Suy Niệm Tin Mừng Lễ các đẳng 2/11 Bài 201-233 Cầu nguyện cho ông bà cha mẹ qua đời

Thứ ba - 29/10/2019 10:08
Suy Niệm Tin Mừng Lễ các đẳng 2/11 Bài 201-233 Cầu nguyện cho ông bà cha mẹ qua đời
Suy Niệm Tin Mừng Lễ các đẳng 2/11 Bài 201-233 Cầu nguyện cho ông bà cha mẹ qua đời
Suy Niệm Tin Mừng Lễ các đẳng 2/11 Bài 201-233 Cầu nguyện cho ông bà cha mẹ qua đời
---------------------------------------

Lễ I: Gioan 6,51-59:
"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Dothái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Dothái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được ?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là Lời Chúa.

Lễ II: Luca 23,33.39-43
"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao ? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu ?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". - Ðó là Lời Chúa.

Lễ III: Gioan 17,24-26
"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa". - Ðó là Lời Chúa.

-------------------------------------------
2/11-201: LỄ CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN.. 2
2/11-202: MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG.. 8
2/11-203: GỌI TÌNH.. 14
2/11-204: NGUỒN YÊU THƯƠNG.. 18
2/11-205: SỢI DÂY CHUYỀN LIÊN ĐỚI 20
2/11-206: Xin Nhớ Đến Con Cùng. 23
2/11-207: Tin Tưởng và Cậy Trông Vào Thiên Chúa Tình Yêu. 25
2/11-208: THÁNH LỄ II Tin mừng Luca 23,33.39-42. 27
2/11-209: THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27. 28
2/11-210: UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN.. 30
2/11-211: LUYỆN HÌNH – NƠI CHỐN VẪN CÒN TÌNH YÊU ! 33
2/11-212: Lạy Chúa, xin đưa họ vào hưởng niềm hoan lạc cùng chư thánh. 36
2/11-213: Sinh và tử hiệp thông. 40
2/11-214: HẠNH PHÚC CỦA NHỮNG NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA.. 43
2/11-215: Sự thanh luyện cần thiết _ Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 45
2/11-216: Cầu cho các tín hữu đã qua đời 49
2/11-217: Báo hiếu mẹ cha. 51
2/11-218: TÌNH YÊU LÀ BÍ QUYẾT CỦA HẠNH PHÚC.. 55
2/11-219: Sao Ngài bỏ rơi con?. 59
2/11-220: Bốn bà vợ. 62
2/11-221: Lễ Các Linh Hồn. 65
2/11-222: Sự mỏng manh và ngắn ngủi của cuộc sống. 67
2/11-223: SỐNG NHƯ KHÔNG BAO GIỜ CHẾT.. 68
2/11-224: SỐNG LỜI CHÚA- HÃY TỈNH THỨC.. 70
2/11-225: LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN.. 72
2/11-226: LỄ CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN.. 74
2/11-227: CÁI CHẾT.. 80
2/11-228: KHI THẦN CHẾT LÊN TIẾNG.. 82
2/11-229: HÀNH TRANG VÀO ĐỜI SAU.. 84
2/11-230: NGƯỜI CÔNG GIÁO CÓ KÍNH NHỚ TỔ TIÊN KHÔNG?. 88
2/11-231: CÁT BỤI PHẬN NGƯỜI 91
2/11-232: SỐNG TRỌN ĐẠO LÀM CON.. 95
2/11-233: TẤM LÒNG THANH.. 99

-----------------------------------

 

2/11-201: LỄ CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN


Lm. Đan Vinh

LỜI CHÚA: Thánh Phaolô đã xác tín về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như sau: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6,8-9).

CÂU CHUYỆN:

1) MỘT NGƯỜI KHÔNG DÁM ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT:

 

Một chân lý mà mọi người chúng ta ai cũng biết rõ là: Con người có ngày sinh ra thì cũng có 2/11-201


Một chân lý mà mọi người chúng ta ai cũng biết rõ là: Con người có ngày sinh ra thì cũng có ngày phải chết để vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên hầu như ai cũng sợ chết. Một nhà tỷ phú người Mỹ là WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Ho-ly-wood hồi trước thế chiến thứ hai, tuy rất giàu có và thành đạt nhưng ông lại rất sợ chết. Ông ra lệnh cho các nhân viên dưới quyền không ai được nhắc đến chữ “chết” trước mặt ông. Ai lỡ miệng nói ra sẽ lập tức bị đuổi việc. Ông là người thông minh tài giỏi và luôn thành công trong mọi việc làm, nhưng lại không dám đối mặt với sự thật phũ phàng là sự chết ! Quả thật, dù không muốn nhắc đến cái chết, nhưng cuối cùng cái chết lại vẫn tìm đến với ông: Ngày nọ ông đang hăng say làm việc thì tự nhiên lăn đùng ra chết “bất đắc kỳ tử” do đứt mạch máu não. Ông chết đi để lại cho hậu thế một toà lâu đài to lớn, được dùng làm điểm du lịch nổi tiếng ở bang Ca-li-for-ni-a Hoa Kỳ.

2) NỘI DUNG NHỮNG LỜI TRĂN TRỐI TRƯỚC KHI CHẾT:

Trong tai nạn máy bay boeing 747 của hãng hàng không Nhật bản vào ngày 12-8-1985 đã khiến 520 người thiệt mạng. Điều đáng nói là phi hành đoàn cũng như hành khách trên chiếc Boeing 747 này đã biết máy bay của họ gặp phải sự cố: Phi công không thể điều khiển được hướng đi và mọi người chỉ còn một ít thời gian trước khi máy bay bị rớt. Khi hay biết điều này, có mấy người hành khách đã vội lấy giấy bút ra ghi lời trăn trối của họ trước lúc chết.

– Người thứ nhất là ông KAWAGUCHI, đã viết nguệch ngoạc được mấy lời trăn trối trên cuốn lịch nhỏ bỏ túi. Ông viết cho vợ như sau: “Thôi, vĩnh biệt người vợ thân yêu! Em hãy thay anh chăm sóc cho các con em nhé !”.

Tiếp đến ông khuyên 3 đứa con, hai gái một trai rằng: “Các con hãy sống hòa thuận yêu thương nhau, hãy chăm chỉ làm việc để giúp mẹ lo cho gia đình mình nhé”.
Riêng với cậu con trai út tên TSUYOSHI, ông viết: “Ba đặt nhiều hy vọng nơi con. Hỡi con trai yêu quý của ba !”.
– Người thứ hai viết lời trối là kiến trúc sư KAZUO YOSHIMURA: Ông chỉ viết được mấy chữ trên một tờ giấy vở: “Tôi muốn cả gia đình mình luôn bình an mạnh khỏe”.
– Người thứ ba là một nhà kinh doanh tên là MASAKAZU TAMGUCHI đã viết cho vợ như sau: “Vĩnh biết em yêu. Em hãy thay anh nuôi dưỡng chăm sóc mấy đứa con của chúng ta, em nhé”.
Như vậy, điều mà mọi người đều quan tâm trước khi chết là lo cho những người thân đang còn sống như cha mẹ, vợ con… Những con người mà họ đang có bổn phận phải che chở giữ gìn mà nay khi cái chết đến gần, họ không thể tiếp tục lo nữa, nhưng họ vẫn mong cho những người đó được hạnh phúc. Có những người chết đã không thể nhắm mắt được khi còn quá nhiều những việc bổn phận chưa thể lo chu toàn.

3) MỌI SỰ RỒI SẼ QUA ĐI:

Một ông vua kia muốn làm cho viên quan cận thần nổi tiếng là thông minh tài trí phải xấu hổ. Nhân dịp sắp tới một lễ hội, vua ra lệnh cho viên quan này phải mang về cho vua một vật mà kẻ đang vui nhìn thấy sẽ buồn sầu, và người đang buồn khi nhìn thấy sẽ lại vui tươi. Khi ngày hội gần đến, viên quan rất buồn vì vẫn chưa tìm ra một vật giống như ý vua. Ông liền quyết định đi đến một nơi nghèo nhất kinh thành, khi đi qua một ông lão bán hàng rong, viên quan dừng lại hỏi ông lão có vật có tác dụng như thế không. Nghe xong, ông lão bèn đưa cho viên quan ấy một cái vòng. Vị quan nhìn vào thấy có một dòng chữ hiện ra khiến ông mỉm cười vui sướng. Lễ hội đến, nhà vua chắc rằng viên quan kia sẽ bị một vố bẽ mặt. Thế nhưng khi được gọi, viên quan thông thái kia đã ung dung bước vào chầu vua, tay cầm theo một cái vòng và dâng lên cho nhà vua, trước sự ngơ ngác của triều thần hiện diện. Nhà vua cầm cái vòng lên với nụ cười trên môi, nhưng khi thấy dòng chữ trong chiếc vòng hiện ra thì nụ cười lập tức biến mất. Dòng chữ trong chiếc vòng ấy như sau: “Mọi sự rồi sẽ qua đi”. Điều này nhắc nhở cho vua và mọi người về giới hạn của mọi sự: Vinh hoa phú quý sắc đẹp mọi sự đều có ngày sẽ biến mất theo quy luật ngàn đời: “Phù hoa nối tiếp phù hoa. Trần gian tất cả chỉ là phù hoa”.

4) “FORGET ME NOT – XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”:

Có một loài hoa tên là Lưu Ly có mấy màu là tím, trắng, xanh hoặc vàng hòa quyện cùng nhau rất đẹp, và người ta hay hái hoa này để tặng nhau. Các đôi trai gái gọi tên loài hoa này là ” FORGET ME NOT – XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”.

Ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Vào một sáng mùa xuân, hai người dắt nhau đi dạo chơi bên bờ một con suối, có nhiều hoa Lưu Ly mọc dày. Trong khi chàng trai đang đứng ngắm nhìn dòng thác đổ, thì cô gái lai say sưa đi hái những nhánh hoa Lưu Ly. Cô không ngại nhoài người bên bờ suối để cố hái được mấy nhành hoa đẹp. Chẳng may cô bị trượt chân té ngã xuống dòng suối và bị nước cuốn trôi đi. Khi bị té, cô vẫn đang nắm những nhành hoa Lưu Ly trong tay và đã vừa ném những hoa đó lên bờ vừa nói to lên rằng: “Xin đừng quên em”.

5) AI MỚI THẬT KHỜ DẠI:

Một trong những câu chuyện hay dạy đời là câu chuyện “Ông vua giầu có với chú hề” như sau:

“Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như không hề biết đến tương lai của mình. Ông cũng chẳng màng đến có thế giới mai sau hay không? Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho vua mỗi khi ông muốn giải sầu. Theo vua nghĩ thì tên hề này là một rất ngu đần. Ngày nọ, nhà vua cho gọi anh hề tới trao cho anh ta một cây quyền trượng và nói: “Ngươi hãy đi tìm một kẻ ngu dại hơn ngươi – trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.”  Từ lúc đó chú hề nhận cây gậy vua trao và cố gắng đi tìm kẻ ngu hơn mình, nhưng sau nhiều ngày tìm kiếm mà vẫn không thể tìm ra.

Thời gian qua mau và tuổi già đến với nhà vua lúc nào không biết. Đến khi sức cùng lực kiệt, vua cho gọi chú hề đến gần và nói như sau:

– Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật là xa.
– Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu ạ ?
– Ta cũng không hay biết nữa.
– Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua mới trở về?
– Không bao giờ , không  bao giờ con ạ.

Anh hề tuy là một người ngu, nhưng trong trường hợp này anh lại phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy vào ngay bàn tay Đức Vua mà trước kia nhà vua đã trao vào tay anh ta rồi im lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng vui sướng vì đã khám phá ra một người còn ngu hơn mình, mà người đó không ai khác hơn là chính ông vua đã từng tự hào thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần.

SUY NIỆM:

1) LỜI KÊU XIN CỦA CÁC LINH HỒN:

Có một loài hoa nhỏ: Forget-me-not, Việt ngữ gọi là Lưu Ly Thảo. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy của tình yêu đôi lứa. Nhưng với người Công giáo, nó mang một ý nghĩa khác, đặc biệt trong tháng cầu cho các linh hồn này. Vâng, Lưu Ly Thảo nhắc nhở chúng ta lời kêu cứu tha thiết của các linh hồn nơi Luyện Hình: “Forget-me-not – Xin đừng quên tôi!”.

Khi cầu nguyện cho họ thì lại là chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được phân loại là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11,25-26).

Chúa Giê-su an ủi những ai còn sống trên trần gian rằng:  “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,1-3)

Như thế, ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người con Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy. Ngày đó, chúng ta sẽ được “đồng hưởng sự sống đời cùng với các triều thần thánh trên trời.

2) MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG:

Giáo lý Công Giáo dạy: Những người đã được hưởng hạnh phúc bên Thiên Chúa gọi là các thánh. Những kẻ còn ở trần gian và các linh hồn trong chốn luyện hình cũng là những thánh nhân trong khả thể. Ba lớp người này được hiệp thông với nhau về ơn sủng do Chúa Giê-su ban cho. Mỗi thành phần nói trên đều có thể liên đới với nhau bằng lời cầu nguyện, bằng sự chia sẻ, sự hy sinh và ân sủng: Các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho những người còn sống, những người còn sống làm nhiều việc lành cầu nguyện cho các linh hồn, và các linh hồn dù đang được thanh luyện cũng có thể cầu xin cùng Chúa cho chúng ta ở trần gian. Niềm tin này được đặt trong niềm tin vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như Người đã nói: « Tất cả những kẻ Chúa Cha đã ban cho tôi, thì sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, thì sẽ không bị loại ra ngoài… và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết ».

3) HÃY THỂ HIỆN LÒNG HIẾU THẢO BIẾT ƠN VỚI ÔNG BÀ TỔ TIÊN:

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn”. Hai chữ cội nguồn đã mang lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ để báo đáp.

Phật giáo hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch cũng có mùa vu lan để báo hiếu. Vào dịp này, mỗi người đều xướng lên tám lòng biết ơn của mình. Có người không quen ăn chay trường, song vào thời điểm này, cũng thể hiện lòng hiếu đó bằng việc ăn chay trọn tháng bảy âm lịch, hay có những người bận rộn công việc đời thường vào dịp này họ cố gắng thu xếp thời gian để đến một ngôi chùa quen thuộc dự lễ cầu siêu cho linh hồn ông bà cha mẹ đã qua đời. Họ tin rằng nhờ đó, bổn phận của họ được chu toàn. Với truyền thống lâu đời của người phật tử là cầu mong để được đáp đền ơn tam bảo, báo hiếu cha mẹ sinh thành dưỡng dục…

Còn ở Tây phương, người ta không có tục thờ cúng tổ tiên bởi vì chữ hiếu nơi họ không được nâng lên thành đạo. Thế nhưng họ đã chọn ra hai ngày trong năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Đó là Ngày Của Mẹ (Mother’s. Day) vào ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm và Ngày Của Cha (Father’s. Day) vào Chúa Nhật thứ ba trong tháng sáu.

Hàng năm, Giáo Hội công giáo đã dành trọn tháng 11 để nhắc nhở các tín hữu tưởng nhớ đến những người quá cố, thể hiện đạo làm con trong gia đình. Người công giáo vẫn có thói quen tốt lành đi viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, trong ba ngày Tết, Giáo Hội Việt Nam cũng dành ngày Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ.

4) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?

Trong tháng này, mỗi tín hữu chúng ta có thể làm một số việc cụ thể biểu lộ lòng hiếu thào biết ơn với ông bà tổ tiên như sau:

+ Năng đến nhà thờ dâng lễ cầu nguyện và lãnh các ơn đại xá cầu cho ông bà cha mẹ và người thân đã qua đời.

+ Làm nhiều việc bác ái như chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, phục vụ các bệnh nhân và các người già cả cô đơn bất hạnh… để cầu cho các linh hồn đã qua đời.

+ Xây mồ yên mả đẹp cho người thân đã qua đời. Mỗi dịp Giỗ Tết con cháu hãy họp nhau để xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn ông bà cha mẹ, cùng nhau đi viếng mộ phần và dùng cơm chung với nhau để thể hiện tình thân trong cùng một gia tộc.

+ Điều quan trọng là phải sống hiếu thảo với ông bà cha mẹ ngay khi cha mẹ đang còn sống. Mọi người trong gia đình cần yêu thương đùm bọc nhau để cha mẹ ở trên thiên đàng được vui. Hãy năng nhắc nhở con cháu phải biết ơn cầu nguyện cho ông bà cha mẹ mỗi giờ kinh tối gia đình.

LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Chúa đã lên trời bằng con đường qua đau khổ vào vinh quang. Chúa hứa sẽ dọn chỗ cho chúng con và mai ngày sẽ trở lại đưa chúng con lên trời với Chúa. Xin cho các tín hữu chúng con, những người đang sống và những ai đã ly trần trong tình thương của Chúa cũng được ơn thanh luyện nên tốt lành thánh thiện để sớm được về quê trời hưởng hạnh phúc với Chúa Ba Ngôi và các thần thánh đến muôn đời. Amen.

-----------------------------------

 

2/11-202: MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG


JM. Lam Thy

 

Trong buổi triều kiến chung sáng thứ tư 30-10-2013 tại quảng trường thánh Phê-rô, Đức Thánh Cha 2/11-202


Trong buổi triều kiến chung sáng thứ tư 30-10-2013 tại quảng trường thánh Phê-rô, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nói về hiệp thông: “Sự hiệp thông của các thánh nảy sinh từ sự hiệp thông với Thiên Chúa và niềm tin nơi Chúa Ki-tô. Nó nối kết giữa các tín hữu còn lữ hành trên trần gian này với các tín hữu đang được thanh luyện trong Luyện ngục và các thánh trên Thiên Đàng trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội, trong sự thật sâu thẳm nhất của nó, là hiệp thông với Thiên Chúa, sự hiệp thông của tình yêu với Chúa Ki-tô và với Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, kéo dài trong sự hiệp thông huynh đệ. Tương quan này giữa Đức Giê-su và Thiên Chúa Cha là “khuôn mẫu” của sự gắn bó giữa các Ki-tô hữu chúng ta: nếu chúng ta được tháp nhập một cách thân tình vào “khuôn mẫu” này, vào lò lửa tình yêu nồng cháy là Thiên Chúa Ba Ngôi, thì khi đó chúng ta có thể thực sự trở thành một con tim, một linh hồn giữa chúng ta, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa thiêu rụi các ích kỷ, đốt cháy các thành kiến và các chia rẽ bên trong và bên ngoài của chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa cũng thiêu rụi cả các tội lỗi của chúng ta nữa.” (nguồn: Vatican.net).

Hiệp thông vốn là tính chất căn bản của Giáo hội Ki-tô Giáo như Thánh GH Gio-an Phao-lô II đã khẳng định: “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông … Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông “mới”, sự hiệp thông đi vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người.” (Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân “Christi Fideles Laici”, số 32). Đó là lý do giải thích tại sao tháng 11 là tháng Giáo hội dành riêng cầu cho các linh hồn nơi luyện hình. Đây chính là dịp thể hiện sự hiệp thông – hiệp thông giữa thế giới hữu hình (Giáo hội lữ hành) với thế giới vô hình (Giáo hội thanh luyện, Giáo hội Khải hoàn). Xin cùng tìm hiểu:

I.  KHÁI NIỆM VỀ HIỆP THÔNG:

Giáo hội không phải là một thực thể khép kín lại nơi chính mình, nhưng đúng hơn là thường xuyên mở ra cho công cuộc rao giảng Tin Mừng và đại kết đầy năng động, bởi vì Giáo hội được khai sinh nhằm mục đích loan truyền và làm chứng, hiện tại hoá và truyền bá mầu nhiệm hiệp thông là mầu nhiệm tạo thành Giáo hội: quy tụ mọi sự và mọi người trong Đức Ki-tô; là bí tích hợp nhất bền vững cho tất cả mọi người. Thông điệp về đại kết “Ut Unum Sint” (số 4) giải thích: “Khi tới giờ chịu khổ nạn, Đức Giê-su đã cầu nguyện: “Xin cho tất cả nên một” (Ga 17, 21). Sự hợp nhất Chúa đã ban cho Giáo hội của Người và trong đó Người muốn tất cả được quy tụ lại, không phải là điều thứ yếu, nhưng giữ vị trí trọng tâm trong công trình của Người. Và sự hợp nhất ấy cũng không phải là một đặc tính phụ thuộc của cộng đoàn môn đệ của Người; trái lại, đó là thuộc bản chất của cộng đoàn ấy. Thiên Chúa muốn có Giáo hội bởi vì Người muốn có sự hợp nhất, và cũng bởi vì tình yêu sâu thẳm của Người được biểu lộ trong sự hợp nhất ấy. Quả thật, sự hợp nhất này được Chúa Thánh Thần ban tặng không chỉ là việc tập hợp các cá nhân bên cạnh nhau. Nhưng là một sự hợp nhất được tạo nên bởi những liên hệ do việc tuyên xưng đức tin, việc lãnh nhận các bí tích và sự hiệp thông phẩm trật.”

Quả thực, sự đoàn kết thương yêu nhau chính là đặc trưng của đời sống hiệp thông trong Giáo hội. Như vậy, hiệp thông là sự liên kết chặt chẽ với nhau, lưu chuyển và chan hoà cùng một tính chất giữa các phần tử riêng lẻ trong một tổng thể duy nhất, sống động (Hiệp: gom lại, tập hợp lại nhiều phần tử cá biệt thành một thực thể; Thông: suốt, liên tục, luôn luôn không ngừng). Phạm trù hiệp thông rất rộng, khởi đi từ mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi (“Cầu chúc toàn thể anh chị em được tràn đầy ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, tình yêu của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” – 2Cr 13, 13), sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với loài người, giữa thế giới hữu hình với thế giới vô hình, rồi đến sự hiệp thông giữa loài người với nhau, sự hiệp thông trong Giáo hội, trong mỗi gia đình Ki-tô hữu … Xin giới hạn vấn đề trong phạm vi Giáo hội phổ quát. 

II. SỰ HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI PHỔ QUÁT:

Đức Giê-su Ki-tô thường cầu nguyện: “Xin cho tất cả nên một, lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ cũng được ở trong Chúng Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.” (Ga 17, 21). Tông Huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân “Christi Fideles Laici” (số 18-20) cũng khẳng định: “Sự hiệp thông này là chính mầu nhiệm Giáo hội như Công Đồng nhắc lại, qua từ ngữ nổi tiếng của Thánh Cypriano: Giáo hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần….. Các hình ảnh Kinh Thánh được Công Đồng Va-ti-ca-nô II sử dụng nhằm giúp chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Giáo hội, đã làm nổi bật thực tại Giáo hội hiệp thông, trong chiều kích là sự hiệp thông của các Ki-tô hữu với Đức Ki-tô liên kết chặt chẽ với sự hiệp thông giữa các Ki-tô hữu với nhau. Các hình ảnh đó là: chuồng chiên, đàn chiên, cây nho, toà nhà thiêng liêng, đền thánh.”

Hiệp thông, tự căn bản, là sự nối kết mật thiết với Thiên Chúa, qua trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, và trong Chúa Thánh Thần. Con người đạt được sự hiệp thông nhờ Lời Chúa và các Bí tích. Bí tích Thánh Tẩy là cửa ngõ và là nền tảng của việc hiệp thông trong Giáo hội. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và là cao điểm của đời sống Ki-tô Giáo. Sau khi bế mạc Công đồng Va-ti-ca-bô II, Đức Chân phước GH Phao-lô VI nói với các tín hữu: “Giáo hội là một sự hiệp thông. Từ ngữ hiệp thông ở đây có nghĩa là gì? Tôi muốn nhắc lại với anh chị em đoạn giáo lý nói về sự hiệp thông các Thánh. Giáo hội có nghĩa là hiệp thông các Thánh. Và hiệp thông các Thánh biểu thị hai cách tham dự vào sự sống: tháp nhập các Ki-tô hữu vào đời sống của Đức Ki-tô, và lưu chuyển cùng một đức ái trong toàn thể cộng đồng tín hữu thuộc thế giới này cũng như thế giới bên kia. Hiệp nhất với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô; và hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu trong Giáo hội.”

Hiệp thông là sự toàn vẹn, hay nói đúng hơn, thực tại ấy diễn tả nội dung cốt yếu của mầu nhiệm, tức là của chương trình Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Sự hiệp thông trong Giáo hội là sự hiệp thông hữu cơ, tương tự như sự hiệp thông của một thân thể sống và hoạt động, bao hàm sự khác biệt và bổ túc cho nhau giữa các ơn gọi và hoàn cảnh sống, các tác vụ, các đặc sủng và trách nhiệm. Nhờ sự khác biệt và bổ túc cho nhau đó, một người giáo dân nhận thấy mình có tương quan với toàn thân thể và đóng góp phần riêng của mình vào thân thể đó (“Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn … Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo ; người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.” – Ga 15, 1-6).
Như vậy, sự hiệp thông trong Giáo hội tự bản chất là một mầu nhiệm khởi từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, là một ân sủng của Chúa Thánh Thần. Cũng bởi vì: Chúa Thánh Thần ngự trị trong Giáo hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ (1Cr 3, 16; 6, 19). Người dẫn đưa Giáo hội vào trong chân lý toàn vẹn (Ga 16, 13) và bảo đảm cho Giáo hội được hiệp nhất trong sự hiệp thông và phục vụ. Người huấn luyện và dẫn dắt Giáo hội bằng muôn ơn theo phẩm chức và đoàn sủng, trang điểm Giáo hội bằng hoa quả của Người (Ep 4, 11-12 ; 1Cr 12, 4 ; Gl 5, 22).

III. TRIỂN KHAI VẤN ĐỀ HIỆP THÔNG: 

Hiệp thông nơi Giáo hội Lữ hành: Theo thiển ý, khi tìm hiểu, trao đổi hay thảo luận – thậm chí tranh cãi – về một vấn đề nào đó (vấn đề “hiệp thông”, chẳng hạn), thường thì cũng còn thấy tương đối dễ dàng. Nhưng đến khi thực sự áp dụng vào đời sống những điều đã được thống nhất, mới thấy quả thực là khó khăn. Đọc + nghe + tìm hiểu + suy niệm Lời Chúa, tuy cũng có những khó khăn nhất định, nhưng vẫn có thể vượt qua được; nhưng khi đem Lời Chúa ra thực hành, áp dụng vào đời sống bản thân, thì mới thấy quả thực là thiên nan vạn nan. Cũng thế, khi triển khai vấn đề hiệp thông vào đời sống cộng đoàn Ki-tô hữu, chắc chắn chúng ta sẽ gặp những phản động lực rất mạnh, mà những phản động lưc ấy không hẳn chỉ là ngoại tại (từ bên ngoài tới – tức là từ khách thể), nó còn là những phản động lực nội tại (tự bản thân – tức là từ chủ thể). Những thông tin nhan nhản trên các phương tiện truyền thông (báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình …) đã cho thấy: vợ chồng lục đục, ly hôn, cha mẹ hất hủi con cái, con cái bất hiếu với cha me, ông bà; rồi anh em xâu xé lẫn nhau, gia đình ly tán … Trong phạm vi gia đình mà còn như vậy, đừng nói chi đến những phạm vi rộng hơn như khu xóm, hàng xứ hàng tổng, hay những đoàn thể xã hội, hội đoàn tôn giáo …

Nói, thì lúc nào cũng nói rất trơn tru về một tinh thần hiệp thông huynh đệ rất đáng trân trọng; nhưng khi áp dụng vào đời sống, sao cứ thấy đầy rẫy những mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, lúc nào cũng chỉ thấy ngôn hành bất nhất (lời nói không đi đôi với việc làm)! Không dám vơ đũa cả nắm, cũng không bi thảm hoá vấn đề, nhưng phải thẳng thắn nhận chân một điều là chúng ta vẫn nói nhiều hơn làm – kêu gọi người khác sống hiệp thông thì được, nhưng đến chính bản thân thì lại … bị, tại, bởi, vì … trăm thứ lý do, không thực hiện được! Để triển khai vấn đề một cách cụ thể thiết thực, xin đi từ đơn vị nhỏ nhất, cơ bản nhất của xã hội, của Giáo hội, đó là gia đình.

Muốn cho gia đình được hiệp thông, thì tiên vàn mỗi cá nhân, mỗi thành viên trong gia đình phải biết dẹp bỏ những tự ái riêng tư, phải biết quên đi “cái tôi” để sống với nhau bằng một Tình Yêu đích thực. Cứ tự hỏi khi Thiên Chúa dựng nên loài người, thì tại sao Người không dựng nên chỉ một giống (nam hoặc  nữ) cho đỡ phiền toái, mà lại là “có nam có nữ”? Tại sao sự đối kháng giới tính không nhằm để tiêu diệt lẫn nhau mà là bổ sung cho nhau để trở nên hoàn thiện? Rõ ràng cái gia đình đầu tiên của loài người được khai sinh từ Tình Yêu, nên sẽ triển nở và tồn tại mãi trên nền tảng Tình Yêu đó. Và khi không còn Tình Yêu trên trái đất này, loài người sẽ bị huỷ diệt, đó là hệ quả tất yếu.

