Suy Niệm Tin Mừng Mồng Hai Tết Bài 51-94 Cầu cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ ----------------------- Phúc Âm: Mc 7,1-2. 5-13a: “Hãy thảo kính cha mẹ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì chúng dạy những giáo lý và những luật lệ loài người”. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy”. Và Người bảo: “Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: “Hãy thảo kính cha mẹ”, và “ai rủa cha mẹ, người đó phải chết”. Còn các ngươi thì lại bảo: “Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được, nay tôi muốn nó trở thành Corban (nghĩa là của dâng cúng)”, rồi các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau”. - Ðó là lời Chúa.
– – – – – – – – – – – –
Phúc Âm: Lc 1,67-75: “Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta”.
Tôn kính tổ tiên và hiếu nghĩa với ông bà cha mẹ là truyền thống và gia sản tốt đẹp của cha ông Tết Mồng 2–51
Tôn kính tổ tiên và hiếu nghĩa với ông bà cha mẹ là truyền thống và gia sản tốt đẹp của cha ông ta từ bao đời nay.
Đây là nghĩa cử cao quý mà bất cứ ai, đã sinh ra làm người thì khi đến tuổi khôn đều phải được dạy cho biết gia sản quý báu của dân tộc, đồng thời mỗi người phải coi đây là bổn phận, nghĩa vụ trong lòng mến chứ không chỉ đơn thuần là tình cảm tự nhiên.
Ngược lại, nếu ai sống một cuộc đời bất hiếu, thì có thể kể hạng người đó vào số những người vô giáo dục, hay không phải là con người đúng nghĩa!
Hôm nay, Giáo Hội dành riêng ngày mồng hai tết cổ truyền của dân tộc, để mời gọi con cái mình hướng về cội nguồn để cầu nguyện cho các bậc sinh thành, và noi gương sáng của các ngài để lại, hầu có thể làm sáng danh Thiên Chúa, rạng rỡ gia phong và vẻ vang dân tộc... đây chính là: “Của lễ làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Cl 3, 20).
1. Đạo hiếu ngày xưa
Ngày xưa, cha ông ta rất coi trọng chữ hiếu. Chữ hiếu được đưa lên hàng đầu vì: ”Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, thời suy ra trăm nết đều nên”.
Vì thế, khi đánh giá một người nào, các cụ ta thường hay xem họ có hiếu nghĩa với ông bà, cha mẹ, sống có tình nghĩa với anh chị em trong gia đình và làng xóm không?
Còn khi chọn ai đó làm quan, nhà vua thường dựa trên quy luật: “Tướng – Hàm –Hiếu”. Tức là phải có tướng mạo, học hành giỏi giang và có hiếu với bậc sinh thành. Tuy nhiên, hiếu nghĩa quyết định người đó đậu hay không.
Khi người xưa coi trọng chữ hiếu như vậy, các bậc tiền bối của chúng ta coi chữ hiếu là căn cốt, là bản lề, là cột trụ trong việc hình thành nhân cách cũng như nền tảng xây dựng xã hội và nghề nghiệp.
Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất, bởi lẽ: “Người ta có cha có mẹ, không ai ở chỗ nẻ chui lên”, nên: “Người ta có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn”.
Vì thế, người thời xưa, sáng ngày mồng một, con cháu quy tụ về nhà tổ để làm lễ gia tiên với người đã khuất, sau đó đến phần bày tỏ hiếu nghĩa với người còn sống.
2. Đạo hiếu ngày nay
Trên đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta khi nói và sống chữ hiếu. Còn ngày nay thì sao?
Nếu ngày xưa, nhà nhà, người người coi lễ giáo gia phong, tôn ti trật tự, hiếu nghĩa thảo hiền là điều quan trọng không thể thiếu trong các mối tương quan, thì ngày nay, có khi: “Mò kim đáy biển”.
Vì thế, trong những ngày giáp tết vừa qua, trên các trang mạng xã hội có đăng tải những tấm hình gây nhiều chú ý, bức xúc, kèm theo những lời kết án gắt gao, đó là: hình ảnh một bà cụ già khoảng 90 tuổi, bị nhốt dưới bếp và khóa trái cửa, cụ đẩy cửa và nhìn hé ra ngoài, bên dưới là lời nói: “Con ơi, mở cửa cho mẹ, mẹ không lên phòng khách đâu!!!”. Rồi hình ảnh khác, một bà cụ ngồi vệ đường với bát cơm trộn. Cụ vừa ăn vừa khóc! Bên dưới có lời bình: “Cuộc đời vất vả nuôi con, cầu mong con lớn, nhờ con về già! Vậy mà khi tuổi xế tà, sức lực cạn kiệt thân già ốm đau. Con cái thì lại ganh nhau, chăm được ba bữa càu nhàu rên la. Mẹ già cay đắng lệ sa, bát cơm chan lệ như là chan canh”. Ôi đọc mà đau nhói con tim, tê tái tâm hồn!
Rồi nhìn chung quanh, có khi không chừng, ngay cả trong nhà thờ này, vẫn còn đó những đứa con bất hiếu, vô giáo dục khi đối xử thậm tệ với cha mẹ!
Vì thế, vẫn thấy đây đó nhiều bậc cha mẹ phải bỏ nhà ra đi hay bị đuổi ra khỏi nhà vì cảnh con dâu quá láo, con trai phụ bạc, các cháu hỗn hào... Ôi thật đau xót biết chừng nào!!!
Những hạng người bất hiếu trên, có lẽ họ quên mất một quy luật tất yếu, đó là: “Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”.
Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, anh con trai mua một cái sọt, rồi nhốt cha già trong đó và mang vào rừng bỏ đói cho chết. Thấy vậy, con trai anh tuy còn nhỏ, nhưng đã ý thức và đau xót nên nói với cha mình rằng: “Ba đem ông vào rừng rồi sau đó mang sọt về cho con nhé”. Người cha liền hỏi: “Mang về làm gì?” Người con đáp: “Để sau này có cái mà nhốt cha!”. Đây quả là quy luật tất yếu dành cho kẻ bất hiếu.
3. Đạo hiếu trong truyền thống Công Giáo
Đối với người Công Giáo, đạo hiếu không chỉ là một bổn phận phải có đối với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn là đòi hỏi, là lệnh truyền, là giới răn của chính Thiên Chúa.
Trong Thập giới, Thiên Chúa dành ra giới răn thứ tư để truyền phải giữ, đó là: “Thảo kính cha mẹ”. Giới răn này chỉ đứng sau những giới răn tôn thờ Thiên Chúa. Như vậy, ngoài bổn phận với Thiên Chúa, người Công Giáo phải trung thành tuân giữ lòng hiếu nghĩa với tổ tiên.
Khi hiếu kính với tổ tiên, chúng ta sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và tha thứ lỗi lầm, vì: “Ai tôn thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,3-4). Thánh Phaolô thêm: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3); vì: “Ai vâng lời cha mẹ trong mọi sự sẽ đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20) và sẽ được Thiên Chúa nhận lời người hiếu nghĩa cầu xin (x. Hc 3,8).
Còn với Đức Giêsu, Ngài nhắc lại và kèm theo cảnh báo: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4).
4. Thi hành việc hiếu nghĩa
Như những gì đã chia sẻ ở trên, chúng ta thấy chữ hiếu đối với người Công Giáo thật là quan trọng, nó kéo theo việc được chúc lành hay chúc dữ tùy vào thái độ của chúng ta.
Thiết nghĩ, ngay trong giây phút này, mỗi người hãy làm mới lại tinh thần hiếu nghĩa đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
Trước tiên, chúng ta hãy cầu nguyện, kết hợp với những hy sinh để cầu cho linh hồn các bậc tổ tiên đã ra đi, đồng thời cầu nguyện cho những bậc còn sống được bình an. Hãy nhớ nằm lòng câu ca dao sau: “Cây có gốc mới nở ngành sinh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu. Người ta có gốc từ đâu! Có cha có mẹ rồi sau có mình”.
Thứ đến, hãy vui vẻ lễ phép, chăm lo cơm cháo, đồng quà tấm bánh, nhất là lo thuốc thang khi các ngài ốm đau bênh tật. Sống yêu thương, kính trọng như lời Kinh Thánh dạy: “Con ơi, hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi con” (Hc 3,12-14).
Cuối cùng, nếu ai đã hỗn sược, lếu láo với bậc sinh thành, ngay lập tức, sau thánh lễ này, hãy xin lỗi các ngài và quyết tâm sửa sai. Nên nhớ rằng, đây là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình hay không.
Ước gì, trong dịp tết năm nay, nhất là trong ngày cầu cho tổ tiên, cũng như hằng ngày trong đời sống, mỗi người chúng ta phải thực sự là tấm gương cho con cháu về lòng hiếu nghĩa với các bậc tổ tiên, để như một quy luật tất yếu, con cái sẽ noi gương và báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của chúng ta hôm nay và ngày mai. Amen.
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ Tết Mồng 2–52
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.
Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.
Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền ?”. Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…
Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:
Đói lòng ăn hột chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.
Con đi khắp vạn nẻo đường Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền Người con yêu quý nhất trên đời Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy Núi rất cao và biển rất tuyệt vời Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ Phong sắc hồng hào tâm thể khang an Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau. Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
Ngày Mồng Một tết chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và những ước nguyện cho ngày Tết Mồng 2–53
Ngày Mồng Một tết chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và những ước nguyện cho ngày đầu năm mới, hôm nay ngày Mồng hai, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và thảo kính đối với ông bà tổ tiên những người còn sống cũng như đã qua đời. Tuy nhiên với thời buổi người ta đặt lợi nhuận kinh tế lên hàng đầu, thì hình như bổn phận thảo hiếu đối với tổ tiên nơi nhiều người, nhiều gia đình cũng đang bị tính toán thiệt hơn. Nhiều câu chuyện xảy ra trong năm qua đã kiến cho cộng đồng bức xúc, vì có những đứa con giàu có nhưng đùn đẩy không ai muốn đón bố về chăm sóc, nên họ đã để bố của mình năm ở vỉa hè trong lúc sắp chết, có người con thì kiện mẹ ra tòa để đòi mấy trăm triệu tiền công chăm sóc trong mấy năm trời. Đọc và nghe những mẩu tin như thế thật đau lòng khi thấy tình nghĩa đạo lý trong gia đình đã xuống cấp trầm trọng.
Những ngày cuối năm gặp nhau câu hỏi đầu tiên có lẽ là câu: Năm nay có về quê ăn tết không ? Ai đã từng phải đón cái tết xa quê thì mới thấm thía thế nào là nỗi nhớ nhà trong những ngày này. Nỗi nhớ nhà của ngày tết nó thôi thúc mọi người bằng mọi giá phải trở về với cha mẹ với tổ tiên để thắp một nén nhang trước bàn thờ tổ tiên, để được ngả đầu vào bờ vai cha mẹ, để ăn một bữa cơm đầu năm, dù là bữa cơm thật đạm bạc, nhưng trong bữa cơm ấy nó chứa đựng bao nỗi vất vả của cha, bao sự chờ đợi lo lắng của mẹ, bao tình yêu thương để chia sẻ. Sau một năm bận rộn vất vả chỉ có những ngày này trở về với gia đình, người ta mới cảm thấy thư thái bình an, vì không có nơi nào an toàn cho bằng trái tim của người mẹ, và không nơi nào vững chắc cho bằng bờ vai của cha. Vì thế những người không còn cha không còn mẹ sẽ thấm thía đến tận cùng sự trống vắng thiếu thốn trong ngày tết này, sẽ cảm nhận sự đau đớn sự buồn bã, lạc lõng khi mình đi không ai nhớ, về không ai mong.
Nhớ ơn cha mẹ, ông bà trong dịp đầu năm là giúp chúng ta trở về cội nguồn, với dòng tộc, giúp mỗi người sống đúng với con người của mình và sống trọn bổn phận với cha mẹ tổ tiên. Biết ơn mẹ cha là nhớ đến công sinh thành dưỡng dục. Các ngài đã trải qua bao gian lao vất vả, mang nặng đẻ đau, bao tháng ngày bú mớm chăm sóc, kể làm sao hết những gọt mồ hôi của cha, những sự lo lắng của mẹ khi chúng ta đau ốm, bao nhiêu hy sinh vất vả nắng mưa sớm hôm để cho ta được bằng người. Kể làm sao hết sự hy sinh thầm lặng nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bạn bè, để cho con được đến trường thì mỗi ngày cha mẹ lại phải vất vả nhiều hơn.
Việc thảo hiếu với tổ tiên ông bà không chỉ là bổn phận của đạo hiếu, đạo làm người, của lòng biết ơn, mà nó còn là giới răn và đòi buộc của đạo Chúa. Tuy nhiên người ta sẽ không thể chu toàn được đạo Chúa nếu không chu toàn đạo làm con và đạo làm người. Sách Huấn Ca dạy chúng ta sống sao để làm rạng danh cha mẹ tổ tiên, và đừng bao giờ quên công đức của các ngài, và vì các ngài chính là gia tài quý giá nhất mà người ta không thể tìm kiếm hoặc mua ở đâu được, và chính chúng ta đang được hưởng phúc đức và dòng máu các ngài để lại cho chúng ta.
Ngày xưa các thày tiến sĩ Do Thái đã đưa ra một thứ luật, mà sau này Chúa Giêsu đã cực lực phản đối sự trốn tránh trách nhiệm của luật ấy. Luật dạy rằng: Ai nguyền rủa và đối xử tệ bạc với cha mẹ thì bị xử tử. Còn các ông lại nói: Ai nói với cha mẹ rằng: của phụng dưỡng cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Các ông dựa vào truyền thống của các ông để chối bỏ luật Thiên Chúa và Thiên Chúa không chấp nhận một của lễ được dâng lên do sự bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm như thế. Sách Khôn Ngoan còn nhấn mạnh: Của dâng cho cha sẽ không bị quên lãng, của biếu cho mẹ sẽ đền bù được tội lỗi. Như thế, có thể nói việc thảo hiếu với cha mẹ được Thiên Chúa đón nhận như việc thảo hiếu đối với Ngài vậy.
Thánh Phaolô còn khuyên rằng: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo, và ai tôn kính thảo hiếu cha mẹ thì được trường thọ trên mặt đất. Thế nhưng ngày nay đang diễn ra bao cảnh trái ngang: Con cái hất hủi coi thường, chửi mắng đánh đập cha mẹ là đấng sinh ra mình, đùn đẩy trách nhiệm báo dưỡng vì sợ phiền phức tốn kém, sợ bẩn nhà, nhiều người đối xử với cha mẹ như đầy tớ. Dịp tết này, hãy điều chỉnh lại cách sống thảo hiếu của mình với cha mẹ để còn làm gương cho con cái, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, chúng ta bắc cầu tới đâu, con cái sẽ đi tới đó. Hôm nay chúng ta đối xử với cha mẹ thế nào, thì ngày mai con cái chúng ta cũng sẽ đối xử với chúng ta y như vậy.
Trong Năm Gia đình Sống và Loan Báo Tin Mừng, trong sư mới mẻ của đất trời mùa xuân, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm mới lại tương quan trong gia đình. Sự đổi mới phải bắt đầu từ mỗi thành viên của gia đình, nhưng trước hết vẫn là cha mẹ. Người cha người mẹ hãy nỗ lực vươn lên, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho con cái, mọi thành viên trong gia đình cố gắng canh tân, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho cả gia đình.
Hãy bắt đầu từ nơi người cha, người chồng: các ông hãy là mùa xuân cho gia đình bằng một đời sống đạo hạnh, hãy vì vợ, vì tương lai gia đình mà đem niềm vui về cho gia đình, hãy dẹp bỏ những đám mây u ám trong gia đình là những cuộc nhậu nhẹt rượu chè, bài bạc, chửi bới đánh đập vợ con…, đừng biến gia đình thành địa ngục cho nhau. Đừng để con cái sợ hãi, mặc cảm với bạn bè về cha của mình, vì con cái không chỉ cần tình thương, mà nó còn cần danh dự phẩm giá của cha mẹ để có thể tự hào hãnh diện với bạn bè. Cuộc sống đạo đức thành thật của người cha sẽ là tia nắng ấm mùa xuân cho gia đình, hãy trở nên người chồng người cha có trách nhiệm với gia đình, nuôi sống gia đình bằng mồ hôi lương thiện, bằng nỗ lực của chính mình. Hãy là một người cha cương nghị, trở nên hàng rào bảo vệ gìn giữ con cái trên con đường lương thiện và là trụ cột vững chắc cho gia đình những khi sóng gió. Hãy biết chia sẻ trách nhiệm với vợ mình và hết lòng chăm lo cho cha mẹ khi các ngài luống tuổi.
Phúc đức tại mẫu, các bà vợ, người mẹ hãy có một cuộc sống đạo hạnh dịu hiền bao dung, hãy trở thành cành mai cành đào tô điểm cho gia đình thêm tươi thắm bằng sự dịu dàng khả ái, bằng đời sống nết na đạo đức. Người mẹ là người có trái tim nhạy bén, hãy thông cảm và chia sẻ những lo toan với chồng và hãy bao dung tận tụy với con cái. Người mẹ hãy trở nên mùa xuân cho gia đình bằng sự cần mẫn, hãy làm cho gia đình trở nên ấm cúng sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng, làm cho những bữa cơm thêm thân mật, cho gia đình đầy ắp tiếng cười. Hãy dùng trái tim nhạy cảm của một người vợ, người mẹ để làm cho gia đình thực sự trở thành một tổ ấm, là nơi cư ngụ tốt nhất cho chồng con sau những ngày mệt mỏi với công việc, thông cảm với chồng, chia sẻ với những khó khăn của con cái bằng sự nhẫn nại dịu hiền.
Còn những người làm con hãy trở thành mùa xuân cho gia đình, cho cha mẹ, khi biết tôn kính mến yêu vâng lời các ngài, đừng để cha mẹ phải đau khổ hơn nữa vì sự lêu lổng ngỗ nghịch của mình, đừng để cho tệ nạn ăn chơi, nghiện hút cá độ làm tan nát gia đình. Hãy làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ, đem lại sư hãnh diện cho cha mẹ, bằng việc chăm chỉ rèn luyện học hành, bằng tư cách đạo đức tốt. Hãy trở nên một thanh thiếu niên Công giáo tốt nơi gia đình, nơi công ty xí nghiệp trường học, hãy thảo hiếu và biết ơn cha mẹ và làm cho tình anh em trong gia đình thêm mặn mà hạnh phúc vui tươi hơn. Nếu cha mẹ già yếu, hãy kiên nhẫn yêu thương kính trọng và chăm sóc cho các ngài, vì chúng ta sẽ không thể tìm được cha mẹ nữa một khi các ngài đã không còn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình noi gương gia đình Thánh Gia xây dựng gia đình êm ấm thuận hòa con cái thảo hiếu, chúc cho mọi người biết chu toàn bổn phận của mình như lời Chúa dạy hôm nay, và hãy dành cho nhau tình yêu thương, hãy yêu thương nhau hết lòng và hãy làm tất cả những gì tốt đẹp cho nhau, để khi cha mẹ hay người thân có mất đi, chúng ta không phải hối tiếc vì chưa làm gì cho họ. Amen.
Mồng Hai Tết là ngày cầu cho tiền nhân, những người đã “ra đi” trước chúng ta, mang tính cách Tết Mồng 2–54
Mồng Hai Tết là ngày cầu cho tiền nhân, những người đã “ra đi” trước chúng ta, mang tính cách cầu hồn. Tuy nhiên, dù cầu nguyện cho những người đã khuất bóng, nhưng lại vẫn liên quan chuyện hiếu nghĩa – tức là liên quan những người thân còn sống với chúng ta dịp Xuân này. Hãy nghe Thánh Phaolô nói: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1 Tm 5:8). Cách so sánh thật “mạnh” khiến chúng ta phải “giật mình”.
Nói đến hiếu nghĩa, nhiều người ngoại giáo thường nghĩ rằng đạo Công giáo không cho thờ kính tổ tiên. Đúng và sai. Đúng vì “không ai được thờ kính (tôn thờ) bất kỳ thụ tạo nào” (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39), kể cả tổ tiên, nhưng họ nghĩ sai vì Công giáo không chỉ “cho phép” (được) mà còn “bắt buộc” (phải) kính nhớ tổ tiên, các thân nhân và người có công trạng. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Uống nước nhớ nguồn”. Như vậy, đừng vội “kết án” Công giáo khi chưa hiểu rõ!
Cổ thư nói về đạo hiếu rất hay, tất nhiên cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo: “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ thứ năng dưỡng”. Nghĩa là “Đạo hiếu có ba điều: Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, hai là không làm nhục cha mẹ, ba là có thể phụng dưỡng cha mẹ”.
Liên quan đạo hiếu vào dịp Tết, chúng ta nhớ tới chuyện An Tiêm: Vào đời Hùng Vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong Châu, có một cậu bé mồ côi thường theo người lớn đi săn thú và đánh cá. Năm tám tuổi, cậu được lên kinh đô gặp vua Hùng. Thấy cậu thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An Tiêm.
Vua Hùng cưới vợ cho An Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. Thấy thế, bọn người ghen tị tâu nịnh với vua vì cho rằng An Tiêm coi thường ơn vua. Vua Hùng giận lắm, không cần tìm hiểu thực hư ra sao, và đày hai vợ chồng ra hoang đảo.
Cây ngay không sợ chết đứng, vì “người công chính được Chúa độ trì” (Tv 37:17). Ở hoang đảo, có con chim trắng bay tới làm rơi hạt đen xuống bãi cát trắng. An Tiêm đem trồng thử hạt này. Chúng mọc thành những dây bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu xanh thẫm to bằng đầu người. An Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có nhiều nước. Loại trái “xanh vỏ, đỏ lòng” đó chính là trái dưa hấu.
Bài học về chữ hiếu: Dù bị Phụ vương đày ra hoang đảo, nhưng An Tiêm vẫn giữ trọn đạo hiếu với cha, không hề trách hờn ai. Về sau, vua Hùng hối hận và phục chức cho An Tiêm.
Và chắc hẳn nhiều người (tuổi trung niên trở lên) còn nhớ sách “Nhị Thập Tứ Hiếu”, tác phẩm văn học của tác giả Quách Cư Nghiệp, kể lại gương hiếu thảo của 24 người con đời nhà Nguyên (Trung Hoa). Chính tác giả cũng là người con chí hiếu.
Sách Huấn Ca dạy: “Hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Đồng thời xác nhận: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44:10-14). Do đó, nhân dân sẽ “kể lại đức khôn ngoan của họ và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen họ” (Hc 44:15).
Thánh Vịnh ca tụng những thành quả của gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tuy nhiên, phúc lộc đó không phải ai cũng có được: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Đúng nhu Chúa Giêsu đã nói chắc: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Phaolô phân tích lý do mà con cái phải tuân giữ đạo hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Tuy nhiên, không phải là làm lớn thì có thể làm láo, là cha mẹ thì có thể độc đoán, muốn làm gì thì làm, mà cũng phải tuân giữ nghiêm luật và thể hiện tình yêu thương đúng nghĩa: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4).
Cuộc sống đời thường và tâm linh đều có những điều phức tạp, cần phải biết kết hợp và cân bằng. Thánh Phaolô nói: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng, tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói” (Ep 6:18-20).
Về đạo hiếu, sách Huấn Ca nhắc nhở những người con: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7:27-28). Và Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hiến chế Gaudium et Spes – Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay, số 48).
Hãy ghi nhớ và noi theo tấm gương tột đỉnh: Dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng khi mặc xác phàm và làm con trong một gia đình, Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt 30 năm (x. Lc 2:51-52).
Không chỉ vậy, Chúa Giêsu còn có phong cách hoàn toàn không giống ai khác. (Mt 15:1-6
Một hôm, có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15:2). Đúng là lũ người xấu bụng, chuyên thọc gậy bánh xe, thích phá rối, ưa gài bẫy, chuyên gia sử dụng loại phần mềm về “dấu trừ” và “dấu chia”, chứ không rành (hoặc không thích) sử dụng “dấu cộng” và “dấu nhân”.
Chọc vào ổ kiến lửa thì sẽ “đỏ người”, chọc tổ ong vò vẽ thì “sáng mắt” ngay thôi. Họ vừa hỏi xong, Chúa Giêsu liền trả lời một hơi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15:4-6).
Tất nhiên là họ chỉ có nước ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Ai bảo ngu dốt mà lại chảnh, dám vênh váo “ta đây”, muốn chứng tỏ mình là “ngon” lắm! Thùng càng rỗng càng kêu to, kêu càng to càng mau… xẹp. Phải thế mới đáng đời bè lũ Pha-ri-sêu hèn nhát!
Lạy Thiên Chúa, chúng con chúc tụng Ngài là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn. Chúng con xin tán dương Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết một lòng hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài.
Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn, để mai đây chúng con cũng được hợp đoàn và chung lời với các ngài mà ca tụng Thiên Chúa muôn đời. Nguyện xin Chúa thương cho mọi người đã hoàn tất đường lữ hành trần gian được niềm vui Xuân Trường Sinh nơi Thiên Quốc.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Sách Xuất Hành cho biết mệnh lệnh của Thiên Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống Tết Mồng 2–55
Sách Xuất Hành cho biết mệnh lệnh của Thiên Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20:12). Tương tự, sách Đệ Nhị Luật cho biết: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi” (Đnl 5:16).
Chúa Giêsu đã nêu gương về đạo Hiếu để chúng ta noi theo. Sau ba ngày lo việc của Chúa Cha, Cậu Hai Giêsu ở lại Đền Thờ khiến Cô Maria và Chú Giuse lo sốt vó, tìm kiếm xuôi ngược suốt ba ngày. Khi gặp cha mẹ, Cậu Hai Giêsu mau mắn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51). Ba động từ (đi xuống, trở về, vâng phục) chứng tỏ Đức Giêsu Kitô là Thánh Tử hiếu thảo với Cha Mẹ của Ngài.
Người ta có thể chọn nhiều thứ, kể cả chọn vợ/chồng, nhưng không ai có thể chọn cha mẹ. Vì thế, chúng ta phải có bổn phận hiếu thảo đối với song thân phụ mẫu – dĩ nhiên cũng phải hiếu thảo với ông bà, tiền nhân. Ca dao Việt Nam thật thâm thúy, và cũng là bài học đầu đời cho mọi người từ khi bắt đầu học làm người:
Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ, kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Chắc hẳn không ai lại không thuộc lòng câu ca dao này. Câu ca dao bình dị mà thâm sâu. Ai cũng có một gia đình, dù là “ông kia, bà nọ” thì cũng vẫn xuất thân từ một gia đình. Công cha, nghĩa mẹ cao cả biết bao! Thật kỳ diệu, vì không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi gia đình là Tổ Ấm hoặc Mái Ấm. Dấu hiệu đầu tiên của hạnh phúc gia đình là tình yêu gia đình, chính “ngọn lửa” tình yêu làm cho gia đình ấm áp để trở nên Tổ Ấm thực sự.
Dù là Thiên Chúa, là Tạo Hóa, nhưng khi Đức Giêsu giáng sinh làm người, Ngài cũng sinh trưởng trong một gia đình. Điều đó chứng tỏ gia đình rất quan trọng. Hai tiếng “gia đình” đơn giản lắm, nhưng cũng nhiêu khê lắm. Tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ Louisa May Alcott (1832-1888, Hoa Kỳ) nhận xét: “Khả năng tìm được cái đẹp trong những điều nhỏ bé nhất khiến gia đình trở nên hạnh phúc và cuộc đời trở nên đáng yêu”. Sử gia Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) đề nghị: “Lòng nhân đức bắt đầu từ gia đình nhưng không nên kết thúc ở đó”. Bộ ba Cha-Mẹ-Con là chiếc-kiềng-ba-chân-yêu-thương để “chống đỡ” gia đình trong mọi hoàn cảnh: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng” (Ca dao).
Ngày lễ, tết, và những dịp đặc biệt, nhớ tới công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và tiền nhân là điều cần thiết. Trên đời này, không có công ơn nào to lớn bằng công ơn cha mẹ, đặc biệt là người mẹ. Chữ Hiếu (mệnh danh là Đạo Hiếu) không thể nào bù đắp chín Đức Cù Lao (*). Cứ tính đơn giản theo nghĩa đen thì cũng thấy không cân xứng: Một chữ không thể so với chín chữ. Con cái chỉ có một chữ mà vẫn không giữ trọn!
Kinh Thi có đề cập đức cù lao của cha mẹ: “Cù lao vu dã” (nhọc nhằn vất vả nơi đồng nội); và “bi ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao” (thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta).
Dịp đầu Xuân, thời gian đẹp nhất trong năm – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, sách Huấn Ca mời gọi:“Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Tại sao? Lý do minh nhiên: “Họ là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44:10-15).
Ai cũng có cha mẹ, dù cha mẹ có thế nào thì cũng vẫn là người sinh thành dưỡng dục mình. Ai sống có hiếu thì được Chúa chúc lành: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128:1-2).
Con cái có hiếu thì cha mẹ an tâm, gia đình hạnh phúc: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Chắc hẳn ai cũng mong ước như vậy, vấn đề là phải thể hiện cụ thể, đừng nói suông. Tác giả Thánh Vịnh cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6). Nguyện chúc mọi gia đình vui hưởng thái bình như Thánh Gia – hôm nay và mãi mãi, đặc biệt trong những ngày Xuân đoàn tụ này.
Thánh Phaolô nhắc nhở những người con về Đạo Hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo.2 Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Và nhắc nhở những người làm cha mẹ: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4). Bổn phận và trách nhiệm với nhau là điều cần thiết: Con cái đối với cha mẹ, và cha mẹ đối với con cái.
Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì là hành động. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18-19). Cầu nguyện là việc làm phải liên tục, bất kể thời gian hoặc địa điểm. Thật vậy, cầu nguyện có thể thực hiện ngay tại bàn tiệc, khi đang nói chuyện với người khác, khi chạy xe,… thậm chí ngay khi chúng ta ở giữa một đám đông ồn ào náo nhiệt. Đừng chỉ cầu nguyện khi vào nhà thờ hoặc ở nơi tĩnh lặng, vì cầu nguyện rất dễ: Hướng tâm hồn lên với Chúa, gặp Chúa, có khi không cần nói gì cả. Cầu nguyện liên lỉ là “thói quen” của người sống tâm linh theo tinh thần của Đức Kitô.
Người cha, người mẹ và người con đều sống tâm linh như vậy thì chắc chắn gia đình hạnh phúc, là Tổ Ấm thực sự, ấm trong tình yêu của Thiên Chúa, nóng hổi ngọn lửa thương xót của Thiên Chúa:“Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc” (Tv 112:1-2). Niềm hạnh phúc thánh đức thật tuyệt vời!
Nước có quốc pháp, nhà có gia phong. Truyền thống là điều nên duy trì – nếu đó là truyền thống tốt đẹp và hợp lòng người. Đừng bao giờ câu nệ!
Trình thuật Mt 15:1-6 cho biết: Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và hỏi Ngài: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”. Ngài trả lời bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”. Ngài biết chẳng ai trả lời được nên Ngài lý luận:“Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”. Họ chỉ có nước “ngậm tăm”, im như thóc thối, câm như hến.
Có khi chúng ta cũng như bọn Pharisêu đấy, đầu toàn là “đậu hũ” mà bày đặt lý luận để bắt bẻ người khác. Dốt mà chảnh là thế đấy! Không chỉ vậy, chúng ta lấy lý do “vì, bởi, tại,…” mà biện hộ cho mình. Thật nguy hiểm! Thiết tưởng đôi khi chúng ta phải tự xét lại về các động thái của mình, đừng tưởng những gì chúng ta đưa ra đều là vì Chúa, có thể chính chúng ta “chơi ép” Chúa, “điều khiển” Chúa, rồi lại tự tôn bằng các biện hộ đó là Ý Chúa. Lạy Chúa tôi!
Ngày Xuân, dịp Tết, nếu còn cha mẹ, thật hạnh phúc cho bạn, nhưng hãy “động não” một chút: Khi bạn đang uống ly nước giải khát, hãy nghĩ xem cha mẹ thường uống gì. Khi bạn mặc những bộ quần áo đắt tiền hàng hiệu, xin hãy nghĩ xem cha mẹ bạn thường mặc ra sao. Khi bạn thoải mái chi tiêu, hãy nghĩ đến những thứ cha mẹ bạn thường dùng thế nào. Cha mẹ đã vì chúng ta mà bỏ bao công sức, đổ bao hạt mồ hôi, đều chỉ vì mong cho bạn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những thứ bạn đang dùng đều là do công sức cha mẹ tạo ra. Xin hãy yêu quý cha mẹ và cố gắng giữ trọn chữ hiếu cho xứng đáng là người con. Hãy hành động ngay khi cha mẹ còn sống, cụ thể là ngay trong dịp Tết này, biết đâu bạn không còn kịp nữa đâu!
Tết đến bình an nhờ Thiên Chúa Xuân về hạnh phúc với Thánh Gia
Gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo hội, là “chiếc nôi” của Lòng Chúa Thương Xót. Gia đình có hạnh phúc là nhờ Thánh Ân của Thiên Chúa.
Thiên Chúa phù trì liên vạn đại Thánh Gia bảo giám mãi thiên thu
Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con có tổ tiên, ông bà và cha mẹ, xin Ngài thương chúc lành cho họ, đặc biệt trong dịp Tết này; xin giúp chúng con biết giữ trọn Đạo Hiếu với Chúa và với ông bà, cha mẹ của chúng con. Xin tình yêu Thánh Gia luôn tràn đầy trong mọi gia đình, hôm nay và mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen. ------------- (*) Cù Lao là siêng năng, cần mẫn, nhọc nhằn. Chín đức cù lao: [1] Sinh: Cha mẹ đẻ ra, [2] Cúc: Nâng đỡ, [3] Phủ: Vỗ về, vuốt ve, [4] Súc: Cho ăn, bú mớm; [5] Trưởng: Nuôi dưỡng thể xác; [6] Dục: Giáo dưỡng tinh thần; [7] Cố: Trông nom, nhìn ngắm; [8] Phục: Quấn quít, săn sóc không ngơi; [9] Phúc: Bồng ẵm, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, bảo vệ con khỏi bị ăn hiếp.
Chúa phán: "Thiên Chúa đã dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị Tết Mồng 2–56
Chúa phán: "Thiên Chúa đã dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa" Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa" (Mt 15,4-6).
