“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu”. Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
Khi tuyên xưng Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta khẳng định niềm tin của chúng ta vào 1/1-101
Khi tuyên xưng Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta khẳng định niềm tin của chúng ta vào Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, Ngài thật sự là Con Thiên Chúa nhưng cũng thật sự là Con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong biến cố Nhập Thể. Lễ kính trọng thể “Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa” có gốc tích rất lâu đời và được phổ biến trên khắp thế giới. Trong lịch canh tân Phụng Vụ, lễ kính trọng thể Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa này được cử hành vào ngày mồng 1 tháng giêng, trùng với ngày bát nhật Giáng Sinh, ngày kính nhớ việc cắt bì và đặt tên cho Chúa Giê-su, nhưng cũng trùng với ngày Tân Niên, ngày đầu năm mới cầu cho hòa bình thế giới. Đức Phao-lô VI viết: “Ngày lễ trọng ấy này được đặt vào mồng một tháng giêng theo như tập tục xa xưa của Phụng Vụ Rô-ma. Lễ này được dành riêng ca tụng việc Đức Ma-ri-a góp phần vào mầu nhiệm cứu độ và tán dương tước vị cao quý đặc biệt do phần đóng góp ấy đem lại cho Người Mẹ rất thánh, Đấng có công giúp chúng ta đón tiếp Tác Giả của sự sống” (“Marialis Cultus”, 5).
Ds 6: 22-27
Đây là một trong những bản văn đẹp nhất của bộ Ngũ Thư, về phương diện văn chương và thần học. “Lời chúc lành của tư tế” nêu bật sự hiện diện thi ân giáng phúc của Thiên Chúa, nguồn mạch của sự sống và phúc lành. Lời chúc lành này gồm ba lời nguyện xin, mỗi lời bắt đầu với danh xưng Đức Chúa. Vài tác giả xưa nhìn thấy nơi việc kêu cầu ba lần Danh Thánh này tiên báo Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời chúc lành cầu xin được che chở, ân sủng và bình an: ba hồng ân tóm tắt mọi ước vọng của con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng cách sung mãn.
Gl 4: 4-7
Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô khẳng định với chúng ta rằng chúng ta thực sự là con cái của Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su, Ngài là Con Thiên Chúa được sinh ra làm con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Lc 2: 16-21
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta hai biến cố: “Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su” và “Hài Nhi Giê-su chịu cắt bì và đặt tên”.
BÀI ĐỌC I (Ds 6: 22-27)
Đây là đoạn văn thuộc truyền thống tư tế. Trong phần nhập đề, Đức Chúa căn dặn ông Mô-sê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này” (6: 22-23). Như vậy, các tư tế có nhiệm vụ chúc phúc cho dân Ngài. Tuy nhiên, trong phần chúc phúc, ba lời chúc phúc đều bắt đầu với danh Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa”. Điều này cho thấy vị tư tế chỉ là người trung gian, chính Đức Chúa mới thật sự là Đấng hiện diện và chúc lành.
1. Lời chúc phúc thứ nhất (6: 24)
Trong lời chúc phúc thứ nhất, “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em”, từ “gìn giữ” ở đây nói đến ơn phù trợ của Thiên Chúa khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc sống, như:
“Xin gìn giữ con như con ngươi mắt Ngài, xin dấu con dưới bóng của cánh tay Ngài” (Tv 17: 8)
hay:
“Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu chữa” (Tv 31: 17; 80: 4, 8, 20).
Lời chúc phúc thứ nhất này muốn nói rằng “Xin Thiên Chúa đổ tràn ơn lành trên dân và che chở cho dân tránh mọi tai họa có thể đổ xuống trên dân”. Lời chúc phúc thứ nhất này nhấn mạnh Ơn Chúa Quan Phòng.
2. Lời chúc phúc thứ hai (6: 25)
Trong lời chúc phúc thứ hai, “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em”, nghĩa là xin Thiên Chúa nhìn đến dân Ngài bằng ánh mắt chan chứa niềm vui của Ngài. Lời chúc phúc này muốn nói rằng nếu có điều gì không vừa lòng đẹp ý Ngài, thì xin Ngài “rủ lòng thương” mà khoan hồng độ lượng rộng tình tha thứ những lỗi phạm của dân Ngài. Lời chúc phúc này nhấn mạnh tấm lòng nhân hậu hay tha thứ của Thiên Chúa, như sấm ngôn của Giê-rê-mi-a:
“Trở về đi, hỡi Ít-ra-en phản bội – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ không nghiêm nét mặt với các ngươi nữa, vì Ta giàu lòng thương xót – sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 3: 11).
3. Lời chúc phúc thứ ba (6: 26)
Lời chúc phúc thứ ba: “Nguyện Đức Chúa ghé mặt nhìn”, cầu xin Thiên Chúa đừng ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng nhìn đến dân Ngài như “Thiên Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng Ca-in và lễ vật của ông, thì Người không đoái nhìn đến” (St 4: 5-6). Chính cái nhìn của Thiên Chúa đem lại “bình an” cho dân Ngài. Với tính thực tiễn của Cựu Ước, chúng ta không được quan niệm “bình an” trong nội tâm. Thế giới của Cựu Ước chưa biết trừu tượng hóa hay nội tâm hóa. Bình an mà Cựu Ước muốn nói đến là tình trạng hòa hợp giữa con người với trời và đất. Chỉ có bình an thực sự giữa con người với nhau trong một mối giao hòa với trời và đất, bây giờ mới có bình an trong tâm hồn, như lời ca ngợi của đoàn sứ thần trên bầu trời Bê-lem:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2: 14).
– Kết luận (6: 27)
Trong câu kết: “Chúc lành như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng”, Danh Thiên Chúa đồng nhất với chính sự hiện diện thi ân giáng phúc của Ngài. Vào thời Cựu Ước, chính Đức Chúa, qua trung gian của các tư tế, chúc phúc cho dân Ngài. Vào thời Tân Ước, Con Một Thiên Chúa làm người, là Đức Giê-su, nghĩa là “Đức Chúa cứu độ”, chính Ngài chúc phúc cho nhân loại. Từ nay mọi ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại đều qua Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất giữa nhân loại và Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)
Bài Đọc II được trích từ Thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Ga-lát. Thánh Phao-lô viết Thư này vào năm 54-57 cốt để biện minh cho mình vì có nhiều người đặt nghi vấn về sứ vụ Tông Đồ của thánh nhân và Tin Mừng mà thánh nhân loan báo.
Vì thế, ngay từ đầu Thư, thánh nhân xác quyết sứ vụ Tông Đồ của thánh nhân bắt nguồn từ Đấng Phục Sinh: “Tôi là Phao-lô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết sống lại” (1: 1). Từ đó, thánh Phao-lô khẳng định tính chính thống của Tin Mừng mà thánh nhân loan báo: “Thực vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải do loài người. Vì không ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô mặc khải” (1: 11-12). Thánh Phao-lô cũng viện dẫn các Tông Đồ trực tiếp của Đức Giê-su, các ngài cũng chứng nhận tính chính thống của Tin Mừng mà thánh nhân loan báo: “Vậy khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an, những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Ba-na-ba để tỏ dấu hiệp thông: chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì” (2: 9).
Trong đoạn Thư được Phụng Vụ trích dẫn hôm nay, thánh nhân đề cập đến mầu nhiệm Nhập Thể và hiệu quả mà mầu nhiệm này mang lại cho nhân loại.
1. Mầu Nhiệm Nhập Thể nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa
Diễn ngữ: “Khi thời gian tới hồi viên mãn”, muốn nói rằng Thiên Chúa đã chuẩn bị dài lâu trong lịch sử dân Ngài cho biến cố Nhập Thể của Con Ngài để con người đủ khả năng đón nhận Tin Mừng Đức Giê-su loan báo và đón nhận dung mạo Thiên Chúa mà Đức Giê-su mặc khải.
2. Con Thiên Chúa làm người để con người trở nên con cái của Thiên Chúa
Để cứu độ con người, Con Thiên Chúa đã thật sự chấp nhận kiếp sống phàm nhân, được sinh ra do một người phụ nữ, sống dưới Lề Luật và thật sự trở nên anh em của nhân loại, nhờ đó chúng ta trở thành đàn em của Ngài và là con cái Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
3. Ân ban được làm con cái của Thiên Chúa
Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã đón nhận Thần Khí của Chúa Ki-tô, nhờ đó chúng ta có thể thân thưa với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, đã là con cái Thiên Chúa, chúng ta không còn là những kẻ nô lệ, nhưng là những con người tự do và có quyền thừa kế.
TIN MỪNG (Lc 2: 16-21)
Đoạn Tin Mừng hôm nay, được trích từ “Tin Mừng về Thời Thơ Ấu của Chúa Giê-su” theo thánh Lu-ca, gồm có hai hoạt cảnh: “Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi” (2: 16-20) và “Hài Nhi Giê-su chịu cắt bì và đặt tên” (2: 21)
1. Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi (2: 16-20)
Ngay khi được thiên sứ báo tin vui: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Ngài là Đấng Ki-tô Đức Chúa” và ban cho họ một dấu chỉ để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2: 10-12), các mục đồng cùng nhau lên đường ngay tức khắc. Thánh Lu-ca nêu bật thái độ tích cực của các mục đồng: Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ, phải đi kiểm chứng tức khắc và cố tìm hiểu ý nghĩa dấu chỉ của Người. Thái độ của các mục đồng nói lên biết bao bài học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết long trọng: phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20), phản ứng của những người nghe họ kể lại (2: 18) và cuối cùng là phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19).
A- Phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20)
Ngay khi được sứ thần báo tin, các mục đồng hối hả ra đi vì họ quá đỗi vui mừng và nôn nóng mong gặp được Đấng Cứu Độ. Trước đây, thánh Lu-ca đã nhận xét rằng ngay sau biến cố Truyền Tin, Đức Mẹ cũng đã “vội vã ra đi” viếng thăm bà Ê-li-sa-bét (Lc 1: 39). Một tâm hồn đã cho Thiên Chúa bước vào cuộc đời mình thì hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã viếng thăm mình và cuộc sống của mình đã được dung nạp một nguồn năng lực mới, như lời giải thích của thánh Giáo Phụ Am-rô-si-ô: “Không ai tìm kiếm Đức Ki-tô chỉ một nửa tấm lòng” (Expositio Evangelii sec. Lucam., in loc.).
Trong “Tin Mừng về Thơ Ấu của Chúa Giê-su”, thánh Lu-ca mô tả khung cảnh máng cỏ đến ba lần: lần thứ nhất, Đức Ma-ri-a “sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (2: 7), lần thứ hai qua dấu chỉ mà sứ thần ban cho các mục đồng để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”, (1: 10-12) và lần thứ ba, khi đến nơi, các mục đồng “gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Những gì các mục đồng chứng kiến trong máng cỏ tương phản với phản ứng của họ vào lúc kết thúc hoạt cảnh này: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa” (1: 20).
Tương phản này tiên báo một tương phản khác: bên máng cỏ này được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của Đồi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thân làm người không phải là để một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Tuy nhiên, trong mạch văn, Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ, tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ này: dấu chỉ để nhận ra Ngài đó là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Chiếc tã đầu đời để ủ ấm Ngài là chiếc khăn trùm đầu một nắng hai sương của Mẹ Ngài và chiếc nôi đầu đời để vỗ về giấc ngủ của Ngài là máng cỏ của bò lừa ăn, đó là dấu chỉ giúp cho những mục đồng nghèo khổ và bị khinh bỉ này nhận ra được Đấng Cứu Thế đã đến: con trẻ sơ sinh này sẽ là Đấng sau này đón tiếp những người nghèo hèn, những kẻ bị khia trừ, kẻ tội lỗi và đồng bàn với họ (15: 2). Thiên Chúa đã ưu ái những người phận hèn bé mọn (x. Cn 3: 32).
Sau khi đã kiểm chứng, các mục đồng “liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này” (2: 17). Họ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc Giáng Sinh của Đấng Cứu Độ. “Các mục đồng không hài lòng tin vào biến cố hạnh phúc mà thiên sứ công bố cho họ và đầy kinh ngạc, họ đã chứng kiến tận mắt; họ đã bày tỏ niềm vui của mình không chỉ với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se nhưng cho mọi người và, còn hơn nữa, họ cố gắng ghi khắc biến cố này trong tâm khảm của họ” (Photius, Ad Amphilochium, 155).
Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thánh Lu-ca phác họa chân dung của những người Ki-tô hữu: “Họ liền hối hả ra đi” và “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (1: 20).
B- Phản ứng của những người nghe các mục động kể lại (2: 18)
Đấng Mê-si-a, được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, đã đi vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất, vì thế, “nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên”. “Tại sao không kinh ngạc cho được, khi thấy trên cõi thế Đấng ở trên cõi trời, và đất và trời được hòa giải; khi thấy Hài Nhi khôn tả liên kết điều gì là trời – thần tính – và điều gì là đất – nhân tính – sáng tạo một giao ước kỳ diệu qua sự hiệp nhất này. Không chỉ họ kinh khiếp trước mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng cũng trước lời chứng vĩ đại mà các mục đồng làm chứng, những người đã không thể bịa ra điều gì họ đã không nghe và công bố một cách hùng hồn sự thật” (Photius, Ad Amphilochium, 155).
Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ hết mọi định kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký về đức nghèo khó. Những mục đồng là những kẻ bị khinh bỉ và liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các kinh sư nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gửi đến. Chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21).
C- Phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19)
Đây là một trong những ghi nhận quý giá về đức hạnh của Đức Ma-ri-a: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (2: 19). Qua lời ghi nhận này, thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh ký. Thánh Lu-ca đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thần linh, nhưng khởi đi từ những sự kiện mà thánh sử đã gìn giữ từ chính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”, để cố hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ.
Lời ghi nhận này, được lặp lại đến hai lần: ở đây và ở 2: 51, nói với chúng ta nhiều điều về Đức Mẹ. Với thái độ cung kính, Mẹ chiếm ngắm những điều kỳ diệu được hiện thực ở nơi cuộc Giáng Trần của Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ. Mẹ đã gẫm suy chúng, chiêm ngắm chúng và cất giữ chúng vào trong cõi thinh lặng của tấm lòng Mẹ. Mẹ là Bậc Thầy đích thật của cầu nguyện: “Đức Ma-ri-a sử dụng cả ba năng lực quan trọng của con người. Đức Ma-ri-a ghi nhớ tất cả những gì đã nghe, đó là ký ức. Đức Ma-ri-a suy nghĩ về các điều đó, tức là dùng lý trí. Đức Ma-ri-a suy nghĩ trong lòng, tức là dùng tình cảm, vì xúc động. Ký ức, lý trí, tình cảm đều được dùng để ứng xử với những gì đã nghe” (“Nước Suối Giữa Sa Mạc”, 84).
Nếu chúng ta noi gương Mẹ, nếu chúng ta gìn giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng mình điều gì mà Đức Giê-su nói với chúng ta và điều gì Ngài làm trong chúng ta, chúng ta thật sự bước trên đường thánh thiện Ki-tô giáo và chúng ta sẽ không bao giờ thiếu đạo lý của Ngài và ân sủng của Ngài. Cũng vậy, bằng việc chiêm niệm theo cách thức này giáo huấn Đức Giê-su đã cho chúng ta, chúng ta sẽ đạt được một sự hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm của Ngài như Giáo Huấn của Công Đồng Va-ti-can II: “Thánh Truyền do các Tông Đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận các điều đó trong lòng (x. Lc 2: 19 và 51); nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ những việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức Giám Mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội” (Vatican II, Dei Verbum, 8).
