Chuyện Phiếm của Gã Siêu – Lm. Hoàng Đình Mai – GãSiêu 91-120

Thứ ba - 15/01/2019 10:44
Chuyện Phiếm của Gã Siêu – Lm. Hoàng Đình Mai – GãSiêu 91-120
Chuyện Phiếm của Gã Siêu – Lm. Hoàng Đình Mai – GãSiêu 91-120
Chuyện Phiếm của Gã Siêu – Lm. Hoàng Đình Mai – GãSiêu 91-120
----------------------------------
Mục Lục:

GãSiêu 91: ĐỜN ÔNG CON GIAI. 1
GãSiêu 92: ĐỒNG ĐÔ LA NHÂN NGHĨA.. 10
GãSiêu 93: ĐẸP VÀ XẤU.. 20
GãSiêu 94: CÁI ĂN.. 28
GãSiêu 95: TIỀN.. 36
GãSiêu 96: VÌ TÔI LÀ LINH MỤC.. 43
GãSiêu 97: Chân dung Gã Siêu. 47
GãSiêu 98: CŨNG LÀ ĐỜN ÔNG.. 48
GãSiêu 99: NÓI MÓC.. 54
GãSiêu 100: SAU LƯNG ANH ĐỜN ÔNG.. 61
GãSiêu 101: ĐỜN BÀ CON GÁI 67
GãSiêu 102: CON NGƯỜI QUẢ LÀ…DỄ SỢ. 72
GãSiêu 103: CÁI LƯỠI 79
GãSiêu 104: TẤP TỂNH NGƯỜI ĐI 83
GãSiêu 105: TÌNH YÊU THỜI MỞ CỬA.. 89
GãSiêu 106: THAM NHŨNG VÀ HỐI LỘ.. 96
GãSiêu 107: NHẬU 2. 103
GãSiêu 108: TỪ HÀNG GIẢ ĐẾN NGƯỜI GIẢ.. 109
GãSiêu 109: THƯƠNG HẠI 114
GãSiêu 110: KHÔN MÀ KHÔNG NGOAN.. 118
GãSiêu 111: NÓI VÀ LÀM... 123
GãSiêu 112: NHỮNG KIỂU PHỤ NỮ.. 128
GãSiêu 113:  VỢ DẠI 133
GãSiêu 114: NĂM TUẤT NÓI CHUYỆN CHÓ.. 138
GãSiêu 115: NĂM QUÍ MÙI NÓI CHUYỆN…DÊ.. 145
GãSiêu 116:  ĐỜN BÀ VÀ ĐỜN ÔNG.. 151
GãSiêu 117: Nhớ dai và nói dài 158
GãSiêu 118: CHẢ VÀ NEM... 163
GãSiêu 119:  NÀNG DÂU XƯA VÀ NAY.. 169
GãSiêu 120:  GIÁNG SINH BUỒN.. 173

-------------------------------

 

GãSiêu 91: ĐỜN ÔNG CON GIAI.

 

Trong một lễ cưới nọ, thấy cô dâu khí mang năng tuổi đời, những “bốn mươi mí” lận, ông cha GãSiêu 91


Trong một lễ cưới nọ, thấy cô dâu khí mang năng tuổi đời, những “bốn mươi mí” lận, ông cha bèn thương tình, nặn óc giảng một bài khen ngợi, đại khái “nhân lão tâm bất lão”, người già nhưng tâm hồn không già, bằng chứng cụ thề là cô dâu thân mến hôm nay vẫn yêu ngon lành vì trái tim còn trẻ chưa hề mệt mỏi và bị lão hóa.

Thế nhưng, bài giảng này đã phản tác dụng. Cô dâu vừa nghe đến hai chữ “nhân lão”, túc là người già, thì mồ hôi đã toát ra ở đàng sau gáy và cho rằng ông cha chơi xỏ mình trước bàn dân thiên hạ.

Khi mọi sự đã hoàn tất, cô nàng bèn lập tức cắt đứt mọi liên hệ, triệt để áp dụng chính sách cấm vận “mí” ông cha : không chào, không nói, không cười và không…biếu xén, không quà cáp.

Khi viết bài “Những sự ngược đời của đờn bà con gái”, gã đã quên béng mất kinh nghiệm quí giá trên. Vì thế gã đã trót bới móc cho khoái cái tay cầm bút và chửi xéo cho khoái cái lỗ miệng.

Mặc dù vừa đấm vừa vuốt, bằng chứng là gã đã kết luận :

- Hỏng có đờn bà con gái thì đời còn gì là đời. Hỏng có đờn bà con gái thì lũ đờn ông con giai sẽ lầm lũi cu ki một mình, như “những con sâu làm tổ trong trái vải cô đơn”. Nhà mà hỏng có đờn bà con gái thì như xác không hồn, như đàn không giây.

Với cái kết có hậu mang tính cách “vuốt” này, gã đã yên chí nhớn mà ăn no ngủ kỹ cũng như đấu tranh vì chén cơm manh áo của mình, tưởng chừng mọi sự đã chìm vào quên lãng như viên sỏi trắng nằm yên dưới đáy nước hồ thu…ai dè vào một buồi sáng trời trở lạnh như muốn lập đông, cụ chủ nhiệm bèn bèn rờ gáy, tóm lấy cổ gã mà rằng :

- Ký bài của chú mày về đờn bà con gái ấy đã làm cho địch, tức là phe kẹp tóc, đùng đùng nổi giận. Họ tới tấp phôn về tòa soạn, kêu la oai oái cho rằng bất công, thậm bất công.

Có lẽ cụ chủ nhiệm, vì sợ bị phe địch chơi trò cấm vận, như cô dâu đã chơi với ông cha, hay như Mỹ đã chơi với Việt Nam, nên tiếp theo đó đã phán với gã :

- Chú mày liệu mà viết một bài khác chê bai đờn ông, để mà đoái công chuộc tội, lập lại thế cân bằng, làm cho quí bà quí cô hạ hỏa, bằng không thì cái bản mặt nham nhở của chú mày khó mà được an toàn khi vác nó ra đường, không ăn giày cao gót thì cũng xơi cà chua, trứng thối mệt xỉu.

Trước nhời phán xét như đinh đóng cột ấy, gã cảm thấy tức anh ách như bị bò đá, nhưng cũng đành phải cúi mặt lầm lũi xin vâng vì vâng lời vốn trọng hơn của lễ.

Bởi đó, gã phải cầm lòng cầm trí, ngồi xuống viết liền tù tì những hàng chữ này đấy. Bàn về những thói hư tật xấu của bọn đờn ông thì quả thật nói từ ngày này qua ngày khác chẳng biết đến bao giờ mới hết, bởi vì đờn ông có biết bao nhiêu sự trái khoáy và nghịch lý của mình.

Chẳng hạn như lúc nào cũng vỗ ngực tự xưng là phái khỏe, thế mà xem ra lại yếu ớt hơn bất kỳ giống vật nào trên mặt đất này như Homère đã viết trong tác phẩm “Odyssée”. Hay như Gandhi cũng đã nói :

- Gọi đàn bà là phái yếu là một điều phỉ báng. Đó là một sự bất công của người đàn ông đối với người đàn bà. Nếu người ta hiểu sức mạnh là thô bạo thì chắc chắn người đàn ông hơn hẳn người đàn bà. Còn nếu bất bạo động là điều luật của nhân loại, thì tương lai sẽ thuộc về người đàn bà.

Đúng thế, nhiều ông ở ngoài xã hội thì hét ra lửa như một bạo chúa, thế nhưng khi về nhà thì lại mềm nhũn như con chi chi mỗi khi đối mặt với bà xã theo kiểu :

- Vợ gọi thì dạ bẩm bà em đây.

Hay :

- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.

   Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.

Và để lấp liếm điểm yếu nay, nhiều ông lại lâm vào một nghịch lý thứ hai, đó là mặc dù rất mê vợ, nhưng đôi lúc lại tỏ ra hống hách, măc dù bộ ngực lép kẹp nhưng lại hay chơi trò cả vú lấp miệng em bằng thái độ độc tài và độc đoán hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay với người mình thương mến…

Vì vậy có người đã bảo :

- Đờn ông là thứ giống đực duy nhất đánh đập giống cái là vợ hắn, như vậy hắn tàn bạo hơn hết trong các loài thuộc giống đực trên hành tinh này.

Chính lúc người đờn ông tỏ ra cộc cằn thô lỗ lại là lúc hắn yếu nhất vì không đủ nghị lực kiềm chế nổi cơn nóng giận của mình.

Trong bài này gã chỉ xin bàn đến “máu mê” của người đàn ông.

Dĩ  nhiên nơi, huyết quản của người đàn ông có nhiều loại “virus mê” thâm nhập và cắm dùi. Nào là mê tiền bạc, mê danh vọng, mê địa vị, mê sự nghiệp, nào là mê cờ bạc, mê rượu chè…

Trước hết, gã xin nói tới một thứ máu mê tuy dễ thương nhưng lại vô cùng….nguy hiểm, đó là mê đờn bà con gái.

Chuyện kể lại rằng :

Ngày xửa ngày xưa có một chú bé được vị ẩn sĩ nọ đưa lên núi từ nhỏ. Ngày ngày tu hành học đạo, xa tránh cuộc sống trần gian. Cho đến một hôm, chú bé trở thành một thanh niên khỏe mạnh và cường tráng, vị ẩn sĩ mới quyết định đem chú xuống núi để thử lửa.

Cuộc sống nơi trần gian có nhiều điều mới lạ khiến chú hết sức ngạc nhiên và thích thú. Thấy bất kỳ sự gì, chú cũng ngắm nhìn và hỏi han.

Trên đường về, chú gặp mấy cô gái và hỏi sư phụ :

- Thưa thày, cái gì thế ?

Vị ẩn sĩ  ngước nhìn và thấy mấy chiếc nón các cô đội trên đầu nên ôn tồn trả lời :

- Ồ, đó chỉ là mấy chiếc nón mà thôi con ạ.

Về đến núi, chú đâm ra ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Thấy vậy, vị ẩn sĩ liền hỏi :

- Con sao thế, bị bệnh ư ?

Chú buồn bã trả lời :

- Thưa thày, chẳng hiểu tại sao con lại nhớ mấy chiếc nón ấy quá. Con thích mấy chiếc nón ấy lắm.

Câu chuyện dí dỏm này muốn nói lên một sự thật, đó là nam và nữ thì thu hút lẫn nhau, đờn ông và đờn bà thì hướng tới nhau, con giai và con gái thì hấp dẫn nhau.

Chẳng thế mà tục ngữ ca dao đã diễn tả :

- Đàn ông ví như chiếc nơm, bạ đâu úp đấy.

- Đố ai nằm võng không đưa.

  Ru con không hát, anh chừa nguyệt hoa.

- Trai thấy gái lạ,

  Như quạ thấy gà con.