Phải chăng những dục vọng thấp hèn không xuất phát từ Tình Yêu đã làm nảy sinh những ghen ghét tị hiềm, những đố kỵ nhỏ nhen, những oán giận thù hằn, để đi tới những khủng bố đẫm máu, những chiến tranh tương tàn? Cho nên, câu cách ngôn “Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ” vẫn luôn luôn đúng với con người, đặc biệt là với con-người-Kitô-hữu muốn “nên thánh giữa đời”. Sống trên đời điều kiện tiên quyết là phải tu sửa bản thân nên người tốt (Tu thân). Có như thế mới có thể điều hành công việc gia đình cách tốt đẹp (Tề gia), để có thể làm việc nước (Trị quốc); và cuối cùng đi tới đóng góp sức mình vào công cuộc đem lại hòa bình cho xã hội (Bình thiên hạ). Người Ki-tô hữu muốn “tu thân” để nên thánh, để thành “những người lớn nhất Nước Trời”, điều kiện ắt có và đủ là phải “trở nên như những trẻ nhỏ” (Mt 18, 1-4), hay nói khác hơn là phải quay về với đời sống “nhân bản”, quay về với cái gốc của con người (“nhân chi sơ tính bản thiện”: người mới sinh tính vốn lành), với chính sự thánh thiện ban đầu mà Thiên Chúa đã trao ban. Mà cái gốc của con người – nền tảng của nhân sinh quan Thiên Chúa Giáo – lại chính là Tình Yêu, vì thế nên xin hãy sống và làm việc bởi Tình Yêu, vì Tình Yêu, cho Tình Yêu đích thực là chính Thiên-Chúa-Tình-Yêu.

Hiệp thông với Giáo hội Thanh luyện: Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là lòng thương yêu: không những chỉ là “Lá lành đùm lá rách”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”, mà còn là “Uống nước nhớ nguồn”, nên đã dành cả tháng bảy (Âm lịch) để tưởng nhớ công ơn những người đã khuất (“Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”). Với Ki-tô Giáo thì phạm trù hiệp thông không dừng lại ở Giáo hội lữ hành, mà còn xuyên suốt  sang Giáo hội thanh luyện, Giáo hội khải hoàn nữa, để tất cả quy tụ trong Mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, nên Giáo hội đã dành cả tháng 11 hàng năm để tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố mà còn đang trong thời gian thanh luyện, để được Thiên Chúa đoái thương, ân ban phần thưởng Nước Trời. Như vậy thì giữa truyền thống dân tộc với truyền thống Ki-tô Giáo đã cùng chung một mục đích, tuy sự thể hiện có khác nhau. Phải chăng đây cũng là ưu điểm nổi trội trong công cuộc “Hội nhập văn hoá”, hỗ trợ đắc lực cho sứ vụ Truyền giáo của Giáo hội?

Hiệp thông cùng Giáo hội Khải hoàn:  Trong kinh Tin Kính, khi xác tín về Giáo hội có câu “Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công, tôi tin phép tha tội…” (Kinh Tin Kính Các Thánh Tông Đồ). Cụm từ “các thánh thông công” mang ý nghĩa gì? Một cách nôm na dễ hiểu là: Các Thánh trên Thiên Quốc vẫn hiệp thông với công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo hội nơi trần thế. Cụ thể hơn là Giáo hội lữ hành đang trên đường lữ thứ trần gian luôn cầu nguyện để đạt được mục đich chiếm hữu Nước Trời. Sự cầu nguyện ấy không chỉ dành riêng cho những tín hữu tại thế, mà còn rhể hiện tính hiệp thông cầu nguyện cho Giáo hội thanh luyện. Đến khi các linh hồn đã hoàn tất cuộc thanh luyện, gia nhập Giáo hội khải hoàn và lúc đó, chính các ngài – ở trước nhan Thiên Chúa – lại hiệp lời cầu nguyện cho Giáo hội lữ hành. Tính hiệp thông xuyên suốt 3 Giáo hội (1 Giáo hội nơi thế giới hữu hình: Giáo hội lữ hành, và 2 Giáo hội trong thế giới vô hình, siêu nhiên: Giáo hội thanh luyện + Giáo hội khải hoàn) để liên kết nên một trong Mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiển nghĩ, nét đặc trựng nhất của Giáo hội Hiệp thông chính là ở điểm này.

KẾT LUẬN:

Trong mỗi Thánh Lễ – một cuộc tái hiện Hy tế Thập Giá của Chúa Giê-su Ki-tô – thì việc cử hành Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm. Mầu nhiệm Thánh Thể cũng là trung tâm của đời sống Giáo hội. Mà Giáo hội là một cộng đồng hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa Ba Ngôi. Toàn thể Giáo hội đều cùng uống chung một chén, cùng ăn chung một tấm bánh, để cùng thi hành chung một sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Biểu tượng tuyệt vời của tính hiệp thông trong Hội Thánh Chúa là hình ảnh một tấm bánh trên bàn tiệc cộng đồng dân Chúa, một thân cây nho sum suê cành lá hoa quả tốt tươi. Mỗi Ki-tô hữu là một chi thể đều được hút nhựa từ thân cây nho, đều được chia phần từ tấm bánh Giê-su Ki-tô. Vậy hãy làm sao cho mọi người – cả trong và ngoài Giáo hội – đều cùng được chung hưởng như chính bản thân mình. Đó không những là trách vụ, mà còn là quyền lợi của mỗi thành phần dân Chúa. Và đó cũng chính là một phương thế thi hành sứ vụ truyền giáo cách cụ thể và đắc lực nhất, bởi vì “trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống”. Hãy rao giảng Tin Mừng bằng chính đời sống hiệp thông trong Mầu nhiệm Thánh Thể.

Tóm lại, “sự hợp nhất này được Chúa Thánh Thần ban tặng không chỉ là việc tập hợp các cá nhân bên cạnh nhau. Nhưng là một sự hơp nhất được tạo nên bởi những liên hệ do việc tuyên xưng đức tin, việc lãnh nhận các bí tích và sự hiệp thông phẩm trật.” (Thông điệp về Đại Kết “Ut Unum Sint”, số 9). Chính sự hiệp thông thể hiện Đức Ái Ki-tô Giáo, là sự thông hiệp 3 Giáo hội (GH lữ hành + GH thanh luyện + GH khải hoàn) trong Mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ mệnh duy nhất của Giáo hội là Truyền Giáo, mà muốn truyền giáo, thì điều kiện tiên quyết là phải sống tình “Bác ái trong chân lý”, cậy nhờ vào sự hoạt động của Chúa Thánh Thần (“Giáo hội biết sự hiệp thông là ơn Chúa, nó có sứ mệnh đốí với mọi người. Như thế Giáo hội cảm thấy mắc nợ đã nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần, Đấng đã ban tràn đức ái của Chúa Cha trong lòng các kẻ tin tưởng, là sức mạnh nốí kết bên trong và cũng là sức mạnh bành trướng bên ngoài. Sứ mệnh của Giáo hội nằm ngay trong bản tính của mình như Chúa Ki-tô đã muốn: đó là sứ mệnh phải trở nên “dấu chỉ và phương thế làm cho toàn thể nhân loại được hợp nhất”. Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông “mới”; sự hiệp thông đi vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người.” – T/H “Christi Fideles Laici”, số 32). 

Người Ki-tô hữu cần phải thể hiện rõ tinh thần hiệp thông huynh đệ trong cuộc sống của mình. Ôi! Lạy Chúa! “Xin hiệp nhất chúng con nên một trong Tình Yêu Chúa. Xin hiệp nhất chúng con như Ngài liên kết với Cha. Xin giải thoát chúng con xa điều bất hoà chia rẽ. Xin kết liên muôn người trong lòng mến Chúa Cha muôn đời.” (Lm. Thành Tâm – “Bài ca hiệp nhất” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhận lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho lòng chúng con luôn trông vậy vững vàng: chính Ðức Giê-su sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được phục sinh vinh hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời).

-----------------------------------

 

2/11-203: GỌI TÌNH


Trầm Thiên Thu

 

Chắc chắn không ai muốn đau khổ, nhưng đau khổ lại là một phần tất yếu của cuộc sống. Đau khổ 2/11-203


Chắc chắn không ai muốn đau khổ, nhưng đau khổ lại là một phần tất yếu của cuộc sống. Đau khổ đúng là… KHỔ thật, và chỉ những ai đã trải qua đau khổ mới hiểu được nỗi khổ của người đau khổ! Ông Gióp đã từng than thở: “Nỗi đau, nỗi sầu của tôi lại nặng hơn cát biển; chính vì thế mà tôi phải nghẹn ngào, nói năng lúng túng” (G 6:3). Chỉ mới là niềm đau nỗi khổ ở trần gian mà còn khổ đến thế, huống chi đau khổ ở Luyện Hình, chắc chắn không thể diễn tả btrọn vẹn bằng phàm ngôn. Tiếng than của ông Gióp cũng là tiếng than của mỗi chúng ta – những người đang trên đường lữ hành trần gian.

Đau khổ không vô ích mà có giá trị cao, nếu không thì Chúa Giêsu đã chẳng động viên chúng ta chịu đau khổ – tức là “vác thập giá” theo Ngài (Mt 10:38; Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23; Lc 14:27). Đau khổ không chỉ trong vài ngày, vác thập giá không chỉ trong vài tháng, vài năm hoặc một thời gian nào đó, mà PHẢI vác hàng ngày, bất kể ngày hay đêm. Thật là “căng” chứ chẳng thoải mái chút nào ráo trọi.

Tháng Cầu Hồn lại về, đâu đó vẫn vang vọng tiếng kêu thảm thiết: “Xin đừng quên tôi!”. Các linh hồn nơi Luyện Hình chẳng ai xa lạ, họ là thân nhân của chúng ta, họ rất cần lời cầu nguyện của chúng ta, và họ tha thiết van xin chúng ta giúp đỡ họ. Forget-Me-Not (Don’t Forget Me) là tên một loài hoa, theo Anh ngữ là “Xin đừng quên tôi”, Việt ngữ gọi Lưu Ly Thảo. Loại hoa này nhỏ và có màu tím buồn. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy trong tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, nó vẫn mang những ý nghĩa khác. Với người Công giáo, Lưu Ly Thảo cũng đang nhắc nhở về lời kêu cứu khẩn khoản của các linh hồn nơi luyện hình, xin chúng ta hãy NHỚ tới họ, chứ ĐỪNG QUÊN họ.

Chúng ta là những lữ khách trần gian đang trên đường tiến về Quê Trời, là những người thuộc Giáo hội Chiến đấu, Giáo hội Lữ hành. Thật vui mừng và trần trề hy vọng khi chúng ta vừa mừng kính chư thánh thuộc Giáo hội Khải hoàn, những người đã được hưởng Phúc Trường Sinh, và chúng ta gọi họ là Thánh. Giáo hội muốn chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho các vị-thánh-tương-lai, đặc biệt trong Tháng Cầu Hồn, vì chắc chắn họ sẽ được hưởng phúc trường sinh nay mai, trong đó có những người thân thiết của chúng ta. Họ được vào Thiên đàng sớm hay muộn là nhờ chúng ta, vì lúc này họ đành “bó tay”, chịu thúc thủ, không thể làm gì được cho chính họ.

Ngày xưa, người-môn-đệ-Chúa-yêu Gioan đã được thị kiến liên quan Luyện Hình: “Tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách. Biển trả lại những người chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm. Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai. Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa” (Kh 20:12-15). Các linh hồn nơi luyện hình đã được cấp Visa-Trường-Sinh, chỉ còn chờ “chuyến bay” trực chỉ tới Thiên Đàng thôi.

Mỗi khi cầu nguyện cho họ cũng chính là cầu nguyện cho mình. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Tuy nhiên, dù các linh hồn không tự “cải thiện” để được giảm án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta, cầu nguyện với các linh hồn cũng rất hiệu quả. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được “phân loại” là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11:25-26).

Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Ngài là tình yêu nên Ngài luôn yêu thương mọi người và tình yêu đó bất biến, Ngài chỉ muốn mọi người được về sống chung với Ngài trên Thiên quốc, Ngài không phân biệt ai và không muốn ai phải mất Ngài. Thánh Phaolô nói: “Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính tôi đây cũng là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc Ben-gia-min. Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã biết từ trước” (Rm 11:1-2a).

Để chúng ta hiểu biết thêm, Thánh Phaolô nói: “Phải chăng Ít-ra-en đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị. Nếu vì người Do-thái sa ngã mà thế giới được ơn phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì khi họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy!” (Rm 11:11-12).Thật kỳ diệu biết bao!

Người ta nói: “Vô tri bất mộ” – không biết thì không thích. Biết rồi thích. Thích rồi mến. Mến rồi yêu. Yêu rồi mê. Mê rồi say. Say rồi bạo (bạo dạn – chỉ hiểu theo nghĩa tốt là sự can đảm). Thánh Phaolô đã theo “chuỗi hệ lụy” đó, thế nên ngài phải nói ra: “Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ. Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ, như có lời chép: Từ núi Sion, vị Cứu Tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ những điều vô đạo khỏi nhà Gia-cóp. Đó sẽ là giao ước của Ta với chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng” (Rm 11:25-27).

Chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa luôn thể hiện lòng yêu thương, lòng thương xót, thế nên Ngài mới kêu gọi chúng ta theo Ngài. Theo Ngài để làm gì? Để Ngài trao ban hạnh phúc trường sinh. Ngài là Đấng trung tín tuyệt đối: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:28-29). Thật là hạnh phúc cho phàm nhân chúng ta, mặc dù chúng ta chỉ là những tội nhân khốn nạn mà thôi.

Hoàn toàn không sai, thật đúng như vậy, và Thánh Vịnh gia đặt giả thuyết: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). May mà đó chỉ là giả thuyết, không là sự thật. Bằng chứng minh nhiên là “Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130:4). Kiếp lữ hành quá khổ, ai cũng muốn được giải thoát, nhưng chẳng tìm đâu ra ngoài Thiên Chúa: “Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông” (Tv 130:5-6). Lính gác đêm hoặc ngày cũng đều mỏi mệt lắm, chỉ mong hết giờ gác. Nhưng niềm khao khát Chúa còn hơn vậy. Thật tốt lành cho người nào biết tìm kiếm Chúa như thế! Tìm được Ngài rồi thì hạnh phúc gấp bội, hoàn toàn an tâm: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1).

Chúng ta không ngừng tìm kiếm Chúa, nhưng để làm gì? Có ai thấy Chúa đâu mà tìm kiếm? Những người vô thần bảo “tôn giáo là thuốc phiện ra ngủ”, chính Karl Marx còn quyết tâm triệt tiêu niềm tin tôn giáo kia mà? Không thấy Chúa sao vẫn sợ và muốn triệt? Thiên Chúa là Sự Sống mà sao họ lại muốn giết chết sự sống? Thật là tự mâu thuẫn quá! Gương Saolê nhãn tiền còn đó. Cũng tương tự, người ta công khai nhận mình theo chủ nghĩa duy vật mà sao vẫn thắp nhang khấn vái người quá cố? Phải chăng duy vật chỉ là “cái hộp” đựng “duy tâm” hoặc “duy linh” bên trong? Lại tiếp tục tự mâu thuẫn nữa!

Kinh Thánh cho biết rằng, một ngày nọ, tại hội đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51).

Nghe Chúa Giêsu nói vậy, người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ thắc mắc: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Nếu lúc đó chúng ta nghe Chúa Giêsu nói vậy, có lẽ chúng ta cũng phản ứng như vậy thôi!

Chúa Giêsu biết họ nghĩ gì và bàn tán điều gì, nhưng Ngài vẫn mạnh mẽ nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:53-58). Tuy nhiên, trí tuệ nông cạn của phàm nhân không thể hiểu được!

Cũng chẳng ai xa lạ, ngay cả các môn đệ nghe Thầy mình nói vậy mà còn lùng bùng lỗ tai: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các đệ tử ruột còn chưa nghe nổi thì ai nghe nổi chứ? Chúa Giêsu biết các đệ tử xì xầm, nhưng Ngài làm ngơ, không cần nói chi thêm!

Khi sinh thời, các linh hồn đang được thanh luyện nơi Luyện Hình cũng đã vâng lời Chúa Giêsu mà ăn Thịt và uống Máu Ngài, rồi các ngài cũng sẽ được sống đời đời như lời Chúa Giêsu đã hứa, dù lúc này còn phải chịu thanh luyện trong “lửa” một thời gian (loại “lửa” ở Luyện Hình không như lửa bình thường trên thế gian, bởi vì lửa chúng ta sử dụng hàng ngày chỉ là “gió thoảng” nếu so với “lửa” ở Luyện Ngục – mà “lửa” ở Luyện Ngục cũng không khác “lửa” ở Hỏa Ngục, chỉ khác nhau về mức độ: có hạn và vô hạn). Bất cứ điều gì Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn trở thành hiện thực.

Đã từng được thị kiến Hỏa Ngục và Luyện Hình, Thánh Faustina chân thành tâm sự: “Tôi bị thiêu đốt trong lòng bằng lửa yêu mến Chúa và muốn cứu các linh hồn mà tôi cảm thấy mình bị thiêu đốt. Tôi sẽ chiến đấu với ma quỷ bằng Vũ khí Lòng Chúa Thương Xót. Tôi khao khát cháy bỏng là cứu các linh hồn. Tôi đi xuyên qua sức mạnh và hơi thở của thế giới và mạo hiểm đến nỗi các biên giới và các vùng đất hoang vu nhất để cứu các linh hồn. Tôi làm điều này bằng cách cầu nguyện và hy sinh” (Nhật Ký, số 754). Tình yêu của Thánh Faustina lớn lao quá!

Không chỉ trong Tháng Cầu Hồn mà mọi lúc, các linh hồn vẫn ngày đêm kêu than van vỉ: “Xin đừng quên tôi!”. Giáo hội Lữ hành hãy lắng nghe họ, xin cho họ hưởng nhờ những “giọt nước mát lạnh”. Giúp đỡ họ là cứu thoát chính mình.

Có Thiên Chúa là có tất cả. Ước gì mỗi chúng ta đều có thể xác định như Thánh Thomas Aquino, Linh mục Dòng Đa-minh, Tiến sĩ Giáo hội và tác giả bộ Tổng luận Thần học, rằng: “Lạy Chúa, con chỉ muốn Ngài mà thôi”. Đó là phần thưởng cao quý nhất và tuyệt vời nhất.

Lạy Thiên Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương và cuộc tử nạn của Đức Giêsu Kitô, xin tha thứ cho các linh hồn để họ được sớm được hưởng Thánh Nhan Ngài theo lòng thương xót bao la của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

-----------------------------------

 

2/11-204: NGUỒN YÊU THƯƠNG


Lm. Jos. DĐH.

 

Có những sự thật khá nhạy cảm: không phải cứ ra nghĩa trang, nghĩa địa, mới thấy có sự chết 2/11-204


Có những sự thật khá nhạy cảm: không phải cứ ra nghĩa trang, nghĩa địa, mới thấy có sự chết, không phải cứ khóc to, khóc lớn, khóc nhiều ngày, mới là thương người đã khuất, cũng chẳng phải ông bà, bố mẹ, cứ có mồ yên mả đẹp là ta đã chu toàn bổn phận thảo hiếu. Đâu phải 02.11 hàng năm, người công giáo mới có dịp nhớ tới tổ tiên ông bà, truyền thống uống nước nhớ nguồn, tất cả đều được nghe biết từ thuở nhỏ. Có mặt ở nghĩa trang, xin lễ cầu nguyện, thắp nén hương lòng, hẳn người Kitô hữu không ai làm vì hình thức, đúng hơn là từ chữ tình, chữ hiếu, Thiên Chúa cội nguồn yêu thương Ngài đã khéo đặt để nơi tâm hồn con người.

Hai anh trộm cướp năm xưa bị treo trên thập giá vì thiếu sự chăm sóc của gia đình, hay vì lúc đó xã hội chưa có chế độ ưu đãi với người nghèo, hoặc vì công bằng yêu thương chưa được thực thi ? Đức Giêsu bị đóng đinh thập giá như phạm nhân, chẳng biết có khi nào chúng ta suy xét vì sao như thế không ? Tin mừng cho biết trước khi trút hơi thở, Chúa Giêsu cầu nguyện, và xin Chúa Cha tha thứ vì chúng không biết việc chúng làm. Nếu không phải yêu thương, điều gì sẻ xảy ra đối với những kẻ đóng đinh, những kẻ nhục mạ Con Thiên Chúa ? Có một số người thắc mắc vui vui, tại sao anh trộm bên hữu chuyên gia cướp bóc, tội lỗi, thế mà trước khi tắt thở anh ta lừa được cả Chúa, chỉ với câu ngăn gọn vu vơ, thế mà Chúa Giêsu lại hứa thiên đàng cho anh ta ?

Khởi đi từ yêu thương, Chúa Giêsu hôm nay cũng rất mong có nhiều người biết sám hối thật lòng, để được hạnh phúc nước Thiên Chúa, được hiểu rõ hơn tại sao Đức Giêsu dám chết cho tội lỗi nhân loại. Suy gẫm về tình yêu, liệu có khi nào vì cơm áo gạo tiền, lo cho gia đình, vì yêu thương con cháu, các ngài bị tai nạn, hoặc phát bệnh mà chết không ? Có khi nào vì không nỡ để con cháu thua chị kém em, đấng bậc sinh thành đã liều lỗi đức công bằng để rồi đang phải chịu thanh luyện không ? Chúa Giêsu cứu độ nhân loại trong đó có người tội lỗi, người thánh thiện, đấng bậc sinh thành yêu thương con cháu, dù số con cháu còn có những tâm hồn mê muội chưa nhận ra !

Tổ tiên dòng tộc thì ai cũng có, sống đạo làm con thế nào để thể hiện rõ tâm tư hiếu kính: cha là núi mẹ là sông, dù ở đâu, mẹ cha vẫn che chở đời con. Tin tưởng Chúa Giêsu quyền năng, nhân hậu, hiểu yêu thương tha thứ, và sám hối cậy trông, luôn là những cụm từ không thể mang lại ý nghĩa gì, khi chúng bị tách rời nhau. Anh trộm lành nhờ có lòng sám hối cậy trông vào Đức Giêsu nên anh ta được cứu. Chúa Giêsu vì yêu thương và tấm lòng bao dung tha thứ, Ngài không thể im lặng trước thái độ thật tình nơi anh trộm bên hữu. Chúa Giêsu lúc này vẫn là Chúa quyền năng và hay thương xót, Ngài sẵn lòng tha thứ cho các linh hồn nơi luyện ngục, khi chúng ta ý thức dâng hy sinh cầu nguyện, hiệp lòng cậy trông vào Đấng từ bi nhân hậu.

Xin thương cứu các linh hồn sẽ không chỉ là khẩu hiệu, các ngài là ông bà tổ tiên, hoặc là các linh hồn ta không quen biết ; lễ dâng chân thành hôm nay, ơn toàn xá lúc này, sẽ là phúc lộc Nước Trời được ban cho các ngài vì công nghiệp Chúa chịu chết và sống lại. Chúa Giêsu lúc trên thập giá đã cảm hoá được anh trộm lành sám hối ăn năn, ông bà tổ tiên cả một đời đã sống vì con vì cháu, nhất định mỗi người chúng ta không thể nào quên. Anh trộm lành không bày tỏ niềm tin vào Chúa Giêsu bằng việc làm, nhưng qua hành động sám hối: “phần chúng ta, chúng ta chịu như thế này là đích đáng, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu….?”.

Không phải tại nghĩa trang này, hay 02.11 là ngày Giáo hội nhắc chúng ta cầu nguyện cho kẻ chết được sống, người tội lỗi biết ăn năn trở lại, đúng hơn vì Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết đang minh chứng tình yêu của Ngài cho nhân loại chúng ta. Ở nơi đây và lúc này, chúng ta không bình luận đúng sai, được cứu rồi hay còn phải chịu thanh luyện, nhưng kính nhớ tổ tiên, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài là điều các linh hồn hằng chờ mong. Chia sẻ, cầu nguyện, ý thức sống đạo, sống bài học yêu thương là bổn phận của con cháu nhớ đến cội nguồn. Chớ gì chúng ta nghe được lời nhắn gởi của các linh hồn nơi luyện ngục: nói đi các bạn, đâu là việc làm yêu thương, đâu là tình hiệp thông cao quý. Amen.

-----------------------------------

 

2/11-205: SỢI DÂY CHUYỀN LIÊN ĐỚI 


– Logos năm C

 

Nhà văn Khái Hưng đã viết một truyện ngắn mang tựa đề “ Bóng Người Trong Sương Mù” có 2/11-205


Nhà văn Khái Hưng đã viết một truyện ngắn mang tựa đề “ Bóng Người Trong Sương Mù” có nội dung như sau:

Vào một đêm mưa gió, người ta điều một bác lái tàu lửa đi gấp để lái đoàn tàu đưa một vị quan toàn quyền về tỉnh. Bác 1ái tàu đành bỏ ngừơi vợ đang đau nặng ở nhà để lên đường.

Vào khoảng nửa đêm, đoàn tàu đang lao vun vút trong làn sương mù dày đặc, bỗng nhiên bác lái tàu thấy một bóng người in trên sương mù ngay trước đoàn tàu. Người ấy mặc áo choàng rộng đang khoát tay như có ý bảo: “dừng lại! dừng lại!”. Bác lái tàu hoảng sợ không biết thực hư thế nào. Bóng người trong sương mù lúc ẩn lúc hiện như vung tay hét lên: “dừng lại! dừng lại!”. Bác tài càng phân vân hơn nữa, không biết người hay ma ? Có nên dừng lại không? Thế rồi như có một linh tính báo trước, bác kéo thắng tàu. Đoàn tàu từ từ dừng lại. Mọi người chạy xuống xem thì thấy cây cầu ngay phía trước đã gãy đổ hoàn toàn vì mưa lũ. Suýt nữa cả đoàn tàu đã lao xuống dòng sông chảy xiết!

Mọi người mừng rỡ vì thoát chết, còn bác tài thì tìm thấy một con bướm lớn bị vướng vào đèn pha, đang vùng vẫy tìm cách thoát ra. Chính con bướm trước ánh đèn pha đã in hình trên nền sương mù giống như một con người đang vẫy tay.

Sáng hôm sau, khi trở về nhà, vợ bác đã chết và chết đúng vào lúc nửa đêm hôm trước, lúc bóng người trong sương mù ra hiệu cho đoàn tàu dừng lại. Bác tài đã ép khô con bướm ấy và giữ làm kỉ niệm vì tin rằng linh hồn vợ bác đã nhập vào con bướm để cứu bác.

Câu chuyện trên diễn tả một quan niệm thông thường cho rằng người sống và kẻ chết luôn có mối liên hệ với nhau. Còn đối với người Kitô hữu, chúng ta tin rằng giữa người sống và người chết luôn có một sự hiệp thông sâu sắc qua lời nguyện cầu và sự tưởng nhớ hằng ngày.

Sợi dây chuyền liên đới.

Sách Cựu ước kể chuyện Giuđa Macabê, nhà lãnh đạo Do Thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người chết: “Cầu cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (2 Mcb 12,45-46). Như thế, lời cầu nguyện không những liên kết những người đang sống với nhau, mà còn liên kết người sống với kẻ chết đang được thanh luyện. Hình ảnh sợi dây chuyền liên đới diễn tả tín điều “ Các Thánh Cùng Thông Công ” trong Giáo Hội. Mỗi người dù sống hay chết đều là một móc xích liên kết với người khác tạo nên một chuỗi sự hiệp thông gắn bó với nhau. Nếu tách rời nhau, mỗi vòng khoen của sợi dây chuyền trở nên nhỏ nhoi vô nghĩa. Cũng vậy, nếu tách lìa nhau, mỗi con người chỉ là một cá thể lẻ loi cô độc không thể thăng tiến được. Nếu móc nối với nhau, những khoen tròn nhỏ bé kia hợp lại thành một sợi dây bền chắc. Cũng thế, nếu mỗi người dù sống hay chết biết nối chặt vòng tay sẽ tạo nên sức mạnh, tình hiệp thông và sự thăng tiến.

Chúng ta cầu nguyện cho người sống là một điều tốt lành và cầu nguyện cho người chết đang được thanh luyện lại càng là một điều lành thánh và đạo đức. Vì những linh hồn đang còn ở luyện ngục hoàn toàn trông chờ vào lời cầu nguyện của chúng ta nơi dương thế vì họ không thể cầu nguyện hay lập công phúc cho chính mình nữa. Họ chỉ còn biết trông đợi vào tình thương của Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của chúng ta. Tuy nhiên, các linh hồn nơi luyện ngục vẫn liên kết với chúng ta bằng những lời cầu bầu của họ trước mặt Thiên Chúa cho chúng ta.

Tuy nhiên, có một điều quan trọng: sợi dây chuyền liên đới ấy phải được khởi đầu từ Đức Kitô và kết thúc nơi Đức Kitô. Đức Kitô chính là “đầu mối” liên kết tất cả nên một. Ngài là đích điểm của mọi nguồn hy vọng và sự cậy trông của người sống cũng như kẻ chết: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy , sẽ không chết bao giờ.” (Ga 11, 25-26)

Tất cả lời cầu nguyện của chúng ta dù cho người sống hay kẻ qua đời đều phải đặt căn bản trên niềm tin vào Đức Kitô tử nạn và Phục Sinh. Ngài là sự liên kết vững bền nhất cho sự hiệp thông giữa chúng ta với nhau và với Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện tình yêu

Thánh Phaolô đã hé mở cho thấy Ngày của Thiên Chúa sẽ tỏ rạng trong ánh lửa hồng. Chính ngọn lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người (1 Cor 3.13). Ngọn lửa ấy luôn cần thiết trong bất cứ cuộc thanh luyện nào.