2. CÂU CHUYỆN:
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già tay bị run, thường hay làm bể cái chén kiểu đắt tiền khi ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt mang về một chiếc gáo dừa rồi gọt dũa làm thành một cái chén gáo dừa cho bố anh ta dùng. Đứa con trai thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh ta trả lời con rằng: Để ông nội con dùng khỏi bị bể nếu ăn cơm có bị run tay làm rơi xuống đất.
Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: "Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này bố già dùng nếu bố có bị run tay giống như ông nội bây giờ!".
3. THẢO LUẬN:
1) Về lối sống hiếu thảo với ông bà tổ tiên, bạn có đồng ý với câu người xưa nói: "Sóng trước vố đâu, sóng sau vỗ đó" hay không? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?
4. SUY NIỆM:
1) Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình:
Hôm nay, ngày Mồng Hai Tết là dịp để các tín hữu chúng ta thực hành bổn phận hiếu thảo với ông bà tổ tiên, cụ thể là các bậc sinh thành là cha mẹ. Sự hiếu thảo được thể hiện qua những lời nói, thái độ cử chỉ và hành động với cha mẹ, cụ thể là món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ đượm tình thảo hiếu với các ngài.
Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được chờ đón những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm bên cha mẹ ông bà và anh chị em con cháu.
2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:
Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải được thể hiện trong suốt những ngày tháng dài sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.
Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta lá chắn che chở suốt đời mình.
Nếu cha mẹ già yếu, con cháu phải tránh coi thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, bú mớm dọn dẹp vệ sinh khi ta còn thơ bé.
Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.
3) Làm gì trong những ngày này?:
Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì:
"Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
"Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó". Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.
Dịp Xuân Mới, bàn sẽ biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?
5. LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa Cha là Chúa tể của Mùa Xuân đất trời. Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay. Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.- Amen.
Bài đọc 1: Hc 44,1.10-15; Bài đọc 2: Ep 6, 1-4.18.23; TM: Mt 15, 1-6
Kính thưa cộng đoàn rất thân mến!
Mùng hai tết cổ truyền hàng năm là ngày được chọn để long trọng kính nhớ tổ tiên-ông bà cha mẹ, để Tết Mồng 2–57
Mùng hai tết cổ truyền hàng năm là ngày được chọn để long trọng kính nhớ tổ tiên-ông bà cha mẹ, để vinh danh các bậc tiền nhân. Việc làm tốt đẹp này không nhằm để đính chính những quan niệm, những suy nghĩ lệch lạc của một số người có cái nhìn thành kiến và thiển cận về đạo Công Giáo. Thực ra, truyền thống tôn kính ông bà tổ tiên là một truyền thống rất lâu đời của người Việt Nam, được phản ánh rất nhiều qua kho tàng văn học dân gian cũng như qua nhiều nghi lễ mang tính cổ truyền. Nó đã trở nên gần gũi như nhịp sống và hơi thở, in sâu trong tâm khảm của từng người trong chúng ta. Vì vậy, việc kính nhớ ông bà tổ tiên của người Công Giáo Việt Nam là vô cùng chính đáng và phải đạo.
Nếu đọc lại Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy rằng truyền thống tôn kính ông bà tổ tiên cũng vô cùng phong phú và bàng bạc trong Cựu Ước lẫn Tân Ước. Các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay là một minh chứng điển hình.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Huấn Ca đã không tiếc lời ca tụng các bậc cha ông: “Các ngài là những người nhân hậu, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng…danh thơm các ngài mãi lưu truyền hậu thế. Muôn dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài”.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã khuyên nhủ các tín hữu Êphêsô như sau: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo; hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa, để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này”.
Trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã tái xác nhận và đúc kết ý tưởng trên, qua cuộc tranh luận với nhóm Pharisêu.
Trong cuộc tranh luận này, có hai quan niệm tương khắc với nhau, làm trồi hiện lên hai lập trường đối chọi:
- Nhóm Pharisêu, gồm những con người bảo thủ, hình thức, vị luật và giữ luật một cách máy móc. Họ dựa vào truyền thống của cha ông để bắt bẻ Chúa Giêsu. Trong khi đó, có những truyền thống rất cổ hủ, không còn phù hợp và chẳng đem lại lợi ích gì cho con người mà chỉ tạo nên sự gò bó vô ích trong việc sống đạo, cản trở thực thi bác ái, ví dụ như cấm làm việc xác trong ngày hưu lễ, phải rửa tay trước bữa ăn... Vì vậy, khi nhìn các môn đệ không rửa tay trước khi dùng bữa, theo tục lệ của người Do thái, nhóm Pharisêu đã kết án các ông là “vi phạm truyền thống của tiền nhân”.
- Chúa Giêsu không có ý hủy bỏ truyền thống. Ngài chỉ muốn gọt dũa và kiện toàn truyền thống, làm cho nó trở nên thiết thực, hữu ích cho con người. Ngài không những không phủ nhận đạo hiếu của người Do thái mà còn tái khẳng định lại giới răn thảo hiếu ông bà cha mẹ, khi nói với họ rằng: “Quả thế, Thiên Chúa đã dạy: Ngươi hãy tôn kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử”. Ngài đã mạnh dạn khai triển điều răn thứ tư trong 10 điều răn mà Yavê Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái, qua trung gian của Môisen trên núi Sinai: Thứ Bốn thảo kính cha mẹ. Hơn thế nữa, khi nói rằng “Thiên Chúa đã dạy”, Ngài cũng có ý dạy cho chúng ta biết rằng, chính Thiên Chúa là Cha Mẹ, là Tổ Tiên trên hết các bậc tổ tiên.
Kính thưa cộng đoàn!
Là người Công Giáo, Chúa dạy chúng ta phải hết lòng tôn kính tổ tiên- ông bà cha mẹ, như là của lễ rất đẹp dâng lên Thiên Chúa, để được Chúa thứ tha tội lỗi và chúc lành cho cuộc sống của chúng ta. Đạo lý này không điều gì có thể phá hủy được, vì đó không phải là luật của con người đặt ra, nhưng là điều luật do chính Thiên Chúa đã thiết lập trong Cựu Ước, và trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã tái khẳng định lại.
Là người Việt Nam, việc tôn kính tổ tiên ông bà cũng đồng nghĩa với việc gìn giữ, phát huy di sản tinh thần quí báu mà các bậc tiền nhân đã dày công gầy dựng và di chúc lại cho con cháu. Hơn nữa, nó cũng góp phần hết sức quan trọng trong việc bảo vệ luân thường đạo lý, xây dựng nền tảng vững chắc cho mọi gia đình Việt Nam hôm nay, vốn đang bị lung lay và đang ghánh chịu nhiều áp lực bởi những trào lưu thiếu lành mạnh, của sự giao thoa bởi nhiều nền văn hóa khác nhau đang lan tràn vào đất nước chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xuống trần gian, đã nhập thế vào xã hội Do thái, trong một gia đình có cha có mẹ. Chúa đã chu toàn tốt đẹp bổn phận là con của Thiên Chúa Cha, con của Mẹ Maria và thánh Giuse. Xin giúp chúng con luôn ý thức làm tròn bổn phận thờ phượng Thiên Chúa và bổn phận tôn kính các bậc tổ tiên-ông bà cha mẹ của chúng con. Amen.
Qua năm mới nầy, xin Cha khai tâm mở trí để chúng con hiểu biết Cha hơn, yêu mến Cha hơn. Tết Mồng 2–58
Qua năm mới nầy, xin Cha khai tâm mở trí để chúng con hiểu biết Cha hơn, yêu mến Cha hơn.
Bài Tin Mừng thánh Mát-thêu được trích đọc trong Thánh Lễ Mồng Một tết nầy gửi đến chúng ta hai sứ điệp rất quan trọng.
Thứ nhất: Thiên Chúa là Cha rất tốt lành của chúng ta,
Thứ hai: Ngài hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Đây là hai sứ điệp liên quan đến hạnh phúc mọi người, nhưng tiếc thay, chỉ có rất ít người tin tưởng và đón nhận.
Trước hết, chúng ta tìm hiểu sứ điệp thứ nhất: Thiên Chúa là Cha thật của chúng ta. Nhiều người không chấp nhận Thiên Chúa là Cha sinh ra mình vì họ nghĩ rằng cha mẹ trong gia đình mới thực sự sinh ra họ.
Tuy nhiên, tự sức riêng, người cha người mẹ không thể sinh được một con ruồi, một con muỗi thì làm gì sinh được một đứa con là một kiệt tác tuyệt vời gấp trăm lần ruồi muỗi.
Ngay cả khi người mẹ bị hư một con mắt, người mẹ không thể “đẻ” ra một con mắt khác để thay cho con mắt bị hư. Khi người mẹ bị hỏng một móng tay, người mẹ cũng không thể “sinh” ra một móng tay khác để thay thế cho móng tay hư.
Một con mắt, một ngón tay mà người mẹ không sinh được, không tạo ra được, thì làm sao mà bà có thể sinh nguyên cả một con người!
Người mẹ sinh được một đứa con chủ yếu là do Chúa. Như người thợ làm bánh mì trộn men vào bột, nhồi bột cho dậy men, nắn nên từng chiếc bánh, đút bánh vào lò và cho bánh ra lò như thế nào thì Thiên Chúa cũng nhào nặn nên từng người chúng ta trong lòng mẹ rồi sau 9 tháng 10 ngày cho chúng ta ra đời như thế.
Chiếc bánh từ lò nướng xuất ra nhưng không phải lò nướng tạo nên chiếc bánh mà là do người thợ bánh. Cũng thế, đứa con từ lòng mẹ xuất ra nhưng không phải do người mẹ tự sức mình sinh được đứa con mà là do Chúa tác thành.
Không có Chúa tác tạo thì không có người cha người mẹ nào có thể sinh con được. Chúa sinh chúng ta ra đời nên Chúa thực sự là Cha của chúng ta.
Sứ điệp thứ hai: Thiên Chúa yêu thương chăm lo cho chúng ta.
Không chỉ sinh ra chúng ta mà thôi, Thiên Chúa còn nuôi chúng ta nữa. Có người bảo: Tôi tự kiếm ăn hằng ngày chứ Chúa có cho tôi bữa nào đâu ?
Ta cần biết rằng dù không dọn cho ta từng bữa cơm, nhưng Chúa vẫn nuôi chúng ta no đủ hằng ngày.
Một người cha khôn ngoan sẽ không cứ đến bữa thì trao cá cho con ăn, bởi vì nếu ngày nào ông cũng làm như thế thì đứa con sẽ cậy dựa vào cha mẹ và sẽ không chịu học tập, lao động, sản xuất nữa. Tội gì phải học hành, phải lao động đang khi ngày nào cũng có sẵn những bữa ăn. Thế là đứa con sẽ trở thành lười biếng, hư hỏng.
Người cha khôn ngoan thì thay vì trao cá cho con ăn từng bữa, ông sẽ trao cho nó một chiếc cần câu. Nhờ sử dụng cần câu nầy, người con có thể kiếm được rất nhiều cá mà không phải ngửa tay xin.
Thiên Chúa là Người Cha khôn ngoan, nên thay vì trao cá cho ta ăn từng bữa, Chúa cho ta chiếc cần câu để kiếm được nhiều lương thực cho mình.
Cần câu ở đây có nghĩa là gì ? Đó là trí tuệ, là tay chân là sức vóc Chúa ban cho chúng ta.
Nhờ trí tuệ Chúa ban, nhờ tay chân và sức lực Chúa ban, người ta có thể tạo nên nhiều lương thực, nhiều của cải, nhiều tiện nghi để nuôi mình và nuôi người khác.
Nhìn xem dân Singapore. Đất nước họ rất nhỏ bé, tài nguyên thì khan hiếm, không có ruộng vườn, không có đất màu, nước cũng không đủ uống, phải nhập khẩu nước uống từ các nước láng giềng. Thế mà nhờ biết sử dụng cách khôn khéo đầu óc và đôi tay Chúa ban, (tức là chiếc cần câu Chúa ban) họ đã tạo ra rất nhiều của cải, trở thành nước có thu nhập đầu người cao nhất thế giới.
Hơn nữa, khi chúng ta đáng phải chết vì tội lỗi của mình, Thiên Chúa còn cho Con một Ngài xuống thế nộp mình đền tội thay cho chúng ta.
Chúa sinh ra chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta, yêu thương bao bọc chúng ta, chết thay cho chúng ta, lẽ nào chúng ta không nhận Ngài là Cha chúng ta, lẽ nào chúng ta không yêu mến tôn thờ Ngài.
Để giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Cha và sống thân mật với Cha trên trời, Chúa Giê-su dạy chúng ta gọi Thiên Chúa bằng tiếng Áp-ba. Áp-ba là tiếng của trẻ thơ Do-thái âu yếm gọi cha của mình, dịch ra tiếng Việt là Bố ơi, Ba ơi !
Khi dạy ta gọi Thiên Chúa bằng Ba, Bố… Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn nhận Ngài là Người Cha yêu quý trong gia đình và Ngài nhìn nhận chúng ta là đứa con bé bỏng rất đáng yêu trong nhà.
Thế mà dường như lâu nay chúng ta không nhìn nhận Chúa là Cha thật của mình. Chúng ta xem người cha, người mẹ trong gia đình mới thật là mẹ, là cha mẹ; còn Thiên Chúa Cha thì chúng ta không xác tín là Cha, là Mẹ thật của mình, nên chúng ta sống xa cách với Ngài, thậm chí còn gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc đời ta.
Đừng bội bạc với Cha trên trời
Đêm nọ, Thiên Chúa hiện ra (dĩ nhiên là trong giấc mơ) với một người bỏ Chúa lâu năm và Ngài trách anh ta cách nhẹ nhàng:
– Ta là Cha của con, đã sinh ra con, sao con không tưởng gì đến Ta?
Người đó cáu kỉnh đáp:
– Ông sinh ra tôi mặc ông, tôi không cần biết đến ông!
Chúa tiếp:
– Ta ban cho con từng hơi thở, nếu không có không khí Ta ban, làm sao con sống được?
Người đó vẫn bất cần:
– Mặc ông, tôi không cần biết đến ông!
Chúa vẫn kiên nhẫn dìu dắt:
– Ta ban cho con từng hớp nước, không có nước ta ban, làm sao con sống nổi?
Người đó ngoảnh mặt không nhìn vào Chúa và đáp cộc lốc:
– Mặc ông, tôi không cần đếm xỉa đến ông.
Chúa vẫn nhẫn nhục:
– Ta cho con có trí tuệ, có sức khoẻ… như chiếc cần câu để con kiếm sống hằng ngày…
Người đó vội ngắt lời Chúa:
– Mặc ông, tôi bất cần ông !
Chúa tỏ ra vẻ buồn phiền và tiếp:
– Ta cho Con Một của Ta xuống thế chịu khổ nạn, chịu chết thay cho con, đền tội cho con, cứu con khỏi chết muôn đời, chẳng lẽ con không biết điều đó sao ?
Người đó đáp:
– Mặc ông, tôi không thương mến gì ông. Tôi gạt bỏ ông ra khỏi đời tôi. Tôi không thèm đếm xỉa gì đến ông!
Cuối cùng, Chúa hỏi:
– Vậy thì đến khi con từ giã cõi đời nầy, con có cần Ta đón con vào thiên đàng không ?
Bấy giờ người đó đáp:
– Ồ, chuyện đó tính sau. Bao giờ tôi sắp chết thì tôi sẽ quay lại với ông !
Câu chuyện trên đây minh hoạ và phản ánh phần nào tính bội bạc đáng trách của con người đối với Thiên Chúa là Cha đã yêu thương và tạo dựng nên mình.
Có người cả năm trời không đến nhà thờ được một lần để gặp gỡ thân mật Cha trên trời của mình, không mấy khi nhớ đến Cha của mình qua những lời kinh nguyện.
Lạy Cha nhân từ,
Rất nhiều lần Chúa Giê-su khẳng định rằng Cha là Cha nhân lành, là Bố rất thân thương của chúng con, thế mà chúng con vẫn chưa nhìn nhận sự thật nầy nên chúng con sống rất thờ ơ lạnh nhạt với Cha!
Qua năm mới nầy, xin Cha khai tâm mở trí để chúng con hiểu biết Cha hơn, yêu mến Cha hơn, nhờ đó, không còn bội bạc với Cha nữa, nhưng luôn sống đẹp lòng Cha và giữ tròn đạo hiếu với Cha.
Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Chuyện xảy Tết Mồng 2–59
Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương.
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “Ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba”. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: “Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao?”. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện”.
Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.
Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: “Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền?”.
Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…
Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:
Đói lòng ăn hột chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.
Con đi khắp vạn nẻo đường Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền Người con yêu quý nhất trên đời Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy Núi rất cao và biển rất tuyệt vời Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ Phong sắc hồng hào tâm thể khang an Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
Xin Chúa làm chủ thời gian ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
Hôm nay, Mồng Hai Tết Quý Tỵ, chúng ta họp nhau đây để ca tụng Chúa là Chúa mùa xuân và để Tết Mồng 2–60
Hôm nay, Mồng Hai Tết Quý Tỵ, chúng ta họp nhau đây để ca tụng Chúa là Chúa mùa xuân và để tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với công đức sinh thành của các ngài.
Đạo Hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân là thời điểm thuận tiện để con cháu bầy tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể xác lẫn tâm linh.
Người Kitô hữu chúng ta ý thức được đạo Hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn vẹn chữ Hiếu cũng đồng thời chúng ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong tinh thần yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
I. ĐẠO HIẾU TRONG DÂN GIAN
Truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ Hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ thời xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu
Hơn nữa, việc thảo kính cha mẹ, xét về mặt tự nhiên, cũng là hợp với lẽ công bằng, bởi vì cha mẹ là người đã có công sinh thành, dưỡng dục giúp ta khôn lớn thành người.
Vậy Đạo Hiếu là gì ? Phân tích từ chữ Hán chúng ta thấy chữ “Hiếu” là chữ viết tắt của chữ “Lão” ở trên (lược bớt phần dưới) và chữ “Tử” ở dưới. “Hiếu” tức là mối quan hệ cha trên, con dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
“Hiếu” là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục ngữ đã nói nhiều, ngay trong bài học vỡ lòng, trong “Luân lý giáo khoa thư” các em đã hiểu:
Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha Cho trọn chữ Hiếu mới là đạo con.
Thế đó, thật nhẹ nhàng, nhưng từng lời ru của người mẹ Việt nam đung đưa bên chiếc nôi của đứa con nhỏ, ngày qua ngày đã dần đi sâu vào trái tim, làm nên dòng máu thắm đỏ của những người con, tạo nên trong tâm thức của từng người dân Việt một tâm tình thảo hiếu, biết ơn sâu sắc đối với các bậc sinh thành.
Các cụ ngày xưa cho là HIẾU đứng đầu trăm nết:
“Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, Thời suy ra trăm nết đều nên”.
Do đó, đối với cái nhìn tự nhiên của mọi người, bất hiếu là một trong những tội lớn nhất và cũng bị nhiều người kết án nhiều nhất. Bộ luật Hồng Đức ban hành thời Lê Thánh Tông cũng ghép tội bất hiếu vào trọng tội. Không chỉ con trai, con dâu không thờ cha mẹ chồng cũng bị coi là phạm tội “thất xuất” (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, tr 326).
Chính vì thế, vào những ngày Tết, giỗ chạp… trong các gia đình Việt nam, con cái dù có đi làm ăn đâu xa, thì ba ngày Tết cũng cố gắng về nhà để tết cha, tết mẹ. Nếu cha mẹ không còn, thì cũng về để thắp nén hương cầu nguyện cho ông bà cha mẹ. Cùng chung cảm thức đó của dân tộc, Giáo hội Việt nam đã dành ngày mồng Hai Tết này để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Rồi từ đạo hiếu đối với cha mẹ, Giáo hội muốn từng người chúng ta tỏ lòng hiếu kính với người Cha trên trời, Đấng sáng tạo và làm chủ tể mọi loài.
Tình yêu của cha mẹ đối với con cái là một tình yêu rất tự nhiên và cao quí. Trong các tình yêu, có lẽ chỉ có tình cha, tình mẹ là bền bỉ, là kiên vững nhất. Tình cha mẹ dành cho con cái mãi mãi như sông ngòi biển khơi. Nhưng:
Biển Đông còn lúc đầy vơi, Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng.
Cha mẹ đã đánh đổi cả cuộc đời mình, chỉ mong cho con cái thành người. Niềm vui, niềm hạnh phúc và tự hào của cha mẹ là nhìn thấy sự thành công của con cái. Cho dù có phải vì con mà vất vả lao đao, cha mẹ vẫn không sờn lòng. Cho dù có vì con cái mà cha mẹ phải hao gầy, cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con cái lớn khôn mỗi ngày. Chính nhờ ơn cha nghĩa mẹ cao dầy như thế, thì người con khi đã lớn khôn, thành tài, cần phải dặn lòng:
Trải bao gian khổ không sờn, Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền
II. ĐẠO HIẾU THEO THÁNH KINH VÀ GIÁO HỘI
1. Đạo hiếu theo Thánh Kinh
Đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại Bản Thập Giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi Kitô hữu.
Đạo hiếu đối với ông bà cha mẹ được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành: “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7,27-28).
Biểu lộ của lòng hiếu thảo qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự tuân phục, khiêm kính: “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn dụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6,20-22) và “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách (Cn 13,1).
Tân ước đề cao đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2,51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa: “Quả thế, Thiên Chúa dạy:
Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.
Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo:”Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3).
Thư gửi cho Timôthêô cũng xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5,8).
2. Đạo Hiếu theo giáo huấn của Giáo hội
Công đồng Vatican II dạy:”Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV só 48).
Giáo lý Hội thánh Công giáp nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).
III. ĐẠO HIẾU VỚI NGƯỜI KITÔ HỮU
Qua tinh thần hiếu thảo mà con cái phải có đối với cha mẹ theo tình cảm tự nhiên, chúng ta còn có luật Chúa đòi buộc con cái phải thảo kính cha mẹ, đồng thời với những lời giáo huấn của Giáo hội, hôm nay, Mồng Hai Tết Quý Tỵ, chúng ta hãy củng cố và đổi mới lòng hiếu thảo của chúng ta đối với ông bà cha mẹ. Chữ Hiếu được thể hiện qua những món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ được nồng ấp vào đó cả một tình con hiếu thảo .
Đây cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ bên gia đình. Ai cũng mong đón nhận những giờ phút linh thiêng nhất của ngày đầu năm bên cha mẹ ông bà.
Thế nhưng, chữ hiếu không thể dừng lại nơi những ngày Tết mới bộc lộ ra mà còn phải dàn trải trong suốt tháng năm sống bên cha mẹ. Hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Nếu những ai có cha mẹ còn trẻ hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta có một thành trì vững chắc để tựa nương. Nếu những ai cha mẹ đã già nua thì đừng xem thường và coi họ như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời khiêm tốn, lịch sự, đừng cáu gắt với tuổi già. Hãy ôn tồn với các ngài vì chính họ đã từng kiên nhẫn với tuổi thơ chúng ta. Chính các ngài đã chẳng quản mưa nắng, thức khuya dậy sớm vì tuổi thơ chúng ta. Xin đừng ai phụ nghĩa mẹ cha. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì:
Nếu mình hiếu với mẹ cha Chắc con cũng hiếu với ta khác gì. Nếu mình ăn ở vô nghì Đừng mong con hiếu làm gì uổng công.
Truyện: Quà tặng của cha
Có một chằng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó anh đã nói với cha về ước nguyện có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghệp.
Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.
Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.
Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…
Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.
Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…
Trong cuộc sống của chúng ta không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.
Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi…
Qua những ý tưởng trình bầy trên đây chúng ta thấy, về mặt tự nhiên, việc hiếu thảo là bổn phận tự nhiên và là dấu chỉ của một người trưởng thành. Đồng thời, khi sống hiếu thảo cũng là lúc chúng ta chu toàn giới luật Thiên Chúa và nhờ đó được Ngài chúc phúc.
Tuy nhiên, trong niềm tin, chúng ta biết rằng tất cả chúng ta: cha mẹ và con cái, đều nhận được sự sống nơi Thiên Chúa. Do đó trong ngày đầu năm kính nhớ ông bà tổ tiên, chúng ta cũng cần lưu ý đến bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự sống và hết lòng yêu thương chúng ta, như Ngài phán qua miệng tiên tri Isaia: “Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối với con dạ nó đã mang ? Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi ! Này, Ta đã khắc ghi ngươi trên bàn tay Ta” (Is 49,15-16a).
Sau cùng, chúng ta đã được nghe Lời Chúa trong ngày đầu năm này, chớ gì từng người chúng ta một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa ban cho mình trong một năm qua, để hết lòng cảm tạ tri ân Ngài.
Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện nhắc nhở chúng ta về bổn phận đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành chúng ta. Việc thảo kính này, không chỉ là một ít lễ vật, một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng được kéo dài trong suốt cuộc sống mỗi ngày của chúng ta.
Ngày xưa, giáo dục chú trọng lễ nghĩa: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Môn giáo dục công dân dạy Tết Mồng 2–61
Ngày xưa, giáo dục chú trọng lễ nghĩa: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Môn giáo dục công dân dạy học sinh những điều cốt lõi để làm người, để khi lớn lên sẽ thành nhân – mặc dù có thể không thành tài: Thành nhân hơn thành công. Vì thế, chắc hẳn không mấy ai lại không thuộc lòng câu ca dao này:
CÔNG CHA NHƯ NÚI THÁI SƠN NGHĨA MẸ NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA MỘT LÒNG THỜ MẸ, KÍNH CHA CHO TRÒN CHỮ HIẾU MỚI LÀ ĐẠO CON
Câu ca dao bình dị mà chứa đựng đạo lý thâm sâu. Ai cũng có một gia đình, dù là “ông kia, bà nọ” thì cũng vẫn xuất thân từ một gia đình. Mặc dù người ta có thể tự chọn nhiều thứ, nhưng không ai có thể tự chọn cha mẹ – tất nhiên kể cả ông bà, tổ tiên. Chắc hẳn không ngẫu nhiên mà người ta gọi gia đình là Tổ Ấm hoặc Mái Ấm, bởi vì trong đó có hơi ấm của tình yêu thương. Dấu hiệu đầu tiên của hạnh phúc gia đình là tình yêu gia đình, chính “ngọn lửa” tình yêu giữ cho gia đình luôn ấm áp trong mọi hoàn cảnh.
Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng khi Đức Giêsu giáng sinh làm người, Ngài cũng sinh trưởng trong một gia đình và giữ trọn đạo làm con. Điều đó chứng tỏ gia đình rất quan trọng. Hai tiếng “gia đình” đơn giản lắm, nhưng cũng có nhiều phức tạp lắm. Louisa May Alcott (1832-1888, Hoa Kỳ) nhận xét: “Khả năng tìm được cái đẹp trong những điều nhỏ bé nhất khiến gia đình trở nên hạnh phúc và cuộc đời trở nên đáng yêu” (The power of finding beauty in the humblest things makes home happy and life lovely). Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) đề nghị: “Lòng nhân đức bắt đầu từ gia đình nhưng không nên kết thúc ở đó” (Charity begins at home but should not end there). Bộ ba Cha-Mẹ-Con là chiếc kiềng ba chân yêu thương để chống đỡ gia đình: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng” (Ca dao). Tất nhiên phải cần nỗ lực của mọi thành viên.
Vào những dịp lễ, tết, và những dịp đặc biệt khác, việc nhớ tới công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và tiền nhân là điều cần thiết. Trên đời này, không có công ơn nào to lớn bằng công ơn cha mẹ, đặc biệt là người mẹ. Chữ Hiếu được mệnh danh là Đạo Hiếu, nhưng vẫn không thể nào bù đắp chín Đức Cù Lao (*). Cứ tính đơn giản theo nghĩa đen thì cũng thấy không cân xứng: Một chữ không thể so với chín chữ. Con cái chỉ có một chữ Hiếu mà vẫn không bao giờ giữ cho vuông tròn!
Tác phẩm Kinh Thi có đề cập đức cù lao của cha mẹ qua cách nói ngắn gọn mà súc tích: “Cù lao vu dã” – nhọc nhằn vất vả nơi đồng nội; và “bi ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao” – thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta.
Nhân dịp đầu Xuân và năm mới, thời gian đẹp nhất trong năm – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, sách Huấn Ca mời gọi: “Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Tại sao vậy? Lý do minh nhiên: “Họ là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44:10-15).
Về Đạo Hiếu, chính Chúa Giêsu đã nêu gương để chúng ta noi theo: Sau ba ngày lo việc của Chúa Cha, Cậu Hai Giêsu ở lại Đền Thờ khiến Cô Maria và Chú Giuse lo sốt vó, tìm kiếm xuôi ngược suốt ba ngày. Khi gặp cha mẹ, Cậu Hai Giêsu mau mắn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51). Rõ ràng Chúa Giêsu rất quý tình gia đình, được Ngài thể hiện qua việc kính yêu và tôn trọng cha mẹ.
Được hiện diện trên cõi đời này thì chắc chắn ai cũng có cha mẹ, dù cha mẹ có thế nào thì cũng vẫn là người sinh thành dưỡng dục mình, không thể coi nhẹ chữ Hiếu. Ai sống có hiếu thì được Thiên Chúa chúc lành, như Thánh Vịnh gia cho biết: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128:1-2).
Cha mẹ nào cũng vậy, thấy con cái có hiếu thì mới an tâm, và gia đình mới thực sự hạnh phúc: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Chắc hẳn không ai lại không mong ước như vậy, nhưng vấn đề là phải thể hiện cụ thể, chứ đừng nói suông. Thánh Vịnh gia tha thiết cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6). Nguyện chúc mọi gia đình vui hưởng thái bình như Thánh Gia – hôm nay và mãi mãi, đặc biệt trong những ngày Xuân đoàn tụ ấm cúng như thế này.
Đề cập Đạo Hiếu, Thánh Phaolô nhắc nhở những người con: “Kẻ làm con, hãy VÂNG LỜI cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy TÔN KÍNH cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Đồng thời thánh nhân cũng nhắc nhở các phụ huynh: “Những bậc làm cha mẹ, ĐỪNG làm cho con cái tức giận, nhưng HÃY giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4). Bổn phận và trách nhiệm với nhau là điều thực sự cần thiết: Con cái đối với cha mẹ, và cha mẹ đối với con cái. Đó là dạng bổn phận song song và trách nhiệm hai chiều.
Cố HY F.X. Nguyễn Văn Thuận xác định: “Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì là hành động”. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18-19). Cầu nguyện là việc làm không ngừng, bất kể thời gian hoặc địa điểm. Thật vậy, cầu nguyện có thể thực hiện ngay tại bàn tiệc, khi đang nói chuyện với người khác, khi chạy xe, khi nấu ăn, rửa chén,… thậm chí ngay khi chúng ta ở giữa một đám đông ồn ào náo nhiệt. Đừng chỉ cầu nguyện khi vào nhà thờ hoặc ở nơi tĩnh lặng, vì cầu nguyện rất dễ: Hướng tâm hồn lên với Chúa, gặp gỡ Chúa, có khi không cần nói gì cả. Cầu nguyện liên lỉ là “thói quen” của người sống tâm linh theo tinh thần Kitô giáo: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8:39).
Gia đình có người cha, người mẹ và người con đều sống tâm linh như vậy thì chắc chắn có hạnh phúc, là Tổ Ấm thực sự, ấm trong tình yêu của Thiên Chúa, nóng hổi ngọn lửa thương xót của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc” (Tv 112:1-2). Niềm hạnh phúc thánh đức thật tuyệt vời!
THIÊN CHÚA PHÙ TRÌ LIÊN VẠN ĐẠI THÁNH GIA BẢO GIÁM MÃI THIÊN THU
Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Truyền thống là điều nên duy trì – nếu đó là truyền thống tốt đẹp và hợp lòng người. Còn truyền thống không hay thì cứ mạnh dạn bỏ, vì đó có thể chỉ là hủ tục. Đừng bao giờ câu nệ hoặc lệ thuộc vào những gì không cần thiết!
Đề cập vấn đề “nghi thức”, trình thuật Mt 15:1-6 cho biết: Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và hỏi Ngài: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”. Ngài trả lời bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”. Ngài biết chẳng ai trả lời được nên Ngài lý luận: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”. Họ chỉ có nước “ngậm tăm”, im như thóc thối, câm như hến.
Rất có thể chúng ta cũng y như nhóm Pharisêu đấy. Đúng như tên gọi là “biệt phái”, đầu toàn là “đậu hũ” mà bày đặt lý luận để bắt bẻ người khác. Dốt mà chảnh là thế đấy! Không chỉ vậy, chúng ta lấy cớ với nhiều lý do “vì, bởi, tại, nếu,…” mà biện hộ cho mình. Thật là nguy hiểm! Thiết tưởng đôi khi chúng ta phải tự xét lại về các động thái của mình, đừng tưởng những gì chúng ta đưa ra đều là vì Chúa, có thể chính chúng ta “chơi ép” Chúa, “điều khiển” Chúa, rồi lại tự tôn bằng các biện hộ đó là Ý Chúa. Ôi, lạy Thiên Chúa!
Ngày Xuân, dịp Tết, nếu còn cha mẹ thì thật là niềm hạnh phúc cho bạn, nhưng hãy “động não” một chút: Khi bạn đang uống ly nước giải khát, hãy nghĩ xem cha mẹ thường uống gì. Khi bạn mặc những bộ quần áo đắt tiền hàng hiệu, xin hãy nghĩ xem cha mẹ bạn thường mặc ra sao. Khi bạn thoải mái chi tiêu, hãy nghĩ đến những thứ cha mẹ bạn thường dùng thế nào. Cha mẹ đã vì chúng ta mà bỏ bao công sức, đổ bao hạt mồ hôi, đều chỉ vì mong cho bạn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những thứ bạn đang dùng đều là do công sức cha mẹ tạo ra. Xin hãy yêu quý cha mẹ và cố gắng giữ trọn chữ hiếu cho xứng đáng là người con. Hãy hành động ngay khi cha mẹ còn sống, cụ thể là ngay trong dịp Tết này, biết đâu bạn không còn kịp nữa đâu. Không phải nói chuyện xui xẻo trong ngày Tết, mà đó là sự thật thôi!