Thánh Phaolô còn xác quyết :

- Đàn ông không được dựng nên cho đàn bà, nhưng chắc chắn đàn bà được dựng nên cho đàn ông.

Vì thế, đờn ông thường đi tìm kiếm chiếc xương sườn của mình để đắp vào chỗ đã bị Thượng đế lấy mất.

Theo đinh luật kinh tế, những mặt hàng được ưa chuộng thì hay tăng giá, còn những mặt hàng không được ưa chuộng thì bị sụp giá. Trong khi mê đờn bà con gái, người đờn ông tự hạ giá và đánh mất chính mình.

Chả thế mà đã có một thời người ta sống theo chế độ mẫu hệ, đờn bà con gái lên nắm quyền chỉ huy từ trong gia đình đến ngoài xã hội.

Hay như ca dao cũng đã bảo :

- Ba đồng một chục đàn ông,

  Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi,

  Ai ngờ dỏ đứt lồng rơi,

  Nó bò lổm ngổm mỗi nơi một thằng.

- Đàn ông ba bảy đàn ông,

  Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.

Các cụ ta ngày xưa đã bảo : gái tham tài, trai tham sắc. Vì có máu mê đờn bà con gái như thế mà đờn ông con trai dễ trở thành mềm yếu.

Bởi đó, Kipling đã có lý khi tuyên bố :

- Một chị đờn bà ngốc nghếch nhất cũng có thể xỏ mũi một anh đờn ông thông minh nhất.

Hay như dân Arménie đã bảo :

- Vàng khiến cho đờn bà cảm động, còn đàn bà lại khiến cho đờn ông cảm động.

Người ta vốn so sánh :

- Dùng vàng để nhử đờn bà, dùng đờn bà để nhử đờn ông và dùng đờn ông để tìm ra…vàng.

Một khi đờn bà con gái đã nắm thế thượng phong, trên cơ, lúc bấy giờ nàng sẽ là pháo đài, còn chàng sẽ là tù nhân bị nhốt ở trong đó.

Hiện giờ chưa có cách thức nào để hủy diệt con “virus mê đờn bà con gái” trong huyết quản nguời đàn ông, như một nhà văn đã viết :

- Với bệnh chó dại thì nhà bác học Pasteur đã tìm ra phương thuốc trị liệu, còn bệnh mê đờn bà con gái thì chưa có một nhà bác học nào nghĩ đến.

Tuy nhiên, theo gã thì các nhà bác học không nên tìm ra phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh này và nếu có tìm ra chăng nữa thì cũng không nên xử dụng, bởi vì nó sẽ gây nên nhiều hậu quả dây chuyền thảm khốc, giống như bây giờ nếu người ta hủy bỏ được hấp lực của từ trường, thì biết bao nhiêu chuyện rắc rối sẽ xảy ra.

Cũng vậy, nếu bây giờ đờn ông không còn mê đờn bà con gái nữa, thì các bà các cô sẽ làm đẹp cho ai ? Các nhà tạo mốt sẽ thất nghiệp. Các tiệm uốn tóc và thẩm mĩ viện sẽ phải đóng cửa. Các xí nghiệp chế tạo nước hoa, son phấn, cùng với những loại kem dưỡng da, dầu gội đầu…sẽ phải treo niêu.

Nói tóm lại, toàn bộ công nghiệp và lực lượng nhân sự phục vụ cho cái đẹp của các bà các cô sẽ phải “phẹc mê bu tích” nghĩa là sẽ phải dẹp tiệm, ngồi chơi xơi nước từ đây.

Và nếu đờn bà con gái mà không làm đẹp thì đâu còn phải là đờn bà con gái nữa. Lúc đó hẳn xã hội sẽ buồn tênh.

Cái tội “mê đờn bà con gái” dưới góc độ này thì cũng khá dễ thương và đáng yêu, nhưng dưới góc độ khác thì nó cũng gây nên những hậu quả trầm trọng khó mà lường nổi.

Trước hết nó làm cho gia đình bị tan vỡ.

Thực vậy, đờn ông thì đôi khi có tật đèo bòng, giống như mấy ông tài xế xe hàng hay xe tải, miệng thì thề sống thề chết :

- Nhất phu nhất phụ.

Còn trong thực tế thì lại :

- Mỗi mụ một nơi.

Đi đến đâu, hay nói một cách rõ ràng hơn, ở đây và lúc này thì chỉ mình em thôi. Còn ở chỗ kia và lúc khác thì…hỏng dám bảo đảm đâu.

Hay như tục ngữ đã diễn tả :

- Đàn ông những mấy lá gan,

  Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.

Trong khi đó, đờn bà con gái vốn lại hay ghen, máu “Hoạn thư” lúc nào cũng sẵn sàng bốc lên bừng bừng, như ca dao đã bảo :

- Ớt nào là ớt chẳng cay,

  Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.

  Vôi nào là vôi chẳng nồng,

  Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.

Hai thứ hỗn hợp “hay mê…” và “hay ghen” mà trộn chung với nhau, thì  chắc chắn sẽ bùng nổ một cách mãnh liệt. Sức công phá của chúng có thể giật sập một gia đình đang êm ấm và hạnh phúc.

Tới nước này, người ta sẽ không ngần ngại lôi nhau ra tòa để bôi tro trát trấu vào mặt nhau, cốt giật cho được tờ giấy ly dị. Và một khi đã ly dị thì sản nghiệp của anh đờn ông, nếu không đi đoong, thì cũng mất toi một nửa, bởi vì phải chia đôi, chàng một nửa và nàng một nửa.

Dân khố rách áo ôm như gã thì chẳng nói đến làm chi, chứ còn những tay triệu phú mà bỗng mất đi một nửa sản nghiệp, kể cũng đau. Nhưng làm sao cãi được lệnh của ba tòa quan lớn, bởi vì chồng như đó, vợ như hom, của chồng công vợ kia mờ.

Anh đờn ông thì chết điếng còn chị đờn bà thì vui mừng khấp khởi. Không chừng ly di lại trở nên một cái mánh mần ăn, vì mỗi lần ly dị chị ta lại giàu lên trông thấy.

Báo “An ninh Thế giới” với bài “Khi các ông chủ muốn ly dị” đã đưa ra những vụ ly dị tốn kém nhất, đại khái như sau :

“Trước năm 1970, khi chưa diễn ra cuộc cách mạng của phụ nữ trong việc phân chia tài sản ly dị, phần lớn tài sản thuộc về người đang nắm giữ nó, thông thường là người chồng.

“Thậm chí, sau nhiều năm chung sống, nếu ly dị, người vợ sẽ trắng tay. May mắn lắm thì có được một ngôi nhà, nhưng họ thường không đủ tiền để giữ nó. Giờ đây, tất cả đã lùi vào dĩ vãng, các ông chủ….đang phải đau đầu với những vụ ly dị tốn kém chưa từng có trong lịch sử.

“Robert Goldman, theo quyết định của tòa án, vào tháng 4 năm 1998, đã phải chia đôi 88,2 triệu đô la cho bà vợ là Vira Hadun.

“Năm 1997, Lorua Wendt giành được 20 triệu đô la từ tay người chồng là ông Gary, tổng giám đốc công ty Capital…tất cả đã tạo nên một làn sóng ly dị đang nhắm vào các ông chủ kếch xù trên khắp thế giới, ảnh hưởng nặng nề đến việc kinh doanh của các công ty.

“Craig McCaw, một người đi tiên phong trong lãnh vực điện thoại, hằng tháng phải chu cấp cho Wendy, cô vợ đã ly dị của mình, 190.00 đô la. Nhưng chưa hết, năm 1995, tòa án còn buộc ông phải chia sẻ số tài sản trị giá 1,3 tỷ Mỹ kim và số cổ phần trị giá 663 triệu trong Nextel Communication và Next Link. Như thế,ø Wendy nghiễm nhiên trở nên thành viên của Next Link, khiến công ty phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn.

“Năm 1997, Cotello, tổng giám đốc tập đoàn thiết kế Cadence đã mất 30 triệu đô la cho cuộc ly dị với Magaret…..Và còn nhiều nhiều nữa.

Không những sản nghiệp đi đoong mà hơn thế nữa còn bị thân bại danh liệt là đàng khác.

Biết bao nhiêu thủ tướng, bộ trưởng đã bay chức chỉ vì  gian díu vời người đẹp này, người đep kia.

Gần đây hơn cả, tổng thống Mỹ Bill Clinton cũng đã phải một phen xính vính và hú vía trong vụ ”xì căng đan” tình dục với Monica Lewinsky.

Nơi người đờn ông còn nhiều thứ máu mê khác.

Chẳng hạn như máu mê rượu chè với tác phong :

- Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tọa thị, rượu vào như chó điên giữa chợ.

Hay :

- Một xị thì mở mamg trí hóa,

  Hai xị thì giải bớt cơn sầu,

  Ba xị thì mũi chảy đầy râu,

  Bốn xị thì ngồi đâu khóc đó,

  Năm xị thì cho chó ăn chè,

  Sáu xị thì làm xe lội nước,

  Bảy xị thì ra nhị tì mà ở.

Chẳng hạn nay máu mê cờ bạc với cốt cách :

- Cờ bạc là bác thằng bần,

  Áo quần bán hết, ngồi trần tô hô.

- Cờ bạc canh đỏ canh đen,

  Nào ai có dại đem tiền vứt đi.

- Cờ bạc là bác thằng bần,

  Ruộng nương bán hết, chôn chân vào cùm.

Đó là những thứ máu mê mà nhiều người đờn ông mắc phải. Rất tiếc vì phần đất được dành cho gã có hạn, nên đành phải gác lại, khi nào thời cơ thuận tiện sẽ tái xuất giang hồ.

Viết đến đây gã bỗng cảm thấy hổ thẹn “mí” lương tâm, bởi vì phe mình lại đi phản bội phe ta, chơi cái trò vạch áo cho địch xem lưng.

Có lẽ gã phải chuyển hệ mất thôi, từ TV trắng đen ra TV màu, từ chê ra khen, từ bốc thối ra bốc thơm, để thiên hạ khỏi….ghét cái mặt.

Thế nhưng nghề của con ong là châm, nghề của con muỗi là chích, còn nghề của gã là chọc.

Ngày nào không chọc thì ăn không ngon, ngủ không đẫy giấc, lỡ có bị thiên hạ chưởi thì cũng đành nhe răng mà cười trừ :

- Rằng hư quen thói mất rồi.

Tác giả:  Chuyện phiếm của Gã Siêu.

-------------------------------

 

GãSiêu 92: ĐỒNG ĐÔ LA NHÂN NGHĨA

 

Mấy bữa nay ở Việt Nam bàu trời thật là ảm đạm. Hết “áp thấp nhiệt đới” thì liền quay sang bão GãSiêu 92


Mấy bữa nay ở Việt Nam bàu trời thật là ảm đạm. Hết “áp thấp nhiệt đới” thì liền quay sang bão, thành thử mưa gió cứ sập xùi triền miên. Mà hễ cứ mưa to và gió lớn, thì y như rằng thế nào cũng cúp điện. Đây chính là một căn bệnh mãn tính của ông điện lực phe ta.

