vụ đồng bào trong thời gian qua.
Đến ánh sáng Lời Chúa
Trong Hội nghị Thường niên của HĐGMVN vừa qua, các vị lãnh đạo trong Giáo hội đã công bố thư mục vụ với chủ đề Sống Lời Chúa mà không nhắc đến Thư Chung 1980 và phương châm sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc trên đây. Không phải là các thành viên của hội nghị không nhớ đến năm kỷ niệm này hay muốn phân biệt sống Phúc Âm khác với sống Lời Chúa, nhưng muốn mời gọi toàn thể cộng đồng dân Chúa tiến bước nhanh hơn, xa hơn để phục vụ hữu hiệu hơn, không phải chỉ mang lại hạnh phúc cho đồng bào mà còn cho cả gia đình nhân loại và toàn thể vũ trụ. Điều này chúng ta thấy được trình bày sống động trong ba phần chính của lá thư mục vụ năm nay.
Khi dùng từ Sống Lời Chúa thay cho Sống Phúc Âm, HĐGMVN như muốn nhắc nhở Lời Chúa không phải chỉ là những âm thanh, những câu Kinh Thánh, đặc biệt là các lời Tin Mừng trong bốn Phúc Âm, nhưng là một ngôi vị sống động của Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu Kitô. Chúng ta không chỉ tìm hiểu, học hỏi, giải thích lời yêu thương này của Chúa Cha (số 2) mà còn phải tiếp xúc, gặp gỡ, yêu thương và cuối cùng hoà nhập trọn vẹn để trở thành một với Ngôi Lời Thiên Chúa (số 3) nhờ tác động của Chúa Thánh Thần (số 4).
Trong một thế giới đang bị tác động bởi của toàn cầu hoá, bị lôi kéo chạy theo nền văn minh hưởng thụ vật chất, bị xâu xé bởi sự phân hoá giữa người giàu và người nghèo, bị xáo trộn khắp nơi vì chủ nghĩa khủng bố… thì việc sống Tin Mừng không chỉ giới hạn giữa lòng dân tộc mà người tín hữu còn được mời gọi để loan báo Tin Mừng cho đại gia đình Thiên Chúa hầu xây dựng một nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.
Trong một đất nước mà dân số có đến 60% thuộc về giới trẻ đang khao khát sống đúng, sống tốt, sống đẹp, sống hào hùng nhưng lại không biết nguồn của chân thiện mỹ là ai. Một đất nước gần 51% dân số là phụ nữ nhưng nhiều người còn bị bạo hành trong gia đình, chưa được hưởng sự bình đẳng về giới. Một đất nước với 26% dân số sống dưới mức nghèo khổ trong khi một thiểu số giàu có ăn chơi phung phí. Một đất nước có hơn 20 triệu người uống rượu và nghiện rượu, hơn 5 triệu người khuyết tật với nhiều dạng khác nhau, trong đó có 1,2 triệu là trẻ em, hơn 3 triệu người goá bụa, đa sống là phụ nữ sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, 263.000 người nhiễm HIV/AIDS và dịch bệnh càng ngày càng lan rộng, 160.000 người nghiện ma tuý hầu như chưa tìm được cách phục hồi cho khỏi tái nghiện…
Trong một đất nước như thế thì việc sống Lời Chúa không đơn giản chỉ là sáng lễ chiều kinh với những câu Tin Mừng chú giải cách này hay cách khác. Sống Lời Chúa trên con đường đi tới của Giáo hội Việt Nam chính là gặp gỡ được Đức Kitô, gắn bó với Ngài và trở thành hình ảnh sống động của Ngài để có sức mạnh và tình yêu chữa lành những người bệnh tật, giúp đỡ những người đói khát và giải thoát cho những con người đang bị trói buộc bởi đủ loại xích xiềng (số 9-11). Sống Lời Chúa hôm nay còn là tìm đủ mọi phương cách, nhất là sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, để chia sẻ cho người khác những gì ta đón nhận được từ Đức Giêsu, giúp họ sống trọn vẹn giá trị của con người và của con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa sự cứu độ mà Đức Giêsu muốn thể hiện qua chúng ta.
KẾT LUẬN
Con đường đi tới của Giáo hội Việt Nam cũng như của mỗi người chúng ta dưới ánh sáng của Lời Chúa như đang mở ra cho chúng ta những chân trời mới, chân trời của hy vọng, hoà bình và yêu thương cho con người, đồng thời cũng mang lại sự phồn vinh, tiến bộ và hạnh phúc cho đất nước.
Tôi còn nhớ rất rõ thời mới được thụ phong linh mục, một người bạn tặng tôi cuốn ” Giới Luật Truyền_giáo 157
Tôi còn nhớ rất rõ thời mới được thụ phong linh mục, một người bạn tặng tôi cuốn ” Giới Luật Yêu Thương ” của Đức Cha Bùi Tuần, Giám Mục Giáo phận Long Xuyên, một cuốn sách thu thập lại một số bài giảng, Đức Cha đã giảng tĩnh tâm cho các chủng sinh. Thú thực, tôi rất thích cách phân tích và truyền đạt tư tưởng của Ngài cho các chủng sinh. Và hôm nay, Chúa nhật 30 thường niên năm A, Tin Mừng lại đề cập tới giới răn quan trọng nhất: “Mến Chúa Yêu Người”. Đạo Công Giáo do Chúa thiết lập là Đạo Yêu Thương. Thiên Chúa là Tình Yêu như thánh Gioan định nghĩa.Do đó, truyền giáo cũng có nghĩa là truyền đạt Đạo Yêu Thương và loan báo Chúa là Tình Yêu.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng ngày hôm nay đã trả lời cho người thông luật: ” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình ” (Mt 22, 37-39). Đó là cốt lõi của Đạo Công Giáo bởi vì nói cho cùng mến Chúa mà không yêu người là nói láo. Nên, yêu người sẽ gặp Chúa và mến Chúa sẽ gặp người. Vâng, có người sẽ nói tôi yêu mến Chúa thế là đủ vì tôi hằng ngày vẫn đọc kinh, vẫn đi lễ, vẫn làm những điều Hội Thánh dạy mà. Nói thế mới chỉ được một vế vì Đạo Công Giáo là Đạo Yêu Thương. Do đó, nếu nói mình mến Chúa mà lại ghen ghét anh em thì đâu có phải là con Chúa.
Yêu thương là kiện toàn lề luật.Yêu thương là cốt lõi của đạo. Yêu thương là linh hồn, là hơi thở, là nhịp đập của con tim. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rất rõ về Giới Luật Yêu Thương mà Ngài đề ra. Hai mệnh lệnh Chúa Giêsu đưa ra là một giới răn duy nhất, vì con người không thể mến Chúa mà lại ghét bỏ, khinh chê hình ảnh của Ngài là con người do Ngài tạo dựng nên. Và thực ra người ta cũng không nói yêu thương con người mà lại không nhận ra Thiên Chúa là nguồn mạch mọi yêu thương, là nguồn sáng tạo nên con người theo hình ảnh của Ngài. Khi con người tách biệt hai giới luật ấy là con người tự chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ, biệt phái, tư tế, đầu mục, kinh sư thời Chúa Giêsu quả thực là những con người đạo đức theo quan niệm của họ: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ vẻ bề ngoài yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết đến nỗi khi cầu nguyện trong đền thờ họ dám đứng thẳng kể công với Chúa và chê người người anh em cùng cầu nguyện với mình nhưng không dám ngẩng đầu lên vì tự nhận ra mình tội lỗi, bất xứng. Chúa Giêsu đã điểm mặt những hạng tự cao, tự đại, tự mãn là những hạng giả hình: họ chỉ nói cái miệng, họ đặt ra đủ thứ lề luật để bắt người khác gánh, nhưng mình thì không hề đụng tới, không hề giữ luật vv… Chúa ví họ như mồ mả tô vôi bề ngoài, nhưng bên trong thì toàn hôi thối, rữa nát vv… Chúng ta ngày hôm nay có thể ví họ như người máy, người máy có thể làm được nhiều việc, nhưng không có tâm hồn để biết yêu thương thật.
Thánh Gioan đã giải thích “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, thì không thể yêu mến Đấng nó không thấy”. Chúa đã đưa ra giới luật và giải thích giới luật. Sau khi hiểu được Lời của Chúa, chắc chúng ta không ít thì nhiều cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Hoặc chúng ta ít nhiều cũng hám danh vọng, cũng thích khoe khoang, tự cao, tự nâng mình lên và muốn hạ người khác xuống vì ích kỷ tự cho mình là hơn người.
Chúa Giêsu quả là con người vĩ đại đã thẳng thắn vạch trần thói giả hình của con người và Ngài cương quyết đẩy lùi, tiêu diệt thói giả hình ấy. Ngài cho đó như một thứ ung nhọt phải loại trừ. Ngài cho chúng ta thấy chúng ta để chúng ta chân thành và khiêm tốn hơn.
Ngày nay, người ta thích những chứng nhân sống hơn là những thầy dạy chỉ nói suông, chỉ sống bề ngoài. Chúa muốn mọi người phải biết sám hối, ăn năn và canh tân đời sống. Trong nội tâm mỗi người, ai cũng có một chút tham vọng, một chút háo danh muốn tự đề cao mình và đè bẹp kẻ khác. Chúa dạy và làm gương cho chúng ta: “Trong anh em, ai làm lớn, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23, 11) và “Ta đến phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ”,
Đỉnh cao của Đạo Công Giáo là Tình Yêu. Hãy yêu như Chúa vì Yêu người sẽ gặp Chúa và kính mến Chúa sẽ yêu mến anh em, yêu thương con người, yêu thương ngay cả kẻ thù. Và cuối cùng, đó là truyền giáo, là loan báo một Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu Kitô đầy chạnh thương và nhân hậu”.
Thánh Phaolô viết: ” Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt ” (Ep 5, 2).
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban (Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật 30 thường niên).
(Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 29 TN B. Chúa Nhật truyền giáo - Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Mỗi người Ki-tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công Truyền_giáo 158
Mỗi người Ki-tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công việc truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc loan báo Tin Mừng. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay xác định cho chúng ta nội dung của việc loan báo Tin Mừng được cô động ở nơi lời phát biểu của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Nếu công việc truyền giáo được định nghĩa theo truyền thống Đông Phương “kể cho nhau nghe cuộc đời của Đức Ki-tô”, thì mỗi người Ki tô hữu phải kể về cuộc đời của Đức Giê-su cho anh chị em mình không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của mình, nghĩa là, tự đặt mình vào trong tình liên đới với những anh chị em chung quanh mình, biến cuộc đời mình thành cuộc đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá cứu chuộc muôn người. Đó là lời loan báo Tin Mừng cụ thể nhất, sống động nhất và hữu hiệu nhất.
Trong tuyến phát triển của Tin Mừng Mác-cô, chúng ta theo Đức Giê-su trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ở đó cái chết đang chờ đợi Ngài. Viễn cảnh Thương Khó ở trung tâm của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay; hai trong số ba bài đọc: Bài Đọc I và Bài Đọc II, được mượn từ Phụng Vụ Lời Chúa Thứ Sáu Tuần Thánh.
Is 53: 10-11
Trong Bài Đọc I trích từ bài ca Người Tôi Trung chịu đau khổ, những khốn khổ và cái chết của Người Tôi Trung đã được Thiên Chúa chấp thuận như hiến lễ xóa tội, nhờ đó muôn người nên công chính.
Dt 4: 14-16
Trong Bài Đọc II trích từ thư gởi tín hữu Do thái, tác giả minh chứng Đức Giê-su là vị Thượng Tế đầy lòng cảm thương, Ngài đã tự đặt mình liên đới với nhân loại, cho đến mức chịu đau khổ và chịu chết để đưa con người đến bên lờng Chúa xót thương.
Mc 10: 35-45
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su trả lời cho những tham vọng của hai anh em nhà Dê-bê-đê và cho tất các môn đệ của Ngài nữa, bằng cách phác họa chân dung người tôi tớ lý tưởng, biến cuộc đời mình thành đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá chuộc cho muôn người.
BÀI ĐỌC I (Is 53: 10-11)
Đoạn văn này được trích từ bài ca thứ tư về Người Tôi Trung đau khổ trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55). Bài ca nầy mô tả số phận Người Tôi Trung mầu nhiệm của Đức Chúa: chịu đau khổ và bị giết chết, đoạn được tôn vinh, số phận tương tự với số phận của Đức Giê-su. Thân phận Người Tôi Trung này loan báo thân phận của Chúa Giê-su.
1. Hy lễ của cuộc đời đau khổ (Is 53: 10)
Người thuật chuyện, chắc chắn chính là vị ngôn sứ, hoàn tất những suy niệm của mình về số phận đau thương của Người Tôi Trung qua lời nguyện mà ông ngỏ lời với Đức Chúa:
“Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53: 10).
“Kẻ nối dõi” chắc chắn có cùng một ý nghĩa như trong nhiều đoạn văn Cựu Ước, tức là hậu duệ của tổ phụ Áp-ra-ham, chính xác hơn, đông đảo những người tín hữu được hưởng nhờ việc Người Tôi Trung hiến thân mình làm của lễ đền tội. Người “sẽ được trường tồn” (cũng như: “Người sẽ nhìn thấy ánh sáng”) có thể ám chỉ đến “sự sống lại”.
2. Câu trả lời của Đức Chúa (Is 53: 11):
Lúc đó, Đức Chúa trả lời cho vị ngôn sứ bằng cách hứa ban một số phận vinh quang cho Người Tôi Trung của Ngài, vì những đau khổ mà ông đã phải hứng chịu, và nhờ ông gánh lấy tội lỗi của muôn dân mà họ được nên công chính và thánh thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sẽ tự đồng hóa mình với “người tôi tớ”, “Ngài đến để phục vụ” và Ngài sẽ lập lại bằng những từ ngữ tương tự: “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
BÀI ĐỌC II (Dt 4: 14-16)
Bài Đọc II tiếp tục trích thư gởi tín hữu Do thái. Trong đoạn trích trước, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa: Lời Chúa thấu suốt lòng trí của chúng ta, xét xử tận cõi thâm sâu qua tiếng lương tâm mỗi người. Trong đoạn trích hôm nay, tác giả đem đến một viễn cảnh trấn an: Đức Ki-tô là Đấng chuyển cầu lý tưởng của chúng ta, vì Ngài “thông cảm được những nỗi yếu hèn của chúng ta; vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, nhưng không phạm tội”. Ngài là vị Thượng Tế tuyệt vời; Ngài đã không đơn giản băng qua Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để đi vào nơi Cực Thánh – như vị Thượng Tế Cựu Ước – nhưng đã băng qua các tầng trời để tiến đến ngai Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta theo Ngài đến tận nơi Thiên Chúa ngự. Vì thế, chính nhờ Ngài mà chúng ta nhận được muôn vàn ân sủng.
Lời chuyển cầu đầy quyền năng của Đức Ki-tô bắt nguồn từ những đau khổ mà Ngài đã chấp nhận hứng chịu khi mặc lấy thân phận con người. Bản văn âm vang Bài Đọc I và loan báo bài học mà Đức Giê-su sẽ đưa ra cho các môn đệ Ngài trong Tin Mừng hôm nay.
TIN MỪNG (Mc 10: 35-45)
Cuộc vận động của hai anh em nhà Dê-bê-đê, Gia-cô-bê và Gioan, được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu thuật lại (thánh Mát-thêu quy cuộc vận động nầy cho bà mẹ của họ). Cả hai thánh ký đều đặt tình tiết nầy ngay liền sau lời loan báo thứ ba của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Lời loan báo thứ ba nầy có nhiều chi tiết chính xác hơn hai lần loan báo trước; Đức Giê-su kể ra: Ngài sẽ phải chịu những lời nhạo báng, nhục mạ, đánh đòn và bị giết chết. Thánh ký đã không ghi nhận bất kỳ phản ứng nào của các môn đệ, ngoài việc họ im lặng, vì không hiểu và chắc chắn cũng sợ hãi nữa. Quả thật, trước khi thuật lại Chúa Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô viết: “Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (Mc 10: 32).
1. Phản ứng của các môn đệ:
Cứ mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của mình, các môn đệ của Ngài luôn luôn tìm cách xua đuổi khỏi tâm trí của mình những hình ảnh đau thương mà chỉ nghĩ đến quyền hành, chức tước, bổng lộc. Sau lời loan báo thứ nhất, ông Phê-rô tìm cách ngăn cản Ngài và Chúa Giê-su yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài (8: 31-9: 1). Sau lời loan báo thứ hai, họ bày tỏ một thái độ dững dưng vô cảm đối với những lời bi thảm của Thầy mà chỉ tranh nhau về những đặc quyền đặc lợi giữa họ; lúc đó, Chúa Giê-su đòi hỏi họ phải tự hạ mình “làm người phục vụ mọi người” (9: 30-37). Sau lời loan báo thứ ba nầy, sự tương phản cũng không kém dữ dội: hai trong số họ có tham vọng riêng của mình.
2. Hai anh em nhà Dê-bê-đê:
Hai ông Gia-cô-bê và Gioan là những người thợ được gọi vào giờ thứ nhất: hai ông đã là đối tượng được Đức Giê-su ưu ái một cách đặc biệt: Ngài cho hai ông cùng với ông Phê-rô chứng kiến cuộc phục sinh bé gái ông Gia-ia; Ngài cho hai ông cùng với thánh Phê-rô chiêm ngưỡng cuộc Biến Hình của Ngài trên núi cao; chỉ hai ông cùng thánh Phê-rô và thánh An-rê, hỏi riêng Ngài khi nào thì Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và những điềm báo nào về thời chung cuộc (Mc 13: 3); cuối cùng, chỉ hai anh em nầy cùng với thánh Phê-rô sẽ chứng kiến cơn xao xuyến tận mức của Chúa Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni.
Chắc chắn hai người con của ông Dê-bê-đê đã được hưởng mối thân tình gần gũi với Đức Giê-su hơn các môn đệ khác; họ mong muốn được tiếp tục tình thân nầy trong Nước Chúa và chiếm những chỗ ưu tiên bên cạnh Thầy mình. Quả thật, đầy tham vọng, họ sẵn sàng chịu đựng tất cả để đạt cho bằng được những chỗ ưu tiên nầy; nhưng dù thế nào, lòng yêu mến của họ và sự ngây thơ của họ khiến chúng ta cảm động. Giả như họ biết rằng hai chỗ mà họ cầu xin sẽ là hai chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Thầy mình, liệu họ có thỉnh cầu không?
3. Được chia sẻ cùng số phận với Ngài:
Đức Giê-su hứa với hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, họ sẽ được dự phần vào vận mệnh đau khổ của Ngài: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. “Chén” để uống là hình ảnh Kinh Thánh được dùng để tượng trưng những đau khổ phải chịu (Tv 75: 9; Is 51: 17-22; vân vân). Diễn ngữ “uống cạn chén” đồng nghĩa với việc phải chịu thử thách cho đến tận cùng. Vào những giờ phút xao xuyến tận mức trong vườn Ghết-xê-ma-ni, chính Đức Giê-su sẽ nài xin Cha Ngài: “Xin cất chén nầy xa con” (14: 36).
Còn về phép rửa mà Ngài sắp chịu, đó là những giờ phút cam go, những giờ phút Ngài sắp phải bị dìm mình vào trong những cơn sóng đau khổ và cái chết bi thảm. Ngài sẽ chuẩn bị cho hai anh em những bách hại và phúc tử đạo; nhưng Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của họ là được ngồi bên hữu bên tả của Ngài, bởi vì đó không thuộc thẩm quyền của Ngài; vai trò của Ngài thì khác: “Con Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con Người, mà được cứu độ” (Ga 3: 17). Các môn đệ chỉ có một cách hành xử phải theo: phó thác vào bàn tay của Chúa Cha.
4. Lý tưởng phục vụ:
Lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dê-bê-đê đã dấy lên một làn sóng tranh dành quyền cao chức trọng giữa các môn đệ, vốn đã tiềm tàng từ lâu trong lòng họ, nhưng chưa có cơ hội để bộc phát. Đức Giê-su đã hiểu rõ rằng các ông còn nghĩ đến một vương quốc trần thế mà họ tin triều đại nầy sắp đến gần. Với một sự kiên nhẫn vô tận để không gây thất vọng cho họ, Ngài lấy lại giáo huấn của Ngài về việc thay đổi tận căn những giá trị theo quan niệm trần thế. Giáo Hội của Ngài không được bắt chước những xã hội trần thế. Nếu những kẻ quyền cao chức trọng trong xã hội trần thế được hưởng những đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trước, được kẻ hầu người hạ, thì trong Giáo Hội của Ngài “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”.
Để làm cho rõ nghĩa lý tưởng “phục vụ” nầy, Đức Giê-su còn bổ túc thêm: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Trong bất kỳ xã hội nào, đầy tớ là hạng người thấp kém nhất và ai cũng biết người đầy tớ phải làm những gì rồi. Hơn nữa, việc phục vụ không chỉ dừng lại trong vòng anh em của mình, hay cho một tiểu số nào, mà phải trải rộng cho hết “mọi người”.
Như vậy, bài học thật sống động cụ thể, nhưng còn trở nên sống động và cụ thể hơn nữa khi được rút ra từ chính cuộc đời của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Những từ ngữ nầy được mượn ở nơi cuộc đời của Người Tôi Trung chịu đau khổ mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã phác họa trong Bài Đọc I. Chúa Giê-su sẽ trao ban mạng sống mình “làm giá cứu chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá rất đắt cho tội lỗi của nhân loại, không trừ một ai hết.
Tin mừng Mt 28: 16-20: “Đừng bao giờ nghĩ rằng các con không có gì để cho, hoặc nghĩ rằng không ai cần các con. Mỗi người trong các con hãy tự nhủ trong lòng: nhiều người cần tôi”.
Suy niệm
Hôm nay, Giáo hội cử hành Khánh nhật Truyền giáo. Một số người không thích dùng từ truyền Truyền_giáo 159
Hôm nay, Giáo hội cử hành Khánh nhật Truyền giáo. Một số người không thích dùng từ truyền giáo, vì nghe có vẻ tuyên truyền, quảng bá, áp đặt. Dùng từ truyền giáo thì rất khó đối thoại với người thuộc các tôn giáo khác hoặc lương dân, vì người ta thường quan niệm tất cả các tôn giáo đều tốt như nhau, đều dạy con người ăn ngay ở lành, tạo phước tránh nghiệp. Đồng ý rằng có nhiều người Công Giáo sống tốt và noi gương cho người lương dân, nhưng cũng không thiếu người ngoại sống tốt hơn một số Kitô hữu. Thế nhưng, vì sao Giáo hội Công giáo dành Chúa nhật tuần trước Chúa nhật cuối tháng Mười để cử hành Khánh nhật truyền giáo? “Khánh nhật” là một từ Hán Việt, mang ý nghĩa mở ra một ngày trọng đại để nhắc nhớ một sự kiện. Khánh nhật Truyền giáo là ngày Giáo hội mời gọi tín hữu trên toàn thế giới một cách đặc biệt cầu nguyện và góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu. Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay mở ra cho chúng ta về lệnh truyền của Chúa Giêsu dành cho các tông đồ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Đây cũng là lệnh truyền trực tiếp của Chúa Giêsu mời gọi mọi người nam nữ, già trẻ không riêng gì một ai. Nếu như chỉ đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, tuân giữ các Giới Răn của Chúa thì chúng ta mới giữ đạo cho khỏi mai một. Để sống đạo cách tích cực, chúng ta cần ý thức trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô. Đây là bổn phận của mọi Kitô hữu, những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm Sức đều có quyền loan báo Tin Mừng. Chính điều này làm nên bản chất của người Kitô hữu. Trong Sứ điệp nhân Khánh nhật Truyền Giáo 2018, Đức Thánh cha Phanxicô mời gọi Kitô hữu suy tư về sự kiện này: “Bản thân mỗi người có một sứ mạng trên trần gian này; đó là lý do tại sao tôi có mặt ở đây, trong thế giới này” (Evangelli Gaudium, số 273). Vâng, tâm điểm sứ mạng của Hội thánh là loan truyền đức tin, diễn ra nhờ sự lan tỏa của tình yêu, ở đó với “niềm vui” và “sự phấn khởi”, chúng ta công bố về những ơn lành mình đã được Thiên Chúa trao ban cách nhưng không, nghĩa là cho miễn phí mà không tính toán đang diễn ra hàng ngày. Mà hồng ân lớn lao nhất đó là Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì chúng ta. Vì thế, tự đáy lòng mình, chúng ta nợ Thiên Chúa. “Nợ tiền nếu trả thì vơi, nợ tình nếu trả ai ơi càng đầy” Chúng ta nợ Thiên Chúa tình yêu. Nhưng không thể đặt giới hạn cho tình yêu, vì tình yêu còn mạnh như sự chết (x. Diễm Ca 8,6). Cho nên việc loan truyền đức tin “bằng sức lôi cuốn” đòi hỏi phải có những tâm hồn được mở rộng bởi tình yêu. Và sự lan tỏa tình yêu ấy phát sinh sự gặp gỡ, làm chứng. Người Kitô hữu luôn tôn trọng tự do tôn giáo của người khác, vì tôn giáo là quyền căn bản của con người đã được Công đồng Vaticanô II nhìn nhận. Nhưng Kitô hữu cũng thực thi sứ vụ truyền giáo là việc rao giảng Tin Mừng từ chính điều mình cảm nhận được là một Tin Mừng thật sự, từ hồng ân đức tin mình đã nhận lãnh, được cảm hóa. Kitô hữu sẵn sàng trao gởi món quà quý giá mà mình trân trọng đến cho những người mình yêu thương nhất. Còn gì hạnh phúc hơn khi nhìn thấy người mình yêu thương cũng đón nhận cách trân trọng món quà mình trao tặng. Cho nên, khi người mình yêu thương cũng tin và bước theo một cách tự do, thì sự chia sẻ ấy sẽ trở nên niềm hạnh phúc được vỡ òa. Thế nên, Chúa luôn mời gọi chúng ta trở nên môn đệ Chúa để thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, hãy trao món quà đức tin vào Chúa cho anh chị em mình. Và vì là món quà, nên Chúa không đòi hỏi nơi người môn đệ khả năng, bằng cấp, học vấn, địa vị… và chúng ta không phải ái ngại rằng mình không thể đóng góp phần mình. Chúa chỉ cần người có lòng nhiệt huyết thực thi sứ vụ tông đồ. Chúng ta đang sống trong thời công nghệ 4.0 giúp cho việc truyền thông được dễ dàng. Nhờ các mạng xã hội rộng khắp khiến khoảng cách và dị biệt dần được thu hẹp và thế giới trở nên thế giới phẳng. Đó là một cơ hội thuận tiện để chúng ta mạnh dạn diễn đạt niềm hạnh phúc từ hồng ân đức tin của mình, cũng như chia sẻ đức tin ấy cho anh chị em. Chỉ khi chúng ta dám đặt câu hỏi: “Nếu Đức Kitô ở trong hoàn cảnh của tôi, Người sẽ làm gì?”, chúng ta sẽ biết phải làm thế nào. Vị cha chung của chúng ta trong buổi gặp gỡ giới trẻ tại điện Maipu, Chilê ngày 17/1/2018 đã khích lệ: “Đừng bao giờ nghĩ rằng các con không có gì để cho, hoặc nghĩ rằng không ai cần các con. Mỗi người trong các con hãy tự nhủ trong lòng: nhiều người cần tôi”.
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO 2021
“Chúng tôi không thể không nói về những điều chúng tôi đã thấy và đã nghe” (Cv 4:20)
Anh chị em thân mến,
Một khi đã được trải nghiệm sức mạnh tình thương của Thiên Chúa và nhận ra sự hiện diện từ Truyền_giáo 160
Một khi đã được trải nghiệm sức mạnh tình thương của Thiên Chúa và nhận ra sự hiện diện từ phụ của Người trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta, chúng ta không thể không công bố và chia sẻ điều chúng ta đã thấy và đã nghe. Mối quan hệ của Đức Giêsu với các môn đệ của Người và với toàn thể nhân loại, như được mặc khải cho chúng ta trong mầu nhiệm Nhập Thể của Người, trong Tin Mừng và Mầu Nhiệm Vượt Qua, chỉ ra cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào và Người cũng lấy làm của mình những niềm vui và nỗi khổ của chúng ta, những hy vọng và lo âu của chúng ta (x. Gaudium et Spes, 22). Mọi sự nơi Đức Kitô đều nhắc nhớ chúng ta rằng Người biết rõ thế giới của chúng ta và nhu cầu cứu rỗi của thế giới ấy, và Người mời gọi chúng ta tích cực dấn thân cho sứ mạng này: “Vậy các ngươi hãy ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (Mt 22:9). Không một ai bị loại trừ, không một ai phải cảm thấy xa lạ hay bị gạt ra ngoài tình thương yêu trắc ẩn này.
Trải nghiệm của các Tông Đồ
Lịch sử rao giảng Tin Mừng bắt đầu với ước muốn cháy bỏng của Chúa Giêsu là kêu gọi và đối thoại thân tình với mọi người, bất kể họ như thế nào (x. Ga 15:12-17). Các Tông Đồ là những người đầu tiên kể lại cho chúng ta điều này; họ thậm chí còn nhớ cả ngày và giờ họ được gặp Người lần đầu: “Lúc ấy là khoảng bốn giờ chiều” (Ga 1:39). Được trải nghiệm tình bạn của Chúa, được chứng kiến Người chữa lành các bệnh nhân, ngồi ăn với những người tội lỗi, cho người đói ăn, lại gần những người bị ruồng bỏ, chạm vào những người ô uế, tự đồng hoá mình với những người nghèo khó, đề nghị các mối phúc thật, và giảng dạy một cách mới mẻ và đầy thẩm quyền, để lại dấu ấn không thể xoá nhoà nơi họ, khơi dậy sự ngạc nhiên, niềm vui lan toả và một tâm tình biết ơn sâu xa. Ngôn sứ Giêrêmia mô tả kinh nghiệm này như là trải nghiệm một ý thức nồng cháy về sự hiện diện chủ động của Đức Giêsu trong trái tim chúng ta, thúc đẩy chúng ta thi hành sứ mạng mà không sợ hy sinh và bị hiểu lầm (x. 20:7-9). Tình yêu luôn luôn tiến tới, nó truyền cảm hứng để chúng ta chia sẻ một sứ điệp kỳ diệu và tràn trề hy vọng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41).
Với Đức Giêsu, chúng ta cũng đã thấy, đã nghe và trải nghiệm rằng các sự việc có thể được biến đổi. Ngay cả bây giờ, Người đã khai mào thời đại tương lai, đồng thời nhắc nhớ chúng ta về một chiều kích thường bị lãng quên của nhân tính chúng ta, đó là “chúng ta đã được tạo dựng để hoàn thành điều chỉ có thể tìm thấy trong tình yêu” (Fratelli Tutti, 68). Một tương lai làm thức tỉnh một đức tin có khả năng khơi dậy những sáng kiến mới và hình thành những cộng đồng gồm những người nam và người nữ cổ vũ cho tình huynh đệ và tình bạn xã hội, nhờ biết chấp nhận sự mỏng dòn của chính mình và của người khác (x. ibid., 67). Cộng đoàn Hội Thánh biểu lộ vẻ diễm lệ của mình khi Hội Thánh nhắc nhớ lại với tấm lòng biết ơn rằng Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga 4:19). “Lòng ưu ái của Thiên Chúa khiến chúng ta ngạc nhiên, và tự bản chất của nó, sự ngạc nhiên không phải là cái chúng ta sở hữu hay có thể áp đặt... Chỉ bằng cách này, phép lạ của sự cho không, món quà cho không bản thân mình, mới có thể nảy nở. Sống “trong tình trạng truyền giáo” là một phản ánh của lòng biết ơn” (Sứ điệp cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, 21-5-2020).
Mặc dù vậy, các sự việc không luôn luôn dễ dàng. Các Kitô hữu sơ thời bắt đầu cuộc sống đức tin của họ giữa sự thù nghịch và khó khăn. Các kinh nghiệm về tình trạng bị loại trừ và giam cầm, cộng với các cuộc đấu tranh bên trong và bên ngoài, có vẻ như nói ngược lại và thậm chí phủ nhận những điều họ đã thấy và đã nghe. Nhưng, những trải nghiệm ấy, thay vì là một khó khăn hay một trở ngại khiến họ lui bước hay khép kín trong nội bộ, trái lại, chúng thúc đẩy họ biến những vấn đề, những mâu thuẫn và những khó khăn thành những cơ hội cho sứ mạng. Những giới hạn và những trở ngại trở thành một cơ hội ưu việt để xức dầu Thần Khí Chúa cho mọi sự và mọi người. Không một sự gì và không một ai phải bị loại trừ khỏi sứ điệp giải phóng.
Chúng ta có một chứng từ sống động cho tất cả điều này trong sách Công Vụ các Tông Đồ, một cuốn sách luôn luôn ở trong tầm tay của các môn đệ truyền giáo. Trong cuốn sách ấy, chúng ta đọc thấy hương thơm Tin Mừng khi được rao giảng đã lan toả như thế nào, đánh thức niềm vui mà chỉ một mình Thần Khí có thể ban cho. Sách Công Vụ dạy chúng ta chịu đựng những khổ cực bằng cách bám chặt vào Đức Kitô, để lớn lên trong “niềm xác tín rằng Thiên Chúa có thể hành động trong mọi hoàn cảnh, thậm chí cả giữa những cái có vẻ là thất bại” và chắc chắn rằng “tất cả những ai phó thác mình cho Thiên Chúa thì sẽ sinh hoa kết quả dồi dào” (Evangelii Gaudium, 279).
Cũng đúng như thế cho chúng ta hôm nay: những thời khắc chúng ta đang sống không dễ chút nào. Cơn đại dịch đã cho thấy rõ hơn và nặng nề hơn những nỗi đau đớn, cô đơn, nghèo khổ và bất công mà biết bao nhiêu người phải trải qua. Nó đã vạch mặt cái cảm giác an toàn giả tạo của chúng ta và bộc lộ sự đổ vỡ và đa cực đang âm thầm gia tăng nơi chúng ta. Những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất càng cảm nhận một cách nặng nề hơn nữa. Chúng ta đã cảm nghiệm sự chán nản, thất vọng và mệt mỏi; và chúng ta cũng đã không tránh được cảm giác tiêu cực ngày càng tăng, nó bóp nghẹt niềm hy vọng. Tuy nhiên, về phần mình, “chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2 Cr 4:5). Vì thế, trong các cộng đoàn và các gia đình của chúng ta, chúng ta có thể nghe thấy Lời sự sống vang lên mạnh mẽ trong lòng chúng ta và nói với chúng ta: “Người không có ở đây, nhưng đã sống lại rồi (Lc 24:6)! Thông điệp hy vọng này xua tan mọi hình thức của chủ nghĩa định mệnh, và đối với những ai sẵn sàng để cho thông điệp ấy chạm vào, nó cho họ tự do và sự mạnh dạn cần thiết để đứng dậy và tìm mọi cách có thể để tỏ lộ lòng thương xót, cũng là “phụ tích” của việc Thiên Chúa gần gũi chúng ta, một sự gần gũi không bỏ lại ai bên lề đường.