Sợi dây chuyền người ta đeo trên người dù bằng bạc hay vàng đều được nung chảy bằng lửa, kéo thành sợi, cắt thành khúc, uốn thành khoen, được hàn móc lại với nhau và được gọt dũa chau chuốt, làm nên sợi dây chuyền bền chắc.

Cũng thế, mỗi người dù sống hay chết đều được thanh luyện bằng ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa. Khi còn sống ở dương gian, người tín hữu được tình yêu Thiên Chúa thử luyện bằng những hy sinh đau khổ và thập giá. Nếu những ai chưa tinh toàn, người ấy lại tiếp tục được thanh luyện sau khi chết để trở nên tinh ròng hơn. Cầu nguyện cho các linh hồn là xin cho họ sớm được tinh tuyền trong tình yêu vô biên của Chúa. Xin cho ngọn lửa tình yêu của Chúa nung đốt chúng ta để chúng ta được liên kết với nhau và hòa tan trong Chúa.

Hôm nay, chúng ta qui tụ nơi đây (chúng ta tụ họp trong nghĩa trang này) để được gần gũi với những người thân yêu đã nằm xuống. Dù có 1 khoảng cách xa nghìn trùng giữa thế giới người sống và thế giới kẻ chết, nhưng chúng ta lại thật gần nhau bằng lời cầu nguyện qua những nén nhang và những ngọn nến được thắp lên. Khi những người thân còn chung sống với chúng ta, chúng ta có thể cho họ nhiều thứ, nhưng giờ đây họ chỉ mong đợi một điều thôi đó là lời cầu nguyện. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho họ như một món quà thân thương nhất chúng ta dành cho họ trong giây phút này.

Tại giáo xứ kia, khi người ta giải toả nghĩa trang trong giáo xứ để làm công viên, có một người chủ thầu xây dựng đến xin gặp cha xứ và nói:

– Thưa cha, con xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn.

Thấy người lạ mặt, cha xứ liền hỏi:

– Ông là ai?

– Thưa cha, con là người ngoại giáo đang ủi nghĩa trang làm công viên. Khi ủi đất, con nhìn thấy nhiều nhúm xương tàn nằm dưới đất, con sợ đã xúc phạm đến các linh hồn nên đến xin lễ cầu an.

Một người ngoại giáo xin lễ cho các linh hồn ! Điều đó cho thấy niềm tin vào mối liên hệ giữa người sống và kẻ chết rất được trân trọng, kể cả nơi người chưa nhận biết Chúa. Điều đó cũng nhắc nhở chúng ta hãy biết siêng năng cầu nguyện cho các linh hồn với sự tưởng nhớ và lòng mến yêu.

-----------------------------------

 

2/11-206: Xin Nhớ Đến Con Cùng


(Luca 23, 33. 39-43)

Mọi tạo vật đều muốn mình được nhớ đến

 

Có một loài hoa tên là  Lưu ly có màu tím, màu trắng, xanh hoặc vàng tuyệt đẹp, người ta hay 2/11-206


Có một loài hoa tên là  Lưu ly có màu tím, màu trắng, xanh hoặc vàng tuyệt đẹp, người ta hay hái để tặng nhau. Các cô thiếu nữ thường gọi tên hoa là ” xin đừng quên em “, còn các chàng trai một mực khăng khăng gọi Lưu ly là “xin đừng quên anh”.  Cho dù gọi hoa theo tên nào thì đây cũng là một loại hoa luôn luôn gợi nhớ một niềm thương cảm mênh mông, một kỷ niệm sâu xa thầm lặng không quên được.

Chuyện kể rằng: ngày xửa ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Một sáng mùa xuân trời trong vời vợi. Họ dắt nhau dạo chơi bên bờ một con suối, hoa Lưu ly mọc dày, cố vươn cành, nghiêng mình soi bóng xuống dòng nước trong xanh. Trong khi chàng trai tần ngần ngắm nhìn dòng thác đổ thì cô gái say sưa hái hoa. Cô nhoài người ra bờ suối hái mấy nhành hoa đẹp, chẳng may nàng bị trượt chân ngã xuống suối bị dòng nước cuốn trôi. Nàng cố hết sức ném lại nhành hoa có ý trao tặng người yêu và gọi với “Xin đừng quên em”.

Còn theo một truyền thuyết Công giáo, ngày nọ, Thiên Chúa đi ngang qua vườn địa đàng sau khi sáng tạo ra thế giới muôn loài. Người bỗng chú ý đến một bông hoa nhỏ và hỏi nó tên gì. Bông hoa ngượng ngùng thì thầm: “Thưa Chúa, con sợ rằng con đã bị lãng quên mất rồi ạ”. Thiên Chúa ôn tồn trả lời: “Uh, Ta sẽ không bao giờ quên con”. 

Chúng ta thấy, chẳng những con người luôn mong mình được người khác nhớ đến, mà cả loài hoa cũng muốn mình không bị lãng quên.

Giáo hội lữ hành nhớ đến Giáo hội khổ đau

Sau khi đã cử hành lễ vinh quang và danh dự của Giáo hội Khải Hoàn (Các Thánh), Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta hôm nay đặc biệt nhớ đến đến và cầu nguyện cho Giáo hội Khổ Đau: những tâm hồn tội lỗi đang ở trong thời gian thanh luyện đang rất cần sự nhớ đến và lời cầu nguyện, lễ hy sinh, việc đền tội của chúng ta, để họ nhanh chóng được giảm bớt hình phạt hiện tại, được thứ tha tội lỗi mà giờ đây họ không làm được gì cho chính mình.

Hôm nay không phải là ngày buồn và tang tóc: nhưng là ngày Giáo hội là Mẹ năn nỉ nài van cùng Thiên Chúa cho con cái mình đã qua đời còn đang bị giam cầm nơi Luyện Tội chờ ngày thanh luyện cho đủ sớm được giải thoát. Vì thế, Giáo hội kêu lên: “Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn… “

Xin nhớ đến con cùng

Trong khi tất cả những người khác nói với Chúa Giêsu một cách khinh miệt: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa!” (Lc 23, 39). Thì người trộm lành đã phạm bao lỗi lầm trong cuộc sống, cuối cùng lại sám hối, níu lấy Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh và cầu xin: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42). Chính vì anh xin Chúa một đặc ân là nhớ đến anh, nên Chúa Giêsu hứa với anh: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23, 43).

Chúa Giêsu là Con Một Chúa Cha, chỉ nói lời tha thứ, chứ không nói lời kết án; và khi con người biết can đảm xin ơn tha thứ, Chúa không bao giờ bỏ rơi lời cầu xin ấy. Lời hứa của Chúa Giêsu với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao: lời ấy nói với chúng ta rằng, ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Người rất quảng đại, luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin.

Ngày lễ nhớ cầu cho các linh hồn tổ tiên, các đấng, các bậc, ông bà cha mẹ, thân bằng quyến thuộc đã qua đời hôm nay gợi lên cho chúng ta về sự nhớ thương và đừng quên những người đã khuất. Khi dâng lễ giỗ cầu cho người thân, chúng ta như nhắc nhớ Chúa: “Lạy Chúa… người thân yêu này, chúng con không thể quên, lẽ nào Chúa lại không nhớ đến” (Lời nguyện nhập lễ giỗ – Ngoài Mùa Phục Sinh SLRM tr. 1005). Và trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, chúng ta vẫn xin Chúa: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người…”

Hôm nay, chúng ta nhớ tới tất cả mọi người, kể cả những người không ai nhớ tới. Chúng ta nhớ tới các nạn nhân của chiến tranh và bạo lực; các “trẻ em” trên thế giới bị đói khát và bần cùng đè bẹp; những người vô danh đã yên nghỉ; các anh chị em bị giết vì là kitô hữu; và biết bao nhiêu người đã hy sinh mạng sống để phục vụ tha nhân. Chúng ta hãy phó thác cho Chúa cách đặc biệt những người đã lìa bỏ chúng ta trong năm nay và xin Chúa nhớ đến họ và thương cho họ được hưởng ánh sáng tôn nhan.

Giờ đây, Thánh lễ là sự trợ giúp tinh thần tốt nhất mà chúng ta có thể ban tặng cho các linh hồn, đặc biệt các linh hồn bị bỏ rơi. Như Công Ðồng Chung Vaticăng II đã nhấn mạnh: “Giáo Hội lữ hành trên trần gian ý thức đựơc sự hiệp thông này của tất cả Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, ngay từ các thời kỳ đầu của Kitô giáo đã vun trồng với lòng đạo hạnh lớn lao việc tưởng nhớ các người đã qua đời” (LG 50).

Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và dâng lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta không chỉ dừng lại nơi họ để cầu nguyện cho họ mà thôi, chúng ta còn phải nài xin Chúa thương xót tất cả chúng ta nữa, để chúng ta cũng được đồng hưởng sự sống đời đời, cùng với Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, thánh Giuse Bạn Đức Trinh Nữ, các Thánh Tông Ðồ, và toàn thể các Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại, và cùng với các Ngài, chúng ta được ca ngợi và tôn vinh Chúa.

Lạy Chúa, Chúa từng phán cùng kẻ trộm lành: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23, 43). Xin Chúa thương nhớ đến những tín hữu đã qua đời còn trong Luyện Tội nơi thiên đàng của Chúa và xin đừng để họ phải trầm luân đời đời trong Hỏa ngục! Amen.

-----------------------------------

 

2/11-207: Tin Tưởng và Cậy Trông Vào Thiên Chúa Tình Yêu


 (Luca 23, 33. 39-43)

 

Từ trưa ngày lễ Các Thánh cho đến hôm nay, biết bao nhiêu người đi viếng thăm vườn thánh là 2/11-207


Từ trưa ngày lễ Các Thánh cho đến hôm nay, biết bao nhiêu người đi viếng thăm vườn thánh là “nơi an nghỉ” của những người đã chết chờ ngày sống lại. Chúng ta đi viếng họ với niềm tin yêu, dừng lại bên mộ của những người đã yêu thương và làm điều tốt cho chúng ta trong sự cậy trông, phó thác họ cho lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa Tình Yêu.

Chân lý Đức tin Kitô giáo dạy chúng ta rằng giữa Trời và Đất có một trung gian gọi là Luyện ngục, nơi ấy dành cho những người chết trong khi mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, cần phải được thanh tẩy để trở nên tinh tuyền, mà thánh Gioan Thánh Giá gọi là  “Lửa Tình Yêu”. Hôm nay chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, săn sóc phần mộ và nhất là dâng lễ Misa nại vào Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng đã tạo dựng, hy sinh và cứu chuộc chúng ta, nay lại dùng tình yêu mà thanh luyện những người đã qua đời và sớm cho họ được hưởng tôn nhan Chúa.

Tin vào Thiên Chúa  Tình Yêu

Người ta nói rằng: nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó.

Thiên Chúa đã yêu con người bằng một tình yêu hào phóng khi tạo dựng con người, ban cho con người những hồng ân bên trong và bên ngoài; Ngài cũng đã yêu chúng ta với một tình yêu khổ đau để cứu chuộc ta, khi nghĩ ra cách hủy diệt chính mình, chịu đau đớn nhất, để minh chứng cho ta thấy: “Tình Yêu là bản chất của Thiên Chúa”.

Trong tác phẩm Quo Vadis, một người ngoại giáo hỏi Thánh Phêrô khi ngài mới đến Rôma như thế này: Nhã Điển đem đến cho chúng tôi sự thông thái, Rôma đem đến quyền lực, còn tôn giáo của ông đem lại cho chúng tôi điều gì? Thánh Phêrô trả lời: Tình yêu!

Vâng, Thiên Chúa yêu con người bằng tình yêu hào phóng, mang theo sự tha thứ và nguyện cầu. Thánh Phaolô thốt lên “Ít có ai chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5, 7-8). Con người có thể là kẻ thù của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa mãi mãi không là kẻ thù của con người. Kinh nguyện vô cùng cảm động của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cầu cho con người chứng minh tình yêu vô biến ấy (x. Ga 17, 1-26).

Sau khi tôn vinh Chúa Cha (x. Ga 17, 1); cầu nguyện cho các môn đệ (x. Ga 17, 11), và những kẻ nhờ các môn đệ mà tin vào Chúa: “Con còn cầu cho tất cả những kẻ, nhờ chúng mà tin vào con (Ga 17, 20-26 ); Người cầu cho chúng ta nên “một”: “Để cả chúng cũng nên một trong Ta” (Ga 17,22). Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu thì luôn luôn hiệp nhất, do đó, trong Thiên Chúa không có sự chia rẽ ở đời này, kể cả đời sau nữa.

Hy vọng và cậy trông vào Chúa

Bản chất là Tình yêu, mang trong mình một tình yêu thương xót, thứ tha và cứu chuộc nên Thiên Chúa luôn canh cánh trong lòng, mong sao cho nhân loại được cứu chuộc. Người khẩn cầu tha thiết cùng Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thi Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con” (Ga 17,24). Chúa Giêsu ở đâu? Ở trong tình yêu Chúa Cha, trong lòng Chúa Chúa; ở trong sự thật; ở trong Thánh Ý Chúa Cha; Ở trên Thập Giá và ở trên thiên đàng và Người muốn chúng ta cũng ở với Chúa.

 Chính Chúa Cha đã sai Chúa Con đến trần gian để yêu thương con người như Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con. Nên trước khi về trời, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng Chúa Cha đã yêu thương chúng ta như đã yêu thương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa là Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho những người đã qua đời được ở trong tình yêu của Chúa luôn mãi, và cho chúng con ngay từ khi còn ở dưới thế cũng luôn ở trong vòng tay yêu thương của Chúa. Amen.

-----------------------------------

 

2/11-208: THÁNH LỄ II Tin mừng Luca 23,33.39-42

 

Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh 2/11-208


Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:

Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).

Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).

Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.

Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:

1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.

Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.

Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.

2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.

- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.

Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.

-----------------------------------

 

2/11-209: THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27

 

Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia 2/11-209


Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:

1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.

- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”

Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.

- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”

Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.

- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”

Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.

2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.

- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”

Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.

Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.

- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”

Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.

- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”

Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.

-----------------------------------

 

2/11-210: UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN


JM. Lam Thy ĐVD.

 

Sau những trận chiến giao tranh giữa 2 phe đối nghịch, người ta thường tổ chức lễ “Cầu cho các 2/11-210


Sau những trận chiến giao tranh giữa 2 phe đối nghịch, người ta thường tổ chức lễ “Cầu cho các chiến sĩ trận vong” (những chiến sĩ tử trận). Cứ tưởng chỉ ở thời cận kim hay hiện đại mới có lễ này, thật không ngờ từ cổ xưa đã có. Đọc sách Ma-ca-bê 2 (chương 12) trình thuật tướng Giu-đa sau khi chiến thắng tướng Goóc-ghi-át đã làm một việc rất lành thánh, đó là: “Vị anh hùng Giu-đa khuyên nhủ toàn quân giữ mình sạch tội, vì họ đã nhìn thấy nhãn tiền những việc xảy ra là do tội của những người đã bị giết chết. Ông Giu-đa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi.” (2Mcb 12, 42-46).

Giáo Hội đã ghi nhận hành động tốt lành đó như một tín điều nhằm răn dạy các tín hữu: “Nhận biết sự hiệp thông này trong lòng toàn Nhiệm Thể Chúa Giê-su Ki-tô, ngay từ buổi đầu của Ki-tô Giáo, Hội Thánh lữ hành hết lòng kính mến, tưởng nhớ những người đã chết và dâng lời cầu cho họ “vì cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý tưởng lành thánh”(2Mcb 12, 46; GH, 51).Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta không chỉ giúp họ, mà còn làm cho lời họ chuyển cầu cho chúng ta hiệu quả hơn.” (Giáo lý HTCG, số 958). Ngay cả Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II, trong Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium” (số 51) cũng khẳng định: “Thánh Công Ðồng kính cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông sống động với các anh em được hiển vinh trên trời hay còn phải tinh luyện sau khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của các thánh Công Ðồng Nicea II, 20; Firenze 21 và Trentô 22.”

Trong sự hiệp thông khơi nguồn từ sự hiệp thông viên mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi, đã tạo nên sự hiệp thông của 3 Giáo Hội: Giáo Hội Chiến Đấu (GH Lữ Hành), Giáo Hội Đau Khổ (GH Thanh Luyện) và Giáo Hội Chiến Thắng (GH Khải Hoàn). Người tín hữu khi còn tại thế đã trải qua một cuộc lữ hành phải chiến đấu với ba thù, một cuộc chiến đấu đầy cam go thử thách. Khi từ trần, ngoại trừ những người thỏa hiệp với sự dữ, cố tình không chịu ăn năn sám hối về những tội lỗi mắc phạm, phải chịu án phạt đời đời (hỏa ngục); thì số người còn lại chỉ một số ít được trực tiếp vinh thăng Thiên Quốc, đa phần đều phải tiếp tục được thanh luyện nơi Luyện ngục. Thật vậy, “Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. Còn công việc của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa.” (1Cr 3, 14-15).

Những linh hồn nơi Luyện ngục đã mất khả năng tự “lập công chuộc tội” cho mình, mà chỉ trông nhờ vào công đức của các tín hữu còn tại thế cầu thay nguyện giúp cho các ngài mà thôi. Công Đồng Tri-đen-ti-nô (1545-1563) đã nhấn mạnh: “Lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.” Công Đồng Va-ti-ca-nô II cũng dạy: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh.” (Hc Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 50). Nhờ vậy, khi “được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa (x. 2Cr 5, 8) nhờ Người, với Người và trong Người, các Thánh không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha, bằng cách trình bày các công nghiệp đã lập được khi còn ở dưới thế, nhờ Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Giê-su Ki-tô (x. 1Tm 2, 5)” (Hc Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 49).

Đó là lý do giải thích tại sao Hội Thánh đã chọn ngày 01/11 làm lễ kính Các Thánh và ngày 02/11 làm lễ cầu cho các Tín hữu đã qua đời; đồng thời còn dành cả tháng 11 trong năm Phụng Vụ để cầu nguyện cho các tín hữu đã ly trần (ở Việt Nam vẫn gọi tháng 11 là tháng Cầu Hồn). Việc cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời liên quan đến niềm tin về luyện ngục và các thánh thông công (Kinh Tin Kính). Sự trao đi nhận lại ấy vừa là một việc bác ái, vừa là một bổn phận thảo hiếu phải đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Đó là những thực hành rất lành thánh để tưởng nhớ người đã qua đời, thực thi bổn phận “hiệp thông cùng các thánh”, nối tiếp truyền thống hiệp thông 3 Giáo Hội trở nên một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền (Kinh Tin Kính).

Trong truyền thống hiệp thông, Giáo Hội luôn mời gọi người tín hữu dâng các việc lành phúc đức và cầu nguyện cho những người đã khuất. Khi thực hiện những hành vi lành thánh đó, chính là lúc người Ki-tô hữu tuyên xưng niềm tin của mình vào sự sống lại và sự sống đời đời (Ga 11, 25) – sự sống mà chính Đức Ki-tô đã khai mở, vì Người chính là hoa quả đầu mùa của những kẻ đã yên giấc (“Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.” – 1Cr 15, 20).Nếu không tin vào sự sống mai sau thì chẳng ai cầu nguyện cho các linh hồn làm gì và cũng chẳng có lễ cầu hồn, như người Công giáo vẫn thường dâng hàng ngày, đặc biệt là trong cả tháng 11 hàng năm. Nếu không tin vào sự chung thẩm (luận định, phán xét cuối cùng) ở ngày cánh chung, thì mọi lời cầu nguyện và nghĩa cử người tín hữu làm cho người chết đều trở nên vô nghĩa (sách Ma-ca-bê còn gọi đó là việc làm “dư thừa và ngu xuẩn” – 2Mcb 12, 44).

Như vậy là đã rõ, để thanh tẩy cho sạch mọi tội lỗi, giũ sạch mọi vết nhơ gây nên đau khổ, con người cần phải được thanh luyện không những khi còn tại thế mà cả sau khi đã qua đời. Nơi thanh luyện đó Giáo Hội định tín là “Luyện ngục” (“Những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đat được sư thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc Thiên đàng”; “Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là Luỵên ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời của kẻ bị chúc dữ: Hội Thánh công bố giáo lý về Luyện nguc cách riêng trong các Công đồng Flôrence và Trentô. Dựa vào một số đoạn Kinh Thánh, Hội Thánh nói về lửa thanh luyện” (1Cr 3, 15; 1Pr 1, 7). – Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1030-1031).

Sách “Những ngày lễ Công Giáo” (Lịch Phụng Vụ) phổ biến ở Việt Nam (nhà xuất bản tôn giáo ấn hành), ghi ngày 02/11 là: CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI (LỄ CÁC ĐẲNG). Cũng vì cụm từ viết tắt LỄ CÁC ĐẲNG khiến nảy sinh thắc mắc, không hiểu CÁC ĐẲNG là gì. Nếu viết đầy đủ thì phải là LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN. Nhưng như thế thì lại hiểu là linh hồn người chết vẫn còn phân đẳng cấp sao? Đúng là theo từ nguyên Hán Việt thì “các đẳng 各等” có nghĩa là: tất cả các thứ hạng, cấp bậc (“các”: tất cả, số nhiều; “đẳng”: thứ bậc, đẳng cấp). Vd: Thượng đẳng (bậc cao nhất); Trung đẳng (bậc giữa); Hạ đẳng (bậc thấp nhất). Tuy nhiên, “Các đẳng linh hồn” không có nghĩa là trong luyện ngục các linh hồn vẫn có sự phân chia đẳng cấp, điạ vị, thứ hạng như khi còn ở thế gian. Trong Luyện Ngục, tình trạng thanh luyện của họ có thể khác nhau, thời gian thanh luyện có thể khác nhau, nhưng được “phân cấp” như thế nào thì không ai biết được.

Có lẽ do ở Việt Nam từ trước khi gia nhập Ki-tô giáo, truyền thống dân tộc dành tháng 7 âm lịch để cúng “cô hồn các đẳng” (cúng tế những vong hồn người chết). Khi hạt giống Tin Mừng được gieo trên mảnh đất VN, tiền nhân đã dùng tiếng “các đẳng linh hồn” để dịch cụm từ La-tinh “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum” (Lễ cầu cho các người đã qua đời). Sau này, Uỷ Ban Phụng Tự dịch là “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời” là đã đầy đủ ý nghĩa, nhưng vẫn mở ngoặc chú thích thêm là “Lễ Các Đẳng” cho phù hợp với truyền thống dân tộc VN. Tóm lại, không nên quá câu nệ vào từ ngữ, mà chĩ cần nhận chân một điều: Lễ “Cầu Hồn” hay tháng “Cầu Cho Các Linh Hồn” nơi Luyện Ngục, chính là dịp để người Ki-tô hữu tuyên xưng Đức Tin được xây dựng trên nền tảng Đức Ái Ki-tô Giáo (“Quả thật, trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái.” – Gl 5, 6; “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” – Cl 3, 14).

Quả thực không gì cao đẹp hơn khi mọi người cỏn sống hay đã chết cùng hiệp thông trong Thánh lễ tạ ơn, trong lời kinh tiếng hát dâng lên Thiên Chúa. Thánh lễ đặc biệt trong những ngày đầu tháng và trong suốt tháng 11 nhằm kính nhớ và cầu nguyện cho các đẳng linh hồn, như một nhắc nhở cần thiết: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, để những thế hệ hậu sinh kính dâng cho các hương hồn tiền nhân đã dày công xây đắp cho con cháu. Các ngài mãi mãi rời xa chúng ta về mặt thể lý; nhưng trong mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội, thì các ngài vẫn luôn luôn gần gũi mỗi người trong thế gian. Sẽ là những món quà vô giá mỗi khi người Ki-tô hữu hy sinh, chay tịnh, làm công tác tông đồ bác ái, cầu nguyện cho những người thân yêu và tất cả những ai đã đi vào cõi vĩnh hằng.

Ôi! “Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhận lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho lòng chúng con luôn trông vậy vững vàng: chính Ðức Giê-su sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được phục sinh vinh hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Cầu cho các tín hữu đạ qua đời).

-----------------------------------

 

2/11-211: LUYỆN HÌNH – NƠI CHỐN VẪN CÒN TÌNH YÊU !


P. Trần Đình Phan Tiến

“Hãy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con, lửa tình yêu, lửa huyền siêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân” (Phanxico).

 

Vâng, đây là Điệp khúc của bài hát, do nhạc sĩ Phanxico sáng tác, mà ai cũng biết. Để gợi hứng 2/11-211


Vâng, đây là Điệp khúc của bài hát, do nhạc sĩ Phanxico sáng tác, mà ai cũng biết. Để gợi hứng cho bài chia sẻ Lễ Các Linh Hồn 2014, xin được mượn lời bài hát ý nghĩa nầy. Thật ra, lời bài hát là về Chúa Thánh Thần, nhưng cảm nhận phù hợp với lễ các Linh Hồn, vì chính Chúa Thánh Thần tác động đến. Vâng, như vậy, có thể minh định rằng: “Lửa tình yêu, lửa huyền siêu “ nầy đang tác động đến luyện hình, nơi các linh hồn đang được thanh luyện. Vì, chính Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân.Vâng, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân, cho người trần thế và nơi các linh hồn trong luyện hình. Nhưng, để minh chứng cho điều nầy, chúng ta hãy cùng suy niệm về “Luyện Hình ”.

“Luyện hình” là nơi dùng hình thực thanh luyện, có nghĩa là” bị phạt”. Nhưng “phạt “có thời gian , không như hỏa ngục, nơi “phạt ” đời đời.

Như vậy, nơi “ phạt “ luyện hình vẫn còn tình yêu. Thiên Chúa vẫn yêu thương các linh hồn nơi luyện hình, như yêu con người dương thế. Bởi vì, luyện hình, mặc nhiên không phải là nơi luận phạt vĩnh viễn. Như, chúng ta biết, Giáo Hội Công Gíao có ba thành phần, Chiến Đấu ( Lập Công ), Chiến Thắng( Khải Hoàn), Đau khổ ( Đền Tội ). Như vậy, chỉ có thành phần Giáo Hội Khải Hoàn mới hoàn toàn chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Quốc. Còn thành phần Giáo Hội Lữ Hành và giáo hội đền tội là hai thành phần chưa được chiêm ngắm Thánh Nhan Thiên Chúa. Bởi vì, hai thành phần nầy chưa hoàn toàn tẩy trắng áo mình trong Máu Con Chiên. Vì vậy, thành phần Giáo Hội đau khổ cũng như thành phần giáo hội lữ hành đều có chung một niềm khao khát như nhau, đó là, còn xa cách Thánh Nhan Thiên Chúa.Chỉ khác nhau ở một điểm là: Giáo Hội Lữ Hành là thành phần còn điều kiện lập công, còn giáo hội Đau Khổ thì mất “quyền” lập công. Vì vậy, các ngài cần đến sự trợ giúp của chúng ta, nói cách khác, các ngài là những cầu thủ bị “việt vị”, tức “liệt vị “, không còn “cựa quậy” gì nữa. Nên chi, từ đó, “sự chết” theo tín lý công giáo là như vậy, một là lên Thiên Đàng, hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa, đó là các thánh, giáo hội chiến thắng. Hai là vào luyện hình, nơi chờ đợi để thanh luyện. Xin miễn bàn nơi thứ ba. Vì vậy, Lửa thánh luyện cũng chính là: ” Lửa Huyền Siêu, Lửa Tình Yêu”, do chính Thánh Ân của Chúa Thánh Thần. theo đó, lửa luyện hình vẫn là hình thức yêu thương, nhưng nơi đó, tình yêu “bị động”, có nghĩa là chỉ hưởng nhờ , chứ không được chủ động” lập nên” như chúng ta, ví dụ: Như đọc kinh, lần hạt, hay làm việc bác ái. Nên chi, lửa tình yêu, lửa huyền siêu chiếu vào chỉ một việc là thanh luyện. Dù là Thánh Ân, nhưng giống như “mất quyền tự do”, nên chi, các ngài phải chịu thua thiệt. Tình yêu của Thiên Chúa nơi các linh hồn cũng là vô biên, nhưng hữu nhiên tình yêu Thánh Ân không phải là” hai chiều” giống như trần thế. Đó là lý do, người ở trong luyện hình cần đến chúng ta, Giáo Hội lập công.

Như vậy, trần gian không phải là Thiên Đàng, cũng vậy, không phải là Luyện Hình. Nhưng trần gian có vị thế của trần gian. Theo đó, trần gian thì hạnh phúc hơn Luyện Hình, Thiên Đàng hạnh phúc hơn trần gian. Hiểu như vậy, chúng ta phải yêu mến các Đẳng linh hồn, bằng cách cầu nguyện, dâng việc lành, hy sinh để đền thay, cầu thay cho các ngài, đó là bác ái Kitô giáo cho người đã khuất mà chưa được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa. Đây là một hành động cao đẹp, đồng thời là nghĩa cử cứu độ. Mặc nhiên, quyền xét đoán là duy mình Thiên Chúa, nhưng việc bác ái đối với các linh hồn thì chính là như việc truyền giáo vậy. Thương người có 14 mối, thì bảy mối thương linh hồn, như vậy, hồn xác bằng nhau. Nay các linh hồn không còn trong thân xác, thì các ngài được yêu thương trong linh hồn. Vì linh hồn mà được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa, thì không gọi là linh hồn, mà được gọi là thánh. Khi , các ngài được cứu độ trọn vẹn, thì các ngài ở trên thiên đàng, thì mặc nhiên các thánh là các ngài sẻ cầu bàu cho chúng ta. Theo đó, Luyện Hình là nơi được “Lửa Hồng” chiếu soi, lửa huyền siêu, lửa tình yêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều Thánh Ân.