Giá như ở nước ngoài, có lẽ thiên hạ đã lôi ông ta ra ba tòa quan lớn mà đòi bồi thường thiệt hại, còn ở đây, thà rằng vạch đầu gối lên mà than vắn thở dài còn hơn. Có vác đơn đi kiện thì cũng chỉ như “con kiến mà kiện củ khoai” mà thôi.

Ngày xưa khi còn xử dụng chiếc máy chữ cà rịch cà tàng, thì bất kể thời tiết nắng mưa, ngày và đêm, lúc nào cũng có thể ngồi vào bàn mà gõ lóc cóc.

Còn bây giờ, ti toe bắt chước thiên hạ, đèo bồng chiếc vi tính, thành thử hễ cúp điện là thất ngiệp, ngồi chơi xơi nước, hay ngáp vặt chờ cơm.

Vì thế, để điền vào những khoảng trống cho hợp nghĩa, gã bèn lôi hết các thứ sách vở, báo chí cũ ra đọc, để cho chúng khỏi mốc meo…đọc cho đến lúc mờ cả mắt mới thôi. Và đoạn sách hôm nay gã ghiền gẫm nói về lịch sử dân Do thái, đại khái như thế  này :

Vào năm 66, nhóm “Zélotes” đã phát động một cuộc nổi dậy, chống lại sự thống trị tàn bạo của các viên chức La mã. Vì thế, vào năm 70, tướng Titus đã đem quân chiếm đóng Giêrusalem, thiêu hủy đền thờ, hàng ngàn người Do thái đã bị giết, còn phần đông đã bị bắt đi làm nô lệ. Đất nước Do thái tan hoang từ đó.

Trong nhiều thế kỷ, người Do thái lưu vong đã bị dân Âu châu nhìn bằng một cặp mắt khinh bỉ về phương diện dân sự vì họ chỉ là những kẻ ngoại lai, coi thường về phương diện tinh thần vì họ chẳng có một nền văn hóa nào cả, cũng như về phương diện tôn giáo vì họ là quân “Giu dêu” đã giết Chúa.

Trong khi đó, giải đất Palestine lần lượt bị những người Ả rập và Thổ nhỉ kỳ thống trị.

Mãi cho đến năm 1879, cuộc cách mạng Pháp mới công nhận quyền tự do của người Do thái. Rồi sau đó, nhiều chính phủ khác cũng đã chấp nhận lập trường ấy. Và người Do thái đã liên tục phát triển một cách rất đặc biệt. Họ trở nên những ông chủ của ngành tài chánh và báo chí thế giới.

Sau khi cuộc đại chiến lần thứ hai kết thúc, Liên hiệp quốc, vào năm 1947, đã phân chia giải đất Palestine thành hai miền riêng biệt , rồi ngày 15 tháng 8 năm 1948, nhà nước Israel được chính thức thiết lập và những người Do thái từ khắp nơi trên thế giới lục tục kéo nhau về để xây dựng lại quê hương đất nước.

So sánh sự kiện năm 70 của dân Do thái với sự kiện năm 1975 của người Việt Nam, gã nhận thấy mình hơn hẳn họ ở nhiều điểm.

Trước hết, nhờ biến cố này mà hôm nay người Việt Nam mình đã có mặt trên toàn cõi địa cầu, không riêng gì bên châu Âu hay châu Mỹ như  dân Do thái, mà còn ở khắp mọi nơi, từ nam chí bắc, từ đông chí tây.

Nếu ngày xưa cha ông chúng ta đã bảo : đi một ngày đàng, học một sàng khôn, thì không hiểu đồng bào ta ở nước ngoài đã thâu lượn được biết bao nhiêu “xe tải chất đầy sự khôn ngoan” của cả và thiên hạ.

Hơn thế nữa, khả năng “tiêu hóa” của người Việt Nam mình lại thuộc vào hằng siêu đẳng, bằng chứng là ngày xưa Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo đã được cha ông chúng ta “cập nhật hóa” thành cái vốn riêng của nền văn hóa dân tộc.

Hay như Kitô giáo với nền văn minh phương tây đặt chân tới miền đất khỉ ho cò gáy này, thì cha ông chúng ta đã mượn tạm bản mẫu tự La tinh mà chế biến thành chữ quốc ngữ ngày hôm nay.

Và như thế, đồng bào chúng ta ở nước ngoài đã, đang và sẽ còn gạn lọc được những tinh hoa, những cốt lõi của muôn dân, muôn nước trên thế giới. Gã mong rằng họ sẽ là những con tằm sẽ nhả ra được những sợi tơ vàng óng ánh.

Tiếp đến, trừ một vài nơi có nạn kỳ thị chủng tộc, dân địa phương sợ “nạn da vàng” như sợ một chứng bệnh dịch nguy hiển. Hay vì ghen tức với những thành công của phe ta mà đem lòng thù oán, còn phần đông người Việt nam mình đều được vị nể, chứ không bị khinh bỉ như dân Do thái ở Âu châu. Bằng chứng là trong lịch sử, mỗi khi có những biến loạn, người Âu châu cứ nhè dân Do thái mà…xơi tái.

Và sau cùng, người Việt Nam mình dù sinh sống ở nước ngoài, thì vẫn còn một quê hương, một đất nước để hướng về, chứ không tan bày xẻ nghé như dân Do thái sau khi Giêrusalem bị hủy diệt.

Cũng vì ý thức đồng bào ở nước ngoài là một phần tử trong đại gia đình dân tộc, nên nhà nước ta mới thay đổi hẳn lập trường, từ thái độ coi họ là những kẻ phản quốc đến thái độ coi họ là những người yêu nước. Từ thái độ nghi kỵ thù oán đến thái độ mở rộng vòng tay chờ đón.

Phải chăng chuyển biến và đổi thay đã là một quy luật muôn đời. Vì nếu không chuyển biến, không đổi thay, lúc nào cũng dậm chân tại chỗ, thì chắc chắn con người sẽ rơi vào chỗ…tụt hậu, lẽo đẽo theo sau người ta mà vẫn chẳng kịp.

Qua những tin tức về sinh hoạt của các cộng đồng người Việt, gã rất mừng vì những thành công mà người mình đã gặt hái được nơi đất lạ quê người.

Thứ nhất là những thành công trên con đường học vấn.

Gã rất mừng vì có những bà già trầu, nếu như ở Việt Nam, thì chỉ biết cái xó bếp nhà mình, cả đời chẳng hiểu có được một lần ra thành phố hay không, thế mà giờ đây cũng ti toe dăm ba câu tiếng Mỹ, tiếng Ăng lê, nào là con cá này nặng mấy “pao”, nào là chiếc đò này dài mấy “phít”, rồi cũng “hai” giơ tay bắt khi gặp nhau và “bai” vẫy tay chào khi rời nhau, khiến cho gã vô cùng cảm phục.

Gã rất mừng vì có những thằng bạn, nếu như ở Việt Nam, thì cũng chỉ là dân “cu trâu” suốt ngày chỉ biết đến thửa ruộng và ca bản “con trâu đi trước cái cày theo sau”, có bửa đầu ra cũng chẳng thấy được một nửa tiếng OK hay Yes. Nếu ông trời có đãi ngộ và số phận có mỉm cười, chui lên được thành phố, thì cũng chỉ là dân cu li cu leo. Thế mà bây giờ chúng nghiễm nhiên trở thành kỹ sư điện tử, chuyên viên máy móc. Thận chí có anh, khi công ti của mình giảm biên chế, rút bớt nhân viên, thì anh không những chẳng bị loại trừ để ăn lương thất nghiệp, mà còn được tăng lương, tăng cổ phần vì công ti sợ anh đi làm chỗ khác.

Chỉ phiền một nỗi là khi trở về Việt Nam, anh đã quên béng mất cái thói quen xơi…thịt chó mắm tôm, rồi lại còn sợ muỗi, sợ ruồi, sợ nước dơ… có đi đâu thì cũng phải kè kè mấy chai nước khoáng bên mình, có tắm gội thì mấy đứa em phải chịu khó đi xin vài gánh nước mưa từ nhà hàng xóm về cho anh dùng và nếu đứa nhỏ của anh có đòi uống sữa thì phải dùng sữa thứ thiệc, “made in USA” chính hiệu con nai vàng, mới bảo đảm chất lượng cho cái bao tử của đứa nhỏ.

Dường như anh cũng đã quên béng mất cái gốc gác của mình, không còn nhớ mình cũng đã xuất thân từ vùng đồng chua nước…phèn này. Thấy thế, gã cũng cảm thấy một thoáng tủi hờn. Nhưng thôi hãy biết bằng lòng với số phận của mình.

Gã rất mừng vì có những sinh viên học sinh Việt Nam ở nước ngoài đạt thành tích cao trong những cuộc thi quốc tế, thậm chí có những sinh viên học sinh được chính tổng thống nước Mỹ khen tặng. Phải chăng đây cũng là một niềm vinh hạnh cho đất nước.

Biết đâu trong một thời gian gần đây, những sinh viên học sinh này sẽ trở về để phục vụ cho quê hương. Biết đâu mấy chục năm nữa, những sinh viên học sinh này sẽ trở thành dân biểu, nghị sĩ và cũng biết đâu chừng là tổng thống của một đất nước hùng mạnh, như Kennedy, tổng thống Hoa kỳ, vốn là dân Mỹ gốc Ái nhĩ lan, như Fugimoto, tổng thống Ba tây, vốn là dân Brasil gốc Nhật…

Phải, biết đâu cũng sẽ có một tổng thống Hoa kỳ, là dân Mỹ gốc Việt. Nghĩ tới đây, gã cảm thấy vô cùng hồ hởi và niềm kiêu hãnh của dân tộc nổi lên đùng đùng.

Tuy nhiên cho đến bây giờ gã vẫn còn nhớ lời phát biểu của một ông giáo sư ngoại quốc về những sinh viên Việt Nam ở Saigon trước ngày giải phóng. Lời phát biểu ấy như thế này :

- Sinh viên Việt Nam rất thông minh. Nếu một sinh viên Việt Nam chọi với một sinh viên ngoại quốc, dù là nước Nhật, nước Mỹ, nước Đức hay nước Pháp…thì sinh viên Việt Nam cũng chẳng hề phải kiêng nể. Những nếu một nhóm sinh viên Việt Nam chọi với một nhóm sinh viên ngoại quốc thì họ sẽ thua xa. Sở dĩ như vậy vì họ không biết cộng tác, không biết làm việc chung với nhau.

Phải chăng sự chia rẽ là một căn bệnh trầm trọng trong những cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài.

Những chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài. Quả thực đây là một kho tàng “chất sám” vô giá, nếu như nhà nước ta biết lợi dụng, thì sẽ đem lại cho quê hương một tương lai tươi sáng.