Trong những ngày đại dịch này, khi sự cám dỗ xuất hiện dưới danh nghĩa của việc giãn cách xã hội lành mạnh để ngụy trang và biện minh cho thói thờ ơ và vô cảm, thì sứ mạng của lòng thương xót là một nhu cầu cấp bách, để sự giãn cách cần thiết ấy biến thành một cơ hội để gặp gỡ, chăm sóc và thăng tiến. “Những gì chúng ta đã thấy và đã nghe” (Cv 4:20), lòng thương xót mà chúng ta đã trải nghiệm, có thể trở thành một điểm tham chiếu và một nguồn mạch của sự khả tín, giúp chúng ta phục hồi một niềm đam mê chung đối với việc xây dựng “một cộng đồng của những người thuộc về nhau và liên đới với nhau, xứng với thời gian, nghị lực và các tài nguyên của chúng ta (Fratelli Tutti, 36). Lời Chúa mỗi ngày cứu chữa chúng ta khỏi những kiểu chữa lỗi có thể dìm chúng ta vào sâu trong một loại thuyết hoài nghi tệ hại nhất: “Chẳng có gì thay đổi, trước sau gì vẫn thế thôi”. Với những người thắc mắc tại sao họ phải từ bỏ sự an toàn, tiện nghi và thú vui của họ nếu họ không thể thấy có kết quả gì, câu trả lời của chúng ta sẽ vẫn là một như thế này: “Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết và bây giờ là Đấng toàn năng. Đức Giêsu Kitô đang sống thực sự” (Evangelii Gaudium, 275) và muốn chúng ta sống, đầy tình huynh đệ, và có khả năng yêu quí và chia sẻ thông điệp hy vọng này. Trong các hoàn cảnh hiện nay của chúng ta, nhu cầu cấp bách là phải có những người thừa sai của niềm hy vọng, những người được Chúa xức dầu để có thể cống hiến một lời nhắc nhở tiên tri rằng không ai được cứu rỗi một mình.
Như các Tông Đồ và các Kitô hữu sơ thời, chúng ta cũng có thể nói với tất cả niềm xác tín của mình: “Chúng tôi không thể không nói về những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe” (Cv 4:20). Mọi sự chúng ta nhận được từ Chúa là để chúng ta đem ra sử dụng một cách có ích và tự nguyện chia sẻ với người khác. Giống như các Tông Đồ đã thấy, nghe và chạm vào sức mạng cứu rỗi của Đức Giêsu (x. 1 Ga 1:1-4), chúng ta cũng có thể hằng ngày chạm vào da thịt đau thương và vinh hiển của Đức Kitô. Ở đó chúng ta có thể tìm được sự can đảm để chia sẻ với mọi người một số phận chung của niềm hy vọng, niềm tin chắc rằng Chúa luôn luôn ở bên chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta không thể giữ lấy Chúa cho riêng mình: sứ mạng Phúc Âm hoá của Hội Thánh được thể hiện qua việc biến đổi thế giới của chúng ta và việc chăm sóc công trình tạo dựng.
Một lời mời gọi mỗi người chúng ta
Chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay—“Chúng tôi không thể không nói về những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe” (Cv 4:20)—là một lời kêu gọi mỗi người chúng ta “sở hữu” và đem đến cho người khác những gì chúng ta mang trong tim mình. Sứ mạng này đã luôn luôn là dấu chứng nhận của Hội Thánh, vì “Hội Thánh hiện hữu là để loan báo Tin Mừng” (Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 14). Đời sống đức tin của chúng ta yếu đi, mất sức mạnh tiên tri và khả năng đánh thức sự ngạc nhiên và lòng biết ơn, khi chúng ta trở nên cô lập và rút vào thành những nhóm nhỏ. Tự bản chất của nó, đời sống đức tin kêu gọi một sự mở rộng ngày càng nhiều hơn để bao gồm mọi người, mọi nơi. Các Kitô hữu đầu tiên, thay vì chiều theo cám dỗ trở thành một nhóm tinh hoa, họ được Chúa soi sáng và được Người đề nghị một cuộc sống mới là ra đi để đến với các dân tộc và làm chứng về những gì họ đã thấy và đã nghe: tin mừng rằng Nước Thiên Chúa đã ở gần. Họ đã làm như thế với lòng quảng đại, biết ơn và tính cách cao thượng tiêu biểu của những người gieo giống luôn biết rằng những người khác sẽ vui hưởng hoa trái của các cố gắng và hy sinh của họ. Tôi thích nghĩ rằng “ngay cả những người yếu đuối nhất, giới hạn nhất và gặp rắc tối nhất cũng có thể là những người truyền giáo theo cách riêng của họ, vì sự tốt lành có thể được chia sẻ, cả khi nó đi kèm với nhiều giới hạn” (Christus Vivit, 239).
Vào Ngày Thế Giới Truyền Giáo mà chúng ta mừng hằng năm vào ngày Chúa Nhật áp chót của Tháng Mười, chúng ta nhớ lại với lòng biết ơn tất cả những người nam và người nữ mà nhờ chứng tá đời sống của họ, họ giúp chúng ta canh tân cam kết rửa tội của chúng ta để là những tông đồ quảng đại và vui tươi của Tin Mừng. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến tất cả những người đã kiên quyết ra đi, rời bỏ nhà cửa và gia đình mình, để đem Tin Mừng đến cho mọi nơi và mọi người đang khao khát sứ điệp cứu rỗi.
Khi chiêm ngắm chứng tá truyền giáo của họ, chúng ta được truyền cảm hứng để cũng trở nên can đảm như họ và cầu xin “chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10:2). Chúng ta biết ơn gọi truyền giáo không phải là một chuyện của quá khứ hay một cái gì lãng mạn còn sót lại của những thời xa xưa. Hôm nay, Đức Giêsu cũng cần những trái tim có khả năng trải nghiệm ơn gọi như là một câu truyện tình thực sự thúc đẩy họ ra đi tới những vùng ngoại biên của thế giới chúng ta, trong tư cách là những sứ giả và những tác nhân của lòng thương xót. Chúa ngỏ lời mời này đến mọi người, bằng những cách thức khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ đến những vùng ngoại vi xung quanh chúng ta, trong trung tâm của các đô thị hay trong chính các gia đình của chúng ta. Sự mở rộng toàn cầu cho tình yêu mang một chiều kích hiện sinh chứ không phải là địa lý. Luôn luôn, nhưng đặc biệt trong thời kỳ đại dịch này, điều quan trọng là chúng ta hằng ngày gia tăng khả năng mở rộng vòng quan hệ của mình, để đến với những người khác, những người tuy ở gần chúng ta về thể lý, nhưng không là thành phần trực tiếp thuộc “giới lợi ích” của chúng ta” (x. Fratelli Tutti, 97). Sống trong tình trạng truyền giáo là muốn suy nghĩ như Đức Giêsu suy nghĩ, cùng tin với Người rằng những người xung quanh chúng ta cũng là những anh chị em của chúng ta. Xin tình yêu thương xót của Người chạm đến trái tim chúng ta và làm cho tất cả chúng ta là những môn đệ truyền giáo đích thực.
Nguyện xin Đức Maria, người môn đệ truyền giáo đầu tiên, gia tăng nơi mọi người đã rửa tội ước muốn là muối và ánh sáng trên đất nước của chúng ta (x. Mt 4:13-14).
Rôma, Đền Thánh Gioan Lateranô, ngày 6 tháng 1, 2021, Đại lễ Chúa Hiển Linh. PHANXICÔ Bản dịch tiếng Việt Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên UBLBTM/HĐGMVN
Đọc đoạn Tin Mừng thánh Maccô hôm nay, chúng ta nhận ra bầu khí giữa các môn đệ Chúa Giêsu Truyền_giáo 161
Đọc đoạn Tin Mừng thánh Maccô hôm nay, chúng ta nhận ra bầu khí giữa các môn đệ Chúa Giêsu. Cùng sống với Thầy, đi theo Thầy trên khắp mọi nẻo đường, nhưng đường ai nấy đi, mỗi người nuôi tham vọng riêng, tranh đua nhau giành chỗ nhất trong khi Thầy báo trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay kẻ dữ. Họ sẽ hành hạ Ngài và giết Ngài…” Và đây là lần thứ ba họ nghe những lời tiên báo như thế.
Những lời trang trọng và bi đát như thế bị rơi vào lãng quên, không ai chú ý. Họ đang theo đuổi những giấc mộng riêng, họ không thể chú ý đến điều gì khác. Tham vọng cá nhân đã chiếm hết khoảng không trong tâm hồn họ. Có lúc chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu tỏ ra bực bội: “Thầy phải chịu đựng chúng con đến bao giờ nữa?”
Đối với Phêrô Ngài chặt ngang: “Satan, hãy lui ra đàng sau!”
Hôm nay, trong giờ phút này, chúng ta có chú ý đến những gì Chúa nói không? Hay chúng ta đang bực bội vì thánh lễ kéo dài?
Vài phút nữa, Chúa Giêsu sẽ có mặt nơi bàn thờ, chúng ta sẽ chú ý đến Ngài thực sự hay chỉ nhìn mà lòng trí bay xa về nhà với những công việc đang chờ đợi, với con cái, với những chuyện vặt vãnh hằng ngày?
Chúng ta có giống các môn đệ kia không?
Những gì Chúa làm cho chúng ta, chúng ta không thấy. Tình thương của Ngài, chúng ta biến thành chán buồn, ngao ngán! Chúng ta chỉ cần “ngồi bên hữu bên tả Thầy thôi” Chúng ta thật ích kỷ và dại khờ, chạy theo ảo ảnh mà không nhận ra những gì quý báu hơn.
Chúa Giêsu bình thản đặt lại vấn đề. Không phải chỉ lo chiếc ghế tương lai mà phải sống giây phút hiện tại.
Không phải chỉ “ngồi bên hữu bên tả Thầy” mà phải uống chén với Thầy, chịu cùng một phép rửa như Thầy: “Các anh không biết các anh xin gì”.
Chúng ta ngớ ngẩng như thế đấy. Xin những gì theo sở thích mình, không cần biết đến ai khác. Chúng ta tưởng mình khôn ngoan, lanh lợi. Lấn át anh em mình là khôn ngoan. Chúng ta chỉ biết đòi hỏi cho mình. Hãy kiểm tra lại những gì chúng ta cầu xin. Mấy khi chúng ta thực sự cầu “cho danh Cha cả sáng?” Quyền lợi cá nhân, gia đình là trên hết. Chúng ta đòi ưu tiên. Thế gian là như thế. Chúa Giêsu hoàn toàn khác, Ngài chọn chỗ rốt hết.
Ngài cho hai môn đệ đầy tham vọng kia biết những gì Ngài sắp làm: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống và chịu phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa Thầy được”.
Chắc chắn các ông không hiểu những gì Thầy nói, và nếu có hiểu đi nữa thì cũng chỉ mập mờ. Có lẽ họ cũng hiểu rằng uống chén với Thầy là cùng chịu một số phận với Thầy, đau khổ với Thầy nhưng số phận đó như thế nào? Làm sao họ có thể hình dung được? Chịu phép rửa với Thầy, chắc họ cũng hiểu mù mờ đó thôi. Đầu óc họ chỉ nghĩ đến cái ghế bên hữu bên tả Thầy thì dù gì đi nữa, mộng ước của họ cũng “thành”. Họ đồng ý. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng câu hỏi của Thầy cũng cho họ biết rằng điều Thầy nói cũng không đơn giản như họ nghĩ. Ngài nói: “Các anh có uống nổi không, có chịu được không?” Nghĩa là các anh có đủ sức uống chén và chịu phép rửa với Thầy không? Họ đồng ý. Thật là liều lĩnh! Nhưng họ vẫn tin chắc rằng Thầy sẽ chiến thắng, Thầy sẽ vinh quang, Thầy không thể thất bại.
Mặc dù biết các môn đệ không hiểu rõ lắm nhưng Chúa Giêsu vẫn chấp nhận: “Được, chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho…”
Câu trả lời của Ngài là một sự từ chối. Ngài cho thấy vinh quang mai sau là do Cha trên trời chứ không do Ngài.
Các môn đệ khác tức tối. Điều này không lạ gì. Các ông vẫn tranh nhau chỗ đứng, địa vị. Mỗi lần như thế, Chúa Giêsu dạy họ một bài học mới.
Lần này, Ngài dạy họ bài học phục vụ. Ngài so sánh quyền bính của các lãnh đạo thế gian và quyền bính trong nhóm anh em.
Ở đời ai có quyền thì dùng quyền và sai khiến hay đè bẹp người khác. Giữa anh em, kẻ có quyền lại là người phục vụ. Ngài cho họ thấy sứ mệnh của Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. “Tất cả mọi dân tộc phải phủ phục trước mặt Người”, nhưng Ngài đã trở thành một người hèn mọn nhất: “Ở giữa anh em, Thầy là người tôi tớ”. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Nhiều gia đình tan vỡ chỉ vì người ta không biết yêu, không biết phục vụ.
Nhiều cộng đoàn giáo xứ hay tu trì trở thành một bãi chiến trường của lòng ích kỷ, không còn niềm vui, chỉ vì tranh giành nhau chỗ đứng trong mặt trời, không biết phục vụ.
Phục vụ chính là khuôn mặt khả ái của Chúa Giêsu. Chúa chúng ta, “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa… Ngài mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…”
Trong một thế giới mà con người không còn biết phục vụ là gì, việc phục vụ của chúng ta trở thành một ánh sáng, một Tin Mừng cho mọi người.
Trong một thế giới con tim bị khô cằn, chúng ta hãy bền bỉ phục vụ, chúng ta tin rằng chúng ta không cày trên mặt biển. Chúng ta có một môi trường rộng lớn để phục vụ, mỗi người một công việc.
Chúa Giêsu, Chúa chúng ta đã trở thành người tôi tớ của mọi người để cứu vớt mọi người, chúng ta không thể đi con đường nào khác nếu chúng ta muốn tự cứu mình và cứu anh em chúng ta.
Nhìn lâu giờ khuôn mặt “phục vụ” của Ngài, chúng ta vẫn muốn ăn trên ngồi trước hay sao? Vẫn muốn làm cha thiên hạ sao?
Hãy nhìn nơi bàn thờ. Chúa Giêsu vẫn còn đây. Ngài đến để tiếp tục công việc phục vụ của Ngài cho đến tận thế, không những ban mạng sống mà ban cả Thịt Máu mình để nuôi chúng ta trên con đường lữ hành. Hình thức phục vụ này phải được tiếp nối qua cuộc sống của mỗi người. Chúa Giêsu chỉ ước mong bao nhiêu đó.
Lệnh Chúa Giêsu truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Truyền_giáo 162
Lệnh Chúa Giêsu truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 19-20).
Kinh Tân Phúc Âm Hóa có đoạn:
“Xin đổ Thần Trí của Cha, nhờ đó con được tăng thêm sức mạnh để ra đi và làm chứng nhân cho Tin Mừng mọi ngày trong đời sống của con, bằng lời nói và việc làm. Trong những lúc hoang mang, xin nhắc con:
Nếu không là con, thì ai sẽ rao truyền Phúc Âm? Nếu không phải là lúc này, thì khi nào Phúc Âm sẽ được loan truyền? Nếu không phải là chân lý Phúc Âm, thì điều gì con sẽ công bố?” “Nếu không là con, thì ai sẽ rao truyền Phúc Âm”.
Lời kinh mời gọi mỗi chúng ta khẳng định lại sứ vụ truyền giáo mà mỗi Kitô Hữu Công Giáo đã được nhận lãnh ngay trong Bí Tích Thánh Tẩy và phải thi hành sứ vụ ấy như một bổn phận.
Như thế là: không phải ai khác, nhưng chính tôi là người truyền giáo. Không phải lúc nào khác nhưng ngay bây giờ là lúc phải truyền giáo. Không điều kiện nào khác, nhưng chính trong điều kiện này là điều kiện mà tôi phải truyền giáo.
Thiết tưởng cần xóa ngay đi não trạng xưa cũ của một thời mà Giáo Dân và cả các Giáo Sĩ cũng xem việc truyền giáo là chuyện dành riêng của Giáo sĩ mà thôi, và Giáo Dân tự xem hoặc bị xem quá thấp kém, quá tầm thường, có khi là quá tội lỗi nữa, biết gì mà truyền giáo!?! Đúng là một não trạng tệ hại vô cùng!
Và còn tệ hơn nữa khi có Giáo Dân nào đó nhiệt thành quá một chút là có thể bị Giáo Sĩ kết án ngay là “phá hoại” Giáo Hội. Người phá hoại Giáo Hội là người sống không đúng ơn gọi của mình. Người sống đúng ơn gọi của mình không thể kể họ vào loại phá hoại được. Ơn gọi truyền giáo là ơn gọi của tất cả mọi người Kitô hữu Công Giáo, không phân biệt Giáo Sĩ hay Giáo Dân.
Trong điều kiện hết sức khó khăn của những Giáo Dân sống trong thời đại con người ta chỉ lo cơm áo gạo tiền, tôi đã thấy những gương chứng nhân Đức Tin thật đáng kể. Họ là những người Công Giáo tốt từ lúc ăn gạo chợ uống nước sông đến ngày có cơ ngơi vững chãi.
Có người truyền giáo bằng xe hơi vì họ đã có được chiếc xe 7 chỗ hẳn hoi, và họ gọi đó là chiếc xe “7 Hồng Ân”. Mừng cho họ là họ có ý thức tạ ơn và đã dùng xe hơi cho việc truyền giáo. Lại có anh hội viên Legio có xe đạp, truyền giáo bằng xe đạp. Mừng cho anh, tạ ơn Chúa với anh vì anh không chần chừ, không chờ đợi ước mong có xe hơi mới truyền giáo được. Có người có nhà cao cửa rộng họ sử dụng cái giàu có của họ cho việc truyền giáo, còn chị Lòng Chúa Thương Xót, chỉ có mỗi căn nhà lá, trống trước trống sau, làm chỗ học Giáo Lý cho đôi ba người dân tộc. Cảnh thiên đường đẹp quá!
Nhìn lại, những lần Đại Hội Loan Báo Tin Mừng với việc học hỏi các Văn Kiện lớn lao về Truyền Giáo, thành phần được mời tham dự toàn là những người có chức, có quyền, có bằng cấp, có ăn có học, được coi là bậc vị vọng, hoặc ít ra cũng là những người đang có chức vụ trong Giáo Hội. Có ai lại đi mời bà bán cháo lòng, bán bánh canh, bán đậu hủ, bán vé số, người xa quê, kẻ làm thuê, người khuyết tật, kẻ hành khất, hạng nghèo hèn trong xã hội… tham dự đâu? Có phải vì họ là cấp thấp bé trong Giáo Hội thì biết gì mà loan báo Tin Mừng chăng? Thiết tưởng, bao lâu người Giáo Dân còn bị đánh giá là thành phần thấp bé hèn mọn dưới con mắt của Giáo Hội Địa Phương, thì bấy lâu, Giáo Hội tiếp tục phạm phải một sai lầm đáng kể.
Này nhé, tưởng là họ đi Lễ họ không chú ý nghe giảng sao? Không phải thế đâu! Họ đã lắng nghe, nghe rất rõ, nghe rất kỹ đấy. Lại tội nghiệp cho người cố gắng lắng nghe mà nghe không được, bởi Nhà Thờ thì to đùng, xây dựng đủ thứ hạng mục công trình, sắm sửa đủ thứ xa xỉ mà âm thanh lại chẳng nghe được gì, đúng là chỉ để… xem lễ chứ có nghe được gì đâu? Đáng tiếc mà cũng đáng trách!
Đừng lầm tưởng, hãy biết những Giáo Dân thấp bé kia, không chỉ nghe mà còn muốn nghe thật kỹ, thật rõ, và còn hơn thế nữa, nghe và đối chiếu điều người đã giảng với điều người đã sống. Cuối cùng, may quá, cách thể hiện đạo đức nhất của họ là làm theo những điều đã nghe, chứ không làm theo những điều đã thấy.
Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và hoạt động cách mạnh mẽ nhất, hữu hiệu nhất, ấn tượng nhất trong chính những con người thấp bé ấy. Nhờ ơn Thánh Thần, họ được sức mạnh can trường trong đau thương, họ được niềm vui sống công chính ngay trong “cái túi” của số phận, họ được vinh dự làm chứng cho một Đạo Công Giáo luôn có niềm tin mãnh liệt vào hạnh phúc đời sau, họ được diễm phúc có một hoàn cảnh thấp bé mà sứ vụ truyền giáo thì ngược lại, không nhỏ bé chút nào. Họ sống Tin Mừng cách thiết thực nhất ngay trong điều kiện kém cỏi và hoàn cảnh khó khăn của chính họ. Thật đáng quí công cuộc truyền giáo không tên tuổi, không ai quan tâm của những Giáo Dân mạt hạng, kém trình độ, nghèo khổ, thấp hèn!
Cộng tác vào công cuộc truyền giáo của Chúa Giêsu ngày ấy, nào có phải là những thầy Kinh Sư và thầy Thông Luật đâu, chỉ toàn là những người đánh cá nhiều phần là mù chữ, là mấy tên thu thuế được xếp vào phường tội lỗi, là chị kia năm đời chồng đi kín nước, là cô kia làm nghề buôn son bán phấn, là người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang cần phải lãnh án ném đá cho đến chết, là tên trộm bị trói trên giá ngay bên hữu Chúa, là một người Samari nhân hậu, là người đàn bà bị băng huyết kinh niên, là chú què được nhảy như nai, là cậu mù được sáng mắt, là anh phung cùi được sạch…
Thời nay không còn là thời điểm truyền giáo của những Giáo Dân mạt hạng ấy sao? Hẳn không phải là thời buổi truyền giáo của những thầy Thông Luật mà lại chẳng giữ luật đấy chứ?
Hãy đến “xem nơi Người ở, và ở lại với Người”, những con người thấp bé nhất trong xã hội, trong Giáo Hội, họ đang sống rất anh hùng giữa những đau thương của cuộc đời xoàng thường nhất trong thiên hạ, nhưng lại là những chứng nhân sống động nhất của Tin Mừng.
Để kết, xin mượn truyện rất ngắn của tác giả Ba Chuông có tựa đề “Truyền Giáo” tôi vừa mới đọc được trên baicamoi.com:
“Xóm trên, Cậu Út ở với cha mẹ già, đi làm thuê về, xe tông, gãy chân, gãy sườn. Có mấy người hàng xóm đến thăm.
Chị Tám bán bánh canh xóm dưới cũng lên thăm. Thấy chạnh lòng, chị rút tờ hai trăm ngàn dúi vào tay vợ cậu Út. Có người nhìn thấy. Người ấy không ai khác là bà Tư, chủ nợ của chị Tám. Bà Tư không phải người Công Giáo.
Chị Tám bán bánh canh, mượn đầu heo nấu cháo, vay bà Tư 3 triệu, hằng tháng trả lãi 7 phân.Cuối tháng, chị Tám đến bà Tư trả tiền lãi. Bà Tư lấy một nửa, cho lại chị một nửa. Còn khen: “Tui không ngờ chị lại có lòng thương người như vậy. Ít thấy được người Công Giáo như chị. Biết sẻ chia lúc hoạn nạn mới là người Công Giáo tốt”.
Lạy Chúa, xin cho mọi việc chúng con làm đều vì danh Cha cả sáng. Amen.”
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì đã và đang có những giáo dân thấp bé nhất nhiệt thành sống đức tin giữa hoàn cảnh bi thương nhất trong cuộc đời. Xin cho mỗi ngày một nhiều hơn những giáo dân biết tạ ơn Chúa vì ơn gọi truyền giáo và kiên trung sống đời sống Công Giáo công chính theo Tin Mừng, cho danh Chúa được cả sáng. Amen.
Càng ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô càng trở nên hấp dẫn, nhất là với những người nghèo khổ Truyền_giáo 163
Càng ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô càng trở nên hấp dẫn, nhất là với những người nghèo khổ. Mới đây, Tòa Thánh đã cho xây một khu nhà trọ với tên gọi: “Quà tặng của Lòng Thương Xót” cho những người vô gia cư. Nhà trọ này chỉ cách quãng trường Thánh Phêrô có vài bước chân. Năm ngoái, Đức Giáo Hoàng cũng đã cho xây dựng những phòng tắm và phòng vệ sinh dọc theo những hàng cột tại Quảng trường Thánh Phêrô. Người vô gia cư cũng được cung cấp thêm dịch vụ cắt tóc miễn phí đảm bảo hợp vệ sinh và theo ý thích của họ. Hay mới tháng trước đây, xe y tế của Tòa Thánh chỉ dành riêng cho các sự kiện có sự hiện diện của Đức Thánh Cha cũng đã được huy động để hỗ trợ y tế cho người nhập cư.
Khi chúng ta cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta “nói” cho người khác bằng chính đời sống của mình là chúng ta truyền giáo. Và người khác cũng chỉ có thể “bước vào ngôi nhà của Giáo Hội” khi họ cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa qua chính đời sống chúng ta. Đó chính là nội dung của các bài đọc lời Chúa hôm nay.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đoc I: Gn 3, 10 - 4, 11
Thiên Chúa không muốn thành Ninivê bị tiêu diệt vì những tội lỗi của họ nên đã sai tiên tri Giôna đến rao giảng để họ ăn năn sám hối. Tiên tri Giôna đã miễn cưỡng để làm điều đó, nhưng dân thành Ninivê cũng được cứu vì họ đã “vô tình” nghe được lời rao giảng miễn cưỡng của Giôna.
Sau khi thành Ninivê được cứu, “Ông Giôna bực mình, bực lắm và ông nổi giận” (Gn 4, 1). Thiên Chúa đã dùng hình ảnh cây thầu dầu che mát làm cho ông Giôna vui tươi thoải mái, bỗng nhiên bị con sâu cắn đứt và khô héo khiến ông Giôna bị nắng giội xuống phải ngất xỉu. Khi tỉnh lại ông xin Thiên Chúa cho ông chết đi cho rồi vì không còn cây thầu dầu để che mát nữa. Thiên Chúa lấy hình ảnh đó làm bài học cho ông Giôna: “Ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên… Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái.” (Gn 4, 10-11)
Truyền giáo là cho người khác biết được Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ con người. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ truyền giáo không muốn rao giảng chương trình của Chúa, chỉ muốn làm theo ý mình, nhưng Thiên Chúa sẽ làm mọi cách để “cho con người được ơn cứu độ”.
2. Bài Đọc 2: 1Tm 2, 1-8
Thánh Phaolô mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa là “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4). Chính vì điều đó mà ông đã được đặt lên để rao giảng Tin Mừng, một cách đặc biệt là cho lương dân. Để rồi ông dùng hết khả năng, sức lực của mình cùng với ơn Chúa để làm cho mọi người được biết tình yêu cứu độ của Đức Kitô, đến nỗi ông đã xác quyết: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”
3. Tin Mừng: Ga 17, 11b.17-23
Trong lời cầu nguyện hiến tế của Đức Kitô, Ngài đã cầu nguyện cho các môn đệ là những kẻ đã tin và bước theo Ngài: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.” (Ga 17, 11b). Ngài còn cầu nguyện cho đối tượng mà các môn đệ của Ngài sẽ rao giảng: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha.” (Ga 17, 20)
II. YÊU AI YÊU CẢ ĐƯỜNG ĐI
Ca dao Việt Nam có câu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”. Khi chúng ta đam mê Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng chung thao thức với Ngài là đem tình yêu và ơn cứu độ đến cho người khác.
1. Đam mê Đức Kitô
Đam mê là một khái niệm mà đôi khi bị nhầm lẫn với ước mơ, hoài bão, khát vọng. Có người định nghĩa đam mê là ham thích thái quá, đến mức không còn biết gì khác nữa. Trong thần học, đam mê liên quan đến sự giận dữ, nhiệt tâm, tìm kiếm, tình yêu và ước muốn. Ở đây tôi chỉ nhìn ở khía cạnh đam mê là động lực để chúng ta hành động. Vì vậy mọi hành động tốt xấu của chúng ta đều xuất phát bởi đam mê tốt hay đam mê xấu.
Thánh Augustinô nói “đam mê xấu khi tình yêu xấu, đam mê tốt khi tình yêu tốt”.
Thánh giáo hoàng Piô V đã dày công thuyết phục một vị “Tai mắt” Tin Lành đến với Giáo Hội Truyền_giáo 164
Thánh giáo hoàng Piô V đã dày công thuyết phục một vị “Tai mắt” Tin Lành đến với Giáo Hội Công Giáo. Trong khi vị này đang còn tìm hiểu Đạo, ngày nọ ông bước vào một nhà thờ để tham dự thánh lễ. Rủi thay, hôm đó những người hiện diện không có vẻ tôn kính trang nghiêm, trừ một số rất ít, số còn lại thì chia trí nói chuyện to nhỏ và nhìn ngó loanh quanh. Con người có ý định trở lại đạo này sinh ra bất bình, ông từ chối trở lại đạo bằng cách viện dẫn lý do trên. Ông nói: “Các người Công giáo không tin ở thánh lễ. Họ không tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu Thánh Thể”.
Câu chuyện trên đây đã để lại cho mọi người kitô hữu chúng ta một bài học hết sức thâm thuý, đặc biệt trong ngày cử hành lễ truyền giáo hôm nay. Nhiều khi vì những việc làm, lời nói vô tình hay cố ý của chúng ta làm rào cản, ngăn người khác đến với Chúa và Giáo hội. Vấn đề này đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đề cập đến trong tông thư Tiến tới thiên niên kỷ thú ba rằng: “Sở dĩ thế giới không nhận ra Đức Kitô nơi Giáo Hội và nơi mọi người Kitô hữu vì hai lý do: Một là vì Giáo Hội không biểu lộ được Đức Kitô ở trong mình ra cho thế giới; hai là vì Giáo Hội chưa sống với Đức Kitô như là một người của Thiên Chúa để làm cho thế giới cảm nghiệm được sự sống dồi dào của Chúa Giêsu, sức thánh hoá mãnh liệt của Chúa Thánh Thần và nhất là tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, qua Giáo Hội”.
Ngài nói tiếp: “Thái độ lãnh đạm tôn giáo, một thái độ khiến nhiều người sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu hay sống một cuộc sống mờ nhạt không đẩy được họ tới đối diện với vấn đề chân lý cũng như nghĩa vụ liên đới”.
Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Nhìn vào thực tiễn các xứ đạo, các gia đình, nhìn vào chính mình mỗi chúng ta đây, ta thấy rằng con số sống đạo cho đúng nghĩa rất ít. Trong khi đó, rất nhiều người giữ đạo hình thức, ở cách ăn mặc, hát xướng, tưng bừng bên ngoài, nhiều gia đình bất hoà bất thuận, những cá nhân sống như không có luật lệ, trộm cắp gian tham, lỗi công bằng bác ái...
Là Kitô hữu thì phải làm chứng, không làm chứng là phản chứng, làm chứng là một trong những cách thế truyền giáo hữu hiệu nhất, đặc biệt trong thời đại chúng ta hôm nay. Trước khi rao giảng bằng lời nói hãy rao giảng bằng đời sống. Người tín hữu giáo dân hãy nỗ lực cùng với đồng bào hãy xây dựng một nếp sống lành mạnh trong khu phố xóm làng, loại trừ mọi tệ đoan tật xấu. Đặc biệt hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng làm chứng về sự hiện diện của nước Thiên Chúa, Nước đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an. Người tín hữu cũng nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương. Không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa nói: Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy: Ấy là nếu anh em thương yêu nhau(x. Thư mục năm 2003 của HĐGMVN).
Trong Tông huấn loan báo Tin Mừng của Đức Phaolô VI khi đề cập đến vấn đề những đường lối và những phương thế Phúc Âm hoá, tông huấn đề ra những đường lối quan trọng nhất: việc rao giảng, phục vụ Lời Chúa, huấn giáo, sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội, truyền đạt kinh nghiệm về đức tin bằng sự tiếp xúc cá nhân, vai trò của các Bí tích trong mối tương giao của chúng với Lời Chúa, những giá trị tích cực của nền đạo đức bình dân. Tuy vậy, trước danh sách của những đường lối đó, tông huấn có một đoạn dành riêng cho chứng tá đời sống được coi như phương thế Phúc âm hoá đầu tiên (EN 41): “Nhờ lối sống mình mà Hội Thánh trước tiên sẽ Phúc Âm hoá thế giới, nghĩa là nhờ chứng tá đời sống của mình về lòng trung tín với Chúa Giêsu, về sự khó nghèo và từ bỏ, về sự tự do trước quyền bính của thế gian này, tắt một lời về sự thánh thiện”.
Và Ngài kết luận rằng: “Con người thời đại này thích nghe những chứng nhân hơn là những nhà giảng thuyết, và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết là chỉ vì những nhà giảng thuyết là những chứng nhân”.
Chính vì thế mà những bài giảng đơn sơ của thánh Gioan Vianney có nhiều sức mạnh truyền giáo hơn là những bài giảng hùng hồn của các nhà giảng thuyết lừng danh chứa đựng nhiều sự thông thái và nhiều nghệ thuật, nhưng lại không được nung nấu bằng một lòng mến Chúa. Việc ban bí tích Hoà giải của cha Gioan Vianney không có giá trị hơn của các linh mục khác, nhưng sự thánh thiện của ngài tự nó đã là một lời kêu gọi mạnh mẽ thúc đẩy các tín hữu muốn xưng tội và hoán cải. Và sở dĩ vị thánh làm được điều đó là vì người liên lỉ sống đối diện với Mầu nhiệm, sống tâm giao với Thiên Chúa.
Vào thời đại của chúng ta, ai mà chẳng biết tiếng tăm lừng lẫy của Mẹ Têrêxa Calcutta, người đã sáng lập dòng Bác ái truyền giáo, và nhờ những việc làm cụ thể của các nữ tu mà bao người đã trở lại đạo. Câu chuyện sau đây là một trong vô vàn những chứng từ được Mẹ kể lại: Một người đàn ông sau khi đã quan sát rất kỹ lưỡng chị nữ tu băng bó cho người hấp hối một cách trìu mến và vui vẻ, đã nói với tôi: “Ngày hôm nay khi đến đây, tôi không có chút lòng tin vào Chúa, trái lại tâm hồn tôi đầy căm ghét Người. Nhưng bây giờ khi sắp rời khỏi nơi đây, tôi đã là người tin Chúa. Tôi đã thấy tình thương của Chúa được biểu lộ bằng những hành động như thế nào. Qua đôi bàn tay của chị nữ tu kia, qua bộ điệu của chị, qua sự trìu mến của chị với người hấp hối cùng cực, tôi đã thấy tình yêu của Thiên Chúa bao phủ người khốn cực này như thế nào, và bây giờ tôi tin”.
Tại sao thánh Gioan Vianney đã hoán cải được nhiều tội nhân như vậy? Tại sao Mẹ Têrexa Calcutta chinh phục được nhiều con tim đến thế? Chính là nhờ đời sống chứng nhân phát xuất từ lòng mến Chúa và luôn sống kết hợp mật thiết với Người. Một phóng viên đã hỏi Mẹ Têrêxa: “Thưa Mẹ, Mẹ yêu thương đám quần chúng mà người khác nhìn họ như những đống hoang phế của nhân loại. Đâu là bí quyết của Mẹ?” Mẹ Têrêxa từ tốn trả lời: “Bí quyết của tôi thật đơn giản: Tôi cầu nguyện”.
Như vậy, linh hồn hoạt động cho công cuộc bác ái của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện. Sức mạnh phát xuất từ đó. Phép lạ chuyển hoá con người cũng khởi hành từ đó.
Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh nhiều đến việc cầu nguyện trong Giáo Hội. Vì đây là phương thế kết hợp với Thiên Chúa, để gắn bó với Đức Kitô, từ đó người tín hữu mới có thể biểu lộ Chúa ra cho thế giới. Vì người không có đời sống cầu nguyện sẽ không bao giờ thực hiện được trên các linh hồn một việc phong nhiêu kết quả. Chúng ta có thể ban tặng cho tha nhân cái dư tràn của chính đời sống thiêng liêng của chúng ta, cái dư dật của những xác tín tôn giáo chúng ta đã nghiền ngẫm trong kinh nguyện, theo kiểu nói tuyệt vời của Thánh Tôma: “Tặng người khác những gì mình đã chiêm ngắm”. Đời sống cầu nguyện là công việc nạp bình, còn hoạt động Tông Đồ chỉ sử dụng dựa vào sức điện nạp ấy. Bởi thế, càng hoạt động thì càng phải cầu nguyện. Cầu nguyện như người ta nghĩ là “Hồn sống của mọi hoạt động tông đồ”. Hay nói như Mẹ Têrêxa: “Hoạt động chỉ là kết quả của cầu nguyện”. Vì vậy, chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều trái tim quảng đại biết cảm thương những cảnh đời bơ vơ không người chăn dắt; có nhiều tâm hồn thiện chí hăng hái dấn thân ra đi loan báo Tin Mừng(x. Thư mục vụ năm 2003 của HĐGMVN).
