Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Chuyện kể cho các gia đình - sách 18

Thứ bảy - 04/02/2023 01:32
Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Chuyện kể cho các gia đình - sách 18
Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Chuyện kể cho các gia đình - sách 18
Lm. Phêrô NguyễnVăn Mễn
(sưu tầm)


Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ

Nguồn:
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/


---------------------------------

*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;

2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn

3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com

5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.

----------------------------

Mục Lục
Bài 1: Chuyện thả mồi bắt bóng. 2
Bài 2: Tâm sự của người con gái Karl Marx về kinh Lạy Cha. 4
Bài 3: Tại sao lại yêu thương kẻ thù. 6
Bài 4: Chuyện con không muốn lên Thiên Đàng. 9
Bài 5: Chuyện người giáo dân không được cha trao ban Mình Thánh Chúa khi lên rước lễ. 12
Bài 6: Chuyện ông đại úy thuyền trưởng cầu nguyện. 14
Bài 7: Một cách trả thù độc đáo. 16
Bài 8: Chuyện yêu thương kẻ thù. 20
Bài 9: Chuyện thánh Phêrô và Phaolô đổi đời 26
Bài 10: Chuyện người hành khất và con chó. 29
Bài 11: Chúa là chỗ dựa vững chắc cho đời tôi 35
Bài 12: Phương cách biến thù thành bạn. 37
Bài 13: Chuyện cô Na-ka-mu-ra, một thiếu nữ Nhật Bản. 44
Bài 14: Hy Sinh và Phục Vụ như Chúa. 48
Bài 15: Câu chuyện giờ thứ 9. 49
Bài 16: Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ. 50
Bài 17: Hãy cảnh giác: “Coi dzị mà hổng phải dzị”. 52

----------------------------

 

Bài 1: Chuyện thả mồi bắt bóng

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 475)

Bạn thân mến,

Chuyện xưa kể rằng:

Có một con chó, lượn qua một cửa hàng thịt. Ngó trước, nhìn sau thật kỷ, rồi nó quắp được một miếng thịt thật to, liền vội vàng tha mồi, rồi ba giò bốn cẳng chạy một mạch thật nhanh, để đừng có ai đuổi kịp.

Lúc chạy ngang qua một cái cầu, nhìn xuống lòng lạch, với làn nước trong veo, nó thấy bóng dáng một con chó khác, cũng đang tha một miếng thịt ở dưới nước, xem ra còn to hơn miếng thịt nó đang ngậm trong miệng.

Thế là, chàng ta bèn bỏ miếng thịt trong miệng, vội lao ngay xuống nước, để tranh cho được miếng thịt đó. Kết quả là miếng thịt trong miệng cũng mất, và cái bóng chỉ là bóng, nên cũng tan biến đi, khi miếng thịt không còn.

Thế là con chó đành trơ mõm, lội lên, chấp nhật cái đói, vì không còn thức ăn để mà ăn.

*****

Sự lầm tưởng và lòng tham, cũng đã từng xảy ra không bết là bao nhiêu lần nơi chúng ta, cho nên chúng ta đã từng bỏ đi cái hạnh phúc thật, và lo chạy theo những cái ảo tưởng, lo đi tìm hạnh phúc gỉa.

Sách Sáng Thế Ký cũng đã kể lại khuynh hướng này:

Thiên Chúa tạo dựng con người Adong – Evà trong vườn Địa Đàng, và đã muốn cho con người được hạnh phúc thực sự và hạnh phúc lâu bền. Và thật sự, Vườn Địa Đàng và sự chăm sóc đầy yêu thương của Thiên Chúa, đã nói lên điều đó.

Nhưng vô phúc thay, ông bà nguyên tổ đã gạt bỏ hạnh phúc này qua một bên, để chạy theo những mơ ước hão huyền, qua lời dụ dỗ của ma qủy, muốn trở nên thần thánh, để biết mọi điều thiện ác như Thiên Chúa (Gen 3, 5).

Chính sự "hiểu lầm" này đã làm cho hai ông bà nguyên tổ chúng ta, bất chấp mệnh lệnh của Thiên Chúa, đành chấp nhận mất hạnh phúc mình đang có, và hạnh phúc "lớn hơn của ma qủy bày ra" cũng chẳng chiếm được.

Đây là cũng là một hình thức "thả mồi bắt bóng".

Và từ đấy, khuynh hướng "thả mồi bắt bóng" này đã kéo theo biết bao vụ "thả mồi bắt bóng" khác, như chúng ta thường thấy xảy ra nhan nhản như hiện nay.

*****

Nhưng cũng còn may, "Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người dưới quyền thống trị của sự chết" (Kinh Tiền Tụng 4), nên đã sai các nhà lãnh đạo và các tiên tri đến với con người, để điều chỉnh sự lầm đường lạc lối này.

Và cuối cùng, Con Một Ngài đã đích thân nhập thể làm người, để hướng dẫn con người đi vào con đường hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu. Con đường hạnh phúc thật đó, chính Đức Kitô đã vạch ra và chúc phúc.

Con đường ấy như thế nào và đòi hỏi ra sao, chúng ta gặp thấy trong lời giáo huấn của Ngài trong tám phối phúc. Đó là mỗi người phải can đảm và sáng suốt, chấp nhận những hy sinh và thiệt thòi trong cuộc sống hiện tại. Hy sinh và thiệt thòi đó có thể là cảnh nghèo nàn, thiếu thốn, bị ghét bỏ, bị xỉ nhục...

Chúa Giêsu đã qủa quyết:

- Dù có đói khát chút ít, nhưng chẳng bao lâu sẽ được no thỏa.
- Dù có nghèo đói chút ít, nhưng chẳng bao lâu sẽ được một gia sản trong Nước Chúa.
- Dù có phải nhỏ dăm ba giọt lệ, nhưng chẳng bao lâu, những nụ cười sẽ tươi nở trên môi.
- Dù có bị ghét bỏ, nhưng chẳng bao lâu sẽ được chính Thiên Chúa yêu thương.
- Dù có bị xỉ vả, nhưng chẳng bao lâu sẽ được thông phần vào vinh quang Thiên Chúa.

Ý tưởng này được Thánh Phêrô nhấn mạnh:

- "Nếu anh chị em bị xỉ nhục vì danh Chúa thì anh chị em thật đáng chúc phúc" (1 Pr. 4,14a ).

- "Sau khi anh chị em chịu đau khổ một thời gian, Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, sẽ mời gọi chúng ta hưởng vinh quang đời đời với Đức Kitô" (1 Pr. 5,10).

Thánh Phaolô cũng đồng quan điểm:

"Tôi nghĩ rằng, những đau khổ ở đời này chẳng có thể sánh ví được với vinh quang, mà Chúa sẽ tỏ hiện cho chúng ta ở đời sau" (1 Rm 8, 18).

Các Thánh, đặc biệt là các anh hùng Tử Đạo, đã hiểu và thực thi cách trọn vẹn những lời Chúa chúc phúc này.

Nhưng ngược lại, nếu theo đuổi những hạnh phúc gỉa tạo, sống trong ảo tưởng "thả mồi bắt bóng", thì ngày nào đó, chúng ta sẽ phải hối hận, tiếc xót, như chính Chúa Giêsu đã nói trong dụ ngôn về người giầu có và Lazaro nghèo khó (Lc 16).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là đường, là chân lý và là hạnh phúc, xin giúp con biết xác tín vào những lời Chúa dạy, mà luôn biết sáng suốt, can đảm, bước theo con đường chính Chúa đã chỉ dẫn, để dù có phải trải qua bao gian lao thử thách, con vẫn luôn xứng đáng là môn đệ Chúa, được Chúa yêu thương. Lạy Chúa, xin Chúa giúp con. Amen.

-------------------

 

Bài 2: Tâm sự của người con gái Karl Marx về kinh Lạy Cha

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 476)

Bạn thân mến,

Người con gái của Karl Marx đã có lần tâm sự với một người bạn:

“Tôi lớn lên, mà không hề biết đến bất cứ một tôn giáo nào. Tôi cũng không tin có Thiên Chúa.

Thế rồi, tình cờ một hôm, tôi đọc được một quyển sách, trong đó có những lời kinh là lạ, hay hay. Tôi đã đọc và đã học hết lời kinh ấy. Bởi tôi tự nhủ: Nếu quả thật, Thiên Chúa đã dạy những lời kinh đó mà hiện hữu, thì tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”.

Người bạn hỏi cho biết, đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại kinh Lạy Cha (...). Tình cha con và tình anh em, được Chúa Giêsu mạc khải trong kinh Lạy Cha, là sống với Cha trong niềm tin yêu phó thác, còn với anh em trong tình bác ái chân thành, hết mình.

*****

Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách cầu nguyện với kinh Lạy Cha, là đừng nói nhiều lời, vì Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài đã hiểu rõ chúng ta đang cần gì. Ðiều quan trọng là chúng ta phải sống hết mình, trong tương quan thân tình với Cha-Con và với anh chị em trọn tình như Ngài đã dạy (Abba - Lạy Cha chúng con).

So với kinh Lạy Cha của Luca ghi lại, thì kinh Lạy Cha của Matthêu chi tiết hơn:

“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Còn thánh Luca ghi lại vắn tắt hơn: “Lạy Cha, nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”.

Và câu kết của kinh Lạy Cha theo thánh Matthêu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, trong khi Luca trình bày ngắn hơn: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.

Lời kinh Lạy Cha, “nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”, là nội dung chính của những lời mà  Đức Giêsu rao giảng.

Ngài loan báo Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (x. Lc 4,43; 8,1; 10,9.11).

Vì Cha là tình yêu, khi danh Cha toả sáng, là tình yêu của Cha sẽ trải dài trên trái đất, nơi những người con của Cha hiện hữu.

Và ý Cha thể hiện được cả dưới đất cũng như trên trời, nói lên việc Tuân hành thánh ý Cha, là nhiệm vụ của mọi kitô hữu, (x. Mt 26,39) và là lương thực của Đức Giêsu trong những ngày sống ở trần gian nảy (x. Ga 4,34).

Còn 4 lời nguyện tiếp theo của kinh Lạy Cha, là con người trình bày với Cha về các nhu cầu và những sự cần thiết của mình trên con đường tiến về quê Cha: được nuôi dưỡng, xin được tha thứ - chữa lành tội lỗi và được thắng cuộc chiến đấu với Sự Dữ, bằng Sự Lành và ân sủng đến từ Thiên Chúa, qua Đấng Cứu Thế.

Khi xin “cho chúng con” là chúng ta nói lên, trong tình hiệp thông huynh đệ của mình, lòng tin tưởng của con cái được phó thác nơi Cha trên trời.

Với tâm tình con thảo, “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm nhu, tin tưởng” (Giáo lý Công giáo, số 2800).

Cha luôn dõi mắt theo từng người con, mà ban phát, như Chúa Giêsu khẳng định:

“Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).

Tất cả thúc đẩy chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa là Cha hiển vinh, như định luật tình thương, mà Con Thiên Chúa đã mạc khải:

“Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11).

Lạy Chúa, “Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi” (Tv 89,2). Xin cho con được nếm cảm tình thương đó của Cha, và cũng biết chia sẻ tình thương đó cho những người con gặp gỡ, để nhờ đó, nhiều người cũng nhận ra Chúa là Cha của họ nữa. Amen.

 --------------------------------

 

Bài 3: Tại sao lại yêu thương kẻ thù

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 477)

Bạn thân mến,

Có hai anh em ruột bắt trói được thủ phạm đã giết cha mình. Họ đem tên sát nhân đến trước tòa án và yêu cầu phải được xử theo luật mắt đền mắt, răng thế răng. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha họ, thì hắn cũng phải bị ném đá cho chết, theo như luật bù trừ.

Trước mặt quan tòa, tên sát nhân nhận tội và sẵn sàng chịu hình phạt, nhưng chỉ xin một đặc ân, là xin hoãn lại ba ngày, để về nhà giải quyết vấn đề gia đình, liên quan đến một người cháu gái, được cha mẹ bé, trước khi qua đời, đã ký thác cho hắn trông coi từ thuở nhỏ.

Giữa lúc quan tòa và những người liên quan vụ án tỏ vẻ phân vân do dự, thì từ bỗng trong đám đông quần chúng, có một người giơ tay cam kết:

Tôi xin đứng ra bảo lãnh cho tên tử tội này, nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi xin chết thay cho hắn.

Tên tử tội được tự do trong ba ngày, để giải quyết việc gia đình.

Đúng kỳ hạn, giữa lúc mọi người chờ đợi, để chứng kiến cuộc hành quyết, thì hắn hiên ngang tiến ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố:

Tôi muốn trung thành với lời cam kết, để người ta sẽ không còn nói: Chữ tín không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa.

Sau lời phát biểu của tên tử tội, thì ông bảo lãnh cho hắn cũng đứng lên tuyên bố:

Sở dĩ tôi bảo lãnh cho người này, không phải là vì tôi là họ hàng, thân thuộc hay bạn bè, mà vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại, không còn trên mặt đất này nữa.

Sau hai lời tuyên bố trên, thì hai người thanh niên, bỗng tiến ra và nói: Chúng tôi cũng xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không nói: Lòng tha thứ, không còn trên mặt đất này nữa.

*****

Tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt thắng phản ứng thường tình của con người, để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con Chúa, cố gắng sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.

Tha thứ là thể hiện sự cao cả nhất của tình yêu. Nếu chúng ta có thể cho đi của cải và cho đi chính mạng sống minh vì người mình yêu, thì tha thứ còn cao cả hơn rất nhiều, bởi vì tha thứ, là trao ban chính bản thân ta, cho kẻ thù của mình.

Hãy yêu kẻ thù.

Đó là lệnh truyền, đã được Chúa Giêsu nhắc lại hai lần trong bài Tin mừng theo thánh Luca (Lc 6, 27-38).

Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất, trong các lệnh truyền của Chúa.

- Khó, nhưng không phải là không có thể thực hiện được.

Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, khi Ngài bị hành hình trên Thánh Giá, cũng đã xin Thiên Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã hành hạ Ngài.

Và hơn nữa, Ngài còn bênh vực, minh oan cho họ: Vì họ lầm chẳng biết.

Chính hành vi cao cả này, mà Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

Và đó cũng là nét cao quí nhất, trong dung mạo của Đấng Cứu thế. Ngài đến để yêu thương và để cứu chuộc con người.

Ngài đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân, tái tạo và phục sinh với Ngài.

Nhưng tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù ?

Yêu người yêu mình thì dễ, ai lại đi yêu kẻ làm hại mình bao giờ ???

Theo triết gia Nietzche thì nói:

“Lời khuyên yêu kẻ thù, chỉ dành cho những kẻ bạc nhược, nhát đảm mà thôi. Và Chúa Giêsu chính là con người quá lý tưởng và thiếu thực tế”.

Người xưa có câu “ác giả ác báo”, làm điều ác thì sẽ gặp điều ác.

Lấy oán báo oán, thì chỉ tăng thêm hận thù mà thôi.

- Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối.
- Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù.

Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa, thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù, sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong, như cơn lốc xoáy, sẽ ập tới tiêu diệt mọi người, và thảm họa báo thù sẽ nối kết với nhau mãi, không bao giờ có thể kết thúc.

Hận thù, gây tác hại cho chính con người người oán ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người oán thù, đồng thời hủy diệt nhân cách của chính họ: Khi trả thù, người ta biến mình thành con thú.

Còn khi tha thứ, người ta vượt lên tới đỉnh cao của cao thượng.

Tâm lý học ngày nay khẳng định:

- Hận thù thì hủy diệt.
- Còn yêu thương thì phát triển nhân cách hết sức lạ lùng và hữu hiệu.

Cuối cùng, tình yêu có phép mầu, sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu.

Nếu hận thù là hủy diệt, thì tình yêu là xây dựng.

Biến thù thành bạn, phải chăng là đã tiêu diệt được kẻ thù rồi ?

Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ.

Đối với người Kitô hữu chúng ta, lý do căn bản nhất để chúng ta yêu thương kẻ thù, đó chính là lời Chúa truyền dạy:

Anh em hãy yêu thương kẻ thù… (Lc 6, 27-38).

Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ thật lớn lao và anh em sẽ là con của Đấng Tối Cao.

Lạy Chúa, xin giúp con thực hiện những điều Chúa dạy, là hãy yêu thương kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ ngược đãi con, để con nên xứng đáng là môn đệ Chúa, và được làm con cái đích thực của Cha trên trời. Amen.

-------------------

 

Bài 4: Chuyện con không muốn lên Thiên Đàng

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 478)

Bạn thân mến,

Có một gia đình kia, người chồng chẳng may bị bắn chết, đang khi lái xe cho gia đình đến nhà thờ, để tham dự thánh lễ.

Một hôm, người vợ cùng với đứa con, cũng đang trên đường đến nhà thờ để dự lễ như thường lệ, thì bỗng bất ngờ đứa con hỏi:

Mẹ ơi, không biết kẻ đã bắn chết cha con, có được lên Thiên Đàng không ?

Câu hỏi quá bất ngờ, khiến người mẹ bị lúng túng, phải suy nghĩ một giây lát, rồi bà mới trả lời:

Nếu người đó thành thật sám hối, ăn năn, hối lỗi, thì Chúa cũng sẽ tha thứ và cho ông ta lên Thiên Đàng.

Đứa con tỏ vẻ khó chịu ra mặt:

Nếu kẻ đó, mà có mặt ở trên Thiên Đàng, thì con sẽ không lên Thiên Đàng đâu.

Người mẹ lại càng bối rối, lúng túng hơn nữa.

Bà lại phải bóp trán, suy nghĩ thêm, rồi nhỏ nhẹ, ôn tồn, nói với con mình:

Nếu Chúa đã tha thứ cho ông ta rồi, thì Chúa cũng sẽ biến đổi, thay lòng, đổi dạ ông ta, sẽ biến cho ông ta không còn dễ ghét như xưa nữa đâu con ạ, mà sẽ trở thành một con người dễ thương, như một người con Chúa. Mà có dễ thương như con Chúa, thì Chúa mới cho lên Thiên Đàng.

Đứa bé có vẻ thắm ý của mẹ, nên cũng gật đầu mấy cái, rồi nói với mẹ: Vậy thì, mẹ con mình hôm náy, hãy cầu nguyện cho ông ta đi.

*****

Bài học quan trọng nhất của Tin mừng theo thánh Luca (Lc 6, 27-38), là làm thế nào chống lại sự ác, mà không cần phải trả thù.

Hầu hết chúng ta nghỉ rằng: Chỉ cố gắng đừng trả thù là đủ rồi.

Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta nhiều hơn thế. Ngài còn muốn chúng ta yêu thương kẻ thù nữa. Mặc dù việc này rất khó, nhưng chúng ta thấy hai mẹ con trong câu chuyện đã làm được.

Chỉ xét trên bình diện nhân loại mà thôi, thì giáo huấn của Chúa Giêsu cũng rất hữu ích:

Đà leo thang của sự ác, chỉ có thể bị dừng lại, bằng việc tiêu hủy nó, chứ không phải bỏ qua nó: Trả thù và trả đũa là lấy ác báo ác.

- Khi chọn thái độ báo thù,  chúng ta  bị thù hận làm nhiễm độc.
- Khi nuôi lòng hận thù báo oán, chúng ta bị tiêu hao rất nhiều năng lượng, thể xác và tinh thân.

Trả thù chỉ thỏa mãn được sự tức giận của chúng ta trong giây lát, trong lúc nóng giận, nhưng lại làm cho con tim chúng ta ra trống rỗng.

Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù, Ngài không nhằm đến lợi ích của kẻ thù, mà nhắm đến lợi ích của bản thân chúng ta.

Hơn thế nữa, yêu thương thì đẹp hơn hận thù rất nhiều.

Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực, thì ngược lại, lòng yêu thương sẽ tăng cường nghị lực trong chúng ta.

Một trong những việc khó làm nhất, là yêu thương kẻ ghét mình.

Nhưng tình yêu chân thật, là yêu thương cả những người khó thương nhất, hay không thể thương được. Chỉ người nào có rất giàu năng lực, mới có thể làm được mà thôi.

Tuy nhiên, việc này vẫn có thể làm được, bởi vì sức mạnh của yêu thương, thì luôn lớn hơn sức mạnh của hận thù.

Dù sao thì tha thứ cho kẻ làm hại mình là một việc rất khó.

Khi bị hại, làm sao trong lòng chúng ta lại không có những cảm giác đau đớn, đắng cay, chua xót và có ý định trả thù ?

Muốn vượt thắng cảm giác và ý định đó, cần phải chiến đấu với bản thân nhiều lắm.

Cầu nguyện, chính là sức tăng viện, giúp chúng ta chiến thắng. Bởi đó, Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ ngừng.

Lạy Chúa, Chúa biết con rất yếu đuối, nên việc yêu kẻ thù con, kẻ làm hại con, quả là một điều quá khó đối với con.

Nhưng mỗi khi nhìn lên thánh giá Chúa, con lại có thêm nghị lực, vì Chúa trong hoàn cảnh bi đát, thê thảm như vậy, mà Chúa còn cố van xin Thiên Chúa Cha tha cho bọn lý hình, đang hành hình mình, những kẻ đang làm khổ mình. Chúa lại còn cố tình bao che họ, bênh vực họ, “vì họ lầm không biết việc họ làm”.

Lạy Chúa, xin hướng dẫn con từng bước, trên con đường theo Chúa. Amen.

-------------------

 

Bài 5: Chuyện người giáo dân không được cha trao ban Mình Thánh Chúa khi lên rước lễ

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 479)

Bạn thân mến,

Chúng ta thường rất dễ xét đoán người khác.

Thế nhưng, Chúa Giêsu khuyến cáo rằng: Khi chúng ta xét đoán người khác, tức là chúng ta xét đoán chính mình:

“Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét đoán Luca” 6,37).

Người ta kể lại rằng, vào một buổi sáng nọ, vị linh mục đang dâng thánh lễ, thì trông thấy một người đàn bà đến nhà thờ dự lễ, lúc đó đã khá trễ.

Cha rất bực bội, nên khi thấy bà này lên rước lễ, cha mời bà ta xuống, và không đã trao Mình thánh Chúa cho bà.

Điều này làm cho bà rất đau lòng. 

Thực ra, bà là người rất siêng năng tham dự thánh lễ. Từ trước tới nay, bà không bao giờ đi trễ. Nhưng hôm nay, chồng bà đột ngột ngã bệnh, đứa con gái tàn tật của bà lại lên cơn. Bà phải nán ở lại để chăm sóc chồng và con.

Nguyên việc phải trễ lễ, đã là một khổ tâm, một mất mát rất lớn đối với bà rồi. Thế mà cha lại không cho bà rước lễ, thì bà đã phải khổ đến mức nào nữa.

Đã thế, việc cha không trao Mình Thánh Chúa cho bà trước mặt cộng đoàn đông đảo, đã tạo cho bà một mặc cảm nhục nhả, ghê ghớm, như là bà đã phạm một tội nặng ác tầy trời, công khai.

Sở dĩ, vị linh mục làm như thế, là vì ngài đã xét đoán một cách hàm hồ. Và cách làm của ngài, cũng là một lời kết án cái tính hay hàm hồ của ngài.

Cộng đoàn hôm đó ra về không vui. Về nhà, người ta vẫn cứ nhốn nháo, tiếp tục bàn tán mãi.

*****

Câu chuyện trên phải là một sự cảnh cáo để chúng ta: Đừng xét đoán một cách hàm hồ.

Thực ra, xét đoán là một điều rất khó. Muốn xét đoán cho đúng, thì chúng ta phải thấy đầy đủ mọi khía cạnh của sự việc.

Thấy mọi khía cạnh của sự việc, cũng chưa phải là đủ, còn cần phải hiểu thêm về hoàn cảnh và động cơ thâm sâu của sự việc đó nữa.

Đang khi đó, chúng ta thường chỉ thấy một phương diện mà thôi, mà lại chỉ thấy bề ngoài mà thôi, nên chúng ta chưa có đủ yết tố để xét đoán.

Về vần đề này, có lẽ ai trong chúng ta cũng đã có lần là nạn nhân, bị người khác xét đoán.

Hãy nhớ lại xem: Khi đó, chúng ta đau khổ như thế nào ???

Ta cũng đừng quên: Điều gì bạn không muốn người khác làm cho bạn, thì bạn cũng đừng làm cho họ.

Vả lại, có ai trong chúng ta lại không ước mong được Thiên Chúa xét đoán khoan hồng ? Bởi vì nếu Chúa chấp tội, thì nào ai đứng vững được ? (Thánh Vịnh 130,3-4)

Vì thế, chúng ta phải khoan dung với anh chị em mình. Bởi Chúa cũng đã nói:

“Các ngươi đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy” (Luca 6,38).

Lạy Chúa,

-------------------

 

Bài 6: Chuyện ông đại úy thuyền trưởng cầu nguyện

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 480)

Bạn thân mến,

Có một câu chuyện kể về một viên đại úy hải quân, đã về hưu, nhưng ông lại làm thuyền trưởng cho một chiếc tàu đưa khách đi du lịch, tham quan đảo Shetland (quần đảo tại Scotland, Anh Quốc). Thường là Tour đi về trong ngày.

Trong một chuyến đi chơi này, tàu chở toàn thanh niên.

Khi họ thấy ông đại úy già này cầu nguyện trước lúc ra khơi, thì tất cả họ đều cười nhạo ông, bởi nhìn lên bầu trời hôm đó đang trong xanh, trời thật đẹp, không có chút áng mây, mà biển cũng đang yên lặng như tờ, không có dấu hiệu gì là sẽ có gió bảo.

Nhưng biển êm không lâu. Bởi khi cuộc khởi hành chưa được bao lâu, thì bỗng một trận cuồng phong bất ngờ nổi lên, sóng gió từ đâu thổi tới, làm cho chiếc tàu bắt đầu lắc lư, chồm lên chồm xuống thật dữ dội, như muốn chìm vào lòng biển.

Các hành khách đều hoảng sợ . Họ vội vang chạy đến ông đại úy thuyền trưởng, để yêu cầu ông cùng cầu nguyện chung với họ.

Nhưng ông bình thản đáp:

“Tôi đã cầu nguyện, lúc trời yên biển lặng. Còn bây giờ, khi sóng gió nổi lên, tôi còn phải lo cho con tàu của tôi”.

*****

Bạn thân mến,

Đây quả là một bài học cho tất cả chúng ta:

Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa, trong những lúc yên tĩnh của đời mình, thì chúng ta có lẽ sẽ không thể tìm thấy Người, khi những cơn rối loạn của cuộc sống chụp xuống.

Trong những hoàn cảnh như trên, tất nhiên, ai ai trong chúng ta cũng đều hoảng sợ. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người, trong những lúc bình yên, thì hầu như chắc chắn là chúng ta sẽ tìm thấy Người, khi sóng gió nổi lên (Theo Flor McCarthy).

*****

Trong Tin Mừng (Mt 8, 23-27) có kể lại chuyện Chúa Giêsu, cùng các môn đệ xuống thuyền, để qua bờ biển bên kia. Khi khởi hành, thì mọi sự vẫn bình thường: Trời vẫn yên, biển vẫn lặng.

Nhưng khi thuyền đi đến khoảng giữa biển, thì bỗng một trận cuồng phong dữ dội nổi lên. Phong ba bão táp, với những cơn sóng nhấp nhô, làm chao đảo con thuyền, như muốn nhận chìm con thuyền xuống đáy  biển.