Gã thử làm một phép tính : Gửi một thanh niên du học, từ lúc bước chân ra đi cho đến lúc thành tài, nhà nước và gia đình phải tốn biết bao nhiêu công sức và tiền của, thế mà cái “kho tàng chất xám” này như một quà tặng từ trên trời rơi xuống, có nằm mơ cũng chẳng thấy được. Bỏ qua, không tạo điều kiện cho họ trở về phục vụ thì quả là một lãng phí to lớn.

Thứ hai là những thành công trong công việc làm ăn.

Gã rất mừng vì đa số người Việt Nam đã ăn nên làm ra ở nước ngoài. Khởi đầu từ một con số không khi đặt chân tới miền đất lạ, thế mà giờ đây họ đã có được một cơ ngơi bề thế. Nào là con cái được học hành đến  nơi đến chốn, nào là nhà riêng, nào là xe riêng…sở dĩ như vậy vì họ là những người cần cù siêng năng lại lắm sáng kiến.

Nhiều người sẵn sàng “kéo cày” ngoài giờ lao động để được hưởng tiền lương cao. Cộng thêm vào đó là tính tiết kiệm trong chi tiêu…nên họ phất lên trông thấy và mỗi ngày một thêm khấm khớ khiến cho thiên hạ phát thèm rỏ dãi.

Gã cũng rất mừng vì những người ngoài nước đã không quên mà còn nghĩ tới những người trong nước bằng cách gửi quà hay tiền về để giúp đỡ, như cha ông chúng ta ngày trước đã dạy :

- Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

  Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Thực vậy, cho đến bây giờ người ta vẫn không thể làm được một thống kê đầy đủ cho biết mỗi năm đã có bao nhiêu triệu đồng đô la được các Việt kiều gửi hay đem về giúp đỡ cho thân nhân tại quê nhà, bởi vì có rất nhiều cách thức gửi : gửi qua ngân hàng như Vietcombank, ngân hàng ngoại thương…gửi qua những cơ quan chính thức được nhà nước cho phép, như Vina…gửi qua những Việt kiều về nước, gửi chui qua những tổ chức tư nhân…Những cách thức sau này thì làm sao nhà nước có thể nắm vững được mà lên bản thống kê.


Thế nhưng, dù gửi bằng cách nào chăng nữa, thì những đồng đô la ấy vẫn có thể được gọi là những đồng đô la nhân nghĩa, vì chúng đã được rót vào đất nước Việt Nam, giúp đỡ những  gia đình Việt Nam  và được chính những người Việt Nam tiêu dùng để cải thiện và nâng cao đời sống.

Đây cũng lại là một thứ quà tặng từ trên trời rơi xuống, chẳng phải lao động mệt mỏi, chẳng phải vật vả đầu tư mà cũng có được một số vốn bằng ngoại tệ kha khá để làm giàu và làm đẹp cho xứ sở.

Thời gian đầu, thiên hạ thường gửi về những thùng hàng. Mỗi khi đi lãnh hàng hay mỗi khi nhận được hàng thì cả ấp đều biết, kéo đến chia vui và hỏi thăm. Tuy nhiên việc nhận hàng và lãnh hàng đôi khi cũng có những vui buồn của nó. Gã xin phô ra những chuyện riêng tư  của bản thân mình.

Có lần thằng bạn gã vửi về cho gã một gói hàng nho nhỏ, trong đó gồm một chai rượu tây, một gói Pall Mall, một mớ trà Lipton và hai cục xà bông. Trong bức thư báo trước hắn viết :

- Gửi về cho mi một chai rượu tây để mi nhâm nhi cho quên chuyện buồn. Gửi về cho mi một bao thuốc lá để mi ngồi hút rồi thả hồn theo khói mà mơ đến ta. Gửi về cho mi mấy gói trà để mi uống mà sớm làm ông cụ non. Gửi về cho mi hai cục xà bông để mi tắm gội cho sạch bụi trần…

Thì ra hắn đã nhái một bài hát thịnh hành ở nước ngoài lúc bấy giờ, mà thỉnh thoảng đài VOA vẫn phát đi, thế nhưng bây giờ gã không còn nhớ lời lẽ như thế nào, hình như có câu :

-Gửi về cho em dăm ba thước vải để em đem may làm chiếc áo cưới…

Thế nhưng, khi đến lãnh, thì nhân viên bưu điện đã phán với  gã :

- Chai rượu tây và bao Pall Mall bị tịch thu vì bị liệt vào hàng…quốc cấm.

Thế là mặt mũi gã ỉu xìu như chiếc bánh bao chiều.

Lần khác, gã phải lặn lội lên tới tận thành phố, lãnh được một thùng hàng khá lớn. Trên đường về, gã những khấp khởi mừng thầm :

- Phen này ắt hẳn vớ ăn to.

Đến khi khui thùng hàng ra thì mới vỡ nhẽ : Trong đó được chia làm hai mươi mốt phần đều nhau. Hai mươi phần được người gửi nhờ gã chuyển cho xấp bạn của nó. Còn gã thì cũng chỉ được một phần như mọi người. Nếu cộng tiền chi phí với tiền đóng thuế rồi đem chia đồng đều, bắt mỗi người phải chịu một ít thì cũng kỳ, còn để một mình gánh lấy tất cả thì cũng…đau.

Thế nhưng gã thầm nghĩ :

- Đau một tí cũng chẳng sao, biết đâu lần này mình thả con săn sắt, lần sau mình bắt con cá rô.

Và thế là đành phải vén môi cười trừ cho vui vẻ cả làng. Mặc dù lúc bấy giờ nụ cười có phần méo mó và héo hắt.

Lần khác nữa, một thằng bạn mở tiệm thuốc tây ở bên Mỹ gửi cho gã một thùng. Trong thư hắn còn căn dặn :

- Ngoại trừ một số thuốc cảm cúm thông thường, còn toàn thuốc mới nhất và mắc nhất đấy, mi liệu mà nhớ cho kỹ.

Sau khi nhận được, gã cũng chỉ giữ lại mấy loại thuốc cảm cúm thông thường, còn những thuốc mới nhất và mắc nhất kia đành phải đem đi bán vì không biết nó trị bệnh gì và liều lượng xử dụng ra làm sao. Chẳng lẽ bây giờ mình lại cầu cho mình mắc phải những chứng bệnh ấy để rồi được xử dụng theo sự chỉ dẫn của bác sĩ…Thậm chí có những thứ thuốc bác sĩ cũng vẫy tay chào thua vì chưa biết mặt mũi chúng như thế nào.

Cũng vì chúng mới quá nên chẳng tiệm nào dám mua. Thôi thì đành phải bán tống bán tháo, được tí nào hay tí ấy. Và thế là tiền bán thùng thuốc chẳng được bao nhiêu, lỗ chỏng gọng, lỗ chỏng vó so với giá tiền mà thằng bạn đã ghi trong thư. Đau ơi là đau.

Gửi hàng về vừa cồng kềnh, lại vừa phức tạp, nên dần dần thiên hạ bắt đầu chuyển hệ, gửi tiền về vừa gọn nhẹ, vừa kín đáo lại vừa có thể xử dụng được ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Thực vậy, nhiều lần mấy thằng bạn đã viết thư cho gã và bảo :

- Mi cần gì thì cho biết, ta sẽ gửi về cho.

Và gã đã phải mỉm cười, rủa thầm trong bụng chứ không dám viết thành chữ hay nói thành lời thành tiếng mà rằng :

- Ngu chi ngu lạ, đô la ai mà chẳng cần. Mi cứ thử gửi cho ta mấy chục bạc lẻ xem ta có nỡ lòng nào mà từ chối hay không ?

Lại nữa, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp nơi trên thế giới, đi tới đâu chúng ta cũng đều nghe thấy vang vọng một điệp khúc :

- Em chỉ thích bản nhạc có hai nốt đô và la mà thôi.

Bàn về chuyện nhận đô la của những người thân gửi về, gã đã ky cóp tích lũy được những mẩu chuyện vui vui.

Thỉnh thoảng vào những buổi trưa hè oi ả, đang mơ mơ màng với giấc ngủ nặng nề, mồ hôi mồ kê vãi ra nhễ nhại, thì bỗng một kẻ lạ hoắc bước chân vào nhà. Kẻ lạ ấy có thề là đờn ông mà cũng có thể là đờn bà, có thể là thanh niên mà cũng có thể là thiếu nữ. Kẻ lạ ấy mắt trước mắt sau, vội vã hỏi một vài câu vắn gọn :

- Ông có ai quen ở bên Mỹ hay không ? Tên gì ? Bang nào ? Vui lòng cho mượn chứng minh nhân dân.

Rồi kẻ lạ đưa một mẩu giấy chỉ to bằng hai đầu ngón tay và  nói :

- Phiền ông hãy ghi là mình đã nhận đủ số tiền bằng này. Rồi ký tên. Nếu có nhắn gửi gì cho người bên đó thì cứ việc ghi thêm vào.

Sau đó, kẻ lạ mặt trao tiền, rồi vội vã ra đi như khi đã đến, không dám uống cả một ly nước, hay một ly cà phê…vì sợ bị bỏ thuốc mê và bị trấn lột.

Có lần gã gặp một nhỏ em, đang tập tễnh bước vào nghề này, nghề chuyển đô la cho thiên hạ. Gã bèn nói :

- Xin chào cô em, sứ giả đem tin vui đến cho mọi người.

Nghe lời chào này, nhỏ em liền….”chu mỏ chuột” lên mà phát ngôn :

- Ghét anh ghê, chỉ chọc quê người ta hoài. Chỉ có mình anh mới phong cho em làm sứ giả mang tin vui. Nghe qua thì oách lắm, nhưng nghề này cũng thật lắm cái long đong. Thức lâu mới biết đêm dài, có ở trong chăn mới biết chăn có rận.

Trước cặp mắt tròn xoe vì ngạc nhiên của gã, nhỏ em thương tình liền cắt nghĩa :

- Này nhé, anh thử nghĩ coi, thân gái dặm trường như em, trong mình ôm một bó tiền, đi đến những nơi xa lắc xa lơ, gặp những người lạ hoắc lạ huơ. Có những địa chỉ nằm ở tận trong hóc bà tó, đường xe không có, đường đò cũng không. Đi bộ băng đồng mấy cây số, vừa đi vừa hỏi thăm, tới nơi trao vội trao vàng, đánh mau rút lẹ, ở lâu chỉ sợ nguy hiểm. Nếu chẳng may bị kẻ gian giở trò thì không khéo mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lãi. Tiền mất đã đành mà không chừng mạng sống của mình cũng đi đoong luôn. Rất may là chưa gặp phải tình huống nào như thế. Trừ chi phí đi lại, ăn uống rồi cũng chả được bao nhiêu, chỉ mấy mụ chủ ở thành phố là…xơi được miếng to, mới ra nghề có mấy năm mà đã phất lên hẳn ra, mua nhà mua đất.