Suốt hai ngàn năm qua, Giáo Hội luôn nỗ lực truyền giáo, từ con số Mười Hai lớn dần tới hơn một tỉ người. Tuy nhiên, so với số dân thế giới thì con số đó chưa thấm vào đâu, chỉ chiếm khoảng 17%. Đặc biệt ở Việt Nam chúng ta con số đó lại càng ít, số giáo dân chỉ chiếm gần 8% dân số toàn quốc. Thế mà số người trở lại hàng năm thật ít ỏi. Theo niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam năm 2015 cho biết: Năm 2013 cả Giáo hội Viêt Nam với 6 606 495 giáo dân, với 29 152 Giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh mà chỉ có 41 395 người lớn trở lại đạo. Như vậy, mỗi giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh bình quân một năm chỉ lôi kéo được hơn một người theo Đức Kitô. Đó là chưa nói đến những người bỏ đạo hay từ Công giáo theo các tôn giáo khác. Hơn nữa, hầu hết những người trở lại đạo ấy chỉ để lấy vợ lấy chồng. Tại sao? Có phải như một số ý kiến cho rằng: “Người Công giáo Việt Nam mới chỉ giữ đạo chứ chưa ý thức truyền đạo?”. Đó là vấn đề mà mọi người kitô hữu Việt Nam chúng ta cần nghiêm túc suy nghĩ để không phải chỉ giữ đạo mà còn cần phải sống đạo và ra sức đóng góp phần mình cho công cuộc mở mang nước Chúa.
Truyền giáo luôn là nỗi thao thức của Giáo hội. Vì tự bản chất Giáo Hội là truyền giáo. Giáo Hội mang bản chất li tâm tức là trao ban chính mình cho người khác. Việc truyền giáo là lí do tồn tại của Giáo Hội. Thời gian của Giáo Hội là thời gian giữa hai lần Chúa đến, là thời gian truyền giáo, nếu không truyền giáo thì Giáo Hội mất hết ý nghĩa thời gian của mình. Xin cho mỗi người chúng ta biết góp phần mình cho công cuộc truyền giáo, nhất là bằng lời cầu nguyện và đời sống chứng nhân. Amen.
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya Truyền_giáo 165
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng hẳn về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: "Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều."
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy thót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng là có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng cách bất ngờ.
Câu chuyện trên đây làm tôi liên tưởng tới tinh thần nhiệt tâm truyền giáo cần phải có nơi mỗi người kitô hữu chúng ta. Thiết tưởng việc truyền giáo cũng cần có những người “Thổi kèn thúc quân?” Chính trong thư mục vụ năm 2003, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã mời gọi: “Hãy lên đường với nhiệt tình tông đồ, là sự hăng hái được thúc đẩy bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là lòng nhiệt thành được nung đốt bởi lửa của Chúa Thánh Thần, là những sáng kiến do ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần”.
Thứ nhất, tinh thần của Chúa Giêsu: Ngài chính là nhà Truyền Giáo vĩ đại nhất. Sứ mệnh truyền giáo của Ngài đón nhận từ Chúa Cha(x. Lc 4,18). Sau ba mươi năm sống ẩn dật tại vùng quê Nazarét, Ngài bắt đầu lên đường đi tới mọi nơi: Từ thành thị tới đồng quê. Từ vùng biển lên miền núi. Từ Giêrusalem lên Núi Sọ. Ngài gặp gỡ, tiếp xúc với mọi hạng người: giàu - nghèo, tri thức - dân thường, công chính – tội lỗi, khoẻ mạnh - ốm đau. Chính nhờ những cuộc gặp gỡ đó, Ngài đã hoán cải được nhiều người: Mathêu, Giakêu, Maria Mađalêna. Và chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền: Người què đi được; kẻ điếc được nghe; người câm nói được; người mù được thấy; người phong cùi được sạch; kẻ chết sống lại.
Tinh thần nhiệt tâm truyền giáo của Ngài còn được thể hiện qua sự chọn lựa và huấn luyện các Tông đồ. Trước khi về trời, Ngài đã ra lệnh cho các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”(Mc 16,15).
Thứ hai, tinh thần của các Tông đồ và các kitô hữu tiên khởi: Vâng lệnh Chúa Giêsu, sau ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ mở toang cửa ra đi đến với mọi người, tới mọi chân trời để làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh(x. Cv 2). Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút khoảng ba ngàn người xin rửa tội (x. Cv 2,41). Con số xin gia nhập Giáo hội ngày càng gia tăng. Họ họp nhau lại, chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng(x. Cv 2,42). Các Tông đồ tiếp tục rao giảng Tin Mừng, khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Khi bị điệu ra trước thượng hội đồng(x. Cv 4). Lúc bị tống vào ngục, được giải thoát ra, lại tiếp tục rao giảng (x. Cv 5,17). Đi liền với lời rao giảng là những phép lạ kèm theo (x. Cv 5,12-16). Các Tông đồ thiết lập nhóm Bảy người, tức là Bảy phó tế đầu tiên. Trong số đó, có Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi. Sau biến cố Đamát, Phaolô trở lại. Trước đây nhiệt tình bắt bớ các kitô hữu bao nhiêu thì giờ đây Phaolô lại nhiệt tình rao giảng Tin Mừng bấy nhiêu. Khi xác tin được niềm tin và hiểu được sứ mạng Chúa giao phó, Ngài sống trọn vẹn cho Chúa và cho các linh hồn. Ngài nói: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rơm rác để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (Pl 3,8-14). “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1Cr 9,16). Ngài đã miệt mài rao giảng Tin Mừng cho dân Do Thái và dân ngoại. Đi đến đâu, Ngài cũng thiết lập các cộng đoàn mới, chăm sóc, dạy dỗ bằng những cuộc viếng thăm hoặc qua thư từ.
Tinh thần nhiệt tình tông đồ của các Tông đồ, các kitô hữu tiên khởi và đặc biệt là của Thánh Phaolô đáng cho mỗi người chúng ta học tập.
Thứ ba, tinh thần của các nhà thừa sai: Đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu Kitô, từ nhiều thế kỷ nay biết bao thế hệ môn đồ của Chúa đã hăng hái lên đường. Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người đã bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau ra đi đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới. Thật vậy, nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quí giá (x. Thư chung năm 2003 của HĐGMVN).
Để làm được điều đó, thiết tưởng các ngài phải có một tâm hồn nhiệt tình tông đồ: Yêu mến Chúa hết lòng và khao khát phần rỗi các linh hồn. Chúng ta hãy lắng nghe những lời tâm huyết của một số vị thánh sau đây:
Cha Đa-miêng, vị tông đồ của những người hủi đã nói: “Phần tôi, tôi muốn hủi với những người hủi để chinh phục họ cho Chúa Giêsu”.
Thánh Phanxicô Xaviê đã dấn thân không mệt mỏi cho công cuộc truyền giáo, khi viết từ Viễn Đông cho thánh Ignatiô, Ngài nói: “Ở xứ này, rất nhiều người không phải là kitô hữu chỉ vì hiện nay không có ai để làm cho họ trở thành kitô hữu. Nhiều khi tôi có ý tưởng rong ruổi qua mọi đại học ở Châu Âu. Bắt đầu từ đại học ở Paris để kêu gọi những kẻ có nhiều học thức hơn là lòng bác ái và làm cho họ biết trách nhiệm về phần rỗi của kẻ khác”.
Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu thì nói: “Con cảm thấy lòng con khao khát phần rỗi linh hồn người ta lắm; con muốn dùng hết tài, xuất hết lực, hy sinh mọi lẽ để cứu kẻ tội lỗi cho khỏi lửa hoả ngục”. Trong những lá thư gửi cho hai cha truyền giáo, Ngài đã bộc lộ được tâm hồn khao khát truyền giáo của Ngài: “Cái điều mà con đêm mong ngày đợi là chinh phục nhân loại cho tình ái Chúa, con thú thật rằng: Nếu ở trên thiên đàng con không thể tiếp tục mạnh mẽ việc đó, con thích ở lại nơi lưu đày này hơn là về chốn vui vẻ đời sau”.
Còn mẹ Têrêxa Calcutta thì sao? Ngài nói: “Nhiệt tâm đối với các linh hồn là kết quả và chứng tá của tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa. Nếu ta yêu mến Thiên Chúa thực lòng, ta không thể không rạo rực ước muốn cứu vớt các linh hồn; đó chính là điều Chúa Giêsu quan tâm hơn và yêu quí hơn. Vì thế, nhiệt tình là bằng chứng của tình yêu, và bằng chứng nhiệt tình là tận hiến cho việc nghĩa này: Tiêu hao sức lực và cuộc đời ta để cứu vớt các linh hồn”.
Tóm lại, để loan báo Tin Mừng có hiệu quả, trên hết và trước hết cần phải có một tinh thần nhiệt tình tông đồ: Tinh thần của Chúa Giêsu. Tinh thần của các Tông đồ và các kitô hữu tiên khởi. Tinh thần của các nhà truyền giáo. Khi đã có tinh thần nhiệt tình tông đồ, chắc chắn sẽ tìm ra phương cách để truyền giáo. Hãy ra chỗ nước sâu. Hãy tới các vùng ngoại biên. Hãy mạnh dạn “Thổi những hồi kèn thúc quân”, đó là lòng nhiệt tình tông đồ bằng những hành động cụ thể chứ không phải lý thuyết suông. Hãy quan tâm đến những người bệnh tật ốm đau, những người bị bỏ rơi bên lề xã hội, những người bị áp bức bóc lột. Hãy quan tâm đặc biệt đến những người nghèo: “Có một mối giây không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ rơi họ” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 48). Làm như thế, mới hy vọng có được một mùa gặt bội thu trên cánh đồng truyền giáo tại quê hương Việt Nam chúng ta. Amen.
Ma-kê-nô, một cách nói khôi hài và mỉa mai, rút ra từ cụm từ “mặc kệ nó, sống chết mặc bay”, ám Truyền_giáo 166
Ma-kê-nô, một cách nói khôi hài và mỉa mai, rút ra từ cụm từ “mặc kệ nó, sống chết mặc bay”, ám chỉ thái độ sống vô cảm, vô tâm, không hề quan tâm đến phúc lợi của những người chung quanh.
Bệnh vô cảm hay chủ nghĩa ma-kê-nô tràn lan trong xã hội
Vô cảm là một đề tài được đề cập khá nhiều trên các trang báo Việt Nam hiện nay và được xem như một thứ bệnh dịch đáng sợ gây ra những tác hại to lớn cho đồng bào, cho quê hương, đất nước.
Cảnh một đám học sinh dửng dưng vô cảm chứng kiến bạn học này đánh đập cách tàn nhẫn và dã man một bạn khác ngay trước mặt mình mà không hề có một lời can gián; cảnh một tài xế xe đầu kéo chở bia bị lật xe giữa chỗ đông người, thay vì được giúp đỡ thì lại thấy đông đảo người tuôn đến hôi của sạch trơn; cảnh nạn nhân cần được cấp cứu tức thời, bị bỏ lơ ngoài hành lang bệnh viện, không được đoái hoài, vì chưa nộp viện phí… và rất nhiều chuyện đau lòng tương tự đã không còn là điều hiếm thấy trên quê hương chúng ta…
Báo chí gọi đó là bệnh vô cảm, là chủ nghĩa “ma-kê-nô” đang tràn lan trong xã hội. Vô cảm đã trở thành một căn bệnh trầm kha rất khó chữa.
Điều đau lòng là vô cảm không chỉ là một căn bệnh đáng sợ của xã hội mà còn là một thứ bệnh tâm linh của người con cái Chúa. Người đời thì vô cảm với nỗi đau buồn của đồng bào trong nước, còn ki-tô hữu thì vô cảm trước những bất hạnh tinh thần của đông đảo anh chị em chung quanh mình.
Vô cảm với nỗi đau của Thiên Chúa Cha
Thiên Chúa là Người Cha rất mực tốt lành, ngày đêm ưu phiền khắc khoải vì đông đảo con cái yêu dấu của Ngài không nhận biết Ngài là Cha rất tốt lành và giàu lòng yêu thương; vì thế, họ ngoảnh mặt quay lưng lại với Cha, xem Cha là nhân vật hoang đường do những người mê tín dựng lên và cần phải xoá bỏ, hoặc tự nghĩ rằng mình là con không Cha… nên phải sống trong cô đơn khắc khoải trọn kiếp người. Trước tình trạng đó, Thiên Chúa đau khổ biết chừng nào!
Biết thế, nhưng nhiều người con trong nhà Cha, kể cả chúng ta, vẫn thờ ơ vô cảm trước nỗi lòng thổn thức đau khổ của Cha, miễn là hiện nay mình được an vui hạnh phúc trong Nhà Cha là được rồi.
Vô cảm với cảnh bơ vơ lạc lối của anh chị em mình
Là những người con trong nhà Cha, chúng ta được diễm phúc sống kề cận bên Cha, được Cha ấp ủ bằng tình phụ tử ngọt ngào, được Cha dưỡng nuôi bằng những lời khôn ngoan do Chúa Giê-su mang từ trời xuống, được Chúa Thánh Thần là Thầy khôn ngoan soi đường dẫn lối, được Đức Maria là Mẹ hiền bao bọc chở che bằng tình mẫu tử thiêng liêng trìu mến, được đón nhận vô vàn ân sủng qua các Bí Tích… Chúng ta cũng giống như những phú hộ sung túc trong đời sống thiêng liêng, nhưng lại tỏ ra dửng dưng vô cảm với vô số anh chị em ruột thịt con cùng một Cha trên trời, không được diễm phúc như mình.
Vì vô cảm, chúng ta không nói cho anh chị em lương dân biết họ có một Người Cha giàu lòng yêu thương. Vì vô cảm, chúng ta không ra tay dẫn đưa những anh chị em lưu lạc về với Cha để cùng chung hưởng hạnh phúc với mình. Vì vô cảm, chúng ta cứ vui hưởng hạnh phúc của người con trong nhà, còn anh chị em chúng ta có lưu lạc, có đói khát lầm than thì “ma-kê-nô”, có liên quan gì đến chúng ta!
Vô cảm trước lời thôi thúc mời gọi của Cha
Rất nhiều lần, lời Cha qua miệng Chúa Giê-su vang dội trong tâm hồn chúng ta: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Mt 28,19)”; “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. (Lc 10,2)…” Nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó không gây được âm vang để lay động con tim vô cảm của chúng ta, không đủ mạnh để nhen lửa truyền giáo trong tâm hồn chúng ta, mà chỉ như làn gió thoảng qua rồi im bặt.
Chủ nghĩa “ma-kê-nô”
Hôm xưa, sau khi Ca-in thanh toán đứa em vô tội của mình, có tiếng Chúa từ trời vọng xuống hạch tội Ca-in. Ngài phán: “Ca-in, em ngươi đâu?”
Ca-in vô cảm trả lời: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!” (St 4,9) Ma-kê-nô!
Dường như câu đáp: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi” hoặc “Ma-kê-nô”… cũng là châm ngôn sống và hành động của nhiều người trong Hội Thánh Chúa đối với đông đảo anh chị em lương dân quanh mình.
Nếu hôm nay Chúa hỏi mỗi người chúng ta:
- “Con có biết lòng Cha ray rứt đau khổ ngày đêm vì có hơn nửa dân số địa cầu chưa hề biết Ta là Cha thật sự của họ không?” Câu đáp sẽ là: “Ma-kê-nô!”
- “Con có biết hiện nay có hơn 80 triệu đồng bào Việt Nam, là anh chị em ruột thịt của con, đang cần con nói cho họ biết họ có Cha trên trời hết lòng yêu thương họ và họ đang cần được con dẫn về đoàn tụ trong nhà Cha không?” Câu đáp cũng sẽ là: “Ma-kê-nô!”
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cứu chúng con khỏi bệnh dịch vô cảm hay chủ nghĩa “ma-kê-nô” đang lây lan và gây nhiều tác hại đau thương cho đất nước và đặc biệt, xin cứu đoàn con trong gia đình Hội Thánh Chúa, khỏi căn bệnh vô cảm tâm linh hoặc chủ nghĩa “ma-kê-nô” độc hại, đang gây nhiều đau khổ cho Thiên Chúa và thiệt hại lớn lao cho rất nhiều người.
Một linh mục làm công tác truyền giáo lâu năm đã nhận định rằng Giáo Hội Công giáo Việt Nam Truyền_giáo 167
Một linh mục làm công tác truyền giáo lâu năm đã nhận định rằng Giáo Hội Công giáo Việt Nam chỉ thành công trong việc truyền giáo qua con đường hôn nhân mà thôi. Quả là không sai. Không cần phải nói đâu xa, ngay trong các xứ đạo, ta thấy tuyệt đại đa số những người theo đạo chủ yếu là để lấy vợ lấy chồng, còn những người theo đạo vì yêu mến đạo, yêu mến những người có đạo là rất ít. Vì thế số người Công giáo hằng năm tăng lên là không nhiều. Vậy đâu là nguyên nhân? Thiết nghĩ có hai nguyên nhân chính.
- Nguyên nhân thứ nhất là vì người Công giáo chưa ý thức việc truyền giáo và cầu nguyện cho việc truyền giáo.
Một số người Việt ở hải ngoại có nhận xét rất chí lý: “Người Công Giáo Việt Nam mới chỉ giữ đạo, chứ chưa ý thức truyền đạo?” Thực tế cho thấy điều này. Nhiều người Công giáo vẫn coi việc truyền giáo là việc của người khác, của các linh mục, các tu sĩ, hoặc các tác viên loan báo Tin Mừng, chứ không phải là việc của mình; truyền giáo là việc của các tổ chức này, đoàn hội kia, chứ không phải việc của gia đình mình. Bởi đó, họ không quan tâm đến việc nói cho người khác biết về Chúa, về đạo.
Bằng chứng là trong các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với anh chị em lương dân, người Công giáo chúng ta thường rất ít nói, hoặc không bao giờ nói về Chúa, về đạo giáo của mình. Nội dung của các cuộc trò chuyện hầu như chỉ xoay quanh chuyện cơm áo gạo tiền, xe cộ, đất đai nhà cửa, công việc làm ăn buôn bán, chuyện học hành của con cái, chuyện bệnh tật hay tai nạn của người này người nọ, hoặc chuyện vợ chồng con cái của người nọ người kia, có khi là những câu chuyện trên phim ảnh (chuyện phim Cô Dâu Tám Tuổi chẳng hạn…). Anh chị em thử nghĩ coi có đúng không? Quá đúng luôn! Có người tám hết giờ này qua giờ khác với đủ thứ chuyện trên dưới đất, trừ chuyện Chúa, chuyện đạo. Dường như nhiều người vẫn bị “á khẩu” mỗi khi nghĩ đến việc nói về Chúa hay về đạo.
Nếu ta không nói về đạo về Chúa cho họ thì làm sao họ biết Chúa biết đạo, mà không biết thì làm sao họ yêu mến Chúa, yêu mến đạo. Không yêu mến Chúa, không yêu mến đạo thì làm sao họ theo đạo được. Dĩ nhiên, truyền đạo không nhất thiết nhắm đến việc lôi kéo người khác vào đạo. Điều quan trọng là giúp người ta nhận ra sự hiện diện của Chúa, để người ta không còn sống như người vô thần, hoặc không còn “tin vơ thờ quấy” lung tung nữa.
- Nguyên nhân thứ hai là do nhiều người Công giáo sống phản chứng với Tin Mừng, tức là sống nghịch lại với những gì đạo dạy.
Ta vẫn thường nghe nhiều anh chị em lương dân ca thán rằng người có đạo mà sống như người vô đạo, thậm chí còn tệ hơn. Gia đình Công giáo mà thường xuyên sống bất hoà bất thuận, anh em xâu xé nhau, vợ chồng lăng nhăng, phá thai, ly dị, … Người Công giáo mà sống bất công, trộm cắp tham lam, buôn gian bán dối. Người Công giáo mà cho vay ăn lời cắt cổ, hoặc chính mình vay mà quỵt nợ không chịu trả. Người Công giáo mà rượu chè say sưa triền miên, cờ bạc số đề số đóm tối ngày… Người Công giáo mà sống ích kỷ hẹp hòi, sẵn sàng tranh chấp kiện tụng nhau chỉ vì một mét đất, hay chỉ vì một chút lợi lộc trong việc làm ăn.
Người Công giáo mà sống cố chấp, hận thù, ganh ghét. Đụng một tí là chửi lộn đánh lộn, là ăn thua đủ điều với người khác. Miệng thì rêu rao phải sống “bao dung”, nhưng khi đụng chuyện thì sẵn sàng “bung dao” với người khác. Lòng thì tỏ ra “thương xót”, nhưng hành vi cử chỉ thì làm cho người khác đau đến “thót xương”.
Tất cả những điều này vẫn đập vào mắt những người lương dân mỗi ngày, thử hỏi làm sao người ta có thiện cảm với đạo, và với người có đạo được. Cũng vì thấy nhiều người Công giáo sống phản chứng, sống không ra gì, thậm chí còn bết bát hơn là những người vô thần, nên một số anh chị em tân tòng và cả cựu tòng cũng bỏ đạo.
Đã có những người chồng tân tòng bỏ Chúa, bỏ Giáo hội vì người vợ và gia đình vợ sống quá tệ, tệ hơn cái kệ ocan gặp nước. Đã có những người vợ bổn đạo mới bỏ đạo vì chồng và gia đình chồng sống đạo không ra gì. Rồi cũng những cô con dâu mất đức tin chỉ vì bà mẹ chồng hà bá quá sức tưởng tượng: chì chiết đay nghiến chửi bới cô con dâu suốt ngày, v.v… Những chuyện đau lòng này vẫn diễn ra ngay trong các xứ đạo Công giáo đó thôi.
Vậy trong ngày Chúa Nhật truyền giáo của Năm Tân Phúc Âm Hóa Giáo Xứ, chúng ta được mời gọi nghiêm túc nhìn lại đời sống của mình, xem chúng ta có ý thức truyền giáo và cầu nguyện cho việc truyền giáo hay không? Trong các cuộc gặp gỡ chuyện trò hằng ngày với những người lương dân, chúng ta có nói được tí nào về Chúa, hay về đạo không? Chúa và Giáo hội có chỗ đứng thế nào trong những bận tâm thường nhật của chúng ta? Chúng ta đang làm chứng tá tốt lành cho Chúa và Đạo thánh của Người, hay chúng ta đang sống phản chứng “hạng nặng”, khiến cho những người chung quanh có ác cảm với đạo và xa lánh đạo?
Nếu câu trả lời nghiêng về tiêu cực thì chúng ta được mời gọi thay đổi lối nghĩ và lối sống của mình, để Chúa và Giáo hội không còn bị hàm oan dưới cái nhìn của những người lương dân đang sống bên cạnh chúng ta, và để cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội có thể gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp.
Trong những ngày này, Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới đang diễn ra tại Rôma, từ ngày Truyền_giáo 168
Trong những ngày này, Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới đang diễn ra tại Rôma, từ ngày 3 đến 28-10-2018, với sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một Thượng Hội đồng được triệu tập với đối tượng quan tâm là người trẻ trong Giáo Hội. Chủ đề của Thượng Hội đồng là: “Người trẻ, Đức tin và Phân định ơn gọi”. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, mỗi người sống trên thế gian đều có một sứ mạng. Trách nhiệm của họ là nhận ra sứ mạng của mình để chu toàn sứ mạng ấy. Sứ mạng ấy cũng là một ơn gọi. Giáo Hội muốn giúp cho người trẻ hôm nay tìm thấy ơn gọi của mình trong cuộc sống, để rồi phát triển ơn gọi ấy, đem lại những điều tốt đẹp cho bản thân cũng như cho xã hội.
Thượng Hội đồng là dịp để những người lãnh đạo Giáo Hội lắng nghe tiếng nói của người trẻ, với bao ưu tư và trăn trở trong cuộc sống hiện tại. Khi triệu tập một Thượng Hội đồng với đề tài liên quan đến người trẻ, Đức Thánh Cha khẳng định mối quan tâm đến người trẻ, vì họ là tương lai của Giáo Hội.
Theo thông lệ, hằng năm vào ngày Chúa nhật Truyền giáo, Đức Thánh Cha công bố một sứ điệp. Năm nay, nội dung của Sứ điệp là lời nhắn nhủ dành cho người trẻ trong Giáo Hội, xoay quanh đề tài truyền giáo của người trẻ. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng được thuyết trình và thảo luận trong Thượng Hội đồng. Trong Sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ hãy nhiệt thành cộng tác trong sứ vụ truyền giáo, vì đây là sứ mạng do Bí tích Thánh tẩy ủy thác. Ngài phân tích những “vùng ngoại vi” cụ thể trong xã hội hôm nay. “Ngoại vi” không còn là ý niệm về không gian như chúng ta vẫn hiểu, nhưng đó là “tình trạng con người cần Đức Kitô nhưng vẫn thờ ơ với đức tin hay tỏ ra chán ghét đời sống sung mãn trong Thiên Chúa. Mọi sự nghèo khó vật chất và thiêng liêng, mọi hình thức kỳ thị chống lại anh chị em chúng ta, luôn luôn là hậu quả của việc từ chối Thiên Chúa và tình yêu của Ngài”. Theo lời Đức Thánh Cha, xung quanh chúng ta còn biết bao những “ngoại vi” cần đến sự hiện diện của các Kitô hữu. Sự hiện diện của chúng ta phải phản sánh sứ điệp của Tin Mừng, tức là giãi bày lòng nhân ái bao dung và khiêm nhường thành thật. Một hiện tượng xã hội hôm nay là “thế giới kỹ thuật số”. Những thành tựu của lãnh vực này đem lại nhiều tiện lợi không thể phủ nhận, nhưng cũng có nguy cơ làm cho bạn trẻ sống khép kín, trầm cảm, cô đơn và trở thành những con nghiện. Tình trạng này được đề cập trong phiên họp của Thượng Hội đồng ngày 11-10 vừa qua. “Tiến sĩ Ruffini nói rằng mặc dù thế giới kỹ thuật số là một phát triển lớn lao và giúp cho việc trao đổi thông tin thuận lợi hơn, nhưng nó cũng có những ranh giới. Mối nguy của sự thao túng và nền văn hóa bạo lực là rất thực tế trong cả hình ảnh và bài viết. Giáo Hội phải giúp đưa tính nhân văn trở lại với thế giới kỹ thuật số. Đức Tổng giám mục Bruno Forte của giáo phận Chieti-Vasto, Italia, nói rằng Thượng Hội đồng nhìn nhận có rất nhiều người trẻ cô đơn, không xây dựng các mối tương quan có thực, nhưng lại đi tìm những tương quan trên mạng internet. Thượng Hội đồng đã suy nghĩ làm sao để Giáo Hội đến được với những người trẻ ấy; họ đang ngồi một mình trong bóng tối trước chiếc máy tính đe dọa sẽ nuốt chửng họ” (Trích từ bản tin của HĐGM).
Trong Sứ điệp nhân ngày Truyền giáo, Đức Thánh Cha cũng khen ngợi nhiều bạn trẻ trong Giáo Hội đã và đang âm thầm góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng qua những nghĩa cử bác ái. Chúng ta vui mừng vì tại Việt Nam, đông đảo các bạn trẻ tham gia các hội đoàn đạo đức hoặc các sinh hoạt từ thiện. Tuy vậy, nhiều nơi, các bạn trẻ còn thờ ơ với những hoạt động này. Nhiều bạn trẻ xa quê, không ý thức bổn phận giữ ngày Chúa nhật và các thực hành đạo đức, nên đời sống đức tin của họ bị mai một. Một trong những mối ưu tư lớn nhất của Giáo Hội là những bạn trẻ Công giáo kết hôn với người không cùng tôn giáo, chúng ta vẫn gọi là hôn nhân khác đạo. Phía bên Công giáo, vốn dĩ đời sống Đạo đã phai nhạt, có nguy cơ mất đức tin trong những trường hợp này.
Tôi là giáo dân và là một người vô danh trong Giáo Hội, làm sao tôi có thể truyền giáo? Nhiều bạn trẻ trong chúng ta đặt ra câu hỏi đó. Đức Thánh Cha khẳng định: “Không ai quá nghèo đến độ không thể cho cái họ có, nhưng trước tiên và trên hết là trao ban chính bản thân họ. Cha muốn lặp lại những lời khích lệ mà Cha đã nói cho giới trẻ ở Chilê: “Đừng bao giờ nghĩ rằng không ai cần các con. Nhiều người cần các con. Hãy nghĩ đến điều đó. Mỗi người trong các con hãy tự nhủ trong lòng: nhiều người cần đến tôi”.
Xin nhắc lại lời dặn dò của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày Giới trẻ Thế giới tại Rio de Janerio năm 2013: “Hôm nay, việc loan báo Tin Mừng cũng được trao phó cho các bạn, để nó có thể vang lên với sức mạnh tươi mới. Giáo Hội cần các bạn, cần lòng nhiệt thành, sáng tạo, niềm vui đặc trưng của các bạn… Các bạn có biết đâu là dụng cụ tốt nhất cho việc Phúc Âm hóa người trẻ? Đó là một người trẻ khác. Đây là con đường mở ra ra cho tất các các bạn đi theo”.
Chúng ta cầu nguyện cho Thượng Hội đồng đem lại những hiệu quả thiêng liêng cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là nơi những người trẻ. Trong ngày cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên toàn thế giới, mỗi chúng ta cũng hãy nghe lại lệnh truyền của Đức Giêsu phục sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Hai mươi thế kỷ đã qua, lệnh truyền này vẫn mang tính thời sự và vẫn thúc bách chúng ta. Những ai có lòng yêu mến Đức Giêsu, phải làm theo lệnh truyền của Người. Đó cũng là bằng chứng cụ thể cho lòng yêu mến ấy và nhất là cho đức tin mà chúng ta vẫn tuyên xưng.
Truyền giáo là lẽ sống của Giáo Hội. Giáo hội không truyền giáo là Giáo hội đã đánh mất căn Truyền_giáo 169
Truyền giáo là lẽ sống của Giáo Hội. Giáo hội không truyền giáo là Giáo hội đã đánh mất căn tính của mình và cũng đánh mất niềm vui của sứ vụ.
Năm xưa Chúa Giê-su đã tuyển chọn 12 tông đổ để huấn luyện thành người truyền giáo và Ngài đã ra lệnh cho các ông “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng”. Ngài còn chọn thêm 72 môn đệ để thêm những cánh tay, những đôi chân ra đi đến với muôn dân.
Phúc âm kể rằng sau khi các ngài ra đi nhân danh Chúa để chữa lành bệnh tât, xua trừ ma quỷ và loan báo về Nước Thiên Chúa, các ngài đã vui mừng trở về kể với Thầy Giê-su về thành quả họ đã làm được. Chúa Giê-sua đã cùng các ngài tạ ơn Chúa Chavà qua đó Chúa cũng nói với các ngài đừng chỉ vui mừng vì thành quả mình làm được nhờ nhân danh Chúa mà hãy cảm tạ vì qua những việc làm đó “tên các con được ghi trên trời”.
Hôm nay nhân ngày truyền giáo liệu rằng chúng ta đã có thành tích nào để kể với Chúa. Suốt năm qua chúng ta đã nhân danh Chúa để làm gì? Công việc chúng ta khiđến với anh em chúng ta đã xua trừ sự dữra khỏi môi trường hay chỉ an phận thủ thường? Chúng ta đã có chương trình phục vụ bệnh nhân để chữa lành cho họ, hay cũng theo chủ trương “mackeno””của thói đời? Chúngta đã thực sự dám dấn thân để bảo vệ công lý vànâng đỡ kẻ yếu đuốihay chỉ bàn họp trên bàn giấy mà không đem ra thực hành?
Xemra từng người chúng ta phải đấm ngực tạ lỗi với Chúa rất nhiều. Nhìn lại những sinh hoạt của các giáo xứ và giáo phận dường như chưa có một công việc truyền giáo cụ thể nào để giới thiệu về tình yêu và lòng thương xót Chúa giữamuôn dân. Dân oan rất nhiều nhưng không thấy mục tử lên tiếng! Xã hội đầy thị phi bất công nhưng không thấy mấy ai dám dấn thân để đẩy lùi sự dữ!
Nhìn lại những sinh hoạt truyền giáo trong Giáo Phận chúng ta chỉ thấy những buổi tọa đạm, những báo cáo thành tích nhưng xa rời với thực tế. Bởi vì thực tế có mấy linh mục tu sĩ đã dành thời giờ để đến với lương dân? Đôi khi còn có những tông đồ của Chúa xa rời đàn chiên Chúa trao và cũng xa rời những con chiên không thuộc ràn mình? Có mấy ai đã thực sự sống dấn thân vì người nghèo và cho người nghèo đến quên bản thân? Giáo phận Xuân Lộc đã đào tạo hàng ngàn tác viên Tin mừng nhưng có mấy ai thực sự mong muốn tìm hiểu để trở thành nhà truyền giáo hay chỉ là đến học vì bổn phận mà bề trên bắt đi? Và sau khóa học thì mọi sự trở thành bình thường như mọi ngày? Cũngcó một vài nguời gọi là truyền giáo pa nô nhưng cũng chỉ là những công chức ăn lương hàng tháng và đi dạo cho qua ngày! Xem ra sự đào tạo này cũng chỉ mong cho các tác viên ấy sống tốt là quý rồi và không trông mong với kiến thức lượm lặt mươi ngày có thể đủ hành trang ra đi loan báo Tin mừng!
Chúa Giê-su khi sai các tông đồ môn đệ ra đi truyền giáo là Ngài ủy thác những công việc cụ thể. Người tông đồ truyền giáo không phải là những người chỉ nói thật hay để mị dân mà quan yếu là những hành vi cụ thể như: xua trừ sự dữ, xoa dịu nỗi đaubệnh tật, nghèo đói của đồng loại. . . Người tông đồ truyền giáo sống Tin mừng là tin mừng của yêu thương qua tấm lòng quan tâm chia sẻ với mọi phận người, nhất là những kẻ bé mọn mà Chúa gửi tới để ta bảo vệ chăm sóc.
Những năm gần đây chúng ta thấy có một hiện tượng rất lạ là nhiều người trên khắp miền đất nước kể cả lương giáo hayđến cầu nguyện Lòng Thương Xót với cha Trần Đình Long. Nhiều người nói rằng mình được ơn này ơn kia là do đến với cha Long lòng thương xót, và chính cha Trần Đình Long cũng để những người được ơn công khai nói lên ơn lành mình đã nhận được từ Lòng Thương Xót Chúa. Những buổi cầu nguyện Lòng thương Xót Chúa với những chứng nhân, cho tôi thấy những ai đến nơi đây cũng vui mừng như các môn đệ quay quần bên Chúa để kể với Chúa là những ơn lành họ được đều là nhờ vào Danh Thánh Lòng Thương Xót Chúa.
Thực hư của những chứng nhân chúng ta không dám phán xét, nhưng đối với Chúa Giê-su thì “không ai nhân danh Thầy mà trừ quỷ mà lại đi nói xấu Thầy”. Ở đây,ý Chúa muốn nói rằng nếu ai nhân danh Chúa thì họ có thể làm nhiều chuyện phi thường dù họ không là môn đệ Chúa, dù họ không phải là thánh nhân, nhưng Lòng Thương xót Chúa vẫn thi thố qua những con người hèn mọn ấy.