Mọi người trên thuyền, đều cố gắng hết sức, để chống chọi với cơn phong ba, nhưng họ vẫn không tự tin, vẫn không an tâm, và lòng thì đầy lo âu, hốt hoảng, sợ hãi.

Lúc bấy giờ, kinh thánh nói về Chúa Giêsu “Người vẫn ngủ”.

Hình ảnh này phác họa cho ta thấy: Hình như là Thiên Chúa bỏ mặc con người, trước những phong ba bão tố cuộc đời.

“Ngài ngủ” như là hình ảnh bất lực của Thiên Chúa, giữa những tuyệt vọng, và những đau khổ của con người, hình như Thiên Chúa bất lực trước sự dữ.

Chúa ngủ, cũng là biểu tượng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá: Chúa Giêsu như đã thất bại, và quyền lực sự dữ tưởng như đang ngự trị…

*****

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy.

Đây là hình ảnh loan báo Ngài sẽ trỗi dậy, Ngài sẽ Phục sinh và sự Phục sinh của Ngài chính là loan báo một cuộc chiến thắng thật vĩ đại của Ngài, chiến thắng trên mọi quyền lực của ma quỷ và của sự dữ, cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo hội. 

Người đã trỗi dậy, đã truyền lệnh cho gió và biển. Và biển trở lại yên lặng như tờ!.

Ngài đã trỗi dậy từ giấc ngủ, và Ngài đã chế ngự mọi sóng gió, phong ba.

*****

Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh tôi và bạn, ngay cả khi bình an, hay khi chúng ta vất vả, lao đao, giữa dông tố ngoài biển khơi.

Trong bão tố phong ba, chúng ta cũng hãy hành động như các tông đồ xa xưa, chúng ta hãy đánh thức Ngài trỗi dậy, để xin Ngài cứu giúp:

“Lạy Thầy, xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất” (Lc 8,25).

Lạy Chúa, xin giúp con luôn vững tin vào Chúa, dù phải đối mặt với những cơn phong ba, thử thách của cuộc đời. Xin Chúa giúp con. Amen.

-------------------

 

Bài 7: Một cách trả thù độc đáo

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 481)

Bạn thân mến,

Người ta thuật rằng: Có hai người thổ dân Nam Phi, rất giận ghét, hiềm khích nhau, và mối thù này mỗi ngày càng sâu đậm, chỉ mong có dịp thuận tiện, để phục thù cho hả cơn giận.

Ngày kia, một trong hai người, gặp thấy một bé gái, con của kẻ thù mình trong một khu rừng vắng, anh ta bỗng nổi cơn giận, tóm lấy cô bé, rút dao, chặt cụt hai ngón tay bé, rồi thả cho bé đi.

Cô bé vừa chạy về nhà, vừa khóc nức nở, với bàn tay máu me chảy ròng ròng.

Còn tên hung thủ vừa đi, vừa la lớn tiếng, tỏ vẻ thỏa chí lắm: "Ta đã trả thù được rồi!"

*****

Ngày tháng trôi qua, thấm thoát đã mười mấy năm, cô bé đã lập gia đình, có chồng con và cảnh gia thất đầm ấm sung túc.

Bỗng một buổi chiều kia, có một người hành khất đến nhà xin của bố thí.

Cô chủ nhà ra tiếp người hành khất. Vừa gặp mặt, thì cô đã nhận ra ngay: Đây là kẻ đã chặt hai ngón tay của mình xưa kia. Cô vội vã trở vào trong nhà, tìm cách "Báo thù", bằng cách bảo người giúp việc, đem sữa, bánh ra cho ông ta ăn.

Khi người hành khất đã ăn no nê, cô chủ nhà còn trao cho hắn một số tiền, để có kế sinh nhai. Đồng thời, cô dơ bàn tay cụt hai ngón ra cho hắn coi và nói: "Hôm nay, tôi cũng đã trả thù được rồi! Xin Chúa chúc lành cho cả hai chúng ta!"

Người hành khất xúc động khóc ròng, tỏ vẻ hết lòng cảm phục trước tấm lòng nhân từ, tha thứ cách đại lượng của cô chủ, "lấy ân trả oán" cho người đã làm hại mình.

*****

Theo thường tình, thì người ta yêu thương kẻ mến thương mình, đền ơn cho người đã thi ân cho mình, hoặc nếu có cho vay mượn, thì cũng là để được hoàn trả lại, với lời lãi xòng phẳng.

Đây cũng chỉ là luật công bằng giao hoán, thường tình, không có ân nghĩa gì, ai ai cũng làm được, cả những kẻ thù nghịch, cũng đáp trả nhau cân xứng như vậy, theo kiếu mắt đền mắt, răng thế răng, ân đền ân, oán trả oán, ân oán công minh.

Thế nhưng, trong Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 6, 27-38), thì Chúa Giêsu lại dạy chúng ta một giáo huấn khác hẳn:

"Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Ai vả má bên này, thì các con hãy đưa cả má bên kia nữa; ai lột áo ngoài của các con, thì các con cũng đừng cản họ lấy cả áo trong nữa. Ai xin thì các con hãy cho, và ai lấy vật nào của các con, thì các con đừng đòi lại".

Và,

"Điều gì các con muốn người ta làm cho các con, thì các con hãy làm cho người ta như vậy. Làm được như thế: Phần thưởng của các con sau này sẽ lớn lao bội hậu, và các con sẽ trở nên con cái Đấng Tối Cao, vì Người hằng nhân hậu với những kẻ bội bạc và những người gian ác".

Rồi Chúa kết luận:

"Vậy các con hãy sống nhân từ như Cha các con trên trời là Đấng Nhân Từ" (Lc 6:27-38).

Đó là một giáo lý rất cao siêu, trổi vượt, ngược lại với quan niệm và cách ứng xử thương tình của xã hội. Chính Đấng là Thiên Chúa cao cả, từ trời xuống trần gian đã dạy chúng ta điểm giáo lý cao siêu này.

Đây phải là khuôn vàng thước ngọc, là luật sống, là kim chỉ nam, cho tất cả những ai muốn làm con cái Chúa.

Để từ  đó, xã hội cũng sẽ được cải hóa, nhân loại sẽ không còn ngủ mê trong những tối tăm, lầm lạc, xã hội sẽ được canh tân, hận thù sẽ bị tiêu diệt, trần gian cũ kỹ sẽ được biến đổi thành Thiên Đàng an bình, hạnh phúc và thánh thiện.

*****

Thánh Kinh có kể lại cho chúng ta vài mẫu gương sáng ngời, về lòng bái ái, yêu thương và nhân từ, tha thứ, giúp chúng ta thêm nghị lực và can đảm thi hành giáo huấn yêu thương Chúa Kitô đã dạy, để chúng ta được noi theo lòng nhân từ của Thiên Chúa, là Cha chúng ta, là Đấng ngự trên trời, là Đấng rất nhân từ. “Ngài đã cho mưa xuống, trên người lành cũng như kẻ dữ”.

1- Mẫu gương thứ nhất trích từ sách Samuel (26,2-23), tường thuật việc vua Đavít đối xử nhân đạo với vua Saolê thế nào.

Chúng ta biết: Đavít, người đã được Thiên Chúa sai tiên tri Samue,l đến xức dầu phong ngài làm vua dân Israel, thay thế vua Saolê đã bị Chúa sa thải. Nhưng Đavít vốn luôn tự nhận mình là tôi tớ, quyết tận tâm, tận lực phục vụ vua Saolê như một trung thần, đã giúp vua chiến thắng quân Philitinh, đã hạ sát tên dũng sĩ khổng lồ Goliat….

Vì cuộc chiến thắng oanh liệt này, mà danh tiếng của Đavít đã trổi lên như sóng cồn nơi dân Israel, khiến vua Saolê phát ghen. Do đó, vua Saolê và ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ, đi vây bắt và giết Đavít, cho hả cơn ghen tức.

Rồi một hôm, đang lúc giữa đêm khuya, Đavít và Abisai cận vệ của ngài, dò đường, âm thầm tiến vào giữa trại quân địch, đến tận nơi vua Saolê và các quân sĩ đang ngủ say.

Cận vệ thưa với Đavít: "Hôm nay, Thiên Chúa đã trao kẻ thù trong tay ngài. Vậy giờ đây, xin ngài cho tôi lấy giáo, đâm ông ta một phát thâu xuống đất, không cần đến phát thứ hai".

Vì lòng nhân từ bao dung, vua Đavít đã nói với viên cận vệ:

"Chớ giết ngài, vì có ai dám đưa tay phạm đến Đấng đã được Chúa xức dầu".

Đavít chỉ lấy bình nước và thanh kiếm treo ở phía đầu vua, rồi rút lui, mà không làm hại vua Saolê.

Thánh Kinh cũng kể tiếp một dịp khác tương tự, vua Đavít cũng không nỡ giơ tay giết Đấng đã được Chúa xức dầu, mà chỉ lén cắt mảnh áo cẩm bào của vua, để làm bằng chứng là có thể hạ sát vua, nhưng đã không làm.

Trước lòng nhân từ, tha thứ của Đavít, đã khiến vua Saolê hối hận, đã cất tiếng than khóc nói với Đavít:

"Quả thật, con công minh hơn cha, con làm ơn cho cha, mà cha lại trả oán cho con. Hôm nay, con đã chứng minh rõ rằng: Con cư sử nhân đạo với cha: Vì mặc dầu, Chúa đã trao cha vào tận tay con, mà con cũng không nở thủ tiêu cha. Há có ai gặp kẻ thù mình, mà lại để nó đi bình an chăng ?

Vậy cầu mong Chúa báo đáp lại cho con, về ơn huệ con đã làm cho cha hôm nay. Và, hôm nay cha xác nhận rằng: “Chúa đang ở với con. Con sẽ làm vua, và nước Israel sẽ trường cửu nơi tay con" (I Sam 24:17-21).

2- Mẫu gương thứ hai, chúng ta đọc thấy trong sách Tông Đồ Công Vụ:

Thánh Stephanô, vị Tử Đạo tiên khởi, khi bị điệu ra pháp trường, để chịu ném đá chết. Đang lúc bị hành xích, ngài dâng lời khẩn nguyện lên Chúa:

"Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận linh hồn con!"

Rồi ngài qùi gối xuống kêu lớn tiếng:

"Lạy Chúa, xin đừng chấp họ vì tội lỗi này!"

Đây là môn sinh đầu tiên của Thầy Chí Thánh Giêsu. Thánh Stephanô đã học thuộc bài giáo huấn bác ái Chúa dạy, và hôm nay đã đạt tới đỉnh đích, theo đúng mẫu gương Thầy Chí Thánh, Đấng trước khi tắt thở trên Thánh Giá, đã dâng lên Chúa Cha lời khẩn nguyện:

"Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm!" (Lc 23:34)

*****

Lạy Chúa, hằng ngày con vẫn đọc kinh lạy Cha, con cũng đã thuộc nằm lòng giáo huấn này: "Xin Cha tha nợ (những lỗi lầm, những xúc phạm) chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con". Và con cũng hiểu rất rõ: Ccon có tha thứ cho anh chị em mình, thì mới con có đủ điều kiện để được Chúa thứ tha.

Xin Chúa giúp con luôn vượt thắng được những yếu đuối của bản thân, để con luôn được Chúa tha thứ, và được xứng đáng là con Chúa. Amen.

-------------------

 

Bài 8: Chuyện yêu thương kẻ thù

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 482)

Bạn thân mến,

Trong cuộc Chiến tranh Cách mạng ở Mỹ (còn được gọi là Chiến tranh giành độc lập Mỹ năm 1775-1783), tại Pensylvania có mục sư Peter Miller, rất được cộng đoàn ái mộ, quí mến.

Nhưng trong khu xóm gần nhà thờ, lại có một người rất oán ghét và rất nhiều lần nhục mạ mục sư.

Nhưng, rồi vì phạm tội phản quốc, mà anh đã bị tòa án Philadelphia kết án tử hình.

Nghe tin ấy, mục sư Miller vội vàng đi bộ đường xa, tìm cho được vị đại tướng George Washington, để xin ân xá cho tên tử tội.

Đại tướng trả lời: “Rất tiếc, là tôi không thể thuận theo thỉnh nguyện của mục sư, mà tha bổng cho người bạn thân của mục sư”

- “Đại tướng bảo sao, là bạn thân của tôi ư? Phải nói, anh ta là kẻ thù đê tiện nhất của tôi trên đời này!”

- “Mục sư nói sao? Mục sư phải lội bộ cả 60 dặm đừng, để đến xin ân xá cho một kẻ thù à? Thế thì lại là một chuyện khác. Vậy, vì chuyện này, tôi sẽ ân xá cho phạm nhân”.

Cầm giấy ân xá của tướng Washington ký, mục sư Miller tức tốc cuốc bộ 15 dặm đường nữa, để đến pháp trường cho kịp, nơi sắp hành hình tội nhân.

Thoạt trông thấy ông tử đằng xa, tên tử tội đã la to lên:

“Kìa, tên Peter bỉ ổi, ngươi đã lội bộ từ Ephrata đến đây, để trả thù ta, bằng cách khoái chí chứng kiến cảnh ta sắp bị treo cổ ???”

Anh ta vừa dứt lời, thì mục sư cũng vừa chen được đám đông, để tới nơi hành hình, trao tận tay anh ta, tờ ân xá của đại tướng Washington.

******

Khỏi phải nói, ta cũng thấy mục sư Miller đã thực hiện cách tuyệt diệu những lời Đức Giê-su dạy chúng ta trong Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 6, 27-38), đó là "Các con hãy tỏ lòng thương xót, như Cha các con là Đấng hay thương xót".

Nét đặc trưng của luân ý Ki-tô giáo, không phải chỉ là yêu thương, vì mọi nền luân lý nhân loại, mọi người, mọi tôn giáo đều đòi hỏi điều đó… nhưng đây là yêu thương “kẻ thù”, đây là một tình yêu không có loại trừ ai cả.

