Tin Mừng Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 15/8 Bài 101-150: Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại Kh 11,19a;12,1-6a.10ab; 1Cr 15,20-27; Lc 1,39-56 ------------------------------------------ Phúc Âm: Lc 1, 39-56: “Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ”.
Trong năm Phụng vụ có bốn ngày lễ lớn. Lễ Giáng sinh để mừng kính Chúa Cha. Lễ Phục sinh 15/8-101
Trong năm Phụng vụ có bốn ngày lễ lớn. Lễ Giáng sinh để mừng kính Chúa Cha. Lễ Phục sinh để mừng kính Chúa Con. Lễ Hiện xuống để mừng kính Chúa Thánh Thần và lễ Lên Trời để mừng kính cái chết và cuộc khải hoàn của Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Mẹ Hồn xác lên trời trước hết khiến chúng ta tưởng nhớ đến cái chết của Mẹ. Đây là một vấn đề gây nên nhiều cuộc tranh cãi và tìm hiểu, Giáo Hội chỉ công bố Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác, nhưng không đả động gì tới cái chết của Mẹ. Có người chủ trương rằng: Mẹ Maria được đưa về trời mà không đi qua khung cửa sự chết. Đây là một đặc ân Ngài được hưởng vì như lời thánh Phaolô đã nói: Vì một người mà tội lỗi đã đột nhập vào trần gian và cũng vì tội lỗi đó là cái chết. Tất cả chúng ta đều phải chết vì tất cả chúng ta đều đã phạm tội. Tiền công của tội lỗi đó là cái chết. Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm nguyên tội đã đành, mà trong suốt cuộc sống dương thế, Mẹ cũng chẳng vấp phạm và nghiêng chiều về đàng trái, cho nên Mẹ sẽ chẳng phải lãnh nhận hậu quả thảm khốc của tội lỗi là cái chết.
Tuy nhiên phần đông các nhà thần học đều chủ trương rằng: Mẹ Maria đã đi qua cái chết. Lập trường này được dựa trên những lý chứng chắc chắn. Trước hết Mẹ Maria hẳn không muốn cho mình được ưu đãi trong mối liên hệ với Đức Kitô. Đức Kitô đã muốn chịu chết để tẩy xoá tội lỗi nhân loại. Phải chăng Đức Maria là Đấng đồng công cứu chuộc lại muốn khước từ những đau khổ và cái chết hay sao? Cái chết của Mẹ phải là một cái chết an lành, không mang chút lo lắng, sợ hãi và đắng cay. Làm sao Mẹ có thể sợ hãi khi Mẹ không dính bén một chút tội lỗi. Làm sao Mẹ có thể lo lắng trước vị thẩm phán tối cao cũng chính là Đấng Mẹ đã cưu mang trong lòng. Sự ra đi của Mẹ cũng không phải vì đau yếu bệnh tật, nhưng chỉ vì lòng ao ước được kết hiệp với Đức Kitô, Con Mẹ. Ước ao này, kể từ ngày Chúa về trời, mỗi lúc một thêm tha thiết, và khi tới giờ Chúa đã định, tâm hồn Mẹ nhẹ nhàng thoát khỏi những ràng buộc của thể xác mà không gây nên đau đớn như một ngọn nến chợt tắt như một làn hương trầm toả khói nghi ngút.
Mẹ Maria ra đi bình yên, Mẹ chết trong tình yêu mến Chúa. Cái chết loại này đôi khi cũng xảy ra nơi các thánh. Cách đây mấy chục năm tại nhà dòng Phanxicô ở Bavièra, trong một Thánh lễ an táng, có một chị mặt chăm chú nhìn vào chiếc quan tài và khoảng huyệt đào sẵn, dáng điệu thật đăm chiêu như chìm vào những suy tư. Sau cùng chị cho biết những ý tưởng của mình trong giây phút đó như sau: Tôi muốn về trời. Tôi không hề ghen tức. Mỗi khi có một chị em trong dòng chết đi, thì tôi cũng ao ước được như vậy. Trong phòng riêng, ở nhà cơm hay trong lớp học, khắp nơi tôi đều cảm thấy như ở trong tù ngục. Tôi chỉ được thoải mái khi quỳ trước Thánh Thể Chúa vì tại đây tôi được nếm thử niềm hạnh phúc Nước Trời. Lần khác chị nói: Tôi dường như thờ ơ trước tất cả mọi sự. Những điều tôi nghe cũng như những cái tôi nhìn, đều không đem lại cho tôi những thích thú. Tôi có cảm tưởng rằng mình sẽ mất thời giờ nếu không suy tưởng về Chúa. Một tình yêu sâu xa như thế đã hướng dẫn cả cuộc đời chị, cho đến tận giây phút cuối cùng, chị vẫn còn nói: Tôi muốn trở về nhà Cha. Cái chết của chị không thể nào so sánh với cái chết của Mẹ Maria vì đó mới chỉ là một đặc ân dành cho những tâm hồn hoàn toàn hiến dâng và thuộc về Chúa. Tôi muốn trở về nhà Cha. Các thánh thường chết trong niềm ao ước như thế.
Không phải Thiên Chúa ban cho Đức Ma-ri-a được hưởng ơn rất phi thường để làm nhẹ bớt gánh 15/8-102
Không phải Thiên Chúa ban cho Đức Ma-ri-a được hưởng ơn rất phi thường để làm nhẹ bớt gánh nặng của Mẹ. Như Con Ngài “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền cứu ngươi khỏi chết” (Dt. 5, 7). Thì Mẹ cũng phải sống kiếp phàm nhân như vậy. Chính sống qua kiếp đau khổ này, Mẹ đã cảm nghiệm được lòng trung tín với Thiên Chúa.
Một đời sống đức tin.
Đức Ma-ri-a đã sống trong đức tin, tức là sống trong tăm tối như chúng ta, không nắm bắt được những ý nghĩa rối mù luôn xảy đến với Ngài. Nhưng dần dần, ý nghĩa mầu nhiệm của đời Mẹ được liên kết với đời Con Mẹ, dù luôn luôn bao phủ trong sương mù của đức tin cũng hiện lên trong lương tri của Mẹ như mặt trời ló rạng báo hiệu bình minh sáng tỏ ở vầng đông. “Điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta” (Ga 5, 4). Với đêm Phục Sinh “Bóng tôi đang qua đi, và ánh sáng thật đã tỏ rạng” (1 Ga, 2, 8).
Đức Ma-ri-a sau Phục Sinh của Đức Giê-su và ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, tiếp tục sống với Giáo Hội đang tiến triển trong đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Mẹ Ma-ri-a không được trông thấy sự sống lớn mạnh của Giáo Hội, nhưng mẹ được nếm hạnh phúc vì biết sự sống đó từ nay hiện diện ở những nơi mà Giáo Hội sẽ tới.
Hình bóng của Giáo Hội.
“Con sẽ ở cùng Mẹ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20) Mẹ Ma-ri-a là hình bóng Giáo Hội đã liên kết chặt chẽ với Đấng mà Mẹ yêu mến, chắc chắn trong bóng tối của đức tin. Mẹ nóng lòng chờ đợi lời hứa này của Con Mẹ thực hiện: “Con đi dọn chỗ cho Mẹ và Con sẽ trở lại để đưa Mẹ về cùng Con, để Con ở bên Chúa Cha, thì Mẹ cũng ở đấy với Con”.
Chính vì thế, người ta có thể hình dung hơi thở cuối cùng của Mẹ Ma-ri-a như cuộc đàm thoại yêu thương hoàn tất bộ Kinh Thánh rằng: Thánh Thần và Tân Nương nói: “Xin Ngài ngự đến”. Đấng rất yêu mến đáp: “Phải chăng bao lâu nữa Ta sẽ ngự đến” “Ô lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến!” (Kh 22, 17 và 20).
Cả cuộc đời dương thế của chúng ta là một cuộc hành hương, một cuộc lữ hành, về nhà Chúa. Giờ 15/8-103
Cả cuộc đời dương thế của chúng ta là một cuộc hành hương, một cuộc lữ hành, về nhà Chúa. Giờ đây, tất cả chúng ta là những lữ khách trần gian, có nghĩa rằng chúng ta còn đang đi, cuộc sống này chưa phải là nơi định cư vĩnh viễn. Ngày hôm nay, toàn thể Hội thánh tin và tuyên xưng rằng Mẹ Maria được Thiên Chúa cho lên trời cả hồn lẫn xác. Trong khi đó Mẹ Maria cũng là kẻ lữ hành như chúng ta khi còn ở trần thế và hành trình đức tin của Mẹ Maria cũng lắm gian truân và thậm chí còn đen tối chứ chẳng sáng sủa gì! Thế tại sao Mẹ Maria được đặc ân này? Tin Mừng hôm nay trả lời ngay rằng vì Mẹ đã tin vững vàng vào Thiên Chúa và công trình Người sẽ thực hiện nơi Mẹ và cuộc đời của Mẹ, “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45).
Chúng ta tạm ngừng chiêm ngắm những đặc ân cao cả của Mẹ Maria để quay về với cuộc sống bình thường giản dị và đơn sơ của cô Maria tại làng Nazarét nghèo nàn. Chắc chắn, cô Maria cũng như bao cô gái khác trong làng đều có những ước mơ thật tốt đẹp và tươi sáng về cuộc đời mình khi đến tuổi vào đời. Đùng một cái, Thiên Chúa mời cô làm mẹ Con Một của Ngài trong khi cô không biết đến chuyện vợ chồng, liệu cô Maria có tin chuyện ấy có thể xảy ra không? Rồi tới giờ mãn nguyệt khai hoa mà chẳng một ai, một nhà nào cho cô Maria và thánh Giuse mướn một chỗ để sinh, lúc ấy cô Maria có tin mình sắp sinh Ngôi Hai Thiên Chúa không? Rồi nữa, khi thấy con mình đi từ làng này sang làng khác để rao giảng Tin Mừng, chữa lành nhiều bệnh nhân mà không biết mệt mỏi, có lúc quên ăn ăn ngủ, thậm chí quên giờ quên giấc đến nỗi người bà con nói với cô đi bắt con trai Giêsu bà về đi nó điên rồi (Mc 3,20-21), cô có còn tin đó là Con Thiên Chúa thật không? Chưa hết, khi lạc con ba ngày, vừa lo vừa sợ, vừa mệt vừa tủi trong lúc tìm con; khi tìm được rồi chưa kịp mừng thì người con nói một câu như gáo nước lạnh tạc vào mặt, thư hỏi cô có tin đó là Thiên Chúa thật không? Chưa nói, khi thấy con mình bị phỉ nhổ, khinh chê, đánh đập bầm thâm loạn bì và chết trên treo thập giá, liệu cô Maria có tin đó là điều đẹp ý Chúa không?
Quả thật, Mẹ Maria không hề biết trước những chuyện như thế? Cũng không hề nghĩ rằng tất cả là chương trình Thiên Chúa xếp đặt cả rồi, thôi mình cứ cam lòng chịu đựng hết đi rồi sẽ được thưởng công xứng đáng như hôm nay. Ấy thế, Mẹ Maria vẫn tin mạnh mẽ, vững vàng và xin Thiên Chúa cứ thực hiện nơi cô những gì Ngài muốn. Đức tin của Mẹ là đức tin của sự chấp nhận dâng hiến xác hồn, phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Cho nên, Mẹ thưa “xin vâng” để rồi thụ thai Chúa Giêsu trong lòng dạ mình bất chấp rằng chắc chắn mình sẽ bị chồng đưa ra pháp luập, bị ném đá chết tươi vì mới đính hôn mà đã có thai.
Là lữ khách trần gian, Mẹ Maria bước những đi của đức tin tuy nhẹ nhàng nhưng đầy niềm vui và phục vụ; bước những chân nặng nề, cay đắng, gian truân khốn khó nhưng đầy tín thác và hy vọng vì thế Mẹ đã đi tới nơi và trở thành người dẫn lối đưa đường cho chúng ta. Cho nên, Giáo Hội tin và dạy rằng: “Sau khi về trời, vai trò của Mẹ trong công trình cứu độ không chấm dứt, nhưng Mẹ vẫn luôn tiếp tục cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ được phần rỗi đời đời. Với tình Mẹ hiền, Mẹ chăm sóc những anh em của Con Mẹ đang lữ hành trên dương thế và đang gặp biết bao nguy hiểm, thử thách cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc Quê Trời” (LG, Số 62).
Cuộc đời dương thế và hành trình đức tin của Mẹ Maria thật lắm tối tăm, nhiều thử thách cam go đồng thời cũng không thiếu gian nan, đắng cay! Nhưng Mẹ Maria đã đến được bến bờ hạnh phúc bằng những hành động đức tin sống động và cụ thể chứ không phải là đức tin tưởng tượng trong trí óc hay trên môi miệng. Đức tin là điều kiện để được cứu độ (Mc 16,16) và đạt hạnh phúc thiên đàng (Mt 25,34), nhưng chúng ta phải làm cho đức tin ấy thật sống động và linh hoạt bằng những hành động cụ thể trong đời sống thường nhật, nhờ đó đức tin mới nên hoàn hảo. Cho nên, Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành dộng là đức tin chết” (Gc 2,26), vì chưng, “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Chúng ta phải noi gương Mẹ Maria sống đức tin chân thành và kiên trì bằng cách tuân giữ và thi hành Lời Chúa dạy qua việc sống hết mình cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và buông mình cho Chúa Thánh Thần, sau là yêu thương mọi người qua việc khiêm nhường, tha thứ, cầu nguyện và phục vụ tha nhân ngõ hầu mai ngày, Thiên Chúa sẽ đưa ta về Quê Trời như Mẹ. Hành trình đức tin của chúng ta phải được đan kết bằng những kinh nguyện, hy sinh, bác ái, khó nghèo, hiền lành, công chính, nhân hậu, bao dung và từ tâm, đặc biệt hăng say thông truyền Tình Yêu Thiên Chúa cho mọi người hôm nay. Đó chính là những nẻo đường Mẹ Maria và Chúa Giêsu con Mẹ đã đi. Chúng ta hãy mạnh dạn lên đường dấn thân và bước đi trong sự tự do, vui mừng và hy vọng để vác thập giá với Chúa Giêsu có Mẹ cùng bước dù những bước chân vui buồn khập khểnh, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh trên dương thế hôm nay để rồi không phải dừng lại ở đồi Canvê trong Mùa Thương nhưng cùng với Mẹ hưởng trọn Mùa Mừng vui và hạnh phúc trên Nước Trời. Amen.
Có một bà mẹ ẵm đứa nhỏ trên tay, bà nói với nó về Thiên Chúa, là người Cha chúng ta ở trên 15/8-104
Có một bà mẹ ẵm đứa nhỏ trên tay, bà nói với nó về Thiên Chúa, là người Cha chúng ta ở trên trời. Bấy giờ đứa nhỏ đơn sơ hỏi lại bà: Thưa má, vậy thì ở trên trời, chúng ta cũng có một người mẹ nữa chứ?
Đúng thế, sống trong Giáo Hội, chúng ta như sống trong một đại gia đình. Ở đó chúng ta có những người anh, những người chị và những người em. Ngước mắt nhìn về quê trời, chúng ta có được chính Thiên Chúa là cha của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng có được một người mẹ dịu hiền. Người mẹ dịu hiến ấy là Đức Maria.
Thực vậy, Đức Maria vừa là mẹ Chúa Giêsu, vừa là mẹ của nhân loại, vừa là mẹ của mỗi người chúng ta. Đời sống trong sạch không vương vấn tội lỗi của Mẹ, cũng như những công nghiệp mà Mẹ đã đóng góp vào chương trình cứu độ, đã khiến Mẹ trở nên xứng đáng được Chúa ân thưởng bội hậu, đã đưa về trời cả hồn lẫn xác liền ngay sau khi chết.
Nhìn vào một thửa ruộng thần nông chúng ta thấy được biết bao nhiêu công lao vất vã từ lúc gieo trồng cho đến lúc gặt hái. Chúng ta có thể nói được rằng những hạt lúa chín vàng là kết quả của biết bao nhiêu giọt mồ hôi, của biết bao lao công chăm sóc: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Cũng vậy, biến cố Mẹ về trời phải chăng cũng chỉ là một kết quả đương nhiên của một cuộc đời trong trắng và chất đầy công nghiệp nơi Mẹ. Một khi những công nghiệp ấy đã chín vàng như những hạt lúa trên ruộng đồng, thì các thiên thần bèn thu lấy mà đem vào kho lẫm của Thiên Chúa.
Trong một bức thư, thánh Phaolô đã bày tỏ ước vọng của mình như sau: Tôi muốn chết đi để được ở cùng Đức Kitô luôn mãi. Trong những ngày còn sống ở trần gian, Mẹ Maria hằng ao ước được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, và sau khi Mẹ trút hơi thở cuối cùng, thì ước vọng ấy mới được thực hiện một cách đầy đủ. Cùng với cái chết, bức tường ngăn cách giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu cũng đã sụp đổ để rồi cả hai được kết hiệp mật thiết với nhau.
Cái chết đối với chúng ta là một cái gì cay đắng, bàng hoàng và khủng khiếp vì nó chia lìa hai người bạn thân thương nhất là hồn và xác, đồng thời nó làm cho con người chúng ta bị mục nát và trở về cát bụi. Nhưng với Mẹ Maria thì khác. Cái chết chỉ là một khung cửa qua đó Mẹ tiến thẳng tới nơi gặp gỡ với Chúa Giêsu. Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, đồng thời cũng là Đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, vì thế thân xác của Mẹ không thể nào trở thành miếng mồi ngon cho tử thần. Do đó Chúa Giêsu đã muốn đưa Mẹ về trời cả hồn lẫn xác, như một bông hoa không bao giờ tàn úa nhưng luôn giữ được màu sắc thắm tươi của mình. Thực vậy, Kinh Thánh thường sánh ví Mẹ với những cánh hoa tỏa hương thơm ngào ngạt. Chẳng hạn với bông hồng, với cánh huệ tươi nở ngay từ lúc ban mai. Mẹ Maria cũng vậy, ngay từ buổi ban mai của cuộc đời, nghĩa là ngay từ những ngày còn tấm bé, trái tim Mẹ đã mở ra để đón nhận hồng ân Thiên Chúa.
Từ những điều vừa chia sẻ, tôi muốn đi tới một kết luận, đó là mỗi người chúng ta trong cuộc sống riêng tư, hãy noi gương bắt chước Mẹ để rồi Mẹ ở đâu, thì chúng ta, những người con cái Mẹ cũng sẽ được ở đó với Mẹ.
Ngày nọ có một chiếc máy bay bị trục trặc và rơi xuống trong một khu rừng già. Viên phi công 15/8-105
Ngày nọ có một chiếc máy bay bị trục trặc và rơi xuống trong một khu rừng già. Viên phi công tên là Tom Marmon, mặc dù biết rõ khó mà sống sót để trở về quê nhà, nhưng ông vẫn cố gắng. Cuối cùng ông đã được cứu thoát. Các phóng viên báo chí đã hỏi ông nhờ đâu mà đã làm được một việc kỳ diệu như thế. Ông đã trả lời: Nhờ tôi cầu nguyện. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông đã cắt nghĩa: Tôi đã đọc ít nhầt cả triệu lời kinh Kính Mừng, suốt thời gian dò tìm đường ra. Tôi không đọc nhỏ, nhưng đã đọc thật to với hy vọng có người nào đó sẽ nghe thấy tiếng tôi mà dẫn đường chỉ lối. Nếu không nhờ lòng tin mạnh mẽ này, có lẽ tôi đã không thể nào ra khỏi khu rừng rậm rạp ấy.
Kinh nghiệm của viên phi công cũng đã là kinh nghiệm của hằng triệu Kitô hữu, bởi vì họ cũng đã dành cho Mẹ Maria một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn và trong cuộc sống của họ. Đó cũng là lý do hôm nay chúng ta vui mừng tụ hợp nhau đây để mừng kính biến cố Mẹ về trời.
Dưới khía cạnh thần học, biến cố này nhắc nhở chúng ta rằng Mẹ Maria hiện đang ở trên trời cả hồn lẫn xác. Bởi vì suốt trong cuộc đời trần gian, Mẹ không hề phạm tội, nên cũng như thân xác Chúa Giêsu, Mẹ đã được chuyển trực tiếp từ trạng thái của con người dương thế sang trạng thái khải hoàn vinh quang trên thiên đàng.
Tuy nhiên dưới khía cạnh thực tiễn, biến cố này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đôi khi chúng ta quên rằng trên thiên đàng, chúng ta vẫn có một thân xác, dĩ nhiên thân xác ấy không phải là thân xác vật chất, mà là thân xác thiêng liêng như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Thân xác bị chôn vùi là thân xác hay chết, nhưng khi sống lại, nó sẽ trở thành bất tử. Khi bị chôn vùi, nó xấu xí và yếu đuối, khi sống lại, nó trở thành xinh đẹp và mạnh mẽ. Khi chôn vùi, nó là thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó trở nên thân xác thần linh.
Điều này dẫn chúng ta đến một điểm thực tiễn khác, đó là Mẹ Maria không ở trên trời một cách thụ động, chỉ biết vui hưởng nhan thánh Chúa. Nghĩa là Mẹ không chỉ ngồi yên chờ đợi chúng ta lên đoàn tu với Ngài. Trái lại, Mẹ vẫn tích cực quan tâm đến chúng ta. Nói cách khác, Mẹ vẫn muốn giúp đỡ chúng ta chiến đấu để được về quê trời.
Vì thế, cũng như viên phi công, chúng ta cần phải chạy đến với Mẹ và kêu cầu Mẹ trợ giúp trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ bao lâu còn sống nơi trần gian, bởi vì như lời thánh Bernado đã nói: Kêu cầu Mẹ chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng, bước theo Mẹ sẽ không bao giờ bị lầm đường lạc lối.
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời. Vậy thì về trời có nghĩa là gì? Về trời ở đây 15/8-106
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời. Vậy thì về trời có nghĩa là gì?
Về trời ở đây không phải là chuyện đi lên hay đi xuống trong một khoảng không gian, mà là một tình trạng hoàn toàn được kết hiệp với Thiên Chúa, được đem vào sự thánh thiện và sự sống của chính Thiên Chúa.
Như thế, về trời trước hết phải là con đường của Đức Kitô, đây là lẽ đương nhiên bởi vì Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, nay trở về với ngôi vị của mình. Có khác chăng là cùng với Ngài, có cả thân xác vật chất của mình nữa.
Tiếp đến, đó phải là con đường của Mẹ Maria. Đối với Mẹ thì về trời là hiệu quả của ơn Phục sinh nơi Đức Kitô, vì Mẹ cũng là một thụ tạo cần được cứu độ. Mẹ là người đầu tiên được hưởng hiệu quả trọn vẹn của ơn cứu độ, vì cuộc đời và sự cộng tác của Mẹ làm cho Mẹ được trở nên xứng đáng với đặc ân cao cả ấy.
Sau cùng về trời còn phải là con đường, còn phải là mục đích cuối cùng mà chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống này, như lời thánh Augustinô đã nói: Tâm hồn tôi luôn băn khoăn lo lắng cho tới khi nào được nghỉ yên trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, để đạt tới mục đích cuối cùng ấy thì chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa là ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô và cố gắng thực thi những điều Ngài truyền dạy. Phải làm cho Đức Kitô được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn những người chung quanh.
Con đường ấy chắc chắn sẽ không phải là một con đường rộng rãi thênh thang với những hoa thơm cỏ lạ. Chính Mẹ Maria cũng đã kinh qua một cuộc đời trần gian đầy gian nan và thử thách như lời ông già Simêon đã nói: Một lưỡi gươm sẽ đâm qua lòng bà. Đúng thế, từ lúc xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin cho đến khi đứng dưới chân cây thập giá, cuộc đời của Mẹ là một cuộc đời vâng phục đầy khổ đau, đầy cay đắng, thế nhưng chính những khổ đau này đã làm cho Mẹ được trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta hãy ngước mắt trông lên Mẹ để thấy được rằng: Đau khổ sẽ làm cho niềm tin thêm tinh ròng, đồng thơi không có một con đường nào của niềm tin mà không có những gian nan thử thách của nó.
Tuy nhiên, chúng ta tin chắc chắn rằng Đức Maria là Mẹ chúng ta, Ngài sẽ ra tay nâng đỡ và dìu dắt chúng ta trên con đường lữ hành của niềm tin cho đến lúc chúng ta được yên nghỉ trong tình thương của Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời, đó là một ngày vui mừng bởi vì chúng ta 15/8-107
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời, đó là một ngày vui mừng bởi vì chúng ta có được một người mẹ vừa quyền năng vinh hiển, vừa dạt dào tình thương để bầu cử cho chúng ta ở trên trời. Chúng ta hãy hợp ý với Giáo Hội mà cầu xin cho mỗi người biết luôn hướng tâm hồn lên những sự trên trời, để nhờ đó sẽ được chia sẻ phần hạnh phúc với Mẹ. Bởi vì Nước Trời mới thật sự là quê hương của chúng ta, hay như lời một câu dan ngôn đã bảo: Cuộc đời là quán trọ. Trái đất là con tàu chứ không phải là một nơi cư ngụ vĩnh viễn. Vậy thì tại sao Mẹ Maria lại được Chúa dành cho cái đặc ân cao cả ấy?
Tôi chỉ xin trình bày một cách vắn tắt. Sở dĩ Mẹ được như vậy, vì Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ liên kết mật thiết với Chúa trong tình thương, Mẹ chia sẻ với Chúa trong đau khổ. Cho nên Mẹ xứng đáng dự phần vinh quang phục sinh với Chúa. Hơn nữa Mẹ còn là Đấng Vô Nhiêm nguyên tội. Tâm hồn và thân xác Mẹ không hề bị hoen ố bởi tội lỗi, chính vì thế mà thân xác Mẹ sẽ không thể bị mục nát trong mồ.
Sau cùng qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta còn tìm thấy nơi Mẹ một đức tin sống động, làm nền tảng cho cuộc đời của Mẹ. Về điểm này, Đức Hồng Y Renau đã viết như sau: Đức tin của Mẹ Maria là một đức tin can đảm và vững chắc. Mẹ đã phải cùng con trốn sang Ai Cập. Bằng cặp mắt yêu thương Mẹ không ngừng theo dõi và nhìn ngắm Chúa trên mọi nẻo đường truyền giáo, để rồi cuối cùng chính Mẹ đã đứng dưới chân cây thập giá. Mẹ là người phụ nữ có đức tin vững chắc không chao đảo, có một đức tin Kitô giáo trưởng thành.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta hãy xin Mẹ luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Là một người mẹ khi còn ở trần gian, Mẹ đã hiểu được thế nào là tình mẫu tử, thế nào là cõi lòng của một người mẹ, thì bây giờ ở trên trời, Mẹ sẽ cầu bầu để Chúa ban xuống cho chúng ta những ơn huệ cần thiết.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta hãy chạy đến với Mẹ và suy gẫm cuộc đời của Mẹ, chúng ta sẽ được những tia sáng nhân đức của Mẹ chiếu soi. Cuộc đời của Mẹ là một lời mời gọi. Nhân đức của Mẹ là một cái gì hay lây lan. Nếu thực tâm tôn kính Mẹ, chúng ta sẽ sống một cuộc sống tin tưởng và phó thác, nhân từ và yêu mến, hy sinh và chấp nhận như Mẹ. Việc chúng ta tôn kính, ca tụng và yêu mến Mẹ sẽ làm cho chúng ta, những người con của Mẹ được tốt lành hơn.
Để kêt thúc tôi xin gợi lên ý tưởng đó là nhờ Mẹ mà chúng ta tiến đến cùng Chúa. Đức Kitô chính là trọng tâm, chính là trung điểm của đời sống chúng ta. Thế nhưng nhờ Mẹ mà chúng ta trở nên giống Chúa, nhờ Mẹ mà chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa, nhờ Mẹ mà chúng ta có được một đức tin kiên vững và trưởng thành, nhờ Mẹ mà chúng ta trở nên những Kitô hữu biết chu toàn những bổn phận của mình.
Như chúng ta đã biết Marilyn Monroe là một nữ tài tử nổi tiếng của Mỹ. Cách đây đúng 52 năm, tức15/8-108
Như chúng ta đã biết Marilyn Monroe là một nữ tài tử nổi tiếng của Mỹ. Cách đây đúng 52 năm, tức là vào ngày 15.8.1962 cô đã chết. Cái chết của cô cho đến ngày hôm nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Có thể là cô đã tự tử. Có thể là cô đã bị Mafia hay dòng họ Kennedy giết chết. Cô đã ra đi giữa lúc danh vọng đang lên, tiền bạc đang lắm và thành công đang nhiều. Thế nhưng từ lúc cô nằm xuống cho đến ngày hôm nay, mỗi năm hàng ngàn, hàng vạn du khách đã viếng thăm ngôi mộ của cô tại thành phố Los Angeles và những cánh hồng không ngừng phủ kín nơi an nghỉ của một ngôi sao cô đơn. Viết về cô, người ta đã ghi nhận: Cô không còn là một con người, nhưng đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật, nhưng đã trở thành một thần tượng cho nhiều người. Và hơn thế nữa, mãi mãi cô đã trở thành một câu hỏi được nêu lên cho con người thời nay: Con người bởi đâu mà ra? Con người sống để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Tiền bạc và danh vọng có đủ để đem lại cho con người niềm hạnh phúc đích thực hay không? Trên phần mộ của cô, người ta đọc thấy một hàng chữ như sau: Chúng tôi thông cảm với cô. Bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những câu hỏi quá lớn về cuộc sống. Và nhất là, nếu như thiếu vắng một niềm tin vào cuộc sống thì sẽ không còn một chọn lựa nào khác hơn là cái chết.
Còn đối với chúng ta, những người đã có một niềm tin thì sao? Chúng ta không chối cãi: đã là người thì ai cũng phải chết. Cái chết gắn liền với thân phận con người. Nào có ai đã thoát khỏi lưỡi hát của tử thần. Thế nhưng, cũng có người đã chiến thắng được cái chết. Chúa Giêsu đã chết nhưng sau đó Ngài đã sống lại. Mẹ Maria cũng đã chết, nhưng rồi sau đó đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Với Chúa Giêsu và Mẹ Maria thì cái chết là khởi đầu của niềm hy vọng, là giây phút chúng ta được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu. Chính cái chết sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi vì có chết thì mới được sống đời đời. Như mùa đông có qua đi thì rồi những đợt nắng xuân hồng mới trở lại. Hạt giống có mục nát, thì mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái.
Nếu cái chết của Marilyn là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được đưa về trời, Mẹ Maria cho chúng ta thấy ý nghĩa của cuộc sống cũng như của cái chết, để rồi Mẹ trở thành niềm hy vọng cho chúng ta. Cho dù cuộc sống này có nghèo túng, có khổ đau thì nó vẫn có cái giá trị của nó. Bởi vì phải nhờ vào cuộc sống này mà chúng ta mới có thể chiếm lấy niềm hạnh phúc Nước Trời và cái chết chính là nét vẽ cuối cùng hoàn tất cho tác phẩm một đời của chúng ta, để rồi chúng ta sẽ dâng tác phẩm ấy lên Thiên Chúa. Và như vậy, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chúng ta chết là để được sống đời đời.
Chúng ta phải hiểu thế nào về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời? Một số người trong chúng ta 15/8-109
Chúng ta phải hiểu thế nào về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời?
Một số người trong chúng ta nghĩ tưởng rằng: Đức Mẹ được rước qua chín tầng mây để tới một nơi, gọi là quê trời. Nghĩ tưởng như vậy là lầm, bởi vì Giáo Hội không bao giờ chủ trương một sự chuyển hộ khẩu, một sự thay đổi nơi cư trú, một sự di chuyển trong không gian, trong vũ trụ như thế. Trái lại Giáo Hội muốn chúng ta dựa vào Tin Mừng để tìm hiểu về Mẹ, cho dù Tin Mừng nói rất ít về Mẹ nhưng cũng cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ với những đường nét chính yếu về Mẹ.
Thực vậy, Mẹ đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa bằng một lòng tin tưởng vững mạnh. Mẹ đã trở thành người tín hữu đầu tiên với lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. Hai chữ tôi tớ muốn diễn tả điều gì nếu không phải là tâm tình khiêm cung và niềm tin mến của Mẹ.
Với lời xin vâng ấy, Mẹ đã mở rộng cõi lòng đón nhận Con Thiên Chúa xuống thế làm người, không phải chỉ trong tâm hồn, mà còn nơi thân xác, nghĩa là trọn vẹn nơi con người của Mẹ. Bởi đó Đức Mẹ cũng là mẹ Con Thiên Chúa làm người, không phải chỉ bằng cách đã cưu mang, đã nuôi dưỡng, mà còn bằng cả tâm hồn, cả cõi lòng cũng như bằng cả cách lắng nghe và thực thi ý Chúa.
Mẹ đã đón nhận và hấp thụ trọn vẹn giáo huấn của Chúa Giêsu. Vì thế, không lời nào có tính cách tuyên dương Mẹ một cách mạnh mẽ cho bằng chính lời của Chúa Giêsu: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta? Đó chính là những người nghe và làm theo ý Cha Ta.
Mẹ Maria là một người tín hữu trọn vẹn. Mẹ đã lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ nơi tâm hồn và thể xác. Và như thế, Thiên Chúa cũng sẽ đón nhận Mẹ một cách trọn vẹn, cả hồn lẫn xác qua sự sống lại. Thực ra Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho tất cả những ai tin nơi Ngài vào ngày sau hết, khi mọi người cùng được sống lại.
Thế nhưng qua tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Giáo Hội muốn tuyên xưng điều đã xảy ra nơi Mẹ Maria thì cũng sẽ xảy ra cho mỗi người chúng ta. Từ đó chúng ta rút ra được một kết luận đó là mừng kính Mẹ Hồn Xác Lên Trời một cách thích hợp nhất đó là chúng ta hãy tiếp nối lời xin vâng của Mẹ một cách trọn vẹn, không so đo, không tính toán trước lời mời gọi của Chúa, để xây dựng một xã hội đầy bác ái và yêu thương.
Trong niềm tin của người Công giáo, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt qua chương trình cứu 15/8-110
Trong niềm tin của người Công giáo, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt qua chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Thực vậy Ngài đã được chọn giữa hàng con cái loài người để đón nhận Con Thiên Chúa vào trong thế giới con người và sống cuộc sống con người. Ngài đã khởi sự vai trò của Ngài bằng thái độ xin vâng đầy tin tưởng nơi tình thương của Thiên Chúa khi chương trình ấy còn là một mầu nhiệm. Nhưng thái độ xin vâng và phó thác ấy không thay thế nỗ lực lắng nghe và tìm hiểu. Những lời tiên đoán của các tiên tri về Chúa Giêsu, Con của Ngài, những lời giảng dạy, những thái độ và những việc làm của vị cứu tinh, đều được Đức Maria ghi giữ và suy nghĩ trong tâm trí.
Ngài đã không chỉ bị lôi cuốn vào công trình thực hiện ơn cứu độ xuất phát từ Thiên Chúa, mà Ngài còn đi vào trong mầu nhiệm cứu độ ấy bằng tất cả lòng trí của Ngài. Ngài đã không chỉ đón nhận Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cho con người, nơi thân xác Ngài, mà Ngài còn đón nhận ơn cứu độ ấy trong chính tâm hồn của Ngài. Đức Maria đã trở thành người đầu tiên trong hàng ngũ con người được lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa. Gạt bỏ những hình thức ông sùng mang nặng tính cách tình cảm và vô bổ, theo tôi nghĩ, cách sùng kính Đức Maria một cách đúng đắn nhất, vẫn là noi gương bắt chước Ngài đón nhận và sống ơn cứu độ của Thiên Chúa trong toàn bộ con người và cuộc sống của chúng ta. Xin vâng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đọc và tìm hiểu thánh ý Chúa, nhất là thể hiện thánh ý ấy trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Như Đức Maria, chúng ta phải đi vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, để trở thành một con người được cứu độ. Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những ân sủng thật lớn lao, trong đó có ơn Hồn xác lên trời, không phải chỉ vì Ngài đã cưu mang và hạ sinh Chúa Giêsu mà còn chính vì Ngài đã nghe và thực hiện lời Chúa, nghĩa là trở thành con người được cứu độ một cách trọn vẹn. Như thế, những ân sủng Đức Maria lãnh nhận được cũng là những ân sủng Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể cùng với Đức Maria hát bài ca Ngợi Khen Chúa vì những việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho Ngài và đang làm cho mỗi người chúng ta.
Bên ngoài Trinh Nữ Maria cũng giống như hầu hết các cô thôn nữ đồng quê chất phác ở Galilêa 15/8-111
Bên ngoài Trinh Nữ Maria cũng giống như hầu hết các cô thôn nữ đồng quê chất phác ở Galilêa. Nhưng bên trong là cả một kho tàng thánh thiện. Và nhất là không ai có thể ngờ: là Mẹ Thiên Chúa.
Sứ thần Gabriel đã chào kính: Mẹ có phước hơn mọi phụ nữ. Trong Kinh Thánh có kể nhiều chuyện về thiên sứ, nhưng không hề ai được thiên sứ cháo trước và chào một cách kính cẩn như với Mẹ: Kính chào Maria. Với Giacaria chẳng hạn, thiên sứ không những không chào mà còn lên giọng nghiêm nghị. Và khi ông tỏ ra bỡ ngỡ: Làm sao có thể được như thế, vì tôi đã già, thì thiên thần liền quở phạt ông: Ngươi sẽ câm cho đến khi mọi sự việc ấy xảy ra.
Với Mẹ thì khác. Khi Mẹ hỏi lại: Làm sao có thể được như thế, vì tôi không biết đến người nam, thì sứ thần đã vội trấn an: Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền lực Đấng Tối Cao sẽ bao trùm cô. Rồi sứ thần còn đưa ra một bằng chứng: Hãy xem Elisabeth, người chị họ của cô. Bà ấy đã già mà cũng đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa chẳng có gì khó khăn hết.
Cố nhiên câu vặn hỏi của Mẹ không do lòng thiếu tin tưởng, nhưng do đức hạnh và tinh thần tận hiến thúc bách. Chính vì tư cách siêu phàm ấy Thiên Chúa đã chọn nàng vào một địa vị cao cả: Người con do cô sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Và như thế, Mẹ chính là mẹ của Ngôi Lời nhập thể, đồng thời cũng là mẹ chung của toàn thể nhân loại được cứu rỗi, của tất cả những người rồi đây sẽ mang tên Đức Kitô con Mẹ. Bởi vì nhờ Mẹ mà sự sống thần linh được trao lại cho chúng ta.
Hơn thế nữa dưới chân cây thập giá lời Chúa Giêsu còn vang vọng: Này là mẹ con. Này là con mẹ. Phải chăng kể từ giây phút ấy, giây phút của chương trình cứu độ được hoàn tất, cộng tác với Chúa Giêsu, Mẹ đã sinh ra một nhân loại mới, một thế hệ mới.
Và ngày hôm nay Mẹ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác để ân thưởng bội hậu. Với chức làm Nữ Vương trời đất, Mẹ dư khả năng để trợ giúp chúng ta. Với chức làm mẹ nhân loại, Mẹ dư tình thương để ra tay cứu vớt, bởi vì người mẹ nào chẳng yêu thương con mình, người mẹ nào mà chẳng muốn cho con mình những sự may mắn tốt lành. Bởi đó hãy tin tưởng và chạy đến với Mẹ như lời kinh chúng ta thường đọc: Xưa nay chưa từng có ai chạy đến cùng Mẹ mà Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
c. 39 - "Lên đường": Luca là người viết về những cuộc lên đường. Toàn quyển Tin Mừng là một 15/8-112
c. 39 - "Lên đường": Luca là người viết về những cuộc lên đường. Toàn quyển Tin Mừng là một cuộc lên đường của ơn cứu độ từ Nagiarét đến Giêrusalem. Quyển kế tiếp của Luca, Công vụ Tông đồ, lại là một cuộc lên đường khác của ơn cứu độ từ Giêrusalem đến trung tâm của thế giới thời đó là Rôma, để từ đó lên đường tỏa đến toàn thể thế giới.
- Đầu tiên hết là cuộc lên đường của Đức Maria. Người vừa được một niềm vui to lớn (x. bài "Truyền tin" Lc 1,26-38). Mà niềm vui thì không được giữ riêng cho mình, phải chia sẻ với người khác. Do đó Maria lên đường.
- Maria lên đường đi tới đâu? "Tới một thành thuộc miền núi vùng Giuđêa". Có lẽ đây là thành Ain Karim, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía Tây. Nếu đi từ Nagiarét thì phải mất chừng 3 hoặc 4 ngày.
- Chú ý trạng từ "vội vã": Maria nôn nóng đem niềm vui tới người khác.
c. 40 - Kẻ mà Maria muốn đem niềm vui tới chia sẻ là Êlisabét, vợ của Tư tế Dacaria. Êlisabét và chồng tuy đã rất già nhưng vừa mới được Thiên Chúa cho thụ thai đứa con đầu lòng.
c. 41 - Khi Maria vừa chào Êlisabét thì thai nhi "nhảy mừng" trong lòng bà. Sự thật có lẽ không đến như thế. Ở đây Luca diễn tả theo niềm tin bình dân: những cử động của bào thai là điềm báo trước tương lai của nó. St 25,22 viết rằng, bà Rêbecca mang thai hai đứa con (Êsau và Giacóp). Hai đứa "va chạm nhau" trong bụng mẹ, báo trước sau này chúng kình địch nhau. Còn trong chuyện này, thai nhi "nhảy mừng" trong bụng Êlisabét nghĩa là sau này nó sẽ là người mang tin mừng cho kẻ khác.
Trong chi tiết này, Luca cũng liên tưởng tới trường hợp của Giêrêmia (Gr 1,5), kẻ đã được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ ngay từ trong bụng mẹ.
Tóm lại, chi tiết này có nghĩa là Gioan Tẩy giả được Thiên Chúa chọn làm Tiền hô cho Đức Giêsu.
c. 42 - Khi ấy Êlisabét "kêu lên lớn tiếng": một phản ứng bất thường. Không phải chỉ lên tiếng đáp lại lời chào của Maria, mà "kêu lớn". Trong nguyên ngữ, động từ này có nghĩa là "bắt giọng", giống như người xướng kinh bắt giọng cho cả nhà thờ đọc kinh.
- "Em được chúc phúc giữa các phụ nữ": Cách nói của người Do Thái để diễn tả sự so sánh tối thượng cấp, nghĩa là: "Em là người có phúc nhất trong tất cả các người nữ".
c. 43 - "Mẹ của Chúa tôi": trong xã hội đa thê thời xưa, một ông vua có nhiều vợ, nhưng trong số đó, người vợ nào là mẹ của thái tử (sẽ lên ngôi) là có uy thế nhất. Bà được gọi là "mẹ của Chúa tôi". Như thế, danh hiệu này chỉ người đàn bà uy thế nhất trong nước.