Như vậy, việc truyền giáo chỉ thành công khi chúng ta nhân danh Chúa mà làm. Chúa không đòi chúng ta bằng cấp tiến sĩ hay thạc sĩ, Chúa cũng không đòi chúng ta là thánh nhân, Chúa chỉ mời gọi hết thảy mọi người tùy khả năng hoàn cảnh mình để đến với anh em đểgiới thiệu về một Thiên Chúa gẫn gũi đầy yêu thương.
Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn. Amen
Hằng năm, Giáo Hội dành trọn một Chúa nhật trong tháng mười để cử hành ngày Khánh Nhật Truyền Truyền_giáo 170
Hằng năm, Giáo Hội dành trọn một Chúa nhật trong tháng mười để cử hành ngày Khánh Nhật Truyền Giáo. Không phải chỉ có ngày hôm nay là ngày truyền giáo, mà bản chất và sứ mạng của Giáo hội là Loan Báo Tin Mừng. Việc cử hành này là dịp để mọi thành phần trong Giáo Hội nhìn lại công cuộc loan báo Tin Mừng, đồng thời nhắc cho mỗi người không ngừng thực hiện sứ mạng này mỗi ngày trong cuộc sống của mình. Cử hành ngày Khánh Nhật Truyền Giáo năm nay, trùng với dịp Giáo Hội Việt Nam mừng kỷ niệm ba mươi năm ngày Giáo Hội tôn vinh các Thánh Tử đạo tại Việt Nam. Đây là dịp rất tốt để chúng ta nhìn lại công cuộc Loan Báo Tin Mừng, gương sống đạo của cha ông, các bậc tiền nhân và trách nhiệm của chúng ta ngày nay.
Việt Nam hiện nay dân số hơn 90 triệu, trong đó có hơn 7 triệu tín hữu, chiếm tỷ lệ khoảng 8% dân số. Như thế có nghĩa là người Công Giáo vẫn là một thiểu số rất nhỏ so với toàn dân Việt Nam. Tin Mừng của Chúa đã được các vị thừa sai đầu tiên đem đến mảnh đất Việt nam này từ thế kỷ 16 tại làng Ninh Cường thuộc giáo phận Bùi Chu ngày nay. Lúc đó, tổ tiên cha ông chúng ta đã sẵn sàng đón nhận một tôn giáo mới, một nếp sống mới với một tâm hồn chân thành. Mặc dù lúc đó các ngài chưa hiểu nhiều về giáo lý, nhưng qua đời sống yêu thương gắn bó với nhau, họ khiến cho nhiều người ngoại nhận ra Chúa Giêsu và tin theo. Những người lương dân ngạc nhiên vì thấy những người Công Giáo gắn bó với nhau, yêu thương nhau, họ đặt tên cho những người có đạo lúc bấy giờ là: Những người theo đạo thương nhau. Tình yêu thương có sức lan tỏa khiến cho những người tin vào Chúa Giêsu đã gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên nhiều năm trở lại đây, các thống kê cho thấy, số người Công Giáo gia tăng không đáng kể, chỉ dừng lại ở tỷ lệ 7-8% dân số. Con số những người theo đạo vì thấy gương sống của người tín hữu dường như ít hơn những người theo đạo vì lý do hôn phối. Phải chăng chúng ta đã dậm chân tại chỗ trong việc loan báo Tin Mừng? Phải chăng chúng ta đã không sống và thể hiện tình yêu thương đủ và có sức lay động tâm hồn người khác, dẫn họ đến việc tin theo Chúa? Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho việc trì trệ này:
1/ Nhiều người không cảm thấy tự hào mình là người Công Giáo, sống tự ti mặc cảm. Nhiều người Công Giáo bước vào các môi trường xã hội như nhà trường, công ty, thấy mình có đạo như lẻ loi. Một thời gian dài những người Công Giáo bị nghi kỵ, trù dập và bị coi như công dân hạng hai, khiến cho nhiều người rơi vào tự ti mặc cảm. Hơn thế nữa, do chính sách tuyên truyền của chính quyền, khiến cho nhiều người dân ngoại nhìn những người công giáo như những kẻ phản quốc, bất hiếu, cần phải đề phòng. Trong xã hội có một sự phân biệt đối xử một cách rõ ràng, khiến cho nhiều người Công Giáo cảm thấy mình bị loại trừ không được chấp nhận. Nhiều người vì sợ hãi hoặc vì muốn tìm kiếm địa vị xã hội, muốn tiến thân, nên không ngần ngại nhận mình là người không tôn giáo. Một khi mang tâm trạng tự ti mặc cảm như thế, thì không thể làm chứng cho Chúa được. Cha ông chúng ta ngày xưa cũng bị nghi kỵ như thế, nhưng các ngài đã phá vỡ mặc cảm này và khẳng định cho mọi người thấy chính Tin Mừng và Chúa Kitô đã dạy chúng ta một nếp sống thật tốt, đã huấn luyện chúng ta nên những con người hoàn thiện, đáng tin.
2/ Lý do thứ hai khiến cho đạo Công Giáo không trở nên hấp dẫn thu hút được nhiều người khác là vì các Kitô hữu sống đạo một cách hời hợt không có sức sống. Nhiều người sống đạo chỉ như một thói quen; có sự chênh lệch giữa giáo lý và đời sống thực tế. Nhiều người có đạo sống không tốt hơn những người ngoại, nhiều khi còn trở thành gương xấu, khiến người ngoại không muốn tìm hiểu đạo. Đời sống các gia đình Công Giáo không có gì khác hơn các gia đình khác, còn nhiều những cãi vã, chửi bới, bạo hành. Không chỉ trong đời sống cá nhân, mà trong đời sống cộng đoàn giáo xứ cũng không có gương sáng. Nhiều giáo xứ rềnh rang những cuộc rước sách, kèn trống, lễ lạc bên ngoài mà không quan tâm đến đời sống bác ái chia sẻ trong cộng đoàn. Nhiều nơi quan tâm đến bề nổi và những hình thức phô trương mà bỏ qua việc xây dựng chiều sâu và đời sống đức tin. Vì sống đạo theo lối mòn như thế, làm mất đi sức sống và nhiệt tâm loan báo Tin Mừng.
3/ Lý do sâu xa hơn khiến cho việc loan báo Tin Mừng không phát triển là do nhiều người Kitô hữu không có Chúa, không biết Chúa, và không gặp Chúa bao giờ. Mang danh là Kitô hữu, là người có Chúa Kitô, tuy nhiên cuộc sống của nhiều người đã không chỉ cho người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lời nói, hành động và cuộc sống của họ. Nhiều Kitô hữu đã bỏ qua, hoặc coi nhẹ việc đón rước Chúa vào trong tâm hồn và để cho Chúa biến đổi cuộc sống mình. Nhiều người sống đạo nhưng không lãnh nhận Bí Tích, không chuyên chăm trong việc dâng lễ thờ phượng Chúa.
Nhiều người xưng mình là Kitô hữu, nhưng họ lại không biết gì về Chúa Kitô hoặc biết về Ngài một cách hết sức sơ sài. Sở dĩ họ không biết về Chúa Kitô vì họ bỏ qua việc nghe, đọc và suy gẫm Kinh Thánh. Vì chỉ nhờ Kinh Thánh chúng ta mới có thể biết về Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài mà thôi. Mang danh là người Công giáo, nhưng nhiều tín hữu không biết về giáo lý của đạo Công Giáo, vì thế mỗi lần phải giải thích cho anh chị em lương dân, họ tỏ ra hết sức lúng túng và nói không xác tín.
Sở dĩ chúng ta không thể nói về Chúa Kitô cho người khác một cách mạnh dạn, tự hào và tự tin, là vì nhiều người chưa bao giờ gặp được Chúa Giêsu. Chúng ta tin Chúa, theo Chúa, nhưng quan trọng hơn chúng ta phải gặp được Chúa, thì cuộc đời chúng ta mới có thể biến đổi và hạnh phúc. Chúng ta có thể gặp được Chúa qua những giờ phút cầu nguyện, sống riêng tư thân tình với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa nói qua từng biến cố của cuộc sống. Chúng ta có thể gặp được Chúa qua việc thường xuyên suy gẫm Kinh Thánh, tham dự Thánh lễ và rước lễ cách sốt sắng. Chỉ khi chúng ta có kinh nghiệm gặp gỡ tiếp xúc với Thiên Chúa, chúng ta mới có thể nói về Chúa cho người khác cách mạnh dạn, tự tin, và khi đó, lời nói của chúng ta mới đáng tin được.
Cử hành ngày Khánh Nhật Truyền Giáo hôm nay, chúng ta phải thực tâm nhìn lại bản thân, lối sống của mình và của cộng đoàn để nhận ra những thiếu sót và những cản trở khiến cho Tin Mừng của Chúa bị chựng lại không lan tỏa đến với đồng bào chung quanh. Chúng ta cùng thành tâm xin lỗi Chúa và quyết tâm điều chỉnh lại, từ suy nghĩ đến hành động của mỗi cá nhân và cả cộng đoàn, cùng thúc đẩy nhau sống loan báo Chúa Kitô cho mọi người.
Chúng ta có thể bắt đầu nói về chúa cho gia đình bên cạnh qua việc sống thân thiết, quan tâm chia sẻ, và cầu nguyện cho họ. Đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta những cách giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em.
– Chúng ta nói về Chúa bằng cách sống và bước theo Chúa không phải để tìm kiếm vật chất, địa vị, chỗ cao chỗ thấp, mà là dám chia sẻ cùng một sứ mạng với Chúa, cùng uống một chén và cùng chịu một phép rửa với Chúa. Nói cách khác, Chúa mời các môn đệ của Chúa phải nên giống Chúa hoàn toàn, cùng mang lấy trái tim và đôi tay của Chúa, cùng suy nghĩ, cùng hành động để cùng với Chúa chạnh thương và chia sẻ. Sống và thực hành như thế, mọi người sẽ nhận ra Chúa Kitô trong chúng ta.
– Chúa muốn trong cộng đoàn, trong gia đình phải gạt bỏ sự ghen tỵ tức tối nhau; cùng nhau xây dựng gia đình và cộng đoàn thành một cộng đoàn yêu thương và phục vụ: “Thủ lãnh thế gian thì dùng quyền mà thống trị, người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy. Ai muốn làm đầu thì phải làm người phục vụ và là đầy tớ mọi người”.Như thế có nghĩa là mỗi người dám bỏ ý riêng, quyền lời riêng, để biết nghĩ đến ích chung và quyền lợi chung, nghĩ đến lợi ích của anh em mình trước. Mỗi người khi dám cúi xuống phục vụ anh chị em một cách chân thành, không tính toán thiệt hơn, đó là cách để mọi người chung quanh nhận ra Chúa nơi sự phục vụ của chúng ta.
Chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa biết Chúa Giêsu và Tin Mừng. Chúng ta không thể làm ngơ, trái lại mỗi người phải cảm thấy mình bị thôi thúc, đòi buộc phải làm gì đó cho họ biết Thiên Chúa là Cha và biết Đức Giêsu là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Mỗi lần Chúa Giêsu loan báo về cuộc Thương Khó và Tử Nạn sắp đến của mình, các môn đệ Truyền_giáo 171
Mỗi lần Chúa Giêsu loan báo về cuộc Thương Khó và Tử Nạn sắp đến của mình, các môn đệ của Ngài luôn luôn tránh né, mà các ông chỉ nghĩ đến những vấn đề về quyền hành, chức tước, bổng lộc, vinh hoa, phú qúy.
Thật thế, sau lời loan báo lần thứ nhất, thánh Phêrô tìm cách ngăn cản Chúa Giêsu và Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài (x.Mc 8, 31-9,1).
Rồi đến lần thứ hai, các môn đệ bày tỏ một thái độ hoàn toàn hững hờ đối với những lời bi thảm của Chúa Giêsu mà lúc này các môn đệ chỉ tranh nhau đặc quyền đặc lợi giữa họ. Lúc đó, Chúa Giêsu đã mạnh mẽ đòi hỏi họ phải tự hạ mình và phục vụ mọi người.
Và lần thứ ba, trên đường tiến về Giêrusalem, một lần nữa Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ cuộc khổ nạn của Ngài phải chịu ở Giêrusalem (x.Mc 8,31; 9,31), để các ông cảm thông, chia sẻ. Thay vì cảm thông và chia sẻ thì hai anh em ruột Giacôbê và Gioan đã tự tin đến mức mà họ bộc phát qua lời cầu xin ngồi bên tả hữu nước Chúa (x.Mc 10, 35-38), nhưng họ hoàn toàn không hiểu những gì Chúa Giêsu đã nói.
Giacôbê, Gioan và các môn đệ khác tưởng đâu Chúa Giêsu sẽ ra đi làm vua thống trị, thì ít ra họ sẽ được những chức tước, hay được một ghế nào đó trong nước Chúa. Nghĩa là khi Chúa Giêsu thành công trong việc đánh đuổi người La mã ra khỏi Palestina, tái lập Vương quốc Israel. Vì trước đó, Chúa Giêsu đã hứa là họ sẽ được ngồi trên ngai xét xử mười hai chi tộc Israel.
Với các môn đệ, cuộc thử thách mà Chúa Giêsu nói đến sẽ chóng qua. Vì họ tin rằng với quyền năng trong tay Chúa Giêsu, Ngài sẽ vượt qua tất cả và Ngài sẽ chiến thắng. Bởi chính các môn đệ đã chứng kiến biết bao cuộc thử thánh đối với Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã vượt qua. Hơn nữa, các môn đệ đã chứng kiến lòng thương xót và nhân lành của Chúa Giêsu khi phục sinh con gái ông Gia-ia (x.Mc 5,37) và vinh quang của Ngài khi biến hình (x.Mc 9,1-12). Và rất có thể, hai biến cố đó đã khiến cho các ông tự tin và mạnh dạn đến xin Chúa Giêsu điều mình mơ ước bấy lâu nay.
Như vậy, lòng ao ước và khát khao của các môn đệ đi theo Chúa Giêsu bấy lâu nay nhưng chưa có dịp thuận tiện để nói, mà chỉ có hai anh em Giacôbê và Gioan đầy tự tin mới dám nói ra. Điều này cho thấy, các môn đệ gắn bó với cái nhìn hoàn toàn trần tục về đấng Mêsia.
Chúa Giêsu đã biết rõ tâm lý tự nhiên của các môn đệ, cũng như hai môn đệ Giacôbê và Gioan nên Chúa không quở mắng hai ông, mà Ngài chỉ phê bình các ông ngây thơ quá không biết điều mình xin. Nhân đây Chúa Giêsu dạy họ rằng: “Các con không biết rõ điều các con xin!”. Rồi Chúa Giêsu nhấn mạnh việc phải làm, điều sắp phải chịu mà các môn đệ phải chia sẻ với Chúa bằng câu hỏi: các con có thể uống chén Thầy phải uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Thầy sắp phải chịu không? Giacôbê và Gioan lúc này đồng loạt thưa: Thưa vâng. Chúa chấp nhận lời ưng thuận của hai ông, nhưng lại nói rõ không phải vì thế mà được phúc lộc bên tả bên hữu, vì quyền bính và phúc lộc là ân huệ Chúa Cha định đặt cho ai thì người ấy mới được.
Và Chúa Giêsu xác định quyền bính, chức vụ trong Nước Chúa khác hẳn quan niệm trần gian vì quyền bính và địa vị ở trần gian là để cai trị dân, hống hách, bắt nạt người dưới, còn quyền bính, địa vị trong Nước Chúa là để phục vụ giúp đỡ mọi người. Chính Chúa Giêsu dạy người ta bằng gương của mình, lấy công việc của mình chỉ dạy cho người ta bắt chước. Chúa không dạy suông, nói suông. Vì thế, Ngài nói: con Người không đến để được người ta hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người. Chính đời sống và cuộc tử nạn chịu chết của Chúa Giêsu đã chứng minh cho lời nói của Ngài.
Cho nên, từ đời sống gương mẫu của Chúa, Chúa dạy các môn đệ: trong các ông, ai muốn làm lớn thì hãy làm đầy tớ các ông, và ai muốn cầm đầu thì hãy làm nô lệ cho mọi người. Đầy tớ làm theo ý chủ nhưng còn có công, có tự do, nô lệ thì hoàn toàn thuộc quyền của chủ sử dụng cách vô điều kiện. Muốn làm lớn thì làm đầy tớ, muốn làm đầu thì làm nô lệ, tất cả đều nằm trong ý tưởng phục vụ chứ không phải để cai trị.
Hôm nay, Chúa Nhật 29 Thường Niên B cũng là Chúa Nhật Truyền Giáo, hưởng ứng lời kêu gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”(x.Mc16, 15). Ý thức được điều đó, Giáo hội hơn hai ngàn năm qua vẫn không ngừng vâng lệnh Chúa truyền để “Ra Đi, quên mình và phục vụ những con người vất vưởng lầm than đói khổ”, ngõ hầu đem hình ảnh nhân từ thương xót và Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân.
Như vậy, sứ mệnh mà Chúa đã mời gọi “Hãy Ra Đi” vẫn luôn mãi là một lời thúc bách, khiến cho mỗi người Kitô hữu vốn tự bản chất là một nhà truyền giáo (AG 35) không thể không thao thức với sứ mạng truyền giáo của mình, như cảm nghiệm của Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”.
Mặc lấy tâm tình năm thánh 400 năm Tin mừng đến với Giáo phận Qui nhơn chúng ta, và mặc lấy tâm tình năm thánh Kính Các Thánh Tử ĐạoViệt Nam. Người kitô hữu ý thức mình là con cái của Chúa, là con cháu của các thánh tử đạo, mỗi chúng ta hãy ra đi để rao giảng Tin mừng tình yêu của Chúa, để muôn dân nhận biết Chúa là Cha và cho muôn dân sống trong tình Cha, cho muôn dân sống trong ân tình Ngài qua cách sống và thể hiện niềm tin của người kitô hữu.
Ước mong rằng Tin Mừng cứu rỗi của Chúa Kitô, nhờ vào sự cộng tác nhiệt thành của mỗi người, mỗi thành phần dân Chúa mà Tin mừng không ngừng được lớn mạnh và tình yêu thương mà Chúa Kitô đã đem đến cho nhân loại, cho thế giới này sẽ được phát triển và hiện diện với hết mọi người và với mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời. Amen.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ như thế với các bạn trẻ trong Sứ Điệp Truyền Giáo 2018. Lý Truyền_giáo 172
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ như thế với các bạn trẻ trong Sứ Điệp Truyền Giáo 2018. Lý do Đức Thánh Cha nói riêng với các bạn trẻ trong sứ điệp truyền giáo năm nay là vì Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đang nhóm họp tại Rôma từ 03-28/10 với chủ đề: “Giới trẻ, đức tin và việc phân định ơn gọi”. Tuy nhiên, không chỉ nói riêng với giới trẻ, mà Ngài còn khẳng định: “Trong khi nói với các con, Cha cũng nói với hết mọi Kitô Hữu đang sống hành trình đời mình trong Giáo Hội trong vai trò là con cái của Thiên Chúa”. Như vậy Đức Thánh Cha nói với hết mọi người chúng ta trong ngày truyền giáo năm nay là: “CHÚNG TA HÃY ĐEM TIN MỪNG CHO HẾT MỌI NGƯỜI”.
Cuộc đời là một sứ mạng
Đức Giêsu Phục Sinh đã trao sứ mạng cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19a). Và quả thật, các ngài đã đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Các ngài đã dùng nhiều cách thức khác nhau để loan báo Tin Mừng Phục Sinh, thời đó chủ yếu là lời rao giảng. Nhưng quan trọng nhất là các ngài đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng về Đức Giêsu đã chết và sống lại. Thế cho nên các môn đệ đã làm cho cuộc đời của mình nên ý nghĩa khi chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã nói trong sứ điệp Truyền giáo của Ngài: “Mỗi người nam nữ là một sứ mạng; đó là lý do cho cuộc sống của chúng ta trên mặt đất này”. Ngài nói chung về sứ mạng làm người, và dĩ nhiên muốn nói riêng về sứ mạng làm Kitô hữu. Nhạc sĩ Phong Vũ đã sáng tác bài hát: Xin Cho Đời Tôi được bắt đầu bằng câu: “Đã làm người mỗi người đều có một lần sinh ra một lần chết đi nên đừng uổng phí hay không có gì cho anh em mình”. Làm người thì phải sống có ích cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội; tránh trở nên gánh nặng cho người khác bởi những đam mê, tật xấu và sự hờ hững của mình. Làm Kitô hữu thì phải sống cho ra người con cái Chúa vì nó sẽ đem đến sự sống vĩnh cửu cho chính bản thân mình. Hơn thế nữa khi chúng ta sống đạo tốt còn ảnh hưởng đến gia đình, con cái, người thân và mọi người chúng ta gặp gỡ.
Tuy nhiên nhiều Kitô hữu đã không ý thức mình là Kitô hữu nên không quan tâm gì đến chuyện sống đạo, hoặc sống đạo đơn giản chỉ là việc đi lễ ngày Chúa Nhật, ngoài ra không cầu nguyện, không lãnh nhận các Bí tích, không thực thi tình bác ái theo lời Chúa dạy… Sống đạo là đi vào mối tương quan với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Vì vậy đạo không phải là hình thức, là một mớ lề luật phải giữ, nhưng phải cảm nhận thực sự Thiên Chúa đang ở bên cạnh cuộc đời mình. Con người chúng ta có nhiều lý tưởng, nhiều đam mê, nhiều khả năng, nhiều năng lực để thực hiện ước mơ… Trong tất cả những điều đó, hãy dành ưu tiên số một cho Thiên Chúa là bạn đang thực hiện một sứ mạng lớn nhất cho cuộc đời mình.
Giáo hội vừa có thêm 8 vị tân hiển thánh vào Chúa Nhật, 14/10/2018. Họ gồm nhiều thành phần khác nhau: Giáo hoàng, Tổng Giám mục, Linh mục, tu sĩ và giáo dân. Trong tiểu sử không thấy vị nào đi truyền giáo, nhưng đều có một nét chung là họ sống hết mình cho sứ mạng của mình, mà sứ mạng đó được phát xuất bởi niềm tin vào Thiên Chúa.
Thông truyền niềm tin đến tận cùng trái đất
Sứ mạng mà Đấng Phục Sinh trao cho các môn đệ của Ngài là: “… Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều mà Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19b). Những điều Đức Giêsu dạy cho các môn đệ cũng chính là sứ điệp chính yếu về Thiên Chúa là Cha, Đấng giàu lòng thương xót, từ đó hãy sống tình con thảo với Ngài qua những điều Ngài chỉ dạy. Sống được như thế là đang thông truyền niềm tin cho người khác.
Đức Thánh Cha nhắn nhủ với các bạn trẻ: “Sự thông truyền niềm tin này diễn ra bởi sự lây nhiễm của tình yêu, nơi mà niềm vui và lòng nhiệt thành trở thành một sự thể hiện của một ý nghĩa và sự tròn đầy mới được phát hiện trong cuộc sống”. Vì thế trước hết, Kitô hữu phải có niềm vui trong đời sống của mình. Vui vì được làm con Chúa, được sống trong gia đình Hội thánh, được thực thi sứ mạng bác ái yêu thương. Do đó dù trong bất cứ cảnh ngộ nào, chúng ta cũng không được quá buồn phiền, lo lắng làm mất đi niềm vui thánh thiện của mình, vì chúng ta tin tưởng rằng có Thiên Chúa quan phòng cho ta mọi sự… Kế đến là lòng nhiệt thành. Kitô thực sự phải có lòng nhiệt thành, hăng say với việc đạo và việc chung trong cộng đoàn. Chính lòng nhiệt thành mà tân hiển thánh Oscar Romero được Đức Thánh Cha tuyên thánh vào Chúa Nhật tuần trước đã hết lòng bênh vực người nghèo đến nỗi đã bị chính quyền loại trừ và bắn chết Ngài đi đang dâng lễ trong một nhà thương. Cũng chính lòng nhiệt thành vì Giáo hội mà nhiều người đã bỏ sức lực, thời gian, tài sản vì việc chung của Giáo hội.
Như vậy trong sứ điệp truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha không hề đề cập đến việc loan báo Tin mừng cho những người chưa biết Chúa, mà Ngài nhắm đến những bạn trẻ và mọi Kitô hữu để nhắc nhở họ trước hết hãy sống cho sứ mạng cao cả mà mình đã được lãnh nhận bằng niềm vui là lòng nhiệt thành, nghĩa là Ngài muốn nói đến việc truyền giáo bằng chính đời sống, vì cũng theo lời của vị tân hiển thánh là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Người thời nay cần những chứng nhân hơn thầy dạy, và nếu có cần thầy dạy thì cũng vì họ đã là chứng nhân”.
Chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện với Đức Mẹ là người nữ truyền giáo đầu tiên cho mỗi người chúng ta ý thức lại sứ mạng là Kitô hữu để sống trọn vẹn cho sứ mạng đó bằng niềm vui và lòng nhiệt thành giống Đức Mẹ ngày xưa đã mạnh dạn lên đường trong niềm vui ơn cứu độ.
Tin Mừng Chúa Nhật Truyền Giáo chia thành hai phần với nội dung hoàn toàn trái ngược: phần nhất Truyền_giáo 173
Tin Mừng Chúa Nhật Truyền Giáo chia thành hai phần với nội dung hoàn toàn trái ngược: phần nhất từ câu 35 đến câu 41 là câu chuyện hai tông đồ Gioan và Giacôbê quấn quýt, bám chặt Đức Giêsu để chạy chức, chạy quyền với lời van xin tha thiết: “Xin cho chúng con được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả trong vinh quang của Thầy”, và phần hai từ câu 41 đến 45 với giáo huấn của Đức Giêsu: Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ, vì “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc tội thay cho nhiều người” (Mc 10,45).
1. Sống đạo là truyền giáo:
Truyền giáo là căn tính của Giáo Hội, nên không có Giáo Hội, nếu không có Truyền Giáo, vì căn tính và sứ vụ của Giáo Hội là: “Hãy đi khắp thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu rỗi …” (Mc 15,15-16).
Một cách cụ thể, truyền giáo là “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”, điều mà mọi tín hữu đều long trọng xướng lên ở phút cao điểm của thánh lễ. Đây chính là lẽ sống, đường sống, và sinh hoạt của đời người Kitô hữu. Họ sống đạo khi loan truyền Đức Giêsu chịu đóng đinh, chết và sống lại. Họ trở thành người có Đạo một cách thiết thực, sống động và chính danh khi loan báo cho mọi người Thiên Chúa vì yêu thương con người đã làm người, chết cho con người và sống lại để con người được sống. Sống đạo và truyền đạo là một, vì chung một mục đích, chung một hoạt động. Vì thế sẽ không có tín hữu sống đạo mà không truyền giáo, cũng như không có nhà truyền giáo nào bị coi là không sống đạo.
Từ chối bổn phận truyền giáo là không sống đạo ; phủ nhận trách nhiệm loan báo Đức Giêsu cho mọi người chung quanh là mặc nhiên chối đạo ; bỏ quên sứ mệnh “được sai đi” khi chịu bí tích thánh tẩy là đào ngũ, bởi loan báo Đức Giêsu, tuyên xưng Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu, dẫn người ta đến gặp Đức Giêsu, tạo điều kiện để Đức Giêsu ngự đến trong nhà người khác, chuẩn bị mảnh đất tâm hồn tha nhân để hạt giống Tin Mừng của Đức Giêsu được mọc lên tươi tốt là căn tính, điều kiện không thể thiếu để trở thành người có đạo, người sống đạo, người có Đức Giêsu.
Như thế, người Kitô hữu trước hết phải được sứ mệnh truyền giáo cuốn hút, bằng xác tín mãnh liệt: mình được sai đi qua bí tích Thánh tẩy. Có tin rằng mình được Thiên Chúa sai đi qua Giáo Hội, chúng ta mới tự tin và hăng hái lên đường truyền giáo. Sở dĩ nhiều người công giáo đã không tha thiết với sứ vụ truyền giáo là vì não trạng: truyền giáo là việc của các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chứ không phải việc của “con chiên, giáo dân”. Chính não trạng này, cộng thêm não trạng “giáo sĩ trị” đã làm hoang mang và chùn chân người giáo dân trong sứ vụ truyền giáo của mình.
Nhờ được sứ vụ truyền giáo cuốn hút, chúng ta sẽ nhận ra trách nhiệm của mình với thế giới, với mọi người chung quanh: trách nhiệm loan báo Tin Mừng để mọi người được hạnh phúc như chúng ta.
Chính trong trách nhiệm làm cho thế giới được hạnh phúc nhờ lãnh nhận Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta nhận được niềm vui đích thực của Tin Mừng, niềm vui mà Thiên Chúa hứa ban cho những ai đi theo Ngài để làm chứng Thiên Chúa yêu thương và cứu độ mọi người.
2. Truyền giáo là Phục Vụ:
Có lẽ, anh chị cũng như tôi, chúng ta đã có lần suy nghĩ và tự hỏi: Vẫn biết truyền giáo là loan báo Đức Giêsu làm người, đã chết và sống lại ; truyền giáo là giới thiệu Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người cho mọi người, mọi nơi, mọi thời, nhưng cụ thể, chúng ta bắt đầu truyền giáo từ đâu, từ công việc nào ?
Quả thực, câu hỏi rất quan trọng và ít nhiều đã làm chúng ta băn khoăn. Trong Tin Mừng của ngày Truyền Giáo hôm nay, Đức Giêsu trả lời chúng ta rất rõ ràng, chính xác: Truyền giáo là Phục Vụ mọi người như tôi tớ.
Hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã năn nỉ hai chỗ quan trọng trong vương quốc của Đức Giêsu, và cả hai đã nhận được câu trả lời: “Các ngươi biết: các kẻ được coi là thủ lĩnh các dân tộc thì làm chúa trên họ, và những người làm lớn thì bắt người khác phục quyền mình. Nhưng các ngươi thì không như thế ! Ai muốn làm lớn trong các ngươi thì hãy hầu hạ các ngươi, và ai muốn làm đầu các ngươi thì hãy làm tôi tớ mọi người” (Mc 10,42-44).
Đức Giêsu đã không ngần ngại làm vỡ mộng “quan lớn” của hai tông đồ, bằng đưa ra một đường lối hoàn toàn trái ngược: phục vụ mọi người như đầy tớ. Làm môn đệ, tông đồ, chứng nhân, người được sai đi loan báo Tin Mừng của Ngài sẽ không cai trị ai, không bắt ai phục dịch, hầu hạ mình, càng không đàn áp, khống chế, bóc lột ai vì tư lợi, nhưng tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ mọi người. Từ đây, tông đồ không còn nuôi giấc mộng bá quyền, cai trị, nhưng chỉ còn một thách đố trước mắt là qùy xuống rửa chân cho mọi người như tôi tớ ; nhà truyền giáo không còn lên đường với não trạng “kẻ cả, người trên” bố thí Tin Mừng, nhưng là loan báo Tin Mừng bằng phục vụ mọi người như người anh em hèn mọn ; người được chọn lãnh đạo trong Giáo Hội cũng không còn tơ vương làm vua làm chúa, nhưng biết mình được chọn để trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đấng đến trong thế gian để “phục vụ chứ không phải để được phục vụ, đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người”.
Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc truyền giáo: Phục Vụ ; đã chỉ cho chúng ta một phương án truyền giáo: Phục Vụ ; đã dậy chúng ta một bài học truyền giáo: Phục Vụ bằng quả quyết sứ mệnh của Ngài là Phục Vụ: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,45).
Không còn gì chính xác hơn lời qủa quyết này, vì nếu sứ vụ cuả Đức Giêsu, Đấng đến trong thế giới để loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện bằng Phục Vụ mọi người, bằng qùy xuống rửa chân môn đệ mình như đầy tớ, thì những người khác được Ngài sai đi tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng sẽ không thể làm khác, nghiã là không thể né tránh đòi hỏi Phục Vụ, không thể khước từ lời mời gọi Phục Vụ, không thể khấu trừ điều kiện Phục Vụ. Trái lại, không phục vụ sẽ không thể loan truyền Đức Giêsu chịu chết cho ai, không phục vụ sẽ không có cách tuyên xưng Đức Giêsu sống lại cho người nào, không phục vụ sẽ vô phương làm chứng Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người, chết cho con người vì yêu thương con người.
Phục Vụ từ nay không còn là việc làm có cũng được, không có cũng chẳng sao, nhưng là điều kiện mang tính quyết định thành bại trong đời sống đạo, cũng như trong công cuộc truyền giáo. Thiếu phục vụ, không ai tin lời chứng của chứng nhân ; không phục vụ, tiếng nói của nhà truyền giáo không thuyết phục ; bỏ quên phục vụ, dung mạo đích thực của Đức Giêsu sẽ không chỉ bị bóp méo, bôi nhọ, xấu xí, dị hợm, mà còn biến dạng thành kinh tởm, đe doạ, đáng ghét trên môi miệng người được sai đi.
Ước gì Lời Chúa đang mời gọi chúng ta lên đường truyền giáo bằng cúi xuống phục vụ mọi người như tôi tớ, loan báo Nước Thiên Chúa bằng qùy xuống rửa chân cho anh em như đầy tớ hèn mọn, giới thiệu Đức Giêsu là Tình Yêu thương xót và Tin Mừng Cứu Độ bằng hiến mạng sống cho hạnh phúc của anh em được thực hiện ngay hôm nay bằng một việc làm cụ thể: phục vụ một người gần nhất đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Bần đạo có ông anh họ, cũng thuộc hàng ‘lờ mờ, long mồm, lở móng’ đã sưu tầm được mẩu chuyện Truyền_giáo 174
Bần đạo có ông anh họ, cũng thuộc hàng ‘lờ mờ, long mồm, lở móng’ đã sưu tầm được mẩu chuyện vui, với nhan đề “TOẠC VÁY”, xin phép được mạo muội chia sẻ:
+ NHẬT BẢN. Tại phi trường Tokyo đông nườm nượp, một anh chàng chẳng may chạm vào làm toạc váy của một cô gái Nhật. Anh ta chưa kịp nói lời xin lỗi, thì cô gái đã cúi rạp người nhỏ nhẹ nói:
– Xin lỗi đã làm phiền anh, chỉ vì phẩm chất chiếc váy này tệ quá.
+ MỸ QUỐC. Tại trung tâm Times Square tấp nập người đi lại, một anh chàng Mỹ vô tình làm toạc váy của một em tóc vàng. Chàng này chưa kịp mở miệng thanh minh, thì cô gái đã rút ngay tấm danh thiếp và nói:
– Đây là số phone luật sư của tôi, ông ta sẽ tìm anh để tính việc quấy rối tình dục này, hẹn gặp nhau tại toà án.
+ PHÁP QUỐC. Dưới chân tháp Eiffel, một chàng lãng tử Pháp không may làm toạc chiếc mini skirt của một cô nàng Pháp. Chàng chưa kịp nói gì thì cô nàng đã cười hic hic, sau đó ghé vào tai chàng và nói:
– Nếu anh không ngại, thì tặng em một bông hồng để xin lỗi đi…
+ THÁI LAN. Trên bãi biển Phu Ket, một anh chàng Thái vô tình làm toạc chiếc váy ngắn của một cô gái. Chàng trai chưa kịp nói gì thì cô gái đã cười nói:
– Chưa kịp ngã giá mà đã đòi xem hàng rồi hả anh?
+ TRUNG QUỐC. Trước tượng đài giải phóng Trùng Khánh, một anh Tầu chẳng may làm toạc váy ngắn của một cô gái Hoa. Anh này chưa kịp mở miệng xin lỗi, thì đã nghe tát bốp một cái bên tai. Cô gái túm chặt lấy cổ anh, mồm thì rít lên:
– Mày to gan nhỉ, dám chọc tới bà mày à? Đi gặp 110 thằng công an cùng tao ngay…
+ VIỆT NAM. Tại chợ Đồng Xuân, chàng thư sinh chẳng may làm toạc chiếc váy ngắn của một em gái Hà Thành. Chàng này chưa kịp xin lỗi thì nàng đã hét lên:
– Mẹ Tiên Sư Bố cả lò nhà mày, mắt mũi để đâu hả thằng nỡm kia? Bà tát cho mày một cái, mặt lật sau lưng, đít gập vào cổ, cằm bổ làm đôi, răng môi lẫn lộn, lỗ mũi ăn trầu, cái đầu ăn guốc…
Thưa các bạn!
Phải chăng, tảng đá mà bạn ném ra, người bị nó làm cho vấp té sẽ luôn là chính bản thân bạn? Thiết tưởng, nếu bạn nói lời cay nghiệt, sau cùng cũng sẽ tự mình rước lấy nhục nhã mà thôi.
Mừng Lễ Truyền Giáo, nhắc nhở “bạn & tôi” lời mời gọi truyền giáo hay rao giảng Tin Mừng là một mệnh lệnh của Chúa, cũng là sứ mạng của mỗi Kitô. Nếu không, “phúc” chẳng thấy đâu, mà “họa” sẽ đến gõ cửa nhà “bạn & tôi”.
“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16).
Rao giảng Tin Mừng như thế nào? Có lẽ, “bạn & tôi” cần thay đổi tư duy và cách sống để rao giảng Lời Chúa giữa cuộc đời này, hầu có thể đổi “họa” thành “phúc”.
Cần thay đổi đời sống bằng cách “cầu nguyện” nhiều hơn. Là người, không ai có thể làm thay đổi tâm hồn một con người, nếu không có ân sủng của Thiên Chúa.
Cần thay đổi đời sống bằng cách “làm chứng” cho Chúa trong mọi hoàn cảnh sống. Nói ít làm nhiều, nhìn ít nghe nhiều, tính ít mần nhiều, dối ít thật nhiều…
Cần thay đổi đời sống bằng cách “dâng hiến” thời gian, sức lực, tài năng, ước muốn, tiền của, và bản thân cho Thiên Chúa, Giáo Hội, cộng đoàn, gia đình, anh chị em…
Sau cùng, biết tin tưởng nơi Chúa, vì “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1Cr 3,6). Cụ thể, “trồng” và “tưới” hạt giống Lời Chúa là nhiệm vụ của “bạn & tôi”, còn cho “hoa trái” tùy thuộc vào Chúa.
Thưa các bạn!
Nếu chỉ vì một hành vi sơ ý, mà lấy “cái tôi” to tổ chảng, rồi kéo cả đạo binh, họ hàng, dòng giống người khác ra, từ tổ tiên, ông bà, phụ mẫu đến con cái, cháu chắt chửi cho sướng cái “mõm”, thì còn gì là “phúc” nữa.
Xin cho tất cả cái “họa” như gặp khó khăn, vất vả, cực nhọc, khổ đau…sẽ biến thành cái “phúc” cho “bạn & tôi”. Hơn nữa, Hà Thành sẽ trở nên Thành Đô của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Amen
Sống trên cõi đời, thiết tưởng ai cũng đã từng khắc khoải nhớ thương: nhớ người yêu, nhớ đấng Truyền_giáo 175
Sống trên cõi đời, thiết tưởng ai cũng đã từng khắc khoải nhớ thương: nhớ người yêu, nhớ đấng bậc đã khuất, nhớ tình thầy trò, nhớ bạn thân đã đi xa, hoặc là nhớ những kỷ niệm tuổi thơ…. Chữ tình càng cao thì nỗi nhớ càng da diết, chữ hiếu càng lớn, nỗi buồn vắng cha thiếu mẹ càng sâu ! Khổng Tử xưa kia cũng nhắc nhớ các học trò của ông: nên ôn lại những gì đã học để biết thêm điều mới, đừng phụ ơn những người thầy đã từng dắt ta bước, dìu ta đi, nếu sống như thế, bạn sẽ sớm trở thành bậc thầy thiên hạ.
Vì thương yêu, các thánh hiền từng khắc ghi vào tâm trí học trò của mình nhiều điều thực tế, sống trên đời: không có gì nghèo cho bằng không có tài, không có gì khổ cho bằng không có đức, không có gì hèn cho bằng không có chí ! Đức Giêsu trước khi về trời, Ngài không chỉ dạy các môn đệ thêm điều gì, ngoài trao ban một sứ mạng: “hãy loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ”. Nhóm 12 tông đồ là những người theo sát Thầy, từng ăn uống, từng có dịp đi thực tập truyền giáo, các ông đầy ắp kỷ niệm, nên trăn trở nhớ Thầy chắc chắn phải có trong tâm trí của các ông.
Ở đời, người ta nhớ nhau không phải là ngồi ôn lại một vài kỷ niệm sâu sắc, nhưng là thực hiện công việc mà người thân của họ đã từng làm. Nhớ nhau không phải là nuối tiếc về cách hành xử thiếu nghĩa tình, thiếu bổn phận và tấm lòng bao dung tha thứ. Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta được mời gọi để nhớ đến Thầy Giêsu, nhớ đến tình yêu thương của Ngài dành cho nhân loại, nhớ tới hoạt động và giáo huấn của Một Thiên Chúa làm Người. Đặc biệt hơn là nhắc nhớ mỗi chúng ta về tương quan hiện tại của mình với Thầy Giêsu và anh chị em của mình trong tình huynh đệ ra sao ?
Ngày hôm nay, mỗi lần nói tới truyền giáo, Đấng bản quyền, các nhà chuyên môn, thường đưa ra một vài con số thống kê, hoặc nhắc nhớ mỗi người hãy quảng đại, hãy đóng góp vật chất và lời cầu nguyện…. Đôi khi còn đưa ra những dự phóng, kế hoạch, phương pháp truyền giáo thế nào để mang lại hiệu quả nhất. Nếu như số học trò được gọi chọn, được huấn luyện và sai đi thực tập việc tông đồ, các ông không nhớ được nhiều, thì cũng nhớ được căn tính của người môn đệ là biết sống mến yêu. Có thể kết quả của việc truyền giáo, không tùy thuộc vào sự khôn khéo hay khả năng truyền đạt của con người, mà bằng niềm tin: “có Chúa hoạt động cùng các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép là kèm theo”.
Nhớ Thầy, nhớ tình yêu thương của Thầy, cũng là nhớ tới việc sống mến yêu như Thầy, đó có phải là thực thi mệnh lệnh truyền giáo chưa ? Nhớ, yêu, và sống, sẽ không phải là lý thuyết, là khuôn mẫu có sẵn, nhưng là tính chất phong phú cho từng khả năng, ơn gọi khác nhau khi sống cầu nguyện, hoạt động trong Đức Kitô là Thầy. Nhớ mình là người bình thường, người tin Chúa, thuộc về Chúa. Nhớ mình phải là mình, căn bản là biết sống mến yêu, hoàn toàn không phải là làm được nhiều hay làm được ít cho Chúa. Nhớ mình từng bước, từng bước, sẽ là thánh, nên có thể sai lầm, do đó cần khiêm tốn và hãy sống tình huynh đệ chặt chẽ hơn.
Nhớ Thầy để mỗi người hãy ý thức mình đang là học trò của Thầy Giêsu. Nhớ Thầy để ta cùng cảm thông, hiệp thông với trăn trở của Thầy Giêsu, sống và chia sẻ cho cánh đồng truyền giáo với Thầy. Nhớ Thầy để ta thêm tin tưởng, Thầy đang đồng hành và củng cố niềm tin cho hoạt động tông đồ cùng ta. Nhớ Thầy để không một thế lực nào có thể lôi kéo ta ra khỏi tình yêu của Thầy Giêsu, Thầy là duy nhất, là lẽ sống của ta. Nhớ Thầy còn là khao khát nên trọn lành, nên giống Thầy Giêsu, cho dù ta vẫn đầy thiếu sót lỗi lầm.
Tục ngữ có câu: xem người biết nết, xem bếp biết nết đàn bà. Có thể chúng ta cũng nên nói: nhìn thành quả, hiểu người chăm sóc giáo dục, nhìn việc sống đạo, biết ta có yêu mến Chúa Giêsu chưa. Biết tính nết hay biết mến Chúa yêu người, có thể không liên quan trực tiếp đến truyền giáo, nhưng đó là ơn ban giúp ta nhận ra mình: tình trạng khô cứng hay đang sống ích kỷ, cầu an, chờ thời. Mặt trời ló rạng rồi khuất lấp, trăng tròn rồi lại trăng khuyết, đó là chân lý. Thầy Giêsu yêu các học trò, các học trò yêu Hội Thánh của Thầy thiết lập, và mỗi người Kitô hữu đều có liên hệ với Đức Giêsu và Đại gia đình Hội Thánh khi biết sống yêu thương.
Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh, mỗi chúng ta đã được học biết từ thuở nhỏ. Truyền giáo không phải là công việc của các nhà chuyên môn, cũng không phải do phát xuất từ cảm tính nhất thế nhì thân. Đúng hơn, truyền giáo là ơn ban của Chúa qua từng người chúng ta biết sống mến yêu, sống nén bạc mà mỗi người đang có. Sứ mạng yêu thương của Thầy Giêsu từng giây phút vẫn đang chảy tràn vào giáo hội, vào tâm hồn của người môn đệ theo Chúa. Nhớ Thầy, nhớ đến mệnh lệnh truyền giáo của Thầy, cũng là bổn phận trách nhiệm sống yêu thương đã trao ban cho ta. Nhớ Thầy, yêu Thầy và sống giáo huấn của Thầy Giêsu, nhất định phải là là công việc truyền giáo mà Đức Giêsu đang thực hiện chương trình cứu độ nơi con người thời đại chúng ta hôm nay. Amen.
Do những hiểu lầm và những nghi kỵ đã xảy ra trong quá khứ, người Công giáo Việt Nam đã Truyền_giáo 176
Do những hiểu lầm và những nghi kỵ đã xảy ra trong quá khứ, người Công giáo Việt Nam đã trải qua những giai đoạn hết sức khó khăn ngay trên đất nước của mình. Về mặt công dân, có một thời các sinh hoạt tôn giáo bị giới hạn chỉ còn trong nhà thờ, con em người Công giáo không được theo học một số trường. Trong cái nhìn của anh chị em lương dân, những người Công giáo bị coi như những người ngoại lai, những kẻ bất hiếu. Tuy nhiên, dường như trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đời sống của người tín hữu có phần sốt sắng hơn, họ không chú trọng những hình thức bên ngoài, mà tập trung xây dựng đời sống nội tâm nhiều hơn. Cũng trong thời kỳ khó khăn bách hại thì dường như con số những người tin vào Chúa và gia nhập đạo nhiều hơn.
Ngày nay, đời sống đạo có phần thoải mái dễ dàng hơn, người Công giáo lại bị rơi vào lối sống đạo chuộng hình thức bên ngoài, thiếu đời sống nội tâm, thiếu nhiệt tâm sống làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng. Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống luân lý của nhiều tín hữu trở nên lỏng lẻo hơn và có xu hướng chạy theo lối sống dễ dãi, buông thả. Trước hoàn cảnh xã hội và tôn giáo thay đổi nhanh chóng như thế, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã kêu gọi toàn thể cộng đồng dân Chúa, trong năm sắp tới 2016, cùng nhau thực hiện chủ đề: Tân Phúc Âm hoá đời sống xã hội.
Tân Phúc Âm hoá không có nghĩa là rao truyền một Phúc Âm, một Tin Mừng nào khác, mà là làm mới lại cách sống, cách loan báo và thực thi Tin Mừng của mỗi tín hữu chúng ta. Trong thư mục vụ, các Đức Giám mục đã giải thích: Tân Phúc Âm hóa đời sống xã hội chính là sống, chia sẻ, loan báo và làm chứng cho lòng thương xót ngay trong đời sống xã hội. Trước những dấu hiệu đáng ngại trong xã hội ngày nay: gian dối, vô cảm, bất công, ma tuý, bạo lực, phá thai, tự tử…, mỗi người Công giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống.
Chúng ta đang chứng kiến tội ác và bạo lực ngày càng gia tăng trong xã hội. Có những người cho đó là hệ quả của nền giáo dục thiếu lòng nhân ái và bao dung, biến con người thành cỗ máy khô cứng không có trái tim. Có người cho rằng, do sự bất lực của những người có trách nhiệm điều hành trong xã hội, do tác động từ film ảnh sách báo, từ lối sống trọng tiền bạc của cải hơn con người, đã dẫn đến tình trạng tội ác và bạo lực như thế. Ngoài những lý do trên, người tín hữu cũng cần nhận trách nhiệm của mình đối với những vấn đề xã hội, vì chính chúng ta chưa nhiệt tâm dấn thân đem Tin Mừng của Chúa Kitô vào trong xã hội này, chưa thực sự sống tình yêu thương phục vụ và sự thứ tha của Chúa Giêsu đã dạy, chưa làm cho Tin Mừng lan toả trong đời sống xã hội.
Người tín hữu không thể thụ động đứng nhìn hoặc chỉ trích, nhưng chính mỗi người cần bắt tay làm biến đổi môi trường xã hội hôm nay theo chiều hướng của Tin Mừng. Đức Thánh Cha và các Đức Giám mục mời gọi chúng ta không chỉ là người đón nhận lòng thương xót của Chúa, mà còn phải là người đem lòng thương xót của Chúa đến cho anh em qua sự chia sẻ cụ thể và lòng bao dung mỗi người dành cho nhau, vì Thiên Chúa sẽ xét xử mỗi người theo tình yêu và lòng bao dung mà chúng ta đối xử với nhau. Chúng ta còn được mời gọi không thụ động đứng bên lề xã hội, nhưng trái lại, chúng ta cần tham gia một cách tích cực vào trong các hoạt động, các lãnh vực của xã hội, từ chính trị đến kinh tế, đến văn hoá giáo dục. Để từ đây, mỗi người đem niềm vui và ánh sáng Tin Mừng vào trong các lãnh vực, môi trường mình sống và làm việc để cho Tin Mừng biến đổi lãnh vực, môi trường đó.
Gần đây, các nhà lãnh đạo chính quyền đánh giá cao và công nhận sự đóng góp tích cực của giới Công giáo vào trong đời sống xã hội, đặc biệt trong lãnh vực bác ái và xây dựng đời sống dân cư. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở những con số, những lời khen đó thì chưa đủ, chúng ta cần đem niềm vui và hy vọng của Tin Mừng vào trong môi trường xã hội, giúp cho mọi người khi tiếp xúc với người Công giáo, họ cảm nhận được niềm vui và hy vọng trong cuộc sống.
Chúng ta sống đạo không phải ở trên mây, nhưng là đem niềm vui và giáo huấn của Tin Mừng vào trong môi trường cụ thể của Việt nam hôm nay. Cũng trong Thư chung 2015 của Hội Đồng Giám Mục đã chỉ cho chúng ta một số việc, trong đó nhấn mạnh đến việc tôn trọng và chăm sóc môi trường sống. Hãy tìm mọi cách để làm cho trái đất và mọi loài trong đó thêm tốt đẹp, đứng huỷ hoại chúng, đứng tàn sát chúng. Với người Công giáo, Đức Giáo Hoàng kêu gọi phải hoán cải, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống trong tương quan với môi trường thiên nhiên. Chính Thiên Chúa đã trao cho con người trách nhiệm trông coi trái đất (x. St 1,28). Do đó, chúng ta không được tàn phá hoặc sử dụng để trục lợi, nhưng phải chăm sóc và gìn giữ cho thế hệ hiện nay và cả tương lai. Từ đó, chúng ta được thúc đẩy thay đổi cách sống, biết tôn trọng thiên nhiên, chăm sóc môi trường sống. Hãy bắt đầu từ những việc nhỏ bé trong cuộc sống hằng ngày như tiết kiệm nước và năng lượng, giữ vệ sinh chung trong khu xóm. Các giáo xứ sẽ phải trở thành những mẫu gương trong việc giữ gìn và bảo vệ môi sinh.
Cùng với việc tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên là việc tôn trọng mạng sống của mình và của người khác khi tham gia giao thông. Vấn đề tai nạn giao thông đang là vấn đề gây lo lắng bất an cho nhiều người mỗi khi tham gia giao thông. Mỗi Kitô hữu được mời gọi ý thức và hết sức tôn trọng luật giao thông, cư xử bác ái, nhường nhịn nhau khi lái xe và nhất là cần tôn trọng mạng sống mình và người khác, vì chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, là món quà Chúa gửi cho mỗi gia đình. Đừng để vì sự cẩu thả của mình mà gây tổn thương đau khổ cho bản thân, gia đình và cho người khác.
Một việc làm không thể thiếu trong việc đem niền vui và giáo huấn của Tin Mừng đến cho người khác là việc cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Thông thường trong cầu nguyện, chúng ta chỉ xin cho những nhu cầu trước mắt, xin cho bản thân giống như hai anh em ông Giacôbê và Gioan hôm nay: Xin cho hai anh em con được một người ngồi bên phải, một người ngồi bên trái Thầy trong ngày Thầy được vinh quang. Hai ông theo Chúa trong hành trình truyền giáo, các ông không cầu xin cho sứ mạng truyền giáo, trái lại, các ông xin nhữg điều hết sức trần tục – được một chỗ ngồi để hưởng thụ. Chúa Giêsu đã không chấp nhận lời cầu xin của hai ông, nhưng Ngài hướng các ông đến sứ mạng của Ngài, đó là sứ mạng cứu độ muôn dân. Chúa muốn tất cả chúng ta phải là những người cùng với Chúa thực thi đến cùng sứ mạng này: Cùng uống một chén, cùng chịu một phép rửa với Chúa.
Việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo có nghĩa là cầu nguyện để mỗi người có được cùng một kháo khát với Chúa Giêsu, Đấng đem lửa vào thế gian và ước mong lửa ấy bừng cháy lên. Cầu nguyện để mỗi người được biến đổi từ trong tâm hồn đến đời sống, để không còn tìm kiếm vinh quang chức quyền theo kiểu thế gian, trái lại, tìm và thực thi ý Chúa. Cầu nguyện để mỗi người có thể học theo gương Chúa Giêsu, dám trở nên người tôi tớ phục vụ anh chị em. Nhiều người ngoại giáo không bị đánh động bởi những bài giảng hùng hồn, cũng không được biến đổi bởi những con số thành tích hoặc đền đài, nhưng họ được đánh động và tin theo Chúa nhờ gương sống hiền lành, khiêm nhường và phục vụ của các Kitô hữu.
Chuyến viếng thăm Cuba và Hoa kỳ của Đức Thánh Cha Fancis vừa qua được đánh giá là rất thành công, không chỉ bởi những bài diễn văn quan trọng, nhưng là chính gương sống hiền lành, khiêm nhường, nghèo khó của Ngài. Người dân Mỹ đã phải nhìn nhận rằng: Đức Thánh Cha đã đem đến cho chúng tôi sứ điệp và gương sống tình yêu thương và phục vụ. Đó là điều mà chúng tôi đang cần và đang thiếu.
Xin Chúa cho mỗi người luôn ý thức mình là cộng tác viên của Chúa, đem Tin Mừng tình yêu và hy vọng đến cho mọi người qua chính đời sống phục vụ của mỗi chúng ta. Amen.
Đức Giêsu đã cần mười hai bạn trẻ cộng tác với mình, để làm mục tử cho đàn chiên, làm thợ Truyền_giáo 177
Đức Giêsu đã cần mười hai bạn trẻ cộng tác với mình, để làm mục tử cho đàn chiên, làm thợ gặt cho mùa lúa chín vàng, làm tông đồ cho một nước Paléttin nhỏ bé. Ngài chia sẻ cho họ uy quyền mình có và sứ vụ mình làm (c. 1). Con số mười hai gợi nhớ mười hai chi tộc Israel ngày xưa. Giáo Hội Ngài thiết lập sẽ là Israel mới, đặt nền trên mười hai bạn trẻ. Chúng ta khó hình dung khuôn mặt riêng của mỗi vị tông đồ, nhưng ta biết tên của họ qua các sách Tin Mừng, dù có chút dị biệt. Họ có cá tính và cuộc đời riêng, nhưng đều được gọi bởi Thầy Giêsu, và được Thầy sai đến với dân tộc mình là Israel (c. 6). Tin Mừng Mátthêu kể tên nhóm Mười Hai theo từng cặp. Simôn Phêrô đứng đầu danh sách, còn Giuđa Ítcariốt thì đứng cuối. Chỉ sau này ta mới biết Simôn sẽ chối Thầy và Giuđa sẽ phản bội. Có những cặp anh em ruột: Simon và Anrê, Gioan và Giacôbê. Có người làm nghề thu thuế cho quân đô hộ: Mátthêu. Có người lại muốn dùng vũ trang giải phóng đất nước: Simôn nhiệt thành. Có ba người được coi là môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê. Nói chung đa số là những người ít học thức, làm nghề đánh cá. Được sai đi thật là một thách đố đối với họ. Họ có làm nổi những việc Thầy giao không? Vào thời Đức Giêsu, rao giảng “Nước Trời đã đến gần” là điều không dễ. Để người ta tin chuyện đó, cần phải minh chứng bằng hành động cụ thể, như chữa lành bệnh hoạn và khử trừ thần ô uế. Vào thời nay, rao giảng Tin Mừng Nước Trời lại càng không dễ. Rao giảng vẫn phải đi kèm với các việc phục vụ con người. Lập một bệnh xá, bắc một cây cầu, đào một giếng nước, giúp trẻ em nghèo đến trường, đưa người cai nghiện về lại với cộng đoàn, cho các cô gái lầm lỡ có chỗ sinh con và nuôi con… Giáo Hội đã làm nhiều việc và vẫn còn bao nhu cầu mới mẻ. Nhưng có một việc mà xã hội hôm nay không biết là mình đang cần, đó là được giải phóng khỏi những thần ô uế mới đang ám ảnh con người. Mười Hai tông đồ ngày xưa đã đi khắp mảnh đất Paléttin, và đã đặt chân đến những vùng đất mới. Thế giới hôm nay rộng hơn và phẳng hơn xưa. Chúng ta được Đấng Phục sinh sai đến mọi dân tộc (Mt 28, 20). Các phương tiện truyền thông ngày nay giúp ta dễ dàng làm chuyện đó. Nhưng chúng ta vẫn không được quên, trên quê hương Việt Nam gần 80 triệu đồng bào chưa đón nhận Tin Mừng.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha. Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc. Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới. Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng. Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con. Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo. Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.
Thật diệu kỳ tình thương của Thiên Chúa. Chúa đã chúc phúc cho nhà Gia-cóp. Nhưng các con Truyền_giáo 178
Thật diệu kỳ tình thương của Thiên Chúa. Chúa đã chúc phúc cho nhà Gia-cóp. Nhưng các con ông bất hoà vì ghen ghét đã bán Giu-se sang Ai-cập. Ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Giu-se trở thành tể tướng nước Ai-cập, chuyên lo cấp phát lúa gạo cho dân trong thời đói kém. “Cứ đến với Giu-se”. Đó là chính là Chúa chăm lo cho dân. Con cái ông Gia-cóp cũng phải sang Ai-cập mua thóc lúa. Giu-se thử lòng và thấy họ đã biết sám hối tội lỗi. “Họ bảo nhau: “Than ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh ngặt nghèo này”. Vì thế, Chúa tha tội, và ông Giu-se đã cấp phát lúa gạo cho họ (năm lẻ).
Hô-sê vừa trách móc dân bội bạc vừa hiểu biết tình thương vô bờ của Thiên Chúa và thấy trước Thiên Chúa sẽ cứu độ dân Người. Tình thương Thiên Chúa thật lớn lao. Đã vun trồng Ít-ra-en thành cây nho “sum suê, trái trăng thật dồi dào phong phú. Nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng…” Chúa trừng phạt họ: “Thế là Sa-ma-ri tiêu tùng”. Ông khuyên nhủ dân chúng hãy ăn năn sám hối. “Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt được tình thương. Hãy khai khẩn đất hoang; đây là thời kiếm tìm Đức Chúa”. Và ông tiên báo Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ: “Cho đến khi Người đến làm mưa công chính trên các ngươi” (năm chẵn).
Đến thời đến buổi Thiên Chúa sai chính Con Một xuống trần cứu độ trần gian. Thật là một tình yêu lớn lao. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Thật là một sáng kiến vượt trí tưởng tượng của loài người. Dân cũ đã hư hỏng. Nên Chúa Giê-su lập ra một dân mới. Dân cũ phát sinh từ 12 chi tộc dòng dõi Gia-cóp. Dân mới cũng có 12 cột trụ là 12 tông đồ được Chúa tuyển chọn. Dân cũ bị những thần tượng ngoại lai cám dỗ. Bị ma quỉ khống chế. Dân mới được Chúa cứu khỏi ách nô lệ ma quỉ, xác thịt, thế gian. Đi đến đâu Người xua trừ ma quỉ đến đó. Các tông đồ tiếp tục công việc của Chúa. Vì Chúa “ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Đi khắp nơi các ông rao giảng: “Nước Trời đã đến gần”.
Thật cao cả tình thương của Thiên Chúa. Thật lạ lùng sáng kiến của Thiên Chúa. Hôm nay Chúa cũng mời gọi tôi hãy giúp Chúa mở rộng Nước Thiên Chúa. Hãy xua trừ thần ô uế. Và chữa lành mọi bệnh tật. Vì thế giới hôm nay còn nhiều thần dữ thống trị. Và có rất nhiều chứng bệnh đo thần dữ và thế gian gây ra.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta trở về cội nguồn của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Thể của Truyền_giáo 179
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta trở về cội nguồn của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô, Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Kitô. Ðể thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng Tin Mừng. Trong số các môn đệ ấy, Ngài đã chọn mười hai người làm Tông Ðồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Nếu Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô, thì Giám mục đoàn mà đứng đầu là Ðấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là những người tiếp tục làm cột trụ của Giáo Hội.
Chúa Kitô quả thật đã thành lập một Giáo Hội hữu hình có phẩm trật, phẩm trật ấy hiện hữu không ngoài mục đích tiếp tục sứ mệnh Ngài đã ủy thác cho các Tông Ðồ. Do đó, tiếp nhận quyền bính trong Giáo Hội cũng chính là chấp nhận quyền bính mà Chúa Giêsu đã trao cho các Tông Ðồ. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Giáo Hội tông truyền, điều đó không chỉ có nghĩa là Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Ðồ, mà còn có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận quyền bính mà các Tông Ðồ đã truyền lại cho các đấng kế vị, tức Giám mục đoàn mà thủ lãnh là Ðức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô. Ðây chính là nền tảng sự hiệp thông trong Giáo Hội. Không thể nói đến hiệp thông khi một Giám mục đứng riêng rẽ bên ngoài Giám mục đoàn để truyền dạy những điều nghịch đức tin và luân lý của Giáo Hội, và cũng không còn là hiệp thông khi một tín hữu không tuân giữ quyền giáo huấn của Giám mục đoàn và của thủ lãnh Giám mục đoàn là Ðức Giáo Hoàng.
Dân chủ vốn là một phạm trù dễ bị lạm dụng. Ngay tại những nước có dân chủ thực sự, thì hai chữ "dân chủ" cũng bị lạm dụng không kém. Khi một luật pháp bất công như luật cho phép phá thai chẳng hạn được số đông bỏ phiếu tán thành, phải chăng đây không phải là một lạm dụng của trò chơi dân chủ. Giáo Hội luôn đề cao tinh thần dân chủ đích thực, nhưng Giáo Hội không hề là một chế độ dân chủ, trong đó các thành phần có thể bỏ phiếu chọn người lãnh đạo hoặc tán thành một khoản luật. Giáo Hội cũng chẳng là một tổ chức mà người ta có thể xếp vào bất cứ chế độ nào. Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, chân lý chúng ta phải tuyên xưng là do Chúa Kitô mạc khải và ủy thác cho các Tông Ðồ, và truyền lại cho các đấng kế vị các ngài. Luật phải giữ cũng chính là luật của Chúa Kitô đã ủy thác cho các Tông Ðồ và các đấng kế vị các ngài. Tiêu chuẩn cho biết một thành phần Giáo Hội có hiệp thông với Giáo Hội hay không, là tinh thần tuân phục đối với quyền bính của những đấng kế vị các Tông Ðồ.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta tinh thần khiêm tốn, để luôn luôn biết đón nhận và tuân phục giáo huấn của Ngài được ủy thác cho các Tông Ðồ và Giáo Hội. Xin Chúa gìn giữ Giáo Hội được hiệp thông quanh đấng kế vị thánh Phêrô mà Chúa đã đặt làm thủ lãnh Giáo Hội.
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Dọc đường hãy rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần.” (Mt. 10, 1. 7)
Sai đi truyền giáo
Khi Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo, Chúa cho các ông một chỉ thị rất rõ ràng: “Tốt hơn là Truyền_giáo 180
Khi Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo, Chúa cho các ông một chỉ thị rất rõ ràng: “Tốt hơn là anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà It-ra-en”. Vậy là có những người mà các tông đồ phải ưu tiên đến với họ. Họ không phải là dân ngoại, cũng không phải là những người xa xăm chưa biết Chúa. Những người đầu tiên mà các môn đệ phải đi tới, đó là những đồng bào của các ông đang sống bất trung và tội lỗi. Các ông phải đến với họ. Các ông phải ra đi tiếp xúc gặp gỡ để loan báo cho họ biết rằng Nước Trời đã đến gần.
Hãy đi ra bên ngoài giáo hội
Chỉ thị trên đây của Chúa, ta hãy đem ra áp dụng đúng vào hoàn cảnh hôm nay của ta. Những người mà ta phải nói cho họ biết về Chúa, lại đang ở rất gần ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người bà con lối xóm của ta. Họ là những người cùn nghề cùng sở làm với ta. Nhưng ta phải đến với họ nhân danh Chúa Giêsu, có nghĩa là vì hạnh phúc đời đời của họ mà ta phải đi bước trước, phải tới gõ cửa nhà họ để giới thiệu cho họ biết có một đấng luôn yêu thương họ, và quan tâm đến vận mệnh đời đời của họ. Bởi vì rất có thể là họ sẽ không đến với ta và Giáo hội.
Có một thời Giáo hội đã quá quen với nếp sống ù lì là thích tiếp nhận những kẻ đến với mình hơn là ra đi đến với họ. Thời đó nay đã qua rồi. Giáo hội không thể là một biệt khu khép kín. Các linh mục không thể chỉ luẩn quẩn làm việc trong nhà xứ. Các tín hữu không thể chỉ coi mình là những nhà truyền giáo cho những người đang sống trong lòng Giáo hội mà thôi. Đã đến lúc phải vượt ra bên ngoài Giáo hội, phải ra khỏi các phòng hội họp của giáo xứ để đi đến những nơi công cộng, để thâm nhập vào mọi nơi, mọi tầng lớp xã hội. Để chu toàn sứ mệnh của mình, Giáo hội phải tỏ mình ra và hành động ở bên ngoài các nhà thờ. Nếu chỉ có ở tại nhà thờ, ta mới biết làm chứng lòng tin của mình, thì thiết tưởng ta vẫn chưa phải là những chứng nhân theo như Chúa muốn.
Xem lại CN 11 TN A, thứ Sáu tuần 2 TN và thứ Tư tuần 25 TN
Truyền Giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất của mình Truyền_giáo 181
Truyền Giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất của mình. Vì thế, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, số 57). Bởi vì Giáo Hội coi: “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14).
Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ chung chia sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Sứ mạng ấy là: hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi hầu cho “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Cùng một sứ mạng, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta, những Kitô hữu, mỗi người một cách, hãy loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi bằng nhiều cách thế khác nhau để cho muôn dân được nhận biết Đức Giêsu và ơn cứu độ của Ngài mang lại.
Mong sao, lệnh truyền của Đức Giêsu “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), và thái độ, ý thức về truyền giáo của thánh Phaolô cũng là của chính chúng ta: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội, để các ngài chu toàn bổn phận đã được trao phó, đồng thời, xin cho chúng con được trở nên môn đệ và được tiếp bước với Chúa trên cánh đồng mênh mông bao la hiện nay. Amen.
Chúa Giêsu sai các tông đồ và toàn thể Hội Thánh đi loan báo Nước Thiên Chúa đến gần, Chúa Truyền_giáo 182
Chúa Giêsu sai các tông đồ và toàn thể Hội Thánh đi loan báo Nước Thiên Chúa đến gần, Chúa muốn chia sẻ chính sứ mạng của Chúa. Để ta chu toàn sứ mạng này, Chúa đã ban ơn chế ngự các thần ô uế.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, con được Chúa ban sự sống của Chúa, được làm con Thiên Chúa. Và đồng thời ngay lúc ấy, con cũng được Chúa trao ban sứ mạng cứu độ của Chúa. Chúa cho con trở nên một chứng nhân, một dấu hiệu của Nước Chúa, được trở nên ánh sáng cho thế gian, nên muối ướp cho đời, nên men thấm vào trong bột.
Đó là một ân huệ cao cả. Con dâng lời cảm tạ Chúa. Xin Chúa giúp con tích cực làm chứng cho Chúa trong môi trường sống của mình, trong gia đình, nơi giáo xứ, tại chỗ làm việc hay học tập của con. Chính trong môi trường sống hằng ngày mà Chúa đã sai con đến để loan báo Nước Trời đã đến. Xin cho con ý thức rằng mỗi lời con nói, mỗi công việc con làm, mỗi thái độ sống của con, đều có thể trở nên dấu chỉ của Chúa, đều có thể là tiếng loan báo sự hiện diện của Nước Trời.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ có quyền trên các thần ô uế. Hằng ngày con cũng được Chúa ban ơn thánh hóa để con được hiện diện giữa lòng đời như một yếu tố làm sạch cuộc sống. Để có thể góp phần thay đổi bộ mặt cuộc sống này, xin Chúa giúp con biết quý trọng và duy trì ơn thánh Chúa trong con. Xin giúp con sống trung thành với ơn gọi Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho các tông đồ sức mạnh chữa các bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng hôm nay, chính Chúa đã đích thân đến chữa lành tâm hồn con bằng Mình Máu Chúa. Con xin dâng lời tạ ơn và đón nhận hồng ân cao quý này. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel”.
Một cậu bé thăm bạn nằm trong bệnh viện. Họ nói chuyện về sinh hoạt ở bệnh viện Công giáo. Cậu Truyền_giáo 183
Một cậu bé thăm bạn nằm trong bệnh viện. Họ nói chuyện về sinh hoạt ở bệnh viện Công giáo. Cậu bé hỏi: “Tại sao một số nữ tu mặc đồ trắng và một số khác lại mặc đồ đen?”.
Bạn cậu bé trả lời: “Ồ, những người mặc đồ trắng cho bạn thuốc uống, còn những người mặc đồ đen cầu nguyện cho bạn khi thuốc hết công hiệu”.
Suy niệm
Tin Mừng ghi nhận Chúa Giêsu gọi và chọn mười hai tông đồ với tên tuổi rõ ràng (x. Mt 10,1-6; Mc 3,13 -19; 6,7-13; Lc 6,12 -16; 9,1-6), nhóm Mười hai được giao sứ mạng đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Đức Giêsu (x. Mt 28,19).
“Các anh hãy theo Tôi”, một lời mời gọi đến gặp, gắn bó với Đức Kitô là ánh sáng, là nguồn sống: “Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Ga 8,12), người môn đệ có tình yêu cứu độ, lên đường đem Tin Mừng ánh sáng cứu độ cho mọi tâm hồn…
Chính nhờ lời rao giảng gương sáng cuộc sống của người môn đệ, thế gian nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa như Đức Kitô đã nói với những người Ngài tuyển chọn: “Các con là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian” (Mc 9,50; Lc 14,34-35).