Từ ngữ “kẻ thù” được Đức Giê-su sử dụng, là một từ mạnh mẽ, nên có nguy cơ bị hiểu sai.

“Tôi đâu có kẻ thù”, ta vẫn thường nghe nói thế.

Thế nhưng, Đức Giê-su đã cẩn thận đưa ra nhiều ví dụ, để vấn đề được trong sáng và rõ nét hơn:

- Kẻ thù là những kẻ ghen ghét tôi… những kẻ nói xấu tôi… những kẻ vu khống tôi…

Và để nắm bắt tất cả tầm mức của nền luân lý Tin Mừng này, ta cần hiện tại hóa từ “kẻ thù” ấy.

Trên bình diện cá nhân:

- Đức Giê-su đòi hỏi tôi, phải yêu mến những kẻ chỉ trích, gây khó chịu, không đồng ý với tôi… những kẻ tấn công tôi bằng mọi cách suy nghĩ, ăn mặc… Tôi phải cầu nguyện của họ v.v…

Trên bình diện tập thể:

- Đức Giê-su cũng đòi hỏi môn đệ phải yêu thương kẻ thù của nhóm: những kẻ bắt bớ, chống đối họ; những kẻ suy nghĩ và hành động khác họ…

Thế giới sẽ chứng kiến một cuộc cách mạng lớn biết bao, nếu mỗi Ki-tô hữu bắt đầu làm đúng những gì Đức Giê-su đã dạy làm!

*****

Sau các thái độ “nội tâm”, là các hành vi “bên ngoài”.

Hậu quả tất yếu của các thái độ ấy: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa…”.

Lòng yêu mến kẻ thù, phải có những hành vi tích cực đối với họ.

Nhưng hãy ghi nhận rằng: Ở đây, Đức Giê-su không tìm cách ban bố một tân pháp chế, xoay quanh bốn điểm: “vả”, “đoạt”, “xin”, “lấy”…

Thật ra, đây chỉ là những ví dụ, nhằm minh họa một cách thức hành động hoàn toàn mới mẻ.

Các ví dụ này, theo kiểu nói Do-thái, là chỉ cố ý tạo nên những sự ngược đời, để dễ nhớ thôi. Kiểu như chuyện: móc mắt, chặt tay (x. Mt 5,29-30).

Trong thực tế, các hành động này, nếu hiểu theo nghĩa đen, e rằng hoàn toàn vô ích.

Bở, mắt bị móc rồi, chẳng hề bảo vệ cho người ta khỏi những vấp ngã khác.

Cái tát tai thứ hai, đâu thể ngăn chặn nổi cái tát thứ ba, và còn lâu mới có thể dẫn kẻ ác đến sự đổi đời, để có những tình cảm tốt đẹp!!!

Chính cách ứng xử của Đức Giê-su, khi đứng trước mặt Thượng tế, chính là những lời giải thích tốt nhất cho vấn đề chúng ta đang nói, đó là Ngài chẳng hề chìa má kia cho tên đầy tớ vả mặt mình, mà Ngài đã phản ứng lại:

“Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem, tôi sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, thì tại sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23).

Tuy nhiên, trong thực tế, Đức Giê-su đã đi xa hơn nhiều, so với việc “chìa má kia”:

Ngài đã chấp nhận để mình bị đánh đòn, đến chảy máu lênh láng, chấp nhận đội mão gai, chịu mọi chế nhạo, chấp nhận bị sỉ nhục, mà không hề có thái độ phản kháng. Nài đã trao phó toàn thân cho những kẻ hành hạ Ngài:

“Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt, khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50,5-6).

Như thế, là Đức Giê-su đã chẳng hề yêu cầu ta điều gì, mà Ngài đã không làm trước.

Nhưng, Ngài không chỉ nhắm đến những tiêu cực như thế thôi, mà Ngài còn nhắp đếnnhững thái độ tích cực hơn trong yêu thương.

“Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì mình cũng hãy làm cho người ta như vậy”.

Đây là cái thiên hạ vẫn gọi là “luật vàng”, một trong những nguyên tắc cơ bản của mọi nền luân lý.

Rabbi Hillel, sống đồng thời với Đức Giê-su, đã từng dạy: “Những gì bạn không thích, thì chớ làm cho người ta”.

Các triết gia phái Khắc kỷ cũng bảo: “Điều bạn không muốn người ta làm cho mình, thì đừng có làm cho người ta”.

Nhưng ở đây, ta nhận thấy Đức Giê-su đã ban cho một luật mang tính chất tích cực, mang tính cách cao thượng hơn, chứ không phải chỉ là “đừng, không, không thích”.

Mà là phải làm, làm tất cả những sự thiện có thể cho tha nhân… thậm chí cho cả kẻ thù mình!

Chúa nói: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa đâu?”.

Là môn đệ Đức Giê-su, là Ki-tô hữu, Ngài yêu cầu chúng ta phải tốt hơn những người khác…

Khác, là khác như thế nào?
Cái gì là đặc trưng của các Ki-tô hữu?

Thưa, đó là “yêu mến những kẻ chẳng mến yêu ta”.

Tư tưởng sâu xa của Đức Giê-su, đó là tình yêu của chúng ta phải thoát ra khỏi mọi cộng đồng tự nhiên: Gia đình, giới nhóm, quốc gia, chủng tộc… 

Ở giữa những kẻ giống nhau, thì tình liên đới là điều tự nhiên, bộc phát. Và phải nói rằng: tình liên đới đó tự nó, chẳng phải là một sự thiện: ngay cả những “người tội lỗi”, kẻ dữ, người độc ác, áp bức, ích kỷ… cũng có thể có những dây liên đới với nhau, nhằm tìm kiếm lợi lộc và chống lại kẻ khác.

Trong lúc đó, tình yêu Ki-tô giáo là một tình yêu không biên giới, vô hạn định.

*****

“Như vậy phần thưởng dành cho anh chị em sẽ lớn lao, và anh chị em sẽ là con của Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu cả với những phường vô ân và quân độc ác”.

Các lời này cho thấy: Kế hoạch của nhân loại xét chung, đều khác xa kế hoạch của Thiên Chúa… nên nhân loại lấy bạo lực, đáp trả bạo lực.

Thậm chí trong Kinh Thánh Cựu Ước, người ta còn thực hiện thánh chiến, để tiêu diệt kẻ thù. Họ còn nhân danh tôn giáo, để bóp cổ những ai đối nghịch cùng Thiên Chúa nữa! (x. Đnl 7,1-6; 20,10-18; 25,19; Gs 6, 17), họ đã từng cầu xin Thiên Chúa phạt kẻ thù (x. Tv 17,13; 28,4; 69,23-29 v.v…).

Đến thời Đức Giê-su, chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa gia ân cho kẻ thù.

Và phần thưởng lạ lùng tiếp theo, đó là những ai yêu mến kẻ thù, thì sẽ được làm “Con Đấng Tối cao”.

Đây chính là danh hiệu đã được ban cho Đức Giê-su, khi sứ thần Thiên Chúa đến truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria! (x. Lc 1,32).

Chức làm Con Thiên Chúa được ban cho kẻ “xây dựng hòa bình” (Mt 5,9).

Yêu kẻ thù, là chuyện phi phàm, chuyện thần linh, điều mà Thiên Chúa, Đấng “tốt lành với kẻ mọi vô ơn, bạc ác”, vẫn không ngừng thực hiện, theo lời mạc khải của Đức Giê-su.

Đức Giê-su còn nêu rõ: Thiên Chúa ấy, có tên là “là Đấng nhân từ”.

Ta sẽ chẳng bao giờ nói hay diễn tả điều đó cho đủ: Bởi Thiên Chúa không phán xét ai, không kết án ai, luôn tha thứ cho mọi kẻ tội lỗi. Và Người đòi hỏi ta phải bắt chước Người, mà làm như vậy!

Qua điều này, không có nghĩa Thiên Chúa chấp nhận sự dữ!

Sẽ chẳng bao giờ có gì là chung, giữa Thiên Chúa với bất công, tra tấn, độc ác, hèn nhát, ích kỷ.

Ai làm những điều đó, sẽ chẳng hề có phần “với Người trên Nước trời”.

Nhưng không phải Thiên Chúa phán xét họ hay đoán phạt họ. Nhưng họ, những kẻ khốn khổ ấy, đã tự kết án mình và tự tiêu diệt chính mình, khi khăng khăng từ chối lời mời gọi sống yêu thương của Thiên Chúa và từ chối ơn tha thứ của Người.

Hỏa ngục, chính là mặt trái của Thiên Chúa và đã chẳng phải do Người làm ra.

Hỏa ngục là hậu quả sau cùng, là sự chọn lựa dứt khoát của một cuộc đời liên tục lựa chọn sống ích kỷ, sống cho mình và rốt cục, là từ chối đi vào Thiên đàng, là nơi phải từ bỏ mình để có thể yêu thương. Vì Thiên Chúa chỉ là tình yêu, thương xót, nhân hậu.

Lạy Chúa, những suy tư vừa rồi, là một cảnh tỉnh cho con. Bởi theo thói thường, con đã hoàn toàn sống và làm khác với những gì Chúa đã dạy, nhất là không làm theo những gì Chúa đã làm gương cho con. Nhưng vì con muốn vào Thiên Đàng, con muốn được về sống bên Chúa sau những ngày sống ở trần gian này, nên con sẽ không cách nào khác, sẽ không có lựa chọn nào khác, bởi Thiên Chúa là Tình yêu. Lạy Chúa xin giúp con. Amen.

-------------------

 

Bài 9: Chuyện thánh Phêrô và Phaolô đổi đời

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 483)

Bạn thân mến,

Người ta kể rằng: Tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia, vì quá đói khổ, nghèo nàn, nên đã trở thành kẻ "bần cùng sinh đạo tặc".

Họ rủ nhau đi trộm cắp chiên cừu của các nông dân trong vùng.

Một hôm thật không may, hai anh em đều đã bị đã bắt.

Dân trong làng tụ họp lại đông đảo, và đồng loạt đưa đã ra một hình phạt, đó là khắc lên trán các tội nhân hai mẫu tự "ST", có nghĩa là tên trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).

Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác để sinh sống, và cũng để mong chôn chặt dĩ vãng, vì ở nơi xa lạ, thì không ai biết được quá khứ của mình. Thế nhưng, thực tế, anh đã chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã, mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST" đáng nguyền rủa này.

Còn người em thì ngược lại, anh tự nói với bản thân mình:

"Tôi cần phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính bản thân tôi".

Thế là, anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc, anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp, cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu.

- Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể.
- Anh cật lực lao động bằng đôi tay của mình.
- Anh dành một phần hoa lợi để giúp đỡ những người nghèo.
- Anh sống chan hoà tình yêu thương với tất cả mọi cư dân trong vùng.

Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự "ST" vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Dầu vậy, chẳng còn mấy ai để ý đến ý nghĩa của hai chữ ST trên vầng trán của anh nữa.

Rồi một ngày kia, bỗng có một người lạ mặt, hỏi một cụ già trong làng, về ý nghĩa của hai chữ ST này.

Cụ già suy nghĩ một hồi, rồi trả lời:

"Lâu quá rồi, tôi cũng không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy nữa, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)".

*****

Hôm nay (29/6) mừng lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, 2 cột trụ của Giáo Hội.

Chúng ta biết: Các ngài trở thành thánh nhân cao cả, là nhờ biết khép lại quá khứ của mình, để chỉ biết lo tìm kiếm ý Chúa và đem ra thực hành trong suốt cả cuộc đời của mình.

Cả hai ngài cũng đều có một quá khứ lầm lỗi, một quá khứ, mà tưởng chừng đã làm cho hai ngài suốt đời phải sống trong ân hận và tủi nhục:

- Phêrô thì đã có lần bị Chúa quở là satan, mà có lẽ chưa có ai đã bị Chúa quở trách nặng lời như thế đó.

Lầm lỗi lớn nhất trong cuộc đời ông, là 3 lần chối Chúa Giêsu, Thầy của mình. Ông đã công khai 3 lần tuyên bố trước mặt mọi người là “Tôi không phải là môn đệ của ông Giêsu”.

- Còn Phaolô đã năm lần bảy lượt, rão đi khắp đó đây, để lùng bắt và giết chết những ai mang danh Kitô hữu, những môn đệ của ông Giêsu.

Chính Phaolô đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội.

Nhưng mẫu số chung của hai ông, chính là biết đứng lên, sau những lần vấp ngã và đã chuộc lại lỗi lầm, bằng một cuộc sống đổi mới, theo như lòng Chúa mong ước.

*****

Thực vậy, sau khi chối Thầy lần thứ ba, thì từ trên pháp đình, Chúa Giêsu đã âu yếm nhìn xuống Phêrô.

Ánh mắt của Thầy vẫn trìu mến, vẫn thân thương, như gởi đến ông một sứ điệp:

"Phêrô, sao con lại nỡ chối Thầy. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó, chẳng lẽ không còn một chút vương vấn gì hay sao?".

Lại thêm tiếng gà gáy giữa đêm khuya, đã giúp lương tâm của ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo:

"Trước khi gà gáy, thì con đã chối Thầy ba lần".

Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, một cái gì đó đã chết trong ông.

Vâng, ông đã chết cho niềm tự hào, cho sự tự tin quá mức. Ông đã hiểu ra, mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã.

Mới hôm qua đây thôi, ông còn mạnh miệng tuyên bố rằng: "Dù cho mọi người có bỏ Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ".

Thế mà, miệng gan, miệng hùm đã không còn, khi đối diện trước nguy nan. Ông đã hèn nhát chối Thầy đến ba lần.

Nhưng cũng nhờ chính đêm hôm đó, đa là một biến cố trọng đại, đã "đổi mới" tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn thống hối và lòng khiêm nhường chân thành, đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng tài ba trên con tàu Giáo hội.