Dù rằng lời ca từ không dành cho các linh hồn trong Luyện Hình, nhưng, từng lời ca từ trong bài hát cho chúng ta một sự kết nối đầy ý nghĩa Công Giáo. Vì vậy, lễ các linh hồn 2014, xin chia sẻ theo ý tưởng nầy, hầu mang đến tính hiệp thông trong Giáo Hội. Vì, nếu như, khi còn trên dương thế, trong thân xác hữu hạn, nhưng ý thức được tính hiyền siêu bởi lửa tình yêu thì hạnh phúc cho tất cả chúng ta.
Mong rằng” Lửa Huyền siêu” mà Thánh Linh Thiên Chúa luôn chiếu soi trên các linh hồn nơi Luyện Hình chính là “Lửa Tình Yêu “ duy nhất, mà Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều xuống trên các linh hồn.

Chúa Giêsu –Kitô đã dùng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người để cứu rỗi các linh hồn, thì chính là các linh hồn trong Luyện Hình. Vì , phàm nhân nơi trần thế hoặc sẽ là các thánh, hoặc sẽ là các linh hồn. Còn nếu ở trong Hỏa Ngục, thì xin miễn bàn.

Vì, “ Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đã hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã qua đời, vì cầu nguyện cho họ để được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh ( 2 Mcb 12, 45). Chúng ta hãy dâng thánh lễ và các việc lành để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời”.( Trích Lịch Phụng Vụ)

Lạy Chúa Thánh Linh, Ngôi Ba Thiên Chúa xin tiếp tục tuôn đổ Thánh Ân trên các linh hồn nơi Luyện Hình, để chính lửa hồng mà Chúa chiếu soi là “Lửa Tình Yêu, Lửa Huyền Siêu “ trên các linh hồn. Vì các linh hồn cũng chính là thành phần đáng được hưởng công nghiệp Máu Cứu Chuộc của Đức Giêsu – Kitô/. Amen.

-----------------------------------

 

2/11-212: Lạy Chúa, xin đưa họ vào hưởng niềm hoan lạc cùng chư thánh


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Nếu như hôm qua, lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca phụng vụ lễ Các Thánh Nam Nữ của 2/11-212


Nếu như hôm qua, lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca phụng vụ lễ Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt quá những giới hạn của không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng các thánh, những người được coi là diễm phúc ở “đô thành thiên quốc, thành Giêrusalem trên trời là mẹ của chúng ta” (Tiền tụng lễ Các thánh). Thì hôm nay, mùng 02 tháng 11, màu sắc, âm thanh, phụng ca của ngày lễ hướng tâm hồn chúng ta về các thực tại mai hậu, tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời “ những người đã ra đi trước chúng ta với dấu ấn đức tin và nay đang nghỉ giấc bình an” (Kinh nguyện Thánh Thể số I), ở nơi luyện ngục, để xin Chúa dâng lễ cầu nguyện cho họ, xin Chúa cho ánh sáng hào quanh vĩnh cửu chiếu soi họ và đưa họ vào hưởng niềm hoan lạc cùng chư thánh mới thầm thía biết bao.

Luyện ngục là làm sao ? Luyện ngục là hình phạt người lành còn mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ.

Câu trả lời trên giúp chúng ta hiểu việc chúng ta phải làm cho họ. Dù đang sống cuộc sống dương gian, hay hưởng phúc thiên đàng hoặc đang thanh luyện nơi luyện ngục, tất cả mọi người đều liên đới với nhau trong Đức Kitô. Đó chính là ý nghĩa của tín điều các Thánh Thông Công mà chúng ta tuyên xưng và thực hành.

Các thánh thông công

Một câu hỏi lớn: Các thánh thông công nghĩa là làm sao ?

Thưa. Các thánh ở trên trời cùng các linh hồn ở luyện ngục và các bổn đạo dưới đất đều thông công với nhau. Các bổn đạo tôn kính cầu xin các thánh, và các thánh cầu bầu cho các bổn đạo trước mặt Đức Chúa Trời. Các bổn đạo dâng việc lành phúc đức cầu cho các linh hồn ở luyện ngục, mà khi các linh hồn ấy đã được lên thiên đàng thì cùng cầu bầu cho các bổn đạo nữa. Các bổn đạo có lòng kính mến Đức Chúa Trời cùng thương yêu nhau thì chẳng những lập công cho mình mà lại làm ích cho kẻ khác nữa. (Sách Bổn Hà Nội tr. 39-40)

Những câu bổn căn bản trên giúp chúng ta hiểu tại sao Giáo Hội dành hẳn tháng 11 hàng năm để cầu nguyện cho anh chị em đã qua đời. Vì niềm hy vọng Kitô giáo không bao giờ chỉ mang tính cách cá nhân, nhưng còn là hy vọng cho tha nhân nữa. Nên, cuộc sống của chúng ta được liên kết với nhau, và điều tốt hay điều xấu của người này liên quan tới người kia nữa. Thế nên, lời cầu nguyện của một người còn đang lữ hành trên dương thế có thể giúp đỡ một linh hồn khác đang được thanh luyện sau khi đã qua đời. Đó là lý do vì sao ngày hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời, và đến viếng thăm mộ của họ. Vì chúng ta có trách nhiệm phải nhớ đến nhau, cầu nguyện, hy sinh, đền tội thay cho nhau.

Còn tin là còn cầu nguyện, còn chia sẽ một Thánh Thể là còn nhớ đến nhau, thuộc về nhau. Tình yêu thương bác ái dành cho các linh hồn trong lúc này chính là lời cầu nguyện, là thánh lễ là sự hy sinh.

Khi cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, Giáo Hội hướng về Chúa Kitô phục sinh, Ðấng đã chết và sống lại để cho tất cả chúng được sống lại. Tin vào sự sống lại của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người.

Đức tin không giải thoát những kẻ tin khỏi sự khổ não phải chết, nhưng đức tin sẽ làm êm dịu với hy vọng: “Nếu có buồn sầu vì số phận phải chết… cũng sẽ được ủi an”. (Kinh Tiền Tụng cầu ngày lễ các linh hồn).

Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Nhưng còn được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về Giáo hội hay ở ngoài Giáo hội hữu hình. Với niềm xác tín, Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là Đấng Cứu Độ duy nhất, tình thương của Thiên Chúa ôm trọn tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Chúa, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Chúa, họ cũng thuộc về Chúa, cho dẫu chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ một mình Chúa mới biết lòng tin của họ.

Dịp Đạo hiếu được thi hành.

Báo hiếu là bổn phận thiêng liêng của tất cả mọi người. Ðông cũng như Tây, xưa cũng như nay, những người có hiếu không ai là không nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Nhưng cách thể hiện tấm lòng cụ thể tùy theo trình độ văn minh và phong tục tập quán của mỗi dân tộc mà có những khác biệt.

Ở Việt Nam ta, với triết lý Á Đông vốn đề cao chữ hiếu. Có hai cách báo hiếu: khi cha mẹ còn sống, con cái phải chu cấp đầy đủ những nhu yếu vật chất để cha mẹ được an vui, khi cha mẹ qua đời, con cái phải phụng thờ và thực hiện những di chúc để lại.

Ðây là cơ hội quý báu để những người con hiếu thảo báo đáp phần nào công ơn trời bể của tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Cây có cội, nước có nguồn, Con người có tổ có tông: có cha có me, có ông có bà”. Ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu, đạo làm người ấy.

Cũng như muôn tạo vật, con người cũng có cội, có nguồn, có tổ có tông. Họ là những “tiền nhân” đã ra đi trước chúng ta, để lại hậu duệ là chính chúng ta, với ước mong giòng giống của các ngài được trường tồn, đó chính là quy luật “bảo tồn sự sống” mà Thiên Chúa đã thiết lập.

Thảo kính cha mẹ phải phát xuất từ trái tim, thôi thúc lòng người hiếu thảo thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:

Mẹ cha vất vả nuôi mình
Từ khi trứng nước công trình biết bao.
Làm con phải nhớ công lao,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con (Ca dao).

Việc thảo kính cha mẹ không chỉ là việc: con cái trả ơn sinh thành mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng gắn liền với huyết thống, máu mủ, tình thân, hay là một qui định của xã hội mà là một điều răn của Chúa dạy:“Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.

Thiên Chúa đã nâng điều răn thứ bốn lên ngang hàng với các điều răn khác ; điều đó chứng tỏ con cái phải hiếu kính đối với cha mẹ đến mức nào. Môisen đã nói “Hãy thảo kính cha mẹ và ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử”(Mc, 7-13).

Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng.

Bên Đông phương người ta đề cao chữ HIẾU và nâng lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.

“Cùng tột điều thiện, không gì hơn hiếu,
Cùng tột điều ác, không gì hơn bất hiếu”. (Kinh Nhẫn Nhục)

Không ai có thể phủ nhận được công ơn cha mẹ trong việc sinh thành và dưỡng dục con cái.Thiến Chúa đã dựng nên con người, nhưng không trực tiếp mà phải qua trung gian cha mẹ. Đầu tiên Thiên Chúa dựng nên ông Adam và bà Evà, rồi từ đó con cháu nối tiếp. Đúng là:

Người ta có cố có ông,
Như cây có cội như sông có nguồn

Lý thuyết là như thế, nhưng trong ngày nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (theo sách giáo lý Tân định). Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.

Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
(Ca dao)

Nhớ đến cùng đích của chính mình

Khi cầu nguyện cho những anh chị em tin hữu đã qua đời, chúng ta không chỉ dừng lại nơi họ, cho họ, vì họ mà còn cho chúng ta nữa những người còn sống. Sự ra đi trước của họ, nhắc nhớ chúng ta về một cõi đi về mà ai ai trong chúng ta cũng phải về, đó là quê trời vinh phúc. Trong khi cầu nguyện cho anh chị em đã qua đời, chúng ta cũng xin Chúa làm cho đức tin vào Con Chúa đã sống lại từ cõi chết được lớn mạnh nơi chúng ta. Nhờ niềm tin vào sự sống đời sau, tin vào Đức Kitô là sự sống lại và là sự sống mà mỗi người chúng ta ngày nay luôn bước tới trong niền hy vọng. Cùng đích của người Kitô hữu là được trở về nhà Cha hưởng vinh phúc. Cùng đích này cũng giúp chúng ta sống cuộc sống hiện tại sao cho thật có ý nghĩa, thật có giá trị, không hổ thẹn là con cháu đáng quí của những người đã khuất, không hổ thẹn là người môn đệ của Đức Kitô, Đấng hằng sống. Hy vọng rằng qua đời này tất cả lại cùng đoàn viên trong nhà Cha trên Trời.

Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Chúa đời đời. Amen.

-----------------------------------

 

2/11-213: Sinh và tử hiệp thông


AM Trần Bình An

 

Lúc 7 giờ rưỡi sáng ngày 2-9-1918 có tiếng chuông reo ở Phòng Thánh. Mẹ Maria Teresa di Gesù 2/11-213


Lúc 7 giờ rưỡi sáng ngày 2-9-1918 có tiếng chuông reo ở Phòng Thánh. Mẹ Maria Teresa di Gesù (1878-1948) liền đến xem. Mẹ vừa là Bề Trên vừa là người phụ trách Phòng Thánh, nơi có chiếc bàn quay của Đan Viện để liên lạc với bên ngoài và nhận các vật dâng cúng của tín hữu. Sau lời chào thường lệ:”Ngợi Khen Đức Chúa GIÊSU và Đức Mẹ MARIA – Siano lodati GESÙ e MARIA” của Mẹ Bề Trên thì có tiếng nói vừa bi-ai vừa cay đắng đáp lại: “Tôi phải để lại đây của bố thí này!” Đó là tờ giấy bạc 10 lire của thời bấy giờ tức là tương đương với 200 euros. Khi Mẹ Bề Trên hỏi danh tánh thì tiếng nói trả lời không cần biết tên tuổi.

Đây là lần xuất hiện đầu tiên trong tổng số 28 lần. Các cuộc viếng thăm sau đó đi kèm tờ giấy bạc 10 lire khiến các Nữ Tu Kín đơn sơ nghĩ rằng có lẽ vị ân nhân không muốn tỏ lộ danh tánh. Ngày 16-9-1919 tiếng chuông Phòng Thánh lại reo vang sau khi các Nữ Tu đã cẩn thận đóng kín các cửa ra vào và cửa Nhà Nguyện. Không có tiếng nói nhưng chỉ có tờ giấy bạc 10 lire. Mẹ Bề Trên không lấy tờ giấy bạc. Nhưng khi Chị kia quay đi thì Mẹ lại nghe tiếng chuông báo hiệu. Mẹ Bề Trên một mình trở lại bàn quay thì lần này có tiếng nói: “Việc lấy tờ giấy bạc là để làm nguôi Phép Công Thẳng của THIÊN CHÚA!” Ngày 3-10-1919 chuông Phòng Thánh lại reo. Thể theo lời Cha Giải Tội dặn, vì sợ rằng đây là trò đùa của ma quỉ chăng, nên Mẹ Maria Teresa di Gesù từ chối không nhận tờ giấy bạc 10 lire. Trước sự kiện này, tiếng nói vừa buồn-sầu vừa áo-nảo trấn an Mẹ Bề Trên: “Không, tôi là một Linh Hồn Luyện Tội, từ 40 năm qua, tôi phải ở trong Lửa Luyện Hình vì tội đã phung phí tài sản của Hội Thánh!” Trước lần hiện về sau cùng, chuông Phòng Thánh reo vào lúc 2 giờ 45 phút sáng. Mẹ Maria Teresa di Gesù trịnh trọng nói: “Theo lệnh của Cha Giải Tội, xin nói cho con biết ngài là ai: có phải là Linh Mục không?” Tiếng nói bên ngoài bàn quay đáp lại: “Đúng thế!” Lần hiện về cuối cùng Linh Hồn báo tin đã được giải thoát khỏi Lửa Luyện Tội. Lúc ấy là 4 giờ 45 phút sáng ngày 9-11-1919.(Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, RadioVatican).

Ai cũng chỉ một thời cõi trần, rồi sống mãi với linh hồn bất tử. Người Kitô hữu thì luôn tâm niệmsinh ký tử quy, cố gắng sống tạm dương thế sao cho tử tế, tốt lành, đức hạnh, xứng đáng làm con Chúa, để khi thác được trở về quê hương Nước Trời. Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay thật vắn tắt gói ghém bốn câu Lời Chúa phán dạy về đời sau.“Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi sẽ không bị loại ra ngoài.” (Ga 6, 37)

Như thế, Đức Giêsu chính thức long trọng hứa với những ai đến với Người, đều được hưởng phúc trường sinh. Người đã mở toang cánh cửa Thiên Đàng cho những ai chân thành theo Người. Vấn đề chỉ còn tùy thuộc con người tự do chọn lựa, có đến với Người hay dại dột chối từ.

Tuy nhiên, con người thật khó dứt khoát chọn theo Người, dù đã được thanh tẩy làm con Chúa, dù đã lãnh nhận các bí tích nhiệm mầu, nhất là Mình Máu Chúa làm của ăn đi đàng. Do vậy, con người vẫn khó tránh khỏi lửa luyện ngục, để thanh tẩy lần cuối, trước khi vinh dự diện kiến Thánh Nhan Thiên Chúa.

Cầu nguyện cho kẻ khuất bóng

“Cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý tưởng lành thánh”(2Mcb 12, 46) Còn ông Gióp cũng xác tín quyết liệt: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19, 25-27).

Công Đồng Vaticanô II dạy: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh..”(GH 50)

Vào Tháng Các Đẳng, Kitô hữu nhớ đến những người khuất núi, ông bà, cha mẹ, anh chị em, con cái, bạn bè, thân bằng quyến thuộc, để báo hiếu, tri ân, cảm tạ và thương yêu bằng cầu nguyện, dâng lễ và làm những việc lành phúc đức với ý chỉ dành cho các linh hồn đang chịu thanh luyện.

“Đối với Kitô hữu, không có người chết. Tất cả kẻ chết của chúng ta đang sống. Họ là chi thể của Chúa Kitô như chúng ta, chúng tôi hiệp thông với nhau trong đức tin.” (Đường Hy Vọng, số 690)


Cầu nguyện cho kẻ đang sống

Người Kitô hữu lữ hành hiệp thông chặt chẽ nguyện cầu cho người quá cố trong Giáo Hội Thanh Luyện, cũng chính là cầu nguyện cho bản thân thuộc Giáo Hội Chiến Đấu. Mỗi khi cầu nguyện cho người đã khuất, lại thêm cơ hội ý thức rõ ràng cuộc sống quá phù du, hay thay đổi, bất an, bất trắc.

Mỗi ngày, mỗi gần thêm nấm mộ. Vậy thì hằng ngày mỗi chết đi những thói hư tật xấu, tội lỗi nhớp nhơ, mỗi chết đi tánh xác thịt, đam mê, tham sân si, vị kỷ, kiêu căng, ngạo mạn, bất chính, bất nhân, để sau này được sống viên mãn. Thánh Phaolô đã thân thương và tha thiết cảnh báo:”Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.” (Rm 8, 13)

Mặc dù dưới mắt người đời, người Kitô hữu đang yếu đuối, thất thế, bị rẻ rúng, bị vu oan cáo vạ, và nhất là “bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực (chúng tôi) vẫn sống.” (2Cr 6, 9) Hằng ngày Kitô hữu đang chết dần để có thể sống theo Đức Kitô, như Thánh Phaolô khẳng nhận: “Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết.” (1Cr 15, 31) Bởi vì: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là mối lợi.” (Pl 1, 21)

Mặt khác, Giáo Hội Chiến Thắng gồm các Thánh, các linh hồn vinh hiển trên Thiên Đàng, vẫn luôn liên lỉ an ủi, cầu bầu, phù hộ cho Kitô hữu lữ hành, đang còn phải gian nan chiến đấu, như Kinh Tin Kính hằng xác tín với niềm hy vọng: “Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em , mà làm cho thân xác của anh em được sống mới.” (Rm 8, 11)

“Trên Thiên Đàng, người tông đồ mới thôi lao nhọc. Nhưng ngay ở Thiên Đàng, người tông đồ vẫn tiếp tục cứu giúp trần gian.” (Đường Hy Vọng, số 677)

Lạy Chúa Giêsu, chúng con hiệp thông với Giáo Hội Thanh Luyện, kính dâng lên Chúa lời nguyện cầu, Thánh Lễ và những việc tốt lành, hy sinh, bác ái, để khẩn cầu Chúa thương xót đoái thương những linh hồn, đang chịu thanh tẩy, sớm được về hưởng Thánh Nhan Chúa.

Lạy Mẹ Maria, tràn đầy Chúa Thánh Thần, kính xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa Thánh Thần, ban cho chúng con ơn sáng suốt, luôn thức tỉnh, nhớ rằng thế gian phù du, chóng qua, và ơn ăn năn, thống hối, để chúng con có thể hiệp thông cầu nguyện cho những linh hồn đang chịu luyện tội, sớm được thanh thỏa về Nước Trời. Amen.

-----------------------------------

 

2/11-214: HẠNH PHÚC CỦA NHỮNG NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA


Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Trong tín lý Kitô giáo chúng ta nói đến Hội Thánh chiến thắng, Hội Thánh lữ hành hay chiến đấu 2/11-214


Trong tín lý Kitô giáo chúng ta nói đến Hội Thánh chiến thắng, Hội Thánh lữ hành hay chiến đấu và Hội Thánh thanh luyện. Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời tiếp sau ngay lễ các Thánh diễn tả tín lý ấy.

Ngay từ buổi đầu Hội Thánh lữ hành đã hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã qua đời, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh (2 Mcb 12,45). Chúng ta hãy dâng thánh lễ và các việc lành để cầu nguyện cho các tín hữu, nhất là cho những người thân quen của chúng ta, đã qua đời, để họ sớm được hưởng nhan thánh Chúa và hạnh phúc thiên đàng. Chúng ta không chỉ trong ngày hôm nay mà trong suốt tháng 11 dương lịch này.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (G 19,1.23-27a): Tôi biết Đấng bênh vực tôi vẫn sống.

2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 5,5-11): Chúng ta đã được nên công chính nhớ máu Đức Kitô đổ ra, hẳn sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 6,37-40): Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 37 Khi ấy Đức Giêsu nói với dân chúng rằng: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, 38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39 Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

- là Đấng đã nâng đỡ ông Gióp, một con người công chính không chỉ trong những lúc thịnh vượng mà còn và nhất là trong cảnh gian nan khón khó. Dù bị thử thách dữ dội, ông Gióp vẫn luôn vững lòng tin vào Thiên Chúa là Đấng hằng sống và hằng bênh vực ông: Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ. (bài đọc 1).

- là Chúa Giê-su, Đấng đã được Chúa Cha ban cho nhân lọai nói chung, cho các tín hữu nói riêng. Người luôn gìn giữ những kẻ Chúa Cha đã ban cho Người được an toàn. Hơn nữa Người còn ban cho họ được sống lại trong ngày sau hết vì họ đã tin vào Người: Tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. (bài Phúc âm).

- là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và hành động cùng Chúa Cha và Chúa Con trong Tông Đồ Phao-lô để ngài ”rao giảng ơn cứu độ được ban cho loài người nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô.” (bài đọc 2).

3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?) hay sứ điệp của Lời Chúa hay ý của Chúa Cha hôm nay là ”tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa, như môn đệ đối với Thầy.

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa

Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy khiêm tốn xét mình xem chúng ta có vững tin vào Thiên Chúa quyền năng và yêu thương không, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn, thử thách?

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi người sống trên thế gian này để họ nhận ra Thiên Chúa là Đấng gần gũi, thân thương và vô cùng đáng mến.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các hồng y, giám mục, cho các linh mục và tu sĩ nam nữ, để mọi Ki-tô hữu thể hiện lòng biết ơn sâu xa của mình đối với Thiên Chúa và Chúa Kitô Giêsu.

5.3 «Thưa anh em, trông cậy không làm chúng ta phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi người thuộc giáo xứ/cộng đoàn chúng ta để ai nấy đều vững lòng trông cậy vào tình yêu của Thiên Chúa, dù có gặp phải gian nan khốn khó trong cuộc sống.

5.4 «Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết » Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho những người chưa thấy, chưa biết và chưa tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa Cứu Độ muôn người, để họ sớm nhận ra và tin vào Người mà được cứu độ.

-----------------------------------

 

2/11-215: Sự thanh luyện cần thiết _ Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Tháng 11, trong tinh thần hiệp thông, Giáo hội tưởng niệm và cầu nguyện cho mọi tín hữu đã2/11-215


Tháng 11, trong tinh thần hiệp thông, Giáo hội tưởng niệm và cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời hiện đang còn thanh luyện trước khi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. 

1/ Các linh hồn cần được thanh luyện.    

Những tín hữu đã chết trong ơn nghĩa Chúa nhưng chưa sạch hết mọi tội và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời này thì không thể vào thẳng thiên đàng được, chưa xứng đáng hưởng nhan thánh Chúa nên họ phải chờ đợi thanh luyện xong mới vào thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Công đồng Floren đã định tín: “Có luyện ngục để thanh luyện các linh hồn”. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có thể làm được việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống lập công cầu nguyện cho mình để rút ngắn thời gian thanh luyện. Vì thế mà Giáo hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội. Đặc biệt là việc dâng thánh lễ, dành tháng 11 cầu nguyện cho họ. Giáo hội còn mở kho tàng ân xá là công nghiệp của các Thánh để nhường cho các linh hồn nơi luyện tội. Giáo hội khuyến khích việc đi viếng các nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn theo câu tục ngữ: mồ thật chôn các người chết là trái tim người sống.

Công đồng Vatican II đã xác tín lại tín điều Giáo hội cùng thông công giữa ba thành phần: lữ hành, thanh luyện và vinh thắng. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. “Trong số những môn đệ của Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được thanh luyện, và có những người đang được chiêm ngưỡng “rõ ràng Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi như Ngài hằng có”…Sự hiệp nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã yên nghĩ trong bình an Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. Nhưng trái lại, Giáo hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn được vững mạnh hơn nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Quả thực, nhờ kết hiệp mật với Chúa Kitô hơn, các người ở trên trời cũng cố toàn thể Giáo hội vững bền hơn trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng mà hiện nay Giáo hội tại thế dâng lên Thiên Chúa được cao cả hơn, và họ góp phần phát triển Giáo hội rộng rãi hơn bằng nhiều cách”. (LG, chương 7, số 49).      

Trong số 50, Hiến Chế Lumen Gentium viết: nhận biết sự đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm Thể Chúa Giêsu Kitô, ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Giáo hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã chết vì “cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh tốt đẹp” ( 2 Mac 12,46). 

Việc lành thánh tốt đẹp ấy được nói đến trong Thánh kinh và giáo huấn của Giáo hội. 

A. Thánh kinh:

Hai đoạn văn thường được nhắc đến là 2 Macabê 12,39-46 và 1Côrintô 3,10-15. Một bản văn thuộc Cựu ước và một thuộc Tân ước.

a. Sách Macabê II: sách được viết vào khoảng năm 124 trước công nguyên, đánh dấu nhiều bước tiến trong mạc khải cánh chung. Ở chuơng 7, chúng ta gặp thấy chứng tích về niềm tin vào sự sống lại dành cho các vị tử đạo. Chương 11, chúng ta lại thấy chứng tích về việc cầu nguyện cho người đã qua đời được thúc đẩy bởi niềm tin vào sự phục sinh.

b. Thư thứ nhất Côrintô: Bản văn nói đến sự thanh luyện. Đoạn văn đã được sử dụng để nói tới sự phân biệt ba hạng người sau khi chết: những người lành được lên thiên đàng, những người xấu phải xuống hoả ngục, hạng người thứ ba được cứu rỗi nhưng cũng cần được thanh luyện bằng lửa, tức là lửa thanh luyện.

Trong bối cảnh tổng quát của mạc khải, có thể biện minh sự hiện hữu của việc thanh luyện tội lỗi sau khi chết với ba lý chứng sau đây: sự thanh sạch cần thiết để được đến gần Chúa (x.Xh 29,4; Lêvi 11; Tv 24,3-4; Is 35,8.52,1; Mt 5,8.48; Kh 21,27); trách nhiệm cá nhân trong việc đền tội (x. 2Sm 12,13-15); và giá trị của sự cầu nguyện cho người qua đời (x. 2Mac 12,40; 1Cor 15,29; 2 Tim 1,16-18). 

B. Giáo huấn Giáo hội:

Công đồng Vatican II bàn đến tình trạng thanh luyện sau khi chết ở chương VII của hiên chế Lumen Gentium. Số 49, Công đồng nhìn nhận rằng “có những tín hữu đã qua đời và đang được thanh luyện”. Số 50, đạo lý về sự thông hiệp giữa hết mọi phần tử Giáo hội được dựa trên thói tục bắt nguồn từ thưở ban đầu Kitô giáo về sự tưởng niệm người chết và cầu nguyện cho họ. Phần kết chương VII trình bày về đường hướng mục vụ, Công đồng tái khẳng định đạo lý cổ truyền của Giáo hội: “ Thánh Công Đồng kính cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông sống động với các anh em được vinh hiển trên trời hay còn phải thanh luyện sau khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của thánh Công đồng Nicêa II, Firence, Trento ( số 51 a)”       

C. Sách giáo lý Giáo hội Công giáo

Các số 1030 -1032 bàn đến sự thanh luyện. Có thể tóm lại trong các điểm sau:

- Các linh hồn cần được thanh luyện để hoàn tất sự thánh thiện cần thiết để được vào thiên đàng. (Số 1030). Lưu ý là sự thanh luyện được hiểu về trạng thái hơn là một ‘nơi chốn’, lại càng không thể nói “thời gian” bao lâu.

- Các linh hồn có thể được chúng ta giúp đỡ bằng lời cầu nguyện. (Số 1032)

- Luyện ngục không phải là một hoả ngục ngắn hạn (Số 1031), luyện ngục hoàn toàn khác xa hoả ngục.

- Sách giáo lý có trích dẫn cụm từ ‘lửa thanh luyện” (x. 1Cor 3,15; 1Pr 1,7) nhưng không nói là phải hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng ( Số 1032).

2/ Các linh hồn được thanh luyện bằng cách nào ?     
Truyền thống Giáo hội nói rằng: các linh hồn được thanh tẩy bằng lửa, lửa tình yêu (x. Dc 8,7), lòng khát khao thấy Thiên Chúa. Sự đau khổ trong day dứt hối hận tột độ. Các linh hồn mong hưởng nhan thánh Chúa nhưng lại chưa được vì mình chưa trong sạch xứng đáng nên phải thanh luyện bằng sự hối hận đầy lòng mến. Thánh Tôma cho rằng nguyên sự nôn nao muốn về thiên đàng cũng đã đủ tạo nên cực hình rồi (x. IV Sent, d.21, q.1 de Purgatorio,a.3). Thực vậy, nếu các tội nhân hoả ngục đau đớn vì mãi mãi lìa xa Chúa, thì các linh hồn đang thanh luyện phải trải qua một thứ cực hình khác: họ mong mỏi mau đựoc về với Chúa. Sự náo nức vì chờ đợi kẻ thân yêu cũng đã đủ “thiêu đốt tâm can” rồi ! Dù sao, một khi họ biết được lý do vì sao họ chưa được vào thiên đàng, họ sẽ đau buồn vì trước kia họ chưa mến Chúa cho đủ, họ đã coi nhẹ việc thống hối đền tội.   

