*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Ngày mồng 1 tháng 9 năm 1994 hãng tin quốc tế AFP phổ biến một tin tức đặc biệt, liên quan đến nữ tài tử Brigitte Bardot.
Kể từ khi nghỉ hưu không sinh hoạt điện ảnh nữa, nữ tài tử đã dành số tiền rất lớn để lập ra hội bảo vệ súc vật.
*****
Hôm thứ năm ngày mồng 1 tháng 9 năm 1994 nữ tài tử Brigitte Bardot 59 tuổi, đã viết thư cho bộ trưởng đặc trách về môi trường, tố cáo các thợ săn, đang đi lùng giết một con chó sói, vì nó đã rình ăn thịt một số con chiên trong rừng.
Trước đó, bà cũng đã lên tiếng chống lại những kẻ rình bắn chim bồ câu trong thành phố.
Và rồi, cũng tố cáo nữ tài tử Italia là bà Sophia Loren, vì bà này đã chấp nhận làm quảng cáo cho loại áo làm bằng da hải cẩu. Brigitte Bardot đã mỉa mai Sophia Loren mặc cái áo lạnh bằng da hải cẩu là mang một cái nghĩa trang trên mình.
Đọc qua thái độ cực đoan bênh vực thú vật của Brigitte Bardot và theo dõi những tranh luận quốc tế: Có cho tự do phá thai không, nhân dịp hội nghị quốc tế về dân số và phát triển tại Cairo, vào đầu tháng 9 năm 1994, chúng ta không khỏi nghĩ ngợi và đặt ra câu hỏi:
Tại sao người ta không bỏ công ra, để bênh vực các thai nhi vô tội, mà lại chỉ lo bênh vực các con thú vật.
Một nền văn minh quý trọng con vật hơn con người, có phải là một nền văn minh tiến bộ, để xây dựng hạnh phúc cho con người hay không ?
*****
Giáo lý công giáo đặt con người lên trên tất cả mọi loài thọ tạo, đặt con người làm chủ thiên nhiên vũ trụ, với tài trí của mình. Con người hơn con vật, vì có hồn thiêng bất tử.
Thánh Phaolô dạy: Tất cả đều thuộc về anh em và anh em thuộc về Đức Kitô. Và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa Cha.
Chúng ta không muốn lên án những anh chị em của mình, nhưng ước gì: Nếp sống của chúng ta phù hợp với lời dạy của Chúa, phải trở thành chứng tá hùng hồn, thuyết phục được những ai đã xa lìa giáo huấn của Chúa. Không nên có thái độ phân chia, và đặt các thực tại đối nghịch nhau. Cũng không nên chỉ quý trọng loài vật, mà rồi bỏ quên con người.
Lạy Chúa là Đấng Tạo hóa của muôn loài muôn vật, chúng con cảm tạ Chúa đã dựng nên con người có phẩm giá cao trọng hơn tất cả.
Xin giúp cho mỗi người chúng con biết quý trọng sự sống con người, ngay từ lúc thụ thai, cho đến phút cuối đời.
Xin giúp cho mỗi người chúng con luôn biết quảng đại dấn thân phục vụ nhau vì tình yêu Chúa. Amen.
Có một vị hoàng tử rất giàu sang và quyền thế, dân chúng rất trung thành và cũng rất hiền hòa.
Thế nhưng, vị hoàng tử lại bất hạnh: Tính tình nông nổi, bồng bột, hiếu chiến, thích gây hấn với các nước lân bang.
Vì lòng trung thành, quân sĩ đã chiến đấu rất hăng say và đã chiến thắng hết trận này đến trận khác, nhưng mà rồi hoàng tử vẫn không vui. Còn binh sĩ thì mỗi ngày một mệt mỏi hơn, vì cảnh chiến tranh chết chóc.
Vào một buổi chiều kia, lúc hoàng hôn xuống dần, đang khi cưỡi ngựa ngang qua một cánh đồng, hoàng tử nghe có tiếng hát véo von từ đâu vọng lại. Lần theo tiếng hát, chàng gặp một cô bé, vừa hát, vừa chăm sóc vườn hoa của mình, không hề để ý đến sự có mặt của hoàng tử. Tiếng hát thánh thót của cô bé làm cho tâm hồn của hoàng tử lắng dịu, và rồi bao nỗi u uẫn hầu như cũng tan biến.
Cô tặng cho hoàng tử một giỏ chứa đầy hạt giống.
Sáng hôm sau, hoàng tử thức dậy rất sớm, với niềm khoan khoái lạ thường. Chàng cầm giỏ hạt giống đi gieo. Từ ngày đó, triều thần và dân chúng đều ngạc nhiên, khi thấy hoàng tử xắn tay áo, đi chăm sóc vườn hoa của mình.
Ngày qua ngày, mùa xuân đã đến với muôn ngàn tia nắng ấm, vườn hoa của hoàng tử đã trổ sinh các loại hoa, muôn sắc, muôn màu, hương thơm ngào ngạt, quyến rũ ong bướm. Tiếng chim hót líu lo trên cành, khiến cho lòng người nao nức một niềm vui khó tả.
Cô bé cũng đến ngắm vườn hoa của hoàng tử, với tiếng hát thánh thót ngày nào. Nàng mời hoàng tử nhìn xem những bông hoa, ngọn cỏ, chim chóc, và bầu trời xanh biếc, với những tia nắng bình minh chói lọi.
Một tia sáng cũng lóe lên trong tâm trí của hoàng tử. Và một niềm vui sướng thật nhẹ nhàng đang trào dâng trong tâm hồn của chàng, đó là lần đầu tiên hoàng tử cảm nghiệm được niềm vui sướng thật sự trong tâm hồn của mình.
*****
Trời đất, sông núi, biển cả, và muôn vật, không khác gì những trang sức tuyệt đẹp và những sứ điệp của Thiên Chúa trao gửi cho con người:
“Trrời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
Không trung loan báo việc tay Người làm”. (Thánh Vịnh 19,2)
Đối với các tín hữu, thiên nhiên còn là một trong những con đường giúp họ nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngài là đấng tạo dựng mọi loài trên trời dưới đất.
Tiếc thay, con người của thời đại tân tiến ngày nay quá thiển cận, không biết nhìn xa, không biết nhìn lên, để rồi khám phá ra cái ngôn ngữ phong phú của vạn vật. Họ đã đánh mất đi cái bí quyết của niềm vui và của hạnh phúc:
Chiêm ngắn trật tự là lùng của vũ trụ, nhà bác học Newton đã phải thốt lên:
“Tôi nhìn thấy Thiên Chúa đi qua đầu viễn vọng kính của tôi”.
Và nhà bác học Edison, khi ghi vào số vàng của tháp Eiffel, đã biết như sau:
Edison hết sức khâm phục và ca ngợi các kỹ sư, trong đó có cả Thiên Chúa”.
Chính khi nhìn ngắm vũ trụ, để nhận ra bàn tay tác tạo và sắp xếp nhiệm mầu của Thiê Chúa, con người cũng khám phá ra sự thiện hảo của Ngài dành cho muôn loài, để phục vụ con người.
Nhận thức điều ấy, con người không thể không trào dâng những tâm tình cảm tạ, yêu mến.
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn con, trước mầu nhiệm tình thương của Chúa, được bày tỏ trong vũ trụ.
Xin giúp cho con biết chiêm ngưỡng sự hiện diện của Chúa trong thế giới chung quanh con. Vì chỉ khi nào nhận biết Chúa, con mới có thể khám phá ra chính bản thân của con. Và chỉ mình Chúa mới có thể đổ đầy những khát vọng hạnh phúc sâu xa nhất của đời con. Amen.
Hoàng Hậu Blanche, xứ Castile, nước Pháp đã phải đau buồn cùng cực, vì bà thành hôn đã 12 năm rồi, mà vẫn không có một mụn con.
Khi đến thăm Thánh Đaminh, ngài khuyên hoàng hậu: Hãy đọc kinh Mân Côi hằng ngày, để xin Thiên Chúa ban cho diễm phúc được làm mẹ.
Hoàng hậu trung thành theo lời khuyên của thánh nhân. Năm 1213, hoàng hậu hạ sinh hoàng nam đầu lòng, đó là hoàng tử Philip. Nhưng con trẻ chết ngay, khi còn trong trứng nước.
Trước nỗi bất hạnh này, hoàng hậu vẫn không ngã lòng, không một chút nao núng niềm tin. Trái lại, bà tha thiết van nài xin Đức Mẹ cứu giúp.
Hoàng hậu cũng phân phát nhiều tràng hạt Mân Côi cho các triều thần, cũng như cho quần chúng đông đảo trong cả nước. Bà xin họ tiếp lời cầu nguyện với bà.
Năm 1215, qua sự bầu cử của Đức Mẹ, Chúa đã nhậm lời cầu xin của bà: Một vị hoàng tử chào đời. Hoàng tử này đã trở thành vinh quang cho nước Pháp, và là gương mẫu cho tất cả các hoàng đế công giáo. Vị hoàng đế này, sau đã trở thành một vị thánh, đó là vua thánh Louis.
*****
Kẻ sao cho hết những ơn lành Mẹ Maria đã ban xuống cho nhân loại, qua kinh kính mừng. Bởi vì qua kinh mừng là kinh mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ rất ưa thích.
Qua mỗi lời kinh kính mừng, chúng ta nhắc lại niềm vinh hạnh lớn lao, mà Thiên Chúa đã thương ban cho Mẹ, khi người gửi sứ thần Gabriel đến kính chào Mẹ, là Đấng Đầy Ơn Phước.
Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã thường thi ân cho cả những kẻ nguyền rủa các Ngài, thì làm sao các Ngài có thể từ chối ban ơn lành cho những người con thảo hiếu, hằng chúc tụng, hằng tôn vinh, hằng yêu mến các Ngài, qua kinh kính mừng.
Thánh Bônaventura nói rằng: Nếu ta kính chào Mẹ bằng kinh kính mừng, thì Mẹ sẽ đáp trả lại ta bằng muôn vàn ơn phúc.
Thật vậy, ngay khi thánh nữ Elizabeth nghe lời Mẹ chào, thì lập tức, bà được đầy tràn Chúa Thánh Thần, và Gioan con trong lòng bà liền nhảy mừng.
Nếu chúng ta hằng ngày đọc kinh kính mừng một cách thành kính, sốt sắng, đề chào kính, để chúc tụng Đức Mẹ, thì chắc chắn chúng ta sẽ được ơn phúc chan hòa, và niềm an ủi thiêng liêng sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết siêng năng lần chuỗi mân côi hàng ngày.
Xin cho chúng con được gia nhập vào đạo binh con cái hiếu thảo của Mẹ,
- để chúng con không ngừng tôn vinh,
- để chúng con không ngừng chúc tụng,
- để chúng con không ngừng yêu mến Mẹ, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Trong một tập hồi ký, Raul Folero vị đại ân nhân của những người Phong cùi, đã đi khắp nơi, để rống lên những tiếng kêu thảm thiết, thay cho những người bất hạnh này. Ông đã ghi lại chuyến đi của ông tại Phi Châu như sau:
Đến một chỗ cách thủ đô khoảng 15 cây số, chúng tôi bỏ xe ở đó, và đi lần theo một lối đi đã được chỉ trước. Và sau nửa giờ đồng hồ đi bộ, chúng tôi đã lạc vào một thế giới của buồn thảm, khốn khổ và khát vọng, không bút nào tả xiết.
Thật thế, tại một nơi, mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau.
Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi, chẳng khác nào một trại tù. Mọi người nhìn họ như những người bị chúc dữ, hoặc còn còn tệ hơn nữa, như những con thú dữ.
Không chịu nổi một sự giam hãm và cách ly như thế, 60 người cùi này đã trốn thoát, và rồi tìm đến cơ ngụ ở một khu rừng vắng này. Không thuốc thang. Không người chăm sóc. Tình trạng của họ lại càng thêm tồi tệ hơn. Vương vãi trên khu đất họ đang sinh sống, có đầy ắp những dấu vết của căn bệnh khủng khiếp này.