Mọi người được mời gọi đích danh trở nên môn đệ và trong ơn gọi làm môn đệ như Chúa Giêsu khẳng định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái anh em tồn tại” (Ga 15,16).
Sứ mệnh loan báo nước Trời này không chỉ dành cho các tông đồ nhưng cho hết mọi người, mỗi người một cách, loan báo về Ðức Giêsu, nước Chúa…
Thật thế, Chúa đang thì thầm gọi tôi, gọi bạn, Ngài gọi đích danh mỗi người “hãy theo Ta”. Theo Ngài để khám phá tình yêu, trở nên môn đệ và được sai đi…
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ Truyền_giáo 184
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ và sai các ông đi loan báo Nước trời đã gần đến. Sứ mệnh này không phải chỉ dành riêng cho các Tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu, mỗi người một cách, phải loan báo về Chúa Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo hội, vào trong tình yêu của Chúa.
Theo truyền thống, bất cứ một bậc thầy nào cũng cần có các môn sinh, môn đệ để tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của mình. Các bậc hiền nhân trong lịch sử và các tiên tri trong Cựu ước có các môn đệ, thánh Gioan Tiền hô cũng có nhiều môn đệ. Chúa Giêsu cũng vậy, trong ba năm giảng dạy, Chúa đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa chọn 12 người làm Tông đồ, để tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi nhân loại mà Ngài đã khởi đầu.
Chúa gọi và chọn chứ họ không tự mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị trí cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta xa lạ với xuất xứ của các Tông đồ: đa số họ là những ngư phủ nghèo nàn, thất học. Họ được chọn từ đám đông giai cấp lao động, trong số họ cũng có hai khuôn mặt tiêu biểu cho sự tranh chấp của xã hội Do thái lúc đó: Mátthêu người thu thuế và Simon nhiệt thành. Nhóm Nhiệt thành cương quyết chống ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ lề luật, còn đám thu thuế thì lại chạy theo ngoại bang, hợp tác với những kẻ đang thống trị xứ sở để trục lợi.
Có thể nói, những người mà Chúa Giêsu chọn lựa tiêu biểu cho sự thấp kém trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài vẫn tuyển chọn, vì đường lối Thiên Chúa khác với đường lối con người. Điều Ngài cần nơi họ không phải là cái đang là, mà là cái sẽ là. Họ tầm thường khiếm khuyết, nhưng với ơn Chúa, họ sẽ làm nên được những việc phi thường (Mỗi ngày một tin vui).
Chúng ta thấy: mười hai Tông đồ yếu kém về mọi mặt, thế mà đã thay đổi được cả một đế quốc Rôma và cả thế giới sau này nữa. Quả thật, khi Chúa còn sống bên cạnh, các ông còn quê mùa, hay sợ sệt, tham vọng tầm thường, và khi Chúa chết, các ông bỏ trốn vì sợ liên luỵ. Thế mà sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông can đảm, khôn ngoan, đấu lý với hết mọi bậc người, ra tù vào khám vì danh Chúa, và các ông đã xây dựng nước Chúa ngay tại nơi đế quốc đã từng tiêu diệt Thầy mình và cả các ông nữa.
Tại sao họ yếu kém như thế mà dám đương đầu với những thế lực kình địch và biến đổi được cả thế giới như vậy? Thưa, họ đã trở thành những dụng cụ hữu hiệu trong bàn tay Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự Ngài muốn. Còn các Tông đồ thì có một đức tin vững mạnh, nếu các ông không tin vào quyền năng Thiên Chúa đã lựa chọn các ông, ở với các ông, hỗ trợ các ông, chắc chắn các ông không bao giờ dám nhận một công việc to lớn và nặng nề như thế.
Chúa cũng sai chúng ta đi vào đời đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người như Chúa đã sai các Tông đồ ngày xưa, đấy là vinh dự và bổn phận của các Kitô hữu.
Nếu công đồng Vatican II khẳng định: “Bản chất của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh. Những lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về với Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay: chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính “cuộc sống chứng tá” của chúng ta.
Truyện: Chúa chọn họ làm Tông đồ
Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn được một ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: Nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng, họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài (Chờ đợi Chúa).
Bài Phúc Âm này có ba ý: 1. Chúa Giêsu ban quyền cho nhóm 12: họ có quyền trên các thần ô uế Truyền_giáo 185
Bài Phúc Âm này có ba ý:
1. Chúa Giêsu ban quyền cho nhóm 12: họ có quyền trên các thần ô uế và có quyền chữa lành các bệnh tật.
Đây chính là những quyền của Chúa Giêsu (x. Mt 9,35), cho nên nhóm 12 có cùng những quyền với Chúa Giêsu… Hơn nữa nếu so với Mt 4,17 (tóm sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng) với câu cuối cùng của đọc Phúc Âm này (“các con hãy đi rao giảng rằng Nước trời đã gần đến”) thì các ông cũng rao giảng cùng sứ điệp như Chúa Giêsu. Như thế danh dự của người giảng Phúc Âm là có cùng quyền năng như Chúa Giêsu và giảng cùng một sứ điệp như Ngài.
2. Trong danh sách 12 tông đồ chúng ta thấy. Họ xuất thân từ nhiều nơi và từ nhiều thành phần khác nhau, đa số là nghèo, ít học và không có địa vị cao trong xã hội.
3. Những chỉ dẫn đầu tiên về cách cư xử:
- Đừng đến với dân ngoại nhưng chỉ đến với chiên lạc nhà Israel
- Nội dung rao giảng: ”Nước trời đã gần đến”.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu không chọn những người tài cao học rộng giàu sang và có địa vị xã hội cao, mà chọn những người có tấm lòng và có thiện chí. Hai điều này là đủ, mọi điều khác Chúa sẽ lo.
2. Một tác giả tưởng tượng việc Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất thời giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài. (Trích “Chờ đợi Chúa”).
3. Con số 12 tông đồ: Theo Thánh Agustinô và R. Maur thì con số 12 là nhân lên bởi 3 và 4. Con số 3 là chỉ sự hoàn hảo như 3 Ngôi, Chúa chết 3 ngày đêm. Con số 4 là chỉ bốn phương trời. Vậy nếu con số 3 là hoàn hảo, được nhân lên 4 lần càng hoàn hảo. Ngoài ra Thánh Kinh còn nói Giacob có 12 người con nắm quyền trị vì 12 cho tộc Israel. Sách Khải huyền mô tả nước trời là một Giêrusalem ngợp đầy ánh sáng huy hoàng có 12 cửa, và trên cửa có 12 thiên thần (Kh 21,12). Tóm lại con số 12 ám chỉ sự khiêm hạ và trưởng thành dần dần.
12 tông đồ khác biệt nhau về tính tình, học thức, nghề nghiệp và lòng tin. Đa số là người miền Bắc Do Thái, có mình Giuda ở miền nam. Các tông đồ làm thành một nhóm gọi là Tông đồ đoàn. Ngày nay Giáo hội cũng được tổ chức rập khuôn như thế là trên hết có Đức giáo hoàng và dưới là các Giám mục năm châu.
4. Mười hai tông đồ còn rất non yếu nên Chúa Giêsu không sai họ đến với những đối tượng khó khăn (dân ngoại), mà chỉ đến với những người Israel trước. Chúa không giao sứ mạng quá sức con người đâu. Cho nên tôi đừng ngần ngại và sợ hãi gì cả.
5. Chúa cũng chọn Giuđa, cũng ban quyền cho Giuđa và cũng sai Giuđa đi rao giảng Phúc Âm. Nghĩa là Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng vào Giuđa. Nhưng Giuđa không đáp lại niềm tin tưởng và hy vọng của Chúa.
Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng vào con, xin cho con đừng phụ lòng Chúa.
6. Sứ mạng của người rao giảng Phúc Âm là đẩy lùi sự xấu (xua đuổi các thần ô uế) và cứu chữa những khổ đau (chữa lành những người bệnh).
7. “Chúa Giêsu gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trước các thần ô uế, để các ông trừ khử chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. (Mt 10,1)
Vào thời Chúa Giêsu, người ta quan niệm người bị tật nguyền là người tội lỗi và làm điều ô uế. Nhưng theo Chúa Giêsu, những người đó được sinh ra là để làm sáng danh Chúa, và chính Ngài đã từng chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Ngài cũng đã cảm hoá được nhiều người tội lỗi trở về với Chúa Cha.
Ngày nay, sự ô uế hiện ở nhiều mặt: dối trá, tham lam, trộm cắp, ăn chơi sa đoạ… Cánh cửa ô uế vẫn luôn luôn mở và tồn tại song song với cánh cửa Nước trời. Chính vì thế, sau khi Phục sinh Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ một đặc ân là: trừ khử mọi ô uế và chữa lành mọi bệnh tật.
Đặc ân ấy ngày nay không chỉ dành riêng cho 12 tông đồ mà cho mọi tín hữu. Mỗi Kitô hữu phải nhận lấy nhiệm vụ trừ khử ô uế nơi chính mình và giúp anh em thoát khỏi mọi điều ô uế.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền trừ khử ô uế nhằm làm Sáng Danh Chúa, thì xin Chúa cũng ban thêm cho con sức mạnh để trừ khử ô uế nơi chính bản thân con, sống tốt hơn và yêu mến Chúa hơn. (Hosanna)
Bài Tin Mừng hôm nay có ba ý: - Chúa Giêsu ban quyền cho nhóm 12: họ có quyền trên các thần Truyền_giáo 186
1. Bài Tin Mừng hôm nay có ba ý:
- Chúa Giêsu ban quyền cho nhóm 12: họ có quyền trên các thần ô uế và có quyền chữa lành các bệnh tật.
- Sau đây là những chỉ dẫn đầu tiên về cách cư xử mà các tông đồ phải theo:
* Đừng đến với dân ngoại nhưng chỉ đến với chiên lạc nhà Israel.
* Nội dung lời rao giảng là: “Nước Trời”.
- Hãy loan báo cho mọi người là “Nước Trời đã gần đến” (Mt 10,7).
Vâng, trước khi Chúa Giêsu sai các tông đồ đi thực tập rao giảng, Chúa đã ban quyền cho các ngài. Nói một cách cụ thể hơn, Chúa Giêsu chia sẻ quyền của Ngài cho nhóm 12. Như vậy, nhóm 12 cũng được dùng những quyền của Chúa Giêsu (Mt 10,1).
Hơn nữa, nếu đem so với Mt 4,17: Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” với câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng này: “Các con hãy rao giảng rằng, Nước Trời đã gần đến” thì chúng ta thấy các ông cũng rao giảng cùng một sứ điệp như Chúa Giêsu. Như vậy là người rao giảng Tin Mừng vừa có cùng một quyền năng như Chúa Giêsu mà còn cùng phải rao giảng một sứ điệp như Chúa. Đó là một vinh dự rất lớn lao.
2. Chúa Giêsu không chọn những người tài cao, học rộng, giàu sang và có địa vị xã hội, mà lại chọn những người có tấm lòng và có thiện chí. Vâng, chỉ cần hai điều này thôi, còn mọi điều khác Chúa sẽ lo.
Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất thời giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài. (Chờ đợi Chúa).
Chúa cũng chọn Giuđa, cũng ban quyền cho Giuđa và cũng sai Giuđa đi rao giảng Tin Mừng. Nghĩa là Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng vào Giuđa. Nhưng Giuđa không đáp lại niềm tin tưởng và hy vọng của Chúa.
Sứ mạng của người rao giảng Tin Mừng là “xua đuổi các thần ô uế tức là đẩy lùi sự xấu và “chữa lành những người bệnh” tức là cứu chữa những người khổ đau, đau khổ nơi thân xác cũng như đau khổ trong tâm hồn. Kết quả là “Các ông đã trừ khử được thần ô uế và cũng chữa hết được các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1).
Còn chúng ta hôm nay thì sao? Sứ mạng loan báo cho mọi người biết Tin Mừng của Chúa Giêsu phải được thực hiện cho đến ngày tận thế.
Phải nói rằng, ngày hôm nay, sự ô uế vẫn còn hiện diện ở khắp nơi dưới rất nhiều khuôn mặt: dối trá, tham lam, trộm cắp, ăn chơi sa đọa. Cánh cửa ô uế vẫn luôn luôn mở rộng và tồn tại song song với cánh cửa Nước Trời. Nếu xưa kia, sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ một đặc ân là: trừ khử mọi ô uế và chữa lành mọi bệnh tật thì đặc ân ấy, hôm nay Chúa cũng ban cho mọi người tín hữu chúng ta như vậy. Mỗi người Kitô hữu phải nhận lấy trách nhiệm của mình trong việc làm giảm đi những khổ đau, những bất hạnh, những nỗi nhục của anh em mình để tất cả được sống một cuộc sống xứng đáng là con Thiên Chúa hơn.
Sáng thứ bảy, 13/9/97, tại Sân Vân Ðộng Netaji của thành phố Calcutta, với sức chứa khoảng 15 ngàn người, Ðức Hồng Y Angelo Sodano, quốc vụ khanh Tòa Thánh, và là Ðặc sứ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cầm đầu phái đoàn Tòa Thánh, đã chủ sự thánh lễ An Táng Mẹ Têrêsa thành Calcutta, cùng với 3 vị Hồng Y, 30 vị Giám Mục và khoảng 170 linh mục đến từ 14 quốc gia. Ba vị Hồng Y cùng đồng tế với Ðức Hồng Y Sodano, là Ðức Hồng Y Lourdusamy, người Ấn Ðộ, cựu tổng trưởng bộ Giáo Hội Ðông Phương; Ðức Hồng Y Pimenta, cựu Tổng Giám Mục Bombay; và Ðức Hồng Y Jean Claude Turcotte, Tổng Giám Mục Montreal, Canada. Trong bài giảng thánh lễ, phần kết, Ðức Hồng Y Angelo Sodano đã nói: “Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn lửa tình yêu thương, mà những người con tinh thần của mẹ, nam cũng như nữ, những nhà truyền giáo của tình bác ái, từ nay cần tiếp tục giữ cho ngọn lửa đó cháy sáng mãi. Thế giới ngày nay đang hết sức cần ánh sáng và sự nồng ấm của ngọn lửa này”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở thành dụng cụ của tình yêu thương. Amen.
Người bổn đạo gốc sinh ra trong một gia đình Công giáo, được lãnh nhận bí tích Rửa tội từ Truyền_giáo 187
Người bổn đạo gốc sinh ra trong một gia đình Công giáo, được lãnh nhận bí tích Rửa tội từ khi còn nhỏ; lớn lên, học bổn xưng tội lần đầu, chịu phép Thêm sức; rồi khi lập gia đình thì học thêm chút ít về giáo lý hôn nhân. Ta theo đạo là vì gia đình ta có đạo. Ta giữ những luật lệ trong đạo và kể như ta đã là người có đạo. Chính vì thế mà đôi khi đạo trở nên một gánh nặng cho cuộc sống của ta, một cuộc sống vốn đã có quá nhiều khó khăn và nặng nhọc. Nhưng phải chăng theo Đạo là như thế?
Nếu theo đạo mà lại trở nên một gánh nặng thì có lẽ ta nên xem lại. Hoặc là ta đã sai lầm khi theo đạo, hoặc là ta đã sai lầm trong cách sống đạo.
Dù là người có đạo hay không có đạo, ta đều thấy rằng: khi tôi làm điều gì sai trái thì tôi cần được tha thứ, khi ta gặp khó khăn thì ta cần giúp đỡ, khi ta đổ vỡ thì ta cần sự bù đắp. Người ta chạy đến ông thần nọ bà thánh kia là để cầu xin che chở, cầu xin cứu giúp, cầu xin ban ơn, cầu xin chỉ dẫn.
Tìm đến sự trợ giúp của thần thánh là khôn ngoan. Nhưng đâu là nơi ta tìm về, đâu là nơi ta cậy dựa? Đức Giêsu, chính Ngài là Chúa và là người. Chính Ngài là Đấng mà mọi người xưng mình có Đạo đi theo. Chính Ngài là Đạo, là Đường.
Chúa Giêsu là vị thần đích thực, là Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã ở với ta để nói cho ta biết Thiên Chúa là thế nào và cũng nói cho ta hay làm người thì phải sống làm sao. Chính Chúa Giêsu, Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đạo là đường. Ta theo đạo là đi theo con đường của Chúa Giêsu, sống theo cách sống của Ngài, làm theo cách Ngài đã làm, đối xử với người khác theo cách Ngài đối xử. Và hơn thế nữa, chính Ngài nâng đỡ ta trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
Khi bạn lầm lỗi hay khi phạm tội bạn cần được tha thứ, bạn đến với Chúa Giêsu. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho bạn, đón nhận bạn vào trong vòng tay yêu thương của Ngài. Bạn sẽ được bình an.
Khi bạn bị oan ức, bị sỉ nhục, bạn chạy đến với Chúa Giêsu, bạn sẽ được Ngài đồng cảm với bạn, chia sẻ với bạn. Bởi chính Ngài đã bị người ta sỉ vả, bị hiểu lầm đến độ bị kết án tử hình trên cây thập giá một cách oan uổng.
Bạn bị đổ vỡ cần được hàn gắn, bạn đến với Chúa Giêsu bạn sẽ được Ngài yêu thương vỗ về và hàn gắn vết thương cho bạn. Ngài sẽ làm cho bạn trở nên phong phú hơn bạn tưởng.
Khi bạn có những tâm sự mà không biết nói với ai, bạn đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn sẵn sàng lắng nghe bạn và cảm thông với bạn.
Nếu bạn đang lâm cảnh túng bấn, đói khổ, bạn đến với Chúa Giêsu, bạn sẽ gặp Ngài, một Đấng vốn là Thiên Chúa nhưng đã sống một kiếp người nghèo khổ tột cùng: sinh ra trong hang đá bò lừa, sống nơi thôn giã, lang thang không nơi gối đầu và chết nhục nhã, tàn tạ trên cây thập giá. Bạn sẽ nhận thấy giá trị đích thực của cuộc sống và tìm ra lối thoát cho cuộc đời.
Khi bạn bị người mà mình hết mực yêu thương quay lại phản bội bạn, bạn đến với Chúa Giêsu bạn sẽ được Ngài yêu thương và chia sẻ với bạn. Bởi chính Ngài đã yêu thương con người ta, yêu đến tột cùng, yêu đến chết vì người yêu. Thế nhưng biết bao con người đã phản bội lại tình yêu của Ngài, quay lại sỉ vả Ngài thậm tệ.
Bạn đang cần sự chỉ dẫn, bạn đến với Chúa Giêsu, Ngài sẽ chỉ dẫn cho bạn. Hơn nữa, Ngài còn tìm cách giúp đỡ bạn, tiếp sức cho bạn để bạn đạt đến điều Ngài chỉ dẫn. Nếu cần một bằng chứng để chứng minh cho sự thật mà Ngài chỉ dẫn thì Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình, lấy chính mạng sống mình để làm chứng cho sự thật ấy.
Theo đạo là thế, là đi theo Đức Giêsu, là gặp gỡ Ngài, là sống với Ngài, là chia sẻ với Ngài, là kết hiệp với Ngài mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của ta, chứ không phải chỉ trong nhà thờ lúc đi lễ mà thôi. Theo đạo không phải chỉ để giữ một số luật lệ trong đạo cho qua. Nhưng theo đạo là sống một cuộc sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu.
Thế nhưng, ta thử nhìn xem đã có bao nhiều người gặp gỡ Chúa Giêsu, bao nhiêu người sống gắn bó với Chúa Giêsu. Xung quanh ta còn hàng vạn hàng vạn người chưa được biết về Chúa Giêsu. Nếu ta đã nhận biết Chúa Giêsu mà ta không giới thiệu Ngài cho những người đang sống xung quanh ta thì ta đã sống quá ích kỷ chăng: thấy hay, thấy tốt mà chỉ biết khư khư giữ cho mình.
Trong những câu chuyện hàng ngày với hàng xóm, trong những giờ giải lao nơi công sở với đồng nghiệp, trong những giờ ra chơi với các bạn cùng lớp tại sao lại không nói về Chúa Giêsu? Việc nhận biết Chúa Giêsu sẽ đưa ta đến sự nhận biết nhau là anh em con một Cha trên Trời. Đẹp làm sao khi mọi người cùng sống yêu thương, đùm bọc nhau theo gương Chúa Giêsu, trong tình yêu của Chúa Giêsu. Truyền giáo là ra đi giới thiệu cho người khác biết về Chúa Giêsu để mọi người cùng trở về đón nhận nguồn ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện cho ta.
Lạy Chúa Giêsu, xung quanh chúng con còn hàng vạn, hàng triệu người chưa được biết đến Chúa. Xin Chúa hun đúc tâm hồn chúng con để chúng con biết can đảm nói về Ngài cho mọi người đang sống xung quanh chúng con.
Có người nói với tôi: “Thưa cha gia đình ông B sống trong giáo xứ bao nhiêu năm mà chẳng chịu Truyền_giáo 188
Có người nói với tôi: “Thưa cha gia đình ông B sống trong giáo xứ bao nhiêu năm mà chẳng chịu theo đạo?” Tôi hỏi lại: “Bạn đã bao giờ cầu nguyện cho ông B đó theo đạo chưa? Nếu không làm gì mà họ theo đạo mình cũng khó phải không?”. Cũng có người nói: “anh C đó hay đi chơi với chúng con mà chẳng thấy theo đạo?”. Tôi nói: “Chúng con có ai cầu nguyện cho anh C theo đạo chưa mới là vấn đề?”.
Thực vậy, việc truyền giáo không dựa theo khả năng của chúng ta mà dựa vào sức mạnh của quyền năng Thiên Chúa. Chúa Giê-su khi sai 72 môn đệ ra đi thì Ngài đã nhắc các ông việc làm đầu tiên là cầu nguyện: “các con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai thợ đến gặt”. Chúa muốn nhắc chúng ta việc truyền giáo không thể dựa vào sức mình mà phải dựa vào quyền năng của Chúa. Thế nên phải cầu nguyện để ơn Chúa tác động, lôi kéo, còn chúng ta chỉ là khí cụ nhỏ bé trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà thôi.
Vậy cầu nguyện là gì?
Cầu nguyện theo thánh Augstinô là thưa chuyện với Chúa, như một người con hiếu thảo thưa chuyện với cha mẹ, hoặc như hai người bạn chân tình tâm sự với nhau.
Và cầu nguyện như thế nào?
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và tín thác. Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi những ai kêu cầu Người, nhất là những người thấp hèn, bé nhỏ, miễn là biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa.
Bà goá mà Phúc âm nhắc tới là một phụ nữ nghèo và “thấp cổ bé miệng”, bà ta chẳng hy vọng được xét theo lẽ công bằng. Nhưng bà có khí giới là sự kiên trì. Sự kiên trì đã đánh gục tính kiêu ngạo của ông quan, trời chẳng sợ, người chẳng nể, thế mà phải nhượng bộ xử tốt cho bà.
Việc truyền giáo cũng phải khởi đi từ lời cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa. Cầu nguyện trong kiên trì để Chúa sẽ làm những điều tốt nhất cho giáo hội của Chúa.
Mỗi năm chúng ta tổ chức ngày khánh nhật truyền giáo rất linh đình nhưng thử hỏi con số theo đạo được bao nhiêu? Chúng ta tự hào có một lực lượng rất đông tông đồ giáo dân nhiệt thành thăm viếng, tặng quà cho anh chị em lương dân, nhưng thử hỏi được mấy người đã nhờ những cuộc thăm viếng phát quà của chúng ta mà họ theo đạo? Chúng ta tự hào là Đạo chúng ta là đạo yêu thương, nhưng thử lắng nghe lương dân họ nói gì về người có đạo? Người có đạo vẫn sống thiếu tình yêu, vẫn sống lỗi công bằng và bác ái? Nơi xứ đạo vẫn còn nhiều tệ nạn xì ke ma tuý, băng nhóm “Đức ma tuý” hay “Huy cần sa” mà không ai dám ý kiến chỉ làm ngơ cho cái xấu lộng hành? Nơi xứ đạo vẫn còn tụ điểm cờ bạc, cá độ làm sao có thể thu hút người ngoại theo đạo? . . .
Thế nên, chúng ta cần phải nhắc lại với nhau rằng việc truyền giáo không dựa trên con người mà là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa. Các tông đồ năm xưa từng cầu nguyện và khi tràn đầy Chúa Thánh Thần họ mới ra đi loan báo Tin mừng. Các ngài đã ra đi dưới bóng của Chúa Thánh Thần nên đã mang lại mùa xuân cứu độ trải rộng khắp mọi nơi trên địa cầu.
Thiết tưởng việc truyền giáo phải khởi đi bằng một cuộc hiệu triệu cho toàn thể tín hữu về bổn phận cầu nguyện trong việc truyền giáo. Cầu nguyện không chỉ cho có nhiều nhà truyền giáo để đến với lương dân. Cầu nguyện một cách cụ thể cho ông A, anh B mà mình quen biết được ơn trở về với Chúa. Cầu nguyện kèm theo những dịp thăm viếng chia sẻ bác ái sẽ làm cho muôn dân cảm mến Thiên Chúa và khao khát tìm kiếm Ngài. Đó mới là cách chúng ta đang biến mình làm khí cụ của Chúa để mang tin mừng đến cho mọi nơi. Chúng ta đừng nói “tại sao anh A không theo đạo?”, mà phải nói: “tại sao tôi không cầu nguyện cho anh A, người bạn thân của tôi được gặp Chúa?”. Đó mới là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức việc truyền giáo và sống tinh thần truyền giáo trong lời cầu nguyện và đời sống chứng nhân hằng ngày của mình. Amen.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền Truyền_giáo 189
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
Hôm nay cùng với Giáo Hội ta dâng Lễ cầu nguyện cho việc truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa.
Việc truyền giáo, Chúa không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: "đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng." (1 Cr 9, 16).
Việc loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa Giêsu, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.
Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp "khánh nhật truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kitô".
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép" để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: "Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" (2Tim 4,2).
Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ". Nếu ai cũng cầu xin kiểu đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Nhà truyền giáo phải hết sức thận trọng để luôn trung thành với giáo huấn cả Đức Kitô, hiệp nhất với toàn thể Giáo Hội và ý thức mình chỉ là "người được sai đi". Trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay không thuận lợi, nhà truyền giáo luôn xác tín rằng tự đáy lòng mọi người đều mong chờ được đón nhận chân lý về Thiên Chúa, về con người và về con đường cứu độ. Như Đức Kitô xưa, nhà truyền giáo can đảm rao giảng Lời Chúa. Nếu nhà truyền giáo có bị xiềng xích, bị tù đầy hay bị mất mạng sống vì đức tin... thì đó là một lời loan báo Tin Mừng hùng hồn và có sức thuyết phục nhất
Vậy thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là: "Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay."
Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến Truyền_giáo 190
Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Ở đó sau khi tuyên bố được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất, Chúa Phục Sinh đã chỉ thị cho các Tông đồ đi khắp thế gian thâu nạp môn đồ cho Người, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
CHÚ THÍCH:
- C 16-17:
+ Mười một môn đệ: Đây là Nhóm Mười Hai, nhưng thiếu Giu-đa, kẻ phản bội, và lúc đó Mát-thi-a chưa được bổ sung vào danh sách để thế chỗ Giu-đa (x. Cv 1,15-26). Nhóm này là Tông Đồ Đoàn được trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Còn về Giu-đa Ít-ca-ri-ốt: khi thấy Thầy Giê-su sắp bị kết án tử hình, anh ta đã hối hận, liền đem ba mươi quan tiền trả lại cho các đầu mục Do thái nhưng bị từ chối. Giu-đa thất vọng ném tiền vào gian cung thánh Đền thờ rồi đi thắt cổ tự tử (x. Mt 27,3-5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Tức là đến miền đất dân ngoại theo chỉ thị của Chúa Phục Sinh, qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10), và cũng để noi gương Đức Giê-su đã khởi đầu rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại xứ Ga-li-lê (x. Mt 4,12-17),
+ Đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến: Ngày nay người ta không thể xác định đây là núi nào. Nhưng có lẽ Mát-thêu chỉ muốn nói đến ngọn núi với ý nghĩa tượng trưng: Núi là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và mặc khải cho loài người. Chẳng hạn: Đức Chúa đã trao Thập Giới cho Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 24,13.15.18). Đức Giê-su cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật trên núi, gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 5,1-7,27). +Thấy Người, các ông bái lạy: Sau nhiều lần hiện ra để củng cố niềm tin cho môn đệ, trước khi về trời Chúa Phục Sinh đã hiện ra để trao cho các ông sứ mệnh loan Tin mừng đi khắp thế gian. Cử chỉ bái lạy nói lên các ông đã tin Chúa Giê-su là “Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa”.
+ Nhưng có mấy ông lại hoài nghi: Câu này xem ra mâu thuẫn với thái độ bái lạy vừa nói. Thực ra, hoài nghi là thái độ phải xảy ra nơi các môn đệ trước khi các ông đạt được đức tin hoàn hảo. Chắc là Mát-thêu muốn nói đến sự hoài nghi đã xảy ra trước đó mà ngài chưa lần nào đề cập đến. Như vậy đây chỉ là một sự trục trặc về lối hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng. Ngoài ra cũng có người cho rằng: Vì đây là cuộc hiện ra để “trao sứ mệnh” cho Nhóm Mười Một đại diện Hội Thánh, nên sự hoài nghi ở đây ám chỉ sự hòai nghi nói chung của Hội Thánh xưa nay: Mầu nhiệm Phục Sinh tuy là một sự thật hiển nhiên, nhưng bao giờ cũng vẫn có kẻ còn hoài nghi.
- C 18-19:
+Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu sứ mệnh, cũng trên núi cao, Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban (x. Mt 4,8-10). Nhưng giờ đây Người tuyên bố đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en về sứ mệnh của Con Người như sau: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; Muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan” (Đn 7,14).
+ Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Hội Thánh phải dùng quyền Đức Giê-su ban để nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Trước hết là dân Do Thái (x. Mt 10,5-6), rồi đến mọi dân nước trên thế giới (x. Mt 8,11).
+Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Để người ta trở nên môn đệ Đức Giê-su, các Tông đồ phải làm phép rửa tái sinh họ bằng nước và Thần Khí (x. Ga 3,3.5). Phép rửa được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19).
- C 28,20:
+Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em: Sứ mệnh các Tông đồ gồm cả quyền dạy dỗ các tín hữu cho tới khi Hội Thánh đạt tới tình trạng viên mãn (x. Ep 1,23).
+Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Phục Sinh hứa sẽ luôn ở trong Hội Thánh cho đến ngày tận thế nhờ Chúa Thánh Thần và qua các vị mục tử, để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh “được sai đi”. Qua đó Đức Giê-su chứng tỏ là “Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).
CÂU HỎI:
1) Tại sao chỉ có mười một Tông đồ hiện diện lúc Chúa lên trời? 2) Số phận của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thế nào sau khi phạm tội phản nộp Thầy? 3) Tại sao Chúa Phục Sinh truyền cho các Tông đồ trở về Ga-li-lê? 4) Ngọn núi Chúa truyền cho các Tông đồ đến là núi nào? 5) Mấy kẻ còn hoài nghi gồm những ai và họ hoài nghi điều gì? 6) Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban vào lúc nào? 7) Đức Giê-su đã được ai trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm sấm ngôn của vị Ngôn sứ nào và nội dung lời sấm đó thế nào? 8) Sau khi thâu nạp môn đệ, Hội Thánh phải tiếp tục làm gì cho họ? 9) Làm thế nào để loan báo Tin Mừng cách hữu hiệu cho lương dân hôm nay?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
2. CÂU CHUYỆN: Thánh Têrêxa Hài Đồng truyền giáo bằng cầu nguyện:
Tê-rê-xa sinh ngày 02 tháng 01 năm 1873 tại Alecon, Normandie, Pháp. “Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su” là tên nhận khi khấn Dòng. Tê-rê-xa mồ côi mẹ từ năm bốn tuổi, được cha là ông Louis Martin săn sóc và giáo dục chu đáo. Dù ở tuổi vị thành niên chưa được phép tu Dòng, nhưng Tê-rê-xa năm 15 tuổi đã được Ðức Giáo Hoàng Lêô 13 đặc cách cho vào tu trong Dòng kín Carmêlô thành Lisieux, nước Pháp. Tê-rê-xa chỉ là một nữ tu hèn mọn quanh năm suốt tháng đóng khung trong bốn bức tường tu kín cho đến khi lìa trần ngày 30-9-1897 và thời gian tu mới được 9 năm. Vậy mà chỉ 28 năm sau, năm 1925, Tê-rê-xa đã được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tôn phong lên bậc Hiển Thánh. Hai năm sau, lại được đặt làm Quan Thày các Nhà Truyền Giáo và các Xứ Truyền Giáo, cùng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Gần đây Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II còn nâng Tê-rê-xa lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm 1997.
Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su chỉ là một thiếu nữ hèn mọn, không lập được thành tích gì nổi bật. Nhưng “đằng sau những việc nhỏ bé ấy lại ẩn chứa một tình yêu cao cả”: Yêu mến Chúa, rồi từ Chúa, yêu thương các nhà truyền giáo và các xứ truyền giáo. Làm việc truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh hãm mình giống như “những bông hồng nhỏ” dâng lên Chúa Hài Ðồng để cầu xin cho lương dân sớm được ơn nhận biết Chúa.
Thánh Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su, Tiến Sĩ Hội Thánh, Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo chính là tấm gương sáng cho giới trẻ về cách truyền giáo cho con người thời đại hôm nay. Đó là truyền giáo bằng một cuộc sống tin yêu như “Con thơ phó thác” trong tay Chúa quan phòng.
3. THẢO LUẬN: Theo các cách truyền giáo của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, thánh nữ Tê-rê-xa Can-quýt-ta… Bạn thích cách truyền giáo của vị thánh nào nhất? Tại sao?
4. SUY NIỆM:
1) Sứ vụ truyền giảng Tin Mừng:
a) Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Đây là một sứ vụ đẹp lòng Thiên Chúa như ngôn sứ I-sai-a đã thốt lên: "Đẹp thay, những bước chân đi truyền rao Tin Mừng ơn cứu độ". Thánh Phao-lô Tông đồ dân ngoại cũng viết: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15). Nơi khác, ngài còn khẳng định: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
b) Các tông đồ phải rao truyền mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su: Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống thế làm người, để dạy đường lên trời cho nhân loại là ”Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Tông đồ Phao-lô cũng viết: “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như Lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).
2) Phải truyền giảng Tin Mừng theo cách nào?:
a) Cách truyền giảng của thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su:
- Thánh nữ Tê-rê-xa đã truyền giáo bằng lời cầu nguyện và các việc bác ái hãm mình: Tê-rê-xa không giảng bằng lời nói nhưng bằng lòng ước ao của một con tim cháy lửa yêu mến Chúa, bằng cách làm các việc bổn phận thường ngày bằng một cách thức phi thường, nghĩa là nhằm để làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.