Do đó có thể hiểu rằng nổi thống khổ của các linh hồn thanh luyện tuy cực độ nhưng đượm màu hân hoan và tràn trể hy vọng. Đức Cha Tihaner quan niệm rằng: luyện ngục là một hoả ngục đầy hân hoan, là một thiên đàng đầy đau khổ. Chính linh hồn ý thức tình trạng bất xứng của mình trước sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì thế tự nguyện được thanh tẩy. Giống như khi ta vào căn nhà nào lát gạch men bóng loáng, thì tự nhiên phải để dép ở ngoài. Nếu chân ta dính nhiều bùn đất mà muốn vào phải rửa chân cho sạch. Chính linh hồn muốn trở nên thanh khiết hơn, trưởng thành hơn, trong sáng hơn để được hiệp nhất với Thiên Chúa nên đón nhận những đau khổ do việc thanh luyện như là một phương thế cần thiết. Bởi đó trong luyện ngục, hạnh phúc đã bắt đầu chớm nở. Đây là một thứ đau đớn làm sung sướng hay một thứ hạnh phúc pha lẫn đau khổ. Nhìn dưới lăng kính tình yêu, các linh hồn đau đớn do hình phạt đền tội, do sự khắc khoải vì chưa được lên thiên đàng. Nhưng họ vui sướng bởi vì chính tình yêu Chúa đang thanh luyện họ, họ đang tập “yêu mến” cách trọn hảo hơn, cắt đứt những ràng buộc với thọ tạo. Họ cũng vui sướng vì họ đã được đảm bảo về phần rỗi, bởi vì họ chắc chắn rằng mình sống trong ân sủng và đức ái.

Sự thanh luyện nói lên lòng lân tuất của Thiên Chúa: Ngài muốn chúng ta nên hoàn thiện, thanh sạch ngõ hầu xứng đáng chiêm ngắm nhan Ngài. Sự thanh luyện cũng nói lên tình yêu của Thiên Chúa: Ngài muốn cho chúng ta dành trọn cả mối tình cho Ngài chứ không quyến luyến với thọ tạo nào.

3/ Cần phải cầu nguyện cho các linh hồn  

Sự thanh luyện thuộc về “cánh chung trung thời” bởi vì nó sẽ không tồn tại sau ngày tận thệ thế nữa. Luyện ngục chỉ là thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên Chúa mới là bến bờ. Đời sống vĩnh cửu mới là cùng đích, là phần thưởng Thiên Chúa hứa ban.       

Đạo lý về sự thanh luyện thúc giục chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Tập tục này đã có từ cuối thời Cựu ước và trong suốt lịch sử Giáo hội (x. GLCG số 1032; 958; 1371; 1689). Ngoài những hình thức cầu nguyện riêng tư, phụng vụ Giáo hội khuyến khích tục lệ này. Khởi đầu từ Thánh lễ, nơi đó Giáo hội hiệp thông với Các Thánh trên trời cũng như với các linh hồn còn đang chịu thanh luyện. Hằng năm, ngày 2 tháng 11 được dành để cầu nguyện cho tất cả các linh hồn đã qua đời tiếp sau lễ kính Các Thánh. Giáo hội còn dành cả tháng 11 nhớ đến các linh hồn và mời gọi con cái mình cầu nguyện, hy sinh hãm mình, làm việc bác ái như là nghĩa cử biểu lộ lòng yêu thương đối với họ cũng như tình hiệp thông trong nhiệm thể Chúa Kitô.

-----------------------------------

 

2/11-216: Cầu cho các tín hữu đã qua đời

 

Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố 2/11-216


Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố. Lễ cầu cho các đẳng đã được thánh Audilo, tu viện trưởng tu viện Crainy, tại Pháp, thiết lập cách đây một ngàn năm, liền sau lễ Các Thánh, qua đó Giáo Hội vui mừng cử hành việc thông hiệp các thánh và ơn cứu rỗi.

Thánh Audilo đã thúc giục các tu sĩ trong tu viện hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho người quá cố. Lời cầu cho các đẳng không mấy chốc đã lan rộng ra khắp nơi. Để nuôi dưỡng tâm tình và lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay, thiết tưởng chúng ta nên lắng nghe lại sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi cho đức cha Raymon Sagi, giám mục Otinsalone và Margone, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thánh Audilo thiết lập lễ cầu cho các đẳng linh hồn.

Mầu nhiệm vượt qua phải là trọng tâm của những suy tư và là nền tảng của những lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay.

Đức Thánh Cha viết như sau:

"Khi cầu nguyện cho người quá cố, trước tiên Giáo Hội chiêm ngắm mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Đấng mang lại ơn cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu cho chúng ta qua thập giá của Ngài. Do đó, cùng với thánh Audilo, chúng ta có thể lặp lại không ngừng như sau: "Thánh giá là nơi nương ẩn, là đường đi và là sự sống của tôi. Thánh giá là khí giới bất diệt của tôi. Thánh giá chiến thắng mọi sự dữ. Thánh giá đẩy lui mọi bóng tối". Thánh giá của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng mọi cuộc sống đều được ánh sáng phục sinh soi dẫn và không có một hoàn cảnh nào là hoàn toàn hư mất, bởi vì Ngài đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống thật. Trong ngày cầu cho người đã qua đời, chúng ta nói lên niềm hy vọng cho chúng ta".

Đức Thánh Cha giải thích:

"Tin vào sự phục sinh của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người. Một cùng đích thỏa mãn khát vọng của con người đến độ nó không còn gì phải khao khát nữa. Niềm khát vọng ấy được thánh Augustinô diễn tả một cách thật kỳ diệu như sau: "Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không thể an nghỉ khi chưa được nghỉ an trong Chúa". Do đó, tất cả chúng ta được mời gọi để sống với Chúa Kitô, Đấng ngự bên hữu Chúa Cha và được chiêm ngắm Thánh Thần, vì Thiên Chúa là đối tượng của niềm hy vọng Kitô. Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về hay ở ngoài Giáo Hội hữu hình".

Đức Gioan Phaolô II đã trích dẫn kinh Tin Kính của Đức Phaolô VI như sau:

"Chúng ta tin rằng Giáo Hội là cần thiết trong ơn cứu rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu rỗi duy nhất, và bởi vì Ngài hiện diện với chúng ta trong thân thể Ngài là Giáo Hội, nhưng chương trình của Thiên Chúa ôm trọn lấy tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Ngài, những người đó cũng thuộc về dân Ngài, cho dẫu bằng một cách thế mà chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ có Chúa mới biết con số những người ấy".

Chính vì thế mà Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố. Lời cầu nguyện mà Giáo Hội không ngừng dâng lên Chúa có một giá trị lớn lao, đó là đặc điểm của một tâm hồn luôn hướng về lòng nhân từ của Chúa. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã được thanh luyện, đã được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của các tín hữu, và nhất là bởi thánh lễ trên bàn thờ cũng như các việc bố thí và những việc làm đạo đức khác.

Trong phần kết thúc sứ điệp gởi cho đức giám mục kiêm tu viện trưởng tu viện Crainy, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thiết lập ngày cầu cho các đẳng, Đức Thánh Cha tha thiết kêu gọi như sau:

"Tôi cổ võ các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu cho những người quá cố, cho người thân trong gia đình và cho tất cả mọi anh chị em đã ly trần để họ được tha thứ khỏi hình phạt cho tội lỗi của họ, và có thể lắng nghe được lời mời gọi của Chúa: "Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nghỉ ngơi muôn đời trong vòng tay từ ái của Ta".

Trong ngày hôm nay và trong suốt tháng 11 này, chúng ta hãy dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.

-----------------------------------

 

2/11-217: Báo hiếu mẹ cha

 

Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau: Bạn tôi mở ngăn tủ của 2/11-217 FB


Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau:

Bạn tôi mở ngăn tủ của chồng mình và lấy ra một gói nhỏ. Gói kỹ càng trong lớp giấy lụa. Chị bảo: Đây không phải là gói đồ bình thường, đây là một chiếc áo thật đẹp. Chị mở lớp giấy bọc, và lấy ra chiếc áo mịn màng và bảo:

Tôi mua chiếc áo này tặng anh ấy, lần đầu tiên chúng tôi sang New York, cách đây 8 - 9 năm rồi, nhưng anh ấy chưa bao giờ mặc! Anh ấy muốn dành cho một dịp nào đặc biệt. Vậy thì hôm nay, tôi nghĩ là dịp đặc biệt nhất rồi. Chị đến cạnh giường và đặt gói áo ấy cạnh những món đồ mà tí nữa sẽ được bỏ vào áo quan mà liệm. Chồng chị vừa mới qua đời...

*****

Quay sang tôi, chị bảo: Đừng bao giờ giữ lại một cái gì để chờ cơ hội đặc biệt cả. Mỗi ngày sống đã là một cơ hội đặc biệt rồi! Có thể sẽ không có dịp nào đặc biệt như ngày hôm nay.

Thế nên,
- Điều gì đáng bỏ công, đáng làm, thì hãy làm từ ngày hôm nay.
- Điều gì chúng ta muốn làm cho anh em mình, hãy làm ngày hôm nay, đừng để ngày mai, khi mà chúng ta không còn cơ hội để tỏ lòng quan tâm, yêu thương chăm sóc anh em mình. Đừng để những giọt nước mắt của nuối tiếc chảy dài trước chiếc quan tài, khi mà người ta yêu đã nằm bất động, chẳng còn có thể hạnh phúc khi được chúng ta quan tâm, chăm sóc, yêu thương.

*****

Vâng, có lẽ lúc này, chúng ta cũng nuối tiếc một điều gì đó khi đứng trước nấm mồ của người thân yêu chúng ta.

Có những điều, những việc, những lời nói đáng lý chúng ta phải dành cho họ, nhưng chúng ta lại chần chừ, lại trì hoãn. Nhưng giờ đây, chúng ta không còn cơ hội để làm điều gì đó cho họ.

- Họ cũng không còn cần những điều ấy nơi chúng ta.
- Họ đã ra đi và bỏ lại tất cả những vui buồn của kiếp người.
- Họ không còn cảm thấy hạnh phúc khi chúng ta đối xử ân cần, chân thành với họ.
- Họ cũng không còn những giọt nước mắt tủi hận vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của chúng ta.

Đối với họ giờ đây, những tình cảm, những vật chất mau qua đã không còn giá trị, đã không đủ mang lại niềm vui hay buồn đau cho họ.

Vậy giờ đây, họ cần điều gì nơi chúng ta?

*****

Trong đức tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. “Sinh ký tử quy”, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi đây là Nước Thiên Đàng, nơi không còn nước mắt, mà chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn.

Dầu vậy, trong chuyến đi này, chúng ta cũng cần được thanh luyện, như vàng được thử trong lửa.

Vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần, tôi cũng đã không sống trong ân sủng của Ngài, tôi đã để những quyến luyến của tạo vật làm chủ trái tim tôi, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của tôi.

Tôi sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi, tôi cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và tội lỗi.

Giai đoạn thanh tẩy này gọi là Luyện Tội, nơi chúng ta được tái tạo lại theo hình ảnh của Thiên Chúa. "Lửa" luyện tội sẽ đốt cháy tất cả những lớp bụi bặm, sơn phết, mà tôi đã tô vẽ cho mình trong cuộc sống.

Như vậy, người đã chết cần nơi chúng ta:

- lời cầu nguyện,
- cần thánh lễ chúng ta dâng để thanh tẩy họ,
- cần việc lành phúc đức chúng ta làm thay cho họ, để nhờ công phúc của chúng ta kết hợp với hiến tế của Con Chiên Thiên Chúa, giúp họ thoát khỏi những đau khổ của luyện tội.

* Đây cũng có thể là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta có thể dành cho những người thân yêu ở cõi vĩnh hằng.

* Đây cũng là cách chúng ta tỏ lòng thảo hiếu với công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ.

Vì đạo hiếu Việt Nam luôn đề cao công đức sinh thành. Đạo hiếu dạy phải 'thờ cha kính mẹ mới là đạo con".

Đó còn là công bằng phải trả cho ông bà cha mẹ, vì "ăn trái nhớ kẻ trồng cây".
Đó còn là cách chúng ta để đức về sau: "Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó".

Vì vậy, người khôn ngoan không ai lại không thảo kính cha mẹ. Người khôn ngoan luôn làm mọi cách để báo hiếu cha mẹ khi còn sống và cả khi các ngài đã qua đời.

- Khi sống quan tâm, chăm sóc.
- Khi chết dâng lễ, cầu nguyện.

Chính vì lẽ đó, tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành, để đền đáp ơn nghĩa chín chữ cù lao mà các ngài đã dành cho chúng ta, bằng những thánh lễ chúng ta dâng, bằng những hy sinh, những việc lành phúc đức chúng ta làm cho các ngài.

Người Phật giáo có mùa Vu Lan là mùa báo hiếu.
Người Công giáo cũng có thể nói tháng 11 là mùa báo hiếu để chúng ta làm tất cả những gì có thể để đền đáp ân nghĩa mẹ cha, mà nay đã qua đời.

Với ý nghĩa đó, giờ đây chúng ta cùng nhìn lại một chút công ơn mà ông bà cha mẹ đã dành cho chúng ta qua những lời ca dao, những vần thơ trong kho tàng văn học Việt Nam.

*****

Trước tiên là ân nghĩa sinh thành:

"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".

Những bậc làm cha mẹ thường đánh mất chính mình để lo cho con có cơm có áo, có những ngày đến trường để bằng bạn bằng bè. Cha mẹ chẳng tiếc gì những giọt mồ hôi rơi rớt trên nương đồng, lai láng trên công trường:

"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".

Thế nên, phận làm con phải hiếu để bù đắp lại phần nào những đắng cay vất vả mà các ngài đã sẵn lòng vì ta bằng cách:

"Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con".

Và dù không được ở gần cha mẹ, thì người con thảo hiếu luôn dành cho cha mẹ những tình cảm chân thành, từ những cây nhà lá vườn, những hoa trái đầu mùa dâng tặng mẹ cha:

"Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai về tôi gởi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi".

Vâng, đứng trước biết bao ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ, phận làm con phải thảo hiếu. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: những gì chúng ta có là do công cha nghĩa mẹ.

Mỗi người chúng ta đều có nguồn cội.
Mỗi người chúng ta đều phải khắc ghi trong lòng ân sâu nghĩa nặng mẹ cha.

Với tâm tình đó, chúng ta cùng hát với nhau bài "Ơn nghĩa sinh thành" để ghi khắc mãi trong tim về tình yêu trời bể của cha mẹ đã dành cho chúng ta.

"Uống nước nhớ nguồn
Làm con phải hiếu
Anh ơi hãy nhớ năm xưa
Những ngày còn thơ
Công ai nuôi dưỡng.
Công đức sinh thành
Người hỡi đừng quên
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Người ơi, làm người ở trên đời
Nhớ công người sinh dưỡng
Đó mới là hiền nhân
Vì ai ta nên người tài ba
Hãy nhớ công sinh thành
Vì ai mà có ta. Uống nước...

(Lm. Tạ duy Tuyền)

-----------------------------------

 

2/11-218: TÌNH YÊU LÀ BÍ QUYẾT CỦA HẠNH PHÚC


1.      NIỀM TIN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO VỀ LUYỆN NGỤC

 

Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công Giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho: 2/11-218


Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công Giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: "Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện” ( DS 856 / 464).

Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một "nơi" hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là "nơi" chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. ( Gọi là "nơi" thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên Đàng, Luyện Ngục hay Hỏa Ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ... )

2.      THIÊN ĐÀNG ĐÒI HỎI NGƯỜI TRONG ĐÓ PHẢI THẬT HOÀN THIỆN

Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về "nơi" lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không ? Nếu người ở Thiên Đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là "luyện ngục".

3.      TỘI LỖI HAY TÍNH VỊ KỶ LÀ ĐẦU MỐI GÂY ĐAU KHỔ

Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, Thánh Gio-an viết: "Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta" ( Kh 1, 5 ). Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc.

Thế nhưng, con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.

Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.

4.      TÌNH YÊU HÓA GIẢI ĐAU KHỔ VÀ ĐEM LẠI HẠNH PHÚC

Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giê-su, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi" ( Mc 10, 21 ). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu.

Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giê-su, thương cho Ngài bị hàm oan: "Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !" Chính vì thế, anh đã được Đức Giê-su nói: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng". Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của Thánh Phao-lô: "Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi" ( 1 Pr 4, 8 ).

5.      CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ VÌ TÌNH YÊU LÀ BÍ QUYẾT CỦA HẠNH PHÚC

Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này ! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.

Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.

Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương.

Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu ! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã hội... và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó !

Lạy Cha, Thánh Gio-an nói: "Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo" ( 1 Ga 4, 18 ). Chúng con cảm thấy chính khi chúng con thật sự có tình yêu thì chúng con không còn sợ đau khổ nữa, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi chúng con không còn sợ khổ đau, thì khổ đau cũng không còn có thể tác oai tác quái trên chúng con nữa, không còn khả năng làm chúng con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và chúng con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là Thiên Đàng. Một Thiên Đàng mà chúng con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.     

Gs, NGUYỄN CHÍNH KẾT

-----------------------------------

 

2/11-219: Sao Ngài bỏ rơi con?


Suy niệm:

 

Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối. Ngài đã 2/11-219


Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta

cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối.

Ngài đã đón nhận cái chết một cách không dễ dàng

sau nhiều giờ hấp hối trên thập giá.

Ðau đớn đến tột cùng, nhục nhã và cô đơn kinh khủng.

Có vẻ lúc đó Cha lại vắng mặt và làm thinh.

“Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”

Ðức Giêsu có cảm tưởng như Cha bỏ rơi mình

vào chính lúc Ngài vâng phục Cha, chấp nhận cái chết.

Chúng ta cần nghe được tiếng kêu xé ruột của Ðức Giêsu.

Ngài kêu bằng tất cả sức lực còn lại của mình.

Ngài kêu một tiếng lớn, rồi tắt lịm.

Chúng ta thích thấy Ðức Giêsu chết bình an hơn,

chết anh hùng hơn và chết lành hơn.

Nhưng Ðấng vô tội, chết thay cho cả nhân loại,

đã chẳng được hưởng chút êm đềm nào từ Thiên Chúa.

Lời cuối của Ngài là một tiếng gọi: Lạy Thiên Chúa của con,

một câu hỏi tại sao mà Ngài không rõ câu trả lời.

Ðức Giêsu đã nhắm mắt trong niềm tin trần trụi.

Tháng 11 được dành để nhớ đến những người đã khuất.

Ðã có thời người ta cho rằng theo đạo là bất hiếu,

vì không lo giỗ chạp, cúng vái, nhang đèn...

Nhưng trong niềm tin của Kitô giáo,

điều người chết cần không phải là đồ ăn hay vàng mã,

mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành và thánh lễ.

Ngọn lửa luyện ngục tuy gây nhiều đau đớn không nguôi,

nhưng có sức tẩy luyện, biến đổi và thánh hóa.

Có thể nói các linh hồn ở luyện ngục có phúc hơn ta,

vì họ biết chắc chắn sớm muộn gì họ cũng vào thiên đàng.

Chính vì thế họ vui lòng để cho tình yêu Chúa thanh lọc,

và càng lúc càng trở nên hoàn hảo hơn để đến gần bên Chúa.

Chúng ta cần sống mầu nhiệm các thánh thông công.

Các thánh trên trời chuyển cầu cho Hội Thánh dưới thế.

Hội Thánh dưới thế chuyển cầu cho các linh hồn đau khổ.

Tất cả liên đới với nhau như các chi thể của một thân thể.

Trong tháng này Hội Thánh mời chúng ta đi viếng nghĩa trang

để cầu nguyện cho các người thân yêu đã lìa đời.

Những hàng mộ nói với ta về cái chết không sao tránh được.

Dù già hay trẻ, dù khỏe hay đau, dù giàu hay nghèo,

nhưng cuối cùng cái chết vẫn là điểm hẹn.

Cái chết được chia đều cho mọi người.

Nghĩa trang có phải là nơi an nghỉ cuối cùng không?

Con người còn gì khi thân xác nát tan trong lòng đất?

Nhờ Ðức Giêsu phục sinh mà mầu nhiệm cái chết được vén mở.

Cái chết chỉ là nhịp cầu đưa ta vào cõi sống.

Con người sống là để chết, và chết là để sống mãi,

sống một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời hơn nhiều.

Cùng với thánh Phanxicô, xin gọi cái chết là chị - Chị Chết.

Ước gì người Kitô hữu học được nghệ thuật sống

nhờ biết đón lấy cái chết trong niềm hy vọng tin yêu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý
nhưng như một hành trình
trở về nguồn cội yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn.

Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.

Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

-----------------------------------

 

2/11-220: Bốn bà vợ


(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère Trần An Phong)

 

Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ. Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là 2/11-220


Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.

Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!

Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!

Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!

Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.

Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.

Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.

- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?

- Không!

Nàng lạnh lùng đáp.

- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!

Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:

- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?

- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.

Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.

Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:

- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?

- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.

Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.

Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:

- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!

Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.

* * *

Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.

Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.

Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.

Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.

Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.

* * *

“Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!

Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,

Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.

Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,

Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.

Họ tắt hơi là trở về cát bụi,

Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.

Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ

Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ.” (Thánh Vịnh 145: 1-5)

-----------------------------------

 

2/11-221: Lễ Các Linh Hồn


(Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)

 

Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết: Một người VN ở 2/11-221


Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:

Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.

Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.

Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!

Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.

Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.

Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.

Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.

Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.

Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:

Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.

-----------------------------------

 

2/11-222: Sự mỏng manh và ngắn ngủi của cuộc sống

 

Có một câu chuyện cổ tích kể lại rằng: Vào một buổi sáng mùa xuân, thày dòng giữ cửa một tu 2/11-222


Có một câu chuyện cổ tích kể lại rằng :

Vào một buổi sáng mùa xuân, thày dòng giữ cửa một tu viện, bỗng nghe thấy tiếng chim hót véo von ngoài vườn. Thày ngước mắt và nhìn thấy một con chim họa mi rất đẹp. Thầy liền đuổi theo. Con chim bay một quãng rồi lại dừng, thầy chạy tới gần, nó lại cất cánh bay, khiến thầy càng hăng say đuổi theo. Đến lúc thầy lạc vào một khu rừng thì con chim biến mất.

Thầy tìm đường trở về nhà dòng, mãi đến chiều mới về tới nơi. Cửa nhà dòng đóng chặt. Thầy kéo chuông và có một người ra mở cổng. Thầy ngơ ngác nhìn người lạ mặt và bàng hoàng trước những sự đổi thay trong nhà dòng.

Thầy tự giới thiệu mình, nhưng không một ai biết Thẩy. Lúc sau, cha bề trên đem các hồ sơ ra tìm tòi và tra cứu thì thấy: Trong danh sách của nhà dòng, xưa kia có một thầy dòng giữ chức canh cổng, trùng tên bị mất tích, cách đây đúng một trăm năm rồi.

Một trăm năm trôi qua mà thày cứ tưởng như là một tiếng chim hót.

Đúng thế thời gian thì thấm thoát tựa thoi đưa, nó vụt đến rồi vụt đi như làn khói tỏa, như áng mây bay. Và một khi nó đã vuột khỏi tầm tay thì dù chúng ta có cố gắng cũng không thể níu kéo lại được nữa. Mới ngày nào, tôi còn là một chú bé đầu húi cua, mới ngày nào tôi còn là một cậu học trò với sách vở và bút mực, thế mà giờ đây trên đầu cũng đã có những sợi tóc bạc và cảm thấy mình già đi rất nhiều.

Chúng ta thử nhắm mắt và tưởng tượng xem năm mươi năm sau sẽ như thế nào? Chắc chắn tất cả các em nhỏ của chúng ta hôm nay, cũng sẽ trở nên những cụ ông và cụ bà. Nói thế không phải để chúng ta bi quan, nhưng chúng ta luôn nhớ rằng :

1. Cái chết là một người thợ không bao giờ ngủ trưa. Nó len lỏi đến từng căn nhà dù ở chốn xa xôi hẻo lánh nhất.

2. Cái chết không miễn trừ một ai, nó ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Dù già hay trẻ thì cũng chỉ như nhau mà thôi. Một khi nó đã lên tiếng gọi, thì mọi người đều phải cúi đầu vâng theo. Chỉ một cơn gió độc, hay một tai nạn bất ngờ xảy ra, cũng đủ xóa tên chúng ta trong sổ cuộc đời.
---------------------------
Lời bàn:
Ý thức được sự mỏng manh và ngắn ngủi của cuộc sống là như thế, nên chúng ta hãy chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, đó là một tâm hồn trong sạch, không hoen ố tội lỗi và một đôi tay chất đầy công nghiệp, với những hành động bác ái yêu thương đã thực hiện, để bất kỳ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng tỉnh thức và sẵn sàng bước theo Ngài.

-----------------------------------

 

2/11-223: SỐNG NHƯ KHÔNG BAO GIỜ CHẾT

 

Đời sống con người chóng qua như cỏ. Như bông hoa nở trong cánh đồng. Một cơn gió thoảng đủ 2/11-223


“Đời sống con người chóng qua như cỏ.
Như bông hoa nở trong cánh đồng.
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi,
Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích”. (Tv 102, 3)

Một thực tế trước mắt, một sự thật trần trụi về thân phận và số kiếp con người mà hầu như không mấy ai quan tâm, suy nghĩ. Nó chỉ đụng chạm đến một chút tình cảm khi có người thân hoặc ai đó mà mình quen biết qua đời. Nhưng dù muốn hay không muốn, từ trong sâu thẳm của linh hồn, hình ảnh cái chết đôi lúc cũng khiến chúng ta phải dừng lại để suy niệm.

Chúng ta có bao giờ đọc hoặc nghe và suy nghĩ về câu nói của Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa? Ngài nói: “Người ta ai cũng phải chết, nhưng ai cũng sống như mình không bao giờ chết!”

Sống và chết là hai phạm trù đối nghịch nhưng lại bổ túc cho nhau khi nói về thân phân và cuộc đời con người trên dương thế. Có sinh thì phải có tử. Có sống thì phải có chết. Và ai ai cũng phải chết. Tuy nhiên, sống làm sao và chết như thế nào mới là điều khiến mỗi người chúng ta phải suy nghĩ. Có những người mà ngay cả khi còn sống và sau khi chết không ai muốn nhắc đến tên tuổi của họ. Cái chết của họ được xem như một điều may mắn, vui mừng cho nhiều người, có khi cho cả một dân tộc. Thánh Kinh đã nói đến cái chết kiểu này mà lời nguyền rủa xem như áp dụng rất đúng cho những người đã bán rẻ lương tâm, bán rẻ anh em, bán rẻ dân tộc, bán rẻ đồng bào vì những lợi lộc trần gian: “Con Người sẽ ra đi như lời đã viết về Ngài, nhưng khốn cho kẻ đã phản bội Ngài, thà hắn đừng có sinh ra thì hơn!” (Mt 26, 24).

Thế nên, để sống cuộc đời có ý nghĩa và để người đời còn nhớ tới mình sau khi đã chết, lời khôn ngoan đã khuyên dạy chúng ta:

“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
Ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (TV 90,12)

“Đếm tháng ngày mình sống” đồng nghĩa với suy niệm về cái chết, về một ngày không xa mình sẽ phải bỏ lại tất cả khi từ giãi cõi đời. Bởi vì mỗi ngày qua đi là một ngày ta tiến gần đến cái chết.

Như vậy, suy nghĩ về những ngày giờ mình sống trên dương thế để tìm ra ý nghĩa khôn ngoan cho cuộc sống không những giúp ta sẵn sàng khi phải đối diện với cái chết, mà còn giúp cho ta sống tốt, sống hạnh phúc ngay ở đời này nữa. Một cuộc sống không buông thả, lo lắng, buồn phiền, mánh mung, chộp giật như cái nhìn của những người cứ nghĩ rằng mình không bao giờ chết, muốn sống lâu, sống hưởng thụ để rồi phải hối hận, cay đắng bỏ lại tất cả khi giờ chết đến.

Từ trong cái triết lý sâu thẳm của nó, chết còn được coi như là một mầu nhiệm: “Mầu nhiệm sự chết!”

Gọi chết là một mầu nhiệm, vì từ trước tới giờ chưa có ai thoát được cái chết. Ai cũng phải chết: trẻ con chết, người trung niên chết, người cao niên chết. Người giàu sang, quyền quí, người nghèo khổ, dân dã, người học thức, người bình dân, đơn sơ tất cả đều phải chết. Nhưng không ai biết mình sẽ chết cách nào, chết ở đâu và chết khi nào?!? Với hàng trăm, ngàn, vạn kiểu cách và cái chết khác nhau không ai giống ai đã tạo cho cái chết một hình ảnh đầy bí ẩn. Ngoài ra, những gì sẽ diễn ra bên kia sau cái chết, số phận của mỗi người sẽ ra sao mãi mãi cũng vẫn là một bí mật! Tóm lại, suy về sự chết, chuẩn bị cho ngày, giờ chết đối với các bậc thánh nhân, những hiền nhân quân tử chính là một hành động khôn ngoan. Một sự khôn ngoan của những tâm hồn công chính, của những con người sống đời sống xứng đáng với thân phận và kiếp người: “Khởi đầu khôn ngoan là lòng kính sợ Thiên Chúa và hiểu biết Đấng Chí Thánh mới là sự hiểu biết thật.” (Proverbs 9,10).