TẾT ĐẾN BÌNH AN NHỜ THIÊN CHÚA XUÂN VỀ HẠNH PHÚC VỚI THÁNH GIA
Lạy Thiên Chúa đại lượng, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con có ông bà và cha mẹ, xin thương chúc lành cho họ; xin giúp chúng con luôn biết giữ trọn Đạo Hiếu – với Chúa và với ông bà, cha mẹ của chúng con. Xin tình yêu Thánh Gia luôn chan hòa trong mọi gia đình, suốt năm và suốt đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Cù Lao là siêng năng, cần mẫn, nhọc nhằn. Chín đức cù lao: [1] Sinh: Cha mẹ đẻ ra, [2] Cúc: Nâng đỡ, [3] Phủ: Vỗ về, vuốt ve, [4] Súc: Cho ăn, bú mớm; [5] Trưởng: Nuôi dưỡng thể xác; [6] Dục: Giáo dưỡng tinh thần; [7] Cố: Trông nom, nhìn ngắm; [8] Phục: Quấn quít, săn sóc không ngơi; [9] Phúc: Bồng ẵm, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, bảo vệ con khỏi bị ăn hiếp.
Hôm nay Mồng Hai Tết. Hội thánh Việt nam muốn dùng ngày này cầu nguyện cho tổ tiên, ông Tết Mồng 2–62
Hôm nay Mồng Hai Tết. Hội thánh Việt nam muốn dùng ngày này cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ với mục đích nhắc nhở và khuyến khích con cháu hãy tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Nhân ngày đầu năm, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về giới răn thứ bốn của Chúa và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, nhất là trong dịp đầu năm này.
Lời Chúa dạy.
Điều răn thứ bốn.
Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.
Vậy hiếu kính cha mẹ là gì? Theo giáo lý Công giáo, hiếu kính cha mẹ là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (Theo cuốn Giáo lý Tân định). Hôm nay Giáo hội Việt nam muốn chúng ta hãy tỏ lòng hiếu kính đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ trong cuộc sống, nhất là trong dịp Tết nguyên đán này.
Sách Huấn ca dạy.
Sách Huấn ca đã đề cập đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Theo tác giả# Ben Sira, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đem lại nhiều lợi ích:
– Được đền bù tội lỗi. – Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại. – Sẽ được Chúa nhận lời.
Gương Chúa Giêsu.
Thánh Luca cho chúng ta biết Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về lòng hiếu thảo đối với thánh Giuse và Đức Maria tại Nazareth, mặc dù chỉ bằng một câu rất vắn tắt:”Rồi Ngài theo cha mẹ trở về Nazareth và vâng lời các Ngài”(Lc 2,51)
Lời khuyên của thánh Phaolô.
Trong thư gửi cho tín hữu Eâphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo con cái:”Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”(Ep 6,1-3).
Chữ hiếu ngày xưa.
Theo truyền thống Đông phương, chữ Hiếu được đề cao trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, vì xã hội này chịu ảnh hưởng sâu xa nền luân lý Khổng Mạnh. Đức Khổng Tử đã dạy môn sinh của mình phải phụng dưỡng cha mẹ, quạt nồng ấp lạnh, tối sớm chăm nom:
Tử viết:”Phụ mẫu tại bất viễn du, Du tất hữu phương”.
Đức Khổng Tử nói: cha mẹ còn sống không nên đi chơi xa, và đi đâu thì phải cho biết có nơi có chốn.
Ngài còn đặt ra nhiều phong tục rất tỉ mỉ và phiền toái để tỏ lòng hiếu với cha me như việc ma chay, tang chế, kiêng kỵ… Ngày nay nhiều điều không còn phù hợp nữa.
Theo tục lệ ngày Tết, con cháu dù ở nơi xa xôi cũng phải về họp mặt cùng ông bà cha mẹ vì ngày này được coi là linh thiêng. Ai vắng mặt không có lý do chính đáng bị coi như là bất hiếu.
III. Chữ hiếu ngày nay.
Xưa nay, chữ Hiếu rất quan trọng đối với người Việt nam. Theo học thuyết Khổng Mạnh, chữ Hiếu là nhân đức làm đầu của đạo con cái. Và trong các tội phạm đến cha mẹ thì bất hiếu là tội lớn nhất. Người Việt nam đã tôn phong chữ Hiếu lên thật cao, thành một đạo khi người ta nói:
Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Chon trọn chữ Hiếu mới là ĐẠO CON.
Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đạo làm con. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một ĐẠO. Mà lỗi đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một sự sơ sót.
Theo điều răn thứ bốn thì con cái phải thảo hiếu cha mẹ, nhưng ngày nay người ta coi thường điều răn này, có người cho là lỗi thời trong thời đại tiến bộ, văn minh và dân chủ này. Con cái đến tuổi khôn là đã muốn sống độc lập đối với cha mẹ, không cần sự hướng dẫn bảo ban của các ngài. Người ta quên rằng:
“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” (Tục ngữ)
Cha mẹ có tuổi thì già yếu thật, nhưng kinh nghiệm và khôn ngoan thì nhiều hơn tuổi trẻ. Vì thế người ta mới nói:
“Người 70 còn phải học người 71”(Tục ngữ)
Ngày nay, cha mẹ già trở nên gánh nặng cho con cái, không muốn nuôi dưỡng cha mẹ trong tuổi già. Để bớt gánh nặng, con cái chỉ việc gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão, nếu tốt thì ít lâu gửi cho một số tiền, hay một món quà. Do đó, cha mẹ phải sống cô đơn.Thực ra cha mẹ cần tình thương hơn là tiền bạc, sự viếng thăm cần hơn của cải.
Công ơn cha mẹ như trời như bể, Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.
Truyện: Tờ hóa đơn.
Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhẹ.
Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau liệt giường. Thế là em nhỏ phải giúp mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa được nhận tiền thưởng gồm: xách nước 2 đồng, nấu cơm 3 đồng, giặt quần áo 5 đồng… Tất cả các thứ tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng. Xong, em rón rén bước vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay bà mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em bé 80 đồng kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công th ầy thuốc mỗi khi đau bệnh… x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán cả.! Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội chạy vào xin lỗi mẹ.
Lại còn cách xưng hô với cha mẹ!
“Cha mẹ” hai từ ấy linh thiêng và cao quí dường nào. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta cố ý hay vô tình quên đi ý nghĩa cao quí đó. Không ít bạn đã gọi các bậc sinh thành của mình bằng từ “ông già, bà già, ổng, bả”… thậm chí còn có bạn gọi là “ông bô, bà bô”.
Phần lớn những ngôn từ này thường phát ra từ miệng của phái nam. Tuy nhiên ở nữ cũng không kém. Chúng ta hãy nghe một bạn nữ nói:”Oâng già mình chịu khó lắm. Suốt đời chỉ lo cho mình ăn học không à”! Nghe xong, thấy có điều chẳng xuôi. Có cái gì đó mâu thuẫn giữa lời nói và tấm lòng của người con ấy.
Thật tội nghiệp! Nếu cha mẹ còn trẻ măng đã bị “lão hóa” bởi chính cái miệng của đứa con mình rứt ruột sinh ra.
Quyết tâm của chúng ta.
Truyền thống của cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em theo tinh thần “Hiếu đễ”. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu.(Ca dao)
Mặt khác, đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy, việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi người Kitô hữu.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã lặp lại giới răn này và khẳng định đó chính là ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa và con người không có quyền thay đổi, Ngài nói:”Thiên Chúa dạy:”Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”.
Truyện: Ý kiến của tù trưởng.
Trong quyển tiểu thuyết nhan đề “Cội rễ”, tác giả E. Heili viết như sau:
Ở một bô lạc bên Phi châu, người thanh niên khi đến tuổi trưởng thành sẽ được gọi là “chiến sĩ”. Tuy nhiên, muốn được mang danh hiệu này, anh phải trải qua một cuộc sát hạch, thường là thả vào rừng sâu một thời gian.
Năm ấy, có ba thanh niên đến tuổi trưởng thành và rất muốn được gọi là “chiến sĩ”. Ba chàng đã đến trình diện vị tù trưởng. Vị tù trưởng chúc mừng và hỏi người thứ nhất:”Trong một tháng qua, anh đã làm được những gì”? Người thanh niên thưa:”Tôi đã giết được một con hổ dữ”.
Tù trưởng khen “tốt” rồi bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ hai:”Trong tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có giết được con hổ dữ nào không”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, hổ dữ thì tôi không giết được, nhưng tôi cũng đã chém được một con trăn to”.
Tù trưởng khen “tốt”, bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ ba:”Một tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có chém được một con hổ dữ hay một con trăn nào không”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, hổ hay trăn thì tôi không chém được”. Tù trưởng hỏi tiếp:”Thế anh làm được gì”? Anh đáp:”Thưa tôi kiếm được một tảng mật ong to”. Tù trưởng hỏi:”Ngươi kiếm mật ong để làm gì”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, tôi có mẹ già, mà nhà tôi lại nghèo, nên tôi kiếm mật ong để cho mẹ tôi bồi dưỡng”.
Nghe xong, vị tù trưởng rút con dao ra trao cho anh và nói:”Ta phong anh làm chiến sĩ, bởi là người thì phải biết sống hiếu thảo với cha mẹ”.
Hôm nay Giáo hội Việt nam kính nhớ ông bà tổ tiên nhân dịp đầu năm. Kính nhớ các tiền nhân chính là thể hiện tinh thần đạo hiếu của dân tộc Việt nam “Uống nước nhớ nguồn”, “Aên quả nhớ kẻ trồng cây”. Các ngài đã tận tụy nuôi dưỡng, giáo dục chúng ta nên người, đặc biệt là giúp chúng ta biết Chúa là Đấng đáng tôn thờ và yêu mến. Công ơn của tổ tiên ông bà cha mẹ đòi hỏi chúng ta phải báo hiếu bằng cách cầu nguyện cho các ngài trong ngày đầu Xu6n này, đồng thời tiếp tục những gì các ngài đã làm: hãy tận tâm săn sóc dạy dỗ con cháu chúng ta nên người
Để khích lệ chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại một câu rất hay trong sách Huấn ca:”Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”.
Những ngày giáp Tết, dọc dài Quốc lộ I, xe cộ nối đuôi nhau tấp nập ngược xuôi Nam Bắc. Ai Tết Mồng 2–63
Những ngày giáp Tết, dọc dài Quốc lộ I, xe cộ nối đuôi nhau tấp nập ngược xuôi Nam Bắc. Ai cũng hối hả, nôn nao mong sớm về với gia đình.
Tết là dịp mọi người về sum họp mái ấm tình thương. Con cháu sum vầy bên cha mẹ và anh chị em hòa hợp bên nhau. Anh chị em công nhân đi chuyến xe cuối năm chấp nhận bị nhồi nhét miễn là về đến nhà.
“Ngày đầu xuân bao người đi xa, cũng về với gia đình”. Về với mẹ cha nguồn cội gia đình hay về nhà tự thắp nén hương bày tỏ tấm lòng thành của con cháu với ông bà tổ tiên.
Tết là lễ hội của gia đình. Nhà cha mẹ trở nên ấm cúng thân thương. Con cháu quy tụ về vui mừng nói cười rộn rã. Con cháu thắp nén hương trước bàn thờ tiên tổ với tâm tình thành kính tri ân rồi thì thầm với các ngài những điều nguyện ước. Quây quần quanh ông bà cha mẹ để chúc thọ tỏ lòng thảo kính và đón nhận lời giáo huấn đầu năm.Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Nhiều giáo xứ tổ chức Thánh lễ tại nghĩa trang để cầu nguyện cho những người thân yêu đã an nghĩ. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình. Đạo lý ngày Tết tuyệt đẹp: “Uống nước nhớ nguồn”, con cháu tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Người Việt rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự.Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên.Tôn kính tổ tiên là cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân,ông bà cha mẹ.Lúc các ngài còn sống,con cháu phải kính mến phụng dưỡng,vâng lời chiều ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm.Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt giàu tình trọng nghĩa.
Mỗi người Việt đều có một đạo rất gần gũi. Đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu.
Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Việt Nam. Hiếu là gốc của Đức. Người ta có một trăm nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu.Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung,cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.
Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống,thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh,bằng thờ cúng giỗ chạp.Đó là nhiệm vụ thiêng liêng,là phẩm chất tối cao của con người.
Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt từ Nam chí Bắc, dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh nhưng với ý niệm “Cây có cội,nước có nguồn”, đều coi trọng gia lễ.
Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:
Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn. Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu. Người ta có gốc từ đâu. Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Biết ơn là sống tâm tình tri ân tình cha nghĩa mẹ. Cha mẹ đã hy sinh cả đời mưa nắng cho con. Cha mẹ đã sống vì hạnh phúc của con. Lòng hiếu thảo hơn mọi lễ vật mà con cái dâng cho các ngài.
Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn.Biết ơn trời đất,biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ.Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao,dục báo chi đức,hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng,vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển: “Công cha như núi thái sơn,nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng, của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.
Gia đình Việt Nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng.Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông.Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một ….đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương,Đỗ Trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm.Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình.
Gia đình là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất.Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội.Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.
Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa.
Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của lòng hiếu thảo.
Sách Giảng Viên dạy: “Thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa,tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”.
Sách Huấn ca dạy: “Hỡi các con hãy nghe cha đây.Hãy xử sự sao để được độ sinh.Vì Chúa đặt vinh quang cha trên con cái,quyền lợi mẹ, Ngài củng cố nơi đàn con.
Kẻ tôn kính cha thì bù đắp lỗi lầm và trọng kính mẹ khác gì tích trữ kho tàng.Kẻ tôn kính cha sẽ hoan lạc nơi con cái, khi khẩn nguyện, sẽ được nhậm lời.Kẻ tôn vinh cha sẽ được trường thọ, người an ủi mẹ sẽ được công nơi Chúa.Kẻ kính sợ Chúa sẽ tôn kính cha,nó sẽ phục vụ các bậc sinh thành như chủ của mình.
Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, ngõ hầu mọi phúc lành đổ xuống trên con, vì chúc lành của cha làm cho rễ chắc, còn chúc dữ của mẹ thì nhổ cả cây.
Con đừng vênh vang về việc cha con bị nhục,vì vẻ vang gì cho con, cái nhục của cha con!
Quả thế, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính, và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh bỉ.
Con ơi! Hãy săn sóc cha con lúc tuổi già. Sinh thời người, chớ làm người sầu tủi. Trí khôn người có suy giảm, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.Vì lòng hiếu thảo đối với cha sẽ không bị quên lãng, nó sẽ đền bù tội lỗi cho con.
Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan, như sương muối biến ta lúc đẹp trời.Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, Kẻ khinh rể mẹ, chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3,1-16).
Thiên Chúa muốn con cái phải hết lòng tôn kính và thảo hiếu, đặc biệt nhấn mạnh đến công ơn sinh thành của người mẹ: “Hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ họ, con đã sinh ra. Làm sao con báo đền được điều họ cho con?” (Hc 7,27-28).
Sách Tôbia cũng dạy rằng:“Hãy thảo kính mẹ con. Đừng bỏ người ngày nào trong suốt đời người. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người cả. Hỡi con, con hãy nhớ là người đã phải trải qua bao nỗi gian lao hiểm nguy vì con khi con còn trong lòng dạ người” (Tob 4,3-4).
Thánh Phaolô khẳng định, hiếu thảo là việc làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự, vì là điều đẹp lòng Thiên Chúa” (Col 3,20).
Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Là Ngôi Hai Thiên Chúa và với thân phận con người, trong vai trò làm con, Ngài đã thực hành đạo hiếu qua đời sống vâng phục cha mẹ của mình. Thánh Kinh ghi lại rằng sau khi hoàn tất công việc của Thiên Chúa tại đền thờ Giêrusalem: “Ngài theo ông bà trở về Nazareth, và vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Ngài, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu.Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Ngài chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa,yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ.Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Ngài.Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc. Nếu một người con không thảo kính cha mẹ, người đó không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa. Bởi lẽ, người ấy đã không giữ luật Thiên Chúa. Giới luật Thứ Tư còn được gọi là giới răn hiếu thảo: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ.”. Mỗi Kitô hữu đều biết hiểu và thực hành giới răn này.
Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt Nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin Mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo. Tin Mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8,12). Tin Mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau.
Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo; dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”.Tin Mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt Nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ.
Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc.Tin Mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.
Dưới ánh sáng đức tin, Đạo Hiếu không chỉ là một hành động luân lý, đạo đức xã hội mà còn là một giới luật được Thiên Chúa truyền dạy, một giới răn chỉ đứng sau ba giới răn dành riêng cho Thiên Chúa. Người Công Giáo thảo hiếu, kính trọng cha mẹ không chỉ theo ảnh hưởng của văn hóa, xã hội, tâm lý, mà còn đặt trên niềm tin tôn giáo. Thảo kính cha mẹ là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay nhân dịp đầu năm mới Mậu Tuất. Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen( Lời nguyện nhập lễ, Mồng Hai Tết ).
Ngày Tết, cùng với đất trời giao hòa, con người dường như cũng gần gũi nhau hơn. Trong cái không Tết Mồng 2–64
Ngày Tết, cùng với đất trời giao hòa, con người dường như cũng gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp với gió xuân nhè nhẹ của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau như muốn giữ lại một chút kỷ niệm thân thuơng của những ngày tháng năm xưa:
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
‘Nhớ quê’, quê nào đây? Có phải khu vườn xưa xanh um bóng lá? Có phải mảnh ruộng đồng lúa mạ đơm bông? Có phải mái nhà tranh hay nóc ngói đơn sơ mà nay ta cách biệt? Nếu chỉ thế thì đâu phải đợi vào đêm, trong giờ phút cô vắng ta mới chạnh lòng vương vấn tâm tư trong những lời thơ mơn man, trải dài xa vắng?
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm…” Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
Trong làn khói hương nghi ngút, trong mùi trầm ngào ngạt, lòng con người như muốn bay về cội nguồn, mong tìm về quê hương thời tuổi trẻ, nơi chứa đựng cõi trời ấu thơ, nơi gắn bó đời mình với biết bao kỷ niệm thân thương, mà mỗi bước đi xa là một khúc ruột bị chặt lìa, một thứ ‘đoạn trường tân thanh’ muôn đời, miên viễn.
Như thế, nhớ quê ở đây là nhớ về cội nguồn, nhớ về nguồn gốc tổ tiên: “vì chim có tổ, nước có nguồn, con người có cha mẹ sinh ra”. Nhớ quê ở đây là một cái nhớ ở trong tiềm thức của mỗi người, nhớ về tình yêu của cha, của mẹ, của anh chị em trong nhà.
Xa quê chạnh nhớ quê nghèo Mẹ cha vất vả gieo neo ruộng đồng Nuôi con ăn học hết lòng Con luôn thấu hiểu tấm lòng bao la.
Trong chữ “Quê” có nguồn cuội. Có hình bóng của những con người “bán lưng cho trời – bán mặt cho đất” chỉ mong sao con lớn khôn thành người.
Thương con không quảng nắng mưa Thức khuya dậy sớm, mưa giông không màng Gian lao khổ cực nào than Cho con no đủ, hiên ngang với đời
Khi hồi tưởng về quê nhà ta mới thấy thấp thoáng bao kỷ niệm về gia đình, nơi đó chan hòa tiếng cười và đầy ắp yêu thương. Hồi tưởng về quê nhà ta mới thấy sự trưởng thành của ta được xây đắp bằng tình yêu hy sinh vất vả của mẹ cha.
Cuộc đời bao nỗi đắng cay Nhìn về cha mẹ, lệ cay nghẹn ngào Hôm nay nước mắt tuôn trào Nhớ ơn cha mẹ, cả đời cưu mang
Hồi tưởng về quê nhà, ta mới thấy mình phải có bổn phận “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, ta mới thấy làm sao đáp đền công ơn trời bể mà cha mẹ đã dành cho ta.
Con đây chẳng nói nên lời Nghẹn ngào nước mắt, lòng này khắc ghi Lạy cha lạy mẹ con quỳ Công ơn trời biển, đời đời không quên.
Khởi đầu năm mới, chúng ta tưởng nhớ đến các bậc tổ tiên, những người có công đức sinh thành dưỡng dục chúng ta. Chúng ta đâu biết rằng để mình có ngày hôm nay, cha mẹ chúng ta phải đánh đổi cuộc đời như thế nào? Vì danh dự của con, vì muốn cho con có tiền đến trường đến lớp, vì muốn cho con bằng chúng bằng bạn, cha mẹ nào cũng sẵn sàng đánh đổi cuộc đời mình vì hạnh phúc đàn con.
Do đó, uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây. Có được niềm vui đón xuân hôm nay, chúng ta cũng cần tỏ lòng hiếu kính, biết ơn đối với các bậc tổ tiên đã khuất và đối với ông bà cha mẹ những người còn đang sống và còn đang hao mòn vì chúng ta.
Chính Chúa Giê-su cũng luôn sống hiếu thảo với cha mẹ của mình. Phúc âm nói Ngài hằng vâng phục cha mẹ mình. Và dưới cây thập giá Ngài còn mời gọi thánh Gioan thay mặt Ngài đón Mẹ về nhà của mình để sống trọn chức hiếu.
Vì thế, trong bầu khí mừng xuân Mậu Tuất và nhớ về cội nguồn. Chúng ta cùng hiệp dâng thánh lễ hôm nay để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ của những ai đã qua đời và cầu bình an cho các bậc sinh thành vẫn đang còn hiện diện với chúng ta và với tấm lòng thảo hiểu chúng ta hãy cùng nhau ước nguyện:
Mỗi đêm con thắp đèn trời Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Lời Chúa: Chúa phán: “Thiên Chúa đã dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15,4-6).
Câu Chuyện:
1) Lá Thư Cha Mẹ Khuyên Dạy Con Về Lòng Hiếu Thảo:
Con thân yêu.
Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và cảm thông với bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống Tết Mồng 2–65
“Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và cảm thông với bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống có làm rơi vung vãi… Nếu như bố mẹ có gặp khó khăn trong cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung! Con hãy nhớ lại những ngày giờ mà bố mẹ đã phải trải qua với con, để dạy cho con bao điều hay kẽ phải khi con còn thơ bé.
+ Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì con cũng đừng bao giờ cắt ngang lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe! Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm đến khi con đi vào giấc ngủ… và bố mẹ luôn làm cho con.
+ Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên coi đó là điều xấu hổ. Con hãy nhớ… lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải bao lần dỗ ngọt để vỗ về mỗi khi tắm rửa cho con.
+ Khi con thấy sự giới hạn về kiến thức của bố mẹ trong cuộc sống văn minh hiện đại, con cũng đừng tỏ vẻ thất vọng nhưng hãy để bố mẹ có thêm thời gian tìm hiểu. Bố mẹ đã từng dạy con bao điều… từ cái ăn, cái mặc cho đến tự chăm sóc bản thân và đương đầu với bao thử thách trong cuộc sống.
+ Nếu như bố mẹ có đãng trí hay không nhớ hết những gì con nói… hãy để bố mẹ có thời gian nhớ lại và nếu như bố mẹ có quên, con cũng đừng vì thế mà bực mình nổi giận… vì điều quan trọng nhất đối với bố mẹ là luôn được nhìn thấy con, được ở bên và nghe con nói, thế thôi!
+ Nếu như bố mẹ chưa muốn ăn, con cũng đừng ép!… vì bố mẹ biết khi nào bị đói hay không.
+ Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập cho con trong những bước đi đầu đời.
+ Một ngày nào khi con lớn khôn, con sẽ hiểu rằng, không ai tránh được hết mọi sơ sót lầm lẫn. Con đừng xót xa về sự già nua của bố mẹ.
+ Con chỉ cần hiện diện bên bố mẹ để chia sẻ những gì bố mẹ đang sống và cảm thông cho bố mẹ, như bố mẹ đã làm cho con từ khi con mới chào đời. Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi lúc tuổi già bóng xế… Hãy giúp bố mẹ những tháng ngày vắn vỏi còn lại với tình yêu thương và lòng nhẫn nại…
Điều bố mẹ mong ước duy nhất là có thể nở nụ cười mãn nguyện trước khi nhắm mắt lìa đời giữa đoàn con cháu đầy lòng kính tin Chúa và chân thành yêu thương nhau.
Thương con thật nhiều… Bố mẹ…”
2) Sóng Trước Vỗ Đâu, Sóng Sau Vỗ Đó:
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già tay bị run, thường hay làm bể cái chén kiểu đắt tiền khi ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt mang về một chiếc gáo dừa rồi gọt dũa làm thành một cái chén gáo dừa cho bố anh ta dùng. Đứa con trai thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh ta trả lời con rằng: Để ông nội con dùng khỏi bị bể nếu ăn cơm có bị run tay làm rơi xuống đất.
Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này bố già dùng nếu bố có bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.
Thảo Luận: 1) Về lối sống hiếu thảo với ông bà tổ tiên, bạn có đồng ý với câu người xưa nói: “Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó” hay không? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?
Suy Niệm:
1) Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình:
Hôm nay, ngày Mồng Hai Tết là dịp để các tín hữu chúng ta thực hành bổn phận hiếu thảo với ông bà tổ tiên, cụ thể là cha mẹ sinh thành ra chúng ta. Sự hiếu thảo được thể hiện qua những lời nói, thái độ cử chỉ và hành động của con cái với cha mẹ, cụ thể là món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ nói lên lòng thảo hiếu đối với các ngài.
Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được chờ đón những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm bên cạnh cha mẹ ông bà cùng với anh chị em con cháu.
2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:
Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải được thể hiện trong suốt những ngày tháng dài sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.
Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta lá chắn che chở suốt đời mình.
Nếu cha mẹ già yếu, con cháu phải tránh coi thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, bú mớm dọn dẹp vệ sinh cho ta khi ta còn thơ bé.
Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết trong năm.
3) Làm gì trong những ngày này?:
– Tết là dịp để con cháu làm việc ở xa trở về nhà để xum họp với ông bà cha mẹ. Thế nhưng có mấy ai đã thực sự đã sống tròn chữ hiếu?
Người xưa có câu: “Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ”, diễn tả những nỗi vất vả, công khó cực nhọc của các bậc làm cha mẹ khi phải chăm sóc cho con cái từng miếng ăn giấc ngủ, giúp con được học hành vui chơi….
– Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì: “Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
– “Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.
Dịp Xuân Mới, bạn sẽ biếu món quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo biết ơn cha mẹ ông bà đang còn sống và các bậc tổ tiên đã qua đời?
Lời cầu:
Lạy Thiên Chúa Cha là Chúa tể của Mùa Xuân đất trời. Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay. Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.- Amen.
Có một câu chuyện về tình mẹ rất đẹp được kể lại trong “Sự Tích Cây Vú Sữa” như sau: Ngày xưa Tết Mồng 2–66
Có một câu chuyện về tình mẹ rất đẹp được kể lại trong “Sự Tích Cây Vú Sữa” như sau:
Ngày xưa, ở vùng Lái Thiêu (thuộc tỉnh Sông Bé) có hai mẹ con sống đơn chiếc bên nhau. Thương con trai mồ côi bố, người mẹ hết sức cưng chiều con. Vì quá nuông chiều, cậu bé trở nên nghịch phá và ham chơi.
Một ngày kia, vì phá phách, bị mẹ quở mắng, cậu bé bỏ nhà ra đi. Cậu đi lang thang hết ngày này sang ngày khác, ai cho cái gì thì ăn cái ấy.
Một hôm, cậu quyết tâm trở về với mẹ. Sau bao ngày lặn lội, cậu cũng về tới nhà. Cảnh vật còn nguyên, nhưng mẹ cậu thì không còn nữa. Cậu bé đâu có biết rằng mẹ cậu vì mong mãi con không về đã sinh bệnh rồi chết, hóa thành một cây xanh.
Cậu bé gọi hoài, gọi mãi không thấy mẹ. Cậu chỉ biết ôm lấy cây xanh mà khóc. Bỗng cây xanh run rẩy và rơi xuống một trái to, da căng mịn và xanh óng ánh.
Vừa đói, vừa mệt, cậu bé đưa quả lên rồi cắn một miếng, dòng sữa trắng trong quả trào ra, như dòng sữa mẹ thật thơm ngon.
Vỏ cây xù xì như bàn tay lam lũ của mẹ, lá cây một mặt xanh bóng, một mặt đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Mẹ không còn nữa, nhưng mẹ vẫn đứng đó để nuôi con bằng dòng sữa mẹ ngọt ngào.
Từ đó, người ta gọi cây xanh ấy là cây vú sữa, để tưởng nhớ đến tình mẹ thiêng liêng và cao cả.
Không lời nào có thể diễn tả hết tình mẹ tình cha, không bút mực nào có thể tát cạn được công cha nghĩa mẹ. Trong những ngày lễ tết hay giỗ chạp, người ta cũng không quên nhắc đến nguồn cội gốc rễ là những bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, những đấng đã sinh thành, dưỡng dục và chăm lo cho đời sống con cái, cháu chắt nên người. Đó là truyền thống đạo đức rất đáng trân trọng của người Việt Nam. Và truyền thống đạo đức ấy của dân tộc không đi ngược lại với niềm tin Kitô giáo. Trái lại, “lương giáo” đều có chung một chữ hiếu. Tuy hai con đường, nhưng chỉ là một chữ hiếu.
Chữ hiếu trong đạo nghĩa dân tộc
Chữ hiếu luôn được người Việt Nam coi trọng và đặt lên hàng đầu. Chữ hiếu được biểu lộ qua lòng hiếu thảo của con cái, cháu chắt luôn nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà cha mẹ. Tổ tiên, ông bà cha mẹ được coi là nguồn gốc của sự giàu sang phú quý và luôn là mối dây linh thiêng, huyền nhiệm liên kết tất cả mọi con cháu lại thành một giòng tộc.
Trong đạo gia tộc, chữ hiếu được diễn tả và thực thi bằng nhiều cách: khi ông bà cha mẹ còn sống, con cháu sẽ vây quanh để biểu lộ sự tôn kính, vâng phục, phụng dưỡng hết lòng ; khi các ngài khuất bóng, con cháu luôn nhớ đến trong những ngày giỗ kỵ, lễ tết, qua việc nhắc nhở nhau tụ họp lại để kính nhớ. Theo tập tục, con cháu sẽ lập bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ với đèn nhang, hoa quả đầy ắp.
Lòng biết ơn đối với các bậc tiền nhân, lão thành, những người có công trạng được thể hiện bằng việc tưởng nhớ, ghi công trên bia, mộ. Đó chính là nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam, rất đáng được giữ gìn và phát huy.
Chữ hiếu trong đạo Kitô
Giáo Hội dành riêng ngày Mùng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì thế, ca nhập lễ của ngày lễ hôm nay trích lời sách Châm ngôn:
“Con ơi giữ lấy lời cha Chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm Đèn soi trong chốn tối tăm Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền Nhớ cầu cho bậc tổ tiên Khắc ghi công đức một niềm tri ân” (Cn 6, 20. 23abc)
Như thế, qua lời khuyên nhủ của sách Châm ngôn, việc kính nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ không những là một đạo hiếu, mà còn là một lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính điều răn thứ bốn trong mười điều răn dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ”.
Trong Mầu Nhiệm Nhập Thể, Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài không chọn cho mình một con đường siêu việt từ trời xuống trần gian làm người cách trực tiếp và minh nhiên, nhưng Ngài đã chọn cho mình người mẹ, người cha và đã đồng hành với người thế qua con đường gia đình bình thường như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng sống trong một tổ ấm yêu thương và nhất là đã nêu gương mẫu về tinh thần vâng phục của người con đối với cha mẹ dưới mái nhà Nagiarét (Lc 3, 51).
Lòng tôn kính, hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ xuất phát từ sự biết ơn đối với các ngài, những người đã sinh thành, dưỡng dục chúng ta lớn lên về vóc dáng, về sự khôn ngoan và nhất là về ân sủng trước mặt Thiên Chúa, như lời sách Huấn Ca dạy: “Hãy hết lòng tôn kính cha con và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục. Công ơn ấy con lấy chi đáp đền cho cân xứng ?” (Hc 7, 27–28).
Lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ còn đòi buộc chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với ông bà cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần. Khi các ngài khỏe mạnh, cũng như lúc già cả yếu đau và ngay cả khi qua đời, chúng ta vẫn một lòng biết ơn, phụng dưỡng và cầu nguyện cho các ngài.
Tóm lại, chúng ta là người theo “đạo Chúa”, chúng ta càng phải giữ “đạo hiếu” đối với tổ tiên ông bà. Chữ hiếu tô đậm thêm tình con thảo đối với gia đình và với Thiên Chúa. Dù là hai con đường, nhưng cũng chỉ là một chữ hiếu làm đầu. Hiếu thảo với ông bà cha mẹ sẽ giúp ta hiếu thảo hơn với Thiên Chúa.
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo, nhưng ông để hết tâm trí phụng dưỡng song thân.
Một hôm, nghe nói có ông Võ Tế là bậc đại sĩ rất giỏi giang, Dương Phủ từ biệt cha mẹ để đến thụ giáo cùng ông Võ Tế.
Dọc đường, Dương Phủ gặp một vị sư già chỉ cho biết: “Gặp được Võ Tế chẳng bằng gặp được Phật”. Dương Phủ bèn hỏi: “Phật ở đâu ?” Vị sư già giải thích: “Cứ trở về gặp người nào mặc chiếc áo choàng, chân đi dép như thế này, thì chính là Phật đấy !”.
Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Đi dọc đường ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà, người mẹ khoác mền, chân đi dép ra đón con. Bấy giờ, Dương Phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà vị sư già đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra cha mẹ trong nhà chính là Phật, ông càng hết tâm phụng dưỡng cha mẹ hơn.
Đúng như lời ca dao:
Thứ nhất là tu tại gia, Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa, Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
Hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ, những người còn sống cũng như đã qua đời. Lòng hiếu thảo luôn luôn là bông hoa đẹp làm vui lòng ông bà cha mẹ và làm đẹp lòng Thiên Chúa.
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: "Thiên Chúa đã dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa" Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa" (Mt 15,4-6).