- Thánh Luca cố ý viết câu nói của Êlisabét giống câu nói của ông Ôzia nói với bà Giuđitha (Gđt 13,18-19) "Bà có phúc trong mọi người nữ, và phúc thay Thiên Chúa là Chúa" (so với Lc 1,42: "Em có phúc trong tất cả các người nữ, và phúc thay hoa trái của lòng em"). Ý của Luca là so sánh Maria với bà Giuđitha, và so sánh Đức Giêsu với Thiên Chúa.
c. 45 - "Phúc cho em vì em đã tin": lịch sử cứu độ của dân Israel bắt đầu bằng một hành vi đức tin (Abraham tin Lời Thiên Chúa) (St 12, 1-5); lịch sử cứu độ của cả loài người cũng bắt đầu bằng một hành vi đức tin (của Maria). Và lịch sử cứu độ của mỗi người chúng ta cũng thế.
II - MỘT SỰ SO SÁNH KHÉO LÉO
Chúng ta đã thấy Luca khéo viết lời của Êlisabét cho giống với lời của ông Ôzia khen bà Giuđitha. Ngoài ra Luca còn cố ý viết toàn câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6). Sau đây là các chi tiết:
1- Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom.
* Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
2- Đavít đã "kêu lên" rằng: làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được.
* Êlisabét cũng "kêu lên": làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
3- Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc.
* Đức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
4- Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng;
* Đức Maria cũng ở nhà Elisabét 3 tháng (xem câu 56)
III. BÀI CA MAGNIFICAT: cc 46-56
A. Nguồn gốc
- Về nội dung, bài thơ này góp nhặt nhiều ý tưởng của Cựu Ước (xem các ghi chú bên lề bản dịch: ít là 14 ý tưởng); về hình thức thì tương tự với bài ca của bà Anna (1Sm 2,1-10).
- Tác giả là ai? Có thể là Giáo Hội sơ khai, soạn để hát trong phụng vụ. Luca đã mượn và thích nghi để đặt vào môi miệng của Maria.
- Ý chính: Ngợi khen Thiên Chúa vì đã a/ bênh vực kẻ nghèo hèn và b/ yêu thương Israel. Khi áp dụng bài ca này cho Đức Maria, Luca muốn nói rằng Đức Maria chính là "người nghèo" chân chính nhất và là "Israel" thật.
B. Giải thích
46-47- Phải biết đến bối cảnh là 1Sm 1-2: Bà Anna là vợ chính của ông Elqanah, nhưng bà không có con, trong khi vợ nhỏ của ông lại có con. Người vợ nhỏ này chế nhạo và chọc tức Anna khiến bà vô cùng đau xót. Bà lên đền thờ cầu nguyện. Cuối cùng Thiên Chúa đã nhậm lời cho bà sinh con, tức là Samuen. Anna hớn hở vui mừng vui mừng cất lời tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa.
- "Hớn hở vui mừng" cũng là tâm tình của Đức Maria, vì thế Người ngợi khen Thiên Chúa.
46 "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa":
- "Linh hồn": các tác giả Thánh Kinh thường nói một phần để chỉ toàn thể. Nói "Linh hồn ngợi khen" là nói toàn thề con người ngợi khen. (xem Mc 14,34 "Linh hồn Thầy buồn đến chết")
- "Ngợi khen": cũng đong nghĩa với tạ ơn. Ngợi khen là một cách tạ ơn, tạ ơn bằng cách ngợi khen. Trong tiếng Việt, có một kiểu nói chứa dựng cả 2 ý ngợi khen và tạ ơn, đó là "Tán tạ".
48-53 Lý do 1 để ngợi khen: Vì Thiên Chúa đã bênh vực kẻ nghèo hèn, hiện thân cụ thể là Đức Maria.
- "Kẻ nghèo" (anaw) là một hạng người đặc biệt trong Thánh Kinh. Cái nghèo của họ không phải chỉ có nghĩa kinh tế (không tiền của), mà nhất là theo nghĩa tôn giáo: họ không nương tựa (vì không có, hay đúng ra không muốn có) bất cứ chỗ dựa nào khác (như tiền bạc, quyền lực, tài năng... kể cả uy tín đạo đức của bản thân) ngoài một mình Thiên Chúa. Vì thế chính Thiên Chúa đứng ra làm chỗ nương tựa cho họ, làm Đấng bảo vệ họ. "Kẻ nghèo của Yavê" (anaw Yahweh) là hạng người được Thiên Chúa ưu ái nhất.
- Đức Maria chính là một "kẻ nghèo" được Thiên Chúa ưu ái: a/ Qua biến cố Truyền tin, Chúa đã đoái thương nhìn đến Maria, một thiếu nữ tầm thường ở Nagiarét, khiến Người trở nên biểu tượng của hạnh phúc đến nỗi từ này về sau mọi thế hệ đều khen Người là diễm phúc; b/ Thiên Chúa còn làm cho Maria biết bao điều cao cả: thụ thai đồng trinh, làm mẹ Đấng Messia mà muôn dân hằng trông đợi.
- Sở dĩ Maria được như vậy vì Người có những đức tính của một "kẻ nghèo" đích thực: "kính sợ Ngài", "khiêm nhường", tin tưởng phó thác như một "nữ tì" của Chúa.
54-55 Lý do 2 để ngợi khen: Thiên Chúa đã yêu thương Israel mà Maria cũng là hiện thân:
- Xưa kia Ngài đã nhiều lần hứa với Abraham và các tổ phụ rằng Ngài sẽ cho các ngài có một dòng dõi đông đúc và từ dòng dõi ấy sẽ sinh ra Đấng Messia.
- Những lời hứa đó hôm nay được thực hiện nơi Đức Maria.
Đức Maria là người được chúc phúc, không chỉ vì Mẹ là người đã lắng nghe Lời Thiên Chúa, mà 15/8-113
Đức Maria là người được chúc phúc, không chỉ vì Mẹ là người đã lắng nghe Lời Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã đem Lời Chúa ra thực hành. Khi đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa vào lòng của mình, Mẹ đã không giữ Ngôi Lời lại cho riêng mình mà vội vàng đem Chúa đến cho người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria, hồn xác lên trời. Mẹ lên trời, mang lại cho chúng niềm hy vọng, cậy trông và đầy ủi an, vì Mẹ đi đâu thì chúng ta cũng đi đó.
Nhưng tại sao Đức Mẹ lại được đặc ân cao cả như vậy? Bởi cứ theo lẽ thường, thì sau khi nguyên tổ phạm tội, tất cả loài người đều phải chịu đau khổ và cuối cùng phải chết. Thân xác của chúng ta, khi kết thúc cuộc đời này, phải hư nát đi, đợi chờ ngày phán xét trong cuộc phán xét chung thẩm. Nhưng đối với Đức Mẹ, trong niềm tin của chúng ta, thân xác Mẹ đã không bị hủy diệt, vì Mẹ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Phải chăng vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa? Phải chăng vì Mẹ đã được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc đầu thai? Phải chăng vì Mẹ là Đấng trọn đời đồng trinh? Hay phải chăng Mẹ đã đồng công cứu chuộc cùng với người Con chí thánh của mình là Đức Giêsu Kitô?
Vâng, đúng như vậy. Nhưng hôm nay, Tin Mừng theo thánh Luca còn cho chúng ta biết thêm một lý do quan trọng nữa. Sở dĩ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác là vì Mẹ là Đấng đã vâng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa.
Mẹ là mẫu gương lắng nghe Lời Thiên Chúa
Bài đọc thứ nhất được trích trong sách Sử Biên Niên, nói về việc vua Đavít cho triệu tập toàn dân lại, và tổ chức một cuộc rước kiệu hòm bia Thiên Chúa thật linh đình. Cùng với nhà vua, còn có những người đứng đầu các thầy Lêvi, các ca viên, nhạc công, với đàn sắt, đàn cầm, thanh la não bạt. Đoàn rước tiến đi trong tiếng đàn ca hoan hỉ cùng tiến về Lều Hội Ngộ – là nơi đặt Hòm Bia. Họ vừa đi vừa hát: “Lạy Chúa, xin lên đường tới nơi an nghỉ. Chúa và Hòm Bia oai quyền Chúa cùng đi”. Hòm Bia giao ước là chiếc hòm được chạm trổ công phu, trong đó có chứa 2 tấm bia giao ước có ghi 10 điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho dân của Ngài qua trung gian là Môsê. Đối với Itraen, sự hiện diện của Hòm Bia giao ước cũng chính là sự hiện diện của Giavê Thiên Chúa. Đó cũng là niềm tự hào của dân Chúa chọn, bởi vì xung quanh Itraen, không có vị thần nào lại trực tiếp ở với dân của mình. Quả thật, còn gì hạnh phúc hơn khi được Thiên Chúa ở cùng.
Đức Trinh Nữ Maria cũng được nhìn nhận là Hòm Bia Thiên Chúa, như chúng ta vẫn đọc trong kinh cầu Đức Bà: “Đức Bà là Hòm Bia Thiên Chúa”. Sở dĩ chúng ta tuyên xưng như vậy, là vì Đức Mẹ là người đã cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô trong cung lòng của mình. Kể từ lúc Mẹ nói lời xin vâng khi sứ thần Thiên Chúa truyền tin, thì cung lòng của Mẹ trở nên Hòm Bia cho Thiên Chúa ngự vào.
Khi xuống thế làm người, Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chọn một người Mẹ cao sang, quyền quý, nhưng đã chọn Đức Maria, một tì nữ thấp hèn, trong ngôi làng nhỏ bé Nazaret. Tại sao vậy? Thưa bởi vì Mẹ đã lắng nghe lời Thiên Chúa. Cũng như biết bao thiếu nữ Dothái khác, Mẹ cũng biết rõ lời ngôn sứ Isaia loan báo 8 thế kỷ trước đó: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”. Nhưng Mẹ không bao giờ nghĩ là mình lại chính là “thiếu nữ đầy ơn phúc ấy”. Chẳng thế mà khi thiên thần Gabriel truyền tin, Mẹ hết sức ngỡ ngàng: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam?”. Sau khi nghe thiên thần giải thích, Mẹ đã hiểu rằng, Mẹ đang được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa và Mẹ đã cúi đầu thưa “Xin vâng” với tất cả sự khiêm tốn và lòng tin tưởng thiết tha: “Này tôi là nữ tì của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Nếu không là người thường xuyên suy gẫm Lời Chúa, chắc hẳn khó lòng mà hiểu ngay ra được đâu là chương trình và ý định của Thiên Chúa.
Mẹ là mẫu gương thực hành Lời Thiên Chúa
Đức Maria là người được chúc phúc, không chỉ vì Mẹ là người đã lắng nghe Lời Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã đem Lời Chúa ra thực hành. Khi đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa vào lòng của mình, Mẹ đã không giữ Ngôi Lời lại cho riêng mình mà vội vàng đem Chúa đến cho người khác như Tin Mừng theo thánh Luca đã thuật lại: Trong những ngày ấy, Đức Maria vội vã lên đường đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, để gặp bà chị họ Êlisabet, khi ấy đang có mang được 6 tháng. Mẹ đã ở đó giúp bà chị họ cho tới khi “Mẹ tròn con vuông”.
***
Mừng lễ Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời hôm nay, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình xem chúng ta đã biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa hay chưa?
Trên một tấm bia mộ cổ của một người Công Giáo đạo đức có ghi đôi câu đối: “Tin không việc làm, đức tin chết. Sống chẳng yêu thương, cuộc sống tàn”. Quả thật, chủ đề “Lắng nghe và thực hành Lời Chúa”, có thể chúng ta đã nghe đến nhàm tai; nhiều người chép miệng: “ôi dào, biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.
Vâng, từ xưa tới nay, tôi và anh chị em đã từng tự hào mình là người có đạo, chúng ta đã nghe Lời Chúa rất nhiều, nhưng trong giáo xứ, đây đó vẫn có những tranh giành, vẫn có những gia đình chưa được hòa thuận, vẫn có những gian lận trong làm ăn, vẫn có những bất công trong việc hành xử với anh chị em cùng xóm làng, cùng xứ đạo. Liệu như vậy, có phải chúng ta đang thực hành Lời Chúa dạy ?
Chúng ta tự hào rằng: mình vẫn đi nhà thờ, vẫn đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, nhưng đôi khi lại thiếu bác ái với anh chị em của mình.
Chúa nói: “Ai nghe và thực hành Lời Chúa thì như người khôn biết xây nhà trên đá”. Còn chúng ta, mặc dù tin vào Đức Ki-tô, nhưng trong cuộc sống thực tế, chúng ta lại xây ngôi nhà cuộc đời của mình trên những thứ cát như tiền tài, quyền lực, danh vọng…
Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã khẳng định: “Ngày nay, người ta cần những chứng nhân hơn là những nhà giảng thuyết. Sở dĩ người ta nghe lời những nhà giảng thuyết bởi vì người ta đã thấy họ sống chứng nhân”. Thánh tông đồ Giacôbê Tông đồ cũng đã từng nói: “Bạn hãy chứng minh cho tôi thấy đức tin không có việc làm của bạn. Còn tôi, bằng việc làm, tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2, 18). Chúng ta nghĩ gì về lời mời gọi đó?
“Lạy Chúa, từ trước tới nay, chúng con vẫn thường tự hào mình là người có đạo, chúng con đã nghe Lời Chúa dạy rất nhiều, nhưng lại chưa đem ra thực hành. Nhiều lần chúng con ngại ngần, nhát đảm, không dám làm chứng cho Chúa qua việc làm chứng cho sự thật, cho những điều thiện khiến cho nhiều người vì chúng con mà mất niềm tin vào Chúa.
Nguyện xin Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, giúp chúng con kể từ đây, thống nhất giữa lời nói và việc làm; để mai ngày, khi đến trước tòa Chúa, chúng con sẽ vui mừng nhận được lời chúc phúc của Chúa: “Phúc cho anh em là những người đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa”. Amen.
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời. 15/8-114
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời. Quả thật, việc Mẹ được vinh thăng về thiên quốc không chỉ mang đến cho chúng ta niềm vui, nhưng còn cho chúng ta niềm tin yêu và hy vọng.
Chúng ta vui vì Mẹ đã về quê hương đích thực trên trời, nơi không còn khổ đau, không còn tang ma, khóc lóc. Chúng ta hy vọng, vì sẽ có ngày chúng ta cũng được cùng Mẹ hưởng vinh phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhưng bởi đâu Mẹ được những đặc ân cao cả đó? Phải chăng vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa? Phải chăng vì Mẹ được đặc ân vô nhiễm nguyên tội? Phải chăng Mẹ là Đấng đồng trinh trọn đời?
Vâng, đúng như vậy. Nhưng Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1, 39-56) hôm nay còn cho chúng ta biết thêm, sở dĩ Mẹ được vinh phúc đó là vì Mẹ đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa, như chính lời Mẹ ca lên trong bài Magnificat: “Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn đến” (Lc 1, 48). Và để đáp trả lại tình thương ấy, Mẹ đã biết mau mắn vâng theo những tác động của Chúa Thánh Thần.
Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại rằng: “Trong những ngày ấy, Đức Maria vội vã lên đường đến một thành thuộc xứ Giuđa, vào nhà bà Eâlisabet” (Lc 1, 39). Sự “vội vã” ở đây không phải là hấp tấp, nhưng thể hiện một sự mau mắn, ước muốn được chia sẻ. Chúng ta biết rằng, để đi đến được với người chị họ, Đức Mẹ đã phải vượt qua quãng đường gập ghềnh, hiểm trở, dài hơn một trăm cây số, với phương tiện giao thông hết sức thô sơ. Sự “vội vã” của Mẹ, còn thể hiện một niềm hân hoan, vì Mẹ được đem Chúa đến cho người khác.
Khi được người chị họ khen là người có phúc nhất trong những người phụ nữ, Đức Mẹ đã không tỏ ra kiêu căng, tự phụ, nhưng Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa qua bài ca bất hủ mà cho đến hôm nay, Hội Thánh vẫn giữ lại trong lời kinh của mình: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).
Cũng như biết bao thiếu nữ Do-thái cùng thời, Mẹ biết rõ lời ngôn sứ Isaia đã từng nói trước đó 8 thế kỷ: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”, nhưng có lẽ, chưa bao giờ Mẹ nghĩ mình là người thiếu nữ “đầy ơn phúc” đó. Chẳng thế mà khi nghe thiên thần truyền tin Con Thiên Chúa nhập thể, Mẹ đã tỏ ra hết sức ngạc nhiên: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Nhưng khi nghe thiên thần giải thích, Mẹ đã hiểu rằng, mình đã được Thiên Chúa chọn để thực hiện công trình cứu độ của Người. Với tất cả sự khiêm tốn của một người tì nữ, Mẹ đã nói lời “xin vâng”: “Này tôi là nữ tì của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,38).
Braunstein đã từng nói một câu rất nổi tiếng rằng: “Có thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho”. Mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ đã không ngần ngại dấn thân phục vụ người chị họ mình đang mang thai trong lúc tuổi già. “Maria ở lại với bà Eâlisabet độ ba tháng, rồi trở về nhà mình” (Lc 1,56). Kinh Thánh chỉ diễn ta bằng mấy lời ngắn ngủi, nhưng chúng ta cũng có thể mường tượng ra sự vất vả của Mẹ khi phục vụ người chị họ sinh nở trong lúc tuổi già là như thế nào. Tuy nhiên, Mẹ đã không một lời phàn nàn, than trách.
***
Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi biến đổi đời sống của mình để trở nên giống như Mẹ.
Trước tiên là bài học về sự khiêm tốn. Mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, những Mẹ chỉ nhận mình là “tì nữ thấp hèn của Thiên Chúa”. Quả vậy, nếu không có một tâm tình đơn sơ khiêm tốn, chúng ta khó có thể nhận biết được ơn Chúa ban. Chính thánh Phaolô Tông đồ đã có kinh nghiệm này khi ngài khẳng định rằng: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,9-10).
Thứ đến là bài học về tâm tình tạ ơn. Sở dĩ Mẹ vội vã ra đi đem Chúa đến cho người chị họ, vì Mẹ đã cảm nếm được những ân huệ cao cả mà Thiên Chúa đã thi ân cho Mẹ, cho dù Mẹ chỉ là một tì nữ thấp hèn. Còn chúng ta, mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn lành từ nơi Chúa, như ơn được sinh ra làm người, ơn được làm con cái Chúa và Hội Thánh, ơn sức khỏe, ơn bình an… nhưng chúng ta có biết tạ ơn Chúa cho tương xứng hay không?
Sau cùng là bài học về sự phục vụ. Có lẽ, lời tạ ơn đẹp lòng Chúa nhất không phải là những lễ vật chúng ta dâng, nhưng là tình yêu thương, như lời Chúa phán: Ta đã chán ngấy của lễ toàn thiêu, chiên bò. Ta chỉ muốn tình yêu chứ không cần hy lễ…
Noi gương Mẹ đi thăm viếng, chúng ta cũng hãy biết mở lòng ra để đến với muôn người. Cuộc sống quanh ta, có biết bao người đang cần đến chúng ta trợ giúp. Sự giúp đỡ ấy, có thể chỉ là một lời thăm hỏi, một cái bắt tay, một ánh mắt cảm thông… Những sự chia sẻ tưởng chừng như đơn giản đó, đôi khi lại mang lại những kết quả to lớn.
Công việc tông đồ của chúng ta chắc chắn sẽ thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nếu như chúng ta biết đặt dưới sự trợ giúp của Mẹ. Để chớ gì, qua đời sống chứng tá của chúng ta, mọi người sẽ nhận biết, chúng ta là con của Mẹ và là con của cùng một Cha trên trời.
***
Lạy Mẹ Maria, hôm nay, Mẹ đã được Thiên Chúa đưa lên trời cao cả hồn lẫn xác. Hợp cùng với triều thần thiên quốc, chúng con xin chúc mừng Mẹ. Chúng con tin rằng, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng con. Với trái tim từ mẫu và đầy dịu hiền, xin Mẹ giúp chúng con cũng biết noi gương Mẹ, sống đơn sơ, khiêm tốn. Nhờ đó, chúng con có thể nhận ra những ơn lành của Thiên Chúa ban xuống trên cuộc đời mỗi người chúng con, để chúng con có thể sẵn sàng giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.
Hôm nay, Giáo Hội tôn vinh người nữ tỳ khiêm tốn làng Nazareth, qua người nữ này mà trần 15/8-115
Hôm nay, Giáo Hội tôn vinh người nữ tỳ khiêm tốn làng Nazareth, qua người nữ này mà trần thế nhận được ơn cứu độ. Chúng ta hân hoan vì Mẹ Maria được thông phần vinh quang của Con Mẹ trên thiên quốc. Từ trời cao, Mẹ hằng dõi theo chúng ta. Giờ đây, chúng ta hãy hướng về Chúa, Đấng mà Mẹ Maria đã nói là Người giàu tình yêu và thương xót.
Lạy Chúa Giêsu, lòng thương xót Chúa trải qua từ đời này đến đời kia.
Chúa ban dư đầy những điều thiện hảo cho người khiêm nhường.
Chúa nâng dậy những người hèn mọn biết đặt trọn niềm tin vào Chúa.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab
Mô tả trận chiến giữa Thiên Chúa và sự dữ, với chiến thắng cuối cùng thuộc về Thiên Chúa. Đức Maria và Con của Mẹ là trung tâm điểm của cuộc chiến đấu.
Bài đọc 2: 1 Cr 15,20-26
Chúa Kitô là Adam mới, Đấng xoá bỏ những thiệt hại do Adam cũ gây nên. (Giáo Hội nhìn Đức Maria như Eva mới, Đấng huỷ bỏ những thiệt hại do Eva cũ gây nên).
Tin Mừng: Lc 1,39-56
Đức Maria viếng thăm bà Elizabeth, Mẹ đã cất tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa vì muôn điều thiện hảo Người đã ban xuống trên Mẹ và trên dân Người tuyển chọn.
CHÚ GIẢI CÁC BÀI ĐỌC
Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời).
Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: "Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc "thực hiện chính mình". Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức tin không luôn luôn đưa đến những sự dễ dãi. Thường thì ngược lại. Đức tin buộc chúng ta phải chiến đấu, mà không bảo đảm rằng có kết quả hạnh phúc. Một người sống đức tin sẽ không bao giờ thoái lui.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.
Vào năm 1917 Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ ở Fatima nước Bồ Đào Nha. Lucia 10 tuổi, Jacinta 15/8-116
Vào năm 1917 Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ ở Fatima nước Bồ Đào Nha. Lucia 10 tuổi, Jacinta 7 tuổi và Phaxico 9 tuổi. Khi các em đang chăn cừu, một luồng sáng chói chiếu trên nền trời; bỗng nhiên Đức Mẹ hiện ra và nói với các em: “Ta từ trời đến”. Từ tháng năm đến tháng mười, Đức Mẹ hiện ra với các em 6 lần, lần hiện ra cuối cùng có phép lạ mặt trời nhảy múa và thánh gia thất hiện ra, trong nhân tính của Chúa ban phép lành cho đám đông. Đức Mẹ mặc áo choàng núi Camelô, hàng ngàn người đã chứng kiến phép lạ và chứng thực sự kiện xảy ra.
Dù bạn tin hay không tin sư kiện Fatima. Bạn hãy chú ý đến những gì em Jacinta làm trong những năm sau đó. Em lên núi và đọc kinh “Kính Mừng”, em ngừng lại từng chữ. Em đọc “Kính Mừng” rồi đợi một tiếng dội lại từ vách núi, chậm rãi và kính cẩn em đọc Kính Mừng Maria một cách say sưa.
Em bé đó được nhận ra, cũng vậy bạn và tôi phải ý thức rằng: những lời Kính Mừng Maria được đem từ trời xuống, phần đầu, “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” do sứ thần nói với Maria: Người sẽ làm Mẹ Thiên Chúa, phần nhì “Bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ và con lòng bà gồm phúc lạ” là lời của Bà Elisabeth được linh ứng từ trời trong bài Tin Mừng hôm nay, phần cuối cùng do Giáo hội của Chúa thêm vào cũng với nghĩa được đem xuống từ trời, như khi Đức Mẹ hiện ra ngày 19.8.1917, Mẹ nói với ba em ở Fatima: “Hãy cầu nguyện cho kẻ có tội”.
“Khi nay và trong giờ lâm tử” rất phù hợp với ngày lễ Đức Mẹ lên trời, nghĩa là vào cuối cuộc đời, Đức Mẹ được rước về trời cả hồn lẫn xác. Chúa Giêsu không muốn để Mẹ thanh sạch của Người phải chịu cảnh hư nát trong mồ. Đó là chân lý vinh quang sáng ngời chúng ta mừng lễ hôm nay.
Cùng với Đức Mẹ, chúng ta vui mừng, chúng ta muốn nói với Người rằng: chúng ta vui mừng, chúng ta muốn nói với Người bằng ngôn ngữ của Người, nhưng tốt hơn vẫn là những lời trong kinh Kính Mừng, những lời từ trời đem xuống. Như Sacinta, chúng ta muốn đọc từng lời với tình mến yêu và kính cẩn. Chúng ta mong được nghe từng tiếng dội từ trời.
Đức Maria lên trời là mầu nhiệm thứ tư mùa mừng của chuỗi Môi khôi. Đức Maria thăm viếng trong câu chuyện bài Tin Mừng hôm nay là mầu nhiệm thứ hai năm sự vui. Sau thánh lễ hôm nay, chúng ta đọc to kinh kính mừng trong chuỗi Môi khôi để kính nhớ hai biến cố vui mừng và vinh hiển trong cuộc đời Chúa Giêsu và mẹ Người.
Lời kinh chúng ta sẽ dội lại từ bàn thờ, nơi đây có Chúa ở cùng chúng ta, nơi dây quả phúc của lòng Đức Mẹ lại càng tái sinh. Nơi đây chúng ta xin được ở trên thiên đàng với mẹ Thiên Chúa. Nơi đây chúng ta cử hành nghi lễ cầu nguyện giải cứu chúng ta là những kẻ tội lỗi. Nơi đây chúng ta nghĩ đến sự chết của chúng ta khi chúng ta cử hành sự chết của con Đức Maria, Chúa chúng ta, Đấng cứu độ chúng ta. Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta cử hành hy lễ của con Mẹ với tất cả những gì chúng ta có.
William Lyon Phelps là một nhà phê bình văn học nổi tiếng, một giáo sư Anh văn tại đại học 15/8-117
William Lyon Phelps là một nhà phê bình văn học nổi tiếng, một giáo sư Anh văn tại đại học Yale từ năm 1901 đến 1933. Những tác phẩm của ông đã hình thành khuynh hướng văn chương Mỹ lúc bấy giờ. Dưới đây là điều ông viết về lễ Đức Mẹ lên trời. Lễ chúng ta mừng hôm nay.
Dù tôi không phải là một người công giáo, tôi luôn luôn dự lễ tại một nhà thờ công giáo trong ngày lễ Đức Mẹ lên trời. Từ năm 1928 nhà thờ công giáo gần nhất ở cảng Custin tiển bang Michigan cách chỗ tôi ở chừng 12 km. Tôi nhớ nhà thờ này mỗi năm trong ngày ấy để tôn kính Đức Mẹ. Nên nhớ rằng: người công giáo không thờ Đức Trinh Nữ. Họ thờ một mình Thiên Chúa nhưng tôn kính Đức Maria và cầu khẩn với Người.
Đây là một người không Công giáo, một giáo sư học vấn cao tại một đại học quan trọng, một nhà văn đáng kính, một nhà phê bình văn học đã bầy tỏ lòng trìu mến Đức Trinh nữ trong ngày lễ lên trời vinh hiển này. Ông viết trên một cột báo được nhiều người đọc, người có tín ngưõng cũng như không tín ngưỡng. Ong Phelps thích ý tưởng Đức Mẹ cất nhắc lên trời. Tôi thích ý tưởng đó, bạn cũng vậy, nhiều người không công giáo cũng vậy, họ yêu mến, ngưỡng mộ Mẹ Thiên Chúa.
Rất nhiều người công giáo, vâng, và không công giáo họ có thể biết rất ít hay không biết gì về thần học liên can đến đức Maria, nhưng họ khâm phục và yêu mến Người.
Hơn nữa, ngoài mọi giáo huấn chính thức của Giáo hội Chúa Kitô, đối với Đức Maria là lòng mến yêu thâm sâu của chúng ta đối với người phụ nữ được lựa chọn trong các người phụ nữ để cho con của Thiên Chúa, Đấng cứu thế Giêsu bản tính của nhân loại.
Tôi có quyền yêu mến Người mặc dù tôi chưa hiểu người đầy đủ. Chúng ta có thể thích một người nào đó dù chúng ta không biết chắc và đầy đủ tại sao chúng ta thích họ. Tỷ dụ chúng ta thích một người phụ nữ, những phụ nữ khác chúng ta không thích. Dĩ nhiên chúng ta thích, thích người này hơn người khác. Một ít người chúng ta thích nhất, trong vài trường hợp, chúng ta thích hay yêu một người phụ nữ nào đó nhất. Tôi có quyền yêu Đức Mẹ Maria hơn tất cả.
Người là một nhân vật lịch sử. Người thực sự hiện hữu, Người được Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần yêu thương, Người được Chúa Giêsu, Con của Người cũng là Con của Thiên Chúa yêu thương.
Tôi yêu Người vì Chúa Giêsu yêu Người.
Những nhà thi sĩ nổi tiếng, các họa sĩ, nghệ sĩ yêu mến Người. Những người như William Phelps yêu mến Người. Họ ý thức rằng: đây là một phụ nữ trọn hảo, được chính Thiên Chúa làm cho trọn hảo.
Hôm nay, ngày lễ Mẹ lên trời, chúng ta nói với Mẹ: “Chúng con yêu Mẹ, không phải vì Mẹ được lên trời cả hồn và xác; nhưng vì chính Mẹ, Mẹ đáng yêu hơn mọi phụ nữ”
Chị giáo dân ấy tên là Huyền Tâm (Helga Schmidt). Hôm ấy chị đến hàng bách hóa mua quà Giáng 15/8-118
Chị giáo dân ấy tên là Huyền Tâm (Helga Schmidt). Hôm ấy chị đến hàng bách hóa mua quà Giáng Sinh cho một số người, mà lòng chị không được phấn khởi. Chị đã ghi một loạt tên những người chị cần mua quà tặng; đó là những người đã nói họ không cần ai tặng quà, nhưng chị biết rõ họ sẽ bị tổn thương nếu chị không mua gì cho họ.
Chị Huyền Tâm không mất nhiều giờ để chọn đồ, nhưng mất đến 20 phút chờ đến lượt trả tiền, để ra khỏi cửa tiệm! Chính ở khâu chót này, chị Huyền Tâm được dành cơ hội tặng một gói quà nhỏ mà giá trị của nó chắc không bao giờ chị quên được.
Số là có hai khách hàng nổi bật ở phía trưóc chị Huyền Tâm. Cậu con trai chừng năm tuổi, cô em gái nhỏ hơn ít là một tuổi, theo sau. Cậu bé mặc chiếc áo khoác rách rưới, đi đôi giày tennis rộng thùng thình thò ra ngoài hai ống quần gin (Jean) quá ngắn. Cậu bé ấy nắm chặt mấy đồng tiến nhàu nát trong lòng bàn tay cáu ghét. Còn cô bé với đầu bù xù một mớ tóc quăn bết lại, có gương mặt rõ ràng phản ánh sự thèm thuồng một bữa cơm tối.
Bé gái cầm trong tay một đôi dép mang trong nhà màu vàng sạch bóng. Khi khúc nhạc Giáng Sinh vang lên qua hệ thống âm thanh của cửa tiệm bách hoá, bé gái này cũng ấp úng hát theo, vẻ đầy hạnh phúc, mặc dầu lạc giọng.
Khi đến chỗ tính tiền, bé gái ấy cẩn thận đặt đôi dép lên quầy, làm như đó là một kho tàng quý báu rất đặc biệt.
Cô thư ký của tiệm xem hoá đơn và nói:
- Hết 6 đôla 9 xu.
Cậu bé liền đặt mấy tờ đô la nhàu nát lên chỗ để hàng, rồi lục lọi để kiếm thêm tiền nơi túi áo và quần. Sau cùng cậu bé chỉ có trong tay 3 đôla 12 xu, nên phải cáo lỗi cô thư ký:
- Chúng cháu xin để lại món hàng này tới khi khác, có lẽ ngày mai chúng cháu sẽ trở lại.
Nghe lời cáo lỗi đó, cô bé thất vọng khóc nức nở và nói:
- Nhưng Hài Nhi Giêsu thích những chiếc giày này.
Cậu bé liền dỗ em một mình với lời hứa:
- Em đừng khóc nữa, chúng ta sẽ trở lại mà!
Đó là lúc chị Huyền Tâm nhập cuộc một cách tự nhiên. Chị kể lại: "Tôi vội đưa cho cô thư ký ba đôla. Bỗng có hai cánh tay ôm chầm lấy tôi giọng nói yếu ớt:
- Cháu cám ơn bà.
Tôi hỏi cô bé:
- Cháu nói Chúa Giêsu thích những chiếc giày này, điều đó có nghĩa gì vậy?
Cậu bé liền trả lời thay em cậu, vẻ mặt đậm nét ưu tư:
- Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về trời. Bố nói mẹ có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi.
Cô bé liền tiếp lời trong sự phấn khởi:
- Cô giáo dậy lớp giáo lý sáng Chúa Nhật nói rằng: những con đường lên trời lấp lánh vàng như chiếc giày này. Mẹ cháu sẽ chẳng rất xinh đẹp khi bước đi trên những con đường đó bằng những chiếc giày này sao?
Mắt tôi ngập lệ khi nhìn khuôn mặt cô bé có những vệt nước mắt. Tôi gật đầu vui vẻ đồng ý:
- Đã hẳn mẹ cháu rất đẹp rồi!
Tôi hết lòng tạ ơn Chúa vì đã dùng những đứa trẻ này dạy tôi nhiều điều liên quan tới con đường về trời của người mẹ trìu mến."
Câu chuyện vừa kể giúp đặt ta vào bối cảnh của lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Mỗi năm lễ này được cử hành là nhằm giúp các Kitô hữu thấy rõ mục đích đời mình, đồng thời nhờ ơn lành và lời cầu bầu của Mẹ Maria để đạt tới đích đó như sự thành tựu cuối cùng của đời ta. Riêng với chị giáo dân Huyền Tâm, câu chuyện đã dạy chị nhiều điều liên quan tới con đường về trời của người mẹ trìu mến.
Nhưng người mẹ trìu mến nào? Trong câu chuyện, đó là mẹ của hai đứa trẻ. Người mẹ đó đang trong tình trạng gần đất xa trời. Nhưng người bố đã cắt nghĩa cho hai con ông biết mẹ chúng có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi. Mọi sự đều ra khác nhờ ánh sáng của việc lên trời để ở với Chúa Giêsu.
Trong Kinh Thánh và trong truyền thống giáo lý của Giáo Hội, sự sống đời đời trong hiệp thông với Thiên Chúa, được mô tả bằng những hình ảnh, như tiệc cưới nơi thiên quốc, sự sống, ánh sáng và bình an. "Lên trời" là một hình ảnh gợi ý về sự thành tựu của con người và về tình trạng hạnh phúc trọn đầy nhờ hiệp thông cách vĩnh viễn với Thiên Chúa. Đó chính là thiên đàng mà mọi Kitô hữu đều nhắm tới như mục đích đời mình.
Lên Trời để ở với Chúa Giêsu
Thiên Đàng cũng được hiểu theo giáo lý, đó là cuộc hiệp thông tròn đầy giữa chư thánh mà Đức Giêsu đã kết hợp lại và đưa về trời. Tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện mà tạo thành và trong lịch sử đều trở nên suối nguồn của niềm vui bất tận do sự hy sinh lớn lao mà Chúa Giêsu dành cho mỗi người.
Giáo lý cũng dạy ta rằng: Đức Maria kết hợp với Chúa Kitô, đó là nền tảng của vai trò của Mẹ đối với Hội Thánh (964). "Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu độ được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết. Cho đến khi Chúa Kitô chết, đặc biệt trong cuộc khổ nạn.
Đức Trinh Nữ tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thập Giá, là nơi theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở đó. Đức Maria chịu đau khổ kinh khủng với Người Con duy nhất của mình, dự phần vào hy lễ của Con, với tâm tình của người mẹ ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng mình sinh ra, để cuối cùng khi hấp hối trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trối Mẹ làm mẹ các môn đệ: "Thưa Bà, này là con Bà" (Ga 19,26-27) (LG 58)
Sau khi Chúa Giêsu lên trời, Mẹ Maria đã trợ giúp Hội Thánh sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình. Cùng với các tông đồ và vài phụ nữ, "Đức Maria tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần là Đấng đã bao phủ lấy ngài trong ngày truyền tin." (LG 59)
Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ vương vũ trụ, để nên giống Con Mẹ trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết." Được lên trời cả hồn lẫn xác, Đức Maria tham dự cách độc đáo vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và thể hiện trước sự Phục Sinh của các Kitô hữu khác (GLGHCG, 966).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay về cuộc viếng thăm bà Isave rất thích hợp với lễ kính Đức Maria hồn xác lên trời. Đức Maria lên trời để tiếp tục công cuộc thăm viếng đối với mỗi một con người cần được cứu chuộc.
Người bố của ông Gioan Tẩy Giả đã được cho biết là con ông sẽ được đầy tràn Thánh Thần (Lc 1,15). Quả thật, Thánh Thần đã đến bao phủ Đức Maria khiến bà thụ thai Đức Giêsu, từ đó như theo ảnh hưởng giây chuyền, Thánh Thần sẽ tràn lan sang nhiều người, khởi sự với Gioan Tẩy Giả còn trong dạ mẹ, rồi đến bà Isave, sau đến ông Dacaria và ông già Simeon. Rồi đây người ta sẽ thấy Thiên Chúa Cha ra tay uy quyền nâng Đức Giêsu lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống (Cv 2,33) trên dân mới của Thiên Chúa.
Những chuyến viếng thăm không chấm dứt
Đức Maria lên trời là để tiếp tục công trình Thiên Chúa thực hiện nơi Người kể từ biến cố truyền tin đầu tiên. Nói theo cha Vương Văn Uông (René Voillaume) "Thăm viếng mãi mãi sẽ là cuộc lễ của sự hy sinh trọn vẹn đã điều khiển tấm lòng Đức Maria từ lúc mẹ biết mình là mẹ Chúa Giêsu; từ nay, Mẹ bắt đầu một chuỗi vô số các cuộc viếng thăm; những chuyến viếng thăm này sẽ không chấm dứt bao lâu còn có một người sống dưới đất."
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy món quà nhỏ mà chị Huyền Tâm tặng hai đứa nhỏ có giá trị như thế nào so sánh với một lô những quà tặng mà chị dành cho những người đã nói với chị rằng họ không cần ai tặng quà? Bạn nghĩ gì về câu nói của cậu bé "Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về trời"? Chính bạn ước ao gì về cuối đời bạn?
2. Bạn nghĩ gì về câu nói "Mẹ bắt đầu một chuỗi vô số các cuộc thăm viếng... bao lâu còn có một người sống dưới đất."?
3. Sách GLGHCG nói gì về Đức Maria Hồn Xác Lên Trời (số 966)?
Ta không biết gì về việc Chúa rước Đức Mẹ hay Đức Mẹ rời cuộc sống trần gian bằng cách thức 15/8-119
Ta không biết gì về việc Chúa rước Đức Mẹ hay Đức Mẹ rời cuộc sống trần gian bằng cách thức nào. Chỉ có một văn bản ngụy thư “Đức Mẹ đi vào giấc ngủ” (Mary’s Dormition), thế kỷ thứ V, cho biết, những giây phút cuối đời của Đức Mẹ, khi các tông đồ vây quanh để cầu nguyện thì Chúa Kitô đến đưa Đức Mẹ về Thiên Đàng. Dù sao truyền thống của Hội Thánh và một vài hình ảnh mà nhiều bản văn Kinh Thánh gợi lên, củng cố cho cho đức tin của chúng ta trong việc nhìn nhận Người Mẹ Thật của chúng ta đã tiên phong hưởng hạnh phúc cả hồn lẫn xác.
I. Truyền thống đức tin của Hội Thánh.
Niềm tin Đức Mẹ được triệu hồi cả hồn lẫn xác về trời bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của Hội Thánh. Đến thế kỷ VI, Hội Thánh phương đông Đã sớm cử hành lễ Đức Mẹ Đi Vào Giấc Ngủ vào khoảng giữa tháng giêng. Sau này, hoàng đế Maurice (582-602) xác định dứt khoát lễ nay cử hàng ngày 15 tháng 8. Với lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, Đức Giáo hoàng Theodore (642-649) đã muốn thiết lập lễ này cho nghi lễ Rôma ngay thế kỷ sau đó, thế kỷ thứ VII. Năm 813, Công Đồng Mayence truyền cho toàn Châu Âu cử hành lễ này với tên gọi là Lễ Mông Triệu (Thiên Chúa triệu hồi Đức Mẹ về trời), chính thức nhìn nhận cách mặc nhiên Đức Mẹ được triệu hồi về trời.
Đến năm 1854, sau khi đức Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, thì phong trào sùng kính Đức Mẹ vốn đã mạnh mẽ từ lâu trong Hội Thánh, nay như được dịp khuấy động dữ dội hơn. Chỉ trong vòng chưa đầy một trăm năm sau, tính đến năm 1945, khắp thế giới có khoảng tám triệu thỉnh nguyện thư của các tín hữu và khoảng gần 100. 000 thỉnh nguyện thư khác đến từ các giám mục, linh mục, các tu sĩ, các nhà thần học xin Tòa Thánh chính thức xác định tín điều về Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên hay Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trước những lời thỉnh cầu tha thiết ấy, để có thể quyết định một cách thận trọng nhất trước vấn đề đức tin quan trọng này, Đức Piô XII công bố Thông Điệp Deiparae Virginis để xin ý kiến Giám mục đoàn trên khắp thế giới. Thật lạ lùng, sau năm năm hỏi ý kiến, chỉ có sáu giám mục nghi ngờ về tính chất ‘mặc khải’ của việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Dù niềm tin Đức Mẹ hồn xác về trời đã có từ rất lâu trong truyền thống Hội Thánh, nhưng mãi đến ngày 1.11.1950, tức vào ngày lễ các thánh Nam Nữ, bằng một phán quyết long trọng: “Chúng tôi khẳng định, chúng tôi tuyên bố và chúng tôi minh định như một tín điều được Thiên Chúa mặc khải rằng Đức Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian, đã được cất nhắc về vinh quang trên trời cả xác lẫn hồn” (tông hiến Munificentissimus Deus).
Đức Giáo hoàng đã không chọn ngày nào, lại chọn ngày lễ các thánh Nam Nữ để công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời. Tôi thấy có một ý nghĩa lớn: Giữa hàng ngũ các thánh của Chúa, Đức Maria trổi vượt trên tất cả về sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa. Sự thánh thiện tuyệt vời của Đức Mẹ đã mở đường cho Đức Mẹ đi tiên phong trước mọi thụ tạo, tiến về cùng Chúa, hưởng vinh quang nơi Chúa bằng toàn bộ con người, gồm cả xác lẫn hồn của Đức Mẹ.
II. Vài hình ảnh gợi ý trong các bản văn Thánh Kinh của ngày lễ.
Ta chú ý lời của Đức Maria trong Tin Mừng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong TYhiên CHúa, Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 46-47). Chính Đức Mẹ̣ – Đức Mẹ chứ không phải bất cứ tập thể hay cá nhân nào, dù là Hội Thánh hay chúng ta – đã ca ngợi Chúa, ca ngợi lòng thương xót của Chúa. Đức Mẹ đã tuyên xưng hành động cứu độ của Chúa, và gọi Chúa là “Đấng Cứu độ tôi”. Những chữ “Đấng Cứu độ tôi”, quả thật là lời quy hướng về Chúa. Đức Mẹ đã nhìn nhận, đã tin tưởng thực sự rằng: Chỉ có Chúa, chỉ trong Chúa, Đức Mẹ mới được vinh quang và hạnh phúc vô cùng như thế.
Để chuẩn bị đón mừng ngày lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác, chúng ta cùng nhau ôn 15/8-120
Để chuẩn bị đón mừng ngày lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác, chúng ta cùng nhau ôn lại vị trí của Mẹ chúng ta trong Thánh Kinh. Từ đó, ta biết giục lòng yêu mến Mẹ nhiều hơn và bắt chước Mẹ luôn sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa.
- Từ thủơ đời đời Mẹ đã có chỗ đứng quan trọng trong Tin-Mừng Nguyên-Thủy, ngay khi Evà bị con rắn quyến-rũ phạm tội, đem cái chết đến cho nhân-loại thì Giavê Thiên-Chúa đã phán bảo con rắn: "Bởi ngươi đã làm thế thì ngươi hãy là đồ chúc dữ giữa mọi thú-vật cùng dã-thú hết thảy! Ngươi hãy lê bụng và ăn đất-bụi mọi ngày đời ngươi. Ta sẽ đặt hận-thù giữa ngươi và NGƯỜI ĐÀN-BÀ, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó, dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi còn ngươi sẽ táp lại gót chân!" (Khởi Nguyên 3,14-15).
-Trong suốt bốn ngàn năm mong-đợi Đấng Cứu-Thế, Mẹ đã được các Tiên-Tri trong Cựu-Ước loan-báo sẽ thụ-thai và sinh-hạ một con trai đặt tên là Ê-ma-nu-el, có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta: "Chính Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu-lạ: Này một TRINH NỮ sẽ thụ-thai và sinh-hạ một con trai, và Bà sẽ đặt tên con là Ê-ma-nu-e!" (Isaiia 7, 14).
-Tiên-Tri Mica cũng nói về Mẹ và Con của Mẹ: "Người sẽ phó-nộp chúng cho tới thời-kỳ TRINH-NỮ sinh Con và số-sót anh em Ngài về với Israel. Ngài sẽ bền-vững, Ngài sẽ chăn-dắt dựa vào quyền-năng Giavê, nhờ Uy-Danh Giavê Thiên-Chúa của Ngài. Và chúng sẽ được an-cư, vì bấy giờ Ngài sẽ nên lớn-lao cho đến mút cùng trái-đất!" (Mi-ca 5,2-3).
- Tiên-Tri Zacarya cũng tiên-báo về Mẹ: "Giavê phán: Hãy reo lên! Hãy vui-mừng, hỡi NỮ-TỬ SION! Này Ta đến lưu-trú ở giưã ngươi!" (Za-ca-ry-a 2,14).
- Trong ngày Truyền-Tin, Thiên-Sứ Ga-bri-el đã kính-cẩn chào Mẹ: "KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN-PHÚC, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc hơn mọi người nữ!" (Luca 1,28).
- Bà Isave nghe Mẹ chào, được tràn đầy Thánh-Linh, đã hân-hoan lớn tiếng thốt lên: "Trong nữ-giới có EM LÀ NGƯỜI DIỄM-PHÚC, và đáng chúc-tụng thay hoa-quả lòng Em! Và bởi đâu tôi được thế này, là Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi? Vì tai tôi vừa nghe tiếng Em chào, thì hài-nhi trong dạ tôi nhảy mừng! Phúc cho Em là người đã tin Lời Thiên Chúa phán sẽ thành-sự!" (Luca 1, 42-45).
- Đang khi Chúa Giêsu giảng-dạy, thì giữa dân-chúng có một bà cất tiếng nói với Ngài: "Phúc cho LÒNG DẠ CƯU-MANG THÀY, và vú đã cho Thày bú!" (Luca 11,27).
- Đứng bên khổ-giá Đức Giêsu có Mẹ Ngài và người chị họ của Mẹ Ngài là Maria vợ ông Clôpát, và Maria người Magđala. Vậy Đức Giêsu thấy Mẹ Ngài và môn-đồ Ngài yêu-mến đứng bên cạnh thì nói với Mẹ: "Thưa Bà, đây là con Bà!". Đoạn lại nói với môn-đồ: "Đấy là Mẹ con!". Và từ giờ đó môn-đồ đã lãnh lấy Bà về nhà mình." (Gioan 19,25-27).
Chúng ta chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ an-ủi, hộ-vực, dìu-dắt, chia-sẻ kinh-nghiệm và bí-quyết nên thánh. Chúng ta chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ cầu thay nguyện giúp với Thiên-Chúa cho chúng ta, tiến-cử chúng ta với Thiên-Chúa, để chắc-chắn một ngày kia chúng ta cũng sẽ gia-nhập hàng-ngũ các Thánh, cùng với Mẹ là Nữ-Vương các Thiên-Thần và các Thánh Nam Nữ chúc-tụng tôn-vinh Thiên-Chúa, Cha chúng ta!
Ngày lễ này đã được các Giáo Hội Phương Đông và Phương Tây mừng kính trọng thể từ thế 15/8-121
Ngày lễ này đã được các Giáo Hội Phương Đông và Phương Tây mừng kính trọng thể từ thế kỷ thứ V. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã xác định Đức Mẹ lên trời như một tín điều của Đức tin ngày 1 tháng mười một 1950. “Đức Mẹ lên trời là đặc ân qua đó Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội của Thiên Chúa được vinh thăng cả hồn lẫn xác khi đời sống trần gian của Mẹ chấm dứt, mà không chờ đến ngày sống lại sau cùng”. Điều này là đức tin của Giáo Hội từ lâu đời, và một chứng cứ, giữa nhiều chứng cứ khác, là cửa kính màu. Đức Maria Ly Trần của nhà thờ chính tòa Angers, vào thế kỷ thứ XII.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn..."
Đức Maria là người nữ đầu tiên "được cứu”. Bài ca ngợi khen, Maglnficat, của Mẹ đã dâng mọi vinh quang lên "Cứu Chúa", Đấng "Toàn Năng". Trường hợp đặc biệt của Đức Maria được Thiên Chúa cho cả hồn lẫn xác đi vào vinh quang của Người, không do bởi công nghiệp của Mẹ nhưng do ân sủng của Con Mẹ là Đức -Giêsu. Mẹ nhận mình là “nữ tỳ bèn mọn" của Đức Chúa. Bài ca ngợi khen của Mẹ không có điều gì như một bài ca của lòng kiêu hãnh. Đó là một thú nhận của lòng khiêm hạ ! Tất cả những gì của Mẹ đều do Thiên Chúa ban cho bội ân sủng và được dâng lại cho Thiên Chúa bằng lời ngợi khen. Chính vì thế lòng sùng kính chân thật Đức Maria luôn hướng chúng ta về mầu nhiệm Đức Kitô. Để hiểu sự vinh thăng của Đức Trinh Nữ, trước tiên chúng ta phải chiêm niệm vinh quang của Đức Giêsu phục sinh.
Đức Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết mở đường cho những ai yên giấc ngàn thu... mọi người nhờ liên đới với Đức Giêsu, cũng được Đức Giêsu cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm, thì đến lượt những kẻ thuộc về Người... (Cô-rin-tô 15,20-23).
Trong Đức Giêsu Kitô, "thới kỳ sau hết" đã bắt đầu.
Đó là thời cánh chung, theo cách gọi của các nhà thần học, do chữ "eschaton" = sau hết. Khi chúng ta nói đến thời kỳ sau hết, chúng ta luôn luôn có khuynh hướng nghĩ đến giới hạn cuối cùng, đến giây phút cuối cùng của thời gian mà chúng ta không có phương tiện nào để tưởng tượng và chúng
ta quy chiếu vào một tương lai xa vời nào đó. Hỡi ôi, cám dỗ để chúng ta không quan tâm đến ngày "tận thế" là chúng ta cho rằng tận thế ấy không đến lượt chúng ta.
Nhưng từ "tận thế" hay "thế mạt" theo nghĩa cánh chung đích thật, chỉ ra một thực tại hiện nay "đã bắt đầu”, mặc dù "chưa hoàn tất". Cánh chung theo nghĩa này chính là “mục tiêu” hướng dẫn một hành động ngay khi nó mới bắt đầu. "Đức Kitô đã sống lại... (đứng đầu mọi kẻ sống...tất cả sẽ sống lại... mỗi người theo thứ tự của mình). Trong Đức Giêsu Kitô, chính thực tại tối hậu của Thiên Chúa và thực tại tối hậu của con người đã xuất hiện sự sống lại không chỉ là "tận cùng của các sự vật", nhưng là nền tảng của các sự vật". Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta bí mật sâu xa của công trình sáng thế của Người. Chính vì để dẫn chúng ta đến thực tại kỳ diệu của sự sống mà Người đã lên chướng trình cho chúng ta ngay từ khởi điểm. Trong Đức Giêsu sống lại thời sau hết, mục tiêu của lịch sử đã chạm đến chúng ta" (1 Côrintô 10,11).
Bởi ơn đặc biệt, Đức Maria đã đi đến vinh quang ấy và sự phát triển hoàn toàn chính là dự án của Thiên Chúa. Đức Maria có thể nói là "nguyên mẫu” của những gì mà Thiên Chúa đang làm với toàn thể tạo vật. Trong Đức Giêsu Kitô, điều đã đến cho Đức Maria, phải xảy đến với toàn thể Giáo Hội, và với mỗi người chúng ta. Sự biến hóa từ con người phải chết đến con người hằng sống đã hoàn toàn thành tựu trong Đức Giêsu Phục sinh, đã được Đức Maria, mẹ Người tham dự trước. Đối với phần còn lại của nhân loại sự biến hóa ấy đang được tiến hành. Khi mà lịch sử còn diễn tiến thì khuôn mặt chung cuộc, một cách tạm thời, mỗi người chúng ta bị bóng tối sự chết đánh dấu, và chúng ta "Xin mang lấy vào thân cho đủ mức những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh". (Cô-lô-xê 1,24)
Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con (Khải Huyền 12, 1-2)
Kêu la... đau đớn và... quằn quại. Khi mà Lịch sử còn tiếp diễn thì đối với chúng ta, nhân loại còn phải chịu khổ như thế. Những bản tin thế giới qua báo chí và truyền hình đem đến cho chúng ta cảnh tượng bi thảm ấy mỗi ngày. Trong ngày mà chúng ta kỷ niệm sự vinh quang và hạnh phúc của Đức Maria, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta tình mẫu tử của Đức Maria đau đớn biết chừng nào, khi Mẹ sinh ra chúng ta, dưới chân thập giá.
Như thế mỗi một thử thách của chúng ta là một lần sinh đẻ. Đau khổ của chúng ta hiện nay là sự sinh nở một thế giới mới, cùng với Đức Kitô trên thập giá.
Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quân thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa Cha. Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết. (1 Cô-rin-tô 15, 22-26)
Một số đầu óc bằng lòng với "tính bất tử của linh hồn". Tại sao, họ nói, còn nói đến "xác loài người ngày sau sống lại"?
Vả lại chúng ta tin rằng Ngôi Lời đã trở nên người phàm và trong mỗi Thánh Thể, Đức Giêsu làm cho chúng ta thành Mình Người... và Đức Maria đã được Thiên Chúa cưu mang cả hồn lẫn xác. Đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc. "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Gioan 6,39-54). Trong ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời này, chúng ta phải tìm lại ý nghĩa của “thân xác".
Thân xác chúng ta không phải là một yếu tố bên ngoài, mà là một yếu tố cấu tạo nên chính chúng ta, bởi ý muốn của Đấng Sáng Thế. Triết học hiện đại, về điểm này, trở lại với trực giác của Kinh Thánh và bác bỏ chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes. Thay vì nói rằng chúng ta gồm có một linh hồn và một thân xác, đúng hơn nên nói rằng "chúng ta là một thể xác có tâm linh" hoặc "một tinh thần nhập thể". Thánh Tôma Akinô đã nói: "Thiên Chúa đã cho con người tinh thần và bàn tay". Chỉ là một vật, vật chất, mà nó hoàn toàn thấm nhuần trí tuệ và chỉ làm điều mà trí óc tôi sai khiến nó. Ngược lại, tinh thần tôi không thể làm được gì nếu không có bàn tay tôi không có sự phân ly nào giữa hai khía cạnh ấy của nhân tính tôi: không có gì hoàn toàn là thân xác, và cũng không có gì hoàn toàn là tâm linh.
Khi chúng ta nói về "linh hồn", chúng ta không nói về một thứ "sự vật" phân ly và đối lập với thân xác. Chúng ta sử dụng cách nói này để nói rằng "nhân vị -con người" trường tồn qua mọi biến đổi thể chất mà nó chịu nhận qua tiến trình lịch sử của một con người: ông cụ già 80 tuổi này với thân xác mỏi mòn và đau đớn cũng là một người với người trưởng thành 40 tuổi ấy khi xưa đã làm việc nhiều với em bé 10 ngày tuổi đã cựa quậy nhẹ nhàng trong nôi của bé. Thân xác ấy đã biến đổi nhiều. Tuy nhiên, đó cũng là một con người (một nhân vị). Yếu tố thường hằng đó, người ta gọi nó là "linh hồn". Vậy, nói như thế không sai. Nhưng vẫn còn chân lý về người nam và người nữ, theo dó Đấng Tạo Hóa đã làm cho chúng ta có nam và có nữ; chính vì thân xác chúng ta là một phần trong toàn thể căn tính của chúng ta. Đức Giêsu có một thân xác. Và sự sống lại của thân xác không phải là một điều tùy phụ, nhưng là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng việc Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác nằm trong đường hướng mà Thiên Chúa muốn thực hiện cho tất cả chúng ta. Thiên Chúa muốn tiêu diệt hết mọi quyền lực của sự ác cho đến kẻ thù địch cuối cùng là sự chết.
Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần... (Luca 1, 39-41)
Tin mừng về sự Nhập thể không ngừng đưa chúng ta về những thục tại của thân xác. Ở đây, Chúa Thánh Thần sử' dụng cái bụng của hai người phụ nữ để ban tràn đầy Thần Khí cho nhân loại. Thân xác không phải là một vật xấu xa, nặng nề và đáng khinh. Ai khinh khi thân xác là khinh khi Thiên -Chúa. Ai làm hại thân xác, là làm hại một "hình ảnh của Thiên Chúa". Sự Mông Triệu của Đức Maria đã nẩy mầm từ hạt giống chính là cảnh tượng đáng khâm phục này.
Đức Giêsu, con lòng bà gồm phúc lạ... và phần bà, bà được chúc phúc giữa tất cả những người phụ nữ..."
Thật vậy, chúng ta phải kính trọng sự im lặng cũng như sự kín đáo của Kinh Thánh về lúc cuối đời của Đức Maria. Chúng ta không có bất kỳ chi tiết nào về cái chết của Thánh Nữ Đồng Trinh - Đức Maria đã sống những ngày cuối cùng của cuộc đời Mẹ trong sự vô danh và im lặng.. Như thế nào? Không ai biết được. Không ai kể lại với sự chính xác. Người ta chỉ biết rằng Đức Maria chết "sau Con Mẹ" bởi vì Mẹ đã đứng dưới chân thánh giá nhìn con Mẹ từ trần.
Như Tin Mừng, chúng ta hãy chấm dứt sự của chúng ta hôm nay bằng cách chiêm ngắm Đức Maria trên dưới tuổi đôi mươi lên đường vội vã, đi bộ đến miền núi xứ Giu-đê, với đứa con Mẹ cưu mang trong bụng... Mẹ đến nhà người chị họ, để giúp đỡ bà: Mẹ sẽ ở lại đó ba tháng !
Sống với Mẹ Maria thật tốt đẹp biết bao ! Mẹ của Thiên Chúa đã sống trọn đời Mẹ trong tình yêu thương tuyệt đối của Đức Chúa và của những người khác: Ngọn lửa thầm khi nhưng nong nàn không để lại "tro tàn". Giờ mà thân xác Mẹ chết, chính là giờ dâng tiến của lễ tình yêu sau cùng của Mẹ, không để sót cái gì. Trong thân xác hoàn toàn được linh hồn ấy tác động, không còn gì chịu hư nát: Tất cả đã được thêu hoá.
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai 15/8-122
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai khung cảnh Kinh thánh ta thấy ở trên. Êlisabét biểu hiệu Israel: già cả, gia đình tư tế, bị son sẻ tự nhiên, và nhờ phép lạ của Thiên Chúa trở thành người mẹ có con cái sinh ra vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Maria tượng trưng cho Giáo Hội: trẻ trung, trinh tiết, thành người Mẹ nhờ phép lạ của Thiên Chúa, sắp sinh hạ là Đấng Messia, Đấng Cứu độ. Hai người mẹ mà việc làm Mẹ mang một tầm vóc lịch sử, đã tìm gặp nhau và cùng liên kết với nhau đe cùng tụng ca vinh quang Thiên Chúa.
Maria lên đường đến thăm viếng phần vì –một cách rất tự nhiên- muốn thông dự vào biến cố vĩ đại và rồi bày tỏ tâm tình của mình, nhưng cũng vì muốn giúp đỡ và cuối cùng là đón nhận một dấu hiệu Thiên Chúa đã chỉ: như vậy, Mẹ đã đi sâu vào chương trình vĩ đại của Thiên Chúa.
Đằng sau tất cả những cái đó, người ta khám phá ra được sáng kiến, quyết định cá nhân của Mẹ. Một lời nói của Thiên Thần và sự thúc đẩy của ơn thánh đã đủ. Mẹ hiểu và Mẹ hành động. Tin mừng nói thêm là Mẹ vội vã. Ưng thuận thánh Ý Chúa, vâng lời tiếng mời gọi của Ngài thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lanh lẹ. Người nào đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa và được Thần Khí thúc đẩy, phải bước đi với tâm hồn hài lòng và tinh thần cởi mở, dầu trên con đường đầy khó khăn.
Việc Maria cất bước đâu phải việc tự nhiên. Một thiếu nữ trẻ tuổi tự ý làm một cuộc hành trình dài ba ngày đường, rồi ở lại cả mấy tháng trời xa nhà xa cửa, hẳn phải là cái gì gây kinh ngạc cho người Do thái thời đó- và có thể được coi là quá đáng. Nhưng Maria đã để kệ tất cả nhưng cái nhìn phàm trần đó một khi muốn thực thi Thánh Ý Chúa.
2. Lời nói
Đức Maria đến chào thăm Êlisabét trong căn nhà của Giacaria. Chúng ta không biết đó là lời chào bình thường hay cùng lúc đó truyền đạt sứ điệp thien thần đã cho biết liên quan đến biến cố kỳ diệu kia. Trong mọi trường hợp, lời nói của Đức Maria làm cho Êlisabét và con bà đang mang trong lòng một sự cảm động và nhiệt tình cả về tự nhiên lẫn thần hứng của Thánh Than. Chính vì đó mà khi đáp lại lời chào, bà Êlisabét đã thốt lên với vẻ cảm động sâu xa: Em có phúc hơn mọi người nữ, và hoa quả bởi lòng em thật đáng chúc phúc. Phần đầu của Kinh Kính mừng được Thiên thần Chúa phát biểu, phần sau đã được Êlisabét xướng lên, và do đó bởi lòng thán phục của loài người. Sau này Giáo Hội đã thêm vào phần thứ ba trong ý nghĩa và theo tinh thần của con người tội lỗi.
Kinh Kính mừng như vậy hoàn toàn có nguồn gốc Kinh Thánh và Giáo Hội, đã là một trong những lời kinh đẹp nhất, sâu xa nhất, nhờ nó mà Êlisabét và Cựu ước nôí kết với Đức Maria và Tân ước, tất cả kết thúc bằng lời Giáo Hội, trong đó hết thảy đều quy tụ về.
Hoa quả của lòng Đức Nữ Trinh đã làm nên đối tượng cho việc vinh chúc, chính vì thế ta hiểu được tại sao Đức Mẹ đáng được ca tụng giữa hàng phụ nữ. ….Việc làm Mẹ của Đức Maria là một bí nhiệm của vẻ lớn lao của Mẹ, đồng thời cũng nói lên sự bí mật trong việc sùng kính Đức Mẹ của tất cả những ai suy nghĩ và tin tưởng theo Kinh Thánh.
Và bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến với tôi?. Bà Êlisabét, dù đã cao niên, cũng nhận thức được và tuyên xưng sự nhỏ bé của mình, ngạc nhiên và sung sướng, ca tụng người em họ này Mẹ của Chúa tôi: bà biết trẻ nhỏ nằm trong lòng trinh nữ là ai, và trẻ này sẽ làm Chúa theo hai nghĩa của danh từ. Vì Ngài là Chúa của mọi người, nên cũng là Chúa của Bà và là Chúa là Vua của vị loan tin, của vị tiền hô mà Bà sắp sinh hạ.
Phúc cho em là kẻ đã tin: vì tất cả những gì Chúa đã phán với em, sẽ nên trọn. Đức Maria thật đã cao cả trong sự kiện, và nhiệm vụ làm Mẹ của Chúa; Mẹ còn cao cả xét về cá nhân Mẹ, vì lòng tin vào sức mạnh và quyền năng của Lời Thiên Chúa. Đức tin này hoàn toàn nghịch laị với sự cứng tin của loài người.
Ngay từ khởi đầu lịch sử ơn cứu độ, đức tin đã được biểu hiện như một sự chấp nhận tiêng nói đòi hỏi, ưng chịu, mời gọi, ban ơn sủng, sinh hạ và tạo thành. Ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, là công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên,con người phải đón nhận bằng sự sẵn sàng vì Thiên Chúa không thể bỏ qua sự cộng tác này. Hoạt động của Thiên Chúa đòi hỏi sự tham gia của con người. Sự tham gia, cộng tác này, chính là lòng tin biểu lộ ra bằng việc làm: đức tin song động, câu trả lời quả quyết của cả con người đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa.
Êlisabét ca tụng Đức Mẹ, đó là Israel ca tụng Giáo Hội. Đó là việc Cựu ước thừa nhận Tân ước và đó cũng là sự kính trọng của dân cũ của Thiên Chúa đối với dân mới của Ngài.
Toàn cảnh trên đây đã tạo nên nền tảng cho việc sùng kính Đức Mẹ, vì sự sùng kính này rút từ nguồn gốc của lời nói và trình thuật Kinh thánh, diễn tả hai vẻ lớn lao của Đức Mẹ: lớn lao nơi con người và nơi nhiệm vụ của Mẹ, đồng thời lớn lao về tư cách làm Mẹ của Mẹ và sự sẵn sàng nơi đức tin của Mẹ.
Lời ca tụng của bà Êlisabét nối tiếp lời ca ngợi của thiên thần. Cả hai đã được tiep tục qua môi miệng Giáo Hội và môi miệng của tất cả những người thấm thía lời văn cũng như tinh thần của Kinh Thánh và của Giáo Hội, đã không bao giờ để cạn khô lời tán tụng Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu.
KINH NGỢI KHEN (1, 46-56)
Việc loan báo cho Giacaria đã bị mất hút trong im lặng. Giacaria đã thành câm. Êlisabét sống trong âm thầm hoàn toàn, Vị Tẩy giả lớn sẽ vào sống nơi Sa mạc. Trái lại, việc truyền tin cho Đức Maria đã hoàn thành trong vui mừng khôn tả, niềm tươi dịu như màn sương, lan đi như tiếng chim sơn ca tràn ra từ tâm hồn đầy dư. Nguồn nước tinh thần đã vọt ra… Từ một tạo vật lặng lẽ, chỉ biết suy niệm, ít được Tin mừng nhắc tới, đã toả ra cách dồi dào một bài Thánh thi, một bài Thánh ca, một bài Thánh vịnh đầy hoan lạc:
Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.
Các nhà chú giải không đồng ý với nhau về các phần khác nhau của kinh Ngợi Khen. Tuy nhiên dựa vào nội dung của bài kinh, người ta có thể phân ra làm ba chu kỳ ý tưởng và ba phần tương hợp.
PHẦN THỨ NHẤT
Áp dụng vào chính Đức Mẹ. Thực ra thì cái nhìn đầu tiên của Đức Maria, không hướng về Ngài ngay đâu, mà là hướng lên Thiên Chúa và chính nơi một mình Thiên Chúa, Đấng vĩ đại nhất, mà Mẹ thấy được nguồn suối dạt dào, mà Mẹ được hân hạnh dự phần.
Linh hồn tôi chúc tụng Chúa. Tất cả mọi lời ca ngợi đều trao về Thiên Chúa. Người nữ tỳ của Chúa ca tụng Chúa mình và hình như Mẹ không thể tìm ra được những tiếng thích hợp. Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ đại, đáng được tôn vinh, ngợi khen Đấng Hùng Vĩ, là nhiệm vụ đầu tiên… Đối với người đạo đức, ngước mắt hướng lên Chua biểu hiện một cử chỉ thật hết sức tự nhiên, nó không đè nén mà là nâng cao. Đó là hơi thở của linh hồn. Nó vượt qua những thung lũng tối tăm, những căn lều ngột ngạt để tới những đám mây vĩnh cửu của Thiên Chúa bất biến.
Phụng vụ ưa dùng đại danh từ chúng tôi hơn là tôi. Nhưng Đức Maria giữ cái chỗ của mình trong khiêm hạ. Thiên thần vừa đến nói với Mẹ bằng những lời đầy mỹ miều. Vì thế chính trong thâm tâm Mẹ đã luôn không ngớt ca tụng hồng ân đặc biệt Chúa dành cho Mẹ. Tuyển sinh duy nhất trên đời này có lý do đặc biệt để khoe ân huệ của Đấng đã chọn mình.
Thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Linh hồn và tâm trí hợp nhất với nhau để tụng ca Thiên Chúa. Sự hân hoan của con tim là do bởi tiếng vang vọng của một tin vui. Thiên Chúa là Đấng Cứu độ. Tên của Hài nhi mà Mẹ thụ thai là Giêsu: vậy ra là Giavê là Đấng cứu độ.
Mệnh lệnh về ơn cứu độ đã được thông báo cho Đức Maria: Mẹ là người đầu tiên hân hoan đáp lại tiếng của Thiên Chúa xét như Đấng cứu độ. Mẹ mang Chúa Cứu Thế mà lại không nhảy mừng trước biến cố vĩ đại nhất của lịch sử ơn cưu độ này sao?
Phận nữ tỳ, Người đoái thương nhìn tới. Đức Maria không dám coi mình xứng đáng lôi kéo cái nhìn của Thiên Chúa. Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn ghé mắt tới Ngài, không phải với cặp mắt của vị thẩm phán, nhưng vơi cái nhìn đầy xót thương, ưu tuyển và âu yếm.
Dưới ánh sáng thần linh Thiên Chúa, con người nhận ra rõ ràng sự thấp kém và khổ sở của mình. Với con mắt của Chúa, tạo vật thực sự nhận thức về thân phận tôi tớ của mình. Đức Maria tuyên nhận tình trạng nữ tỳ của Mẹ. Trước nhan Chúa, thái độ đó lại mang một ý nghĩa lớn lao: nên đã biến đổi tình cảnh đó để từ nữ tỳ trở thành bà chủ.
Từ nay muôn đời sẽ gọi tôi là người diễm phúc. Tiếng từ nay là một khúc ngoặc trong đời sống của Đức Maria, mà từ trước tới bây giờ không được ai biết đến, ít ý nghĩa đến như ẩn dật: giờ đây dưới ánh sáng rạng ngời của Thiên Chúa bao phủ, Mẹ trở thành đối tượng cho mọi người thán phục và ca ngợi.
Tiếng từ nay cũng là một bước rẽ của lịch sử ơn cứu độ: sự dữ và nỗi thất vọng đã kết thúc vì Đấng Thánh Hoá, Đấng Cứu Độ đã đến, đến bởi Mẹ, Bà Mẹ Đồng Trinh. Vì thế tất cả những ai được nghe về Mẹ, đều đồng thanh tung hô Mẹ diễm phúc. Cái nhìn tiên tri về tương lai này là một sự nhận thức trước về sự tôn sùng Đức Mẹ và sự công chính hoá của Mẹ dựa vào lời chính Chúa linh ứng cho Mẹ. Lơi ca tụng của bà Êlisabét em có phúc vì đã tin chỉ như một câu mào đầu. Còn chính kinh ngợi khen mới thực sự là Thánh vịnh. Được Mẹ cất lên, bài ca này sẽ không bao giờ ngừng, nhưng còn vang vọng từ đời nọ tới đời kia, khi thời gian kết thúc, để rồi sang tới thế giới mà thời gian không có điểm dừng.
Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Đức Maria không biết tự hạ giả dối, Ngài cũng không cố chấp chối từ ơn Chúa. Mẹ cũng chẳng tự khoe như cánh hoa nhỏ với hàng dậu dài, cũng chẳng như một cô bé lọ lem nấp nơi xó bếp trong truyện cổ, Mẹ không rút vào bóng tối, thẹn thùng. Mẹ biết rằng tất cả những gì lớn lao nơi Mẹ chỉ do bởi ơn Chua. Sẽ vô ơn nếu không ý thức được điểm đó.
Bởi sức mạnh của ơn thánh, Đấng toàn năng đã thực hiện một phép lạ nơi lòng Mẹ, sự quyền năng này đã vượt thắng vẻ yếu hèn của nhân tính mà với sức riêng không thể thực hiện được ơn cứu sống cho mình. Và cũng chính sức mạnh đó đã thắng nổi Maria, cái nôi của ơn cứu độ.
Danh Ngài là Thánh. Cạnh sự quyền năng của Thiên Chúa, là sự Thánh Thiện đã trở thành hữu hình nơi Ngôi Con nhập thể. Đấng Thánh đã đi vào thế giới vô đạo, danh xưng bị tục hoá của Thiên Chúa, sẽ được đón nghe và trở thành hữu hình. Đấng không-thể-đến-gần đã gần đến.
Ngài đã đập phá rồi sẽ mở cái cửa vốn dĩ không vượt qua được của sự thánh thiện Ngài để con người tội lỗi được lôi kéo đến bằng lời mời gọi và bằng ơn sủng. Thế giới sẽ biến thành đền thánh; cái gì là phàm tục đã mất quyền hiện hữu. Như vậy trong phần thứ nhất, một phản đe Thiên Chúa và cái tôi, đòi sự tôn vinh Thiên Chúa, trong đó cái tôi đã tự mất đi.
PHẦN THỨ HAI
Đức Maria đi từ con người mình tới cả nhân loại. Mẹ biết Mẹ không thụ thai hài nhi cho mình, nhưng là cho tha nhân: tình thương Chúa trải qua bao thế hệ, dành cho ai biết kính sợ Ngài. Đó là đầu đề của phần thứ hai và dạy cho ta biết rằng từ nay ân sủng ban cho tất cả mọi người với điều kiện tiên quyết là có thái độ của người nữ tỳ Thiên Chúa như Đức Maria. Đó là kính sợ Thiên Chúa và sống trước nhan Ngài, Đấng đáng ngợi ca, với một thái độ thán phục.
Luật về ơn sủng biểu thị hiệu quả của nó. Cái gì thấy được nơi Đức Maria cũng có giá trị cho mọi nơi va mọi người. Luật đó được phát biểu như sau: Thiên Chúa ban ơn sủng Ngài cho những nơi nào người ta thấy rằng cần ơn của Ngài. Từ nay, nước Thiên Chúa sẽ là nguồn hân hoan cho ai ý thức sự khốn khó của mình. Điều đó được thể hiện trong ba lãnh vực: ân sủng đến với người khiêm hạ, chứ không phải kiêu ngạo; đến với người yếu thế chứ không phải đầy quyền thế; với người chẳng có gì, chứ không phải quá đầy đủ.
Cánh tay Chúa biểu dương uy lực, dẹp tan phường lòng trí tự kiêu. Kiêu ngạo đích thị là kẻ thù của Thiên Chúa. Nâng mình lên quá cái mình có là đưa mình tới chỗ thấp hèn của mình. Siêu nhân sẽ trở thành hèn nhân. Sức mạnh của Thiên Chúa hẳn đa vượt thắng được những chương trình vô đạo, phát sinh từ lòng trí tự kiêu của những con người nuôi ảo vọng có thể tự cứu rỗi bằng sức riêng của mình. Thiên Chúa sẽ làm tán loạn những ghép nối này và làm cho họ chống lại nhau.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao những kẻ khiêm nhu. Hài nhi của người đầy tớ Thiên Chúa đây sẽ lên ngôi Đavít, và những người đang ngồi trên ngai này sẽ lật nhào. Những người chỉ vì danh lợi bạc tiền mà ngồi trên ngai cao, coi mình là quyền năng, hẳn sẽ phải rơi xuống cái thân phận nhỏ bé và dòn mỏng của mình. Những người tự coi mình là vĩ đại đâu thoát được những giờ phút đen tối khi mà cái chết đến đón họ.
Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giầu có lại đuổi về tay trắng. Sự đói khát Thiên Chúa sẽ thiêu đốt những tâm hồn nhận biết mình chỉ là hư vô, và cảm thấy chẳng có vật thụ tạo nào có thể thoả mãn khoảng không gian trống vắng của con tim cả. Khi đó Thiên Chúa sẽ đổ đầy và đổ cho tràn trề. Nhưng với người đã no say, đầy dẫy chính mình hay đầy dẫy những sự đời này thì làm sao có chỗ cho ơn chúa đến nữa. Để ơn Chúa hiện diện và tràn đầy, thì con người phải biết cởi mở tâm hồn hướng tới những gì cao thượng. Người đầy ảo vọng, đầy vui khoái, đầy của cải, thực sự họ trống vắng Thiên Chúa. Trái lại, kẻ nào đau đớn vì nỗi trống vắng Thiên Chua của hồn mình là đã sẵn sàng để Chúa đổ tràn: sự sắp sẵn của tâm hồn là điều kiện tiên quyết đối với tác động của Thiên Chúa.
PHẦN THỨ BA
Sau khi ngước lên Thiên Chúa và nhìn sang nhân loại, Đức Maria đưa mắt về dan tộc mình, dân Israel. Vì những gì xẩy ra nơi Mẹ thì trong một nghĩa rộng rãi cũng áp dụng được cho tất cả. Và một cách đặc biệt cho dân Israel, từ nay được nâng lên khỏi chính mình để trở thành Israel tinh thần của một dan mới của Thiên Chúa, của Giáo Hội.
Chúa độ trì Israel tôi tớ: Israel là tôi tớ Giavê; nhưng giờ đây, nhờ Hài nhi Đức Maria cưu mang, mối liên hệ chủ tớ đã được thay thế bằng tình nghĩa ruột thịt. Gia nhân, nhờ Người Con, đã trở thành chính người con. Dân được chọn từ nay mang một ý nghĩa mới. Bây giờ Israel nhất định được lựa chọn, được lựa chọn cách đặc biệt vào trong gia đình của chính Thiên Chúa.
Người nhớ lại tình thương của Người. Thiên Chúa nghĩ đến Israel. Ngài không quên dân Ngài. Vì bản tính của Ngài là trung tín và yêu thương. Sự chọn lựa tuỳ thuộc vào lượng từ bi của Thiên Chúa, chứ không vì công nghiệp của tạo vật. Người ta không được chọn lựa. Ân huệ của Thiên Chúa chiếm ưu thế nơi tác vi của con người.
“Như hứa cùng cha ông từ bao thuở, cho tổ phụ Abraham và con cháu tới muôn đời” Thiên Chúa đã phán thì Ngài giữ lời hứa cả khi Israel đã đơn phương phá vỡ Giao ước. Lời hứa đã phán với cha ông và đã làm trọn nơi con cái. Abraham là cha của tất cả những người tin. Giờ đây tất cả những tín hữu đều thuộc về một dòng dõi có Chúa là Cha đích thực. Abraham, đã son sẻ lâu, rồi mới có được đoàn hậu duệ đông như cát bãi biển và như sao trên trời. Nhưng ở đây nói tới một miêu duệ đặc biệt, một người con nào đó của Abraham và người con đó tồn tại mãi mãi. Như vậy, khi kết thúc, bài Kinh Ngợi-Khen đã ám chỉ tới Đấng Messia như là điểm cuối của Israel: Ngài là sự hoàn tất của Cựu ước và của tất cả các lời hứa, là sự cao cả của Đức Maria, của nhân loại và của dân Israel thực sự. Sự cao cả đó đáng được ca tụng với cả tâm tình: Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa.
Cả đoạn Kinh Thánh này là một điệu nhạc êm đềm về hạnh phúc của Maria. Không ở đâu chúng 15/8-123
Cả đoạn Kinh Thánh này là một điệu nhạc êm đềm về hạnh phúc của Maria. Không ở đâu chúng ta có thể thấy rõ sự mâu thuẫn của hạnh phúc cho bằng trong cuộc đời của Maria. Maria đã được diễm phúc làm mẹ phần xác Con Chúa. Nhận một đặc ân vĩ đại dường ấy, hẳn lòng mẹ chứa chan niềm vui sâu xa và đầy ngạc nhiên kỳ thú. Nhưng cũng chính hạnh phúc đó sẽ là lưỡi gươm sắc thâu qua lòng mẹ. Điều này có nghĩa là một ngày kia mẹ sẽ nhìn thấy con mẹ treo thân trên cây thập giá.
Việc được Chúa lựa chọn thường có nghĩa là cùng một lúc có cả mau nhiệm vinh hiển lẫn thập giá khổ đau. Thực ra Thiên Chúa không chọn lựa một người đó hưởng an nhàn, sung sướng và vui chơi ích kỷ, nhưng để con người đó hoàn thành một nhiệm vụ lớn lao với tất cả con tim, khối óc và tay chân của mình.
Thiên Chúa lựa chọn con người để sử dụng người đó cho công việc của Ngài. Khi Jeanne dAre biết thì giờ của mình chẳng còn bao lâu, bà cầu nguyện rằng: “Con chỉ còn sống một năm nữa thôi, xin Chúa hãy dùng con tận lực”. Khi nhận ra điều này thì những buồn rầu, đau khổ bởi phục vụ Chúa không còn là cớ để than khóc, nhưng đó là vinh hiển của chúng ta, vì chúng ta đã làm mọi sự và chịu mọi sự vì Chúa.
Khi Richard Cameron sa vao tay quân giặc, chúng liền giết chàng, chàng có hai bàn tay rất đẹp, chúng cắt đôi bàn tay gửi cho cha chàng và hỏi ông có nhận ra hai tay đó chăng. Ông trả lời: “Đó là tay của con tôi, con yêu quí của tôi, ý Chúa là tốt lành, Ngài không bao giờ lừa dối tôi”. Những nước mắt của cuộc đời được chiếu long lanh bởi cảm biết chính sự đó cũng nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Một thánh nhân Tây Ban Nha đã cầu nguyện cho dân tộc mình: “Cầu xin Chúa chối từ bình an để ban cho anh em vinh hiển”. Một nhà truyền giáo đã nói: “Chúa Giêsu đến không phải để tạo an nhàn cho cuộc sống, nhưng để làm cho con người trở thành vĩ đại”.
Đó chính là mâu thuẫn của phúc lộc, vì nó đem đến đồng thời cả hai điều: sự vui mừng lớn nhất thế gian cùng với trách nhiệm lớn nhất trên đời.
Bài Ca Kỳ Diệu: 1,46-56
Ở đây chúng ta có một đoạn Kinh Thánh đã trở thành một trong những bài ca lớn nhất của Hội Thánh, Bài Ca Ngợi Khen (The Magnificat). Ý tưởng của đoạn Kinh Thánh này tràn ngập trong Cựu Ước, nó rất giống bài ca ngợi của bà Anna trong Samuen 2, 1-10. Có người bảo tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng, những Stanley Jones đã nói: “bài ca ngợi khen này là cuộc cách mạng lớn nhất trong thế giới”.Nó đề cập đến ba phương diện trong cuộc cách mạng của Thiên Chúa;
1. “Dẹp tan phường trí kiêu căng”. Đây là cuộc cách mạng luân lý. Kitô giáo phá tan tính kiêu ngạo. Tại sao? Vì nếu ai sống theo gương Chúa Giêsu thì trút bỏ được những vết tích sau cùng của tính kiêu ngạo. Đôi khi có một sự gì xảy ra, ánh sáng phơi bày, khiến chúng ta phải hổ thẹn. O.Henry đã viết một truyện ngắn như sau: có một chàng trai đã lớn lên trong làng quê. Ở trường làng, chàng ngồi cạnh một cô gái và cả hai đều mến nhau. Về sau chàng ra tỉnh, rồi sa vào đường tội lỗi. Chàng trở thành một tay trộm cắp có tài. Một hôm chôm được cái ví tay của một bà lão, chàng tỏ ra khoái trá về tài nghệ của mình. Nhưng khi chàng trông thấy cô gái quen biết ngày xưa đang từ đầu phố đi đến, vóc dáng dịu dàng, rạng rỡ và ngây thơ, tức khắc chàng thấy rõ mình là một kẻ tội phạm hèn hạ xấu xa. Vì quá xấu hổ chàng chúi đầu vào một cây cột đèn lạnh giá và kêu lên: “Lạy Chúa, xin cho con chết”. Anh ta đã thấy chính mình. Chúa Giêsu có quyền năng khiến con người nhìn thấy chính mình. Đó là một đòn chí tử cho tính kiêu ngạo. Cuộc cách mạng luân lý bắt đầu.
2. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Đó là cuộc cách mạng xã hội, kitô giáo hạ những tước vị oai quyền hống hách xuống. Ông Muretus là một học giả lang thang của thời trung cổ. Ông sống cuộc đời nghèo khó tại một thành phố của nước Ý. Ông bị bệnh và được đưa đến một bệnh viện dành cho ke bụi đời. Các bác sĩ bàn luận với nhau bằng tiếng Latinh về bệnh trạng của ông, yên trí rằng ông không thể hiểu được. Họ bàn với nhau vì tên này là một đứa lang thang vô giá trị, nên có thể dùng làm vật thí nghiệm. Muretus nhình thẳng vào họ và trả lời bằng tiếng Latinh rằng: “Đừng coi là vô giá trị một người mà Chúa Cứu Thế đã chết thay cho”. Khi chúng ta nhận thức được Chúa Cứu Thế đã chết cho mọi người thì không thể coi ai là tầm thường được nữa. Các giai cấp trong xã hội không còn nữa.