Lòng kính sợ Thiên Chúa sẽ dẫn đến khôn ngoan, và hiểu biết về Ngài mới là sự hiểu biết thật. Đây là sự khôn ngoan chân thật, sự hiểu biết cần thiết để giúp con người sống nên, sống đẹp và sống ý nghĩa cuộc sống này. Nó giúp cho con người biết đâu là giá trị thật và đâu là những cám dỗ, những đam mê, những ích kỷ, hẹp hòi cần phải từ bỏ, phải xa tránh.

Tóm lại, sống để chuẩn bị cho cái chết là một đời sống khôn ngoan. Riêng đối với người Kitô hữu thì sự khôn ngoan ấy còn dẫn họ đến chỗ nhận biết và chiếm hữu được Thiên Chúa, vì: “Điều quan trọng là khi thời gian đến, lúc ta phải ra đón Chúa Kitô như mười cô trinh nữ ra đón chàng rể, ngọn đèn tình yêu tức là lòng kính mến Thiên Chúa có còn cháy sáng hay không? Nếu luồng gió tội lỗi làm tắt ngọn đèn yêu mến trước giờ chết, ta còn có cơ hội thắp sáng lại bằng tinh thần thống hối. Nhưng nếu khi ta bước qua ranh giới sự chết mà đèn tắt, thì thời giờ đã chấm dứt!” (Sống Đạo Giữa Đời, tr.56).

“Người ta ai cũng phải chết”, do đó, ta không thể sống “như mình không bao giờ chết!”

TRẦN MỸ DUYỆT, tháng các Linh Hồn 2017

-----------------------------------

 

2/11-224: SỐNG LỜI CHÚA- HÃY TỈNH THỨC

 

Với đoạn Tin Mừng vừa nghe trong bầu khí của tháng mười một, chúng ta cùng nhau chia sẻ một: 2/11-224


Với đoạn Tin Mừng vừa nghe trong bầu khí của tháng mười một, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ nho nhỏ về cái chết.

Có một câu danh ngôn bảo rằng :

- Sự chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết thì lại bấp bênh vô định.

Phàm đã là người thì ai cũng phải chết, nhưng chúng ta lại không biết mình sẽ chết bao giờ, mình sẽ chết ở đâu và mình sẽ chết như thế nào?

Cái chết sẽ dạy cho chúng ta hay : Cuộc đời thì chóng qua nhưng lại là một kho tàng quí giá vì nhờ nó mà chúng ta chiếm được niềm hạnh phúc Nước Trời. Một khi nó đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Bởi đó, phải biết lợi dụng những tháng ngày hiện tại để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho cuộc hành trình cô đơn nhất, đó là cái chết.

Có một câu chuyện cổ tích kể lại rằng :

Vào một buổi sáng mùa xuân, thày dòng giữ cửa một tu viện, bỗng nghe thấy tiếng chim hót véo von ngoài vườn. Thày ngước mắt và nhìn thấy một con chim họa mi rất đẹp. Thày liền đuổi theo. Con chim bay một quãng rồi lại dừng,  thầy chạy tới gần, nó lại cất cánh bay, khiến thày càng hăng say đuổi theo. Đến lúc thày lạc vào một khu rừng thì con chim biến mất.

Thày tìm đường trở về nhà dòng, mãi đến chiều mới về tới nơi. Cửa nhà dòng đóng chặt, thày kéo chuông và một người ra mở cổng. Thày ngơ ngác nhìn người lạ mặt và bàng hoàng trước những sự đổi thay trong nhà dòng.

Thày tự giới thiệu mình, nhưng không một ai hay biết. Lúc sau, cha bề trên đem các hồ sơ ra tìm tòi và tra cứu thì thấy một thày canh cổng trùng tên đã mất tích cách đây đúng một trăm năm. Một trăm năm trôi qua mà thày cứ tưởng như là một tiếng chim hót.

Đúng thế thời gian thì thấm thoát tựa thoi đưa, nó vụt đến rồi vụt đi như làn khói tỏa, như áng mây bay. Và một khi nó đã vuột khỏi tầm tay thì dù chúng ta có cố gắng cũng không thể níu kéo lại được nữa. Mới ngày nào, tôi còn là một chú bé đầu húi cua, mới ngày nào tôi còn là một cậu học trò với sách vở và bút mực, thế mà giờ đây trên đầu cũng đã có những sợi tóc bạc và cảm thấy mình già đi rất nhiều.

Chúng ta thử  nhắm mắt và tưởng tượng xem năm mươi năm sau sẽ như thế nào? Chắc chắn tất cả các em nhỏ của chúng ta hôm nay cũng sẽ trở nên những cụ ông và cụ bà. Nói thế không phải để chúng ta bi quan, nhưng chúng ta luôn nhớ rằng :

- Cái chết là một người thợ không bao giờ ngủ trưa. Nó len lỏi đến từng căn nhà dù ở chốn xa xôi hẻo lánh nhất. Cái chết không miễn trừ một ai, nó ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Dù già hay trẻ thì cũng chỉ như nhau mà thôi. Một khi nó đã lên tiếng gọi, thì mọi người đều phải cúi đầu vâng theo. Chỉ một cơn gió độc, hay một tai nạn bất ngờ xảy ra, cũng đủ xóa tên chúng ta trong sổ cuộc đời.

Ý thức được sự mỏng manh và ngắn ngủi của cuộc sống là như thế, nên chúng ta hãy chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, đó là một tâm hồn trong sạch, không hoen ố tội lỗi và một đôi tay chất đầy công nghiệp, với những hành động bác ái yêu thương đã thực hiện, để bất kỳ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng tỉnh thức và sẵn sàng bước theo Ngài.

-----------------------------------

 

2/11-225: LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN

 

Cùng với lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa trên, chúng ta cầu xin ơn Bình An trong Chúa cho các 2/11-225


TMĐP- Cùng với lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa trên, chúng ta cầu xin ơn Bình An trong Chúa cho các linh hồn, “nhất là những linh hồn cần  Chúa thương xót hơn”.

Không ai trong chúng ta tránh khỏi nỗi xúc động, bùi ngùi mỗi lần ra nghĩa trang viếng mộ  tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn hữu, láng diềng, đặc biệt ngày lễ cầu cho các linh hồn đầu tháng mười một hằng năm.

Sở dĩ chúng ta bùi ngùi, xúc động vì chúng ta có liên hệ hoặc huyết thống, hoặc  ân sâu nghĩa nặng, hoặc kỷ niệm khó phai, hoặc cả ân oán giang hồ với người đã khuất. Nhưng đó là những bùi ngùi xúc động bình thường của người thường trong đời thường. Riêng với người Kitô hữu, chúng ta có nhiều lý do khác làm chúng ta bùi ngùi, xúc động khi nhớ đến những người đã qua đời.

Trước hết, chúng ta không chỉ xúc động, bùi ngùi xuông, nhưng  bùi ngùi, xúc động sâu sắc và thánh thiện bằng cầu nguyện cho các linh hồn. Việc cầu nguyện cho người đã chết ở người Kitô hữu mang rất nhiều ý nghĩa và giá trị cứu độ.

1/ Chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn vì đức tin của chúng ta là đức tin hiệp thông:

Hiệp thông chính là yếu tính của đức tin, vì chúng ta không tin một mình, tin đơn độc, tin lẻ loi, nhưng hiệp thông với toàn thể Giáo Hội chiến thắng, Giáo Hội thanh luyện, Giáo Hội lữ hành trong một đức tin. Vì thế, người đã chết vẫn hiệp thông với người sống là chúng ta; các thánh trên trời, các linh hồn trong luyện tội vẫn gắn bó mật thiết với chúng ta là những người lữ hành trên hành trình nên thánh, bởi tất cả chỉ là một Thân Thể của Đức Giêsu, và Thân Thể ấy sống mãi đời đời, nên không có lý do gì người đã qua đời bị khai trừ, loại bỏ khỏi Thân Thể không bao giờ bị hủy hoại ấy.

Khi dậy chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội muốn chúng ta thâm tín mầu nhiệm Hiệp Thông trong Giáo Hội, và sự Hiệp Nhất không thể phân ly của mọi thành phần dân Chúa đang sống và đã qua đời của Thân Thể mầu nhiệm Đức Giêsu là Hội Thánh. Chính niềm tin vào mầu nhiệm “các thánh cùng thông công”  cho phép chúng ta khẳng định mà không sợ sai lầm: chúng ta liên đới thiết thân với các thánh và các linh hồn; chúng ta xin các thánh cầu bầu, và  cầu xin ơn an nghỉ bình an trong Chúa cho các linh hồn. Phần các thánh và các linh hồn, các vị  cũng hiện diện với chúng ta trên đường lữ hành, và cầu thay nguyện giúp chúng ta trước tôn nhan Chúa.

2/ Chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn với niềm hy vọng tràn trề ở lòng thương xót Chúa:

Khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta tin rằng lòng thương xót của Chúa vô cùng bao la, vĩ đại, và những người đã chết được đi vào đại dương thương xót ấy, nên lời cầu nguyện của chúng ta phải là lời cầu nguyện của niềm hy vọng, mà không là lời cầu nghi nan, thất vọng khi  nhớ lại và nhẩm tính  những yếu đuối, lỗi lầm  trong quá khứ của người đã qua đời.

Với đức tin của Giáo Hội, chúng ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội đang sống  niềm hy vọng sớm được gặp Thiên Chúa, mà ở đâu có niềm hy vọng, ở đó có niềm vui. Chính Thiên Chúa là niềm vui hy vọng của các linh hồn đang được thanh luyện, và thời gian thanh luyện được hiểu như giai đọan cần thiết để linh hồn nên xứng đáng hơn với hạnh phúc được nhìn thấy Thiên Chúa trong vương quốc của Ngài.

Cầu nguyện cho các linh hồn với niềm hy vọng cũng chính là niềm xác tín mãnh liệt vào  mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu, Đấng đã phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25) để luôn vui mừng trong niềm hy vọng: “Nếu chúng ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 11).

Quả thực, là con Thiên Chúa, chi thể của Thân Thể Đức Giêsu là Giáo Hội, người Kitô hữu chúng ta khôngg chỉ hạnh phúc vì được hiệp nhất, hiệp thông với toàn thể Giáo Hội trên trời, dưới đất và trong luyện tội, mà còn được sống niềm hy vọng  cứu độ là hồng ân Chúa ban, nhờ đức tin của toàn thể Dân Chúa, như hằng ngày chúng ta cùng Giáo Hội cầu nguyện trong thánh lễ: “Lạy Chúa, xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa”, bởi nhờ đức tin của Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, chúng ta được Thiên Chúa là Cha nhân hậudủ lòng xót thương.

Cùng với lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa trên, chúng ta cầu xin ơn Bình An trong Chúa cho các linh hồn, “nhất là những linh hồn cần  Chúa thương xót hơn”.

Jorathe Nắng Tím

-------------------------------

 

2/11-226: LỄ CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN


Lm. Đan Vinh

 

Thánh Phaolô đã xác tín về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như sau: “Nếu chúng 2/11-226


LỜI CHÚA: Thánh Phaolô đã xác tín về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như sau: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6,8-9).
CÂU CHUYỆN:
1) MỘT NGƯỜI KHÔNG DÁM ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT:

Một chân lý mà mọi người chúng ta ai cũng biết rõ là: Con người có ngày sinh ra thì cũng có ngày phải chết để vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên hầu như ai cũng sợ chết. Một nhà tỷ phú người Mỹ là WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Ho-ly-wood hồi trước thế chiến thứ hai, tuy rất giàu có và thành đạt nhưng ông lại rất sợ chết. Ông ra lệnh cho các nhân viên dưới quyền không ai được nhắc đến chữ “chết” trước mặt ông. Ai lỡ miệng nói ra sẽ lập tức bị đuổi việc. Ông là người thông minh tài giỏi và luôn thành công trong mọi việc làm, nhưng lại không dám đối mặt với sự thật phũ phàng là sự chết ! Quả thật, dù không muốn nhắc đến cái chết, nhưng cuối cùng cái chết lại vẫn tìm đến với ông: Ngày nọ ông đang hăng say làm việc thì tự nhiên lăn đùng ra chết “bất đắc kỳ tử” do đứt mạch máu não. Ông chết đi để lại cho hậu thế một toà lâu đài to lớn, được dùng làm điểm du lịch nổi tiếng ở bang Ca-li-for-ni-a Hoa Kỳ.

2) NỘI DUNG NHỮNG LỜI TRĂN TRỐI TRƯỚC KHI CHẾT:

Trong tai nạn máy bay boeing 747 của hãng hàng không Nhật bản vào ngày 12-8-1985 đã khiến 520 người thiệt mạng. Điều đáng nói là phi hành đoàn cũng như hành khách trên chiếc Boeing 747 này đã biết máy bay của họ gặp phải sự cố: Phi công không thể điều khiển được hướng đi và mọi người chỉ còn một ít thời gian trước khi máy bay bị rớt. Khi hay biết điều này, có mấy người hành khách đã vội lấy giấy bút ra ghi lời trăn trối của họ trước lúc chết.

– Người thứ nhất là ông KAWAGUCHI, đã viết nguệch ngoạc được mấy lời trăn trối trên cuốn lịch nhỏ bỏ túi. Ông viết cho vợ như sau: “Thôi, vĩnh biệt người vợ thân yêu! Em hãy thay anh chăm sóc cho các con em nhé !”.

Tiếp đến ông khuyên 3 đứa con, hai gái một trai rằng: “Các con hãy sống hòa thuận yêu thương nhau, hãy chăm chỉ làm việc để giúp mẹ lo cho gia đình mình nhé”.

Riêng với cậu con trai út tên TSUYOSHI, ông viết: “Ba đặt nhiều hy vọng nơi con. Hỡi con trai yêu quý của ba !”.

– Người thứ hai viết lời trối là kiến trúc sư KAZUO YOSHIMURA: Ông chỉ viết được mấy chữ trên một tờ giấy vở: “Tôi muốn cả gia đình mình luôn bình an mạnh khỏe”.

– Người thứ ba là một nhà kinh doanh tên là MASAKAZU TAMGUCHI đã viết cho vợ như sau: “Vĩnh biết em yêu. Em hãy thay anh nuôi dưỡng chăm sóc mấy đứa con của chúng ta, em nhé”.

Như vậy, điều mà mọi người đều quan tâm trước khi chết là lo cho những người thân đang còn sống như cha mẹ, vợ con… Những con người mà họ đang có bổn phận phải che chở giữ gìn mà nay khi cái chết đến gần, họ không thể tiếp tục lo nữa, nhưng họ vẫn mong cho những người đó được hạnh phúc. Có những người chết đã không thể nhắm mắt được khi còn quá nhiều những việc bổn phận chưa thể lo chu toàn.

3) MỌI SỰ RỒI SẼ QUA ĐI:

Một ông vua kia muốn làm cho viên quan cận thần nổi tiếng là thông minh tài trí phải xấu hổ. Nhân dịp sắp tới một lễ hội, vua ra lệnh cho viên quan này phải mang về cho vua một vật mà kẻ đang vui nhìn thấy sẽ buồn sầu, và người đang buồn khi nhìn thấy sẽ lại vui tươi. Khi ngày hội gần đến, viên quan rất buồn vì vẫn chưa tìm ra một vật giống như ý vua. Ông liền quyết định đi đến một nơi nghèo nhất kinh thành, khi đi qua một ông lão bán hàng rong, viên quan dừng lại hỏi ông lão có vật có tác dụng như thế không. Nghe xong, ông lão bèn đưa cho viên quan ấy một cái vòng. Vị quan nhìn vào thấy có một dòng chữ hiện ra khiến ông mỉm cười vui sướng. Lễ hội đến, nhà vua chắc rằng viên quan kia sẽ bị một vố bẽ mặt. Thế nhưng khi được gọi, viên quan thông thái kia đã ung dung bước vào chầu vua, tay cầm theo một cái vòng và dâng lên cho nhà vua, trước sự ngơ ngác của triều thần hiện diện. Nhà vua cầm cái vòng lên với nụ cười trên môi, nhưng khi thấy dòng chữ trong chiếc vòng hiện ra thì nụ cười lập tức biến mất. Dòng chữ trong chiếc vòng ấy như sau: “Mọi sự rồi sẽ qua đi”. Điều này nhắc nhở cho vua và mọi người về giới hạn của mọi sự: Vinh hoa phú quý sắc đẹp mọi sự đều có ngày sẽ biến mất theo quy luật ngàn đời: “Phù hoa nối tiếp phù hoa. Trần gian tất cả chỉ là phù hoa”.

4) “FORGET ME NOT – XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”:

Có một loài hoa tên là Lưu Ly có mấy màu là tím, trắng, xanh hoặc vàng hòa quyện cùng nhau rất đẹp, và người ta hay hái hoa này để tặng nhau. Các đôi trai gái gọi tên loài hoa này là ” FORGET ME NOT – XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”.

Ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Vào một sáng mùa xuân, hai người dắt nhau đi dạo chơi bên bờ một con suối, có nhiều hoa Lưu Ly mọc dày. Trong khi chàng trai đang đứng ngắm nhìn dòng thác đổ, thì cô gái lai say sưa đi hái những nhánh hoa Lưu Ly. Cô không ngại nhoài người bên bờ suối để cố hái được mấy nhành hoa đẹp. Chẳng may cô bị trượt chân té ngã xuống dòng suối và bị nước cuốn trôi đi. Khi bị té, cô vẫn đang nắm những nhành hoa Lưu Ly trong tay và đã vừa ném những hoa đó lên bờ vừa nói to lên rằng: “Xin đừng quên em”.

5) AI MỚI THẬT KHỜ DẠI:

Một trong những câu chuyện hay dạy đời là câu chuyện “Ông vua giầu có với chú hề” như sau:

“Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như không hề biết đến tương lai của mình. Ông cũng chẳng màng đến có thế giới mai sau hay không? Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho vua mỗi khi ông muốn giải sầu. Theo vua nghĩ thì tên hề này là một rất ngu đần. Ngày nọ, nhà vua cho gọi anh hề tới trao cho anh ta một cây quyền trượng và nói: “Ngươi hãy đi tìm một kẻ ngu dại hơn ngươi – trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.”  Từ lúc đó chú hề nhận cây gậy vua trao và cố gắng đi tìm kẻ ngu hơn mình, nhưng sau nhiều ngày tìm kiếm mà vẫn không thể tìm ra.

Thời gian qua mau và tuổi già đến với nhà vua lúc nào không biết. Đến khi sức cùng lực kiệt, vua cho gọi chú hề đến gần và nói như sau:

– Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật là xa.

– Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu ạ ?

– Ta cũng không hay biết nữa.

– Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua mới trở về?

– Không bao giờ , không  bao giờ con ạ.

Anh hề tuy là một người ngu, nhưng trong trường hợp này anh lại phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy vào ngay bàn tay Đức Vua mà trước kia nhà vua đã trao vào tay anh ta rồi im lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng vui sướng vì đã khám phá ra một người còn ngu hơn mình, mà người đó không ai khác hơn là chính ông vua đã từng tự hào thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần.

SUY NIỆM:
1) LỜI KÊU XIN CỦA CÁC LINH HỒN:

Có một loài hoa nhỏ: Forget-me-not, Việt ngữ gọi là Lưu Ly Thảo. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy của tình yêu đôi lứa. Nhưng với người Công giáo, nó mang một ý nghĩa khác, đặc biệt trong tháng cầu cho các linh hồn này. Vâng, Lưu Ly Thảo nhắc nhở chúng ta lời kêu cứu tha thiết của các linh hồn nơi Luyện Hình: “Forget-me-not – Xin đừng quên tôi!”.

Khi cầu nguyện cho họ thì lại là chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được phân loại là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11,25-26).

Chúa Giê-su an ủi những ai còn sống trên trần gian rằng:  “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,1-3)

Như thế, ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người con Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy. Ngày đó, chúng ta sẽ được “đồng hưởng sự sống đời cùng với các triều thần thánh trên trời.

2) MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG:

Giáo lý Công Giáo dạy : Những người đã được hưởng hạnh phúc bên Thiên Chúa gọi là các thánh. Những kẻ còn ở trần gian và các linh hồn trong chốn luyện hình cũng là những thánh nhân trong khả thể. Ba lớp người này được hiệp thông với nhau về ơn sủng do Chúa Giê-su ban cho. Mỗi thành phần nói trên đều có thể liên đới với nhau bằng lời cầu nguyện, bằng sự chia sẻ, sự hy sinh và ân sủng: Các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho những người còn sống, những người còn sống làm nhiều việc lành cầu nguyện cho các linh hồn, và các linh hồn dù đang được thanh luyện cũng có thể cầu xin cùng Chúa cho chúng ta ở trần gian. Niềm tin này được đặt trong niềm tin vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như Người đã nói : « Tất cả những kẻ Chúa Cha đã ban cho tôi, thì sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, thì sẽ không bị loại ra ngoài… và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết ».

3) HÃY THỂ HIỆN LÒNG HIẾU THẢO BIẾT ƠN VỚI ÔNG BÀ TỔ TIÊN:

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn”. Hai chữ cội nguồn đã mang lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ để báo đáp.

Phật giáo hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch cũng có mùa vu lan để báo hiếu. Vào dịp này, mỗi người đều xướng lên tám lòng biết ơn của mình. Có người không quen ăn chay trường, song vào thời điểm này, cũng thể hiện lòng hiếu đó bằng việc ăn chay trọn tháng bảy âm lịch, hay có những người bận rộn công việc đời thường vào dịp này họ cố gắng thu xếp thời gian để đến một ngôi chùa quen thuộc dự lễ cầu siêu cho linh hồn ông bà cha mẹ đã qua đời. Họ tin rằng nhờ đó, bổn phận của họ được chu toàn. Với truyền thống lâu đời của người phật tử là cầu mong để được đáp đền ơn tam bảo, báo hiếu cha mẹ sinh thành dưỡng dục…

Còn ở Tây phương, người ta không có tục thờ cúng tổ tiên bởi vì chữ hiếu nơi họ không được nâng lên thành đạo. Thế nhưng họ đã chọn ra hai ngày trong năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Đó là Ngày Của Mẹ (Mother’s. Day) vào ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm và Ngày Của Cha (Father’s. Day) vào Chúa Nhật thứ ba trong tháng sáu.

Hàng năm, Giáo Hội công giáo đã dành trọn tháng 11 để nhắc nhở các tín hữu tưởng nhớ đến những người quá cố, thể hiện đạo làm con trong gia đình. Người công giáo vẫn có thói quen tốt lành đi viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, trong ba ngày Tết, Giáo Hội Việt Nam cũng dành ngày Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ.

4) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?

Trong tháng này, mỗi tín hữu chúng ta có thể làm một số việc cụ thể biểu lộ lòng hiếu thào biết ơn với ông bà tổ tiên như sau :

+ Năng đến nhà thờ dâng lễ cầu nguyện và lãnh các ơn đại xá cầu cho ông bà cha mẹ và người thân đã qua đời.

+ Làm nhiều việc bác ái như chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, phục vụ các bệnh nhân và các người già cả cô đơn bất hạnh… để cầu cho các linh hồn đã qua đời.

+ Xây mồ yên mả đẹp cho người thân đã qua đời. Mỗi dịp Giỗ Tết con cháu hãy họp nhau để xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn ông bà cha mẹ, cùng nhau đi viếng mộ phần và dùng cơm chung với nhau để thể hiện tình thân trong cùng một gia tộc.

+ Điều quan trọng là phải sống hiếu thảo với ông bà cha mẹ ngay khi cha mẹ đang còn sống. Mọi người trong gia đình cần yêu thương đùm bọc nhau để cha mẹ ở trên thiên đàng được vui. Hãy năng nhắc nhở con cháu phải biết ơn cầu nguyện cho ông bà cha mẹ mỗi giờ kinh tối gia đình.

LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Chúa đã lên trời bằng con đường qua đau khổ vào vinh quang. Chúa hứa sẽ dọn chỗ cho chúng con và mai ngày sẽ trở lại đưa chúng con lên trời với Chúa. Xin cho các tín hữu chúng con, những người đang sống và những ai đã ly trần trong tình thương của Chúa cũng được ơn thanh luyện nên tốt lành thánh thiện để sớm được về quê trời hưởng hạnh phúc với Chúa Ba Ngôi và các thần thánh đến muôn đời. Amen.

-----------------------------------

 

2/11-227: CÁI CHẾT


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Chết về thân xác, ai rồi cũng đến, nhưng những cái chết đáng sợ là những cái chết về tâm hồn 2/11-227


Chết về thân xác, ai rồi cũng đến, nhưng những cái chết đáng sợ là những cái chết về tâm hồn, cái chết về tinh thần, cái chết về tâm linh, ngay khi còn sống.

Cái chết về tâm hồn.

Không đâu còn là những thắng cảnh thiên nhiên của những khu rừng tự nhiên, những con suối chảy hoang sơ, những động vật hoang dã. Ở bất cứ nơi đâu, người ta thấy có thể kiếm ra tiền, kiếm ra những lợi ích cá nhân hay nhóm, người ta có thể lấy nhiều lý do phá rừng lấy gỗ, lấy đất. Những con suối chảy giữa khe núi có thể bị chặn lại để bắt nó sản sinh những nguồn lợi thu về cá nhân. Không còn vẻ đẹp của tự nhiên cũng chẳng còn vẻ đẹp tâm hồn.

“Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao ?” (Lc 23, 31).

Con người với nhau, cũng vì lợi ích cá nhân, phe nhóm, đuổi những người thấp cổ bé miệng ra khỏi nơi họ đang sống để chiếm đoạt. Tiếng kêu của họ bị nghẹn lại với những oan ức nhưng lại chẳng được nghe. Đối với người ngoài thì nhu nhược, đối với người trong nhà thì bạo lực, khủng bố. Vì lợi ích cá nhân sẵn sàng hạ bệ, loại trừ người khác. Chết về tâm hồn nên không còn đối thoại để hiểu nhau và cảm thông, chia sẻ. Chết về tâm hồn nên dửng dưng và đôi khi còn mừng vui trước những sự dữ đến với những ai mình không ưa thích, cho là đáng đời. Chết về tâm hồn nên còn lên án ngay cả khi những người anh chị em gặp lúc nghiệt ngã, đau thương.

Cái chết về tinh thần.

Chỉ có một tư tưởng chung dẫn lối, chỉ có một đường lối phải theo, làm chết tinh thần tự do của mỗi người. Đời sống tinh thần cần có đa dạng, đa diện, đa chiều để bồi bổ. Đụng đâu trái ngược với hướng chung đều dẫn đến sợ hãi, rụt rè, không dám tỏ bày chính kiến. Cái chết về tinh thần chịu chết trong “Sự thinh lặng của bầy cừu”, cam chịu để bị xén lông.

Chết về tinh thần nên không có nhiều sáng tạo, hầu như chỉ làm theo máy móc, bó buộc trong khuôn khổ, cơ chế. Cái chết về tinh thần không đáng có, để mãi một dân tộc không chịu lớn lên, lấy điều không chính yếu làm kiêu hãnh, tôn vinh sự giả tạo, lấy cái hào nhoáng bên ngoài che đậy sự trống rỗng, tệ hại bên trong.

Chết về tinh thần nên không có nhiều những cộng đồng cùng sống, cùng chia sẻ. Ở đâu cũng thấy những ích kỷ, nhỏ nhen, hơn thua, ganh ghét. Mỗi người là một thế giới riêng, không cùng nhau làm việc chung được. Nếu có cộng đồng, nhóm, một thời gian sau là phát sinh mầm mống chia rẽ.

Lòng trắc ẩn không còn thấy nhiều, thay vào đó những trò ném đá nhau, câu view với cảnh tang thương, lợi dụng để kiếm thêm tài chánh, lợi lộc…

Đôi khi dừng lại hỏi tại sao đã mất rồi cảnh xóm làng xưa kia, người trong làng xóm, biết nhau, thân nhau, chẳng nhà nào có tường rào, cửa đóng. Tình làng nghĩa xóm đã mất bởi những ngôi nhà cao, cửa rộng, nhưng đóng kín. Không còn những tự do qua lại giữa xóm làng mà chỉ có những phân cách giàu nghèo ngày càng rõ ràng xa cách. Tinh thần chung đã chết, giờ mạnh ai nấy sống, liên minh nhóm lợi ích, những liên kết làm ăn.

Cái chết về tâm linh

Cái chết về tâm linh có lẽ bắt đầu từ những xu thế tục hoá. Từ những lễ hội trở thành những show trình diễn, câu khách. Không còn tính cách trang trọng đời sống tâm linh. Ở đâu cũng thấy những hoành tráng ngày lễ, nơi này cử hành lớn hơn nơi kia. Sự cạnh tranh ngày càng thấy rõ nơi thờ tự, hành hương, lễ hội.

Chết về tâm linh nên cũng mất đi cảm thức về tội lỗi. Một nguy cơ hiện rõ khi Thánh Phao lô cảnh báo: “Không ai còn có lương tri, không ai tìm kiếm Thiên Chúa! Hết thảy đều lầm lạc, hư đốn cả lũ. Hành thiện, không có ai, một người cũng không!” (Rm 3, 11 – 12).