2. CÂU CHUYỆN:
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh Tết Mồng 2–67
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già tay bị run, thường hay làm bể cái chén kiểu đắt tiền khi ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt mang về một chiếc gáo dừa rồi gọt dũa làm thành một cái chén gáo dừa cho bố anh ta dùng. Đứa con trai thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh ta trả lời con rằng: Để ông nội con dùng khỏi bị bể nếu ăn cơm có bị run tay làm rơi xuống đất.
Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: "Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này bố già dùng nếu bố có bị run tay giống như ông nội bây giờ!".
3. THẢO LUẬN:
1) Về lối sống hiếu thảo với ông bà tổ tiên, bạn có đồng ý với câu người xưa nói: "Sóng trước vố đâu, sóng sau vỗ đó" hay không? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?
4. SUY NIỆM:
1) Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình:
Hôm nay, ngày Mồng Hai Tết là dịp để các tín hữu chúng ta thực hành bổn phận hiếu thảo với ông bà tổ tiên, cụ thể là các bậc sinh thành là cha mẹ. Sự hiếu thảo được thể hiện qua những lời nói, thái độ cử chỉ và hành động với cha mẹ, cụ thể là món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ đượm tình thảo hiếu với các ngài.
Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được chờ đón những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm bên cha mẹ ông bà và anh chị em con cháu.
2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:
Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải được thể hiện trong suốt những ngày tháng dài sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.
Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta lá chắn che chở suốt đời mình.
Nếu cha mẹ già yếu, con cháu phải tránh coi thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, bú mớm dọn dẹp vệ sinh khi ta còn thơ bé.
Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.
3) Làm gì trong những ngày này?:
Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì:
"Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
"Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó". Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.
Dịp Xuân Mới, bàn sẽ biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?
5. LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa Cha là Chúa tể của Mùa Xuân đất trời. Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay. Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.- Amen.
Hôm nay mồng hai tết - kính nhớ tổ tiên, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng kể về lời Tết Mồng 2–68
Hôm nay mồng hai tết - kính nhớ tổ tiên, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng kể về lời sự tranh luận của Chúa Giêsu với các biệt phái Pharisiêu, xoay quanh việc giữ luật thảo kính cha mẹ và tập tục tiền nhân.
Trọng tâm chính của lần tranh luận này giữa Chúa Giêsu và Biệt Phái là sự đối kháng giữa hai quan niệm, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: "Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?..." Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: "Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?"
Việc rửa tay trước khi ăn là một thói quen tốt giúp an toàn vệ sinh, nó như là một nét văn hoá được các giáo viên mầm non tập cho trẻ từ thuở bé. Và ở nhiều nơi trên thế giới, việc rửa tay trước khi ăn đã trở thành một tập tục, thậm chí như là một điều buộc phải làm để giữ gìn vệ sinh. Tuy nhiên, đối với các Pharisiêu thì nó được giải thích như là một điều luật và là một nghi thức tôn giáo để đánh giá con người trong sạch hay dơ bẩn.
Vì quá câu nệ luật nên biệt phái Pharisiêu lẫn lộn cái chính yếu với cái phụ tùy, quá chú trọng đến cái phụ tuỳ bên ngoài mà đánh mất cái chính yếu bên trong là đức công bằng. Họ quan niệm giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như "rửa tay trước khi ăn", "dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ". Họ dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ, lấy quy ước của các tập tục phàm nhân do họ đặt ra để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.
Chúa Giêsu lấy một ví dụ về việc thực hành tập tục phàm nhân bịa ra để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa trong điều răn thứ tư là phải "hiếu thảo với cha mẹ của mình”.
Người Pharisêu giới hạn bổn phận con cái dựa trên hoàn toàn vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho nghĩa vụ đạo đức. Đối với Đức Giêsu, Ngài nhắc nhở cho các Pharisêu,và mọi thế hệ rằng:" Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử" (Mt 15,4). Thảo hiếu với mẹ cha không chỉ dừng ở của cải vật chất nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương và tôn kính.
Ngày nay, thật đáng lo ngại là cho sự khủng hoảng đạo lý nơi nhiều gia đình. Có những người con chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Giá trị đạo đức bị đảo lộn bởi có những đứa con coi vật chất là trên hết, đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con, sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão mà quên rằng bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, và cầu nguyện xin lễ cho các ngài khi đã qua đời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa; không dùng tập tục con người để trốn tránh giới răn Thiên Chúa dạy phải sống trọn đạo hiếu.
Lạy Chúa Giêsu, khi còn sống ở trần gian nơi gia đình Thánh Gia Nazareth, Chúa đã nêu gương về lòng đạo đức và vâng phục cha thánh Giuse và mẹ Maria. Xin cho chúng con cũng luôn biết tôn kính vâng lời và phụng dưỡng các bậc cha mẹ, xứng với công ơn sinh thành và dưỡng dục của các ngài đã dành cho chúng con. Amen
Thưa… Có một câu chuyện về tình mẹ rất đẹp được kể lại như sau:
Ngày xưa, ở vùng Lái Thiêu (Sông Bé) có hai mẹ con sống đơn chiếc bên nhau. Thương con trai Tết Mồng 2–69
Ngày xưa, ở vùng Lái Thiêu (Sông Bé) có hai mẹ con sống đơn chiếc bên nhau. Thương con trai mồ côi bố, người mẹ hết sức cưng chiều con. Vì quá nuông chiều, cậu bé trở nên nghịch phá và ham chơi. Một ngày kia, vì phá phách, bị mẹ quở mắng, cậu bé bỏ nhà ra đi. Cậu đi lang thang hết ngày này sang ngày khác, ai cho cái gì thì ăn cái ấy.
Một hôm, cậu quyết tâm trở về với mẹ. Sau bao ngày lặn lội, cậu cũng về tới nhà. Cảnh vật còn nguyên, nhưng mẹ cậu thì không còn nữa. Cậu bé đâu có biết rằng mẹ cậu vì mong mỏi cậu hằng ngày hằng đêm mà cậu không trở về, nên bà sinh bệnh rồi chết, và từ trên nấm mộ của bà mọc lên một cây xanh.
Cậu bé về tới nhà, gọi hoài, gọi mãi mà không thấy mẹ đâu. Mệt mỏi và đói lã, Cậu chỉ biết ngồi xuống bên gốc cây xanh và ôm lấy cây xanh mà khóc. Bỗng cây xanh run rẩy và rơi xuống một trái to, da của trái căng mịn và vàng tươi óng ánh.
Vừa đói, vừa mệt, cậu bé liền đưa trái cây lên miệng rồi cắn một miếng, dòng sữa trắng trong trái cây trào ra, như dòng sữa mẹ thật thơm ngon.
Thấy trái cây ngon ngọt quá, Cậu bé nhìn kỷ hơn về cây xanh đó, thì cậu thấy Vỏ cây xù xì như bàn tay lam lũ của mẹ, lá cây thì một mặt xanh bóng, một mặt thì đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Mẹ không còn nữa, nhưng mẹ vẫn đứng đó để nuôi con bằng dòng sữa mẹ ngọt ngào. Từ đó, người ta gọi cây xanh đó là cây vú sữa, để tưởng nhớ đến tình mẹ thiêng liêng và cao cả, chẳng những lo cho con khi bà còn sống, mà khi chết rồi, bà vẫn thương con, vẫn lo cho con.
Thưa… Không lời nào có thể diễn tả hết tình mẹ tình cha, không bút mực nào có thể tát cạn được công cha nghĩa mẹ. Trong những ngày lễ tết hay giỗ chạp, người ta cũng không quên nhắc đến nguồn cội gốc rễ, là những bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, những đấng đã sinh thành, dưỡng dục và chăm lo cho đời sống con cái, cháu chắt nên người. Đó là truyền thống đạo đức rất đáng trân trọng của người Việt Nam. Và truyền thống đạo đức ấy của dân tộc không đi ngược lại với niềm tin Kitô giáo. Trái lại, “lương giáo” đều có chung một chữ hiếu. Tuy là hai con đường, nhưng có chung một chữ hiếu.
Chữ hiếu luôn được người Việt Nam coi trọng và đặt lên hàng đầu. Chữ hiếu được biểu lộ qua lòng hiếu thảo của con cái, cháu chắt luôn nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà cha mẹ. Tổ tiên, ông bà cha mẹ được coi là nguồn gốc của sự giàu sang phú quý, và luôn là mối dây linh thiêng, huyền nhiệm liên kết tất cả mọi con cháu lại thành một giòng tộc.
Trong đạo gia tộc, chữ hiếu được diễn tả và được thực hiện bằng nhiều cách: khi ông bà cha mẹ còn sống, con cháu sẽ vây quanh để biểu lộ sự tôn kính, vâng phục, phụng dưỡng hết lòng ; khi các ngài khuất bóng, con cháu luôn nhớ đến trong những ngày giỗ kỵ, lễ tết, qua việc nhắc nhở nhau tụ họp lại để kính nhớ. Theo tập tục, con cháu sẽ lập bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ với đèn nhang, hoa quả đầy ắp.
Còn đối với những người Công giáo chúng ta, thì Giáo Hội dành riêng ngày Mùng Hai Tết hôm nay để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì thế, ca nhập lễ của ngày lễ hôm nay trích lời sách Châm ngôn: “Con ơi giữ lấy lời cha - Chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm
Đèn soi trong chốn tối tăm - Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền Nhớ cầu cho bậc tổ tiên - Khắc ghi công đức một niềm tri ân”
Như thế, qua lời khuyên nhủ của sách Châm ngôn, việc kính nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ không những là một đạo hiếu, mà còn là một lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính điều răn thứ bốn trong mười điều răn đã dạy: “Thưa bốn, thảo kính cha mẹ”. Như vậy, việc thảo kính đối với ông bà cha mẹ còn đòi buộc chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với ông bà cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần. Khi các ngài khỏe mạnh, cũng như lúc các ngài già cả yếu đau và ngay cả khi qua đời, chúng ta vẫn một lòng biết ơn, phụng dưỡng và cầu nguyện cho các ngài. Như vậy, người theo “đạo Chúa” lại càng phải giữ “đạo hiếu” đối với tổ tiên ông bà. Chữ hiếu tô đậm thêm tình con thảo đối với gia đình và với Thiên Chúa. Dù là hai con đường, nhưng cũng chỉ là một chữ hiếu làm đầu. Hiếu thảo với ông bà cha mẹ sẽ giúp ta hiếu thảo hơn đối với Thiên Chúa. Và khi chúng ta hiếu thảo với Chúa, thì Chúa sẽ ban ơn lại cho tổ tiên ông bà cha mẹ chúng ta: “Đêm đêm khấn vái Phật Trời – Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
Ngày Xuân, dịp Tết, nếu chúng ta còn cha còn mẹ, thì thật hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang có cha mẹ sống đời với chúng ta. Và chúng ta đã hiếu thảo đối với cha mẹ như thế nào ? chúng ta đã chăm lo cho cha mẹ chúng ta như thế nào ? Khi chúng ta uống một ly nước giải khát, chúng ta có nghĩ đến cha mẹ chúng ta thường uống thứ nước gì, và chúng ta có dám mua về cho cha mẹ chúng ta ly nước đó chưa ?. Khi chúng ta mặc những bộ quần áo đắt tiền hàng hiệu, chúng ta có nghĩ đến áo quần của cha mẹ chúng ta thường mặc ra sao không ? Khi chúng ta thoải mái chi tiêu, chúng ta có nghĩ đến những thứ mà cha mẹ thường dùng như thế nào không ? Cha mẹ đã vì chúng ta mà bỏ biết bao công sức, đổ bao giọt mồ hôi nước mắt, đều chỉ vì mong cho cho chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những thứ mà chúng ta đang dùng đều là do công sức của cha mẹ tạo ra cho chúng ta... Như vậy, chúng ta hãy yêu quý cha mẹ, và cố gắng giữ trọn chữ hiếu, cho xứng đáng là người con của cha mẹ. Hãy hành động ngay khi cha mẹ còn sống, cụ thể là ngay trong dịp Tết này… Còn nếu chúng ta cứ chần chừ, thì có thể chúng ta sẽ hối hận, bởi vì nhiều khi cũng không còn kịp nữa… Tết đến bình an nhờ Thiên Chúa - Xuân về hạnh phúc với gia đình.
Thưa… Hôm nay ngày tết, ngày xuân, con cái trở về sum vầy bên cha mẹ, không phải chỉ để nhận phong bao lì xì, hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh, mà chính yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lên lời cám ơn các ngài, và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu sâu thẳm, mà các ngài dành cho con cho cháu. Đây là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng tri ân chân tình dâng lên bậc sinh thành: Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy - Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở - Và cho con trái tim nhân ái làm người.
Và không chỉ như vậy, mà phải còn hơn thế nữa, đó là phải khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành ra mình:
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ
Phong sắc hồng hào tâm thể khang an
Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng
Nên quá ít thời gian con hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể
Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây
Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây
Mừng tuổi cha, kính dâng cha niềm an bình hạnh phúc.
Đó là nói về những người còn sống, Còn đối với những người đã qua đời, thì đây là dịp để con cái biểu lộ chữ hiếu, qua việc xin lễ, đọc kinh cầu nguyện, dâng những hy sinh, dâng hương, dâng hoa quả, để kính các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ đã khuất, và nhớ lại biết bao hy sinh cực khổ mà các ngài đã dành cho con cháu:
Thương con không quản nắng mưa
Thức khuya dậy sớm, mưa giông không màng.
Gian lao cực khổ không than
Cho con no đủ, hiên ngang với đời.
Có người nhớ về công cha nghĩa mẹ mà không cầm được nước mắt:
Cuộc đời bao nỗi đắng cay
Nhìn về cha mẹ, lệ cay nghẹn ngào
Hôm nay nước mắt tuôn trào
Nhớ ơn cha mẹ, cả đời cưu mang
Và khi không cầm được nước mắt, chúng ta nhận ra, mình không thề nào đáp đền hết công ơn trời bể, mà cha mẹ đã dành cho mình.
Con đây chẳng nói nên lời
Nghẹn ngào nước mắt, lòng này khắc ghi
Lạy cha lạy mẹ con quỳ
Công ơn trời biển, đời đời không quên.
Xin Chúa là Chúa của mùa Xuân, ban cho chúng con một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa Xuân chúc lành cho ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương, được ấm áp thuận hòa, được bình an hạnh phúc. Amen.
Theo truyền thống tốt đẹp của người Á Đông nói chung và người Công giáo Việt Nam nói riêng Tết Mồng 2–70
Theo truyền thống tốt đẹp của người Á Đông nói chung và người Công giáo Việt Nam nói riêng, ngày mùng Hai Tết là ngày dành để kính nhớ ông bà tổ tiên. Việc làm này, chẳng những chúng ta sống mầu nhiệm các thánh cùng thông công, dựa trên nền tảng “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, nhưng còn thể hiện tâm tình đạo hiếu nhớ về cội nguồn của mình với lòng biết ơn: “Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, người ta nguồn gốc từ đâu, có cha có mẹ rồi sau có mình”.
Chính vì thế mà ngay từ xa xưa tác giả sách Cách Ngôn có khuyên dạy: “Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân” (Cn 6,20-23).
Chúng ta biết, ngoài tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, thì trên đời này không có tình thương nào cao cả và sâu đậm cho bằng tình cha nghĩa mẹ. Tình thương cha mẹ dành cho con cái mênh mông như biển khơi, dạt dào như suối nguồn.
Thật vậy, biển nước mênh mông không đong đầy tình mẹ, gió lộng mây trời không phủ kín công cha. Biển đông có lúc đầy lúc vơi, chứ lòng cha mẹ không vơi chút nào.
Cha mẹ đánh đổi cả cuộc đời, chỉ mong cho con cái thành người. Niềm vui, hạnh phúc và tự hào của cha mẹ, đó là sự thành đạt của con cái. Cho dù có phải vì con mà phải lao đao, vất vả sớm chiều, thì cha mẹ cũng không sờn lòng nản chí. “Thương cha xuôi ngược giữa dòng, mẹ yêu tất cả gánh gồng nuôi con”.
Thật vậy, dù con đếm được cát sông, nhưng không đếm được tấm lòng cha yêu. Dù con đếm được sớm chiều, nhưng không đo được tình thương mẹ nhiều. Dù con đi hết trăm miền, nhưng tình của mẹ vẫn liền núi non. Dù con cản được sông cồn, nhưng không ngăn được tình thương mẹ dành. Dù con đếm được trăng sao, nhưng sao đếm được tấm lòng cha yêu. Nếu con bất hiếu một khi, nhưng tình của mẹ thì thầm bên con.
Vì thế, kính nhớ tổ tiên để biết ơn. Cầu nguyện cho ông bà cha mẹ là việc làm rất phải đạo, một bổn phận không thể thiếu mà ngay từ thời Cựu ước, sách Huấn ca chương 3 có dạy: Ai trọng kính cha mình sẽ được xoá bỏ lỗi lầm; ai thảo kính mẹ mình thì như người tích trữ kho báu trên trời. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi. Hơn nữa, những ai chưa chu toàn đạo làm con, đạo làm người, thì không thể chu toàn đạo làm con Chúa được.
Ai ơi hãy nhớ năm xưa khi còn mình còn nhỏ, mẹ mình tay bồng tay bế cho chúng ta bú mớm từng giòng sữa ngon, từng ẵm chúng ta đi khắp xóm làng, dỗ dành đút từng thìa cơm, muỗng cháo cho chúng ta mau ăn chóng lớn đó sao?. Ai ơi hãy nhớ lại đi, khi mình còn nhỏ, cha mẹ đã từng thay đồ, thay tả cho chúng ta không biết bao nhiêu lần trong ngày đó chứ!.
Hãy nhớ lại đi khi mình còn nhỏ, cha mẹ từng kiên nhẫn tập cho chúng ta đi từng bước, và rất xót xa mỗi khi chúng ta vấp ngã khóc nhè. Hãy nhớ lại đi khi mình còn ấu thơ, cha mẹ từng thức trắng đêm, lo lắng, ôm ẵm, vỗ về mỗi khi chúng ta trái gió, trở trời…
Hãy nhớ lại đi khi mình 3 – 4 tuổi, mỗi khi mẹ đi chợ về, chúng ta ôm lấy mẹ vòi vĩnh, mẹ ơi! Quà con đâu? Mẹ ơi! Bánh con đâu!. Khi lên 6 – 7 tuổi, khen mẹ đẹp nhất trên đời. Lên đến 10 -12 tuổi, mẹ ơi! Đi đâu cho con đi với nhé!. Mẹ là số một!. Ba ơi! Ba cõng con đi. Ba là lực sĩ của con, ba làm ngựa để con nhong nhong trên lưng. Nhưng khi lên 14-20 tuổi, thì đôi lúc nổi loạn nặng lời trách móc “ba mẹ phiền phức quá! Việc con, kệ con. Ba mẹ nói nhiều quá! Con lớn rồi, đừng quan tâm nhiều đến con. Mãi đến khi lập gia đình mới hiểu được phần nào nỗi lòng của cha mẹ mình.
Có những người con nghĩ rằng: mỗi tháng đưa cho cha mẹ vài triệu coi như là đã trả hết công sinh thành dưỡng dục rồi. Có những người con khi cha mẹ qua đời đột ngột, thì vô cùng hối tiếc, vì chưa làm gì để đền đáp công ơn trời bể của mẹ cha. Thật là khó hiểu, có những người con khi cha mẹ còn sống thì tằn tiện tính toán từng đồng, nhưng khi cha mẹ chết thì tổ chức tang lễ thật hoành tráng, xây mộ thật to để che mắt thiên hạ.
Cũng thật là nghịch lý, có những cha mẹ đau lâu ốm dài trên giường bệnh, con cái thức lâu chầu mỏi chán chường, nói thầm trong bụng, sao cha mẹ sống dai thế, nhưng khi cha mẹ nhắm mắt lìa đời, thì trên nắp quan tài để lãng hoa kèm theo dòng chữ “Vô cùng thương tiếc, hay khóc…”.
Chắc chắn khi đứng bên phần mộ của những người thân, những hình ảnh, những ký ức sẽ ùa về tâm trí chúng ta. Làm chúng ta nhớ lại kỷ niệm thật êm đềm hạnh phúc, vì những năm tháng được sống cùng, sống với nhau hết mình, nhưng cũng có những kỷ niệm khiến lương tâm ai đó tự xấu hổ và hối tiếc.
Chúng ta hãy sống sao để mỗi lần ra thăm mộ, hay đi viếng nhà hài cốt, lương tâm không bị áy náy, không có những giọt nước mắt muộng màng hối tiếc .
Ước gì, chúng ta hãy là người con xứng đáng của cha mẹ. Không vô ơn cha đã sinh con ra trên cuộc đời này. Không uổng đi dòng máu của mẹ, đã biến thành dòng sữa thơm để nuôi con lớn khôn từng ngày.
Phận làm con, chúng ta không thể nào kể hết, không thể nào đo đếm được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Vậy mới có câu “Chim trời ai thể đếm lông, nuôi con ai thể kể công tháng ngày”.
Cuối cùng, thưa anh chị em, những ai may mắn cha mẹ còn sống, thì hãy tạ ơn Chúa vì còn có cơ hội để đền ơn, báo hiếu, phụng dưỡng cha mẹ cho phải đạo làm con theo điều răn Chúa dạy. Còn những ai cha mẹ già nua tuổi tác, thì đừng xem các ngài như một gánh nặng mà đùn đẩy nhau. Hay là đừng vô tình làm cho cha mẹ phải đau lòng chỉ vì anh em giành nhau một chút của cải cha mẹ để lại. Thực tế, có những cha mẹ phải chết đi trong tủi nhục vì con cái không thuận thảo yêu thương nhau.
Giờ phút này, chúng ta hãy cùng với quý cha, hiệp dâng thánh lễ thành kính cầu khẩn cho cha mẹ được sống đời với con. Chúng ta hãy thắp lên nén hương của lòng biết ơn, một bình hoa của lòng hiếu thảo, và trọn cả tấm lòng thành của những người con, dâng lên Chúa cầu cho cha mẹ. Được như thế, hi vọng chúng ta xứng đáng là những người con có hiếu, đem lại những điều tốt lành cho ông bà, cha mẹ và dòng tộc.
Và rồi, bổn phận đạo hiếu của người Công giáo không dừng lại ở việc chăm sóc, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống, nhưng còn tiếp tục thể hiện khi các ngài nhắm mắt xuôi tay.
Việc làm đó chẳng những chúng ta thực thi đạo hiếu, mà còn là một cách giáo dục cho con cái mình sau này nữa. Vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó.
Nếu chúng ta muốn sau này có nhiều người tưởng nhớ đến mình, thì ngay từ bây giờ chúng ta hãy chu toàn bổn phận đạo hiếu với cha mẹ. Hiếu thảo thì quan trọng hơn bạc tiền. Đời sau thì giá trị hơn đời này. Nếu ai trong chúng ta cha mẹ đã mất, thì hãy tưởng nhớ đến các ngài bằng việc cầu hồn xin lễ. Những đồng tiền xin lễ đó, Chúa sẽ ghi công thưởng phúc cho chúng ta gấp bội phần ở đời sau. Amen.
Người ta kể rằng: có một lần, người cha già 80 tuổi ngồi trên chiếc ghế sô-pha cùng người con trai Tết Mồng 2–71
Người ta kể rằng: có một lần, người cha già 80 tuổi ngồi trên chiếc ghế sô-pha cùng người con trai trí thức 45 tuổi. Đột nhiên có tiếng một con quạ gõ gõ cái mỏ vào ô của sổ của căn nhà.
Người cha già hỏi con trai: “Cái gì vậy?”.
Người con trai trả lời: “Một con quạ”.
ài phút trôi qua, người cha lại hỏi con trai: “Cái gì vậy?”.
Người con trả lời: “Cha, con đã nói với cha rồi. Đó là một con quạ”.
Một lúc nữa lại trôi đi, người cha già lại hỏi: “Cái gì thế?”.
Đến lúc này, có chút bực dọc, khó chịu trong giọng điệu của người con trai khi anh ta trả lời cha: “Đó là một con quạ, một con quạ”.
Một lúc lâu sau, người cha lại hỏi con trai cũng vẫn câu hỏi “cái gì thế?”.
Lần này người con trai thực sự tức giận hét vào mặt người cha già mà rằng: “Tại sao cha cứ hỏi đi hỏi lại con cùng một câu hỏi thế hả? Con đã nói bao nhiêu lần rồi, đó chỉ là một con quạ. Cha không hiểu hả?”.
Thoáng chút ngần ngừ, người cha đi vào phòng mình, mang ra một cuốn nhật kí đã cũ nát. Cuốn sổ ông giữ gìn kể từ khi người con trai ra đời. Mở một trang, người cha đưa cho cậu con trai đọc. Khi người con trai đón lấy, anh ta thấy những dòng chữ được viết trong nhật kí như sau:
“Hôm nay, đứa con trai bé bỏng 3 tuổi ngồi cùng tôi trên chiếc ghế sô-pha. Khi một con quạ đậu trên cửa sổ, con trai đã hỏi tôi 23 lần rằng đó là cái gì, và tôi cũng đã trả lời 23 lần rằng đó là một con quạ. Tôi nựng con mỗi lần nó hỏi tôi cùng một câu hỏi, lặp đi lặp lại 23 lần. Tôi không hề cảm thấy khó chịu, mà trái lại, càng yêu thương đứa con ngây thơ bé bỏng này hơn”…
Trong các tình yêu, có lẽ chỉ có tình cha, tình mẹ là bền bỉ, là kiên vững nhất. Tình cha mẹ dành cho con cái mãi mãi như sông ngòi, biển khơi. Nhưng:
“”Biển đông còn lúc đầy vơi,
Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng”.
Cha mẹ đã đánh đổi cả cuộc đời mình, chỉ mong cho con cái thành người. Niềm vui, niềm hạnh phúc và tự hào của cha mẹ là nhìn thấy sự thành công của con cái. Cho dù có phải vì con mà vất vả lao đao, cha mẹ vẫn không sờn lòng. Cho dù có vì con mà cha mẹ phải hao gầy, cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con cái lớn khôn mỗi ngày. Chính nhờ ơn cha nghĩa mẹ cao dày như thế, những người con khi đã lớn khôn, thành tài, cần phải dặn lòng:
“Trải bao gian khổ không sờn,
Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền”.
Sự nhớ ơn không phải để nói bâng quơ nhưng cần thể hiện bằng cả một tấm lòng ưu ái nhất, luôn lo lắng, quan tâm chăm sóc cha mẹ khi đã về già:
“Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi”.
Và rồi trong cuộc sống đâu phải mình muốn là được. Có những điều muốn làm nhưng lại không có cơ hội để làm. Như người con gái xa quê đã tiếc nuối khi không thể chăm sóc cha mẹ.
“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Đó chính là đạo hiếu đã ăn sâu trong tâm thức người Việt Nam chúng ta. Đạo hiếu luôn đòi buộc phận làm con phải biết sống sao cho vuông tròn ân nghĩa mẹ cha. Cho dù dòng đời có những đổi thay của làn sóng văn hóa Châu Âu hay Châu Mỹ, thì vẫn không thể phai nhòa chữ hiếu trong tâm thức của người Việt Nam. Cho dù cuộc đời có nhiều thay đổi của những xu thế thực dụng, hay những trào lưu văn hóa ngoại lai, thì người Việt Nam vẫn phải để hai chữ hiếu thảo làm đầu:
“Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá,
Ngó ra ngoài biển, thấy cặp cá đang đua,
Đi về lập miếu thờ Vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha”.
Hôm nay, ngày Mồng Hai Tết là dịp để chúng ta sống trọn chữ hiếu với mẹ cha. Chữ hiếu được thể hiện qua những món quà chúng ta dâng tặng mẹ cha được nồng ép vào đó cả một tình con thảo hiếu. Đây cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày tết được đoàn tụ bên gia đình. Ai cũng mong đón nhận những giờ phút linh thiêng nhất của ngày đầu năm bên cha mẹ ông bà. Thế nhưng, chữ hiếu không chỉ dừng lại nơi những ngày tết mới bộc lộ ra mà còn phải dàn trải trong suốt tháng năm sống bên cha mẹ. Hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Nếu những ai có cha mẹ còn trẻ hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta có một thành trì vững chắc để tựa nương. Nếu những ai cha mẹ đã già nua thì đừng xem thường và coi họ như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời khiêm tốn, lịch sự đừng cáu gắt với tuổi già. Hãy ôn tồn với các ngài vì chính họ cũng từng kiên nhẫn với tuổi thơ chúng ta. Chính các ngài đã không quản mưa nắng, mệt nhọc, thức khuya dạy sớm vì tuổi thơ chúng ta. Xin đừng ai phụ ơn nghĩa mẹ cha. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì:
“Nếu mình hiếu với mẹ cha
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công”.
Nguyện xin Chúa là Mùa xuân chúc lành cho ngày hội của các gia đình hôm nay. Xin Chúa liên kết mọi người trong tình yêu Chúa. Xin cho mọi thành phần trong gia đình biết đón nhận giây phút xum vầy ngày xuân là hồng ân của Chúa để sống cho trọn vẹn với gia đình. Amen
Người Việt nam rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự, với Tết Mồng 2–72
Người Việt nam rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó người Việt nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô giao tiếp mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi, dòng Tên, nhà truyền giáo đã đặt chân lên mãnh đất Việt nam khá sớm vào ngày 18.1.1615, có nhận xét chí lý: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” (Nguyễn Hồng”Lịch sử truyền giáo ở Việt nam”,Sài gòn 1959,tr.55).
Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên.Tôn kính tổ tiên là một cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân, ông bà cha mẹ. Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải phụng dưỡng tôn kính, vâng lời chiều ý các ngài, ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm.
Mỗi người Việt nam chúng ta có một đạo rất gần gũi, đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu.Trong mỗi gia đình người Việt, dù sang hay hèn cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng vẫn luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm, ngày tết, gia đình làm mâm cơm cúng ông bà. Tấm lòng của con cháu tỏ bày lòng hiếu thảo biết ơn. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gã chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đổ đạt… cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi việc để các ngài chứng giám. (x.Gia đình Việt nam, mãnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin mừng, thời sự thần học số 32 tháng 06/03)
Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Á châu trong đó có Việt nam. Hiếu là gốc của đức. Người ta có 100 nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu. Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung, cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.
Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng tổ tiên. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.
Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người.Dân tộc việt nam từ nam chí bắc dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh nhưng với ý niệm “Cây có cội, nước có nguồn” đều coi trọng gia lễ.
Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:
Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, người ta có gốc từ đâu, có cha có mẹ rồi sau có mình.
Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn.Biết ơn trời đất, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ. Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ,đức cù lao, ơn võng cực biển trời. Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao,dục báo chi đức,hạo thiên võng cực. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng,vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển “công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình Việt nam.Người Việt yêu chuộng những gì là tình,là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sư ”một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận ”bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích ”dĩ hoà vi quý”, độ lượng ”chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng, của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nha ”tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.
Gia đình Việt nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Người Việt quan niệm “một mẹ già bằng ba hàng dậu”, cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng, tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông. Từ lúc chưa rời vành nôi trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một ….đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm. Ngày Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình. Con cháu quy tụ chúc Tết với cử chỉ thành kính chắp tay chào lạy, dâng quà lễ mừng thọ.
Gia đình Việt nam là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức,giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con vào đời.
Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa. Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của nó. Sách giảng viên dạy: thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa. Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha,yêu mến Cha,vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa đã lên án bọn người lấy cớ để tiền của dâng cúng vào đền thờ mà trốn tránh bổn phận giúp đỡ cha mẹ. Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu.Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục.
Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Người, đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Người. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu. Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Người chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa, yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Người. Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, gĩư nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc.
Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt nam có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa,một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình việt nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Đạo Chúa dạy có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo; dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; dạy sống chan hoà,bình dị ”anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào’. Tin mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. (Quốc Văn, OP).
Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận đã đề cao vai trò gia đình,lòng thảo hiếu của con cái “chủng viện thứ nhất,đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc tài ba, chuyên môn đến đâu có thể thay thế cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng,tương lai Hội thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Đức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày ngài được ngũ tuần:”Thưa thầy mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi trên chân thầy mẹ” ( ĐHY 505).
Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc. Tin mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy sẽ mang lại mùa gặt bội thu trong Năm Thánh Truyền giáo này.
Tết âm lịch là ngày lễ hội của gia đình. Cho dù có đi làm ăn xa, mỗi người đều cố gắng trở về Tết Mồng 2–73
Tết âm lịch là ngày lễ hội của gia đình. Cho dù có đi làm ăn xa, mỗi người đều cố gắng trở về đoàn tụ với gia đình ít ra trong ba ngày Tết. Ngôi nhà ông bà cha mẹ phút chốc trở nên chật chội nhưng ấm cúng, khi con cháu từ phương xa kéo nhau về, tay bắt mặt mừng, nói cười rộn rã. Nụ cười sung sướng cũng bừng nở trên những khuôn mặt nhăn nheo vì tuổi tác, như cây khô đâm chồi trong nắng ấm xuân sang. Con cháu nghiêng mình trước bàn thờ tiên tổ thắp nén hương tưởng nhớ công đức cao dày, bày tỏ với các ngài những tâm tình thành kính tri ân và thì thầm với các ngài những điều nguyện ước. Tiếp đến, con cháu quây quần chung quanh ông bà cha mẹ còn đang sống để chúc thọ, bày tỏ lòng hiếu thảo kính yêu và để đón nhận từ các ngài những lời giáo huấn đầu năm. Tất cả đều nhằm thể hiện đạo lý dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, nói lên lòng biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đó cũng là điều mà phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ.
Người Do-thái ngày xưa cũng thường tưởng nhớ đến công đức của các vị tiền nhân qua các thế hệ trong lịch sử dân tộc. Trong bài đọc thứ I trích sách Huấn Ca, tác giả đã nêu đích danh từ các vị tổ phụ của nhân loại như ông Ađam, ông Khanốc, ông Sêm, ông Sết và ông Noê, đến các tổ phụ của dân tộc như ông Ápraham, ông Isaac, ông Giacóp; các vị lãnh đạo thời lập quốc như ông Môsê, ông Aharon, ông Giosuê, ông Samuel; các vị vua nổi tiếng như Đavit và Salomon; các ngôn sứ tuyệt vời như Êlia và Êlisa. Người Viêt Nam chúng ta cũng thường nhắc nhở cho nhau nhớ đến nguồn cội của mình là các tiền nhân của dân tộc, các tổ tiên của dòng họ và ông bà cha mẹ trong gia đình. Vì thế có câu:
Người ta có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn.