Tôi đến gần bên họ, để nói với người có tuổi, được xem là người đại diện của họ:
“Bây giờ là chiều thứ bảy, phố xá đâu đâu cũng đóng cửa. Ngày thứ hai, chúng tôi sẽ trở lại, và mang theo thức ăn, mùng mền, thuốc thang. Sẽ có một bác sĩ đi theo tôi và sẽ ở lại chăm sóc bà con. Chúng tôi sẽ cất nhà cho bà con và tôi sẽ trở lại khi cần. Bác có thể hỏi bà con cô bác xem: Có thể chờ đến thứ hai được chăng ?”
Cụ già nhìn tôi với cặp mắt nghi ngờ. Từ lâu, họ đã không còn tin tưởng vào ai nữa. Nhưng với một giọng lịch sự và tha thiết cụ già nói với tôi:
“Chúng tôi biết ông là người rất tốt. Ông không thể cho chúng tôi ngay tức khắc một cái gì đó sao ?”
Và cụ già hạ giọng xuống trình bày như sau:
“Chúng tôi đang cần một cái cuốc, hay bất cứ một vật gì có thể đào đất được. Một người bạn của chúng tôi đã qua đời đêm qua. Và ông nhìn thấy đó, chúng tôi đành phải dùng đôi tay cùi lở của mình, để đào cho người đó một cái huyệt”.
Tôi liếc nhìn vào đôi bàn tay của những người khốn khổ, đã sứt mẻ vì bệnh tật, nay còn bị thương tích, vì muốn bày tỏ hết tình nghĩa với đồng loại của mình.
*****
Các bạn là những người đang nghe tôi đọc những tư tưởng này, có lẽ các bạn sẽ không tin, khi chưa nhìn tận mắt vào cảnh tượng ấy. Nhưng, đó là sự thật.
Phong cùi vẫn mãi mãi là một căn bệnh khủng khiếp nhất đối với nhân loại. Người phong cùi đau đớn trong thân xác đã đành, mà còn phải đau khổ gấp bội trong tâm hồn, vì cảm thấy bị bỏ rơi.
Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành nhiều người phong cùi, nhưng Ngài không chỉ chữa lành tấm thân bệnh hoạn của họ, mà còn tái lập họ trong cộng đồng nhân loại.
Lần nào cũng thế, sau khi chữa bệnh cho họ, Người luôn khuyên bệnh nhân hãy đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập trở lại với xã hội.
Chúa Giêsu không những hồi phục bệnh nhân, Người còn mời gọi những người khác cũng hãy đón nhận họ.
Sự tái hội nhập của người phong cùi, luôn đòi hỏi chính sự cảm thông với lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người đồng loại.
Kỳ thực, nếu có một thứ vi trùng Hansen, có thể đục khoét và hủy hoại cuộc sống của con người, thì cũng có không biết bao nhiêu thứ vi trùng khác còn dộc hại gấp bội, đang ẩn nấp trong tâm hồn con người, tên của những thứ vi trùng đó là sự dững dưng, là lòng ích kỷ, là sự hận thù.
Những thứ vi trùng này, có thể đẩy ra ngoài lề xã hội và giết dần giết mòn không biết bao nhiêu con người.
Chính khi con người khép cửa từ tâm của lòng mình lại, thì chính là lúc con người trở nên khô cằn và nghèo nàn nhất trên cõi đời này.
Ghi-nê đã ví von một cách thật chí lý:
“Sự giàu có thực của con người, chính là yêu thương.
Và sự nghèo nàn thật của con người, chính là lòng ích kỷ”.
Khoa học đang nỗ lực tìm kiếm thuốc trị Siđa, nhưng ít có ai để ý đến những người đã chết ngay khi còn đang sống. Đó là
- những người không thấy cuộc sống có ý nghĩa,
- những người thiếu một lý tưởng để ấp ủ,
- những người thừa thải mọi sự và đầy ứ chính mình, nhưng lại thiếu tấm lòng dâng hiến trao ban.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho lòng ích kỷ hẹp hòi của chúng con.
Xin tha thứ cho sự dững dưng, vô tâm của chúng con, trước không biết bao nhiêu người đau khổ chung quanh chúng con.
Xin ban cho con một trái tim nồng nàn, luôn biết nhạy cảm trước những nỗi khổ đau của anh chị em con.
Xin ban cho con một đôi tay luôn rộng mở, để xoa dịu, để nâng đỡ, để san sẻ cho những người đang cần con trợ giúp. Amen.
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia, cha mẹ tôi dắt tôi đi xem một cuốn phim, tựa đề là “Ảo Ảnh Cuộc Đời “.
Phim đó kể lại chuyện một cô gái, không những đã bội bạc, mà còn khinh khi, làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô.
Qua nhiều biến cố thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó đã chết. Cô gái trở về, thống hối, tiếc thương.
*****
Về nhà hôm ấy, gia đình tôi bàn tán về ý nghĩa của câu chuyện trong phim. Tôi nhớ rất rõ, là tôi đã bực bội phê bình rất to tiếng:
“Bây giờ, mới trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi”.
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt, ngăn chận mẹ tôi lại. Cha tôi nói:
Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ”.
Thú thực, ngày đó tôi không hiểu gì nhiều, về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ, tôi đã là mẹ, tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn luôn sẵn sàng yêu thương tha thứ cho con cái của tôi.
Phim này cho chúng ta hình ảnh cuộc đời, như một dòng nước tuôn chảy từ trên xuống dưới.
Cha mẹ yêu thương con cái, không mong gì từ con cái. Chỉ cầu mong cho con mình đầy đủ. Chỉ cầu mong cho con mình được khỏe mạnh, được vui tươi, được hạnh phúc, được nên người tốt, được hữu ích cho cuộc đời nó, và cho xã hội, được sao cho gia đình nó ấm cúng, đạo hạnh, tử tế, là cha mẹ vui lòng rồi.
*****
Tình yêu thương cao cả vô vị lợi đó, chính là hình ảnh lu mờ của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
Khi chúng ta sống ngay lành, khi chúng ta sống thánh thiện, chúng ta không giúp ích gì, hay tăng thêm một chút gì cho Thiên Chúa.
Nhưng khi chúng ta lầm lỗi, chính là lúc chúng ta làm phiền lòng Người, chỉ vì Chúa yêu thương chúng ta. Những lúc đó, Chúa luôn mong mỏi chúng ta trở về.
Chúa nói: “Hãy để cà hai cứ lớn lên cho đến mùa gặt” (Matthêu 13,30).
Cả hai ở đây, là có lùn và lúa tốt, người lành thánh và kẻ tội lỗi.
Chúa muốn nói lên lòng kiên nhẫn chịu đựng của Người trước lỗi lầm của chúng ta. Chúa ghét tội, nhưng lại yêu mến tội nhân, vì họ còn có thể thống hối, để được tha thứ.
Nhưng, Chúa kiên nhẫn chịu đựng, là để giải thoát, chứ không phải để dung túng cho chúng ta.
Vậy, trong cuộc đời làm con Chúa, đừng bao giờ chúng ta ngã lòng hay thất vọng, vì “với tình thương không bao giờ là quá muộn”, chỉ cần chúng ta biết mở rộng cõi lòng, để yêu thương, để hoán cải, và để ao ước nên trọn lành.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng cõi lòng với những người chung quanh, nhất là những người thân yêu, trong những giao tiếp hằng ngày.
Xin giúp cho con, mỗi khi thấy mình lầm lỗi, biết ăn năn thống hối, biết trở về với Chúa.
Xin cho con luôn xác tín rằng: Chúa luôn đồng hành với con trong tình yêu. Và đối với Chúa, không có lúc nào là quá muộn cả. Nhưng bất cứ lúc nào, cũng đều có thể bắt đầu lại trong hy vọng và trong tin yêu. Amen.
Một em bé trai 8 tuổi, vừa vật lộn với tử thần, sau cả tháng trời, nửa sống, nửa chết. Em được các bác sĩ cho biết là đã ra khỏi hiểm nguy. Cả em và gia đình đều rất mừng rỡ.
Nhưng, khi em vừa trở lại đời sống bình thường, thì đứa em gái cũng bị đau cùng một chứng bệnh như em: Mê man, bất tĩnh, khó sống.
Các bác sĩ tìm cách cứu em, nhưng cách duy nhất là phải dùng chính máu của bé trai, để tiếp sức cho em gái, thì mới có thể trị được.
Họ hỏi ý kiến bé trai. Thoạt đầu, em có vẻ lo lắng và do dự. Nhưng 1 phút sau, em trả lời một cách kiên quyết: Vâng, con sẵn sàng hiến máu cho em con.
Được sự đồng ý này, các bác sĩ vội vàng bắt tay tiếp máu cho đứa trẻ đang yếu sức.
Khi tỉnh dậy, em trai làm cho các bác sĩ ngẩn ngơ, khi em hỏi: “Con vẫn còn sống à”.
Thì ra, em đã tưởng rằng: Em sẽ chết, ngay sau khi tiếp máu cho em mình.
*****
Em trai trong câu chuyện trên đã mường tượng đến một cái chết: Em nghĩ, nếu tiếp máu cho em gái mình, em sẽ phải hy sinh chính mạng sống. Thế nhưng, em vẫn can đảm chấp nhận cái chết. Em đã sẵn sàng trao mạng sống cho em của mình.
Hảnh động này đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Chúa Giêsu:
“Không tình yêu nào cao quý cho bằng người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Gioan 15,13)
Trên đời, tất cả mọi sự đều chung qui vào việc bảo tồn sự sống. Ai cũng muốn sống và sống một cách sung túc, sống lâu, sống đẹp. Trừ một số người khác thường, thì không ai muốn mình chết bao giờ.
Nhưng, chính tình yêu còn mạnh hơn sự chết, một tình yêu vượt lên trên mọi sợ hãi, mọi đớn đau, để chỉ mong cho người mình yêu được sống và sống hạnh phúc.
Vâng, chính Con Thiên Chúa đã vì yêu thương nhân loại, mà hy sinh chịu chết và chết một cách nhục nhã trên thập giá, để cho loài người được sống, và sống muôn đời.
Khi vâng phục thánh ý Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu đã hiểu biết rất rõ những lợi ích, do sự ưng thuận của Người sẽ đem lại cho nhân loại. Tuy cái cảm giác nhân loại của Người muốn tránh né khổ giá. Nhưng cuối cùng, Người đã can đảm nói với Chúa Cha: “Xin vâng theo ý Cha”.
Điều ấy chứng tỏ: Người yêu thương nhân loại biết là chừng nào.
Vâng, bài học Canvê vẫn còn đó, vẫn còn thích hợp với mọi người.
Thập giá Chúa muôn đời vẫn là khúc dạo đầu của ân sủng, và là tiếng mời gọi yêu thương.
Vì yêu thương, cha Ma-xi-mi-lia-nô Kôn-bê đã tình nguyện chết thay cho người bạn tù, có một vợ và 7 con.
Vì yêu thương, cha Đamien, vị tông đổ người hủi, đã chết đau đớn, với bệnh phong cùi, sau một đời hiến thân phục vụ những người phong cùi.
Và còn biết bao người, vì yêu thương, đã chết dần, chết mòn, trong những hy sinh thầm lặng cho tha nhân, mà không hề có ai biết tới.
Lạy Chúa, mỗi một cử chỉ đẹp con làm cho tha nhân, là một bước con đến gần Chúa hơn.
Xin cho tất cả những ai con gặp gỡ hằng ngày, đều nhận ra được tình yêu của Chúa trong con.
Xin cho con cảm nghiệm được sức mạnh của tình yêu, một tình yêu mạnh hơn sự chết, để con biết yêu thương mọi người, bằng chính tình yêu hiến thân cao cả của Chúa. Amen.
Vào một buổi tối nọ, một người đàn bà phải mất nhiều thời giờ chờ đợi chuyến bay tại một phi trường.
Bà rảo qua các sạp báo trong phi trường, rồi mua một cuốn sách và một gói bánh, rồi đi tìm một chỗ yên tĩnh ngồi đọc sách.
*****
Tuy cắm cúi đọc sách, người đàn bà cũng nhận ra người đàn ông đang ngồi bên cạnh: Ngoài cái đầu hói, chẳng có gì để gây sự chú ý.
Tuy nhiên, có một điều làm cho bà khó chịu, là chốc chốc người đàn ông lại đưa tay vào gói bánh, kéo ra 1-2 cái.
Tuy khó chịu thật, nhưng bà cố tình làm như không biết, để tránh cho người đàn ông khỏi phải ngượng. Bà cố gắng quên sự hiện diện của người đàn ông không mấy biết điều ấy.
Thỉnh thoảng bà đưa tay vào gói bánh, lấy ra một cái và người đàn ông cũng làm theo.
Cuối cùng, gói bánh chỉ còn võn vẹn có một cái, bà chờ xem người đàn ông mất dạy này sẽ làm gì?
Người đàn ông liền mỉm cười, lấy chiếc bánh cuối cùng, bẻ ra làm hai, và trao cho bà một nửa, nửa kia ông cho vào miệng.
Người đàn bà nghĩ: Đây quả là một người vô liêm sỉ, đã không biết xấu hổ thì chớ, lại cũng chẳng nói một lời cảm ơn.
Bà thở ra nhẹ nhỏm, khi chuyến bay được loan báo. Bà thu dọn hành lý và đi về phía cổng lên máy bay, cũng chẳng buồn quay lại chào từ giả người đàn ông bên cạnh.
Sau khi đã yên vị tại chỗ trên phi cơ và người đàn bà mới bắt đầu kiểm lại hành lý.
- Cuốn sách bà mua vẫn còn nguyên vẹn trong xách tay.
- Bên cạnh cuốn sách là gói bánh, cũng vẫn còn nguyên vẹn. Như vậy, cuốn sách bà đã đọc khi chờ đợi máy bay là của người đàn ông. Và bánh bà dùng, cũng là của ông ta. Quá trễ, để quay lại xin lỗi. Bà thở dài, tự nhận rằng: Kẻ ăn cắp bánh, người vô lương sỉ chính là bà.
Sở dĩ con người không có thái độ khoan nhượng, và cảm thông với người khác, là vì họ không biết nhìn vào bản thân. Có lục soát lại hành lý, nghĩa là nhìn lại chính mình, người đàn bà trong câu chuyện, mới nhận ra lỗi lầm của mình và thay đổi cái nhìn với người đàn ông.
*****
Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo được chứa đựng trong lời kêu gọi của Chúa Giêsu là, “Hãy Sám Hối và tin vào Tin Mừng” (Marcô 1,15).
Sám hối là chiều kích nền tảng của đời sống đức tin.
- Có nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, con người mới nhận được ơn cứu rỗi và tình thương của Chúa.
- Có biết mình hay vấp ngã, con người mới dễ cảm thông với anh chị em sống bên cạnh mình.
Như vậy, mến Chúa yêu người, chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng của sám hối mà thôi.
Lòng sám hối càng sâu sắc và tinh thần khiêm tốn càng cao độ, thì lòng mến đối với Thiên Chúa mới chân thành, và tình yêu đối với tha nhân mới thiết thực.
Viên đá kiên cố nhất trong một tòa nhà kiến trúc là viên đá đặt thấp nhất dưới chân nền.
Chúa Giêsu đã lên án gắt gao cái thái độ của những người biệt phái: Họ có tất cả mọi nhân đức, nhưng chính vì thiếu lòng khiêm nhường sám hối, mà tòa nhà đạo đức của họ không có nền tảng.
Tình yêu của họ đối với Chúa là giả tạo và họ cũng không hề biết thế nào là cảm thông, là tha thứ, là yêu thương.
Người tín hữu kitô được mời gọi nhìn lại bản thân hằng ngày, nhất là trong mỗi thánh lễ, để từ đó, mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu của Chúa và cảm thông tha thứ cho anh chị em mình.
Lạy Chúa, xin ban cho con đủ khiêm tốn, để nhận ra lỗi lầm của con, và chân thành Sám Hối.
Xin thêm đức tin cho con, để mỗi khi ý thức về sự yếu hèn của mình, con càng vững tin vào Tình Yêu Bao La của Chúa và cảm thông tha thứ cho anh chị em sống bên cạnh chúng con. Amen.
Có một bà lão đạo đức nhưng nghèo, nghèo đến nỗi không có đủ tiền mua gạo ăn.
Hôm nọ, đói quá không làm gì nổi, bà chỉ còn cách quỳ gối giữa nhà, hết lòng tha thiết van nài cùng Chúa: Lạy Chúa, xin Chúa giúp con có gạo nấu cơm ăn chiều nay, nếu không, chắc là con phải chết mất. Xin Chúa thương con.
Lúc đó, có một người thanh niên vô thần tình cờ đi ngang qua nghe thấy, anh ta định đưa ra một cái trò để tiêu diệt niềm tin của bà. Anh vội vàng ra tiệm tạp hóa gần đó mua một vài ký gạo, rồi trở về, lén ném túi gạo qua lỗ vách lá, rơi một cái bịch trước mặt bà.
Bà lão vô cùng mừng rỡ và hết sức ngỡ ngàng, đến nỗi quên cả đói khát. Bà hô to lên: Cảm ơn Chúa, Cảm ơn Chúa.
Bà vội vàng đi khoe với lối xóm, là Chúa đã nhậm lời bà cầu xin.
Thấy bà già đã trúng kế của mình, anh chàng vô thần liền xuất hiện, đắc chí, cười cách chế nhạo. Anh nói cho bà biết rõ, là anh ta vừa ra tiệm tạp hóa mua cái túi gạo đó, rồi ném qua cái lỗ vách cho bà.
Nhưng bà già đáp: Có thể là anh mang gạo đến cho tôi. Nhưng tôi bảo đảm là lời tôi cầu nguyện đã được Chúa nhậm lời: Tôi cầu xin chiều nay có gạo nấu cơm, và Chúa đã ban cho tôi y như lời tôi cầu. Tạ ơn Chúa. Cám ơn anh.
*****
Người có đức tin sẽ nhìn thấy trong tất cả mọi sự là hồng ân của Thiên Chúa ban cho. Và ơn chúa có thể đến bất cứ từ đâu, miễn là chúng ta có một tâm hồn đơn sơ để nhận ra ơn của Ngài.
Bà lão trong câu chuyện đã xin gạo và đã được gạo. Bà ta tạ ơn Chúa và nhận ra đó là ân huệ Chúa ban. Cho dù gạo đó đến từ một âm mưu đen tối. Nhưng ai âm mưu thế nào không cần biết, chỉ biết tạ ơn Chúa vì đó là ơn lành Chúa ban cho.
Trong đời sống của chúng ta, ơn Chúa đến từ mọi phía. Có thể nói được là chúng ta đang ngụp lặn trong ân sủng của Ngài:
- Ơn Chúa đến từ những người thân yêu.
- Ơn Chúa đến từ những người tìm cách ám hại chúng ta.
- Ơn Chúa đến từ những hẻ hèn mọn.
- Ơn Chúa đến từ những người quyền thế.
- Ơn Chúa đến lúc thoải mái, bình an.
- Ơn Chúa đến lúc khổ đau hoạn nạn.
Lạy Chúa, xin cho con nhận thấy được tình yêu thương và ân lành của Chúa trong cuộc sống của con.
Xin cho con biết tin tưởng nơi Chúa là Mục Tử Nhân Từ, đang dìu dắt con đi trên cõi đời này. Dù lúc con đi trên con đường bằng phẳng chói chang nắng ấm, hay là khi chúng con phải đi qua thung lũng tối đen đầy hiểm nguy, con không bao giờ nao núng, chỉ biết chắc có Chúa luôn ở bên con.
Xin cho con luôn biết hết lòng tin yêu, cậy trông, phó thác vào Chúa. Amen.
Sau khi thắng trận lớn, Sở Trang Vương mở đại yến khao tướng sĩ, và để tưởng thưởng công lao và lòng trung thành.
Vua truyền cho các cung nữ của mình ra hầu tiệc. Đang ăn, bỗng một trận gió làm đèn đuốc tắt hết. Lợi dụng bóng tối, một quan đã giở trò thiếu đúng đắn với người đẹp đang chuốc rượu cho mình và hôn. Người đẹp chính là nàng Hứa Cơ, đang được nhà vua sủng ái nhất. Hứa Cơ bèn giật đứt giải mũ của vị quan ấy, và đem trình vua, và xin Ngài trừng trị đích đáng.
Thay vì phẩn nộ, vua ra lệnh cho tất cả các quan phải bỏ giải mũ của mình, trước khi đèn sáng. Không ai hiểu tại sao, ngoài ba người liên hệ.
Sở Vương nói: “Trong nguy biến các quan đã liều thân vì Đất Nước. Khi vui say, các quan quên lễ phép một chút có sao đâu. Lẽ nào, vì một chuyện nhỏ, mà quên đi lòng hy sinh cao cả của người khác”.
Hai năm sau, nước Sở đánh nhau với nước Tần, đánh luôn 5 trận, mà trận nào cũng có một viên quan võ liều sống liều chết, xông ra phía trước, đánh rất dũng cảm, làm cho quân Tần phải lui binh. Nhờ vậy, quân Sở đã thắng.
Sở Trang Vương lấy làm lạ, bèn hỏi: Trẫm đãi khanh cũng như mọi người khác, cớ sao khanh lại hết lòng giúp Trẫm như vậy ?
Võ quan trả lời: Thần quyết tâm đem tính mạng dâng cho bệ hạ đã lâu, nhưng nay mới có dịp đền đáp. Thần đây, chính là người ngày xưa, đã bị giật đứt giải mũ, mà Bệ Hạ không nỡ hành tội.
*****
Sở Trang Vương quả là một vị vua có lòng khoan dung đại lượng, Chính lòng khoan dung nhân hậu của ông, đã thu phục được nhân tâm, và mang lại kết quả không ngờ.
Thật vậy, càng làm lớn, chúng ta càng phải có lòng khoan dung. Nếu không, người dưới sẽ chẳng kính phục, và cũng không thể hết mình với ta. Tha thứ lỗi lầm lỗi của kẻ khác, chính là một cách hữu hiệu, để chinh phục lòng người.
*****
Chúa Giêsu đã phán: “Kẻ được tha nhiều thì yêu nhiều” (Luca 7,43).
Vì thế, chúng ta càng khoan dung tha thứ, thì càng được mọi người yêu quý, và nhất là càng được Chúa yêu thương và tha thứ mọi lỗi lầm cho ta. Hy lễ thập giá của Chúa Giêsu, chỉ nên trọn hảo, khi Ngài thưa với Chúa Cha:
“Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Luca 23,34).
Vì thế, lòng khoan dung tha thứ, là tuyệt đỉnh của yêu thương. Bởi vì, tha thứ là yêu thương chính kẻ thù, chính kẻ làm hại, chính kẻ làm khổ mình.
Vậy, muốn có lòng khoan dung, chúng ta cần phải có lòng bác ái sâu sắc, như thánh Phaolô đã diễn tả:
“Lòng bác ái thì nhẫn nhục, thì chịu đựng, thì chậm giận dữ, hãy mau quên điều xúc phạm, dễ dàng tha thứ lỗi lầm người khác”(Corintô 13,4).
Nghĩa là, nếu có lòng yêu thương thật sự, thì chúng ta dễ dàng khoan dung tha thứ.
Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ cho con thật nhiều, mà con tha thứ cho anh chị em sống bên cạnh chúng con chẳng được bao nhiêu.
Xin cho vòng tay của con luôn rộng mở, để có thể ôm tất cả những kẻ thù ghét con.
Xin cho con một trái tim quảng đại, một tấm lòng nhân ái.
Xin cho con đừng bao giờ khép lại chính mình, nhưng biết vươn cao, biết vượt lên trên mọi tình cảm tầm thường, vượt lên trên mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện, để mặc lấy tâm tình yêu thương tha thứ, như lòng Chúa khoan dung. Amen.
Dan Lack kể lại một câu chuyện rất ngắn, nhưng cũng rất ấn tượng:
Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một em bé khoảng 6-7 tuổi, đang đứng tần ngần trước một siêu thị sang trọng. Đứa bé đi chân đất, khoác trên người mặc bộ quần áo cũ kỷ, tả tơi, trông giống như miếng giẻ rách.
Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được những nỗi thèm muốn trong đôi mắt màu xanh đó. Bà cầm tay đứa bé, dẫn vào tiệm và mua cho em một đôi giày mới và một bộ quần áo mới.
Sau đó, họ bước ra phố. Thiếu phụ nói với cậu bé: Chúc cháu vui vẻ và được một đêm ngủ ngon.
Đứa bé trố mắt nhìn thiếu phụ, rụt rè hỏi: Thưa bà, bà có phải là Chúa không ?
Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé, vỗ nhẹ vào vai cậu và trả lời: Con ơi, không phải đâu. Bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi.
Cậu bé như khám phá ra được một điều gì mới lạ:
“Cháu biết ngay mà, là bà có họ hàng với Chúa”.
Chúa Giêsu đã xác nhận:
“Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Matthêu 12,48-49).
Quả thật, thiếu phụ trong câu chuyện trên đã nghe và thi hành lời kêu gọi yêu thương của Chúa:
“Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng, đã dằn, đã lắc, và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Luca 6,38).
Được làm anh em, được làm họ hàng của Chúa, không phải là một vinh dự vô cùng lớn lao cho con người hay sao ? Cậu bé chỉ vô tình nói lên cảm nghĩ đơn sơ của mình, nhưng đó lại chính là ý định từ đời đời của Thiên Chúa. Không những Ngài nhận những người thực thi những cử chỉ yêu thương cho tha nhân là anh em của Ngài, mà Ngài còn cho đó là làm cho chính Ngài:
“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy. Và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Gioan 13,20).
Theo sự khôn ngoan loài người, thường ai cũng muốn thu tích của cải, chứ không muốn ban phát cho đi.
Người khôn ngoan thật trước mặt Chúa, là người không tích trữ cho mình những đồng tiền sẽ bị mối mọt ten sét làm hư hỏng, nhưng là những người biết tích trữ của cải thiêng liêng, là những việc bác ái yêu thương, là những nghĩa cử trao ban vô vị lợi.
Chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm đã đến hỏi Chúa:
“Tôi phải làm gì để được sống đời đời”
Chúa đã không đề nghị với anh, hãy lo thu tích của cải thêm, để được hạnh phúc, nhưng Chúa bảo:
“Phải về, bán đi tất cả những gì anh có, cho những người nghèo khó, rồi đến mà theo Ngài” (Luca 18,22)
Đối với những người tham lam của cải, hay những người mơ ước hưởng thụ, như người giàu xây kho lẫm trong dụ ngôn, thì họ lời xem khuyên của Chúa Giêsu, thật là một sự liều lĩnh và điên rồ.
Tham lam là đầu mối mọi sự dữ:
- Vì tham lam, người ta chèn ép, người ta chà đạp, người ta hãm hại lẫn nhau.
- Vì tham lam, người ta khóa cửa từ tâm, người ta nắm chặt bàn tay lại, không dám mở ra, để san sẻ, để cho đi.
Theo tiến sĩ Amathia Chel, người được giải Nobel kinh tế năm 1998, thì:
“Muốn loại trừ nạn đói ra khỏi đời sống, không chỉ là tăng vụ, không chỉ là chọn giống tốt cho lương thực, cũng không phải đề phòng thiên tai, mà cần có một hệ thống phân phối lương thực hợp lý, để những người nghèo khổ nhất, ở trong những vùng xa xôi không bị bỏ rơi”.
Nhà văn Jose Saramago, người được giải Nobel Văn học năm 1998, đã viết trong tác phẩm của mình, tựa đề là “Khiếm Thị”, nói về sự mù quáng của tư duy. Ông nói người sau:
“Chúng ta đều là những sinh vật, có tư duy cao, nhưng chúng ta lại không cư xử như người có suy nghĩ. Vì nếu làm được thế, thì nạn đói đã biến mất khỏi hành tinh này”.
Sống trong xã hội loài người, tình liên đới không phải là một thứ xa xí phẩm, được thêm vào cho mối tương quan giữa người với người, hay như một thứ trang trí, tô điểm cho nhân cách của chúng ta. Nhưng nó chính là một đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm người, và nhất là ơn gọi là người kitô-hữu
Lạy Chúa,
- trong Chúa, chúng con được liên kết với nhau,
- trong Chúa, chúng con là anh chị em của nhau.
Xin Chúa luôn nhắc nhở con tới bổn phận yêu thương, san sẻ. Xin Chúa thúc đẩy con biết sống cho tha nhân.
Xin đừng để con sống ích kỷ, sống tham lam, sống hưởng thụ.
Nhưng xin cho con luôn biết sống quảng đại, luôn biết trao ban cho những anh chị em nghèo khổ hơn, đang sống bên cạnh con. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 102) Có hai vị thiền sư vừa xuống núi. Họ đi vào một con đường lầy lội, cơn mưa nặng hạt, đã khiến một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua một ngã tư sình lầy được.
Lập tức, một trong hai vị thiền sư đã đến bồng người thiếu nữ trên tay và đưa chị qua đường.
Vị sư kia lấy làm khó chịu, nên không mở miệng nói với bạn một lời. Mãi một lúc sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng:
“Này bạn, chúng ta là người tu hành, không được phép gần đàn bà, nhất là những cô gái đẹp, sao anh lại bồng người thiếu nữ ấy trên tay”.
Vị sư đã bồng người thiếu nữ mĩm cười đáp:
“Tôi đã bỏ cô ta lại tại chỗ rồi. Còn anh, sao anh cứ mang cô ta theo mãi tới đây ?”
*****
Chúa Giêsu nói:
“Chính tự lòng người, mới phát xuất ra mọi tội lỗi” (Marcô 7,20).
Cũng có câu:
“Lòng đầy, miệng mới nói ra”.
Chính vị thiền sư kia trong lòng có đầy tà ý, nên ông đã lên án nghĩa cử bác ái của bạn đồng môn.
Trái lại, thiền sư đã bồng thiếu nữ qua vũng lầy, trong tâm, chỉ có thiện ý giúp đỡ người qua đường, nên tâm hồn ông nhẹ nhàng, thư thái, hân hoan, vì đã làm được một nghĩa cử, đã làm được một việc nghĩa.
Mẹ Maria, một tấm gương tuyệt vời về lòng thanh khiết. Nơi Mẹ không vươn vấn một chút bợn nhơ tội lỗi.
Tâm Hồn Mẹ tràn đầy phúc đức thánh ân. Chính vì thế, Giáo Hội đã dâng lên mẹ lời kinh tuyệt đẹp:
“Lạy Mẹ Maria, Mẹ diễm lệ tuyệt vời. Nơi Mẹ không hề dính bén chút bùn nhơ tội lỗi”.
Sách Nhã Ca đã viết:
“Kìa bà nào đang tiến lên như rạng đông, đẹp như mặt trăng, rực rỡ như mặt trời, uy hùng như đạo binh xếp hàng vào trận” (Diễm Ca 6,10).
Thánh Gioan, trong Sách Khải Huyền cũng diễn tả:
“Một điềm lạ xuất hiện trên không trung: Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên 12 sao sáng” (Khải Huyền 12,1).
Đó là những lời diễn tả về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Mẹ Maria.
Nhưng lời nói, bút mực, làm sao có thể diễn tả cho đầy đủ, mà không khỏi hàm hồ, tối nghĩa và thiếu sót.
Vâng, không có lời nào xứng hợp để diễn tả về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Mẹ. Chỉ có sự thinh lặng thán phục mà thôi.
Mẹ Tuyệt Mỹ, vì Mẹ đã được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, ngay từ lúc đầu thai trong lòng bà thánh Anna.
Mẹ Tuyệt Mỹ, vì Mẹ chẳng hề mắc tội tổ tông. Và trong suốt cuộc đời Mẹ, Mẹ cũng không hề vấp ngã, không hề sống dưới sự thống trị của tội lỗi.
Mẹ Tuyệt Mỹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, nên Ngài đã giữ gìn Mẹ khỏi mọi tội lỗi, để cung lòng Mẹ xứng đáng ngai tòa cho Con Thiên Chúa ngự.
Mẹ Tuyệt Mỹ, vì Mẹ đã được sứ thần Gabriel kính chào là Đấng Đầy Ơn Phước, nên tâm hồn Mẹ mang trọn vẹn vẻ đẹp của ơn thánh và nhân đức, đến nỗi thánh nữ Têrêxa đã sánh ví “Tâm hồn Mẹ như một tòa lâu đài, dát bằng những viên ngọc quý, như một thiên đàng nhỏ bé, cho Thiên Chúa ngự trị”.
Mẹ Tuyệt Mỹ, vì vẻ đẹp của thân xác, là phản ánh của vẻ đẹp tâm hồn. Mà linh hồn Mẹ tràn đầy thánh đức, nên mẹ diễm lệ tuyệt trần.
Mẹ Tuyệt Mỹ, vì cái xấu xa khuyết điểm, chỉ đến với con người, sau khi nguyên tổ phạm tội. Mà linh hồn Mẹ vô nhiễm nguyên tội, nên Mẹ kiều diễm nhất trong con cái loài người.
Thánh nữ Bernadetta đã phải thốt lên:
“Mẹ đẹp lắm, Mẹ đẹp, đến nỗi nếu ai đã thấy Mẹ một lần, thì người ta sẵn sàng chết, để được thấy Mẹ trên thiên đàng mãi mãi”.
Maria, như giọt sương lóng lánh, dưới tia nắng mặt trời. Tâm hồn thanh khiết của Mẹ phản chiếu nguồn sáng vô tận của Thiên Chúa.
“Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn, mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Vâng, chính Mẹ là hoa sen thơm ngát, sống giữa trần gian ô trọc. Nhưng Mẹ vẫn không vương vấn bùn nhơ tội lỗi.
Lạy Mẹ tuyệt mỹ, Mẹ vô nhiễm nguyên tội, xin Mẹ ban cho chúng con có được một tâm hồn trong sạch, để chúng con luôn có được một cái nhìn trong sạch.
Chúa ban cho chúng con một người Mẹ không tì vết, để chúng con luôn ngước mắt nhìn lên.
Chúa ban cho chúng con một người Mẹ luôn thưa “Xin Vâng”, để chúng con tiếp tục chỗi dậy, sau những lần vấp ngã.
Chúa ban cho chúng con một người Mẹ mẫu mực, tuyệt vời, để chúng con luôn bắt chước, noi gương.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ hãy chiếu sáng vẻ tuyệt mỹ của sự thánh thiện và thanh khiết của tình yêu và ân phúc vào cuộc đời chúng con, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Calcutta, một khu phố nghèo đói nhất Ấn Độ, bỗng xuất hiện một nữ tu nhỏ nhắn, khoác chiếc áo Sari màu trắng, viền xanh, đang quỳ sụp bên một thùng rác ven đường, để moi ra một người đàn bà hấp hối, đang bị kiến và chuột rúc riả.
Nữ tu ấy đã mang về tắm rửa và chăm sóc, cho đến khi người phụ nữ ấy trút hơi thở cuối cùng, trong an bình và thanh thản, xứng với phẩm giá con người.
Người nữ tu ấy chính là mẹ Têrêxa Calcutta.
Một lần kia, mẹ Têrêxa nhìn thấy đám đông tụ tập trước ngôi đền thờ thần Kali, mẹ đến gần xem, đó là một người trông coi đền thờ, đang nằm co quắp trên lề đường, đôi mắt đã lạc đi, chẳng ai dám đụng tới, vì ông đang mắc bệnh dịch tả.
Mẹ Têrêxa xông vào, bế xốc ông ta lên, vác về ngôi nhà tình thương của mẹ và chăm sóc ông, cho đến khi lành bệnh.
Người mẹ của thế giới nghèo khổ ấy vừa ra đi vĩnh viễn, đêm mùng 5 tháng 9 năm 1997, tại Calcutta (Ấn Độ), vì bệnh tim đột ngột, ở tuổi 87.
Vị nữ tu bình dị khiêm tốn ấy suốt một đời lăn lộn bên cạnh những con người nghèo đói, không nhà, không cửa, luôn bên cạnh những người phong cùi, những người mắc bệnh Aids, và những kẻ hấp hối.
Nhưng, khi nằm xuống, có đến 4 vị tổng thống đương nhiệm, 2 nữ hoàng, 3 vị đệ nhất phu nhân, 2 thủ tướng, và rất nhiều người cao sang quyền quý, đến dưới chân mẹ, kính cẩn, nghiêng mình tiễn biệt
Vị nữ tu khó nghèo thanh bần ấy, khi nhắm mắt xuôi tay chỉ để lại gia tài riêng: 2 chiếc áo sari và một đôi dép, nhưng đã có 3 quốc gia để tang mẹ: đó là Albani, Mỹ, và Ấn Độ.
Cũng chính Ấn Độ là nước tổ chức lễ quốc tang cho mẹ, một vinh dự chỉ dành cho các nguyên thủ quốc gia, với linh cửu được quàng trên cổ xe pháo, theo nghi thức quân đội, mà chỉ có thánh Mahatma Gandhi, và thủ tướng Nehru, mới được ưu tiên này.
Một đoàn trực thăng trên trời và 20 xe quân sự dưới đất, với khoảng một triệu người đứng dọc hai bên đường, và trên sân vận động Natadi có mái che, chứa 15.000 người, gồm 6.000 quan khách, 50 khách danh dự, từ 20 nước, và 6.000 người phong cùi, tàn tật, vô gia cư, nghèo đói, đại diện cho những lớp người, mà mẹ đã phục vụ khi còn sống. Hàng ngàn người đi theo sau linh cữu của mẹ. Họ là những người nghèo nhất trong những người nghèo.
Lễ quốc tang đã được truyền hình trực tiếp đi khắp thế giới cho hàng triệu người xem, trên 100 quốc gia khác nhau.
Mẹ Têrêxa được yêu mến, ngưỡng mộ, kính phục và tri ân, vì mẹ đã đem lại cho thế giới đầy khổ đau và bất công này, niềm tin và hy vọng.
Dù chỉ là một nữ tu nhỏ bé, nghèo nàn và bình thường, nhưng mẹ đã làm nên những điều kỳ diệu, đó là
- mẹ đã làm cho những kẻ hấp hối được an vui, thanh thản trước khi nhắm mắt lìa đời.
- những trẻ sinh ra, không cha, không mẹ, không cửa, không nhà, được nhìn nhận phẩm giá, như một con người.
- những người nghèo đói, phong cùi, siđa, được có những anh chị em hết lòng yêu thương chăm sóc tận tụy, hy sinh cả cuộc đời, chỉ mong cho họ được mạnh khỏe, lạc quan, vui sống.
Dù chỉ là một nữ tu đơn sơ ban đầu, mẹ Têrêxa đã làm nên phép lạ cho Dòng Thừa Sai Bác Ái của mẹ, có đến 4.000 nữ tu, 450 sư huynh, và hàng ngàn người ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở, ở 126 quốc gia trên thế giới.
Từ ngày thành lập vào năm 1950 đến nay, mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em, và săn sóc 90.000 người mắc bệnh phong cùi, trong các bệnh viện riêng, ở 10 quốc gia.
Các trẻ em mồ côi, mà mẹ đã nuôi dạy, từ hơn nửa thế kỷ nay, nhiều khôn kể xiết.
Dù chỉ là một nữ tu Công Giáo, sống theo tôn chỉ phục vụ người nghèo, nhưng khi lìa trần, chính phủ Ấn Độ đã phải quyết định cả nước để tang mẹ trong 2 ngày.
Tại Ấn Độ này, nếu biết rằng: Số người theo đạo công giáo chỉ chiếm 2,5% dân số. Và tại đất nước này, các tôn giáo không hẳn lúc nào cũng chung sống hòa bình, thì có thể hiểu: quyết định này chứng tỏ lòng nhân ái bao la của mẹ Têrêxa đã được mọi tôn giáo cảm kích.
Ngay cả vị chủ tế đền thờ Hồi Giáo ở thủ đô Delhi cũng phải thốt lên: Mẹ Têrêxa là một vị thánh.
Suốt cuộc đời tận tụy làm việc bác ái, mẹ Têrêxa đã được ban tặng rất nhiều giải thưởng:
- Năm 1979 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã trao tặng giải thưởng hòa bình cho mẹ.
- Rồi cũng năm đó, Liên Hiệp Quốc cũng trao giải thưởng Nobel Hòa Bình.
- Rồi năm 1980 tổng thống Mỹ Bill Clinton trao tặng mẹ danh hiệu công dân nước Mỹ.
- Rồi quốc hội Mỹ công nhận là công dân ưu tú nước Mỹ.
- Rồi chính phủ Anh tặng mẹ bằng vinh dự quốc gia…
Tất cả những giải thưởng này, kể cả chiếc xe hơi sang trọng hiệu Limousine, do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tặng mẹ năm 1964, khi Ngài sang thăm Ấn Độ, mẹ đã đem đổi tất cả thành phương tiện, để lo cho người nghèo và các bệnh nhân phong cùi.
Không chỉ ở các nước Thế Giới Thứ 3, ở các nước tư bản, mà hoạt động nhân đạo của mẹ còn lan rộng sang các nước Cộng Sản, như Liên Xô,Trung Quốc, và Cuba.
Năm 1986, mẹ đã thành lập một viện dưỡng lão ở Matxcơva.
Và năm 1988, chính mẹ là người đầu tiên, có mặt sau trận động đất dữ dội ở Cộng Hòa Armenia.
*****
Tối ngày mùng 5 tháng 9 năm 1997 Calcutta nhận được một bức điện của tổng thống Pháp Jacques Chirac, với lời lẽ đau buồn nhưng sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít tình thương hơn, ít lòng trắc ẩn hơn, ít ánh sáng hơn, trên thế giới này”.
Rồi tổng thống Hàn Quốc Kim Young-Sam cũng nói: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cao cả của mẹ Têrêxa, suốt một đời hy sinh cho những người bần cùng thế giới”.
Cố thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi cũng nói: “Khi gặp mẹ Têrêxa, người ta hoàn toàn cảm thấy mình bé nhỏ, vì cảm nhận được sức mạnh của lòng nhân ái nơi mẹ”.
Qua những chứng từ trên đây cho chúng ta thấy: Mẹ Têrêxa, chính là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu trong thời đại hôm nay.
Cứ nhìn dòng người liên tục nối đuôi nhau dài 3 cây số, để kính viếng linh cữu của Mẹ, người nghèo khổ đứng xếp hàng cạnh những người trung lưu và những kẻ quyền quý, người Công giáo lặng lẽ nối đuôi sau người Hindu, người Hồi Giáo đứng xếp hàng cạnh người Ấn Giáo, ta mới thấy: Vị thánh của người cùng khổ đã có một sự hấp dẫn lạ thường.
Có câu ngạn ngữ nói rằng:
“Bạn hãy sống làm sao, cho khi bạn cất tiếng khóc chào đời, thì mọi người cùng cười, Và khi bạn xuôi tay nhắm mắt, thì mọi người cũng nhỏ lệ tiếc thương”.
Mẹ Têrêxa đã làm được điều đó trong cuộc đời mình. Và điều quan trọng, mà mỗi người chúng ta phải làm, là tiếp tục và nhân rộng công trình của lòng nhân ái, mà mẹ đã thực hiện trong suốt cuộc đời.
Đó cũng là gợi ý của Đức Hồng Y Angelo Sodano, đại diện Đức Giáo Hoàng, đã đề nghị trong bài giảng lễ tang của mẹ Têrêxa ngày 13 tháng 9 năm 1997.
Lạy Chúa, Chúa đã ban tặng cho thời đại chúng con có mẹ Têrêxa Calcutta, một người phụ nữ vĩ đại của hành tinh, một hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu, một thánh nữ giữa đời thường.
Trong trong tâm tình tạ ơn, chúng con xin cùng với mẹ Têrêxa, thành khẩn cầu xin cùng Chúa:
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin, để chúng con nhận ra Chúa hôm nay, và hằng ngày nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người đang gặp tai ương, thử thách, những người đáng thương, những kẻ đói, không chỉ vì thiếu ăn, nhưng vì thiếu lời Chúa, những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, thiếu sự thật, thiếu công bằng và thiếu tình thương, những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết yêu thương. Những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà con làm cho người bé nhỏ nhất trong anh em, là con đã làm cho chính Ta” (Matthêu 25,40).Amen.
Ha-ling-đong, là cháu của một người di dân gốc Đức, một đứa trẻ bụi đời, bỏ học, lang thang ngoài đường phố, gia nhập vào các băng đảng, và không mấy chốc, đã trở thành một tay cờ bạc có tầm cỡ.
Hai lần ông bị vào tù, vì đánh nhau và vì bị tình nghi là giết hại cảnh sát.
Một lần ông bỏ vợ, để sống với một cô gái bán bar.
Thế mà, Ha-ling-đong nay đã trở thành một ông thị trưởng nổi tiếng chống buôn lậu, chống cờ bạc và chống những tệ nạn xã hội khác.
Ông còn dành một quỹ đen, để cứu giúp tất cả những người túng thiếu tìm đến với ông. Tên tuổi của ông được nhắc đến, không chỉ vì những thành quả ông đạt được về mặt xã hội, nhưng vì cuộc đời của ông, đã trở thành một biểu hiện của sự “Canh Tân Đáng Phục”.
Ngày nay, nhìn lại quá khứ, ông thị trưởng Ha-ling-đong tuyên bố như sau:
“Một cách nào, đó tuổi trẻ hoang dại, đã giúp tôi nổi tiếng như ngày hôm nay”.
Không có gì là vĩnh viễn mất mát.
Đó, chính là bài học được rút ra từ cuộc sống của ông thị trưởng một thành phố.
Ông ta cũng nghe được trong từng trang của Kinh Thánh.
Sau một lần vấp ngã, là một lần chỗi dậy và bắt đầu lại.
Và xem chừng, thất bại càng nặng nề, thì thành công lại càng nhiều hơn.
Một ông Giuse bị bán sang Ai Cập làm nô lệ, để rồi trở thành tể tướng. Và nhờ đó, ông đã cứu thoát được cả gia đình mình và cả dân tộc mình.
Một vua Đavít phạm tội ngoại tình, để rồi trở thành một vị đại vương thánh thiện.
Sứ điệp của niềm hy vọng lại càng rõ nét hơn, qua cách cư xử và giáo huấn của Chúa Giêsu:
- Từ ông Levi, người thu thuế,
- đến Mađalêna, cô gái điếm,
- đến Phêrô, kẻ chối Thầy.
Không người nào đã gặp gỡ Chúa Giêsu, mà không ra về, với một niềm hy vọng tràn trề.
Và không một cuộc ra về nào, mà không có những khởi đầu cho cuộc đổi mới.
Nhưng, có ý nghĩa hơn cả, phải nói là cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, giữa Chúa Giêsu và người trộm lành. Ngài Giêsu đã long trọng tuyên bố:
“Ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta” (Luca 23,43).
Một giây phút ngắn ngủi, để làm lại cuộc đời, để trở thành một vị thánh, không có gì là vĩnh viễn mất mát, cũng không bao giờ quá muộn, để bắt đầu làm lại.
Tin vào Chúa Giêsu, là luôn biết nhìn vào mọi biến cố, lúc may mắn thịnh vượng, cũng như khi gặp rủi ro thất bại. Tất cả đều là hồng ân Chúa ban.
Tin vào Chúa Giêsu, là chấp nhận để Ngài thực hiện những phép lạ đổi mới trong cuộc đời ta.
Lạy Chúa, trong tình thương bao la của Ngài, không một sự phản bội nào, không một sự vấp ngã nào, mà lại không được tha thứ.
Xin cho con, đừng bao giờ thất vọng đối với bản thân của mình, đừng bao giờ thất vọng đối với tha nhân, và đừng bao giờ thất vọng đối với tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
Trước cổng một nghĩa trang nọ, người ta thấy có một chiếc xe Rolls Royce rất sang trọng dừng lại.
Người tài xế tiến lại người giữ cổng và nói:
Xin anh giúp một tay cho người đàn bà này xuống xe, vì bà ta yếu quá, không đi được nữa.
Vừa ra khỏi xe, người đàn bà tự giới thiệu, nói với người giữ cổng nghĩa trang:
“Từ 2 năm qua, mỗi tuần, tôi là người đã gởi đến cho anh 5 đôla, để mua hoa và đặt trên mộ con trai của tôi. Nhưng nay, thì các bác sĩ bảo rằng: Tôi không còn sống lâu được nữa, nên tôi đến đây, để chào từ biệt và cám ơn anh, vì đã mua hoa dùm cho tôi”.
Thế nhưng, người đàn bà không ngờ rằng, người giữ cổng nghĩa trang trả lời như sau:
Thưa Bà, tôi lấy làm tiếc rằng, bà đã làm công việc ấy.
Người đàn bà cảm thấy như bị ai vả vào mặt mình. Nhưng bà vẫn đủ bình tĩnh để hỏi lại người thanh niên:
Tại sao, anh lại lấy làm tiếc về một cử chỉ đẹp như thế ?
Người thanh niên giải thích:
Thưa bà, tôi lấy làm tiếc, vì những người chết như con trai của bà chẳng hạn, chẳng bao giờ còn thấy được một cánh hoa nào nữa.
Bị chạm tự ái, người đàn bà liền lên giọng:
Anh có biết, là anh đã làm tổn thương một người như tôi không ?
Người thanh niên bình tĩnh trả lời:
Thưa bà, tôi xin lỗi. Tôi chỉ muốn nói với bà rằng: Có rất nhiều người khác đang cần đến những cánh hoa của bà hơn. Tôi là một hội viên của một tổ chức, chuyên đi thăm những người già lão, thăm các bệnh nhân, thăm các viện dưỡng lão, các bệnh viện và nhiều người đang sống cô độc. Chính họ, mới là những người đang cần đến những cánh hoa của chúng ta. Họ có thể nhìn thấy và ngửi được những cánh hoa ấy.
Nghe thế, người đàn bà ngồi bất động trong chiếc xe sang trọng một lúc, rồi ra hiệu cho tài xế mở máy.
Vài tháng sau, người đàn bà trở lại nghĩa trang. Nhưng lần này, không cần ai giúp đỡ nữa. Bà tự động bước xuống xe, với một dáng vẻ vui tươi, nhanh nhẹn hơn. Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, chính bà là người lái xe.
Với một nụ cười rạng rỡ, bà nói với người thanh niên giữ cổng như sau:
Chú đã có lý: Tôi đã mang hoa đến cho những người già lão, bệnh tật. Quả thật, điều đó làm cho họ được hạnh phúc. Nhưng người được hạnh phúc nhất, chính là tôi đây. Các bác sĩ đã không biết được cái bí quyết tại sao tôi được khỏe mạnh và được hạnh phúc như hôm nay. Nhưng, tôi đã khám phá ra cái bí quyết ấy. Tôi đã tìm ra lẽ sống.
*****
Giúp đỡ người khác, chính là giúp đỡ chính mình. Nó cũng là khuôn vàng trước ngọc của Chúa Giêsu:
“Cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh” (Công Vụ Tông Đồ 20,35).
Bởi vì, cho người, tức là trao tặng cho chính mình.
Một ngạn ngữ Anh cũng nói một cách tương tự:
Điều tôi tiêu đi thì tôi có.
Điều tôi giữ lại thì tôi mất.
Điều cho đi thì tôi được.
Đó là luận lý của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban:
- Có biết yêu thương, thì con người mới thực sự triển nở và tìm gặp lại chính mình.
- Có biết yêu thương, thì con người mới tìm lại được vui sống.
- Có biết yêu thương, thì con người mới tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con hằng khao khát hạnh phúc đích thực.
Xin cho chúng con luôn luôn xác tín rằng: Chúng con chỉ cảm nhận được hạnh phúc ấy, trong những cử chỉ san sẻ và trao ban của chúng con mà thôi. Amen.
Bên Ấn Độ có một ông vua muốn thu gom sữa trong dân chúng, ông đã tổ chức một buổi Lễ Cầu An, mà của lễ ông dâng cho Thần Linh là sữa bò. Vì nguồn kinh tế chính tại địa phương này là sản xuất rất nhiều sữa bò.
Ông đã ra lệnh cho xây dựng nhiều bồn chứa thật lớn và buộc người dân phải làm nghĩa vụ đóng góp phần của mình làm lễ vật dâng cho Thần Linh để cầu cho Quốc Thái Dân An.
Lúc đầu, nhiều người hào hứng, để góp phần của mình. Nhưng dần dần, có người lại nghĩ ra: Bồn thì to, dân thì đông, nếu mình đánh lừa bằng việc đổ nước vào đó thay cho sữa, thì ai mà biết.
Thế là, từ một vài người, rồi lan rộng ra cái trò đánh lửa này.
Đến lúc gần đến giờ lễ nghi, nhà vua ra các bồn chứa, ông mới khám phá ra: Hầu như chỉ là nước lã. Vua và các quan cận thần tái mặt.
*****
Nhà vua sẽ xử trí ra sao với dân này: Vua phẫn nộ để trừng phạt hay chăng ? Hay là nhà vua phải kiểm điểm lại cái cách cai trị của mình.
Dù dù sao, thì cũng đã cho thấy: Người dân chỉ làm bổn phận cho xong hình thức, chứ họ không mến, họ không tùng phục hết lòng.
Câu chuyện này nhắc lại cho chúng ta câu chuyệncủa 2 vợ chồng Khanania và Xaphira trong sách Công Vụ Tông đồ. trong đoạn đoạn 5 từ câu 1 đến 11:
Hai vợ chồng đã bán một thửa đất, rồi giấu đi một phần, đem lại chỉ một phần đặt dưới chân các tông đồ.
Sau khi nghe thánh Phêrô quở trách, hai vợ chồng đều ngã lăn ra và tắt thở.
Người kitô hữu không thể dối lòng mình. Chúng ta tin là Chúa xem thấy, nhà thấu suốt mọi sự. Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi. Có thể giấu con mắt phàm trần, nhưng không qua mặt được Thiên Chúa đâu.
Đồng thời, Chúa cũng thấu rõ mọi hy sinh của ta chịu vì Danh Chúa và Ngài sẽ thưởng công cho chúng ta, còn hơn lòng chúng ta mong đợi.
Lạy Chúa, Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của chúng con.
- Xin cho chúng con luôn biết chân thành hiến dâng.
- Xin ấp ủ chúng con trong mối tình muôn thuở của Chúa.
- Xin Chúa đừng chấp tính hời hợt, nhẹ dạ của chúng con.
Nếu vì yếu đuối, chúng con xa cách Chúa, xin Chúa đừng bao giờ từ bỏ chúng con. Xin Chúa luôn là vua cai trị lòng chúng con. Amen.
Có một chàng trai gặp được một cô con gái trong bữa tiệc. Cô rất xinh đẹp. Cô rất duyên dáng. Cô rất quyến rũ.
Trong bữa tiệc tối em ấy, có rất nhiều người để ý đến cô, trong đó, phải kể đến một anh chàng trai rất bình dị, tầm thường, không có gì đặc biệt, để người ta quan tâm, huống chi là cô gái đẹp đó.
Thế nhưng, vào cuối bữa tiệc, chàng trai đó lại mạnh dạn mời cô con gái sang bàn bên cạnh uống cà phê với mình.
Sau một lúc do dự, cô ta đồng ý, vì lời mời có vẻ khẩn khoản tha thiết và cũng vì lịch sự nữa.
Họ ngồi ở một bàn nhỏ, trong góc phòng tiệc. Nhưng khi đối mặt với người đẹp, bỗng chàng trai lúng túng vụng về ra mặt. Anh không tìm được một lời nào để bắt đầu câu chuyện.
Bỗng anh gọi người phục vụ: Xin anh cho tôi một ít muối, để tôi cho vào cà phê.
Mọi người xung quanh đều hết sức ngạc nhiên và chăm chăm nhìn vào chàng trai. Anh đỏ mặt, nhưng vẫn bình thản múc một muỗng muối cho vào ly cà phê và uống.
Cô gái tò mò hỏi: Đây là một sở thích của anh phải không ? Đúng là lần đầu tiên em gặp.
Chàng trai trả lời: Khi tôi cần nhỏ, gia đình tôi sống ở gần biển. Khi chơi tắm biển, tôi rất thích vị mặn của nước biển. Cho nên bây giờ, khi đi đâu, mỗi khi uống cà phê, thay vì đường, tôi lại thích cho một ít muối vào cà phê, để tìm lại cảm giác ở gần biển, và cũng để nhớ lại thời thơ ấu của mình. Đồng thời, cũng nhớ về quê hương vùng biển của mình.
Nghe nói thế, cô con gái đã thực sự cảm động. Cô nghĩ: Nếu một người đàn ông, năng nhớ đến quê hương của mình, biết yêu mến nơi mình sinh ra, thì chắc chắn sẽ yêu gia đình và sẽ có trách nhiệm đối với gia đình của mình.
Bắt đầu từ đó, cô con gái tự nhiên hơn, cởi mở hơn, và bắt đầu kể về đời tư của mình, về nơi mình sinh ra. Và từ đó, câu chuyện giữa hai người đã trở nên thân tình hơn, tự nhiên hơn.
Trước khi chia tay, họ không quên hẹn nhau lần gặp tiếp theo.
Ngày qua ngày, người con gái đã cảm nhận thấy chàng trai quả là một người lý tưởng. Bởi anh là một con người rất tốt bụng. Bởi anh biết quan tâm đến người khác.
Câu chuyện đến đây, chắc bạn đã thấy có hậu: Công chúa đã tìm được hoàng tử, và họ đã cưới nhau. Họ đã sống bên nhau rất hạnh phúc. Cứ mỗi buổi sáng cô con gái đều pha cho chàng con trai, nay đã là chồng của cô, một ly cà phê muối. Và chàng con trai cũng không quên cảm ơn và khen vợ, vì đã pha cho một ly cà phê ngon đến thế.
Rồi 50 năm sau ngày cưới, người chồng lâm trọng bệnh và qua đời. Người vợ mới có dịp thu gọn lại tất cả những gì là riêng tư của chồng. Bà mới khám phá thấy một lá thơ, được cất giữ từ lâu trong tủ, ở một nơi thật kín đáo.
Lời lẽ của lá thơ viết như sau:
“Mến gởi người vợ yêu quý của anh, Xin em hãy tha thứ cho lời nói dối suốt cả cuộc đời của anh, đó là lời nói dối duy nhất, về ly cà phê muối.
Chắc em còn nhớ: Lần đầu tiên anh mời em uống cà phê với anh trong một bữa tiệc. Lúc đó, vì quá bối rối lo lắng trước mặt em, nên khi anh định xin người phục vụ cho anh một ít đường, thì anh lại nói: Cho xin một ít muối.
Vì quá lúng túng, anh không thể thay đổi được lời nói. Cho nên, anh đành phải tiếp tục lấy muối cho vào ly cà phê, rồi bịa ra câu chuyện về tuổi thơ ở gần biển, để có dịp và để có đề tài nói chuyện với em, để gần gũi em.
Rất nhiều lần, anh đã định nói thật với em, nhưng rồi anh sợ: Em không tha thứ cho anh.
Và anh đã tự hứa với lòng mình rằng: Sẽ không bao giờ nói dối một lần nào nữa, để chuộc lại lời nói dối ban đầu.
Bây giờ, thì anh đã đi thật xa rồi, nên anh nói sự thật này với em: Anh không hề thích cà phê muối. Nhưng trong suốt 50 năm qua, tính từ ngày cưới em, cứ mỗi buổi sáng, được uống ly cà phê muối do em pha, anh không hề có một chút ân hận hay hối tiếc nào.
Và nếu hôm nay, anh có thể làm lại từ đầu, thì anh cũng sẽ tiếp tục làm như thế thôi, để có thể có được em, và rồi, anh sẽ chấp nhận tiếp tục uống cà phê muối suốt đời bên cạnh em”.
Khi người vợ đọc xong lá thư, cũng là khi lá thư trong tay của bà ướt đẫm nước mắt. Nếu bạn hỏi bà vợ: Bà ơi, vị cà phê muối nó như thế nào vậy bà ?
Chắc chắn bà sẽ trả lời: Ngọt lắm con ơi ơi.
Lạy Chúa, vì yêu thương nhau, mà người ta đã chấp nhận uống cà phê muối suốt đời.
Xin cho chúng con, vì yêu Chúa, yêu người, mà chấp nhận những hy sinh cay đắng trong gia đình, trong cuộc đời, trong cuộc sống. Luôn đặt tình yêu, yêu Chúa, yêu người, lên trên hết tất cả những buồn lòng, những trái ý, những nghịch cảnh, để hạnh phúc của gia đình con, của xã hội con đang sống, luôn được xây dựng và luôn được vun đắp, ngày càng bền chặc, ngày càng phát triển thêm mãi. Amen.
Đức Giám mục Leonardo Boff thuật lại một câu chuyện thương tâm như sau:
Một hôm, có một người đàn bà, mà tôi quen biết từ nhiều năm nay, gọi tôi ra một nơi, và nói nhỏ:
Kính thưa, con muốn tiết lộ cho Đức Cha một bí mật, xin Đức Cha hãy đến nhà con.
Khi đến nơi, tôi được mời vào phòng ngủ của đứa con trai của bà. Đó chính là một quái thai: Đầu đứa nhỏ to như đầu một người lớn, nhưng thân mình, lại nhỏ như một đứa bé. Đôi mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà. Lưỡi nó thò ta thụt vào như lưỡi rắn. Tôi rùng mình thốt lên: Chúa ơi !!
Bà ta nói: Thưa Đức Cha, từ 8 năm nay, con săn sóc đứa con này. Nó chỉ biết có một mình con thôi. Không ai biết có sự hiện diện của nó ở trên trái đất này. Con rất hài lòng về nó.
Rồi bà ta kêu lớn tiếng: Chúa là Đấng nhân lành, Ngài là cha. Ngài yêu thương hết mọi người.
Bà nhìn lên trời, giọng rất bình thản: Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Tôi rời khỏi nhà bà ta, mà không nói được một lời nào. Đầu tôi cúi xuống đất, kinh hoàng, vì đứa trẻ quái thai đó.
Và nhất là ngỡ ngàng, vì thái độ đức tin của bà, vì thái độ rất can đảm của bà.
Bất chợt, câu kinh thánh xuất hiện trong trí óc của tôi, lời Chúa Giêsu nói với người đàn bà trong Phúc Âm, có đứa con gái bị quỷ ám:
“Lòng tin của bà mạnh thật” (Matthêu 15, 28).
Tại sao có đau khổ, đó là một vấn nạn của mọi người ở mọi thời đại, mà vẫn chưa có câu giải đáp.
Đau khổ sẽ mãi mãi là một mầu nhiệm trong cuộc sống của nhân loại.
Đức Phật cũng dạy rằng: Đời là bể khổ. Và con người từ lúc chào đời, cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, đều mang lấy những khổ đau: “Sinh, lão bệnh, tử”.
Ngay cả Chúa Giêsu, khi chấp nhận thân phận con người, Ngài cũng phải mang lấy khổ đau, như có lần Ngài đã nói với hai môn đệ trên đường Em-maus:
“Đức Kitô lại chẳng phải chịu đau khổ như thế, rồi mới vào được trong Vinh Quang của Người đó sao ?”(Marcô 8,31b).
Vì thế, đứng trước mọi khổ, chúng ta chỉ có thể tin tưởng vào Chúa Cha, như Chúa Giêsu đã làm:
“Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xinđừng làm theo ý con, mà chỉ xin theo ý Cha mà thôi”.(Matthêu 26,39).
Một ngày nào đó, rồi chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của việc Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta thế nào.
Nhưng hôm nay, trong khi chờ đợi, chúng ta phải thực hiện một hành vi khó nhất trong các hành vi, đó là đức tin: Tin vào Thiên Chúa. Tin những gì Thiên Chúa đang sắp xếp rất khó hiểu, trong cuộc đời của chúng ta. Đó là chúng ta phải chứng minh rằng: Dù có phải chết, con cũng vẫn tin rằng: Chúa vẫn yêu thương con.
Nói một cách khác: Khi chúng ta gặp khổ đau, khi chúng ta gặp thử thách, khi chúng ta phải vác thập giá, chính là lúc Chúa nói với ta:
Cha đang cần đến con.
Vâng, chính Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng đã muốn mỗi người chúng ta cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Chúa muốn chúng ta là những dụng cụ hữu ích, để cho chương trình cứu độ của Chúa nơi nhân loại được thực hiện.
Và tất nhiên, là ý của Chúa nằm trong chương trình của Chúa, cho nên luôn luôn vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, luôn luôn vượt quá những cái nhìn hẹp hòi của chúng ta.
Người mẹ trong câu chuyện trên đây sinh ra một đứa con quái thai, chắc chắn là bà đau khổ vô cùng.
Nhưng điều làm cho Đức Giám Mục phải kinh ngạc, là bà vẫn luôn can đảm nuôi đứa bé và còn luôn xác tin rằng: Chúa vẫn đang yêu thương bà.
Dầu sao, đau khổ vẫn luôn là một thử thách đối với mỗi người chúng ta.
Qua nỗi khổ nhục và cái chết đau thương trên thập giá, Chúa Giêsu đã tuôn trào một sức mạnh của tình yêu, một tình yêu vô cùng lớn lao, một tình yêu dâng hiến cho Chúa Cha, một tình yêu trao ban cho nhân loại, và cuối cùng tình yêu đó đã biến thành cuộc Phục Sinh Khải Hoàn, và đã trở nên ơn cứu độ cho mọi người.
Vì thế, những đau khổ mà chúng ta đang gánh chịu cùng với Đức Kitô, chắc chắn sẽ làm trổ sinh những cánh hoa yêu thương rực rỡ, muôn màu, trong vườn hoa muôn sắc của Thiên Đàng tình yêu.
Như vậy, đau khổ chính là niềm hạnh phúc hay sao ?
Thưa không, không bao giờ đau khổ là hạnh phúc.
Chính vì thế, mà Thiên Chúa đã không dựng nên đau khổ. Mà đau khổ, chỉ là hậu quả của tội lỗi. Nên chúng ta phải hợp lực, để chống lại đau khổ ở khắp mọi nơi và ở mọi thời đại,
Nhưng một khi không thể thắng được khổ đau, thì chúng ta cần phải lợi dụng nó, như một dụng cụ, để thanh tẩy tội lỗi, để cùng với Chúa Kitô, mà làm cho chúng ta được lớn lên trong tình yêu cứu thế, như thánh Phaolô đã nói:
“Những thử thách Đức Kitô sẽ còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân của tôi, cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể người là Hội Thánh” (Côlôsê 1,24).
Lạy Chúa, bao lâu còn sống trên trần gian này, thì bấy lâu đau khổ vẫn còn bao phủ lấy thân phận con người của chúng con.
Xin giúp cho chúng con luôn vững tin vào Chúa, khi chúng con gặp thử thách, khi chúng con gặp khổ đau.
Xin dạy cho chúng con luôn biết kết hợp những đau khổ chúng con chịu, với mầu nhiệm tử nạn của Chúa, trong tinh thần phó thác, tin yêu.
Nhất là, xin cho chúng con biết cố gắng mà bước ra khỏi chính mình, để còn biết giúp xoa dịu những đau khổ của anh chị em sống bên cạnh chúng con.
Xin cho chúng con đừng bao giờ giải quyết những vấn đề đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, bằng cách chạy theo những mê tín dị đoan, hay là rước những thần linh nào khác về nhà của con, dù là thần tài, dù là thổ địa.
Xin Chúa luôn hướng dẫn từng bước đi của chúng con, và của gia đình chúng con theo thánh ý Chúa. Amen.
Có một cô gái hỏi người yêu của mình: Này anh, em xin hỏi, tại sao anh yêu em ?
Chàng trai âu yếm hỏi lại: Tại sao em lại hỏi thế ? Anh yêu em, là yêu, không cần có lý do.
Cô gái nũng niệu phản ứng: Không có lý do, tức là anh không có yêu em.
Chàng trai lúng túng trả lời: Em không thể suy diễn như vậy được.
Cô con gái được thế, nên khẳng định thêm: Nhưng mà bạn trai của bạn em, luôn nói cho cô ấy biết, lý do mà anh ta yêu cô ấy.
Chàng trai liền chịu thua, bèn đưa ra hàng loạt lý do, khiến cho anh đã yêu cô ta. Nào là:
- Anh yêu em, vì em xinh đẹp.
- Anh yêu em, vì em giỏi giang.
- Anh yêu em, vì em nhanh nhẹn.
- Anh yêu em, vì nụ cười của em.
- Anh yêu em, vì em lạc quan.
- Anh yêu em, vì em quan tâm đến người khác.
Cô con gái rạng rỡ ra mặt, tỏ vẻ hài lòng.
Thế nhưng, chỉ vài tuần sau, cô gái gặp một tai nạn khủng khiếp. Nhưng thật may, cô ta vẫn còn sống.
Tuy nhiên, từ cái tai nạn ấy, cô trở nên cáu kỉnh, vì cảm thấy mình trở nên vô dụng.
Thế rồi, ngày sau khi bình phục, cô gái nhận được một lá thư của người yêu của mình như sau:
Chào thăm em yêu:
- Anh đã yêu em, vì em xinh đẹp. Thế thì, những vết sẹo hiện nay trên khuôn mặt của em, làm cho anh không thể yêu em được nữa.
- Anh đã yêu em, vì em giỏi giang. Nhưng bây giờ, em có làm gì được đâu. Vậy thì, anh không thể yêu em được nữa.
- Anh đã yêu em, vì em nhanh nhẹn. Nhưng thực tế, em đang ngồi xe lăn. Đây là lý do làm cho anh không thể yêu em được nữa.
- Anh đã yêu em, vì nụ cười của em. Nhưng cả tháng nay rồi, mỗi lần thăm em, anh đều không thấy em nở một nụ cười. Vậy thì, anh có nên yêu em nữa không ?
- Anh đã yêu em, vì em lạc quan. Nhưng bây giờ, anh không thể yêu em được nữa, vì lúc nào, em cũng nhăn nhó, lúc nào em cũng cằn nhằn, em cũng than vãn.
- Rồi anh đã yêu em, vì em quan tâm đến người khác. Nhưng giờ đây, mọi người lại phải quan tâm đến em, quan tâm quá nhiều. Cho nên, anh không thể yêu em được nữa.
Đó, như em đã thấy: Hiện nay, em chẳng có gì và cũng chẳng còn gì, để anh có thể yêu em được nữa.
Nhưng anh vẫn tiếp tục yêu em, em có cần hỏi một lý do nào nữa không em yêu.
Cô con gái áp lá thư vào ngực và khóc nức nở trong niềm vui sướng tột đỉnh. Chắc chắn bây giờ, cô không còn cần muốn biết thêm một lý do nào nữa.
*****
Bạn thân mến, trong đời sống vợ chồng, nhiều khi chúng ta rất lý sự, nhiều khi chúng ta hạch hỏi nhau đủ điều, đủ thứ, đủ chuyện. Chúng ta muốn biết đủ mọi thứ lý do. Chúng ta kết án nhau với đủ thứ tội, kể cả những tội chưa phạm.
Làm như vậy,
- Chúng ta có quá nhỏ nhen lắm chăng?
- Chúng ta có quá ít kỉ lắm không ?
- Chúng ta có quá hẹp hòi lắm chăng ?
- Làm như vậy có quá nông cạn lắm không ?
*****
Rồi mỗi khi nhìn lên thánh giá Chúa, có bao giờ chúng ta lại hỏi Chúa: Tại sao Chúa yêu con. Con có cái gì để Chúa yêu chăng ?
Tuy chúng ta hỏi Chúa, nhưng lòng ta đã có câu trả lời: Bởi chúng ta biết rõ mình hơn ai hết, là chúng ta có gì đâu, chúng ta có đáng là gì đâu, để Chúa quan tâm, để Chúa chiếu cố đến ta, để Chúa yêu thương ta, yêu đến nỗi Chúa dám chết vì ta, chết một cách nhục nhã, đau thương trên thập giá.
Lạy Chúa, xin cho con biết quảng đại hơn trong tình yêu: Yêu Chúa, yêu gia đình của con, yêu tất cả mọi người, như Chúa đã yêu. Amen.
Lời Chúa trong thơ của thánh Phaolô tông đồ gửi giáo dân Galata đoạn 5 câu 16:
“Anh chị em thân mến,
tôi xin nhắc lại cho anh chị em nhớ, là hãy liệu mà sống theo Thần Khí của Thiên Chúa, nghĩa là anh chị em đừng có mãi mê chạy theo những đam mê hư đốn của xác thịt. Bởi xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí của Thiên Chúa. Còn Thần Khí của Thiên Chúa thì lại ước muốn những điều ngược lại với tính xác thịt. Đôi bên kình địch đối nghịch nhau, khiến cho anh chị em không làm được những điều anh chị em muốn.
Những hậu quả tai hại do xác thịt gây ra thì ai trong chúng ta cũng đã rõ, đó là dâm ô, lăng lòan, ô uế, phóng túng, thờ ngẫu tượng, xem đồng bóng, tướng số, hận thù, gây bất hòa, ghen tương, hay nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ghanh tỵ, thích say sưa chè chén và thích làm những điều khác tương tựa như vậy.
Tôi Phaolô, xin báo trước cho anh chị em biết: Những kẻ làm những điều đó, sẽ không được thừa hưởng Nước Trời đâu, sẽ không được vào Nước Thiên Chúa đâu.
Còn hoa quả của Thần Khí Thiên Chúa, thì ai trong chúng ta cũng dễ nhận ra: Đó là bác ái, là yêu thương, là vui tươi, là bình an, là hòa thuận, là chịu đựng lẫn nhau, là nhịn nhục, là nhân hậu, là từ tâm, là trung tín, là hiền hòa, là tiết độ.
Những ai muốn thuộc về Đức Kitô thì hãy biết chế ngự mọi dam mê bất chính đó, để hằng ngày lo tập từng bước, đóng đinh xác thịt của mình vào Thập Giá của Đức Kitô.
Hãy theo sự hướng dẫn của Thần Khí Chúa và tiến bước”.
*****
Nếu trong ngày, chúng ta có dành ra được đôi ba phút, để xét mình, để kiểm điểm đời sống, thì chúng ta sẽ thấy: Nhiều khi chúng ta sống, như không bao giờ chết. Sống chỉ biết có hưởng thụ, mà không nghĩ gì xa hơn. Sống mà chỉ biết có hôm nay, chứ không biết nghĩ gì đến ngày mai ra sao.
Chúng ta sống, như một người không có định hướng: Hôm nay sống để làm gì, mai kia chết rồi sẽ ra sao.
Chính vì cuộc sống không có lý tưởng, chính vì cuộc sống không có định hướng, cho nên chúng ta dễ sinh ra chán chường, dễ thất vọng, dễ buông xuôi tất cả, bởi ta chọn cách sống không có ngày mai, bởi chúng ta chọn cách sống không có tương lai.
Lạy Chúa, Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của đời con, xin Chúa ban ơn, giúp chúng con biết sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen.
Hồi ấy, có một người Ba Tư tên là Ali Ha-phet, chủ một nông trại rộng lớn, cạnh bên sông Indus, có vườn trái cây, có đồng lúa xanh, có dòng suối mát chảy qua.
Hơn nữa, ông còn có tiền cho vay kiếm lời. Nói chung, là ông rất hài lòng với cuộc sống, vì ông rất giàu có.
Hay nói một cách khác: Ông rất giàu có, vì ông rất hài lòng với cuộc sống.
Thế nhưng rồi một hôm, có một nhà sư lão thành nổi tiếng là một bậc hiền sĩ, đến thăm Ali, đã kể cho ông nghe việc Thượng Đế tạo dựng trời đất vũ trụ.
Và nhà sư nói: Thế gian này, thoạt đầu, chỉ là một dải sương mù, tự nó xoáy thành vòng tròn. Thượng Đế gia tăng tốc độ, đến nỗi dải sương mù xoáy quá nhanh, và cuối cùng biến thành quả cầu lửa khổng lồ. Khối lửa đó xoáy tiếp trong vũ trụ, xuyên qua những dải sương mù khác, dần dần lớp ngoài cùng đọng lại thành nước mưa rơi xuống quả cầu lửa. Với thời gian, nước làm nguội và làm cứng lớp vỏ bên ngoài.
Khi đó, khối nóng bỏng bên trong cứ bị dồn nén và bắn ra ngoài, tạo thành núi đồi, tạo thành đồng bằng, tạo thành thung lũng. Chất nóng bắn ra đó, nếu nguội dần sẽ thành đồng, nhanh hơn nữa sẽ thành bạc, nhanh hơn nữa sẽ thành vàng, và sau cùng thành Kim Cương.
Vị sư kết luận: Kim cương là những hạt kết tinh của ánh sáng mặt trời.
Rồi ông nói với Ali: Nếu ông có được một viên kim cương bằng ngón tay cái thôi, ông có thể làm cho các con của ông trở thành vua khắp các nước thiên hạ, do sự giàu sang của ông từ viên kim cương đó.
Từ khi nghe nói có sự hiện hữu của viên kim cương và giá trị tuyệt vời của nó, Ali bắt đầu không ngủ được. Ông cảm thấy mình còn nghèo, nghèo vì không có viên kim cương. Tuy ông chưa mất gì cả, nhưng ông cảm thấy mình nghèo, vì ông không hài lòng với cái mình có.
Suốt đêm, ông cứ chập chờn, rồi giật mình lẫm bẩm: Tôi muốn có một viên kim cương.
Sáng sớm hôm sau, ông đánh thức nhà sư dậy, vì ông tin rằng: Các vị hiền sư đều rất thông minh.
Khi tỉnh táo Ali hỏi vị sư: Xin thầy cho tôi biết thêm, người ta có thể tìm được viên kim cương ở đâu ?
Vị sư bảo: Ông hãy đi tìm, rồi ông sẽ gặp.
Nhưng Ali hỏi thêm: Tôi biết phải đi tìm nó ở nơi đâu ?
Nhà sư trả lời: Nếu ông tìm gặp một con sông, con sông đó chảy qua bãi cát trắng, ở giữa những đỉnh núi cao, thì thế nào cũng có kim cương.
Ali nóng lòng: Tôi không tin là có những dòng sông như vậy.
Nhà sư trả lời: Chắc chắn là có, ông hãy đi tìm đi, rồi ông sẽ gặp.
Ali đồng ý đi tìm.
Ông bán hết tất cả tài sản, gom góp tiền bạc, phần lớn tài sản mang theo, để tìm kim cương.
Bắt đầu từ Ba Tư, ông ta đi đến Palestina, đoạn sang Âu Châu. Ông đi mãi, dần dần hết tiền, hết của, quần áo tả tơi, nghèo khổ, đói khát, mà vẫn chưa tìm được viên kim cương.
Sau cùng, ông đã đến bờ biển Barcelona ở Tây Ban Nha.
Bỗng một chiều nọ, khi ngắm nhìn những đợt sóng bạc đầu to lớn, đập vào ghềnh đá, sủi bọt trắng. Ông liên tưởng đến việc tìm kim cương của mình, cũng đã vỡ tan thành như thế.
Chán nản, thất vọng, ông gieo mình xuống biển và đã chết giữa những đợt sóng vô tư.
*****
Trong khi đó, ở tại quê nhà, người mua nông trại của ông, một hôm dẫn lạc đà đến bờ suối, ở trong vườn, để cho những con lạc đà đó uống nước. Bỗng ông nhìn thấy dưới làn suối trong mát, nơi mõm lạc đà đang uống nước, bỗng thấy có một vật gì phản chiếu ánh mặt trời lóng lánh, ông moi lên, thì ra đó là một tảng đá màu đen. Trong đó, có một vật gì giống như con mắt, phản chiếu ánh sáng mặt trời, đủ màu, đủ sắc. Thấy đẹp, ông đem về trưng ở trong nhà. Và rồi dần dần quen mắt, ông không còn quan tâm đến nó nữa.
Sau một thời gian, nhà sư trở lại thăm người chủ cũ ở nông trại. Vừa mở cửa ra thấy vật chiếu sáng giữa nhà, vị sư chạy lại và lên: Kim cương đây rồi. Ali đã về tới nhà phải không ?
Ông chủ mới trả lời: Ali không có trở về. Và thửa đất này tôi đã mua lại của Ali.
Còn cái vật này đâu phải là kim cương, đó chỉ là hòn đá tôi lượm được ở dòng suối, ở trong vườn nhà.
Vị sư bảo: Không, đây là viên kim cương. Tôi biết chắc, đây là viên kim cương. Tôi đã nhận ra nó khi vừa bước vào nhà.
Và họ chạy bổ ra vườn, tiếp tục đào bới, để hy vọng có thể tìm thấy được nhiều viên kim cương nữa.
Và đúng như thế, càng đào, họ lại càng thấy có rất nhiều viên kim cương, đủ loại, đủ cỡ. Có viên còn đẹp hơn, còn to hơn, còn quý hơn viên kim cương hiện ở trong nhà.
Bạn có biết không: Đây chính là mỏ kim cương có tên là Gold Kolda, một mỏ kim cương nổi tiếng nhất trong lịch sử nhân loại, mà sự khám phá ra nó, đơn giản chỉ có thế thôi.
Những viên kim cương quý giá nhất trên thế giới hiện nay, như viên Cô-hy-nô, như viên Ok-lét, hiện giữ tại Anh quốc, hoặc ở Nga, đều được tìm thấy ở mỏ này.
Đây chính là điều chẳng ai ngờ. Ali cứ nghĩ, là kim cương thì phải tìm ở tận phương trời xa xăm nào đó, nên ông đã bỏ hình bắt bóng. Trong khi cả một kho tàng quý báu, nằm ở ngay trong vườn nhà của ông, mà ông không hề hay biết.
Cho nên, nếu chúng ta muốn thành công ở nơi này, nơi nọ, thì trước hết, chúng ta hãy cố gắng mà thành công ở nơi mảnh đất quê hương của mình mà mình đang sống, với những phương tiện mà mình đang có.
Đừng bao giờ chúng ta có ý nghĩ:
- Phải chi tôi được như kẻ này, được như người kia.
- Phải chi tôi làm được điều này, phải chi tôi làm được điều khác.
- Phải chi tôi được ở nơi này hoặc ở nơi khác,
Chắc là tôi sẽ không đến nỗi như thế này. Chắc là tôi sẽ không đến nỗi tệ như thế này.
Coi chừng, những ước mơ như thế sẽ làm cho chúng ta quên là mình đang ở đâu, quên là mình cần phải làm gì, và nhất là coi chừng nó sẽ làm cho chúng ta lỡ mất nhiều cơ hội, lỡ mất nhiều dịp thuận lợi, những thuận lợi trong tầm tay, những cơ hội sẽ giúp chúng ta thành công.
Lạy Chúa, xin cho con biết làm sinh lợi những nén bạc, mà Chúa đã trao ban cho con, cho dù đó chỉ là những ném bạc nhỏ bé thôi.
Xin cho con luôn xác tín rằng: Người đứng núi này, mà trông núi nọ, sẽ là kẻ thiệt thòi nhất.
Xin cho con đừng quá vui, khi thành công. Cũng đừng quá buồn bã chán chường, khi gặp phải buồn lòng, trái ý, hay gặp những thất bại.
Xin cho con luôn biết sống an bình, vui tươi, hài lòng với chính cuộc sống hiện tại, mà Chúa đã an bài, đã sắp xếp cho cuộc đời con. Amen.
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3