Thuở bấy giờ, ở những nơi khỉ ho cò gáy như nơi gã cắm dùi, thì làm gì được ông bưu điện ghé mắt nhìn tới. Để liên hệ, gã đành phải mượn địa chỉ của một người ở trên tỉnh. Ngày kia gã được người ấy nhắn lên để lĩnh tiền. Người ấy bảo :

- Số tiền này từ bên Úc gửi về, mà mình chẳng có ai thân ở bên đó cả, nên chắc là của chú mày đấy. Thôi, cứ cầm về xài đỡ.

Nhận xấp tiền mà cứ băn khoăn thắc thỏm :

- Sao mấy đứa bên Úc gửi mà chẳng báo. Thôi, kệ bà nó, tới đâu hay tới đó. Tiền đến tay ta, ta cứ việc…thoải mái.

Và thế là mùa xuân năm ấy, gã đã có được một cái tết tưng bừng khói lửa. Tiền lì xì cho bọn nhóc cũng được tăng lên gấp đôi, gấp ba…Nhưng rồi ngày vui qua mau, sau tết, người ấy bèn triệu gã lên mà phán :

- Xin lỗi chú mày nhé, số tiền hôm trước chẳng phải của chú mày đâu mà là của thiên hạ. Bây giờ mình mới nhận được thư báo. Vậy cảm phiền chú mày hãy mau mau hoàn trả lại số tiền ấy để rồi mình còn trao cho họ nhé.

Ké nhờ địa chỉ của người khác cũng lắm cái nhiêu khê và phức tạp. Vì thế, khi bàu không khí đã thoáng đãng, không còn ngột ngạt nữa, gã bèn đăng ký một hộp thư ngoài huyện. Có hộp thư riêng, gã liền được thiên hạ chiếu cố nhờ vả. Và khi cho mượn địa chỉ đôi lúc cũng xảy ra những chuyện…phiền.

Có lần vào ngày hai mươi chín tết, gã nhận được điện tín với nội dụng :

- Mời ông lên địa chỉ số….để lãnh tiền.

Nhận được bức điện này, gã vội vã khăn gói quả mướp đi ngày đi đêm để lên thành phố vì đã cận tết lắm rồi. Thế nhưng lúc nhận tiền thì mới vỡ lẽ tiền không phải là của mình, nhưng là của người này người nọ mà thiên hạ nhờ mình chuyển hộ.

Và như thế, khi đi thì vui mừng hồ hởi vẽ ra trong đầu óc một cái tết huy hoàng, còn khi về thì tiu nghỉu, ai hỏi cũng chẳng buồn thưa. Tới nhà thì mệt phờ râu cá chốt. Tắm rửa qua quít rồi giao hàng. Chủ nhân có lẽ vì bận rộn với những công việc dọn dẹp nhà cửa vào chiều ba mươi tết, nên rất vui vẻ cám ơn mà quên béng mất những sự rất…đời thường còn lại.

Và thế là gã cũng phải tự an ủi :

- Việc đâu còn đó, cứ để cho thiên hạ vui vẻ cái đã. Sau tết mình sẽ tính toán lại cũng chưa muộn cơ mà.

Có khi phải đi vài ba lần mới lĩnh được tiền, nhưng rốt cuộc tiền lại không phải là của mình, chỉ nhờ mình chuyển mà thôi. Kể cũng hơi đau. Nhưng thôi rán làm việc lành để đức lại cho con cho cháu.

Tuy nhiên, phải thẳng thắn mà công nhận rằng : nhờ những đồng đô la được rót về, nhiều gia đình đã thoát khỏi cảnh nghèo túng khố rách áo ôm.

Thực vậy, nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, nhà cửa được xây dựng lại cho mới. Nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, cha mẹ già được chăm sóc hẳn hoi, những người thân yêu được ăn mặc tươm tất và xấp nhỏ được học hành đến nơi đến chốn. Nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, cuộc sống được cải thiện.

Có mấy cán bộ gặp một linh mục và hỏi :

- Tại sao xứ của linh mục không được phát triển như những xứ khác vì con số nhà xây lại còn ít.

Và linh mục này đã thẳng thừng trả lời :

- Hiện nay tại Việt Nam, xứ nào có nhiều việt kiều, thì xứ ấy giàu và liên tục phát triển. Hồi năm 1978, tôi đã nghe các ông, không ngừng khuyên nhủ giáo dân hãy ở lại để xây dựng quê hương đất nước. Bây giờ nghĩ  lại, tôi thấy mình đã dại. Giá như hồi đó, tôi cứ nhắm mắt làm ngơ cho họ vượt biên, thì bây giờ xứ tôi đâu có còn những mái nhà tranh vách đất xiêu vẹo.

Gã xin khẩu phục tâm phục vị linh mục đã bạo mồm bạo miệng dám nói thẳng và nói thực.

Gã cũng xin khẩu phục tâm phục khi đọc thấy trên những tờ báo công giáo ở nước ngoài như Mục vụ, Dân Chúa, Đức Mẹ hằng cứu giúp… có khoản kêu gọi yểm trợ cho những giáo xứ nghèo, hay những tổ chức từ thiện tại quê nhà.

Và gã càng xin khẩu phục tâm phục hơn nữa khi thấy có những việt kiều lúc về nước, mặc dầu thời gian ít ỏi, cũng đã cất công lặn lội đến những trại cùi để trao tận tay số tiền của mình hay của một số người chắt chiu dành dụm mà giúp đỡ. Xin đa tạ và bái phục.

Đồng đô la hiện thời rất có giá, nên khi cầm đô la về nước, những việt kiều không phải chỉ giúp đỡ cho thân nhân của mình, mà hơn thế nữa, chính bản thân họ cũng được nhiều lợi ích.

Thực vậy, giá cả sinh hoạt ở Việt Nam tương đối rẻ, nên tha hồ tiêu xài rủng rỉnh. Có những việt kiều đã về nước để sửa lại sắc đẹp, để may sắm áo quần…Có những việt kiều đã về nước để cưới vợ, để hưu dưỡng và không chừng để chết trên vùng đất thân yêu. Vì tất cả đều rẻ hơn so với bên đó.

Đồng tiền thì có mặt phải mặt trái. Hôm nay gã đã bàn đến những đồng đô la nhân nghĩa. Còn những đồng đô la bất hạnh thì sao ?  Gã xin hẹn gặp lại ở lần sau sẽ phân giải.

Tác giả:  Chuyện Phiếm của Gã Siêu

-------------------------------

 

GãSiêu 93: ĐẸP VÀ XẤU

 

Có những đêm không ngủ, nằm vắt chân lên trán mà suy gẫm chuyện đời, gã nhận thấy: - Cục diện GãSiêu 93


Có những đêm không ngủ, nằm vắt chân lên trán mà suy gẫm chuyện đời, gã nhận thấy :

- Cục diện thế giới đôi khi chỉ là trò chơi của trẻ nít, cũng kéo bè kéo cánh mà… uỵch nhau. Còn thói đời nhiều lúc chỉ là một cái vòng lẩn quẩn, đi từ thái cực này đến thái cực khác.

Thực vậy, hồi mới giải phóng, nhà nước đã cấp tiệt đua ngựa và xổ số vì cho đó là một thứ cờ bạc trá hình, cấm tiệt khiêu vũ hay nhảy đầm vì cho đó là đồi trụy, cấm tiệt thi hoa hậu vì cho đó là lạm dụng thân xác phụ nữ…

Thế nhưng, cùng với thời gian và nhất là cùng với chính sách cởi mở, những cái bị “cấm tiệt” trên kia lại được phục hồi, và bành trướng một cách mạnh mẽ như nấm mọc sau cơn mưa, đồng thới được khoác vào một danh nghĩa mới để “chiềng làng”.

Xổ số là để kiến thiết là để  xây dựng quốc gia, nên tỉnh nào cũng tranh thủ để mở, rồi xuất hiện thêm loại vé số “cào” như một thứ mì ăn liền, chỉ cần cào ra là liền biết có trúng hay không. Ấy là chưa kể đến nạn số đề, số đuôi ăn theo và tràn nan khắp nơi khắp chốn.

Khiêu vũ được gọi là múa đôi, dù có cọ quẹt thì cũng là một hình thức nghệ thuật.

Sau cùng, thi hoa hậu được mệnh danh là một hoạt động văn hóa, nhằm nâng cao cái “gu” thẩm mỹ của quảng đại quần chúng. Vì thế, từ hoa hậu của báo Tiền Phong, gã ghi nhận rất nhiều thứ hoa hậu khác nữa, chẳng hạn như hoa hậu các tỉnh, hoa hậu áo tắm, hoa hậu áo dài, rồi nữ sinh duyên dáng, bà mẹ thanh lịch…

Vậy thế nào là hoa hậu và người ta đi tìm sự gì qua những cuộc thi hoa hậu ?

Trong một cuộc trình diễn văn nghệ tại viện Đại học Công giáo ở Đàlạt hồi trước năm 1975, có màn chọn hoa hậu.

Một số nữ sinh viên bước lên sân khấu. Người dẫn chương trình bèn hỏi ý kiến cha viện trưởng :

- Theo ý kiến riêng thì cha bàu ai làm hoa hậu ?

Bị chộp bất ngờ, cha viện trưởng đỏ mặt tía tai, thế nhưng sau cơn  bối rối trong giây lát, cha viện trưởng đã ung dung tuyên bố :

- Tôi chọn cô này.

- Tại sao ?

- Theo tôi nghĩ thì hoa là bông, hậu là sau. Cô này đúng là hoa hậu, vì có một bông hồng được thêu vào vạt sau áo dài của mình.

Cả hội trưởng đều nhiệt liệt vỗ tay không phải để tán thương câu định nghĩa “chày cối” của cha viện trưởng, nhưng để khen ngợi sự nhanh trí của cha trong một tình huống tế nhị và rất… khó nói.

Theo sách vở, hoa hậu là người con gái được về nhất trong cuộc thi sắc đẹp, chẳng hạn : hoa hậu thế giới, hoa hậu Châu Á, hoa hậu Việt Nam…

Trong những cuộc thi này, người ta đi tìm một cái đẹp khách quan. Vì thế, người ta phải công bố số đo vòng một , vòng hai, vòng ba, chiều cao và trọng lượng. Còn thí sinh thì  ít ra cũng phải một lần lên sân khấu trong bộ áo tắm để cho thiên hạ… chiêm ngưỡng.

Người ta còn treo những giải thưởng khuyết khích cho những “miss” nào có nụ cười duyên, có mái tóc đẹp, có cặp giò thon và có tấm ảnh bắt mắt.

Để sửa sang và chỉnh đốn cho cái hình dong bên ngoài này, người ta đã tốn không biết bao nhiêu công sức và tiền bạc. Đây quả là một nghệ thuật xứng đáng với đồng tiền bát gạo.

Trước hết, giới thày thuốc đã nhảy vào vòng chiến. Với lưỡi dao giải phẫu, các vị đã cắt chỗ này xẻ chỗ kia và bơm chỗ nọ theo nhu cầu thẩm mỹ và theo sự đòi hỏi của khách hàng.

Thế nhưng, chuyện đời nhiều lúc oái ăm, những người muốn làm đẹp chẳng may gặp phải những ông lang băm, những vị thày thuốc dổm, thì chẳng những tiền mất tật mang, mà hơn thế nữa cái sắc đẹp ít ỏi của mình lại sớm tàn phai, ấy là chưa kể tới những bệnh tật và đau đớn như hậu quả tất nhiên của sự trục trặc này.

Chẳng hạn như bị rò rỉ chất silicom, được dùng để độn cho bộ ngực thêm phần gồ ghề và nhức nhối hay vì tác dụng của kem mà làm cho khuôn mặt bị nám đen…

Người ta thường bảo :

- Nhân sao vật vậy.

Thế nhưng, trong lãnh vực làm đẹp thì lại không phải vậy.

Nơi loài vật, con đực thường hay làm đẹp và làm dỏm để lấy le và lấy điểm với con cái. Vì thế trong tiếng Pháp, danh từ ‘’Coquetterie’’ có nghĩa là sự làm dáng, bắt nguồn từ chữ ‘’coq’’ có nghĩa là anh gà trống!

Nơi loài người thì khác, đờn bà con gái vốn được coi là phái đẹp, và nghệ thuật làm đẹp vốn là nghề của quí nường. Thậm chí có kẻ đã tuyên bố một cách hung hăng con bọ xít như sau :

- Là đờn bà con gái, mà nêáu không biết làm đỏm mí lại ăn quà vặt thì hỏng còn là đờn bà con gái nữa.

Xét về những nơi những chốn được làm đẹp, gã nhận thấy rằng :

- Hễ hở ra chỗ nào thì quí nường liền vội trang điểm chỗ ấy liền tù tì.

Từ cái răng cái tóc là góc con người, đến cái môi cái miệng để mà mần duyên thậm chí đến cả cái móng chân móng tay đều được quí nường trau chuốt một cách tỉ mỉ và kỹ lưỡng.

Chỉ có các nhà chế tạo mỹ phẩm là hốt bạc. Nguyên dầu gội đầu mà thôi thi cũng đã có biết bao nhiêu thứ, đến quỉ thần cũng không nhớ nổi. Nếu có dịp, gã sẽ phệu ra một bài về nghệ thuật làm đẹp của quí nường.

Chỉ tội nghiệp cho cánh đờn ông con giai như gã có khi phải ngồi chờ cả giờ cho cô em gái bé bỏng trang điểm, hay anh chàng gà tồ bị người yêu nhõng nhẽo cho trễ hẹn vài tiếng đồng hồ chỉ vì những việc lỉnh kỉnh ấy, thì cũng chỉ là…chuyện thường ngày ở huyện.

Chớ có dại mồm dại miệng mà thở dài thở vắn, mặt xệ xuống như bánh bao chiều, hay đùng đùng tức tối như ‘’tặc dăng’’ nổi giận. Hãy tự an ủi lấy mình :

- Đây là một dịp thuận tiện để ta tập đức kiên nhẫn, luyện nội công cho mạnh. Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ được cứu thoát.

Thế nhưng, cái đẹp khách quan, cái đẹp có cân đo đong điếm này thì lại rất hiếm và kéo dài chẳng được bao lâu, vì có tuổi trẻ nào mà lại không già, có sắc đẹp nào mà không bị tàn phai.

Hay như dân Đức vốn thường bảo :

- Phàm trên cõi đời này có ba thứ phù du hơn hết : đó là tiếng dội, mống trời và nữ sắc.

Vì thế, khi nói đến cái đẹp, chúng ta thường hiểu là cái đẹp chủ quan, cái đẹp ‘’hợp nhãn’’ với mình.

Đúng vậy, Voltaire đã tự hỏi :

- Thế nào là đẹp ?

Và ông đã mày mò đưa ra một câu trả lời bất hủ và hóm hỉnh. Ôâng nói :

- Đẹp chính là con cóc cái dưới mắt con cóc đực.

Thực vậy, một khi tình yêu đã thâám vào hai bên đã ‘’chịu đèn’’ mí nhau, thì cái nhìn chủ quan sẽ tô hồng mọi sự :

- Yêu nhau trăm sự chẳng nề,

             Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.

Thậm chí ngay cả đến những chỗ khuyết điểm, người ta vưỡn cứ thấy tuyệt vời :

- Yêu nhau củ ấu cũng tròn,

   Trái bồ hòn cũng ngọt.

Ngay cả đến những chỗ xấu, người ta vưỡn cứ thấy đẹp tuốt   luốt :

- Mũi nàng những tám gánh lông

   Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.

- Đêm nằm thì ngáy o o

  Chồng thương chồng bảo gáy cho vui nhà.

- Đi chợ mất tám tiền quà

  Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Vì thế, có những cô nường xét về ngoại hình, với cái nhìn khách quan, thì sẽ bị xếp vào hàng thị Nở trong Chí phèo của Nam Cao, hay Chung vô Diện trong kiếm hiệp của Kim Dung, nghĩa là dưới điểm trung bình xa lắc xa lơ, thế mà vẫn đắt giá, vớ được những ông chồng ngon lành cả về thể xác xác lẫn tinh thần, cả về tiền bạc lẫn địa vị, khiến cho thiên hạ phát thèm, nằm mơ cũng chẳng được, chỉ vì những cô nường này có được những nét duyên… thầm.

Còn khi tình yêu đã chắp cánh bay đi, thì cô nường xinh đẹp thưở ban đầu liền trở thành ‘’cái con mụ nọ”, “cái con mẹ kia”, để rồi anh chồng đi lang thang tìm kiếm của lạ, theo kiểu :

- Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.

Hoặc :

- Vợ là địch,

   Bồ bịch mới thật là ta.

   Khi chiến sự xảy ra,

   Ta buộc về với địch,

   Nằm trong lòng địch,

   Ta vẫn nhớ đến ta.

Khi không còn say men tình yêu nữa, thì cái ngày xưa người ta bảo là “cho vui nhà”, thì bây giờ lại trở thành nguyên nhân gây nên đổ vỡ. Người ta lôi nhau ra ba tòa quan lớn để ly dị chỉ vì ông chồng hay bà vợ có tật…”kéo gỗ” mỗi khi nằm ngủ.

Hay như tục ngữ đã diễn tả :

- Còn duyên anh cưới ba heo,

  Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi.

Xem như vậy, cái đẹp khách quan cũng như chủ quan đều khó lòng đứng vững với thời gian. Vì thế, đờn ông con giai và nhất là đờn bà con gái cần phải tìm kiếm cho mình một cái đẹp vượt thời gian, một cái đẹp tự bên trong, xuất phát bởi những nhân đức, chứ không phải là cái đẹp hời hợt bên ngoài, dù có mặên mòi đến đâu chăng nữa cũng không thể đi xa hơn…làn da!

Chính những nhân đức mới tạo nên cho chúng ta một cái đẹp vượt thời gian, một nét duyên thầm làm cho người khác phải cảm phục và say đắm.

Các cụ ta ngày xưa đã sớm nhận ra nét duyên ngầm vượt thời gian này, nên đã bảo :

- Cái nết đánh cái đẹp.

Hay như một câu tục ngữ khác đã nói :

- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,

  Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.

Sách  “Cổ học tinh hoa” có kể lại một mẩu chuyện như thế này.

Dương Chu sang nước Tống, đến trọ ở một nhà kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp. Một người đẹp và một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà khinh chê người thiếp đẹp.

Lấy làm lạ, Dương Chu bèn dò hỏi một đứa nhỏ trong nhà trọ. Nó trả lời :

- Người thiếp đẹp tự tôn là đẹp nên mất đẹp, tôi chẳng biết cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết là xấu, nên quên xấu, tôi chẳng biết cái xấu của nàng nữa.

Bấy giờ Dương Chu gọi đám học trò lại và bảo :

- Các con hãy nhớ lấy câu ấy. Kẻ giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đến đâu cũng được mọi người tôn trọng và yêu mến.

Kể lại câu chuyện này, tác giả sách “Cổ học tinh hoa” đã góp thêm lời bàn của mình như sau :

- Đờn bà đẹp mà tự cao tự đắc, người ngoài chỉ thấy cái bộ khoe khoang đáng ghét, chứ không còn thấy vẻ đẹp đáng yêu nữa. Trái lại, đờn bà xấu, tự thẹn mình là xấu, thì người ngoài chỉ thấy cái nét dịu dàng đáng thương, chứ không còn thấy cái xấu xí đáng ghét của nàng nữa. Người đẹp mà bị khinh, còn kẻ xấu mà được quí là như thế đó.

Cũng từ câu chuyện trên, gã nhớ lại một câu tục ngữ :

- Người xấu duyên lặn vào trong,

  Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài.

Phàm cái gì đã bong ra ngoài thì khó mà bền. Còn cái gì đã thấm vào trong thì càng lâu lại càng thắm.

Viết tới đây, thì hình ảnh mẹ Têrêxa thành Calcutta bỗng tỏa sáng trước mặt gã. Mẹ Têrêxa đứng bên vương phi Diana, quả là hai thái cực trái ngược nhau.

Vương phi Diana là một cô gái cao ráo, đẹp đẽ. Gã chỉ nói đến cái “hình dong bên ngoài”, chứ chả dám đá động tới những khía cạnh khác, chẳng hạn như : địa vị xã hội, tình cảm cá nhân…

Trong khi đó, mẹ Têrêxa chỉ là một bà lão không hơn không kém. Thân hình thì thấp bé, họa chăng có cao hơn ông Giakêu được một tí xíu. Còn mặt mũi thì nhăn nheo, mang nặng dấu ấn của thời gian. Áo quần thì thùng tha thùng thình…

Thế mà lúc còn sống, mẹ đã được biết bao nhiêu người quí mến và khi nằm xuống, mẹ đã được biết bao nhiêu người thương tiếc. Sở dĩ như vậy cũng chỉ vì cái đức của mẹ.

Phải, cái đức của mẹ chính là nét duyên thầm thu hút mọi người và làm cho cả và thế giới phải khẩu phục tâm phục mẹ hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Hình như có một câu danh ngôn, đại khái khuyên chúng ta như thế này :

- Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều vui mừng hớn hở, còn con lại cất tiếng khóc. Con hãy sống thế nào, để khi con nhắm mắt buông tay, mọi người sẽ khóc thương, còn con sẽ vui mừng hớn hở.

Nét duyên thầm vượt thời gian này ai cũng có thể thực hiện được mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc để chạy ra cửa tiệm, lôi về đủ thứ mỹ phẩm lỉnh kỉnh. Đúng thế, ai cũng có thể và phải làm được miễn là biết kiên nhẫn và cố gắng.

Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện về một người vợ xấu.

Nguyễn Thị là vợ của Hứa doãn, nhan sắc thuộc loại ma chê quỉ hờn.

Khi cưới về, thấy nàng xấu quá, Hứa doãn muốn bỏ đi bèn nói :

- Đờn bà có tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh. Nàng được mấy ?

Nguyễn Thị liền thưa :

- Thiếp chỉ kém có dung mà thôi.

Rồi nàng hỏi lại :

- Kẻ sĩ có bách hạnh, chàng được mấy ?

Hứa doãn đáp :

- Ta có đủ cả.

Nguyễn Thị nói :

- Trong bách hạnh thì đức là đầu. Chàng là kẻ hiếu sắc chứ không hiếu đức, sao lại bảo là có đủ cả bách hạnh được ?

Nghe vậy, Hứa Doãn lấy làm xấu hổ và từ đó luôn yêu thương kính trọng vợ mình.

Thái độ của Hứa Doãn có lẽ chưa đủ để đánh thức những kẻ háo sắc hôm nay. Bởi vì rất nhiều người vẫn cắm đầu cắm cổ chạy theo cái đẹp bên ngoài mà quên cái đẹp bên trong.

Và mỗi lần đọc trên báo thấy những mẫu quảng cáo tìm người :

- Cần tuyển nữ nhân viên có ngoại hình đẹp.

Gã lại ngậm ngùi cho thói đời và xót xa cho những  cô “em-gái-trời-bắt-xấu”.

Thế rồi, gã bèn thở dài thườn thượt và mặt lại cứ dài thoòng ra như…mặt ngựa.

Tác giả:  Chuyện Phiếm của Gã Siêu

-------------------------------

 

GãSiêu 94: CÁI ĂN

 

Nếu tôi không lầm, thì kể từ khi những làn gió lạnh len lén trở về, cũng là lúc người ta bắt đầu GãSiêu 94


Nếu tôi không lầm, thì kể từ khi những làn gió lạnh len lén trở về, cũng là lúc người ta bắt đầu “mùa ăn nhậu”.

Thực vậy, mùa mưa đã qua đi cùng với lũ lụt và dông bão, để chào đón những ngày nắng ấm và trong xanh.

Thiên hạ thường bảo : chim chóc cứ đến mùa làm tổ, thì con người cũng đến mùa cưới hỏi, đây chính là thời gian cho những cặp tình nhân, trẻ cũng nhữ già, hối hả đi xây tổ uyên ương.

Mà đã làm đám cưới, thì thế nào cũng phải có tiệc tùng. Mỗi lần nhận được thiệp hồng với một tí trà… móc câu, là phải chuẩn bị hào bao và dạ dày để…ăn cưới.

Rải rác vào thời điểm này là những ngày lễ lớn, như Giáng sinh, tết tây và tết ta. Để lễ được lớn và thêm phần long trọng thì không thể thiếu vắng phần ăn nhậu, như thiên hạ vẫn thường bảo :

- Trước là kính thánh, sau là đánh chén.

Đúng là người ta ăn nhậu tơi bời hoa lá, người ta tiệc tùng tưng bừng khói lửa.

Ngày xưa, lúc còn trẻ hồ hởi ăn nhậu bao nhiêu, thì bây giờ khi đã có tí tuổi, lại cảm thấy ngán ngẩm khi phải vác cái thân già cho đình đám bấy nhiêu.

Nào là thời giờ bị đảo lộn. Nào là bao tử bị hành hạ… tham thực cực thân! Dẫu sao thì cũng vẫn phải đi vì tình nghĩa, vì nợ miệng…chuyện đời mờ lị.

Vậy thì người ta ăn để mà làm gì ?

Câu hỏi này quả thực xưa như trái đất và một đứa nhỏ cũng có thể trả lời ‘’phăng xi lô’’ rằng :

- Ăn để mà sống, chứ còn để làm cái đí gì nữa. Khéo ỡm ờ, vờ vĩnh, vẽ chuyện !

Thực vậy, người ta ăn để mà sống. Giống như chiếc xe không xăng dầu thì không thể nổ máy và chạy được. Cũng vậy, nếu không ăn, không đổ ‘’xăng’’, không bồi dưỡng, chúng ta sẽ không thể nào sống và hoạt động cho nổi.

Kinh nghiệm bản thân cho thấy :

- Khi bụng đói, thì mắt mờ tiệt và tay chân bủn rủn, thậm chí con ruồi đậu vào mép cũng chẳng buồn xua.

Đặc biệt là những ngày ăn chay. Mới kiêng nhim nhím tí xíu, mà lúc gần tới bữa, đã thấy đói cồn đói cào. Và mẹ gã thường bảo :

- Đó là chước mốc ma quỉ.

Không kể trường hợp suy dinh dưỡng, mà nhiều người Việt Nam chúng ta vốn thường mắc phải do cái bệnh nghèo, hiện nay trên thế giới hàng triệu người đang lâm vào cảnh đói kém.

Những em bé chỉ còn da bọc xương nằm la liệt chờ đợi chút thực phẩm nhân đạo để sống qua ngày xuất hiện dài dài trên màn ảnh truyền hình, chẳng biết có đánh động được cõi lòng băng giá nào không hầu góp tí tiền còm làm phúc bố thí.

Ăn để mà sống, đó là chuyện đời thường, nhưng đời thường vốn có những cái nghịch lý của nó. Vì thế, không thiếu gì những người sống để mà ăn.

Họ đi tìm những khoái cảm trong việc ăn uống. Có những bữa tiệc thâu đêm suốt sáng, kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Ăn no uống đủ nhưng vẫn chưa đã. Và thế là ‘’a-lê-hấp’’ móc cổ họng cho chó ăn chè để tiếp tục nhậu nữa. Tiệc một chưa đủ bèn rủ nhau gầy sòng  làm tiệc hai.

Bên cạnh những kẻ thiếu ăn, có những bàn tiệc mâm cao cỗ đầy, thức ăn thừa mứa, mà mỗi khẩu phần trị giá bằng cả một năm lao động cực nhọc của những kẻ khố rách áo ôm. Đúng là tác phong ném tiền qua cửa sổ.

Thánh kinh diễn tả rất đúng về hạng người thừa tiền và rửng mỡ này, khi gọi họ là những kẻ chỉ biết lấy cái bụng của mình làm chúa, ‘’quorum deus venter est’’ !

Tiếp đến, người ta thường ăn những gì ?

Thưở ban đầu, khi còn là những bộ lạc du mục, người ta ăn những gì kiếm được trên rừng như : hoa trái, thịt thà, cá mú… và thường là ăn sống nuốt tươi cho đến khi tìm ra lửa.

Với lửa, người ta bắt đầu chế biến những thức ăn tươi sống thành những món cao lương mỹ vị. Từ đó nghệ thuật nấu nướng không ngừng phát triển.

Nếu là một triết gia, hẳn gã đã phát biểu một cách rất hách xì xằng  như sau :

- Người là một con vật biết nấu nướng.

Lời phát  ngôn này chắc chắn sẽ được treo ở các nhà hàng, tiệm ăn và xó bếp.

Có lần gã định viết một luận án phó tiến sĩ  về vấn đề này.

Đường đường là một đấng nam nhi, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, gã bèn truyền cho mấy cô em gái giao nộp cho mình tất cả những cuốn sách nữõ công gia chánh.

Suốt mấy tuần liền chúi mũi vào đống sách ấy để mà…‘’ngâmkíu’’. Từ bản mục lục phân tích do mình tự biên tự diễn, gã nghiệm ra rằng thì là mọi món ăn đều được chế biến dưới bốn dạng khác nhau :

- Dạng thứ nhất qua nước hay hơi nước như : luộc, hấp…

- Dạng thứ hai qua dầu mỡ như : chiên, xào…

- Dạng thứ ba qua lửa như : nướng…

- Dạng thứ bốn là chơi tươi sống như ăn gỏi…

Nắm vững bốn dạng này, rồi tùy cơ ứng biến, thêm mắm thêm muối, thêm hành thêm tỏi, uyển chuyển trong cách thức trình bày, để mà thiên biến vạn hóa, trở thành những món ăn khác nhau, vừa bắt mắt lại vừa khoái khẩu.

Thế nhưng, bao tử con người vốn có những đòi hỏi kỳ cục, hay nói đúng hơn người ta càng bày ra những món ăn lạ đời thì lại càng nổi tiếng.

Chẳng hạn như máu nào chẳng là máu, nhưng khi ngả thịt con bò, phải múc lấy bát màu từ trong lồng ngực của nó mà…húp xùm xụp, thì mới bổ béo.

Dân ghiền thịt rắn, trước khi xơi thịt phải uống máu nó bằng cách treo con rắn lên chặt mẩu đuôi, rồi kê miệng vào đó mà mút như cu Tí bú sữa mẹ, hay để cho những giọt máu ấy nhỏ xuống ly rượu nồng rồi chuyền tay nhau mà uống.

Và theo những thày lang chính hiệu con nai vàng, thì đây mới đúng là ‘’tửu xà’’ rượu rắn thứ thiệt đại bổ.  Uống vào không bổ ngang cũng bổ dọc, và nếu lỡ quá chén chút xíu, bảo đảm sẽ… ‘’bổ chẩng’’ liền tại chỗ.

Thiên hạ có kể cho gã nghe câu chuyện sau đây :

Ngày xưa, Từ Hi Thái Hậu bên Tàu mở tiệc thiết đãi các ông tây bà đầm. Bữa tiệc có một món đặc biệt đó là món óc khỉ.

Bàn ăn được khoét một lỗ nhỏ cho mỗi người. Dưới lỗ nhỏ ấy là một hộc bên trong nhốt một con khỉ.  Chỏm đầu con khỉ vừa vặn với lỗ nhỏ ấy.

Tới lúc thực khách xơi món này, người ta chỉ cần dùng một con dao thật sắc, phạt ngang một phát, bay luôn chỏm đầu cho óc khỉ hiện lên. Thực khách chỉ cần nêm vào đó chút muối tiêu chanh, rồi dùng thìa mà múc như khi ăn… vịt lộn vậy.

Một  định luật kinh tế được áp dụng trong phạm vi nghệ thuật ăn uống đó là phàm cái gì càng hiếm thì lại càng quí. Mà càng quí thì lại càng mắc.

Thẩn thơ trên hè phố Sàigòn, tôi đã từng đọc thấy những mẩu quảng cáo của các nhà hàng đặc sản. Thôi thì từ rùa, rắn, chuột đến khỉ, nai, tê tê… tất cả mọi thứ trên trời, dưới biển cũng như trong rừng đều chui tuốt luốt vào cái bụng con người.

Thảo nào mà có biết bao nhiêu loài động vật quí hiếm đang dần dần bị tuyệt chủng. Mai mốt con cháu mình chỉ còn thấy chúng qua hình ảnh của những trang sách nằm trong thư viện mà thôi !