Còn Phaolô, sau lần ngã ngựa đớn đau bởi một luồng ánh sáng chói loà hôm ấy. Mắt ông đã không còn thấy được gì nữa. Ông đã như kẻ bị mù trong suốt ba ngày.

Con mắt thể xác ông bị đóng lại, nhưng con mắt tâm hồn của ông lại được sáng tỏ. Ông đã thấy Giêsu, người mà ông tưởng đã chết, thế mà, Người đã Sống lại thật, đã lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng vẫn còn tiếp tục hiện trong Giáo Hội. Chính người đã nói với ông:

"Ta là Giêsu, mà ngươi đang tìm giết".

Bao lâu nay, ông không tin có sự sống lại. Ông đang hăm hở tiêu diệt những ai loan báo về sự sống lại của tên tử tội Giêsu.

Giờ đây, ông đã tin. Sự sống của Chúa Phục sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Và kể từ nay, ông đã trở thành một tông đồ nhiệt thành, ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh, và làm đổi mới cả thế giới.

*****

Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng vãy.

Đôi khi cũng có những lúc yếu đuối, cũng có những bước đi bị vấp té, bởi những  cạm bẫy của tham sân si.

Vì thế, có ai đó đã từng nói rằng: "lầm lỗi, là của con người", nhưng đứng lên làm lại cuộc đời đó là của "thánh nhân".

Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã nhìn quá khứ, như một hồng ân của Thiên Chúa dành cho các ngài.

Chúa không trách phạt các ngài vì những yếu đuối lỗi lầm, mà còn tin tưởng, trao phó cho các ngài, sứ mạng lớn lao, là mở mang nước Chúa, đến tận cùng trái đất.

Với ơn trời cao cả đó, thánh Phaolô đã từng thốt lên: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng tin mừng".

Còn thánh Phêrô thì không còn sợ cường quyền ức hiệp, ngài đã mạnh dạn nói trước các quan tòa rằng: "Tôi phải nghe lời Thiên Chúa, hơn là nghe lời con người".

Và hôm nay, Chúa vẫn không trách phạt chúng ta, theo như chúng ta đáng tội. Ngài vẫn khoan dung, tha thứ và hằng mời gọi chúng ta, hãy quyết tâm làm lại cuộc đời, hãy dùng ơn Chúa, để hoàn thiện chính mình và nhất là, hãy loan báo tình yêu của Chúa cho những anh chị em mình, cho bạn bè, cho mọi người thân quen, mà hằng ngày chúng ta vẫn thường gặp gỡ

Lạy thánh Phêrô và thánh Phaolô, xin giúp soi sáng cho cuộc đời của con, để con không bao giờ thất vọng về những lỗi lầm của con, nhưng qua những yếu đuối của bản thân, con sẽ nhận ra tình thương bao la vô bờ bến của Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con biết noi gương các ngài, để con sẽ là thành chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa thế gian. Amen.

-------------------

 

Bài 10: Chuyện người hành khất và con chó

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 484)

Bạn thân mến,

Chuyện kể rằng: Trên cây cầu, trong một thành phố nọ, có một người hành khất, ngày ngày ngồi khất thực ở đó.

Ông ta không biết kéo đàn, cũng không biết hát, thậm chí còn chẳng biết viết ra cảnh ngộ bi thảm của mình lên giấy, rải xuống đất, để mong nhận sự thương xót của khách qua lại.

Mỗi ngày, ông chỉ biết ngồi chồm hỗm, dựa vào thành cầu, co ro, rúc mặt vào trong 2 đầu gối, với đôi chân thật gầy gò, với một chén mẻ, cũ kỹ, để ở phía trước mặt.

May mà kẻ qua người lại nơi chiếc cầu cũng khá đông, nên thỉnh thoảng cũng có người cho vào chén đó vài đồng bạc lẻ để ông sống.

Khi đêm đến, thì người hành khất lại quay trở về chỗ trú ngụ của ông, nơi một cái vườn rau ở ngoại ô, đã bị bỏ hoang đã lâu, không xa chiếc cầu lắm.

Một hàng rào xiêu vẹo, bao lấy vườn rau bỏ hoang, bên trong có một túp lều rách nát, siêu vẹo, nơi mà người hành khất già đó đã đến trú ngụ qua đêm và tránh rét, qua mấy mùa đông lạnh giá.

Trong vườn rau, còn có một cái giếng khô. Bên cạnh giếng, lại có một gốc cây già to lớn, đã chết khô.

Gió mùa đông bắc ùa về, thành phố đón trận tuyết đầu tiên của mùa đông thật lạnh giá, nên người qua lại trên cầu cũng thưa thớt hẳn đi. Trước tình cảnh như vậy, ông lão hành khất đang định quay về nhà sớm để nghỉ, thì bỗng một con chó nhỏ từ đâu chạy tới.

Con chó bị lạnh, run lên từng chập. Nó chỉa mõm vào cái chén sứt mẻ của người ăn mày, hít hít mấy cái, trông có vẻ rất thích thú. Thì ra, đêm hôm trước, ông này đã dùng cái chén đựng thức ăn mà không rửa.

Lão hành khất trong lòng thấy xót thương con chó, nên lấy trong người ra một cái bánh bao, xé ra ít miến, bỏ vào trong chén cho nó ăn.

Con chó nhỏ ngước lên, nhìn ông một hồi lâu một cách trìu mến, như thể bày tỏ nỗi niềm cảm xúc và biết ơn, rồi nó cắm đầu cắm cổ vào chén, ăn lấy ăn để.

Người ăn mày mang con chó về "nhà" của mình. Từ đó, người và chó quấn quít  bên nhau không rời.

Con chó rất thông minh: Hễ đói, là nó cứ ngoạm cái chén, chạy loanh quanh bên chủ, để xin được ăn.

Những người đi qua lại nhìn thấy thế, rất ngạc nhiên, thích thú, liền thi nhau ném tiền vào trong cái chén.

Người ăn mày phát hiện ra, đây là cơ hội tốt, liền huấn luyện thêm cho con chó vài động tác để câu khách.

Qua một thời gian, nó đã biết đứng bằng hai chân sau, ngoạm cái chén, đi xin ăn, bằng cách nhảy tới nhảy lui, trước mặt những người qua đường.

Vậy là người ăn mày, lại càng thu được rất nhiều tiền, do con chó bết làm trò.

Người ăn mày bỗng dưng "phát tài", liền lấy tiền đó đi đánh vé số.

Thật là nằm mơ cũng không tưởng tượng nỗi, vận số của ông lại tốt đến như vậy. Bởi không lâu sau, ông đã trúng một lô độc đắc.

Con người có số mệnh là như vậy.

Người ăn mày đã mua lại khu vườn rau bỏ hoang. Rồi từ mảnh đất đó, ông đã xây lên một ngôi nhà lộng lẫy, nhưng ông vẫn giữ lại túp lều rách nát, cái giếng khô, gốc cây già và cái hàng rào lưa thưa ngày nào, ở vườn sau khu nhà mình.

Trong phòng của người ăn mày lại được bày biện đầy những đồ xa xỉ. Có tiền nhiều, bỗng ông nảy sinh chuyện mê mẩn việc sưu tầm đồ cổ, thích cung phụng những mỹ nhân chân dài, lại càng thích ánh mắt kinh ngạc, ngưỡng mộ của mọi người, khi ông rút trong túi ra cả xấp tiền lớn.

"Quý ngài ăn mày" này, bắt đầu đi gặp gỡ giao du với giới thượng lưu, dĩ nhiên lúc nào ông cũng mang theo con chó nhỏ của mình.

Các bà mệnh phụ ra sức ủng hộ nhiệt liệt quí ông ăn chơi mạnh tay này, và dĩ nhiên chẳng ai biết xuất thân của ông ra sao.

Điều duy nhất làm cho "quý ngài ăn mày" cảm thấy khó xử, chính là chú chó nhỏ. Bởi những người thượng lưu khác, đều nuôi những con chó giống quý, thuần chủng kia!

Cho tới một hôm, con chó con bướng bỉnh của ông, cắn rách tai một con chó cái, giống quí, ngay giữa bữa tiệc.

Chủ nhân con chó nổi trận lôi đình, làm cho ngài ăn mày cảm thấy lòng tự tôn của mình bị tổn thương nghiêm trọng.

Về tới nhà, ông lạnh lùng mang con chó ra vườn sau, cạnh cái giếng cũ. Sau đó, cho nó vào một chiếc lồng gỗ, buộc vào một sợi dây thừng dài và thả xuống cái giếng khô.

Người ăn mày quyết tâm giết chết con chó, giống như tiêu diệt hoàn toàn cái quá khứ khốn khổ, vẫn luôn ám ảnh ông ta.

Từ đó, bên cạnh người hành khất thiếu đi con chó nhỏ trung thành, ông ta có thể thoải mái một mình đi gặp các cô em phục vụ dễ thương ở quán rượu, hoặc đi dự những bữa tiệc thượng lưu xa hoa.

May mà dù thế nào, ông cũng không quên mỗi ngày, thả xuống giếng vài miếng thịt, một ít đồ ăn và một ít nước cho con chó. Mỗi khi nghe tiếng sủa của con chó, là ông biết rằng, người bạn trong những ngày khốn khó xưa kia vẫn còn sống.

Rồi một hôm, đang lúc ông uống rượu say lướt khướt, ông đã buột miệng để lộ ra cái thân phận thấp hèn của mình ngày xưa.

Lũ người kia bỗng chốc chế nhạo và quay mặt lạnh nhạt với ông ta.

Người ăn mày cuối cùng đã hiểu ra rằng, trên đời này chỉ có chú chó nhỏ, đã từng trải qua hoạn nạn khốn khó với mình, mới là người bạn chân thành nhất. Thế mà ông nỡ vứt nó xuống dưới đáy giếng khô.

Người ăn mày chạy thật mau đến bên cái giếng, thả cái cũi gỗ xuống. Nhưng chó con chỉ đi quanh cái lồng gỗ, mà không dám nhảy vào trong.

Người ăn mày chạy đi tìm một cái sợi dây to, một đầu cột vào gốc cây, tự mình trèo xuống đáy giếng cứu chó con.

Giếng rất sâu, nhưng ông không sợ hãi chút nào.

Đáy giếng tối om om, lại bốc lên mùi hôi thum thủm, ông vội ôm con chó vào lòng, rồi trèo lên.

Chó con chẳng hề oán trách chủ mình, vẫn vui mừng liếm mặt người chủ, lâu ngày mới gặp lại.

Người hành khất, vì muốn bù đắp lỗi lầm của mình, mỗi ngày ông đều cho nó những đồ ăn ngon nhất, và đi đâu ông cũng dắt theo.

Con chó nhỏ vui lắm, lúc lắc cái đuôi nhỏ, nhưng đầu nó chỉ có thể quay nhìn đằng sau, đôi mắt lúc nào cũng ngước nhìn trời cao.

Người ăn mày mang chó nhỏ đi khắp mọi ngõ ngách trong thành phố. Gặp những người hành khất khác, ai ai ông cũng cho tiền.

Thấy những người cầm tiền của mình, tỏ ra phấn khởi, cảm kích vui ra mặt, và ông cảm thấy rất hài lòng và rất mãn nguyện.

Rồi ông bắt đầu có một  dự định mới: Ông báo cho những người ăn mày trong cả thành, hãy tới nhà ông lĩnh tiền.

Tin tức truyền đi rất nhanh, đội ngũ ăn mày tới lĩnh tiền, càng lúc càng đông.

Những người được tiền, thường dùng những lời lẽ hoa mỹ, để ca ngợi, tung hô, chúc tụng, tán dương, tôn vinh ông, khiến lòng ông hưng phấn, vui mừng khôn tả xiết.

Đài phát thanh, truyền hình, cũng cho phóng viên tới phỏng vấn, lấy tin tức, và có những buổi phát sóng nói về ông.

Chỉ vài ngày sau, mọi người như nước thủy triều xông tới nhà ông, có những người chẳng phải là ăn mày, cũng gia nhập vào đội quân lĩnh tiền.

Người hành khất cứ chìm đắm trong cảm giác vinh dự, vui sướng. Ngày nào cũng bận rộn, chạy qua, chạy lại, giữa các ngân hàng để rút tiền.

Cho đến một hôm, ngân hàng báo tin cho ông biết, là số tiền trong tài khoản đã hết.

Thế là, ông đành phải nói với hàng dài những người xếp hàng rằng: Hôm nay, hết tiền để phát cho quí bà con rồi!

Đám người xếp hàng, lập tức biến thành một đoàn quân hỗn loạn. Họ bắt đầu la ó, mắng chửi ông với những lời lẽ rất thô bạo, rất nặng lời:

- "Đồ ti tiện!".
- "Sao đến lượt tao, lại không phát nữa!".
- "Chúng ta hãy dạy cho nó một bài học!"….

Bọn chúng xông vào nhà ông, ném gạch đá tới tấp, làm cho bàn ghế, đồ đạc ngã đổ một cách hỗn độn, và thi nhau hôi của.

Ông tìm cách để chốt các cửa nhà lại, nhưng không được, bởi họ thì quá đông, và rất hung hăng, dữ tợn.

Sợ quá, ông chạy ra vườn sau. Trông thấy sợi dây thừng còn buộc bên miệng giếng, ông vội vã nắm lấy, và leo xuống. Lúc xuống sắp tới đáy giếng, thì bất ngờ, đầu dây thừng ở miệng giếng bị đứt ra, người hành khất cùng sợi dây thừng ông vẫn nắm chắc trong tay, cùng rơi xuống đáy giếng tối om.

Cảnh sát mất rất nhiều công sức, mới giải tán được đám người hung hãn. Nhưng ngôi nhà của ông, hầu như đã biến thành một căn hộ hoang tàn xơ xác, bởi những thứ có thể lấy được, thì người ta đều cướp đi hết.

Thời gian, ngày qua ngày, người ăn mày đành trú lại ở dưới đáy giếng, vừa tối, vừa lạnh, ông ta ngước mắt lên kêu gào với trời, với trăng, nhưng chẳng có ai nghe thấy.

Chỉ có con chó con nghe tiếng, biết ông đang ở dưới, nên mỗi ngày, nó chạy rão khắp đó đây, để kiếm thức ăn, rồi ném xuống giếng cho ông chủ, lúc thì là cái bánh bao đã mốc meo, lúc thì miếng xương đã bốc mùi, có khi là xác của con mèo chết.

Phải nói, chó con kiếm thức ăn rất khó khăn vất vả, vì cái đầu nó chỉ có thể nhìn ngược lại phía đằng sau.

Rồi đến một lúc, nó không có cách nào để kiếm ăn được nữa, nên nó nằm dài ra đó bên miệng giếng chờ chết.

Người ăn mày gào thét đến khàn cả cổ, mà chẳng có ai tới cứu ông ta, kể cả con chó.

Nhiều ngày liên tiếp, không thấy con chó thả đồ ăn xuống cho ông nữa, ông nghĩ là con chó đã gặp chuyện không lành rồi. Ông nhìn lên mảnh trời hình tròn, nhỏ bé, trên miệng giếng, tan thở trong nỗi tuyệt vọng, vì biết rằng mình sắp chết.

Bỗng có những tiếng người nói chuyện rầm rì trên miệng giếng, đánh thức người hành khất đang khỏi cơn mê sảng, ông thu hết chút sức tàn, mà hô lên một tiếng thật to.

Thật sự, nếu không thấy xác con chó con chết ở miệng giếng, thì chẳng có ai nghe được tiếng kêu cứu của ông.

Ông được mọi người dùng dây thừng, xuống đáy giếng, đưa ông lên mặt đất. Nhưng vì hơi đã tàn, sức đã quá yếu, ông đã chết ít lâu sau đó, trong thân xác tồi tệ, thật thê thảm.

*****

Lạy Chúa, tình đời xưa nay vẫn thế. Nhưng qua câu chuyện này, con đã học được nhiều bài học quí giá, về tình đời, về tiền bạc, về tình nghĩa, về sự trung tín, nhất là về kiếp người…

Xin cho con trong mọi hoàn cảnh, có được ơn biết phân định: Phân định cái đúng, cái sai, cái nên làm và cái không làm, để con không phải bị lạc hướng trong những ngày sống ở trần gian này, kẻo con phải xa Chúa và xa phần rỗi đời đời của con. Amen.

-------------------

 

Bài 11: Chúa là chỗ dựa vững chắc cho đời tôi

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 485)

Bạn thân mến,

Trong một căn phòng hậu phẫu, có nhiều bệnh nhân, với những bệnh lý khác nhau.

Các bệnh nhân thường hay kêu than, rên la, vì đau đớn, có khi còn tỏ vẻ bực dọc, khó chịu, cách này cách khác, với cả những thân nhân chăm sóc mình. Đó cũng là chuyện bình thường, cũng rất thường tình thôi.

Tuy nhiên, có một bệnh nhân trạc tuổi 60, khi phải đối mặt với cơn bệnh, ông vẫn bình tĩnh khác thường, làm cho ai nấy trong phòng cũng đều ngạc nhiên, ngỡ ngàng:

Bởi, ông vẫn luôn tỏ ra rất bình thản, vui tươi, tuy cũng có những lúc, trên gương mặt, trong ánh mắt, hoặc trông 2 nắm tay của ông ghì chặt 2 thành giường, thì ai nấy cũng hiểu là ông đang phải chiến đấu ghê gớm với cơn đau đớn, do cơn bệnh đang hành ông.

Vậy mà, ông không hề thốt ra một lời kêu ca, hay trách móc gì. Có lúc, người ta lại thấy trên gương mặt của ông cũng lại nở ra những nụ cười thật tươi, thật rạng rỡ, khi tiếp chuyện với các bác sĩ, y tá, y công, hay bất cứ ai, như không hề có bệnh tật gì.

Hỏi ra, mới biết ông là người Công Giáo và phải mổ để cắt thận, vì sỏi quá nhiều.

Trong lúc trò chuyện, có người đã hỏi ông về bí quyết, làm sao để có thể giữ được trạng thái bình tĩnh, trong lúc rất đau đớn:

- “Tại sao các bệnh nhân khác khi đau đớn thì kêu la, rên rỉ, trách móc, còn ông thì không?”

Trong tiếng nói nhỏ nhẹ, ông nói:

- “Mỗi lần cơn đau đến với tôi, tôi liền nhớ đến Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Ngài xưa kia chịu đau đớn còn hơn tôi gấp ngàn ngàn lần, mà Ngài đâu có kêu than. Vì thế, tôi luôn cầu xin Chúa giúp sức, để tôi có thể vượt qua được  các cơn đau. Nhất là những lúc đó, tôi xin dâng cho Chúa những đau đớn tôi đang chịu, để lập công, để đền tội mình. Và tôi cũng xin Chúa cho tôi được kết hiệp và thông phần với những đau khổ, mà xưa kia Chúa đã chịu vì tôi”.

Thật tuyệt vời, Đức Giêsu đã là điểm tựa, là chỗ dựa cho ông trong những cơn đau đớn. Và cuộc thương khó, và cái chết của Ngài, đã làm cho ông thêm sức mạnh, thêm can mà chịu đựng, mà vui vẻ đón nhận những đau đớn, vì lòng yêu mến Chúa.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                            

*****

Chúng ta đọc Tin Mừng theo thánh Gioan sẽ thấy cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu, với thánh Tôma và các Tông đồ. Hẳn ai trong chúng ta cũng đều biết: Tôma là con người cứng lòng tin, bởi vì ông đã từng nói với các tông đồ khác, khi nghe thuật lại việc Chúa đã hiện ra với chúng tôi, thì thánh Tôma đã kiên quyết, đã dứt khoát tuyên bố: 

"Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". (Gioan 20,25b).

Như vậy, với thánh Tôma, không thấy là không tin. Thấy thì mới tin. Niềm tin của Tôma chính là: Tay phải sờ, mắt phải thấy, thì mới có sức thuyết phục. Niềm tin của thánh nhân là niềm tin của lý trí.

Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn Tôma, các Tông đồ khác và cả chúng ta hôm nay nữa, là phải đạt tới mức độ cao hơn, phải vượt lên trên những gì là khả giác của đời thường, để tiến tới một đức tin trưởng thành, tức là không thấy mà vẫn tin:

“Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Lạy Chúa Giêsu, đức tin của con hãy còn quá non yếu, xin Chúa giúp cho đức tin của con được lớn mạnh và trưởng thành, luôn tin có Chúa đồng hành với con, trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời con.

Xin cho con luôn tin tưởng vào Lời Chúa và những lời dạy của Giáo Hội, để Chúa sẽ luôn là chỗ dựa, là điểm tựa, là sức mạnh vững chắc cho cuộc đời con, trong mọi cơn gian lao khốn khó. Amen.

-------------------

 

Bài 12: Phương cách biến thù thành bạn

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 486)

Bạn thân mến,

Marin Luther King là mục sư người da đen, đã chủ trương đấu tranh chống nạn phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ, bằng phương thế bất bạo động của Đức Giê-su, đó là dùng tình thương để hoá giải thù hận.

Câu chuyện về chú bé da đen, do ông kể lại, đã minh hoạ cho chủ trương tốt đẹp này của ông:

Có một chú bé da đen tên là Tom.

Một hôm theo thói quen, vừa tan trường, là em lại phải tranh thủ chạy thật nhanh, để đi phân phát báo cho các trường trong vùng, để lấy tiền giúp đỡ gia đình.

Hôm ấy, em lại bất ngờ bị mót tiểu dọc đường. Thay vì đi tiểu đại vào một gốc cây gần đó như mọi lần, lần này Tom lại chạy vào một nhà vệ sinh, dành riêng cho người da trắng bên đường gần đó, vừa để đi tiểu, nhưng cũng vừa để quan sát xem, nhà vệ sinh của người da trắng tốt đẹp như thế nào.

Được vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, thoáng mát, Tom cảm thấy rất thoải mái, sung sướng.

Bất ngờ, Tom nghe có tiếng chân người bước nhanh trên nền nhà, về hướng nhà vệ sinh, mà em thì đang ở bên trong.

Chưa kịp phản ứng, thì em đã bị một người đàn ông da trắng, nắm giữ chặt cánh tay và đánh Tom một cái bạt tai, khiến em té ngã, đập đầu vào tường nhà vệ sinh, làm đau điếng. Kèm theo cái tát đó, là những lời nguyền rủa tên da đen, vì bé đã dám vi phạm luật của tiểu bang A-la-ba-ma nước Mỹ. Theo đó, thì người da đen, không được phép bén mảng đến những nơi dành riêng cho người da trắng, kể cả nhà vệ sinh.

Được chứng kiến cảnh tượng đau lòng trên, Martin Luther King đã khuyên nhủ bé Tom như sau:

- Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi ! Cháu có thể lựa chọn một trong hai thái độ đáp trả:

Một là chạy ra khỏi nhà vệ sinh, nhặt mấy cục đá bên đường, ném vào đầu gã đàn ông da trắng khốn kiếp, vừa ra tay đánh đập cháu, rồi chạy nhanh về khu người da đen nói với mọi người: Có ngày chúng ta sẽ cùng nhau giết sạch bọn da trắng, đã dám khinh thường và đối xử bất công, tàn nhẫn với người da đen chúng ta.

Hai là cháu sẽ chọn thái độ cao thượng hơn, là cháu sẽ im lặng, nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, cũng đã từng bị kẻ gian ác, xô té mấy lần trên đường vác thập giá lên núi sọ. Nhưng lần nào, Người cũng im lặng, lại trỗi dậy, để tiếp tục vác thập giá, đi lên đỉnh đồi, và chịu chết trên cây thập giá.

Đã thế, khi hấp hối sắp chết, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ hành hạ mình:

“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Vậy, cháu hãy tha thứ cho người da trắng đã hạ nhục cháu nhé.

Tom ơi! Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu thương mới là khó.

Chúng ta là những người da đen Hoa-Kỳ, chúng ta muốn xây dựng ngày mai, một tương lai tươi sáng hơn, nhưng chỉ có tình thương, mới làm được việc đó cháu ạ !

Mỗi người chúng ta hôm nay cũng hãy nhớ rằng:

"Tình yêu là liều thuốc kỳ diệu, chữa trị mọi vết thương của cả người cho, lẫn người nhận".

*****

Lev Tolstoy, một văn hào nổi tiếng, người nga, đã nói được một câu cũng tương tự như lời Đức Giê-su dạy, về sự tha thứ cho kẻ thù:

"Tình yêu thật diệu kỳ. Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống".

Có một hiệp sĩ dũng cảm, tên là Hidebrand, bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề, công khai.

Hidebrand thề, là quyết sẽ trả thù cho đích đáng nỗi nhục này.

Ông suy nghĩ và đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho hành động trả thù của mình: Ông đã chọn địa điểm và đã chọn thời giờ thuận lợi, để thi hành ý định.

Hôm ấy, ông đã thức dậy vào lúc nửa đêm, một mình võ trang đầy đủ, đi đến nơi thanh vắng, nơi mà ông biết kẻ thù của ông là Bruno, sẽ đi ngang qua.

Trên đường đi, ông nhìn thấy một nhà nguyện bên đường gần đó, bắt đầu mở cửa. Ông liền đi vào trong đó, để chờ trời sáng.

Trong lúc chờ đợi, ông đi quan sát các bức tranh trong nhà nguyện.

Bức tranh thứ nhất vẽ Đức Giêsu mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng chữ bằng tiếng Latinh:

"Bị lăng nhục, Người đã không đáp trả lại bằng lăng nhục".

Bức tranh thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn, khi Người bị đánh đòn, với hàng chữ:

"Khi chịu khổ đau như thế, Người đã không nói lời đe dọa".

Và cuối cùng, bức tranh thứ ba trình bày Đức Giê-su trên cây thập giá, với hàng chữ:

"Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm".

Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hidebrand bỗng bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù trong ông đã giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng không phải là để chém giết, nhưng là để tha thứ và giải hoà với nhau.

***

Rồi cách đây ít lâu, có một phụ nữ viết một bài đăng trên một tạp chí tôn giáo, kể lại kinh nghiệm về định luật quả báo, trong quan hệ giao tiếp của mình với tha nhân như sau:

“Tôi là một phụ nữ tuổi trung niên và tính tình khép kín. Tôi không thích giao tiếp với bất cứ ai, vì sợ bị họ quấy rầy.

Chính vì thế, mà tôi đã sống cô đơn nhiều năm, trong một căn hộ chật hẹp, với số tiền trợ cấp xã hội ba tháng một lần.

Thái độ khép kín đó, đã làm cho tôi bị suy nhược thần kinh.

Một ngày nọ, tôi bị đau nặng, phải đi điều trị tại một bệnh viện miễn phí. Nằm viện đã lâu, mà bệnh tình cũng không thuyên giảm.

Trong thời gian này, tôi cảm thấy cô đơn, vì không có ai đến thăm. Chỉ có cô em gái của tôi ở nước ngoài, là còn nhớ đến tôi và gửi cho tôi một thùng quà, kèm theo thiệp chúc mừng No-en, vào mỗi dịp lễ Giáng Sinh.

Rồi một ngày nọ, cô em gái duy nhất kia của tôi lại bị chết đột ngột, do tai nạn giao thông.

Tin này khiến cho tôi càng thêm tuyệt vọng.

Một hôm, tình cờ tôi đọc được một thông báo trong tập san của bệnh viện, nơi tôi đang điều trị, nội dung như sau:

“Tổ chức thiện nguyện chúng tôi, đang cần có thêm người tình nguyện phục vụ các bệnh nhân tê liệt, tại tầng lầu ba của bệnh viện”.

Thế là tôi quyết định đăng ký làm thử công việc thiện nguyện này, để tránh sự nhàm chán, trong lúc nhàn rỗi.

Chỉ có Chúa mới biết, tại sao tôi lại tình nguyện làm một việc vất vả, không lương này.

Nhưng theo tôi hiểu, thì chắc là Người muốn dùng việc ấy để chữa lành bệnh tinh thần cho tôi.

Ngày nọ, tôi được bà trưởng hội phân công đến giúp cho một bà cụ bị tê liệt, mà đã từ lâu, không một thân nhân nào còn đến thăm hỏi, giúp đỡ bà.

Bà cụ thường tủi thân và luôn than vãn trách móc con cháu, đã đối xử tệ bạc với bà.

Nhận thấy cụ cần được động viên an ủi, nên tôi hay đến ngồi bên cạnh, vừa bóp tay chân cho cụ, vừa lắng nghe cụ tâm sự.

Mỗi lần như vậy, cụ lại có dịp kể cho tôi nghe những nỗi đau khổ, mà chồng con đã đối xử tệ bạc với cụ.

Một hôm, tôi ghé tai khẽ nói với cụ rằng:

Tôi có một bà mẹ, có nét mặt phúc hậu rất giống cụ. Tôi cảm thấy yêu cụ như yêu mẹ ruột của tôi.

Nghe vậy, nét mặt của cụ đột nhiên biến đổi: Cụ im lặng, nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi:

“Có thật vậy không hả cô ?”.

Tôi trả lời:

“Dạ, đúng thật như vậy đó ! Con rất yêu cụ, như yêu mẹ ruột của con !”.

Và ngay lúc ấy, tôi cảm thấy trong người tôi có một mối xúc cảm thật lạ lùng, nó làm biến đổi con tim vốn chai lỳ của tôi.

Trước đây, tôi không có thiện cảm với ai, nhưng giờ, đây tôi lại thấy mọi người đều dễ thương và tôi sẵn sàng tiếp xúc với những người đau khổ, để đem niềm vui và tình thương đến cho họ.

Cũng từ ngày đó, tôi không còn cảm thấy căng thẳng thần kinh nữa và tôi quyết định không uống thuốc chữa bệnh thần kinh mỗi ngày như trước nữa.

Tôi ăn ngủ bình thường và lên cân.

Căn bệnh suy nhược thần kinh của tôi tự nhiên biến mất.

Trong lần tái khám định kỳ, bác sĩ chữa trị cho tôi đã tỏ ra rất ngạc nhiên, khi thấy tôi đã bình phục rất nhanh, mà không cần uống thuốc mỗi ngày như trước”.

Câu chuyện nói trên cho thấy:

Chính khi chúng ta thể hiện tình thương đối với tha nhân, là lúc chúng ta cũng nhận được ơn chữa lành căn bệnh tinh thần của chính mình.

*****

Cũng lại một câu chuyện tương tự khác.

Trong cuộc nội chiến tại nước Hoa Kỳ, sự hận thù giữa hai miền Nam Bắc, ngày một thêm sâu đậm.

Lần kia, tổng thống Áp-ra-ham Linh-côn (Abraham Lincoln) đã bị nhiều người miến Bắc Mỹ chỉ trích, khi ông chủ trương cần đối xử khoan dung đối với đám dân nổi loạn ở miền Nam.

Những người này nhắc cho Linh-côn nhớ rằng, cuộc chiến tranh giữa hai miền, vẫn còn đang tiếp diễn khốc liệt, mà ngày mai chưa biết ra sao đâu.

Theo họ, quân đội miền Nam là kẻ thù, và tất cả bọn họ đều cần phải bị tiêu diệt.

Bấy giờ tổng thống Linh-côn đáp:

“Cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất, chính là biến kẻ thù trở thành bạn hữu của chúng ta, bằng lòng khoan dung, tha thứ”.

Lời nói của Linh-côn rất phù hợp với lời Chúa Giê-su dạy trong kinh thánh, theo thánh Matthêu:

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em… Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Vì Người nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác” (Mt 5,27-28.35).

*****

Có một nhà tâm lý đã nói rằng:

“Nếu anh nuôi lòng thù hận và muốn giết chết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài: Một chiếc dành cho kẻ thù sắp bị anh giết chết. Còn chiếc kia sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn, do sự sợ hãi bị trả thù, hay do sự sợ sự trừng phạt của công lý”.

Thực vậy, hận thù sẽ gây tác hại. Nó làm tổn thương về tinh thần cho người đang nuôi oán thù trong lòng. Nó còn huỷ diệt nhân cách của họ như Ba-con đã nói: 

“Khi trả thù, người ta biến mình thành ngang hàng với kẻ thù.
Còn khi tha thứ, thì người ta sẽ vượt cao hơn kẻ thù của mình”.

*****

Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng:

“Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương mới làm phát triển nhân cách con người”.

Tình yêu có phép mầu để biến thù thành bạn.

Áp-ram Linh-côn (Abaham Lincon) nói:

- “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy !”.

Chính Chúa Giêsu trong Tin mừng theo thá nh Luca dạy chúng ta:

“Anh em hãy yêu kẻ thù... Hãy tha thứ, thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi, thì sẽ được cho lại !” (Lc 6,35).

Lạy Chúa Giêsu, sự xuất hiện của những người ganh ghét trong cuộc sống, là điều không thể tránh khỏi.

Ngay cả Chúa vốn là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34), nhưng vẫn bị các đầu mục dân Do thái thù ghét và chỉ trích: “Ông ta là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34).

Xin cho con có được một quả tim độ lượng của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trước tha nhân, nhưng biết quảng đại mở ra, biết vươn tâm hồn lên cao, vượt qua mọi ích kỷ tầm thường của loài người, để mặc lấy tâm tình bao dung, nhân hậu của Thiên Chúa.

Xin cho con đủ sức vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, cùng mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con luôn giữ được tâm hồn bình thản, không để cho bất cứ yếu tố nào bên ngoài, làm xáo trộn, hay khuấy động tâm can con.

Xin cho quả tim con đủ lớn, để yêu được những người tự nhiên con có ác cảm.

Xin cho vòng tay con rộng mở, để con có thể ôm cả những kẻ đang ganh ghét, vu khống và làm hại con, nhờ đó, con hy vọng sẽ được Chúa tha thứ mọi tội lỗi, và xứng đáng làm con thảo hiếu của Cha trên trời, và trở nên môn đệ thực sự của Chúa. Amen.

-----------------------

 

Bài 13: Chuyện cô Na-ka-mu-ra, một thiếu nữ Nhật Bản

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 487)

Bạn thân mến,

Cô Na-ka-mu-ra, một thiếu nữ Nhật Bản, 18 tuổi, gia nhập đạo Công giáo được bốn năm. Kể từ ngày vào đạo, thì hầu như không có ngày nào cô bỏ tham dự thánh lễ lúc 6g30 sáng.

Ngày 6/8/1945, Mỹ thả trái bom nguyên tử đầu tiên xuống Hi-rô-shi-ma. Cảnh tượng tàn phá thật là khủng khiếp...

Đã gần hai tuần, vị linh mục phụ trách giáo điểm truyền giáo này không thấy cô Na-ka-mu-ra đi lễ, nên quyết định đi thăm cô.

Ngài phải vất vả, khổ sở, len lỏi mãi, mới tới được nhà cô.

Hỡi ôi, nhà cô đã sụp đổ tan tành, chỉ còn cái tường cao chừng hai thước, trơ trọi đứng đó...

Vị thừa sai thổn thức, đi vòng ra phía sau nhà.

Trời ơi, một cái chòi thô sơ, bốn góc là bốn cái cột, chung quanh che bằng chiếu, mành, áo quần rách, trên nóc mấy tấm tôn kẽm xiêu vẹo.

Ngài bước vào trong. Ôi lạy Chúa, một cái chõng thô sơ, ọp ẹp: Na-ka-mu-ra nằm trên đó, áo xống tả tơi, cháy sém, hai tay, hai chân co quắp, như một xác chết...

Vị linh mục khựng lại đôi lúc, không sao nói được một lời.

Một lát sau, ngài lấy hết can đảm để gọi tên nàng.

Na-ka-mu-ra nhúc nhích, động đậy một chút, nhưng không sao trở mình được. Nàng bị thương nặng quá, chân tay, mình mẩy, chỗ nào cũng thấy sây sát.

Ở đầu vai bên phải, thịt xương cháy xám, lộ ra một lỗ hổng, có thể đút lọt bàn tay.

Vị linh mục xắn áo, lau chùi, dọn dẹp, rồi giúp nàng xoay mình.

Na-ka-mu-ra mở to hai mắt nhìn vị linh mục, tràn ra mấy giọt lệ, cựa quậy tay trái, như muốn giơ lên chào, mà không thể giơ lên nổi.

Nàng nói thì thầm: “Cha có đưa Mình Thánh Chúa đến cho con không?”.

Vị linh mục chưa kịp trả lời nàng, thì nước mắt đã trào ra.

Sau ít phút trao đổi, vị linh mục được biết, đã 14 ngày qua, trừ ra cha nàng, ông cũng bị thương nặng, nhưng mỗi ngày cũng cố đem cho nàng chút ít đồ ăn, nước uống, còn ngoài ra, chẳng có ai lo lắng chăm sóc nàng.

Vậy mà, Na-ka-mu-ra không một lời kêu ca, than thở, không kêu xin xót thương giúp đỡ.

Nàng như quên hết mọi đau đớn, ê chề, chỉ nhỏ nhẹ hỏi: “Cha có đưa Mình Thánh Chúa đến cho con không?”.

Vị linh mục nghẹn ngào cảm kích cực độ, nước mắt cứ thi nhau trào ra...

Ngài vội vàng quay trở về nhà, lấy Mình Thánh Chúa cho Na-ka-mu-ra rước lễ, rồi ngài nán ở lại, lau chùi, dọn dẹp thêm chút nữa túp lều của nàng...

Na-ka-mu-ra nhỏ nhẹ nói với ngài:

“… Đã bốn năm nay, con chuẩn bị vào Dòng. Con muốn tận hiến đời con cho Chúa, muốn phục vụ hết mình cho những người nghèo khó, bệnh tật. Hiện giờ, con thế này, không biết Chúa sẽ dẫn dắt con về đâu? Dẫu sao, ở đâu, đi về hướng nào, ra sao, thì Chúa vẫn luôn là nguồn sức mạnh, là nguồn hạnh phúc, là tất cả của con...”.

Hôm sau, vị linh mục trở lại, mang theo Mình Thánh Chúa… nhưng Na-ka-mu-ra đã về trời với Bạn Chí Thánh Giêsu... không còn trên mặt đất khổ đau này nữa.

Na-ka-mu-ra mới gia nhập đạo được mấy năm, hằng ngày đi lễ ban sáng và rước lễ... bị tai nạn, cửa nhà tan nát, thương tích đầy mình, đớn đau tinh thần, thể xác, mà không hề có một lời kêu ca, ta thán. Gặp linh mục Na-ka-mu-ra chỉ hỏi đến Mình Thánh Chúa...

Vị thừa sai xác tín: Ngoài trường “Thánh Thể” ra, không còn trường nào khác dạy được như vậy! (Theo tạp chí “Mater nostra”, Trương Vân Thục, OSB sưu tầm).

*****

Dân Chúa khao khát nước Trời, họ bỏ tất cả, để được lắng nghe và như lời dạy của Đức Kitô:

“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

Ngài đã làm cho họ được no đủ, họ được thỏa lòng khao khát Lời công chính, Lời đó dẫn về nước Trời.

Nước đó được bắt đầu nơi tâm hồn của người theo Chúa, bởi vì khi theo và nghe Đức Kitô giảng dạy, chính Ngài thương xót và chữa lành những người bệnh tật, Ngài làm cho họ no thỏa nhu cầu sự sống con người tại “chỗ hoang vắng” (Mt 14:13), Ngài đã làm bánh hóa nhiều, gợi lại cho chúng ta hình ảnh sa mạc, mà dân Do Thái đi trong bốn mươi năm và được nuôi bằng bành man-na, bánh bởi Trời, để dân Người được sống trong hành trình về đất hứa, nơi đó “mọi người sẽ được nuôi ăn và ăn no nê” (x. Đnl 6,11; 11,15; 31,20).

Trước sự khao khát Lời Hằng Sống, mà dân Chúa đang đứng trước sự đói khát của nhu cầu thân xác, thì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:

- “…các con hãy cho họ ăn”.

Các ông thưa lại rằng:

- “Ở đây, chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”.

Với sự lo toan của con người, chúng con không thể lo cho cả ngàn người, đó là sự phản ứng bất lực nơi con người, trước những nhu cầu quá to lớn về lương thực, cho năm ngàn người.

Người bảo các ông: “Hãy đem năm chiếc bánh và hai con cá lại đây cho Thầy”.

Chúa truyền cho dân “ngả lưng trên cỏ” (Mt 14:19), có nghĩa là sửa soạn ăn, ngả lưng là tư thế để ăn, như là tư thế sẵn sàng để lãnh nhận hồng ân.

“Cầm bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ”: Chúa làm hành động giống như trong bữa tiệc ly (x. Mt 26,26), và cũng để ám chỉ tới bữa tiệc sau này trên nước Trời (x. Mt 8,11-12; 22,1-10).

Sự mọi người đều ăn no nê, và dư dật, là một dấu chỉ đã được loan báo từ trước, cho thời kỳ của Đấng Mêssia trong Kinh Thánh (x. Đnl 6,11; Tv 132,15; Is 65,10).

Phép lạ bánh hóa nhiều của Chúa Giêsu, cũng gợi cho chúng ta sự việc:

Tiên tri Êlisê ra lệnh cho các đầy tớ đa nghi, mang hai mươi chiếc bánh nuôi cả trăm người (x. 2V 4,42-44).

Các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14:13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15).