Tương đối hoá sự thiện. Thuyết tương đối hoá đã hình thành từ cổ xưa và càng ngày càng tinh vi trong các hoạt động. Đức Thánh Cha Benedicto XVI cảnh báo về những tương đối sự thiện: Không tin, không xác tín, huấn quyền xem nhẹ,cử hành phụng vụ vụng về, trang hoàng màu mè. Xem nhẹ tội lỗi, không cố gắng vượt qua những cám dỗ, yếu nhược tâm linh. Cậy dựa vào Lòng Thương Xót của Chúa mà bỏ qua những cố gắng tự sửa chữa lỗi lầm, bù đắp thiếu sót…

Suy nghĩ về những cái chết đáng sợ. Chúng con hầu như cái chết nào cũng có, ít hay nhiều. Xin cho chúng con biết Chúa nhiều hơn bằng những học hỏi chân lý, để tránh những sai lầm, tương đối hoá. Xin ban cho chúng con thêm nghị lực để chiến thắng được cái tôi ích kỷ, tìm về sống với anh chị em, nối lại những tình thân không đáng mất, tránh xa những dục vọng, đam mê.

Xin cho chúng con được sống và sống dồi dào!

--------------------------------

 

2/11-228: KHI THẦN CHẾT LÊN TIẾNG


Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

 

Cử hành lễ các Đẳng Linh Hồn là dịp rất thuận tiện để chúng ta suy tư về cái chết. Trong Kinh Thánh 2/11-228


Cử hành lễ các Đẳng Linh Hồn là dịp rất thuận tiện để chúng ta suy tư về cái chết.

Trong Kinh Thánh, chúng ta tìm thấy những lời quả quyết khá rõ ràng trong sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong… Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian (Kn 1,13.24).

Từ trích đoạn này, chúng ta hiểu tại sao khi thần chết đến, mọi sự phải kết thúc, mọi sự bị hủy diệt. Theo đó, sự chết xem ra không phải là một điều “tự nhiên” đối với chúng ta. Bởi vì, nó không đến từ Thiên Chúa, nó không nằm trong trật tự tạo thành. Cái chết là kết quả “sự ganh tị của quỷ dữ.” Bởi đó, chúng ta phải chiến đấu chống lại cái chết với tất cả sức mạnh của mình. Khát vọng triền miên của con người là “tham sống sợ chết.” Đó là bằng chứng hùng hồn nhất về chân lý con người không được tạo dựng để diệt vong, nhưng để được sống. Chết không phải là hạn từ cuối cùng của cuộc sống. Bài đọc I của thánh lễ này khẳng định lại với chúng ta điều đó: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa, và chẳng cực hình nào đụng tới được nữa” (Kn 3,1).

Tham sống sợ chết là bản năng sinh tồn được khắc sâu trong xương tủy mỗi con người. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng mọi hoạt động của con người đều chịu ảnh hưởng và tác động bởi bản năng tính dục. Từ đó, họ giải thích mọi sự theo cái nhìn này, cả trong nghệ thuật và tôn giáo. Nhưng nỗi lo sợ chết còn mạnh hơn cả bản năng tính dục. Chết là điều xảy ra sau cùng, nhưng nó lại tác động trên mọi việc ta làm trước đó. Tất cả mọi người đều kêu lên rằng: “Tôi không muốn chết.”

Như thế, tại sao chúng ta lại được mời gọi hãy suy nghĩ về cái chết khi biết rằng ai cũng phải chết? Câu trả lời rất đơn giản: Bởi vì chúng ta thường trốn tránh nó, không muốn nghĩ về nó, vì mỗi lần như thế làm chúng ta sợ. Chúng ta cũng thường cho rằng chắc mình chưa chết đâu, cái chết chỉ đến với người khác, chứ không đến với mình.

Nhưng việc suy nghĩ về sự chết không cho phép chúng ta gạt nó sang một bên cách dễ dàng. Vì thế, chúng ta tìm mọi cách để ngăn cản nó hoặc là chấp nhận nó. Con người không ngừng tìm kiếm những biện pháp, những phương thuốc để được trường sinh. Một trong số những bài thuốc này được gọi là sinh sản con cái: một người tiếp tục kéo dài sự sống mình bằng cách sinh ra một đứa con. Người khác thì tìm kiếm sự nổi tiếng, để được lưu danh hậu thế. Trong thời đại chúng ta, nhiều người hôm nay lại chạy theo thuyết luân hồi.

Chúng ta phải nói rằng thuyết luân hồi là không thể phù hợp với Đức tin Kitô giáo. Nó cho rằng người chết tiếp tục đầu thai và sống một kiếp mới trong một con vật nào đó để tu luyện chờ được giải thoát. Theo niềm tin Kitô giáo, được Kinh Thánh mạc khải: “Phận con người chỉ chết một lần rồi sau đó chịu phán xét” (Hr 9,27). Thuyết luân hồi cũng dạy rằng hình thức đầu thai luân hồi là kết quả của một sự sai lầm. Xét cho cùng, luân hồi không thêm gì cho sự sống, nhưng thêm đau khổ; nó không phải là nguồn mang lại sự an ủi, nhưng mang lại sợ hãi. Thuyết luân hồi như một cảnh báo cho mọi người: “Hãy cẩn trọng không làm điều dữ, bởi vì bạn sẽ phải đầu thai để đền tội!” Điều này giống như nói người nào đó trong tù đang gần hoàn tất thời gian giam cầm của mình rằng hình phạt của anh đã được nới rộng, anh phải vượt qua tất cả.
Kitô giáo có cái gì đó rất khác để trình bày liên quan đến vấn đề sự chết. Người Kitô hữu tuyên xưng rằng “một Người đã chết vì mọi người,” nhờ đó cái chết đã bị tiêu diệt; nó không có là một vách tường mà từ đó mọi sự phải lao xuống, nhưng đúng hơn là một chiếc cầu để đi sang bến bờ bên kia – là sự trường tồn, là hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Tuy nhiên, suy niệm về cái chết là điều rất có ích cho các tín hữu. Bởi vì đặc biệt nó giúp chúng ta sống tốt hơn.

Bạn có bị lo lắng bởi những vấn đề, những khó khăn và những xung đột khi nghĩ về cái chết không? Hãy nghĩ rằng những điều này sẽ xuất hiện lúc chết, nhưng với cái nhìn của đức tin, bạn sẽ thấy chúng có một ý nghĩa khác như thế nào? Chúng ta không phải là cam chịu và thụ động chờ chết. Ngược lại, chúng ta sẽ làm nhiều điều hơn và làm tốt hơn bởi vì chúng ta bình tâm hơn và thanh thoát hơn trước cái chết. Như Thánh Vịnh nói: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 89,12). Chúng ta hãy nhớ đến các linh hồn là những người thân của chúng ta và cầu nguyện cho họ để họ sớm hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng. Amen!

---------------------------------

 

2/11-229: HÀNH TRANG VÀO ĐỜI SAU


Jorathe Nắng Tím

 

Tháng Mười Một gợi nhớ nhiều về sự chết, người chết, và cũng nhắc nhở sẽ đến phiên mình chết 2/11-229


     Tháng Mười Một gợi nhớ nhiều về sự chết, người chết, và cũng nhắc nhở sẽ đến phiên mình chết một ngày :  xa gần không biết, ở đâu không hay, cách nào không rõ, nên mỗi năm khi tháng cầu cho các linh hồn về, nghe lòng như chùng lại, tim se thắt, xót xa, và cổ họng  đắng chát phận buồn « con người biết mình phải chết ».

      Phải chết một ngày vì là con người, bởi đã là người thì phải chết như án lệnh từ đời đời cho cả loài người, và cứ thế, người trước kẻ sau, bất phân mầu da, tiếng nói, tuổi tác, giai cấp, trình độ… , người người nối đuôi nhau, tiếp theo nhau nhận lệnh lên đường « đoàn tụ với tổ tiên, ông bà » bỏ lại cuộc sống, giã từ trần gian, đi vào cõi chết, mà không  thể trì hoãn, gia hạn hay  khiếu nại, thắc mắc, cũng không kéo được ai theo mình, hay mang theo được sự gì dù cỏn con, bé bỏng, nhẹ nhõm, ngay cả như hơi thở trước ngưỡng cửa vào thế giới hoàn toàn xa lạ, bí mật, chưa một lần tham quan, khảo sát …

      Nhìn người chết vô hồn, bất động, cứng đơ, lạnh lẽo, ai cũng hiểu chết là chấm hết mọi chức vụ, dù người ấy có đang tại chức Giáo Hoàng, Giám Mục chính toà, nguyên thủ quốc gia, chủ tịch, giám đốc ; chết là chấm dứt mọi uy quyền, dù người ấy đang nắm giữ quyền sinh sát toàn thế giới, hay là nhà độc tài « hét ra lửa, thở ra khói » làm mọi người phải rụng rời, kinh sợ ; chết là kết thúc mọi chiến dịch vận động tìm kiếm  của cải, thành công, vinh quang, huy chương, bằng tưởng thưởng ; là đóng lại mọi ước mơ, kế hoạch, đồ án, chương trình, dù là những kế hoạch « kinh thiên động địa », hay những chương trình « chuyển núi rời non ». Nhưng đồng thời chết cũng là trả hết nợ đời, trút bỏ gánh sầu buồn, tủi nhục của một đời nghèo đói, thất học, không gia thế, địa vị, bị người đời khinh khi, vùi dập, khai thác, bóc lột, lợi dụng ; chết cũng là giã từ những uất nghẹn khi bị người đời chụp mũ oan sai, vu khống hồ đồ, lên án oan uổng, và chết cũng là gửi lại đời những đẳng cấp, số má, bon chen, đấu đá, thị phi, tranh giành.

     Nhưng nếu chết là hết, là dấu chấm hết to đùng làm « đứng hình, tắt phim » tất cả và thực sự không còn gì sau dấu chấm hết này nữa thì coi như đã xong, đã hoàn tất mọi việc, mọi sự, và không còn gì lấn cấn, vướng víu : người giầu có, uy quyền, khỏe mạnh đã may mắn hưởng một đời hạnh phúc, còn người nghèo khổ, hèn hạ, tật nguyền thì đành chịu đã không may mắn trải qua một đời làm người bất hạnh, để chết rồi người may mắn, kẻ xui xẻo cũng như nhau ở kiếp tro bụi hư vô, không còn là bất cứ sự gì nữa, và cũng chẳng phải bận tâm lo nghĩ nhân qủa, thưởng phạt.

     Trái lại, có nhiều dấu hiệu, nhiều điềm lạ, nhiều biến cố cho thấy : chết không hết, xác có tan rữa đấy, nhưng hồn vẫn còn đây. Trong giấc ngủ nửa mơ nửa tỉnh, người thân tuy đã chết nhưng vẫn thênh thang về gặp ; trong lời kinh tưởng nhớ, vẫn thấy gắn bó, gần gũi như ngày xưa những bóng hình đã khuất ; khói nhang quyện « hương lòng » trước bàn thờ, di ảnh người quá cố  vẫn nghe xôn xao, se thắt nỗi  nhung nhớ, niềm tiếc thương… Phải rồi, người chết vẫn sống, vì linh hồn con người bất tử, người chết vẫn còn quanh đây, vì cuộc sống dương thế đã không chỉ toàn là bụi tro, nhưng còn là những « thiêng liêng, đời đời, tuyệt đối ».

    Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã khẳng định chân lý này :

« Nếu người ta được cả thế gian, mà mất sự sống đời đời thì nào có ích lợi gì ? » (Mt 9,26)
« Qủa thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông sao ? Người phán : Ta là Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác và Thiên Chúa của Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống » (Mt 22,30-32).
« Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ… Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao » (Mt 5,3.12).
« Anh em chớ mừng vì qủy thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời » (Lc 10,20).
    Đức Giêsu nói cho chúng ta, những người biết mình sẽ phải chết, nhưng không biết chết là gì, và chết rồi đi đâu điều này, đó là tất cả mọi người sẽ sống lại sau khi đã chết, có một sự sống vĩnh cửu, không bao giờ bị gián đọan sau sự sống này, có một vương quốc thuộc về Thiên Chúa sau cuộc sống dương thế, có một phần thưởng  lớn lao, có một danh sách ghi tên những người được ở trên trời, và Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa của người sống.

    Nhưng vấn đề quan trọng ở đây là phải có điều kiện nào để được hưởng những điều Đức Giêsu  vừa kể, sau khi chết. Đây chính là « bí mật cứu độ » của Thiên Chúa đã được Đức Giêsu mặc khải cho những người bé mọn, vì trong thế giới của những kiêu căng, quyền lực, hưởng thụ, xa hoa, bí mật này dù có được công bố trên mái nhà, người ta cũng không mấy quan tâm, như Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng : « Vậy, tôi phải ví người của thế hệ này với ai ? Họ giống ai ? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói : « Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa ; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than ». Thật vậy, ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo : « Ông ta bị qủy ám ». Con Người đến cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo : « Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi » (Lc 7,31-34). « Ai có tai nghe thì nghe » (Lc 8,8).

Điều kiện thứ nhất : tin nhận Thiên Chúa là Tình Yêu không đổi dời, vô cùng và đến cùng :
    Như người con thứ hoang đàng trong dụ ngôn « Người cha nhân hậu » đã có thể đứng dậy, lên đường trở về, vì anh đã tin Cha lúc nào cũng một mực yêu thương : yêu thương khi con ngoan ngoãn, vâng lời, yêu thương cả khi con ngang ngược, bất hiếu đòi chia gia tài khi cha còn sống ; vì anh đã tin tình Cha vô cùng bao la, hải hà, để yêu anh đến tận bước chân cuối cùng ở đường cùng « thân tàn ma dại », sau khi đã ăn tiêu hết sạch tiền bạc, và lâm cảnh túng thiếu, phải đi ở đợ  và chỉ dám ao ước lấy cám heo mà nhét cho đầy bụng (x. Lc 15,11-20).

    Một khi tin tình yêu Thiên Chúa không đổi dời như tình con người dành cho nhau nay còn mai mất, hôm nay nồng nàn,  ngày mai hờ hững, sớm mai sôi nổi, chiều về đã lạnh tạnh,  hay khi vui thì đam mê, tha thiết, lúc buồn thì ngao ngán, dửng dưng, con người mới an tâm đi vào đời sau, mới tin tưởng bước vào đời đời, mà không hoang mang, sợ hãi  bóng đêm sự chết; có tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, luôn trung tín với tình yêu bao dung dành cho con cái mình, con người mới bình an nhắm mắt, xuôi tay từ bỏ thân xác tro bụi để đi vào lòng Đấng đã tạo dựng nên mình vì yêu thương ; có tín thác ở Thiên Chúa, Đấng chỉ muốn băng bó, chữa lành, giải thoát và cứu độ ; Đấng « không đành bẻ gẫy cây lau bị giập, chẳng nỡ tắt đi tim đèn còn leo lét » (Mt 12,20), con người yếu đuối, tội lỗi ở giờ chết mới dám ngước mắt thân thưa trước Thiên Chúa như người con trở về: « Lậy Cha, con đã đắc tội với  Trời và với Cha » (Lc 15,18).

Điều kiện thứ hai : yêu thương anh em như chính mình đã được Thiên Chúa yêu thương:

    Có một điều không thể chối cãi, đó là ai cũng có khả năng yêu thương, mà không ai có thể tị nạnh : người khác có khả năng yêu thương hơn tôi, hoặc tôi không biết yêu thương, không yêu thương « giỏi » như người khác. Trái lại, quà tặng đồng đều của Thiên Chúa cho mọi người là khả năng yêu thương, nên bất cứ ai, ở thời nào và ở đâu, trẻ già lớn bé, giầu nghèo, sang hèn, bất kỳ chỗ đứng nào trong gia đình, xã hội cũng đều có khả năng yêu thương như nhau và được Thiên Chúa mời gọi yêu thương như Ngài.

      Vì thế, Đức Giêsu đã không đề ra một danh sách những hành trang con người phải mang theo đến trước Nhan Thiên Chúa khi chết, hay những tặng vật con người phải chuẩn bị để biếu xén, mua chuộc Thiên Chúa như con người thường làm đối với người có quyền, có chức, có ảnh hưởng ở thế gian , nhưng Ngài đã chỉ đưa ra một hành trang duy nhất mà con người phải mang theo khi chết, nếu muốn được vào Nước Trời, được sự sống đời đời, đó là  Tình Yêu dành cho đồng loại.

   Vì tất cả đã nhận đồng đều tình yêu để yêu, nên ai nấy, dù quyền cao chức trọng đến đâu,  cũng phải đệ trình Thiên Chúa việc làm yêu thương của mình ; vì tất cả đã nhận cùng một vốn liếng Tình Yêu như nhau, nên không ai, dù thuộc phẩm trật cao cả đến cỡ nào, cũng không được miễn trừ trả lời việc làm sinh sôi nẩy nở nén bạc tình yêu ; vì tất cả đã được đồng đều trao ban tình yêu để yêu như  ơn gọi, sứ vụ, nên không ai tránh được câu hỏi về quá trình yêu thương của mình trước Thiên Chúa ; vì tất cả  khi chết đều phải bỏ lại mọi người, mọi sự, mọi vương trượng, mũ mão, quyền lực, tiền của, danh vọng, nên ai cũng sẽ chỉ trơ trọi một mình với Tình Yêu là hành trang duy nhất; vì tất cả đã phải như nhau trở về tro bụi, khi tất cả những gì thuộc vật chất đã tiêu tan, nên ai nấy chỉ còn lại linh hồn thiêng liêng với tình yêu bất tử là hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống, đời đời.

     Như thế, con người hoàn toàn như nhau  trước Toà Thiên Chúa, khi ai cũng như ai : không mang được gì, cho dù cả thế giới là của mình ; không thể mua chuộc, mánh mung, đút lót, vì tất cả những gì đã có đều trở thành hư vô, và ai nấy chỉ còn lại Tình Yêu là hành trang để đi vào cõi hằng sống ; chỉ còn Tình Yêu là gia sản có giá trị, được phép mang theo ; chỉ còn Tình Yêu là thông hành phải xuất trình để được nhận vào Nước Trời ; chỉ còn Tình Yêu là dấu hiệu để được nhận ra là Con Thiên Chúa ; chỉ còn Tình Yêu là « gien ADN » để được khai sinh trong gia đình Thiên Đàng, và chỉ còn Tình Yêu để được  nghe  chính Đức Giêsu từ Toà vinh quang phán:

     « Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi  ngay từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát,các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước ; ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, ; các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han ».. « Và Ta bảo thật : « mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho ta vậy » (Mt 25,34-36.40).

       Qủa thực, niềm an ủi và hy vọng duy nhất của con người biết mình phải chết là sẽ được chết trong Thiên Chúa là Tình Yêu thương xót, như người đầy tớ mắc nợ vua kia mười ngàn yến vàng, bị đòi đến trước mặt Vua, nhưng không có gì để trả, đã sấp mình xuống bái lậy xin Vua rộng lòng hoãn lại kỳ hạn. Vua « chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ » (Mt 18,27). Tha hết món nợ kếch xù cho anh, Đức Vua chỉ mong anh cũng biết xót thương anh em như vậy. Nhưng rất tiếc cho anh, thay vì tha cho người bạn chỉ mắc nợ một trăm quan tiền, món tiền không là gì so với mười ngàn yến vàng anh vừa được Đức Vua xóa nợ , anh đã « mê muội, ích kỷ, ki bo, tàn ác, nhẫn tâm » đến độ cứ tống anh bạn mắc nợ kia « vào ngục cho đến khi trả xong nợ », dù anh bạn khốn khổ, túng quẫn ấy đã sấp mình xuống và hết lời van xin. Và cái kết không ngờ đã đến với anh, khi Đức Vua biết chuyện đã « cho đòi y đến và bảo : « Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ? ». Rồi Đức Vua nổi giận, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho Vua » (Mt 18,32-34). Và Đức Giêsu đã kết luận : « Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình » (Mt 18, 35).

     Lậy Đức Giêsu, Đấng từ bi, nhân hậu, con biết con sẽ chết, nhưng không biết bao giờ chết và chết cách nào. Vì nhiều tội, lắm lầm lỗi, đầy thiếu sót, ngập khuyết điểm, nên con sợ giờ chết, sợ Chúa thịnh nộ từ chối con, không cho con đứng về phiá bên phải của những người lành được chúc phúc vì  họ đã sống một đời yêu thương, thực hành lòng thương xót.

     Vì sợ nên con run rẩy sấp mình van xin Chúa thương xót, tha cho con món nợ Tình Yêu khổng lồ mà con biết sẽ không sao trả nổi. Và để được Chúa chạnh lòng thương, tha thứ, con hứa sẽ không « độc ác » như người đầy tớ không có lòng thương xót trong Tin Mừng mà chính Chúa đã kể, nhưng còn ngày nào được sống trên dương thế này, con sẽ cố gắng thực hiện từng bước  Yêu Thương, Tha Thứ trên đường về đời sau.

          Xin Chúa thương xót và nhớ đến chúng con trong Nước Chúa, nếu hành trang của chúng con ở giờ chết còn nhẹ tênh, chưa xứng đáng, Chúa nhé !

---------------------------------

 

2/11-230: NGƯỜI CÔNG GIÁO CÓ KÍNH NHỚ TỔ TIÊN KHÔNG?


Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

 

Hồi còn nhỏ có mấy bạn hay hỏi tôi rằng: “Chúng mày theo Chúa, thờ mỗi Chúa, thế là khi 2/11-230


Hồi còn nhỏ có mấy bạn hay hỏi tôi rằng: “Chúng mày theo Chúa, thờ mỗi Chúa, thế là khi Bố Mẹ Ông Bà người thân chết đi là quên họ luôn à ?”

Tôi cười và đáp: không đâu bạn, trong 10 điều răn Chúa dạy chúng tôi, có 1 điều đó là “Thảo Kính Cha Mẹ”. Còn với Đức Giêsu, Ngài nhắc lại và kèm theo cảnh báo: “Ngươi hãy thờ kính Cha Mẹ; kẻ nào nguyền rủa Cha Mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4).

Và hằng ngày trong các Thánh lễ chúng tôi vẫn cầu cho ông bà cha mẹ, và thân bằng quyến thuộc đã qua đời.

Người Công Giáo chúng tôi còn có dành riêng tháng 11 còn gọi là tháng các linh hồn, để kính nhớ đến ông bà tổ tiên cùng những người đã khuất, và đặc biệt còn dành ngày Mùng 2 tết âm lịch để nhớ về cội nguồn của mình.

Chúng tôi cũng có ngày lễ giỗ. Trong ngày giỗ thay vì mâm cao cỗ đầy mời người đã khuất ăn, rồi sau đó người sống mới ăn, theo quan niệm bên các bạn, chúng tôi quây quần bên bàn thờ được thắp nến chưng hoa quả, tỏ lòng tri ân và để đọc kinh dâng lời nguyện cầu cho linh hồn các ngài được đến nơi vĩnh hằng là Thiên Đàng. Quan niệm của chúng tôi là hãy đối xử tốt với những người thân bên cạnh bạn khi còn sống, còn khi đã khuất mâm cao cỗ đầy cũng để làm gì?

Điều các bạn tin và mong muốn là sống tốt và kiếp sau sẽ được luân hồi tiếp tục trở thành con người… Khác với các bạn niềm tin của chúng tôi, vì chúng tôi tin là không có cuộc trở lại kiếp sau mà con người sau khi chết là về với Chúa, nếu còn thiếu sót thì cần được thanh luyện trong lửa luyện ngục, còn nếu sống đẹp lòng Chúa thì họ vĩnh viễn hưởng hạnh phúc Thiên Đàng nơi đó không còn khổ đau nữa.

Tháng 11 lại về như là lời nhắc nhở chúng ta về một thế giới không phải là âm hồn mà là thế giới thần linh. Một thế giới không còn oán hận, ganh ghét và cũng là một thế giới trả lại công bằng cho cuộc sống trần gian của con người. Kẻ làm điều ác sẽ bị trầm luân trong hoả ngục. Kẻ sống chưa hoàn thiện đủ, hay còn thiếu sót trong cuộc sống dương gian thì sẽ phải đền trả trong luyện tội và kẻ sống trong ơn nghĩa Chúa sẽ ở bên cung lòng Chúa mãi mãi.

Thế nên, tháng 11 phải hiểu là tháng báo hiếu, tháng lập công cho ông bà tổ tiên và thân nhân. Vì người chết thì hết lập công đền tội. Họ cần người sống làm việc thiện và cầu nguyện thay cho họ. Để nhờ công đức và nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, Thiên Chúa sẽ tha thứ và ban ơn cứu độ cho các ngài.

Thực ra trong thân phận con người ai mà không thiếu sót. Người thiếu sót công bình. Kẻ thiếu sót bổn phận. Người thiếu sót việc làm. Kẻ thiếu sót lời nói. Vì nhân vô thập toàn nên ai cũng cần những người còn sống hãy nhớ tới họ mà lập công đền bù cho họ.

Trong cuốn sách của Maria Simma, nói về “Các Linh hồn Luyện ngục” bà đã viết rằng: “Những linh hồn khốn khó nói rằng, nước mắt khóc thương không ích gì cho họ, chỉ có lời cầu nguyện mới giúp họ. Họ phàn nàn rằng, nhiều người đi dự đám tang mà không cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho họ, trong khi lại khóc lóc than van, điều này là vô ích!”

Điều mà các linh hồn cần chúng ta quan tâm chính là các việc lành phúc đức và lời cầu nguyện cho họ, đặc biệt là thánh lễ misa để nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su sẽ ban cho họ hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Cha thánh Gioan Vianney đã kể về lợi ích của thánh lễ như sau:

“Các con ơi, có một linh mục tốt lành đã mất một người bạn mà ông rất quí mến, vì vậy ông đã cầu nguyện rất nhiều cho linh hồn người bạn ấy được nghỉ yên.

Một hôm, Chúa cho ông biết rằng, người bạn của ông đang ở trong luyện tội và phải chịu đau đớn khủng khiếp. Linh mục thánh thiện ấy tin rằng ông không thể làm gì tốt hơn là dâng lễ cầu cho người bạn thân của mình trong Luyện ngục.

Vào lúc truyền phép, ông cầm Mình Thánh giữa hai tay và thưa: “Lạy Chúa Cha Hằng hữu, con xin đánh đổi: Cha giữ linh hồn người bạn con đang ở trong Luyện ngục, con  giữ Mình Thánh Con Cha trong tay con. Lạy Cha đầy lòng thương xót, xin giải thoát người bạn con, còn con xin dâng lên Cha Con của Cha với mọi công phúc của cái chết và cuộc khổ nạn của Người”.

Điều xin đã được chấp nhận, vào lúc dâng Mình Thánh lên, cha thấy linh hồn của bạn mình, sáng láng trong vinh quang, tiến về Thiên đàng.

“Các con ơi, khi chúng ta muốn giải cứu một linh hồn thân yêu của ta khỏi Luyện ngục, ta hãy làm như vậy, hãy dâng lên Thiên Chúa Thánh lễ Misa, Con Yêu Dấu của Ngài với tất cả các công nghiệp sự chết và khổ nạn của Người, Ngài sẽ không từ chối chúng ta bất cứ điều gì. ”

Mỗi người chúng ta đều có người thân đã ra đi về với Chúa. Hãy dành cho họ một chút hy sinh, một chút quà chia sẻ bác ái, và một thánh lễ cầu nguyện cho họ. Đây là cách chúng ta sống tâm tình tri ân những ông bà cha mẹ và những người đã sống chia sẻ cuộc sống với chúng ta. Hãy dành cho họ cũng là chúng ta dành cho Chúa. Vì chưng Chúa Giê-su từng nói: khi anh em cho người đói, người khát, người yếu đau là chúng ta đang làm cho chính Thầy, và Thầy sẽ ban phần thuởng Nước Trời cho ai giúp đỡ Thầy. Amen.

--------------------------------------

 

2/11-231: CÁT BỤI PHẬN NGƯỜI


Lm. Thái Nguyên

 

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…”. Không chỉ nhận ra cát bụi phận 2/11-231


 “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…”. Không chỉ nhận ra cát bụi phận người mà Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn còn nói lên sự thoáng qua của kiếp người: “Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi…”.

Lý Bạch thi tiên Đời Đường cũng ngậm ngùi than thở trong bài thơ Tương tiến tửu: “Triêu như thanh ty mộ thành tuyết” (Buổi sớm tóc còn xanh, chiều về đầu đã bạc như tuyết).

Trang Tử cho thấy cuộc đời như “bóng câu qua cửa sổ”. Thoát từ ý này Nguyễn Gia Thiều cũng đã viết trong “Cung oán ngâm khúc”, diễn tả đời người qua mau như: “Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi”.

Tác giả Thánh vịnh cũng đã dùng từ ngữ đó: “Ấy con người khác chi hơi thở, vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (Tv 144,4).

Chúng ta được dạy để thành thật nhìn ra những mong manh và tạm bợ trong cuộc sống con người. Bài Vịnh nhân sinh của Nguyễn Công Trứ cũng thở than như vậy:

“Ôi, nhân sinh là thế ấy,

Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.

Quả thật, đời người quá ngắn ngủi. Có những em bé vừa sinh ra đã phút chốc lìa đời. Có những người tuổi đời còn rất trẻ nhưng lại vội vàng vĩnh viễn ra đi. Cả khi đến lúc tuổi già khi nhìn lại cũng thấy “thời gian thấm thoát tựa thoi đưa”.

Thời gian cứ vùn vụt trôi nhanh khi ta chưa kịp làm gì cả, dù có thành công hay thất bại cũng thế thôi:

Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng,
được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không.
Phúc cho ai sớm nhận ra:
Phú quý vinh hoa như mộng ảo,
Sắc tài danh lợi tựa phù du.

Có những người cứ mải mê lo cho sự nghiệp đời này, có khi phải mất gần cả cuộc đời mới chợt nhận ra:

Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ.

Tác giả Thánh Vịnh đã nhắc nhở cho ta nhớ phận mình:

Mạng người dù giá cao mấy nữa,
            thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời.

Nào phàm nhân sống mãi được sao
            mà chẳng phải đến ngày tận số?

Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết,
            kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong,
            bỏ lại tài sản mình cho người khác.

Tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ nọ,
            nhưng ba tấc đất mới thật là nhà,
            nơi họ ở muôn đời muôn kiếp. (TV 49, 9-12)

Những điều trên đây gợi lên trong chúng ta nhiều suy tư và trăn trở. Tuy nhiên, tất cả những suy tưởng về thân phận con người chỉ được coi là nghiêm túc và sâu lắng khi đằng sau nó thấp thoáng tia sáng của niềm hy vọng. Điều đó làm nên thái độ sống sâu xa của người Kitô hữu.

Trước những đớn đau dằn vặt của con người, Thiên Chúa cho chúng ta một giải đáp. Giải đáp ấy nằm chính nơi cuộc đời của con người Giêsu. Ngài không đến để đưa ra một thiên khảo luận về con người, cũng không giải quyết tất cả những gay go và bi đát về thân phận con người. Ngài đến để sống thân phận con người với tất cả hệ lụy của nó. Ba mươi năm ở làng Nagiareth, Giêsu lặng lẽ sống cuộc đời bình thường như bao nhiêu con người khác. Vì sao thế?

Phải chăng vì cuộc sống con người với những cái bình lặng thường ngày của nó luôn có một giá trị nhất định. Chỉ cặp mắt biết chiêm niệm và con tim biết yêu thương mới có thể nhận ra cuộc đời này ý nghĩa dường bao. Dù phận người là cát bụi, dù cuộc đời là thoáng chốc, nhưng sự hiện diện của mỗi người chúng ta hôm nay lại có một giá trị thật cao cả, nếu biết sống cuộc đời mình thật cao đẹp. Đó là chưa nói đến giá trị siêu việt mang tính vĩnh cửu, vì mạc khải Kitô giáo cho biết cách thế hiện diện của ta hôm nay định hình cho sự sống muôn đời.

Tuy nhiên, trước khi bàn về sự sống muôn đời, ta hãy nói với nhau về cuộc sống tạm thời, một cuộc sống tuy ngắn ngủi, mong manh nhưng lại rất đẹp, rất tuyệt vời cho ai biết sống với tất cả trái tim mình.

Trước hết ta cần sự yên tịnh, trầm lắng, để nhìn ngắm vũ trụ bao la, vạn vật xanh tươi, bát ngát, muôn mầu, muôn vẻ, muôn hương, muôn sắc, muôn hình, muôn tượng… Tất cả đều đẹp đẽ, tinh tế và hoàn hảo lạ lùng, từ cây xanh đến hoa trái thơm lành; từ dòng sông con suối đến đồi núi chập chùng; từ cánh đồng bao la đến đại dương mênh mông; từ bầu trời xanh thắm đến trăng sao rạng rời… Đó là một tuyệt tác thiên nhiên và gần như một tài nguyên vô tận mà Thiên Chúa đã tặng ban cho con người. Ngài đã làm ra tất cả để chúng ta thưởng thức và tận hưởng. Đứng trước kỳ công tuyệt mỹ của Thiên Chúa đã làm nên, tác giả Thánh Vịnh đã hân hoan reo vang:

“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
            muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
            phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
            ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
            đặt muôn loài muôn sự dưới chân…” (Tv 8, 4-7).

Quả thật, nếu có một trái tim biết rung động sâu xa, chắc chắn chúng ta phải choáng ngộp và cảm mến vô vàn trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người. Điều này khẩn thiết mời gọi chúng ta đáp trả lại tình yêu Chúa bằng tất cả tâm trí và khả năng của mình, để tiếp tục sáng tạo từ những gì Thiên Chúa đã sáng tạo cho chúng ta. Những gì Thiên Chúa đã làm nên là nhằm đưa đến niềm vui và hạnh phúc cho con người, nên điều Thiên Chúa muốn là những gì chúng ta làm nên cũng phải đưa tới niềm vui và hạnh phúc cho nhau.

Cũng như thiên nhiên đã hình thành và phát triển theo qui luật của tạo hóa, nên nó đã trở nên một tài nguyên vĩ đại để đem lại sự sống cho con người. Thì con người cũng thế, được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, nên có đầy đủ khả năng và tự do sáng tạo để đem lại những gì tươi mới hơn cho thế giới hôm nay. Hãy nhìn ngắm thiên nhiên để có những ước mơ, kế hoạch và những thực hiện cụ thể cho đời. Trong viễn ảnh đó, nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn đã diễn đạt thật tuyệt vời qua ca khúc “Khát Vọng” như sau:

Hãy sống như đời sống, để biết yêu nguồn cội.
Hãy sống như đồi núi, vươn tới những tầm cao.
Hãy sống như biển trào, để thấy bờ bến rộng.
Hãy sống và ước vọng, để thấy đời mênh mông.

Và sao không là gió, là mây, để thấy trời bao la.
Và sao không là phù sa, dâng mỡ màu cho hoa.
Sao không là bài ca, của tình yêu đôi lứa.
Sao không là mặt trời, gieo hạt nắng vô tư.

Và sao không là bão, là giông, là ánh lửa đêm đông.
Và sao không là hạt giống, xanh đất mẹ bao dung.
Sao không là đàn chim, gọi bình minh thức giấc.
Sao không là mặt trời, gieo hạt nắng vô tư.

Nội dung bài hát khích lệ con người một mô hình sống dấn thân. Trong đó, tinh thần tích cực sáng tạo, rộng lượng, bao dung, xả kỷ, vị tha, được xem là những chất liệu để tô đẹp cuộc sống này. “Khát vọng” phản ánh ước nguyện thiện hảo của con người, không muốn sống nhỏ nhoi tầm thường, hoặc sống không mục đích, không lý tưởng. Biết rằng, giữa ước mơ và thực tế luôn là một khoảng cách, nhưng khoảng cách sẽ được nối kết dần dần: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”. (ĐHV 978).

Mỗi người chỉ cần thể hiện một trong những vai trò mà bài ca “khát vọng” gợi lên, thì chắc chắn cuộc đời đẹp biết bao. Đó là sống như đồi núi, sống như biển rộng, sống như gió mây, sống như đàn chim ríu rít gọi bình minh, sống như hạt giống tươi tốt, sống như phù sa dâng màu mỡ cho hoa, sống như mặt trời gieo hạt nắng vô tư…

Đã có biết bao con người đã sống và đang như thế cho cuộc đời này, để chúng ta có được cuộc sống hôm nay. Đến phiên chúng ta cũng cũng nối tiếp như thế, âu cũng là sự công bằng. Chỉ những gì cho đi mới không mất đi, và làm nên ý nghĩa của đời mình. Dù mai đây mình không còn nữa, nhưng những gì góp phần cho sự thiện hảo của con người vẫn còn tồn tại mãi, vì là những giá trị vượt không gian và thời gian.

Như vậy, cho dù là cát bụi phận người, nay còn mai mất, nhưng điều quan trọng không phải là lo chết mà là lo sống, và sống hết mình, dù chỉ còn một ngày để sống. Cuộc đời có biết đến ta hay không, không cần thiết. Điều cần thiết là ta hãy tích cực hành động và dấn thân vô vị lợi, nhằm đem lại cho cuộc sống một cái gì tốt hơn, đẹp hơn, cao quí hơn. Đó không còn là “khát vọng” mà là chính sự hiện thực, làm nên sự tươi mới cho cuộc đời hôm nay.

Chính Chúa đang trợ lực cho những nỗ lực của chúng ta trong từng ngày sống, nên chúng ta hãy sống như mình phải sống, như Chúa muốn cho mình sống. Chính Ngài đang mong chờ cây đời chúng ta trổ sinh hoa trái nhiều hơn, đang mong đợi thành quả của chúng ta là đem lại bình an và phúc lợi cho đời, để chính từ đó mà Thiên Chúa biến chúng thành hạnh phúc đời đời cho những ai tin tưởng và hy vọng vào Người.

Xét trên mặt hiện tượng, xem ra con người là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, nhưng cùng đích của con người không phải là cát bụi, vì con người được dựng nên cho Thiên Chúa, Đấng hằng sống. Trong quyền năng Thiên Chúa, con người sẽ được giải thoát, không còn phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, trở nên một tạo vật hoàn toàn mới, có khả năng hưởng kiến Thiên Chúa, và được chung hưởng vinh quang với Người trong sự sống muôn đời. (x. Rm 5, 2; 8, 30)

Cuộc đời như vậy đẹp biết bao, ý nghĩa biết mấy, vì nó không chỉ là sự thành tựu từ những ước mơ và khát vọng của ta, mà còn chính là mơ ước và kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời ta. Trong ý nghĩa cao cả đó, chúng ta biến cuộc đời mình thành bài ca chúc tụng và cảm tạ Chúa đến muôn đời.

---------------------------------

 

2/11-232: SỐNG TRỌN ĐẠO LÀM CON


 Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

 

Mẹ ơi, con thương bố mẹ nhiều; Con chết vì không thở được; Con xin lỗi bố mẹ nhiều mẹ ơi 2/11-232


“Mẹ ơi, con thương bố mẹ nhiều; Con chết vì không thở được; Con xin lỗi bố mẹ nhiều mẹ ơi; Con đường đi nước ngoài không thành”

Đó là những dòng tin nhắn cuối cùng của một cô gái trẻ tên Trà My gửi cho gia đình trong lúc tuyệt vọng. Cô là một trong 39 nạn nhân di cư nhập cảnh vào Anh đã bị chết cóng trong một thùng xe container, được cảnh sát Anh phát hiện vào tuần qua. Cho đến nay, cảnh sát Anh cho biết hầu hết các nạn nhân đều là người Việt Nam. Cả thế giới bàng hoàng trước thông tin này, các tờ báo lớn trên thế giới đều đưa tin động trời này. Tại Anh Quốc và nhiều nơi, nhiều người đã thắp nến cầu nguyện cho 39 nạn nhân xấu số, mặc dù họ không biết các nạn nhân là ai. Tòa Đại Sứ Anh cũng ra thông cáo và gửi lời chia buồn đến gia đình các nạn nhân. Riêng chính phủ và báo chí Việt Nam hầu như không mấy quan tâm. Ở đây không bàn về sự kiện đúng, sai hoặc lý do nào khiến cho 39 người này đã phải đánh đổi cả cuộc đời để đi tìm một chân trời mới, nhưng muốn nói đến tâm trạng của cô gái trẻ đã để lại qua những dòng tin nhắn cuối cùng.

Các tờ báo nước ngoài có đăng đoạn tin nhắn này, nhưng có lẽ nhiều người nước ngoài sẽ không thể hiểu tại sao lúc cận kề với cái chết, cô gái này lại nói lời: “Con xin lỗi bố mẹ nhiều mẹ ơi. Con đường đi nước ngoài không thành.” Người Việt khi đọc đoạn tin nhắn này sẽ hiểu ngay đó là lời xin lỗi của một người con đối với cha mẹ vì chữ hiếu chưa trọn, đạo làm con chưa thành, chưa kịp làm gì để báo ân mà nay lại còn để lại nỗi đau cho cha mẹ.

Đạo Hiếu của người Việt Nam và giới răn Thứ Bốn của Thiên Chúa nhắc nhở và đòi buộc con cái phải biết kính trọng yêu mến mẹ cha. Sự hiếu thảo được thể hiện bằng sự ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ trong mọi sự. Cãi lại cha mẹ hoặc không vâng lời bị coi là bất hiếu. Sự hiếu thảo con được thể hiện qua việc giúp đỡ cha mẹ khi tuổi già, làm mọi việc để cha mẹ già vui lòng. Khi cha mẹ đau yếu bệnh tật, phận làm con phải hết lòng chăm sóc chạy chữa. Khi các Ngài qua đời phải lo tang lễ, chôn cất, xây mồ và cúng giỗ hàng năm. Nhắc lại một vài điểm trong đạo hiếu của người Việt chúng ta sẽ hiểu tại sao trong giờ phút cận kề với cái chết, cô gái trẻ Trà My kia đã mấy lần lặp lại lời xin lỗi cha mẹ. Cô xin lỗi vì với lứa tuổi đôi mươi chưa kịp làm gì để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Cô đánh đổi mạng sống của mình với hy vọng khi đến được vùng đất mới, cô có điều kiện làm việc, kiếm tiền giúp đỡ trả ơn cho cha mẹ. Cô mơ ước một ngày nào đó cha mẹ và gia đình cô sẽ bớt khổ. Vậy mà ý trời không muốn, cô chỉ kịp đặt chân đến xứ sơ mơ ước trong một chiếc xe cùng với 38 người khác trong tình trạng đã chết dưới cái lạnh âm 37 độ của chiếc xe đông lạnh. Cô hối tiếc và xin lỗi vì giấc mơ đi nước ngoài không thành, vì chưa kịp làm gì cho cha mẹ bớt khổ, mà nay còn để lại cho cha mẹ thêm món nợ và thêm nỗi sầu.

Cử hành lễ cầu cho tổ tiên ông bà và cho các linh hồn hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng nhau suy niệm về mầu nhiệm của sự chết, đồng thời nhắc cho chúng ta bổn phận chu toàn Đạo Hiếu và những đòi buộc của giới răn thứ bốn: “Thảo kính cha mẹ.” Chúng ta phải sống thế nào để khi phải rời xa nhau ta không phải sợ hãi và không hối tiếc vì chưa sống trọn đạo với những người đã khuất.

Đối với niềm tin Kitô Giáo, cái chết không còn là điều kinh sợ nữa, vì cái chết của mỗi người đã được Đức Kitô biến đổi nhờ cái chết trên thập giá của Ngài và biến cái chết của mỗi người thành niềm hy vọng lớn lao. Thuở ban đầu, cái chết chỉ là một qui luật của tự nhiên, có sinh ắt có tử, có bắt đầu sẽ có kết thúc. Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, cái chết đã mang một ý nghĩa kinh khủng hơn, nó trở thành một án phạt cho sự chối từ Thiên Chúa. Đức Giêsu là một vị Thiên Chúa, đã chấp nhận vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha, đến trần gian và sống trọn vẹn đạo hiếu với Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn tìm mọi cách để làm vui lòng Cha, vâng theo sự hướng dẫn và ý muốn của Cha, cuối cùng, Ngài chấp nhận hy sinh cả mạng sống vì vâng phục Chúa Cha và vì muốn đem lại sự sống mới cho các anh em của Ngài là nhân loại. Thiên Chúa Cha đã đón nhận sự hy sinh vâng phục của Chúa Giêsu và đã dùng quyền năng Thiên Chúa để làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Thiên Chúa đã tha thứ tất cả tội lỗi cho nhân loại cùng ban cho nhân loại sự sống mới của Chúa Giêsu. Từ đây, nhờ cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của nhân loại không còn là điều ghê sợ nữa, mà đã trở thành một ngưỡng cửa mà mọi người phải bước qua để được vào chung hưởng sự sống với Chúa Kitô.

Tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ và sống theo giáo lý Tin Mừng của Ngài, thì sẽ được sống và không phải chết đời đời nữa. Đây chính là điều kiện tiên quyết cho tất cả những ai muốn được chung hưởng hạnh phúc và được sống đời đời với Chúa: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người con và tin vào Người con thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Tin Mừng Luca thuật lại câu chuyện hai người trộm cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Một tên không tin Chúa Giêsu là Đấng cứu thế, anh ta còn nặng lời mỉa mai, thách thức Đấng đang cùng chịu đóng đinh bên cạnh mình: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa.” Trái lại, tên bên kia đã tin rằng, người đang bị đóng đinh bên cạnh mình là một Đấng quyền năng. Mặc dù đức tin của anh còn rất mỏng manh, nhưng anh đã bênh vực Chúa và trách tên trộm đồng nghiệp kia, anh thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi!” Chúa Giêsu đã cho anh điều vượt sức mong đợi của anh khi Ngài trả lời: “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Trong câu chuyện Chúa cho Lazarô chết bốn ngày được sống lại, Ngài cũng đã giúp cho cô Matta tin vào Ngài và tuyên xưng: “Thưa Thầy! Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” Phép lạ đã xảy ra, Lazarô được gọi từ trong mồ bước ra.

Như vậy, khi đặt niềm tin chắc chắn vào Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, chúng ta sẽ được sống, được sống lại sau cái chết và được chia sẻ vào sự sống của Chúa. Cử hành lễ cầu cho các linh hồn tổ tiên ông bà, chúng ta một lần nữa cùng nhau tuyên xưng đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa và tuyên xưng niềm tin, niềm hy vọng của chúng ta: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại; Tôi tin cuộc sống đời đời mai sau.”

Cử hành ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta đặc biệt nhớ đến ông bà tổ tiên, cha mẹ và những người thân đã ra đi trước chúng ta. Các Ngài đã trải qua sự chết và ta tin rằng có những người đã hoàn tất giai đoạn thanh luyện, đang được chung hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên chúa. Có nhiều người khác vì còn thiếu sót cách nào đó trước mặt Chúa, còn đang phải trải qua thanh luyện đền bù, chúng ta dâng những thánh lễ, lời kinh và những việc lành hy sinh để cầu nguyện cho các Ngài. Xin Chúa cho các Ngài mau được về hưởng tôn nhan Thiên Chúa.

Đứng bên nấm mồ của những người thân, có nhiều người trong chúng ta đang bị lương tâm dày vò vì mình đã chưa chu toàn bổn phận Đạo Hiếu đối với các ngài khi các ngài còn sống. Có những người con đã không làm cho cha mẹ vui lòng, ngỗ nghịch quậy phá. Có những người con đã khiến cha mẹ mất ăn mất ngủ vì phải lo lắng cho mình. Nhiều người khác đã thiếu kính trọng, không vâng lời, nhất là đã thiếu sót hoặc đã cố tình cư xử tệ bạc, bất hiếu với cha mẹ và người thân khi các Ngài còn sống. Đứng bên cạnh mộ của vợ, của chồng, nhiều người hối hận vì đã tỏ ra coi thường, không chu toàn bổn phận, không tôn trọng, yêu thương đối với vợ, với chồng khi họ còn sống dưới một mái nhà. Còn nhiều người khác đang bị dằn vặt, hối tiếc vì chưa bao giờ nói được một lời yêu thương, chưa kịp làm gì cho người thân khi họ còn sống.

Cử hành thánh lễ cầu cho các linh hồn, nhắc cho tất cả chúng ta ngay từ bây giờ cần phải sống trọn đạo đối với Thiên Chúa, sống trọn đạo với cha mẹ ông bà và sống trọn tình nghĩa vợ, chồng, anh chị em. Một điều chắc chắn là chúng ta không thể sống mãi trên trần gian này. Vì thế, cần biết tận dụng mọi cơ hội để chu toàn đạo làm con đối với Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ không ở bên nhau mãi mãi, sẽ đến ngày cha mẹ, người thân, hoặc chính chúng ta sẽ phải ra đi, bỏ lại tất cả mọi mối liên hệ. Vì thế, hãy sống với nhau cho trọn đạo, trọn tình; sống với nhau cho hết mình, trọn nghĩa để khi cha mẹ, vợ chồng, người thân hay chính mình phải ra đi, chúng ta sẽ không hối tiếc vì chưa làm được gì cho người thân.

Dù có muộn màng cũng mạnh dạn nói với cha mẹ như cô gái Trà My: “Mẹ ơi, con thương bố mẹ nhiều; Con xin lỗi bố mẹ nhiều mẹ ơi; Con đường làm người và làm con của con đã chưa trọn”.

-----------------------------

 

2/11-233: TẤM LÒNG THANH


Trầm Thiên Thu

 

Mừng Chư Thánh Hiển Vinh Nơi Thiên Quốc, Xót Các Hồn Thanh Luyện Chốn Ngục Hình. Theo 2/11-233


Mừng Chư Thánh Hiển Vinh Nơi Thiên Quốc
Xót Các Hồn Thanh Luyện Chốn Ngục Hình

Theo lẽ thường thì “xa mặt, cách lòng.” Hầu như các mối quan hệ đều có “điểm chung” như vậy. Chẳng hạn, họ hàng cùng cấp độ, nhưng với người ở gần thì mức độ tình cảm khác với người ở xa. Tuy nhiên, về phương diện tâm linh không như vậy, đặc biệt là tâm linh Kitô giáo.

Thật vậy, Tháng Mười Một xác định cái “lý lẽ” đó: Các thánh và những người đã qua đời là những người ở rất xa, thế mà họ vẫn rất gần chúng ta – thậm chí còn gần hơn khi họ còn sống trên thế gian này.

Họ ở hai nơi khác nhau như họ đều là các thánh nhân, chỉ khác tình trạng một chút: ĐÃ sạch và CHƯA sạch, ĐÃ là thánh và chắc chắn SẼ là thánh. Cầu nguyện với các thánh là điều rõ ràng rồi, nhưng chúng ta vẫn có thể cầu xin các linh hồn giúp đỡ chúng ta, mặc dù họ không thể tự giúp chính họ được nữa. Cầu nguyện với các linh hồn hiệu quả lắm – nhất là trong Mùa Cầu Hồn này.

THANH SẠCH

Các thánh trên Thiên Đàng là những người đã thanh sạch. Chắc chắn như vậy, bởi vì không thanh sạch thì không thể chiêm ngưỡng Thiên Chúa và không được đến gần Ngài.

Tv 24:3-6 cho biết: “Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ TAY SẠCH LÒNG THANH, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối. Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng. Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người, tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.” Người sống thanh sạch là người được công chính hóa, và còn thêm ích lợi khác: “Kẻ tay sạch lòng thanh sẽ được thêm sức mạnh.” (G 17:9b)

Nói đến lòng thanh sạch, chúng ta có thể nhớ ngay tới người trưởng thu thuế là ông Da-kêu mà trình thuật Lc 19:1-10 đề cập. Ông là một người lạ lùng lắm. Tên Da-kêu là Zacchaeus, Hy ngữ là Ζακχαῖος hoặc Zakchaios, có nghĩa là TRONG SẠCH và CÔNG CHÍNH. Cái tên rất đặc biệt, rất ý nghĩa. Nhưng không chỉ là cái tên suông, mà chính ông đã thực hiện ngay lập tức. Ông nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Câu nói của ông cho thấy rằng ông làm một lúc hai việc: Bác Ái và Đền Tội. Ông bác ái bằng cách dùng phân nửa tài sản để giúp người nghèo, và đền tội bằng cách đền gấp bốn những gì ông đã tham lam bằng cách nào đó.

Các thánh cũng đã một thời là phàm nhân, nghĩa là cũng có thể phạm tội, nhưng các ngài đã mau mắn sám hối và đền tội. Ngày xưa người ta có cách “đánh tội” khá phổ biến, tức là lấy dây và tự đánh mình, có khi rỉ máu ra, đã có nhiều vị thánh áp dụng “biện pháp” này. Chịu đau khổ là cách đền tội ở đời này và hiệu quả, chịu đau khổ như vậy để mong không phải vào Luyện Hình – tức là “lên thẳng” và vào Thiên Đàng ngay.

Là phàm nhân đồng nghĩa với là tội nhân. Là tội nhân nghĩa là “dơ bẩn” lắm. Nếu dơ bẩn thì phải giặt cho sạch, tốt nhất là “giặt” bằng Bửu Huyết của Đức Giêsu Kitô. Các thánh là những người “đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.” (Kh 7:14) Và đó là điều diễm phúc: “Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành!” (Kh 22:14)

Đền tội là điều tự nguyện, nhưng vẫn phải nhờ ơn Chúa giúp sức: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.” (Tv 51:12) Đền tội là hoàn thiện theo ý Chúa, không cần bề ngoài, mà cần tự đáy lòng: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.” (Tv 51:19) Thế là hết bẩn, thế là được sạch, được sạch thì thoát “ngưỡng” Luyện Hình. Thật tuyệt vời biết bao!

THANH LUYỆN

Các linh hồn nơi Luyện Hình là những người chưa thanh sạch, vì thế mà cần thanh luyện một thời gian để có thể xứng đáng bước vào Thiên Đàng. Luyện Hình như “phòng chờ” đến lượt nhận phần thưởng đời đời. Ở “phòng chờ” lâu hay mau tùy mức độ “dơ bẩn” nhiều hay ít. Vào Luyện Hình là chắc chắn được vào Thiên Đàng.

Luyện Hình còn gọi là Luyện Ngục – nơi thanh tẩy linh hồn trở nên sạch sẽ, thanh luyện tới mức tinh tuyền. Chính cái tên gọi cho thấy đó là nơi đau khổ. Nên nhớ rằng hình phạt ở Luyện Hình cũng đau khổ như ở Hỏa Ngục, không hề “nhẹ nhàng” hơn. Có điều khác nhau là đau khổ ở Luyện Hình có giới hạn, linh hồn chịu thanh luyện đủ mức thì được lên Thiên Đàng; còn đau khổ ở Hỏa Ngục vô hạn, “mất trắng” đời đời, phải “khóc lóc và nghiến răng” vĩnh viễn. Lửa ở hai nơi đó không như lửa ở thế gian; so với lửa ở hai nơi đó thì lửa ở thế gian chỉ như “gió nhẹ hiu hiu” mà thôi. Thật đáng sợ! Thế nên Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hãy biết RUN SỢ mà GẮNG SỨC lo sao cho mình được cứu độ.” (Pl 2:12)

Gọi là hình phạt nhưng không phải là Thiên Chúa không nhân từ, mà đó là hồng ân thương xót của Ngài. Chính hình phạt đó là sự công bằng của Thiên Chúa, bởi vì tại chúng ta chiều chuộng mình, thích dễ dãi, khoái ung dung, sợ khó, sợ khổ, không chịu “tu thân” ở đời này, thế nên phải chịu thanh luyện ở Luyện Hình. Phải vào Luyện Hình cũng là diễm phúc rồi. Không phải vào đó thì quá tuyệt vời rồi. nhưng làm sao có thể “lên thẳng” chứ? Cố gắng thanh luyện mình ở đời này, tức là sống đền tội ở thế gian. Nhưng “phương pháp” tự thanh luyện ở đời này là gì? Thánh Phêrô cho biết: “Nhờ VÂNG PHỤC sự thật, anh em đã THANH LUYỆN tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành.” (1 Pr 1:22a)

Chấp nhận sự hèn yếu của mình cũng là cách tự thanh luyện – đền tội liên lỉ, đền tội bền bỉ, đền tội không nghỉ. Thánh Phaolô nói: “Trong một ngôi nhà lớn, không phải chỉ có những đồ vật bằng vàng bằng bạc, nhưng cũng có những đồ vật bằng gỗ bằng sành; thứ thì dùng vào việc cao quý, thứ thì dùng vào việc thấp hèn. Vậy ai THANH TẨY mình cho sạch những điều xấu nói trên, người đó sẽ là một đồ vật dùng vào việc cao quý, một đồ vật được thánh hiến, có ích cho chủ, sẵn sàng làm mọi việc lành.” (2 Tm 2:20-21)

Không phải vào Luyện Hình có thể là phúc hoặc khốn. Có thể “vào thẳng” nơi nào đó: Không phải vào Luyện Hình là PHÚC nếu vào thẳng Thiên Đàng, không phải vào Luyện Hình là KHỐN nếu vào thẳng Hỏa Ngục. Những kẻ khốn là ai? Thánh Phaolô nói: “Anh em phải biết rõ điều này: KHÔNG một kẻ gian dâm, ô uế hay tham lam nào – mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng – được thừa hưởng cơ nghiệp trong Nước của Đức Kitô và của Thiên Chúa. Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ KHÔNG VÂNG PHỤC.” (Ep 5:5-6)

Thánh Antôn Padua, tiến sĩ Phúc Âm, có lời khuyên cấp bách: “Ngay hôm nay, anh em hãy làm một việc tốt cho người mà anh em không ưa.” Đó là thiện cử rất phù hợp với khuyến cáo của Chúa Giêsu Kitô: “Hãy yêu kẻ thù cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, và làm ơn cho kẻ ghét anh em.” (Mt 5:44; Lc 6:27) Đó không chỉ là sống yêu thương, thi hành luật bác ái, mà còn là cách tự thanh luyện ở đời này để hy vọng không phải vào Luyện Hình – dù chỉ một thoáng.

Chúa Giêsu yêu thương mọi người, muốn ai cũng được ở với Ngài đời đời kiếp kiếp. Thật vậy, chính Ngài đã cầu xin với Thánh Phụ: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.” (Ga 17:24)

Tháng Mười Một – Tháng Cầu Hồn, và các ngày Thứ Hai trong tuần, là cơ hội tốt để chúng ta nhớ đến những người đã khuất bóng trần gian. Cầu nguyện cho họ cũng là cầu nguyện cho chính mình. Khi hiện ra tại Fátima năm 1917, Đức Mẹ dạy cầu nguyện cho các linh hồn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hoả ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.” (Lời Nguyện Mân Côi sau mỗi chục Kinh Kính Mừng) Không có linh hồn nào mồ côi đâu!

Lạy Thiên Chúa công bình như giàu lòng thương xót, con đã phạm bao nhiêu tội lỗi, bao nhiêu lần con đã phản nghịch, đã đắc tội với Ngài, xin cho con được biết. (G 13:23) Xin thêm các nhân đức đối thần và đối nhân để con có thể tôn vinh Ngài trong cuộc sống đời thường, mặc dù con hèn hạ với thân tro kiếp bụi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây