*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Bài 1: Một câu chuyện thật cảm động về ông Tê-lê-ma-kus
Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 581 ------------------------------------------
Bạn thân mến,
Một trong những chuyện cảm động nhất, trong những ngày đầu của giáo hội Công Giáo, là chuyện về ông Tê-lê-ma-kus (Telemachus), một ẩn sỹ đang sống trong sa mạc.
Nhưng một hôm, Chúa đã thúc giục ông phải rời bỏ nơi hiu quạnh này, để đi đến thành La-mã.
*****
La-mã, tuy là một thành phố mang danh là "thành phố Kitô giáo" lúc bấy giờ, nhưng ngay trong chính thành phố này, người ta vẫn thường diễn ra những trò Giác Đấu, dã man, giết người, man rợ, đến khủng khiếp.
Ở đó, người ta đánh nhau, chém nhau, giết nhau, trước sự chứng kiến của đám đông khát máu, hò hét, cổ vũ. Họ coi những trò Giác Đấu, man rợ, dã man, đến khủng khiếp này, chỉ là một thứ vui chơi, giải trí, bình thường !!!!
*****
Tê-lê-ma-kus đã đến xem trận đấu.
Hôm đó có khoảng 80.000 người có mặt trong hí trường, để xem những con người thi đấu, tàn sát nhau.
Tê-lê-ma-kus tự hỏi:
Những con người này, không phải là con cái của Thiên Chúa hay sao?
Ông rùng mình trước những cảnh quá tàn ác khinh khiếp.
Ông vội vã rời khỏi chỗ ngồi, nhanh chân, chạy xuống giữa sân của hí trường, và đứng giữa những người giác đấu, để ngăn cản họ, để kêu gọi họ dừng lại.
Ông bị xô qua một bên.
Nhưng, ông lại tìm cách quay trở lại, để tiếp tục can ngăn.
Đám đông khán giả trong hí trường đang say máu, bỗng mất hứng, nên đùng đùng nổi giận. Họ đồng loạt đứng lên, hò hét, ném đá vào ông, để bày tỏ sự phẩn nộ, phản đối.
Nhưng, ông vẫn cố vẫy vùng, để trở lại, để đứng giữa những người giác đấu, để tìm cách ngăn cản cuộc đấu.
Viên phán quan chủ trì buổi vui chơi hôm đó, đã đứng lên, giơ cây gậy quyền lực lên cao, truyền lệnh phải giết Tê-lê-ma-kus ngay lập tức.
Thế là một lưỡi gươm lóe sáng giữa ánh nắng, đã xuyên qua người của Tê-lê-ma-kus. Và ông đã chết liền ngay tại chỗ.
Đột nhiên, một sự im lặng bao trùm cả Hí Trường.
Đám đông bắt đấu nhận thức được một điều quan trọng:
Một vị thánh đã chết!
Và một biến chuyển khác thường đang xảy ra:
Đó là, chỉ trong vài ngày sau đó, tại La-mã, người ta đã quyết định:
Từ nay về sau, sẽ không còn những trò giác đấu nào được phép diễn ra nữa.
Một người đã hy sinh mạng sống của mình, để làm sạch cho cả một đế quốc La mã vĩ đại.
Phải có một người bắt đầu cuộc cải cách, từ nơi anh ta, nơi gia đình anh ta, hay chính nơi anh ta làm việc hằng ngày, thì cuộc cải cách mới thành sự.
Một khi anh ta đã bắt đầu rồi, thì người ta sẽ thấy những điều kỳ diệu dần dần sẽ xảy đến thật bất ngờ !!!.
*****
Khi Chúa Giêsu hỏi dân chúng: “Ta sẽ lấy gì mà sánh ví Nước Trời ?”
Khi được Chúa hỏi, mọi người đã hình dung một bức tranh được phác họa, sẽ rất hoành tráng, sẽ rất vĩ đại, sẽ rất huy hoàng.
Nhưng họ đã phải kinh ngạc biết bao, khi nghe Chúa trả lời:
“Nước Trời giống như hạt cải”.
Chúa hoàn toàn hiểu rằng, kẻ thù đánh giá sự hiện diện của Ngài và đám quần chúng nghe Ngài, cũng chẳng có gì là quan trọng.
Có lẽ trong đầu óc của các môn đệ sống bên cạnh Ngài, cũng nảy sinh những nghi ngờ như vậy.
Bởi, họ chỉ vỏn vẹn là một nhóm người, ít ỏi, không quyền thế, và không ai biết đến.
Phong trào, mà Đức Chúa Giêsu đang dẫn đầu, có thể nào lại là một nước vinh hiển, mà các tiên tri đã báo trước ư?
Họ thì quá nhỏ bé, mà thế giới thì mênh mông, làm sao họ có thể thay đổi và chinh phục được cả thế giới này ?
Trong ví dụ này, Chúa muốn nói với các môn đệ, với những người theo Ngài, và với chúng ta hôm nay rằng:
Hãy kiên tâm, bền chi, không nên ngã lòng.
Mỗi chúng ta phải làm chứng cho mọi người, nơi chúng ta đang sống và làm việc, để họ thấy sức mạnh của Nước Trời.
Mỗi chúng ta, tuy là những khởi đầu nhỏ bé, nhưng từ đó, Nước Trời sẽ được lớn lên, để cuối cùng, các nước trên trái đất này, đều sẽ trở thành Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho nước Chúa trị đến, bắt đầu từ chính nơi bản thân mỗi người chúng con.
Lạy Chúa, trong những bổn phận hàng ngày, dù âm thầm, xin cho chúng con biết tin tưởng, cậy trông và phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho công việc của chúng con được thực hiện theo đúng thánh ý Chúa, để đạt được kết quả tốt đẹp nhất.
Như thế chính chúng con sẽ làm ích cho bản thân chúng con, cho tha nhân và cho Nước Chúa được hiển trị.
Lạy Chúa, xin cho con biết kiên trì gieo Lời Chúa, dù gặp điều kiện thuận lợi hay không thuận lợi. Amen.
Cha thánh Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội.
Một hôm, sau khi giảng về Bài Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:
- Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?
Thánh nhân trả lời:
- Tin Mừng đã dạy: “Ai tác vào má phải ngươi, hãy giơ má trái cho nó nữa.”
Họ thưa:
- Chuyện này khó quá, chắc làm không nổi.
Thánh Antôn nói:
- Nếu không, thì ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
Nhóm giáo dân thưa:
- Việc này vẫn quá khó, không thể để yên những người đã xúc phạm đến mình được.
Thánh Antôn nghe xong, quay sang bảo người môn đệ:
- Con hãy đi nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu đuối, ta hãy cầu nguyện cho họ.
*****
Là nhà giảng thuyết, là nhà truyền giáo, thế nào cũng có những lần gặp thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng.
Ngay Chúa Giêsu, nhà giảng thuyết đại tài, thế mà cũng đã từng thất bại trước nhóm bà con xóm làng quen thuộc, tại nơi chính quê hương mình.
Đọc Tin Mừng theo thánh Marcô (Mc 6,1-6) chúng ta thấy Chúa Giêsu từ Capharnaum trở về thăm quê nhà, và đã có dịp vào trong hội đường để giảng dạy.
Tại Capharnaum, Chúa đã làm nhiều phép lạ.
Có nhiều phép lạ, nghĩa là có nhiều người đã tin Chúa, nhiều người đã lũ lượt theo Chúa, đến quên ăn, quên ngủ.
Việc này đã gây xôn xao khắp miền Galilê, và chắc chắn những người đồng hương của Chúa cũng đã nghe biết.
Bây giờ, Chúa trở về quê nhà với nhóm môn đệ, có lẽ ai cũng tưởng những người anh em đồng hương sẽ hân hoan đón nhận.
Nhưng tình hình chuyển biến khác hẳn:
Khi nghe Chúa đọc và giải nghĩa Thánh kinh ở Hội đường, họ cũng nhận là có những điều hay, nhất là trong cách giảng dạy.
Nhưng nghĩ tới gốc gác tầm thường của Chúa, họ cho Ngài là một người không đáng tin. Mà bởi không tin, nên họ cũng không nhận được một phép lạ nào.
Có thể nói Chúa dã thất bại, tại nơi chính quê hương mình.
*****
Cũng vậy, Giáo Hội nhiều lúc đã thất bại.
Có người nói: “Tôi tin Đức Kitô, nhưng không tin Giáo Hội”.
Thực ra, Giáo Hội lại chính là khía cạnh nhân tính của Đức Kitô.
Giáo Hội gồm những con người: các giám mục, linh mục, giáo dân. Những con người này, chẳng những quá quen thuộc, mà có khi còn bất toàn nữa.
Nhiều người thời nay đã vấp ngã vì Giáo Hội, cũng như những người đồng hương của Chúa Giêsu đã từ chối, không tin nhận Ngài.
Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng những lời than phiền:
“Chúa Giêsu rất đỗi ngạc nhiên vì họ thiếu lòng tin”.
Thực ra, Chúa đâu có ngạc nhiên, vì Chúa đã dựng nên con người có tự do.
Chúa quá rõ tâm địa của những con người đó, bởi vì họ có tự do, nên có ngày họ sẽ nổi lên chống lại Chúa, sẽ làm theo ý họ, chứ không theo ý Chúa.
Nhưng một khi đã cho con người có tự do, thì Chúa không bao giờ rút lại, bởi Chúa tôn trọng sự tự do của con người, dù chúng làm cho Chúa buồn lòng.
Chính vì vậy, mà chúng ta thấy: Ân huệ đức tin đúng là một ơn cao quí.
Lạy Chúa, chúng con tin Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc nhân loại, để cứu chuộc chúng con.
Xin ban ơn đức tin cho những người đã được nghe biết Tin Mừng, để họ biết đón nhận Chúa và để họ cũng được Chúa cứu độ.
Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi những bảo thủ, khỏi những tư tưởng cũ mòn, khỏi sự đóng khung về trí tuệ và tâm linh, để con nhận ra Chúa trong môi trường sống, nhờ đó, con và mọi người sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa. Amen.
Vì hoàn cảnh bị điếc, nên tôi bị thiệt thòi rất nhiều, đến nỗi những người khác coi đây là việc đương nhiên, là chuyện bình thường.
Tôi không thể nghe tiếng la hét của các em bé đang vui chơi, không thể nghe tiếng chim hót, tiếng gió thổi trên cây. Tôi không thể nghe những lời an ủi, động viên hoặc cảnh báo.
Ít người chịu cố gắng thông tin cho người điếc. Bởi họ thấy: điều đó là rất tẻ nhạt.
Tôi cảm thấy cô đơn kinh khủng.
Thực tế tôi cũng bị câm, nó càng làm tăng thêm cảm giác bị loại trừ và cô độc.
- Tôi không thể giãi bày. - Tôi không thể diễn tả cảm giác của tôi.
Những người vô tình đã cười nhạo sự nói lắp của tôi.
Tôi không có cơ hội để đóng góp gì cho cộng đoàn.
Hậu quả là, tôi cảm thấy vô dụng và trở thành vô dụng.
Người ta ngại chạm vào tôi.
Bị tàn tật là gặp khó khăn. và khi bạn khó khăn, người ta lại càng sợ bạn.
Hơn thế nữa, tôi còn đi đến chỗ tin rằng: sự tàn tật của tôi, là do Thiên Chúa trừng phạt.
- Tôi đầy lòng thương cảm cho chính mình.
- Tôi ao ước được người ta thương xót.
- Tôi tin chắc là không một ai hiểu và thương xót tôi.
Cho đến một ngày kia, tôi biết được Đức Giêsu.
Dù Người là dân Do thái, còn tôi là dân ngoại, tôi cũng không ngã lòng thối chí đi tìm sự giúp đỡ của Người.
Và đây, quả là một kinh nghiệm thật tuyệt vời !
Việc đầu tiên Người làm: là kéo tôi ra khỏi đám đông, và dành cho tôi một sự quan tâm trọn vẹn và thật đặc biệt của Người.
Điều này làm cho tôi cảm thấy rằng: Người coi tôi quan trọng.
Đồng thời Người cứu tôi khỏi sự tò mò của những người lắm chuyện.
Người không nói với tôi, như thể Người tiết kiệm lời nói.
Trái lại, Người đã sờ vào tôi. Người đã làm cho tôi cảm nhận điều, mà tôi không thể nghe được.
Tôi coi đây không có gì là thô lỗ, hay vội vàng, khi Người sờ tôi.
Đó là một cử chỉ dịu dàng, nhẫn nại và yêu thương.
Người đặt ngón tay Người vào lỗ tai tôi.
Rồi Người đặt ngón tay Người vào miệng Người, lấy ra một ít nước bọt trị bệnh và đặt nó vào lưỡi tôi.
Kế đó, Người ngước mắt lên trời, để cho tôi thấy rằng: đây là sự giúp đỡ đến từ Thiên Chúa.
Rồi với một tiếng thở dài lớn, Người nói: “Hãy mở ra !”.
Và thình lình, tai tôi được mở ra và lưỡi tôi trở lại bình thường. Tôi đã được chữa khỏi !
Người nói với tôi: chớ nên loan truyền điều Người vừa làm cho tôi.
Nhưng tôi không thể giữ im lặng.
Có quá nhiều điều bị dồn nén bên trong tôi, đến nỗi: tôi nói liên tục, nói không ngừng.
Tôi không thể đi qua một người nào trong phố mà không nói: “Xin chào”.
Tôi không thể giữ im lặng khi gặp một người đang đau khổ, nếu tôi cảm thấy một lời của tôi có thể nâng đỡ người ấy.
Tôi cũng không thể đứng nhìn hành động bất công, mà không tố giác nó.
Nhưng không bao lâu, tôi đã nhận ra rằng: tôi đã nói quá nhiều.
Tôi đã không lắng nghe.
Điều này khiến tôi làm tổn thương người khác.
Vì thế, tôi quyết định cố gắng lắng nghe người khác.
Điều này có nghĩa là tôi phải ngừng nói. Tôi cũng nghe những âm thanh của thiên nhiên, của âm nhạc, của tiếng cười và tiếng khóc.
Tôi đã khám phá một số điều lý thú trong suốt những tháng đầu tiên, sau khi tôi khỏi bệnh.
Tôi thấy mỗi người đều có những trở ngại nào đó ngăn cản họ sử dụng trọn vẹn tặng vật nói được, như e thẹn, vô tình, vô cảm …
Và họ đều có những trở ngại nào đó ngăn cản họ nghe tốt, như thiên kiến, phân tâm, khước từ việc lắng nghe…
Tại sao tôi nói với bạn điều đó ?
Chính là để tránh cho số phận của những người có tai, nhưng không thể nghe và có lưỡi nhưng không thể nói.
Từ kinh nghiệm của tôi, tôi đã khám phá ra điều này: bi kịch lớn nhất, không phải là sinh ra điếc và câm, nhưng là có tai mà không chịu nghe và có lưỡi mà không chịu nói điều phải.
Nghe và nói là hai tặng vật lớn của Thiên Chúa ban cho.
Nhưng nếu không có một tâm hồn có khả năng cảm nhận lòng thương xót, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể sử dụng tốt việc nghe và nói.
Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nghe đúng, và chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nói đúng.
Đấng đã sờ vào tai tôi và lưỡi tôi, cũng sờ vào tâm hồn tôi.
Có như thế, thì mọi việc mới làm tôi đổi mới.
Đó là một phép lạ buổi sáng, trước ánh mặt trời.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo thánh ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái trong đời sống thường ngày: Sẵn sàng chia sẻ cơm bánh cho những kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho những người đau ốm, mang áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem sự che chở cho những kẻ không nhà. Nhất là để con đem tình thương khoan dung tha thứ của Chúa, để làm hòa với những kẻ đang thù ghét làm hại con.
Lạy Chúa, xin giúp con thực hiện những quyết tâm hôm nay. Amen.
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và hoạ sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh có tựa đề:
“Người bị khinh chê chối bỏ”.
Hoạ sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính toà Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc, ở trung tâm Luân Đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa.
- Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa.
- Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa.
- Một chức sắc trong hàng giáo phẩm, hiên ngang, ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô.
- Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô, mà không nhìn về Người.
- Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục con đường đi của mình.
*****
Ông Bec-lây (Bilighem Becley), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức hoạ này như sau:
“Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ mọi thứ chuyện, cả những chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa.
Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự đã xảy ra, ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước đây, nơi hang đá Bê-lem.
Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ, Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng.
Rồi Chúa hỏi các môn đệ xem: Người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác.
- Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả phục sinh, - người nói là Êlia, - người khác bảo là một ngôn sứ...
Tất cả đều nói đúng, nhưng chưa đủ.
Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế”.
Lời tuyên bố của Phêrô, chính là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn có.
Nhưng Chúa cũng đã nói ngay: đó là do Cha Trên Trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu.
Phêrô và các tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ, và hướng dẫn, để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế.
Lời tuyên bố này, rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra, mà Phêrô cũng không hiểu tường tận lời mình nói.
Bởi ngay sau đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ biết rõ về số phận của Người sẽ phải chịu khi lên Giêrusalem: Chúa sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.
Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa đã thất bại, là thua kẻ thù.
Vì thế, Phêrô liền kéo Chúa ra riêng một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra.
Vì thế, Chúa Giêsu mới nổi giận, đã mắng ông một lời khá nặng: “Này Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy!”
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đây là điều quan trọng, vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người, cũng phải đi theo con đường này:
“Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được sự sống mình”.
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu biết Chúa hơn, để con biết vác thập giá hàng ngày mà đi theo Chúa và để cuối cùng, con cũng sẽ được vào hưởng vinh quang với Chúa trên Thiên Đàng. Amen.
Trong cuốn sách nhan đề Thuật suy niệm (How to Meditate) của mình, Lawrence Leshan có kể lại câu chuyện sau đây:
Một vị tu sĩ già đã cầu nguyện nhiều năm, xin Chúa hiện ra, để củng cố niềm tin của ông. Nhưng điều đó đã chẳng bao giờ xảy ra.
Thế rồi, khi ông hoàn toàn không còn hy vọng điều đó xảy ra nữa, thì một ngày nọ Chúa lại hiện ra với ông.
Vị tu sĩ già quá đỗi vui mừng.
Thế nhưng, ngay giữa lúc ông đang được diện kiến với Chúa, thì một hồi chuông của tu viện lại vang lên, báo hiệu đến giờ phát chẩn cho các kẻ nghèo khổ, hàng ngày vẫn tụ tập lại ở cổng tu viện để xin ăn.
Hôm nay, lại đến phiên vị tu sĩ già nài ra phát chẩn cho họ. Và nếu ông chậm trễ, không ra kịp, thì đám dân bất hạnh kia sẽ lặng lẽ rời tu viện, bởi họ nghĩ rằng: ngày hôm nay tu viện chả có gì để cho họ.
Vị tu sĩ già bị xâu xé: giữa nhiệm vụ trần thế và cuộc diện kiến với Chúa.
Tuy nhiên, trước khi hồi chuông chấm dứt, ông đã quyết định ngưng cuộc diện kiến với Chúa, cho dù lòng ông đang trĩu nặng, vì phải đi phát chẩn cho đám dân nghèo.
Sau một giờ đồng hồ, khi đã làm xong nhiệm vu, vị tu sĩ già trở về phòng mình.
Khi vừa mở cửa ra, ông không thể nào tin vào mắt của mình được nữa: Bởi Chúa vẫn tiếp tục ở lại trong phòng chờ đợi ông.
Thế là vị tu sĩ già quì gối xuống dâng lời cảm tạ.
Chúa liền nói với ông:
“Này con, giả như con đã không chịu đi ra phát chẩn cho đám dân nghèo, thì Ta đã không ở lại đây đâu!”.
***
Câu chuyện trên đây có ý nghĩa tương tự như bài Tin Mừng theo thánh Marcô (Mc 9, 29-36).
Cũng như các môn đệ, vị tu sĩ già đã từ bỏ mọi sự, để làm theo ý Chúa Giêsu.
Cũng như các môn đệ, vị tu sĩ ấy đã biết quay lưng lại với sự thịnh vượng tâm linh ở đời sau.
Và cũng như các môn đệ, sau khi đã làm tất cả những điều ấy, ông học được bài học tâm linh quan trọng nhất trong cuộc đời ông:
Ông đã học được rằng: phương cách tốt nhất để phụng sự Chúa, không nhất thiết là phải từ bỏ mọi sự, không nhất thiết là phải quay lưng với thế gian và ẩn mình vào một tu viện nào đó, không nhất thiết là phải cầu nguyện lâu giờ hay thị kiến những cảnh tượng trên trời.
Mà phương cách phụng sự Chúa tốt nhất, là thực hành điều cơ bản hơn những việc đó rất nhiều, đó là phục vụ anh chị em chúng ta, đặc biệt những người ít may mắn nhất.
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Ngài bài học này, qua câu nói:
“Ai muốn là kẻ cao nhất, thì hãy làm người thấp nhất để phục vụ tất cả mọi người”.
Điều này gợi lên một vấn đề rất quan trọng. Làm sao áp dụng thiết thực lời dạy của Chúa Giêsu vào đời sống riêng của mỗi người chúng ta?
Chúng ta nhận thức được ngay rằng: câu trả lời sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào từng người, bởi vì mỗi người sẽ trả lời một cách, không ai có thể trả lời thay cho ai, nghĩa là mỗi người phải tự mình trả lời.
Tuy nhiên, câu trả lời của chàng thanh niên đầy can đảm và thiện chí sau đây, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ thêm vấn đề:
FB Ted Kennedy Junior, lần đầu tiên được cả nước biết đến, khi cậu bị cưa đi một chân, vì ung thư, ở tuổi 12.
Sau đó, thường xuyên báo chí đăng hình cậu trượt tuyết bằng một chân hoặc chơi đá banh với chiếc chân gỗ giả.
Tuy nhiên, giờ đây, người ta còn thấy được một khả năng khác nữa thật tuyệt vời nơi cậu, là:
Cậu thường đi khắp nơi trong vùng, để ngỏ lời với các kẻ tàn tật, nhất là những người còn trẻ.
Trước mặt gia đình và bè bạn, cậu luôn tỏ ra lạc quan với sự tật nguyền của mình.
Cậu nói: “Tôi không cảm thấy khác biệt với mọi người”.
Và cậu đã thẳng thắn nhìn nhận: Cậu đã được các bác sĩ giỏi nhất điểu trị.
Cậu vẫn thường thổ lộ:
“Một trong những lý do khiến tôi cố gắng giúp đỡ những kẻ tật nguyền khác, chính là tôi muốn đền trả món nợ ấy. Tôi chả mất công bao nhiêu để làm cho kẻ khác được tốt đẹp hơn, thế thì tại sao tôi lại không cố gắng làm”.
Câu sau cùng này rất đáng được lập lại: “Tôi chả mất công bao nhiêu để làm cho kẻ khác được hạnh phúc hơn, thế thì tại sao tôi lại không cố gắng làm?”.
*****
Trong chúng ta, ít người được rảnh rỗi như chàng Ted Kennedy và cũng ít người có được thời giờ và đảm bảo tài chánh, để làm công việc như cậu Ta.
Tuy nhiên, tôi vẫn thường thắc mắc tự hỏi: giả như anh chị em và tôi, có được sự rảnh rỗi và đảm bảo về tài chính như Ted Kennedy, thì có được bao nhiêu người trong chúng ta, sẽ sử dụng những đặc ân này một cách quảng đại như anh ta?
Từ đó, chúng ta trở lại câu hỏi nguyên thủy, là chúng ta phải làm thế nào, để tự mình trả lời lời mời gọi của Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay:
“Kẻ nào muốn nên cao nhất, thì hãy làm người thấp nhất và làm tôi tớ cho mọi người”.
Như chúng ta đã biết: không ai có thể trả lời câu hỏi trên dùm cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời lấy.
Và như thế, bài Phúc Âm hôm nay vừa là lời mời gọi, vừa là một sự thách đố:
- Trước hết nó mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống và tự vấn chính mình thường xuyên xem: ngay lúc này đây, chúng ta đã làm việc với tinh thần phục vụ thế nào, cho dẫu chúng ta là một người mẹ đang chăm sóc lo lắng cho con cái còn nhỏ dại, hay là một công nhân đang làm việc tại một công sở hay một xí nghiệp nào đó?.....
- Thứ đến, bài Tin Mừng còn khuyên chúng ta: mỗi ngày nên dành ra ít phút để tự kiểm điểm mình xem, chúng ta có cách nào khác, để cho công việc chúng ta đang làm mang nhiều tinh thần lợi ích phục vụ, hơn hiện nay không?
Để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng hoà nhạc ở Âu châu, để trở thành một bác sĩ thừa sai, phục vụ cho người nghèo khổ ở Phi Châu.
“Tôi không biết số phận bạn sẽ ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: “Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc.”
Chúng ta hãy lập lại những lời này một lần nữa:
“Tôi không biết số phận bạn sẽ ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là “Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc”.
Lạy Chúa, xin ban cho con ánh sáng đức tin, để con nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày, nơi những khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách:
- những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; - những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; - những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương; - những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này:
"Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta" Amen.
Có câu chuyện về một viên đại úy hải quân, khi về hưu, ông được mời làm thuyền trưởng trên một chiếc tàu đưa khách đến đảo Shetland (thuộc một quần đảo tại Scotland – Anh Quốc) để tham quan trong ngày.
Trong một chuyến đi chơi, tàu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy già, khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì hôm đó là một ngày trời đẹp và biển đang êm ả, bình yên.
Nhưng biển bình yên không lâu, bởi sau đó không lâu, thì một trận cuồng phong bất ngờ đã thổi tới, làm cho chiếc tàu chao đảo, chồm lên, chồm xuống thật dữ dội.
Các hành khách hoảng sợ, liền chạy đến ông đại úy thuyền trưởng, để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ.
Nhưng ông đáp:
“Tôi đã cầu nguyện lúc trời yên, biển lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi còn phải lo cho con tàu của tôi”.
Đây phải là một bài học cho chúng ta:
Nếu chúng ta không thể, hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình, thì chúng ta sẽ khó có thể tìm thấy Người, khi cơn rối loạn chụp xuống. Bởi chúng ta đang trong tình trạng hoảng sợ.
Còn nếu chúng ta đã biết tìm đến Người, để phó thác nơi Người trong những lúc bình yên, thì hầu như chắc chắn là chúng ta sẽ tìm thấy Người, khi có sóng gió nổi lên (Theo Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr. 458).
*****
Chúa Giêsu cùng các môn đệ xuống thuyền, thuyền vẫn lướt sóng hướng về bến, bỗng mộ cuồng phong nổi lên (Mt 8, 23-27).
Phong ba bão táp, với những cơn sóng nhấp nhô như muốn nhấn chìm con thuyền, mọi người đều cố gắng chống chọi với cơn phong ba, mà lòng đầy sợ hãi. Nhưng “Người vẫn ngủ”.
Hình ảnh này phác họa cho chúng ta một hình ảnh thê thảm, bởi hình như là Thiên Chúa bỏ mặc con người, trước phong ba bão tố cuộc đời.
“Ngài ngủ” như là hình ảnh bất lực của Thiên Chúa giữa những tuyệt vọng, đau khổ của con người, hình ảnh bất lực của Thiên Chúa trước sự dữ.
Chúa ngủ, là biểu tượng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá: Chúa Giêsu như đã thất bại, quyền lực sự dữ tưởng như đang ngự trị…
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy,
đó là hình ảnh về Ngài sẽ trỗi dậy ngày Phục sinh và sự Phục sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ, cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo hội.
- Người trỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ!.
- Ngài trỗi dậy từ giấc ngủ, và Ngài chế ngự mọi sóng gió phong ba.
*****
Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh tôi và bạn, ngay cả khi bình an, hay khi chúng ta vất vả lao đao giữa dông tố ngoài biển khơi.
Trong bão tố phong ba, chúng ta cũng hãy hành động như các tông đồ xa xưa: chúng ta hãy đánh thức Ngài trỗi dậy, để xin Ngài cứu giúp:
“Lạy Thầy, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất” (Lc 8,25).
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong đức tin, giữa những cơn phong ba thử thách của cuộc đời. Xin cho chúng con luôn vững tin…
Xin Chúa mở mắt cho con, để con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời sống con.
Xin cho con ý thức rằng: Con cần đến Chúa, hơn cơm bánh hằng ngày, hơn không khí để thở. Bởi Chúa là sức mạnh, là khiên thuẫn chở che con.
Xin Chúa gìn giữ con luôn vững mạnh trong đức tin, giữa những cơn phong ba thử thách của cuộc đời. Amen.
Năm 1940, có một thanh niên Tin Lành, người Thụy Sĩ, dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo lánh, trong cảnh hoang tàn đổ nát của chiến tranh.
Một bà cụ già khẩn khoản nói với người thanh niên ấy:
"Xin cậu hãy ở lại đây với chúng tôi, vì như cậu thấy đó, chúng tôi đang phải sống trong cảnh hết sức cô lập."
Người thanh niên ấy, ngày nay được cả thế giới biết đến, với danh xưng thân thương là Thầy Roger.
Ðối với thầy Roger, lời mời của bà cụ nói lên ý muốn của Chúa dành cho thầy.
*****
Khi ấy, nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh, đất nước bị chia đôi, ranh giới giữa khu chiếm đóng và khu tự do xuyên qua làng Taizé.
Thầy Roger đã kiếm cho mình được một nơi ở và bắt đầu một đời sống cầu nguyện và suy niệm.
Nhưng, hoàn cảnh cụ thể đã đặt thầy trước một tình huống cực kỳ nguy hiểm, bởi nơi đây toàn là những con người bị Ðức Quốc Xã (quân đội Hít-le) truy lùng để tiêu diệt.
Nơi đây, thầy đã đón tiếp và che giấu những người Do Thái đáng thương ấy. Một mình thầy đứng ra săn sóc, an ủi, những người nam và nữ chạy trốn quân đội Hít-le.
Nhưng vì quân Ðức Quốc Xã truy lùng những đối tượng này quá gắt gao, nên thầy buộc phải trở về quê hương Thụy Sĩ.
Năm 1944, thầy Roger đã trở lại Taizé.
Lần nầy, cùng với 3 đồng chí quyết tâm gầy dựng nên cộng đoàn tu sĩ đại kết rộng mở.
Mục tiêu, mà cộng đoàn này nhắm thể hiện, là trở nên như "bài dụ ngôn sống động về một đời sống chung hiệp".
Cộng đoàn chủ tâm dâng lời cầu nguyện, để góp phần làm cho các Giáo Hội Kitô được hòa giải.
Hai chủ đích ở tâm điểm của sứ mạng theo thầy Roger là:
- Phải dám liều, thân dấn mình vào việc giúp đỡ những người nghèo nhất - và hoà giải với đức tin công giáo.
Ngay từ ban đầu, thầy Roger đã nối kết với Roma, bằng những mối dây của niềm tin tưởng.
Thầy đã kết thân với 3 vị Giáo Hoàng, là Ðức Gioan XXIII, Ðức Phaolô VI và Ðức Gioan Phaolô II.
Thầy nói: "Ðức Gioan XXIII đã là cha linh hướng đích thực cho chúng tôi.
Chính ngài đã ủng hộ cộng đoàn Taizé, mà ngài gọi là mùa xuân được chào đời."
Ngày nay, cộng đoàn Taizé có cả trăm thành viên Công Giáo, cũng như Tin Lành, thuộc nhiều truyền thống khác nhau, đến từ hơn 25 quốc gia trên thế giới.
Họ không nhận quà tặng, nhưng tự mình lao động, để góp phần nuôi sống cộng đoàn và chia sẻ với những người khác.
Họ cũng không nhận cho mình tài sản kế thừa, nhưng chỉ nhận làm quà tặng cho ngươì nghèo mà thôi.
Kể từ những năm 50, cộng đoàn Taizé đã phái thành viên của mình đến sống ở nơi những môi trường nghèo khổ nhất trên thế giới.
Riêng về nữ tu, thì có hội dòng thánh Anrê đã từng được thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo đã 7 thế kỷ nay.
Kể từ 1966, hội dòng này đã phái người đến ở một làng kế cận Taizé, để tham gia việc đón tiếp các khách từ thập phương tới.
*****
Ảnh hưởng của Taizé về đại kết, nhất là với những người trẻ ở Âu Châu, thì thật là rõ nét:
- Ðể nâng đỡ người trẻ, cộng đoàn này đã khơi động một cuộc hành trình về sự tin tưởng lẫn nhau trên toàn cầu.
Taizé không tổ chức người trẻ thành phong trào qui về Taizé, nhưng khuyến khích họ mang lại bình an, hoà giải, niềm tin tưởng lẫn nhau, ngay nơi những thành phố, những đại học, những sở làm việc, những giáo xứ….
Và như vậy, người trẻ được khuyến khích sống chung hiệp với mọi thế hệ.
Về cuối mỗi năm dương lịch, Taizé có tổ chức một cuộc tập họp những người trẻ tương đối lớn, trong 5 ngày.
Cuộc họp giới trẻ đại kết vào cuối năm 1994, thu hút hơn một trăm ngàn người trẻ, từ nhiều nước tới họp tại Paris của nước Pháp.
Mỗi dịp tập họp như vậy, thầy Roger trao gửi đến tận tay người trẻ một bức thư được dịch ra trên 50 thứ tiếng.
Nội dung thư đó bao gồm Lời Chúa, như chất liệu để suy niệm suốt cả năm, cho tới cuộc họp cuối năm tới.
Thư đó, vị sáng lập cộng đoàn Taizé thường viết từ một nơi nổi tiếng, về mức sống nghèo của người dân như Calcutta, Chili, Haiti, Eâtiôpi, Phi Luật Tân, Phi Châu….
Bởi đâu thầy Roger thực hiện được những việc có ý nghĩa thiêng liêng như vậy?
Có lần thầy cắt nghĩa cho thấy: thầy đã nhận sứ mạng góp phần hoà giải giữa các Kitô hữu, từ nơi bà ngoại thầy.
Ngoại của thầy đã từng trải qua hai cuộc chiến (1870 và 1914-1918) và đã từng dặn dò cháu Roger Schultz khi còn tấm bé rằng:
"Cháu đừng trải qua những điều bà đã phải trải qua! Ðừng chấp nhận nhìn cách bàng quan những điều bà đã mắt thấy tai nghe! Hãy góp phần chuẩn bị để Âu Châu được bình an, nhờ biết sống hoà giải giữa các Kitô hữu."
Tuy là tín hữu Tin Lành, ngoại đã thường chọn đến nhà thờ Công Giáo, để kín múc lấy sức mạnh hoà giải từ bí tích Thánh Thể.
Thực ra, ngoại không chỉ nói, cũng không chỉ cầu nguyện, nhưng đã nêu gương sống động, nhờ biết dấn thân tiếp đón những người già, phụ nữ và trẻ em, phải chạy giặc dưới làn bom đạn.
Ngoại đã kiên trì làm việc thương người đó, hầu như tới phút cuối cùng của đời ngoại.
*****
Biến cố quyết định cho việc thầy Roger hiến dâng đời mình cho công cuộc hoà giải xảy ra khi thầy lên 17.
Khi ấy, thầy mắc bệnh lao phổi và nghiệm thấy cái chết không xa.
Thầy đối diện với ý nghĩa cuộc đời và tự hỏi: do đâu xảy ra đau khổ, hằn thù khiến các dân tộc sát hại nhau.
Hỏi rằng: có con đường nào giúp người này hiểu người kia, để cùng nhau xây dựng hoà bình chăng?
Ðiều trở nên minh nhiên nơi nội tâm thầy Roger là cần phải chữa trị trái tim con người.
Thầy nghe tiếng nói thúc giục thầy rằng:
"Nếu quả thật có con đường hoà giải đó, thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi."
Kể từ ngày thầy Roger nghe thấy lời thúc giục đó, và thầy quyết tâm tận hiến cả cuộc đời, để đạt cho được mục đích lý tưởng này, để có được sự hoà giải và đại kết trong cộng đồng nhân loại.
Nay, thầy đã 84 tuổi và quyết định ấy mỗi ngày càng thêm khởi sắc.
*****
Hỏi rằng: Tinh thần hoà giải và đại kết, mà thầy Roger đã khơi dậy nơi các Kitô hữu Âu Châu và trên thế giới, nhất là nơi người trẻ, có liên quan gì đến đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô, nói về dân làng Nadarét từ khước Ðức Kitô? (Mc 6, 1-6).
Để hiểu vấn đề, ta nên cùng với Ðức Gioan Phaolô II, nhìn toàn bộ lịch sử Kitô giống, như một con sông duy nhất, có nhiều nhánh sông mang nước về.
Năm 2.000 mời gọi chúng ta gặp gỡ nhau với một sự trung thành mới và bằng một sự hiệp thông sâu xa, trên bờ sông của con sông lớn này, con sông Mạc Khải, con sông Kitô giáo và con sông Giáo Hội, chảy qua lịch sử nhân loại, bắt đầu bằng biến cố xảy ra ở Nadarét, rồi ở Bêlem, cách đây 2.000 năm.
Ðúng, đây là con sông, với những chi nhánh của mình, theo cách nói của Thánh Vịnh, "đem niềm vui cho thành đô của Nước Trời" (45/46,5) – (Tiến Tới Thiên Niên Kỷ thứ 3, số 25).
Ta hãy lưu ý về sự hiệp thông trên bờ sông, thay vì trong con sông Kitô giáo và con sông Giáo Hội.
Ðức Thánh Cha có ý nói tới một sự hiệp thông trong tình thần, có thể được thực hiện ngay trên bờ sông, không phải chờ cho tới khi có một sự hiệp thông hoàn toàn.
Ðối diện với Ðức Giêsu, Ðấng Thiên Sai, ngay từ ban đầu, đã có sự bất đồng ý kiến trong việc chấp nhận Người.
Ðức Giêsu đã tỏ ra là Ðấng có uy quyền trong lời nói (Mc 4) và trong hành động (Mc 5).
Thế nhưng, dân làng Nadarét đã từng sống với Người ba mươi mấy năm, lại không tin vào Người! (Mc 6,6)
Vấn đề muôn thuở vẫn là: Những ai đã có định kiến về Ðức Giêsu, thì muốn Người phải là như thế này, phải là như thế kia, phải giống như người này, người kia mà thôi, những người ấy không thể nào lãnh hội được điều được mạc khải về căn tính của Ðức Giêsu.
*****
Vậy, khi Ðức Giêsu cất tiếng giảng nơi hội đường về Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mc 1,15), thì dân làng Nadarét khởi sự thán phục (Mc 6,2), nhưng rồi sau đó, họ trở nên nghi ngờ và chống đối (cc 2b và3a).
Cuối cùng, họ không tin, tức là họ khước từ hoàn toàn.
Phép lạ, mà Ðức Giêsu thực hiện, chính là cách Ngài đáp ứng lại niềm tin của con người được ơn phép lạ.
Vì thế, Người thường nói với các bệnh nhân được chữa lành:
"Lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mc 5,34).
Ngược lại, Ðức Giêsu đã từ khước làm phép lạ, theo lời yêu cầu của người Pharisêu, bởi vì họ không tin (8,11-12).
Cũng nên nói thêm rằng: bài Tin Mừng hôm nay nói tới "anh em" và "chị em" của Ðức Giêsu, thì nguyên văn Hy Lạp là adelphos, chỉ về họ hàng bà con nói chung, chứ không hề có ý nói về anh chị em ruột thịt.
Công việc hoà giải và đại kết của thầy Roger thật đáng thán phục.
Công cuộc ấy, quả thật ngược hẳn với thành kiến địa phương của dân làng Nadarét.
Bước tới thiên niên kỷ thứ ba, mọi người Kitô thành tâm thiện chí, đều ước ao có nhiều vị ngôn sứ như thầy Roger.
*****
Bạn tâm đắc được gì nơi thầy Roger:
- Thầy thấy cần phải chữa trị trái tim con người? - Bạn hiểu như thế nào về cuộc chữa trị đó?
Thầy nói:
"Nếu quả thật có con đường hoà giải đó, thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi!"
Nhưng thầy còn thâm tín: đó là một quyết định có giá trị cho tới khi thầy chết và nay thầy càng lúc càng đến gần hơn giờ phút ấy!
Bạn nghĩ gì về thái độ của dân làng Nadarét ?
Nghe Ðức Giêsu giảng, ban đầu họ thán phục, kế đến họ nghi ngờ và chống đối, cuối cùng họ từ khước và hoàn toàn không tin.
Lạy Chúa, xin thánh hoá cuộc sống chúng con, để mỗi ngày, chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con cuộc sống sung mãn ơn Chúa mọi giây, mọi phút, đến suốt cả cuộc đời.
Xin cho con trở nên những nhân chứng tình yêu đích thực của Chúa trước mặt mọi người. Amen.
Có một lần phát biểu trước quốc hội, ông Ma-ha-mát-Gan-đi, vị anh hùng dân tộc của Ấn Độ, đã kêu gọi nhân dân dùng chính sách bất bạo động chống lại quân Anh, giành độc lập cho đất nước. Ông nói:
“Theo quan niệm của tôi, về một ý nghĩa nào đó, thì bất cứ người nào trong chúng ta cũng đều có thể là tên ăn cắp. Bởi vì chúng ta có quá nhiều vật dư thừa, trong khi những người khác thiếu thốn những cái tối thiểu. Chúng ta đang có một vật nào đó không cần thiết để dùng, thì vật đó chính là của ăn cắp, mà chúng ta lấy từ những nghèo khó cần đến nó”.
Những lời phát biểu trên đây có thể giúp chúng ta hiểu và sống Lời Chúa, trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan. (Ga 6, 1-15).
Bởi vì, nếu muốn rút ra một câu làm lẽ sống cho ngày hôm nay, thiết nghĩ chúng ta phải chọn câu Chúa Giêsu bảo các môn đệ:
“Các con hãy cho họ ăn”.
Lời đề nghị này đã đánh tan não trạng của các môn đệ, muốn giải quyết vấn đề cơm bánh cho những người nghèo đói một cách dễ dàng, đó là cho họ ra về, để họ đi vào các làng, mà mua thức ăn.
Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn tránh, vì giải tán thì quá dễ, Chúa và các môn đệ không còn phải bận tâm gì nữa.
Nhưng Chúa thì không chấp nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc đó.
Chúa muốn cho các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh.
Các ông đã tích cực cộng tác, và kết quả là mọi người được no nê và lòng đầy phấn khởi.
Đây là hình ảnh tiêu biểu cho việc Chúa ân cần dìu dắt dưỡng nuôi dân mới và sự dìu dắt ấy thành công, nhờ có sự cộng tác nhiệt thành của nhóm cộng sự viên.
Chính vì thế, điều này cũng nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các mục tử trong Giáo Hội, để cầu nguyện cho các ngài; để cảm tạ Chúa vì đã tin tưởng và cho con người được tham dự và cộng tác với Chúa trong việc dẫn dắt Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong Đức Kitô, mọi tín hữu, nhờ bí tích Rửa Tội, đều được tham dự vào chức linh mục, nghĩa là mọi người đều được mời gọi để sống cho tha nhân.
Chúng ta hãy góp phần của mình, dù chỉ ít oi, nhỏ bé, không đáng kể, nhưng sự đóng góp của chúng ta sẽ là những xúc tác cần thiết, để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ.
Nói rõ hơn: chỉ cần một chút quảng đại và góp phần của con người, là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.
Vì thế, qua phép lạ hóa bánh này, chúng ta có thể suy diễn rằng:
Em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, hoặc tông đồ Anrê, hay các tông đồ khác, chính là bạn, là tôi, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu.
Nhưng chúng ta đã thường có những thái độ thế nào trước những nỗi đau của con người; trước những túng thiếu của người anh em chung quanh ta?
Đành rằng: ngoảnh mặt làm ngơ là thái độ dễ thực hiện hơn.
Thế nhưng, Lời Chúa hôm nay yêu cầu chúng ta phải suy nghĩ:
- Hoặc là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết được những hoàn cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội?
- Làm sao tôi có khả năng để xóa đói giảm nghèo? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi.
Những lời biện minh này hay những lời biện minh khác tương tự… thì cũng giống như lời biện minh xưa kia của các tông đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.
Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta hiểu mỗi người cần phải làm gì:
- Chúa không đòi chúng ta phải làm những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho đi những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của ta.
Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tục thực hiện.
Hiểu như thế, chúng ta mới thấy rằng: dù nghèo hèn đến đâu, thì ai ai trong chúng ta cũng đều có một cái gì đó để chia sẻ.
Và giá trị của quà tặng, không tùy thuộc ở số lượng của vật chất, mà chính là ở tấm lòng của con người: Một nụ cười thân ái, một lời nói cảm thông, một cử chỉ tha thứ… có giá trị hơn những của cải vật chất, mà có khi một người giàu bỏ ra như của bố thí.
Chúng ta nên nhớ rằng: Mỗi người cứ cố gắng thể hiện lòng quảng đại của mình, phần còn lại Chúa sẽ làm tiếp, nghĩa là lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy thêm sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy thêm tình yêu.
Làm như vậy, là chúng ta đã đặt nền móng cho Nước Trời, nước của những con người quảng đại, biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ, để nhận ra những người khác cũng là con cái Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết động lòng trắc ẩn, trước những nỗi đau khổ của người khác.
Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng con, để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi.
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại.
Xin cho con luôn biết sẵn sàng góp phần bé nhỏ của con, trong công việc phục vụ anh chị em nghèo đói chung quanh con. Amen.
Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen là một nhà giảng thuyết lừng danh của Nước Mỹ, từ năm 1950 tới năm 1979.
Ít ngày trước khi qua đời, trong năm 1979, một nhà báo đã hỏi ngài:
"Thưa Đức Cha, ai đã tạo động lực cho Đức Cha về việc chầu Thánh Thể mỗi ngày ? Có phải một vị thánh nào, hay một vị Giáo Hoàng nào chăng?"
Ngài trả lời:
"Không phải từ vị thánh hay vị Giáo Hoàng nào hết, nhưng là từ một cô bé người Trung Hoa 11 tuổi".
Ngài kể:
“Khi Trung Cộng xâm chiếm Trung Hoa, lính Trung Cộng đã đến 1 giáo xứ kia, bắt giam Linh mục chánh xứ trong nhà xứ, cạnh bên nhà thờ. Rồi họ hung hăng tiến vào Nhà Thờ, phá đổ bàn ghế, Bàn Thờ và Nhà Tạm. Họ đổ tung Mình Thánh vung vãi ra trên nền gạch của cung thánh.
Qua khung kiếng cửa sổ, với ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn chầu trên cung thánh, vị Linh mục này nhìn thấy tất cả, và ngài còn nhớ rất rõ là, trong Nhà Tạm bấy giờ có 32 Mình Thánh.
Rồi lính Trung Cộng bỏ đi, để lại 1 lính gác nhà thờ và 1 lính gác nhà xứ.
Họ không ngờ bấy giờ, có 1 cô bé đang cầu nguyện trong góc tối của nhà thờ. Cô nhìn thấy mọi sự.
Lúc bấy giờ, cô âm thầm tiếp tục qùi chầu Chúa khá lâu, để đền bù lại những hành vi xúc phạm của bọn lính.
Trước khi ra về, cô rón rén tiến lên cung thánh, cúi xuống, dùng lưỡi chịu lấy Mình Thánh Chúa đang vương vãi, và nhẹ nhàng lách qua kẻ hở của một cánh cửa mà về nhà.
Và cứ thế, mỗi đêm, đêm nào cũng vậy, cô đều tới chầu Chúa và chịu Lễ như thế.
Đến ngày thứ 32, sau khi chịu xong Mình Thánh cuối cùng, cô cũng lẻn đi ra như những đêm trước, nhưng lần này không may cho cô, cô đã vô ý gây ra một tiếng động, khiến cho tên lính nghe được. Hắn đã rượt đuổi theo cô và đã dùng báng súng đập chết cô ngay tại cổng nhà thờ.
Cha xứ đã trực tiếp kể lại câu chuyện thật cảm động này cho tôi. Và kể từ ngày đó, tôi đã hứa với Chúa, là sẽ bắt chước gương can đảm của cô bé.
Và dù có bận rộn đến đâu đi nữa, thì tôi vẫn giữ thói quen cầu nguyện trước Thánh Thể khoảng 1 giờ đồng hồ mỗi ngày”.
*****
Ăn là một nhu cầu và là một tác động rất quen thuộc với con người.
Có ai sống mà không ăn. Chúa Giêsu cũng không ngoại lệ.
Phúc Âm nhiều lần kể: Chúa Giêsu được người ta mời tới nhà ăn tiệc.
Vì ăn là một sinh hoạt quen thuộc và quan trọng như vậy, nên Chúa Giêsu đã muốn giới thiệu cho nhân loại một Của Ăn thiêng liêng, là Thịt Máu Ngài.
Đoạn Phúc Âm hôm nay (Ga 6, 24-35) kể lại lời chính Chúa Giêsu đã tuyên bố, Thịt và Máu Chúa là Của Ăn cho nhân lọai.
Đây không phải là câu nói chơi, vì nó liên quan đến hạnh phúc đời đời của biết bao nhiêu người, nên không nói chơi được.
Đây cũng không phải là câu nói do cảm hứng hay tình cờ. Bởi Thiên Chúa không làm việc theo cảm hứng, hay tình cờ, nhưng Chúa có chương trình rất rỏ ràng.
Vả lại, Chúa đã lập đi lập lại nhiều lần và cho dù thấy có nhiều người chống đối, hay thấy có nhiều môn đệ bỏ Chúa mà đi, thì Ngài vẫn cứ giữ nguyên câu nói đó.
Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố Bánh Thiên Chúa ban, là bánh bởi trời xuống và đem sự sống cho thế gian, thì những người Do Thái đã vội vàng xin Chúa ngay, cho họ được ăn mãi thứ Bánh đó.
Từ đó, Chúa mới hướng họ về chính Chúa: Ta là Bánh trường sinh. Bánh thỏa mãn cơn đói và cơn khát của con ngưòi.
*****
Ước mong hạnh phúc đời đời, đó là niềm khát vọng sâu xa nhất của con người:
- Vì chúng ta được dựng nên có hạn, nhưng lại khao khát sự vô hạn.
- Chúng ta được dựng nên trong thời gian, nhưng lại khao khát sự vĩnh cữu.
- Chúng ta được dựng nên tại trái đất này, nhưng chẳng có thứ gì ở trái đất này làm cho ta được thõa mãn…
Bởi vì linh hồn con người rất cao qúi, nên chỉ có Đấng dựng nên nó, mới làm nó thõa mãn được mà thôi.
Thịt Máu của Đấng vĩnh cữu sẽ ban cho con người sự sống vĩnh cữu, vì có được cái gì thì mới có thể ban cho cái đó, người ta không thể cho cái mà mình không có.
Khi xưa Nã phá Luân, Hoàng đế nước Pháp, được vinh quang tỏa sáng, danh tiếng lẫy lừng khắp nơi, thì một hôm, có người đánh bạo hỏi vua:
"Thưa đức vua, đối với Ngài, thì đâu là ngày đẹp nhất và qúi báu nhất trong đời Ngài?"
Sau khi suy nghĩ một lúc, Vua trả lời:
"Ngày đẹp nhất và qúi trọng nhất trong đời Ta, đó là ngày Ta được Rước Lễ Lần Đầu."
*****
Cơm bánh nuôi dưỡng thân xác chúng ta, điều đó là cần thiết, nhưng chưa đủ, bởi vì chúng ta chỉ sống một thời gian nào đó trên trần gian này thôi.
Điều quan trọng là chúng ta không nhắm tới cái tạm thời, mà chúng ta trông nhắm tới cái vĩnh cữu.
Chúng ta không muốn mình sống có 100 năm, mà muốn sống đời đời.
Hãy rước Chúa vào lòng, bởi đó là lương thực nuôi dưỡng cao cả nhất và bền vững nhất, vì được chính Chúa, thì được hơn mọi thứ ở trần gian này.
Đừng coi việc Rước Lễ là một sự thông thường của thói quen, cũng đừng làm như một hành vi máy móc, bởi sự thông thường sẽ dẫn tới coi thường, và máy móc thì không có sự mến yêu trong đó.
Lạy Mẹ Maria, là Đấng đã ban Thịt Máu mình cho Chúa Giêsu, xin giúp con biết yêu mến Thánh Thể và biết dọn linh hồn thật chu đáo, mỗi khi đón nhận Lương Thực Vĩnh cửu này. Amen.
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam có chuyện “Thoại Khanh Châu Tuấn”.
Đó là tên của hai vợ chồng trẻ: Nhà họ nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu.
Còn người vợ trẻ thì chấp nhận mọi hy sinh, mọi gian lao cực khổ làm lụng, để cho người chồng được học hành, đi thi cho đổ đạt.
Rồi đến ngày người chồng từ giã mẹ và vợ, lên đường về kinh đô để ứng thi, thì rủi thay, đúng vào lúc gia đình lâm vào cảnh đói khổ rất thê thảm: Người mẹ già, đói quá sắp chết. Người vợ trẻ đã can đảm lấy dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già mù lòa, có thể sống được cho tới ngày con trai đỗ đạt vinh quy trở về nhà.
*****
Trên đây là chuyện cổ tích, chỉ là chuyện tưởng tượng, nhưng cũng đã gây ít nhiều cảm xúc cho bao người.
Nhưng đây, mộ câu chuyện đã thực sự diễn ra hàng ngày, hàng tuần trong thánh lễ: Đức Giêsu đã lấy chính Thịt Máu Mình, để nuôi sống linh hồn chúng ta: “Ta là bánh hằng sống”, rất đáng chúng ta trọng quý biết chừng nào.
Thế nhưng, phải thú nhận ngay rằng: Khi nghe câu chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn ta thấy có ít nhiều cảm động, còn khi nghe câu Chúa nói “Ta là bánh hằng sống”, thì chúng ta thấy vẫn trơ trơ làm sao ấy !
Có lẽ tại vì tai ta đã nghe câu đó quá nhiều, quá thường, quá quen, nên đã không nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nó: “Mình Thánh Chúa thực là một thứ của ăn có sức bổ dưỡng thần diệu”.
Trên thực tế, chúng ta đã rước lễ biết bao nhiêu lần rồi, mà vẫn chẳng thấy ích lợi bao nhiêu.
Mà chính các tông đồ cũng vậy:
- Thánh lễ đầu tiên, do chính Đức Giêsu cử hành tại nhà Tiệc Ly, tất cả 12 tông đồ đều rước lễ, nhưng sau đó đâu phải tất cả 12 đều được thánh hóa:
- Giuđa vội ra đi tính việc bán Chúa,
- Phêrô sau đó đã chối Chúa tới ba lần,
- Duy chỉ có Gioan là vẫn theo sát bên Chúa trên đường tử nạn.
Thực ra, cũng chẳng có gì là khó hiểu:
Như một dĩa thức ăn thật ngon, thật bổ dưỡng, nhưng nếu người ăn mà không tiêu hóa được, thì chúng cũng trở thành vô ích thôi, có khi còn sinh ra trúng thực, hay ngộ độc nữa.
Nếu chúng ta rước lễ thường xuyên, mà chẳng được ích lợi, thì không phải tại Mình Thánh Chúa, mà là tại chính chúng ta thôi.
Vì thế, cần phải xét lại cách chúng ta rước lễ như thế nào.
Xin được đưa ra một vài mẫu gương, để chúng ta cùng suy nghĩ:
1. Các tín hữu sơ khai gọi thánh lễ là tiệc bẻ bánh:
Khi tới nhà thờ, mọi người đều cố gắng đem theo phần bánh của mình đến. Người nghèo đem ít, người giàu đem nhiều, kẻ túng thiếu có khi không mang theo gì hết.
Chủ tế thu nhận tất cả, rồi truyền phép biến bánh thành Mình Thánh Chúa. Sau đó mọi người được chia đều, ai có phần nấy, lại cũng có một số phần dành riêng, để đem chia cho những người già cả, yếu đau, không thể tới dự nghi lễ bẻ bánh được.
Người ta đã đến dự lễ với tấm lòng quảng đại, với trái tim yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Kết quả là họ đạo đã trở thành một tổ ấm, khiến cho những lương dân phải trầm trồ khen ngợi:
“Kìa xem họ thương yêu nhau đến mức nào!”.
2. Tới thời Rôma bị bắt đạo, các tín hữu phải ẩn trốn trong các đường hầm dưới lòng đất, ở ngoại ô, gọi là những hang toại đạo.
Họ cử hành thánh lễ trên mồ chôn các thánh tử đạo.
Họ dâng lễ bằng chính những hy sinh gian khổ của họ đang chịu vì Chúa, và họ rước lễ như rước lấy nghị lực của Đấng cũng đã từng chịu nạn chịu chết như họ. Và kết quả là họ đã có một đức tin kiên vững, gian lao không sờn, chết chóc không nản, hận thù không giết chết trái tim yêu thương của họ.
Ngày nay, trong các hang toại đạo, du khách vẫn còn thấy những bức tranh trên vách, trên tường, vẽ những hình về Bí tích Thánh Thể, như những đĩa bánh, những chùm nho, những con cá…và những câu nói tràn đầy yêu thương, tha thứ, tin tưởng như sau: “Bình an”, amor “tình yêu thương”, Christus vincit “Đức Kitô chiến thắng”, Chúa chiên lành…
Đường đời chúng ta như một cuộc lữ hành gian nan nhọc mệt. Cuộc đời chúng ta như một cuộc chiến đấu cực khổ đau thương. Cuộc sống chúng ta với người khác nhiều khi bực bội như hỏa ngục…
Đức Giêsu muốn giúp chúng ta, nên như Ngài đã hiến thân làm bánh hằng sống, để ban nghị lực cho chúng ta, để giúp chúng ta có thể đi trọn con đường dài, để ban ơn nâng đỡ cho chúng ta, giúp chúng ta chịu đựng những gian lao, đau khổ, ban thêm tình thương, để chúng ta sưởi ấm lòng mình và sưởi ấm lòng những kẻ sống với chúng ta.
Nhưng, chúng ta cũng phải cố gắng giúp chính chúng ta nữa, bằng cách tham dự thánh lễ và rước lấy thứ Bánh Hằng Sống đó một cách sốt sắng.
Rước lễ sốt sắng, là có dọn mình thật kỷ lưỡng trước khi dự lễ, và biết kết hợp sâu xa với Ngài, khi Ngài bước vào cuộc sống của ta, giúp ta có tâm tình lạc quan, yêu thương, quảng đại.
Lạy Chúa, xin giúp con biết quí trọng phép Thánh Thể và siêng năng lãnh nhận Mình Thánh Chúa, để con hằng ngày được kết hợp với Chúa, và sau này cũng sẽ được sống hạnh phúc đời đời bên Chúa. Amen.
Trong một căn phòng hậu phẫu, có nhiều bệnh nhân, với những bệnh lý khác nhau. Các bệnh nhân thường hay kêu la đau đớn và tỏ vẻ khó chịu với thân nhân của mình.
Tuy nhiên, những người hiện diện ở đó cũng lại thật ngỡ ngàng khi nhìn thấy và chứng kiến một bệnh nhân, trạc tuổi 60, ông không hề kêu ca, không trách móc, nhưng lại hay nở nụ cười rất tươi với mọi người.
Hỏi ra, thì mới biết ông ta là một người Công Giáo và phải mổ để cắt thận, vì trong thận có quá nhiều sỏi.
Trong lúc vui chuyện, có người hơi “bị” tò mò, nên đã hỏi ông:
“Tại sao các bệnh nhân khác thì đau đớn, kêu la, còn ông thì lại không?”
Trong tiếng nói nhỏ nhẹ, ông nói:
“Mỗi lần cơn đau đến với tôi, tôi lại nhớ đến Chúa chịu quân dữ đánh đòn, chịu vác thập giá thật nặng nề, từng bước tiến lên đồi Can-vê, phải té lên té xuống 3 lần, và cuối cùng đã bị quân dữ đóng đinh vào thập giá, chết một cách nhục nhã, đau đớn thê thảm. Ngài còn chịu đau đớn hơn tôi nhiều !!!
Vì thế, tôi luôn cầu xin Chúa thêm sức cho tôi, để tôi có thể vượt qua được cơn đau đang chịu.
Và tôi cũng xin Chúa cho tôi được hiệp thông phần đau đớn của tôi, với những đau đớn cực kỳ Chúa đã chịu xưa, để đền tội tôi, và góp một chút phần vào chương trình cứu độ của Chúa”.
*****
Thật tuyệt vời làm sao.
Đức Giêsu là điểm tựa của ông, và cuộc thương khó, cái chết của Ngài, đã làm cho ông thêm nghị lực, thêm can đảm, và vui vẻ đón nhận những đau đớn vì lòng yêu mến Chúa.
Tin Mừng theo thánhGioan hôm nay (Ga 20, 24-29) trình thuật cuộc đối thoại giữa thánh Tôma và các Tông đồ khác.
Hẳn chắc ai trong chúng ta cũng đều biết: Thánh Tôma là con người cứng lòng tin, bởi vì thánh nhân đã từng tuyên bố một cách dứt khoát:
“Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Như vậy, với ngài, không thấy là không tin. Thấy thì mới tin.
Niềm tin của Tôma chính là: tay phải sờ, mắt phải thấy, thì mới có sự thuyết phục.
Niềm tin của thánh nhân là niềm tin của lý trí.
Tuy nhiên, Đức Giêsu lại khác: Ngài muốn Tôma, các Tông đồ và cả chúng ta ngày hôm nay nữa, phải đạt tới mức độ vượt lên trên những gì là khả giác của đời thường, để tiến tới một đức tin trưởng thành, tức là không thấy mà vẫn tin:
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Mong thay lời tuyên tín của thánh Tôma khi xưa: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” cũng là lời cầu nguyện và lời xác tín của mỗi chúng ta.
Và lời Đức Giêsu chúc phúc cho Tôma, cũng là lời chúc phúc cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”
Lạy Chúa Giêsu, đức tin của chúng con hãy còn non yếu lắm. Xin Chúa giúp cho đức tin của chúng con được thêm lớn mạnh và trưởng thành.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng vào Lời Chúa và những lời của Giáo Hội dạy.
Xin cho con luôn biết tìm đến Chúa, như là điểm tựa của cuộc đời con, để con có thể vượt qua được mọi gian lao, đau khổ và thử thách. Amen.
Trong sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 26 tại Madrid, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã viết:
“Có một xu hướng duy đời (laïcisme) mạnh mẽ, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống con người và xã hội, toan tính kiến tạo một ‘thiên đường’ không có Thiên Chúa.
Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng:
“Một thế giới không có Thiên Chúa là ‘một hỏa ngục’, trong đó, trổi vượt những ích kỷ, chia rẽ trong các gia đình, oán thù giữa cá nhân và các dân tộc, thiếu tình thương, niềm vui và hy vọng”.
Và trong thông điệp “Spe Salvi”, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã quả quyết:
“Một nền nhân bản vắng bóng Thiên Chúa sẽ là một nên nhân bản phi nhân” (Thông điệp Spe Salvi, số 78).
*****
Bài Tin Mừng theo thánh Matthêu (Mt 8,28-34) đã thuật lại việc Đức Giêsu xua đuổi ma quỷ ra khỏi hai chàng thanh niên ở Giêrasa.
Sau đó, ma quỷ đã xin Đức Giêsu cho phép chúng nhập vào đàn heo và cả đàn heo đều lao xuống biển hết.
Thấy thế, những người chăn heo chạy trốn và báo tin cho những người trong thành về sự kiện vừa mới diễn ra trước mắt họ.
Vì thế, dân trong thành đã ra đón Ðức Giêsu, nhưng khi gặp Ngài, họ đã xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ.
*****
Những gì đã xảy ra thời Đức Giêsu khi xưa, thì cũng đã, đang và sẽ tiếp tục xảy đến với xã hội chúng ta hôm nay.
Thật vậy, vẫn còn đó những cám dỗ về tiền tài, danh vọng và xác thịt do ma quỷ gây nên.
Vẫn còn đó những thửa đất và môi trường thuận lợi cho ma quỷ hoành hành. Những thửa đất đó là: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, bất nhân nơi nhân tâm của con người.
Bên cạnh đó, hình ảnh trốn chạy của những người chăn heo, vẫn còn tái diễn nơi những người thiếu trách nhiệm, sống vô kỷ luật và tán tận lương tâm.
Và, vẫn còn đó hình ảnh những người sẵn sàng tin Chúa, nhưng không chấp nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, như dân thành khi xưa đã mời Chúa ra khỏi nơi ở của họ.
Những thứ mà con người hôm nay thường lựa chọn, thay thế cho những giá trị Tin Mừng là: tiền bạc bất chính, danh vọng hư ảo, hận thù ghét ghen, ma men tối ngày, ma đề triền miên, ma xác thịt, quỷ dâm loạn...
Mỗi lần chúng ta lựa chọn các điều xấu xa như thế, đó chính là lúc hình ảnh những người trong thành ra đón Chúa, nhưng lại không thích Chúa ở lại trong thành của họ, vì biết bao điều khuất tất họ đang làm, sẽ bị lộ ra. Cảnh xưa, nay lại được tái hiện cách sống động, nơi chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết chọn Chúa, đi theo Chúa và đem những giá Tin Mừng của Chúa vào trong cuộc sống đời thường chúng con.
Xin Chúa cũng giúp con vượt qua được những cơn cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt, để con luôn luôn thuộc về Chúa, luôn luôn xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.
William Porter, một nhà văn nổi tiếng, bút hiệu là O. Henry, đã viết về một em bé gái mồ côi mẹ, từ hồi còn bé.
Bé gái này thường hay ở nhà trông ngóng, mong chờ ông bố đi làm về, để có thể ngồi lên trên đùi của bố, để hưởng chút hương vị ngọt ngào của tình cảm cha con.
Thế nhưng thảm thương thay, mỗi buổi tối, sau khi người cha đi làm về, thì các công việc ông vẫn thường làm là: ăn, rồi đọc báo, hút xì gà, rồi đi ngủ.
Mỗi khi đứa con gái nhỏ của ông đến gần, thì ông thường bảo:
"Con không thấy cha mệt lắm sao? Con hãy ra ngoài tìm bạn mà chơi đi."
Người con gái thấy cha bảo vậy thì cũng ra ngoài đường để tìm bạn chơi và nó cố gắng nhí nhảnh bao nhiêu có thể.
Chuyện không may đã xảy ra, là đứa con gái đó khi lớn lên, cô bắt đầu đi tìm những mối tình cảm, từ bất cứ ai trao tặng. Cô đã trở thành một cô gái điếm.
Một ngày nọ, cô gái điếm đó chết và tiến về cửa thiên đàng, thánh Phêrô thấy quá khứ của cô như vậy liền nói với Chúa Giêsu:
"Nó là một đứa tội lỗi, Chúa ơi. Nó là một cô gái điếm. Nó chỉ có thể đến một nơi khác thôi!"
Tiếp đến là khúc cuối của câu truyện đã gây cho khán giả ngạc nhiên vô chừng.
Chúa Giêsu quay sang bảo Thánh Phêrô:
"Con hãy mở cửa thiên đàng cho cô ấy vào đi. Bao giờ người cha của cô ấy đến đây, con hãy bắt ông ta chịu trách nhiệm về vụ việc này."
Thiên Chúa rất nhân từ đối với những kẻ lầm lạc, mà không do lỗi của họ. Nhưng Thiên Chúa sẽ yêu cầu những kẻ nào đã làm cho người khác bị lầm lạc, thì phải chịu trách nhiệm.
Qua câu chuyện này, chúng ta đã hiều ra:
Tội của chúng ta thường khi, chưa hẳn là do chúng ta đã làm gì cho kẻ khác lầm lạc, mà thường hơn, là chúng ta đã không chịu làm điều gì để ngăn chận cho họ khỏi phải lầm lạc.
*****
Cách đây vài năm, trong cuốn 'Reader's Digest' có đăng tải một bài báo của Jane Lindstrom.
Bài báo này có tên là "Làm Sao Bạn Biết, Nếu Tôi Không Nói?": "
Các trẻ em thèm muốn sự yêu thương từ nơi cha mẹ. Nếu tình yêu bị khóa lại trong trái tim chúng ta, thì tình yêu đó làm sao có thể tới các em được.
Nó cũng giống như là một lá thư đã viết, mà không chịu đem đi gởi.
Nhưng, nếu những đứa trẻ được tình yêu bảo đảm, chúng sẽ nghe được những lời nói êm ái, dịu dàng của chúng ta:
- Con ngoan của Mẹ, của Cha.
- Mẹ và Cha rất lấy làm hãnh diện về con.
- Cha và Mẹ hết sức lấy làm vinh dự có một người con như con……
Nếu chúng ta từ chối không bày tỏ tình thương, chúng ta có thể làm cho người mình thương đi vào con đường lầm lạc.
Và Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta phải chịu trách nhiệm về những sự lầm lạc của con cái mình, như trong trường hợp câu truyện của O. Henry.
*****
Bài Phúc Âm hôm nay (Mc 9, 37-42. 44. 46-47) kêu gọi chúng ta hãy tự vấn mình, về những câu hỏi quan trọng này:
- Chúng ta có làm gì, hoặc không làm gì, để có thể gây cho người khác đi vào con đường lầm lạc?
- Hoặc là chúng ta đã quá lo lắng cho công danh sự nghiệp, cho công việc làm ăn, cho những thành công hay thất bại… quá lo lắng cho những suy nghĩ riêng của mình, mà quên đi những cách biểu lộ tình càm rất cần thiết, đối với những người chúng ta quí mến?
Lạy Chúa, xin cho con có được một tâm hồn quảng đại khi cầu nguyện, như ông Môisen xưa kia:
- “Xin Chúa ban Thánh Thần xuống trên toàn dân của Chúa, để tất cả họ đều là ngôn sứ.
- Xin cho con biết bước vào nhà chư dân, như thánh Phêrô xưa đã bước vào gia đình Cornêliô, và nhờ đó, tất cả mọi người đều được lãnh nhận Thánh Thần.
Lạy Chúa, xin giúp con có được một tình yêu rộng lượng và quảng đại như Chúa đã làm cho chúng con. Amen.
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, có hơn 200 triệu người, trên 100 quốc gia, đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana - vợ hoàng tử Charles Anh quốc, do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles.
Diana nói:
"Tôi biết điều đó. Nhưng khi biết, tôi đã không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội".
*****
Hôm nay dân chúng lên thuyền, nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. (Ga 6, 24-35).
Miếng ăn, là nỗi ưu tư lo lắng thường xuyên của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đi xa hơn, đó là đi tìm Bánh Trường Sinh: Nuôi dưỡng linh hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa.
- Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác.
- Người giàu thì lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi, kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ: là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ, con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy, rồi lại khao khát. Bởi mọi thứ của cải trần gian, con người sẽ không bao giờ cho là đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng, như hoàng tử Charles và công nương Diana thì cũng vẫn là những con người bất hạnh, bởi họ vẫn còn đói khát một thứ của ăn cho tâm hồn.
Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau:
"Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống, mà là đói khát Lời Chúa" (Am.8,11).
Thấu hiểu được cơn đói khát này, nên Đức Giêsu đã không cho họ Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải đi lượm mà ăn.
Nhưng, Người đã bạn cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh này thì sẽ được sống đời đời:
"Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ" (Ga.6,35).
*****
Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết:
"Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời".
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla, mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ được no thỏa hạnh phúc biết bao.
Cha Mark Link viết:
"Trái tim chúng ta có một khoảng trống, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy".
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới có thể đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực, xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực đời đời cho chúng con. Amen.
Người ta kể lại một câu chuyện có tính cách ma quái như sau:
Có hai người bộ hành đi đường xa, đêm đến họ không tìm được một chỗ trọ nào, bèn phải vào một cái miếu gần đó để ngủ nhờ.
Nhưng, đây là một ngôi miếu nổi tiếng là có nhiều ma quái.
Bầu không khí trong miếu lạnh lẽo đến rợn người, làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ sợ khi đã vào trong miếu.
Trong hoàn cảnh này, người không công giáo mới nói với người bạn công giáo rằng:
Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá anh đang đeo ở cổ anh đi, bởi tôi nghe nói ma quỉ rất sợ thánh giá Chúa. Hiện tại, tôi đang sợ quá! Hy vọng rằng: cây Thánh giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ.
Thế là người công giáo kia đã gỡ cây thánh giá của anh đang mang ở cổ, trao cho người bạn không công giáo. Hai người nằm nghỉ qua đêm.
Trời đã về khuya, con yêu tinh xuất hiện. Nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên:
- Người này có trong, mà không có ngoài.
Con yêu tinh có ý nói rằng: người này là một người công giáo đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu nào là công giáo.
Chúng quay sang người không công giáo, con yêu tinh chạm đến cây thánh giá người này đeo ở cổ, nó giật nảy mình, nhưng nó lại thốt lên:
- Người này có ngoài, mà không có trong.
Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang cây thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người công giáo đích thực.
Chúng ta là những người công giáo đích thực, thì chúng ta phải thi hành các việc đạo đức một cách đầy đủ, chứ không chỉ là những hành vi đạo đức mang tính hình thức thôi (Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23).
- Còn việc chúng ta mang trong mình nhiều ảnh tượng, nhiều thánh giá Chúa, thì liệu chúng ta có phải là những công giáo đích thực trong tâm không?
- Liệu đời sống của chúng ta có thể hiện được đầy đủ như những gì chúng ta tuyên xưng không?
Hay chúng ta chỉ có cái vỏ hào nhoáng bên ngoài là người công giáo qua những cử chỉ có tính cách phô trương, hình thức bên ngoài, mà bên trong chúng ta chất chứa toàn là những cặn bã, thối tha, gian ác, không sống được với bất cứ ai?
*****
Có một câu chuyện vế Khổng Tử rất đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Một hôm, Khổng tử dẫn các học trò mình đi du thuyết từ nước Lỗ sang nước Tề.
- Ngày đầu tiên đến đất Tề, thì ai cũng nhận ra hoàn cảnh chung lúc đó: Dân chúng rất lầm than, đói khổ, chiến tranh. Nhưng thầy trò cũng rất vui mừng, vì trong hoàn cảnh khó khăn, mà lại có người đem đến biếu cho ít gạo.
Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các bạn vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc nấu cơm.
Sau khi Từ Lộ vào rừng, thì Nhan hồi nấu cơm dưới bếp; còn Khổng tử đọc sách ở bàn đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.
Đang nằm đọc sách, bỗng Khổng Tử nghe một tiếng động lạ từ nhà bếp vọng lên. Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống thì thấy Nhan Hồi đang từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay một nắm nhỏ, rồi đậy vung lại và từ từ đưa nắm cơm lên miệng.
Tất cả hành động của Nhan hồi không lọt qua mắt Khổng Tử. Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời và than:
- Chao ôi! Học trò đệ nhất của Khổng Tử mà lại ăn vụng thầy, ăn vụng bạn, đốn mạt đến như thế này sao? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đã đặt vào nó, thế là nay đã ra tan thành mây khói hết cả rồi !
Sau đó, Tử Lộ và các bạn mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ.
Một lát sau, rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên, tất cả các môn sinh đều chấp tay mời khổng Tử dậy dùng cơm.
Khổng Tử ngồi dậy và nói:
- Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề, đường xa vạn dặm. Thầy rất vui mừng: vì trong cảnh loạn lạc, dầm sương dãi nắng, đói khổ như thế, mà các con vẫn giữ được một tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường, đói cơm, khát nước.
Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, thầy trò ta may mắn có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề, làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ, thầy nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm cúng cha mẹ thầy. Các con tưởng có nên chăng?
Nhan hồi đứng im, còn các môn sinh đều chấp tay thưa:
- Thưa thầy nên ạ!
Khổng Tử lại nói:
- Nhưng, không biết nồi cơm này có sạch không ?
Tất cả học trò đều không hiểu ý Khổng Tử muốn nói gì, nên ngơ ngác nhìn nhau.
Bấy giờ, Nhan hồi liền chấp tay thưa:
- Thưa thầy nồi cơm này không được sách.
Khổng Tử hỏi: tại sao?
Nhan Hồi thưa:
- Thưa thầy, khi cơm chín con đã mở vung ra thử xem cơm đã chín đều chưa. Chẳng may một cơn gió làm bụi bặm tràn vào, làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung, lại nhưng không kịp.
Sau đó, con định xới phần cơm bẩn ra để vứt đi. Nhưng con lại nghĩ: cơm thì ít, mà anh em thì đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô tình bỏ mất một phần ăn, anh em lại phải ăn rút lại. Vì thế cho nên, con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, con ăn trước pần cơm bẩn ấy, giờ phần cơm sạch còn lại, con xin dâng lên thầy, cùng tất cả anh em. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau thôi.
Và thưa thầy, nồi cơm này con đã ăn trước, thì không nên cúng nữa ạ!
Nghe nhan Hồi nói thế, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời than:
- Chao ôi! Thế ra, trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành, mà vẫn không hiểu đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa, Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ.
*****
Tại một xứ Hồi giáo, người ta thường kể lại câu chuyện này:
Có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ, vì đã ăn trộm thức ăn của người khác.
Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, sẽ mọc thành cây và sẽ có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết, mà cha thần đã truyền lại cho thần.
Nhưng chỉ tiếc một điều, là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm gì của của ai, thì trồng hạt giống này mới được. Vì tôi đã lỡ ăn trộm, nên tôi trồng sẽ không đạt được kết quả.
Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện để trồng hạt táo này.
Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều, là người nổi tiếng là thanh lêm trong sạch, chắc có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng: ông cũng đã từng có lần giam tham trong chuyện tiền bạc.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
Lạy Chúa, xin cho con biết luôn sống thật với lòng con, và sống thật với những người chung quanh con. Và xin cho con thâm tín rằng: “Tất cả những sự xấu đều từ trong lòng mà ra, và chúng làm sẽ cho người ta ra ô uế” (Mc 7: 23).
Xin cho con luôn sống trung thực với lòng con, để trong mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi hoàn cảnh, con luôn xứng đáng là con Chúa, đáng được Chúa yêu thương. Amen.
Báo Tuổi Trẻ gân đây có đăng một bài xã luận về “Cái lưỡi và cái tai” như sau:
Một hôm, trong lúc đang ngồi uống trà và hàn huyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí, có vẻ tư lự và phát biểu như sau:
- Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của “cái lưỡi không xương nhiều điều lắt léo”.
Nhưng, theo tôi nghĩ: nếu duy chỉ có cái lưỡi mà thôi, thì cũng chẳng có vấn đề gì!
Bởi các anh cứ ngẫm lại mà coi: Nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh, thường hay múa may với nhau, thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm, láng giềng mà thôi.
Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời, khi nó được hỗ trợ bởi những “cái tai”, không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: “Nhà báo nói láo ăn tiền”.
Họ đã quên, hay đã không dám chê mấy ông cấp trên quan liêu, chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích, khi chưa kiểm tra thực hư !
Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi, thì chắc sẽ không thể “vẽ vời”, để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục, hàng ngàn tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá.
Nếu có những cái tai thực sự ngay chính, thì những lời đường mật như vậy, làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:
- Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý, thật là thậm phải!
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn, rồi ôn tồn nói:
- Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông, xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này, mới có cơ hội mà múa may, như từ nãy đến giờ, phải không chú em?
*****
Lưỡi và tai, là hai cơ quan truyền thông của con người.
Kẻ “câm và điếc” hoàn hoàn bị tước đoạt hai phương tiện cần thiết này, trong Tin Mừng theo thánh Marcô (Mc 7, 31-37).
Lưỡi họ như bị một sợi dây vô hình trói buộc, tai họ dường như có một cánh cửa khóa chặt. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ đã bị tách ra khỏi thế giới bên ngoài.
Hôm nay, Đức Giêsu chữa cho một người câm điếc. Người phán: “Ep-pha-ta” nghĩa là “Hãy mở ra”, lập tức tai anh mở ra, lưỡi anh như hết bị trói buộc.
Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu những người mắc phải căn bệnh này.
- Chúng ta bị điếc, khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. - Chúng ta bị điếc, khi chúng ta nghe người khác, nhưng lại cố hiểu theo ý mình. - Chúng ta bị điếc, khi chúng ta lắng nghe, mà không nhận thức được đúng sai, hay dở.
Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà nằm ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao.
Nắm được tâm lý này của con người, nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Vì thế, nếu chỉ nghe bằng tai thôi thì không đủ, còn phải biết lắng nghe với cả trái tim nữa. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại, thì mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp, mà người nói muốn truyền đạt.
Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe.
Cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích, hữu dụng, không gây phương hại, không làm vẩn đục tâm hồn.
Cha Mark Link có viết:
“Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, mà phải luôn làm sao để có thể tin vào những gì thấy được bằng con tim của mình”.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giúp chúng con biết mở rộng trái tim, để thực thi giới răn yêu thương của Chúa: Để chúng con chiếu sáng, dẫn đường, cho những kẻ đang lạc lối, lầm đường, để đốt lửa tin yêu nơi những tâm hồn băng giá, để cảm thông với nỗi khổ đau của những người bất hạnh, để bảo vệ phẩm giá cho những ai đang bị khinh dể chà đạp, để đem lại niềm vui và hy vọng cho những người đang buồn bã thất vọng.
- Chẳng hạn xưa kia, khi thấy mặt trời cứ sáng mọc lên, tối lặn xuống, thì người ta lại tưởng rằng: trái đất thì đứng yên một chỗ, còn mặt trời thì di chuyển chung quanh trái đất.
Nhưng khoa học tiến bộ ngày nay đã minh chứng: Mặt trời thì đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và xoay chung quanh mặt trời.
*****
Trong đời sống đạo, cũng có những hiểu lầm tương tự như thế:
- Người ta cứ tưởng: Đấng cứu thế sẽ uy nghi, từ trên mây trời mà hiện đến. Không ngờ: Người lại đến do một thôn nữ dưới đất sinh ra.
- Người ta cứ tưởng: Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ: Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa.
- Người ta cứ tưởng: Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ: Người lại quá hiền lành, khiêm nhường.
- Người ta cứ tưởng: Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, để đưa nước Do Thái lên hàng địa vị bá chủ nhân loại. Nhưng không ngờ: Người lại chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi.
- Người ta cứ tưởng: Đấng cứu thế là một ông vua, có kẻ hầu, người hạ. Nhưng không ngờ: Chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.
*****
Từ những quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta lại cũng có nhiều sai lầm về người môn đệ:
- Người ta cứ tưởng: Theo Chúa thì sẽ được chức cao, quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giê-bê-đê mới đến xin Chúa cho 2 người con của mình là Gioan và Giacôbê, được ngồi bên tả và bên hữu Chúa, trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ: Chúa không hứa cho chức quyền, mà lại chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết nhục nhã, đau thương.
- Người ta cứ tưởng: Người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, sẽ được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn, thì phải phục vụ anh em”.
- Người ta cứ tưởng: Theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công, được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, phải vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
Hôm nay (Mc 8, 27-35), sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu đã thấy họ hiểu quá sai, quá lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu độ nhân loại Người đang đi, nên Người đã dậy thật rõ ràng cho các môn đệ biết: Đấng Cứu thế thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng con đường Người đi chính là con đường thập giá: Người phải chịu nhiều đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.
Người cũng cho các môn đệ biết: Ai muốn theo Người, thì cũng phải đi vào con đường của Người đã và đang đi. Phải từ bỏ mình, phải vác thập giá mình mà theo Người.
*****
Phải chăng Thiên Chúa:
- muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi, chứ không muốn con người phát triển,
- muốn con người phải chịu đau khổ, chứ không muốn con người được hạnh phúc?
Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc, sung sướng, mà Chúa thì lại làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ ?
Thưa, chắc chắn là Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Và chính vì muốn con người được hạnh phúc, nên Chúa đã bỏ Trời, xuống trần gian, để cứu chuộc con người.
Nhưng thứ hạnh phúc, mà Chúa muốn ban tặng cho con người, không phải là thứ hạnh phúc giả tạo, dễ dàng và mau qua.
Thứ hạnh phúc Chúa muốn ban tặng cho con người, là thứ hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa.
Muốn có được thứ hạnh phúc đó, thì con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn.
Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, là phải vác thập giá mình.
Những vất vả đau đớn, không phải là vì Chúa độc ác, muốn hành hạ con người.
Những đau đớn từ bỏ mình, không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong.
Nhưng đó chính là qui luật tất yếu, là điều kiện cần thiết để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng đã phải đi qua con đường thập giá, khổ nhục, mới đến hạnh phúc.
Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn, mới tới ngày phục sinh vinh quang.
Cho nên Chúa đã nói với các môn đệ:
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Thành ra, đau khổ Chúa hứa, không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn đưa con người đến hạnh phúc đích thực.
Thập giá và cái chết, không phải là để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để cho con người được tái sinh và được triển nở trong đời sống mới, trong đời sống vĩnh cửu, với hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận, nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu.
Chúa đã không mị lừa chúng ta, không hứa hẹn cho chúng ta những gì dễ dãi, chóng qua.
Chúa chỉ cho chúng ta đường ngay, nẻo chính.
Chúa mời gọi chúng ta phải phải dũng mạnh, phải can đảm và phải quyết liệt trong cuộc chạy đua, để dành lấy hạnh phúc Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, biết vác thập giá mình hằng ngày, mà bước theo Chúa, để con cũng đạt được hạnh phúc Vĩnh Cửu Nước Trời mai sau. Amen.
Tin Mẹ Têrêxa thành Calcutta qua đời ngày 5/9/1997 đã gây một chấn động lớn lao cho mọi từng lớp nhân dân trên toàn thế giới.
Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn:
- Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã làm lễ tưởng niệm Mẹ, ngay tại biệt thự của Ngài ở Rôma.
- Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã nói: "Mẹ là người luôn gây kinh ngạc, một trong những bậc vĩ nhân của thời đại này".
- Còn Thủ Tướng Singapore, Goh Chok Tong nói: "Mẹ Têrêxa là một trong những người phụ nữ nổi bật nhất của thế kỷ 20".
- Tổng Thống Hàn Quốc, Kim Young Sam cũng nói: "Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêxa cho những người bần cùng trên thế giới".
- Thủ Tướng Albani, Fatos Nano thì cho rằng: "Mẹ Têrêxa là con người nhỏ bé, nhưng có một tâm hồn lớn lao cao cả" và ông đã muốn đưa thi hài Mẹ về an táng tại Albani, đất nước quê hương của Mẹ. Nhưng ý nguyện đó đã không thành.
- Riêng tại Ấn độ, hàng ngàn người dân thuộc mọi tầng lớp, bất chấp mưa gió, đã xếp hàng dài có tới 3km, trước trụ sở Dòng nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Calcutta, để được vào viếng Mẹ lần cuối.
- Lễ quốc táng của Mẹ Têrêxa đã được cử hành ngày 13/9/1997 tại sân vận động quốc gia New Delhi.
Đức Giáo Hoàng đã cử Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh, Angelo Sodano đại diện Ngài đến chủ tế lễ an táng.
Mười hai ngàn người, gồm các nhà lãnh đạo, các chính khách, các nhân vật nổi tiếng trên thế giới, cùng hàng triệu người khác, đã đến tiễn đưa Mẹ Têrêxa lần cuối,
"vị Thánh của những người cùng khổ".
*****
Tại sao Mẹ Têrêxa thành Calcutta, một nữ tu nhỏ bé, lại trở nên một vĩ nhân như thế?
Xin thưa: Chính vì Mẹ đã khiêm tốn, phục vụ những người nghèo khổ nhất.
Trong Tin Mừng hôm nay (Mc 9, 29-36), Chúa Giêsu đã giải quyết cuộc tranh luận giữa các môn đệ: "Ai là người lớn nhất", khi Ngài tuyên bố: "Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người", có nghĩa là ai muốn làm người lớn nhất, thì phải làm người nhỏ nhất và phục vụ anh em.
Sau lời tuyên bố vắn gọn đó, Chúa Giêsu làm một cử chỉ để giải thích: Ngài dẫn một em bé đến, đặt em đứng giữa các môn đệ và sau khi ôm em bé vào lòng, Ngài tuyên bố: "Ai tiếp đón một em bé như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy, và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy".
Nhiều lần Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với những người nhỏ bé, nghèo hèn.
Ở đây Chúa Giêsu tự đồng hóa với một em bé, một con người chưa được kể là thành phần của xã hội Do Thái.
Chúng ta biết: Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, đàn bà và trẻ em, là những con người không đáng kể.
Trẻ nhỏ là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội.
Ở đây, Chúa Giêsu lại ôm em bé vào lòng, đó là một cử chỉ tiếp đón, chấp nhận, quý mến. "
Ai tiếp đón một em bé như em bé này, vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy".
Tiếp đón một em bé như thế, chắc chắn không phải để em bé đó hầu hạ mình, nhưng là để hầu hạ em bé đó.
Một người nhỏ bé, nghèo hèn nhất, không đáng kể trước mặt người đời, cũng được Chúa Giêsu coi là hiện thân của Ngài, đón tiếp người ấy là đón tiếp Ngài và là đón tiếp chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài.
Thiên Chúa đã tự liên đới với những người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất.
Vậy thì, chúng ta đừng sợ làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người.
Phục vụ một người không đáng kể, một người bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội, là phục vụ chính Chúa Giêsu, là phục vụ chính Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao: Cuộc sống trở nên người rốt hết và phục vụ mọi người, lại làm cho Mẹ Têrêxa Calcutta thành người lớn nhất, được mọi người yêu mến, kính phục, ngưỡng mộ và thương tiếc.
Cuộc đời của Mẹ Têrêxa là một câu chuyện rất đời thường và có ít tình tiết éo le, để cho khán giả háo hức tò mò.
Hầu như, gần cả cuộc đời của Mẹ, không có ống kính paparazzi (những người săn ảnh) nào bám theo Mẹ, khi Mẹ khòm lưng trên những con đường tăm tối ở Calcutta, để ôm vào lòng những con người đang chết đói, hay khi Mẹ băng bó vết thương lở lói của những người phong cùi, nghèo khổ, chán chường, những người bị bỏ rơi, cô độc.
Trong nghi lễ trao giải thưởng Nobel Hòa Bình cho Mẹ Têrêsa tại Oslo, Thụy Điển, ngày 10 tháng 12, năm 1979, Ủy Ban đã khẳng định: Các cố gắng của Mẹ Têrêsa là nhằm xây dựng xã hội, nhằm diệt trừ nghèo đói và bảo đảm cho nhân loại một cộng đồng an toàn và tốt đẹp. Và kêu gọi mọi ngưới hãy bắt chước tinh thần của Mẹ Têrêsa, trong việc tôn trọng giá trị và phẩm giá của con người.
Mà đúng như vậy: Trong suốt cuộc đời hoạt động từ thiện bác ái, Mẹ Têrêxa không hề ham muốn danh vọng, mà chỉ làm việc vì tình yêu Thiên Chúa.
Mẹ đã nói:
"Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi mỗi một người, khi tôi rửa vết thương của người cùi, tôi cảm thấy như là tôi đang chăm sóc cho chính Chúa".
*****
Con đường tự hạ làm người bé nhỏ và phục vụ anh em, là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất, người đáng kể trước mặt Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã từng làm người rốt hết, làm tôi tớ mọi người, đem chính mạng sống của Ngài mà phục vụ mọi người.
Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài đến tột đỉnh vinh quang, đã ban tặng Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2,5-11).
Ai đi con đường khiêm tốn, phục vụ như Ngài, thì sẽ được Ngài đưa tới vinh quang tột đỉnh với Ngài trên Nước Trời.
Một khi Chúa Giêsu đã tự hạ làm người rốt hết và tự đồng hóa với cả những người, mà thế gian coi như không có, thì mọi thái độ thống trị đã bị kết án rồi. Bởi thống trị, là chà đạp lên con người, dù đó là bất cứ ai, thì cũng là chà đạp lên chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nói:
"Anh em biết: thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người".
Mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay cũng phải thường xuyên tự đặt câu hỏi cho mình:
"Trong địa vị của tôi, tôi phải làm sao để thực sự phục vụ người khác?".
Khi Mẹ Têrêxa qua đời, thì đã có hơn 4000 Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ, có mặt ở 250 cộng đoàn, rải rác trên các nước, là những mẫu gương phục vụ của thời đại chúng ta.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin, để chúng con có thể nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày, nơi những khuôn mặt khốn khổ, của tất cả những người bị thử thách:
- những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; - những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; - những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương; - những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi trọn vẹn lời hy vọng này: "Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta".
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (6 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3 4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4 5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên - Sách 6
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (10 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5 6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6 7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7 8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8 9. Chuyện con gà trống - Sách 9 10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (24 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14 15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15 16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16 17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17 18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18 19. Ngày của bố - Sách 19 20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20 21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21 22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22 23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23 24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (4 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3 4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4