Vì thế, Công Đồng Va-ti-can II đã ca ngợi Đức Ma-ri-a vừa là Mẹ Thiên Chúa vì Chúa Giê-su là Con của Mẹ, vừa là Mẹ của Nhiệm Thể Ngài, tức là Giáo Hội: “Thật vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và trong thân xác, và đã trao ban Đấng là sự sống ấy cho thế gian, nên được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế… Nhưng vì thuộc dòng dõi A-đam, nên Mẹ cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu độ, hơn nữa, Mẹ ‘là Mẹ các chi thể (của Đức Ki-tô) vì đã cộng tác vào trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Đầu’. Vì thế, Mẹ cũng được chào kính như chi thể trổi vượt và độc đáo nhất của Giáo Hội, như mẫu gương và gương sáng nổi bật cho Giáo Hội về đức tin và đức ái, và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, tôn kính Mẹ với tình con thảo như người Mẹ rất dấu yêu” (LG 53).
2. Chúa Giê-su chịu cắt bì và đặt tên (2: 21)
Phép cắt bì là một nghi thức được Thiên Chúa thiết lập để xác định những ai thuộc về dân Chúa chọn. Ngài đã truyền lệnh cho ông Áp-ra-ham thiết định phép cắt bì như một dấu chỉ Giao Ước mà Ngài đã ký kết với ông và tất cả dòng dõi của ông (x. St 17: 10-14), khi quy định rằng con trẻ sẽ chịu phép cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh. Nghi thức được thực hiện ở tại tư gia hay ở hội đường, kèm theo những kinh nguyện và việc đặt tên cho con trẻ. Vì đã chấp nhận kiếp sống của con người, Chúa Giê-su cũng sống dưới Lề Luật: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì” (2: 21). Với định chế Phép Rửa Ki-tô giáo, lệnh truyền cắt bì không còn được áp dụng nữa. Ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem (x. Cv 15: 1tt.), các Tông Đồ dứt khoát công bố rằng những ai gia nhập Giáo Hội không cần phải chịu phép cắt bì. Thánh Phao-lô dạy cách minh nhiên rằng phép cắt bì không còn thích đáng trong bối cảnh của Giao Ước Mới được Đức Ki-tô thiết lập (Gl 5: 2tt.; 6: 12tt.; Cl 2: 11tt.).
Tên của Hài Nhi Giê-su có nghĩa “Đức Chúa cứu độ” hay “Đức Chúa là ơn cứu độ”, tức là, “Đấng Cứu Độ”. Tên này được ban cho Hài Nhi không như thành quả của bất cứ quyết định phàm nhân nào nhưng tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa mà sứ thần đã truyền đạt cho Đức Trinh Nữ và thánh Giu-se (x. Lc 1: 31; Mt 1: 21).
Khi mừng lễ Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa, chúng ta thường hình dung hình ảnh Đức Mẹ tay 1/1-102
Khi mừng lễ Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa, chúng ta thường hình dung hình ảnh Đức Mẹ tay cầm vương trượng, đầu đội triều thiên và ngự giữa muôn triều thần thánh…, mà ít ai nhớ đến hình ảnh của Mẹ Maria - một người phụ nữ bình thường, dung dị như bao người bình thường khác - nơi thôn làng Nadarét.
Lời Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay khiến chúng ta không khỏi ngạc nhiên: “Khi các mục đồng đến nơi, họ gặp bà Đức Maria, ông Giuse và Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16). Quả là một cảnh sống thật trái ngược với những gì mà chúng ta vẫn tưởng tượng. Đáng lý ra, một vị Cứu Tinh phải được sinh ra nơi cung điện đền vua với quần thần hầu cận. Và đương nhiên người mẹ của vị vua đó cũng phải được các cung nữ hầu cận, nhưng đàng này, Vị Cứu Tinh lại được sinh ra nơi hang đá nghèo hèn, trong một đêm đông giá lạnh, còn bên cạnh “mẫu hậu Maria” chỉ có ông Giuse - người bạn trăm năm của Mẹ và con trẻ Giêsu.
Chắc hẳn, khi lựa chọn bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 2, 16 – 21) vào thánh lễ hôm nay, Giáo Hội không muốn chúng ta nhìn Đức Mẹ như một bà hoàng, bà chúa, cho bằng, có ý giới thiệu cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn hơn về con người và tước hiệu cao quý mà Mẹ đã lãnh nhận.
Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ là mẫu gương cho chúng ta trong đức tin
Từ lời xin vâng của Mẹ, một kỷ nguyên mới được mở ra: Thiên Chúa đã đi vào giữa lòng nhân loại; Ngôi Hai đã nhập thể nơi cung lòng của Mẹ… Thế nhưng, cũng từ khi nói lời xin vâng đó, Mẹ bắt đầu đón nhận biết bao nhiêu thử thách, gian nan. Gian nan khi không tìm được chỗ trong quán trọ, mặc dù đã đến ngày sinh; gian nan khi đang đêm phải cùng thánh Giuse và con trẻ trốn sang Ai-cập, vì người ta đang lùng để giết Hài Nhi Giêsu; gian nan khi bị lạc mất con trong đền thờ 3 ngày…; và nhất là khi đứng dưới chân thập giá để chứng kiến cái chết của người con một yêu dấu của mình. Thử hỏi, có người mẹ nào cầm lòng được, khi phải chứng kiến cảnh người ta hành hạ đứa con mình rứt ruột đẻ ra? Trong khi Mẹ Maria còn hơn cả một người Mẹ, thử hỏi, Mẹ không đau đớn sao được!
Là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ cũng là người rất mực khiêm hạ
Cũng như bao thiếu nữ Dothái khác, Mẹ biết rõ lời của ngôn sứ Isaia 7 thế kỷ trước đó loan báo về việc một người nữ sẽ sinh con và người con ấy được gọi là Đấng Emmanuel. Nhưng làm sao Mẹ có thể biết được, Mẹ lại chính là người phụ nữ diễm phúc đó. Thế nên, khi được Sứ Thần Gabriel truyền tin, Mẹ tỏ ra bối rối: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam” (Lc…). Và khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã cúi đầu xin vâng với tất cả sự khiêm nhường của một người “nữ tì của Thiên Chúa”.
Vì khiêm hạ, nên Mẹ đã chấp nhận sinh con nơi hang bò lừa, trong một điều kiện thiếu thốn về vật chất, mà đáng lý ra Mẹ có quyền đòi hỏi một sự sang trọng hơn thế, vì người con mà Mẹ sắp hạ sinh là Con Thiên Chúa! Thế nhưng, Tin Mừng đã không ghi lại một lời oán than nào của Mẹ.
Đức Maria khiêm hạ là vậy, trong khi ngày hôm nay, chỉ vì một chút danh dự, chỉ vì một chút lợi lộc, người ta sẵn sàng chà đạp nhân phẩm của người khác. Biết bao cuộc tranh giành quyền lực, biết bao cuộc chiến tranh đẫm máu diễn ra hàng ngày trên thế giới, biết bao những bất đồng trong gia đình, giữa những người xóm giềng, chỉ vì thiếu sự khiêm hạ.
Cùng với tâm hồn khiêm hạ, Mẹ là người đã quên mình để vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện. Mẹ đã cưu mang, che chở và nâng niu Chúa Hài Nhi. Mẹ đã nêu gương cho tất cả chúng ta hôm nay, hãy biết nâng niu những mầm sống, ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Thế nhưng, một thực tế phũ phàng là, ngày nay, người ta có thể chưng ra một ngàn lẻ một lý do để tự cho phép mình giết đi những mầm sống ngay từ khi còn trong bào thai. Việt Nam của chúng ta là quốc gia đứng nhất nhì trong bảng xếp hạng các quốc gia nghèo nhất thế giới, nhưng lại đứng đầu trong các quốc gia có tỉ lệ phá thai cao nhất thế giới. Phải chăng, cứ nghèo là người ta tự cho phép mình cái quyền giết các thai nhi??? Ngày xưa, bạo chúa Hêrôđê ra lệnh giết tất cả các con trẻ tại Belem từ hai tuổi trở xuống, khiến cho cả thành không ngớt tiếng khóc than. Việc làm đó của ông bị muôn đời lên án. Ngày hôm nay, người ta sẵn sàng giết chính đứa con ruột của mình ngay từ trong bào thai, thì ai sẽ lên án đây, nếu không phải là Thiên Chúa, Đấng vô cùng công thẳng?
Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ trở nên mẫu gương cho chúng ta trong việc lắng nghe và thực hành lời Chúa.
Thánh Luca kể lại, sau khi lắng nghe tất cả những lời mà các trẻ mục đồng nói về Hài Nhi Giêsu, Đức Maria đã giữ kín các sự việc ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng. Tại sao Mẹ lại phải “Suy đi nghĩ lại trong lòng”? Mẹ có thể biết trước tương lai không? Thưa, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ cũng là những con người như chúng ta. Đức tin của Mẹ vẫn phải được củng cố bằng việc “lắng nghe Lời Chúa và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Nhiều người hôm nay than rằng: Tại sao con cầu nguyện mà Chúa chẳng nhận lời. Con đã cố gắng làm những điều thiện, nhưng chẳng thấy Chúa đoái trông. Thế nhưng, họ lại không biết rằng, những ơn lành Chúa ban cho rất nhiều, nhưng họ lại không nhận ra, bởi vì họ không biết “suy đi nghĩ lại trong lòng”, không biết đọc ra những sứ điệp của Chúa thông qua các dấu chỉ hằng ngày, mà chỉ đòi cho được những ơn huệ một cách tỏ tường.
Vậy đâu là thái độ cần có của chúng ta đối với Đức Mẹ?
Như lời trong sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta rằng: Tình cảm của chúng ta đối với Đức Mẹ không chỉ dừng lại ở thứ tình cảm ủy mị ướt át, mà là thái độ chiêm ngắm, và noi theo các nhân đức của Mẹ. Mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta cũng hãy bắt chước Mẹ, sống khiêm hạ, biết tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, biết quên mình để bảo vệ quyền lợi của Thiên Chúa, và sau cùng là thái độ lắng nghe và thực hành lời Chúa. Có như vậy, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Chúa Giêsu và là con yêu dấu của Mẹ.
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
“Đức Maria ghi nhớ những điều đó, và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19).
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mầu nhiệm nhập thể giống như việc Thiên Chúa cùng hợp tác 1/1-103
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mầu nhiệm nhập thể giống như việc Thiên Chúa cùng hợp tác với Đức Maria, khi đem một nhiễm sắc thể thần linh Y phối hợp với một nhiễm sắc thể nhân loại X, để tượng hình nên Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Quan niệm sai lầm này xem Đức Giêsu chỉ là một sản phẩm được giao phối cách nhiệm mầu, giống như chuyện thần thoại về Hercules, chứ không phải là Đấng Cứu Thế như Kinh Thánh mô tả. Trong một khảo luận, tôi đã chỉnh sửa quan niệm sai lầm này và trình bày như sau: “Lãnh vực vô hạn siêu nhiên và chân trời vô hạn vượt xa lý luận của đầu óc con người, đã hiển thị nơi Đức Giêsu Nazareth, từ lúc hoài thai trong cung lòng mẹ Maria.”
Lễ trọng mừng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa đưa dẫn chúng ta đến những chân lý quan trọng về mầu nhiệm liên quan đến Đức tin, mà chúng ta chẳng cần nhọc công vắt óc để suy nghĩ. Chúng ta gọi Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” và chúng ta xác tín như thế, không phải vì Thiên Chúa đã nắn hình tượng Đức Giêsu trong cung lòng Đức Maria, và phủ bao một thực thể thần linh vào trong thai nhi đó. Chúng ta xác quyết, người con của Đức Maria mang bản tính Thiên Chúa tròn đầy ngay từ ban đầu. Cho dầu có hai bản tính, Đức Giêsu Kitô vẫn là một hữu thể đơn biệt, và Đức Maria vẫn là Mẹ của Ngài cách thực sự.
Nếu điều này thách đố những suy tưởng của chúng ta, chúng ta hãy nhìn lên để cung chiêm ‘Người Mẹ được chúc phúc’ như Tin mừng Luca nói tới. Thánh ký dẫn mời chúng ta đến chuồng bò ở Belem. Các mục đồng chăn chiên ở gần đó đã đến ngắm nhìn đứa trẻ mới được sinh ra, là Đấng Messia và cũng là Đức Chúa mà Thiên Thần đã loan báo. Luca kể lại rằng, các mục đồng đã thuật lại những điều đã được khải thị về trẻ thơ này. Sau đó, các thiên sứ từ trời ca hát rộn ràng ngợi khen Thiên Chúa. Luca đã tóm tắt thái độ của ‘Người Mẹ Được Chúc Phúc’ bằng một câu rất giản đơn: Đức Maria ghi nhớ những điều đó, và suy ngắm trong lòng.
Kinh Thánh kể tiếp biến cố cắt bì cho trẻ Giêsu, tám ngày sau khi sinh. Điều này khá quan trọng. Việc cắt bì của Đức Giêsu dẫn chúng ta đến nội dung mà bài đọc thứ hai đề cập tới. Thánh Phaolô cho chúng ta biết, Đức Giêsu “được sinh ra dưới lề luật để chuộc những ai sống dưới lề luật”. Ngài huấn thị cho tín hữu Galát biết rằng, lề luật được trao ban đã được Thiên Chúa chúc lành, và đó là con đường giúp tôi luyện con người vươn tới sự thánh thiện. Nhưng lề luật cựu ước chỉ là cái khung bên ngoài để uốn đúc. Khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài mới hoàn thiện lề luật, mặc cho lề luật cũ một chiều kích mới, hầu đưa dẫn con người đến sự sống trong Thần Khí. Thánh Phaolô muốn nói cho chúng ta biết rằng chỉ trong Thần Khí, Thần khí lưu ngụ sâu tận trong tâm hồn mỗi người, chúng ta mới có thể đi vào mối tương giao mới, rất sâu xa và thân tình với Thiên Chúa. Ngụp lặn trong mối tương giao thân tình đó, chúng ta gọi Chúa là “Abba, Bố ơi,”.
Cuối cùng, Thánh Luca kể lại câu chuyện đặt tên cho trẻ Giêsu, tên mà thần sứ Gabriel đã nói cho Đức Maria trong ngày truyền tin. Tên gọi Giêsu (Yeshua) có nghĩa là ‘Thiên Chúa cứu’. Điều này hàm ngậm một ý nghĩa sâu xa. Trong Kinh Thánh, tên gọi biểu thị quyền bính của một con người hay một nhân vật. Tên gọi cũng diễn tỏ căn tính người đó như thế nào, và điều này rất rõ nét trong biến cố đặt tên con trẻ Giêsu. Thật là điên khùng và xuẩn ngốc, khi bạn đặt tên cho con của mình là “Chúa cứu” như Gabriel đã nói, khi con của bạn chỉ là một đứa bé bình thường giống như bao đứa trẻ khác.
Đức Maria lưu giữ những điều đó và gẫm suy trong lòng. Mầu nhiệm nhập thể cũng như vai trò làm Mẹ Đấng Cứu thế, không phải là những vấn đề mà Đức Maria phải nhọc công suy nghĩ hay cố phân tích hầu tìm ra những lý lẽ để giải trình. Thánh Luca kể lại, Đức Maria đã đi vào thế giới của mầu nhiệm, chỉ với một thái độ duy nhất: Suy niệm trong lòng. Chúng ta hãy nghĩ xem, thái độ đó gợi nhắc chúng ta điều gì.
Tôi xin được gợi lên hai suy tư. Điều thứ nhất, tôi nghĩ tưởng đến biến cố Giáng sinh với một cảnh tượng huy hoàng bao trùm cả vũ trụ. Các Thiên thần trên trời hát xướng, cùng hòa niềm vui với những khách hành hương nghèo xác nghèo xơ, là những đứa trẻ chăn trâu ngoài đồng, những con người thấp cổ bé họng đang bị xã hội bỏ rơi. Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng đến việc Thiên Chúa thường hay thực hiện những ơn sủng phi thường của Ngài xuyên qua những biến cố rất bình thường trong cuộc sống con người. Tôi cũng từng trải nghiệm niềm vui phục sinh mọi nơi mọi lúc. Ví dụ khi tôi nhìn vào cô Rose Marie, một phụ nữ đã thiết lập ngôi nhà mở để tiếp đón những người bất hạnh, và cô gọi đó là ‘Ngôi nhà Lắng nghe’. Cô thực sự yêu thương những người đang sống tại đó, trong đó có cả những người say sưa nghiện ngập, những người ngang ngược, có khi còn chửi bới, đay nghiến cả cô ta nữa. Làm thế nào cô ta lại có tấm lòng như thế. Cô gái muốn khơi dậy niềm hy vọng nơi những con người bất hạnh và tuyệt vọng, giúp họ suy nghĩ là họ vẫn có quyền được yêu thương giống như những con người khác. Đó thực sự là một quà tặng lớn lao, và đây cũng là một phép lạ của tình yêu đang xảy ra trong cuộc sống đời thường của chúng ta hôm nay.
Thứ đến, chúng ta cũng có thể suy niệm về vai trò làm Mẹ của Đức Maria đối với chính chúng ta. Qua người môn đệ được Chúa yêu, chúng ta đón nhận Đức Maria về nhà mình: “Đây là mẹ của anh” (Ga 19,27). Chúng ta sẽ tôn nhận Đức
Maria là Hiền Mẫu, bao lâu chúng ta còn đón nhận Đức Giêsu như là Chúa và là người anh cả của chúng ta. Chúng ta đón nhận Mẹ, khi chúng ta nhận ra rằng tình yêu hiền mẫu của Ngài đang lan tỏa trong cuộc đời chúng ta để Vương quốc Đức Giêsu, người con yêu dấu của Mẹ, được ngập tràn nơi cuộc sống mọi người.
Sẽ còn nhiều điều chúng ta cần phải lưu giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Chủ đề: "Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của hết thảy chúng ta." Cách 1/1-104
Chủ đề: "Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của hết thảy chúng ta."
Cách đây nhiều năm, Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa.
Với tư cách một phóng viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai, kể cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu.
Tại New York, vào một ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện như sau:
“Mười phút nữa hay sớm hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này và lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì trong giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn nhất của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài thực sự có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi”.
Vào giây phút đó, anh nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa.
***
Việc Fulton Oursler tìm kiếm Thiên Chúa đã kết thúc tại một giáo đường. Đời sống tâm linh và cuộc sống mới của anh bắt đầu tại một nhà nguyện dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Thật là một nơi thích hợp cho sự việc đó. Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa. Ngài còn là Mẹ của toàn nhân loại về mặt tâm linh. Vì khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu, Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới. Thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm đó trong bài đọc II như sau:
“Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, sinh làm con một người nữ, và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới chế độ lề luật đó, hầu chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa… và vì bạn là con của Thiên Chúa, nên Ngài sẽ cho bạn tất cả những gì Ngài dành cho con cái Ngài”.
Bàn luận về mầu nhiệm cao cả này, Hiến Chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay của công đồng Vatican II nói:
“Qua mầu nhiệm nhập thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người, Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa, và yêu thương bằng trái tim loài người, sinh từ lòng Đức Maria Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”.
Thật vậy, khi Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới, vì thế Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà ngài còn là Mẹ tất cả mọi người chúng ta nữa.
Vì Đức Mẹ là Mẹ chúng ta, nên ngài là một trạng sư bào chữa cho chúng ta rất hữu hiệu trên trời. Không biết Đức Maria là mẹ mình, chính là không biết đến món quà mà Thiên Chúa ban tặng chúng ta, tức tình mẫu tử của Đức Maria dành cho chúng ta.
Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với hy vọng mới. Năm mới với cuộc đời mới. Năm mới là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại.
Năm ngoái là quá khứ, đã qua rồi. Năm nay vừa mới sinh ra và ở trước mặt ta. Đó là món quà Thiên Chúa tặng chúng ta. Những gì chúng ta làm được với món quà ấy, chính là món quà mà chúng ta sẽ dâng lên Thiên Chúa. Thật là thích hợp khi Giáo hội chọn ngày đầu năm để mừng kính lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Vì điều đó nhắc nhở chúng ta rằng tình mẫu tử của Đức Maria mà bạn và tôi được Thiên Chúa ban cho một đời sống hoàn toàn mới, một niềm hy vọng mới, thứ hy vọng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Nếu chúng ta đang tìm một quyết định cho năm mới này thì không có một quyết định nào tốt đẹp hơn là tạo cho Đức Maria một vai trò quan trọng hơn trong đời sống chúng ta. Và một trong những cách để thực hiện quyết định đó là thực hiện bằng cầu nguyện.
Chúng ta có thể xin Đức Maria bầu cử cho chúng ta như Ngài đã từng bầu cử cho biết bao những đứa con khác của Ngài trong lịch sử. Một cách đơn giản để thực hiện điều đó là cầu nguyện hằng ngày bằng bài kinh đặc biệt kính Đức Maria, tức kinh Kính Mừng. Một cách khác để làm điều đó là bắt chước cách cầu nguyện của chính Đức Maria. Trước hết, Ngài cầu nguyện bằng cách suy niệm về hoạt động của Thiên Chúa, không phải chỉ ở trong lịch sử loài người, mà ở ngay trong cuộc sống của Ngài nữa. Thánh Luca đã cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này vào cuối bài tường thuật của Ngài về việc Đức Giêsu sinh ra: “Maria ghi nhớ tất cả những chuyện ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19). Một cách cầu nguyện khác nữa của Đức Maria là nói với Thiên Chúa cách hồn nhiên những gì xuất phát từ trái tim Ngài. Thánh Luca cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này khi mô tả Đức Maria cầu nguyện trong cuộc viếng thăm bà Isave. Chúng ta hãy dùng lời kinh ấy để kết thúc bài giảng hôm nay. Xin mời anh chị em im lặng cùng cầu nguyện với tôi:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa, Thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi, Ngài đã đoái thương đến tôi, là tôi tớ thấp hèn của Ngài’
“Kể từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.
“Ngài đã giơ cánh tay thần lực nâng những người hèn mọn lên …
“Ngài đã giữ lời đã phán hứa với các tổ phụ…
“Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abrham và dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc 1: 46-55)
Chủ đề: Đức Maria là Mẹ chúng ta, và cũng là khuôn mẫu dạy chúng ta phải tin tưởng vào Chúa 1/1-105
Chủ đề: Đức Maria là Mẹ chúng ta, và cũng là khuôn mẫu dạy chúng ta phải tin tưởng vào Chúa như thế nào.
Có một linh mục được mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm thấy lá thư ấy. Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân biết thôi. Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò và con mở cửa bước vào. Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ ruột của mình”.
Câu chuyện cảm động trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta mừng hôm nay. Lễ này nêu bật hai điểm về Đức Maria. Thứ nhất: Đức Maria là Mẹ chúng ta. Ngài không chỉ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng sống cách đây hơn 2000 năm. Ngài còn là Mẹ chúng ta nữa. Từ trời cao, Ngài vẫn mong muốn giúp đỡ chúng ta như một người Mẹ. Thứ đến, Đức Maria cũng là khuôn mẫu của chúng ta. Chúng ta phải tôn sùng và bắt chước ngài. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một nét đặc trưng nơi Đức Mẹ, đó là Mẹ tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa. Khi thiên sứ báo cho mẹ biết mẹ sẽ sinh con trai bởi phép Chúa Thánh Thần, thì Mẹ hiểu ngay rằng việc này có thể sẽ khiến Thánh Giuse cắt đứt quan hệ bạn đính hôn với Mẹ - và điều này chỉ chút xíu nữa là đã thực sự xảy ra - Thế nhưng Mẹ vẫn vững tin vào chúa. Khi nghe mục đồng kể lại lời các Thiên thần, Mẹ cũng không hiểu, nhưng lần nữa, Ngài vẫn tín thác vào Chúa, về sau, khi Mẹ và Thánh Giuse đem hài nhi Giêsu vào đền thờ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ: “Sầu khổ sẽ như một mũi gươm nhọn đâm thâu qua trái tim bà” (Lc 3: 35). Lần này, Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời trên nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Rồi khi lên mười hai tuổi, Đức Giêsu ở lại trong đền thờ. Lúc gặp lại Đức Giêsu, Mẹ Maria hỏi Ngài lý do tại sao, Ngài đáp lại: “Mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con sao? một lần nữa, Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ cẫn cứ tín thác vào Chúa.
Ngày nay Mẹ Maria có thể giúp chúng ta biết tín thác vào Chúa. Xin hãy nhớ lại câu chuyện cô gái trong khoá tĩnh tâm nọ. Cô ta đã phải trải qua một Kinh nghiệm thời thơ ấu đầy kinh hãi khiến cô mất hẳn niềm tin. Cô muốn tin tưởng trở lại nhưng không thể được. Thế rồi, một ngày nọ, hoàn toàn do tình cờ, cô đã quì xuống dưới chân Mẹ Maria và quyết định cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy nhắc lại chính những lời của cô ta. “Con đã cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá tan đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng và phó thác được”. Đức Maria đã nhận lời cô cầu xin và cô đã tìm được niềm tin.
Và Đức Maria cũng có thể giúp chúng ta tin tưởng phó thác giống như Ngài từng giúp cô gái nói trên. Chẳng hạn, chúng ta là bậc cha mẹ biết quan tâm đến con cái mình. Nhưng xảy ra là chúng chẳng còn chịu đi dâng lễ, hoặc chúng theo gương những bạn bè xấu cho dầu chúng ta đã cầu nguyện, đã làm gương sáng, đã giải thích cho chúng hiểu. Thế là chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Đức Maria sẽ gíup chúng ta làm điều này. Hoặc có thể chúng ta vẫn không chắc chắn về dự tính của mình và cũng có Chúa muốn chúng ta làm gì. Chúng ta đã bàn bạc với cha mẹ và những vị cố vấn, đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn, thế mà chúng ta vẫn còn tối tăm mờ mịt. Vậy thì chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cầu nguyện và phó thác vào Chúa. Đức Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này. Hoặc chúng ta là một người đang suy tư về đức tin của mình. Chúng ta lo âu vì biết rằng đức tin mình vẫn còn yếu kém, chúng ta đã cầu xin Chúa giúp nhưng xem ra Ngài vẫn chưa nhậm lời, để rồi chúng ta bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa. Thế là chúng ta chả còn làm gì được ngoài việc tiếp tục cầu nguyện và phó thác cho Chúa. Mẹ Maria sẽ gíup chúng ta thực hiện điều này.
Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ gíup. Ngài hằng ao ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta hãy kết thúc với kinh nguyện hằng ngày mà thánh Bernard vẫn thường dâng cho Đức Maria.
“Lạy Trinh Nữ Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu gíup mà Mẹ chẳng nhậm lời…. Nhân vì niềm tin cậy ấy, chúng con hướng về Mẹ, ôi Mẹ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, chúng là những tội nhân khốn khổ xin đến trình diện trước Mẹ, Lạy Mẹ Ngôi Lời nhập thể xin đừng ngoảnh mặt đi mà hãy đoái thương lắng nghe và khấn nhậm lời chúng con. Amen.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa. Nếu1/1-106
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa.
Nếu các tước hiệu khác nơi Mẹ Maria, Giáo Hội muốn biểu dương công đức ưu việt nơi Mẹ, thì với danh xưng Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội muốn đề cao uy quyền của Mẹ Maria trong vai trò là thân mẫu Thiên Chúa. Bởi vì ngay khi đáp lại lời Thiên Chúa qua tiếng “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế, Ngài là Hoàng Tử Hòa Bình, đã đến chuộc tội nhân loại, làm cho Trời – đất kết chữ tình; xe chữ đồng; là chiếc cầu nối liền giữa trời và đất; đem lại sự bình an và giao hòa giữa con người với Thiên Chúa.
Chính vì uy quyền độc nhất vô nhị nơi Mẹ Maria bắt nguồn từ Thiên Chúa, nên Giáo Hội cũng chọn ngày này để cầu nguyện cho hòa bình trên khắp thế giới khi mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình, để cầu nguyện cho nhân loại được an bình thư thái.
1. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Danh xưng Mẹ Thiên Chúa được dành cho Đức Maria đã khởi đi từ việc Giáo chủ Constantinople là giám mục Nettôriô từ chối không công nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Ông cho rằng: “Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn thiên tính thì không thể. Nơi Đức Giêsu nhân tính và thiên tính tách biệt, không hòa chung thành một”. Từ đó ông rút ra kết luận: “Mẹ Maria không thể là Mẹ Thiên Chúa”. Từ những lập luận trên mà Công Đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập để làm sáng tỏ cũng như khẳng định và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Công đồng tuyên tín: “Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa”.
Vậy, dựa vào đâu mà Công Đồng có những phán quyết chắc chắn như vậy:
Thưa, Công Đồng dựa vào Thánh Kinh:
Trước tiên, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Maria đã được hé mở từ thời Cựu Ước khi tiên tri Isaia tiên báo: “Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Lời tiên báo về việc hạ sinh Đấng Cứu Thế đã được sứ thần Gabriel chính thức và trực tiếp báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…. Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (x. Lc 1,31-35).
Rõ nét hơn cả, chính là lời chào mừng của bà Êlisabét khi được Đức Maria ghé thăm. Lúc ấy, bà được đầy Thánh Thần, nên đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43).
Và, khi thời đã điểm, những gì được tiên báo thì nay đã được tỏ hiện trong đêm đông giá lạnh nơi cánh đồng Belem khi Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người để ở cùng chúng ta (x. Lc 2, 1-20). Khi sinh ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Maria đã thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa trong vai trò là thân mẫu Đấng Emmanuel.
Với biến cố trọng đại này, Công Đồng Vatican II (1962-1965) tái khẳng định khi viết: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa…. Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô” (Lumen Gentium, số 61).
Chính vì những xác quyết trên mà Giáo Hội không ngớt kêu xin Mẹ Maria trong vai trò là Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”.
2. Hòa bình chỉ có khi mỗi người cùng ý thức xây dựng
Như vậy, khi sinh hạ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Hoàng Tử Hòa Bình, Chúa của sự bình an, Mẹ Maria cũng trở thành Nữ Vương Hòa Bình cho nhân loại.
Khi chọn ngày mồng 01 tháng 01 hằng năm để cử hành lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và cầu nguyện cho hòa bình thế giới, Giáo Hội muốn đặt để nhân loại dưới sự che chở đầy uy thế của Mẹ trước tòa Thiên Chúa.
Truyền thống này được bắt đầu từ ý định và mong muốn của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, nên chính ngài đã dời ngày lễ này vào 01-01 hằng năm để xin Đức Maria bầu cử cho thế giới được an bình, hạnh phúc.
Nhân dịp này, mỗi người chúng ta cũng hãy hướng nhìn về đất nước, dân tộc Việt Nam thân yêu, để thấy được sự cần thiết của hai chữ hòa bình!
Có lẽ ngày nay trên thế giới, nhiều nước rất ngưỡng mộ Việt Nam, vì nơi đất nước này, tiếng bom đạn đã chấm dứt hàng chục năm, dân chúng xem ra có vẻ được an bình thư thái!!!
Chúng ta không phủ nhận điều đó, nhưng nếu hiểu hòa bình theo nghĩa không có tiếng bom đạn thì chưa đủ, bởi vì theo quan điểm học thuyết của Kitô giáo, thì: hòa bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Nó cũng không chỉ dừng lại ở chỗ có cơm ăn áo mặc, điện, đường, trường, trạm, được ổn định hay các trung tâm du lịch, vui chơi giải trí được mọc lên…! Không! Hòa bình đích thực nó còn phải tiến xa và sâu hơn nhiều.
Về mặt cá thể:
Trước hết, đó là: mỗi cá thể cần có một mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa là Chủ Tể và nguồn gốc của hòa bình.
Thứ đến, phải đạt được một trạng thái an bình thư thái ngay trong tâm con người. Sống hài hòa trong mối tương giao thân thiện với mọi người.
Cuối cùng, đó là mọi thành phần phải có trách nhiệm, liên đới với nhau trong tình huynh đệ.
Về mặt quốc gia:
Xét trên góc độ quốc gia: một đất nước được coi là hòa bình khi và chỉ khi con người được đảm bảo và quyền tự do tôn giáo được đề cao. Nhân phẩm được coi trọng và bảo vệ. Những lợi ích công cộng được ưu tiên.
Trong lãnh vực giáo dục: hệ thống và các nhà giáo dục cần đào tạo con người phát triển toàn diện cả về chất lượng tri thức lẫn đạo đức, biết kính trên nhường dưới, biết tôn sư trọng đạo, biết lưu giữ và bảo tồn những truyền thống, văn hóa tốt đẹp, biết phát huy những cái mới phù hợp với đạo lý dân tộc….
Về mặt gia đình và tôn giáo:
Trong lãnh vực tôn giáo: cần trú trọng đến “nhân chi sơ tính bổn thiện” nơi con người và phát huy tinh thần bác ái, yêu thương, liên đới dựa trên tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.
Trong đời sống gia đình: mỗi thành viên cần ý thức vai trò và bổn phận của mình. Người làm cha cho đáng làm cha; người làm mẹ cho xứng thiên chức làm mẹ; người làm con cần sống hiểu thảo vâng lời….
Như vậy, muốn có hòa bình đúng nghĩa, chúng ta không thể ngồi ù lỳ và mong đợi, mà mọi thành phần phải sống tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm mà không sợ hãi. Trách nhiệm mà vẫn đảm bảo được sự tôn trọng và đối thoại chân thành. Nói cách khác, muốn có hòa bình thì phải chiến đấu. Chiến đấu cho lẽ phải để bảo vệ công bằng, xây dựng sự thật nhằm tiêu diệt cái xấu, nhất là những điều mà người ta vẫn thường ngụy trang khi nhân danh cái xấu để biện minh cho mục đích tốt.
Được như thế, chúng ta mới có một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, hiền hòa và nhân ái với mọi người.
Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta hãy biết noi gương Mẹ, để suy đi nghĩ lại trong lòng những ân huệ của Thiên Chúa và những biến cố trong cuộc đời cũng như xã hội, từ đó, biết xắn tay áo lên và hành động vì một nền hòa bình đích thực.
Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, mỗi người ra về với tâm tình đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới phương cách, đổi mới hành động. Đổi mới trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đổi mới trong sự hài hòa thiên nhiên. Đổi mới trong sự hy sinh, quên mình. Có thế, lòng chúng ta mới thực sự vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để ra đi loan báo tin mừng, tin vui, tin bình an của Hoàng Tử Hòa Bình cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng năm sống mới của từng người cho Mẹ, xin Mẹ che chở, cầu thay nguyện giúp, để cho chúng con được an bình thư thái.
Đặc biệt, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, để Lời của Chúa là cội nguồn bình an được sinh hoa kết qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Amen.
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa đã trở thành quen thuộc và cốt lõi của niềm tin Kitô 1/1-107
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa đã trở thành quen thuộc và cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, qua tước hiệu này, nhiều người cho rằng đây là một điều ngược ngạo, phạm thượng, lộng ngôn, bởi vì dựa trên suy tư của con người, một thụ tạo thì không thể trở thành mẹ của Đấng tạo thành được! Hơn nữa, xét theo góc độ tự nhiên, Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn Thiên Tính thì Đức Giêsu là Ngôi Lời, có từ đời đời. Mặt khác, Mẹ cũng không sinh ra Thiên Chúa Ba Ngôi!
Vậy khi người Công Giáo tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, liệu có phải là điều trái khuấy và thái quá không? Đâu là nguyên lý khi Giáo Hội tuyên tín và mời gọi con cái của mình tôn kính Mẹ Maria như vậy?
1) Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Trước tiên, chúng ta cần khởi đi từ góc độ tự nhiên: đã là con người, ai cũng phải được sinh ra bởi người phụ nữ. Vì thế, không ai hiện hữu trên trần gian này mà lại không có một người mẹ. Đây là quy luật mà Thiên Chúa đã an bài quan phòng. Dù bạn là vua chúa hay bậc thứ dân; dù là giàu hay nghèo..., tắt một lời, bạn có là ai đi chăng nữa thì vẫn không thể khác đi được! Ai là người sinh thành ra ta, người đó là mẹ ta cách toàn thể.
Theo cách hiểu trên, chúng ta sẽ đi thêm một bước nữa để thấy việc Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa như thế nào?
Khi Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của mình cho nhân loại, thì Người cũng muốn để con của mình được sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Maria và trang bị cho Mẹ ân sủng kỳ diệu, để Mẹ trở nên Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, cũng như nhiều ân huệ khác nữa....
Tất cả đều chuẩn bị cho Mẹ xứng đáng đảm nhận hồng ân cao quý là trở thành người cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế làm người. Đặc ân kỳ diệu này đã được thánh Bonaventura ca tụng: “Chức làm Mẹ Thiên Chúa là to lớn phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho một loài thụ tạo”; và được bà Isave thốt lên: “Bởi đâu tôi được ơn trọng này là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi” (Lc 1,43).
Tuy Mẹ Maria chỉ sinh ra Đức Giêsu về mặt tự nhiên, thể lý, tức là nhân tính, Mẹ không phải là người tác sinh Thiên Tính nơi Đức Giêsu, nhưng Mẹ lại được gọi là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì nơi Ngôi Vị Đức Giêsu, về mặt Thiên Tính, từ đời đời Ngài đã là Ngôi Lời Thiên Chúa, nay nhờ sự kết hợp của Mẹ Maria, bản tính tự nhiên kết hợp với bản tính siêu nhiên, trở thành Ngôi Vị cực thánh là Thiên Chúa Ngôi Hai làm người.
Vì thế, dù Mẹ là Mẹ theo bản tính nhân loại, nhưng cũng là Mẹ Thiên Chúa, bởi lẽ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Là người thật, Ngài giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; là Thiên Chúa thật, Ngài có từ đời đời, Ngài là Đấng Tự Hữu, cùng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Như vậy, những gì thuộc về nhân tính nơi Đức Giêsu thì cũng thuộc về Thiên Tính nơi Ngôi Lời Thiên Chúa. Mẹ Maria sinh ra Đức Giêsu thì cũng sinh ra “Đấng Thiên Chúa làm người”.
Đây là đặc ân cao trọng vượt trên hết mọi loài thụ tạo. Thánh Tôma Aquynô đã nói về vai trò cao trọng của Mẹ như sau: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể không cất nhắc Đức Mẹ lên bậc tốt lành và cao sang hơn được nữa” (St. Th q.25,a. 6ad 4). Vì thế, Mẹ xứng đáng muôn đời ca tụng là: “Đấng đầy ơn phúc”; vì “có Chúa ở cùng” cách đặc biệt.
2) Quyền thế của Đấng là Mẹ Thiên Chúa
Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Hoàng Thiên Quốc. Nếu Đức Giêsu là vua trên khắp cõi trần gian và Thiên Quốc, thì Mẹ Maria cũng có uy quyền phổ quát trong tương quan là Nữ Tỳ của Thiên Chúa Cha, thân mẫu Đấng Cứu Thế và bạn nghĩa thiết của Chúa Thánh Thần. Vì thế, uy quyền và uy lực của Mẹ trước tòa Chúa thật lớn lao, không ai trên trần gian và Thiên Quốc ngoài Thiên Chúa có thể sánh bằng! Bởi lẽ Vương Quyền của Đức Giêsu lớn lao vô hạn, tồn tại qua muôn ngàn thế hệ, thì chức vị làm Mẹ của Thiên Chúa cũng tùy vào đó và trải dài cũng vô tận.
Nhờ tước vị cao sang quyền thế đó, Mẹ Maria đã trở thành Evà mới, phát sinh Đấng Cứu Thế là nguồn sự sống, thay cho Evà cũ đã đưa nhân loại đến chỗ diệt vong.
Mặt khác, Mẹ trở thành người chuyển cầu hữu hiệu cho nhân loại mỗi khi chúng ta chạy đến với Mẹ.
3) Sống sứ điệp ngày lễ
Mặc dù vai trò và tước vị của Mẹ Maria rất cao trọng, nhưng Mẹ luôn luôn khiêm tốn trong thân phận của một Nữ Tỳ Thiên Chúa. Mẫu gương này của Mẹ mời gọi chúng ta hãy biết khiêm nhường, bởi vì chúng ta có là gì thì cũng đều do tình thương của Thiên Chúa chứ không phải do tài đức hay công khó của mình.
Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta còn được mời gọi cùng nhau xây dựng hòa bình, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu, mà Đức Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, là Chúa của bình an. Lời hát của các thiên thần trong đêm giáng sinh đã mặc khải cho chúng ta biết sứ vụ của Đức Giêsu: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Vì thế, chúng ta là con cái của Mẹ trong nhiệm thể Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi chiến tranh, xây dựng tình huynh đệ, sống liên đới và trách nhiệm với con người cũng như xã hội hôm nay; cùng nắm tay nhau để xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống.
Hôm nay cũng là ngày đầu năm Dương Lịch, chúng ta hãy xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban cho mỗi người chúng ta được an vui hạnh phúc, mạnh khỏe xác hồn, nhất là luôn có lòng mến Chúa và yêu tha nhân như Mẹ, để năm mới này tràn đầy tình thương và lòng nhân ái nơi môi trường và cuộc sống của chúng ta. Amen.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).
Lời của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa khi Hài Nhi Giêsu 1/1-108
Lời của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa khi Hài Nhi Giêsu chào đời cho thấy ý định của Thiên Chúa muốn trao ban bình an cho nhân loại qua sự chào đời của trẻ Giêsu. Bình an cho loài người chính là vinh quang của Thiên Chúa; hay nói cách khác, Thiên Chúa được tôn vinh khi con người sống trong bình an.
Trong công trình lớn lao của Thiên Chúa, Mẹ Maria âm thầm hiện diện và cộng tác để ý định của Thiên Chúa được thực hiện, nhờ vậy mà Giáo Hội tuyên phong Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”. Trong muôn vàn công phúc của Mẹ, hôm nay chúng ta ca tụng Mẹ là “Mẹ Bình An”.
Bình an là phúc lành của Thiên Chúa
Trong tiếng Hy Lạp, thuật ngữ “bình an” vừa có nghĩa là “hoà bình, hoà thuận, yên bình” (x. Mt 10,34; Lc 11,21; Cv 9,31; Rm 3,17), vừa có nghĩa là “hạnh phúc, mạnh khoẻ” (x. Mc 5,34; Rm 1,7; 1 Cr 1,3); đồng thời “hoà bình” theo Kitô Giáo còn có nghĩa là “thời của ơn cứu độ” (x. Lc 2,14; Ga 16,33; Rm 5,1; Ep 6,5). Tuy vậy, dù hiểu theo nghĩa nào đi nữa, thì “hoà bình” không thể là kết quả của sự cố gắng tìm kiếm của con người, mà là ơn phúc đến từ Thiên Chúa.
Quả vậy, trong bài đọc thứ nhất trích sách Dân Số, Thiên Chúa truyền cho ông Môsê căn dặn ông Aharon và các con, tức những người thuộc dòng tộc tư tế, dùng công thức chúc lành này để xin Chúa ban phúc cho dân: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6,24-26). Thiên Chúa là nguồn gốc mọi phúc lành, và Ngài hằng chúc phúc, trong đó có phúc bình an cho những ai biết tin tưởng kêu cầu Ngài. Được Thiên Chúa giữ gìn che chở, được Ngài đoái nhìn đến và dủ lòng thương chính là bình an cho con người.
Tuy nhiên, chắc hẳn Thiên Chúa không mong muốn con người thụ động chờ đợi ơn bình an như một thứ ân huệ ban phát tuỳ lòng hảo tâm, mà bình an phải là kết quả cuối cùng của một tiến trình cố gắng của con người đi về phía Chúa là nguồn bình an. Bình an không đơn giản chỉ là những lúc người ta cảm thấy được yên bình, hoà thuận hay hạnh phúc, mạnh khoẻ, mà là lúc người ta cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa, thể hiện cách sống động và cụ thể nơi Đức Giêsu, Đấng đã nhờ thập giá mà hoá giải mọi nỗi thù ghét, ngăn cách, chia rẽ, bất hoà và trở nên nguồn bình an cho mọi người (x. Ep 2,14-18). Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã sai Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu đến viếng thăm con người, dẫn họ ra khỏi bóng tối tăm của tội lỗi, sự chết và “dẫn vào đường nẻo bình an” (x. Lc 1,77-79). Bình an vì được Thiên Chúa cứu độ mới thật sự là bình an đích thật và vững bền.
Mẹ Maria là hiện thân của bình an giữa lòng nhân loại
Bài Tin Mừng tường thuật quang cảnh của đồng hoang nơi những người chăn chiên tìm đến và gặp thấy “bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Trái ngược với cảnh tưng bừng, vui vẻ, sáng loà trước đó khi sứ thần xuất hiện, loan Tin Mừng trọng đại cho những người chăn chiên (x. Lc 2,8-14), khung cảnh lúc này thật tĩnh mịch, đơn sơ và nghèo hèn của đôi vợ chồng trẻ sinh con và đặt trong máng cỏ. Giữa bao biến động xảy đến cho Thánh Gia, Mẹ Maria vẫn bình lặng bên Hài Nhi bé nhỏ với tất cả tình thương yêu. Mẹ thật là hiện thân của yêu thương và bình an giữa lòng nhân loại ồn ào, bon chen, tranh giành và bất an.
Quả vậy, giữa tất cả những thăng trầm của chuyến đi Bê Lem nhiều sóng gió để rồi sinh con giữa đồng hoang, Mẹ vẫn không hề thốt ra một lời than vãn. Mẹ sống bình an giữa muôn vàn khó khăn. Mẹ không có được sự an toàn, bình yên, không có sự bảo đảm về vệ sinh, sức khoẻ bình thường của một người phụ nữ sinh con, nhưng lòng Mẹ vẫn an bình đến lạ thường. Ở bên Mẹ có thánh Giuse, trong vòng tay Mẹ có Hài Nhi Giêsu và quan trọng hơn, ở trên Mẹ có ân sủng của Thiên Chúa, nên trong lòng Mẹ có bình an.
Hơn nữa, giữa sự ồn ào và hối hả của các mục đồng đến thăm và loan tin, trước sự ngạc nhiên của những người nghe biết sự việc (x. Lc 2,16-18), Đức Maria chỉ “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Phản ứng của Mẹ thật bình thản và an bình. Mẹ không kêu trách Chúa vì sự thiếu thốn, cũng không tỏ ra vui mừng trước sự kinh ngạc của người ta; Mẹ chỉ lặng thầm suy nghĩ và chắc hẳn cả cầu nguyện trong sự tín thác cho Thiên Chúa. Sự thinh lặng trong cầu nguyện mang lại cho lòng Mẹ sự an bình nội tâm, dẫu Mẹ đã, đang và sẽ tiếp tục đối diện với bao thử thách và khó khăn.
Sự an bình trong lòng Mẹ không phải vì Mẹ được bảo đảm an toàn, không phát xuất từ sự đầy đủ tiện nghi, không phải vì mọi sự đều theo đúng như mong muốn của mình, mà vì Mẹ tin rằng Mẹ được Thiên Chúa yêu thương, chúc phúc và chở che. Sự bình an của Mẹ không đến từ sự sắp đặt của con người, không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh và không bị chi phối bởi điều kiện thể lý hay vật chất. Tâm Mẹ an bình vì trong tâm hồn Mẹ luôn có Đấng là nguồn của sự bình an.
3/ Bình an cho tâm hồn con người và thế giới hôm nay
Tục ngữ Latinh có câu: “Nếu bạn muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh”. Thế giới gần như chưa bao giờ hết chiến tranh; các cuộc xung đột đây đó vẫn tiếp diễn hàng ngày, hàng giờ trên hành tinh này. Có những cuộc xung đột để lại những hậu quả khốc liệt có thể nhìn thấy được, nhưng cũng có những cuộc xung đột để lại những đớn đau âm ỉ mà ít ai biết tới. Phải chăng người ta đang thể hiện mong muốn hoà bình bằng cách chuẩn bị cho chiến tranh? Bao giờ thế giới mới có được một nền hoà bình đích thực?
Hơn nữa, giữa thế giới càng phát triển nhanh chóng với những tiến bộ về nhiều mặt, con người càng phải sống nhanh, sống vội vàng để chạy đua với thời gian nên chịu nhiều áp lực do công việc, do ganh đua để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, sung túc hơn. Vì thế, con người cũng dễ rơi vào vòng xoáy của những cuộc chạy đua và làm cho cuộc sống trở nên căng thẳng; người ta dễ cáu gắt và giận giữ hơn. Hơn lúc nào hết, người ta muốn tìm sự an bình, thư thái bằng các phương pháp như thiền, yoga, thể dục … nhưng liệu những cách thức đó có mang lại cho con người sự an bình thật sự?
Hôm nay là ngày Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chúng ta tự hỏi đâu là những giá trị Kitô giáo có thể góp phần làm cho thế giới hoà bình? Và mỗi người Kitô hữu có thể làm gì để lòng người được bình an?
Trong thông điệp “Hòa bình dưới thế”, thánh Giáo Hoàng Gioan 23 cho rằng “ý nghĩa và lòng yêu mến hòa bình dựa trên sự thật, công lý, tự do và tình thương”. Thật vậy, bao lâu xã hội con người vẫn bị sự gian dối chi phối, bao lâu lòng người còn dung dưỡng cho sự dối gian, bao lâu xã hội vẫn còn những con người bị loại trừ và bị đối xử bất công, bao lâu sự tự do cơ bản của con người bị tước đoạt cách bất chính, và trên hết, bao lâu xã hội không đặt nền tảng trên tình thương và lòng nhân ái, thì bấy lâu con người vẫn chưa thể có được một nền hoà bình thật sự.
Tình thương và lòng nhân ái theo tinh thần Tin Mừng thôi thúc người ta sống tinh thần bất bạo động. Quả vậy, sứ điệp ngày thế giới hoà bình của ĐGH Phanxicô năm 2017, số 3, khẳng định rằng tinh thần bất bạo động của Chúa Giêsu chính là nền tảng cho nền hoà bình thật sự: “Ngài rao giảng không biết mệt mỏi tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đón tiếp và tha thứ, và dạy các môn đệ hãy yêu thương kẻ thù (x. Mt 5,44) và giơ má bên kia (x. Mt 5,39). Khi ngăn cản những kẻ cáo buộc người phụ nữ ngoại tình ném đá bà (x. Ga 8,1-11) và trong đêm trước khi chịu chết, Ngài đã bảo Phêrô hãy xỏ gươm vào vỏ (x. Mt 26,52), Chúa Giêsu vạch ra con đường bất bạo động, con đường mà Ngài đi tới cùng, tới thập giá, nhờ đó Ngài thực thi hòa bình và phá hủy sự thù nghịch (x. Ep 2,14-16). Vì thế ai đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, thì biết nhận ra bạo lực mang trong mình và để cho lòng thương xót của Thiên Chúa chữa lành, nhờ đó họ trở thành dụng cụ hòa giải, theo lời khuyên của thánh Phanxicô Assisi: ‘Hòa bình mà các con loan báo bằng miệng, các con hãy có hòa bình ấy dồi dào hơn nữa trong tâm hồn các con’”.
Noi gương Mẹ Maria, mỗi Kitô hữu được mời gọi sống trong sự tín thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa; đồng thời nỗ lực xây dựng một thế giới bất bạo động dựa trên tinh thần Tin Mừng: sự thật, công lý, tự do và tình thương.
“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi… và tám ngày sau được gọi tên là Giêsu” (Lc 2,16-21).
Với đoạn Tin Mừng trên đưa chúng ta về với người mẹ vừa mới sinh con là chính Đức Maria sinh 1/1-109
Với đoạn Tin Mừng trên đưa chúng ta về với người mẹ vừa mới sinh con là chính Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu. Đó là lý do Giáo hội cử hành lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa sau lễ Chúa Giêsu giáng sinh tám ngày, để mời gọi con cái mình tỏ lòng kính trọng và biết ơn Đức Maria, đồng thời tuyên xưng Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (x.Is 9, 5) sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Vì thế, ngày đầu năm, Giáo hội khấn xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa cho thế giới được hòa bình.
Đức Maria cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu
Tại Belem Chúa Giêsu đã được sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria. Người đã không sinh ra “do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra” (Ga 1,13). Người là ân ban do tình yêu thương của Thiên Chúa, là “Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để bất cứ ai tin nơi Ngài không bị hư mất, nhưng có cuộc sống đời đời” (Ga 3,16).
Sau Đức Maria và thánh Giuse thì đến các kẻ chăn chiên trên cánh đồng Belem trông thấy vinh quang khiêm tốn của Đấng Cứu Thế. Nghe theo lời loan báo của các thiên thần, « họ đã ra đi vội vã đến thành Belem, và thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh năm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).
Hôm nay, Giáo hội chiêm ngắm thiên chức làm Mẹ Chúa Giêsu của Đức Maria. Thánh Luca giới thiệu cho chúng một “cuộc gặp gỡ” của mục đồng với “Hài Nhi”, cùng với Đức Maria, Mẹ Người và thánh Giuse. Sự hiện diện âm thầm của Giuse gợi lên sứ mệnh quan trọng của thánh nhân trong tư cách là người gìn giữ mầu nhiềm cao cả của Con Thiên Chúa. Đức Maria, Giuse và các mục đồng vây quanh “Hài Nhi mới sinh ” (Lc 2,16) để tôn thờ, làm nên hình ảnh sống động và tuyệt đẹp của Giáo hội.
Chúa Giêsu nằm trong “Máng cỏ” ám chỉ Thánh Thể mà chính Đức Maria là nhà tạm chứa đựng! Nếu không có kinh nghiệm về “gặp gỡ” cá nhân với Thiên Chúa, người ta không thể tin được. Chỉ có “gặp gỡ” cộng thêm là “nhìn thấy tận mắt”, rồi “chạm tới”, các mục đồng mới có thể trở nên những sứ giả của Tin Mừng ” thuật lại cho người khác về Hài Nhi Giêsu ” (Lc 2,17).
“Tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ” (Lc 2,18), là hoa trái đầu tiên của “cuộc gặp gỡ” Đức Kitô. “Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ” (Lc 2, 20) là hoa trái thứ hai. Đức Maria, là mẫu gương của sự chiêm ngắm “Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19). Người ta gọi tên người là Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”. Tên của Người cũng là Bình An. Chúng ta hãy đón nhận Tên Cực Thánh và rất ngọt ngào này vào lòng và thường xuyên lặp lại trên môi!
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa? […]
Ngôi Lời đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quan để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria vừa được gọi là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ Thiên Chúa nữa.
Như thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng và viết : “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “ Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”. Thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) khẳng định: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”. Vì thế, nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, sinh bởi Đức Maria, thì chúng ta cũng có thể gọi mà không sợ sai lầm rằng: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Ngày cầu cho hòa bình
Ngày đầu năm, Giáo hội cử hành biến cố trên với niềm vui, sống lại với niềm tin trong phụng vụ lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã đảm nhận lấy xác phàm hay hư nát của chúng ta, trở thành bé nhỏ và nghèo nàn để cứu độ chúng ta.
Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình là món quà Thiên Chúa ủy thác cho con người. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26).
Lạy Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An ban cho thế giới được hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Nữ Vương bình an giúp chúng ta hiểu và sống sứ điệp bình an mà Chúa Giêsu Con Mẹ đã mang đến, để chúng con có thể mang bình an đến cho mọi người trên trái đất yêu dấu này.
Mọi người đang làm việc, một tiếng nhỏ nhẹ: – Bà bà, chiều nay cả chuyền đi nhậu, bà đi không? 1/1-110
Mọi người đang làm việc, một tiếng nhỏ nhẹ:
– Bà bà, chiều nay cả chuyền đi nhậu, bà đi không? – Thật à!, nhưng tớ chưa đi lễ. – Hôm nay là thứ hai mà, lễ gì nữa, Chúa Nhật bà đi rồi. – Lễ Chúa Nhật khác, hôm nay lễ Mẹ Thiên Chúa, là lễ trọng. Buổi sáng tớ chưa đi, chiều phải đi. – Thế à! Tiếc quá à. – Ùm!
Đôi khi ta nối tiếc điều này, nhưng chúng ta lại được điều khác hay được ơn từ Thiên Chúa và Mẹ Maria. Vì Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa. Việc Mẹ là Mẹ Thiên Chúa được chứng minh và được ghi lại trong Kinh Thánh « Các người chăn chiên đã hối hả ra đi đến Bêlem. Họ đã gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ » (Lc 2,16). Quả thật, Mẹ Maria sinh ra Chúa Giêsu bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, Chúa Giêsu trở nên con người thật và Thiên Chúa thật. Bởi vậy, Mẹ cũng trở nên Mẹ thật của Chúa Giêsu và Mẹ Thiên Chúa, với một đặc ân, tước vị tuyệt vời không một ai dám nghĩ tới. Mẹ hằng suy ngẫm những gì được thấy và được nghe về Thiên Chúa trong cuộc sống. Mẹ đã sống một đời vâng theo ý Chúa vọn vẹn trong bốn chữ lầm-lỳ-liều-làm. Mẹ mặc cho mọi người hiểu lầm về Mẹ. Mẹ đứng vững trước lời mời gọi của sứ thần Gaprien, cùng liều mình nói lời xin vâng với sứ thần và làm mọi việc vì Chúa trong sự âm thầm.
Vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, thì Mẹ cũng trở thành Mẹ của chúng ta. Trên đời này không có người mẹ nào lại không thương con mình. Tình mẹ thương con lại còn bao la như bầu trời, mênh mông như biển thái bình. Mẹ Maria thương chúng ta cách riêng theo từng hoàn cảnh. Người tội nhân, Mẹ xin cho họ được ơn thống hối. Người nghèo khổ, Mẹ xin cho họ được ơn bình an và niềm tin vững bền. Với những người thánh thiện công chính, Mẹ xin cho họ được ơn khiêm nhường. Nhưng để đẹp lòng với Mẹ, chúng ta phải mở lòng với Mẹ. Chúng ta phải luôn khiêm nhường và nhận thấy mình là kẻ tội lỗi trước mặt Thiên Chúa và nơi Mẹ. Chúng ta hãy có niềm tin nơi Mẹ. Mẹ sẽ không khước từ một ai kêu cầu đến Mẹ, nhưng ơn xin ấy phải là điều tốt cho chúng ta. Chúng ta thật là hạnh phúc, khi có Mẹ chuyển cầu và bênh đỡ cho chúng ta. Có Mẹ, lời cầu xin của chúng ta luôn đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, trong ngày lễ hôm nay, cũng là ngày đầu năm mới, chúng ta hãy ca ngợi, chúc tụng và dâng lên Mẹ những lời tâm tư chân thành nhất của chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của chúng con. Chúng con cám ơn Mẹ rất nhiều. Chúng con nguyện xin Mẹ hãy tiếp tục nâng đỡ chúng con mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con mãi là con Thiên Chúa và con của Mẹ. Amen.
“Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Và lòng tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi diễm phúc, Vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…”.
Thưa anh chị em,
Lời ca mừng tràn đầy niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria trên đây vẫn đang âm vang và sẽ 1/1-111
Lời ca mừng tràn đầy niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria trên đây vẫn đang âm vang và sẽ còn âm vang mãi qua muôn thế hệ. Tại sao vậy? Thưa, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho Mẹ Maria những điều trọng đại, và một trong những điều trọng đại ấy mà chúng ta mừng kính Đức Mẹ hôm nay, đó là đặc ân: làm Mẹ Thiên Chúa.
Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Ngài có thể tạo thành một nguyên tổ khác; Ngài là tình yêu có thể tha bổng cho ông bà; hay Ngài có thể đích thân từ trời xuống để cứu cuộc con người, nhưng trong muôn vàn cách thế ấy thì Thiên Chúa đã chọn con đường Maria đến với nhân loại chúng ta. Bởi lẽ do sự cứng lòng tin của bà Evà không nghe Lời Chúa, nên bị loại trừ; thì nhờ lòng tin của Mẹ Maria thưa lời xin vâng, nên được Thiên Chúa tuyển chọn.
Thiên chức Mẹ Thiên Chúa có nền tảng trong Thánh kinh và Thánh Truyền:
– Trong biến cố truyền tin, thiên thần Gabriel nói với Đức Mẹ rằng: “Người Con Bà sinh ra sẽ là Đấng thánh và được gọi là Con Thiên Chúa” ( Lc 1,30-32).
– Rồi khi Đức Mẹ đi thăm người chị họ, bà Isave được Chúa Thánh Thần soi dẫn nên cất tiếng nói rằng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”(Lc 1,43).
Tín điều Mẹ Thiên Chúa được Công đồng Êphêsô tuyên tín vào năm 431 như sau: “Nếu ai không tin Đấng Emmanuel là Thiên Chúa thật và Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, thì người đó bị vạ tuyệt thông”.
Và để kỷ niệm ngày công bố tín điều, Đức thánh cha Piô XI đã thành lập lễ này vào ngày 1 tháng 1 năm 1931.
Anh chị em thân mến,
Theo tư tưởng của thánh Mông-pho nói rằng: “ Khi Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu là đầu Nhiệm thể, thì đồng thời Đức Mẹ cũng cưu mang tất cả chúng ta là những chi thể trong thân mình mầu nhiệm ấy”.
Đức Mẹ sinh chúng ta ở đâu? Thưa, Đức Mẹ sinh chúng ta trong nguồn ân sủng dưới chân cây thập giá qua lời trối của Chúa Giêsu, và lúc bấy giờ Gioan tông đồ đại diện cho toàn thể nhân loại đón nhận Đức Mẹ về nhà phụng dưỡng thay cho Chúa Giêsu.
Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 62 đã xác nhận:
“Đức Maria được Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ cách rất đặc biệt, nhờ lòng vâng phục, Đức Tin, Đức Cậy, và Đức Ái nồng nhiệt để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng Ngài thật là Mẹ chúng ta”.
Thiên Chúa ban cho người phụ nữ nào cũng có tấm lòng người mẹ, và người mẹ nào cũng thương con, vì thương con nên người mẹ đó hi sinh, bao dung, tha thứ mỗi khi con mình lầm lỡ. Cho nên tục ngữ ca dao Việt nam có những vần thơ diễn tả về tầm lòng hi sinh của người mẹ hết sức sâu sắc:
Ngày đêm mẹ ẵm, mẹ bồng, bên ướt mẹ nằm, bên ráo cho con.
Miếng ăn miếng mặc mẹ lo, làm sao con được ấm lo mẹ mừng.
Cũng vì con, chính vì con, mỗi ngày mẹ một gầy mòn tấm thân.
Trong lịch sử nhân loại cho thấy khi đứa con gặp hoạn nạn, có nhiều người mẹ hy sinh tấm thân mình để cứu sống con mình.
Mẹ Maria hi sinh cho chúng ta gấp bội phần. Mẹ nghèo khó lắm, nhưng Đức Mẹ có một kho tàng cao quý nhất của lòng Mẹ đó chính là Chúa Giêsu, Đấng ban nguồn ơn sủng. Mà vì yêu thương nhân loại, Mẹ sẵn sàng hi sinh trao ban Chúa Giêsu cho chúng ta.
Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta chung lời tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban Đức Mẹ cho chúng ta. Cám ơn Đức Mẹ đã thương nhận chúng ta là con của Mẹ.
Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa trong ngày đầu năm mới, là có ý xin Đức Mẹ là mẹ của Vua Hoà Bình, ban cho quốc thái dân an. Cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương. Nhà nhà được ấm no hạnh phúc. Chớ gì mỗi người chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu sống hiếu thảo đối với Đức Mẹ.
Hiếu thảo với Mẹ không phải chúng ta đi rao giảng về Mẹ, viết nhiều sách về Mẹ, hay xây nhiều đền đài, nhà thờ tôn kính Mẹ. Điều đó tốt lắm, nhưng chưa tốt bằng an ủi Mẹ là chúng ta sống vâng lời Mẹ dạy Mẹ khuyên: Mẹ khuyên chúng ta điều gì? Mẹ khuyên: hãy thực hiện ba mệnh lệnh Mẹ ban ở Fatima.
Hiếu thảo với Mẹ không phải chúng ta mua nhiều hoa dâng kính Mẹ điều đó tốt thật, nhưng cũng chưa tốt bằng chúng ta sống hiệp nhất yêu thương nhau, vì cha mẹ nào cũng hạnh phúc khi thấy con cái sống yêu thương. Biết nhường phần hơn, nhịn nết xấu, đoán ý lành cho nhau.
Hiếu thảo với Mẹ không phải là chúng ta bỏ thời giờ đi hành hương Đức Mẹ nơi này nơi khác, điều đó tốt lắm, nhưng cũng chưa tốt bằng noi gương Chúa Giêsu sống phó thác cuộc đời cho Mẹ. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng đã làm gương cho chúng ta sống phó thác vào Đức Mẹ. Khi sinh ra nằm trong vòng tay âu yếm của Mẹ, và khi chết rồi cũng nằm trong vòng tay từ mẫu của Mẹ.
Nếu chúng ta yếu đuối, Mẹ là sức mạnh tay đỡ tay nâng.
Nếu chúng ta gặp những đau khổ trên đường đời, có Mẹ là người đồng hành nâng đỡ ủi an.
Nếu chúng ta là tội nhân, Mẹ là Trạng sư bầu cử đắc lực trước tòa Chúa.
Cuối cùng, trước thềm năm mới, chúng ta cầu xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ. Ước gì bước sang năm năm mới mỗi người nên có những quyết tâm đổi mới. Chẳng hạn như quyết định chừa một nết xấu nào đó như: giảm bớt uống rượu và hút thuốc lá; giảm bớt nói hành nói xấu người khác. Quyết định dành nhiều thời giờ cho Chúa, dành nhiều thời giờ cho gia đình và quan tâm đến con cái… có như vậy mỗi năm thêm tuổi mới, thêm được một điều hữu ích cho bản thân và gia đình của mình. Amen.
Mẹ Xin Vâng Trở Thành Mẹ Thiên Chúa. Con Hạnh Phúc Mừng Kính Trinh Nữ Vương. Sau khi 1/1-112
Mẹ Xin Vâng Trở Thành Mẹ Thiên Chúa Con Hạnh Phúc Mừng Kính Trinh Nữ Vương
Sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Êlidabét, mẹ của Thánh Gioan Tẩy Giả, và bà Êlidabét đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa lần đầu tiên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Thế nhưng mãi đến năm 431, Giáo Hội mới định tín “Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa” qua Công Đồng Êphêsô, ngày 22 tháng 6.
Niềm hạnh phúc dâng cao trong ngày đầu năm vì chúng ta được bày tỏ lòng thảo kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Trong cuộc sống đời thường, đứa con rất cần mẹ, vì có mẹ là có tất cả, có mẹ thì con luôn cảm thấy bình an, dù cho chuyện gì xảy ra xung quanh, kể cả sự nguy hiểm.
Con người rất coi trọng sự khởi đầu, với công việc thì gọi là khai trương. Ngày đầu năm dương lịch là ngày Tết, là ngày cầu cho thế giới được hưởng nền hòa bình đích thực của Thiên Chúa, và đặc biệt là ngày lễ kính mừng Thánh Mẫu Thiên Chúa – cũng là Mẹ của mọi tín nhân Công giáo. Trong đời thường, có mẹ là có niềm vui và an toàn đối với con cái. Mẹ là tất cả của con, là “sợi dây” đưa cánh-diều-con bay vút lên cao và vươn ra xa. Mẹ thật là kỳ diệu và tuyệt vời!
Ai cũng có mẹ. Các danh nhân cảm nhận sâu sắc và diễn tả Tình Mẹ theo cảm nhận riêng của mỗi người, Florian nhận định: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ”. Ở bên mẹ thì cảm thấy an toàn. Thật vậy, những đứa con ngoan hiền luôn nghĩ về mẹ vì mẹ quá tuyệt vời: “Trên môi và trong trái tim đứa con: Mẹ chính là tên của Thượng Đế” (Thackeray). Tương tự, mẹ cũng luôn nghĩ về con vì con là “cục vàng” của mẹ: “Tương lai của con là công trình của mẹ” (Napoléon I). Mẹ chứng tỏ công trình của Tạo Hóa dành tặng cho con người: “Trái tim người mẹ là kiệt tác của Thượng Đế” (Gretry). Người mẹ sinh học chỉ là phàm nhân mà chúng ta cũng không thể hiểu hết: “Lòng mẹ là vực sâu mà dưới đáy luôn có sự khoan dung” (Balze). Thế thì chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết tình thương bao la và sâu thẳm của Người Mẹ tâm linh – Đức Maria. Đặc biệt là, trước Tôn Nhan Thiên Chúa, Đức Mẹ luôn bênh vực cho chúng ta.
Đấng toàn năng là Thiên Chúa đã tạo nên Người Mẹ thật độc đáo, chẳng bao giờ chúng ta có thể hiểu được Tình Mẫu Tử. Từ cổ chí kim, biết bao tác phẩm nghệ thuật diễn tả Tình Mẹ nhưng chẳng bao giờ có thể diễn tả trọn vẹn. Cha và mẹ đều có vị trí riêng, nhưng vị trí của mẹ luôn có điều đặc biệt. Có lẽ đặc biệt vì lý do kỳ diệu mà thi sĩ Chế Lan Viên đã mô tả: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ, đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con” (thi phẩm “Con Cò”). Con vui thì mẹ mừng, nhưng con đau một thì mẹ đau mười. Có mẹ thật hạnh phúc, nhưng thật bất hạnh cho những ai chịu mồ côi: “Mồ côi cha là một lần mồ côi, mồ côi mẹ là bảy lần mồ côi”. Thảo nào tục ngữ nói: “Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá đầu đường”. Mồ côi mẹ khổ lắm, khó có thể tưởng tượng mức độ khổ của kẻ mồ côi, nhất là đối với những đứa trẻ!
Trong “bản giao hưởng cuộc đời”, Tình Mẹ như nốt trầm êm ả, có thể không được lưu ý nhưng lại vô cùng quan trọng, vì đó là nốt nền để làm nổi bật những nốt khác, và làm nổi bật cả giai điệu: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…” (Lòng Mẹ, cố NS Y Vân). Cách mô tả của ông về người mẹ đơn giản mà sâu sắc lắm.
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã căn dặn ông Môsê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: Nguyện Đức Chúa CHÚC LÀNH và GÌN GIỮ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa GHÉ MẮT NHÌN và BAN BÌNH AN cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ CHÚC LÀNH cho chúng” (Ds 6:22-27). Lời chúc bình an luôn được sử dụng nhiều, cả trong tôn giáo lẫn xã hội. Lời chúc lành đẹp nhất chắc chắn là lời chúc bình an: “BÌNH AN dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Đó là sự bình an đích thực của Thiên Chúa, không phải của thế gian. Vì thiếu bình an nên cảm thấy bồn chồn, thế nên chúng ta luôn cầu xin bình an: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban BÌNH AN cho chúng con”. Có Chúa thì mới cảm thấy bình an: “Tâm hồn con khắc khoải không ngừng cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa” (Thánh Augustinô).
Tai ương và chiến tranh rất nguy hiểm, vì thế mà cần hòa bình, dù là hòa bình về phương diện xã hội hoặc tinh thần, nhưng phải là sự hòa bình đích thực. Hòa bình trọn vẹn phải là hòa bình cả thể lý lẫn tinh thần. Rất cần!
Thành tâm và tha thiết, Thánh Vịnh gia miệt mài cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ước nguyện là một dạng cầu chúc, ước cho chính mình và chúc cho người khác: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:4-6). Ước nguyện cũng là một dạng cầu nguyện, tất nhiên cũng phải thành tâm thiện chí.
Trong suốt thời gian Mùa Vọng, chúng ta tha thiết cầu xin trời cao đổ Sương Thánh xuống và ngàn mây mưa Đấng Cứu Tinh, và rồi chúng ta đã được thỏa nguyện ngay trong đêm Giáng Sinh: “Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban phúc lộc” (Tv 67:7). Đấng Emmanuel đang ở với chúng ta. Nhưng đừng dừng lại ở đó, lo hưởng thụ mà quên cầu nguyện. Con người yếu đuối, rất dễ “ngủ quên trong chiến thắng”, vì thế mà chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và cầu xin không ngừng: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8). Tuy nhiên, Mùa Vọng cuộc đời chưa chấm dứt, vẫn tiếp tục… và rồi sẽ đến hồi kết thúc.
Lễ Giáng Sinh chứng tỏ rằng tất cả các lời tiên tri đã ứng nghiệm rạch ròi, chính xác, hai năm rõ mười: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con” (Dt 1:1-2).
Vào thời điểm này, chúng ta đang được sống trong thế kỷ XXI, thời kỳ khoa học tiến bộ, nhưng lại là thời kỳ cánh chung, thời kỳ viên mãn. Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, SINH LÀM CON MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến NGỰ TRONG LÒNG ANH EM mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-6). Không gì có thể so sánh với niềm hạnh phúc quá lớn này. Tại sao không thể chứ?
Theo “nguyên tắc tự nhiên”, cái gì cũng có lý do và nguyên nhân. Hãy nghe Thánh Phaolô giải thích: “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:7). Hạnh phúc tăng theo cấp số nhân, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn đáng án tử, thế mà lại được trắng án, đặc biệt hơn nữa là chúng ta được làm con cái của Thiên Chúa và được kế thừa di sản thánh: “Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1). Chuyện như không tưởng mà lại là sự thật trăm phần trăm, không hề mơ hồ, không hề ảo tưởng.
Thiên Chúa thương ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhất là Bà Tổ Êva – Mẹ của chúng sinh (St 3:20), nhưng chúng ta hóa “mồ côi” vì Bà bất tuân lệnh Thiên Chúa. Tình thương của Thiên Chúa không suy giảm, Ngài lại ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhì là Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho chúng ta Người Mẹ thứ ba là Người Mẹ sinh học của mỗi người. Kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa kỳ diệu, chúng ta không thể hiểu thấu.
Trình thuật Lc 2:16-21 đề cập việc các mục đồng hối hả đến thờ lạy Vương Nhi Giêsu, họ cũng gặp Đức Mẹ – Thánh Mẫu Thiên Chúa, với đức tính nhu mì khác lạ, và gặp Đức Dưỡng Phụ Giuse rất ít nói. Họ tận mắt tỏ tường thấy Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ, sự thật chứ chẳng mơ hồ hoặc chiêm bao. Chắc chắn lúc đó lũ trẻ chăn chiên léo nhéo nói cười vì thích thú, và cũng nựng Bé Giêsu nhiều lắm. Ôi, ai cũng dễ thương quá chừng!
Thấy mà thương, Thánh Gia nghèo khó quá, chắc hẳn các mục đồng nghèo cũng cảm thấy được an ủi và chấp nhận kiếp nghèo như Chúa muốn. Vâng, họ chỉ là những người chăn chiên thuê, nghèo lắm, khổ lắm, cựa lắm, mệt lắm. Nhưng họ thực sự diễm phúc vì được trở nên các chứng nhân đầu tiên về Con Thiên Chúa giáng sinh. Vấn đề quan trọng là các mục đồng đã TIN ngay và TIN thật lòng. Nếu là chúng ta, liệu lòng tin của chúng ta có đủ mạnh như họ? Đơn giản mà nhiêu khê, chưa chắc có thể tin được như họ!
Sau đó, các mục đồng trở về và kể lại điều đã được thiên thần nói với họ về Hài Nhi này. Dân nghèo chất phác, mộc mạc, vô tư và đơn giản, không biết dựng chuyện, giấu giếm hoặc lọc lừa, cứ có sao nói vậy. Nghe những người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Mà ngạc nhiên cũng phải thôi, chứ không sao được, bởi vì chuyện kể của các mục đồng quá lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng những người nghe kể cũng đã tin câu chuyện của các mục đồng là thật. Ôi, họ cũng là những người hạnh phúc biết bao!
Mọi thứ có vẻ “bình thường”, nhưng có điều “khác thường” ở Người Mẹ Trẻ Maria. Kinh Thánh cho biết “điều lạ” đó: “Bà Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Rõ ràng Đức Mẹ ít nói lắm, nhưng chắc là hay cười lắm. Thế thì hiền quá chừng! Đúng thế chứ chẳng sai đâu, bởi vì khi hiện ra với cô bé Bernadette ở Lộ Đức (1858), Đức Mẹ cũng hay cười.
Thánh Luca cho biết rằng khi các người chăn chiên ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Đức tin làm cho họ vui mừng và họ sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho người khác…
Và Thánh sử Luca tường thuật thêm chi tiết khác: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ”. Mọi điều diễn biến hoàn toàn ứng nghiệm như lời tiên tri từ trước, đúng từng chi tiết, từng dấu chấm và dấu phẩy.
Ai cũng có mẹ và cũng đã và đang cảm nhận tình mẫu tử. Người mẹ lạ vô cùng, Tình Mẹ kỳ diệu lắm. Khi Thiên Chúa muốn Con Một Giêsu giáng sinh làm người, Ngài biết đường đời gian nan lắm, và Ngài đã tiền định cho Con Trẻ Giêsu một Người Mẹ. Chúng ta thật hạnh phúc vì cũng được tiền định làm con cái của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ Thiên Chúa. Trong niềm hân hoan Chúa giáng sinh, chúng ta hãy hát lên Bài Ca Ngợi Khen Magnificat của Đức Mẹ, và Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, đặc biệt là hôm nay – ngày cầu bình an cho toàn thế giới, và cầu xin cho trái đất này duy trì môi sinh để xứng đáng là Hành Tinh Xanh, nơi Thiên Chúa giao cho chúng ta có trách nhiệm phát triển và bảo vệ.
Lạy Thiên Chúa duy nhất của chúng con, xin giúp chúng con biết chu toàn lề luật của Ngài và bổn phận làm con. Xin giúp chúng con luôn biết tôn kính song thân, người đại diện Ngài, bằng cách giữ trọn hiếu thảo theo gương Thánh Tử Giêsu, và xin làm cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Ngài.
Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa và Hiền Mẫu của chúng con, xin giúp chúng con chuyên cần thi hành những gì Mẹ nhắn nhủ, đặc biệt là ba Mệnh Lệnh Fátima, xin Mẹ cầu cho chúng con trước mặt Thiên Chúa, bây giờ và mai sau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 526) đã viết về lễ Giáng Sinh: “Mầu nhiệm Giáng Sinh được 1/1-113
Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 526) đã viết về lễ Giáng Sinh: “Mầu nhiệm Giáng Sinh được thực hiện nơi chúng ta khi Đức Ki-tô “thành hình” nơi chúng ta (Gl 4, l9). Việc Giáng Sinh của Chúa Giê-su là mầu nhiệm của việc “trao đổi kỳ diệu” này: Ôi việc trao đổi diệu kỳ! Đấng sáng tạo loài người, đã đoái thương sinh làm con một Trinh Nữ, đảm nhận một xác thể và một linh hồn, và đã ban cho chúng ta thiên tính của Người khi làm người mà không cần đến sự can thiệp của con người! (Tiền xướng tuần bát nhật Giáng Sinh).“ Quả thực là một “trao đổi diệu kỳ”: Thiên Chúa xuống thế trong “một xác thể và một linh hồn” của người phàm “mà không cần đến sự can thiệp của con người”, với mục đích là ban cho con người có được “thiên tính” của Người.
Thường khi sinh con, các bậc cha mẹ phải đặt tên cho con. Có nhiều trường hợp người con chỉ mới được tượng thai trong lòng mẹ, thì cha mẹ đã lo chọn cho người con một cái tên hợp với ý nguyện của họ. Tục lệ dân Do Thái ngày xưa cũng vậy, nhưng còn thêm một điểm, nếu người con ấy là con trai đầu lòng thì phải đem con đến đền thờ chịu lễ cắt bì. Đức Giê-su vâng lệnh Thiên Chúa Cha xuống thế làm người trần thế như mọi người, Người đã “sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật.” (Gl 4, 4-5). Và vì thế nên Đức Mẹ và Thánh Giu-se đều giữ đúng luật, sau khi sinh Con, đến ngày thứ 8 liền dâng Con vào đền thờ để chịu lễ cắt bì. Còn tên của Người Con cao trọng đó cũng được đặt đúng như lời sứ thần truyền: Giê-su.
Các dân tộc Đông phương đều tin rằng những người con được sinh ra, được nuôi nấng dạy dỗ cho nên người đều nhờ “Phúc đức tại mẫu” (Phúc đức tại nơi người mẹ). Cũng vì thế nên ngay từ ngàn xưa, khi mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, Dân Chúa vẫn chú tâm đến Người Mẹ đã tượng thai và hạ sinh Con-Thiên-Chúa-làm-người và không ngớt chiêm ngưỡng khuôn mặt phúc hậu no đầy ân sủng của Đức Mẹ nơi máng cỏ Bê-lem. Có thể nói, Mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Ðức Mẹ. Tuy vậy, vẫn có những ngụy thuyết (ở thế kỷ III, IV, V…) cho rằng tôn vinh Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa là xúc phạm tới Đấng Tối Cao. Họ lý luận: Thiên Chúa dựng nên (tức là sinh ra) loài người, thì không thể có việc loài người lại sinh ra Thiên Chúa được. Nói Thiên Chúa được sinh ra từ một người đàn bà trần thế, chẳng hóa ra coi Thiên Chúa còn thua kém loài người sao?
Cụ thể như vào những thập niên đầu thế kỷ V (năm 427-429), linh mục Nestorio – phát ngôn viên của Đức Giám mục Constantinopoli – khi khẳng định rằng “Đức Maria chỉ là mẹ của một người, bởi vì Thiên Chúa không thể sinh ra từ một người đàn bà được”, thì lập tức các Ki-tô hữu đã coi đó là gương mù, gương xấu và mạnh mẽ phản đối ngay trước mặt Đức Giám Mục. Tuy nhiên, linh mục Nestorio đã không thay đổi tư tưởng của mình, và vì thế, Giáo hội đã phải triệu tập Công Đồng Chung Ê-phê-sô. Công Đồng khai mạc ngày 24/6/431 và đã tuyên tín: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (Theotokos) vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt.” (xc. DS 252, hay “The Christian Faith” trang 149).
Cứ kể ra mới nghe lập luận của phe chống đối thì thấy cũng có lý (Thiên Chúa sinh ra loài người thì làm sao loài người lại sinh ra Thiên Chúa được). Tuy nhiên, đó mới chỉ là “tư tưởng của loài người, không phải tư tưởng của Thiên Chúa” (Mt 16, 23). Thật thế, “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” (Mt 19, 26). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nhưng khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người thì rất cần phải là một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, được sinh ra và nuôi dưỡng như một người phàm, bởi loài người cứ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì mới tin. Và vì thế, khi được sinh ra bởi Đức Maria, thì Đức Giê-su Thiên Chúa là người phàm như bao người khác. Một cách cụ thể, trong Đức Giê-su, thiên tính (bản tính Thiên Chúa) và nhân tính (bản tính loài người) kết hợp bất khả phân ly trong một ngôi vị duy nhất, như Công Đồng Nicea đã khẳng định: “Chúa Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật, Người có cùng một bản thể như Thiên Chúa Cha.”
Điều đó đã liên tục được công bố bởi các Công Đồng Chung (Công Đồng Chung Ê-phê-sô năm 431; Công Đồng Chalcedonia năm 451 và Constantinople II năm 553; Công Đồng Constantinople III năm 680-681). Ngoài ra, còn có những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng về Mẹ Thiên Chúa như Đức Giáo Hoàng Pi-ô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” để mừng kỷ niệm 1500 năm Công Đồng Ê-phê-sô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa mừng trong toàn thể Giáo hôi vào ngày 11 tháng 10. Đức GH Pi-ô XII, trong một thông điệp, đã tuyên bố Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và chủ trương rằng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ân sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Sau cùng, Công Đồng Va-ti-ca-nô II trong Hiến Chế “Lumen gentium – Tín Lý Về Giáo Hội” đã dành cả chương VIII để nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (“Sacrosanctum Concilium”), các Nghị Phụ trong Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa sang ngày đầu năm (01/01).
Như vậy là đã quá rõ ràng: Đức Mẹ được hồng ân tượng thai và sinh hạ Con-Thiên-Chúa-làm-người đã được tiền định từ trước vô cùng. Vậy thì còn tước hiệu nào xứng hợp hơn để nói về Ðức Maria trong lịch sử Cứu Độ bằng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa? Từ xác tín Đức Mẹ đã tượng thai và hạ sinh Đức Giê-su Thiên Chúa, ĐTC Biển Đức XVI còn đi xa hơn khi khẳng định các Ki-tô hữu cũng được vinh dự tượng thai và hạ sinh Ngôi Lời Nhập Thể (“Vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể. Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20).
Ngoài ra, dựa trên mầu nhiệm Ngôi Lời giáng thế đem bình an cho nhân loại, các Đức Giáo Hoàng cũng liên tiếp ban hành những Thông điệp cầu cho thế giới một nền hòa bình vĩnh cửu. Nối tiếp truyền thống tốt đẹp đó, năm 1967 Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI thiết lập Hội Đồng Giáo Hoàng “Công Lý và Hòa Bình”, và từ năm 1968, lập ra ngày “Hoà Bình Thế Giới” cử hành vào ngày 01/01 hàng năm. Như vậy là ngày 01/01 hàng năm là ngày tổng hợp 4 ý niệm cao trọng: Lễ Cắt Bì và Lễ Đặt Tên Con Thiên Chúa làm người + Lễ Mẹ Thiên Chúa + Ngày Thế giới hòa bình. Tất cả lại một lần nữa minh nhiên thành ngữ “Phúc đức tai Mẫu” (mà kẻ viết bài này chỉ muốn viết “Phúc đức tại Thánh Mẫu Maria”).
Tóm lại, ngày đầu năm – ngày sum họp gia đình – trong bầu khí nồng ấm của mùa Xuân, hãy “hướng về Đức Trinh Nữ Maria, người mà – như Công Đồng Va-ti-ca-nô II nhắc nhở chúng ta – là “mẫu mực của Giáo hội trong giới luật của đức tin, lòng nhân hậu, và hiệp nhất hoàn hảo với Đức Ki-tô” (Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, số 63). Đó chính “Là người con gái của Israel, Đức Maria đã trả lời bằng đức tin trước tiếng gọi của Thiên Chúa và trở thành Mẹ của Con Một Người. Mẹ dạy chúng ta sống một đời sống đức tin bằng sự vâng phục của Mẹ trước ý định của Thiên Chúa và sự tận tâm trung kiên của mình với Chúa Giê-su và công việc của Người.” (Bài Giáo huấn ngày thứ Tư 23/10/2013 của ĐTC Phan-xi-cô).
Hướng về Đức Trinh Nữ Maria trong tâm tình sống 4 ý niệm cao trọng: Lễ Cắt Bì và Lễ Đặt Tên Con Thiên Chúa làm người + Lễ Mẹ Thiên Chúa + Ngày Thế giới hòa bình, người Ki-tô hữu không chỉ gói gọn trong gia đình của mình, mà là mở ra với anh em trên khắp năm châu bốn biển, bởi vì “Đây chính là một tin tốt lành đòi hỏi mỗi người bước về phía trước, thực thi lòng thương xót vô hạn, lắng nghe những đau khổ cũng như hy vọng của người khác, kể cả những người ở xa tôi, và bước đi trên con đường đầy đòi hỏi của tình yêu, một tình yêu biết trao ban và tiêu tốn chính mình một cách tự do cho lợi ích của anh chị em chúng ta.” (ĐTC Phan-xi-cô – Sứ điệp “Ngày Thế giới hòa bình” 2013, số 10).
“Chúng ta hãy lấy cảm hứng từ những lời của Thánh Gio-an Phao-lô II: “Nếu ‘giấc mơ’ về một thế giới hòa bình được chia sẻ bởi tất cả mọi người, nếu sự đóng góp của những người tị nạn và những người nhập cư được đánh giá một cách đúng đắn, thì nhân loại có thể ngày càng trở thành một gia đình phổ quát và trái đất của chúng ta quả thực là một ‘ngôi nhà chung’ thực sự. Trong suốt lịch sử, nhiều người đã tin vào ‘giấc mơ’ này. Và những thành tựu của họ là một bằng chứng cho thấy rằng điều đó không chỉ là một sự ảo tưởng.” (Sứ điệp “Ngày Thế giới hòa bình” 2018, số 6).
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại, kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới được nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ THÁNH MARIA MẸ THIÊN CHÚA”)
Người ta cho rằng: Phần lớn những nhà lãnh đạo nổi tiếng thế giới hay những người thành công 1/1-114
Người ta cho rằng: Phần lớn những nhà lãnh đạo nổi tiếng thế giới hay những người thành công đều có một điểm chung: họ luôn coi thành công ngày hôm nay có được một phần là nhờ mẹ của mình. Như Abraham Lincoln, cựu Tổng thống Hoa Kỳ từng nói: “Những gì tôi có được ngày hôm nay hay mãi về sau, tất cả là nhờ người mẹ thiên thần của mình”.
Đặc biệt tỷ phú nổi tiếng thế giới Bill Gates từng nói trong đám cưới của mình rằng, mẹ của tôi từng viết lên một tấm thiệp và gửi cho tôi: “Nếu chúng ta được nhận nhiều điều trong cuộc sống, hãy biết cho đi”. 6 tháng sau, mẹ ông qua đời nhưng Bill Gates vẫn luôn ghi lòng tạc dạ câu ói đấy.
Quả thực mẹ là người thầy dạy tốt nhất cho chúng ta những bài học làm người. Nơi mẹ ta học được rất nhiều bài học về cuộc sống. Tình yêu, trí tuệ và sức mạnh của người mẹ dành trọn vẹn cho ta. Có thể nói : tâm huyết của mẹ đã làm nên cuộc đời ta.
Bản thân tôi cũng được lớn lên trong lời dạy của mẹ, mộc mạc qua những câu ca dao nhưng luôn đi sâu vào lòng người. Tôi nhớ mỗi khi tôi ham chơi không lo học bài thì mẹ tôi nhắc:
– Rừng như biển thánh khôn dò Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra Khi tôi không nghe lời dạy bảo thì mẹ tôi nhắc: – Cá không ăn muối ca ươn – Con cãi cha mẹ trăm đường con hư Đôi khi anh em chúng tôi chơi với nhau một lúc rồi cãi lộn khiến mẹ tôi buồn quá, nói: – Em thuận, anh hoà là nhà có phúc – Con một mẹ như hoa một chùm Nơi tôi ở, có người con trai nghe lời vợ đối xử bất hiếu với cha mẹ thì mẹ lại dạy chúng tôi rằng: – Lúc sống thì chẳng cho ăn Để đến khi chết làm văn tế ruồi – Sanh con ai dễ sanh lòng Sanh con ai cũng vun trồng cho con Thỉnh thoảng trong nhà có món gì ngon, mẹ tôi thường đem chia sẻ với những người hàng xóm và dạy anh em chúng tôi rằng: – Họ hàng xa không bằng láng giềng gần
Nếu hỏi ai có ảnh hưởng nhiều trên bạn? Có lẽ đa phần sẽ cho là mẹ. Vì mẹ thường dậy dỗ con tỉ mỉ mới được nên người hôm nay.
Khi nhập thể làm ngừơi Con Thiên Chúa cũng được sinh ra từ một người mẹ, được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ, được sống trong vòng tay âu yếm chở che của mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giê-su dường nhưluôn có bóng dáng của Mẹhiện diện đểan ủi, khích lệ, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹđã ởbên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổvới Chúa đểcứu độtrần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tửcủa Mẹ– Chúa Giê-su đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan, Đây là Mẹ của con, và Thánh Kinh đã ghi lại, “kể từlúc đó, người môn đệChúa yêu đã đón Mẹvề nhà của mình”.
Thánh Gioan đại diện cho nhân loại đểnhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Với lòng từ mẫu của người mẹ, chúng ta tin rằng Mẹsẽkhông bỏchúng ta mồcôi, Mẹsẽ lại tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta đểsăn sóc, lo lắng và chởche cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Mẹ sẽ dạy chúng ta sống đạo mến yêu. Mẹ sẽ tận tụy dạy chúng ta thực thi lời Chúa như Mẹ đã từng bảo các gia nhân: “Người bảo gì anh em hãy làm theo như vậy”. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời từng người con để vỗ về, để yêu thương, để dìu dắt như ngày nào Mẹ đã yêu thương Con Chúa Trời. Mẹ tiếp tục đứng đó trên những đỉnh đồi thương đau của từng người con như Mẹ đã từng đứng bên thập giá để chia sẻ với Con yêu quý của mình. Mẹ vẫn đang đứng đợi con cái về bên Mẹ như bao bà mẹ vẫn mong con sum vầy bên Mẹ để được Mẹ dậy bảo, để được Mẹ vỗ về yêu thương.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Mẹ Maria vẫn đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện của Mẹ bên cuộc đời chúng ta qua biết bao ơn lành hồn xác chúng ta lãnh nhận nhờ lời cầu bầu của Mẹ. Biết bao người vẫn được ơn này ơn kia qua lời cầu khẩn của Mẹ. Biết bao người vẫn đang bám vào Mẹ như sự ủi an duy nhất giữa chốn ba đào đầy khó nguy. Và có lẽ, Mẹ Maria vẫn đang chờ những con cái Mẹ biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi khó khăn, biết nương tựa vào Mẹ mỗi khi thất bại, biết cầm lấy tay Mẹ mỗi khi vấp ngã để Mẹ tiếp tục chia sẻ những thăng trầm trong cuộc đời chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc vì đã cưu mang Con Thiên Chúa. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Và hôm nay chúng con cũng thật có phúc vì có Mẹ là Mẹ của chúng con. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã nhận chúng con là con của Mẹ để tiếp tục chăm sóc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi gặp những khó khăn. Xin cho chúng con luôn sum vầy bên Mẹ để được Mẹ yêu thương chúc lành. Amen.
Hôm nay là ngày đầu tiên của năm mới, chúng ta cử hành trọng thể lễ Mẹ Thiên Chúa với ý 1/1-115
Hôm nay là ngày đầu tiên của năm mới, chúng ta cử hành trọng thể lễ Mẹ Thiên Chúa với ý nguyện cầu bình an cho toàn thế giới.
1. Một tín điều để tin
Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là một đặc ân rất cao trọng, được Giáo Hội tuyên tín như là một chân lý đức tin buộc mỗi người chúng ta phải tin.
Tuy nhiên, nếu không có sự hiểu biết đúng đắn, tước hiệu này có thể làm cho chúng ta bối rối và thắc mắc: phải chăng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là một sự phạm thượng? Làm sao một thụ tạo bất toàn lại có thể sinh ra Thiên Chúa được?
Thực ra, thắc mắc này đã có từ rất xa xưa. Vào khoảng năm 428 Nestorius, giám mục ở Constantinople, phủ nhận tước hiệu này. Ông chủ trương rằng: “Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị. Đức Maria chỉ là Mẹ ngôi vị nhân tính của Chúa Giêsu, nên không phải là Mẹ Thiên Chúa.” Theo ông, Đức Maria chỉ là Mẹ Chúa Giêsu thôi, cùng lắm là Mẹ Chúa Kitô, không thể là Mẹ Thiên Chúa.
Trước lạc giáo này, Công Đồng Chung họp tại Êphêsô vào năm 431 để giải quyết tranh luận và đã tuyên tín rằng: “Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hợp với nhục thể trong lòng Đức Maria, do đó Đức Maria đã sinh ra Ngôi Lời nhập thể, và đáng được gọi là Mẹ Thiên Chúa” (Théotokos).
Tước hiệu này không có nghĩa là Đức Maria đã sinh ra Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng là người sinh ra Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, nên Đức Maria được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Hay nói chính xác hơn Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, người đã sinh Con Thiên Chúa trong thời gian.
Chúng ta chỉ có thể hiểu được ý nghĩa của tín điều này khi đặt nó trong mối tương quan với Chúa Kitô và dựa trên nền tảng Kinh Thánh.
2. Nền tảng Kinh Thánh
Trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy nền tảng Kinh Thánh cho tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Bài đọc II là một trích đoạn của Thư của thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Galát. Đây là bản văn cổ nhất của Tân Ước nói về Đức Maria: “Thưa anh em, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4). Quả thế, người phụ nữ được nói ở đây chính là Đức Maria, người đã cưu mang và sinh hạ Con Đức Chúa Trời làm người.
Đặc biệt, chúng ta còn tìm thấy trong Tin Mừng Luca tước hiệu này dành cho Đức Maria khi Người đi thăm bà Êlisabét (1,38-48). Bà Êlisabét được tràn đầy Thánh Thần và kêu lên rằng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi. Bởi thế, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng.” Bà Êlisabét gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bởi vì Mẹ đang mang trong lòng Ngôi Hai Thiên Chúa và sẽ sinh ra cho loài người Đấng Cứu Độ là chính Đức Giêsu Kitô.
Trong bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca kể lại chứng tá của các mục đồng về biến cố Chúa Giêsu được sinh hạ bởi Đức Maria tại Bêlem. Các mục đồng hết sức ngạc nhiên vì đã chứng kiến những sự việc xảy ra đúng như lời các thiên thần loan báo cho họ. Con Thiên Chúa sinh ra trong cảnh cơ hàn. Họ đến thờ lạy Người và gặp Đức Maria, thánh Giuse và Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,16-21).
Như thế, Đức Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn, chuẩn bị nên xứng đáng để mang thai và sinh hạ Con Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn vâng phục và công tác với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nên Giáo Hội đã tôn kính Mẹ với tước hiệu rất cao trọng là Mẹ Thiên Chúa.
Chúng ta cũng nên biết rằng: Trong phụng vụ, bậc thứ nhất là sự tôn thờ được dành cho Thiên Chúa Ba Ngôi. Như Kinh Thánh dạy: “Người phải tôn thờ Thiên Chúa người hết lòng hết sức hết linh hồn người” (Đnl 6,4). Bậc thứ hai gọi là sự biệt kính hay sự tôn kính đặc biệt được dành cho Đức Maria. Sau Thiên Chúa phải là Đức Maria, bởi vì Đức Maria có một địa vị hết sức cao cả trong chương trình cứu độ. Mẹ là người sinh ra Đấng Cứu Độ. Nhờ Mẹ, chúng ta mới có Chúa Kitô. Bậc thứ ba là sự tôn kính dành cho các chư thánh.
3. Đức Maria là Mẹ và là mẫu gương
Khi cử hành lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc suy tôn và chiêm ngắm dung mạo cao cả của Đức Maria, nhưng chúng ta còn được mời gọi noi gương Đức Maria để sống như Mẹ đã sống.
Thánh Luca nhắc đi nhắc lại mẫu gương của Đức Maria: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Mẹ là người luôn lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa và đem ra thực hành. Trước khi Mẹ cưu mang Ngôi Lời trong dạ, thì Mẹ đã cưu mang Lời Chúa trong tâm hồn rồi. Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta về việc lắng nghe và sống Lời Chúa.
Nếu Đức Maria được vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa, thì mỗi người Kitô hữu cũng được chia sẻ sự vinh dự đó. Bởi vì, như Chúa Giêsu nói: “Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành là anh chị em Ta, và là Mẹ của Ta.”
Giáo Hội là mẹ, nghĩa là Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Đức Maria, người phải tiếp tục sinh Chúa Kitô cho người khác. Mỗi người Kitô hữu là Giáo Hội. Chúng ta được mời gọi sinh Chúa Giêsu cho người khác bằng sự hy sinh, lời cầu nguyện và đời sống chứng tá của chúng ta, đặc biệt nhờ việc dạy giáo lý, huấn luyện đức tin cho con cái và giới trẻ.
Nhân dịp bước vào Năm Mới, dưới sự phù trì và cầu bầu của Đức Maria, xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được bình an và dồi dào phúc lành của Thiên Chúa. Amen.
Chuyện kể rằng: Có một sinh viên vừa tốt nghiệp thủ khoa đi xin việc. Anh ta nộp đơn ở một công 1/1-116
Chuyện kể rằng: Có một sinh viên vừa tốt nghiệp thủ khoa đi xin việc. Anh ta nộp đơn ở một công ty nổi tiếng. Anh ta vượt qua vòng phỏng vấn thứ nhất, vòng thứ hai, và cuối cùng với tổng giám đốc. Đến ngày phỏng vấn, anh ta hơi lo lắng và cố gắng đoán trước tất cả các tình huống có thể xảy ra. Khi bước vào phỏng vấn, anh thấy vị tổng giám đốc rất thản nhiên. Ông không hỏi anh ta về bằng cấp, chỉ đơn giản nói:
“Có phải Bố anh trả tiền học phí cho anh không?”
“Không, Mẹ tôi vì Bố tôi qua đời khi tôi mới được ba tuổi.” “Mẹ anh làm nghề gì?”
“Mẹ tôi làm trong một tiệm giặt ủi.” “Anh cho tôi xem hai bàn tay của anh.”
Anh thanh niên ngạc nhiên, không biết tổng giám đốc muốn gì, nhưng đưa hai bàn tay của mình về phía tổng giám đốc. Đôi bàn tay của anh ta thật trắng và mịn màng.
“Anh có bao giờ giặt đồ không?” “Thưa không. Mẹ tôi không bao giờ để tôi giặt.” “Tối nay, khi mẹ anh về, anh vui lòng cầm lấy đôi bàn tay của Mẹ anh và lau sạch. Ngày mai trở lại đây và tôi sẽ quyết định.”
Tối hôm đó, khi mẹ anh trở về, anh cầm đôi bàn tay của mẹ mà nước mắt tuôn trào, đôi bàn tay của mẹ anh sạm đen và chai cứng vì làm việc để cho đôi bàn tay anh được trắng và mịn màng. Anh lau sạch và hôn lên đôi bàn tay của mẹ, đôi bàn tay đã luôn che chở và dẫn dắt anh từng ngày trong cuộc sống. Với cảm xúc dâng trào, anh nói khẽ vào tai mẹ: “Mẹ ơi, con yêu mẹ thật nhiều. Từ nay con sẽ giặt đồ cho mẹ.”
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bắt đầu năm mới với việc tôn vinh Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đây là một trong bốn tín điều về Mẹ Maria được công bố bởi Công Đồng Ê-phê-sô năm 431. Tại sao Giáo Hội cử hành lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu tiên của năm mới? Giáo Hội bắt đầu năm mới bằng việc tận hiến chúng ta cho Mẹ vì một trong những tình yêu đẹp nhất trên đời là tình yêu của người mẹ. Hơn nữa, mọi sự sống của con người luôn bắt đầu trong cung lòng của người mẹ. Chính vì vậy, tình yêu một con người có thể cảm nghiệm đầu tiên là tình yêu của người mẹ. Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng nhận thấy ngay cả sự sống trên dương thế của Chúa Giêsu cũng bắt đầu với tình yêu của một người mẹ. Chúng ta có thể rút ra bốn điểm trong Lời Chúa hôm nay để làm kim chỉ nam cho năm mới này.
Thứ nhất, trong bài đọc 1 chúng ta tìm thấy ‘công thức’ của lời chúc mừng cho năm mới. Theo kinh nghiệm thường ngày, chúng ta thường chúc cho nhau “an khang- thinh vượng” và “được nhiều điều như ý” trong ngày đầu của năm mới. Tuy nhiên, trong bài đọc 1, Thiên Chúa truyền cho Mô-sê nói cho con cái Israel biết nội dung để chúc mừng cho nhau: (1) Chúc được Chúa chúc lành và gìn giữ; (2) được Chúa tươi nét mặt nhìn đến và dủ lòng thương; (3) được Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an. Nói cách khác, chúng ta chúc nhau có Chúa trong cuộc đời của mình. Thật vậy, mọi sự trên thế gian này nay còn mai mất, chỉ có Chúa luôn ở với chúng ta vì Ngài là vĩnh cửu. Hãy chúc cho nhau có Chúa trong tâm hồn và trong gia đình năm nay.
Thứ hai, bài đọc hai nói cho chúng ta rằng: Chúa Giêsu đến để chuộc chúng ta khỏi gánh nặng của Lề Luật và biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi Chúa là Áp-ba, Cha ơi! Đây là một ngôn từ được Chúa Giêsu sử dụng mỗi khi Ngài đối thoại với Cha của Ngài. Trong khi đối thoại với Chúa Cha, Chúa Giêsu đưa chúng ta vào trong quỹ đạo của tình yêu giữa Chúa Cha và Ngài. Như thế, chúng ta đã không còn nô lệ của tội lỗi. Ngay từ đầu năm, Giáo Hội nhắc nhở cho chúng ta nhân phẩm cao quý của chúng ta: Chúng không phải là những người nô lệ của tội lỗi và thói hư tật xấu, chúng ta là những người thừa kế. Hỡi những người Kitô hữu, hãy nhớ đến phẩm giá cao quý của mình. Chúng ta không phải là những tạo vật đơn hèn. Chúng ta là những người được chuộc lại bằng máu châu báu của Chúa Giêsu. Đừng làm cho hy tế của Chúa Giêsu trở nên vô nghĩa trong cuộc đời chúng ta.
Thứ ba, chúng ta tập trung vào hành động của Mẹ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hành động của Mẹ gồm được diễn tả trong ba động từ: Mẹ nghe những điều các người chăn chiên “nói về Hài Nhi,” và ghi nhớ những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Điều này cho thấy Mẹ không nghe gì khác ngoài những gì liên quan đến Chúa Giêsu con của Mẹ; Mẹ không giữ gì trong lòng ngoài những gì liên quan đến những gì của Người Con; và Mẹ chỉ suy đi nghĩ lại những gì liên quan đến Con của Mẹ. Nói tóm lại, Chúa Giêsu chính là “nội dung” của cuộc sống của Mẹ. Chúa Giêsu là tất cả của Mẹ. Còn chúng ta, chúng ta thích nghe gì? Chúng ta ghi nhớ trong lòng điều gì?
Chúng ta có suy đi nghĩ lại những gì Chúa Giêsu nói không? Chúa Giêsu có phải là tất cả của đời sống chúng ta không?
Thứ tư, không ai gặp Chúa Giêsu rồi ra về với khôn mặt buồn bã. Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy hành động của những người chăn chiên cũng được diễn tả với một loạt động từ: Họ hối hả đi, gặp, thấy, kể lại, ra về vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa về những điều họ đã được tai nghe mắt thấy. Các mục đồng, những con người đơn sơ, khi nghe các thiên thần loan báo tin vui của Vị Cứu Tinh, đã vội vã ra đi để gặp, để thấy, để kể lại những kỳ công của Chúa và để rồi ra về với niềm vui và bình an của Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có khát khao được gặp Chúa và kể lại cho Ngài những kỳ công Ngài đã thực hiện trên cuộc đời của chúng ta không? Những người gặp Chúa là những người tràn đầy niềm vui vì Chúa Giêsu muốn niềm vui của Ngài ở trong chúng ta và niềm vui của chúng ta nên trọn vẹn (x. Ga 15:11). Những tâm hồn có Chúa Giêsu ngự trị luôn tôn vinh ca tụng Thiên Chúa với niềm vui bất tận.