3. “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”. Đây là cuộc cách mạng kinh tế. Một xã hội ngoài Kitô giáo là xã hội chiếm đoạt, ở đó mỗi người gắng sức thu góp cho mình càng nhiều trong khi kẻ khác quá ít, ở đây tất cả mọi người đều nhận với mục đích để ban phát.
Trong Bài Ca Ngợi Khen này có sự dịu dàng đáng yêu nhưng trong đó cũng có năng lực mạnh mẽ. Kitô giáo khiến nảy sinh cuộc cách mạng trong lòng người và cách mạng trong thế giới.
Đây là phương diện thứ tư và quan trọng nhất trong cuộc cách mạng của Thiên Chúa: cuộc cách mạng tâm linh. Ngài đã ban ân sủng đặc biệt cho trinh nữ Maria. Cô thiếu nữ trẻ trung, đơn sơ, khiêm nhường của Nazaret hai ngàn năm trước đã nhận được sự thăm viếng kỳ diệu của Chúa. Hồng ân tuyệt diệu đó đã tác động, biến đổi, khiến nàng có thể dâng bài ca chúc tụng Chúa Hằng Hữu. “Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (c.47) cho thấy nhận thức quan trọng của Maria: cô là một tội nhân như bao nhiêu người khác, đã làm cuộc cách mạng tâm linh, là nguồn động lực lớn lao giúp cô sáng tác Bài Ngợi Khen tuyệt tác và bất hủ này.
Vừa tường thuật xong biến “cố truyền tin”, trong đó Luca đã giới thiệu Đức Maria như người tín 15/8-124
Vừa tường thuật xong biến “cố truyền tin”, trong đó Luca đã giới thiệu Đức Maria như người tín hữu đầu tiên, người đáp lại lời Thiên Chúa cách tích cực, thì Luca lúc này trình bày Đức Maria chỗi dậy lên đường, hình ảnh Hội Thánh đem Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô đến cho muôn dân.
"Này đây, sứ thần của Thiên Chúa kết thúc câu truyện, bà Elisabét, người chị bà con với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai, bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiến hoi. Để đáp lại dấu hiệu mà thiên sứ đã cho, Maria lên đường mau mắn tiến lên một thành miền núi. Cũng như sau này những người chăn chiên Betlem đáp lại dấu hiệu mà các thiên sử cho, củng vội vã đi xem sự gì đã xảy ra. Theo cách nói rất gợi hình của L.Legrand, chúng ta tiến từ người "tín hữu” đón nhận lời Chúa đến người "tôi tớ" hành động, hay đúng hơn lời Chúa hành động qua người ("L'annonce à Maire", Cerf 1981, Lectio divina số 106, trang 222).
Trong Đức Maria, Lời Chúa đã khởi sự lên đường và cuộc hành trình sẽ đưa Người đến cùng trái đất. Tại sao Maria đến nhà chị họ của bà? Phải chăng là vì bác ái: để giúp đỡ bà Elisabet chăng" Luca không làm thoả mãn tính tò mò của chúng ta; điều mà ông quan tâm không phải là cất truyện hay bài dạy luân lý, nhưng đạo lý mạc khải được chuyển tải nhân dịp cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ tương lai này. Về điểm này L.Legrand nói rất chí lý: "Nếu đọc đoạn văn theo mặt chữ, ta hầu như có cảm tưởng rằng Đức Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của bà Ehsabet và để hát bài ca Magnificat" (sđd trang 219).
2. Một khung cảnh mạc khải mới
Bước vào nhà ông Giacari, Đức Maria chuyển đến bà chị họ lời chào mà bà đã nhận từ thiên sứ. Và lời chào của Maria khởi động quá trình hoạt động. Khi lời chào vang đến lỗ tai bà Ehsabet, trước cả khi bà này mở miệng, thì con trẻ bà mang trong bụng nhảy mừng, một cuộc nhảy mừng mà bản dịch ra (ngôn ngữ của ta đã làm giảm bớt sắc nét, bởi vì bản Hy Lạp nguyên ngữ có nghĩ "nhảy dựng lên" "múa nhảy" "nhảy cao").
Được đầy Thánh Thần trước khi smh ra. Như thiên sứ đã báo tin cho ông Giacari (1,15), Gioan thấy bừng lên thời đại mới, đã hành động trước thời gian sứ mạng của ông, ông nói tiên tri, nói không phải bằng lời, mà bằng việt nhảy mừng, tiên báo Đấng mà người ta vào thời kỳ cuối trông đợi giờ đây đã xuất hiện. Đầy Chúa Thánh Thần, bà Elisabet hiểu ra ý nghĩa của cú nhảy mừng của con bà trong bụng bà và cuộc gặp gỡ mà bà đang diễm phúc được sống. Bà đã kinh ngạc kêu lên, trong khi nhìn nhận rằng Maria và "quả của lòng bà" là đối tượng của phúc lành Thiên Chúa. Sau đó bằng lời tuyên xưng đức tin, bà tuyên bố rằng con của người em họ mình, chính là Đấng mà thánh vịnh 109 loan báo: là Kitô Đức Chúa; và chào Đức Maria với danh hiệu "Mẹ của Chúa tôi". Sau cùng, sau khi chào mừng "người mẹ", bà tung hô "người tin" bằng công thức chúc phúc: "Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em".
Đây là mối phúc đầu tiên của Phúc âm mà Luca nối kết với một danh hiệu mà ông coi như một tên khác của Maria: "Kẻ đã tin" (Cahier Evangile, số 77, trang 45).
3. Tạ ơn về những việc kỳ diệu
Bài ca "Magnificat" bài suy gẫm đầy hưng phấn của Đức Maria về tất cả những gì đã thực hiện trong Mẹ, thực ra đánh đấu một sự gián đoạn hành động trong chốc lát, giống như khi một ca khúc trữ tình trong một vở kịch opéra, hoặc như khi ca đoàn xen vào trong một vở bi kịch cổ điển, để làm nổi bật ý nghĩa của điều mới xảy ra. Đã từ lâu người ta đã nhận xét rằng: phải chi nhảy từ câu 45 sang 56 thì tư tưởng có sự liên tục hơn. Có lẽ ca khúc này có nguồn gốc độc lập với trình thuật, và chỉ được chêm xen vào sau này. Đặt ca khúc này vào miệng Đức Maria, Luca muốn tỏ bày hình ảnh Đức Maria mà ông mang trong trí óc ông ("Cahiers Evangile" số 77, trang 45).
Câu 46 và 47 chỉ huy toàn bộ bài thơ: đó là một ca khúc tạ ơn.
Nối liền sau là lý do của việc tạ ơn.
a. Trước hết là những sự kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm trong Mẹ: Thiên Chúa can thiệp để làm cho Người trở nên "Mẹ Thiên Chúa". Ở đây bản văn nêu lên sự đối nghịch giữa sự bé mọn của người tôi tớ và sự cao cả của Đấng Quyền năng, làm nên những việc kỳ diệu.
b. Rồi đến những sự kỳ diệu mà Thiên Chúa làm để tỏ lòng từ ái với những người nghèo khó. Ở đây, ca khúc chuyển cách êm nhẹ từ cá nhân (Đức Maria) sang tập thể (dân Israel sự nghèo khó của Maria (1,48) sang nhóm người nghèo khó (1,52), từ người tôi tớ (1,48) sang Israel tôi tớ (1,54) ("Cahiers vangile số 77, trang 47). Những việc kỳ diệu này là những việc nào? Đó là việc tạo dựng, đó là phép lạ xuất thành, đó là ban Lề luật mà nhất là tột đỉnh của các việc kỳ diệu, đó là việc kỳ diệu hoàn thành nơi Đức Maria, việc Con Thiên Chúa sinh ra, nơi Người mọi lời hứa đã được thực hiện. Đấng Messia, Con vua Đavit và Con Thiên Chúa đến, được chấp nhận bằng đức tin, không chỉ là một giáo thuyết; đó còn là một sức mạnh, có sức lay chuyển và đổi thay cả thế giới. Đức Maria xuất hiện ở đây như "phát ngôn viên" của cuộc đảo lộn tình thế, Mẹ giữ vai trò chính yếu của Tin Mừng (Cahiers Evangile số 77, trang 48).
***
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức Maria người tin đầu tiên, gương mẫu của Giáo Hội, mẹ các người tin (Hội đồng Giám mục Pháp trong cuốn "Catechisme pour adultes, 1991, trang 215-216).
Giữa kinh nguyện Thánh Thể I, "Trong sự hiệp thông của toàn thể Giáo Hội, chúng ta kính nhớ Đức Maria trọn đời đồng trinh. Thật vậy, Đức Maria là chi thể của Giáo Hội, tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái (LG 53). Vào cuối Công đồng vạt. II, Đức Phaolô VI đã tuyên bố Đức Maria là "Mẹ Giáo Hội", nghĩa là mẹ của các chủ chăn và mẹ các tín hữu. Giống như một người mẹ, Đức Maria có vai trò đặc biệt trong gia đình mà Mẹ là thành phần, vai trò đã được phác hoạ trong Tân ước. Ngay từ hồi sinh Đức Giêsu, Đức Maria đã được trình bày như người tin đầu tiên, tượng trưng Giáo Hội đang cầu nguyện, "để ghi nhớ mọi sự việc đó là suy gẫm trong lòng" (Lc 2,19). Khi Giáo Hội sinh ra vào buổi sáng lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem, Đức Maria cùng với các môn đệ, đã dùng lời cầu nguyện kẻo ơn Chúa Thánh Thần xuống trên dân Chúa (LG. 59). Bởi vậy, Đấng đã hiện diện trong mầu nhiệm Đức Kitô như người mẹ, thì theo ý muốn của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, cũng có mặt trong mầu nhiệm Giáo Hội. Và trong Giáo Hội, Mẹ vẫn tiếp tục hiện diện như người mẹ (Rm. 24). Bởi vậy, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ, Hội Thánh cũng được làm mẹ nhờ lời Thiên Chúa mà Hội Thánh trung thành lãnh nhận: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban phép Thánh tẩy, Hội Thánh sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt (l Ga. 64). Sau cùng, vào ngày lên trời, Đức Maria đã được cất nhắc lên toà vinh hiển trên trời: hình ảnh hoàn hảo của Hội thánh trong tương lai, bình minh của Hội Thánh khải hoàn, Người hướng dẫn và nâng đỡ niềm hy vọng của đoàn dân trên đường lữ thứ (xem kinh Tiền Tụng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời). "Ngay từ bây giờ, mẹ đã chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông và niềm an ủi cho Dân Chúa đang lữ hành" (LG. 68). Tôn kính Đức Maria: đó là gia nhập vào việc tôn sùng của dân Chúa (LG 66) đối với Đức Trinh nữ, đó là gia nhập phong trào lâu đời qua các thế hệ tung hô Mẹ là diễm phúc; đó là sùng bái tôn kính, ngợi khen Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Tất nhiên không phải là việc thờ phượng, vì thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa. Noi gương Đức Maria: là mở tâm hồn đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, là sống đức tin như Mẹ đã sống; là phục vụ như Mẹ đã phục vụ. Đức Maria là gương mẫu, là mẫu mực tuyệt hảo sống đời Kitô hữu. Về điều đó mọi Kitô hữu đều nhất trí. Cầu xin Đức Maria: là phó thác vào tình mẫu tử của Mẹ, kêu xin sự trợ giúp và nâng đỡ, là kêu cầu Mẹ bầu cử cho ta trước mặt Con Mẹ.
2. “Đức Maria, một phụ nữ tuyệt vời” (G. Boucher, trong cuốn "en tre ciel ét terre" bán tại nhà tác giả "Residence de Kérampir, 29820 BOHARS).
Trong quá trình cuộc phiêu lưu lạ đời của Mẹ, Đức Maria được gọi để đương đầu với mầu nhiệm. Một mầu nhiệm với tính cách vượt trội nhất của nó: đó là nhân tính của Thiên Chúa. Bị hoang mang vì ngôn ngừ trong biến cố truyền tin, Mẹ đã đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, vào ý định cứu rối của Người. Ngạc nhiên vì cách cư xử của Đức Giêsu lúc 12 tuổi, Mẹ đã suy gẫm sự việc này trong lòng để vâng theo kế hoạch của Thiên 'Chúa về Người. Mẹ lo âu muốn giữ con lại nhà lúc con vào tuổi trưởng thành đừng tiến tới để gặp gỡ lịch sử đời mình. Đau khổ trong lòng vì lời Con phán, nhìn nhận cả nhân loại là gia đình, Mẹ đã tin trong đau đớn. Dầm đề nước mắt Mẹ đã theo Con trên đường nhục nhằn, đánh đập, nhạo báng, khi Con bị án tử và bị dẫn đi đóng đinh. Con tim dập nát, và cả thân xác bầm dập, Mẹ đã chứng kiến, bất lực và đầy yêu mến, cái chết của kẻ tử tù, khi Con bị treo trên cây gỗ thập tự. Trung thành cho đến cùng, Mẹ đã ghi khắc lời trối trăn của Con bị đóng đinh. Mẹ đã lấy tình mẫu tử phục vụ các môn đệ và các tín hữu tiên khởi của Giáo Hội mới được khai sinh. Đức Thiên Chúa ngự tin đến ngay cả trong thân xác, Mẹ đã hoàn tất sứ mạng của mình một cách hoàn hảo.
Tràn ngập Thiên Chúa Mẹ được thông phần vinh quang của Người, cả xác lẫn hồn, trong lời ca tụng Magniflcat muôn thuở. "Mẹ Maria một người phụ nữ tuyệt vời".
1. Một cảnh tượng liên hệ chặt chẽ với biến cố truyền tin.
Sứ thần truyền tin rời khỏi Đức Maria sau khi cho Mẹ một dấu chỉ: "Kìa Êlisabét, người họ hàng 15/8-125
với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng…" Ngay lập tức Maria tội vã lên đường ", hình ảnh Hội Thánh đem Tin Mừng của Đức Giêsu-Kitô đến cho muôn dân, "đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda" Hugues Cousin ghi nhận: "Chủ đề lên đường xuất hiện lần đầu trong câu chuyện mà các nhân vật di chuyển rất nhiều; Lời Chúa bắt đầu cuộc hành trình của mình là cuối cùng, chẳng bao lâu đã được loan báo tới tận Rôma, tượng trưng nơi tận cùng của trái đất" (Cvtđ 18; 28,30-31) ("LEvangile de Luc", Ccnturion, trg 30).
Theo cha Lagrange, chúng ta không biết gì về cuộc hành trình kéo dài khoảng bốn ngày của Đức Maria. Mối quan tâm hàng đầu của thánh sử là quang cảnh khi Maria đến. Một quang cảnh trong đó Luca phối hợp hai chu kỳ mà từ đầu ngài đã khai triển cách biệt nhau: chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Đức Giêsu.
2. Nơi định mệnh bí ẩn của hai trẻ sắp sinh ra được mạc khải
Maria vừa nhận lời chào của sứ thần trong biến cố Truyền tin, giờ đây lại chuyển lời chào ấy cho chị họ của mình: "Bà vào nhà ông Giacaria bà chào bà Êlisabét ". Francois Bovon nhận xét: " Có rất nhiều lời chào hỏi trong những chương Tin Mừng này, vì có rất nhiều cuộc gặp gỡ và vì Thiên Chúa can thiệp và khai mở ơn cứu độ qua những tương quan nhân loại." ("L' Evangile selon Saint Luc 1-9 ", Labor et Fỉdcs, trg 86). Lời chào của Maria nối tiếp câu chuyện. Khi đôi tai bà nghe lời chào của Êlisabét, hài nhi trong lòng bà liền nhảy lên vui sướng; dịch như vậy vẫn chưa diễn đạt đúng ý của từ Hylạp có nghĩa: "nhảy lên ", "nhảy lên ", "nhảy múa".
Được đầy tràn Thánh Thần, ngay cả trước khi sinh ra, Gioan đã thấy rạng đông của thời kỳ mới ló dạng và, vì cảm thấy trước sứ vụ của mình, ông đã nói tiên tri, không phải bằng ngôn từ nhưng bằng sự nhảy mừng, rằng Đấng mọi người trông đợi sẽ đến vào thời thế mạt, nay đã hiện diện. Cũng theo F. Bovon: "Thiên Chúa không chỉ dùng lời nói mà còn cả ngôn ngữ của thân thể. "
Được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét hiểu được ý nghĩa sự nhảy mừng của đứa con còn trong bụng mẹ và ý nghĩa cuộc gặp gỡ bà đang sống.
+ Bằng tiếng kêu thán phục, bà nhìn nhận Maria và "hoa trái của lòng dạ mang " được Thiên Chúa chúc phúc.
+ Rồi, với danh nghĩa "Mẹ Thiên Chúa ", bà loan báo đứa con của em mình là Đấng Thánh vịnh 109,1 đã báo trước, chính là Kitô, Đức Chúa.
+ Sau cùng, dưởi hình thức mối phúc, bà ca tụng đức tin của Maria: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em. " Thánh Augustinô chú giải: “Maria đã mang thai trong tinh phần trước khi mang thai trong thân xác.”
2. Và nơi Bài ca của Đức Maria, ý nghiã của biến cố được sáng tỏ:
Như bức tranh ghép bằng những bản văn Cựu ước, Bài ca Đức Maria cất lên đóng vai trò gần giống vai trò của một điệu nhạc trong vở ôpêra; nhờ tạm ngừng vở diễn, nó làm sáng tỏ ý nghĩa của biến cố.
Bài ca này được khai triển thành ba đoạn thơ:
- Mở đầu, Bài ca diễn tả lý do Đức Maria ca tụng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều kỳ diệu: Danh Người thật chí Thánh".
- Kế đó là minh họa về sự đảo ngược tình thế và giá trị, đánh dấu sự biến chuyển từ thế giới hiện tại sang thế giới mới "Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. v.v. ".
Để kết luận, Đức Maria công bố rằng sự can thiệp ban ơn cứu độ này là khởi đầu việc hoàn tất lời đã hứa cùng các tổ phụ, dành cho con cháu của Abraham.
Nhưng qua Bài ca của Đức Trinh nữ Maria, chính cộng đoàn Kitô hữu là Hội Thánh cử hành mầu nhiệm của riêng mình; Hội Thánh thấu hiểu, chiêm niệm và ca tụng kinh nghiệm về về ơn cứu độ của Chính mình. L. Monloubou giải thích: "Đức Maria xuất hiện như ca viên lý tưởng của một thánh vịnh mà cộng đoàn Kitô hữu thấu hiểu cách sâu hơn và qua đó, nhận thức rõ ràng hơn ý nghĩa cuộc sống của chính cộng đoàn, khi vừa hát lên thánh vịnh nó vừa nhớ đến Mẹ của Đức Giêsu. Khi ấy, được soi sáng với những lời Đức Maria, Hội Thánh nhìn ngắm đời sống của chính mình; Hội Thánh thấu hiểu hơn nghĩa của cuộc sống ấy. Hội Thánh học để nhận biết rõ ràng hơn chính trong Hội Thánh Thiên Chúa "làm những việc diệu kỳ"; Được Đức Maria dẫn dắt, Hội Thánh dấn thân trên con đường ca ngợi, để chính Hội Thánh nói lên. "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ..Danh người là thánh!" (L'Evangilc đe Luc ", Salvator, trg 70)
***
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức khiêm nhường của Đức Maria.
(G. Bouchcr, trong "Leciel sur terrc", trg. 54)
"Hôm đó đã diễn ra một cuộc gặp gỡ đơn giản, bình thường giữa hai con người. Lịch sử không có một ghi nhận nào. Hai người phụ rlữ, hai người mẹ tương lai. Hai người đàn bà hạnh phúc được cưu mang đứa con trong lòng mình. Những đứa con họ không hy vọng có được...”
Đức Maria là trung tâm của câu chuyện. Người chị họ Êlisabét vui mừng đón tiếp em mình. Bà chào Maria, chúc phúc cho Mẹ theo truyền thống dân tộc. Bà công bố Mẹ và đứa con trong lòng được Thiên Chúa chúc phúc.
Chẳng mấy chốc, câu chuyện trao đổi hưởng tới cầu nguyện. Thiên Chúa là trung tâm của lời cầu nguyện ấy. Cuộc nói chuyện của cả hai biến thành lời ca ngợi Thiên Chúa cứu độ.
2. Lời Maria thốt lên là những lời tạ ơn.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng kỳ diệu vượt xa hẳn những điều kỳ diệu trên thế giới này. Chúa đã thực hiện điều lạ lùng nơi tôi, một thiếu nữ yếu đuối. Lạy Chúa, toàn năng và là Đức Chúa, Ngài đã kêu gọi nữ tỳ của Ngài dù tôi chỉ là một thiếu nữ, chỉ là một phụ nữ.
Cuộc trao đổi lời chào giữa Maria và Êlisabét diễn tả một cuộc trao đổi khác giữa Thiên Chúa và một phụ nữ, thay mặt cho nhân loại. Maria nhìn thấy vinh quang và thánh thiện của Thiên Chúa tỏ lộ trong giao ước lạ thường này.
Cũng trong chiều hướng ấy, lời cầu nguyện của Maria là lời ca ngợi những ai nhận biết và sẽ nhận biết sự can thiệp quá đỗi lạ lùng, rất khó tin của Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện của Mẹ vừa dựa trên những nhận định đầy khôn ngoan về Thiên Chúa, vừa dựa trên những Iý luận về bản tính hay hành động của người. Nhờ đó, tâm hồn Mẹ luôn sẵn sàng vâng theo ý Chúa . Lời cầu nguyện của Mẹ nối kết với Thiên Chúa trên những con đường đầy bất ngờ, trong sự khiêm tốn nhận biết rằng chúng ta hành động là do Thiên Chúa thúc đẩy.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ khiêm tốn loan báo những việc kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ bởi vì những việc ấy không những là các dấu chỉ về hoạt động của Người mà còn nói lên vẻ huy hoàng và sự thánh thiện của Người nữa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã không hủy diệt gì khi loan báo sự hiện hữu của Thiên Chúa làm người và Đấng vĩnh cửu đi vào lịch sử nhân loại.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ chính là nét đơn sơ trong tâm hồn khi Mẹ đón nhận chương trình của Thiên Chúa về Mẹ và về nhân loại một lần cho mãi mãi, dù về phương diện nhân loại, chương trình ấy khó có thể tưởng tượng nổi.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã giúp Mẹ có mặt ngay trung tâm ơn cứu độ nhân loại do Thiên Chúa thực hiện và giúp Mẹ nhất tin với lời hứa của Thiên Chúa từ ngàn xưa khi đồng ý trao ban một thân hình cho con Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ mở cửa cho sự thần hóa lạ lùng chưa từng có: Mẹ lên trời ngự bên Thiên Chúa.
3. Hình ảnh cuộc biến đổi của chúng ta.
(F. Deleclos, prends ét mang la Parole", Centurion-ducolot, trg 269-270)
Sự sùng kính Đức Maria đích thực không hệ tại việc gia tăng và triển khai những lời ca ngợi và ngưỡng mộ đối với những đặc ân Mẹ đã lãnh nhận, nhưng là học ở Mẹ để trở nên và để là một người tin. Có thể nói thêm được rằng chúng ta chỉ có thể đề cập đến Đức Maria trong đức tin, "nghĩa là qua Me, chúng ta tìm kiếm chính Thiên Chúa, hoặc nói rõ hơn chính Đức Giêsu con Mẹ ". Chính Grignon de Monfort, một người rất nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Maria viết rằng: "Nếu chúng ta gọi tên Maria, tiếng vọng trả lời sẽ là Giêsu".
Maria đã học trong cùng một ngôi trường khắc nghiệt như con mình. Nhiều trang Tin Mừng cho chúng ta thấy những đổ vỡ Mẹ gánh chịu để theo bước con mình trong đức tin. Maria đã sống đức tin cách sâu xa. Chính Êlisabét đã đề cao điều ấy một cách tuyệt diệu khi chúc mừng Mẹ: "Phúc cho em vì đã tin ..."
Đức cha Garron tự hỏi, Hội Thánh, Công đồng Vaticanô II và Phụng vụ đều đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thúc đẩy chúng ta tô vẽ thái quá cho Đức Maria khi gán cho Mẹ những vinh quang kỳ diệu. Với thái độ như vậy chúng ta sẽ tiên tri tận đâu đây".
Lộ trình thiêng liêng của Đức Marià có thể là lộ trình của chúng ta. Tiến bước theo Mẹ, chúng ta đến gần Đức Giêsu. Mặc lấy cái nhìn đức tin của Mẹ , chúng la học theo Mẹ để nhìn ngắm Đức Giêsu như chính Mẹ đã chiêm niệm và từ từ khám phá. Như Mẹ, chúng ta có thể tiến triển qua niềm vui và nỗi khổ, phát hiện và ngạc nhiên, và thường ngay cả nỗi đau khổ và sự không hiểu, như trường hợp Đức Maria và thánh Giuse ở đền thờ (Lc 2,50). Đức cha Garron giải thích, cái nhìn của Maria về con mình rất tương hợp với những giai đoạn kế tiếp nhau của sự "lớn lên" mà thánh Luca đã nói rõ: Maria đã thấy Đức Giêsu "ngày càng lớn lên, thêm những mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ơn nghĩa cùng Chúa ... " (Lc 2,52). Do đó, chúng ta sẽ tôn trọng chân lý của mọi sự và tư tưởng của chính Đức Maria khi cùng với Mẹ làm lại cuộc hành trình mà trưởc kia Mẹ đã không ngừng rảo bước. Chính trong viễn ảnh này, chúng ta có thể đặt biến cố Mông Triệu như một kết luận. Biến cố ấy nói cho chúng ta biết cuộc phiêu lưu của đức tin sẽ kết thúc thế nào. Đức Maria, Hòm Bia của giao ước mới, bước vào vinh quang của Chúa Cha. Đức Trinh Nữ được Thiên Chúa cho hưởng phúc vinh quang, chính là hình ảnh cho tương lai của chúng ta. Bài đọc thứ nhất so sánh Maria với Hòm Bia đích thực, nghĩa là nơi Thiên Chúa ngự, là lều tạm nơi để Lời Chúa và Bánh Thánh. Biến cố Mông Triệu giống như sự đảo ngược tình thế.
Giờ đây, chính Đức Maria được đón tiếp trong Thiên Chúa. Từ nay Mẹ ở trong Người. Chúng ta không còn ở phạm vi ưu đãi, nhưng bước sang phạm vi ơn gọi chung, vì đạt đến Đất Hứa sau cuộc phiêu lưu trên sa mạc là lời Thiên Chúa hứa cho mỗi người trong chúng ta.
Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao 15/8-126
Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao liên giữa chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Chúa Giêsu. Việc gặp gỡ của hai phụ nữ mang thai cho phép liên kết hai em bé sắp sinh ra. Trong bố cục của Luca, thực ra vị tiên hô bị tống giam trước khi Chúa Giêsu Kitô đến nhận phép rửa (3,20-21).
Đề tài của cuộc hành trình xuất hiện lần đầu tiên trong một tác phẩm mà các nhân vật di chuyển nhiều: Lời bắt đầu lên đường và cuộc hành trình (mau lẹ) sẽ dẫn Lời đến tận La Mã, tượng trưng cho ranh giới cuối cùng của miền đất có người ở (Cv 1,8; 28,30-31). Việc ngự đến của thần khí tiên tri trên bà Elizabeth chắc chắn muốn nói rằng Thiên Chúa đang hành động; nhưng sự can thiệp thần linh này cần sự thông hiệp và suy tư của những con người; ở đây cũng như ở Cv 10 với cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Conêliô, Lời chính là sự gặp gỡ của các nhân vật.
Thực vậy, vai trò của các nhân vật không hoàn toàn thụ động. Khi đa nhận lời thiên sứ chào, Đức Maria liền chuyển giao lời ấy; và điều đó mở đầu cho tiến trình. Khi lời chào vang đến tai bà Elizabeth, con trẻ sắp sinh nhảy mừng trong dạ mẹ. Em được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng. Được đầy thần khí tiên tri, lúc ấy Elizabeth hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc vừa xảy ra trong lòng dạ bà; bà không chỉ bằng lòng nhận ra rằng Đức Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Elizabeth nói bằng chính môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36).
Như vậy tiếng kêu lớn của bà Elizabeth như vậy trước hết có ý nghĩa Kitô học: điều được nói về mẹ lại đến trước sự cao cả của Người Con. Nếu Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế thì thật sự Ngài được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. Tự nó, việc thụ thai đồng trinh đề cao Người Con chứ không phải người mẹ – như “Tin Mừng thời thơ ấu” của Mt 1-2 đã cho thấy. Tuy nhiên, Luca cũng lưu ý đến nhân vật Maria, và qua việc đó ông cho thấy một điều mới mẻ. Lời chúc phúc liên quan tới lòng tin của Đức Maria tự căn bản khác với cô thiếu nữ trong sách tiên tri Giacaria (c. 45) và những câu 42-45 cho phép Luca quy tụ trong Đức Maria hai cái phúc, phúc vì được làm mẹ và phúc vì có lòng tin mà ông tách rời ra trong đoạn 11,27-28. Khi tin rằng các lời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện, Đức Maria trở thành mẹ; rõ ràng đức tin của người là thiết yếu để cho những lời ấy được thực hiện. Người là mẫu mực cho những ai nghe lời, là gương mẫu cho tín hữu, là Kitô hữu đầu tiên. Người ta cũng không coi thường việc Luca căn cứ vào lời cầu nguyện và suy tư sau này của Giáo Hội về người trinh nữ thành Nagiaret. Diễn ngữ Mẹ của Chúa chắc chắn cũng là dùng để tôn vinh Đức Maria: théotokos, mẹ của Thiên Chúa, cũng như lời nguyện cầu sẽ làm thành phần thứ hai của kinh “kính mừng”.
Lúc ấy, Đức Maria xướng lên bai thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Lc 1-2. Đó là một bức tranh ghép toàn bằng những trích dẫn Cựu ước, theo bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi. Như thánh ca của Anna (Sm 2,1-10) được Luca đường như khuôn mẫu, thánh ca ngợi khen này có một điểm nối kết với mạch văn, chỉ có câu 48 nối liền với trình thuật trước đó khi gợi lại một cách kín đáo việc truyền tin. Tuy nhiên, kinh Ngợi khen này có ý nghĩa của nó chính nhờ việc Luca đặt nó vào chỗ này. Vai trò của bản thánh ca này làm ta nghĩ đến vai trò của các giai điệu trong một bản nhạc kịch: cử điệu tạm thời bị ngưng lại và tiếng hát lời ca biểu lộ tâm lý của nhân vật trong cảnh hoặc ý nghĩa của biến cố.
Như bà Anna, người đã thụ thai một cách lạ lùng, Đức Maria bắt đầu bằng việc diễn tả điều Ngài cảm thấy (c. 46-47). Sau đó, tới lý do lời ngợi khen: bởi vì, lúc truyền tin, Người đã nhìn đến sự thấp hèn của nữ tỳ nữ Người và bởi vì, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu; lý do này bị gián đoạn giữa chừng bởi cái phúc của người tì nữ (c. 48b). So sánh bới St 30,13 thấy rằng: mọi thế hệ sẽ khen Đức Maria có phúc vì người con mà Ngài đang mang trong dạ chứ không phải do một công nghiệp cá nhân nào. Nhưng đồng thời, dường như Luca đã muốn bày tỏ qua điều diễm phúc này một thái độ tự nhiên của Kitô hữu đối với người mẹ đầy niềm tin của Chúa. Dù thế nao đi nữa, đối với nền tảng này của các suy tư sau đó về Đức Maria, điều đáng chú ý là từ câu này trở đi Thiên Chúa là chủ từ mọi động từ, trừ hai câu trong ngoặc này: Người chỉ được diễn tả là Đấng quyền năng, thánh thiện và nhân từ (c. 48-50).
Những câu 51-53 làm thành phần thứ hai cho thấy cảnh đổi lộn các tình huống và giá trị làm nổi bật bước chuyển từ thế giới này sang thế giới mới. Sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, được bắt đầu với việc thụ thai con người, là Đấng Mêsia, sẽ ưu tiên xét xử công bình cho người thấp hèn, kẻ bị chà đạp. Đó là một suy tư mà Luca ưa thích và ông sẽ khai triển dài hơn khi trình bày các mối phúc và những nỗi bat hạnh (Lc 6,20-26) để giải thích luận đề này. Chúng ta hãy chỉ ghi nhận rằng bố cục của Luca đã đặt trên môi miệng Đức Maria một ngôn ngữ sẽ làm nổi bật tính cách hiển thị của Vương Quốc trong lời rao giảng của Đức Giêsu.
Trong phần kết, sự can thiệp có tính cách cứu độ bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, cho con cháu của Abraham (cc. 54-55). Luca cẩn thận không nói trước đến đề tài lương dân vào đạo, cũng như tô điểm cho bài thánh ca màu sắc Kitô học hậu-Phục Sinh.
Đức Maria ở lại nhà bà Elizabeth độ ba tháng. Đối với Luca, khoảng thời gian trong khi Đức Maria xa cách Giuse là một dấu chỉ, dưới mắt độc giả, xác minh cho việc thụ thai đồng trinh. Đồng thời, không có vấn đề Đấng Mêsia hiện diện – dù là trong dạ mẹ – vào ngày vị tiền hô sinh ra! Đức Maria trở về nhà mình.
Có hai người phụ nữ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Một là Evà, hai là Ðức Maria. Có hai người 15/8-127
Có hai người phụ nữ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Một là Evà, hai là Ðức Maria.
Bà Evà là người phụ nữ vĩ đại vì bà là mẹ của nhân loại. Mọi người trên khắp thế gian đều là con, cháu, miêu duệ của bà.
Ðức Maria là phụ nữ vĩ đại thứ hai, vì Mẹ đã hợp tác với Thiên Chúa để sinh ra một nhân loại mới, gồm những người thuộc về gia đình Hội Thánh, thuộc về Ðức Ki-tô.
Nhưng giữa hai người phụ nữ vĩ đại nhất nầy có một sự khác biệt lớn lao: Bà Evà là người bị chúc dữ và đã lôi kéo con cháu vào vòng sa đoạ; còn Ðức Maria là Ðấng-đầy-ơn-phúc và Mẹ đã dẫn đưa muôn người vào vương quốc ân sủng của Thiên Chúa.
Vì đâu có sự khác biệt nầy?
Thiên Chúa là Cha nhân lành và công bằng vô cùng. Ngài không chê bỏ bất cứ ai. Thế nhưng có những người nhận được nhiều ơn sủng của Thiên Chúa như Mẹ, còn những người khác thì chẳng được ơn nào. Tại sao như thế?
Cũng vì thế mà có người oán trách Thiên Chúa: Tại sao Chúa thương người khác mà không thương tôi? Tại sao Chúa ban ơn cho nhiều người khác mà không đoái đến tôi? Tại sao Chúa không đối xử công bình với tôi?
Ơn sủng Thiên Chúa như mưa tuôn xuống cho mọi người không phân biệt, thế nhưng nơi những ngọn núi cao thì nước mưa chảy tuôn xuống hết chẳng còn đọng lại; còn nơi biển sâu thì vì trũng xuống nên tất cả mọi nguồn nước đều tích tụ về.
Xưa kia, Bà Evà không vâng phục Thiên Chúa và muốn nâng mình lên, như một ngọn núi cao, nên ân sủng Thiên Chúa, dù được ban xuống như mưa, nhưng không thể tồn đọng lại. Nước mưa không thể tụ lại đỉnh non cao.
Còn Ðức Maria thì luôn sống hạ mình, luôn luôn vâng phục Thiên Chúa, vui lòng chấp nhận làm tớ nữ thấp hèn của Ngài với lòng khiêm nhượng thẳm sâu, Mẹ hạ mình như thung lũng thấp, nên ơn Chúa tuôn ban được tích tụ nơi Mẹ thật dồi dào.
Bài tán tụng ca của Ðức Maria trong Tin Mừng hôm nay diễn tả điều đó:
Ðối với những ai muốn làm "núi cao" như kiểu Evà, thì họ sẽ bị triệt hạ: "Chúa giơ cánh tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế..."
Còn đối với người khiêm tốn như "lũng sâu", tiêu biểu là Mẹ Maria, thì được Chúa thông ban phúc lộc dư đầy:
"Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi thời sẽ khen tôi diễm phúc... Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi, biết bao điều cao cả... Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường... Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư..."
Vậy thì qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta học được một bí quyết thần diệu để có thể tiếp nhận thật nhiều phúc lộc của Thiên Chúa, là hãy trở thành "lũng sâu" như Mẹ Maria, nghĩa là biết mình là kẻ thấp hèn yếu đuối, tự sức riêng chẳng làm được gì nếu không có ơn Chúa, là sống khiêm nhường như Mẹ, là đặt mình làm tôi tớ hèn mọn của Thiên Chúa như Mẹ... và khi đó, muôn vàn ân phúc của Thiên Chúa sẽ tuôn đổ dư đầy cho chúng ta.
Trái lại, phương cách hiệu quả nhất để đánh mất ơn Chúa, để ân huệ Ngài vượt thoát hết khỏi tầm tay... là cậy dựa sức mình mà xem thường ơn Chúa, là tự phụ mình giỏi mình hay... làm như thế là trở nên "núi cao" như kiểu bà Evà xưa. Và vì thế, ân sủng của Thiên Chúa không thể tồn đọng trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta được.
Nguyện xin Mẹ Maria giúp chúng con sống khiêm nhường như Mẹ, để ân sủng Thiên Chúa lưu lại mãi trong cuộc đời chúng con và biến đổi chúng con ngày càng nên giống Mẹ hơn.
Triết gia hiện sinh của Pháp, Albert Camert đã nói rằng: "Con người là tạo vật duy nhất không chấp 15/8-128
Triết gia hiện sinh của Pháp, Albert Camert đã nói rằng: "Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận chính mình. Con người đành phải chịu đựng chính mình và chính vì phải chịu đựng mình mà con người luôn phẫn nộ với những giới hạn của mình và tìm cách vượt qua chính mình".
Một trong những thể hiện của thái độ không chấp nhận chính mình là ước mơ bất tử trường sinh được nuôi dưỡng và bày tỏ bằng nhiều cách khác nhau. Từ các vua chúa của Ai Cập qua Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa đến những lãnh tụ độc tài của các thời đại, và cuối cùng, những nhà khoa học của thời đại, con người vẫn tìm đủ mọi cách để trở thành bất tử. Các vua Ai Cập khi qua đời không những được ướp xác, mà người ta còn chôn sống cả những người thân tín của họ. Tần Thủy Hoàng cũng đã suốt một đời đi tìm thuốc trường sinh bất tử. Những cái xác ướp của thời đại hiện đang được trưng bày trong những lăng tẩm nguy nga, mà sự bảo trì đòi hỏi bao nhiêu tốn kém cũng là thể hiện của những giấc mơ được sống mãi, dù chỉ là sống mãi với một thứ hào quang giả tạo.
Giấc mơ được sống lại ấy, ngày nay cũng đang được những nhà khoa học muốn hiện thực hóa qua việc tạo sinh vô tính con người, hay sử dụng tế bào gốc của các phôi thai người để chữa trị những căn bệnh nan y, và như vậy vượt qua biên giới của sự chết. Trước khi chết, người ta chỉ cần để lại một tế bào sống của mình và từ đó các nhà phù thủy khoa học sẽ nối dài cuộc sống của người đó bằng cách tạo sinh vô tính một con người y hệt như người đó. Với tế bào gốc rút ra từ phôi thai người, những nhà phù thủy khoa học cũng sẽ đánh bại thần chết bằng cách chữa trị mọi căn bệnh nan y.
Nhưng viễn tượng mà những nhà khoa học đang vẽ ra vì một vài người trường sinh bất tử trên mặt đất này, không chỉ thỏa mãn ước mơ được sống mãi, nó còn gợi lên bao nhiêu hệ lụy mà một cái nhìn có trách nhiệm không thể làm ngơ. Những con người trường sinh bất tử ấy sẽ là những con người bình thường, hay là những quái thai? Có được phép sử dụng hay sản xuất phôi thai để dùng vào việc chữa trị các căn bệnh nan y và làm cho con người trường sinh bất tử không? Ðó là những câu hỏi mà tinh thần trách nhiệm không thể tránh né được.
Tựu trung, sống và cư xử có trách nhiệm là đòi hỏi tất yếu của con người. Ðã là người đương nhiên phải có trách nhiệm. Nhưng nói đến trách nhiệm cũng là nói đến thân phận giới hạn của con người. Chính vì tính giới hạn ấy của con người mà tự do cũng đương nhiên có tính giới hạn.
Ðây là chân lý mà lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng suy nghĩ. Mẹ Maria là mẫu mực của một con người có trách nhiệm. Trách nhiệm ấy trước tiên là thể hiện qua sự cộng tác của Mẹ trong mầu nhiệm nhập thể. Mẹ đã thưa "Xin Vâng" với tất cả tinh thần trách nhiệm. Thưa "Xin Vâng" là chấp nhận đi vào một chương trình của Thiên Chúa, trong đó sự cộng tác của con người phải là toàn diện. Thưa "Xin Vâng" là ý thức về thân phận bất toàn và giới hạn của con người, nhưng đồng thời cũng triệt để tin tưởng nơi quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Chính vì đã thưa xin vâng một cách triệt để mà Mẹ Maria đã là người đầu tiên trong nhân loại vượt qua được ranh giới của sự chết để trở thành trường sinh bất tử thật sự.
Chấp nhận thân phận giới hạn của kiếp người và tin tưởng ở quyền năng của Ðấng có thể làm được mọi sự. Mẹ Maria đã được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác. Mẹ đã trở thành đích điểm của cuộc lữ hành đức tin của chúng ta. Mẹ đã chỉ ra cho chúng ta con đường đích thực để đi, hầu đạt được cứu cánh vĩnh cửu của chúng ta. Nhìn lên Mẹ từ giữa bao nhiêu giới hạn bất toàn và khổ đau của kiếp người, chúng ta được mời gọi củng cố niềm hy vọng của chúng ta. Giữa cuộc đời khổ lụy và tăm tối, chúng ta vẫn nhận ra ánh sáng để tiến tới. Ước gì bài ca Ngợi Khen mà Mẹ và cộng đoàn tiên khởi đã hát vang cũng trở thành tâm tình của chúng ta.
Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô": đó là hàng chữ mà hiện nay hàng ngàn du khách đều lâm 15/8-129
"Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô": đó là hàng chữ mà hiện nay hàng ngàn du khách đều lâm râm đọc mỗi khi đứng mặc niệm trước mộ của nữ minh tinh Marilyn Monroe tại nghĩa trang Westwood, nằm ở phía Tây thành phố Los Angeles.
Hiện nay, từng giây, từng phút, hàng ngàn cánh hoa được du khách mang đến, phủ kín nơi an nghỉ của người nữ minh tinh xấu số này. Ngày 15/8/1962, người nữ minh tinh với mái tóc bạch kim óng ả lặng lẽ ra đi không một lời dã biệt. Cuộc quyên sinh của cô, cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Giữa lúc danh vọng đang lên, giữa lúc tiền bạc đang vào ngút ngàn, Marilyn đã chọn lấy cái chết...
Randall Reise, tác giả viết lại cuộc đời của Marilyn Monroe, đã nhận định như sau: "Marilyn không còn là một con người nữa. Cô đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật của Holywood nữa. Cô đã trở thành một yếu tố trong nền văn hóa của nước Mỹ".
Marilyn đã trở thành lý tưởng của rất nhiều ca sĩ và minh tinh điện ảnh hiện nay. Nhưng mãi mãi, cô đã trở thành một câu hỏi lớn cho con người của thời đại: Con người bởi đâu mà ra? Con người sinh ra để làm gì? Ðâu là ý nghĩa của cuộc sống? Tiền bạc, danh vọng có làm cho con người được hạnh phúc không? Marilyn Monroe là hiện thân của những câu hỏi ngàn đời ấy...
"Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô", bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những khắc khoải quá lớn về cuộc sống. Chúng tôi thông cảm với cô, bởi vì thiếu một niềm tin vào cuộc sống, thì không còn chọn lựa nào hơn là cái chết...
Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ hồn xác lên trời...
Ngày 22/7/1973, thành phố Giêrusalem đột nhiên biến thành nhộn nhịp khác thường, từng đoàn người tuôn đến vườn Giêtêmani... Có tin cho biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tảng đá trong mồ nơi đặt xác Ðức Mẹ. Ðức Mẹ đã chết. Ðó có lẽ phải là khẳng định đầu tiên mà các nhà khảo cổ có thể đưa ra khi tìm thấy tảng đá...
Chết là số phận tất yếu của thân phận con người. Chúa Giêsu đã chết. Có ai thoát khỏi sự chết! Nhưng có nhiều cái chết. Chúa Giêsu đã chết để phục sinh. Ðức Mẹ đã chết để được cất nhắc cả hồn xác về trời. Với Chúa Giêsu và Ðức Mẹ, cái chết là khởi đầu của hy vọng. Cái chết là ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì có chết mới được sống đời đời...
Nếu cái chết của Marilyn Monroe là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được cất nhắc về trời, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống, của cái chết và như vậy Mẹ trở thành chính niềm hy vọng của chúng ta.
Trong một cuộc sống không dư tiền dư của như Marilyn đã từng sống, chúng ta vẫn nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống. Trong ý nghĩa đó, cái chết đã trở thành khởi điểm cho một sự biến đổi mà chính Ðức Maria đã là dấu hiệu báo trước cho chúng ta... Xin cho niềm tin này củng cố chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Xin cho chúng ta luôn biết hướng nhìn về Mẹ Maria, như là đèn pha cho chúng ta giữa những u tối và cuồng phong của cuộc sống.
THÁNH MẪU VINH QUANG LÊN CAO ĐỈNH PHÚC, PHÀM NHÂN ƯỚC VỌNG ĐƯỢC ĐẾN 15/8-130
THÁNH MẪU VINH QUANG LÊN CAO ĐỈNH PHÚC PHÀM NHÂN ƯỚC VỌNG ĐƯỢC ĐẾN MIỀN SINH
Vầng trăng rằm tháng Tám là trăng tròn nhất và sáng nhất trong năm, thời gian đã vào giữa mùa Thu, cũng đồng nghĩa là giữa năm – âm lịch gọi là Rằm Trung Thu. Vầng trăng rằm thiên nhiên gợi nhớ Đức Maria, Vầng Trăng Thánh của Thiên Chúa, và có điều thật thú vị là lễ Đức Mẹ Lên Trời cũng vào ngày rằm – rằm tháng Tám dương lịch. Trăng luôn có gì đó kỳ lạ, và Mẹ luôn có điều kỳ diệu – dù chỉ là người mẹ trần gian cũng vậy.
Có điều khác lạ nữa là Giáo Hội dành Tháng Tám để biệt kính Mẫu Tâm Đức Maria. Tôn sùng Mẫu Tâm cũng là một trong ba mệnh lệnh Đức Mẹ đã ban truyền khi hiện ra với ba em nhỏ tại làng Fátima tại Bồ Đào Nha năm 1917.
Là một thụ tạo nhưng Đức Mẹ vô nhiễm Nguyên Tội và không chịu hệ lụy của tội, đã được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết – gọi là “mông triệu”. Theo Hán ngữ, “mông triệu” được rút gọn từ câu “mông chủ sủng triệu” (mông chủ nghĩa là “chúa”), những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi về trời, Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ” – tức là “chết mà như ngủ”.
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nói cho sát nghĩa phải nói là “về trời”. Thế gian chỉ là nơi tạm trú, Trời (Thiên Đàng) mới là nơi vĩnh cư. Động từ “về” chỉ hành động “tới nơi mình ở”, người ta nói “về nhà” chứ không nói về nơi không là chỗ của mình. “Lên trời” ở đây mang nghĩa “về trời” chứ không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc “lỗ đen” trong vũ trụ. Về trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi chúng ta chết trong ơn nghĩa của Chúa và được Ngài cho sống lại.
Việc kính mừng đại lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là lời nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín được đề cập trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại”. Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu, được ĐGH Piô XII ban hành Tông hiến “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại) ngày 1-11-1950. Với Quyền Tông Tòa, ngài đã long trọng công bố tín điều Đức Maria lên trời cả hồn và xác. Tín điều nghĩa là điều buộc mọi Kitô hữu phải tin.
Đại lược Tông hiến quan trọng này: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Khi đề cập tình trạng “lên trời” cũng ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Bởi vì có chết rồi mới sống lại và lên trời, chứ phàm hèn chúng ta không thể “lên trời” như ngôn sứ Êlia (2 V 2:11). Tuy nhiên, muốn trở thành công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Như vậy mới khả dĩ cầm được “tấm visa” chắc chắn trong tay!
ĐƯỢC MẶC KHẢI
Thánh Gioan cho biết rằng Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Thật là uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian nan khổ cực: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12:2). Đó là điều chắc chắn, bởi vì không có vinh quang nào lại vắng bóng đau khổ – dù nhiều hay ít. Thật vậy, chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Theo sách Khải Huyền, lại có thêm một điềm khác xuất hiện trên bầu trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12:3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12:5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12:5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12:6).
Và ngay lúc đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Trong Cựu Ước cũng đã có lời tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45):10]. Và có lời hiệu triệu: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45):11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan rồi, chắc chắn người ta vô cùng hạnh phúc, vì thế mà người ta chẳng còn cần gì nữa và xác định: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45):12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45):16]. Ôi, hạnh phúc biết bao!
ĐƯỢC ỨNG NGHIỆM
Ứng nghiệm là trở nên hiện thực một cách kỳ lạ. Chúng ta khả dĩ biết rằng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15:20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15:21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:22-24).
Đúng như vậy, chính Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15:25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô – Vua của muôn vua và Chúa của các chúa. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc, thú vị và tuyệt vời!
Thánh sử Luca tường thuật rạch ròi và chi tiết: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Rồi Chị Êlisabét thể hiện niềm vui sướng của mình: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:43-45).
Vấn đề quan trọng là tin hay không tin, mà tin rồi thì phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ, “chắc chắn” chứ không “có lẽ” – gọi là xác tín và thâm tín. Đức Mẹ là người diễm phúc vì Đức Mẹ có đức tin kiên vững. Điều này “nhắc khéo” chúng ta rằng mỗi tín nhân phải tự xem lại đức tin của chính mình. Thật vậy, đôi khi chúng ta tưởng mình có niềm tin kiên vững, nhưng rồi chúng ta lại chao đảo khi “không như ý”. Thật tồi tệ!
Khi Chị Em hàn huyên tâm sự, và rồi nghe Chị Êlidabét lên tiếng “khen” như vậy, Cô Em Maria liền hân hoan dâng lời chúc tụng Thiên Chúa qua bài MAGNIFICAT – Bài Ca Ngợi Khen (Lc 1:46-55):
Hồn tôi ca ngợi Chúa Trời Trí tôi hớn hở mừng vui vô cùng Vì Thiên Chúa, Đấng muôn trùng Đã thương nhìn tới phận thường nữ nhi Mọi đời mãi mãi ngợi ca Rằng tôi diễm phúc, người ta chẳng bằng Bao điều cao cả vô song Đều do chính Đấng Toàn Năng đã làm Danh Người chí thánh chí tôn Lòng thương xót Chúa trải muôn muôn đời Tay Người sức mạnh tuyệt vời Dẹp hết những người lòng trí kiêu căng Người quyền thế hết đường ngông Còn kẻ khiêm nhường được Chúa nâng cao Những người nghèo Chúa thưởng nhiều Còn những người giàu chịu trắng tay luôn Chúa phù hộ Ít-ra-en Những người tôi tớ vẫn luôn tín thành Như lời Chúa hứa rành rành Lòng thương xót Chúa vẫn dành tôi trung Áp-ra-ham Tổ phụ chung Muôn đời con cháu được đồng hưởng ơn
Ngôn từ của Đức Mẹ chất chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và tình yêu thương. Đó cũng là lời kinh mà Giáo Hội sử dụng hằng ngày khi cầu nguyện, đặc biệt trong giờ kinh Nhật tụng (Thần vụ).
Thánh sử Luca cho biết: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, đặc biệt là để phục vụ Bà Chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả.
Thật lạ lùng, Đức Mẹ không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Đúng là trên cả tuyệt vời. Đức Mẹ là một tu sĩ đặc biệt: Nữ-Tu-Không-Tu-Phục. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào, không riêng gì giáo sĩ và tu sĩ.
Kính mừng Thánh Mẫu mông triệu là dịp tốt để mỗi chúng ta tái xác nhận điều chúng ta vẫn cầu nguyện: Xin được ơn chết lành trong vòng tay của Đức Mẹ, và xin được thưởng cùng Đức Mẹ trên Thiên Đàng. Thánh GM Fulgentius (462-527) nói: “Mẹ là chiếc thang bắc lên Trời. Nhờ Mẹ mà Thiên Chúa đã từ Trời xuống thế gian, và cũng nhờ Mẹ mà loài người từ đất lên tới Trời”. Còn Thánh TS Bonaventura (1221-1274) xác định: “Đức Mẹ là phần rỗi của mọi người kêu cầu Người. Ai bền lòng phụng sự Mẹ thì không thể hư mất. Những ai tin tưởng xin Mẹ cầu bầu đều được cứu rỗi”. Được cứu rỗi nghĩa là được về trời. Ôi, Mẹ thật kỳ diệu, và cũng rất hạnh phúc cho phàm nhân chúng ta!
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Ngài đã thương ban một Người Mẹ Thánh tuyệt vời cho Giáo Hội. Xin thương giúp con biết khiêm nhường phục vụ, luôn biết “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh – dù vui hay buồn, để con chắc chắn sẽ được cùng Thánh Mẫu vui hưởng phúc trường sinh. Xin Vầng Trăng Mẹ luôn chiếu sáng trong “đêm đời” của mọi người. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của mọi người, và là Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Từ lâu, Hội Thánh Công giáo vẫn tin và mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Năm 1950, Đức Mẹ hồn 15/8-131
Từ lâu, Hội Thánh Công giáo vẫn tin và mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Năm 1950, Đức Mẹ hồn xác lên trời được Đức giáo hoàng Piô XII minh định là một tín điều bên cạnh ba tín điều khác nữa về Đức Mẹ: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Công đồng Êphêsô năm 431), Đức Maria trọn đời đồng trinh (Công đồng Latêranô năm 649), Đức Maria vô nhiễm nguyên tội (Đức Piô IX năm 1854).
Đoạn phim cũ này dựa vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu để hình dung những ngày cuối đời của Đức Mẹ Maria mà Kinh Thánh không tường thuật.
Trong phim, môn đệ Gioan, người được Chúa ủy thác việc chăm sóc Đức Mẹ, đưa Đức Mẹ cao niên về Giêrusalem thăm lại những nơi Chúa Giêsu chịu khổ hình, chịu chết, sống lại và lên trời. Sau đó, Gioan đưa Mẹ về ở tại nhà hai chị em Mátta và Maria tại Bêtania gần Giêrusalem và qua đời nơi đây.
Hay nhất là đoạn phim ông Phêrô vào thăm Đức Mẹ lần cuối cùng. Đức Mẹ xin ông ban phép lành và ông úp hai bàn tay lên trán Mẹ như cử chỉ linh mục trong bí tích Xức dầu bệnh nhân mà chúng ta thấy ngày nay. Sau đó, người môn đệ mà đêm nào đã chối Chúa ba lần quỳ xuống bên giường bệnh của Đức Mẹ và thổn thức rằng: "Mẹ Maria ơi, xin Mẹ nói với Thầy rằng con yêu mến Thầy" (x. Ga 21,15-17). Đức Mẹ trả lời: "Thầy biết mà, Phêrô. Thầy nghe con mỗi khi con nói thế". Phêrô lại thưa: "Nhưng Thầy sẽ đẹp lòng lắm khi nghe chính Mẹ nói thay con." Và Đức Trinh Nữ Chuyển Cầu an ủi Phêrô: "Mẹ sẽ nói với Con của Mẹ mọi lời con muốn Mẹ chuyển giúp."
Cũng như sau khi Chúa sống lại, ông Tôma cũng bận việc gì đó và về trễ cùng với ông Barthêlômêô, sau khi thi hài Mẹ Maria đã được an táng trong mồ. Vì cửa mồ chưa được niêm kín, nên ông Phêrô và các bạn đưa hai ông về trễ đi viếng xác Đức Mẹ. Khi tảng đá che cửa mồ được lăn ra, trong làn hương thơm ngát, các ông thấy bên trong mộ trống không. Các tác giả bộ phim đã để cho ông Giacôbê, anh của ông Gioan, thốt lên lời tuyên tín: "Tất nhiên, thân thể vô nhiễm của Mẹ không phải chịu cảnh hư nát trong mồ. Con của Mẹ, là Thiên Chúa, đã đưa Mẹ lên trời với Người."
Lời tuyên tín ấy có trong lời long trọng của Đức giáo hoàng Piô XII vào ngày 01-11-1950 khi ngài tuyên bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời: “Đức Maria vô nhiễm, Ðức Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, khi kết thúc cuộc đời dương thế, đã được đưa cả hồn lẫn xác vào vinh quang thiên quốc.”
Và có trong Kinh Tiền Tụng của ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời: "Hôm nay, Ðức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Chúa không muốn Người chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Người đã sinh hạ Con Chúa yêu quý, là Ðấng ban sự sống cho mọi loài."
Kết thúc phim, ông Giacôbê nói thêm lời tuyên tín có trong Kinh Tin Kính Các Tông Đồ: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, và tin có sự sống muôn đời."
Đoạn phim này trích trong bộ phim dài 300 phút của Hoa Kỳ nhan đề "Mười Lăm Mầu Nhiệm Kinh Mân Côi" (Fifteen Mysteries of the Rosary) được sản xuất năm 1957 với các cảnh quay tại Tây Ban Nha với hàng nghìn người tham gia diễn xuất. Người thực hiện bộ phim là linh mục người Ái Nhĩ Lan Patrick Peyton (1909-1992) thuộc Dòng Thánh Giá (C.S.C. - Congregatio a Santa Cruce). Do lòng mộ mến Kinh Mân Côi, cha Patrick Peyton đã sáng lập "Family Rosary Crusade", "Hội Nghĩa Binh Kinh Mân Côi Gia Đình", thường được gọi là "Phong Trào Kinh Mân Côi Trong Gia Đình".
Hai khẩu hiệu mà cha không ngừng quảng bá là
"GIA ĐÌNH CÓ CẦU NGUYỆN CHUNG LÀ GIA ĐÌNH GẮN BÓ" (The family that prays together stays together) và "THẾ GIỚI CÓ CẦU NGUYỆN LÀ THẾ GIỚI HÒA BÌNH" (A world at prayer is a world at peace).
Ngày 18-12-2017, Đức giáo hoàng Phanxicô đã tuyên phong cha Patrich Peyton lên Bậc Đáng Kính.
(Lễ Ngày) [Kh 11:19a, 21:1-6a,10ab; 1Cr 15:20-27; Lc 1:39-56] Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Một điềm lạ xuất hiện trên trời: một người phụ nữ mình khoác áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và 15/8-132
Một điềm lạ xuất hiện trên trời: một người phụ nữ mình khoác áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên có 12 ngôi sao (Kh 12:1). Chúng ta hãy vui mừng trong Chúa. Khi chúng ta mừng lễ vinh danh Mẹ Maria đồng trinh lên trời thì các thiên thần cũng vui mừng và ca tụng Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiều về Đức Mẹ Maria Hồn Xác lên trời qua các bài đọc và bài Phúc Âm hôm nay theo ý nghỉa Kinh Thánh.
Bài đọc 1 (Kh 11:19a, 21:1-6a, 10ab) nói tới sự xuất hiện của Hòm Bia vào thời đại thưởng phạt cho thấy việc tiếp cận với Thiên Chúa lúc này là điều khả thi. Chúa không còn ẩn mặt nhưng hiện diện ngay chính trong giữa dân Người. Một con quỉ rất hung dữ, không cần biết đau đớn cương quyết tiêu giệt Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Con rồng tìm cách giết người đàn bà và con bà. Những kẻ ghen ghét thù hận cuối cùng đã bị tiêu tan.
Lễ Mẹ Maria hồn xác lên trời là một quan niệm vừa xưa cổ vừa hiện đại. Lễ này được mừng như một phần của truyền thống Kitô Giáo từ thế kỷ V, nhưng giáo lý Công Giáo chỉ chính thức công nhận từ năm 1950 thời Giáo hoàng Piô XII qua hiến chế tông tòa Munificentissimus Deus. Ngài ghi chú nhiều đoạn Kinh Thánh mà các nhà thần học đã dùng để giúp chúng ta hiểu về giảng huấn Đức Mẹ hồn xác lên trời. Hai bài Kinh Thánh trong lễ vọng hôm nay nhất là 1 Cr 15:54-57 và Thánh ca 132 đã được nhắc tới. Ngài cũng nhắc tới một thị kiến về người phụ nữ mặc áo mặt trời trong sách Khải Huyền mà ta thấy trong bài đọc 1 lễ ngày. Người phụ nữ này thì không được biết chắc chắn là ai, nhưng theo một số nhà thần học Kito giáo thời Giáo Hội sơ khai thì hiểu rằng đó là Mẹ Maria. Với thời gian, quan niệm này đã được diễn giảng như là của truyền thống Công Giáo, nhưng cũng có những ý tưởng khác cho là của Giáo Hội, thiên đàng Jerusalem, dân tộc Israel và sự khôn ngoan được nhân cách hóa.
Trong thị kiến này, Gioan -tác giả của sách Khải Huyền- đã nhìn thấy một thiếu phụ mang thai, được tôn thờ như một bà Chúa đang bay lượn lơ lửng trên trời. Bà đau đớn trong lúc lâm bồn là nhớ lại hậu quả việc ông Adong và bà Eva phạm tội (St 3:16), gợi ý cho chúng ta bà là một Eva mới. Gioan cũng nhìn thấy một con rồng đỏ thật lớn đang chực sẵn để ăn cho đã đứa trẻ khi được sinh ra. Con rồng tượng trưng cho con rắn trong chuyện Adong và Eva (St 3:1-7), sau này được xác định nó là quỉ Satan. Mười cái sừng của con rồng nói lên chi tiết về một thị kiến của Daniel về 4 vương quốc trên thế giới bị đè bẹp (Dn 7:7). Nói chung, những cái sừng là tượng trưng cho quyền lực và số 10 là con số đại diện cho toàn thể thế giới Hy-Mã. Cũng như vậy, chi tiết việc con rồng ném sao từ trời xuống nhắc đến một con quái vật nổi dậy làm náo loạn thiên cung đã đi thật xa vời khi nó tấn công các vì sao (Dn 8:10).
Tương tự như vậy, chi tiết việc con rồng chờ để ăn đứa trẻ vừa mới sinh ra của người đàn bà cũng khiến người đọc nhớ lại câu chuyện thần thoại Hy-Mã về thần Apollo khi vừa sinh ra do bà mẹ là Leto bị con rồng Phyton tấn công giết đứa trẻ hầu nắm giữ quyền lực về mình theo lời sấm tại Delphi. Nhưng cha của Apollo là Zeus can thiệp để bảo vệ Leto; và sau khi Apollo sinh ra đứa nhỏ đã giết Python. Thánh Gioan hình như đã dùng những hình ảnh này để diễn tả vị thiên sai giáng trần, đấng được chỉ định cai trị nắm quyền lực bằng một “cái roi sắt.” Sau cùng chi tiết người đàn bà trốn vào sa mạc để được Thiên Chúa săn sóc, là nhắc lại câu chuyện Xuất Hành của dân Israel ra khỏi Ai Cập. Thời gian bà ở lại đó -1,260 ngày- là khoảng 3 năm 6 tháng. Một nửa của bảy, một số đầy đủ trọn ven, con số này là thời gian giới hạn.
Bài đọc 1 kết thúc với lời tuyên bố công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa và Vương Quốc của Người đã đến, và quyền lực của Chúa Kito đã được chấp nhận. Đây là một kết luận thật tuyệt vời dùng câu mở đầu để kết thúc bài đọc theo thủ pháp văn học (literary device). Cũng giống vậy, vì bài đọc 1 này có chủ ý là vinh danh Mẹ Maria trên trời nên đã đề ra một thị kiến sen kẽ nói về cách thức thiên thần Michael đánh bại con rồng và những ảnh hưởng của nó (Kh 12:7-9). Đây chính là lý do để vui mừng.
Bài đọc 2 (1 Cr 15:20-27) là trích thư 1 của thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô. Hiến dâng hoa trái đầu mùa là biểu hiệu dâng cúng toàn thể mùa gặt cho Thiên Chúa. Vậy sự phục sinh của Chúa Kitô có liên hệ đến sự sống lại của chúng ta cùng với Người vào ngày tận cùng. Vì sự phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô, Chúa sẽ thống trị trong vinh quang, vì Người là Chúa và là Thiên Chúa.
Trong bài đọc này, thánh Phaolô biện luận rằng người Kito hữu tin Chúa Giêsu đã sống lại thì cũng phải tin là thân xác mình cũng sẽ sống lại -không phải là với thân xác chúng ta hiện nay mà là thân xác được chuyển đổi mới lại. Nếu chúng ta tin một cách khác, thì chúa Giêsu đã không khải hoàn trong tội lỗi và sự chết.
Trong bài đọc này, thánh Phaolô viết Chúa Kitô là hoa trái đầu mùa, là trái thứ nhất và tuyệt hảo của mùa gặt đã được hiến tế cho Thiên Chúa như một biểu tượng và cống hiến của tất cả mọi người được Thiên Chúa chọn, những kẻ đang mê ngủ. Phaolô cũng dùng phương pháp diễn nghĩa gọi là hình bóng học (typology), kiểu điều tra bằng chữ viết hay cách viết của một người hay hình thức một biến cố từ Cựu Ước đã được hoàn toàn thể hiện qua Tân Ước. Ở đây, Adong là người đem cái chết đến cho loài người, thì cũng như kiểu Chúa Kitô, đấng mang lại đầy đủ sự sống cho con người. Sự xuất hiện (coming) của Chúa Kito ám chỉ Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai vào thời tận cùng và vương quốc của Người được thể hiện rõ ràng ở trần thế.
Bài Tin Mừng Phúc Âm Luca hôm nay (Lc 1:39-56) là một câu chuyện tuyệt đẹp tả cuộc viếng thăm của Mẹ Maria với người chị họ là Elizabeth. Elizabeth đã già và hiếm muộn không thể có con được lại có thai 6 tháng, còn Maria thì mới có thai. Câu chuyện này chỉ được kể lại trong Tin Mừng Luca.
Nhìn bề ngoài thì câu chuyện -có thể nói- có một cái gì như thể không đứng sự thật, là Maria đã thể hiện tình bác ái của một cô gái trẻ người Do Thái biết ưu tư đến cuộc sống của một thân nhân già cả. Tuy nhiên hãy thử đào sâu vấn đề hơn một chút nữa và đặt vấn đề hỏi tại sao Luca -là người kể truyện- lại nói “Maria vội vàng lên đường?” Vậy Maria đi một mình hay với cả đoàn có nhiều người? Tại sao cô lại dám làm một cuộc hành trình dài 94 dậm trong vòng 4 ngày trời mà chỉ có một mình cô? Tai họa bị hiếp hoặc bị giết dọc đường không phải là ít. Dù chúng ta không biết rõ chi tiết của cuộc hành trình này nhưng cách thức mà cô đã làm quả là có ý nghĩa.
Có lẽ Luca khi dùng tiếng“vội vã lên đường” phải chăng là muốn giữ một liên hệ thiết thân giữa viêc loan báo hai người phụ nữ đang mang thai hai con trẻ và việc chào mừng tình liên hệ gia tộc của hai con trẻ. Cả Luca và Elizabeth đều nói về con bà Elizabeth ở trong bụng đã nhảy mừng khi nghe tiếng Maria chào mừng. Sau này cho biết con bà là Gioan đã nhận ra Chúa Giêsu từ trước khi chào đời. Trong tất cả 4 phúc âm thư đều nói Gioan là người đã đi trước Chúa Giêsu và dọn đường mục vụ cho Chúa ở trần thế và có danh hiệu là Gioan-Tiền-Hô. Elizabeth chúc mừng Maria đầy ơn phúc và phúc đức tràn đầy nơi con trẻ sắp sinh ra. Maria là mẹ của Thiên -Chúa của họ và cũng là mẫu mực niềm tin của tất cả những ai có niềm tin.
Maria đã đáp trả bằng lời Ngợi Khen Magnificat, còn gọi là Thánh Ca Maria. Bài này làm theo mẫu bài ca của bà Anna (1Sm 2:1-10) khi bà cầu nguyện cùng Thiên Chúa và lúc bà mang con mình là Samuel vào nhà Chúa ở Shiloh để cống hiến cho Thiên Chúa sau một thời gian dài bị chế nhạo và xấu hổ vì hiếm muộn không có con. Ở đây trong kinh Ngợi Khen Magnificat, Maria đã bổ túc bằng câu ‘Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa là đấng vì lòng thương sót đã ngước mặt nhìn xuống những kẻ thấp hèn và hạ xuống những kẻ lòng dạ kiêu căng’. Thánh sử Luca đã làm nổi bật một thần học đảo ngược này xuyên suốt Tin Mừng của ông.
Lời kết nguyện cầu
Lạy Thiên Chúa, Chúa đã ghé mắt nhìn đến Mẹ Maria đồng trinh thấp hèn đầy ân sủng và đã nâng Mẹ lên hàng ân phúc; và Con Một của Chúa đã được sinh ra từ máu thịt Mẹ; và ngày hôm nay Mẹ được vinh danh đội triều thiên huy hoàng vinh hiển.
* Xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Mẹ, chúng con đã được cứu rỗi nhờ màu nhiệm cứu độ của Chúa, chúng con cũng được thừa hưởng địa vị cao quí trên trời, cùng với Đức Giêsu Kito con một của Chúa, với Chúa Thánh Thần hiệp nhất là một Thiên Chúa duy nhất đến muôn đời.
* Lạy Thiên Chúa cao cả quyền năng muôn đời, Chúa đã nâng Mẹ Maria đồng trinh vô nhiễm cả hồn và xác về trời, chúng con cầu xin Chúa lắng nghe những lời nguyện cầu của chúng con để chúng con được thùa hưởng phần vinh danh của Mẹ Maria, qua Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần là một Thiên Chúa duy nhất đến muôn đời. Amen.
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, mà chúng ta cử hành vào ngày 15 tháng 8, không chỉ là một 15/8-133
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, mà chúng ta cử hành vào ngày 15 tháng 8, không chỉ là một phần bổ sung hay thêm vào của Công giáo đối với các nguyên tắc cơ bản của đức tin. Đó là một giáo huấn cực kỳ quan trọng có nguồn gốc sâu xa trong Kinh thánh và liên quan trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Ý nghĩa của Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời dựa vào 8 lý do sau:
1. Chúng ta sẽ dự phần vào sự phục sinh của Chúa Kitô
Cốt lõi đức tin của chúng ta là niềm tin, dựa trên các lời tường thuật trong Kinh thánh, rằng Chúa Kitô đã phục sinh từ cõi chết về thể xác và lên trời, trong hình hài thể lý. Sự kiện Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời xác nhận rằng sự đảo ngược phi thường của cái chết này không chỉ giới hạn ở Chúa Kitô. Nếu Mẹ Maria kết thúc cuộc sống trên Thiên Đàng, cả hồn lẫn xác, thì chúng ta, những người chia sẻ nhân tính của Mẹ, cũng vậy.
2. Hy vọng của chúng ta là sự sống lại của thân xác
Toàn bộ luận điểm của tín điều nhấn mạnh vào việc thân xác của Đức Maria lên trời. Nếu không thì sẽ không cần đến tín điều đó. Nói rằng linh hồn của Đức Maria đã lên thiên đàng vào cuối cuộc đời trần gian của Mẹ là xác nhận rằng không có gì khác so với những gì xảy ra với mọi người khác đã chết trong tình trạng ân sủng. Tất nhiên, những người không phải là thánh sẽ phải dừng lại trong luyện ngục trước khi bước vào sự viên mãn của thiên đàng, nhưng tổng thể vẫn là đúng.
Việc lên trời của Mẹ Maria nhắc nhở chúng ta rằng sự cứu rỗi là toàn diện. Thiên Chúa không chỉ cứu một nửa chúng ta. Thiên Chúa không chỉ kéo linh hồn ra khỏi vỏ của một cơ thể tội lỗi. Chúng ta được cứu độ với toàn thể nhân tính, thể xác và linh hồn. Đức Giáo Hoàng Piô XII đưa ra lập luận này trong định tín của Ngài: “Chúng tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả xác cả hồn”. [*]
3. Thiên đàng dành cho những vị thánh
Một trong những điểm đặc biệt của Cựu Ước - ít nhất là theo quan điểm của chúng ta - là không có một khái niệm rõ ràng về thiên đàng. Khi con người chết, kể cả những người công chính, họ kết thúc ở Sheol, là từ ngữ Do thái nhằm chỉ thế giới ngầm tăm tối, tương đương với Hades trong tiếng Hy Lạp. Dân Israel xưa đã hiểu rằng có một đền thờ trên trời mà Thiên Chúa trị vì. Điều này được miêu tả rất đẹp trong thị kiến của Isaia. Nhưng họ không nhất thiết coi thiên đàng là điểm đến của các thánh nhân. Hênóc, Êlia và Môsê là những trường hợp ngoại lệ.
Sự kiện Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời làm sáng tỏ và xác nhận rằng thiên đàng của Tân Ước là nơi các thánh cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Đức Mẹ là người đầu tiên bước vào quyền năng của Giao ước mới. (Chúng ta không thể chắc chắn rằng Người Trộm Lành đã bay thẳng lên thiên đàng hay không). Bằng một cách nào đó, Đức Maria đã mở rộng thiên đàng cho các thánh còn lại, giống như Mẹ đã mở rộng trái đất cho sự hiện diện trọn vẹn của Thiên Chúa Nhập Thể.
4. Sự đảo ngược cuối cùng của sự sa ngã
Giáo hội dạy rằng Mẹ Maria chia sẻ vận mạng của Chúa Kitô. Điều này dựa trên vai trò của Mẹ là Eva đối với Adam mới, điều này có thể thấy rõ trong lời tiên tri của Simeon và sự hiện diện của Mẹ khi Chúa Kitô bị đóng đinh. Việc Mẹ Maria lên thiên đàng là sự đảo ngược chung cuộc của sự dữ phát sinh từ tội lỗi và cái chết do Sự sa ngã gây ra.
5. Con người không được dự liệu ở một mình
Làm người là sống trong mối tương quan với người khác. Đây là một trong những điều đầu tiên Kinh thánh dạy về con người. Trong Vườn Địa Đàng, Adam ở trong thiên đàng, có lẽ không thiếu thứ gì, kể cả sự bầu bạn với các thụ tạo khác, nhưng việc ở “một mình” là “không tốt” cho Adam. Vì vậy, Thiên Chúa đã tạo ra Eva. Chúa Kitô, hoàn toàn là con người, “cần” sự đồng hành hoàn hảo của một con người khác, đặc biệt là trên thiên đàng, như nhà thần học Matthew Levering đã chỉ ra trong cuốn sách của ông về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Chúa Kitô không phải là một vị cứu tinh đơn độc. Trong thần tính của Ngài, Ngài vui hưởng sự hiệp thông của Ba Ngôi. Trong nhân tính của mình, từ trên thiên đàng Ngài ngự trị cùng với Mẹ của Ngài.
6. Việc tôn kính Mẹ Maria lấy Chúa Kitô làm trung tâm
Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời có nghĩa là không có xương hoặc mộ của Đức Mẹ để người ta tôn kính. Không như những lời buộc tội của Tin lành, điều này có nghĩa là việc tôn kính Đức Mẹ đặc biệt tập trung vào Chúa Kitô. Nhờ sự lên trời, người ta không thể nghĩ đến Mẹ mà không nghĩ đến việc Mẹ ở trong sự hiện diện trọn vẹn của Chúa Kitô trên Thiên Đàng.
7. Mẹ Maria có vị trí đặc biệt để giúp đỡ chúng ta
Theo Thánh Tôma Aquinô, mặc dù các linh hồn trên thiên đàng không bị lấy mất đi sự chiêm ngắm Thiên Chúa nhưng họ bị hạn chế phần nào do không có thể xác. Thánh nhân giải thích rằng những linh hồn không có thể xác ở trong một trạng thái không tự nhiên, thiếu sự hoàn hảo và không có hạnh phúc viên mãn. Ngay cả thị kiến hạnh phúc cũng bị ảnh hưởng một cách nào đó. Theo thánh Tôma Aquinô, mặc dù Thiên Chúa nhìn qua con mắt của trí tuệ, nhưng các linh hồn cần có thể xác để nhìn thấy vinh quang của Ngài được phản chiếu trong các thụ tạo vật. Việc Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời đảm bảo rằng Mẹ không có những hạn chế này.
Việc Mẹ có được thân xác của mình thì đặc biệt quan trọng đối với Mẹ vì đó là nguồn gốc của rất nhiều quyền năng của Mẹ: khi Nhập Thể, Thiên Chúa đã lấy xác thịt từ Mẹ và chính qua thân xác Mẹ mà Ngài đã được sinh ra. Kết quả của điều này là Mẹ Maria có mọi thứ mà Mẹ cần để nhìn thấy những vấn đề của chúng ta - cũng như tiềm năng nên thánh của chúng ta - và để giúp chúng ta lớn lên thành những Chúa Kitô bé nhỏ.
8. Vẻ đẹp của Mẹ Maria là hoàn hảo
Một hàm ý nữa của điều vừa được trình bày ở trên là vẻ đẹp của Mẹ Maria trên thiên đàng là hoàn hảo. Mẹ không phải là một thứ hồn lìa khỏi xác. Mẹ không phải là một thứ hồn bay lượn trên thiên đàng. Vẻ đẹp vốn đã được kết hôn với Chúa Thánh Thần nay sống trong sự viên mãn của Mẹ trên thiên đàng, như thị kiến trong Khải huyền cho chúng ta thấy rất rõ: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Đây là một lý do mà Giáo hội tôn kính Mẹ Maria hơn tất cả các thánh khác.
Stephen Beale, https://catholicexchange.com Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.
"Phúc thay Người Mẹ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm" § +GM Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng (Bài giảng lễ Vọng Mẹ Lên Trời)
Kính thưa cộng đoàn hành hương,
Chiều hôm nay, lễ Vọng kính Mẹ Lên Trời hồn xác, chúng ta qui tụ từ muôn phương về linh 15/8-134
Chiều hôm nay, lễ Vọng kính Mẹ Lên Trời hồn xác, chúng ta qui tụ từ muôn phương về linh địa La Vang, để cùng với Mẹ dâng lời cảm tạ và ca tụng tình thương của Thiên Chúa đã đoái nhìn đến phận Nữ tỳ hèn mọn và thực hiện những điều kỳ diệu cho Mẹ, đặc biệt đã ban cho Mẹ đặc ân được hưởng hạnh phúc trên trời cả hồn lẫn xác, làm Nữ Vương các thiên thần và các thánh.
Không phải đợi đến lúc kết thúc cuộc đời dương thế, Mẹ mới được hưởng hạnh phúc, mà ngay lúc còn tại thế, giữa những thử thách và thăng trầm của cuộc đời, Mẹ đã luôn cảm nếm được hạnh phúc đích thực, hạnh phúc vì được Chúa yêu và vì Mẹ đã yêu Chúa hết lòng. Hạnh phúc vì đã cưu mang và nuôi dưỡng Con Thiên Chúa, như lời một phụ nữ đã lớn tiếng ca tụng Mẹ khi nghe Lời Chúa giảng dạy: "Phúc thay Người Mẹ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm."
Người phụ nữ nầy xem quả thì biết cây: Cây tốt sẽ sinh trái tốt. Hình ảnh người Mẹ được bộc lộ nơi người con. Một người con trọn lành thánh thiện như Chúa Giêsu, thì Mẹ của Ngài chắc chắn cũng muôn phần hoàn hảo và tốt lành. Mát lòng biết bao! hãnh diện và hạnh phúc biết bao cho đứa con khi người ta ca tụng mẹ của mình!
Chắc chắn Chúa Giêsu hài lòng về lời ca tụng của người phụ nữ kia. Chúa không chối bỏ công sinh thành dưỡng dục của Mẹ Maria, nhưng Ngài còn muốn lợi dụng cơ hội nầy để tuyên dương một hạnh phúc khác cao cả hơn, lớn lao hơn, Ngài nói: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa".
Chúa muốn đề cao Người Mẹ mà Ngài luôn yêu mến và kính trọng. Ngài tế nhị muốn nói: Mẹ tôi có phúc không chỉ vì đã cưu mang và nuôi dưỡng tôi, nhưng Mẹ tôi còn có phúc hơn vì dã biết lắng nghe và tuân giữ Lời của Thiên Chúa.
Lắng nghe và tuân giữ Lời của Thiên Chúa đó là hai điểm chúng ta cùng chiêm ngưỡng nơi Mẹ Maria trong giây phút nầy.
1- Mẹ có phúc vì đã lắng nghe Lời của Thiên Chúa.
Trong chương trình mạc khải của Thiên Chúa, Ngài thường tỏ bày thánh ý của Ngài cho những tâm hồn khiêm tốn nhỏ bé, như Chúa Giêsu đã nói: "Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã dấu không cho các bậc khôn ngoan, thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn"( Mt 11,25).
Thiên Chúa cũng chỉ nói với những ai có thành tâm thiện chí muốn lắng nghe như trường hợp của Samuel, chỉ khi cậu chắp tay thưa:" Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe", Ngài mới phán dạy.
Tâm hồn Mẹ Maria có cả đủ hai điều kiện đó. Mẹ khiêm tốn tột độ, tự hạ đóng vai trò một nữ tỳ để phục vụ và luôn sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa, như lời Mẹ đã thưa với thiên sứ lúc truyền tin "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1,38).
Thái độ lắng nghe còn đòi hỏi một tình yêu thúc bách đi tìm biết ý của người yêu: Mẹ khao khát ước mong tìm thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Mẹ biết tiếng Chúa không ở trong sấm chớp, trong mưa gió nhưng âm thầm nhẹ nhàng trong ngọn gió hiu hiu, qua những biến cố tầm thường trong cuộc sống. Vì thế cần có một tâm hồn nhạy cảm, tế nhị biết lắng nghe.
Ý của Thiên Chúa không luôn trùng hợp với ý riêng của Mẹ mà nhiều lúc còn hoàn toàn trái ngược. Trong những trường hợp đó Mẹ không chống đối, phiền trách nhưng đã biết " khắc ghi và suy niệm mọi điều đó trong lòng" ( Lc 2,19). Thái độ lắng nghe còn nói lên sự nhạy bén của con tim luôn tin tưởng vào người mình lắng nghe, không do dự đắn đo. Chỉ trong cùng một thứ ngôn ngữ của những con tim yêu nhau, họ mới dễ nhận ra và hiểu đúng ý của người mình yêu. Mẹ Maria luôn kết hiệp với Chúa, con tim Mẹ rất nhạy cảm trước những mặc khải của Thiên Chúa tình yêu. Đối với Mẹ, lắng nghe cũng là một đáp trả tình yêu của Thiên Chúa.
2- Mẹ có phúc vì đã tuân giữ Lời của Thiên Chúa.
Đây là bước thứ hai của tình yêu để đáp trả tình yêu. Một khi đã nhận ra ý của Thiên Chúa, thì cố gắng bằng mọi giá làm theo ý của Cha trên trời như là một dấu chứng tình yêu.
Có nhiều người đi được bước đầu: lắng nghe và nhận ra ý Thiên Chúa, nhưng không đủ can đảm đi tiếp bước thứ hai là làm theo lời Ngài, vì thiếu quảng đại, sợ hy sinh, ngại bỏ ý riêng.
Đức Maria, với một tâm hồn quảng đại, sẵn sàng hy sinh để đáp trả, Mẹ luôn thi hành Thánh ý Chúa. Hai chữ “Xin Vâng" trở thành điệp khúc bài ca tình yêu của Mẹ dâng lên Thiên Chúa. Mẹ xin vâng không chỉ trong những hoàn cảnh xuôi thuận may mắn mà còn trong những biến cố khó khăn và thử thách.
Thiên Chúa muốn Mẹ sinh con trong hang lừa máng cỏ nghèo nàn lạnh buốt. Ngài muốn Mẹ vất vả lao đông để đổi lấy bát cơm manh áo. Ngài muốn Mẹ chia sẻ những chống đối vô ơn của con mình trên bước đường thi hành thánh ý Chúa Cha. Ngài muốn Mẹ từng bước theo Con trên đường núi sọ. Ngài mời gọi Mẹ có mặt dưới chân thánh giá để chứng kiến cái chết đẫm máu và đau thương của Người Con yêu dấu.
Trong mọi trường hợp và cảnh huống, Mẹ luôn thưa xin vâng với tâm tình tuân phục và tin yêu, vì Mẹ luôn muốn thi hành thánh ý của Thiên Chúa.
Kính thưa anh chị em,
Trong hai ngày hành hương về La Vang để mừng lễ Mẹ Lên Trời hồn xác, Chúa muốn chỉ cho chúng ta một con đường về trời với Mẹ Maria: Đó là con đường biết lắng nghe và tuân giữ lời của Thiên Chúa. Hạnh phúc lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho một mình Mẹ, nhưng Chúa đã muốn mời gọi tất cả chúng ta hưởng trọn niềm vui và hạnh phúc đó.
Chúa Giêsu đã xác nhận điều nầy khi quả quyết: "Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi" ( Mt 12,49).
Con đường lên trời là một con đường lên dốc, đòi hỏi nhiều cố gắng và hy sinh liên tục. Nhưng chúng ta an tâm vì đã có một người Mẹ đi trước và đang giang tay chờ đón để lôi kéo chúng ta lên theo.
Hãy bám víu vào Mẹ, hãy cầu xin mẹ giúp chúng ta noi gương Mẹ luôn biết lắng nghe tiếng Chúa qua lương tâm, qua giáo huấn của Giáo Hội, qua Lời Chúa và qua mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, để rồi sau đó cố gắng tuân giữ và thi hành thánh ý của Cha trên trời. Đó là con đường ngắn nhất, là hạnh phúc Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài ngay trên cõi đời nầy vì phúc thay cho nhưng ai nghe và tuân giữ Lời của Thiên Chúa.
Lạy Mẹ La Vang xin cầu cho chúng con biết lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa như Mẹ. Amen.
Giáo Hội dành cho Mẹ Maria biết bao tước hiệu. Mọi danh xưng của Mẹ đều gói trọn ý nghĩa 15/8-135
Giáo Hội dành cho Mẹ Maria biết bao tước hiệu. Mọi danh xưng của Mẹ đều gói trọn ý nghĩa cao vời. Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu và cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta.
Do đó, tên Maria gợi lên cho ta tình thương vô biên của một người Mẹ luôn sẵn sàng yêu ta, cảm thông, tha thứ cho ta mỗi khi ta lỗi lầm yếu đuối. Còn tên nào trìu mến cho bằng tên Maria. Con người trần gian không thể dùng bất cứ ngôn ngữ nào để diễn tả về Mẹ Thiên Chúa. Con người chỉ biết cúi đầu trước bao danh xưng ý nghĩa tuyệt vời. Vì là Mẹ Thiên Chúa, Maria đã được Thiên Chúa ban cho nhiều đặc ân cao trọng mà bất cứ người phụ nữ nào trên trần gian cũng không có được. Ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn hồn xác về trời là những đặc ân vô cùng quí giá. Chỉ mình Mẹ có được và chỉ mình Mẹ mới có thể hiểu thấu. Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời, chúng ta cảm nghiệm sao về đặc ân vô cùng quí giá ấy.
MẸ MARIA: Có Mẹ có Cha là một hạnh phúc lớn lao đối với con người. Tiếng Mẹ tiếng Cha luôn cho con trẻ và ngay cả người lớn cái cảm giác êm đềm, dễ chịu. Chúa Giêsu khi đến trần gian, Ngài cũng không đi một con đường nào khác, Ngài không sinh ra như một Tiên Nga giáng trần hay như một vị thần thánh nào khác. Ngài đã chọn một gia đình: có Cha, có Mẹ. Ngài đã sinh ra một cách bình thường như bất cứ một trẻ nhỏ nào khác. Đọc lại Kinh Thánh và học Giáo Lý, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và vô cùng sung sướng khi thấy sự lạ lùng của việc Chúa làm. Con đường của Chúa hết sức kỳ diệu và con đường của Người vô cùng lạ lùng. Maria đã được chuẩn bị từ trước. Mẹ đã được sinh ra trong cung lòng của bà thánh Anna vào lúc bàđã tuổi già. Thánh Gioakim cũng đã ngã chiều và ở vào cái tuổi hai ông bà không thể nào sinh con vì tuổi tác. Nhưng Thiên Chúa đã làm một việc hết sức kỳ diệu, bà thánh Anna đã sinh con duy nhất là Đức Trinh Nữ Maria. Thế rồi cuộc đời của Maria cứ lớn lên trong ơn nghĩa của Chúa. Thiên Chúa lại để ý và sủng ái Mẹ Maria. Nhân loại phản bội Thiên Chúa. Cái tội phản bội đáng lẽ bị Chúa loại trừ, tiêu diệt. Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương con người. Ngài đã cất nhắc và chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa. Ơn cao quí làm Mẹ Thiên Chúa là một ơn nhưng không Thiên Chúa tặng ban cho Mẹ Maria. Chính vì thế, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn trinh thai và ơn hồn xác lên trời. Đứng trước những ơn vô cùng quí báu, Maria chỉ biết chấp nhận với tất cả lòng tin thâm sâu và lời xin vâng tuyệt vời. “ Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều cao trọng, danh Người thật chí thánh chí tôn”( Lc 1, 49 ).
ƠN HỒN XÁC LÊN TRỜI LÀ ƠN HUỆ CAO QUÍ CHÚA TẶNG BAN CHO MẸ:
Hơn ai hết Mẹ Maria đã hiểu rõ cái giới hạn của kiếp sống phù du của kiếp người.
Evà đã phạm tội, nghe lời xúi giục của con rắn mà phản nghịch lại lời giao ước của Thiên Chúa. Evà phải chết. Thân xác của bà trở về cát bụi. Maria, Mẹ của Thiên Chúa đã luôn làm theo ý Chúa. Lời xin vâng của Mẹ đã nói lên tấm lòng thẩm sâu của Mẹ. Mẹ tin, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn đi vào đường lối của Thiên Chúa, đi vào chương trình yêu thương của Thiên Chúa, Mẹ đã bám chặt vào Thiên Chúa, đã tin vào lời của Chúa. Mẹ tin mọi sự, Chúa đều có thể thực hiện. Mẹ đã tin, nên Mẹ sau khi chết đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đặc ân cao quí này chỉ mình Mẹ có được, chỉ mình Mẹ được thừa hưởng. Mẹ đã về trời cả hồn lẫn xác ở cạnh ngai toà Thiên Chúa. Đặc ân hồn xác lên trời của Mẹ cũng là ân huệ tuyệt vời Thiên Chúa đang mời gọi từng người chúng ta. Mẹ mời gọi nhân loại hãy đi vào chương trình của Thiên Chúa, bám chặt, tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Chúa. Hãy xin Mẹ hồn xác về trời cầu thay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta cũng được về trời như Mẹ.
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã đưa lên trời cả hồn lẫn xác Đức Maria là trinh nữ vô nhiễm và là thánh mẫu của con Chúa. Xin cho chúng con hằng biết hướng lòng về phúc lộc quê trời để mai sau được cùng thánh mẫu chung hưởng vinh quang( Lời nguyện nhập lễ, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời ).
"Bởi quyền năng của Chúa Giêsu Chúa chúng ta, của Hai Thánh Tông Ðồ Phêrô và Phaolô và của chính ta, ta tuyên bố, bày tỏ và xác định như một tín điều được Thiên Chúa mạc khải rằng Ðức Maria, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa sau khi đã mãn cuộc đời ở trần thế đã được linh hồn và xác lên trời vinh hiển".
Bằng những lời long trọng ấy, Ðức Giáo Hoàng Piô XII, xử dụng quyền vô ngộ, đã tuyên bố ngày 15/8-136
Bằng những lời long trọng ấy, Ðức Giáo Hoàng Piô XII, xử dụng quyền vô ngộ, đã tuyên bố ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tín điều Ðức Mẹ hồn xác lên trời như một giáo điều phải tin.
1. Lịch Sử, Thánh Lễ
Cũng như tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm, Tín điều Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời được quảng nghĩa bởi Thánh Lễ kính mầu nhiệm ấy. Thánh lễ mừng ngày sinh nhật của Mẹ trên trời - Dies natalis - đã được mừng bên Ðông Phương từ thế kỷ thứ V và mang nhiều tên gọi như Mông Triệu (Assomption), Yên Nghỉ (Dormition) hay về trời (Transitus).
Thánh Lễ được gia nhập Tây Phương giữa thế kỷ thứ VII. Tuy nhiên, có nhiều sự do dự vì ảnh hưởng của các sách ngụy thư gây nên. Dầu vậy, với thời gian, giáo huấn được khai triển, thấu triệt hơn và toàn thể dân Chúa đi đến một niềm tin phổ cập.
Và Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã công bố thành Tín điều tháng 11 năm 1950. Nên biết rằng, dưới thời Ðức Piô XI, đã có phong trào xin công bố giáo thuyết Ðức Mẹ là Ðấng trung gian. Nhưng giáo thuyết đó không phù hợp với lời của Thánh Phaolô dạy rằng chỉ có một Ðấng trung gian (1Tm 2,5), cũng như gặp phải một số vấn nạn khác.
Ðức Piô XII liền chọn giáo thuyết Mông Triệu vì không đặt ra nhiều vấn đề. Và ngài đã công bố bằng những danh từ cố ý không giải quyết một số vấn đề tranh chấp.
Ngài chỉ công bố ngắn ngủi như sau: "Khi đã mãn cuộc sống ở thế trần, Ðức Trinh Nữ, Vô Nhiễm, Mẹ Thiên Chúa được triệu hồi về Thiên Ðàng cả Hồn lẫn Xác".
Ðức Piô XII chỉ minh xác rằng hiện nay Ðức Mẹ hiện diện trong vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh. Chỉ có thế.
Vấn đề: ở đâu, khi nào, cách nào, không được giải quyết. Cả vấn đề Ðức Mẹ có phải trải qua sự chết hay không cũng không được đề cập đến. Thường người ta tin rằng Ðức Mẹ cũng đã chết như Chúa Giêsu Con Ngài đã lãnh nhận sự chết, nhưng cũng có người như Thánh Epiphane và một số người khác cho rằng Ðức Mẹ không phải chết, chỉ được trực tiếp triệu hồi về Thiên Ðàng.
Như vậy, tín điều được công bố bãi bỏ những hình ảnh do các sách ngụy thơ nói vẻ vời như một cuộc thăng thiên trực chỉ có các Thiên Thần theo hầu... Danh từ triệu hồi (assumpta) là một danh từ Thánh Kinh hay dùng để nói lên cuộc gặp gỡ Chúa sau khi chết như trường hợp ông Hénoch (Sáng thế 5,24) tiên tri Elia (II Vua 2,3-10) được Chúa cất về. Và đó cũng là ân huệ Chúa dành cho mọi người công chính.
2. Tình thương sung mãn của Thiên Chúa dành cho Ðức Mẹ
Hai Tín điều: Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Ðức Mẹ Linh Hồn và Xác lên trời, mới được công bố trong khoảng cách một thế kỷ là những tín điều liên kết bổ sung cho nhau, nói lên tình thương sung mãn của Thiên Chúa dành cho Ðức Mẹ. Ðồng thời Ðức Mẹ là tiền ảnh của Giáo Hội và của mỗi tâm hồn tín hữu lúc khởi thủy và lúc tận cùng cuộc đời.
Công cuộc Chúa làm thật lớn lao cao cả. Ngài đã chọn Ðức Mẹ để Mẹ thông phần vào việc Cứu Chuộc nhân loại và từ khởi thủy đã đưa Mẹ lên một bức trọn lành vượt mức báo hiệu một ngày tận cùng trọn hảo, do tình thương bao la của Chúa. Giáo Hội và mỗi người chúng ta cũng được tham gia vào cuộc vinh thăng ấy, như Ðức Mẹ là Mẹ và là mẫu gương cho chúng ta.
Chúng ta cũng được thông chia sự sống của Thiên Chúa qua ơn sủng của phép Thánh Tẩy, trở nên con của Chúa thì chúng ta hy vọng một ngày kia cũng được thông phần vinh quang bên cạnh Mẹ.
Cuộc đời là một chuyến đi. Dù đứng, dù ngồi, dù nằm, tôi vẫn trên đường đi. Tôi dđang đi về 15/8-137
Cuộc đời là một chuyến đi. Dù đứng, dù ngồi, dù nằm, tôi vẫn trên đường đi. Tôi dđang đi về cuối đời. Rồi sẽ tới sự chết. Từ sự chết, tôi bước vào cõi sau. Cõi sau là một huyền nhiệm. Hạnh phúc đời đời, khổ cực đời đời sẽ được định đoạt ở đó. Vì thế, trong chuyến đi cuộc đời, tôi phải lo đi đúng đường. Đường đó tạm gọi là đường lành.
Đâu là đường lành, tôi đâu dễ thấy. Mà dù có thấy, tôi đâu dám nói là tôi đủ can đảm để chọn con đường đó. Và dù đã chọn, tôi đâu dám quả quyết là tôi đủ sức để luôn đi đúng con đường đã chọn.
Rất may là trong chuyến đi cuộc đời, tôi có Đức Mẹ Maria. Tôi gọi Mẹ là mẹ của tôi. Mẹ ở bên tôi. Mẹ cùng đi với tôi. Mẹ trên đường với tôi.
Hôm nay, nhân dịp mừng lễ Đức Mẹ về trời, tôi xin chia sẻ đôi điều về Mẹ.
Đường đời của tôi tới đây được kể là khá dài. Tôi đi trên đường đó với biết bao thăng trầm. Tôi luôn nhìn vào Mẹ. Và tôi đã đón nhận từ Mẹ những điều đơn sơ mà hết sức quan trọng. Dưới đây chỉ là vài kinh nghiệm của kẻ còn trên đường dương thế.
1/ Toàn cảnh trước mắt
Mẹ cho tôi biết toàn cảnh trước mắt gồm có:
Thế giới thiên đàng tràn ngập tình yêu sáng láng của Chúa. Những ai hiệp thông với tình yêu đó, sẽ được hạnh phúc đời đời bên Chúa là Cha.
Thế giới hoả ngục sôi bỏng khổ đau, cô đơn, tăm tối. Những ai bị quăng vào đó sẽ phải chịu cực hình đời đời với quỷ dữ.
Thế giới trần gian pha trộn lành dữ. Đây là nơi thử thách và phấn đấu. Ai đi đúng đường tới phút chót sẽ được về với Cha trên trời.
Để được thế, tôi phải luôn tỉnh thức đón nhận Chúa Giêsu. Người ngự vào tâm hồn tôi. Người ở lại trong tôi. Người dần dần cải đổi tôi nên con người mới. Con người mới này sẽ có những nét hơn kém giống Người. Nét đặc biệt nhất là luôn sống theo thánh ý Chúa Cha.
2/ Sống theo thánh ý Chúa Cha
Sống theo thánh ý Chúa là thao thức thường xuyên của người con Chúa đi về với Cha. Nếu không có Mẹ dạy dỗ nhắc nhở, tôi sẽ không quan tâm đủ đến đòi hỏi đó.
Mới rồi, tôi trao đổi với một người tương đối sùng đạo. Tôi thấy họ nghèo, phải vay mượn để sống. Nhưng khao khát của họ là sắm được xe sang, có đồng hồ vàng, di động loại tốt. Thao thức của họ là khẳng định mình không kém bè bạn, trong hưởng thụ và mua sắm.
Từ trường hợp đáng buồn đó, tôi lo cho những người khác và cho chính tôi. Nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ để mình bị sai khiến bởi đam mê, bởi ý riêng, bởi những phong trào thế tục xấu, bởi bạn bè không tốt, bởi dư luận vô trách nhiệm, bởi số đông chạy theo thói đời.
Nhưng, khi tôi đến bên Mẹ, xin Mẹ giúp tôi biết chọn lựa những gì thực sự là thánh ý Chúa, tôi mới thấy phải tỉnh thức và cầu nguyện rất nhiều.
Cầu nguyện sẽ không là nói nhiều, mà là lắng nghe nhiều. Thánh Thần Chúa nói. Người nói nhỏ nhẹ tận thẳm sâu tâm hồn. Người cũng nói âm thầm qua Lời Chúa, qua những biến cố lặng lẽ của thế giới nội tâm và tình hình lịch sử.
Tiếng gọi đó là từ trên. Sứ điệp đó phát xuất từ thế giới khác. Thế giới khác ấy cho tôi nhìn thế giới này với bề dày của nó. Tôi khám phá ra chính cuộc sống thường ngày của người con Chúa. Nó có một hơi thở khác, toả ra một ánh sáng khác.
Tôi cũng thấy có nhiều cách sống đạo khác nhau. Nhưng tôi nhận ra không phải mọi cách sống đạo đều làm chứng cho Chúa.
Sự chọn lựa nào cũng đòi nhiều tỉnh thức để vâng phục Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Mẹ sẽ giúp điều đó cho kẻ cậy trông Mẹ.
3/ Trái tim được mở rộng
Trên đường đời, tôi không đi một mình. Tôi đi với những người khác, tôi đi giữa đám đông. Tôi cảm thấy sự gần gũi, nhưng cũng cảm thấy sự khác biệt. Sự khác biệt dễ đưa tôi vào thái độ xa cách, nghi kỵ, loại trừ. Lòng tôi vì thế dễ khép lại, ẩn mình trong một ranh giới nhỏ hẹp.
Nhưng, Mẹ của kẻ đi đường dạy tôi về yêu thương. Không có yêu thương trừu tượng. Nhưng yêu thương là cụ thể hoá trên những con người cụ thể. Mẹ nhắc nhở tôi hãy bắt chước Mẹ, nhìn mọi người với tâm hồn bao dung kính trọng. Hãy thờ Chúa không phải chỉ trên núi này hay trong đền thờ nọ. Nhưng hãy thờ Chúa trong tinh thần và trong chân lý. Khi thờ Chúa như vậy, người ta sẽ thấy lòng mình mở ra, nhận ra Chúa trên những khuôn mặt nhiều người, nhất là những người đau khổ. Ánh mắt của những người đó sẽ như những cửa sổ chiếu xa về cõi đời đời. Nước Trời rộng hơn người ta tưởng.
Lúc nhận ra điều đó, tôi sẽ được tập quen biết coi thường những vẻ bề ngoài trên mỗi con người, nhưng sẽ nhìn tâm hồn họ và hoàn cảnh họ như Chúa nhìn.
Đây là một cuộc chiến đấu của tình yêu và cho tình yêu. Trong cuộc chiến đấu đó, tôi được đón nhận hơn là cho đi. Đó là đón nhận tình yêu của Chúa giấu ẩn nơi những kẻ khác, nhất là nơi những kẻ khốn cùng.
4/ Gắn chặt vào thân cây
Còn nhiều điều có thể nói về Mẹ của kẻ đi đường. Nhưng một điều vắn gọn có thể nói thay cho tất cả. Đó là Mẹ đưa những người con Mẹ vào sự sống mật thiết với Chúa Giêsu. Gắn bó mật thiết như cành cây với thân cây.
Để được như vậy, Mẹ luôn nâng đỡ, ủi an, cứu giúp. Người con Mẹ được Mẹ dạy về sự cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, sự sám hối, sự đền tội, sự đứng lên sau khi vấp ngã, sự sống mầu nhiệm thánh giá và mầu nhiệm Giáo Hội.
Mẹ Maria ơi, Mẹ đã tới đích. Còn con vẫn trên đường. Mọi sự của con đều còn dang dở và rất mong manh, khó tránh được những bất ngờ. Xin Mẹ luôn ở bên con. Mẹ là nguồn đem lại cho con sức sống, chân lý, niềm tin cậy và sự bình an. Con thuộc về Mẹ. Con xin cùng với Mẹ khiêm tốn tập trung vào Đức Kitô, đi về với Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Chúng ta vừa nghe công bố Tin mừng thánh Luca 1, 39-56. Nội dung đoạn Tin mừng này đề 15/8-138
Chúng ta vừa nghe công bố Tin mừng thánh Luca 1, 39-56. Nội dung đoạn Tin mừng này đề cập đến một câu chuyện rất đời thường: đó là câu chuyện Đức Maria đang mang thai Chúa Giêsu, từ Nadarét đến thăm viếng và ở lại giúp người chị họ Elizabét, vợ của ông Giacaria, cũng đang cưu mang và sắp sinh đứa con đầu lòng là Gioan Tẩy Giả. Có thể nói những bước chân đon đả và chan chứa yêu thương của người em họ Maria trẻ trung đến giúp người chị họ Elizabét đã lớn tuổi mà đang mang thai và sắp sinh đứa con đầu lòng, đối với người Việt Nam chúng ta vẫn là bổn phận bình thường của tình chị em trong gia tộc…
Tuy nhiên, điều làm nên tính chất cao cả của sự việc đang diễn ra chính là động lực thúc đẩy bên trong. Thánh sử Luca ghi rõ tác động của Chúa Thánh Thần: “Bà Elizabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên và bà được đầy Thánh Thần. Bà Elizabét kêu lớn tiếng và nói: ‘Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này!’ Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì sung sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Niềm hân hoan bộc phát thành lời của người chị họ Elizabét đã hé lộ cho chúng ta thấy rằng điều làm nên sự chúc phúc và tính cao cả trong hành vi thăm viếng của Đức Maria chính là niềm tin vào Lời Chúa: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Và sự nối kết xem ra huyền bí giữa vẻ cao sang và niềm đau sinh con trong đoạn sách Khải huyền giúp chúng ta hiểu rằng chính khả năng mang nặng đẻ đau tự nhiên của người phụ nữ đã đem lại cho Đức Maria vinh dự cao cả là làm mẹ Đấng Cứu Thế. Bởi vì, “điềm lạ một người nữ, mình mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” cũng chính là hình ảnh “một thai phụ đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con”.
Vâng! Để Ngôi Lời nhập thể đến được với nhân loại, Thiên Chúa đã chọn sự cộng tác tích cực và đầy trách nhiệm của một người nữ là Đức Maria: Lời “xin vâng” mà Đức Maria thưa với sứ thần lúc truyền tin không mang tính thụ động, nhưng đặt nền tảng trên thái độ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và được thể hiện cách thiết thực bằng nỗ lực kiên trì tìm kiếm Thánh ý Thiên Chúa và sẵn sàng cộng tác với Con của Ngài trong việc thực hiện chương trình cứu độ.
2. Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ và đặc biệt chị em phụ nữ quí mến, Mãi cho tới hôm nay, phong trào tranh đấu cho nữ quyền vẫn còn có lý do chính đáng để chống lại những định chế xã hội thiếu tôn trọng các giá trị của phụ nữ, vì tình trạng bất bình đẳng do não trạng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, khiến cho nhiều chị em vẫn bị đối xử bất công và không có đủ điều kiện để phát huy bản thân đúng với vai trò người phụ nữ.
Với sự dung túng của nền kinh tế thị trường, chính xu hướng hưởng thụ ích kỷ và quá tôn vinh sự nghiệp đã đẩy nhiều người mẹ đến những hành vi thô bạo dã man chống lại sự sống con người, thiếu trách nhiệm trong đời sống hôn nhân và gia đình, khiến xã hội ngày càng tràn ngập các tệ nạn ly dị, phá thai. Thứ đến, xu hướng đề cao tự do cá nhân quá trớn cũng đang tiếp tay phá đổ các giá trị đạo đức của hôn nhân và gia đình, làm lung lay nền tảng của xã hội, khiến cho luân thường đạo lý bị đảo lộn và biến người phụ nữ thành nạn nhân hoặc của phóng túng và bê tha, hoặc của dịch vụ siêu lợi nhuận công nghệ sinh học.
Điều đau lòng là chúng ta đang chứng kiến thực trạng bi đát này trên chính quê hương chúng ta. Biết bao tệ nạn xã hội đang âm ỉ lan tràn đằng sau những thành tựu của nỗ lực công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Chắc anh chị em cũng theo dõi và biết rõ, suốt một thời gian dài vừa qua, Báo chí và Truyền thanh Truyền hình đã thường xuyên đưa tin về những trường hợp nạo thai, phá thai và những bà mẹ vừa sinh ccn đã đem vứt bỏ con mình nơi thùng rác hoặc trước cổng các bệnh viện. Và cũng thật xót xa biết bao khi nhìn thấy trên báo chí những tấm hình chụp những nghĩa trang mênh mông không bia mộ dành để chôn tập thể các thai nhi bị chính bố mẹ mình tước quyền chào đời và các sơ sinh bị cha mẹ chúng cam tâm bỏ rơi!...
3. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải học “Sống Lời Chúa theo gương Đức Maria” để tái khám phá khuôn mặt cao sang của người phụ nữ trong sứ mạng làm mẹ.
Theo Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, công trình tuyệt diệu mà Đấng Tạo Hóa đã thực hiện nơi Đức Maria có thể cung cấp cho chúng ta một cơ may khám phá phẩm giá đích thực và thiên chức làm mẹ cao quý của người phụ nữ nhằm có được một cái nhìn toàn diện và quân bình hơn về nữ giới, về gia đình và về xã hội. Theo ngài, hồng ân đặc biệt dành cho Thân mẫu Chúa Giêsu không những cho thấy điều mà chúng ta nói được là sự kính trọng Thiên Chúa dành cho phụ nữ, mà còn làm sáng tỏ vai trò không thể thay thế được của người phụ nữ trong lịch sử của nhân loại theo ý định của Thiên Chúa. Đó là vai trò làm mẹ, một vai trò cho phép người phụ nữ được cọng tác sáng tạo với Thiên Chúa, Đấng là Nguồn và là Chủ Sự Sống. Những chương đầu của sách Sáng thế cho chúng ta thấy rõ ý định của Thiên Chúa là tác tạo con người nam nữ bình đẳng về phẩm chức và giá trị, nhưng đồng thời Ngài cũng khẳng định cách rõ rệt về sự khác biệt và về đặc trưng của người nam và người nữ.
Trong những năm qua, chúng tôi rất vui mừng và tạ ơn Chúa khi chứng kiến nhiều sinh hoạt phong phú giúp củng cố ơn gọi sống bậc Hôn nhân và Gia đình. Chúng tôi ghi nhận và tin tưởng rằng các lớp chuẩn bị hôn nhân cũng như các sinh hoạt Gia Đình Cùng Theo Chúa, Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình, Tân Dự Tòng, Gia Đình Trẻ v.v… đã và đang đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho quý anh chị làm chồng làm vợ và làm cha làm mẹ… Đặc biệt đối với văn hóa Việt Nam, vai trò người mẹ, người vợ thật quan trọng, vì thế, khi giúp cho người mẹ, người vợ sống đảm đang, đạo đức, thánh thiện thì cả gia đình sẽ được hưởng nhờ.
Hơn nữa, hình ảnh con rắn, con mãng xà trong bài Khải huyền không cho phép chúng ta có cái nhìn quá ngây ngô về cuộc sống gia đình. Đối mặt với những nguy cơ và những thách đố lớn của xã hội hôm nay, dung mạo thánh thiện tuyệt vời của Đức Maria phải trở nên dấu chỉ khuyến khích hết mọi kitô-hữu biết tin nhận quyền năng thánh hóa của ơn Chúa. Cùng với Mẹ và noi gương Mẹ, chúng ta hãy xác tín rằng: “đối với Chúa, không có chi mà không thể làm được”, ngõ hầu, như Mẹ, chúng ta có thể sống hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa toàn năng, là Đấng có thể tái tạo nơi chúng ta một lương tâm trong sáng và một con tim biết yêu thương như Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Mẹ Maria La Vang, Mẹ Việt Nam, Mẹ có phúc vì Mẹ đã tin.
Hôm nay, vầy quanh Mẹ trong chuyến hành hương này, chắc chắn Mẹ cũng nhìn thấy biết bao người cha người mẹ đang gặp khó khăn hay bất hạnh trong đời sống gia đình. Xin Mẹ cầu bàu cùng với Chúa giúp chúng con được kiên vững trong đức tin như Mẹ, để cuộc sống gia đình chúng con cũng được chúc phúc và vượt thắng mọi thử thách.
Xin Mẹ cho tất cả quý chị em phụ nữ ngày nay xác tín rằng: “làm mẹ” là một ân huệ Thiên Chúa ban tặng, để chị em luôn biết nỗ lực chu toàn sứ mạng làm mẹ cao cả và can đảm làm chứng cho Tin mừng Sự Sống nhằm góp phần xây đắp nền Văn minh Tình thương. Amen.
Ngày 15 tháng 8 năm 1999 tại Rôma, Đức Thánh Cha dâng thánh lễ kính “Mẹ Hồn Xác Lên Trời” 15/8-139
Ngày 15 tháng 8 năm 1999 tại Rôma, Đức Thánh Cha dâng thánh lễ kính “Mẹ Hồn Xác Lên Trời”. Đức Thánh Cha đã giải thích suy niệm câu “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” như sau:
“Giáo Hội lữ hành trong lịch sử ngày nay hiệp ý với bài ca vui mừng của Mẹ Maria Đồng Trinh. Giáo Hội nói lên niềm vui và chúc tụng Thiên Chúa, vì Mẹ của Chúa khải hoàn bước vào vinh quang trên trời. Trong mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời xuất hiện cho chúng ta thấy ý nghĩa trọn vẹn và quyết định của những lời mà Mẹ Maria đã thốt lên khi Mẹ đáp lại lời chào của bà Elizabeth: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.
Nhờ vào việc chiến thắng của Chúa Kitô vượt qua sự chết, Đức Nữ Đồng Trinh Nazareth được kết hợp cách đặc biệt vào hiệu quả của ơn cứu rỗi. Với lời “Xin Vâng”, Mẹ đã đáp lại trọn vẹn Thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã tham dự cách sâu xa vào mầu nhiệm Chúa Kitô và đã bước vào vinh quang trước tiên, sau Chúa Kitô, với trọn cả hồn lẫn xác. Lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ là niềm vui của biết bao người sống trong bóng tối và sự chết.
Thật vậy, nhờ Mẹ mà Chúa của sự sống bước vào thế gian. Các tín hữu vui mừng và tôn kính Mẹ như là Mẹ của nhiều người con đã được Chúa Kitô cứu chuộc, một cách đặc biệt trong ngày hôm nay, các tín hữu tôn kính Mẹ như là dấu chỉ của sự an ủi, của niềm vui cho mọi người, mọi dân tộc trên đường hành hương tiến về quê trời.
Chúng ta hãy đưa mắt nhìn lên Mẹ Đồng Trinh mà Phụng vụ khẩn cầu Mẹ như là “Đấng bẻ gẫy xiềng xích trói buộc cho những kẻ bị áp bức, trả lại ánh sáng cho kẻ bị mù, xua đuổi mọi sự dữ ra khỏi chúng ta và cầu xin cho chúng ta được mọi sự lành”.
“Linh hồn tôi chúc tụng Chúa”. Cộng đoàn Giáo Hội trong ngày lễ trọng thể kính Mẹ Maria hôm nay, lập lại bài ca tạ ơn của Mẹ và Giáo Hội làm công việc này với tư cách là dân Chúa, và xin mọi tín hữu hãy hiệp chung với nhau hát lại bài ca Magnificat dâng lên Chúa.
Ngay từ thế kỷ đầu, thánh Ambrôsiô đã khuyến khích: “Ước chi tâm hồn Mẹ Maria hiện diện nơi từng người để chúc tụng Thiên Chúa, và ước chi thần trí của Mẹ Maria hiện diện nơi mỗi người để hoan hỷ trong Chúa”.
Những lời của bài ca Magnificat là như chúc thư thiêng liêng của Mẹ Maria Đồng Trinh. Tuy nhiên, những lời này cũng là phần gia tài cho tất cả những ai nhìn nhận mình là con của Mẹ Maria, quyết định tiếp rước Mẹ Maria về nhà mình, như thánh Tông đồ Gioan đã làm khi xưa, và thánh nhân đã tiếp nhận Mẹ của mình trực tiếp từ Chúa Giêsu dưới chân Thập giá.
Đó là những lời khuyến khích của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho tất cả mọi người trong ngày lễ kính “Mẹ Hồn Xác Lên Trời” hôm nay 15 tháng 8. Qua đó, Đức Thánh Cha đã đề ra cho mọi người mẫu gương của Mẹ Maria như sau:
Khi đặt mình vào trường học của Mẹ một cách đặc biệt, các tín hữu được mời gọi thực hiện cuộc ăn năn trở lại cách sâu xa hơn, củng cố Đức Tin của họ, chăm chú lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng phục vụ anh chị em mình.
Đối với tất cả những đồ đệ của Chúa Kitô, Mẹ là mẫu gương tốt nhất cho đời sống Kitô, Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận Chúa Kitô và trao cho chúng ta, giống như xưa kia Mẹ đã trao cho những người giúp việc tại tiệc cưới Cana một mệnh lệnh: “Hãy làm tất cả những gì Chúa truyền dạy”. Mẹ mời gọi chúng ta hãy ra đi đến với những ai đang cần sự nâng đỡ và trợ giúp của chúng ta, như chính Mẹ đã làm cho người chị họ Elizabeth. Như thế, chúng ta lãnh nhận từ Mẹ rất thân yêu này sự thích thú của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và của sứ mạng sống đức ái phục vụ tha nhân.
Xin Chúa biến đổi tâm hồn mọi người luôn có những tâm tình hòa bình, huynh đệ và liên đới, ngõ hầu tất cả mọi người hiệp nhất với nhau mỗi ngày một hơn, để xây dựng một thế giới mới, trong đó mọi người được sống an vui, và thế giới ấy được xây trên những giá trị tinh thần và luân lý thiết yếu. Mỗi người có thể được nhìn nhận phẩm giá làm con cái Thiên Chúa, và được tự do hướng về Cha trên trời, Đấng giàu lòng thương xót với tình con thảo.
Đó là tâm tình của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong muốn cho mọi thành phần trong Giáo Hội, cho tất cả những ai đang tôn kính Mẹ. Trong tâm tình này mọi người hãy kết hiệp với nhau, như lời Đức Thánh Cha nói: “Mời Mẹ đến ở nhà chúng ta”. Mời Mẹ đến với chúng ta, để xin Mẹ giúp thực thi lời Chúa truyền dạy: “Hãy làm những gì Chúa truyền”.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có một tâm hồn luôn tươi trẻ, để biến đổi tình yêu chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con ý thức rằng, chỉ có tình yêu thương mới biến đổi tâm hồn con người và giúp chúng con biến đổi thế giới. Xin Mẹ luôn hiện diện bên Chúa, gìn giữ chúng con trên con đường theo Chúa Kitô, và làm cho chúng con được trưởng thành trong Đức Tin.
Đến với linh địa La Vang chiều hôm nay, thấp thoáng đó đây, chúng ta đọc thấy chủ đề của 15/8-140
Đến với linh địa La Vang chiều hôm nay, thấp thoáng đó đây, chúng ta đọc thấy chủ đề của những ngày hành hương thường niên mừng lễ Mẹ lên trời hồn xác, đó là Sống yêu thương và phục vụ theo gương Mẹ Maria.
Yêu thương phục vụ là giới răn trọng nhất của đạo công giáo chúng ta, vì nếu không có tình yêu thì tất cả sẽ biến thành con số không trước mặt ThiênChúa. Yeu thuong và phục vụ cũng là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu đã chọn để phân biệt chiên với dê, người lành bên hữu và kẻ dử bên tả, trong ngày phán xét chung:" Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống...”
Chủ đề của những ngày hành hương nầy cũng đưa chúng ta trở lại với thư mục vụ của HĐGM / VN năm 2007: "Sống đạo hôm nay", yêu thương và phục vụ.
Nếu phải tìm một thần tượng để nêu gương cho chúng ta bắt chước trong đời sống yêu thương và phục vụ, thì ngoài Chúa Giêsu, chỉ có một mình Đức Maria là một mẩu gương tuyệt vời nhất.
Thực vậy, ngay lúc còn thơ ấu, khi được cha mẹ dâng vào đền thánh, Đức Maria đã muốn hiến dâng cả cuộc đời để yêu mến và phục vụ một mình Thiên Chúa. Tiếng "Xin Vâng" mà Mẹ thưa lên trong ngày truyền tin chắc chắn đã được thành hình và nuôi dưỡng bằng tâm tình yêu thương và phục vụ nầy.
Mặc dầu biến cố truyền tin, một cách nào đó đã khiến Mẹ ngở ngàng vì ở ngoài ước mong và dự đoán của Mẹ, nhưng Mẹ đã khiêm tốn đón nhận trong tâm tình của một người tôi tớ luôn sẳn sàng để thánh ý Chúa luôn được thực hiện trong cuộc đời của Mẹ: "Nầy tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền".
Biến cố nổi bật nhất nêu cao tinh thần yêu thương và phục vụ đang nung nấu tâm hồn Me, đó là việc Mẹ lên đường đi thăm bà Isave. Mẹ hy sinh vượt qua mọi thử thách: dường sá xa xôi, lên đồi xuống dốc, thân nhi nữ đang bung mang dạ chửa, vội vã lên đường để mang Chúa đến cho gia đình ông Giacaria và để phục vụ bà chị họ trong những ngày sinh nở.
Tại tiệc cưới Cana, con tim nhạy cảm và tế nhị của Mẹ đã đi bước trước để giúp đở đôi tân hôn. Mẹ tự động tìm cách can thiệp với Chúa Giêsu ngay cả khi họ chưa dám cầu xin với Mẹ. Phó thác và tin tưởng vào quyền năng và lòng thương xót của con mìmh, Mẹ tin chắc phép lạ sẽ xảy ra vì Mẹ hiểu rằng Chúa Giêsu không thể phụ lòng yêu thương và phục vụ của Mẹ.
Và trên đồi Can vê, ngay cả khi lòng Mẹ đang tan nát vì chứng kiến cơn hấp hối quằn quại của Chúa Giêsu trên thập giá, lòng Mẹ vẫn rộng mở để yêu thương và đón nhận loài người làm con của Mẹ:" Thưa Bà nầy là con Bà".
Nói tóm lại cuộc đời của Mẹ từ khi còn thơ ấu cho đến lúc về trời, Mẹ chỉ ao ước một điều đó là kính mến, phục vu Thiên Chúa hết lòng và yêu thương nâng đở loài người mà mẹ đã đón nhận làm con.
Anh chị em thân mến,
Hơn ai hết, Đức Maria là người đầu tiên muốn nối gót con đường yêu thương và phục vụ mà Chúa Giêsu đã dày công dạy dỗ và nêu gương sáng cho các tông đồ và hôm nay cho những ai muốn bước theo Ngài: " Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt. 20,28).
Khi vào đời, mặc lấy thân phận con người, Ngài đã thưa với Chúa Cha: "Này Con xin đến để thi hành thánh ý Cha". Nói cách khác, Ngài vui lòng chấp nhận thân phận một người tôi tớ để phục vụ chương trình của Cha Ngài, như Ngài đã xác nhận sau nầy:" Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga. 4,34), hay ngay trong vườn cây dầu:" Xin dừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha"(Mt. 26,39).
Với các tông đồ, Ngài vui lòng đóng vai trò một người bạn để gần gủi, để yêu thương, để chia sẻ:" Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết"( Ga, 15,15). Trong bửa tiệc ly, Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các tông đồ, một cộng viêc phục vụ thường chỉ dành cho ngươi tôi tớ nô lệ, ( X. Ga. 13,5-17).
Anh chị em thân mến,
Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi nên giống Chúa Giêsu mỗi ngày. Trường học tốt nhất và Thầy dạy tuyệt vời nhất để giúp chúng ta nên giống Chúa trong tinh thần yêu thương và phục vụ chính là Mẹ Maria. Noi gương Mẹ, chúng ta cố gắng tập sống tinh thần yêu thương và phục vụ không phải bằng lời nói suông, nhưng là bằng những việc làm cụ thể, trong cuộc sống hằng ngày.
Cúi xin Mẹ Maria, Mẹ La Vang đang ngự trên Trời cao, thương đoái nhìn đến chúng con đang hướng về Mẹ; Xin Mẹ nâng đở và dạy bảo chúng con biết noi gương Mẹ để sống đẹp lòng Chúa bằng cách thi hành giới răn yêu thương và phục vụ, để ngày sau được cùng Mẹ vui hưỡng hạnh phúc trên trời. Amen.
Nói về Mẹ, viết về Mẹ là một hạnh phúc lớn lao. Tiếng Mẹ sao dịu êm, sao mát dịu đến thế. Mẹ 15/8-141
Nói về Mẹ, viết về Mẹ là một hạnh phúc lớn lao. Tiếng Mẹ sao dịu êm, sao mát dịu đến thế. Mẹ trần thế đã là một tặng phẩm quí giá. Mẹ thiêng liêng lại càng cao quí hơn thế nữa. Mẹ có tên là Maria. Tiếng nói ngắn gọn, nhưng bao trùm, gói trọn tất cả. Giáo Hội mừng lễ Ðức Mẹ lên trời. Trong niềm hân hoan của ngày lễ Mẹ, ta thử suy nghĩ về:
-Tại sao Maria hồn xác lên trời ? -Maria hồn xác lên trời có ý nghĩa gì cho ta ?
I. TẠI SAO MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI ?
Người nữ trong sách Khải Huyền trích đọc hôm nay, tiên trưng cho Mẹ Maria. Ðức trinh nữ Maria ngay từ giây phút ban đầu đã được Thiên Chúa bảo toàn, gìn giữ và tuyển chọn. Nên, tâm hồn và thể xác của Mẹ luôn thuộc về Thiên Chúa, không mang vết tỳ ố, không nhuốm tội lỗi, tâm hồn tinh trong, thánh thiện, tinh tuyền, xứng đáng là đền thờ cho Chúa Thánh Thần ngự trị. Thiên Chúa đã yêu thương Mẹ, đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Thiên Chúa, làm Mẹ Ðấng cứu thế Giêsu. Hậu quả của tước vị làm Mẹ Thiên Chúa: Maria đã được chọn lựa riêng, được đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Thân xác và tâm hồn của Mẹ đã được dành riêng cho Thiên Chúa. Con Mẹ cưu mang trong cung lòng là do bởi phép Chúa Thánh Thần. Mẹ sinh con mà vẫn còn tinh khiết vẹn tuyền. Ðó là đặc ân chỉ có một không ai trong lịch sử cứu rỗi, Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ và chỉ có mình Mẹ được ơn cao quí ấy. Hình ảnh người nữ thánh Gioan diễn tả: mình mặc áo mặt trời, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao là hình ảnh của chính Mẹ Maria và Giáo Hội Chúa Kitô. Maria là hình ảnh vẹn toàn nhất của Giáo Hội ngày mai, là bình minh của Giáo Hội khải hoàn. Bài ca Magnificat mà Ðức Mẹ cất cao giọnng trong Tin Mừng Lc 1, 39-56 là lời cảm tạ viên mãn Thiên Chúa dành cho Maria. Chính niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa đã khiến Maria trở nên vững mạnh và đáng được chúc tụng muôn đời. Sự tinh ròng của thể xác và tâm hồn khiến Maria được đặc ân riêng biệt. Maia đã biến phút giây tuyệt vời khi sứ thần Gabrien truyền tin cho Mẹ và lời xin vâng của Mẹ đã biến giây phút hiện tại ấy trở thành niềm vui vĩnh cửu, trở thành hạnh phúc trường tồn vì chính phút giây ấy đã thay đổi cuộc đời của Mẹ cách hoàn hảo nhất. Ðó là giờ của ơn cứu độ. Sự vô tì tích của tâm hồn và thể xác của Mẹ, đã được Thiên Chúa chúc phúc cho hồn xác Maria về trời hưởng vinh quang vĩnh cửu với Thiên Chúa Ba Ngôi và triều thần thánh trên trời.
II.MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI CÓ Ý NGHĨA GÌ CHO TA ?
Ngày ó/11/1950, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Ðức Maria hồn xác về trời. Ðây là biến cố lịch sử trong lịch sử cứu độ và mặc nhiên xác nhận niềm tin Kitô giáo vào con người tinh trong, Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria, niềm tin này đã bàng bạc trong Giáo Hội từ nhiều thế kỷ qua. Tín điều ấy có giá trị vĩnh viễn và tuyên bố cho mọi người rằng Maria có liên hệ mật thiết với nhân loại, với mọi người chúng ta. Nhờ sự tinh ròng, vô tì tích của tâm hồn và thể xác của Maria, mọi người có lòng tin được hưởng nhờ đặc ân cứu độ của Thiên Chúa và tin vào sự giải thoát tội lỗi, Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria cũng chính là tin vào Ðức Kitô đã chết và sống lại cho phần rỗi mọi người.
Maria đã lên trời cả hồn lẫn xác.
Maria đã được diện đối diện với Thiên Chúa. Maria lên trời là hình ảnh của Giáo Hội khải hoàn và vinh quang của thập giá là vinh quang của Mẹ. Tin vào thập giá sẽ được ơn cứu độ. Vì thế, tin vào Ðức Kitô đã giải thoát Mẹ khỏi sự chết của tội lỗi, tức là tin vào sự bất diệt của tâm hồn và thể xác Thiên Chúa dành cho Maria, cũng như cho nhân loại và cho Giáo Hội khải hoàn.
Xin Chúa ban cho chúng con lòng tin sâu xa để chúng con tin mai ngày chúng con cũng được sống lại hiển vinh.
Xin Mẹ Maria hồn xác lên trời chuyển thay cầu giúp cho chúng con để chúng con biết xa lánh tội lỗi và sống kết hợp với Chúa luôn mãi .
Xin Mẹ ban cho chúng con biết mau mắn nói lời xin vâng tuân theo thánh ý Chúa trong đời sống của chúng con .
Niềm tin Đức Mẹ Maria được Thiên Chúa cho hồn xác lên trời đã có ngay từ thời Giáo Hội sơ 15/8-142
Niềm tin Đức Mẹ Maria được Thiên Chúa cho hồn xác lên trời đã có ngay từ thời Giáo Hội sơ khai. Có lẽ đó cũng là lý do sau khi Đức Giê-su Phục Sinh, Kinh Thánh Tân Ước không đề cập đến việc Đức Ki-tô đi gặp Mẹ Người, vì các tín hữu thời ấy đã tin là Mẹ Maria luôn luôn kết hợp với Con Mẹ, không có một giây phút nào Mẹ-Con xa nhau, ngay cả khi Con Người tử nạn trên thập giá (Ga 19, 25-27) thì Mẹ cũng đồng hành. Vậy thì không lý gì khi Mẹ từ giã cõi trần lại không được Người Con Chí Thánh Chí Nhân rước lên trời tiếp tục đồng hành để hướng dẫn Nhiệm Thể Đức Ki-tô (Giáo Hội) còn trên hành trình dương thế. Tuy nhiên, vẫn có không ít những phe phái đối nghịch (như Thệ Phản, Ly Giáo hay các bè rối) phủ nhận vấn đề Đức Maria Hồn Xác Lên Trời. Họ cho rằng đã có chuyện giấu xác Đức Mẹ (kiểu như cách nghĩ của Maria Mac-đa-la khi đi thăm mộ Chúa mà không thấy xác Đức Giê-su – Ga 20, 2), rồi phao lên Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác. Loài người tự cổ chí kim chẳng có ai được như vậy, vì thân xác chỉ là “cái vỏ bằng đất làm linh hồn ra nặng” (Kn 9, 15), và “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 19) mà thôi.
Đáng tiếc một điều là Giáo Hội cũng chưa hoàn toàn thống nhất trong niềm tin Đức Mẹ hồn xác lên trời, vẫn còn không ít người “bán tín bán nghi”. Phải chờ đến thế kỷ XX, Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời mới được Đức Giáo hoàng Pi-ô XII long trọng công bố trong Tông hiến “Munificentissimus Deus” (ban hành vào ngày Lễ Các Thánh Nam Nữ 01/11/1950): “Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn, và để toàn thể Giáo Hội hân hoan phấn khởi; bằng quyền bính của Chúa Giê-su Ki-tô, của các thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi công bố, tuyên xưng và xác nhận như là một tín điều được Thiên Chúa mạc khải: Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”.
Sau đó là Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II, với Hiến chế “Tín Lý về Giáo Hội – Lumen Gentium”, tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời lại được nhắc lại: “Ngày nay, trên trời Mẹ Đức Giê-su đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr 3,10). Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (Hc “Lumen Gentium”, số 68). Chính những sự kiện nêu trên khiến người tín hữu phải đi tìm những lý lẽ chứng minh. Có năm chứng lý rất xác thực và đầy thuyết phục minh họa mầu nhiệm Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời:
1. Vì Đức Maria là Mẹ Đức Giê-su Thiên Chúa: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa đã được tiền định ngay từ khi Nguyên tổ phạm tội (St 3, 1-24) và sau đó Cựu Ước đã tiên báo: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en,nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Is 7, 14). Trải dài theo lịch sử Giáo Hội, tuy có những ngụy thuyết chống đối lại, nhưng Giáo Hội vẫn luôn xưng tụng Ân Sủng cao vời Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ chính Con Một của Người. Và năm 431, Công Đồng Chung Ê-phê-sô đã tuyên tín: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (theotokos) (vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt)”. (“Densiger-Schonmetzer”, số 252). Mẹ Thiên Chúa sau khi từ trần được diễm phúc cả Hồn Xác lên Trời đoàn tụ cùng Con Thiên Chúa là điều tất nhiên.
2. Vì Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh: Năm 649, Công Đồng La-tê-ra-nô đã tuyên tín: “Khốn cho những ai không theo các vị Nghị Phụ thánh đức tuyên xưng một cách chân thực và xác đáng rằng Đức Maria, trinh nguyên và vô nhiễm, là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã thực sự thụ thai chính Thiên Chúa Ngôi Lời, Đấng được Thiên Chúa Ngôi Cha hạ sinh trước các kỳ thời, bởi Chúa Thánh Thần mà không cần đến hạt giống loài người, và đã sinh ra Người hoàn toàn không bị hư hại gì, tình trạng đồng trinh của Mẹ sau khi sinh con cũng không hề bị sứt mẻ”. (“Densiger-Schonmetzer”, số 503). Mầu nhiệm Đức Maria thụ thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, được Thiên Chúa thực hiện thông qua Thánh Thần Ngôi Ba, biểu hiện cụ thể ý nghĩa thân xác Mẹ được Thiên Chúa bảo dưỡng tối đa; thì sau khi Mẹ qua đời, đương nhiên Người phải bảo tồn nguyên vẹn thân xác Đức Mẹ rồi đưa về Trời.
3. Vì Đức Maria luôn hợp tác mật thiết với Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa: Ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Maria như là một E-và Mới hợp tác chặt chẽ với A-đam Mới – A-đam sau cùng – là Chúa Ki-tô để chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, cũng như Chúa Ki-tô chịu khổ hình, chịu chết vì tội lỗi nhân loại, chiến thắng sự chết và sống lại vinh hiển, thì Đức Mẹ Maria đã đồng công với Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời vinh hiển như Con Người. Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông mật thiết với Đức Giê-su Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ trong nhiệm cuộc cứu chuộc (bảy sự đau đớn của Mẹ gắn liền với cuộc Thương Khó của Con). Dù xét theo nhân sinh quan hay thiên lý tính, thì việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau là lẽ đương nhiên, vì cả hai đã thương mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Ki-tô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
4. Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: Trong sắc lệnh “Ineffabilis Deus” (ban hành ngày 8/12/1854), Đức Thánh Cha Pi-ô IX long trọng công bố: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Ki-tô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giê-su Ki-tô, của các thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (“Densiger-Schonmetzer”, số 280). Trong Tông hiến “Munificentissimus Deus”, Đức Thánh Cha Pi-ô XII cũng khẳng định: “Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Mà Đức Mẹ Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng. Cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Mẹ Maria được Hồn Xác Về Trời.”
5. Chung quy thì vì Đức Maria là “Đức Bà Đầy Ơn Phúc”: Các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc khi còn tại thế. Lời thiên sứ Gap-ri-en chúc mừng Đức Mẹ còn rành rành: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1, 28). Từ lời thiên sứ, Giáo Hội đã tìm đến danh thánh Đức Mẹ: Ngoài những ý nghĩa Maria là “Người Soi Sáng”, “Sao Biển”, “Biển Cay Đắng”; thì Maria còn có nghĩa là “Lệnh Bà” (là Đức Bà của nhân loại). Vấn đề lên trời cả hồn lẫn xác đã được Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại (tất nhiên chỉ những người công chính mới được hưởng) vào ngày cánh chung.Đức Mẹ là “Lệnh Bà của nhân loại”, được Thiên Chúa ở cùng, ở trong thân xác, vậy thì Thân Xác Mẹ được rước lên Trời hiệp cùng Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ (chỉ khác về thời gian so với các tín hữu lành thánh), là chuyện đương nhiên.
Ngoài ra, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có đề cập đến đặc sủng Hồn Xác Về Trời của Đức Maria như sau: “Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm, được Thiên Chúa gìn giữ khỏi nhiễm lây mọi tỳ vết Nguyên Tội, đã được đưa lên vinh quang Thiên quốc cả hồn lẫn xác, sau khi đã hoàn tất cuộc đời dương thế, và được Thiên Chúa tôn làm Nữ Vương Vũ Trụ, và như vậy Mẹ đã hoàn toàn phù hợp với Con Mình là Chúa của các chúa, đã chiến thắng tội lỗi và sự chết” (Hc “Lumen Gentium”, số 59). Việc Mẹ Maria được đưa lên Trời là dự phần đặc biệt vào sự Phục sinh của Con Mẹ và hưởng trước sự phục sinh của các tín hữu.” (Giáo Lý HTCG, số 966), “Chúng ta tin rằng Mẹ Rất Thánh của Thiên Chúa, E-và Mới, Mẹ của Giáo Hội, ở trên trời vẫn tiếp tục vai trò làm Mẹ đối với các Chi Thể Chúa Ki-tô” (ĐGH Phao-lô VI, CPG 15) (Giáo Lý HTCG, số 975).
Tóm lại, với con người bất toàn thì không chỉ mầu nhiệm Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, mà mầu nhiệm Đức Mẹ Trinh Nguyên, Vô Nhiễm Nguyên Tội, kể cả mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng Mẹ, đều không thể xảy ra được; nhưng “đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được.” (Lc 1, 37). Vâng, “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” (Mt 19, 26). Vấn đề đặt ra là anh có tin là thật sự có một Đấng Toàn Năng Hằng Hữu đã sáng tạo vũ trụ và con người, hay không. Nếu anh tin rằng con người được Thiên Chúa dựng nên từ bụi đất, thì tất cả mọi sự Thiên Chúa ban cho con người – ở đây là Lệnh Bà Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ nhân loại – đều là chuyện nhỏ, quá nhỏ đối với Người.
Chính vì thế, trong ngày đại lễ mừng kính “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời”, người Ki-tô hữu đã vinh dự được Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ nhận làm bạn hữu (“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” – Ga 15, 15); vậy thì còn đợi gì mà không tuyên tín: “Lạy Chúa! Con tin.” và dâng lời khẩn nguyện: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã đưa lên trời cả hồn lẫn xác Ðức Ma-ri-a là trinh nữ vô nhiễm và là thánh mẫu của Con Chúa. Xin cho chúng con hằng biết hướng lòng về phúc lộc quê trời để mai sau được cùng thánh mẫu chung hưởng vinh quang. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời”). Đồng thời cất cao lời ngợi khen:
*************
MẸ LÊN TRỜI
E-va xưa đã nghe lời rắn độc, Khiến loài người phải mang tội tông truyền, Thiên Chúa ban một Người Nữ vẹn tuyền, Eva Mới sẽ đạp đầu quỷ dữ (St 3, 15).
***
Chính là Mẹ hạ sinh một Trưởng Tử (Rm 8, 29), Là Con Một Thiên Chúa xuống gian trần, Đấng Thiên Sai – Đấng Cứu Độ phàm nhân, Khỏi tội lỗi từ muôn đời muôn thủa.
***
Mẹ hiệp công cùng Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Giê-su – Đấng cứu chuộc loài người, Mẹ được ân ban hồn xác lên trời, Ôi nhiệm tích đầy linh thiêng xán lạn!
***
Mẹ lên trời giữa một ngày rực sáng, Áo mặt trời chói lọi ánh quang vinh, Và mặt trăng dưới chân Mẹ uy linh, Muôn thần thánh đón chào nơi Thiên quốc.
***
Mẹ lên trời hưởng muôn vàn ơn phước, Hào quang ân sủng toả khắp nơi nơi, Ôi triều thiên muôn tinh tú rạng ngời, Và muôn điệu nhạc thần tiên diệu vợi.
***
Mẹ ơi Mẹ, xin cứu con về với, Chốn Thiên đường nơi Mẹ được tôn vinh, Nơi muôn đời chan chứa ánh bình minh, Không hoàng hôn, cũng chẳng còn đêm tối.
***
Mẹ ơi Mẹ, xin cứu con thoát khỏi, Cõi u minh – nơi vực tối thảm sầu, Cõi lầm than – nơi tội lỗi ngập đầu, Nơi xâu xé, tranh giành và chém giết.
***
Mẹ ơi Mẹ! Cõi trần đầy rên siết, Và nghiến răng, và uất nghẹn tủi hờn, Và máu đào, và nước mắt trào tuôn, Như hồng thuỷ muốn nhận chìm trái đất.
***
Ôi, lạy Mẹ ! Nơi cõi trần chất ngất… … những tang thương – Con quỳ gối nguyện cầu: Thế giới này xin được Mẹ cầu bầu, Cùng Thiên Chúa ban bình an mãi mãi.
***
Ôi, lạy Mẹ ! Con nghe lòng tê tái, Nước mắt trào, con khẩn thiết nài van, Cho chúng con – đoàn con cái tân toan, Được mau chóng sum vầy bên gối Mẹ.
Lễ Mẹ hồn xác lên trời là lễ cổ xưa nhất trong các ngày lễ kính Đức Mẹ được cử hành trong 15/8-143
Lễ Mẹ hồn xác lên trời là lễ cổ xưa nhất trong các ngày lễ kính Đức Mẹ được cử hành trong toàn thể Giáo hội. Toàn thể ở đây được hiểu như là bao trùm cả Giáo hội Đông phương, Công giáo lẫn Chính Thống giáo. Theo truyền thống của Giáo hội Đông phương dành 15 ngày đầu tháng 8 để chuẩn bị cuộc lễ và 15 ngày cuối để tạ ơn.
Trong những thế kỷ đầu, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Ngày lễ đã được mặc cho tất cả sự trang trọng kể từ năm 1950 khi Đức Cố Giáo Hoàng Piô XII định tín việc Đức Mẹ được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác. Với tín điều này, Giáo hội chỉ công bố long trọng một chân lý vốn đã được các tín hữu Kitô tin từ ngàn xưa tôn kính. Chân lý đó là : “Thân xác của Người phụ nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa đã không phải chịu định luật của sự thối rữa”.
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời không những là lễ cổ xưa nhất về Đức Mẹ. Nhưng ngày 15-8 hằng năm còn có một ý nghĩa rất đặc biệt. Đa số ngày tháng của các ngày lễ trong Kitô giáo đều bắt nguồn từ những ngày lễ ngoại giáo. Lễ Giáng sinh chẳng hạn, không gì khác hơn là lễ của thần mặt trời của đế quốc La-mã được rửa tội lại theo Kitô giáo mà thôi.
Đây không phải là trường hợp của Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đế quốc La-mã vốn dành ngày đầu tháng tám để tôn vinh hoàng đế. Trong khi đó lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được cử hành vào ngày 15-8. Như vậy lý do chọn ngày 15-8 để cử hành lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời không bắt nguồn từ đế quốc La-mã, mà từ chính Giêrusalem cổ.
Trước thời hoàng đế Constantinope, trong ngày này đã diễn ra một cuộc lễ trong nhà thờ trên núi cây dầu tại Jerusalem. Truyền thống đã gọi lễ này là lễ Đức Mẹ an giấc.
Trong đế quốc La-mã ngoại đạo, không có bất cứ nguồn gốc nào về ngày lễ này đã đành, mà kể từ đó về sau cũng chẳng có đế quốc nào xóa bỏ hay thay thế được lễ này. Những cố gắng vô ích của một hoàng đế Napoléon của Pháp là một bằng chứng.
Ngày 15-6-1769 tại Ajaccio đảo Corse chào đời một đứa bé mà cha mẹ đã đặt tên cho một tên thánh hiếm có là Napoléon. Nếu ngày 15-8-1637 vua Louis XIII đã ban hành một sắc lệnh để đặt toàn nước Pháp dưới sự che chở của Mẹ Maria thì nawm1806 sau khi đã đăng quang làm hoàng đế của nước Pháp và khắp Âu Châu. Napoléon tước đoạt mọi danh dự dành cho Mẹ Thiên Chúa, để biến thành một ngày lễ dành riêng cho ông.
Sinh trùng vào ngày 15-8, Napoléon bắt toàn dân nhớ đến ngày sinh của ông là điều dễ hiểu, là ngày được cha mẹ đặt tên cho là Napoléon. Ông đã cố lục lọi trong danh sách các thánh trong Giáo hội tìm cho bằng được một vị thánh có tên là Napoléon.
Với sự đồng ý của một vị giám mục cung đình, ông đã tìm được mục danh sách các vị tử đạo Rôma, trong đó có một vị tên là Néopoli. Không rõ do những lèo lái như thế nào mà cuối cùng cả triều đình của ông đều đồng thanh nhận á thánh Néopoli với tên gọi Napoléon của ông. Vậy là ngày 15-8 không những là ngày sinh nhật của ông mà còn là ngày lễ bổn mạng của ông nữa.
Danh dự đã dành cho Mẹ Thiên Chúa được ông hoàng đế này đương nhiên chiếm đoạt. Tại Rooma, Đức Giáo Hoàng Piô VII tuyên bố rằng : “Việc quyền bính thế tục thay thế việc tôn kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời bằng việc tôn kính một vị thánh không có tên trong lịch Phụng vụ là điều không thể chấp nhận được”.
Đây là một hành động xen lấn không thể dung thứ và chấp nhận được, không thể lấy thế quyền thay cho thần quyền. Nhưng vì những hành động của bạo chúa Napoléon quá tàn nhẫn, cho nên bức kháng thư đã không được công bố. Tột cùng hành động ngang ngược của Napoléon là ra lệnh đưa Đức Giáo Hoàng về giam giữ tại Fontainebleau bên Pháp.
Dĩ nhiên, rồi cuối cùng Trái Tim Mẹ vẫn thắng, sự cáo chung của đế quốc do Napoléon dựng nên cũng chấm dứt việc chiếm đoạt danh dự dành cho Mẹ Maria. Vị thánh Napoléon được Napoléon tự phong cũng tự ý rút lui để trả ngày 15-8 lại cho Mẹ Thiên Chúa. Điều kỳ diệu mà Mẹ Maria đã thực hiện là việc tôn kính vị thánh Napoleon do những kẻ dua nịnh bịa đặt ra hơn là đòi hỏi của lịch sử đã để lại một hậu quả không lường được. Đó là kể từ ngày đó 15-8 hằng năm đã biến thành một ngày lễ buộc trên toàn nước Pháp.
Trên đây là một trong những vị dụ cho thấy những sự vụng về kỳ lạ của lịch sử, qua đó người ta thấy được sự hiện diện kín đáo nhưng vô cùng hữu hiệu của Mẹ Thiên Chúa. Kẻ quyền thế muốn tước đoạt danh dự của Mẹ Maria đã bị hạ xuống khỏi tòa cao, như Mẹ đã tiên báo trong kinh Magnificat.
Ngày nay sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nước Pháp vẫn tiếp tục đóng cửa nghỉ ngày 15-8 để tôn vinh Mẹ Maria. Danh vọng hão huyền mà một hoàng đế Napoléon đeo đuổi bằng cách hạ bệ Mẹ Thiên Chúa đã không kéo dài quá tám năm. Kể từ tháng 3-1814 sau khi hoàng đế Napoléon thoái vị và bị đày ra đảo Sante Hélène để sống những ngày còn lại của ông. Trong ăn năn sám hối, tên tuổi của ông vẫn được tiếp tục nhắc đến như một thiên tài cũng có, mà như một kẻ ngông cuồng thì nhiều hơn.
Trong khi đó Mẹ Maria vẫn tiếp tục ngự trị trong lòng người dân Âu châu, mặc dù họ có muốn tục hóa đến đâu đi nữa, thì trong lịch sử hàng năm của họ vẫn còn những dấu ấn không bao giờ tàn phai của Mẹ Thiên Chúa. Mãi mãi như Mẹ đã tiên báo trong kinh Magnificat : “Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi là người có phúc”.
Hình ảnh Đức Mẹ Maria trong hội họa nhiều vô số kể, tuy nhiên, hầu hết đều đi kèm với hình ảnh 15/8-144
Hình ảnh Đức Mẹ Maria trong hội họa nhiều vô số kể, tuy nhiên, hầu hết đều đi kèm với hình ảnh Chúa Hài Đồng hay với biểu tượng về Công cuộc Cứu chuộc của Chúa Giêsu, và thường xuất hiện như một biểu tượng của “lòng mẹ”, của “tình mẫu tử”. Dường như chỉ trong chủ đề "Truyền tin", chủ đề "Đức Mẹ hồn xác lên trời", và chủ đề "Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội" mới có những ngoại lệ, và mang những ý nghĩa đặc biệt.
Chủ đề "Truyền tin" xuất hiện trong hội họa khá sớm. Theo các sử gia nghệ thuật, Icon Byzantium đầu tiên thể hiện chủ đề này ra đời vào khoảng thế kỷ thứ IV. Còn chủ đề "Đức Mẹ hồn xác lên trời" và chủ đề "Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội" thì mãi đến thế kỷ XV mới xuất hiện. Lý do của sự muộn màng này, có lẽ, mọi người Công giáo đã biết rõ (ở đây tôi không nhắc lại).
Theo nhiều sử gia nghệ thuật, bức tranh đầu tiên có chủ đề "Đức Mẹ hồn xác lên trời" chính là một tác phẩm khổ nhỏ (30.3 x 45.7 cm) vẽ bằng tempera (bột màu pha lòng trắng trứng) trên nền gỗ dát vàng của Sano di Pietro (1406-1481) sáng tác trong khoảng thời gian từ 1447-1452, hiện đang được lưu giữ tại bảo tàng Lindenau, Altenburg. Dưới đây là ảnh tác phẩm:
** "Đức Mẹ hồn xác lên trời", tempera trên gỗ dát vàng, vẽ năm 1447-1452, của Sano di Pietro
Tuy được xem là tác phẩm tiêu biểu của nghệ thuật Gothic phương Tây, gần với tự nhiên và giàu tính trang trí, nhưng tác phẩm này của Sano di Pietro vẫn còn mang đậm dấu ấn ảnh hưởng ngôn ngữ biểu tượng phương Đông của nghệ thuật Byzantium. Cần phải biết điều này mới có thể "giải mã" thông điệp của tác phẩm. Ngày nay, khi xem tác phẩm này, chúng ta dễ có cảm tưởng họa sĩ đang vẽ cảnh các thiên thần đang xuống đón Đức Mẹ về trời. Và, cái "vật thể" có hình ô-van mà Đức Mẹ đang ngồi trong đó, có vẻ như là một "phương tiện" di chuyển đặc biệt...! Thực ra, đây là một biểu tượng cách điệu từ hình ảnh trái hạnh nhân. Trong nền văn hóa Do Thái (ảnh hưởng sang văn hóa Ý) cây hạnh nhân là biểu tượng của sự sống, và trái hạnh nhân là biểu tượng của tình yêu, của sự kiên trinh. Liên hệ từ biểu tượng này, chúng ta dễ hiểu, không phải tác giả đang thể hiện hình ảnh Đức Mẹ lên trời, mà đang thể hiện tình cảm tôn vinh Đức Mẹ ở ý nghĩa gắn liền với sự sống trường tồn, với tình yêu cao cả và bất diệt...- một tình cảm vượt qua sự sống-chết và các giới hạn trần tục...
Từ thời Phục hưng, hình ảnh Đức Mẹ hồn xác lên trời đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho các nghệ sĩ, và từ đó, rất nhiều kiệt tác đã ra đời. Theo nhiều nhà phê bình nghệ thuật, và một số nhà thần học, sự lên ngôi của chủ đề "Đức Mẹ hồn xác lên trời" không thuần túy chỉ là sự lên ngôi của một niềm tin tôn giáo, mà còn đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng - hình ảnh Đức Mẹ hồn xác lên trời trở thành nguồn an ủi và hy vọng lớn lao của con người...
** Trong rất nhiều kiệt tác thể hiện chủ đề "Đức Mẹ hồn xác lên trời", trước hết, có lẽ phải kể đến tác phẩm của Titian (1488/1490 – 1576) vẽ trong khoảng thời gian từ 1516-1518.
** "Đức Mẹ hồn xác lên trời", sơn dầu trên gỗ, khổ 690 x 360cm, vẽ năm 1516-1518, của Titian
Ngày 19 tháng 5 năm 1518, Titian lắp đặt tác phẩm "Đức Mẹ hồn xác lên trời" của mình lên tường chính gian Thánh Vương cung Thánh đường Santa Maria Gloriosa dei Frari, ở Venice, và ngày này đã được xem là một sự kiện trọng đại, đi vào sử sách của thành phố này. Bức tranh ngay tức khắc nhận được sự chú ý, tưởng thưởng của các tầng lớp công chúng. Đặc biệt, theo các sử gia nghệ thuật, sự hoành tráng và vẻ quyến rũ của nó, đã gần như ngay tức khắc xác lập niềm tin nơi mọi người về tín điều "Đức Mẹ hồn xác lên trời"- một chủ đề vẫn còn gây tranh cãi trong bản thân Giáo hội Công giáo đương thời...
** Vương cung Thánh đường Santa Maria Gloriosa dei Frari, ở Venice với tác phẩm "Đức Mẹ hồn xác lên trời" của Titian
Đã có rất nhiều nhà phê bình viết về tác phẩm của Titian, chủ yếu xoay quanh vấn đề Titian đã xử lý bố cục và phối màu tác phẩm xuất sắc như thế nào để hòa nhập tác phẩm vào không gian kiến trúc Gothic của Vương cung Thánh đường Santa Maria Gloriosa dei Frari, và tạo nên cảm giác hoành tráng... Đây là một đề tài khá thú vị, nhưng sẽ rất dài dòng, nên tôi sẽ quay lại vào dịp khác. Ở đây, tôi chỉ dừng lại ở ghi chú: Trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, tác phẩm này của Titian được xem là biểu tượng ngợi ca hồn nhiên về Đức Mẹ trong hình ảnh Người huy hoàng về trời dưới sự đón nhận của Thiên Chúa... Và, thành công của tác phẩm, đã được xem là nguồn khích lệ để bao nhiêu họa sĩ khác lao vào chủ đề "Đức Mẹ hồn xác lên trời"...
Sau tác phẩm của Titian, "Đức Mẹ hồn xác lên trời" của Rubens (1577 - 1640) vẽ năm 1620, hiện đang được đặt tại bảo tàng Kunsthistorisches, Vienna, cũng được xem là một tác phẩm bất hủ về chủ đề này…
** "Đức Mẹ hồn xác lên trời", 1620, sơn dầu trên vải, khổ 458 x 297 cm, của Rubens
** Tuy nhiên, nổi tiếng nhất, có lẽ là tác phẩm dưới đây của Murillo (1617-1682)
** "Đức Mẹ hồn xác lên trời", 1680, sơn dầu trên vải, khổ 195 x 145 cm, của Bartolomé Esteban Murillo (1617-1682), The Hermitage, St. Petersburg
Nổi tiếng nhất - hiểu theo nghĩa được công chúng đón nhận rộng rãi nhất – có lẽ do sự dung dị của tác phẩm và sự dịu dàng, thanh thoát nơi bản thân hình ảnh Đức Mẹ Maria...
Nhân thể, xin lưu ý, Murillo cũng là họa sĩ vẽ rất nhiều tranh về chủ đề “Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội”. Dưới đây là ba tác phẩm tiêu biểu của ông về chủ đề này: ** “Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội”, 1645-1655, sơn dầu trên vải, khổ 235 x 196 cm, The Hermitage, St. Petersburg
** “Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội”, 1665-1670, sơn dầu trên vải, khổ 206 x 144 cm, Museo del Prado, Madrid
** “Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội”, c. 1678, sơn dầu trên vải, khổ 274 x 190 cm, Museo del Prado, Madrid
Rất nhiều người, trong đó có tôi trước đây, đã nhầm lẫn những bức tranh này là tranh thể hiện chủ đề “Đức Mẹ hồn xác lên trời”! Chúng có vẻ giống nhau quá! Để phân biệt, xin lưu ý vài chi tiết:
Thứ nhất, hình ảnh Đức Mẹ trong tranh “Đức Mẹ hồn xác lên trời”, thường có dáng dấp như vươn lên đón nhận hồng ân từ Thiên Chúa, còn trong tranh “Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội”, Người như thu mình lại trong dáng dấp một trinh nữ khiêm cung…
Thứ hai, trong tranh chủ đề “Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội”, dưới chân Đức Mẹ, thường, có hình ảnh một vầng trăng khuyết. Đây là hình ảnh nhằm minh họa lời trong sách “Khải huyền” của Thánh Gioan: “Rồi có một điềm lớn xuất hiện trên trời: một người phụ nữ mình khoác áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên 12 ngôi sao." (Kh 12, 1)(*).
Nguyên Hưng ----------------------------- (*) Theo các nhà Chú giải học (hermeneutics): - “Áo mặt trời”: được bao bọc bởi Thiên Chúa (Thiên Chúa là ánh sáng). - “Chân đạp mặt trăng”: “mặt trăng”, trong văn hóa Tây phương là biểu tượng cho người nữ (Tiếng Latinh phân biệt mặt trăng “Luna” giống cái; mặt trời “Sol” giống đực. Tiếng Pháp cũng có phân biệt tương tự: mặt trăng “la Lune”, giống cái; mặt trời “le Soleil“, giống đực.). Như vậy “Chân đạp mặt trăng” có ý nghĩa của một sự vượt qua, sự đứng bên trên thân phận người nữ bình thường (vốn mắc tội Tổ tông)… - “Đầu đội triều thiên 12 sao”: Đức Mẹ được tôn vinh bởi Giáo hội (“đội triều thiên”: sự tôn vinh; “số 12” tượng trưng cho Giáo hội).
Đối với Giáo Hội Công Giáo, từ 1950, Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tín điều thuộc phạm vi 15/8-145
Đối với Giáo Hội Công Giáo, từ 1950, Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tín điều thuộc phạm vi Đức Tin. Trong khi, từ những thế kỷ tiên khởi, việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được các tín hữu vững tin dựa vào truyền thống, dù không có nền tảng trong Thánh Kinh. Giáo Hội nhìn nhận truyền thống như thế phù hợp với kho tàng Đức Tin được khai triển vào giữa thế kỷ 19 trong Tín điều “Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội”, công bố theo thông điệp “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa bất khả ngộ) ngày 8-12-1854.
Năm 373, Thánh Euphreim đã nêu lên quan niệm rằng, sau khi lìa đời, xác của Đức Maria vẫn nguyên vẹn vì Mẹ không nhuốm lấy dơ bẩn của sự chết. Ở Phương Tây, Grê-gô-riô de Tours đã dựa vào tài liệu “Transitus Mariae” (Đức Maria lìa đời), thế kỷ thứ 5 (495-496), nói về Đức Mẹ khi lìa đời (có các tông đồ hiện diện), được Chúa Giêsu đón rước linh hồn và cả xác, lên Thiên Quốc. Ở Phương Đông, Gioan Đa-mas-xê-nô thuật lại sự tích trong Giáo hội Giêrusalem: Vào Công đồng Cal-cê-đô-ni-a, năm 451, hoàng đế Marcianô và hoàng hậu Pulsêria yêu cầu Đức Giám mục Juvénal, thành Giêrusalem, tìm xác Đức Mẹ và tường trình cho Công Đồng. Sau khi tìm kiếm, Đức Cha Juvénal trình rằng:
“Khi Đức Mẹ lìa đời thì các Tông đồ đều có mặt, trừ ông Tô-ma đi vắng. Vài ngày sau, khi trở về, Tôma đòi xem xác Đúc Mẹ. Các tông đồ ra phần mộ thì thấy mộ trống trơn, không còn có xác Đức Mẹ. Các tông đồ tin rằng Mẹ Maria đã được Chúa Giêsu đem lên Thiên Quốc hợp cùng linh hồn của Mẹ.”
Ngoài ra, tuy trong Giáo Hội không có tài liệu Thánh Kinh nào về Đức Mẹ hồn xác lên trời, nhưng các tín hữu hằng vững tin về “Đức Mẹ mông triệu thăng thiên” như mầu nhiệm.thứ bốn của Năm Sự Mừng: Thứ bốn thì ngắm “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời, ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ.”
Theo Thánh Truyền, từ lời Chúa Giêsu trối trên thập giá: “Nầy là mẹ của anh” (Ga 19: 27), môn đệ Gioan lãnh phần chăm sóc Đức Mẹ, Năm 370, có tài liệu nói về Thánh Nữ Đồng Trinh đã sống tại Giêrusalem vào cuối cuộc đời của Mẹ và về phần mộ của Đức Mẹ tại Giết-sê-ma-ni, nơi thung lũng Gio-da-phát. Nơi đây, vào khoảng năm 431, có Vương Cung Thánh Đường Thánh Maria trong đó có phần mộ của Đức Mẹ, dù là mộ trống vì Đức Mẹ đã được Thiên Chúa đưa cả hồn và xác lên trời.
Tất cả các trích thuật nầy, tuy không phải từ Thánh Kinh mà do Thánh Truyền, nhưng giáo hữu sốt sắng vững tin và sùng mộ. Hơn nữa, điều căn bản người tín hữu cần hiểu biết về Thánh Nữ Đồng Trinh Maria hồn xác lên trời là ý nghĩa Đức Mẹ được Thiên Chúa rước về Thiên Quốc cả hồn lẫn xác - Assumptio Beatae Mariae Virginis, khác với mầu nhiệm Chúa Giêsu Thăng Thiên – Ascensio Domini, vì Đức Giêsu Kitô về cùng Thiên Chúa Cha, hay tự lên trời do quyền phép của chính Ngài.
Hai mầu nhiệm “Lên Trời” và “Mông Triệu Thăng Thiên” có trong Năm Sự Mừng Chuỗi Mân Côi.
Cũng theo Thánh Truyền, từ thế kỷ thứ 4 trở đi, niềm tin vào “Thánh Nữ Đồng Trinh Maria hồn xác lên trời” được phổ biến trong cả Giáo Hội Đông Phương lẫn Tây Phương. Cụ thể, trong các Giáo Hội Đông và Tây Phương, có nhiều vị đạo đức hoặc các Giáo Phụ, về sau được phong thánh, đã nhiệt thành rao giảng về hồng ân Thánh Nữ Đồng Trinh Maria hồn xác lên trời, như Thánh Grêgôriô thành Tours, Thánh Mô-đét-tô, Th. Xô-phrô-ni-ô, Thượng phụ Giêrusalem, Th. Ger-ma-nô, Constantinople. Tại sao hằng năm, Lễ Đức Mẹ lên trời vào ngày 15 tháng 8
Vào đầu thế kỷ thứ 6, Thánh Tê-ô-đô-xi-ô (Theodosius) cho biết: Trước năm 500, hằng năm các thầy dòng Palestine mừng trọng thể Lễ Thánh Nữ Đồng Trinh Maria hồn xác lên trời vào ngày 15 tháng 8. Trong khi, theo Giáo Lý, tại Ai cập và A-ra-bi-a thì giáo hữu mừng lễ vào trung tuần Tháng Giêng. Đến thế kỷ 6, ngày lễ 15 tháng 8 lan rộng khắp Giáo Hội Đông Phương. Tại đế quốc Hy lạp, Hoàng đế Mô-rít (Mauritius) công bố ngày lễ 15 tháng 8 với danh xưng “Lễ Thánh Nữ Đồng Trinh Maria Ngủ – Dormitio Sanctae Mariae Virginis” theo tinh thần Phụng vụ By-giăng-tin (Giáo Lý GHCG, 966).
Cũng vào thế kỷ 6, Giáo Hội Rôma lấy ngày 15-8 làm ngày mừng Lễ Thánh Nữ Đồng Trinh Maria – Festivitas Beatae Mariae Virginis và mừng tại đền thờ Đức Bà Cả (Santa Maria Maggiore).
Từ năm 700, thời Đức GH. Sergius I (687-701), Lễ Mông Triệu mừng trọng thể, có rước kiệu Đức Mẹ.
Từ nguyên thủy, trong Sách Lễ Rô-ma, ngày lễ có tên “Assumptio Beatae Mariae Virginis”, với từ La-tinh Assumptio do động từ “Adsumere – assumptus” có nghĩa “kết hợp”, nên ngày lễ gọi đúng tên là “Lễ Kết Hợp của Thánh Nữ Đồng Trinh Maria” (và phải thêm “với Chúa Giêsu Con Mẹ trên trời “).
Như vậy, ý nghĩa ngày lễ không nằm trong tên gọi mà chính trong Đức Tin, nền tảng của Thánh Truyền, giúp người Kitô-hữu đồng ý về hồng ân “Đức Mẹ, sau khi viên mãn cuộc đời trần thế, được Thiên Chúa đón rước cả hồn xác lên trời kết hợp với Chúa Giêsu Con Mẹ”. Từ đó, ngày lễ có tên phổ thông là “Lễ Đức Mẹ.hồn và xác lên trời”, mà người Công Giáo Việt Nam gọi là Lễ Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên, hay Lễ Mông Triệu, lễ trọng, lễ buộc, có Lễ Vọng ngày 14 tháng 8. Ngày nay, Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là lễ trọng, lễ buộc, vì được vào quy củ Phụng Vụ nhờ tín điều Đức Mẹ Hồn Xác lên trời và Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội 21-11-1964 (Lumen Gentium 59, tr. 247) nhắc lại: Sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn. Tín điều Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời
Cần nhắc lại Tín Điều vì niềm tin thâm sâu và nhiệt tình vào “Đức Mẹ hồn xác lên trời” đã có từ lâu đời trong Giáo Hội Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành, nhất là từ giữa thế kỷ 19, sau khi Đức GH. Piô IX (1846-78) công bố tín điều “Ineffabilis Deus” về “Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội” (8-12-1854).
Đến giữa thế kỷ 20, Đức GH. Piô XII (1939-58) được Chúa Thánh Thần soi sáng, đã cho mở các cuộc điều tra rộng rãi và nhận thấy có nhiều thỉnh nguyện từ giáo hội hoàn vũ xác tín mầu nhiệm cao cả đó.
Vào Lễ Các Thánh Nam Nữ 1-11-1950, Đức GH Pi-ô XII ban hành Tông hiến lấy hai từ đầu bằng tiếng La-tinh Munificentissimus Deus (MD) của văn kiện, có nghĩa “Thiên Chúa rộng rãi hải hà”, công bố Tín điều Thánh Nữ Đồng Trinh Maria Hồn Xác Lên Trời gồm các điểm căn bản như sau.
Với 48 số mục, Tông hiến tuyên xưng:
“Thiên Chúa rộng rãi hải hà, dưới các điều kiện và phương thức khác nhau, làm cho mọi sự cùng hoạt động đem lại thiện mỹ cho những ai yêu mến Ngài” (MD, 1). Đức Thánh Cha nói đến giáo triều của người có “biết bao ưu tư, lo âu, rối loạn, với tai ương rất trầm trọng, sự kiện làm xa vời chân lý và nhân đức”, thúc đẩy Giáo Hội gia tăng lòng sốt sắng chạy đến khẩn cầu Mẹ, tôn vinh Mẹ (MD, 2). Người đề cập đến lý do ban hành Tông hiến (MD, 3) dựa vào nền tảng mà Đức GH. Piô IX đã ban hành tông hiến Ineffabilis Deus (Thiên Chúa bất khả ngộ) ngày 8-12-1854, công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội (MD, 4); những thỉnh nguyện và truyền thống đạo đức tôn vinh mầu nhiệm “Đức Mẹ hồn xác lên trời” (MD 7-19); chứng nhân của các Giáo phụ, các nhà thần học, các tiến sĩ Hội Thánh, các diễn giải Thánh Kinh (MD 20-41), dẫn đến việc triều đại Piô XII công bố tông huấn (MD 42-48) với những điều khoản luật định theo đức tin (MD 45-47) và ngày-tháng-năm ban hành (MD 48). Công bố chính yếu (MD, 44) minh định mà người giáo hữu phải nắm vững khi tìm hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa lễ nghi Phụng Vụ Thánh:
“Với bao lời cầu xin dâng lên Thiên Chúa, cầu khẩn ánh sáng của Thần Chân Lý, vì sáng danh Chúa và lòng yêu mến Mẹ Maria, để tôn vinh Con Mẹ, là Vua hằng sống; vì niềm hân hoan của toàn thể Giáo Hội, vì quyền năng của Đức Giêsu Kitô, của hai Thánh Tông Đồ Phêrô-Phaolô, và uy quyền của chính Giáo hoàng, chúng tôi công bố tín điều được Thiên Chúa mạc khải, rằng:
“Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria trọn đời Đồng Trinh, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, được cả hồn và xác mông triệu thăng thiên vào vinh quang Thiên Cung.”
Qua Tông hiến “Munificentissimus Deus”, ban hành ngày 1-11-1950, Đức GH. Piô XII công bố tín điều “Đức Mẹ hồn xác lên trời”. Từ đó, ngày lễ được mừng trọng thể khắp Giáo Hội hoàn vũ vào 15 th. 8.
Hằng năm Lễ Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên là lễ lớn tổ chức rất trọng thể trên khắp thế giới, như ở Áo, Ba lan, Bỉ, Bồ-đào-nha, Ca-mê-run, Chi-lê, Côte d’Ivoire, Cro-a-xi-a, Đông Timor, Hy lạp. Ly-ban, Li-tu-a-ni-a, Man-ta, Mau-ri-ta-ni, Slo-va-nia, Tây ban nha và tại các quốc gia Mỹ Châu, như Mễ tây cơ và các nước Công giáo Nam Mỹ.
Tại Pháp, ngày lễ khởi sự vào thế kỷ 17 theo lời khấn hứa của vua Louis XIII (1601-43). Năm 1637, nhà vua khấn xin Đức Mẹ cho có một đứa con trai nối nghiệp. Vua dâng nước Pháp cho Đức Mẹ và truyền cho dân chúng mừng Lễ Đức Mẹ 15 tháng 8 trọng thể có rước kiệu tại các giáo xứ. Năm sau 1638, hoàng tử Louis ra đời (sau là vua Louis XIV) càng làm tăng thêm sự mến mộ sùng kính Đức Mẹ. Cách riêng, tại thánh địa Lộ Đức, Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là lễ hội tổ chức chu đáo trước và sau ngày 15 tháng 8. Việc kính viếng thánh địa Đức Mẹ Lộ Đức, từ thập niên 1870, do các Linh mục và tu sĩ Dòng Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên, cùng với các thiện nguyện viên “Assomption” đảm trách. Lễ Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên tại Việt Nam
Ngày lễ rất được giáo hữu Việt Nam sùng mộ, nhiều nơi có rước kiệu trọng thể, nhất là tại các giáo xứ chọn “Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên” làm bổn mạng. Tại Thánh địa Lavang có ngày hội trọng thể hầu giáo hữu tựu họp kính viếng Đức Mẹ vào tháng 8 với các sinh hoạt đạo đức gọi là Đại hội Lavang. Tại sao Tháng 8 là tháng đáng nhớ đối với người Công giáo Việt Nam, nói riêng, và đối với người Việt, nói chung? Con cái Đức Mẹ luôn luôn ghi nhớ thời vua Cảnh Thịnh (1792-1801) là thời có những mật lệnh bắt và giết tất cả các Linh mục và giáo dân. Ngày 7 tháng 8-1798, nhà vua ra lệnh tấn công các họ đạo từ Phú Xuân đến cả vùng Cổ Vưu, tỉnh Quảng Trị. Người Công giáo, với cả nhiều người ngoài Công giáo, chạy trốn giặc và quân giết người, tìm vào trú ẩn ở vùng rừng rú phường Lá Vằng, về sau gọi là Lavang. Ban đêm, khi họ tụ tập nhau đọc kinh cầu nguyện thì Đức Mẹ hiện ra an ủi họ. Sau các sắc dụ cấm đạo, giữa tháng 8-1798 là thời kỳ bắt đạo dữ dội, nên rất đông người Công giáo thuộc các giáo xứ Cồ vưu, Thạch hãn, Hạnh hoa, chạy vào rừng rú Lavang, phó thác vào Đức Mẹ được tôn vinh là “Nữ Vương các Thánh Tử Đạo” hoặc “Đức Bà phù hộ các giáo hữu”. Để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ Lavang, giáo hữu Địa phận Huế đã làm một nhà thờ tranh kính Mẹ Maria. Năm 1886, Đức Cha Gaspar Lộc, Giám mục Địa phận Huế, quyết định xây một nhà thờ ngói tại chính nơi Đức Mẹ đã hiện ra năm 1798. Nhà thờ xây dựng trong vòng 15 năm, được khánh thành từ 6 đến 8 - 8 năm 1901.
Sau 30-4-1975, phần lớn linh địa La-Vang do nhà nước quản lý, với số diện tích đất đai có phần nằm trong tay những kẻ có uy thế. Sau nhiều năm thương lượng, Tòa Tổng Giám mục Huế được nhà cầm quyền cho tái thiết linh địa La-Vang, hy vọng khởi công vào Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 15-8-2012.
-------------- Tham Khảo: Catholic Encyclopedia – Assomption de la Sainte Vierge Marie.
Tín điều Đức Maria hồn xác lên trời được Đức Piô XII long trọng tuyên tín trên ngai toà Phêrô 15/8-146
Tín điều Đức Maria hồn xác lên trời được Đức Piô XII long trọng tuyên tín trên ngai toà Phêrô. Không phải đợi đến nửa thế kỷ XX Mẹ Hội Thánh mới tin nhận điều này nhưng nó đã được sống, và tin nhận từ lâu dù rằng chưa trở thành tín điều buộc phải tin cách chính thức cho toàn thể Hội Thánh. Mẹ Maria được Chúa ân thưởng về trời cả hồn lẫn xác. Cái vấn nạn là ở chữ “xác”. Nếu tuyên bố rằng linh hồn Mẹ lên thiên đàng thì đâu có vấn đề và cũng chẳng ai bàn luận làm gì. Ở đây tín điều lại bao hàm cả cái “thân xác” của Mẹ.
Thân xác nhân loại chúng ta đã từng một thời gian rất dài bị hẩm hiu số phận dưới cái nhìn của nhị nguyên thuyết. Nói đến xác thịt là như nói đến cái gì đó xấu xa phải chê, phải ghét. Nghe đến hai chữ xác thịt là ta dễ liên tưởng đến xu hướng “hạ đẳng” luôn kéo ta đi xuống. Một ai đó khi được nhắc nhớ về lỗi lầm đã vấp phạm thì thường dễ biện minh: “Tính xác thịt mà”. Vậy ta phải nhìn thân xác như thế nào đây?
Con người là hữu thể xác hồn duy nhất. Tôi là hồn xác này. Xác hồn liên kết mật thiết không thể tách biệt mặc dù có thể phân biệt. Bất cứ hành vi nào của ta xét như là hành vi nhân linh đều có sự tham gia của hồn lẫn xác. Lập công thì cũng cả xác lẫn hồn và phạm tội cũng cả hồn lẫn xác.
Thân xác là cánh cửa giúp con người giao tiếp với giới tự nhiên, với tha nhân và với cả Thiên Chúa. Để thực thi công trình cứu độ, Ngôi lời đã mặc lấy xác phàm. Khi đi rao giảng Tin mừng, Người sử dụng thân xác mình để giáng phúc thi ân cho kẻ què đi được, người câm nói được, người mù được thấy, kẻ chết sống lại…. Và đỉnh cao của tình yêu mà Đức Kitô tỏ bày cho nhân loại là trao ban chính Máu Thịt của Người. Một thân xác trần trụi, chẳng còn hình tượng người ta nữa trên thập giá với Trái Tim bị đâm thâu là dấu chỉ tình yêu đến cùng của Đấng cứu độ. Và Hy tế cứu độ được hiện tại hoá trên bàn thờ mỗi ngày chính là Thân Mình Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể.
Tôn vinh Mẹ Maria qua mầu nhiệm Mẹ được Chúa ân thưởng về trời cả hồn lẫn xác, chúng ta không chỉ nói lên niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa, không chỉ nói lên tính quy luật của tình yêu là sự trọn vẹn, mà còn khẳng định phẩm tính cao trọng của thân xác do Thiên Chúa tạo dựng. Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp. Đặc biệt cái thân xác con người, một “sản phẩm” mà Thiên Chúa xem ra phải tốn công mất sức nhiều như hình ảnh sách Sáng Thế mô tả: Thiên Chúa phải dùng tay để nặn và thổi hơi vào trong khi mọi thứ thì người chỉ phán một lời (x. St 1-2). Tín điều Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác mời gọi ta xác tín: Mẹ Maria đã cộng tác vào ơn cứu độ bằng trọn cả con người hồn xác. Mẹ đã đón nhận ơn cứu độ bằng cả xác hồn. Và việc Mẹ được ân thưởng cả xác hồn là hệ quả tất yếu.
Tình yêu đòi hỏi sự trọn vẹn và hài hoà cả xác lẫn hồn: Vị Cha chung của Hội Thánh, Đức Bênêđictô XVI nhận định trong thông điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu: “Tình yêu giữa người nam và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly mở ra cho con người một lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được có lẽ là kiểu mẫu của tình yêu; bên cạnh tình yêu này thoạt nhìn một hình thức khác của tình yêu (phụ nữ, mẫu tử, bằng hữu,…) như mờ nhạt đi” (số 2). Chính vì thế khi yêu là yêu cả con người trọn vẹn.
Xin đừng quá chú trọng việc cứu rỗi linh hồn mà xao nhãng các nghĩa cử yêu thương cả về phần xác. Thánh Giacôbê tông đồ trách cứ những người chỉ biết chúc lành cho người nghèo mà không giúp họ chút gì về vật chất để lo cho thân xác họ. “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày mà anh em lại nói với họ: Hãy đi bình an… nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ?”(Gc 2,15-16 ). Ngược lại xin cũng chớ đề cao quá mức những chăm sóc về phần xác kiểu luận lý: “Có thực mới vực được đạo”.
Trong việc thờ phượng, yêu mến Chúa cũng tương tự. Hãy cẩn trọng với những lối biện minh cực đoan, một chiều như “đạo tại tâm”, “thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý”. Để tham dự các cử hành Phụng vụ, lãnh nhận các Bí tích, Mẹ Hội Thánh nhắc nhớ chúng ta một trong các điều kiện bình thường đó là sự hiện diện bằng thân xác. Không thể xưng tội qua điện thoại hay tham dự Thánh lễ Chúa Nhật qua vô tuyến truyền hình cách thành sự. Và ngược lai, chúng ta khong thể không thận trọng trước lời khiển trách của Thiên Chúa với dân Người xưa rằng: dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.
Cần phải loại bỏ cái nhìn phiến diện và không tích cực về thân xác. Làm sao có thể tồn tại thái độ chê ghét thân xác, các thực hành đạo đức làm tổn hại sức khoẻ… trong khi chúng ta vẫn tuyên xưng: Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại? Phải biết tôn trọng vai trò, vị thế của thân xác. Chúng ta vốn quen với câu ngạn ngữ la tinh: “Một tinh thần tráng kiện trong một thân xác khỏe mạnh”. Hãy biết tận dụng những thế mạnh, những ưu điểm của thân xác chúng ta để yêu thương và phục vụ tha nhân thiết thực và hiệu quả hơn. Hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi chính thân xác chúng ta. Hãy dùng chính thân xác cùng với các khả năng của nó để làm sáng danh Chúa. Biết tận dụng mọi tiến bộ khoa học để có được một thân xác khoẻ, đẹp, duyên dáng ở mức độ có thể, quả là điều nên làm và đáng làm. Dĩ nhiên đó phải là một thân xác được linh động bằng một linh hồn trong sáng, thánh thiện, đầy tràn tình yêu.
Mỗi khi đọc kinh mân côi chúng ta suy niệm mầu nhiệm: Thứ bốn thì ngắm:Đức Chúa Trời cho 15/8-147
Mỗi khi đọc kinh mân côi chúng ta suy niệm mầu nhiệm: Thứ bốn thì ngắm:Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ."
Tin trong tâm hồn, nhưng trí khôn hiểu mầu nhiệm Đức Mẹ Maria lên trời như thế nào?
1. Trọn vẹn bên Chúa
Đức đương kim giáo hoàng Benedictô 16., khi còn là Hồng Y Bộ trưởng Bộ tín lý đức tin, đã tâm sự: „ Tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời đối với con người chúng ta thật khó hiểu. Vì chúng ta không mường tượng được trời như thế nào. Lại càng khó hiểu khó mường tượng được chỗ đứng của thân xác trên đó. Như thế, tín điều này đặt ra cho trí óc con người chúng ta một bài toán to lớn, vì phải hiểu trời và thân xác như thế nào, phải hiểu về chính con người và tương lai thân xác ra làm sao...
Theo suy tư thần học về bí tích rửa tội của Thánh Phaolô, tương lai chúng ta, những người đưọc Rửa tội đã có sẵn: „ Thiên Chúa đã cho chúng ta cùng được sống lại và cùng ngự trị với Chúa Giêsu Kitô trên cõi trời." ( Epheso 2, 6).
Như thế tín điều Đức Mẹ về trời cả hồn lẫn xác nói cho chúng ta, điều ứng nghiệm xảy ra nơi Đức Mẹ Maria, qua hiệu qủa của bí tích Rửa tội đã lãnh nhận chúng ta được cùng sống ở trên trời với Chúa- Chúa là nước trời –
Điều khác biệt là nơi Đức Mẹ Maria đã trọn vẹn xảy ra. Không có gì thiếu sót nơi sự sống lại của Đức Mẹ Maria. Còn nơi con người chúng ta, dù đã chịu phép rửa tội trở nên Kitô tô hữu, sự sống lại vẫn chưa có khả năng đầy đủ, vẫn còn mỏng manh dễ bị tan vỡ.
Đức Mẹ đã được thu nhận gia nhập trọn vẹn vào cộng đoàn với Chúa Giêsu Kitô. Nơi cộng đoàn đó bao gồm cả thân xác mới, mà trí óc con người chúng ta không có thể mường tượng ra được như thế nào.
Tóm lại, điều căn bản của tín điều này là Đức Mẹ Maria hoàn toàn ở bên Thiên Chúa, trọn vẹn bên Chúa Giêsu Kitô, trở nên một tín hữu Chúa Kitô với đầy đủ mọi ân sủng, mọi khả năng." ( Joseph Ratzinger, Papst Benedickt XVI. , Gott und die Welt, Ein Gespräch mit Peter Seewald, München 2005, tr. 328-329). Đức Mẹ Maria được đưa lên sống ở trên trời tựa như ngôi sao chiếu ánh sáng dẫn đường cho cho tương lai đời sống con người đang trên đường đi tìm Thiên Chúa, Đấng là nước trời cho con người.
2. Ngôi sao trên triều thiên
Trên bầu trời không gian vũ trụ hằng có những ngôi sao, những giải dài toàn những ngôi sao chiếu ánh sáng lấp lánh vào ban đêm.
Trên mặt đất con người cũng làm chế tạo những ngôi sao thông thường có năm cánh hoặc sơn mầu bạc trắng, hoặc mầu vàng , khi ánh sáng mặt trời hay đèn nến, đèn điện chiếu vào cũng tỏa tia sáng lấp lánh lung linh.
Chung quanh vòng tròn triều thiên của bức tượng ảnh Đức Mẹ Maria cũng có 12 ngôi sao mầu vàng.
Mầu vàng ngôi sao triều thiên Đức Mẹ Maria nói về hình ảnh sự bền vững. Theo sách Khải Huyền của Thánh Gioan, thành thánh Giêrusalem trên trời chiếu tỏa mầu vàng trong sáng ( Kh 21, 18).
Con số 12 ngôi sao ở vòng triều thiên Đức Mẹ có nguồn gốc nơi nền văn hóa con người. Con số 12 trong dân gian hiểu là số mang đến hạnh phúc. Một năm có 12 tháng, ban ngày có 12 tiếng đồng hồ, ban đêm cũng có 12 tiếng đồng hồ.
Kinh Thánh nói đến dân tộc Israel do 12 chi tộc tạo thành. Đi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu kêu gọi 12 Tông đồ. Đức Mẹ Maria như Thánh Gioan trong một thị kiến đã thuật lại hình ảnh như sau: Rồi có điềm lạ xuất hiện trên trời: một ngưòi Phụ nữ mình khoác áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên 12 ngôi sao." ( KH 12, 1).
Ngôi sao trên triều thiên Đức Mẹ là dấu chỉ phương hướng cho con người. Đến với Đức Mẹ là điều tốt. Nhưng Đức Mẹ không muốn con người dừng lại nơi ngài. Chúa Giêsu mới là đích điểm đi đến. Đức Mẹ chỉ hướng đến với Chúa Giêsu. Như trong tiệc cưới Cana, Đức Mẹ đã bảo : Hễ Ngài bảo gì, hãy làm theo!
Đức Mẹ Maria không là ngôi sao, nhưng Đức Mẹ trở thành ngôi sao ban mai dẫn đường cho những ai tin vào Chúa Giêsu.
Đức Mẹ Maria là người sinh hạ nuôi dưỡng Chúa Giêsu. Với con cái người mẹ là tất cả, là niềm cậy trông hy vọng.
Trước tòa ảnh tượng Đức Mẹ lên trời, chúng ta chiêm ngưỡng Đức Mẹ là người mẹ chúng ta trên trời. Đức Mẹ trở nên ngôi sao niềm hy vọng cậy trông cho tất cả mọi người, cho những người đang trong hoàn cảnh đau khổ gặp bước đường khó khăn thiếu thốn.
Và trong kinh cầu Đức Bà chúng ta ca ngợi khấn nguyện: "Đức Bà như ngôi sao sáng vậy!" Cầu cho chúng con!
Giống như sự khởi đầu hiện hữu của Đức Maria trên trần thế, đoạn kết của đời sống thế trần của 15/8-148
Giống như sự khởi đầu hiện hữu của Đức Maria trên trần thế, đoạn kết của đời sống thế trần của Mẹ cũng được Thiên Chúa thánh hiến: Theo truyền thống Giáo huấn công giáo thì “Đức Maria sau khi hoàn tất cuộc sống trần thế đã được đưa về trời vinh quang cả hồn lẫn xác” (DH 3903).
Những sinh hoạt tôn kính Đức Maria vào thế kỷ thứ 6. đã nhắc đến việc thân xác Đức Maria được đưa về trời. Dĩ nhiên việc khẳng định nầy đã đưa lại nhiều vấn nạn, vì nó không dựa vào một chứng cứ lịch sử nào. Ở Đông phương vào thế kỷ thứ 6. và ở Tây phương vào thế kỷ thứ 7. và 8. ngươì ta nói đến lễ Đức Maria ngủ (koimesis / dormitio). Bên Tây phương lễ tưởng nhớ cái chết và việc quay trở về quê trời của Mẹ, nối kết với việc tưởng nhớ thân xác của Mẹ không bị mục nát, được coi như đánh dấu việc đưa Mẹ về trời (assumptio Mariae). Điều muốn trình bày là: Cái chết của Đức Maria có một ý nghĩa đức tin quan trọng, phát sinh bởi việc áp dụng về ý nghĩa (application = Nói về những hoa trái của sự cứu chuộc khách quan, do Chúa Kitô thủ đắc một lần là đủ trong lễ Vượt qua, rồi được thông ban cho từng người, tùy theo đức tin, đức mến và các Bí tích mà họ lãnh nhận [Thomas Aquin, Sth III, q. 49, a 3, ad 1] ) được trình bày cách tổng quát nơi thánh kinh về số phận những người chết (1 Thess 4, 14) trên Đức Maria. Sự đồng hình đồng dạng của người chịu Phép rửa với cái chết và sự Phục sinh của Đức Kitô (Phil 3, 12; Eph 2, 5; Col 3,3) và sự chiên ngắm dung nhan Thiên Chúa cách trọn hảo (1 Cor 13, 12; 1 Gia 3, 2) liên kết với tín điều Trọn Đời Đồng Trinh và Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria trong mối tương quan sâu xa với công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô đưa tới nhận thức: Đức Maria như là một con người ở bên Thiên Chúa một cách trọn hảo hoàn toàn, và số phận của từng người được Thiên Chúa phác hoạ lại trong số phận của Mẹ như là mẫu mực và điển hình (typologie).
Ngay từ đầu niềm xác tín về việc Đức Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác nối kết cách chặt chẽ với việc tín thác vào lời bầu cử của Đức Maria, như tất cả các Thánh tử đạo và các thánh, Mẹ ở bên Chúa Giêsu, và trong sự hoà hợp với sự trung gian của Đức Kitô, Mẹ nâng đỡ Giáo hội lữ hành trên con đường tiến tới hợp nhất với Đức Kitô, phu quân của mình. Vào thế kỷ thứ 7. và thứ 8. các nhà Thần học có thế giá ở Đông phương đều giảng dạy việc thân xác của Đức Maria được đưa về trời (Germanô thành Constantinopel, Gioan Damacus, Theodor Studion).
Ở Tây phương các nhà kinh viện thời hưng thịnh cũng xác tín rằng, Thân xác mang Ngôi lời của Đức Maria là đền thờ Chúa Thánh Thần, đã không bị hủy hoại bởi Nguyên tội (Thomas Aquin, Exp. Sal. Ang.). Có hai tác phẩm nghi ngờ về số phận của Đức Maria: trước tiên là “Adest nobis” (gỉa thuyết cho Ambrosiô Autpertô [† 784] biên soạn) cho rằng, ngươì ta không thể biết về số phận của Đức Maria, kế đến là “Cogitis me” (hình như được biên soạn bởi Paschasiô Radbertô [† 865]) nghi ngờ không biết thân xác của Đức Maria có lên trời vinh hiển hay không. Augustinô trong bộ biên khảo “Ad interrogata” đã xác tín niềm tin về việc thân xác Đức Maria được đưa về trời dựa trên nền tảng chứng cứ Kitô học.
Trong khuôn khổ của vấn đề linh hồn – thân xác nơi kinh viện xuất hiện câu hỏi: căn cứ vào phương thế nào mà sự chung hưởng trọn vẹn với phương tiện trần thế (tức thân xác) có thể lĩnh hội được? Câu hỏi hướng tới số phận của thi hài Đức Maria trong khuôn khổ nhân chủng học và cánh chung học. Vấn đề được đặt ra ở đây không nhắm đến sự hợp nhất thân xác trần thế và vinh hiển của Chúa Giêsu, vì nơi Chúa Giêsu nói đến biến cố mạc khải trực tiếp, qua đó Thiên Chúa Cha biểu lộ sự đồng nhất giữa Chúa Giêsu Phục sinh và trần thế qua “ttrạng thái thần khí” của Người biểu tỏ nơi biến cố hiện ra sau khi sống lại.
Trong quá trình tiến tới tín điều hóa đức tin về Assumpta, một vài giáo huấn của các Đức Giáo hoàng về việc xác Đức Maria được đưa về trời đóng vai trò quan trọng. Như bức thư “Ex litteris tuis” được Đức Alexander III biên soạn năm 1169: “Đức Maria thụ thai tinh tuyền, sinh nở không đau đớn, và vì thế sau khi chết Mẹ không bị hủy hoại” (“Maria concepit sine pudore, peperit sine dolore, et hinc migravit sine corruptione”) (DH 748), và bản văn nói về việc Đức Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác trong việc cải tổ giờ kinh phụng vụ ghi theo lịch, danh sách các thánh đã qua đời (Martyrologium) (1568) của Đức Pio V, đã có một ảnh hưởng rất lớn. Dựa vào lời thỉnh cầu của các tín hữu và sự nhất trí của toàn thể các Giám mục trong Giáo hội công giáo, Đức Piô XII. Đã ban hành tông sắc “Munificentissimus Deus” (1950) (DH 3900 – 3904) tuyên bố tín điều:
“Đây là chân lý đức tin được mặc khải bởi Thiên Chúa: Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa về trời vinh hiển cả hồn lẫn xác” (DH 3903).
Về cái chết và về thân xác không hư nát của Đức Maria cũng đưa ra vấn nạn: có hay không Đức Maria là người duy nhất trong cộng đoàn các thánh nhân được đặc ân là: toàn thể con người của Mẹ (xác và hồn) được dự phần vào vinh quang của Đấng phục sinh, vinh quang được mặc khải trong biến cố quang lâm, bởi có thể các thánh khác cũng tham dự vào biến cố đó (x. Mt 27, 52)?
Theo một chiều kích khác, biến cố lạ thường về sự trọn hảo của Đức Maria có thể không nhìn đến trong một mối tương quan giữa hồn và xác của Mẹ sau khi chết, nhưng đúng hơn là nhìn đến trong mức độ kết hợp của Mẹ với Đức Giêsu Kitô và với ý muốn cứu độ phổ quát của Người đối với Giáo hội và với nhân loại. Qua cái chết mối tương quan cá nhân của con người đối với Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Mối tương quan đó được thể hiện trong những mức độ khác nhau, cái mức độ đó liên quan đến sự kết hợp thâm sâu và sự nguyên vẹn của bản tính con người hiện hữu xác hồn. Công bố tín điều về Đức Maria được cả hồn lẫn xác về trời: vì chỉ có Đức Maria là người duy nhất được nối kết với hành vi cứu chuộc của Đức Kitô trong đức tin và trong ân sủng, Mẹ dự phần vào hình thức phục sinh của Đức Kitô như là người được cứu chuộc đầu tiên và được cứu chuộc cách trọn vẹn. Do đó Mẹ là nguyên mẫu (Typus) của tình trạng toàn vẹn của nhân loại đối với Thiên Chúa, Đấng tạo hoá và Đấng toàn hảo. Sự phân biệt giữa Mẹ và các thánh nằm ở chỗ: Đức Maria là nguyên mẫu và là biểu trưng của việc cứu chuộc qua sự kiện Mẹ nối kết một cách thâm sâu với chính công trình cứu chuộc và lời cầu bầu của Mẹ có một ý nghĩa đặc biệt, một chiều kích rộng lớn và một mức độ sâu đậm đối với sự trọn vẹn của toàn thể nhân loại trong ngày quang lâm của Đức Kitô.
Đức Maria là nguyên mẫu của Giáo hội và đồng thời, căn cứ vào chức vụ Mẹ Thiên Chúa, là chi thể mang nhiều ý nghĩa nhất đối với Thân thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô. Bởi đó công đồng Vat. II một lần nữa lập lại xác tín của Giáo hội: “sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên trời hưởng phúc vinh quang cả hồn lẫn xác, và được Thiên Ch1ua tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19, 16), Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết” (LG 59).
Đức Maria không ngớt dấn thân trong nhiệm cục cứu chuộc, ngay cả khi về trời Mẹ vẫn tiếp tục bổn phận của Mẹ trong nơi “nhiệm cục ân sủng”: “Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của Mẹ trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Mẹ vẫn luôn tiếp tục cầu bầu để đem lại co chúng ta những ân huệ để đem lại chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời. Với tình mẹ hiền, Mẹ chăm sóc những anh em của Con Mẹ đang lữ hành trên đường dương thế và đang gặp bao nguy hiểm thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế trong Giáo hội, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng sư, Vị Bảo trợ, Đấng Phù hộ và Đấng trung gian” (LG 62).
Đức Maria Hồn Xác Lên Trời nghĩa là sau cuộc đời tại thế, Đức Maria cả hồn lẫn xác được mang 15/8-149
Đức Maria Hồn Xác Lên Trời nghĩa là sau cuộc đời tại thế, Đức Maria cả hồn lẫn xác được mang lên Trời. Khác với những vị thánh khác, Đức Mẹ lên Trời không chỉ với linh hồn mà còn với thân xác vinh hiển. Vào ngày 1 tháng 11 năm 1950 Đức Giáo hoàng Piô XII đã định tín giáo thuyết này là "tín điều được Thiên Chúa mạc khải" .
Mẹ Thiên Chúa ngay từ giây hoài thai không vướng tội tổ tông. Do đó Mẹ không phải đợi chờ, như chúng ta, để được phục sinh vào ngày sau hết. Mẹ ở với Người Con Thần Linh của mình trong cùng thân xác – mặc dù nay ở trong vinh quang chói lọi – mà Mẹ đã ban cho Người tại Nagiarét. Người đã lên Trời trong thân xác bốn mươi ngày sau khi phục sinh. Mẹ được mông triệu với thân xác lên Trời sau khi Mẹ hoàn tất những ngày tại thế của Mẹ, vào khoảng mười lăm năm sau.
Trong khoảng một ngàn bốn trăm năm, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được cử hành vào ngày 15 tháng 8. Nay ngày này là một trong những ngày lễ buộc đối với Hội Thánh hoàn vũ (Giáo luật Điều 1246), vào ngày này "tín hữu buộc phải tham dự thánh lễ, và hơn nữa, kiêng làm những công việc hay hoạt động làm ngăn trở sự thờ phượng Thiên Chúa, sự hưởng niềm vui riêng của ngày của Chúa, hoặc sự nghỉ ngơi cần thiết cho tâm trí và thân xác" (Giáo luật Điều 1247).
Mông Triệu và Fatima
Ta có thể rút ra một số bài học nào từ mầu nhiệm đức tin này? Đó chính là những bài học mà Đức Mẹ đã đưa ra cho ta khi Mẹ hiện ra tại Fatima. Phải cầu nguyện, hy sinh, và ăn năn đền tội cho các tội nhân đáng thương đang xúc phạm đến Thiên Chúa.
Đức Maria hồn xác lên trời là lời hứa ta sẽ được phục sinh vinh hiển từ mộ phần – với điều kiện chúng ta cầu nguyện. Không cầu nguyện, ta không thể trung thành phục vụ Thiên Chúa.
Đức Maria hồn xác lên trời là bằng chứng các hy sinh của ta mang lại lợi ích ra sao. Không có những hy sinh nhỏ nhất nào trong những hy sinh mà ta thực hiện để khước từ thú vui thân xác lại trái ý Thiên Chúa cả. Phần thưởng đời đời đáng với cái giá mà ta trả bằng sự tự chế ở đời này. Bằng cách giờ đây từ bỏ những gì ta ưa thích nhưng lại là tội lỗi, và chịu đựng những gì đau đớn cho ta nhưng làm hài lòng Thiên Chúa, ta sẽ hưởng phúc Thiên Đàng với Chúa Giêsu và Mẹ Maria – cả xác lẫn hồn – ở đời sau.
Thông điệp Đức Maria hồn xác lên trời là một mời gọi hãy ăn năn sám hối. Đức Giáo hoàng Piô XII bày tỏ niềm hy vọng rằng vinh quang mới này đối với Mẹ Maria sẽ mang lại "một tinh thần sám hối để thay thế cho thói ham mê khoái lạc đang lan tràn khắp nơi, và một sự đổi mới đời sống gia đình sẽ đem lại sự bình ổn tại những nơi tình trạng ly dị đang phổ biến, và sẽ sinh hoa trái tại những nơi đang thực hiện việc kiểm soát sinh sản".
Nếu ta hy vọng được ở đời đời với Chúa Giêsu thì bây giờ đây ta phải noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ Maria. Mẹ là mẫu gương hoàn thiện về nếp sống cho chúng ta: đơn sơ trong đức tin, vững vàng trong đức cậy và xả kỷ vị tha trong đức mến Chúa yêu người.
Ngày trọng đại vinh hiển nhất của Mẹ Ma-ri-a cũng như của con cái Mẹ là được Chúa cho hồn 15/8-150
Ngày trọng đại vinh hiển nhất của Mẹ Ma-ri-a cũng như của con cái Mẹ là được Chúa cho hồn xác lên Trời. Ta hãy tìm hiểu:
- Lý do Mẹ được lên Trời. - Địa vị của Mẹ Ma-ri-a. - Nhân đức của Mẹ Ma-ri-a. - Sứ mệnh của Mẹ Ma-ri-a. - Vinh quang của Mẹ Ma-ri-a. - Mẹ mời gọi con cái Mẹ cùng lên Trời.
1- Lý do Mẹ được Chúa cho hồn xác lên Trời.
Không phải mãi tới năm 1950, Đức Giáo hoàng Pio XII tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Chúa mới cho hồn xác Mẹ lên Thiên Đàng, mà niềm tin Mẹ Ma-ri-a được Chúa cho hồn xác lên Trời đã khai mào ngay từ thời Giáo Hội sơ khai. Đó cũng là lý do các tác giả Tin Mừng không ai ghi nhận sau khi Chúa Giê-su phục sinh, Ngài đi gặp Đức Mẹ, vì các Tông Đồ muốn xác định : Mẹ Ma-ri-a luôn luôn ở bên cạnh Con Mẹ, không có một giây phút nào Mẹ-Con xa nhau, nghĩa là khi Chúa Giê-su lên Trời ngay trên thập giá (x Lc 23,43) thì Mẹ cũng đồng hành. Chúa Giê-su Phục Sinh chỉ đến với những người chưa được lên Trời với Ngài. Và như vậy, ngày Đức Pio XII tuyên bố tín điều Hồn Xác Mẹ Lên Trời là ngài muốn cổ võ cho toàn thể loài người phải biết cùng với Mẹ Ma-ri-a cám ơn Chúa, vì Ngài đã cho Mẹ chúng ta hồn xác được lên Trời trước là dấu bảo chứng chắc chắn Mẹ đã ở đâu thì Mẹ cũng muốn cho chúng ta là con cái Mẹ được ở chung.
Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu đã tin hồn xác Mẹ lên Trời, như lời thánh Phao-lô viết cho giáo đoàn Cô-rin-tô : “Như mọi người vì liên đới với A-đam phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô (A-đam mới) cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình, mở đường là Đức Ki-tô, rồi đến những người thuộc về Đức Ki-tô (chắc chắn Mẹ Ma-ri-a là ưu tiên) vào buổi quang lâm của Ngài” (1Cr 15,22-23 : Bài đọc II).
2- Địa vị của Mẹ Ma-ri-a.
Trong tiệc cưới Ca-na, Mẹ nói với loài người : “Hãy đến với Giê-su, Ngài bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5) Lời này Mẹ lặp lại nguyên văn lời vua Pha-ra-ôn nói với toàn thể loài người khi lâm cảnh đói khổ chạy đến với vua xin mua lương thực, thì vua lại nói : “Hãy đến cùng Giu-se, ông bảo gì cứ làm theo!” (St 41,35) Mà Giu-se là tiền thân của Đức Giê-su. Vào thời điểm ấy, vua Pha-ra-ôn là người giàu có nhất trên thế gian, vì nhờ tài năng và sự khôn ngoan của Giu-se, vua ra lệnh cho ông Giu-se bung tiền mua lại tất cả thóc lúa của dân trong bảy năm được mùa, để rồi sẽ bán lại cho dân vào thời bảy năm mất mùa tiếp theo đó, và như vậy cả thế giới, ai cũng cần chạy đến với vua Pha-ra-ôn, ai cũng phải tôn trọng vua. Địa vị và danh dự của vua Pha-ra-ôn đã báo trước địa vị và danh dự của Đức Mẹ, vì nhờ Giê-su Con Mẹ khôn ngoan hơn Giu-se đã tích trữ tất cả ơn của Chúa trong các Bí tích Ngài lập, rồi trao cho Mẹ cũng như Hội Thánh quản lý, để tùy Mẹ và Hội Thánh phân phát cho những ai cần chạy đến xin lương thực bất tử (x Ga 19,25-27).
3- Nhân đức của Mẹ Ma-ri-a.
Có hai nhân đức đặc biệt của Mẹ, Mẹ muốn chúng ta dõi theo :
a- Đoán ý muốn của người khác để phục vụ. Trong Tin Mừng ghi lại hai lần Đức Mẹ phục vụ tất cả đều ghi đậm nét, chưa ai đến cậy nhờ Mẹ giúp, vì ngay khi Mẹ biết tình hình người ta đang cần gì, thì Mẹ mau mắn giúp đỡ họ ngay. Cụ thể: - Mẹ nghe tin bà Ê-ly-sa-bét, chị họ đã gần 100 tuổi mà đang mang thai được 6 tháng, Mẹ hiểu ngay thân phận phụ nữ vào hoàn cảnh như thế rất cần người đến giúp đỡ, thế là Mẹ mau mắn lên đường… (x Lc 1,57t).
- Trong tiệc cưới Ca-na, Mẹ thấy người ta đang lo lắng đi tìm rượu đủ cho thực khách, vì chủ tiệc không trù liệu đủ Thế là Mẹ đứng ngay lên đến nói với Giê-su Con Mẹ : “Họ hết rượu rồi”, và Đức Giê-su đã làm cho họ dư rượu mới ngon hơn (x Ga 2,1-11).
b- Việc cầu nguyện của Mẹ đứng hàng đầu, và liên kết các lời trong Sách Thánh thành bài ca tuyệt vời chúc tụng Chúa. Mẫu cầu nguyện này Hội Thánh đã muốn cho con cái Mẹ noi gương bắt chước như lời Hội Thánh dạy : “Việc cầu nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh” (Hiến Chế Mạc Khải số 25) :
Khi Mẹ lên đường tới nhà nhà bà Ê-ly-sa-bét, ai cũng nghĩ là tác giả Tin Mừng phải ghi lại rất nhiều việc Đức Mẹ giúp chị mình, nhưng Lu-ca không cho ai thấy Mẹ làm gì, chỉ thấy Mẹ cầu nguyện và làm mọi người rộn lên niềm vui, kể cả Gio-an còn trong bụng mẹ cũng nhảy mừng!
4- Sứ mệnh của Mẹ Ma-ri-a.
a- Đời phục vụ của Mẹ diễn tả và báo trước chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người.
Đọc lại Tin Mừng Lu-ca, ai cũng nghĩ là Mẹ cần phải ở lại nhà chị họ để phục vụ khi người chị sinh con. Thế mà, tác giả Lu-ca cho biết : Ma-ri-a bắt đầu đến nhà bà Ê-ly-sa-bét, bà đã có thai được 6 tháng, phải ngoài 3 tháng nữa, bà mới sinh con. Vậy mà Mẹ Ma-ri-a chỉ đến nhà người chị có 3 tháng rồi trở về quê. Khi Mẹ về tới nhà thì Gio-an mới sinh ra ! (x Lc 1,56) Thánh sử Lu-ca có ý ghi như thế để xác quyết rằng : Mẹ đã báo trước chương trình cứu độ loài người của Con Mẹ : sau khi Con Mẹ phục vụ ba năm, bị giết và an táng trong mồ ba ngày, rồi phục sinh về Trời, lúc ấy các Tông Đồ ra đi rao giảng, và Hội Thánh được sinh ra.
b- Mẹ cộng tác với Chúa để hoàn tất cuộc sáng tạo loài người.
Tác giả Lu-ca và Gio-an ghi lại 6 lần Mẹ Ma-ri-a nói :
- Mẹ thưa với thiên thần trong ngày truyền tin : “Việc đó xảy đến thế nào vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). - Mẹ đáp lại sau khi được sứ thần giải thích nguyên nhân Mẹ sinh Con Thiên Chúa : “Xin Chúa làm cho tôi điều Chúa nói” (Lc 1,38). - Mẹ cầu nguyện dài nhất tại nhà chị họ Ê-ly-sa-bét (Lc 1,46-55). - Mẹ trách Đức Giê-su trốn cha mẹ ở lại Đền Thờ dạy giáo lý : “Sao con làm thế, đây cha mẹ đã vất vả tìm con!” (Lc 2,48). - Trong tiệc cưới Ca-na, Mẹ nói với Đức Giê-su : “Nhà này hết rượu” (Ga 2,3). - Mẹ nói với loài người : “Chúa bảo gì con cứ làm theo!” (Ga 2,5)
Thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, Ngài nói 6 lần trong sáu ngày, vạn vật xuất hiện rất tốt đẹp. Ta lưu ý Thiên Chúa nói lần thứ 6 trong ngày thứ sáu : “Chúng ta hãy dựng nên loài người giống Chúng Ta” (St 1,26-27). Nhưng thực ra lúc ấy loài người chỉ là một sinh vật (x 1Cr 15,45 – bản dịch CGKPV). Loài người chỉ vượt kiếp sinh vật trở nên giống Thiên Chúa khi biết nghe và thực hành lời Mẹ Ma-ri-a dặn : “Giê-su bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5)
5- Vinh quang của Mẹ.
Sách Khải huyền diễn tả vinh quang của Mẹ : “Một người phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1) :
- “Mình khoác áo mặt trời” : Mặt trời ám chỉ Thiên Chúa (x Lc 1,78).
- “Trăng sao” : Người Do-thái hiểu là các thần minh ở trên trời, vị thần cao cả nhất trong các thần chính là mặt trăng.
Vậy người phụ nữ là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a được vinh quang của Thiên Chúa bao bọc (mặc áo mặt trời), vị thần cao cả trên trời Chúa đặt làm bệ kê chân Mẹ, các thần minh khác diễn tả vinh quang của Mẹ (đầu đội triều thiên 12 ngôi sao).
Hình ảnh đó còn có ý diễn tả toàn thể Hội Thánh (12 ngôi sao) đều vây quanh Mẹ, vinh quang các phần tử trong Hội Thánh là nhận vinh quang Chúa đã ban cho Đức Mẹ. Nói cách khác, vinh quang của Đức Ma-ri-a là cộng lại vinh quang của toàn thể Hội Thánh.
6- Mẹ mời gọi con cái Mẹ cùng lên Trời.
Người ta hỏi Chúa Giê-su : “Nước Trời ở đâu?” Chúa trả lời ngay : “Nước Trời ở giữa các người” (Lc 17,21).
Để hiểu Nước Trời ở giữa loài người, tác giả Lu-ca diễn tả 3 lần Chúa Giê-su lên Trời :
- Ngài lên Trời ngay khi còn treo trên thập giá ở đồi Sọ, như Ngài nói với tên trộm lành : “Hôm nay, anh ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23,43).
- Chúa lên Trời trong đêm Chúa nhật Phục Sinh, tại Bê-ta-ni-a. Thánh sử Lu-ca ghi : “Chúa Giê-su dẫn môn đệ đến Bê-ta-ni-a, đoạn Ngài giơ tay chúc lành cho họ. Và xảy ra là đang khi Ngài chúc lành cho họ, thì Ngài đã từ biệt họ và được nhắc lên Trời” (Lc 24,50-51).
- Chúa lên Trời vào ngày thứ năm tại núi Cây Dầu. Tác giả Lu-ca ghi : “Sau cuộc thương khó, Chúa Giê-su đã cho môn đệ thấy mình vẫn sống, với nhiều tang chứng đành rành. Suốt 40 ngày (tức là ngày thứ năm sau Chúa nhật Phục Sinh) Ngài đã hiện ra với họ và nói về Nước Thiên Chúa. Rồi Ngài lên Trời xa cách các môn đệ … Bấy giờ các môn đệ trở về Giê-ru-sa-lem từ núi Cây Dầu, gần bên Giê-ru-sa-lem” (Cv 1,3.11-12)
Lên Trời lần thứ I tại đồi Sọ chính là lúc Chúa đang dâng lễ ; lên Trời lần thứ II vào đêm Chúa nhật, thời gian Giáo Hội sơ khai dâng lễ, tại địa điểm Bê-ta-ni-a, nhắc đến chị Ma-ri-a người mẫu mực nghe Lời Chúa (x Lc 10,38-42) ; lên Trời lần thứ III vào ngày thứ năm, nhằm ngày Chúa Giê-su lập Bí tích Thánh Thể, địa điểm ở núi Cây Dầu, nơi Chúa Giê-su cầu nguyện bắt đầu Hy-tế của Ngài (x Lc 22,39-46) Vậy Thiên Đàng ở giữa loài người, chính là Thánh lễ Hội Thánh cử hành mà thánh sử Lu-ca đã nhấn mạnh ba lần, qua cách viết Chúa Giê-su lên Trời ba lần.
Tại tiệc cưới Ca-na báo trước hình ảnh tiệc Cưới Con Chiên, Hy-tế Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a căn dặn loài người : “Giê-su bảo gì, cứ làm theo!” (Ga 2,5) Cụ thể làm theo lời Chúa Giê-su dạy là “vác Thánh giá hằng ngày theo Ta”, là Mẹ muốn chúng ta đi dự lễ mỗi ngày để cùng với Mẹ bước chân vào Nước Trời.
Cầu nguyện : “Hoàng hậu – Maria - đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy. Lòng hoan hỷ đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng vào tận hoàng cung” (Tv 45/44,10.16 : Đáp ca).
------------- THUỘC LÒNG. Mẹ Ma-ri-a dạy loài người chỉ có một câu : “Giê-su bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5).