Ta do cha mẹ ta sinh ra. Cha mẹ ta do ông bà ta sinh ra. Và nếu cứ phăng ngược lên cái cây gia phả thì chúng ta sẽ gặp một cái gốc là tổ tiên của dân tộc. Vì vậy, người Việt Nam chúng ta với cái nhìn đầy tình anh em đã quan niệm tất cả mọi người đang sinh sống trên giải đất uốn cong hình chư S này đều phát xuất từ một tổ tiên chung: đó là cụ Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Tất cả dù là người Kinh, người Thái, người Nùng, người Tày, người Thổ, người Mường, người Mán, người Mèo, người Chăm, người Cơ Ho, người Bana hay Giarai, vv, đều phát xuất từ một bọc trứng duy nhất của tổ mẫu là bà Âu Cơ. Truyền thuyết kể lại rằng bà Âu Cơ sinh 100 trứng, nở ra 100 đứa con. Lạc Long Quân là Rồng, Âu Cơ là Tiên, nên tất cả trăm con đều thuộc giống nòi rồng tiên. Thời gian trôi qua, 50 con theo cha ra biển Đông, 50 con theo mẹ lên núi cao, lập nên một giải đất Việt Nam oai hùng.
Rồi cũng trong cái thời dã sử mờ xa ấy tổ tiên chúng ta đã bắt đầu định cư, đóng đô dựng nước, khai sông lấp trũng, canh tác ruộng đồng: đó là thời kỳ các vua Hùng Vương. Rồi tiếp đến đã xuất hiện trên trang sử xanh biết bao anh hùng liệt nữ có công bảo vệ non sông chống ngoại xâm như Phù Đổng Thiên Vương, hai bà Trưng, bà Triệu, Bố Cái Đại Vương, mà ngày nay đã trở thành huyền thoại của dân tộc.
Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần và những vương triều tiếp nối, đất nước Việt Nam chúng ta ngày càng được tô bồi vững chắc. Nhiều vị anh hùng mà chiến công và tài thao lược của các ngài đến nay vẫn còn sống mãi không riêng gì trong những trang sử xanh, mà còn trong lòng từng người dân Việt. Không ai trong chúng ta có thể quên được những chiến công hiển hách của Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên, của Lê Lợi và Nguyễn Trãi chống quân Minh, và nhất là trận đánh thần tốc của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn, Bình Định, chúng ta là Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, khiến cho 10 vạn quân Thanh tan tành manh giáp trong chính dịp Tết như hôm nay, đem lại sự thống nhất cho giang sơn sau nhiều thế kỷ dài chia cắt dưới thời Trịnh – Nguyễn phân tranh.
Làm sao chúng ta có thể quên ơn các bậc tổ tiên như thế khi mà ngày hôm nay chúng ta có một non song gấm vóc như thế này. Làm sao chúng ta có thể quên các ngài trong lời cầu nguyện và thánh lễ hôm nay. Mặc dù các ngài chưa biết Chúa, nhưng các ngài là những dụng cụ Chúa dùng để đem lại sự tồn tại và niềm vinh dự cho chúng ta. Chắc chắn những công nghiệp của các ngài cũng nằm trong chương trìnhcủa Thiên Chúa.
Chúng ta nhớ ơn và cầu nguyện cho các ngài, điều đó là công bình và phải đạo, bởi vì theo đức tin công giáo, sau khi chết mỗi người sẽ được Chúa phán xét tùy theo ánh sáng mà họ đã nhận được. Thiên Chúa vừa là Đấng công bình vô cùng, lại vừa từ bi nhân hậu, Người muốn tất cả mọi người đều được cứu rỗi. Vì vậy chúng ta cầu nguyện cho các ngài, vì chúng ta tin rằng các ngài đã đáp lại tiếng Chúa trong mức độ ánh sáng mà các ngài đã nhận đuợc. Chúng ta được biết Chúa nhiều thì bị đòi hỏi nhiều, còn nếu các ngài nhận được ánh sáng ít hơn chúng ta, thì các ngài bị đòi hỏi ít hơn.
Có thể nói ông bà tổ tiên của chúng ta cách đây năm sáu đời đa số đều là người lương. Chẳng lẽ ngày nay chúng ta được may mắn biết Chúa, chúng ta lại không cầu nguyện cho những ông bà cao của chúng ta ấy sao? Nếu chỉ vì ông bà cao của chúng ta là người lương mà hôm nay chúng ta không nhớ cầu nguyện cho các ngài, thì đó quả là một điều thiếu sót và bất hiếu. Về phần các thế hệ ông bà gần đây và cha mẹ đã qua đời hay đang còn sống, các ngài đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta cho nên người, đã vun xới, tô bồi và trao lại cho chúng ta gia sản vật chất cũng như tinh thần của tổ tiên, trong số đó phải kể đến gia tài đức tin. Chúng ta được sinh ra làm người từ máu huyết của các ngài và chúng ta được sinh ra làm con Thiên Chúa từ lời tuyên xưng đức tin của các ngài. Ơn sâu nghĩa nặng của các ngài chỉ có thể sánh ví: cao thì như núi Thái sơn, mà rộng thì như biển Thái Bình.
Việc đáp đền công ơn của cha mẹ và ông bà tổ tiên là một bổn phận không thể lãng quên đối với tất cả mọi người, vì nó xuất phát từ giới luật của Đấng Tạo Hóa được khắc ghi sâu đậm không thể phai nhòa trong lương tri của mỗi người và đã được chính Đức Giêsu long trọng khẳng định trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Tóm lại, về vấn đề tôn kính tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thánh Phaolô dạy rằng có một liên hệ hữu cơ giữa hạnh phúc hiện tại của mỗi người với sự hiếu thảo của họ. Điều này thật đúng, bởi vì nếu con nguời tỏ ra hiếu thảo biết ơn ông bà cha mẹ, thì cũng chứng tỏ mình hiếu thảo biết ơn Thiên Chúa. Nếu con người không biết ơn cha mẹ vì đã ban cho mình tấm hình hài và sự lo lắng dưỡng dục, không biết ơn các bậc tiền nhân đã đổ xương máu để gầy dựng giang sơn, thì làm sao con người có thể biết ơn Đấng Tạo Hóa được.
Khi con người biết ơn đời, thì họ cũng sẽ biết ơn Trời. Ngày hôm nay, nhìn lại tất cả gia sản vật chất và tinh thần mà tổ tiên đã trang trọng trao lại cho chúng ta, từ giang sơn đất nước, văn hóa ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục, chứng từ đức tin…, chúng ta thấy mình thật hạnh phúc vì được kế thừa bao điều thiện hảo. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Người đã và đang tạo lịch sử cứu độ của Người qua tổ tiên ngày xưa và qua chúng ta ngày hôm nay, để mọi người cùng được vui hưởng hạnh phúc trong Nước Trời mai sau.
Cuộc sống con người luôn có cho có nhận. Ta cho đi tình yêu thương, sự thiện hảo thì ta cũng Tết Mồng 2–74
Cuộc sống con người luôn có cho có nhận. Ta cho đi tình yêu thương, sự thiện hảo thì ta cũng nhận lại được lòng tri ân và cảm tạ. Ta cho đi sự phục vụ quảng đại thì ta cũng nhận lại được sự chia sẻ yêu thương của anh em. Thế nên, dòng chảy cuộc đời luôn đòi ta phải tạo phúc cho đời, biết sống chia sẻ yêu thương thì con sóng yêu thương mới mangphù sa yêu thương về lại cho ta.
Có câu chuyện kể rằng:
Tại làng kia, trong một gia đình nọ có ông cụ già sống với con trai, nàng dâu và hai đứa cháu nội lên 8 và 6 tuổi. Cụ già, mắt mờ, tai gần như điếc và hai đầu gối thường rung chạm vào nhau. Không trách gì mỗi lần ngồi vào bàn cơm với con cháu cụ thường ăn uống vụng về, con trai và con dâu rất lấy làm khó chịu và xấu hổ, nên sau cùng họ quyết định cho cụ ngồi ăn một mình trong góc nhà gần lò sưởi. Nàng dâu chỉ cho cụ một muôi cháo trong cái chén bằng sành cũ kỹ. Cụ già chỉ biết tủi thân mắt đẫm lệ nhìn con cháu vui vẻ trên bàn cơm.
Rồi một hôm vì quá yếu, hai tay run rẩy không cầm nổi chén cháo trên tay nên đánh rớt xuống sàn nhà vỡ tan từng mảnh. Nàng dâu không tiếc lời xỉ vả, lại còn nỡ lòng mua cho cụ một cái chén bằng nhựa chỉ đáng mấy xu mà thôi. Cụ già chỉ biết tủi thân an phận thở dài nhưng không một lời ca thán. Rồi một bữa nọ, hai đứa cháu nội ra cười chơi nhặt những mảnh sảnh từ chén cơm mẻ của ông nội đã trượt tay đánh vỡ. Suốt buổi hai anh em hý hoáy tìm cách dính những mảnh sành lại với nhau. Ba má em tìm chúng quanh nhà, sau cùng mới thấy hai anh em ngồi chơi ngoài góc vườn. Thấy vậy ba em hỏi:
– Con muốn làm gì với những mảnh sành đó? Không chút do dự, đứa em thản nhiên đáp: – Con muốn gắn những mảnh sành này lại thành cái bát, để sau này khi ba má về già như ông nội, ba má sẽ dùng chén này mà ăn.
Câu trả lời ngây thơ phát xuất từ miệng một đứa trẻ vô tội đã trở nên như tiếng sét đánh ngang tai cho cha mẹ nó. Họ đứng lặng nhìn nhau không nói một lời. Họ đã tự hiểu được hành động vô ơn bất hiếu của mình đối với người cha già đã từng nhịn đắng nuốt cay từ lâu vì những yếu đuối của tuổi già. Từ ngày đó, cụ già lại được đưa vào ngồi chung với con cái trong bữa cơm và không còn phải nghe những lời xỉ vả mỗi lần vụng về khi ăn uống nữa. Trái lại còn được chăm sóc rất chu đáo.
Hôm nay ngày Mồng Hai Tết Giáo hội mời gọi chúng ta hãy dành trọn ngày này để tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Vì trong đời một người, không ai có công lao với mình bằng cha mẹ. Và càng không có ai dám hy sinh một đời vì chúng ta ngoài cha mẹ. Ơn sinh thành, công dưỡng dục của cha mẹ thật lớn lao đến nỗi việc hiếu kính tổ tiên đã trở thành đạo của cả dân tộc Việt Nam:
“Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”.
Chân tu hiểu là sống đúng với lương tri con người. Không vì tình mà quên nghĩa. Không vì tiền mà vong ân. Người chân tu phải biết sống ân nghĩa với cha với mẹ. Sống tốt với gia đình. Sống đẹp lòng mẹ cha. Đó là nền tảng đạo đức để sau này tung cánh vào đời, trở thành kẻ có ích cho người, cho đời. “Tu thân tích đức, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Lòng hiếu thảo, đạo làm con ấy được Thiên Chúa quy định trong giới răn thứ tư: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”. Đây là giới răn duy nhất trong 10 giới răn nhận được lời chúc phúc nếu tuân giữ một cách trọn vẹn sẽ được sống lâu trên mặt đất. “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi thì ngươi sẽ được sống lâu trên mặt đất”.
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu.
Đây là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy Núi rất cao và biển rất tuyệt vời Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên đã khuất mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ Phong sắc hồng hào tâm thể khang an Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
Xin Chúa là chủ thời gian ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
Ngày xưa, với nền văn hóa nông nghiệp, có nhiều thời gian nông nhàn, việc nghỉ tết, ăn tết, Tết Mồng 2–75
Ngày xưa, với nền văn hóa nông nghiệp, có nhiều thời gian nông nhàn, việc nghỉ tết, ăn tết, vui xuân kéo dài cả tháng. Ngày nay xã hội công nghiệp, mọi sự đều phải rút ngắn thời gian, vì thế những ngày nghỉ tết, vui tết cũng bị rút ngắn lại. Cùng với sự rút ngắn thời gian, các giá trị văn hóa, tập tục truyền thống ngày tết cũng bị đơn giản lại hoặc bị bào mòn. Ví dụ: Trước đây ngày ba mươi và mồng một tết hầu như không ai ra khỏi nhà, mọi người dành trọn vẹn cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và gia đình. Đêm ba mươi cùng với việc tạ ơn trời, người Việt nam còn mời tổ tiên về ăn tết. Vì vậy đêm ba mươi, mọi người đều phải quy tụ trước bàn thờ tổ tiên để đón ông bà. Ngày mồng một, nén nhang, hoa trái, bánh kẹo đầu tiên được dâng lên tạ ơn trời, kế đến là cúng ông bà với lòng biết ơn để xin trời đất, ông bà phù hộ. Sau đó trọn ngày mồng một dành để chúc tuổi ông bà nội ngoại hai bên. Từ mồng hai trở đi sẽ là ngày đi chúc tuổi chú bác cô dì, họ hàng.
Ngày nay, các sự kiện được tổ chức vào đêm ba mươi để kéo mọi người ra khỏi nhà, cướp mất giờ phút linh thiêng giao thừa bên gia đình. Có nhiều người còn “trốn tết” bằng những cuộc du lịch dài ngày ngay từ ngày mồng một; những cuộc thăm viếng ông bà cha mẹ, họ hàng chỉ còn là thủ tục phải làm cho qua lần. Cứ như thế, tương quan gia đình ngày càng lỏng lẻo, liên hệ họ hàng ngày càng mờ nhạt, dẫn đến tình cảm và bổn phận thảo hiếu cũng bị vơi cạn, lâu dần các giá trị đạo đức cũng bị bào mòn. Có lẽ vì thế, thỉnh thoảng trên mạng lại loan truyền những đoạn clip con cái bạo hành cha mẹ, bất hiếu đuổi cha mẹ ra đường, đùn đẩy trách nhiệm chăm lo cho cha mẹ.
Ngày mồng một chúng ta được mời gọi hướng tâm hồn lên Chúa với tâm tình tạ ơn và phó dâng năm mới cho Chúa, cầu xin cho gia đình được an vui. Bước qua mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta bổn phận kính nhớ và bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người còn sống và những người đã qua đời.
Sách Huấn ca dạy chúng ta bày tỏ lòng biết ơn bằng việc học hỏi thực hành những điều cha ông truyền dạy và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp các ngài để lại: Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi các vị danh nhân cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ. Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con.Như thế, lòng biết ơn đối với tiền nhân là tiếp nối truyền thống đạo đức của cha ông mà các ngài đã dày công xây dựng, vun đắp cho gia đình và dòng họ. Là hậu sinh, chúng ta được mời gọi lưu giữ và bảo vệ thanh danh cho gia đình và dòng họ, giữ gìn nếp sống đạo hạnh mà cha ông đã tạo lập nên. Trong xã hội hiện đại, gia đình nào duy trì và vun đắp được những giá trị đạo đức truyền thống, như việc thảo hiếu, lễ phép, kính trên nhường dưới, trên thuận dười hòa, gia đình xum họp, con cháu thảo hiền, gia đình dòng họ đó sẽ êm ấm hạnh phúc. Cũng theo sách Huấn Ca: Khi các gia đình sống thư thế là chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với tiền nhân cách tốt đẹp nhất và cũng là cách chúng ta làm vẻ vang tổ tiên của gia đình hơn là xây các mồ mả cho to cho đẹp.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phản đối lối sống bất hiếu vô ơn đối với cha mẹ của những người Do Thái. Những người Biệt phái đến trách Chúa Giêsu vi phạm truyền thống của tiền nhân khi không thanh tẩy chén bát, đồ dùng trước khi dùng bữa. Chúa Giêsu chỉ cho những người này thấy giá trị truyền thống đích thực, không phải là các tập tục rửa tay, rửa bình, nhưng là phải chu toàn bổn phận thảo hiếu với ông bà cha mẹ. Chính việc thảo hiếu, tôn kính, biết ơn ông bà cha mẹ mới là giá trị truyền thống tốt đẹp và hơn nữa đó còn là giới răn lề luật của Thiên Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã đưa ra một điều luật thay thế bổn phận thảo hiếu là: Khi một người tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì được miễn mọi bổn phận phụng dưỡng báo hiếu, thờ cha kính mẹ. Việc dâng tặng lại cho nhà Chúa hoa trái và thành quả lao động của mình là điều tốt, đáng khuyến khích, nhưng Thiên Chúa không chấp nhận lễ dâng với sự vô ơn bất hiếu với cha mẹ như thế.
Chúa Giêsu đã phản đối điều luật này vì nó vi phạm trầm trọng đến giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Hãy thảo kính cha mẹ. Theo quan điểm của Chúa Giêsu, không có bất cứ thứ gì có thể đánh đổi hoặc thay thế được giới răn này của Thiên Chúa. Vì cha mẹ chính là những người được Thiên Chúa cho cộng tác với Chúa để sinh ra chúng ta. Cũng qua cha mẹ, Thiên Chúa tiếp tục yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ chúng ta. Vì thế, tất cả mọi người đều có bổn phận hiếu thảo, thờ cha kính mẹ, ai không chu toàn bổn phận này thì cũng là lỗi giới răn Thiên Chúa.
Qua thư Ephêsô, thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta bổn phận đối với cha mẹ: Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất kèm theo lời hứa: Để ngươi được hưởng thọ trên mặt đất này. Vâng lời cha mẹ không chỉ thể hiện sự thảo hiếu ngoan hiền đối với cha mẹ, mà vì cha mẹ là những người luôn yêu thương ta, hy sinh cả cuộc đời cho ta, chỉ dạy ta những điều tốt lành. Cha mẹ nhiều kinh nghiệm hơn ta và luôn muốn điều tốt cho ta. Nghe lời cha mẹ, chúng ta sẽ học được sự khôn ngoan và trưởng thành.
Mỗi người chúng ta mắc nợ cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Kể sao hết công cha nghĩa mẹ vì chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nhiều năm dài nuôi ta khôn lớn; đong sao hết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, sức lực các ngài đã phải hao mòn vì con cái; đếm sao được biết bao đêm mất ngủ, biết bao ngày lo toan khi ta đau yếu bệnh tật vv. Phận làm con, khi khôn lớn, ta có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng gia đình với cha mẹ, chia sẻ với các ngài những lo toan của cuộc sống kinh tế gia đình, để các ngài bớt phần vất vả. Khi cha mẹ lớn tuổi, chúng ta phải chăm sóc, yêu thương, kính trọng và phục vụ các ngài. Khi các ngài yếu đau, trí nhớ giảm sút, con cái phải hết sức kiên nhẫn và lễ phép với cha mẹ, vì khi ta còn nhỏ, các ngài cũng đã hết sức kiên nhẫn và quảng đại với chúng ta. Cha mẹ đã đổ biết bao nước mắt vì chúng ta, khi cha mẹ về già, chúng ta phải đem niềm vui đến cho các ngài đừng để các ngài phải đổ thêm những giọt nước mắt khổ đau buồn tủi nữa.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày đoàn viên xum họp gia đình, ông bà, cha mẹ, con cháu quây quân bên nhau. Gia đình nào cũng mong ước có một bầu khí ngày tết xum vầy như thế. Tuy nhiên, không phải tất cả các ông bà, cha mẹ đều có được niềm vui hạnh phúc trọn vẹn bên con cháu. Thời nay, con người trọng tiền hơn trọng tình. Vì thế, nhiều người con đã rất thiết sót bổn phận với cha mẹ, bổn phận thảo hiếu phụng dưỡng cha mẹ được tính toán theo giá đất, được quy ra thành tiền. Có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ không phải vì biết ơn, mà vì ngóng trông phần hơn, khi chia tài sản của cha mẹ. Khi cha mẹ nghèo khó, hết tiền, hết của, con cái đùn đầy nhau trách nhiệm trông coi, nuôi dưỡng. Có những người con đem cha mẹ mình quăng ra đường hoặc hắt hủi cha mẹ như con ăn đầy tớ trong nhà.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc lại bổn phận kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, để mỗi người rà soát lại xem mình đang chu toàn bổn phận thảo hiếu cách vuông tròn chưa. Chắc chắn cha mẹ sẽ không sống mãi với chúng ta, vì thế ai còn cha mẹ hãy làm cho cha mẹ cảm thấy an vui hạnh phúc trong tuổi già. Những ai đã không chu toàn hoặc đã từng đối xử tê bạc với cha mẹ, cần điều chỉnh lại thái độ của mình với cha mẹ.
Ngày hôm nay cũng nhắc cho chúng ta nhớ đến các bậc đã qua đời bằng việc chu toàn việc đọc kinh, cầu nguyện, xin lễ và nhắc cho con cháu cầu nguyện thường xuyên cho ông bà. Nhắc cho con cháu biết ơn ông bà cách riêng các dịp giỗ chạp; chăm sóc cho bàn thờ tổ tiên trong gia đình, đừng để tắt hương lạnh khói vì sự vô ơn hay vô tình của mình. Hôm nay ta chu toàn bổn phận thảo hiếu, biết kính trong cha mẹ ông bà, sau này con cái cũng theo gương đó mà kính trọng biết ơn ta.
Xin Chúa ban niềm vui và bình an xuống trên tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng con, vì các ngài dã một đời hy sinh vất vả vì chúng con. Xin Chúa ban cho các gia đình được hanh phúc trên thuận dưới hòa, con cháu thảo hiền Amen.
Hôm nay Mồng Hai Tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta kính nhớ tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Thánh Lễ Tết Mồng 2–76
Hôm nay Mồng Hai Tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta kính nhớ tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Thánh Lễ hôm nay cũng là dịp để nhắc nhở chúng ta nhớ đến cội nguồn của mình, đồng thời cũng là để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành và dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ của mỗi người chúng ta.
Anh chị em thân mến, người Á Đông chúng ta nói chung, cách riêng là người Việt Nam, người Việt Nam chúng ta rất coi trọng chữ hiếu mà ta gọi đó là đạo hiếu. Nhớ đến công ơn của cha mẹ vất vả ngược xuôi để nuôi ta khôn lớn, phận làm con thì phải biết nhớ đến công lao của cha mẹ, mà để nhớ đến công ơn của cha mẹ thì chúng ta phải sống sao cho tròn chữ hiếu, đó là đạo hiếu thì mới đáng gọi là đạo làm con. Kẻ làm con thì phải biết lấy chữ hiếu làm đầu. Trong con người ta ai ai cũng biết, trong các tội người ta phạm, thì tội bất hiếu phải kể là tội nặng nhất. Chính vì thế mà từ lúc ấu thơ con người ta đã được giáo dục:
Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Và sự hiện diện của mỗi người chúng ta ở trên cõi đời này không phải là một sự xuất hiện ngẫu nhiên, nhưng là do sự an bài của Thiên Chúa, và đó là cả một công trình vĩ đại, là một chuỗi dài yêu thương của Thiên Chúa từ Ađam cho đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và rồi lại đến mỗi chúng ta như trong ngày hôm nay đây. Trong đời sống người Kitô Hữu chúng ta, thì chữ hiếu rất được coi trọng. Hiếu thảo đối với cha mẹ là một trong mười điều răn mà Chúa đã dạy: “Thứ bốn hãy thảo kính cha mẹ”. Như vậy chúng ta thấy rằng: Đây là điều răn quan trọng mà Chúa dạy chúng ta trong đạo làm người.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cũng chung quy là chữ “hiếu”, chữ “hiếu” dạy chúng ta không những biết ơn mà còn tôn vinh những bậc vĩ nhân và các tổ phụ của chúng ta qua mọi thời. Trong thư gởi tín hữu Êphêsô thánh Phaolô còn dạy ta: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Chúa Giêsu cũng nhắc lại Lời Chúa trong Sách Xuất Hành và Lêvi cho chúng ta rằng: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ mình thì phải bị xử tử”. Chúa Giêsu không những nhắc nhở cho con người về đạo làm con, mà chính Ngài từ muôn thuở đã luôn là người con đẹp lòng Chúa Cha. Hơn nữa khi nhập thể làm người, thì Ngài cũng luôn thảo kính, vâng phục Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse.
Theo truyền thống tốt lành của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ngày Mồng Hai Tết là ngày con cháu kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Hôm qua, ngày đầu năm mới, trước hết ta thờ kính Chúa, tạ ơn Chúa và xin Ngài ban bình an; hôm nay, ngày Mồng Hai Tết, ta thảo kính tổ tiên, ông bà và cha mẹ.
Để tỏ lòng thảo hiếu đối với những đấng sinh thành, thì khi cha mẹ còn sống ta phải tỏ lòng yêu mến và biết ơn, đồng thời còn phải thực hiện bằng việc giúp đỡ cha mẹ nhất là khi các ngài đã cao niên. Tất nhiên là nuôi người già cả không phải là chuyện dễ dàng gì. Khi cha mẹ đã qua đời, ta luôn nhớ để cầu nguyện cho các ngài. Vậy ngày Mồng Hai Tết hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về bổn phận hiếu thảo với các bậc tổ tiên, ông bà và cha mẹ.
Và giờ đây, chúng ta hãy cậy nhờ Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng ta, xin Mẹ nhắc nhở chúng ta về bổn phận hiếu thảo với các bậc tổ tiên, ông bà và cha mẹ. xin Mẹ ban ơn giúp sức để chúng ta biết chăm sóc, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống; biết dâng một nén hương, một lời nguyện cầu lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên, ông bà và cha mẹ đã qua đời, để ngày Xuân của chúng ta không chỉ là mùa xuân của ân nghĩa đối với nhau mà còn là mùa xuân của lòng báo hiếu với người đã khuất. Amen.
---------------------------------
Tết Mồng 2–77: SỐNG THẢO KÍNH VỚI TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ
Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng
Chúng ta bắt đầu chia sẻ của chúng ta trong ngày mồng hai tết hôm nay với mẩu chuyện đơn sơ Tết Mồng 2–77
Chúng ta bắt đầu chia sẻ của chúng ta trong ngày mồng hai tết hôm nay với mẩu chuyện đơn sơ sau:
Một buổi chiều mùa xuân thật đẹp, người mẹđi làm về chưa kịp nghỉ ngơi thì cô con gái 15 tuổi đến bên và đặt trước mặt một tờ “hoá đơn” cần thanh toán, trong đó ghi: “Lau nhà –50 ngàn; giặt đồ-50 ngàn; đưa đón em đi học –50 ngàn; nấu cơm rửa chén –50 ngàn. Tổng cộng: 200 ngàn.” Nhìn tờ “hoá đơn” cần thanh toán của cô con gái, người mẹ mỉm cười cách dịu dàng. Bà lấy viết, trở ngược mặt giấy và viết: “Cưu mang con 9 tháng 10 ngày trong bụng –không lấy tiền; nuôi con ăn học cho đến hôm nay –không lấy tiền; bao đêm thức khuya để chăm sóc con khi đau ốm –không lấy tiền; tiếp tục làm việc để nuôi dạy con thành người –không lấy tiền. Tổng cộng: Chỉ có tình yêu và tha thứ.” Người mẹ trao lại “hoá đơn” cho cô con gái yêu của mình. Đọc những lời này, cô gái ngã vào lòng mẹ và chảy những giọi nước mắt hạnh phúc vì hồng phúc có cha có mẹ, là những người luôn âm thầm yêu thương và chăm sóc mình.
Ai trong chúng ta cũng biết nằm lòng câu: “Chim có tổ, nước có nguồn, con người có tổ có tiên.” Tự bản chất, con người luôn hướng về cội nguồn của mình vì “lá rơi về cội.” Điều buồn nhất cho một con người là không biết cội nguồn của mình. Nếu chúng ta có dịp thăm các em trong trại mồ côi, chúng ta sẽ nhận ra điều này. Theo bản tính tự nhiên của con người, các em cũng mong có cha có mẹ để gọi, mong một mái ấm gia đình để được chăm sóc và lớn lên, và mong có những người thân để tương quan. Tự bản chất, con người là một hữu thể xã hội. Con người không thể lớn lên và phát triển những tiềm năng của mình nếu không có tương quan với người khác, nhất là với “cội rễ” của mình.
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta tìm thấy lời ca ngợi các bậc vĩ nhân, là những tổ tiên ông bà của chúng ta. Khi phân tích những lời của Sách Huấn Ca, chúng ta nhận ra mối tương quan chặt chẽ giữa các thế hệ: Đức hạnh của thế hệ trước sẽ mang lại hoa trái cho thế hệ con cháu. Sách Huấn Ca còn nhắn nhủ con cháu đừng quên những gì mà tổ tiên ông bà cha mẹđã làm cho họ: “Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại; vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44:10-15). Những lời này nhắc nhở phận làm con cháu về những gì mình có là nhờ công đức của các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ. Món quà lớn nhất và là món quà nền tảng nhất mà không có nó con người không thể có được những món quà khác đó là món quà sự sống mà mỗi người lãnh nhận từ cha mẹ mình. Những người làm con làm cháu phải luôn nhớ rằng: Dù cha mẹ không cho chúng ta sự giàu sang về của cải vật chất hay danh tiếng trong đời; nhưng họ cho chúng ta món quà đẹp nhất mà họ có thể ban tặng, đó là sự sống. Người ta thường nói: Hiện hữu thì tốt hơn là không hiện hữu. Hay nói cách đơn giản là: Có một đồng trong túi vẫn tốt hơn không có đồng nào. Cho nên, hãy sống cho xứng đáng với sự sống mình đã nhận được.
Trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta về các tương quan trong gia đình. Về phần con cái, “phải biết vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo.Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứnhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này.”Còn những bậc làm cha mẹ, “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Eph 6:1-4). Trong những lời này, Thánh Phaolô nhắc nhở con cái vềđiều mà họ khó thực hiện nhất, đó là “vâng phục.” Con cái thường không muốn vâng phục và lệ thuộc vì nghĩ cha mẹ không hiểu mình, hoặc nghĩ cha mẹ là những người cổ hủ lạc hậu, không bắt kịp với thời đại. Nhưng nếu concái suy nghĩ cẩn thận sẽ nhận ra rằng: Khi cha mẹ còn nhắc nhở là còn yêu thương vì muốn mình nên tốt và không muốn mình ân hận sau này về sự bồng bột của mình. Là những người đã trải nghiệm cuộc sống, cha mẹ biết có những nguy hiểm chờđợi con cái trước mắt. Một người đã vượt qua núi cao sẽ biết những mệt nhọc và khó khăn mà những người muốn vượt qua nơi đó phải đối diện. Hãy “vâng phục cha mẹ theo tinh thần của Chúa” đểđạt được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này.” Tuy nhiên, để con cái vâng phục, cha mẹ phải sống đời sống đức hạnh, “đừng làm con cái tức giận.” Cha mẹ phải giáo dục con cái với sự kiên nhẫn, hiền lành và khiêm nhường. Đôi khi cha mẹ cũng phải biết khiêm nhường nhận lỗi với con cái về những sai sót của mình. Các bậc cha mẹ hãy luôn nhớ rằng: Con cái là ân ban của Chúa, chúng thuộc về Chúa. Nên phải thay mặt Chúa để giáo dục con cái trưởng thành trong đường lối của Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy chúa Giêsu phân biệt giữa truyền thống của tiền nhân hay còn gọi là truyền thống của con người và điều răn của Thiên Chúa: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? (Mt 15:3). Chúa Giêsu áp dụng điều này vào trong việc hiếu thảo với cha mẹ. Có một sự khác biệt rất lớn giữa điều Thiên Chúa muốn chúng ta trong việc đối xử với cha mẹ và điều chúng ta nghĩ chúng ta có thể làm để “tỏ lòng” hiếu thảo với cha mẹ: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi,thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa.’ Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15:4-6). Đây là điều chúng ta sẽcùng nhau chia sẻ cách thành thật trong điểm cuối cùng.
Thông thường, chúng ta đi ra nghĩa trang ngày mồng hai tết để viếng mồ hoặc tổ chức thánh lễcầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, và cha mẹđã qua đời. Đây là điều mà chúng ta có thể làm cho những người thân của mình mà Thánh Phaolô nói đến trong bài đọc 2: “Dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi” (Eph 6:18). Tuy nhiên, một thực tếđau lòng mà chúng ta phảixét lại chính thái độ sống của chúng ta với ông bà cha mẹ khi chúng ta ra viếng mồcác ngài. Thực tếđau lòng đó là: Nhiều người trong chúng ta chờđến lúc quá muộn để yêu thương và chăm sóc ông bà cha mẹ, tức là chúng ta chờđến khi các ngài đã khuất rồimới tiếc nuối là đã không yêu thương, không chăm sóc các ngài cho đủ. Chúng ta tốn thật nhiều tiền đểxây những nấm mồ thật đẹp và thật to. Nhưng khi các ngài còn sống, chúng ta lại tiếc từng đồng khi biếu cho các ngài. Người ta thường nói: “Nước mắt chảyxuôi chứ không bao giờ chảy ngược” hoặc “Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày.” Quả là đúng như thế! Hãy chăm sóc và yêu thương ông bà cha mẹ ngay ngày hôm nay. Hãy thảo hiếu và vâng phục các ngài, đừng để những ngày còn lại của cuộc sống các ngài phải sống trong buồn phiền và nước mắt.
Tuy cách đón mừng và ăn Tết của người Công giáo Việt Nam có đôi chút khác biệt với cách đón Tết Mồng 2–78
Tuy cách đón mừng và ăn Tết của người Công giáo Việt Nam có đôi chút khác biệt với cách đón mừng và ăn Tết của truyền thống văn hóa dân tộc Việt, nhưng Giáo Lý Ki-tô giáo và Văn Hóa Việt có điểm rất giống nhau là cả hai đều coi trọng Đạo Hiếu tức đạo làm con và lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì thế mà trong ngày Mồng Hai Tết, chúng ta kính nhớ tổ tiên là những bậc lập quốc và những anh hùng chiến sĩ đã lầy máu đào để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam. Chúng ta cũng có thể hiểu rộng ra và coi là ân nhân/thân nhân của chúng ta tất những người đang xây dựng và bảo vệ quê hương bằng việc canh giữ biển đảo, biên giới hay bằng việc lao động sản xuất làm ra của cải vật chất, tạo ra sản phẫm và đem ngoại tệ về cho dất nước.
Chúng ta còn kính nhớ ông bà cha mẹ là các bậc đã sinh thành và dưỡng dục chúng ta nên người và nên người Ki-tô hữu. Chúng ta còn kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ là những người đã đón nhận, đã sống và truyền đạt Tin Mừng Cứu độ của Thiên Chúa cho chúng ta trong lòng Giáo Hội Việt Nam.
Chúng ta hãy thể hiện lòng biết ơn đối với tất cả các đấng bậc ấy và dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ đầu năm. Việc tốt đẹp và ý nghĩa nhất mà chúng ta phải làm là tìm kiếm Thiên Chúa và thực hành Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giê-su đã sống và giảng dậy như là Bản Hiến Chương Nước Trời.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Xp 2,3; 3,12-13): Anh em hãy tìm kiếm Người.
2/3 Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, anh em hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường thì may ra anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa.
3/12 Cả các ngươi nữa, hỡi dân Cút, các ngươi sẽ là mồi cho gươm của Ta. Kẻ thù ở phương Bắc: Át-sua 13 Đức Chúa sẽ dang tay đánh phạt phương Bắc và tiêu diệt Át-sua; Người biến Ni-ni-vê thành chốn hoang tàn, thành nơi khô cằn như sa mạc.
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (1 Cr 1, 26-31): Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.
26 Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. 27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; 28 những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, 29 hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người. 30 Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, 31 hợp như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Mt 5,1-12a): Tám mối phúc 1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. 2 Người mở miệng dạy họ rằng:
3 "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
4 Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
5 Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
7 Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.
11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại
và vu khống đủ điều xấu xa.
12 Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- là Đấng đã ưu tiên yêu thương những người bé nhỏ và kêu gọi họ tìm kiếm Người (bài đọc 1).
- là Đấng đã chọn và dùng thánh Phao-lô mà giảng dậy chúng ta sống khiêm nhường và biết ơn đối với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô (bài đọc 2).
- là Đấng đã mời gọi chúng ta sống Tám Mối Phúc Thật như Chúa Giê-su Ki-tô đã sống và giảng dậy (Bài Tin Mừng). Người xem Tám Mối Phúc là Hiền Chương Nước Trời mà Người xây dựng giữa trần thế.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta sống Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giê-su đã sống và rao giảng.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Chúa của lịch sử loài người, Đấng có quyền thay đổi mọi sự
Sống với Thiên Chúa là Đấng đã chọn và dùng thánh Phao-lô trong việc giảng dậy chân lý đức tin.
Sống với Thiên Chúa là Đấng đã sinh xuống làm người và sống Tám Mối Phúc Thật và mời gọi mọi Ki-tô hữu sống Tám Mối Phúc Thật ấy như Ngài đã sống.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là thực hành Tám Mối Phúc Thật trong đời sống thường ngày của chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 "Anh em hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường thì may ra anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người sống trên thế gian này biết tìm kiêm sự công chính, khiêm nhường và chính Thiên Chúa để được Thiên Chúa đoái thương trong ngày xét xử.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và toàn thể giáo dân để mọi thành phần Dân Chúa biết sống khiêm nhường giản dị theo gương Chúa Giê-su Ki-tô.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết trân quý và thực hành Tám Mối Phúc mà Chúa Giêsu đã rao giảng và xem là Hiền Chương Nước Trời.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người bị bách hại vì công lý và sự thật, để họ được ơn trung kiên trong sứ mạng khó khăn mà Thiên Chúa đã giao cho họ.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Ngày 09 tháng 02 năm 2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Có một câu chuyện về tình mẹ rất đẹp được kể lại như sau: Mẹ tôi chỉ có một con mắt. Tôi ghét Tết Mồng 2–79
Có một câu chuyện về tình mẹ rất đẹp được kể lại như sau: Mẹ tôi chỉ có một con mắt. Tôi ghét bà ấy…bà ấy là sự xấu hổ của tôi. hôm đó, mẹ tôi tới trường. bạn bè chế nhạo tôi: ”Mẹ mày chỉ có một mắt thôi à ?” Tôi ước là mẹ tôi có thể biến mất khỏi thế giới này và tôi nói với bà ấy, “ Mẹ, sao mẹ lại có một con mắt, Mẹ chỉ biến con thành trò cười thôi. Sao mẹ không chết đi?” Mẹ tôi không hề đáp lại... Sau đó, tôi học hành rất chăm chỉ. Tôi bỏ mẹ tôi đến hàn quốc và học tập... Rồi tôi kết hôn, tôi mua nhà … và tôi sống rất hạnh phúc như một người đàn ông thành đạt. Tôi thích sống ở đây vì nơi này tôi không nhớ đến mẹ.
Một lần tôi về quê dự lễ khánh thành của một trường học, bà mẹ mà tôi ghét nhất đã đến, Và tôi hỏi bà ấy, “ Bà là ai, Tôi không biết bà”. Rồi tôi hét lên với bà ấy “ai mời bà đến đây, Ra khỏi đây ngay” Và mẹ tôi nhẹ nhàng đáp, ‘ xin lỗi, tôi rất xin lỗi, tôi đã đến nhầm địa chỉ,” và bà ấy biến mất… Một ngày sau, tôi thấy mẹ tôi nằm chết xỏng xoài bên lề đường, tôi không hề rơi một giọt nước mắt. Bà ấy nắm trong tay một mảnh giấy... đó là một bức thư cho tôi. Bà viết: Con trai, đến bây giờ mẹ đã sống đủ rồi. mẹ nhớ con nhiều. Đối với con, mẹ rất xin lỗi vì mẹ chỉ có một mắt, vì đó là sự xấu hổ cho con. Con biết không, khi con còn nhỏ, con bị một tai nạn, và mất đi một con mắt. Là một người mẹ, mẹ không thể chịu đựng được việc chứng kiến con lớn lên với chỉ có một con mắt …. vì vậy mẹ đã cho con con mắt của mẹ… mẹ rất tự hào về con trai của mẹ, vì con là người thay mẹ nhìn thấy cả một thế giới mới bằng con mắt của mẹ. Nhiều lần con nổi giận với mẹ, nhưng Mẹ không bao giờ buồn vì bất cứ việc gì con đã làm. Mẹ rất nhớ những ngày còn bé con ở bên mẹ. (ký tên) Mẹ yêu của con. Đọc xong bức thư, Thế giới của tôi sụp đổ. Tôi đã ghét người mà chỉ sống vì tôi. Tôi khóc cho Mẹ tôi, tôi không biết cách nào để có thể bù đắp lại những việc làm tồi tệ của tôi….
Thưa… đó là câu chuyện kể về tình mẹ, còn tình cha thì sao ? Hồi đó gia đình nghèo khó. Mẹ mất sớm, cha tần tảo nuôi 3 anh em nên người. Nhà gần sông, nhưng cha đau yếu, ít khi có được con cá mà ăn… Mỗi lúc ăn những con cá nhỏ, cha thường bảo: “Để tao ăn đầu và xương”. Nó nói: “Tại sao hả cha?” Cha nó nói vẻ mặt nghiêm nghị: “Vì cha già rồi, hay đau đầu, nên ăn đầu thì nó sẽ bớt đau, cha xương yếu, ăn xương thì sẽ cứng xương”. Nó và hai đứa em đinh ninh là cha nói thật. Đến bữa nó nhanh nhẩu xẻ đầu và xương cho cha, còn ba anh em tranh nhau phần thịt… Anh em nó lớn lên, có thể đi sông mò cua, bắt cá, đời sống gia đình khấm khá hơn. Chúng đã hiểu và đủ nhận ra cha “nói dối” chuyện ăn đầu và xương cá. Hôm ngày giỗ của cha. Nhìn di ảnh ba gầy còm, nở một nụ cười tươi sáng. Nhìn con cá chiên to đùng, vàng tươm mỡ… đặt lên bàn thờ, nó chợt bất giác rơi lệ. Một cơn đau từ đâu hiện về nhói lòng vô tận. Vừa khấn vái, nó lại bất giác kêu lên những tiếng “cha” từ trong cổ họng. Đến lúc ra bàn ăn. Nhìn đứa con gái đang xẻ thịt con cá, để bỏ đi phần đầu và xương. Nó giữ tay con gái lại: “con gái, để cha ăn đầu và xương, đừng bỏ đi”. cô con gái thắc mắc “Sao hôm nay ba lại ăn đầu, nó lắm xương, nó sẽ làm đau ba đấy”. Nó xoa đầu con gái, “Dạo này ba hay đau đầu, nên ăn đầu sẽ hết đau con gái à”. Nó vừa ăn, vừa cố cho những giọt nước mắt không tràn xuống bát cơm.
Thưa… tình cha tình mẹ là như vậy, và không lời nào có thể diễn tả hết tình mẹ tình cha, không bút mực nào có thể tát cạn được công cha nghĩa mẹ. Trong những ngày lễ tết hay giỗ chạp, người ta cũng không quên nhắc đến nguồn cội gốc rễ, là những bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, những đấng đã sinh thành, dưỡng dục và chăm lo cho đời sống con cái, cháu chắt nên người. Đó là truyền thống đạo đức rất đáng trân trọng của người Việt Nam. Và truyền thống đạo đức ấy của dân tộc không đi ngược lại với niềm tin Kitô giáo. Trái lại, “lương giáo” đều có chung một chữ hiếu. Tuy là hai con đường, nhưng có chung một chữ hiếu. Chữ hiếu được biểu lộ qua lòng hiếu thảo của con cái, cháu chắt, luôn nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà cha mẹ. Trong đạo gia tộc, chữ hiếu được diễn tả và được thực hiện bằng nhiều cách: khi ông bà cha mẹ còn sống, con cháu sẽ vây quanh để biểu lộ sự tôn kính, vâng phục, phụng dưỡng hết lòng ; khi các ngài khuất bóng, con cháu luôn nhớ đến trong những ngày giỗ kỵ, lễ tết, qua việc nhắc nhở nhau tụ họp lại để kính nhớ. Theo tập tục, con cháu sẽ lập bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ với đèn nhang, hoa quả đầy ắp.
Riêng đối với những người Công giáo chúng ta, thì Giáo Hội dành riêng ngày Mùng Hai Tết hôm nay để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Qua những lời cầu và qua các bài sách thánh hôm nay, thì việc kính nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ không những là một đạo hiếu, mà còn là một lệnh truyền của Thiên Chúa. Điều răn thứ bốn trong mười điều răn đã dạy: “Thưa bốn, thảo kính cha mẹ”. Như vậy, việc thảo kính đối với ông bà cha mẹ còn đòi buộc chúng ta phải có nghĩa vụ, và trách nhiệm đối với ông bà cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần. Khi các ngài khỏe mạnh, cũng như lúc các ngài già cả yếu đau, và ngay cả khi qua đời, chúng ta vẫn một lòng biết ơn, phụng dưỡng và cầu nguyện cho các ngài. Như vậy, người theo “đạo Chúa” lại càng phải giữ “đạo hiếu” đối với tổ tiên ông bà.
Ngày Xuân, dịp Tết, nếu chúng ta còn cha còn mẹ, thì thật hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang có cha mẹ sống đời với chúng ta. Và chúng ta đã hiếu thảo đối với cha mẹ như thế nào ? Cha mẹ đã vì chúng ta mà bỏ biết bao công sức, đổ bao giọt mồ hôi nước mắt, chỉ vì mong cho cho chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Như vậy, chúng ta hãy yêu quý cha mẹ, và cố gắng giữ trọn chữ hiếu, cho xứng đáng là người con của cha mẹ. Hãy hành động ngay khi cha mẹ còn sống, cụ thể là ngay trong dịp Tết này… Còn nếu chúng ta cứ chần chừ, thì có thể chúng ta sẽ hối hận, bởi vì nhiều khi cũng không còn kịp nữa…
Có một cô gái kể lại tâm sự của mình như thế này: Lần thứ nhất, cô nói với mẹ, mẹ ơi, “Con muốn ăn bánh”. Mẹ cô nói: “Được được, để mẹ mua thật nhiều bánh cho con ăn, cho con mau lớn”. Và mẹ mua rất nhiều bánh kẹo cho con ăn thỏa thích… Lần thứ hai, cô nói với mẹ, mẹ ơi, “Con muốn quần áo mới”. Mẹ cô nhanh miệng trả lời: “Ừ, con đi chợ với mẹ, con muốn quần áo mới nào thì mẹ mua cho con”. Và mẹ mua nhiều quần áo mới, cho con mặc thoải mái… Lần thứ ba, cô nói với ba mẹ: Ba mẹ ơi, “Con muốn kết hôn”. Ba mẹ cô nhìn cô, rồi ba cô mỉm cười nói: “Quá tốt, để ba mẹ dọn cho con một đám cưới thật linh đình”. Và ba mẹ dọn cho con một đám cưới thật linh đình… Lần thứ tư, vài năm sau đó, đứa con quỳ gối trước mộ của cha mẹ khóc không thành tiếng, và cô ấy nói: “Cha mẹ ơi, Con muốn cha mẹ về với con”. Nhưng lần này, dù đứa con có nói gì đi nữa, thì cũng không nhận được một lời hồi âm nào của cha mẹ.
Thưa… hôm nay ngày tết, ngày xuân, con cái trở về sum vầy bên cha mẹ, không phải để nhận bao lì xì, cũng không phải để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh, mà chính yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lên lời cám ơn các ngài, và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu sâu thẳm, mà các ngài dành cho con cho cháu. Đây là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để con cháu khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành ra mình: Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ - Phong sắc hồng hào tâm thể khang an. Lạy thứ hai con kính mừng tuổi cha - Kính dâng cha niềm an bình hạnh phúc.
Còn đối với những người đã qua đời, thì đây là dịp để con cái biểu lộ chữ hiếu, qua việc xin lễ, đọc kinh cầu nguyện, dâng những hy sinh, dâng hương, dâng hoa quả, để kính các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ đã khuất, và nhớ lại biết bao hy sinh cực khổ mà các ngài đã dành cho con cháu. Có người nhớ về công cha nghĩa mẹ mà không cầm được nước mắt:
Cuộc đời bao nỗi đắng cay - Nhìn về cha mẹ, lệ cay nghẹn ngào Hôm nay nước mắt tuôn trào - Nhớ ơn cha mẹ, cả đời cưu mang
Và khi không cầm được nước mắt, chúng ta nhận ra, mình không thề nào đáp đền hết công ơn trời bể, mà cha mẹ đã dành cho mình.
Con đây chẳng nói nên lời - Nghẹn ngào nước mắt, lòng này khắc ghi Lạy cha lạy mẹ con quỳ - Công ơn trời biển, đời đời không quên.
Xin Chúa là Chúa của mùa Xuân, ban cho chúng con một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa Xuân chúc lành cho ngày sum họp gia đình chúng con được đằm thắm yêu thương, được ấm áp thuận hòa, và được bình an hạnh phúc luôn mãi. Amen.
Lm. Anrê Lê Văn Chương (Giảng lễ mồng 2 Tết Tân Sửu, tại Đất thánh Cồn Phước quê nhà 13-2-2021)
Mỗi người Việt Nam chúng ta có một đạo rất gần gũi, đó là đạo ông bà hay Đạo Hiếu. Trong mỗi Tết Mồng 2–80
Mỗi người Việt Nam chúng ta có một đạo rất gần gũi, đó là đạo ông bà hay Đạo Hiếu. Trong mỗi gia đình người Việt dù sang hay hèn cũng giành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng vẫn luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm, ngày tết, gia đình làm mâm cơm cúng cho ông bà.
Tấm lòng của con cháu tỏ bày lòng hiếu thảo biết ơn. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt… Cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi việc để các ngài chứng giám.
Dân tộc Việt Nam rất coi trọng tình cảm gia đình. Trong ca dao có rất nhiều câu nói về tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Có lẽ không ai là không biết đến bài ca dao đã trở thành lời ru quen thuộc tự bao đời: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Nói về công lao của cha mẹ, câu ca dao trên đã đưa ra những hình ảnh to lớn, vĩnh hằng, giàu sức biểu cảm để so sánh và chỉ có những hình ảnh vĩ đại ấy (núi Thái Sơn, nước trong nguồn) mới diễn tả nổi. Thái Sơn là một ngọn núi cao và đẹp nổi tiếng ở Trung Quốc, tượng trưng cho những gì lớn lao, vĩ đại trong văn chương. Khi so sánh Công cha như núi Thái Sơn, nhân dân ta muôn nhấn mạnh công lao của người cha trong việc nuôi dạy con cái trưởng thành. Còn hình ảnh nước trong nguồn chảy ra khẳng định tình yêu thương vô hạn của người mẹ đối với đàn con.
Người xưa ví công cha với ngọn núi cao chất ngất, còn nghĩa mẹ lại so sánh với nước trong nguồn bất tận. Đọc kĩ bài ca dao, ta sẽ ngạc nhiên trước chi tiết rất tinh tế, sâu sắc này. Nhà thơ dân gian đã khai thác sự khác biệt về tâm lí và cách biểu hiện tình cảm của cha mẹ và sự cảm nhận của các con mà chọn hình ảnh so sánh cho hợp lí. Vì thế chữ công hướng về cha, chữ nghĩa hướng về mẹ. Hình ảnh núi và nước nguồn phù hợp với vai trò và vị trí của cha mẹ đối với con cái nhưng cả hai đều tượng trưng cho sự lớn lao, vô cùng, vô tận.
Trước hết, cha mẹ có công sinh ra các con. Không có cha mẹ thì không thể có con cái. Bất cứ một anh hùng hay vĩ nhân nào cũng được sinh ra từ cha mẹ của mình. Cha mẹ đã chia sẻ một phần máu thịt để các con có mặt trên đời.
Cha mẹ cũng là người nuôi dưỡng các con từ khi mới chào đời cho đến lúc trưởng thành. Mẹ nuôi con bằng dòng sữa ngọt lành. Cha mẹ thay nhau chăm sóc mỗi khi con trái gió trở trời. Cha mẹ ra sức làm lụng để nuôi con khôn lớn. Từ một hình hài nhỏ xíu cho đến khi biết đi, biết đọc, biết viết, biết nấu cơm, quét nhà, biết làm lụng để tự nuôi thân đâu phải là chuyện ngày một, ngày hai. Các con lớn dần lên cũng là lúc cha mẹ già yếu. Cha mẹ đã dành cho đàn con tất cả sức lực của mình. Công lao ấy kể sao cho hết!
Không chỉ nuôi dưỡng, cha mẹ còn dạy dỗ các con nên người bằng chính những lời nói, những hiểu biết và kinh nghiệm về cách cư xử, về đạo làm người, về công việc hằng ngày… Sau này đi học, các con được thầy cô dạy dỗ nhưng cha mẹ vẫn là người thầy đầu tiên gần gũi nhất, gương mẫu nhất.
Thật hạnh phúc cho những đứa con được ấp ủ, yêu thương, khôn lớn trong vòng tay cha mẹ! Vậy làm con phải đối xử với cha mẹ như thế nào đế đền đáp công ơn ấy? Câu cuối của bài ca dao trên nhắc nhở chúng ta bổn phận làm con: Một lòng thời mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Đạo con là đạo đức, trách nhiệm làm con. Bổn phận của các con là phải thực sự biết ơn và bày tỏ thái độ kính mến đối với cha mẹ. Sự hiếu thảo phải chân thành và được thể hiện qua lời nói, hành động xứng với đạo làm con.
Và rồi, nhìn lại đạo Công Giáo của chúng ta, chữ hiếu cũng được đặt để lên hàng đầu của các điều răn về con người.
Đối với người Công Giáo, đạo hiếu không chỉ là một bổn phận phải có đối với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn là đòi hỏi, là lệnh truyền, là giới răn của chính Thiên Chúa.
Trong thập giới, Thiên Chúa dành ra giới răn thứ tư để truyền phải giữ, đó là: “Thảo kính cha mẹ”. Giới răn này chỉ đứng sau những giới răn tôn thờ Thiên Chúa. Như vậy, ngoài bổn phận với Thiên Chúa, người Công Giáo phải trung thành tuân giữ lòng hiếu nghĩa với tổ tiên.
Khi hiếu kính với tổ tiên, chúng ta sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và tha thứ lỗi lầm, vì: “Ai tôn thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,3-4). Thánh Phaolô thêm: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3); vì: “Ai vâng lời cha mẹ trong mọi sự sẽ đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20) và sẽ được Thiên Chúa sẽ nhận lời người hiếu nghĩa cầu xin (x. Hc 3,8).
Còn với Đức Giêsu, ngài nhắc lại và kèm theo cảnh báo: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4).
Hôm nay, mùng 2 Tết, chúng ta được mời gọi quay về với gia đình của chúng ta. Gia đình như chiếc nôi của tình thương, gia đình chính là nơi ấp ủ ta nên người và gia đình là nơi mà cha mẹ đã sinh thành và dưỡng dục nên ta.
Tình cha nghĩa mẹ thiêng liêng lắm. Hẳn, ta còn nhớ, mỗi người chúng ta ở trong dạ mẹ 9 tháng 10 ngày. Dạ mẹ chính là nơi ấp ủ giọt máu của tình yêu thương, của mỗi người chúng ta.
Và ta thấy chính Chúa Giêsu, khi làm người, Ngài cũng đã ở trong dạ, trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Chúa Giêsu đã sống trong tình thương, sống với tình thương của gia đình, của cha và của mẹ. Gia đình chính là chiếc nôi ấp ủ tình thương, tình người. Những ai không biết thương cha, thương mẹ, thương anh chị em mình thì ra đời biết thương ai đây?
Ngày hôm nay, người Công Giáo chúng ta phải đối diện với trào lưu phá vỡ gia đình. Nam yêu nam, nữ yêu nữ và sống chung với nhau để không còn huyền nhiệm của tình yêu, của mái ấm gia đình nữa. Chúng ta, hơn ai hết được mời gọi làm chứng nhân của Chúa giữa cuộc đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã ngấn lệ khi phải nói rằng ngày hôm nay người ta cổ xúy cho một trào lưu, cho một nền văn hóa dửng dưng. Và như vậy, chúng ta lại càng phải nổ lực, càng làm chứng cho tình yêu gia đình của chúng ta.
Bao nhiêu tiền của, của cải giả như có cũng không thể nào bù đắp được công cha và nghĩa mẹ. Bao nhiêu sự như người Biệt Phái nghĩ có để dâng cho cha mẹ là đủ lễ rồi là sai quấy.
Cha mẹ chúng ta không cần gì nơi chúng ta. Các ngài cần nơi chúng ta đó là chữ hiếu và đời sống yêu thương của chúng ta.
Hiếu thảo với cha mẹ là biết làm hài lòng các ngài không những bằng cách đối xử mà ngay cả bằng sự biết vâng lời trong những điều ngay lẽ phải nên thực hiện trong cuộc sống: "Mẹ cha là biển là trời, làm sao con dám cãi lời mẹ cha." Biết hy sinh, quên bản thân mình để lo cho cha mẹ: "Đói lòng ăn đọt chà là, để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng," hay "Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi, gạo giã cho trắng mà nuôi mẹ già." Những việc nặng nhọc giúp đỡ cha mẹ đã đành mà cả những chuyện nhỏ cũng cần được để ý: "Cau non khéo bửa cũng dầy, trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm."
Tuy nhiên, cuộc đời có người nọ lại cũng có người kia; có người hiếu thảo với cha mẹ thì cũng có người chẳng coi cha mẹ ra gì: "Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày." Hoặc lại có người lạm dụng hình thức hiếu thảo hầu mong lấy tiếng cho mình: "Còn sống thì chẳng cho ăn, chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi." Những người này thường không để ý đến sự giúp đỡ cha mẹ: "Mẹ già ở tấm lều tranh, đói no chẳng biết rách lành không hay."
Bởi vậy để khuyến khích con cái hiếu thảo với cha mẹ, người đời có câu: "Con không hiếu kính mẹ cha, bàn nhơn thiên hạ người ta chê cười." Đôi khi Ca Dao dùng thuyết nhân quả để nhắc nhở người ta nên hiếu thảo với cha mẹ: "Mình chí hiếu với mẹ cha, con mình sẽ hiếu với ta khác gì," hoặc dùng sự kiện thiên nhiên nói cho con người ý thức nếu mình hiếu thảo với cha mẹ thì sau này con cái sẽ đối xử với mình như vậy: "Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó," hay tục ngữ cũng có câu: "Giỏ nhà ai quai nhà nấy."
Những ai đã mất cha hay không còn mẹ hãy cầu nguyện thật nhiều cho cha mẹ. Hãy cố gắng sống làm gương sáng cho con cái để bảo tồn truyền thống yêu thương của gia đình.
Hạnh phúc cho những ai đang còn mẹ, hãy cố gắng sống, hãy làm điều gì đó cho cha mẹ khi còn có thể làm được. Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha. Nước biển mêng mông không đong đầy tình mẹ, Mây trời lồng lộng không phủ kín tình cha. Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn, Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con. Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc, Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không!
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 15: 1-6)
1 Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến.2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 5Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”6 Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,còn lòng chúng thì lại xa Ta.7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích,
vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”.9 Người còn nói: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.10 Quả thế, ông Mô-sê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử!11 Còn các ông, các ông lại bảo: “Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là “co-ban” nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa” rồi,12 và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa.13Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!”
Suy niệm
Những người Pharisêu phàn nàn với Đức Giêsu về các môn đệ của Người đã vi phạm truyền thống Tết Mồng 2–81
Những người Pharisêu phàn nàn với Đức Giêsu về các môn đệ của Người đã vi phạm truyền thống của tiền nhân là “không rửa tay khi dùng bữa”. Việc rửa tay trước khi ăn để giữ vệ sinh là truyền thống tốt, cớ sao Đức Giêsu trách mắng người Pharisêu? Người trách họ bởi vì họ giữ nghiêm ngặt những tập tục cha ông hơn việc tuân giữ điều răn của Thiên Chúa.
Hơn nữa, họ còn giải thích xa lệch với giới răn của Chúa và thực hành sai Lời Chúa dạy. Điều răn thứ tư phải thảo kính cha mẹ thì họ nói rằng: của cải giúp cha mẹ đều là lễ vật dâng Chúa rồi, thì không cần thờ cha kính mẹ nữa. Đức Giêsu đã quở trách và gọi họ là những kẻ đạo đức giả.
Hôm nay mùng Hai tết, người Việt chúng ta cũng có truyền thống hiếu kính với tổ tiên ông bà cha mẹ còn sống và đã qua đời: Thắp nén hương và xin lễ cho ông bà tổ tiên; đến mừng tuổi ông bà cha mẹ, v.v. Đó là những truyền thống tốt đẹp hợp với Lời Chúa dạy. Chúng ta cần phải giữ và phát huy. Hơn thế nữa, chúng ta không chỉ nhớ đến tổ tiên ông bà cha mẹ trong những ngày xuân hay những ngày kỷ niệm khác, mà chúng ta còn phải thực hiện hành vi thảo kính mỗi ngày: tham dự thánh lễ cầu nguyện cho các ngài, quan tâm chăm sóc khi cha mẹ già yếu, bệnh tật, v.v. Bằng không hãy coi chừng! chúng ta sẽ bị khiển trách như Đức Giêsu đã quở trách những người Pharisêu là “kẻ đạo đức giả”.
Lạy Chúa, xin khơi lòng mở trí giúp chúng con thực hành những điều tốt đẹp hợp với Tin Mừng và nhất là luôn thực thi Lời Chúa dạy bằng tấm lòng thành, chứ không vụ hình thức bên ngoài. Amen.
Mùa xuân, mùa của yêu thương và đoàn tụ. Chúng ta được sống lại không khí xôn xao, ấm áp Tết Mồng 2–82
Mùa xuân, mùa của yêu thương và đoàn tụ. Chúng ta được sống lại không khí xôn xao, ấm áp của mái ấm gia đình đầy thương yêu. Những chuyến trở về của ai đó xa quê như cánh chim mỏi cánh mong từng giây được trở về tổ ấm. Sau một năm vất vả và mệt mỏi, mùa xuân tạo cho ta một cơ hội trở về với cội nguồn, về với quê hương và xóm làng.
Đây là dịp cho ta được sống chữ hiếu với ông bà cha mẹ và gia tộc. Về quê hương ta có dịp thắp hương cho tổ tiên và dâng lòng hiếu thảo đối với mẹ cha. Nếu ngày xuân mà phải nói “mẹ ơi xuân này con không về” là cung điệu bi ai có lẽ chẳng ai muốn nói đến.
Vì người Việt Nam rất trọng chữ hiếu. Chữ hiếu được khởi đầu từ lòng biết ơn công sinh dưỡng của mẹ cha:
Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang. Đây là điều mà con cái phải ghi lòng tạc dạ về công ơn sinh thành của mẹ cha: Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông. Núi cao biển rộng mênh-mông, Cù-lao chín chữ, ghi lòng con ơi!
Lòng hiếu thảo ấy luôn canh cánh bên lòng nếu con cái không được ở gần mẹ cha để phụng dưỡng.
Ngồi buồn thương mẹ nhớ cha, Gối loan ai đỡ, kỷ trà ai nâng.
Nuôi-dưỡng, săn-sóc cha mẹ khi già-yếu là bổn phận trả hiếu công dưỡng nuôi sinh thành
Mẹ già đầu bạc như tơ,
Lưng đau con đỡ, mắt mờ con nuôi.
Chữ hiếu còn nhắc nhở con cái phải biết cầu nguyện cho cha mẹ được an vui mạnh khoẻ sống đời với con:
Đêm đêm thắp ngọn đèn trời, Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Dầu sau này lớn lên tung cánh bay vào đời thì những hình ảnh đầy ắp yêu thương của cha mẹ mãi mãi ghi trong tâm khảm của từng người con. Nhất là, hình ảnh một nắng hai sương đầy vất vả của cha mẹ đã hy sinh vì cuộc đời con mà chẳng nề gian khó.
Cuộc đời bao nỗi đắng cay Nhìn về cha mẹ, lệ cay nghẹn ngào Hôm nay nước mắt tuôn trào Nhớ ơn cha mẹ, cả đời cưu mang
Đó là lý do mà con cái luôn cảm thấy mình phải có bổn phận đền ơn đáp nghĩa công sinh thành dưỡng dục vì “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Con đây chẳng nói nên lời Nghẹn ngào nước mắt, lòng này khắc ghi Lạy cha lạy mẹ con quỳ Công ơn trời biển, đời đời không quên.
Khởi đầu năm mới, chúng ta tưởng nhớ đến các bậc tổ tiên, những người có công đức sinh thành dưỡng dục chúng ta. Chúng ta đâu biết rằng để mình có ngày hôm nay, cha mẹ chúng ta phải đánh đổi cuộc đời như thế nào? Vì danh dự của con, vì muốn cho con có tiền đến trường đến lớp, vì muốn cho con bằng chúng bằng bạn, cha mẹ nào cũng sẵn sàng đánh đổi cuộc đời mình vì hạnh phúc đàn con.
Do đó, uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây. Có được niềm vui đón xuân hôm nay, chúng ta cũng cần tỏ lòng hiếu kính, biết ơn đối với các bậc tổ tiên đã khuất và đối với ông bà cha mẹ những người còn đang sống và còn đang hao mòn vì chúng ta.
Chính Chúa Giê-su cũng luôn sống hiếu thảo với cha mẹ của mình. Phúc âm nói Ngài hằng vâng phục cha mẹ mình. Và dưới cây thập giá Ngài còn mời gọi thánh Gioan thay mặt Ngài đón Mẹ về nhà của mình để sống trọn chữ hiếu.
Vì thế, trong bầu khí mừng xuân Canh Tý và nhớ về cội nguồn, chúng ta cùng hiệp dâng thánh lễ hôm nay để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ của những ai đã qua đời và cầu bình an cho các bậc sinh thành vẫn đang còn hiện diện với chúng ta hôm nay. Và với lòng tri ân thẳm sâu về tình cha nghĩa mẹ tôi xin mọi người nhớ khắc ghi:
“Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc Đừng để buồn vương trên mắt cha”.
Kính chúc các gia đình một ngày xuân sum họp đầy hạnh phúc vui tươi.
Với lối sống thấm đượm ‘Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín’ trong tâm khảm, chúng ta chẳng thể nào Tết Mồng 2–83
Với lối sống thấm đượm ‘Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín’ trong tâm khảm, chúng ta chẳng thể nào lãng quên cội nguồn. Hơn nữa, ngày mồng hai Tết, Giáo hội dạy chúng ta dâng tấm lòng thành, kính nhớ tổ tiên, ông bà, những bậc đã đi trước chúng ta, đã sống đức tin và hằng đau đáu trong lòng khi còn sống, ngõ hầu để lại ơn sống đạo cho con cháu mai sau: “Ca tụng các bậc cha ông của chúng ta đã sống qua các thời đại” (x. Hc 44, 1. 10-15).
Theo dòng lịch sử, đạo Công Giáo bị gán với danh xưng ‘đạo bỏ ông bà, ông vải’! Thật sự, chúng ta không biết vì sao mà bị gán ghép một cách oan uổng như vậy. Có lẽ do chưa hiểu tường tận về đạo Công Giáo, cũng như tinh thần khép kín không muốn đón nhận giá trị đạo đức, luân lý Công Giáo, nên mới ra cớ sự như vậy!!! Tuy nhiên, với tâm tình biết ơn, tri ân, nhớ về cội nguồn, và hằng cầu nguyện-noi gương sống đạo của các ngài, chúng ta cùng nhau đào sâu Lời Chúa, thay vì chú trọng giải thích nguyên do trên.
Trước hết, Sách Huấn Ca quả quyết rằng: “Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài” (Hc 3, 6). Thánh Phao-lô Tông đồ khuyên răn chúng ta: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1). Vậy đâu là bí quyết để những lời chúc này trở thành hiện thực? Lời giải đáp rất ư đơn giản và hết sức rõ ràng, đó là thực hành Lời Chúa dạy: “Hãy thảo kính mẹ cha” (Mc 7, 10). Ca dao tục ngữ Việt Nam cũng có rất nhiều câu thể hiện việc này:
“Vì cha nên mới có mình, Mẹ cha đối đáp công trình biết bao Ơn này sánh với trời cao Trong lòng con dám lúc nào lãng quên”.
Thứ đến, việc ‘thảo kính mẹ cha’ không chỉ là lời khuyên răn, mà là một điều răn, một kết ước với Chúa (x. Thập điều), nghĩa là chúng ta phải sống, thực hành cụ thể trong suốt cuộc đời, như: biết tôn kính, phụng dưỡng, vâng phục, chăm sóc, cầu nguyện cho các ngài. Không ai trong chúng ta có thể quên câu: “Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông, có cha có mẹ, có ông có bà”. Nào ai không thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu đối với mẹ cha:
“Công cha nghĩa mẹ cao dày, Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ. Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân” (về lòng tôn kính các bậc sinh thành).
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc Xem cháo cơm thay thế mọi bề Ra vào thăm hỏi từng khi Người đà vô sự, ta thì an tâm.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca, nói đến tâm tình phụng dưỡng mẹ cha)
và hết lòng vâng lời mẹ cha:
“Dạy sao cho được con hiền Để cho cha mẹ khỏi phiền về con Một niềm phép tắc nết na Biết sống biết kính mới là khôn ngoan”.
Chăm sóc cha mẹ khi còn sống, cũng như biết cầu nguyện cho linh hồn các ngài khi đã qua đời không đơn giản là một chọn lựa tuỳ hỷ, mà là trách vụ của một người Ki-tô hữu, như đâu đó có câu:
“Một nén hương nồng nàn lặng lẽ Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương Dù bao năm dù có hóa vô thường Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất” (Kim Liên).
Thật ra, chẳng có bố mẹ nào đòi buộc con cái mình phải phụng dưỡng, trả công nuôi dạy sinh thành cả; nhưng nét tập tục tốt lành này đã ăn sâu vào tâm khảm của con cái, đó là: biết sống hiếu thảo với ông bà, tổ tiên, cha mẹ. Nhờ các ngài, chúng ta được Chúa cho chào đời. Nhờ công ơn nuôi dưỡng, dạy dỗ mà chúng ta nên người, trở thành con cháu hiếu hoà:
“Con nợ mẹ cha những ngày vui bất tận Rong rủi suốt cuộc đời không định hướng tương lai Con nợ những chiếc hôn còn nóng hổi vành môi Trong cơn điên loạn giữa bạc tiền mến mộ. Khi rời xa mới biết ý nghĩa của gia đình Mới biết niềm vui trong từng cử chỉ Mới biết hạnh phúc phải đâu nào xa xỉ Vì chỉ một nụ cười cũng đủ ấm con tim…” (Kim Liên);
Hơn thế, “Giữ mãi gia đình trong một góc riêng Để nhớ để mong để âm thầm cầu nguyện: Xin nỗi buồn đừng hằn trên mắt mẹ Và nụ cười đừng chia cách môi cha…” (Kim Liên).
Sau cùng, năm cũ đã qua với bao nhiêu tiếc nuối, bao nhiêu thiếu sót của những người con đối với cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Có lẽ không thiếu lỗi lầm lớn nhỏ khiến cha mẹ phiền lòng, già đi vì chúng ta. Tuy nhiên, năm mới đến, sắc xuân tươi trẻ và với ơn Chúa, chúng ta cùng nhủ nhau rằng: sống thảo hiếu với cha mẹ, vâng phục, tôn kính, chăm sóc các ngài, đừng sống bất hiếu, đừng làm những chuyện thất đức, đáng xấu hổ với tổ tông như “liệt tổ, liệt tông”, cũng đừng làm cho cha mẹ bất an, lo lắng cho chúng ta, để khỏi phải cảm thấy nuối tiếc về thời gian cạnh bên cha mẹ, đã không làm tròn phận vụ người con, khiến cho các ngài khổ tâm, âu sầu, buồn tủi. Thế nên, ai đó muốn quay ngược thời gian như trong chuyện tranh Đô-rai-môn của Nhật Bản:
“Thời gian thấm thoắt trôi đi, Tìm đâu một vé trở về tuổi thơ? Một thời lém lỉnh ngây ngô, Sống trong đùm bọc bến bờ yêu thương” (khuyết danh).
Và đâu đó, tiếng nức nở tiếc nuối của những người con mải miết với ‘cơm áo gạo tiền’, quên mẹ cha hằng thương nhớ, lo toan cho mình:
“Bài học đầu đời thật vất vả mẹ cha ơi! Xin cho con im lặng để mắt con cay Xin cho con lạnh lùng để con không bật khóc Xin cho con góp nhặt để còn chút lương tâm Xin cho con chuộc lỗi dù biết đã muộn màng” (khuyết danh).
Nhân dịp mồng hai Tết, xin cầu chúc quý cha, quý sơ cùng quý thầy, ông bà, anh chị em, các bạn trẻ và mọi em thơ:
Năm mới kính chúc quý cha Dạt dào ơn thánh, bao la tình người Tận tâm phục vụ vui tươi Cho đoàn con nhỏ mãi cười hợp hoan Cầu chúc ông bà bình an An vui hạnh phúc bên đàn cháu con Gia đình tình mến sắt son Vợ chồng khăng khít núi non không dời Con cái hiếu thảo một đời Nam thanh nữ tú chơi vơi bớt phần Hăng say dâng hiến ân cần Ra đi phục vụ thánh ân tuôn tràn Xuân sang tín thác hân hoan Cậy trông nơi Chúa, lo toan tan dần Trọn niềm phó thác canh tân Xin thương tuôn đổ phúc ân miên trường….Amen!
Đã có lúc người ta cho rằng theo đạo Công giáo là bỏ ông bà, nhất là khi Hội thánh chưa cho phép Tết Mồng 2–84
Đã có lúc người ta cho rằng theo đạo Công giáo là bỏ ông bà, nhất là khi Hội thánh chưa cho phép bày tỏ lòng hiếu thảo bằng cử chỉ vái lạy tổ tiên đã khuất. Ở đất nước ta, thờ cúng tổ tiên là chuyện quan trọng, đến độ người ta có thể nói đến đạo thờ ông bà, đạo hiếu. Ai không giữ đạo hiếu thật đáng khinh. Nhiều người tin khi chết thì con người đi về thế giới bên kia, và thế giới bên kia cũng không khác lắm với thế giới bên này, người chết cũng có những nhu cầu vật chất cần thỏa mãn. Tết là thời gian mời ông bà đã khuất về ăn Tết với con cháu. Như thế ông bà và con cháu được gần nhau, thông hiệp với nhau. Đạo Công giáo tin có thế giới bên kia, nhưng không quan niệm thế giới ấy một cách vật chất. Người chết không cần ăn uống, không cần xài tiền vàng mã, nhưng lại rất cần lời cầu nguyện để sớm hưởng nhan Chúa. Thảo kính cha mẹ là điều răn đặc biệt trong 10 điều răn, vì không cấm làm một điều xấu, nhưng buộc làm một điều tốt. Các sách Cựu Ước đều coi trọng mệnh lệnh này (Xh 20,12; Đnl 5,16). Thậm chí một người con có thể bị xử tử bằng cách ném đá nếu không vâng lời hay nguyền rủa cha mẹ (Xh 21,17; Lv 20,9; Đnl 21,21). Còn ai hiếu thảo sẽ được Chúa cho sống thọ trên đất hứa (Xh 20,12). Thảo kính cha mẹ là kính trọng và yêu mến kẻ đã sinh dưỡng mình, Thăm viếng khi khỏe mạnh, chăm sóc khi yếu đau, hầu hạ khi cao tuổi. Thảo kính cha mẹ cũng là làm cho cha mẹ được vinh danh. Nhờ con cháu mà “danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44,14). Có thể nói Đức Giêsu đã giữ điều răn này một cách nghiêm chỉnh. Khi nghe Ngài giảng, có người đã kêu lên để ca ngợi Mẹ Ngài: “Phúc cho người đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27). Bà Êlisabét đã ca ngợi Mẹ Maria là có phúc hơn mọi phụ nữ, vì Người Con mà Mẹ đang cưu mang là Đấng có phúc tuyệt vời (Lc 1,42). Đức Giêsu hằng vâng phục cha mẹ khi lớn lên ở Nadarét (Lc 2,51), Và lo liệu cho Mẹ Ngài trước khi nhắm mắt (Ga 19,25-27). Mồng Hai Tết, Giáo Hội mời ta nhớ lại nguồn cội tổ tiên đã xa ta, và cũng nhớ đến nguồn cội đang ở gần ta với lòng biết ơn. Đạo thờ ông bà, dù khác, nhưng cũng rất gần với đức tin Công giáo. Thảo kính cha mẹ là “lời”, là “điều răn”của Thiên Chúa (Mt 15,3.6). Không ai được phép bỏ qua hay coi nhẹ. Qua tổ tiên, Thiên Chúa tạo dựng nên con người chúng ta. Qua ông bà cha mẹ, Thiên Chúa cho chúng ta nên người thành toàn. Tri ân tổ tiên là tri ân chính T. Chúa, Nguồn Cội của mọi nguồn cội. Sách Nhị Thập Tứ Hiếu kể lại 24 gương hiếu thảo đối với mẹ cha. Lão Lai tuy đã già vẫn nhảy múa như con nít để giúp vui cho cha mẹ. Lục Tích là đứa bé ăn cắp quýt ở bữa tiệc để đem về, vì biết mẹ thích. Ngô Mãnh, tám tuổi, cởi trần cho muỗi đốt mình để khỏi đốt cha mẹ. Diễm Tử có cha mẹ già, thèm sữa hươu, nên ông khoác bộ da hươu, giả làm hươu con vào rừng, để đến gần hươu mẹ vắt sữa. nên suýt nữa bị các thợ săn nhắm bắn. Nếu không hiếu thảo đến mức cao như các gương trên đây thì ít là hôm nay ta biết ngước lên trời cầu nguyện cho cha mẹ: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời, Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét, Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành, Sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao. Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nhân cách của Chúa. Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài, sự mau mắn thi hành Thánh Ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình. Chúa đã học nơi mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ, sự buông mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm. Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh con người tốt, biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ. Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo Hội chúng con thánh thiện hơn, nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa.
----------------------------------
Tết Mồng 2–85: MỒNG HAI TẾT- Cầu cho ông bà tổ tiên
--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
“Mừng tết đến, gia đình vui sum họp. Đón Xuân về, con cháu sống bình an”
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh Việt Nam, chúng ta cùng quy tụ về đây để hiệp dâng thánh Tết Mồng 2–85
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh Việt Nam, chúng ta cùng quy tụ về đây để hiệp dâng thánh lễ để kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ.
Trong lịch sử truyền giáo của Giáo Hội, việc thờ kính Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã có lúc trở thành một cản trở trong công cuộc truyền giáo, khiến cho những anh chị em không cùng tôn giáo khó có thể đón nhận chúng ta. Sở dĩ như vậy, vì đã có những hiểu lầm trong cách thức bày tỏ lòng hiếu kính với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Người ta cho rằng, theo Đạo đồng nghĩa với việc từ bỏ bàn thờ Tổ Tiên Ông Bà. Cho đến ngày hôm nay, vẫn còn không ít người hiểu như vậy. Tuy nhiên, sự thật lại hoàn toàn khác. Người Công Giáo không những không bỏ bàn thờ Tổ Tiên mà còn thực thi nghĩa vụ này một cách chu đáo nữa là đàng khác.
Trước tiên, việc thờ kính Tổ Tiên Ông Bà là một trong mười điều răn của Chúa: Thứ Bốn: Thảo kính cha mẹ. Tiếp đến, người Công Giáo dành một tháng trong năm là tháng 11 (còn được gọi là tháng các linh hồn) để cầu nguyện cho những người đã qua đời, trong đó có Tổ Tiên, Ông Bà của chúng ta. Không những thế, trong thánh lễ hàng ngày, Giáo Hội hằng cầu khẩn cho Tổ Tiên Ông Bà qua lời Kinh Nguyện Thánh Thể. Đặc biệt hơn nữa, Giáo Hội còn dành một trong ba ngày Tết, là những thời khắc thiêng liêng nhất trong năm để kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà như ngày hôm nay đây.
Vậy thì làm sao có thể nói: Đi Đạo là từ bỏ Tổ Tiên Ông Bà được! Vậy đâu là lý do khiến chúng ta phải hiếu kính với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ?
Ca dao xưa có câu: “Cây có gốc mới trổ cành xanh ngọn/ Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu. Con người nguồn gốc từ đâu/ Có cha, có mẹ rồi sau có mình.” Nói như vậy, thì bổn phận thảo kính ông bà, cha mẹ không phải chỉ là nghĩa vụ của người Công Giáo, mà là của tất cả những ai mang thân phận con người, đều phải có nghĩa vụ thảo kính đối với những đấng bậc đã sinh thành dưỡng dục nên mình.
Quả thật, khi nói đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, chúng ta chẳng thể nào diễn tả hết. Câu ca dao mà có lẽ chúng ta đã thuộc làm lòng từ những ngày chập chững cắp sách tới trường rằng: “Công Cha như núi Thái Sơn/ nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra” đã phần nào nói lên công đức cao dày của tình Cha-nghĩa Mẹ.
Các ngài đáng được trân trọng, không chỉ vì các ngài là những người đã sinh thành, dưỡng dục mà chúng ta còn nhớ ơn các ngài bởi các công trình các ngài đã xây dựng và để lại cho ta (gầy dựng giang sơn, khai phá ruộng vườn, xây dựng nhà cửa, kiến thiết đường xá, nhà thờ…)
Hơn thế nữa, đối với người Công Giáo, ta còn biết ơn các ngài, bởi các ngài đã có công đón nhận Đức Tin, sống Đức Tin và truyền lại gia sản Đức Tin đó cho ta. Nhờ đó, ta được trở nên con cái Chúa, được làm người cách đầy đủ trọn vẹn và được hưởng sự sống đời đời.
Lời Chúa trong Bài đọc thứ nhất trích trong sách Đức Huấn Ca hôm nay cũng dùng những lời thật đẹp để ca ngợi công đức của các bậc sinh thành: “Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con… Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen”.
Nhưng chúng ta phải tôn kính như thế nào? Sách Giáo Lý Công Giáo dạy rằng: Chúng ta phải tôn kính các ngài cả khi các ngài còn sống, cũng như lúc các ngài đã qua đời.
Lúc các ngài còn sống, phải thảo hiếu bằng việc tôn kính và vâng lời các ngài. Vì như lời trong thư của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Êphêsô: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
Khi các ngài đã về già, phải chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng và giúp đỡ các ngài về moị mặt. Ca dao tục ngữ xưa đã có rất nhiều câu để ca ngợi những người con hiếu thảo: “Mẹ già ở trốn lều tranh/ Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con”; “Đói lòng ăn hột chà là/ Phần cơm cho mẹ, mẹ già yếu răng”. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, cũng có không ít người con không những chưa làm tròn chữ Hiếu mà người xưa đã từng lên án: “Mẹ già hết gạo treo niêu/ Còn anh, khăn đỏ, khăn điều vắt vai”.
Hỡi những người làm con, Thảo kính Cha Mẹ được hãy làm ngay khi các ngài còn sống, kẻo khi các ngài đã khuất bóng, sẽ không còn cơ hội để phụng dưỡng các ngài nữa. Như thế, để khỏi phải ngậm ngùi mà nói rằng: “Sống thì con chẳng cho ăn/ Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi”
Sau cùng, việc tôn kính Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ không chỉ là một nghĩa vụ Hiếu thảo, mà còn là hình bóng việc tôn kính – hiếu thảo với Cha trên trời là chính Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không biết thảo Hiếu với Ông Bà, Cha Mẹ là những người chúng ta gặp gỡ hàng ngày, thì làm sao có thể Thảo Hiếu với T. Chúa là Đấng chúng ta chưa hề thấy bao giờ?
***
Để nói về công ơn cha mẹ, người xưa có câu: “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ/ Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha… Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc/ Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con!”
Với những người cha mẹ còn sống, xin được nói lên lời chúc mừng tuổi mới, chúc thọ dài lâu để ông bà cha mẹ sống lâu với con cháu, thấy cảnh con cháu đông đúc và yêu thương, thành nhân và thành công.
Với những người cha mẹ đã khuất bóng, xin được đốt lên nén hương trầm, đặt lên phần mộ một bó hoa để ghi nhớ công ơn sinh thành và dưỡng dục.
Lạy Chúa, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng lên Chúa, Chúa của mùa Xuân hương hồn của cha mẹ chúng con. Xin Ngài đón nhận và cho cha mẹ chúng con an nghỉ trong tình thương của Chúa. Amen.
Ngày đầu Năm Mới, chúng ta được mời gọi sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bởi Tết Mồng 2–86
Ngày đầu Năm Mới, chúng ta được mời gọi sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bởi lẽ tất cả những gì ta nhận được hôm nay đều do ông bà cha mẹ để lại, cho nên đạo hiếu nhắc nhở chúng ta bổn phận: “Uống nước nhớ nguồn”. Mùa Xuân là dịp khơi gợi lại trong chúng ta nguồn sống ấy. Mùa xuân cũng là cơ hội để con cháu bày tỏ lòng hiếu kính, biết ơn với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục ta nên người. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta sống lại truyền thống ấy với một chiều kích sâu xa hơn trong tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại, hay giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn tình thảo hiếu với ông bà, cha mẹ thì cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
Cùng quy tụ bên gia đình trong bữa cơm ấm áp nghĩa tình ngày đầu năm, chúng ta không khỏi không nhắc đến những kỷ niệm thân thương của ông bà, cha mẹ khi các ngài còn hiện diện với chúng ta. Nhiều gia đình còn xum họp bên nhau quanh nấm mồ của những người đã khuất, cùng thắp lên nén hương gói trọn bao lời cầu nguyện trong yêu thương luyến nhớ. Ngày mùng Hai tết không chỉ nhắc chúng ta tưởng nhớ đến những người đã khuất, mà còn nhắc ta bổn phận làm con đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành dưỡng dục đang còn sống. Đây là cơ hội quý báu để chúng ta bày tỏ lòng hiếu thảo với những người còn sống, đồng thời cũng để nói lên lời tạ lỗi với mẹ cha.
Lần giở lại những trang Tin Mừng, chúng ta gặp lời của Thiên Chúa trong sách Huấn ca: “Của dâng cho Cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi” (Hc 3, 14-15). Theo đó, lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ sẽ làm cho ta trở nên công chính và bản thân ta, cuộc đời của ta có ý nghĩa và giá trị hơn trước mặt người đời. Sau bổn phận đối với Thiên Chúa thì thái độ thảo hiếu đối với cha mẹ được coi là yếu tố căn bản của nhân vị trong tương quan với tha nhân. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, khi người ta đề cao chủ nghĩa duy vật thì các giá trị đạo đức xuống cấp. Chúng ta không thể không đau lòng khi thấy trong nhiều gia đình con cái đối xử tệ bạc với cha mẹ. Khi cha mẹ già yếu, họ không thương tiếc đẩy cha mẹ vào các viện dưỡng lão mà không một lời thăm hỏi, trong khi họ có đủ điều kiện để phụng dưỡng cha mẹ. Chúng ta không thể không đau lòng khi có người bỏ bê cha mẹ già đau ốm, hầu mong cha mẹ chết sớm đi để rảnh nợ. Trong nhiều gia đình, con cái còn đùn đẩy trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ cho nhau… Như những người Pharisêu và Kinh sư trong Tin mừng hôm nay, một số những người trẻ sẵn sàng quay lưng lại với truyền thống, với các chuẩn mực đạo đức xã hội mà coi thường giá trị nền tảng của gia đình, không tuân giữ luật Chúa “thảo kính Cha mẹ”. Mỗi chúng ta, hơn một lần trong cuộc đời, cũng đã có lúc làm cha mẹ buồn lòng, gây cho cha mẹ những khổ đau phiền lụy và cả những hao tổn về tinh thần.
Chúng ta không khỏi ngậm ngùi ân hận khi nghĩ lại bao lầm lỗi, xúc phạm gây bao khổ đau cho ông bà cha mẹ hôm nào. Những gì của quá khứ đang sống lại trong chúng ta như đang mời gọi ta tìm cách đền đáp công ơn cha mẹ, thảo hiếu với ông bà. Chúng ta không khỏi xúc động khi nghĩ lại bao yêu thương, hy sinh mà các ngài đã dành cho mình: “Cha thời sinh ta, mẹ thời nuôi ta. Cái ơn sâu nghĩa nặng cao vời ấy tựa Thái Sơn, làm sao ta báo đáp”. Chúng ta, kẻ làm con ít khi thực sự cảm nhận được hạnh phúc có cha có mẹ, hạnh phúc được sống trong tình yêu nồng ấm của mẹ cha, thường khi các ngài đã về với Chúa, chúng ta mới cảm nhận sâu xa tình yêu của các ngài, mới thèm được cha thương, mẹ chiều, mới ngậm ngùi hiểu ra cái lẽ: ngọn roi cha dạy làm xót lòng cha, làm đau lòng mẹ hơn là làm con đau đớn; mới hiểu ra rằng tất cả những gì cha mẹ làm cho ta cũng chỉ vì mong con nên thân nên người, mong con hạnh phúc. Những gì chúng ta có được hôm nay đều ghi đậm dấu ấn của mẹ cha; sự thành đạt, niềm hạnh phúc của chúng ta hôm nay có sự đánh đổi những hy sinh vất vả của cha mẹ. Cha mẹ đã phải hao gầy, cằn khô theo năm tháng bởi bao lo lắng, hy sinh, bao vất vả đắng cay, bao giọt lệ chảy ngược vào lòng để chúng ta khôn lớn, nên người. Lòng cha mẹ quá quảng đại, bao dung, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, chấp nhận mọi khổ đau để đời chúng ta được thành đạt, hạnh phúc.
Nhớ về công ơn cha mẹ, luôn là lời mời chúng ta hướng về nguồn cội của sự sống, của tình yêu, của mọi ân phúc trong đời là chính Chúa để chúng ta tỏ lòng yêu mến, biết ơn trước hết với Chúa là nguồn cội mọi ân phúc và với mẹ cha là những người sinh thành dưỡng dục ta nên người. Tạ ơn Chúa đã thương cho chúng ta được sinh ra và lớn lên trong mái ấm gia đình có ông bà, có cha mẹ, có những người thân bên cạnh để yêu thương, nâng đỡ dạy dỗ, bảo ban để chúng ta không ngừng lớn lên trong thân xác và nhân bản, về trí tuệ và tình yêu, nhất là được giáo dục trong lòng tin yêu Chúa.
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn Tết Mồng 2–87
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.
Chữ hiếu của người Á đông
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu Lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biệt để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao quý đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.
Sự tử như sự sinh
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.
Truyện: Đôi đũa thứ năm
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô Phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát.
Cha Hậu ngạc nhiên hỏi: “Bát đũa này dành cho ai?”
Bác trả lời: “Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất, nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.
Giáo hội Việt Nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao quý. Vì thế, Giáo hội Việt Nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì
Người ta có cố có ông, Như cây có cội, như sông có nguồn (Ca dao)
Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai được quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công, Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (Ca dao)
Một Phong trào vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn: “Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
- Phúc cho anh chị khi hiểu rằng: tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.
- Phúc cho anh chị khi nhớ rằng: tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu: “Trẻ khôn ra, già lú lại”.
- Phúc cho anh chị, nếu biết rằng: mắt tôi không còn sáng được như xưa.
- Phúc cho anh chị, nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.
- Phúc cho anh chị, nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.
- Phúc cho anh chị, nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.
- Phúc cho anh chị, nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.
- Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.
Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên:
- Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài, vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.
- Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên, Phiền ai một chút để bên cạnh lòng (Ca dao)
“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Truyện mở đầu: nắng chiều.
Đây là vở kịch được trình diễn tại nhà hát thành phố Hồ chí Minh trong liên hoan sân khấu quần Tết Mồng 2–88
Đây là vở kịch được trình diễn tại nhà hát thành phố Hồ chí Minh trong liên hoan sân khấu quần chúng năm 1994.
Nội dung: đứa con trai đạt được danh vọng cao trong xã hội, về đưa mẹ từ nhà quê lên ở chung cho có mẹ và con. Nhưng tính tình người già không phù hợp với vợ chồng trẻ, anh đã đưa mẹ vào viện dưỡng lão và luôn chu cấp đầy đủ.
Người mẹ luôn chỉ nhận được những gói quà và món tiền chu cấp, chứ không gặp được mặt con...
Vậy mà anh vẫn vô tình, vẫn thản nhiên mỉm cười nhìn cuộc đời trôi đi một cách an bình. Anh không hề biết, đi bên sự thờ ơ của anh, là nỗi cồn cào, xót đau, chờ đợi của mẹ.
Nỗi đau khổ làm trĩu nặng thêm trái tim héo úa của mẹ. Sức lực không còn nên mẹ không đợi được anh... chút NẮNG CHIỀU ít ỏi còn lại đã tắt. (Tuổi trẻ Chủ nhật, số 4 / 94 (535), tr 18)
Ai xem vở kịch này chắc cũng cảm động đến rỏ nước mắt và thấy rõ sự thờ ơ và vô tình của con cái trước sự cô đơn của cha mẹ. Thực sự cha mẹ không chỉ cần thỏa mãn những nhu cầu vật chất mà còn cần tình nghĩa, cần sự săn sóc của con cái. Chỉ có tình mẫu tử mới làm cho cha mẹ được ấm lòng. Khi về già, cha mẹ sợ nhất là cảnh cô đơn.
Khi cha mẹ còn sống mà con cái không phụng dưỡng thì khi cha mẹ chết rồi thì chỉ còn biết phàn nàn hối hận:
Mẹ già như chuối chín cây, Gió rung mẹ rụng con rầy mồ côi. (ca dao)
I. GIỚI RĂN CỦA CHÚA.
Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình hay là một qui định của xã hội mà là một điều răn của Chúa dạy: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. Thiên Chúa đã nâng điều răn thứ bốn lên ngang hàng với các điều răn khác ; điều đó chứng tỏ con cái phải hiếu kính đối với cha mẹ đến mức nào.
Bên Đông phương người ta đề cao chữ HIẾU và nâng lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.
Mẹ cha vất vả nuôi mình Từ khi trứng nước công trình biết bao. Làm con phải nhớ công lao, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. (ca dao)
II. CÔNG ƠN CHA MẸ.
Không ai có thể phủ nhận được công ơn cha mẹ trong việc sinh thành và dưỡng dục con cái, người ta đã ví:
Công cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
1. Công ơn sinh thành.
Thiến Chúa đã dựng nên con người, nhưng không trực tiếp mà phải qua trung gian cha mẹ. Đầu tiên Thiên Chúa dựng nên ông Adam và bà Evà, rồi từ đó con cháu nối tiếp:
Người ta có cha có mẹ Không ai ở chỗ nẻ chui lên. (tục ngữ)
Không ai còn lạ với câu ca dao:
Người ta có cố có ông, Như cây có cội như sông có nguồn
2. Công ơn nuôi dưỡng.
Bình thường không ai sinh con rồi đem vất đi vì đó là hòn máu mủ của cha mẹ nên phải nâng niu nuôi dưỡng cho chóng lớn khôn mặc dầu phải vất vả khó nhọc:
Cha tôi hai buổi đi làm, Dãi dầu mưa nắng khổ kham đủ bề. Sớm chiều cực nhọc chẳng nề, Mong sao con trẻ đặng bề ấm no. (ca dao)
Truyện: công việc của người mẹ.
Người ta nghiên cứu một gia đình có hai con, trung bình một năm phải rửa:
Nếu một phụ nữ đặt thức ăn lên bàn, ăn xong lại dọn đi rửa, rồi lại đặt vào chạn, thì trong một năm người đó phải mang tổng cộng 5 tấn, và mỗi năm phải đi lại trên quãng đường 2000 km để mua hàng.
3. Công ơn dạy dỗ.
Sinh ra không phải chỉ nuôi ăn cho béo như con vật mà còn phải dạy dỗ để con nên thân nên người. Nếu không dạy dỗ thì người ta nói:
Dưỡng tử bất giáo như dưỡng lư (Nuôi con mà không dạy thì như nuôi lừa)
Vì thế ca dao mới nói:
Nuôi con chẳng dạy chẳng răn, Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Cha mẹ có nhiệm vụ dạy dỗ con cái vì dù sao cha mẹ cũng có kinh nghiệm hơn con cái.
Truyện: con không hơn cha.
Một mục sư nói với đứa con 15 tuổi của ông:
- Từ 15-20 tuổi: cha cho con có quyền tin tưởng là con hơn cha. - Từ 20-25 tuổi: con thông minh bằng cha. - Nhưng từ 25-30 tuổi: thì cha bắt buộc con phải nhìn nhận là cha thông minh hơn con một một cách tuyệt đối.
Người ta cũng nói: người 70 phải học với người 71.
Giáo dục cần thiết và qúi giá biết bao!
Algarotti nói: “Một nền giáo dục tốt là gia tài giầu sang người cha có thể trối lại cho con mình”.
III. THỰC HÀNH CHỮ HIẾU.
Trong ngày mồng hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với cha mẹ.
Vậy thảo kính cha mẹ là gì?
Thảo kính cha mẹ là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (theo sách giáo lý Tân định).
Chúng ta hãy đặc biệt nói đến việc giúp đỡ cha mẹ.
1. Khi cha mẹ còn sống.
Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Con cái hay bỏ mặc cha mẹ như trong câu truyện “Nắng chiều” ở trên.
Truyện: con tính tiền với mẹ.
Mỗi lần giúp việc, bà mẹ thường thưởng tiền cho em bé. Một hôm mẹ em bị bệnh, em phải giúp mẹ và thay mẹ trong nhiều công việc. Sau một thời gian giúp việc, không thấy mẹ tính tiền thù lao, nên em viết một hóa đơn ghi những công việc chưa được nhận tiền thưởng, gồm:
Tất cả các cái tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng, rồi đưa cho mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em 80 đồng kèm theo một tờ hoá đơn khác, trong đó ghi: công sinh thành, nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau... x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán.
Đứa bé vội vàng xin lỗi mẹ. (Góp nhặt 4, tr 79)
Chúng ta có hiểu công ơn trời bể của cha mẹ không? Mẹ nuôi con như trời như bể, Con nuôi mẹ con kể từng ngày?
2. Khi cha mẹ đã qua đời.
Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu cha mẹ còn sống mà chúng ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến hằng ngày? Chỉ có ngày giỗ chạp mới giúp chúng ta nhớ đến công ơn cha mẹ.
Hôm nay, ngày mồng hai Tết dành riêng để kính nhớ cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài, đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.
Ai mà phụ nghĩa quên công Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (ca dao)
Nếu như trong văn học Việt nam cây tre được ví von như người cha thì hình tượng cây chuối cũng Tết Mồng 2–89
Nếu như trong văn học Việt nam cây tre được ví von như người cha thì hình tượng cây chuối cũng được khắc họa như người mẹ. Người ta thường ca ngợi cây tre nhưng ít ai nói về cây chuối và ít ai biết được trong hình ảnh đó là những những ý tưởng phong phú. Hình ảnh ấy đã đi vào văn thơ mộc mạc, dân dã bao nhiêu thì cũng gần gũi thân thương trong những bài hát, bài thơ bấy nhiêu.
Người ta vịnh cây chuối như sau:
Không rực rỡ như hồng, lan, cúc, huệ Không dịu dàng như Tulip, Lily Hương chẳng thơm, sắc cũng chẳng tươi gì Mà nghiêng ngã khi cây vừa trổ nụ Chứa đựng trong lòng một dòng nhựa chát Để một đời xanh ngát những đứa con Hiến dâng xong xác cũng chẳng còn Nhường lại chỗ cho đàn con khôn lớn.
I. TẢN MẠN VỀ CÂY CHUỐI
1. Nơi trồng cây chuối
Đi đâu về những vùng quê Việt nam, chúng ta đều bắt gặp hình ảnh cây chuối thân mềm với những tàn lá xanh mướt tỏa ra che rợp từ vườn tược đến núi đồi. Cây chuối là loại cây dễ tính, nó phù hợp với nhiều loại đất, khí hậu của nhiều châu lục, đồng thời cây chuối lại rất ưa nước, dễ trồng, phát triển nhanh cho nên người ta mới nói:”Trẻ trồng na, già trồng chuối”, lại cho sản lượng cao, hầu hết cây chuối thường được trồng cạnh ao hồ của mọi nhà ở nông thôn.
Trồng cây cho hài hòa theo phong thủy thì người ta có câu:Trước cau sau chuối”, có nghĩa là đàng trước nhà nên trồng cây cau thân thẳng đứng cho khỏi cản gió nam mát mẻ (vì nhà thường quay về hướng nam) và không che khuất nhà cửa; còn cây chuối thì lá to, mọc um tùm nên trồng ở đàng sau nhà cho khỏi che khuất nhà và có thể cản gió may lạnh giá vào mùa đông.
Cũng vì những lý do đó mà cây chuối cũng đi vào thi ca, nhạc họa, đời sống văn hóa của người Việt nam với vẻ đẹp dân dã, giản dị của làng quê.
2. Các loại chuối
Chuối trồng được tạo thành do kết quả của sự lai tự nhiên giữa hai loài chuối hoang dại ở Đông Nam Á là chuối hột và chuối rừng. Ngày nay, người ta ước lượng có đến 200-300 giống chuối được trồng trên thế giới.
Hầu hết chuối ăn quả đều thuộc loài Musa paradisiaca L. với 11 thứ khác nhau bởi hình dạng quả, mầu sắc và vị của thịt quả, phân thành hai nhóm:
- Nhóm chuối tiêu (chuối già) có đến 5 giống mà phổ biến là chuối lùn cao và lùn thấp là giống chuối điển hình có bột chuyển hết thành đường, dễ tiêu hóa, có quả cong, vỏ dầy thường trồng ở đồng bằng sông Hồng và sông Chu.
- Nhóm chuối tây (chuối sứ) có quả to và ngắn hơn chuối tiêu, vỏ cũng mỏng hơn. Có thể luộc, có thể chiên, dùng làm rau (nõn thân già, hoa chuối) ít chát hơn là chuối tiêu.
3. Công dụng của chuối
Hầu như tất cả cây chuối đều cống hiến cho con người. Các bà nội trợ thường băm nhỏ thân chuối làm cám cho heo ăn, hay khi ăn các loại bún ta sẽ cảm thấy kém phần ngon miệng nếu như không có rau ăn kèm, lõi non của thân và bắp chuối bào mỏng. Lá chuối tươi dùng để gói bánh, gói giò và là một loại bao bì thân thuộc với môi trường; ngoài ra lá chuối khô cũng được dùng để gói những chiếc bánh gai.
Ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những sợ dây cột của các cô bán hoa, đó chính là bẹ chuối, chúng được xé phơi khô để làm những sợi dây cột như thế đấy.
Đặc biệt hơn nữa, chuối là một thức ăn bổ dưỡng nhất trong các thứ quả cũng như có tác dụng chữa bệnh, đến nỗi người ta nói đùa rằng:”Nếu mỗi bữa có một quả chuối tráng miệng thì bác sĩ không có tiền bỏ túi”. Ít loại hoa quả nào có nhiều tác dụng như thế.
Còn một phần nữa mà ta không thể bỏ qua chính là phần củ chuối, củ chuối vốn chỉ dùng để nhân giống, để nảy mầm thành cây con, thế nhưng người ta có thể dùng củ chuối mà làm món “rựa mận” thịt chó thì ngon tuyệt vời. Đôi khi gặp cảnh đói kém thì nó lại là lương thực cứu sống cho con người qua lúc ngặt nghèo.
Thế mới biết cây chuối đã góp phần quan trọng như thế nào đối với đời sống của người Việt nam chúng ta.
4. Ý nghĩa tượng trưng của cây chuối
- Nét đẹp có ý nghĩa thứ nhất là những trái chuối trong nải mọc sát bên nhau nói lên biểu tượng tính đoàn kết các thành viên trong gia đình cũng như trong xã hội.
Cây chuối còn biểu trưng cho sự hình thành của thế hệ trẻ. Và những quả chuối lớn dần trên buồng cũng biểu lộ cho sức vươn mạnh của con người.
Những bẹ chuối lá xanh to quấn tròn nhau mang ý nghĩa cho sự đùm bọc trong ngoài của dân tộc.
- Nét đẹp thứ hai của cây chuối là sự hy sinh dâng hiến: Khi ăn một quả chuối, chúng ta ít khi suy nghĩ về nó, chúng ta chỉ thấy nó ngon miệng thôi. Thực ra, cây chuối là cả một cuộc vận hành, nhưng phía cuối con đường là sự tàn lụi, sự hy sinh cao cả.
II. SUY TƯ VỀ CÂY CHUỐI
Nhìn vào bụi chuối xanh tươi, ngắm nhìn những buồng chuối chín mọng nặng trĩu, thưởng thức những quả chuối chín mọng thơm mát, ít ai nghĩ đến ý nghĩa của cây chuối. Chúng ta hãy ngắm nhìn những bụi chuối trĩu nặng buồng quả chín thơm, và chúng ta cùng suy tư về một vài điều.
Cuộc đời cây chuối thật ngắn ngủi. Vừa xuất hiện với tư cách mầm non đã vội vã trưởng thành rồi sinh con, rồi lại vội vàng biến mất. Vì thế người ta mới nói:”Trẻ trồng na, già trồng chuối”.
Từ khi là mầm chồi đến khi trưởng thành, cây chuối phát triển, cố gắng để sống… rồi trổ buồng, kết trái đợi đến khi trái chuối “những đứa con mình” thì cây chuối cũng chết tàn lụi. Như thế, cuộc đời của mỗi cây chuối chỉ sống có một lần, sinh con một lần. Sau khi cho cuộc đời trái thơm, trái ngọt thì cây chuối đã biến mất.
Không cây chuối nào có thể sinh được hai ba buồng một cách tự nhiên. Mỗi cây chuối chỉ có một buồng chuối, mặc dầu có buồng chuối dài tới 3 mét và có tới 120 nải ở Quảng Nam.
Khi cho cuộc đời được hoa trái của mình thì cây chuối đành tàn lụi đi để nhường chỗ cho những cây khác, là con cháu, đàn em của mình lớn lên. Có hay chăng cây chuối khi có được buồng chuối chín, rồi thì nhường lại tất cả những gì mình có cho thế hệ sau, còn bản thân mình lụi tàn và biến mất lúc nào không ai hay, mà cũng chẳng có cuộc cạnh tranh nào cho bằng là nhường chỗ cho những thế hệ sau. Chính cây chuối có một cái đạo gọi là đạo nhường bước để cây sau tiếp tục lớn lên.
Truyện: Cuộc đời cây chuối
Có một em bé hỏi bố rằng:
- Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiêu buồng?
Bố tôi trả lời:
- Chỉ một buồng duy nhất.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng cho vài buồng quả.
Bố nói thêm:
- Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gẫy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng cuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhật của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hằng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh cao cả đến thế.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mầm sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là một bài học quí báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt (Theo Internet).
III. BÀI HỌC TỪ CÂY CHUỐI
Cuộc đời của cây chuối là dâng hiến cho đời những trái ngon ngọt qua bao hy sinh vất vả rồi âm thầm tàn lụi đi trong quên lãng để nhường chỗ cho đàn con cháu, cho những thế hệ mai sau.
Cuộc đời của cha mẹ cũng giống như cuộc đời của cây chuối : cuộc đời dâng hiến. Chúng ta hãy nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời để cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chín thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao qua ca từ như bài Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân:
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào Lời ru man man như đồng lúa chiều rì rào Tiếng ru êm đềm trăng tà soi bóng mẹ yêu.
Còn rất nhiều bài ca và thơ văn của nhiều tác giả ca tụng tình yêu hy sinh của người mẹ, bài nào cũng chan chứa tình mẹ con, được ví như non cao biển cả mà không lời nói hay ngòi bút nào có thể diễn tả hết. Chúng ta hãy đọc một đoạn thơ của một tác giả khác:
Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ngời ngời Biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông Công cha nghĩa mẹ ghi lòng con ơi.
Thật đúng khi so sánh tình yêu và công ơn của cha mẹ với núi cao, biển rộng. Còn gì có thể cao hơn “núi ngất trời”, còn gì có thể rộng hơn “biển mênh mông”? Cha mẹ tần tảo nuôi nấng con, không mong các con đền đáp, mà chỉ trông sao các con khôn lớn nên người. Được thấy con hạnh phúc là cha mẹ hạnh phúc lắm rồi. Tôi còn nhớ một câu chuyện Trung Hoa kể về gương một cậu bé chăm sóc cha: trời nắng, cậu đứng bên cạnh quạt cho cha; trời lạnh, cậu nằm vào chăn trước để khi cha nằm được ấm ngay.
Một chữ “Hiếu” thôi tưởng chừng thật đơn giản nhưng có biết bao người đã lãng quên nó. Mồ hôi cha đã thấm xuống từng mảnh đất, bóng dáng mẹ đã cùng mưa gió bôn ba mọi nẻo. Mỗi mùa xuân sang, con cái rộn ràng đem biếu tặng cha mẹ những món quà đắt tiền, nhưng đó có phải là thứ mà cha mẹ cần đến không? Là những người con, chúng ta có thể làm được điều gì đem lại hạnh phúc cho cha mẹ thì hãy cố gắng làm ngay khi cha mẹ còn ở trên đời với ta. Xin gửi trọn tâm tình qua đoạn danh ngôn đạo đức tới các người con trong gia đình:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha. Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ, Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha. Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn, Mang cả tấm thân gầy cha mẹ chở đời con, Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc, Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con!
Các môn đệ đã không rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng người ta lại đi chất vấn vị Thầy của họ Tết Mồng 2–90
Các môn đệ đã không rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng người ta lại đi chất vấn vị Thầy của họ, là Đức Giê-su: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”(c. 2)
Như thế, các môn đệ làm điều không đúng dưới mắt của những người tuân giữ và bảo vệ Truyền Thống, nhưng người nghe lời than trách, lại là vị Thầy. Điều này có nghĩa là lời giảng của Thầy, cung cách hành xử của Thầy và chính bản thân của Thầy có vấn đề!
Đối với người Do Thái, rửa tay trước bữa ăn không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là một nghi thức thanh tẩy. Bởi vì, lương thực là ân huệ Thiên Chúa ban, nên phải chuẩn bị mình đển đón nhận. Hiểu như thế, nghi thức thanh tẩy này thật là có ý nghĩa trên bình diện thiêng liêng và cũng là một nghi thức tôn giáo nên bảo tồn. Và thật ra, chính chúng ta cũng làm như thế: trước bữa ăn, chúng ta làm dấu Thánh Giá, đọc lời nguyện xin Chúa chúc lành; khởi đầu Thánh Lễ, chúng ta xin Chúa thanh tẩy để trở nên xứng đáng lãnh nhận Lời và Mình của Đức Ki-tô như là lương thực; và theo Phụng Vụ Thánh Lễ, linh mục phải rửa tay trước khi cử hành nghi thức truyền phép, đồng thời đọc thầm: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm xin Ngài thanh tẩy”» (x. Tv 51, 4).
Như thế, những người Pha-ri-sêu và Luật Sĩ thật có lí, khi lưu ý Đức Giê-su rằng, các môn đệ của Ngài đã không rửa tay trước bữa ăn. Cũng tương tự như các nhà chuyên môn về phụng vụ của chúng ta, hay những người yêu thích phụng vụ vẫn thường lưu ý hay góp ý người này người kia đã làm sai hoặc không làm một qui định chữ đỏ nào đó trong Sách Lễ Roma. Tuy nhiên, Đức Giê-su lại bênh vực các môn đệ của mình. Vậy, đâu là vấn đề của những người Pha-ri-sêu và Luật sĩ? Và phải chăng, vấn đề của họ cũng có thể là vấn đề của chúng ta?
Nghi thức thanh tẩy dù có ý nghĩa và quan trọng, nhưng cũng chỉ là một cách diễn tả của con tim, là một lời mời gọi hướng tới một thái độ nội tâm. Thật vậy, giữ nghi thức và giữ thật đúng qui định nói lên điều gì hay sẽ đem lại hoa trái nào, khi mà trong lòng trống rỗng, hay có những tâm tình hay cảm nghĩ bất xứng hay không phù hợp? Như Đức Giê-su đã nói trong Bài Giảng Trên Núi: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Sai lầm là ở chỗ, người ta bị xét đoán là thanh sạch hay nhơ uế tùy theo việc giữ hay không giữ nghi thức rửa tay hay những nghi thức khác ; như thế, nghi thức trở thành tiêu chuẩn xét đoán về tương quan giữa con người và Thiên Chúa, và do đó, giữa con người với nhau, bởi vì người ta sẽ cư xử đặc biệt với những « người nhơ uế », những « người tội lỗi ».
Đối với Đức Giê-su, điều làm cho người ta trở nên thanh sạch hay nhơ uế không phải là điều ở bên ngoài, nhưng là điều trong nội tâm. Trước đó, Đức Giê-su đã trích lời Kinh Thánh này: « Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân » (Mt 15, 8-9). Và trong các Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (5, 8).
Ước gì chúng ta có được một con tim biết sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa ; vì đó là con đường duy nhất làm cho con tim của chúng ta trở nên gần gũi với Thiên Chúa, làm cho các việc làm, các thực hành đạo đức của chúng ta trở nên đáng yêu dưới mắt Chúa. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất lực trong nỗ lực điều khiển con tim, trong việc làm chủ những diễn biến nội tâm, và nhất là những diễn biến ở những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn. Chỉ có Thiên Chúa, ngang qua Lời và Mình của Đức Giê-su, mới có thể làm cho con tim của chúng ta nên thanh sạch, mới có thể tái tạo và làm cho con tim của chúng ta nên mới. Xác tín này làm cho chúng ta bình an và khiêm tốn.
Truyền thống và Lời Chúa
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa được nghe công bố, Đức Giêsu nói hai lần về cùng một điều, đó là tương quan giữa truyền thống và Lời Chúa. Lần thứ nhất về chuyện rửa tay trước khi dùng bữa: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”(c. 3)
Lần thứ hai, nghiêm trọng hơn, vì liên quan đến luật thảo kính cha mẹ của Mười Điều Răn: “Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”(c. 6b)
Trong câu nói này, Đức Giêsu coi giới răn như là lời Thiên Chúa. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su còn thêm: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7, 13) Truyền thống là một giá trị qui chiếu quan trọng, hơn nữa là một ơn huệ, bởi vì đó là một cách sống giới răn của Chúa, sống Lời Chúa của một cộng đoàn trong một thời gian và nơi chốn đặc thù. Nhưng với thời gian, các việc thực hành tốt đẹp này trở thành máy móc, nghĩa là nghi thức tự động tạo ra sự thanh sạch, trở thành quan trọng hơn so với chính Lời Thiên Chúa, trở thành ngẫu tượng.
Chúng ta cũng có rất nhiều truyền thống ở mọi cấp độ: Giáo Hội, Dòng tu, tu hội, dân tộc, cộng đoàn, nhóm… Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhận định lại toàn bộ dưới ánh sáng của Lời Chúa ban sự sống và diễn tả lòng thương xót.
Giới răn “Thờ cha kính mẹ”
Tại sao, giới răn “thờ cha kính mẹ” mang tầm mức Lời Chúa, vượt trên mọi lề luật, thói quen, tập quán phát xuất từ Truyền Thống?
Bởi vì, năng động sống « uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu », thuộc về nhân tính, vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, đạo hiếu từ ngàn xưa của Dân Tộc Việt Nam đã phát xuất và chất chứa Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, giới răn này không chỉ có nền tảng nhân bản, nhưng còn có nền tảng thiêng liêng nữa. Bởi vì:
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn con người đến việc tin nhận Thiên Chúa. Thực vậy, tổ tiên ông bà và cha mẹ sinh ra chúng ta, nhưng các vị không phải là nguồn sự sống; hơn nữa, sự sống rất nhiệm mầu và chỉ có thể đến từ Thiên Chúa mà thôi, như chúng ta vẫn nói: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Nhất là trong việc giáo dục đức tin ngày nay, giáo dục lòng biết ơn là con đường tốt nhất dẫn người trẻ đến kinh nghiệm tin nhận Thiên Chúa: biết ơn, biết ơn đối với cha mẹ, đối với cuộc đời, đối với Giáo Hội, và đối với chính Thiên Chúa, cội nguồn và điểm tới của mọi sự.
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn đến hiểu biết khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, một khuôn mặt rất dễ bị bóp méo bởi những hệ thống tư tưởng, khuynh hướng tuyệt đối hóa những điểm tùy phụ và bởi chính luật lệ. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và “Đấng Hay Thường Xót”; và khuôn mặt này được phản ánh tốt nhất nơi cha mẹ. Đức Giê-su cũng đã khởi đi từ tình yêu của cha mẹ, để giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).
Và cuối cùng, một thái độ “thờ cha kính mẹ” sẽ khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới làm thỏa mãn niềm hi vọng gia đình tái đoàn tụ mãi mãi bên nhau trong tình yêu thương mà thôi.
Trong mồng một tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta -trước hết- dâng lời tạ ơn Chúa, cầu bình an Tết Mồng 2–91
Trong mồng một tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta -trước hết- dâng lời tạ ơn Chúa, cầu bình an, thì trong ngày mồng hai tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Mừng lễ hôm nay là dịp nhắc nhở chúng ta nhớ đến nguồn cội của mình và công ơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng ta...
Người Á Đông nói chung, đặc biệt người VN nói riêng rất đề cao chữ HIẾU và nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU.
“Mẹ cha vất vả nuôi mình//Từ khi trứng nước công trình biết bao./ Làm con phải nhớ công lao,/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Kẻ làm con phải “Dĩ hiếu vi tiên” nghĩa là lấy hiếu làm đầu. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.
Bởi vậy, từ thuở mới cắp sách tới trường, bài học đầu tiên của ta là: Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Sự hiện diện của mỗi người trên cõi đời này không phải là một sự xuất hiện ngẫu nhiên, nhưng là mắt xích của cả một công trình vĩ đại, một chuỗi dài những liên hệ yêu thương từ Adam đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và giờ đây là chúng ta,… Người ta thường nói: “Con người có cố có ông,/ Như cây có cội như sông có nguồn”. Người ta có cha có mẹ/ Không ai ở chỗ nẻ chui lên (Tục ngữ).
Trong đời sống người Kitô hữu, chữ Hiếu càng được quý trọng hơn. Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình tự nhiên hay là một qui định xã hội mà còn là một điều răn Chúa dạy trong 10 điều Chúa truyền qua ông Môsê: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. 10 điều răn được khắc vào 2 bia đá; và nếu để ý một chút ta sẽ thấy không phải là mỗi bên 5 điều nhưng một bên 3, một bên 7; bia đá thứ nhất gồm 3 điều ghi lại bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; bia đá thứ hai 7 điều ghi lại bổn phận giữa con người với nhau; và như thế ta mới thấy điều răn mà ta gọi là thứ tư lại là điều răn thứ nhất trong đạo làm người.
Các bài đọc Lời Chúa thánh lễ hôm nay, có chung chủ đề là chữ Hiếu.
Bài đọc thứ nhất trích sách Huấn ca nhắc chúng ta không chỉ biết ơn mà còn tôn vinh những bậc vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại.
Bài đọc 2, thánh Phaolô nói với chúng ta qua thư gửi tín hữu Ephêso: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Đúng ra, Phaolô đã viết lại lời Chúa trong sách Xuất Hành: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).
Bài tin mừng, Chúa Giêsu cũng nhắc lại lời trong sách Xuất Hành và Lêvi: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử”. Đặc biệt, Chúa Giêsu khiển trách những luật sĩ và biệt phái về việc áp dụng sai luật Chúa. Đối với họ, lễ vật gọi là ‘Coban’, tức là những gì họ dâng cho Chúa rồi thì họ không còn bổn phận giúp cha mẹ nữa.
Ngày hôm nay cũng còn có những người con như thế: đưa cha mẹ vào trại dưỡng lão, đóng tiền cho người ta nuôi; hay cho cha mẹ tiền, quà rồi cho đó là thảo hiếu, nhưng không hề về thăm hay hỏi han cha mẹ mạnh khỏe ra sao? Đau yếu thế nào?
Chúa Giêsu không chỉ nhắc nhở con người về đạo làm con mà chính Ngài từ muôn thuở đã luôn là Người Con đẹp lòng Chúa Cha. Hơn nữa, khi nhập thể làm người, Ngài cũng luôn thảo kính, vâng phục Đức Maria và thánh Giuse.
Theo truyền thống tốt lành của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ngày mồng hai tết là ngày con cháu kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Hôm qua, ngày mồng một tết, trước hết ta thờ kính Chúa, tạ ơn Ngài và xin Ngài ban bình an; hôm nay, ngày mồng 2 tết, ta thảo kính OBTT, cha mẹ chúng ta. Trong ngày mồng hai Tết này chúng ta hãy nhìn lại lòng thảo kính của chúng ta đối với cha mẹ.
Vậy thảo kính cha mẹ là gì?
Thảo kính cha mẹ (theo sách giáo lý Tân định) là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi [các ngài] còn sống và [cũng như] đã qua đời.
1. Khi cha mẹ còn sống.
Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Nuôi cha mẹ già không phải là dễ. “Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày”; bởi vậy, người ta nói: “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ”.
Tiếc thay, rất nhiều người -dù đã đang nuôi con- đã có kinh nghiệm vất vả vì con nhưng lại quên ơn nghĩa sinh thành. Họ coi việc chăm sóc cha mẹ già là một gánh nặng nên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Tục ngữ VN có câu: “Sống không cho ăn, chết thì làm văn tế ruồi” là lời nhắc nhớ con cháu phải cần kíp chăm sóc cha mẹ bao nhiêu có thể khi các ngài còn sống với ta trong cõi đời này. Ngày hôm nay, có những người con tuy vui tết, nhưng vẫn cứ ân hận vì mình đã không lo chu toàn bổn phận chữ hiếu với cha mẹ mình, bây giờ cha mẹ không còn nữa; trái lại, ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy có những người con trước khi đi làm đã tranh thủ đút cháo và sếp giường chiếu cho cha mẹ; có những người con dìu dắt cha mẹ già lọm khọm bước lên bực cấp nhà thờ để dự lễ. Hình ảnh này làm cho tất cả chúng ta cảm động và thấy mình cần có trách nhiệm hơn nữa đối với song thân sinh thành dưỡng dục mình. Hơn nữa: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Nếu ta không trọng cha mẹ ta, khi ta về già, sao con cháu có thể trọng ta được!
2. Khi cha mẹ đã qua đời.
Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu ông bà cha mẹ còn sống mà ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến các ngài hằng ngày khi các ngài đã qua đời? Thật ra, các ngài qua đời/khuất núi nhưng vẫn hiện diện [Chứ không phải trở về hư vô]. Giữa âm và dương thật gần gũi. “Người chết nối linh thiêng vào đời” là vậy.
Bởi thế, mỗi dịp giỗ chạp, đặc biệt là tháng 11 và mồng 2 tết là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài: “Ai mà phụ nghĩa quên công/ Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”.
Hôm rồi, lễ an táng 1 bà cụ Anna Nguyễn Thị Đẫm [bà Tộ], một cha già nhắc tôi: đối với cha mẹ và ân nhân, các cha phải nhớ: “Sống thì phải tết, chết thì phải lễ”. Lời cha già nhắc tôi cũng là lời nhắc tất cả chúng ta vì ai trong chúng ta ra đời cũng có cha có mẹ.
Vậy, mồng Hai Tết hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về bổn phận hiếu thảo với các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ. Hãy chăm sóc, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống; Hãy dâng một nén hương, một lời nguyện cầu lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, để ngày Xuân của chúng ta không chỉ là mùa xuân của ân nghĩa đối với nhau mà còn là mùa xuân của lòng báo hiếu với người đã khuất. Amen.
Dù ai buôn bán nơi đâu, Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về. Vào dịp Tết Nguyên đán, người dân Tết Mồng 2–92
Dù ai buôn bán nơi đâu Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về
Vào dịp Tết Nguyên đán, người dân ở phương xa về quê sum họp gia đình và dành thời gian để thăm viếng thân nhân, cúng bái tổ tiên, thờ phượng đất trời. Vì Tết là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn”.
Biết ơn trời, nhớ nguồn gốc tổ tiên thật là một tục lệ tốt đẹp và mang đầy nét nhân văn của lòng biết ơn được văn hóa Việt Nam trân trọng và được chính Chúa Kitô đánh giá cao (x. Lc 17,11-19).
Ngày mùng hai tết, người Trung Quốc (gồm cả Đài Loan) có một truyền thống rất tốt đẹp là: Tất cả những người con gái đã xuất giá (lấy chồng) đều cùng với chồng và con trở về nhà cha mẹ ruột của mình, để cùng ăn cơm, cùng vui Tết, cùng chúc tuổi cha mẹ, đó cũng là một cách báo hiếu của con gái đã lấy chồng.
Suy niệm
Mùng hai tết, tuy không khí ngày tết vẫn rộn ràng vui tươi của ngày xuân, những người Công giáo Việt Nam đến nhà thờ và viếng nghĩa trang với tâm trạng bồi hồi xúc động, vì hôm nay kính nhớ tổ tiên, những người con dâng thánh lễ với tấm lòng hiếu thảo cầu nguyện cho gia tiên và hồi tưởng về tổ tiên, ông bà cha mẹ và những người thân đã qua đời. Những ánh nến lung linh soi hồi ức của người con về những kỷ niệm đẹp với ông bà cha mẹ và người thân khi họ còn sống bên cạnh, những nén hương thơm tựa như lời cầu nguyện chân thành dành cho người đã khuất bay tới trời cao như Thánh Vịnh có nói: “Ước chi lời con nguyện, tựa hương trầm bay tỏa trước Thánh Nhan” (Tv 141,2), những bông hoa muôn sắc dâng tiến như tâm tình biết ơn đẹp mãi không phai và luôn thắm như hoa xuân.
Nhớ về tổ tiên, chúng ta làm sống lại tâm tình của sách Huấn ca về sự nghiệp của tổ tiên luôn sống động mãi: “Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ. Thân xác họ được chôn cất bình an, tên tuổi họ sẽ sống đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ cộng đoàn truyền tụng, và công hội thuật lại lời ngợi khen họ” (Hc 44,12-15).
Thảo hiếu với cha mẹ còn sống và kính nhớ ông bà tổ tiên đã khuất bằng lời cầu nguyện trong ngày mùng hai Tết, chúng ta sống tâm tình của thánh Phaolô về chữ hiếu trong gia đình luôn làm phần phúc cho người con thảo mà ngài đã viết khuyên nhủ cộng đoàn tín hữu Êphêsô: “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa để ngươi được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu” (Ep 6,1-2).
Hôm nay ngày cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, chúng ta càng thêm xác tín: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại”, tin vào lời Thầy Giêsu đã phán dạy: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời” (Ga 11,25-26). Được sống muôn đời là sống trong mùa xuân vĩnh cửu với Chúa trên thiên đàng.
Cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ là hành động của niềm tin vào Đấng Phục Sinh - Chúa Xuân vĩnh cửu sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc thật trường tồn. Kính nhớ ông bà tổ tiên còn là “đạo làm người” trong tư cách con người, biểu hiện lòng biết ơn các đấng sinh thành dưỡng dục.
Ngày xuân nhớ đến gia tiên, với cây nến, nén hương trong tay chúng ta tin rằng: Mừng xuân hôm nay nói về mùa xuân Thiên quốc: Tất cả đều trổ bông với một sức sống mới: Con người cũng sẽ phục sinh, nở hoa khi theo bước chân của Đức Kitô, như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu” (1Tx 4,14). Tất cả sẽ cùng Đức Kitô đi vào trong Giáo hội Chiến Thắng - Mùa Xuân Cứu Độ.
Ý lực sống
“Người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng… Kẻ kính cha sẽ được trường thọ” (Hc 3,4.6).
Nhân ngày tết, theo truyền thống dân tộc VN, chúng ta luôn tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với tổ Tết Mồng 2–93
Nhân ngày tết, theo truyền thống dân tộc VN, chúng ta luôn tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Người công giáo Việt Nam ngay từ thưở ban đầu, tuy không theo những nghi thức nơi dân ngoại, nhưng luôn kính viếng các phần mộ cha ông, và dâng lễ cầu nguyện cho các Ngài. Sau nhiều cố gắng HĐGMVN trước 1975 cũng đã được Tòa Thánh chấp thuận những khẩn cầu để có thể thiết lập bàn thờ tổ tiên trong gia đình, để hằng ngày có thể hiệp thông với các ngài trong cầu nguyện.
Thực sự, ngay từ thời Cựu Ước, tương quan với tổ tiên không chỉ là tương quan nghi lễ, mà còn là tương quan gắn liền với Giao Ước của Thiên Chúa. Theo đó “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con” “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước” nhờ đó mà “Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại”.
Đến thời Tân Ước, tương quan đó được đẩy lên mức cao tuyệt đối, vì thánh Phaolô đặt tương quan ấy “theo tinh thần của Chúa” mà thánh sử Luca gói trọn trong lời “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” và trước khi từ giã cõi đời, Chúa đã trối Mẹ mình cho người môn đệ Ngài yêu để thay Ngài chăm sóc Mẹ, và Hội Thánh đã nhận lời trối của Chúa để luôn có lòng đón nhận Mẹ Ngài như là mẹ của mình. Thật ra phải nói rằng theo tinh thần của Chúa, thì đời sống đặt nền tảng trên đức hiếu thảo không chỉ với Chúa Cha mà cả với cha mẹ trần gian nữa. Và đức hiếu thảo này chính là nền tảng cho sự thánh thiện của Dân mới.
Thánh Phaolô nhìn vào đức Hiếu Thảo của Chúa là một tương quan 2 chiều: Cha mẹ - con cái. Về phần con cái thì phải “tôn kính cha mẹ” như là “điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. Về phần cha-mẹ “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.”.
Bài Tin Mừng cho thấy người làm cha là Giacaria đã nhìn thấy nơi người con của mình là Gioan tiền hô, có một sứ mạng mà Thiên Chúa trao cho, sứ mạng làm cho mọi người nhận biết “Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” theo “lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta”. Sứ mạng gắn liền với Giao Ước. Mỗi người cha, người mẹ, người con đều phải “phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời”.
Tương quan hai chiều này suốt theo dòng lịch sử luôn bị khủng hoảng, nhiều khi rất khủng khiếp: cha mẹ-con cái nhiều khi trở thành thù hận, thậm chí chém giết như thấy trên các báo ngày nay. Vì thế muốn giữ được tương quan theo tinh thần của Chúa thánh Tông Đồ khuyên chúng ta “Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh”, nghĩa là cho mọi người được Thánh Thần nâng đỡ để chu toàn giới răn này.
Và tôi mượn lời của Thánh Tông Đồ “Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin.”
—Nhớ cầu cho bậc tổ tiên Đền ơn đáp nghĩa --Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo tập tục vẫn có từ đời cha Đắc Lộ, để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh đã chỉ Tết Mồng 2–94
Theo tập tục vẫn có từ đời cha Đắc Lộ, để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh đã chỉ định Ngày Mồng Một Tết, là Ngày cầu cho thế giới được hòa bình, cho quốc thái dân an, cho gia đình ấm êm hạnh phúc. Hôm nay Ngày Mồng Hai Tết, ngày kính nhớ tổ tiên ông bà, cha mẹ, theo tinh thần của Đạo Hiếu, hướng chúng ta về với cội nguồn là những đấng cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng dục chúng ta thành người.
Ý tưởng của Lời ca nhập lễ: “Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân. Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”. Lời nguyện tiến lễ mới đẹp làm sao: “Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận mà tuôn đổ hồng ân xuống trên tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để chúng con cũng được thừa hưởng phúc ấm của các ngài”.
Chúa truyền phải thảo cha kính mẹ
Thụ ơn ắt phải báo đền, mẹ cha là hình ảnh của Thiên Chúa: ngoài việc sinh thành, dưỡng dục, các ngài còn là người đại diện Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa tình thương hằng bao bọc, che chở và nuôi dưỡng chúng ta nên người. Chính trong bậc sống gia đình, cha mẹ được Thiên Chúa mời gọi để cộng tác vào chương trình tạo dựng của Ngài, để cho ra đời những người con, mang hình ảnh Chúa, và tô điểm thêm cho trái đất nhiều người ca ngợi và kính sợ Chúa. Vì thế, bổn phận của cháu con, ngoài việc phụng dưỡng, giúp đỡ cha mẹ khi già yếu, còn phải hằng ngày cầu nguyện cho cha mẹ: luôn sống xứng bậc mình, sẵn sàng hy sinh để nuôi dưỡng và giáo dục cho tròn bổn phận mình. Thiên Chúa dạy chúng ta: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Mc.7, 8-13). Phụng dưỡng mẹ cha theo đúng lời Chúa truyền dạy, chớ dựa vào: “truyền thống của cha ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 13, 6).
Ơn phúc đến từ việc tôn kính mẹ cha
Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng. Việc “đền ơn đáp nghĩa” là một nghĩa vụ thiêng liêng và cũng là bổn phận của kẻ làm con. Ai thực hành Lời Chúa dạy sẽ được Chúa ban dư tràn phúc lành.
Ước muốn sống lâu, sống hạnh phúc trên địa cầu này là lời cầu chúc trên cửa miệng của chúng ta trong ngày đầu năm mới, bởi ai cũng mơ sống hạnh phúc, khang an và trường thọ. Chúa dạy: “Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài” (Hc 3,6). Thánh Phaolô Tông đồ khuyên chúng ta “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Ngoài việc sống vui sống hạnh phúc, kẻ tôn kính mẹ cha còn được tha thứ tội lỗi: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm” (Hc 3,2). Được nhận lời khi cầu xin: “Ai hiếu thảo với cha mẹ, khi cầu xin họ sẽ được lắng nghe” (Hc 3,5b). Được con cái báo đền: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái” (Hc 3,5a). Vì “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đấy”. Người bất hiếu với cha mẹ sẽ bị con cái đối xử tàn tệ hơn. Người có hiếu với cha mẹ cũng sẽ được con cái đối xử tốt đẹp. Được ơn lành tích trữ trong kho tàng: “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,4).
Phận làm con cho tròn chữ Hiều
Thật phù hợp với đạo lý dân tộc Việt Nam, chiếc bánh chưng, một sản phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chúng ta làm để ăn ngày Tết nhắc nhớ chúng ta mang nặng nghĩa mẹ tình cha. Bởi Lang Liêu, vị hoàng tử thứ mười tám, con người hiền lành, hiếu thảo đã dâng lên vua cha thứ bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dầy tượng trưng cho trời, nhân bánh tựa công ơn sinh thành của cha mẹ; với ý nghĩa xem công cha nghĩa mẹ to lớn như trời cao đất rộng, che chở cho con cái sống an vui giữa đời.
Vì cha nên mới có mình, Mẹ cha đối đáp công trình biết bao Ơn này sánh với trời cao Trong lòng con dám lúc nào lãng quên
Ngày Tết, cầm bánh chưng lên ăn, làm chúng ta nhớ đến tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo như: thăm viếng, chúc tết, giúp đỡ là một lẽ, chúng ta còn phải xin lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất cả đều là những nghĩa cử cần thiết, không thể thiếu được.
“Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông: có cha có mẹ, có ông có bà”. Ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu đối với mẹ cha.
Tôn kính
Công cha nghĩa mẹ cao dày, Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ. Nuôi con khó nhọc đến giờ, Trưởng thành con phải biết kính thờ song thân.”
Phụng dưỡng
Còn nữa, phận làm con đối với cha mẹ:
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc Xem cháo cơm thay thế mọi bề Ra vào thăm hỏi từng khi Người đà vô sự ta thì an tâm.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Vâng lời
Dạy sao cho được con hiền Để cho cha mẹ khỏi phiền về con Một niềm phép tắc nết na Biết sống biết kính mới là khôn ngoan
Có một số người, không biết sống đạo gì mà lại đối xử nhất trọng nhất khinh. Bởi vì đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình.
Trong tác phẩm “Gia Huấn Ca” Nguyễn Trãi đã đề cao đạo đức, và chữ hiếu được nhấn mạnh rất rõ:
“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy, Đừng tranh dành bên ấy, bên này, Cù lao đội đức cao dày, Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Khi cha mẹ qua đời
Con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.
Hội Thánh Công giáo nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc.
Thực hành chữ hiếu
Trong ngày Mồng Hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ các ngài khi còn sống và đã qua đời. Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (Ca dao)
Xin Chúa trả công bội hậu đời này và đời sau cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài. Amen.