Như dân Chúa tìm về đất hứa, như những người cất bước đi tìm nước Thiên Chúa và nghe Lời Chúa giảng dạy, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ chăm sóc, đỡ nâng, chữa lành mọi vết thương, cho đủ thỏa tất cả…

Lạy Chúa, Phép lạ bánh hóa ra nhiều (Mt 14, 13-21), là một gợi ý cho con về Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa, đây chính là nguồn sức sống cho con, đời này và đời sau.

Xin cho con siêng năng đến đón nhận sức sống nơi Bí tích Thánh Thể và siêng năng đọc Sách Thánh, suy gẫm Lời Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống. Amen.

-------------------

 

Bài 14: Hy Sinh và Phục Vụ như Chúa

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 488)

Bạn thân mến,

Văn sĩ Robert Jordan Mayer đã viết tập sách có tựa đề Tạ Ơn Chúa. Trong đó ông chia ra ba loại cho đi: cho đi vì tức, cho đi vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.

- Kẻ cho đi vì tức thường nói: “Tôi không thích cho đi, nhưng vì kẹt quá, nên đành phải làm như vậy thôi, phải chịu như vậy thôi”.

Cho đi vì tức thì cho đi rất ít, vì món quà, mà không có người cho thì không giá trị.

- Người cho đi vì bổn phận thì nói: “Tôi phải cho đi”. Cho đi vì bổn phận thì cho đi nhiều hơn là cho đi vì tức, nhưng món quà không hấp dẫn, không màu sắc.

- Người cho đi vì lòng biết ơn thì nói: “Tôi muốn cho đi”. Cho đi vì lòng biết ơn thì cho đi mọi sự và làm cho thế gian nhìn thấy nơi đó hình ảnh Thiên Chúa.

Chúng ta hãy xét xem mình thuộc loại người nào trong ba mẫu người vừa nêu trên: cho đi vì tức, cho vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.

*****

Bài Tin Mừng (Ga 12, 24-26) dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái, để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi, là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình, vì tình yêu Chúa.

Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa, thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình, để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy khắc ghi thật sâu vào tâm trí con lời Chúa dạy về hy sinh và phục vụ. Xin ban cho con ơn can đảm và trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và ngay cả khi phải hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em. Amen.

-------------------

 

Bài 15: Câu chuyện giờ thứ 9

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 489)

Bạn thân mến,

Cách đây hơn 2.000 năm, vào một buổi chiều đầy ảm đạm, có ba cây thập giá đã được dựng lên tại đỉnh đồi con Gôn-gô-ta, một ngọn đồi nằm ở ngoại ô phía Tây Bắc thành phố Giê-ru-sa-lem, thủ đô của nước Pa-les-ti-na, thuộc vùng tiểu Á.

Trên ba cây thập giá ấy, người ta treo ba con người bị kết án tử. Và trong ba tử tội ấy, có 2 kẻ cùng mang một tội danh, thứ tội muôn thuở, thời nào cũng có, đó là tội ăn trộm, tội ăn cắp, tội ăn cướp.

Nhưng, người còn lại bị treo trên thập giá ở chính giữa, thì khó mà tính cho được chính xác tội danh của Ngài,

Người ta đã trao Ngài lên, chỉ vì Ngài là Người công chính, chỉ vì Ngài đã dám đưa ra một thứ giáo lý mới mẻ, đầy lôi cuốn và hấp dẫn cách lạ thường. Người tử tội ấy chính là Đức Giêsu, một nhân vật lừng danh trong lịch sử nhân loại, xuyên suốt hơn 2.000 năm qua.

Bản thân mến,

Vũ trụ bao la, mà chúng ta đang sống, có rất nhiều thứ tình: Nào là tình yêu thương cha mẹ dành cho con cái, nào là tình yêu quê hương đất nước, yêu thương cội nguồn dân tộc, hay là tình yêu đôi lứa.

Nhưng, không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống của mình cho người mình yêu.

Chỉ có Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại, mà Ngài đã dám bỏ Trời, xuống trần gian này, đã chọn cái chết nhục nhã, thê thảm trên thập giá, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và dẫn đưa chúng ta về miền đất tái sinh, miền đất mang lại sự sống hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa.

Mùa Chay là thời gian Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy cùng đồng hành với Chúa Giêsu, cùng Ngài vác thập giá leo lên đỉnh đồi Gôn-gô-ta, qua thập giả của cuộc đời mình.

Đến với thập giá Chúa, thì giữa chúng ta sẽ không còn gì là chia cách nữa. Chúng ta hãy cùng nhau hướng nhìn về Chúa, để biết cảm thông, tha thứ và yêu mến nhau nhiều hơn.

Giờ thứ chín, là giờ Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, là giây phút mà Ngài được tôn vinh trên đỉnh cao của thập giá, giờ của tình yêu đáp trả tình yêu.

Nhìn lên thập giá Chúa, chúng ta hãy dâng cho Chúa những thử thách đau thương của cuộc đời,

- thánh giá sẽ giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa những đau khổ của ta trong cuộc sống,
- thánh giá sẽ giúp chúng ta nhận ra những giá trị của những đau khổ và cái chết Chúa Giêsu đã chịu,
- từ đó, thánh giá sẽ giúp sức, để chúng ta có thể vác lấy thập giá đời mình, mà đi theo Chúa cho đền cùng.

Lạy Chúa, giờ thứ 9 là giờ của Lòng Chúa Thương Xót, xin cho con biết mặc lấy những tâm tình ăn năn thống hối và quyết cố gắng quay trở về với Chúa, sau những tháng ngày vất vả long đong giữa chợ đời, mà quên mất Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con. Amen.

-------------------

 

Bài 16: Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 490)

Bạn thân mến,
 
Ở bên Pháp, có một người giàu có, sang trọng, tên là Ke-ri-o-let, đã một thời vang danh, vì bê tha, tội lỗi nhất vùng ấy.

Chàng ngổ ngáo từ thuở bé, đã được cha mẹ đặt tên cho cái tên là “đồ bất trị”.

Càng thêm tuổi, càng thêm độc ác. Vì giỏi nghề võ, nên ỷ sức, đánh đập bất cứ ai chàng không th1ich và đã từng giết chết nhiều mạng người.

Xem ra như chàng ta khoái vui việc giết người cướp của.

Mặc dầu được rửa tội từ thuở bé, chàng vẫn tỏ ra chống báng đạo, chế diễu việc phượng thờ, xúc phạm đến các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể.

Chàng đã dốc quyết bỏ Công Giáo, sang tận Phương Đông để gia nhập Hồi giáo. Thiên Chúa đã cảnh tỉnh chàng ta nhiều lần:

- Một hôm, sét đánh ngả một cây bên cạnh, nơi chàng đứng, chàng vẫn không khiếp sợ, mà còn chửi Thiên Chúa. Rồi vào nhà lấy súng, bắn lên trời, để trả thù Thiên Chúa.

- Một lần khác, chàng đang ngủ, thì sét đánh cháy mất nửa giường chàng nằm. Thế mà, chàng vẫn sống phây phây, ngạo mạn, trêu cơn thịnh nộ Thiên Chúa.

- Một lần nữa, chàng đang cưỡi ngựa, phi như bay, sét đánh chết ngựa, làm chàng ngã quỵ. Thế mà chàng vẫn sống phây phây, ngổ ngáo, ngạo mạn.

- Đến thành Lộ Đức, thấy một linh mục đang trừ quỉ nhập vào 1 người, chàng tò mò đứng xem. Thấy quỉ tru trếu gầm thét trước khi ra, chàng đánh bạo hỏi quỉ:

Sao đã mấy lần mày làm sét đánh tao, sao tao không chết ?

Quỉ liền dùng miệng người bị quỉ ám mà trả lời:

- Đức Maria đã cứu chữa mày, nên mày mới thoát tay tao. Nếu không có bà ấy, đời mày đã tàn rồi con ơi! Mày coi chừng đó, còn nhiều dịp khác, liệu hồn đi con ơi!

Khi nghe quỉ nói sự thật, chàng ta mất cả hồn vía, một trật được ơn đánh động bên trong, chàng quì gối cảm tạ ơn Đức Mẹ đã cứu mình, rồi thống hối ăn năn quyết trở về đường chính, rồi sống đời cải thiện.

Hôm sau, chàng đi xưng tội, rồi cởi bộ quần áo sang trọng, mặc đồ xấu, đi hành hương ,viếng đền thờ Đức Mẹ, rồi vào nơi thanh vắng, ăn chay, hãm mình, đánh tội cho đến chết.

Suốt đời, chàng hằng nhớ ơn Đức Mẹ đã cứu mình, chỉ vì mỗi ngày chàng đọc một kinh Kính Mừng, mà mẹ chàng đã dạy chàng, từ lúc thuở bé. Mặc dầu đã sống bê tha trong đống tội bao nhiêu năm trời, nhưng chẳng ngày nào chàng bỏ việc nhỏ mọn, mà mẹ đã căn dặn.

*** Sưu tầm: Truyện kể về Mẹ Maria

--------------------------------

 

Bài 17: Hãy cảnh giác: “Coi dzị mà hổng phải dzị”

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 491)

Bạn thân mến,

Có lần đến thăm một gia đình người quen. Trước nhà, thấy có trồng cây hồng mềm, có nhiều trái vàng tươi, trông rất là bắt mắt. Trông thấy vậy, tôi liền buột miệng: "Chà! Hồng chín, chắc là ăn ngon lắm đây ?"

Anh chủ nhà liền vội nói: "Coi vậy, mà chưa ăn được đâu cha ơi. Còn chát lắm... vì nhựa không hà. Phải đợi mộ ít lâu nữa, để cho nó thật chín mềm, thì mới ăn được."

Vừa dứt lời, thì bỗng bà vợ dưới bếp bước lên, sau tiếng chào hỏi, bà nói: "Nhưng mà con cũng nghe người ta mách, là nếu muốn ăn sớm, thì phải ngâm nước muối một ngày, rồi đem ủ vào hũ gạo thêm 2-3 ngày nữa, hồng sẽ hết chát và hết nhựa... thì ăn được."

Tôi cứ nghĩ: Mấy trái hồng đã đổi màu vàng, treo lủng lẳng trên cây, trông thật hấp dẫn, tưởng là đã chín là đã ăn được, nhưng nào ngờ: "Coi dzị mà hổng phải dzị."

*****

Bạn thân mến,

Đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Luca ta thấy Chúa nói:

“Không có cây nào tốt mà mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây…”(Lc 06:43-45),

Từ Lời Chúa này, chúng ta ta có thể rút ra được 2 bài học:

Thứ nhất, Chúa dạy rõ: "... giống như những cây tốt, sinh trái tốt, người lành, phát sinh những việc thiện hảo..." . Theo thánh kinh, nói về cây tốt, là nói về "phẩm hạnh đi trước hành động". Hay nói một cách khác, các việc làm của một người, sẽ tỏ rõ cho thấy tình trạng "trái tim" của họ.

Điều này có nghĩa là Chúa muốn chúng ta phải sống liêm chính, phải sống bác ái yêu thương, phải sống sống thật thà ngay thẳng, có sao nói vậy, và nói thì phải làm. Đừng nói một đàng rồi làm một nẻo.

Thứ hai, đối với người khác, Chúa dạy chúng ta phải thận trọng, phải ý tứ trong việc xử thế, nghĩa là đừng xét đoán, cũng đừng kết án, vì rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng đã từng cảm nhận: "coi dzị mà hổng phải dzị."

Và nếu đọc lại mấy câu trước của đoạn Tin Mừng này của thánh sử Luca, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã khuyên dạy chúng ta rất rõ:

"Hãy từ tâm, cảm thông với người khác như Cha các con trên trời... đừng xét đoán... cũng đừng kết án... hãy tha thứ...." (6:36-37).

Suy nghĩ kỹ, chúng ta thấy: Xét đoán hoặc kết án người khác thật là một điều bất công.

Thử hỏi sao lại không bất công, một khi mình không biết rõ họ là ai, không hiểu được hoàn cảnh của họ thế nào, cũng chẳng đả thông ý định trong lòng của họ ra sao... thế mà ta lại xét đoán, ta lại kết án họ?

Con người chỉ nhìn thấy bề ngoài. Chỉ Thiên Chúa mới nhìn thấy tận bên trong, và đó mới là điều can hệ. Hạnh các thánh đã cho chúng ta Thấy rõ điều đó.

Thử hỏi: Có được bao nhiêu vị thánh, mà lại không có một quá khứ đáng phàn nàn? Nhưng khác một điều, là quá khứ của các ngài đã được nhận ra, đã được tha thứ, và đã được khắc phục.

"Coi dzị mà hổng phải dzị."

Chúng ta hãy đọc lại câu trước đoạn Tin Mừng theo thánh Luca, đúng là một lời Chúa cảnh tỉnh chúng ta:

"Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã..." (Lc 6:42).

Theo tiếng Hy lạp, từ ngữ giả hình chỉ về kịch sĩ. Còn trong Phúc âm, từ ngữ giả hình là sự làm giảm uy tín, cũng như danh dự cá nhân, và ám chỉ đến sự thiếu thành thật. 

Theo nghĩa này, thì Tin Mừng theo thánh Luca đã dùng từ ngữ giả hình 3 lần:

- một lần ám chỉ những người Pharisêu (12:1),
- và hai lần nhắm đến những người chống đối Chúa Giêsu (12:56, 13:15).


Cũng vậy, nhìn trái hồng mềm, chín vàng trên cây, đâu phải ai cũng biết lúc nào là chưa ăn được, lúc nào là ăn được.

Lạy Chúa, xin cho con luôn quan tâm đến những lỗi lầm của con, trước khi bận tâm đến những lỗi lầm của anh chị em con, như là một lẽ sống, mà chính Chúa Giêsu đã hằng khuyên dạy con, để con nên xứng đáng là môn đệ thật sự Chúa. Amen.

-------------------

Những sách đã in (41 cuốn):
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (4 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng– Sách 4

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (7 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (18 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18

IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (4 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4

----------------------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây