*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Trong kho tàng kinh sách nhà Phật, có kể lại một giai thoại giữa Đức Phật và ác thần Mara như sau:
Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Ananda, đệ tử thân tín của Ngài đứng ngoài cửa. Thình lình Ananda thấy Mara xuất hiện, Ananda cứ tưởng rằng Mara bị lạc lối. Nhưng Mara tiến lại gần Ananda và yêu cầu cho được gặp Đức Phật, Ananda ngạc nhiên trước yêu cầu của Mara, nên hỏi lại:
- Ngươi còn đứng đây để làm gì ? Ngươi không nhớ là Đức Phật đã nhiều lần đánh bại ngươi dưới gốc cây bồ đề rồi sao ? Ngươi còn vác mặt tới đây làm gì ? Ngươi không biết xấu hổ sao ? Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi nữa đâu, ngươi là đồ ác, ngươi là kẻ thù của Ngài.
Nghe thế, Mara liền cười ngất: Sao, ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng có kẻ thù ư ?
Ananda cảm thấy bối rối, bởi anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng ngài có kẻ thù.
Đuối lý, Ananda liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara xin được gặp Ngài.
Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài đang bận, không thể tiếp hắn được. Nhưng trái với những dự đoán của Ananda, Đức Phật rất vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người bạn chí thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara.
Ananda hết sức thất vọng khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt tình bắt tay hắn. Ngài niềm nở: Chào ông bạn, ông bạn có khoẻ không ? Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?
Nhưng Mara im lặng, không trả lời. Đức Phật mời hắn xuống hầm và sai Ananda pha trà.
Ananda bực bội lắm. Anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà cho sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, thì ta thấy không vui chút nào, nhưng vì đó là lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối được.
Trong câu chuyện nghe lỏm giữa Đức Phật và Mara, Ananda nghe Mara thú nhận một cách chản nản như sau:
- Mọi việc diễn ra không tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải làm Mara, tôi muốn được làm một cái gì khác cơ.
Ngài biết đấy, đóng vai Mara không phải là chuyện dễ, có nói thì nói gian, nói dối, còn có làm thì làm điều dữ điều ác. Tôi mệt mỏi lắm rồi.
Nhưng điều làm cho tôi khó chịu hơn cả chính là các môn sinh của tôi.
Ngày ngày, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công bình xã hội, hoà bình, bình đẳng, giải phóng, bất bạo động. Tôi nghe quá nhàm tai rồi, tôi nghĩ đã đến lúc, tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ muốn làm một cái gì khác thôi.
Đức Phật lắng tai nghe với tất cả chú ý và cảm thông. Cuối cùng Ngài nói:
- Bộ anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao ? Anh không thấy những gì các môn sinh của tôi làm cho tôi sao ? Họ đặt trên miệng tôi những lời, mà tôi chưa bao giờ thốt ra. Họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng tôi và đặt tôi lên bàn thờ để thu nhặt cam chuối, tiền bạc cho riêng họ. Tôi và giáo huấn của tôi đã trở thành đối tượng để họ đổi chác.
Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào là làm Phật, tôi tin chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.
*****
Giai thoại trên cho thấy một nghịch lý trớ trêu, nhưng lại là một thực tế bi thảm:
Môn đệ của ác thần thì toàn nói chuyện nhân nghĩa, còn đệ tử của Đức Phật lại chỉ mãi mê nghĩ đến chuyện khấn vái và cúng tế để thu nhặt cam chuối và tiền bạc, thay vì chuyên tâm tự giác, thứ tha. Sự thiếu nhất quán và óc thực dụng này đã bóp méo và làm biến chất không biết bao nhiêu giáo huấn tôn giáo cao siêu ! ( x. Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, Dấn Thân, Houston, 2003, tr 203.)
Câu chuyện trên đây gợi lên hình ảnh hai môn đệ của Đức Giê-su, là Gio-an và Gia-cô-bê, đã nổi giận đùng đùng, đòi sai lửa từ trời xuống, thui rụi cả làng Sa-ma-ri-a, chỉ vì dân làng nảy không chịu tiếp đón Thầy của mình (Lc 9, 51-62).
Câu chuyện như hế này:
Thầy trò Đức Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem, mà lại đi ngang qua Sa-ma-ri-a, bởi đây là con đường ngắn nhất, lại dễ đi. Nhưng dân Sa-ma-ri-a thì lại thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét đã có từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man, đẫm máu.
Vì thế, những đoàn hành hương thường thận trọng hơn, họ chọn con đường đi xa hơn, đó là đi vòng qua bên kia sông Gióc-đan, tới tận Giê-ri-cô, băng qua sa mạc Giu-đê-a, trước khi đặt chân vào đền thờ Giê-ru-sa-lem.
Chúa Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, lại muốn đi lên Giê-ru-sa-lem, qua lối xứ Sa-ma-ri-a, nên Ngài đã sai sứ giả Gio-an và Gia-cô-bê đi trước, để chuẩn bị, với hy vọng dân làng sẽ đón tiếp Thầy trò.
Thế nhưng, khi hai môn đệ quay trở về, thì lòng họ đầy căm tức, và thốt lên những lời giận dữ:
“Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống thiêu hủy chúng nó không ? Phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất, mà tiên tri Ê-li-a ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ” ( 2 V 1, 10-12 ).
Chúa đã nặng lời khiển trách, rồi Thầy trò sang làng khác. Không kết án những người Sa-ma-ri-a, Chúa Giê-su đi tới một làng khác, thực hiện đúng như lời đã dạy:
“Nếu người ta từ chối, không tiếp đón và không nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con”.
Hai môn đệ “con cái của thiên lôi” quá đổi ngỡ ngàng về thái độ của Thầy trước sự “vô lễ” của dân Sa-ma-ri-a.
Họ càng kinh ngạc hơn, khi nghe Chúa tuyên bố:
“Anh em không biết: anh em thuộc loại thần khí nào, vì Con Người đến, không phải để hủy diệt, nhưng là đến để cứu sống”.
Trong não trạng của các môn đệ, cũng như nổi khát khao hàng thế kỷ của dân Do thái, là mong đợi có một Đấng Més-si-a đến giải phóng dân tộc của họ, phục hồi sức mạnh trần thế của It-ra-en.
Chúa Giê-su đã rất thận trọng, để không bao giờ đồng hoá hình ảnh một Đấng Més-si-a (Thiên sai) đã bị “chính trị hoá”.
Chúa đã khai mở một con đường cứu độ bằng yêu thương, khổ đau, hy sinh, nhẫn nhục...
Sự kiện Chúa chống lại cám dỗ của Sa-tan trong sa mạc, là khởi đầu một cuộc đấu tranh cam go và kiên trì, kéo dài trong suốt hành trình dương thế.
- Chúa đã quở trách Phê-rô, khi ông đóng vai trò sa-tan, đã có dụng tâm cám dỗ Chúa bỏ con đường cứu độ, theo chương trình của Thiên Chúa: ”Sa-tan, hãy xéo đi ! Vì tâm tư, ý nghĩ của ngươi không phải là của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 8, 32 ).
- Chúa đã bỏ trốn lên núi một mình khi dân chúng hè nhau, định tôn Ngài lên làm vua, sau phép lạ hoá bánh ra nhiều ( Ga 6, 5-15).
- Nhiều lần Chúa từ chối lời yêu cầu làm một dấu lạ nhãn tiền, vì người ta muốn thử tài Ngài ( Mt 12, 38; Mc 8, 11 ) hay để thoả mãn óc hiếu kỳ của người đời ( Lc 23, 8 ).
Chúa chẳng bao giờ chấp nhận việc dùng phép lạ, để lôi kéo, để hù doạ hay để trừng phạt dân chúng.
Ngay cả giây phút bi đát nhất, khi bị quân binh vây bắt ở vườn Giết-sê-ma-ni, môn đệ Phêrô đã vung kiếm, chém đứt tai tên đầy tớ vị thượng tế, Chúa liền truyền lệnh:
“Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao ? Người sẽ cấp ngay cho Thầy mười hai đạo binh thiên thần ! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được ?” ( Mt 26, 52-54 ).
Đạo của Chúa là đạo tình thương, bao dung, nhân ái.
Tin mừng cứu độ được gửi đến cho mọi người, đặc biệt là những người nghèo và tội lỗi.
Hình ảnh người Mục tử bỏ lại 99 con chiên, để vất vả ngược xuôi, đi tìm con chiên lạc và khi tìm được thì vui mừng vác chiên lên vai, mời mọi người chia sẻ niềm vui ( Lc 15, 4-7 ).
Con đường Chúa chọn là con đường yêu thương của vị Mục Tử nhân lành, dám hy sinh cuộc đời và tính mạng của mình cho đàn chiên ( Ga 10, 11 ).
Nơi Ngài, sứ vụ Mes-si-a và thân phận đau thương của Người Tôi Tớ Gia-vê đã quyện lẫn với nhau, như I-sai-a đã diễn tả trong “Bài ca về Người Tôi Tớ” ( Is 52, 13-53, 12 ).
Ngài là người Tôi tớ trung tín của Gia-vê ”bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, Ngài bị đánh phạt”( Is 53, 8 ).
“Ngài cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng” (Is 53,7) và tuyệt đối từ chối mọi hình thức sử dụng bạo lực.
Hình ảnh Đấng Thiên sai đau khổ nơi Đức Giê-su, diễn tả một cách thật hùng hồn, là điểm sáng của Ki-tô giáo:
Thiên Chúa của Đức Giê-su không hù doạ hay ép buộc một ai. Ngài mời gọi con người sám hối, nhưng luôn tôn trọng phẩm giá và tự do chọn lựa của họ. Ngài tình nguyện đồng hành với anh em nhân loại trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống trần thế, kể cả thất bại, khổ đau và cái chết ( x. sđd tr 217 ).
Chúa Giê-su không muốn sử dụng phép lạ, quyền uy, để thu phục nhân tâm. Chúa dùng tình thương để cảm hoá lòng người.
Chúa Giê-su không xây dựng giáo thuyết trên quyền bính trần thế, mà là ở sự từ bỏ và ở con đường thập giá.
Chúa đã chết để giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi.
Chúa đã phục sinh để đem lại cho nhân loại cuộc sống viên mãn, nâng con người lên địa vị cao quý, đó là con Thiên Chúa.
Bước theo Chúa Giê-su, người tín hữu tìm được lẽ sống, ý nghĩa và cùng đích cho cuộc đời mình. Đó là một cuộc sống tràn đầy yêu thương, bao dung, hướng đến trọn lành .
Lạy Chúa, là Đấng Nhân Lành và Bao Dung, xin giúp con bước từng theo chân Chúa, để con nên xứng đáng là môn đệ Chúa. Amen.
Vào năm 1980, có một tuần báo nọ bên Hoa Kỳ đã đăng tải một câu chuyện thật ngộ nghĩnh như sau:
Một người vừa mua hàng trong siêu thị xong, trở lại xe mình, thì ngạc nhiên nhìn thấy một tờ giấy để lại, nằm ngay trên chỗ ngồi của người lái, trên đó có những dòng chữ viết vội vàng như sau:
Thưa quí ông/bà, tôi có ý định đánh cắp chiếc xe này, nhưng khi nhìn thấy lời chào chúc của quí ông/bà gắn nơi cửa xe: “Bình an của Chúa ở cùng bạn”, thì tôi bỗng dừng lại và suy nghĩ.
Ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc tôi, là nếu tôi đánh cắp chiếc xe này, thì chắc chắn ông/bà bị mất xe và sẽ không có sự bình an, và tôi đây cũng sẽ không có sự bình an. Đây là lần đầu tiên tôi bước vào nghề ăn cắp xe.
Xin chúc quí ông/bà và cho cả tôi nữa có được sự bình an của Chúa. Chúc ông/bà lái xe an toàn và lần sau, xin nhớ khóa cửa xe cẩn thận.
Ký tên: Người sắp trở thành kẻ trộm xe.
*****
Câu chuyện nhỏ này làm chúng ta chú ý đến một trong những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ, khi sai họ ra đi truyền giáo đến trước những nơi mà Chúa sẽ sắp sửa đi qua, để chuẩn bị cho Chúa đến:
“Vào nhà nào, chúng con hãy chúc: Bình an cho tất cả mọi người trong nhà này". (Luca 10,5)
Chỉ một khẩu hiệu dán nơi tay lái chiếc xe: “Cầu chúc bình an” mà bỗng tác động biến đổi ý định xấu của một người không làm việc xấu xa nữa, thì thử hỏi: những đồ đệ của Chúa, là chính chúng ta đây, nếu chúng ta thực sự trở thành những dấu chỉ sự bình an của Chúa cho anh chị em, và không phải chỉ là dấu chỉ mà thôi, mà còn là tác nhân sống động mang sự bình an của Chúa đến cho anh chị em xung quanh mà ta thường gặp hằng ngày; nếu chúng ta thực hiện được điều này thì thử hỏi: ta có thể đóng góp phần tích cực của mình biết là chừng nào, cho sự bình an của anh chị em, nơi môi trường chúng ta sinh sống.
Lời Chúa dạy cho các đồ đệ chúc “bình an cho nhà này” là tiếng vang trước, cho lời chúc bình an của Chúa Giêsu Phục sinh sau nay, trước khi sai các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa: “Bình an cho chúng con”.
Chắc chắn khi nghe những lời chúc của Đấng Phục sinh: “Bình an cho chúng con”, các tông đồ nhớ lại lời dạy trước lúc Phục sinh của Chúa, khi Chúa sai các ngài đi thực tập trước công việc truyền giáo, mà các ngài sẽ chu toàn sau biến cố Phục sinh: “Vào nhà nào, chúng con hãy cầu chúc: bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con”.
Chúa Phục sinh ban sự bình an thật cho các tông đồ, để các ông ra đi và rồi đến phiên các ông, các ông cũng sẽ cầu chúc như Chúa đã chúc: “Bình an cho nhà này”.
Các ông nói như Chúa đã nói, làm các công việc và những việc lạ như Chúa đã làm, hay đúng hơn theo như lời Chúa nói là hơn cả những gì Chúa đã làm nữa: “Bình an cho chúng con. Bình an cho nhà này”.
Ước gì mỗi người trong chúng ta được thật sự lãnh nhận ơn bình an của Chúa, ơn bình an mà Chúa đã phải chết trên thập giá để thực hiện cho chúng ta, cho tất cả mọi người.
Ước gì mỗi người chúng ta trước hết lãnh nhận ơn bình an đó của Chúa và để cho ơn bình an, ơn cứu rỗi thánh hóa, biến đổi chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói và làm như Chúa đã nói và làm “Bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con”.
*****
Người truyền giáo phải là kẻ nói những lời bình an, thực hiện những sự bình an, trao ban sự bình an của Chúa cho anh chị em.
Chúng ta cần kiểm điểm lại những lời nói và những việc làm của mình xem: có phải là những lời nói và việc làm của ta giống như những gì Chúa đã dạy ta không ? Đó là “Bình an cho anh chị em. Bình an cho nhà này”.
Chúng ta hãy đến lãnh nhận ơn bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an của Thầy”, để rồi chúng ta cũng có thể trao sự bình an đó cho anh chị em xung quanh.
Lạy Chúa, xin giúp con tích cực sống và thực hiện những điều Chúa dạy, đó là mang bình an đến cho những người chúng con gặp gỡ, nơi môi trường chúng con sinh sống. Xin Chúa giúp con, Amen.
Vào một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng, được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người, tại vận động trường Los Angeles.
Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả các đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc.
Ông John Keller lại nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt, thì hãy hô lớn lên: “Đã thấy !”
Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên “Đã thấy !”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Anh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm, sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại cũng y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt.
Một giọng nói lại vang lên như ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, thì xin hãy đốt cháy lên !”
Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Keller kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù, bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
*****
Đã hơn qua 2.000 năm qua, những lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít”.
Thế giới, có trên 8 tỉ người (2023), mà những kẻ tin vào Chúa cũng mới chỉ mới hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm gần 2/3 dân số thế giới, thế nhưng người Công giáo thì không tới 3%.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ.
Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền.
Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi.
Công đồng Vaticanô II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã qủa quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc”
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là phải “ra đi”:
- Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau và bình an với Chúa.
- Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác, cũng như trong tâm hồn.
- Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Nhưng việc làm, mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm.
Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm.
Đúng như L. Moody đã nói: “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ỉ, chúng chỉ chiếu sáng”.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm... Amen.
Đời nhà Tống, có một vị quan tên là Nhiêu Thư rất có tài bắn cung.
Một hôm, có ông lão bán dầu đi qua, thấy Nhiêu Thư đang bắn, liền đứng lại xem.
Thấy Nhiêu Thư bắn mười phát trúng hết chín, thì gật gù và mỉm cười.
Nhiêu Thư bèn hỏi ông lão: “Nhà ngươi cũng biết bắn cung sao ? Ta bắn chưa được giỏi lắm phải không ?”
Ông lão đáp: “Không thể gọi là gỏi, chẳng qua chỉ là quen tay thôi.”
Nhiêu Thư ngạc nhiên hỏi lại: “Nhà ngươi dám khinh ta không bắn giỏi sao ?”
Ông lão bình tĩnh trả lời: “Cứ xem tôi rót dầu thì biết”.
Nói xong, ông lão lấy một cái bầu đặt xuống đất, với đồng tiền có lỗ, đặt nơi miệng bầu. Ông dùng một cái môi (có địa phương gọi là muôi, muỗng, thìa, vá...), từ từ rót dầu qua đồng tiền, rót hết cả bình bầu, mà chẳng vương tí dầu nào ra ngoài. Thế rồi ông nói: “Tôi cũng chẳng tài giỏi gì, chỉ là quen tay thôi”.
Thành công là một liều thuốc bổ, vì giúp con người phấn khởi để tiếp tục công việc.
Tuy nhiên, thành công cũng có thể là liều thuốc độc, vì có thể đẩy con người đến chỗ kiêu căng, tự mãn.
*****
Trong Tin mừng theo thánh (Lc 10, 1-9) có nói đến sự thành công của 72 môn đệ.
Thật thế, công cuộc truyền giáo của các ông đã đạt được nhiều thành quả: Chẳng những lời rao giảng của các ông đã được dân chúng đón nhận, mà các ông còn thắng được cả quyền lực Satan nữa.
Bởi thế, chẳng lạ gì khi các ông trở về, tất cả đều mang tâm trạng vui mừng, hãnh diện và đã khoe với Chúa.
Sự thành công đó khích lệ các ông vững bước theo Chúa hơn, nhưng cũng có thể đưa các ông đến chỗ tự mãn, mà quên rằng: tất cả đều là do bàn tay của Thiên Chúa.
Cho nên, Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ: “Các con chớ vui mừng, vì ma quỉ phải khuất phục các con. Nhưng các con hãy vui mừng, vì tên của các con đã được ghi ở trên trời”.
Tên đã được ghi ở trên trời, cũng có nghĩa là các ông đã thuộc vào hàng ngũ Thiên Chúa, nhờ đó được nghe những điều các Tiên tri và vua chúa hằng ao ước được nghe mà không được.
Tuy nhiên, danh phận làm con, cũng đòi buộc người môn đệ khiêm nhường, chấp nhận những gì họ làm được, đều là do quyền năng của Thiên Chúa. Và nếu có vui mừng, thì hãy vui mừng vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn mà thôi.
Lạy Chúa, xin cho con có được tâm tình này, mỗi khi con gặp thành công và cả khi con gặp thất bại, để trong mọi sự, con luôn biết qui hướng về Chúa, là niềm vui, là hạnh phúc đích thực của đời con. Amen.
Larry Skutnik, 28 tuổi là một người đàn ông nhút nhát, làm việc trong văn phòng chính phủ ở Washington.
Vào buổi chiều ngày 13 tháng Giêng năm 1982, có một cơn bão tuyết nghiêm trọng tràn vào thành phố. Ông đang trên đường trở về nhà và phải chạy trên con đường tắc nghẽn vì băng tuyết phủ đầy.
Ông đang từ từ chạy băng qua một chiếc cầu trên sông Potomac Kiver, bỗng ông thấy một chiếc máy bay, với 79 hành khách, đã đâm sầm xuống dòng sông.
Ông vội vàng ra khỏi xe, xem xét tình hình mình để có thể làm được gì cứu người.
Khi đến gần ông thấy có ba người, đang bám chặt vào đuôi máy bay, đang chổng ngược bên trên mặt nước.
Trên bầu trời, bỗng có một chiếc máy bay trực thăng đang hạ thấp xuống, và hai người trong số đó được đưa vào bờ, còn người thứ ba, một phụ nữ bị rơi xuống nước giá lạnh và bắt đầu chìm xuống.
Không chút nghĩ ngợi, ông đã vội vàng cởi giày ra và cởi áo khoác ra, lặn xuống nước và đưa được người phụ nữ ấy lên bờ, nhập đoàn với 2 người kia và đã được cứu sống.
Sau đó, ông từ giả mọi người, và ung dung, bình thản bước lên xe, tiếp tục hành trình trở về nhà.
Hành động mạo hiểm cứu người của ông đã được chiếu lên truyền hình.
Sáng hôm sau, ông thức dậy, thấy mình trở thành “một anh hùng của quốc gia”.
Nhưng ông cố tránh né hết mọi sự quảng cáo.
Ông nói: “Từ ‘anh hùng’ làm tôi e thẹn, vì tôi đã phản ứng một cách tự nhiên, chỉ có thế thôi”.
Thật là đẹp, khi biết rằng: Người ta vẫn còn thừa nhận sự cao cả của một hành động như thế.
Và cũng thật là đẹp, khi biết rằng: Người ta có thể làm một hành động như thế, mà coi đó chỉ như là một việc bình thường và tự nhiên.
*****
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mắt con nhìn thấy được nỗi đau khổ trong ánh mắt của kẻ khác, đặc biệt là của những người thân trong gia đình con.
Xin cho tai con biết lắng nghe tiếng khóc của kẻ khác, nhất là của những kẻ cùng chung huyết nhục với con.
Xin cho con biết lưu tâm thương xót những ai đang khốn khó, đặc biệt những người thân yêu của con.
Lạy Chúa, xin cho con đủ khiêm tốn để đừng bao giờ gặp người đau khổ, mà phớt lờ bỏ đi, vì ngại vất vả, vì ngại cực nhọc, vì sợ bị nghi ngờ và nói xấu, hay sợ bị những kẻ gian lừa dối...
Xin cho con biết mở miệng nói những lời hay và hữu ích: “Này bạn, tôi có thể giúp gì được cho bạn hay không ?”
Vào một buổi chiều nọ, tại một làng quê, người ta đem một người chết đi chôn.
Trong khi chuẩn bị hạ huyệt, người ta nghe thấy có tiếng động trong quan tài?
Ngay lập tức, họ báo cho mọi người biết! Vì thế, người chủ sự lễ nghi truyền cho những người khiêng quan tài dừng lại và cho mở nắp quan tài ra.
Mọi người ngỡ ngàng, xôn xao và sợ hãi, vì thấy người chết ngồi dạy!
Tuy nhiên, vị chủ sự nói với người trong quan tài rằng:
“Thưa ông, theo nguyên tắc, việc ông chết là thật, đã được thông báo rộng rãi và chúng tôi đã có giấy báo tử của ông trong tay đây. Vì thế, theo nguyên tắc, ông phải được chôn xuống. Vì thế, xin ông vui lòng để chúng tôi thi hành bổn phận”.
Dứt lời, vị trưởng nghi truyền cho mọi người đóng nắp quan tài lại và tiếp tục lễ nghi an táng, bất chấp lời van xin tha thiết của người trong quan tài!
*****
Trên đây chỉ là câu chuyện ngụ ngôn (giả tưởng) nhằm phê phán, lên án những người sống vụ hình thức, vụ luật, nên đã sống bất nhân.
Lời Chúa trong Tin Mừng của thánh Luca (Lc 13, 10-17) cũng cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu đã lên tiếng chỉ trích rất nặng lời, với những người sống vụ luật và đối xử bất nhân đối với người khác.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu chữa người đàn bà bị quỷ ám, làm cho bà bị khòm lưng đã 18 năm, vào đúng ngày Sabát.
Thấy vậy, ông trưởng hội đường xem ra có vẻ rất khó chịu, vì Đức Giêsu đã vi phạm luật ngày Sabát.
Thấy vậy, Đức Giêsu đã lên tiếng nói:
"Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabát, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng, mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, đã bị Satan cột trói đã 18 năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabát sao?".
Qua câu hỏi đó, Đức Giêsu mặc cho luật một tinh thần mới, đó là: yêu thương, liên đới và tha thứ. Đây chính là cốt lõi của luật. Luật mà không có tình yêu lồng vào thì đó là luật chết, vì nó giết chết con người cách khủng khiếp nhất.
*****
Ngày nay, vẫn có nhiều người xem ra rất đạo đức như: đọc kinh, xem lễ hằng ngày; lần hạt thì hết chuỗi này đến chuỗi khác.
Điều này rất tốt và ích lợi cho đời sống thiêng liêng, nếu người đó biết thực hành những điều Chúa và Giáo Hội dạy, ngang qua những việc đạo đức đó, tức là “Lời nói phải đi đôi với việc làm”.
Nhưng chớ trêu thay, vẫn còn đó những cái xác không hồn, khi không biết sống yêu thương, không có tấm lòng bác ái, nhân từ, vẫn sống man trá, lọc lừa, nhân danh thứ đạo đức giả, chỉ có hình thức bề ngoài.
Lại có nhiều người đi lễ đâu phải vì lòng mến Chúa, mà chủ yếu là khoe mẽ quần là, áo lượt! Vì thế, khi thấy cha giảng hơi dài một chút là khó chịu, bực tức, hoặc khi cha dẫn giải Lời Chúa, mà đụng chạm đến lòng tự ái của mình, là đùng đùng nổi giận và chỉ trích cha thế này, cha thế kia...!
Tệ hơn thế nữa, là đi lễ chỉ vì luật, nên không thiếu gì những bạn trẻ đi lễ “ôm” hay thuộc đạo “gốc”; đạo “ngắm”; đạo “dòng”!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta cần phải thoát ra khỏi những kiểu giữ đạo, vì sợ điều này, điều kia.
Hay đi lễ nhà thờ chỉ vì thói quen, hoặc muốn chứng tỏ rằng mình đạo đức hơn người.
Lời Chúa thôi thúc chúng ta rằng: khi giữ những luật lệ của đạo là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần mặc cho nó một tình yêu.
Nếu có tình yêu, chúng ta sẽ mến Chúa, yêu anh chị em mình một cách chân tình. Luôn muốn và làm điều tốt nhất cho anh chị em chúng ta. Không còn chuyện bè phái, lươn lẹo, lật lường, lật lọng, nhưng ngay thẳng, chân thành và thánh thiện.
Chỉ khi làm được chuyện đó, chúng ta mới thấy được luật của Chúa là luật làm cho con người được hạnh phúc, bình an và hoan lạc thực sự.
Nếu không, thì chỉ là chiếc phèn la, chỉ là những tiếng oang oang, hay chỉ là những chiếc xiềng quá nặng, mà chúng ta vẫn phải cố mà đeo trên cổ, đến nỗi bò lê, bò lết để mang nó hằng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con yêu mến Luật Chúa; đồng thời, xin cũng cho con cũng biết đem luật yêu thương của Chúa ra thực hành trong cuộc sống, giữa các mối tương quan xã hội hằng ngày. Amen.
Có một bà lão đến với vị linh mục chánh xứ để xin tham vấn:
- Thưa cha, con đã cầu nguyện không ngừng suốt 14 năm qua, nhưng con chả cảm thấy sự hiện diện của Chúa đâu cả.
- Thế bà có cho Chúa cơ hội, để Chúa nói với bà lời nào không ?
- Dạ… có lẽ không, vì khi cầu nguyện con cứ nói miết. Nhưng như thế không phải là cầu nguyện sao cha?
- Không. Bây giờ tôi khuyên bà: mỗi ngày bỏ ra khoảng 15 phút, chỉ ngồi im lặng một mình trước Chúa thôi.
Bà cụ đã làm theo lời khuyên đó. Chỉ vài ngày sau, bà trở lại khoe:
- Thật tuyệt diệu: Khi con nói với Chúa thì con chẳng cảm thấy đâu cả. Nhưng khi con ngồi yên trước mặt Chúa, thì con lại thấy được sự hiện diện của Ngài bao phủ lấy con.
*****
Đối với nhiều người, cầu nguyện chỉ là nói, nói lên hồi, nói liên tục, nói để xin, cái gì cũng xin, xin đủ thứ.
Nhưng, xét theo một nghĩa nào đó, sự cầu nguyện đích thực chỉ bắt đầu khi ta ngừng nói.
Cách cầu nguyện tốt nhất là ở bên chân Chúa, chẳng nói lời nào và cũng chẳng làm gì cả, như cô Maria, em của cô Matta trong Kinh Thánh.
Có người nghĩ rằng: làm việc là cách chứng tỏ cụ thể tình yêu của mình đối với Chúa, cho nên nếu ngồi im bên chân Chúa, là làm mất thời giờ vô ích, nhất là khi ta còn nhiều việc phải làm.
Có lẽ đúng.
Nhưng, nếu làm việc, mà không cầu nguyện, thì những việc làm kia dễ trở thành những việc làm vì mình và cho mình, chứ không phải vì Chúa và cho Chúa; và cũng có thể chúng trở thành những việc của mình, chứ không phải của Chúa. Và sau khi ngưng mọi việc, ta mới cảm thấy lòng mình trống rỗng, con người mình sao quá hời hợt và nông cạn.
Thoreau đã nói: “Đừng sợ đời mình kết thúc, nhưng hãy sợ đời mình chưa bao giờ bắt đầu”.
Vậy chúng ta hãy thử thay đổi cách cầu nguyện, với việc giữ thinh lặng trước Chúa nhiều hơn.
Nhà tâm bệnh học Thomas Moore nói:
“Có người có thể được chữa khỏi những rối loạn tâm thần, chỉ cần bằng cách tự tìm cho mình mỗi ngày một ít phút thinh lặng suy nghĩ”.
Đối với sức khỏe tâm thần, mà đã là như thế, huống chi đối với sức khỏe siêu nhiên, sức khỏe tâm linh.
Lạy Chúa, cả hai thái độ của Mátta và Maria đều cần thiết cho con trong cuộc sống. Nhưng Chúa đã nhấn mạnh: “Maria đã chọn phần tốt nhất.
Xin cho con biết chọn lựa phần tố nhất này mỗi khi cầu nguyện, để con có cơ hội tiếp cận được Chúa và được nghe Chúa nói với con, trong thinh lặng sâu lắng của tâm hồn. Xin Chúa giúp con. Amen.
Trong một lớp học nọ, có một học sinh trung học không bao giờ để cho cô giáo của cậu được yên, lúc nào cậu cũng tìm cách quấy phá cho cô tức giận.
Một buổi sáng nọ, trước giờ lớp cô giáo đang ngồi loay hoay viết, thì cậu học sinh xuất hiện. Không một chút kính nể, cậu tiến lại hỏi cô:
- Cô đang làm gì đó?
Cô giáo trả lời:
- Cô đang cầu nguyện với Chúa.
Liếc mắt thấy những dòng chữ bằng tốc ký, cậu học sinh liền tấn công:
- Chúa mà cũng biết đọc được tốc ký à?
Cô giáo vừa xếp tờ giấy cho vào cuốn Kinh Thánh, vừa trả lời:
- Chúa có thể làm được mọi sự, ngay cả nhậm lời cầu xin của cô.
Thừa lúc cô giáo chuẩn bị để bắt đầu lớp học, thì cậu học trò này đã lanh tay rút tờ giấy từ quyển Kinh Thánh của cô và cho vào cuốn sách của mình.
Hai mươi năm sau, người học trò ngổ ngáo ngày xưa, nay đã là giám đốc của một công ty.
Một hôm, anh tình cờ xem lại cuốn sách của thời trung học, bỗng thấy mẫu giấy của cô giáo mà anh đã đánh cắp và cho vào cuốn sách của mình, giờ đây đã nhạt màu, anh cho mẩu giấy vào trong ví của mình.
Trở lại văn phòng, anh xin cô thư ký tìm cách đọc giùm mẩu giấy được viết bằng tốc ký.
Mẩu giấy có chứa đựng một lời cầu nguyện của cô giáo như sau:
"Lạy Chúa, với sự chọc phá của Bill, chắc con không thể nào tiếp tục dạy ở lớp này được nữa. Con xin Chúa hãy biến đổi tâm hồn em, để em có thể trở thành một người tốt, hữu ích cho xã hội và cho mọi người".
*****
Vài tuần lễ sau đó, Bill đã cố truy tìm cho ra chỗ ở của cô giáo ngày xưa. Anh hết lòng cám ơn cô, vì đã cầu nguyện cho anh. Lời cầu nguyện của cô đã được Chúa nhậm lời, ngoài sự mong đợi của cô.
Lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 18, 1-8):
"Hãy xin thì sẽ được. Khi các con cầu nguyện và xin bất cứ điều gì, hãy tin rằng mình sẽ nhận được thì các con sẽ được ban cho điều các con cầu xin". Với tất cả những ai tin tưởng cầu xin, lời hứa của Chúa Giêsu luôn được thực hiện.
Triết gia Pascal của Pháp đã nói:
"Lời cầu nguyện là một trong những cách thế, mà Chúa đã chọn để chia sẻ quyền năng vô biên của Ngài cho chúng ta, cũng như Ngài chia sẻ quyền năng của Ngài cho chúng ta bằng cách làm cho chúng ta trở thành những con người biết suy tư.
Cũng thế Ngài chia sẻ quyền năng của Ngài cho chúng ta bằng cách làm cho chúng ta trở thành những con người cầu nguyện.
Không phải tất cả mọi người đều có thể dùng tư tưởng của mình để tạo ảnh hưởng trên người khác, nhưng ai cũng có thể tạo ảnh hưởng trên người khác bằng lời cầu nguyện của mình.
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta, không phải như những kẻ bàng quan trước quyền năng sáng tạo của Ngài, mà như những kẻ chia sẻ quyền năng của Ngài.
Ðây chính là ý nghĩa của kiểu nói "được tạo thành giống như hình ảnh của Thiên Chúa".
Bác sĩ Alexis Carell, người đã từng được trao giải thưởng Nobel y khoa hồi năm 1912, đã tóm tắt về sức mạnh của sự cầu nguyện như sau:
"Cầu nguyện là một năng lực mãnh liệt nhất, mà con người có thể làm phát sinh được".
Ảnh hưởng của lời cầu nguyện trên tâm trí và thân xác con người, là điều có thể chứng minh được qua các hạch nội tiết trong cơ thể.
Cầu nguyện là một sức mạnh cũng có thực, như chính sức hút của trái đất, đó là sức mạnh mà Chúa Giêsu nói đến qua hình ảnh của người đàn bà góa kiên trì trong Tin Mừng theo thánh Luca ((Lc 18, 1-8):
Ông quan tòa đứng ra xử án, không phải vì lòng công bình hay vì lòng tốt, mà chỉ vì không chịu đựng nổi sự quấy rầy của bà góa.
Thiên Chúa nhậm lời con người, không phải vì sợ con người quấy rầy, mà chỉ vì lòng tốt đối với con người mà thôi.
Nói đến sức mạnh của lời cầu nguyện là tuyên xưng lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Kiên trì trong lời cầu nguyện cũng là ân huệ của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết kiên trì trong việc cầu nguyện, để con cũng được diễm phúc cảm nhận được những điều con cầu xin. Amen.
Ngày kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào trong một quán ăn, thì gặp ba người đang đánh bạc, ngài lên tiếng xin họ góp phần vào công việc từ thiện.
Một người đang bực bội, bỗng đứng lên chửi bới liên hồi, rồi phun nướv miếng vào mặt ngài.
Thánh nhân lặng lẽ, bình tĩnh rút khăn tay ra lau mặt, rồi nhẹ nhàng nói: “Cám ơn ông, đó là phần ông dành cho tôi. Còn phần cho các cô nhi của tôi đâu ?”
Tay cờ bạc kinh ngạc đến thẹn thùng, bỗng anh ta dốc túi ra, đưa hết cho Ngài.
*****
Chúa Giêsu đã khuyến khích chúng ta: hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Nghĩa là đức tin của chúng ta phải là một hành động tích cực, chứ không phải là một thái độ thụ, động chỉ biết đợi chờ.
Tuy nhiên, - nhiều khi vì tự phụ, mà chúng ta không xin, nên chúng ta không nhận được; - nhiều khi vì lười biếng, mà chúng ta không tìm, nên chúng ta không gặp; - nhiều lắm khi vì nhút nhát, mà chúng ta không dám gõ cửa, nên cửa đã không mở ra cho chúng ta.
Đừng thụ động ngồi chờ ơn Chúa, như chờ những quả sung từ trời rụng xuống.
Hãy khiêm tốn, siêng năng và bạo dạn mà xin, mà tìm, mà gõ cửa.
Nếu điều đó tốt cho chúng ta, thì chắc chắn Thiên Chúa là Cha nhân hậu, sẽ ban cho chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho con được ơn bền đỗ trong việc cầu nguyện, vì con biết: Hễ ai bền đỗ cầu nguyện cho đến cùng, chắc chắn sẽ được nhậm lời, sẽ được ơn cứu độ.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết trung kiên trong cuộc chiến này. Amen.
Có một thời, ở thành phố Kentucky có hai nhà thờ và một hãng chế rượu.
Dân chúng trong thành này cứ than phiền, là cái hãng chế rượu này làm cho cộng đoàn có một ấn tượng xấu.
Bên cạnh đó, chủ hãng rượu lại là một người vô thần.
Dân chúng trong thành này đã cố làm tất cả những gì có thể, để dẹp cái hãng rượu này, nhưng vẫn không thành công.
Sau cùng, tất cả mọi người đều bàn với nhau: Chúng ta họp nhau lại để cầu nguyện, xin Chúa can thiệp.
Thế rồi một buổi tối nọ, một cơn bão lớn đã đổ ập xuống và sấm sét kinh hồn đã đánh trúng cái hãng rượu và đã làm cho nó cháy rụi hết.
Sáng hôm sau, dân chúng ở cả hai nhà thờ, đều tập họp lại rất đông để tạ ơn Chúa vì biến cố này.
*****
Hãng bảo hiểm hỏa hoạn đã nói với ông chủ hãng rượu, là họ sẽ không thể đền tiền cho ông, bởi vì trong điều khoản của hợp đồng không có nói, nếu là việc làm của Chúa thì họ phải đền.
Thế rồi, ông chủ hãng rượu lại đi thưa tất cả dân chúng ở 2 nhà thờ trên, vì họ đã kêu cầu Chúa phá hủy tài sản của ông.
Trước tòa án, mọi người đều chối việc họ đã làm bất cứ chuyện gì, kể cả cầu nguyện, để phá tiệm rượu của ông.
Sau một hồi suy nghĩ, quan tòa đã phán như sau:
"Tôi nhận thấy rằng đây là một trường hợp khó xử: - Một đàng, ông chủ hãng rượu là vô thần, mà lại chứng minh năng lực của lời cầu nguyện. - Đang khi những người giáo hữu thì lại chối bỏ năng lực của lời cầu nguyện."
*****
Có lẽ nhiều người trong chúng ta phải đồng ý với ý tưởng của viên quan tòa trên.
Chúng ta nói rất nhiều về vấn đề cầu nguyện: sự cần thiết, tầm quan trọng, hiệu lực của nó, và các loại cầu nguyện nữa. Và chúng ta cũng thường cầu nguyện sáng, trưa, chiều và tối.
Chúng ta cũng thường tụ họp tại nhà thờ, nhất là mỗi Chúa nhật để cầu nguyện. Và niềm tin và sự hy vọng của chúng ta thường đặt trong lời cầu nguyện, như là một phương pháp tối hảo, để giải quyết mọi vấn đề:
Không phải là để “Ý Cha dưới đất, cũng như trên Trời”. Mà là để “Ý con dưới đất, buộc Cha trên Trời cũng phải làm theo”.
Thế nhưng, có một điều cũng thật nữa, là trong khi chúng ta cầu nguyện, nhiều khi việc cầu nguyện đã mang lại nhiều vấn đề phức tạp, và trở nên khó khăn, bởi chúng ta đã từng lôi Chúa vào trong những sự dữ, sự ác,… theo những tính toán rất con người của chúng ta, với những ý đồ rất xấu xa, rất hẹp hòi, rất ích kỷ…
Một lý do nữa, mà chúng ta thường gặp khó khăn trong vấn đề cầu nguyện, là chúng ta luôn mong chờ Chúa trả lời theo cách chúng ta xin. Rồi khi chúng ta cầu nguyện mà không được Chúa trả lời như ý, thì chúng ta lại đâm ra nghi ngờ Chúa, rồi phàn nàn, trách móc Chúa.
Chúng ta hãy mở lại Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 11, 1-13), để thấy cách Chúa dạy các môn đệ của Ngài cầu nguyện, với lời kinh LẠY CHA rất hay, rất tuyệt hảo.
Trong Kinh Lạy Cha Chúa đã dạy, là chúng ta cần phải có 5 ý nguyện dâng lên Chúa Cha, mỗi khi cầu nguyện.
Nhưng chúng ta hãy chú ý ý nguyện thứ nhất, cũng là ý nguyện quan trọng nhất, đó là "Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng."
Khi chúng ta cầu nguyện với câu này, thì chúng ta cần phải hiểu đôi chút về phong tục của người Do thái:
Chữ "Danh" hoặc là chữ "Tên" có một ý nghĩa thâm sâu, bởi vì nó tượng trưng cho cả con người của ai đó.
Khi chúng ta cầu nguyện cho Danh Chúa được cả sáng, không có nghĩa là Thiên Chúa cần được cả sáng, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, nên tự Ngài đã được cả sáng mà không cần có chúng ta.
Danh Chúa được cả sáng ở đây, có nghĩa là cầu xin cho nhiều người được nhận biết Thiên Chúa.
Khi xét về câu đầu tiên này trong Kinh Lạy Cha theo mạch văn Thánh Kinh, chúng ta nhận thấy rằng:
Thiên Chúa dựng nên con người để con người nhận biết Ngài là Chúa, chứ chúng ta không phải là Chúa.
Ngay trong phần đầu của Thánh Kinh, câu truyện Ađam và Evà đã cho chúng ta thấy: nếu chúng ta muốn sống, muốn tồn tại, thì chúng ta phải biết khả năng rất giới hạn của mình. Chúng ta cần phải nhận chân thật: Thiên Chúa là Chúa của chúng ta. Chúng ta đừng có ảo tưởng chúng ta là Thiên Chúa.
Khi chúng ta nhận ra được chân lý này, thì ơn phúc sẽ đổ tràn xuống trên chúng ta và cho mọi người khác nữa.
Còn khi chúng ta chối bỏ chân lý này, thì chúng ta đã cắt bỏ nguồn sự sống trong chúng ta và như thế chúng ta sẽ tự hủy diệt chính mình. Chúng ta sẽ chết về mặt tinh thần. Cho đến khi nào, mà chúng ta hiểu được ý nguyện thứ nhất này trong Kinh Lạy Cha, và đọc nó với lòng thành tâm, thì chúng ta sẽ cảm thấy lời nguyện của chúng ta dâng lên Chúa mới tuyệt vời.
Tất cả mọi người chúng ta, ai cũng có chung những khuyết điểm này, là chúng ta không để ý tôn vinh Danh Chúa khi cầu nguyện.
Khuyết điểm đó cũng có thể xảy ra trong các mối liên hệ của chúng ta với anh chị em mình, hoặc là giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái, hoặc là hàng xóm láng giềng nữa, đó là chúng ta luôn muốn làm theo ý mình, mà không làm theo ý Chúa, để cho Danh Ngài được rạng danh, nơi môi trường sống của chúng ta.
Làm như vậy, là vô tình chúng ta đã cắt bỏ nguồn mạch sự sống, để rồi tự tiêu diệt mình, hoặc sẽ đến những hoàn cảnh bi thảm, đến chỗ ly dị, thù ghét, bỏ nhà ra đi… Hay có khi còn tệ hơn nữa là bỏ luôn cả nhà thờ, bỏ Chúa, bỏ đạo.
Chúng ta hãy cố gắng dành ra ít phút mỗi ngày để suy ngắm câu: "Nguyện Danh Cha Cả Sáng."
Chúng ta hãy tự hỏi mình xem: coi cuộc sống của chúng ta có làm vinh danh Chúa không, hay lúc nào cũng chỉ tìm cách làm vinh danh bản thân mình thôi
Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều, để tất cả mọi suy nghĩ, hành động, lời nói của chúng ta luôn qui về vinh Danh Chúa, và chỉ Danh Chúa mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết noi gương Chúa: Luôn sống trong tâm tình của một người con hiếu thảo đối với Cha trên Trời.
Xin cho con sẽ thích được hầu chuyện với Cha, thích lắng nghe lời Cha và cố gắng vâng theo thánh ý Cha, chứ không lợi dụng Cha.
Xin giúp con biết siêng năng cầu nguyện, chứ không phải chỉ đến với Cha trong những khi gặp quẫn bách.
Xin cho con biết cộng tác với mọi người, để làm cho Nước Cha mau đến, làm cho Danh Cha được lan rộng khắp nơi, trong niềm cậy trông, tin yêu và phó thác vào Cha một cách tuyệt đối.
Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thuỷ tiên thật đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng học.
Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt, nhìn ngắm những cánh hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo:
“Thưa cô, có phải Chúa đã làm ra những bông hoa này không cô? Em muốn gọi điện thoại để cám ơn Chúa, vì đã cho chúng ta những cánh hoa đẹp như thế này!”
Nếu đất với trời, được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: một đường dây cho những lời cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn.
Và người ta sẽ thấy: Đường đường dây cầu xin sẽ luôn là bận rộn. Còn đường dây cám ơn, chắc là thỉnh thoảng lắm mới có người dùng đến.
Để minh họa cho tư tưởng này, có một câu chuyện ngụ ngôn thuật lại như sau:
Có 2 thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi đến khắp các hang cùng ngõ hẻm, đến nhà của các người giàu có, cũng như nhà của những người nghèo khổ, để thăm và để thu gom những lời cầu nguyện của các trẻ em và của tất cả nam phụ lão ấu, tại tư gia, cũng như tại các nhà thờ.
Sau một thời gian, hai thiên thần gặp lại nhau, đúng thời điểm và đúng nơi đã hẹn, để trở về trời, dâng các lời cầu nguyện của dân gian lên Thiên Chúa.
Nhìn vào chiếc giỏ nặng như chì của thiên thần kia, thiên thần này lên tiếng:
- “Giỏ của anh sao nặng nề thế?”
Thiên thần mang giỏ nặng trả lời:
- “Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại”. Còn anh, cái giỏ của anh sao nhẹ nhàng thế?”
Thiên thần mang giỏ nhẹ trả lời:
- “À, tôi thì được sai đến để góp nhặt những lời thiên hạ cám ơn Chúa, vì những ơn lành Ngài đã ban cho họ”.
Thì ra, chiếc giỏ thu nhận lời cầu xin luôn nặng hơn chiếc giỏ thu nhận lời cám ơn.
Cũng thế, đường dây điện thoại để xin ơn thì luôn luôn bận rộn, còn đường dây để cám ơn thì không mấy khi có người gọi.
*****
Thường thì chúng ta chỉ biết cầu xin, hơn là tạ ơn, cám ơn Chúa.
Ta nên nhớ: Việc cầu nguyện luôn bao gồm cả lời chúc tụng, tôn vinh, cảm tạ và tri ân Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là xin ơn mà thôi.
Trong Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 11, 1-13), chúng ta thấy Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện thề này:
Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa, như con cái nói chuyện với cha mẹ.
Cầu nguyện chủ yếu là một cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu khi còn sống ở trần gian cũng đã cầu nguyện, và Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn.
Cũng chính Ngài đã đưa ra cho các môn đệ một “kinh nguyện mẫu”, mà chúng ta gọi là “Kinh Lạy Cha”, để cho chúng ta biết phải cầu nguyện như thế nào, và phải cầu xin những điều gì.
Vậy chúng ta phải cầu xin những điều gì?
Nói một cách vắn gọn, chúng ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em.
Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau, đều là ngược lại với ý muốn của Cha trên trời.
Bởi vì, làm sao chúng ta có thể mở miệng nói: “Lạy Cha, chúng con ở trên trời”, khi mà chúng ta coi mọi người không phải là anh em của ta, không coi họ là con cùng một cha chung trên trời..
Mà chúng ta gọi họ là anh em của ta sao được, khi mà chúng ta không yêu thương họ, không đối xử tốt với họ, không chấp nhận họ, không tha thứ cho họ….
Và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận cùng với họ là cùng có một Cha chung ở trên trời:
Khi chúng ta nói với Thiên Chúa: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, thì chúng ta phải hiểu là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất này, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói, đều có đủ cơm ăn, áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, còn đại đa số thị lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc.
Thiên Chúa cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đầu đường xó chợ… Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra một con người.
Khi chúng ta nói với Thiên Chúa: “Xin Cha tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha, cho những người có lỗi với chúng con”, thì chúng ta phải hiểu là Thiên Chúa muốn chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì chính bản thân của chúng ta cũng đều là những kẻ có tội, những người cần được tha thứ….
Như vậy, khi chúng ta cầu nguyện là là chúng ta đồng hoá ý muốn của ta với ý muốn của Thiên Chúa và phải hành động sao, để cho ý muốn của Chúa được thể hiện trên mặt đất này. Đó là điều Chúa Giêsu dạy rất rõ trong Kinh Lạy Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
*****
Thế nhưng, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, chứ chưa có cầu nguyện.
Và những lời cầu xin của chúng ta nhiều khi hết sức là vụ lợi, rất là ích kỷ. Chẳng hạn xin cho “trúng tuyển, trúng số, trúng mánh…”. Hoặc chúng ta chỉ chạy đến với Chúa khi chúng ta chán nản, thất vọng,… để than thở, để kể lể, như bắt Chúa phải thông cảm những nỗi ấm ức trong lòng mình ta.
Còn gì vô lý và sai lầm hơn, khi mà chúng ta cứ coi Thiên Chúa như một vị “Thần Tài”, hay như một “thủ kho” để khi cần chúng ta là cứ chạy đến, xin Ngài mở kho, ban phát một cách miễn phí các ơn lành, theo đúng như đơn đặt hàng của chúng ta, mà chúng ta không cần phải là gì hết.
Đúng ra, với tự do, với khối óc, với tài năng, với hai bàn tay Chúa ban cho, chúng ta phải tự làm lấy, tự xoay xở lấy, với sự trợ giúp của Chúa và dưới ánh mắt yêu thương của Ngài.
Nếu chỉ cầu xin bằng môi miệng, mà chẳng chịu làm gì cả, thì lời cầu xin đó có khác gì những câu bùa chú, phù phép của hạng người mê tín dị đoan: Xin cho có lương thực hằng ngày, mà mình cứ ngồi không, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được?
Hoặc xin cho mọi người được ấm no hạnh phúc, mà mình lại cứ áp bức, bóc lột, làm điều bất công, hay là cứ tạo điều kiện để cho những chuyện bất công ấy tiếp tục lan tràn, mà không chịu ra tay tranh đấu, để đòi công bình, để đòi quyền sống của con người, thì làm sao có ấm no, hạnh phúc, hoà bình được?
Chính vì thái độ này, mà nhiều khi tôn giáo đã bị mang tiếng là mê tín, là thuốc phiện ru ngủ dân chúng!
Vậy thì, chúng ta phải cầu xin như thế nào?
Nếu phải cầu xin, thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì, với một xác tín, tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn cha chúng ta ở dưới đất vô cùng.
Vì người đời, mà còn cho bạn bè vay mượn, khi bạn bè năn nỉ, khuấy rầy, huống chi là Thiên Chúa.
Ngài là người Cha yêu thương mọi người, là con của Ngàu, chắc chắn Ngài sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta cầu xin: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở cho”.
Người cha nào mà không giúp đỡ con cái khi cần thiết, không cung cấp những điều thích hợp, khi chúng đã xin.
Chúa là Cha nhân từ, Ngài cũng không thể làm khác được, nhất là chẳng bao giờ cho cái gì sinh nguy hại cho con cái.
Bởi vậy, điều chúng ta xin Thiên Chúa phải là điều thích hợp, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”.
“Hãy xin thì sẽ được”, nhưng với điều kiện là xin những gì thực sự giúp đời sống thêm tốt đẹp, tìm những gì dẫn đến ơn cứu độ, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của con người, đồng thời phải kết hợp giữa sự giúp đỡ của ơn Chúa, với việc làm trong khả năng Chúa đã ban cho mỗi người.
Cuối cùng, ơn đặc biệt mà Chúa sẽ ban cho những ai xin Ngài, đó là Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ là Đấng cầu xin trong chúng ta, bảo đảm lời cầu xin là xác đáng, và cũng chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết, vì Ngài là ơn huệ của Thiên Chúa ban cho loài người.
Lạy Chúa, xin dạy con biết cầu nguyện, để lời cầu nguyện của con được như hương thơm, bay lên trước toà Chúa, làm đẹp lòng Chúa và được Chúa chấp nhận. Amen.
Vì không có, nên mới “xin”, đó là chuyện bình thường.
Nhưng ở đây đã có, mà lại vẫn phải xin, đó là: Xin lỗi.
Thật vậy, “một lời xin lỗi vụng về, vẫn tốt hơn là im lặng” ( Stephen Gosson, 1554-1624, văn sĩ trào phúng người Anh ).
Nói đến động thái xin lỗi, thì không thể không nhắc tới động thái tha thứ.
Xin lỗi và tha thứ, là hai động thái luôn cần thiết và cấp bách, vì đó là động thái của tình yêu thương, của lòng trắc ẩn, của lòng thương xót, đặc biệt chúng ta là con cái Chúa, chúng ta luôn chạy đến cầu khấn, van xin “Lòng Thương Xót Chúa”.
Nhân vô thập toàn. Ai cũng là tội nhân. Ai cũng cần xin lỗi. Và tất nhiên, ai cũng cần tha thứ.
Vả lại, tất cả chúng ta đều là huynh đệ trong Đại Gia Đình của Thiên Chúa, không thể không yêu thương, không thể không tha thứ.
*****
Có người hỏi: Tại sao phải xin lỗi ?
Người ta đưa ra 10 lý do:
1. Vì những lúc tôi hứa, mà tôi đã không thực hiện cho tha nhân. 2. Vì những lúc tôi thờ ơ, vô cảm, với nỗi đau của tha nhân. 3. Vì những lúc tôi ích kỷ, vụng về, hiểu lầm, nên đã làm phiền tha nhân. 4. Vì những lời nói, hành động của tôi, dù vô tình hay cố ý, đã làm tổn thương tha nhân. 5. Vì những lúc tôi không giúp đỡ tha nhân, hoặc vì những điều tôi muốn làm, mà vì hèn nhát, đã không dám làm. 6. Vì những mối bất hòa, cãi vã, mâu thuẫn,... với tha nhân. 7. Vì những lúc tôi đã làm cho chính mình ra đau khổ, rồi nghĩ xấu về tha nhân. 8. Vì những lúc tôi cố gắng, mà vẫn chưa làm được điều tốt đẹp cho cuộc đời và xã hội như tôi muốn. 9. Vì những lúc tôi đã làm cho tha nhân thất vọng, hụt hẫng, mệt mỏi,... 10. Vì những lúc tôi đã thay đổi thất thường, đòi hỏi người khác phải theo ý mình.
Nhưng, Tại sao phải tha thứ ?
Người ta cũng đưa ra 10 lý do:
1. Tha thứ cho người khác, về điều dối gian mà họ dành cho tôi. 2. Tha thứ cho người khác, về những gì xấu xa nhất mà họ nghĩ về tôi. 3. Tha thứ cho người khác, vì họ đã làm tôi phải khóc, phải đau lòng. 4. Tha thứ cho người khác, về sự không chân thành, về sự lãnh đạm, xa lánh, mà họ dành cho tôi. 5. Tha thứ cho người khác, về sự vô tâm của họ trước những nỗi khó khăn của tôi. 6. Tha thứ cho người khác, về sự giả dối, chỉ giả vờ quý mến tôi mà thôi. 7. Tha thứ cho những lỗi lầm của tha nhân, để cùng nhau sống tích cực, hướng tới điều tốt đẹp hơn. 8. Tha thứ cho bất cứ ai đã làm tôi tổn thương, để tự giải thoát mình, để có thể sống thanh thản. 9. Tha thứ cho chính mình, vì đôi khi chính mình sống thật tồi tệ. 10. Tha thứ cho mọi người, bất kỳ ai, về bất cứ lỗi lầm nào.
*****
Đôi khi “xin”, cũng có thể là năn nỉ hoặc mặc cả.
Trình thuật trong sách Sáng Thế (St 18, 20-32) có kể lại việc Tổ Phụ Ápraham đã “mặc cả” với Thiên Chúa, vì lòng thương xót tha nhân.
Chính Thiên Chúa đã lên tiếng:
“Tiếng kêu trách của Xơđôm và Gômôra đã thật quá lớn ! Tội lỗi của chúng quá nặng nề ! Ta phải xuống xem: thật sự chúng nó có làm, như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết”.
Ông Ápraham thưa với Đức Chúa:
“Chẳng lẽ Ngài sẽ tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao ? Giả như trong thành có 50 người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao ? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì 50 người lành trong đó sao ? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu ! Giết chết người lành, một trật với kẻ dữ, coi người lành, cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu ! Đấng xét xử cả trần gian, mà lại không xét xử công minh sao ?”
Đức Chúa đáp:
“Nếu Ta tìm được trong thành Xơđôm có 50 người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó”.
Ông Ápraham “mặc cả” với Thiên Chúa: Ông đã hạ, từ 50 người lành, xuống còn 45 người, rồi 40 người, rồi 30 người, 20 người, thậm chí chỉ còn 10 người. Dù là con số ít ỏi, Thiên Chúa vẫn chấp nhận, mà không nỡ phá huỷ thành Xơđôm.
Vâng, Thiên Chúa luôn nhẫn nại và muốn tha thứ.
Thế nhưng, cả thành phố đó, cũng không có được 10 người lành.
Nhân loại vẫn luôn bướng bỉnh, cố chấp, ỷ lại và làm ngơ với lòng thương xót của Thiên Chúa.
Làn ranh giữa “mặc cả” và “lợi dụng” rất mong manh.
Chắc chắn ông Ápraham không có ý lợi dụng Lòng Chúa Thương Xót, nhưng chúng ta phải lưu ý: Đừng bao giờ lợi dụng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa !
*****
Ma quỷ rất ranh mãnh, sợ nhất là nó cám dỗ chúng ta ảo tưởng về sự thánh thiện của mình.
Thật vậy, Thánh Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng ( 1873-1897 ) cho biết:
“Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại, bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe, vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó mà tự mãn”.
Kinh khủng thật !
Thế nên Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Đừng để cho ma quỷ thừa cơ lợi dụng !” ( Ep 4, 27 ).
*****
Ước gì chúng ta cảm nghiệm được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, như tác giả Thánh Vịnh, để có thể thân thưa cách chân thành:
“Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, vì Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ Danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao Danh Thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn” ( Tv 138, 1-3 ).
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, không gì có thể che giấu được Ngài, dù là điều nhỏ nhoi nhất và tinh vi nhất.
Ngài biết chúng ta vốn dĩ xấu xa ( x. Lc 11, 13 ), nhưng Ngài vẫn đại lượng:
“Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con” ( Tv 138, 6-7 ).
Ngài luôn quan phòng, che chở, giữ gìn chúng ta dù có lúc chúng ta không nhớ đến Ngài.
Nếu Ngài nhắm mắt làm ngơ chúng ta chỉ trong giây lát thôi, thì chúng ta sẽ không thể sống nổi. Thế mà nhiều khi chúng ta lại muốn nổi loạn !
Hôm nay và bây giờ, hơn bao giờ hết, chúng ta hãy cùng nhau thân thưa với Ngài:
“Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” ( Tv 138, 8 ).
Thánh Phaolô nói rất rõ về thân phận của chúng ta:
“Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.
Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ cho mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta” ( Cl 2, 12-13 ).
Thiên Chúa vô cùng đại lượng, cao thượng, từ bi và nhân hậu, chúng ta chỉ là những “con nợ”, chúng ta chưa mở miệng cầu xin, mà Ngài đã tha thứ rồi, tha thứ vô điều kiện:
“Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá” ( Cl 2, 14 ).
Vì thế, chắc chắn chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho nhau, không còn cách nào khác.
Cầu xin là điều cần thiết, cầu nguyện là lương thực hằng ngày.
Có một lần, sau khi Đức Giêsu cầu nguyện xong, có một môn đệ nói xin Ngài dạy cách cầu nguyện, và Ngài đã dạy Kinh Lạy Cha ( Lc 11, 2-4; Mt 6, 9-13 ).
Đây là “Đệ Nhất Kinh”, là lời kinh cao cả được chính Chúa Giêsu truyền dạy.
Chúng ta thật vô cùng diễm phúc, vì chúng ta chỉ là những tội nhân khốn nạn, mà ngày này chúng ta lại được diễm phúc tôn xưng Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời…”
Để minh họa cho lòng thương xót, Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta nghe câu chuyện về “người bạn quấy rầy và việc cầu xin”.
Ngài nói với họ: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được đâu.
Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó”.
Chỉ là tội nhân, chỉ là phàm nhân, mà người ta còn đối xử với nhau thế, huống chi Thiên Chúa, Người là Cha của anh em.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định:
“Anh em cứ XIN thì sẽ ĐƯỢC, cứ TÌM thì sẽ THẤY, cứ GÕ cửa thì sẽ MỞ cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”.
Nhưng cũng cần lưu ý là: Đừng có lải nhải, chớ có lẻo mép, lắm lời ! ( x. Mt 6, 7 ).
Và để tái xác nhận, Chúa Giêsu nói thêm:
“Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp ?
Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời, lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?”
Tin sao, được vậy ( x. Mt 8, 13; Mt 9, 29 ).
Đó là hệ lụy tất yếu, đúng như Thánh Don Bosco ( 1815-1888 ) đã xác định: “Chính Đức Tin hoàn thành tất cả mọi sự”.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giúp con biết vững tin khi cầu xin, và luôn biết mau mắn tha thứ cho người khác. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại, Đấng cứu độ con. Amen.
Năm 1953, có một thanh niên da đen ở nước Trung Phi, tham gia vào quân đội viễn chinh Pháp tham chiến tại Việt Nam, đó là trung sĩ Bokassa.
Ông này đã kết bạn với một cô gái quê ở Biên Hòa, tên là Nguyễn Thị Huệ.
Năm 1954, sau khi có hiệp định Genève, trung sĩ Bokassa chia tay với cô Huệ, để theo đoàn quân viễn chinh về Pháp, để lại cho cô Huệ một bào thai.
Cô Huệ sanh được một bé gái, mình mẫy đen ngòm như lọ nồi, tóc quăn, môi dầy, được đặt tên là Nguyễn Thị Martine.
Gia đình cô Huệ rất túng thiếu, nên khi vừa mới lớn khôn, Martine phải mang đậu phộng, bánh mì, trà đá… bán rong cho khách qua đường, để kiếm sống qua ngày.
Đầu năm 1972, khi vừa lên 18 tuổi, Martine vào làm phu khuân vác trong nhà máy xi măng Hà Tiên (Rạch Giá, Kiên Giang), cuộc đời lam lũ tăm tối, đổ mồ hôi, đổi lấy áo cơm.
Thế rồi, vào một ngày cuối năm 1972, khi Martine đang bốc vác xi măng, bụi bặm lem luốt đầy người, thì người cậu của Martine bất thần xuất hiện và la to:
“Martine! Đi về thay đồ, chuẩn bị lên máy bay, đi gặp ba mầy làm tổng thống!”
Martine bàng hoàng ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì.
Hóa ra, dịp may ngàn năm một thuở đã xảy đến với cô:
Cha của Martine là ông Bokassa, người lính da đen thuộc quân đội Pháp tham chiến ở Việt Nam năm xưa, nay đã trở thành tổng thống nước Cộng Hoà Trung Phi, một đất nước nổi tiếng có nhiều kim cương, nên được gọi là Vương quốc Kim Cương.
Ông Bokassa đã cậy nhờ chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó, tìm kiếm đứa con lai của mình tại Việt Nam và đã rước cô này về Trung Phi.
Thế là Cô Martine từ thân phận một cô gái lọ lem, nghèo hèn, khốn khổ, bỗng trở thành công chúa trong vương quốc kim cương!
Thật là một cuộc đổi đời quá ngoạn mục, hiếm có và rất tuyệt vời!
***
Qua Tin mừng của thánh Lu-ca (Lc 11, 1-13), Chúa Giê-su đã loan báo cho chúng ta một tin vui, vui hơn gấp triệu triệu lần so với tin vui, mà cô Martine đã nhận được. Đó là mỗi người trong chúng ta đều có một Người Cha tuyệt vời nhất ở thế gian, Người Cha đang ở trên Trời, đó là Thiên Chúa Cha, Ngài là Đấng dựng nên hoàn vũ bao la tuyệt vời này, là Đấng cao cả quyền năng và đầy lòng yêu thương nhân loại.
Ngài là Cha thật của chúng ta, nên Chúa Giê-su đã dạy chúng ta gọi Ngài là Abba! Abba là tiếng bập bẹ của trẻ thơ Do-thái thường gọi cha yêu của mình, tương đương tiếng Việt là Ba ơi! Bố ơi!
Mặc dù Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, là Chúa Tể càn khôn, còn loài người chúng ta chỉ là loài thụ tạo thấp hèn, thế mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta tâu với Ngài là “Muôn tâu ngọc hoàng Thượng đế”, mà lại dạy chúng ta gọi Ngài một cách thân thương là Áp-ba, có nghĩa là Bố ơi, là Ba ơi !
Mặc dù Thiên Chúa là Vua trên muôn vua, là Chúa trên các chúa, thế mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta thưa với Chúa Cha là: “Muôn tâu thánh thượng”, nghe có vẻ xa cách quá, mà lại dạy chúng ta gọi Ngài mộ cách thân mật là Ba ơi, Bố yêu ơi!
Mặc dù Thiên Chúa là Ông Chủ cao cả, còn chúng ta là những tôi tớ thấp hèn, vậy mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta thưa với Ngài bằng câu: “Kính thưa ông Chủ”, mà dạy chúng ta gọi Ngài là Bố ơi, Ba ơi!
Khi dạy ta gọi Thiên Chúa bằng Ba, Bố, Cha… Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn nhận Ngài là Người Cha yêu quý trong gia đình và Ngài nhìn nhận chúng ta là đứa con bé bỏng rất đáng yêu trong nhà.
Được làm con của Cha trên trời, quả là một hạnh phúc, hạnh phúc vô biên, là một niềm vinh dự lớn lao không bao giờ chúng ta có thể tưởng tượng nổi.
Tiếc thay, còn rất nhiều anh chị em đang sống chung quanh chúng ta, chưa được may mắn nhận biết mình có một Người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa.
Vì thế, qua ý nguyện đầu tiên trong kinh Lạy Cha là “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy cầu xin Cha trên trời, ban cho mọi người được diễm phúc nhận biết Thiên Chúa là Cha, là Đấng thánh thiện, đáng được chúc tụng tôn thờ (GLHTCG số 2807 và 2858).
Tiếp theo, qua ý nguyện thứ hai, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu cho “Nước Cha trị đến” nghĩa là chúng ta hãy cầu cho mọi người đón nhận Chúa Giê-su, Ngài chính là “Nước Thiên Chúa”, đến ngự trị trong tâm hồn mọi người và dẫn đưa nhân loại về với Cha yêu của mình là Thiên Chúa (GLHTCG số 2816).
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã tỏ ra cho chúng con biết: Chúng con có một Người Cha rất đỗi tuyệt vời, là Đấng ngàn trùng chí thánh và giàu lòng yêu thương, nhờ đó, tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc, vì được diễm phúc làm con chí ái của Cha trên trời.
Xin cho con biết chia sẻ diễm phúc này cho những anh chị em sống chung quanh con, để họ cũng được hạnh phúc làm con của Cha trên trời, như con và cùng với con ca tụng ngợi khen Cha, để sau những ngày sống ở trần gian này, cũng sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời bên Cha vinh hiển. Amen.
Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một tòa nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm:
“Bác tài xế của mình mà còn được ở một tòa nhà nguy nga tốt đẹp như thế ! Còn mình, chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào !” Và bà ta xoa tay vui sướng.
Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
- Đó là nhà của bà.
Người nhà giàu hốt hoảng, choáng váng đầu óc:
- Nhà của tôi đó thật sao ? Không, không thể nào, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được ?
Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, chậm rãi trả lời cho bà:
- Thưa bà, với những vật liệu từ trần gian bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ có thể làm được như thế thôi !
******
“Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho giàu có nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng vít, nên họ không thể qua “cửa hẹp” để vào được Nước Trời.
Qua Tin Mừng theo thánh Luca, Chúa Giêsu đã từng cảnh báo chúng ta: « Có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết» (Lc 13, 22-30):
“Những kẻ đứng đầu” được Chúa nhắc tới ở đây, có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang, tự phụ, tự đắc. Thay vì dùng những ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, thì họ lại chỉ nuôi dưỡng những tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm cho họ bị vướng víu, nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”.
Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu”, tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả thật gian nan, thì mới có thể vượt qua được “cửa hẹp”.
Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp” thì phải hiểu là chỉ có những người bé nhỏ mới lách qua được, chỉ có những trẻ thơ mới vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào”.
“Cửa hẹp dẫn đến sự sống”, cửa hẹp đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở: Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại” thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại.
Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du, mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo dòng đạo gốc, ỷ vào những việc lành phúc đức đã làm được, ỷ vào những tài đức đã đắc thủ, mà quên đi Đấng đã ban cho họ, mà họ phải lo kiếm tìm Người, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Lạy Chúa, trong những ngày sống ở trần gian này, xin cho chúng con đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang: Cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời.
Xin cũng giúp chúng con đừng chần chừ, để đến cửa khi cửa đã đóng kín, để rồi phải nghe tiếng Chúa phiền trách: “Ta không biết ngươi là ai. Ta không biết ngươi từ đâu đến”.
Lạy Chúa ! Mỗi ngày trong cuộc sống, xin giúp con biết chiến đấu để qua cửa hẹp, mà vào Nước Trời. Amen.
Lm. Jude Siciliano, OP, đã viết bài suy niệm về “cuộc trở về an toàn”, đã có một tư tưởng thật ngộ nghỉnh như sau:
Nếu từ “hoang đàng” có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn (Luca 15, 1-10), đều là hoang đàng, tuy mỗi người một kiểu.
Người cha về tình thương và người con về tiền bạc vật chất.
Theo thói quen, chúng ta gọi dụ ngôn trong Tin Mừng này là dụ ngôn người con hoang đàng.
Nhưng, nhiều nhà mô phạm cũng đã gọi người cha này cũng là hoang đàng nữa. Bởi ông đã phung phí tình cảm trên hai đứa con một cách vô độ, một cách thái quá, không hề có một giới hạn nào.
Người cha thế gian dù dễ dãi đến đâu, thì cũng phải có một chút hạn chế cho những đứa con của mình.
Đàng này, trước các lỗi lầm của hai con, ông chỉ biết trông chờ, vui mừng và nài nỉ…
Thiên Chúa là Đấng cũng đã từng phung phí lòng xót thương của mình trên các tội nhân như thế.
Người con thứ đòi cha chia gia tài. Với tiền bạc, nó bỏ đi cách vô tình và ăn chơi trác táng. Hết tiền, nó đi chăn heo. Nó muốn ăn những thức ăn của heo ăn, nhưng người ta không cho.
Khi trở về, nó chẳng còn gì cả: Tiền bạc, sức khoẻ, danh dự, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí.
Đang khi người cha thì mòn mỏi đợi chờ con trở về.
Kể từ ngày con cất bước ra đi, người cha trông ngóng, mong con về.
Và đứa con đã trở về thật: Nó về, vì - chẳng có chỗ nào đón nhận nó, - chẳng còn chỗ nào nuôi dưỡng nó, - chẳng còn người bạn nào tiếp đón nó.
Không sao cả, người con trở về là người cha mừng vui rồi. Người cha không cần lời thú lỗi của con, cha đã tha thứ cho con rồi.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn đang bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác đó rất nhanh nhẹn.
Ông thật là người cha phung phí: - Ông đã phung phí sức lực, trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. - Ông đã phung phí tiền bạc, khi chia gia tài một cách dễ dãi. - Ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy, để đón đứa con đi hoang trở về.
Làm thế, chẳng sợ hàng xóm chê cười cho sao ???
Tắt một lời, ông đã phung phí tình yêu thương: - Yêu thương quá độ. - Yêu thương đến vô lý.
Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương?
Chỉ có tình yêu thương, mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
*****
Nhiều người không chấp nhận lối hành xử nhân lành của Thiên Chúa theo dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”.
Kiểu cách suy tư và thái độ của người anh cả là một biểu trưng: - Người anh cả tưởng rằng, Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ: thưởng người có công, phạt kẻ có tội. - Người anh cả không hiểu rằng, Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người bị hư mất, phải chịu cảnh thất bại trong ơn gọi làm người, do chính Ngài tạo dựng nên; - Người anh cả không hiểu rằng, Thiên Chúa hằng gìn giữ, yêu thương, quí mến, nâng niu tất cả nhân loại, trong bàn tay nhân hiền của Ngài. - Và để cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, thì Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ,... để đem người con trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài.
*****
Anh Pierre Marie, người sáng lập Huynh Đoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, giữa những người vô gia cư, đã suy niệm về Chúa Giêsu như người con hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị.
Xin trích dẫn tác phẩm “Người Cha Nhân Hậu” của Henri J. M. Nouwen, trong đó có một đoạn anh Pierre Marie đã viết:
“Đức Giêsu được sinh ra không bởi dòng dõi, ước muốn hay ý chí của con người, nhưng bởi chính Thiên Chúa.
Một ngày kia, Ngài đã để mọi sự dưới chân Người và ra đi với gia sản của Ngài, là tước hiệu làm Con Thiên Chúa của Ngài…
Với giá chuộc tất cả, Ngài đã ra đi tới một miền đất rất xa... nơi mà Ngài đã trở thành như con người và đã làm trống rỗng chính mình.
Chính dân của Ngài cũng đã không nhận biết Ngài và cái giường đầu tiên của Ngài là một mớ nệm rơm hôi tanh, nơi hang lừa, máng cỏ. Giống như một cây đâm rễ nơi đất khô cằn.
Ngài đã bị khinh bỉ là hạng thấp nhất trong con người.
Chẳng bao lâu, Ngài đã nếm sự lưu đày, sự chống đối, sự cô độc... sau khi đã cho đi mọi thứ trong đời, một cách rộng rãi, của cải, bình an, ánh sáng, sự thật, chính đời sống của Ngài... mọi kho tàng hiểu biết, khôn ngoan và mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn đời.
Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Israel, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm, tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm, mà Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài;
Sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một tên bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và lúc đó, linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu;
Rồi, sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa nguồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: ”Ta khát”.
Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm của sự chết.
Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, chỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã bước xuống, để mang lấy hết tội lỗi của chúng ta, để gánh hết những đau thương của chúng ta.
Rồi khi đã đứng thẳng, Ngài kêu lên: ”Phải, Ta đã lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con”.
Và Ngài đã trở lại Thiên Đàng...
Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con, từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các gia nhân:
“Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy... Người Con Hoang Đàng của Ta đã mang tất cả mọi ngườì trở về...”
Và tất cả bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên...”
Lạy Chúa Giêsu, chìa khóa để giải mã mọi suy nghĩ và hành động của Chúa là ở đây, là Tình Yêu, Lòng Thương Xót, sự chờ đợi và tha thứ.
Xin giúp con hiểu rằng: Hơn ai hết, con chính là kẻ hoang đàng, để rồi mỗi ngày con biết mau mắn trở về cùng Thiên Chúa và luôn sống bao dung, kiên nhẫn, với những anh em sống chung quanh con. Amen.
Có một cô bé, cùng với người cha đi ngang qua một cây cầu, mà bên dưới cây cầu có một dòng thác, nước chảy rất xiết.
Cô bé sợ hãi hỏi cha:
“Cha ơi, con có thể nắm lấy tay cha, để con khỏi bị rơi xuống thác nước được không?”
Cha đáp: “Con yêu, không được đâu, chính Cha sẽ nắm tay con đi.”
Cô bé nói: “Như vậy thì có khác gì đâu ?”
Cha đáp: “Rất khác đó con ơi.”
Và người cha nói tiếp:
“Nếu con nắm tay cha và khi có điều gì đó xảy ra với con, rất có thể là con sẽ thả tay cha ra. Nhưng nếu cha nắm tay con, thì cho dù có điều gì xảy ra, cha cũng sẽ không bao giờ buông tay con ra.”
*****
Thiên Chúa không bao giờ buông tay chúng ta ra. Ngài luôn nắm chặt tay chúng ta, để dìu dắt chúng ta đi qua những nẻo đường khó khăn của dòng đời. Cho dù, đã nhiều phen chúng ta cố tình buông tay khỏi tay Chúa. Cho dù chúng ta muốn vuột khỏi tầm tay Chúa, Chúa vẫn níu kéo chúng ta và gìn giữ chúng ta. Vì Chúa biết một khi chúng ta vuột khỏi tầm tay Chúa, chúng ta sẽ phải đối phó với biết bao cạm bẫy của Sa-tan, của sự dữ. Chúa biết một khi chúng ta vuột khỏi tầm tay Chúa, chúng ta sẽ lạc vào những ảo ảnh của danh lợi thú mau qua…
Tình yêu Chúa đời đời vẫn là thế: Nhân ái, bao dung, nhẫn nại và đợi chờ.
Tình yêu của Ngài luôn ân cần với từng người chúng ta. Ngài ví cuộc đời chúng ta như con chiên đi lạc, như đồng tiền đã mất (Lc 15, 1-10). Ngài đã tức tốc đi tìm, mà không màng đến những con chiên còn lại và cũng không tiếc sót mở tiệc ăn mừng khi tìm thấy đồng tiền đã mất.
Ngài còn ví tình yêu của Ngài như người cha nhân ái bao dung. Một người cha đã chia gia tài cho con, thế nhưng nó lại dùng của cải để ăn chơi, để vượt ra khỏi mái nhà của cha. Nó đàn điếm đến nỗi thân tàn ma dại. Thế mà, chỉ cần thấy nó trở về, Cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó, và còn ban cho nó quyền làm con trở, mà nó đã tự đánh mất.
Vâng, tình yêu Thiên Chúa thì bao dung và không giới hạn. Tình yêu của Ngài luôn chậm bất bình và rất mực khoan dung. Tình yêu ấy Ngài đã thể hiện qua sự bao dung dành cho Adam – Eva. Ngài không đoạn tình, dứt nghĩa với 2 ông bà nguyên tổ, dù rằng 2 ông bà đã cố tình quay lưng lại với Chúa.
Ngài không bỏ rơi dân Do-Thái, dân riêng Ngài đã tuyển chọn, cho dù họ cố tình không để Chúa dẫn dắt họ.
Tình yêu ấy, hôm nay Ngài vẫn dành cho chúng ta. Ngài vẫn kiên nhẫn với những lỗi lầm của chúng ta. Ngài vẫn vui mừng khôn xiết khi thấy chúng ta ăn năn trở về. Ngài sẽ ân cần choàng chiếc áo ân sủng và ban thưởng gia tài trên trời cho chúng ta.
Làm người, ai cũng có những lầm lỗi. Ai cũng có những bước chân lầm lạc.
Điều quan yếu là biết tỉnh thức và quay trở về. Đừng cố tình sống trong tội lỗi. Đừng làm ngơ trước tiếng mời gọi trở về của lương tâm, của lề luật. Đừng nại vào lòng thương xót của Chúa để rồi cố tình ngủ mê trong tội.
Hãy nhớ rằng: Chúa không bao giờ buông tay ta ra và rời xa ta, mà chính chúng ta nhiều lần đã ngoan cố, cố tình rời xa tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con luôn ngoan ngoãn bước từng bước theo sự dẫn dắt của Chúa.
Xin Chúa hãy tiếp tục nắm lấy tay con. Con quyết tâm tin tưởng, tín thác trọn vẹn vào Chúa. Xin Chúa giúp con. Amen.
“Người cha 15 lần xuất cảnh, để tìm con, nơi 'động quỷ', kể rằng: Ông Thắng đã bỏ ra hơn 400 ngày, đi dọc 30.000 km đường bộ ở Trung Quốc, mới tìm thấy con gái mình.
Vì sao con ông sang tới đó?
Ông nói: “Năm 2007, như nhiều đứa trẻ mới lớn, Lương - cô con gái thứ ba của ông Thắng, đòi bố mua cho chiếc điện thoại di động, để tiện cho việc học hành.
Từ những tin nhắn vu vơ của người lạ, cô bé 16 tuổi bị một kẻ lừa đảo rủ đi chơi, rồi chuốc thuốc mê, bán sang Quảng Tây (Trung Quốc).
Con gái mất tích, cả nhà bấn loạn. Họ lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm của 11 tỉnh thành miền Bắc, nhưng không tìm thấy con.
Ông cũng đã có báo công an, nhưng sau nhiều ngày vẫn bặt vô âm tín.
Ông vẫn kiên trì đi tìm, cứ đi tìm, rồi lại quay về.
Năm 2008, thình lình cô bé mất tích nhắc về nhà một tin ngắn gọn: Con đang ở Sùng Tả, Quảng Tây, Trung Quốc.
Ông sang Trung Quốc, trong vai khách làng chơi, ônt vào hỏi bà chủ: "Có gái Việt Nam không?".
Sau cái gật đầu, một cô gái trẻ tiến ra. "Ối con!", ông Thắng kêu lên một tiếng rồi cắn chặt miệng và ngăn chận dòng nước mắt đang chảy.
Cô con gái cũng nấc nghẹn, nhưng rồi cũng câm bặt.
"Nếu lúc đó, 2 cha con mà không nén được cảm xúc, thì có khi tôi cũng đã bỏ mạng bên đó rồi".
Tim đập thình thịch, tay chân run lẩy bẩy, ông kịp trấn tĩnh lại, lấy lý do chê cô gái xấu quá rồi bỏ đi.
Ra ngoài, ông nhanh chóng gọi điện cho cơ quan chức năng Trung Quốc, bồn chồn chờ đợi, chỉ sợ chủ chứa phát hiện, rồi đưa cô bé đi xa.
Một lúc sau công an tới, triệt phá địa điểm mại dâm này. Bố con ông Thắng cùng 10 cô gái Việt khác được đưa về nhà, ở Việt Nam.
*****
Nhà vật lý học Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ riêng của con tim”.
Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, tính toán hơn thua, thiệt hại, mà hành động của con tim chỉ bằng tình yêu.
Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu, mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán, không sợ thiệt thân, không mệt mỏi tìm kiếm hạnh phúc cho người mình yêu.
Đó cũng là cách hành xử, mà Chúa Giêsu đã nói đến trong dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất (Lc 15,1-32).
Cả hai dụ ngôn, đều nói lên một tình yêu, vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi, không sờn lòng nản chí, không sợ mệt mỏi tìm kiếm cho ra và cứu được người mình yêu.
Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc.
Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng ngàn đồng để chiêu đãi mọi người bà con lối xóm, khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất như bà kia.
*****
Vâng, Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn, không mệt mỏi tìm kiếm hạnh phúc cho mọi người.
Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay, không ngại hy sinh gian khổ, liều mạng để tìm cho được con chiên lạc, con chiên hư hỏng, rồi mang về đàn chiên duy nhất.
Chính trong sự nhẫn nại, kiên trì, không tính toán của tình yêu, đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng, khi tìm được con chiên lạc.
*****
Cho nên, trong sách Xuất Hành (XH 32,7-11;13-14) đã kể việc dân Ít-ra-en được Chúa thương cứu sống, thoát khỏi cảnh nô lệ Ai-Cập, thì đáng lý ra, họ phải vâng nghe theo Chúa dạy. Nhưng đàng này, họ phản bội, họ nỗi loạn, họ phạm tội thờ bò vàng thay vì thờ Chúa.
Nhưng, qua ông Môsê, Chúa không những thương họ, không giáng phạt họ, mà còn ban cho họ con đàn, cháu đống và đất tràn trề sữa và mật ong như lời Chúa hứa.
*****
Còn trong thơ thứ nhất gởi cho Timothê (1Tim,12-17), Thánh Phaolô nói rằng:
Chúa Kitô đã đến thế gian, đi tìm những kể tội lỗi, tìm mãi, tìm đến nỗi phải chết và sống lại để cứu lấy những kẻ tội lỗi, trong đó có Phaolô.
Nên Thánh Phaolô xác tín rằng: Chúa đã đặt tôi làm gương, nên ai tin vào Chúa Kitô, thì sẽ được cứu và được sống muôn đời.
Tình yêu Chúa dành cho chúng ta là thế đó.
Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta có dám tin và sống cho tình yêu ấy không?
Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời không!
Vì chúng ta là con người, chứ có phải là thánh đâu, mà yêu người vô vị lợi, mà kiên nhẫn tìm kiếm hạnh phúc cho người mình yêu như Chúa được.
Nhưng, nói đi, thì phải nói lại, rằng các Thánh cũng đã là con người như chúng ta, các ngài đã biết sám hối trở về, phó thác đời mình cho Chúa, sống theo Lời Chúa:
Đức Mẹ, Thánh Giuse, thánh Phêrô, Thánh Phaolô hay Thánh Nữ Têrêxa Calcutta…
Con chiên và đồng tiền đánh mất, tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh lợi thú, chạy theo những đam mê trần gian, mà nhiều người đã lầm đường, đã lạc lối và đã đánh mất phẩm giá cao qúy của mình, là hình ảnh Thiên Chúa.
Vì sợ mọi thứ, mà chúng ta không dám hy sinh, để đi tìm, đi kiếm hạnh phúc cho người lầm được lạc lối.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa đã dùng muôn nghìn cách, để tìm lại mọi người. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại chúng ta. Đó cũng là cách, mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt lịch sử ơn cứu độ.
Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề, còn Thiên Chúa thì luôn tín trung.
Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thì yêu thương cả đời.
*****
Tình yêu Thiên Chúa hôm nay vẫn thế.
Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta.
Ngài sẽ đau khổ, nếu chúng ta lạc xa tình Chúa.
Ngài sẽ buồn nhiều, nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú, mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình.
Thiên Chúa không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình, để đổi lấy đồng tiền và lạc thú.
Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho qủy lôi kéo vào hố diệt vong.
Ngài sẽ làm muôn ngàn cách, để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay.
Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít:
Đavít là một con người được Chúa yêu thương, nhưng lại vì đam mê lạc thú, đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết, để chiếm lấy nàng Batseva.
Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít: Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm.
Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít, đã làm cho ông nhận ra lỗi lầm, đã sám hối và đã ăn năn trở về. Và Đavít đã trở nên vị vua thánh vĩ đại.
*****
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa hôm nay vẫn tiếp tục ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim, chứ không bằng trí óc.
Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ, mới giúp chúng ta hiểu được phần nào tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với những kẻ tội lỗi, những người nghèo khó, bé mọn.
Vì Thiên Chúa đã phán:
“Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù có người mẹ nào quên con mình đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên các ngươi bao giờ”.
Dù có những người mẹ nào độc ác bỏ con mình, Chúa cũng không bao giờ bỏ chúng ta.
Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày như Lời Chúa nói:
“Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”.
Lay Chúa, qua Lời Chúa dạy mà con vừa suy tư, xin cho con nhận ra tình yêu của Chúa dành cho con, để con biết ăn năn, sám hối, trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó với những anh chị em sống xung quanh con. Amen.
Có một câu chuyện kể về người thiếu nữ sống trong tội lỗi lâu năm như sau:
Một ngày kia, người thiếu nữ này quyết định tự tử, bởi vì cô nghĩ rằng: Cuộc đời của mình quá tội lỗi, không còn có giá trị gì hay ý nghĩa gì nữa, vì thế không có một lý do gì để kéo dài thêm cuộc sống.
Cô đi bộ tới một bờ biển và dự tính sẽ bơi ra thật xa và sau đó để cho biển cả định đoạt số phận.
Nhưng trước khi bơi ra, cô đi dọc bờ biển vắng lặng, âm thầm nói những lời từ biệt với mọi người thân thuộc.
Bỗng nhiên cô nghe có một giọng nói thật rõ ràng, như ra lệnh cho cô dừng lại. Quay lại phía sau cô chẳng thấy ai. Nhìn xuống dưới đất, cô chỉ thấy những dấu chân của chính cô để lại trên cát, bị những làn sóng đánh vào bờ xóa đi không còn dấu tích gì nữa.
Cô tiếp tục bước đi và lại một lần nữa, cô nghe chính giọng nói vừa rồi nói với cô một cách quyết liệt hơn: “Như những làn sóng biển xóa đi những dấu chân dưới cát, thì Ta, Ta cũng sẽ xóa hết những tội lỗi ở quá khứ của con. Ta muốn con sống và sống yêu thương, chứ không phải là chết.”
Dựa vào linh tính, cô tin một cách chắc chắn đó là giọng nói của Chúa nói với cô.
Sự việc này đã làm thay đổi quyết định của cô và cũng là một sự bắt đầu cho một cuộc sống mới của cô.
*****
Câu truyện trên đây là một minh chứng hùng hồn cho sứ điệp lòng thương xót và nhân từ của Chúa, mà chúng ta đọc thấy trong bài tình Mừng theo thánh Luca (Lc 15,1-32).
Thiên Chúa biết rõ mỗi người chúng ta và tội lỗi của chúng ta, hơn chúng ta biết chúng ta.
Mặc dầu vậy, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, và kêu mời chúng ta hãy ăn năn, hãy quay trở về, để được tha thứ.
Thật vậy, trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta nghe được những câu truyện tuyệt đẹp về Thiên Chúa và lòng thương xót của Người.
Trong bài Tin Mừng này, chúng ta thấy 2 dụ ngôn đầu mới nghe qua, thì xem ra không hợp lý, không thuyết pục, bởi vì:
- Ai mà lại bỏ 99 con chiên, để đi tìm một con chiên lạc. - Ai mà vì một đồng bạc, có đáng là bao, so với công sức, thời giờ, mà người đàn bà kia đã bỏ công ra để tìm lại nó cho bằng được. Đã thế, khi tìm lại được rồi, chỉ vì 1 đồng, mà lại bỏ ra hàng ngàn đồng, để chiêu đãi mọi người bà con lối xóm.
Nhưng khi chúng ta hãy đọc tiếp dụ ngôn thứ ba, thì chúng ta mới hiểu được vấn đề mà Chúa Giêsu muốn nói tới.
Ý của Ngài, không phải là nhằm nói tới con chiên, cũng không phải là nói tới tiền bạc, mà Ngài nói tới con người.
Thật vậy, người con hoang đàng tội lỗi trong đoạn Tin Mừng không phải ở đâu xa, mà có thể là chúng ta, có thể là những người đang sống bên cạnh chúng ta, đang ở giữa chúng ta.
Những người Pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu thường xuyên lui tới với những người tội lỗi, thì họ cho là mất công, vô ích, nên đã xầm xì phản đối.
Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không chính đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng bỏ đi.
Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những con người có những giá trị cao quí.
Chúng ta hãy để ý là:
Trong 2 dụ ngôn đầu “Chiên lạc” và “Đồng tiền đánh mất”:
- Chủ chiên thì quyết tâm đi tìm con chiên lạc cho bằng được, bằng mọi cách, bằng bất cứ gía nào.
- Còn người đàn bà thì cũng quyết đi tìm cho bằng được 1 đồng bạc đã mất.
Nhưng trong dụ ngôn thứ 3, “Người con hoang đàng”, chúng ta thấy người cha đã không đi tìm, nhưng lại kiên nhẫn chờ đợi đứa con sớm hồi tâm, quay trở về mà thôi.
Cũng vậy Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta, cho đến khi chúng ta hồi tâm, thật lòng ăn năn, quay trở về với Người.
*****
Qua những câu truyện dụ ngôn trên, chúng ta khám phá ra rằng:
Con người dù tội lỗi đến đâu, cũng vẫn còn cơ hội để làm lại cuộc đời. Sự hư mất chỉ vì sự từ chối của chúng ta mà thôi.
Thiên Chúa luôn yêu thương và luôn kêu mời chúng ta trở về với Người, để lãnh nhận ơn tha thứ.
Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và tha thứ.
Lòng nhân từ thương xót của Chúa làm cho chúng ta xác tín và vui mừng.
Do đó, chúng ta đừng bao giờ thất vọng, cho dù chúng ta có tội lỗi đến đâu.
Là những Ki-tô hữu, chúng ta phải tín thác vào tình yêu thương bao la và tha thứ của Chúa.
Đây là sứ điệp, mà chúng ta cần phải thường xuyên lập đi, lập lại nhiều lần.
Hy vọng rằng: Qua sự lập đi lập lại, chúng ta sẽ thấm nhuần tình yêu và lòng thương xót của Chúa vào trong trí óc, vào trong tâm hồn và vào trong cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng lòng khoan dung đối với những anh chị em sống chung quanh con, như Chúa đã đối xử với con thật khoan dung và nhân hậu. Amen.
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3 4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4 5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (10 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5 6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6 7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7 8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8 9. Chuyện con gà trống - Sách 9 10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (20 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14 15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15 16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16 17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17 18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18 19. Ngày của bố - Sách 19 20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (4 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3 4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4