- Mỗi người chúng ta hôm nay cần noi gương thánh Tê-rê-xa: năng dâng những lời nguyện tắt kèm theo nhưng việc bác ái hãm mình để cầu cho việc truyền giáo: “Lạy Chúa, con xin làm việc hãm mình này để cầu cho một người lương sớm nhận biết tin yêu Chúa và hy vọng sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa giống như con”.
b) Cách truyền giảng của Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta:
- Thánh TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với những người bệnh tật cùng khổ và bị bỏ rơi. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để thành lập nhiều cộng đoàn tu viện theo lý tưởng thừa sai bác ái của Mẹ, lập ra nhiều nhà mở để tiếp đón các bệnh nhân gần chết đang bị bỏ rơi, không phân biệt tôn giáo mầu da tiếng nói… Việc bác ái từ thiện của Mẹ đã đánh động lương tâm của nhiều người trên thế giới, để cùng xây dựng Trời Mới Đất Mới. không còn đau khổ bệnh tật thù hận chết chóc…
- Mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải thể hiện lòng bác ái yêu thương ngay trong gia đình ruột thịt, khu xóm, xứ đạo và môi trường xã hội chung quanh. Không nhất thiết phải làm những việc lớn lao tốn phí nhiều tiền bạc, mà chỉ cần làm những việc nhỏ bé vừa tầm tay của mình như ân cần thăm hỏi, chia sẻ giúp đỡ vật chất tinh thần, phục vụ những người cụ thể bằng những gì mình đang có, hợp tác với những người thiện chí dù khác biệt về chính kiến, tôn giáo… để xây dựng thế giới mới an lành hạnh phúc.
c) Cách truyền giảng của thánh Phan-xi-cô Xaviê:
- Thánh PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê đi truyền giáo ở vùng Đông Á bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Cuối cùng ngài đã đến đảo Thượng Xuyên Trung quốc. Tại đây ngài ngã bệnh và qua đời ngày 3.12.1552, được phong thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Ngài là vị truyền giáo vĩ đại cho cuộc truyền giáo thời mới: Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến ; sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
- Mỗi người chúng ta hôm nay cần trang bị cho mình vốn liếng Lời Chúa, nhờ Lời Chúa soi dẫn, chúng ta sẽ đi đến các vùng sâu vùng xa của đồng bào dân tộc, đến với các trại nuôi người già, trại cùi, cô nhi viện, v.v… để thi hành sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa, noi gương thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.
d) Cách truyền giảng của Chúa Giê-su và các Tông đồ:
- Giới thiệu Chúa cho người khác: An-rê sau khi gặp Thầy Giê-su đã dẫn em là Si-mon đến với Đức Giê-su; Phi-lip-phê đã đưa bạn là Na-tha-na-en đến với Đức Giê-su… - Đi bước trước tiếp cận người lương: Đức Giê-su đã mở lời trước xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước và từ đó đã nói với chị về Nước Hằng Sống. Rồi người phụ nữ này đã về làng đưa dân làng ra gặp Đức Giê-su và mời Người vào giảng Tin Mừng cho cả làng.
- Cần xin ơn Thánh Thần trợ giúp: Noi gương các Tông đồ xưa đã hăng say loan báo Tin Mừng và đem lại nhiều thành quả tốt đẹp nhờ được Thánh Thần biến đổi trong ngày lễ Ngũ Tuần. Còn chúng ta hôm nay cũng cần được ơn Thánh Thần thôi thúc mới hy vọng chu toàn sứ vụ giới thiệu Chúa cho anh em lương dân chung quanh chúng ta.
3) Chu toàn sứ vụ truyền giáo hôm nay?
- Cần năng cầu nguyện bằng những lời nguyện tắt để được kết hiệp mật thiết với Chúa.
- Góp phần thánh hóa gia đình và xã hội mình đang sống ngày một tốt đẹp hơn: Nhờ biết sống tình bác ái yêu thương cụ thể, chúng ta sẽ làm cho môi trường sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Cúng cần ý thức đưa đức tin thấm nhập vào phim ảnh, bài hát, kịch nghệ, văn chương, hội họa, điêu khắc… hầu giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa.
- Mỗi ngày quyết tâm đọc kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô để xin Chúa biến đổi chúng ta nên khí cụ bình an của Chúa, thành chứng nhân tình yêu của Chúa trước mặt mọi người.
- Hằng tuần dành ít nhất hai giờ để đi thăm những trại mồ côi, nhà dưỡng lão để chia sẻ tình thương cụ thể cho họ, sẵn sàng dấn thân phục vụ những bệnh nhân liệt giường cô đơn, để làm chứng cho Chúa như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Ðức Phao-lô VI đã dạy: "Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất là trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh: Nơi trái tim Hội Thánh con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con chắc chắn sẽ được thực hiện.
(Dựa theo lời cầu nguyện của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su)
Hôm nay, ngày Chúa Nhật Truyền Giáo lần thứ 87, Giáo Hội dạy chúng ta phải ý thức về bổn Truyền_giáo 191
Hôm nay, ngày Chúa Nhật Truyền Giáo lần thứ 87, Giáo Hội dạy chúng ta phải ý thức về bổn phận hết sức quan trọng của mình, là bổn phận truyền giáo.
Hoài bảo lớn nhất của Chúa Giêsu khi xuống trần gian nầy, là giải phóng tất cả mọi người khỏi ách nô lệ của ma quỷ, xác thịt, thế gian, và giành lại cho họ quyền được làm người con của Chúa.
Hoài bảo nầy được Chúa nói ra trước khi đi chịu chết: “Đây là máu đổ ra để cứu chuộc nhiều người”.
Hoài bảo nầy cũng được Chúa nói ra trước khi Ngài ngự về trời: “Các con hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”.
2. Giáo Hội dạy chúng ta phải Truyền Giáo.
Vì thế, thay mặt Chúa Giêsu, Giáo Hội đã long trọng tuyên bố trong Công Đồng Vatican II rằng: “Hoạt động truyền giáo của Giáo Hội là bổn phận căn bản của Dân Chúa”, là “bổn phận cao cả và thánh thiện nhất của Giáo Hội” (Sắc Lệnh Truyền Giáo).
Nghe như vậy thì biết rằng: từng cá nhân, từng đoàn thể, từng giáo xứ, từng địa phận, từng Giáo Hội địa phương và cả Giáo Hội khắp toàn cầu, đều phải xem bổn phận truyền giáo của mình là quan trọng nhất.
3. Người công giáo nào cũng phải làm việc truyền giáo.
Làm cho người khác biết Chúa, tin Chúa, yêu Chúa, đó là bổn phận của tất cả mọi người công giáo không trừ ai, vì Chúa đã phán rõ: “Các con hãy nên muối ướp thế gian, các con hãy nên ánh sáng soi chiếu thế gian”. Chúa dạy đức tin chúng ta phải nên như muối để làm cho thế gian khỏi ương thối. Chúa dạy đức tin chúng ta phải là ánh sáng để soi sáng cho kẻ khác biết con đường đi về với Chúa.
Trên núi Ôlivêtê, trước khi ngự về trời, Chúa đưa ra lệnh truyền giáo: “Hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo... Hãy dạy người ta giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Khi phán những lời nầy, Chúa không phán riêng cho các tông đồ mà thôi, nhưng còn phán cho nhiều môn đệ khác nữa. Như vậy, lời Chúa dạy, bắt buộc tất cả mọi người trong Giáo Hội phải làm việc truyền giáo.
4. Bí tích Rửa Tội và Bí Tích Thêm Sức bắt buộc chúng ta phải làm việc Truyền Giáo.
Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được in vào linh hồn một dấu thiêng liêng làm cho mình được thuộc về Chúa, được dâng hiến cho Chúa, được sát nhập vào Chúa, được nên giống hình ảnh Chúa, được thông chia đời sống và chức vụ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu thi hành 3 chức vụ: một là chức vụ tư tế (dâng hiến mình làm của lễ đền tội thay cho nhân loại, và đưa nhân loại về với Đức Chúa Cha); hai là chức vụ tiên tri (nói lên những lời hằng sống để cứu rỗi nhân loại); ba là chức vụ hướng dẫn (dẫn đưa nhân loại đi trên con đường cứu rỗi để về với Chúa).
Ai đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, cũng phải làm ba nhiệm vụ nầy: phải làm tư tế, nghĩa là phải hy sinh cầu nguyện để cho người ta trở lại với Chúa; phải làm tiên tri, nghĩa là phải nói Lời Chúa cho người ta nghe để họ biết Chúa mà tin Chúa; phải làm người hướng dẫn, nghĩa là phải sống đời sống gương tốt để cho người ta bắt chước sống theo mà đi về với Chúa. Bởi thế, ai đã đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để trở thành con Chúa, mà không thi hành ba chức vụ trên đây để làm việc truyền giáo, thì họ không còn xứng đáng là con của Chúa nữa.
Và khi nhận lãnh thêm phép Bí Tích Thêm Sức, mỗi người chúng ta được trở nên mạnh mẽ nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần để can đảm thi hành ba chức vụ trên.
5. Chúng ta phải Truyền Giáo thế nào và phải sống đời Truyền Giáo ra sao?
Mỗi người chúng ta có bổn phận phải xây dựng Nước Chúa theo chiều rộng, nghĩa là phải lôi kéo nhiều người vào Đạo Chúa, làm cho họ thuộc về Nước Chúa, trở thành dân của Chúa, trở thành môn đệ của Chúa.
Mỗi người chúng ta có bổn phận phải xây dựng Nước Chúa theo chiều cao, nghĩa là phải làm sao cho người ta vâng giữ luật Chúa và sống theo những điều Chúa truyền dạy.
Mỗi người chúng ta có bổn phận phải xây dựng Nước Chúa theo chiều sâu, nghĩa là phải làm sao cho Đạo Chúa thấm nhập vào đời sống xã hội, ăn sâu vào tư tưởng, vào tập quán của xã hội, để xã hội trở nên môi trường thuận lợi cho Đạo Chúa nẩy nở.
Việc truyền giáo, việc làm tông đồ cho người ta trở lại, là công việc siêu nhiên. Người ta trở lại là nhờ ơn Chúa ban. Mà Chúa chỉ ban ơn khi thấy chúng ta cầu nguyện. Bởi đó, trong vấn đề truyền giáo, điều quan trọng nhất, là sự cầu nguyện.
Lời cầu nguyện, muốn được Chúa nhậm lời, phải có sự hy sinh đi kèm theo. Chúng ta càng hy sinh, càng chịu khó, càng hãm mình nhiều chừng nào, thì lời cầu nguyện của chúng ta càng dễ được Chúa nhậm lời chừng đó.
Gương tốt của chúng ta lôi kéo người khác trở lại với Chúa, vì họ được đánh động khi thấy cách ăn nết ở xứng đáng của chúng ta. Gương các bổn đạo đầu tiên trong Giáo Hội là một bằng chứng rõ ràng: họ chỉ là thiểu số, họ thiếu thốn mọi sự, họ bị Nhà Nước loại bỏ, nhưng họ vẫn sống đức tin mạnh mẽ, vẫn treo cao gương tốt khắp nơi, làm cho nhiều người cảm phục Đạo Chúa và xin theo Đạo càng ngày càng đông. Lời nói bay đi, chỉ có gương lành ở lại và lôi kéo kẻ khác.
Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều để cho người ta biết Chúa!
Chúng ta hãy hy sinh nhiều để Chúa nhậm lời chúng ta cầu nguyện cho người ta biết Chúa!
Chúng ta hãy luôn luôn treo cao gương tốt để cho người ta bắt chước chúng ta mà đến với Chúa!
Người biệt phái và Pharisiêu luôn chống Chúa Giêsu và tìm cách gài bẫy Ngài. Những: Truyền_giáo 192
SIÊU THOÁT CON NGƯỜI
Người biệt phái và Pharisiêu luôn chống Chúa Giêsu và tìm cách gài bẫy Ngài. Những hạng người này lúc nào cũng nghĩ xấu về Chúa Giêsu dù rằng Ngài dậy dỗ con người với tất cả lòng thành của mình. Đạo của Chúa thiết lập là đạo tình thương. Chúa luôn vạch ra cho con người, cho nhân loại một con đường,một lối đi tốt đẹp ngay thẳng. Tuy nhiên, dưới cái nhìn của lớp lãnh đạo tôn giáo lúc đó, Chúa Giêsu là cái gai họ phải loại trừ. Chính vì thế, họ tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu, tìm sơ hở của Ngài để có cớ lên án, giao nộp và trừ khử Ngài. Vấn đề nộp thuế mà các người Pharisiêu tìm cách gài Chúa để xem Chúa Giêsu có lỡ lời chăng hầu mắc bẫy họ.
VẪN LÀ CÁI TRÒ LỪA BỊP CỦA NHÓM PHARISIÊU
Trên bước đường truyền giáo của Chúa Giêsu, Ngài đã gặp biết bao nhiêu chống đối, gặp biết bao thử thách, chông gai, người ta vẫn luôn giương bẫy để hòng tìm cách làm cho Chúa Giêsu bị mắc bẫy. Họ đã dùng rất nhiều phương cách, nhiều đường lối, nhiều trò ma giáo để gài Chúa Giêsu vào bẫy của họ. Lòng của lớp người biệt phái, thượng tế, kỳ mục và Pharisiêu đầy nham hiểu, sâu độc. Họ thừa biết vấn đề nộp thuế cho đế quốc Roma là một vấn đề hết sức tế nhị. Vì , dân Israen là dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Đất đai của họ được Thiên Chúa ban cho làm quê hương riêng,nên dân Israen và đất đai,quê hương của họ thuộc về Thiên Chúa.
Vấn đề nộp thuế cho đế quốc Roma là điều nghịch với Thiên Chúa vì dân Israen và đất đai,quê hương của người Israen là của Thiên Chúa. Nộp thuế cho đế quốc Roma là chấp nhận tất cả thuộc về Roma, thuộc về ngoại bang. Đối với người Pharisiêu, nộp thuế cho Roma họ không thích, họ muốn chống lại việc nộp thuế này, nhưng sợ không dám xúi giục dân chúng đứng lên vì sợ quan Tổng trấn sẽ bắt bỏ tù, kết tội và lên án nặng nề, nguy hại cho địa vị và mạng sống của họ. Nhóm Pharisiêu cũng chẳng ưa gì phái Hêrôđê vì phái Hêrôđê ủng hộ hoàng đế Roma, nhưng họ muốn có thế mạnh để tố cáo, gài bẫy Chúa Giêsu, nên họ đã sẵn sàng liên minh với phái Hêrôđê và cùng nhau liên kết giương cái bẫy thật nguy hiểm và chết người: "Thưa Thầy, có được phép nộp thuế cho Xêdarê không ?".
Trả lời được là đồng lõa với ngoại xâm, với đế quốc Roma để chống lại dân Israen và đi ngược với Giao Ước của Thiên Chúa. Trả lời không được phép nộp thuế cho Xêda là ủng hộ nhóm dùng bạo lực chống lại Hoàng đế Roma tức làm chính trị, chống lại đế quốc Roma và muốn lật đổ ách thống trị của Roma. Tội này là tội phản nghịch phải lãnh án tử hình . Chúa Giêsu đã khôn ngoan tránh được câu hỏi hóc búa,nguy hiểm của người Pharisiêu sau khi đã coi đồng bạc có hình và danh hiệu của Xêda: " Hãy trả cho Xêda cái gì thuộc về Xêda và trả cho Thiên Chúa gì thuộc về Thiên Chúa" .
Chúa Giêsu đến để phục vụ mọi người, giải thoát mọi người,cứu độ mọi người. Chúa luôn muốn con người khi ở trần gian phải thi hành luật lệ của trần gian và vì là con Thiên Chúa, con người phải chọn mục đích cuối cùng của mình thuộc về Thiên Chúa. Chúa xác định là con Chúa,con người có hai bổn phận: bổn phận làm dân nước trời và bổn phận làm con của trần thế. Là công dân nước trời,con người phải làm theo ý Chúa vì tất cả những gì hợp ý Chúa và tốt đẹp đều giúp ích cho người kính sợ Chúa( Rm 8,28 ). Là con dân của đất nước, con người phải chu toàn nghĩa vụ người dân và nguồn ơn huệ Chúa ban trong việc làm sáng danh Chúa.
TRẢ CHO XÊDA ĐỂ CON NGƯỜI ĐƯỢC SIÊU THOÁT
Chúa nói một câu rất chí lý: "Của Xêda trả Xêda,của Thiên Chúa trả Thiên Chúa". Chúa Giêsu không bảo người ta làm nghịch với bổn phận, Chúa cũng không nói người ta phải chống đối thế quyền. Chúa tới để làm cho luật thêm hoàn hảo. Chúa muốn con người luôn làm mọi sự theo ý Chúa, để làm vinh danh Chúa. Sở dĩ con người đứng vững trong Giáo Hội vì họ dõi theo con đường tám mối phúc thật mà mối phúc thứ nhất đã thuộc về những con người có tâm hồn nghèo khó. Chính vì thế, Chúa đã làm gương cho nhân loại về sự khó nghèo khi Ngài sinh ra nơi hang Bêlem nghèo khó, khi bị treo trần trụi trên thập giá với sự khó nghèo cùng tột. Lúc còn sống, đi truyền giáo với các môn đệ, Chúa đã không mang tiền, mang bị, mang túi, mang lương thực. "Chồn có hang, con người không nơi nương tựa, không đá gối đầu". " Hãy đến mà xem". Chúa Giêsu đã muốn nhân loại hiểu rõ của cải cần thiết thật đó, tiền bạc không có không được, địa vị cũng cần, nhưng nó không phải là điều chính yếu. Cốt lõi cần nhất cho con người là tìm nước Thiên Chúa. Chúa đã căn dặn các môn đệ của Người phải từ bỏ, phải siêu thoát: không mang tiền, đừng mang giầy dép, lương thực là để con người được thanh thoát với những gì là trần tục.
Ngày lễ truyền giáo hôm nay là lời đáp trả lại lệnh truyền giáo của Chúa phục sinh: "Hãy làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Thầy". Loan báo Tin Mừng là giới thiệu Chúa Kitô và trình bầy giáo lý của Chúa với một ngôn ngữ, cung cách dễ hiểu, dễ chấp nhận. Đây là lời mời gọi mọi người vì thế: " Giáo Hội làm công việc Phúc Am hóa,Giáo Hội loan báo Chúa Kitô là" Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống", là Trung gian độc nhất giữa Thiên Chúa và con người.Mặc dù những yếu đuối của con người,Giáo Hội tỏ ra không mệt mỏi trong việc rao giảng Phúc Âm" (Bước qua ngưỡng cửa Hy Vọng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ).
Gợi ý chia sẻ:
1.Anh chị hiểu thế nào về câu: " của Xêda trả Xêda, của Thiên Chúa, trả Thiên Chúa"? 2. Anh chị có ham mê của cải hay muốn để tâm hồn mình siêu thoát? Tại sao ? 3.Anh chị đã đáp trả lại lệnh truyền giáo của Chúa phục sinh chưa ?
Ngày Quốc Tế Truyền Giáo được toàn thể Giáo Hội mừng vào Chúa Nhật XXIX Thường: TN 29-A17
Ngày Quốc Tế Truyền Giáo được toàn thể Giáo Hội mừng vào Chúa Nhật XXIX Thường Niên hôm nay, nhằm nhắc nhở cho mỗi người Kitô hữu chúng ta ý thức được bổn phận của mình trong xã hội, trong môi trường mà chúng ta đang sinh sống. Xin Chúa thường giúp mỗi người chúng ta sống trọn vẹn với ơn gọi và sức mệnh của mình mỗi ngày một hoàn hảo hơn.
Bài Phúc âm hôm nay (TN29A) có một câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng làChúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy".
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Hôm nay chúng ta mừng ngày Quốc Tế Truyền Giáo, ngày mà Giáo Hội mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng lời cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Trong Tông thư gửi Thánh bộ Truyền giảng Tin Mừng cho các dân tộc ngày 22/10/2017 Truyền_giáo 194
Trong Tông thư gửi Thánh bộ Truyền giảng Tin Mừng cho các dân tộc ngày 22/10/2017, ĐTC. Phanxicô nhắc lại những nét chính yếu trong Thông điệp Maximum Illud về hoạt động của các nhà truyền giáo trên thế giới của ĐTC. Bênêđictô XV (30-11-1919). Từ đó Ngài mời gọi phải có biện pháp hữu hiệu cho việc truyền giáo trong thời đại hôm nay ; phải mạnh dạn, không sợ hãi với quyết định truyền giáo ; nhất là phải mạnh mẽ cải tổ việc mục vụ để tất cả mọi hoạt động phải quy về việc Truyền giáo.
ĐTC đề nghị: “Tháng 10 năm 2019 sẽ là Tháng Truyền Giáo ngoại thường để tái đánh thức một cách mạnh mẽ hơn nữa ý thức về Missio Ad Gentes – sứ vụ đến với muôn dân -,… để Tình Yêu đối với sứ vụ truyền giáo được lớn lên, mà “sứ vụ truyền giáo ấy chính là một niềm say mê của Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng là niềm say mê của dân Ngài.” Tất cả những đề nghị trên chỉ có thể được thực hiện với niềm say mê.
Niềm say mê đó được ĐTC viết trong sứ điệp Truyền giáo 2019 gởi cho toàn thể cộng đồng dân Chúa với chủ đề: “Được chịu phép rửa và được sai đi: Giáo Hội của Chúa Kitô trong sứ mạng giữa thế giới”. Niềm say mê đó được khởi hứng bằng việc nhận món quà nhưng không qua Bí tích Rửa tội, thì cũng phải tự hào cho đi cách nhưng không. Vì thế, Chúa Nhật Truyền giáo hôm nay thêm một lần nữa nhắc nhở các Kitô hữu về niềm tin vào Đức Giêsu mà họ đã được Thiên Chúa qua Giáo hội ưu ái ban tặng để họ biết giữ gìn; từ đó thôi thúc họ ban tặng lại cho người khác bằng “đôi mắt và con tim của Chúa”.
“Trái tim” đó luôn hướng về mọi người: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con” (Ga 17, 20).
Quả thật, trong suốt cuộc đời sứ vụ, Đức Giêsu đã thể hiện niềm say mê Thiên Chúa và say mê con người. “Niềm say mê của Chúa Giêsu”, cũng phải là “niềm say mê của dân Ngài”. Muốn Truyền giáo không phải là quan tâm đến việc làm gì, nhưng phải là làm như thế nào. Vì thế, Truyền giáo là thể hiện niềm say mê của Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta.
Đức Giêsu “say mê Thiên Chúa”. Các Kitô hữu cũng phải vậy. Đó là nhắc nhở ta muốn truyền giáo trước hết phải quay về với nguồn cội đức tin của mình là Thiên Chúa chứ không là ai khác.
Một số người Công giáo Việt Nam đang bị lệch lạc trong hình thức thờ phượng. Vì vậy họ khó mà “Truyền Giáo” trong xã hội hôm nay. Lệch lạc khi chúng ta là người Công giáo mà vẫn thờ thần tài, vẫn xem thầy xem bói, xem ngày xem tháng.
Đứng trước những nguy hiểm đó, Ủy ban Văn hóa thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gởi văn bản “Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên”, trong đó có phần nói việc “những thói tục trái với đức tin Công giáo”, nói rõ:
“Giáo hội tại Việt Nam luôn tôn trọng nền văn hóa dân tộc mình, nhưng giáo hữu không được thực hiện những thói tục ngược chiều với đức tin Công giáo sau đây:
Coi tuổi, chọn ‘ngày lành tháng tốt’ là đi ngược với xác quyết: “Đức Kitô là chủ thời gian và muôn thế hệ”. Cúng vái và đặt tượng Thần Tài, Ông Địa tại cửa hàng hay nhà riêng để cầu xin tiền tài như các lương dân quen làm là lỗi phạm giới răn thứ nhất: “thờ phượng và kính mến mộtThiên Chúa duy nhất”. Đặt hồn bạch hay linh vị,mở cửa mả… là ngược với đức tin Công giáo. Quả thật khi không có một niềm xác tin vào Thiên Chúa thì chúng ta khó mà sống đạo, huống hồ chi đến việc truyền đạo. Hãy thành tâm suy nghĩ về điều này để chúng ta một lòng say mê Thiên Chúa.
ĐTC. Phanxicô đã khẳng định: “phải mạnh dạn, không sợ hãi với quyết định truyền giáo”. Chúng ta cứ nói và cổ vũ cho việc truyền giáo, nhưng chúng ta đã dám mạnh dạn dấn thân chưa? Mạnh dạn bằng việc loại bỏ những thói quen thờ phượng không đúng đắn xưa nay, bằng việc tin tưởng và sống theo sự hướng dẫn của Chúa. Ước mong sẽ không còn bóng dáng của những việc mê tín dị đoan, của những niềm tin lệch lạc trong cộng đoàn, trong giáo xứ, có như vậy mới mong Tin Mừng của Đức Giêsu hiện diện trong môi trường chúng ta đang sống.
Đức Giêsu “say mê con người” qua việc Ngài dành cho nhân loại một tình yêu thương nồng nàn và dám mạnh dạn hy sinh tất cả cho nhân loại chúng ta. Tình yêu đó hướng đến mọi người, nhưng nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, già yếu, những người có hoàn cảnh khó khăn… Để Ngài sẵn sàng hy sinh, phục vụ họ.
Mối bận tâm trong cuộc đời Đức Giêsu không phải là vật chất, tiện nghi, những gì cho mình, nhưng là cho cộng đoàn, cho người khác.
Nhà truyền giáo không tự dưng biết Lời Chúa để thành người rao giảng. Không có siêu nhiên nào Truyền_giáo 195
Nhà truyền giáo không tự dưng biết Lời Chúa để thành người rao giảng. Không có siêu nhiên nào mà không gắn liền tự nhiên. Mẹ Maria là nữ vương truyền giáo, bởi tâm hồn Mẹ được ướp trong kinh nguyện gia đình, hội đường để Lời Chúa trở nên Người. Mẹ được sứ thần Gabriel chào chúc: “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc”. Mẹ Maria một tâm hồn truyền giáo tuyệt diệu!
Gia Đình Nơi Ươm Mầm truyền giáo.
Thưở xưa, thời của Đức Maria, mọi đứa trẻ Do Thái tới tuổi hiểu biết một chút, đều có một niềm vui khi đến ngày Sabat. Một tâm hồn tôn giáo được hun đúc từ tấm bé. Mặt tươi vui, quần áo đẹp nhất, tung tằng cùng cha mẹ khao khát đến hội đường hằng tuần, tham dự cầu nguyện, nghe kinh Tora và giảng giải.
Việc giáo dục con trẻ, người chính yếu là người mẹ trong năm năm đầu đời. Người mẹ luôn nhắc lại cho con cháu mình điều thiết yếu trong sách Đệ Nhị Luật: “ Ngươi sẽ yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lặp lại cho con cái ngươi; và ngươi sẽ ôn lại khi ngươi ngồi nhà và khi ngươi đi đường; khi ngươi nằm và khi ngươi dậy.” (Đnl 6, 5 – 7). Từ trong gia đình cha mẹ và con thấm nhuần kinh nguyện, Lời Chúa, ngay trong những hoạt động thường ngày cũng đượm chất thiêng liêng, thành kính.
Nơi trường học.
Bé từ năm tuổi trở lên đi học ở “nhà đọc sách” về kinh Tora, đến trưa về nhà. Khi ở nhà đứa trẻ phụ giúp cha mẹ, làm việc nhà hay việc nông hoặc một nghề của cha mẹ. Trẻ được học tiếng Hip ri vỡ lòng, rồi nghe đọc từng trang trong kinh Tora, đứa trẻ thông mình, ghi nhớ nhiều đoạn trong sách, sau này có thể trao đổi lưu loát về Lời Chúa cho cả người lớn hơn mình.
Đối với người Do Thái về hiểu biết Lời Chúa không quan trọng lớn tuổi hay nhỏ tuổi, mọi người đều có quyền trao đổi và giảng nghĩa như nhau. Có thể thấy điều này năm 12 tuổi Chúa Giê su lên đền thờ Giê ru sa lem, vừa nghe vừa hỏi, trả lời cùng các kỳ lão về Lời Chúa. Sử gia Josephus vào thế kỷ thứ nhất có thể tự hào về dân tộc mình: “Nếu ai có hỏi về lề luật, sách Thánh, anh ta sẽ đọc thuộc dễ dàng còn hơn tên của mình”.
Khi Thánh Luca trình bày sự việc xảy ra khi Chúa Giê su sinh ra: “Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng.” (Lc 2, 19). Điều này đã được ghi từ tấm bé trong cuộc đời của Mẹ Maria. Có câu truyện kể lại: Một người cắc cớ hỏi một nhà khôn ngoan Do Thái, “làm sao tiêu diệt được người Do Thái, người khôn ngoan trả lời: Nếu ông đi quanh hội đường người Do Thái mà không còn nghe tiếng kinh Tora con trẻ đọc, lúc ấy người Do Thái sẽ bị tận diệt.
Lên mười tuổi, đứa trẻ sẽ học lên cao hơn nơi “nhà học hỏi”. Ở đây thầy trò học hỏi theo lý luận từ sơ cấp đến cao cấp. Nghe những câu dụ ngôn và tự trả lời bằng Lời Chúa ứng với dụ ngôn. Cách học hỏi này, cho Chúa Giê su kinh nghiệm và có thể sáng tác những dụ ngôn minh hoạ hoặc trả lời một câu hỏi hóc búa, ác ý của kẻ chống đối Ngài bằng một bài học Lời Chúa.
Tâm hồn truyền giáo.
Nhà truyền giáo là người đón Chúa sinh hạ trong lòng mình và cũng đem Chúa đến sinh hạ trong lòng người khác.
Đối với người nữ trong xã hội Do thái, công việc chính yếu là nội tướng trong nhà, kéo len, đan sợi, nhà cửa, bếp ăn, giữ hơi ấm trong gia đình. Ngoài ra, còn là người nối tương quan với mọi người trong khu xóm bằng tính cách dịu dàng, tế nhị, giúp đỡ, làm nên làng xóm yêu thương. Sách Thánh đã dạy trong thập giới: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Lv 19, 18)
Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Mẹ Maria mau mắn lên đường đến thăm người chị em họ đã mang thai được 6 tháng. Việc thăm viếng không chỉ là đi đến thể hiện tình bác ái, mà với Mẹ Maria là mang Chúa Giê su đến và sinh hạ trong tâm hồn người mình gặp gỡ. Bởi vậy phản ứng đầu tiên của bà Isave vừa gặp Mẹ Maria thưa lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm, Tai tôi vừa nghe em chào thì hài nhi nhảy trong lòng tôi” ( Lc 1, 41).
Một tâm hồn truyền giáo với Mẹ Maria là thưa “Xin Vâng, cứ làm cho tôi như lời Sứ Thần truyền” (Lc 1, 38). Suốt cả cuộc đời của Mẹ từ khi cưu mang Con Chúa, khi sinh hạ, khi sang Ai cập, khi sống tại NaZareth. Khi cùng với anh chị em mình đến tìm gặp con vì lời đồn thổi, khi chứng kiến con bị người đời tố cáo, đánh đòn, vác thập giá, chết trên Thánh Giá, hạ xác, táng xác. Tất cả sự kiện ấy đến với Mẹ như đã xin vâng như lời cụ Simeon loan báo: “Này! Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối, và hồn bà, mũi gươm sẽ đâm thâu – ngõ hầu ý nghĩa của nhiều tâm hồn phải bày ra”. (Lc 2, 34 – 35).
Theo gương mẹ Maria sống đời truyền giáo, xin Mẹ giúp chúng con có “một tâm hồn truyền giáo” là: Hằng suy gẫm Lời Chúa, để Lời Chúa sinh hạ nơi chính chúng con và nhờ Chúa chúng con đến với anh chị em, với mọi người.
Hằng năm, Giáo hội dành một ngày gọi là ngày thế giới truyền giáo, để kêu gọi mọi tín hữu ý thức Truyền_giáo 196
Hằng năm, Giáo hội dành một ngày gọi là ngày thế giới truyền giáo, để kêu gọi mọi tín hữu ý thức nhiệm vụ của mình là truyền giáo. Điều này công đồng Vat II đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sắc lệnh Ad Gentes (2): “Mỗi Kitô hữu phải là một tông đồ cho Chúa”.
Bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, thánh Máccô kể lại sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài hiện ra với các môn đệ và nói ” Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).
“Các con hãy đi” đây là một lệnh truyền chứ không phải là một lời khuyên. Đức Giêsu được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian này để loan báo Tin mừng và cứu rỗi nhân loại. Rồi Đức Giêsu sai các tông đồ “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân…”. Đến lượt các tông đồ tiếp tục sai tất cả mọi thành phần dân Chúa tham gia vào sứ mạng loan báo Tin mừng.
Bằng chứng sau mỗi lần kết thúc Thánh lễ, linh mục chủ tế nói ” Lễ xong chúc anh chị em đi bình an”. Có nghĩa là lễ xong anh chị em hãy đi. Hãy đi loan báo sự bình an của Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận từ nơi đây. Hãy đi loan báo niềm tin mà anh chị em mới vừa tuyên xưng trong Thánh lễ này. Cho nên, chúng ta nên ý thức truyền giáo là bổn phận của mọi người và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được.
Thế thì, chúng ta truyền giáo bằng cách nào? Thưa, Đức Giêsu đưa ra nhiều phương thế, nhưng ở đây xin chỉ xin đưa ra ba phương thế căn bản.
1/ Cầu nguyện: Chúa Giêsu nói “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến gặt lúa”. Anh chị em biết thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu suốt đời sống trong bốn bức tường Dòng Kín không đi ra ngoài truyền giáo, nhưng tâm hồn thánh nữ từng giây, từng phút cầu nguyện cho các vị thừa sai, cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thánh nữ không chỉ cầu nguyện trong nhà thờ, nhưng còn dâng những hi sinh nho nhỏ trong đời sống tu trì để cầu cho việc truyền giáo. Vì thế, thánh Nữ được Giáo hội tôn phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Không ai trong chúng ta có khả năng làm thay đổi được tâm hồn người khác. Anh chị em có thể là nhà giáo dục giúp kiến thức cho người khác, nhưng chúng ta không thể nào có khả năng làm thay đổi được tâm linh người khác nếu không ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Bởi thế, chúng ta cần cầu nguyện, nhờ ơn Chúa biến đổi đời sống của họ.
2/ Sống chứng nhân: Đạo chúng ta là đạo yêu thương, nên Chúa sai chúng ta đi loan báo tình thương Chúa Trời yêu thương loài người. Nhưng để công việc truyền giáo đem lại hoa trái, người tông đồ trước hết phải cảm nhận được tình Chúa yêu thương mình. Bởi lẽ sứ điệp mà chúng ta cần chuyển tải cho anh chị em là dung mạo lòng Chúa thương xót và yêu thương con người. Một khi cảm nhận rõ nét tình Chúa yêu thương mình, lời chứng của chúng ta mới có sức thuyết phục. Chớ gì, người Công giáo hiện diện ở đâu thì hãy cố gắng sống hiền hòa, sống tình liên đới, kết nối yêu thương để làm chứng cho đạo thánh Chúa.
3/ Loan báo: thế giới rất cần Tin mừng của Chúa Kitô. Hãy gieo Tin mừng vào tâm hồn người khác: Đọc Tin mừng cho họ nghe, giảng Tin mừng cho họ hiểu, tặng Tin mừng cho họ đọc, phổ biến Tin mừng bằng mọi cách nhất là qua các phương tiện truyền thông. Khi họ đã nghe, đã hiểu thì chắc chắn họ sẽ sống và được biến đổi. Cho nên Chúa sai chúng ta đi là để nói, để rao giảng, để giới thiệu Chúa cho anh chị em mình. Nhiều khi chúng ta ngại nói về Chúa hay không dám xưng mình là người theo đạo Chúa.
Vì thế, chúng ta hãy là những chứng nhân tình thương, đáp lại lệnh truyền của Chúa, là ra đi khỏi ngôi nhà êm ấm, ra đi khỏi tính ích kỷ của mình… để dấn thân vào những vùng ngoại biên, mà Đức thánh cha Phanxicô đã mời gọi. Để diễn tả lối sống mới của lòng thương xót. Ngôn ngữ mới của lòng thương xót và cung cách mới là lòng thương xót.
Cuối cùng, nhà truyền giáo cần noi gương Mẹ Maria: Noi gương Mẹ lên đường mang Chúa đến với mọi người như biến cố Mẹ đi thăm bà Êlizabet; Noi gương Mẹ biết quan tâm giúp đỡ sự thiếu thốn của kẻ khác như biến cố tại tiệc cưới Cana; Noi gương Mẹ biết can đảm chấp nhận thánh ý Chúa hy sinh Con Một vì nhân loại như biến cố trên thập giá. Đồng thời, chúng ta cần nhờ Mẹ Maria đồng hành và nâng đỡ trên mọi nẻo đường truyền giáo.
Cầu chúc anh chị em có một hồn truyền giáo, là mang bình an và niềm vui của Chúa đến chia sẻ cho những người chúng ta gặp gỡ, đặc biệt những người chưa nhận biết Chúa, được như thế là chúng ta chu toàn sứ mạng mà Chúa và Giáo hội đã trao phó cho chúng ta. Amen.
Hơn một năm trước đây, nhân loại trong bầu khí chuẩn bị buớc vào thiên niên kỷ thứ ba, kỷ Truyền_giáo 197
Hơn một năm trước đây, nhân loại trong bầu khí chuẩn bị buớc vào thiên niên kỷ thứ ba, kỷ niệm 2000 năm Mầu Niệm Nhập Thể. Trong dịp trọng đại đó, Giáo hội nhìn lại việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, đồng thời đề ra những đường huớng mới cho một cuộc loan báo Tin Mừng cách cụ thể cho từng châu lục. Đặc biệt với giáo hội tại Á Châu đã vui mừng đón nhận được Văn kiện “Eccelesia in Asia – Giáo Hội Tại Á Châu” được công bố tại New Delhi (Ấn độ), tháng 11 năm 1999, như một “kim chỉ nam” cho giáo hội nơi đây chuẩn bị mừng Năm Đại Toàn xá 2000; đồng thời có dịp nhìn lại vấn đề truyền giáo của mình và tìm ra một hướng đi mới cho thiên niên kỷ này.
Và mới đây trong phiên họp chung ngày 10-10-2001, ĐHY Jan Schotte, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục, đã loan báo các nghị phụ về việc công bố Văn kiện Hậu- Thượng Hội Đồng Giám Mục riêng của Châu Đại dương (Ecclesia in Ocaenia). Ngài nói: “Tôi vui mừng loan báo trong phiên họp chung này là Đức Thánh Cha, sau khi suy tư lâu dài và bàn hỏi, đã quyết định công bố Tông huấn Hậu- Thượng Hội Đồng “Ecclesia in Oceania” tại Vatican (thay vì đi đến một địa điểm trong miền này), trong một buổi tiếp kiến riêng, được ấn định vào ngày 22 tháng 11 năm 2001, lúc 11g30, tại Phòng Khánh Tiết Clementina của Phủ Giáo Hoàng, nhân dịp kỷ niệm năm thứ bốn của lễ nghi khai mạc khóa họp riêng cho Châu Đại dương”.
ĐHY Jan Schotte nhấn mạnh: “Trong lúc này, tôi xin các Nghị phụ cầu nguyện cho Giáo hội tại Châu Đại Dương, đã từ lâu chờ đợi với nhiều lo âu về văn kiện này. Giáo hội trong miền này được mời gọi đón nhận giáo huấn Hậu Thượng Hội Đồng trong tinh thần yêu mến, được mời gọi phổ biến văn kiện này và thực hiện nội dung của nó trên cấp bậc giáo phận và giáo xứ với lòng nhiệt thành truyền giáo, đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha tiến đến việc tái rao giảng Tin Mừng, cách riêng trong lúc bước vào Ngàn Năm thứ ba”.
Với những ý nghĩa đó, Chúa Nhật Truyền Giáo có chiều kích của một cuộc khởi khởi đầu mới trong nỗ lực loan báo Đức Giêsu cho thế giới.
Anh em sẽ làm chứng cho Thầy
Các tông đồ là những người được Đức Giêsu kêu gọi để chia sẻ cuộc sống của Người; các ông đã được tham dự và chứng kiến những biến cố khác nhau trong cuộc đời của Đức Giêsu. Những điều đó không phải chỉ là những sự kiện lịch sử,?không phải chỉ làô1 xảy ra trong quá khứ. Các tông đồ không phải chỉ là những chứng nhân về những sự kiện tầm thường. Trái lại đây là những biến cố làm đảo lộn lịch sử, những biến cố đem lại ơn giải thoát cho con người, và các tông đồ là những người loan báo, những người tiếp tục thực hiện công trình ấy.
Những biến cố tập trung vào sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Các tông đồ không làm chứng về điều gì khác ngoài sự kiện đó. Đó không phải là hoạt động của con người, nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, để thể hiện tình thương và ơn cứu độ cho thế giới. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là làm chứng về biến cố quan trọng này. Vì đó là biến cố quan trọng nên phải dồn hết mọi nỗ lực, mọi khả năng để loan báo, để làm chứng. Phải làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi bằng máu nữa.
Do đó, ý thức được tầm quan trọng của sứ điệp, các tông đồ, những người đã được chứng kiến tận mắt, đã đem hết cuộc đời của mình để làm chứng: các ông đã giảng dạy, đã viết thơ, viết sách, đã chịu nhiều gian nan vất vả với một ước mong duy nhất là sứ điệp phục sinh được công bố cho tất cả mọi người. Các ông đã không ngần ngại chịu đổ máu, chịu hy sinh cuộc đời, bởi vì các ông được sai đi làm nhân chứng, theo gương Vị Thầy, Đấng đã gọi và sai các ông đi.
Và, như lịch sử cho thấy, việc loan báo sứ điệp Ki-tô giáo trong những thế kỷ đầu tiên dựa trên biến cố nền tảng này. Các ki-tô hữu thời sơ khai không chú trọng về các quy luật luân lý, cũng không trình bày nhiều về các chi tiết trong cuộc đời Đức Giêsu, nhưng tất cả cuộc sống, mọi sinh hoạt của họ đều xoay quanh biến cố phục sinh, vì họ hiểu rằng, đó là biến cố trọng tâm của lịch sử ơn cứu độ.
Như vậy, sứ điệp Ki-tô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới; cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Ki-tô giáo trước hết là một biến cố, và người loan báo phải làm chứng về biến cố ấy.
Tin Mừng thúc bách tôi
Ơn cứu độ phải được loan đi cho đến tận cùng vũ trụ. Đó là sự nôn nóng của một tâm hồn đã được đổ tràn tình thương của Thiên Chúa. Đó cũng là thao thức của một tâm hồn đã được cảm hóa nhờ sự chết và sống lại của Đức Ki-tô, và đó cũng là niềm phấn khởi của tâm hồn tràn đầy sức sống và gắn bó sâu xa với Đức Ki-tô.
Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm về điều mình làm chứng. Tin Mừng không phải chỉ là những điều được rao giảng, được công bố, nhưng chính là cuộc sống, là những tiếp xúc thâm sâu với Đức Giêsu, để rồi từ đó mới chuyển qua những hoạt động cụ thể, những công việc bên ngoài.
Đã có một thời người ta quan niệm việc truyền giáo như là những hoạt động rầm rộ nhằm áp đặt, lôi kéo người khác theo đạo. Dĩ nhiên, những công việc này rất ích lợi nếu phát xuất từ tấm lòng nhiệt tình với Tin Mừng, với ơn cứu độ. Khốn thay, không phải lúc nào cũng được như thế. Không những người ta đã bó buộc, đã áp đặt, nhưng còn lợi dụng danh nghĩa truyền giáo để mưu tìm những ích lợi cho riêng mình…
Tuy thế, chúng ta không hề có ý phủ nhận công lao vất vả của các vị truyền giáo đã đem Tin Mừng đi khắp thế giới. Chỉ có điều là, vẫn có những bóng đen trong lịch sử truyền giáo, và điều ấy phải là một kinh nghiệm sâu sắc cho cuộc loan báo Tin Mừng mới.
Như vậy, truyền giáo không phải là lôi bè, kết đảng làm sao lôi kéo nhiều người về với phe mình. Nhưng truyền giáo phải là tiếng gọi, là nhu cầu bên trong của cõi lòng tha thiết yêu thương, của tâm hồn có được kinh nghiệm về Đức Giêsu. Ngoài ra, truyền giáo cũng chính là để mọi người được sống trong tình thương, được tôn trọng để từ đó Nước Chúa được hiển trị và muôn người hợp nhất nên một trong ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô chịu chết và sống lại.
Từ đó, con đường hành động của người Ki-tô hữu không thể nào khác hơn con đường của Thầy mình: là hạt lúa mì gieo vào lòng đất, chịu thối rữa đi; là phải cúi xuống rửa chân cho anh em mình, là phải sẵn sàng phục vụ giúp đỡ những người khó khăn bên cạnh mình … nghĩa là phải đối xử với mọi người cách chân tình, đầy tâm tình yêu mến và kính trọng, bởi vì tâm hồn mình đang thấm đầy tình yêu và sức sống của Đức Ki-tô, Đấng đã chịu chết và sống lại cho tất cả mọi người.
Tin Mừng là tin mừng tình thương, chỉ khi nào con người sống trong tình thương, và loan báo, thể hiện tình thương đó, khi ấy mới thực sự là truyền giáo.
Lạy Chúa, con là sứ giả của Chúa
“Lạy Chúa, Chúa đã muốn chọn con để cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng của Chúa. Chúa muốn đến với nhân loại qua cuộc đời của con. Chúa muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người qua trung gian của con.
Con là người được tham dự vào công trình của Chúa, con là sứ giả của Chúa. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn.
Vâng, lạy Chúa, Con biết rõ điều đó.
Chính Chúa đã kêu gọi con, đã đổ xuống trên con tình thương của Chúa. Chính Chúa đã đóng dấu ấn của Chúa trên con, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Chúa đã muốn dùng con để công bố những điều kỳ diệu mà không sợ rằng chân lý bị suy suyển vì tội lỗi của con.
Riêng con, con rất vui mừng và sung sướng được góp phần nhỏ nhoi của mình vào công việc lớn lao của Chúa. Con cảm thấy hạnh phúc vì được trở nên khí cụ để Chúa bày tỏ quyền năng.
Xin cho con luôn cảm thấy ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được Chúa đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả của Chúa.
Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật đó mỗi khi con được đón nhận, dù con thật bất xứng.
Nhưng lạy Chúa,
Con cũng nhận ra đây là một gánh nặng.
Con phải hoàn thành sứ mạng đã được trao phó “khi thuận tiện cũng như lúc khó khăn”.
Con phải loan báo về Chúa, phải làm chứng – vì khốn cho con, nếu con không rao giảng. Con không thể tháo lui, bỏ mặc sứ mạng của mình.
Con phải ra đi, ra khỏi mình để loan báo, để thể hiện ơn cứu độ của Chúa cho mọi người, dù người đó là ai chăng nữa.
Đôi lúc con cảm thấy mình không đủ sức để chu toàn sứ vụ, đôi lúc con cảm thấy sứ vụ quá khó khăn mà dường như con không thể vượt qua.
Xin con luôn nhớ rằng Chúa vẫn ở bên con, vẫn là người hướng dẫn, vẫn là người chịu trách nhiệm về sứ vụ đã trao cho con.
Xin cho con đủ tin tưởng và can đảm để trở thành một khí cụ tốt …
Và lạy Chúa,
Làm sao con có thể thông truyền chân lý của Chúa mà chính con lại đã không đích thân chiếm lấy chân lý ấy, và Chúa cũng đã chẳng chiếm lấy con rồi?
Làm sao con có thể loan báo Tin Mừng mà đã không được Tin Mừng ấy ghi dấu sâu xa nơi tâm hồn mình.
Làm sao con có thể làm chứng về Chúa nếu con đã không có kinh nghiệm về Chúa?
Con hiểu rằng Chúa là Ánh Sáng, và ánh sáng đó bừng lên là nhờ chất dầu của cuộc đời con.
Con phải để cho ánh sáng đó bừng lên trong cuộc đời mình trước khi bừng lên trong thế giới.
Cuối cùng, lạy Chúa,
Chúa đã muốn sử dụng con, xin đừng để con thành một ngăn trở. Xin đừng để những vụng về, những yếu đưối của con làm hỏng đi công trình của Chúa, trái lại, xin cho mọi người đón nhận được Chúa qua cuộc đời của con.”
Luật công bằng tự nhiên mách bảo: có làm thì mới có ăn, có gieo vãi thì có quyền tận hưởng thành Truyền_giáo 198
Luật công bằng tự nhiên mách bảo: có làm thì mới có ăn, có gieo vãi thì có quyền tận hưởng thành quả. Tiền nhân chúng ta cụ thể hơn khi nói đến tinh thần trách nhiệm của người quân tử: làm trai cho đáng nên trai, xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài yên. Tạ ơn trời đất, biết ơn bậc sinh thành, nhớ ơn các vĩ nhân, thế hệ con cháu đâu phải chỉ là những kẻ thụ hưởng gia sản của tiền nhân, vì mọi người đều được mời gọi ý thức phát huy tinh thần dân tộc: cha anh hùng, con hảo hán. Chính nguồn hạnh phúc hiện tại, hướng tới niềm an vui ở tương lai, người quân tử dù đức dù tài có hạn chế, cũng không thể đứng khoanh tay chờ thời, hay ngồi đó than thân trách phận, mà bằng ý chí quyết tâm một lòng sống niềm tin: con hơn cha, nhà có phúc.
Xã hội thời nào cũng phức tạp: có người tốt, sống chung với kẻ chưa tốt, có người thật thà chân thành, phải đối diện với kẻ lắm mưu nhiều kế ! Cũng vì phúc lộc dư tràn là có thật, nên từ sâu thẳm của tâm tư, phận làm con cháu đều được nhắc nhớ: uống nước nhớ nguồn. Khánh nhật truyền giáo, một ngày, một tuần, hay một đời truyền giáo, người tín hữu Kitô chúng ta đang hít thở, đang chung một thao thức, một niềm tin, một tình hiệp thông trong Đấng đã chết và sống lại vì yêu, vì muốn cứu độ chúng sinh. Khánh nhật truyền giáo là nét đặc trưng của Đại gia đình gồm tất cả các thành viên đang sống trong tình liên đới yêu thương. Vì tình yêu, Đức Kitô sẽ thắp sáng niềm tin nhằm giúp từng đối tượng trong Đại gia đình của Ngài hiểu: non kia ai đắp mà cao, sông kia biển rộng ai đào mà sâu. Đấng mà chúng ta gọi là Thầy là Chúa, Ngài sẽ mở ra cho chúng ta “hồng ân cứu độ”, lấp đầy khoảng trống tâm tư mỗi người bằng một điệp khúc “yêu đến cùng”.
Vì Đấng yêu tôi, vì tôi được yêu nên tôi biết yêu, một tình yêu vừa đầm ấm tình người, vừa thanh thoát linh thánh ở trong “sứ mạng riêng” của mọi thành viên gia đình Kitô. Trên phạm vi đức tin, người tín hữu đều biết bản chất của hội thánh là truyền giáo, truyền giáo không phải chỉ thuộc về một số đại diện: linh mục tu sĩ, truyền giáo là mang bình an, mang tin vui đến cho mọi người. Trên thực hành, nhiều người cho rằng truyền giáo là sống gương sáng đức tin bằng lời nói việc làm cho con cháu, cho anh chị em xung quanh mình, cả những thành phần chưa một lần bước chân đến nhà thờ. Có thực mới vực được đạo, có tình yêu Chúa trong lòng, ngoài môi miệng và cách cư xử của ta mới bày tỏ được lời hay ý đẹp. Đức Giêsu đã nói, đã có lệnh truyền đến các học trò: “Thầy đã được toàn quyền trên trời dưới đất, vậy anh em hãy đi khắp muôn dân thiên hạ rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Vì yêu, năm xưa Đức kitô trực tiếp mời gọi các tông đồ truyền giáo, đã gián tiếp nhắc nhớ đến sứ mạng loan báo Tin mừng là của mọi người. Vì tình yêu Đức kitô, ngày hôm nay, trẻ hay già, giầu sang nghèo hèn, nhiều tài thiếu đức, đạo gốc đạo theo, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, tất cả đều được gọi là thành viên của gia đình Chúa, khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Vì Đấng đã yêu, đã chết và sống lại, mỗi thành viên Kitô vừa có bổn phận, vừa có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ và phát sinh hoa trái thánh thiện như lòng Chúa mơ ước. Đấng kitô không thẩm vấn các học trò xem có đủ tài trí thông minh, năng lực bằng cấp, Đức Kitô không trao ban vật chất, phương tiện, ngựa, xe, cho các học trò, nhưng Ngài cần các môn đệ một tinh thần tông đồ.
Vì yêu, “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Vì yêu, người môn đệ mới cảm nhận được sức mạnh, quyền năng và ơn bình an của Thầy để dấn thân, phục vụ Tin mừng mà không sợ hãi thế lực trần gian. Cha ông chúng ta có câu: muốn làm phúc ở đâu, cũng phải bắt đầu từ nhà mình đã. Đúng, muốn làm môn đệ Đức kitô, muốn truyền giáo, trước hết tâm hồn mình phải có tình yêu Giêsu, có tinh thần người chiến sĩ theo Thầy… Vì Đấng yêu tôi, vì sự tự do của người môn đệ, khi sức mạnh của tình yêu Giêsu vừa đủ trong tâm trí, người môn đệ theo Đức kitô sẽ tự tin để nói rằng: yêu ai cứ bảo là yêu, phục vụ Đức kitô cứ bảo là phục vụ Đức kitô. Vì tình hiệp thông, các môn đệ đã hết tình hết mình sống lời căn dặn: “anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”.
Vì Đấng đã yêu tôi, vì truyền giáo là sứ mạng của tất cả những ai theo Đức kitô, vì nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực, mà là nơi không có tình người ; Đức kitô không hứa hẹn phần thưởng, nhưng Ngài đã quả quyết: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Mỗi ngày chúng ta có thể quên đi nhiều thứ, nhưng người môn đệ đi con đường Thầy Giêsu đã đi, không được quên Thầy luôn đồng hành và hiện diện bên chúng ta. Vì Đấng yêu tôi, người đời có thể hiểu sai, hoặc ghét những việc làm của các môn đệ Đức Giêsu, nhưng ta hãy tha thứ, hãy bỏ qua, dù ta từng bị thất bại, từng bị người đời cản trở, lên án bất công. Xin Thầy Chí Thánh tiếp tục biến đổi và thánh hoá những môn đệ của Thầy bằng tình yêu, bằng gương sáng đức tin, toả chiếu đến mọi người mọi nơi. Amen.
Lúc còn là một cậu thiếu niên, khi nghe đoạn Tin Mừng trong ngày lễ Chúa Nhật truyền giáo có Truyền_giáo 199
Lúc còn là một cậu thiếu niên, khi nghe đoạn Tin Mừng trong ngày lễ Chúa Nhật truyền giáo có câu “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15) cộng với tiếng hát hân hoan, ca ngợi:
Ôi đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới Loan tình thương Chúa Trời, loan niềm vui cứu đời Cho mọi người và mọi nơi. (Đẹp thay – Mi Trầm – Thánh ca cộng đồng)
Lòng tôi lại rạo rực ước mơ được trở thành một tông đồ đi đến những miền đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho những người, những dân tộc chưa biết Chúa. Những cảnh tượng đồng lúa mênh mông trĩu nặng những hạt lúa chín vàng không có người gặt hái khiến tôi ngây ngất tưởng tượng như mình là một người thợ gặt chính hiệu dù chưa bao giờ cầm tới một cái liềm, cái hái!
Dần dà tôi cảm nghiệm ra rằng truyền giáo không chỉ như Thánh Phanxicô Xaviê từng bôn ba suốt đời nơi cuối trời góc biển nhưng còn là những lời kinh nguyện âm thầm trong nhà tu kín của Thánh nữ Têsêsa Hài đồng Giêsu. Ngoài ra còn biết bao hình thức truyền giáo khác nhau của hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người được huấn luyện trong trường lớp đặc biệt có bài bản để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu.
Rồi khi được học hỏi về Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, tôi mới vỡ lẽ thêm rằng: giáo dân cũng có bổn phận và quyền làm tông đồ vì qua bí tích Thánh Tẩy, họ cũng được tham gia vào chức vụ Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Giả của Đức Kitô. Đức Kitô là Ðầu của họ và họ trở thành chi thể của nhiệm thể Người. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông đồ. Việc tông đồ được thực thi nhờ đức tin, đức cậy và đức ái.
Để thực hiện tông đồ giáo dân, có hai phương pháp hoạt động là tông đồ tập thể và tông đồ cá nhân. Các hội đoàn Công Giáo Tiến Hành trong đó có GĐPTTTCG là phương pháp hoạt động tông đồ tập thể được Giáo hội khuyến khích vì nó có tổ chức quy củ sẽ đáp ứng hữu hiệu hơn cho nhu cầu của con người và tín hữu.
Để có thể nói về Chúa cho mọi người, người tông đồ giáo dân cần phải được huấn luyện: huấn luyện chung cho mọi tín hữu và những lớp huấn luyện chuyên biệt cho đoàn thể tông đồ có nhiều đoàn viên và hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời tự thân họ cũng phải cố công học hỏi để hiểu sâu Lời Chúa và để biết cảm thông với những người mình gặp gỡ. Biết lắng nghe, đọc, chiêm ngắm, suy niệm và sống Lời Chúa mỗi ngày là điều kiện nòng cốt để có thể chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho tha nhân, bởi ta không thể cho ai điều mình không có.
Trong Tông huấn ”Niềm Vui Phúc Âm”, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng “với các việc làm và cử chỉ của mình, cộng đoàn rao giảng Tin Mừng cần bước vào cuộc sống thường ngày của người khác …”. Không cần thiết phải đi đến những nơi xa xôi, không cần có khả năng thuyết giáo với những lí lẽ mang tính thuyết phục …mỗi giáo dân trong cuộc sống thường ngày có thể làm việc tông đồ như men ủ trong bột ở ngay trong môi trường sống “theo mức độ Đức Ki-tô ban cho” (Ep 4,7). Người tông đồ giáo dân ý thức mình sẽ đóng nhiều vai trò vừa trong Giáo hội vừa nơi xã hội, nơi làm việc, gia đình của mình… Nơi nào họ cũng mong mình trở thành ánh sáng, là men, là muối cho trần gian. (x Mt 5,13-14)
Khi thực hiện đọc kinh Đền tạ luân phiên tại các gia đình, các đoàn viên GĐPTTTCG đã đem Lời Chúa, câu kinh đến từng gia đình, khu xóm nơi gia đình mình sinh sống. Lời Chúa, câu kinh ta đọc đó cần phải được tỏa sáng bằng những việc làm thường ngày trong sinh hoạt cộng đồng.
Để trở nên men Tin Mừng cho mọi người, người tông đồ giáo dân phải là người có cuộc sống mẫu mực, luôn vui vẻ chu toàn bổn phận, nói đi đôi với làm, dám quên mình vì ích chung, quảng đại góp phần vào những việc bác ái – xã hội chung trong khu xóm, trong giáo xứ. Vì người khác chỉ có thể bị thu hút bởi những người sống có uy tín đối với mọi người và biết cách làm cho điều tốt đi vào lòng người.
Xã hội nói chung và từng khu xóm hiện nay đều có những hoàn cảnh sống trái ngược nhau: kẻ lắm tiền nhiều của, người nghèo khó neo đơn …. Muốn loan truyền Tin Mừng yêu thương cho tha nhân, mỗi người tông đồ giáo dân phải thực hiện việc bác ái ngay trong nơi làm việc, khu xóm và gia đình mình.
Quan tâm đến mọi người sống chung quanh, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng trong tinh thần bác ái – xã hội. Người tông đồ giáo dân cần bắt chước Đức Kitô khiêm hạ, chuyên lo làm đẹp lòng Thiên Chúa và yêu thương con người. Khi thực thi bác ái cần phải nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi tha nhân và bất cứ sự gì trao tặng cho người nghèo là đã thực sự được dâng cho chính Đức Kitô
Lạy Chúa, xin cho ngày Chúa Nhật Truyền Giáo đánh thức nơi mỗi kitô hữu chúng con sự đam mê và nhiệt huyết cần thiết để đem Tin Mừng cho toàn thế giới. Xin cho chúng con luôn ý thức về trách nhiệm truyền giáo của một Kitô hữu và hun đúc trong chúng con ơn gọi làm tông đồ. Cho lòng chúng con luôn rộng mở khi đóng góp vào công việc mở mang nước Chúa. Xin cho chúng con lắng nghe và thực thi Lời Chúa mỗi ngày để gia đình chúng con trở thành một “cộng đoàn cầu nguyện, sống tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống và hăng say loan báo Tin mừng”.
Xin Chúa giúp chúng con trở nên những tia sáng, hạt muối, hạt men tốt: nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải môi trường mình sống trở nên tốt đẹp hơn. Cho chúng con biết quan tâm sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trong gia đình, trước khi loan báo cho người khác cùng sống theo. Xin thánh hóa để chúng con trở nên những chứng nhân Tin Mừng, biết quan tâm tới đau khổ và hạnh phúc của những người khác trong giáo xứ, khu xóm của chúng con. Amen.
Lời cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời, theo Tin Mừng Thánh Mat-thêu là: “Anh em Truyền_giáo 200
Lời cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời, theo Tin Mừng Thánh Mat-thêu là: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.”
Ngài không còn ở giữa chúng ta như Em-ma-nu-en nữa, Ngài muốn chúng ta tiếp nối công trình của Ngài “cho đến tận thế.” Đó là lệnh truyền cuối cùng; Nhưng đối với các Tông đồ, đây là lệnh xuất phát. Lệnh này đã được ban trên núi, ở Ga-li-lê, nơi Ngài bắt đầu sứ mệnh cứu thế của Ngài, nơi Ngài ban hiến chương Nước Trời (tám mối phúc thật). Ngài kết thúc sứ mệnh ấy bằng cách sai các môn đệ vào thế giới, tiếp tục và hoàn tất công trình cứu độ của Ngài. Thánh Mat-thêu ghi lại thái độ của các Tông đồ: “Khi thấy Ngài, các ông bái lạy Ngài”, nghĩa là nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa, mặc cho một số người còn hoài nghi.
Chúa Giêsu nói: “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Chúng ta không nghe Ngài nói, cũng không được chứng kiến cảnh tượng đó, nhưng lời nói của Ngài thật oai nghiêm! Ngài đứng đó giữa các ông, nhưng oai nghi làm sao! Cao cả tuyệt vời! “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Làm như Ngài không còn thuộc về trần gian này nữa.
Chúng ta có thể nhìn lại nơi đỉnh núi Ta-bo-rê, nơi “Ngài sáng chói như mặt trời”, khiến các môn đệ có mặt phải sấp mình xuống đất, hoảng hồn kinh vía.
Ngài đã sống và đã chết, nhưng giờ đây, Ngài đã sống lại vinh hiển. Ngài là Thiên Chúa hằng sống, đã chiến thắng sự chết và tội lỗi một cách vẻ vang. Ngài còn mang lấy xác phàm, nhưng Ngài đã thuộc về thượng giới, như Ngài đã từng nói với ông Ni-cô-đê-mô và với người Do thái: “Tôi hằng hữu”.
Vậy lệnh truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, là lệnh của một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối, chứ không chỉ là lệnh của một người phàm, dù họ là ai.
Chúng ta nghĩ sao?
Chúng ta không hiểu tầm quan trọng của nó, chúng ta xem như một lời tuyên bố của một người nào đó, không quan trọng cho lắm, hay chỉ là cho một số người nào đó có chức phận. Có lẽ lúc nào đó chúng ta cũng chú ý, nhưng không quan tâm cho lắm. Chúng ta thật nhẹ dạ và nông cạn! Đây là một lệnh truyền chứ không là một lời khuyên. Lệnh truyền là phải thi hành không thể bỏ qua… Và lệnh truyền cho mọi người đã tự nguyện chấp nhận là người của Chúa, và hơn nữa là con Chúa.
Các Tông đồ đã hiểu và đã thi hành, tuy rằng không do sức mình mà do Thánh Thần Tình Yêu. Các ngài đã bôn ba khắp mọi miền đất, đã chấp nhận mọi gian khổ để tuân theo, kể cả cái chết.
Thánh Phao-lô, kẻ sinh sau đẻ muộn, cũng đã hiểu và đã hăng say tuân hành, dù phải vượt qua muôn ngàn gian khổ, ngục tù và sau cùng, đã hiến dâng mạng sống, vì lệnh truyền này.
Giáo Hội, hơn hai mươi thế kỷ qua, vẫn tuân hành vì nhận rằng “bản tính của mình là truyền giáo” (Ad Gentes, 1). Giáo Hội không dám bỏ quên lệnh truyền của Thầy mình và cố gắng thi hành đến cùng. Giáo Hội đã tung con cái mình ra khắp muôn phương, trong những vùng đất xa xôi hiểm trở nhất. Những nhà truyền giáo lừng danh như Phan-xi-cô Sa-vi-ê, như cha Ricci, cha Lebbe bên Trung Quốc, và biết bao nhiêu người khác đã vì muốn đem các linh hồn về với Chúa đã không ngần ngại hy sinh tất cả, kể cả mạng sống. Trong số 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam, chúng ta thấy có nhiều giám mục, linh mục, các vị thừa sai ngoại quốc, đã bỏ mình trên miền đất Việt Nam như Thánh Venard, Thánh Đaminh Benares,…
Có lẽ chúng ta không thể so bì với những tay truyền giáo “khổng lồ” ấy, nhưng chúng ta cũng nên tự hỏi: “Tôi có làm gì để truyền giáo trong gia đình tôi, trong làng xóm tôi chưa?”
Lệnh truyền này không chỉ dành cho một thiểu số trong Giáo Hội mà cho mọi người. Là ki-tô hữu cũng là một nhà truyền giáo, chúng ta phải loan truyền cho mọi người Tin Mừng cứu độ của Chúa, vì chúng ta cũng được cứu độ. Chúng ta phải loan truyền tình thương của Chúa, vì chúng ta đã được yêu thương.
Truyền giáo không cần bằng cấp, không cần phương tiện nào cả. Phương tiện, nếu có, chỉ là phụ thuộc. Ngày xưa không có máy tính, không có internet, không có máy móc tinh vi như ngày nay, người ta vẫn truyền giáo. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng khuyến khích dùng mọi phương tiện truyền thông tối tân nhất để truyền giáo. Điều đó rất thích hợp với thời đại kỹ thuật số của chúng ta, nhưng phương tiện nào, dù tinh vi đến đâu cũng không bằng cuộc sống. Một cha sở nhà quê chỉ khuyên giáo dân: “Anh em muốn truyền giáo? Hãy sống cho tốt, hãy sống thật tốt”. Và có lẽ cha sở nhà quê ấy không sai lầm. Chính Đức Phao-lô VI đã nói: “Thời đại này, người ta không thích nghe những thầy dạy, mà chỉ tin vào những nhân chứng, và nếu có nghe những thầy dạy, thì thầy dạy đó phải là nhân chứng”.
Sống thật tốt, đó chỉ mới là điều kiện nhưng chưa đủ, vì những người vô thần cũng có thể sống tốt. Phần chúng ta, là ki-tô hữu, chúng ta cần sống tốt, sống thánh giữa đời và đó cũng là phương cách truyền giáo hữu hiệu nhất.
Công Đồng Vatican II đã ban một sắc lệnh về “hoạt động truyền giáo”. Đức Chân Phước Gioan Phao-lô II luôn khuyến khích việc “Phúc Âm hóa mới”, việc “tái Phúc Âm hóa”. Các Ngài luôn thao thức và kêu gọi toàn thể Giáo Hội phải ra đi, phải loan báo Tin Mừng cứu độ…
Các Ngài tiếp nối công trình và tiếng gọi của Chúa Giêsu. Các ngài, từ Đức Gioan XXIII, Phao-lô VI, Gioan Phao-lô II đến đương kim Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI, đã đi khắp thế giới, để làm gì? Để loan báo Tin Mừng, các ngài đi bằng phi cơ, thánh Phao-lô đi bộ, đi thuyền… tất cả chỉ nhắm một mục tiêu: loan báo Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ.
Trong thực trạng hôm nay, chúng ta thấy gì? Thế giới càng ngày càng lún sâu vào làn sóng vô thần… Chúng ta có thể làm gì để thực thi lệnh truyền của Chúa? Chúng ta có cảm thấy rằng, chúng ta có sứ mệnh mang Tin Mừng của Chúa cho mọi người không?
Nhiều nơi trên thế giới, nhất là những nước tân tiến, giàu có, người ta sống như không cần Thiên Chúa. Giàu có, sung túc, người ta chỉ lo hưởng thụ, vui chơi, nên Thiên Chúa trở thành thừa thãi. Nơi khác, Thiên Chúa thẳng thừng bị loại trừ không có đất sống… Vậy, bổn phận của chúng ta phải làm gì?
Đứng trước thế giới vô đạo, chúng ta cần phải làm gì hay chúng ta chỉ khoanh tay đứng nhìn? Chẳng lẽ chúng ta bất lực sao?
Đền thờ của Chúa đang được xây dựng, và vẫn còn xây dựng mãi cho đến tận thế. Chúng ta ngồi nhìn để cho người khác xây, chúng ta không tiếp tay sao? Đóng góp một viên gạch cũng quí. Hãy làm một việc gì đó, nhỏ thôi, cũng hữu ích. Hãy đóng góp một hành vi bác ái, một nụ cười tha thứ, tất cả đều giúp ích cho Đền Thờ Thiên Chúa.
Không ai trong chúng ta được phép đứng ngoài công việc xây dựng Nước Chúa. Rất nhiều người vô danh đã hằng ngày góp phần vào công việc “biến mọi người thành môn đệ”. Chúng ta đừng để cuộc sống chúng ta thành vô dụng khi một hành động “vì yêu” sẽ hữu ích cho Nước Chúa.
Âm thầm hay công khai, chúng ta hãy tiếp tay vào công việc mà Chúa đã trao cho chúng ta.
“Hãy đi!” Đó là mệnh lệnh. Đừng tự nhốt mình trong ngục tù ích kỷ và an phận của mình. Hãy lên đường giữa biển người vô đạo, hãy làm sao cho mọi người biết những gì Chúa đã âm thầm nói trong tâm hồn chúng ta.
Mẹ Tê-rê-xa Calcutta bảo chúng ta hãy “làm dịu cơn khát của Chúa Giêsu”. Ngài đang khao khát các linh hồn. Chúng ta đành lòng để Ngài khao khát mãi sao?
Hãy làm được gì bạn có thể làm để máu Chúa không đổ ra vô ích. Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu, từ khi vào nhà dòng không lâu, một ngày nọ, trong sách nguyện ló ra một phần bức ảnh, Tê-rê-xa thấy máu nơi tay Chúa chịu đóng đinh, chị đau đớn và quyết tâm từ đấy, “ở mãi dưới chân thập giá để gom góp máu Chúa và đổ tràn trên các linh hồn”.
Yêu mến Chúa, chúng ta không thể ngồi yên, bao lâu quanh ta còn bao nhiêu linh hồn chưa biết tình yêu Chúa.
Và Chúa hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Lời hứa đó đã được thực hiện khi Ngài sai Thánh Thần đến trên Giáo Hội. Ngài cũng thực hiện lời hứa ấy bằng cách trở nên tấm bánh tình yêu hằng ngày cho chúng ta ăn, để cùng với chúng ta, cứu vớt các linh hồn.
Ăn lấy tấm bánh thần linh này, chúng ta không hành động một mình và cô đơn, nhưng cùng nhau hành động; nhờ đó, chúng ta mới đủ can đảm làm chứng nhân giữa cái xã hội vô đạo đang lao mình vào cái chết…
“Hãy đi! Này Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.