Đồ ăn thì để mà ăn, đó cũng là chuyện đời thường. Tuy nhiên, có những thứ không thể đút vào miệng mà ăn, thế mà người ta vẫn cứ phải ăn hay cứ vẫn muốn ăn.

Trước hết, có những thứ không thể ăn mà vẫn phải ăn, nổi cộm trong lãnh vực này đó là ăn đòn.

Gã nhớ rất rõ, hồi còn bé ít khi nào ba gã cho gã ăn đòn. Nhưng đã cho ăn, thì phải ăn đến nơi đến chốn, không biết bao nhiêu roi mà kể.

Việc ăn đòn cũng có mục đích cao cả của nó. Cha mẹ cho con cái ăn đòn là để giáo dục chúng, cho chúng biết vâng lời. Còn trong chốn giang hồ, xã hội đen, thì cho nhau ăn đòn là để đánh phủ đầu, dằn mặt nhau lần sau chớ có làm như vật nữa. Con nít Tây phương bây giờ được pháp luật bảo vệ, chẳng được… ăn đòn, nghĩ cũng uổng.

Tiếp đến, có những thứ không thể ăn mà người ta vẫn muốn ăn, đó là ăn tiền.

Thực vậy, nhìn vào cuộc sống chúng ta thấy có biết bao nhiêu mánh mung, có biết bao nhiêu cách thức để ăn tiền của nhau.

Gã nghĩ rằng ăn tiền đó là cả một nghệ thuật, cũng thiên biến vạn hóa đến qủy thần cũng không lường nổi.

Gã xin kê đơn hoàn tán, đại khái như sau : ăn bẩn, ăn hối lộ, ăn bòn, ăn cắp, ăn cướp, ăn trộm, ăn chận, ăn gian, ăn quỵt, ăn bớt… Tất cả những kiểu này đều có một mẫu số chung là tiền.

Hiện nay việc ăn hối lộ là một cơn bệnh trầm trọng, không riêng gì Việt Nam, mà hầu như quốc gia nào cũng mắc phải. Nó làm cho dân chúng khổ cực, đất nước nghèo túng và chính quyền sụp đổ.

Nhưng thấy tiền ai mà chẳng muốn xơi, nhất là tiền chùa của nhân dân cũng như của nhà nước.

Một đứa con nít cũng thấy được quyền lực và giá trị của đồng tiền :

- Có tiền mua tiên cũng được

- Tiền là tiên là phật

  Là sức bật của người già

  Là cái đà của danh vọng

  Là cái lọng để che thân

  Là cái cần của công lý

Ăn tiền là chuyện khó. Nhưng chùi mép sau khi đã ăn tiền cũng lại là chuyện khó nữa. Vì nếu không khéo chùi mép, chắc chắn một lúc nào đó sẽ thân bại danh liệt, nằm bóc lịch trong nhà đá  mà than thở :

- Của Cêsar trả cho Cêsar… Của thiên trả địa…sự giả trá thế gian là như thế đó.

Sau cùng gã xin viết thêm chút xíu nữa cho câu hỏi :

- Phải ăn như thế nào ?

Kinh nghiệm cho thấy : nhân cách con người được biểu lộ rất rõ trong khi ăn.

Thực vậy, người tham thì muốn xơi luôn phần của kẻ khác. Gã nhớ mang máng trong một cuốn sách nào đó về phép lịch sự có kể mẩu chuyện như sau :

Bàn ăn có bốn người. Đĩa có bốn miếng giò. Anh chàng tham ăn gắp cá cặp một phát hai miếng liền, rồi giả bộ vẩy vẩy để cho nó bong ra.

Thế nhưng, người ngồi cạnh bèn kê tủ đúng vào miệng hắn ta mà nói :

- Anh có lấy chân mà đạp, thì nó cũng chẳng bong ra đâu.

Người bất lịch sự thì chỉ biết cúi mặt xuống như muông chim mà ăn lấy ăn để, chả còn lưu ý tới kẻ khác. Họ có thể ợ ngáp như ở trong phòng riêng. Họ có thể húp canh sùm sụp như biển gầm sóng vỗ, muốn trôi cả bàn ghế và những người chung quanh.

Vì thế, cha ông chúng ta đã dạy :

- Học ăn học nói học gói học mở.

- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.

Tuy nhiên, có một góc cạnh của bữa ăn chúng ta cần lưu ý đó là bầu khí yêu thương.

Thực vậy, bữa ăn là lúc qui tụ những người có cùng một mẫu số nào đó. Mẫu số ấy có thể là tình nghĩa ruột thịt như bữa ăn trong gia đình, cũng có thể là một niềm vui hay một nỗi buồn như tiệc cưới, đám giỗ…hay công việc làm ăn.

Trước hết, những người cùng bàn chia sẻ  với nhau thức ăn, nguồn sinh lực cho thân xác. Trong cuốn “Người Việt cao quí”, tác giả Pazzi đã ca tụng chén nước mắm của mâm cơm Việt Nam. Hơi mất vệ sinh một tý đấy nhưng lại là một biểu tượng của chia sẻ và hiệp thông.

Tiếp đến, những người cùng bàn còn chia sẻ với nhau niềm vui và nỗi buồn… vì vậy cần phải tạo ra một bầu khí yêu thương cho bữa ăn, đừng biến nó trở thành phiên tòa xử án con cái hay trở thành một dịp để đả kích, chửi xéo lẫn nhau vì :

- Trời đánh còn tránh bữa ăn.

Gia đình Việt Nam đâu cần đến những thứ cao lương mỹ vị mới nồng nàn yêu thương, trái lại chỉ cần :

- Canh tôm nấu với ruột bầu

  Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.

Viết đến đây gã cảm thấy hết chất, bèn phải vác tự điển ra để tra cứu và tham khảo thêm, gã bỗng khám phá ra rằng :  phạm trù ăn là một phạm trù quan trọng vào bậc nhất trong ngôn ngữ Việt Nam.

Thực vậy, để diễn tả động tác “ăn”, ngôn ngữ Việt Nam thật là phong phú.

Trang trọng thì :

- Xơi, mời…

Bình thường thì :

- Ăn, dùng…

Vui vẻ thì :

- Nhắm, nhậu, lai rai…

Bực bội tức tối thì :

- Đớp, hốc…

Nếu Phạm Quỳnh đã viết :

- Dân An nam ta phàm cái gì cũng cười.

Còn gã, gã cũng có thể xác quyết :

- Người Việt Nam chúng ta  phàm cái gì cũng ăn.

Vui cũng ăn như ăn cưới, ăn khao. Buồn cũng ăn như ăn đám ma, ăn đám giỗ.

Trong “Việt Nam từ điển” của Lê Văn Đức, gã đếm được cả thảy hơn một trăm năm chục tiếng được nghép với chữ ăn, như : ăn chay, ăn chực, ăn vụng… Thậm chí có những hành động chẳng hề liên hệ tới mồm miệng hay lục phủ ngũ tạng mà vẫn được ghép với chữ ăn  như : ăn đòn, ăn gian, ăn trộm, ăn năn…

Gã không biết Thượng đế có bé cái lầm hay không khi trao ban cho mỗi người chúng ta một cái miệng. Công dụng của cái miệng là nói và ăn.

Rất nhiều lần chúng ta đã phải khổ sở vì những lời dèm pha đầy ác ý. Lưỡi người còn sắc hơn cả gươm giáo và độc hơn cả nọc ong. Số người chết vì cái lưỡi còn nhiều hơn vì chiến tranh. Lời nói có thể làm cho chúng ta thân bại danh liệt, tiêu tan sự nghiệp.


Còn cái khoản ăn cũng không kém phần nhiêu khê và rắc rối. Người ta lao động quần quật cũng để tìm kiếm của ăn đút vào miệng. Cái miệng con người đã làm cho bao súc vật bị tuyệt chủng, cây cối đi đến chỗ xác xơ tiêu điều… và đến núi cũng phải lở.

Rồi những cuộc chiến tranh giữa người với người đã xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Ôi, miếng ăn quả là miếng nhục.

Giá như con người không phải ăn nữa thì sẽ lợi biết bao nhiêu. Lợi được thời gian. Lợi được công sức. Lợi được tiền bạc. Nhưng mà có lẽ lúc bấy giờ đời cũng sẽ buồn đi rất nhiều.

Vì thế, gã vẫn cứ phải chịu khó ăn để mà sống mỗi ngày, cho dù là ăn những của đắng đót.

Tác giả:  Chuyện Phiếm của Gã Siêu

-------------------------------

 

GãSiêu 95: TIỀN

 

Năm nào cũng thế, cứ vào những tháng cuối năm gã đều cảm thấy lo ngay ngáy, lắm lúc lo GãSiêu 95


Năm nào cũng thế, cứ vào những tháng cuối năm gã đều cảm thấy lo ngay ngáy, lắm lúc lo đến toát cả mồ hôi hột vì cái túi cạn kiệt, cái hào bao rỗng tuếch, tiêàn bạc đội nón ra đi hết sạch, trong khi mình lại đang rất cần đến nó.
Này nhé : nào lễ Giáng sinh, nào tết tây, nào tết ta, rồi trăm thứ bà giằng khác. Dù thắt lưng buộc bung cách nào chăng nữa, thì cũng vẫn có những khoản bắt buộc phải chi, không chi là không xong. Thành thử đầu vào thì ít mà đầu ra thì lại nhiều, tới độ ngân sách bị thâm thủng nặng nề.
Càng lo về tiền, thì đêm nằm vắt chân lên trán ngẫm nghĩ chuyện đời, gã càng nhận ra sức mạnh vạn năng của nó.
Các cụ ta ngày xưa thường tự an ủi lấy mình khi lâm vào cảnh túng quẫn :

- Cái khó bó cái khôn.

Ước mơ thì nhiều, nhưng do thiếu tiền, nên rốt cuộc chả được bao nhiêu. Thảng hoặc một đôi lúc  cái khó ló cái khôn, thì hầu hết những cái khôn được đẻ ra trong hoàn cảnh bi đát này cũng chỉ là một thứ khôn vặt, thiếu trọng lượng mà thôi.

Vì thế, từ già đến trẻ, từ lớn đến bé, từ nam phụ đến lão ấu, ai nấy cũng đều nhận ra giá trị của tiền bạc, ngay cả anh mù cũng vẫn nhìn thấy tiền.

Đồng thời, ai nấy đều ra sức tìm tiền kiếm bạc, ky cóp tích lũy và gìn giữ nó kỹ càng, bởi vì đồng tiền liền với khúc ruột, lỡ mất nó thì tiếc ngẩn tiếc ngơ, tiếc đến độ chảy ra cả nước mắt, đêm không ngủ, ngày không ăn..

Phàm bắt tay vào bất cứ việc gì thì “ vấn đề đầu tiên “ nổi cộm trong đầu óc vẫn là vấn đề tiền đâu? Một vấn đề thuộc vào hạng qui luật của muôn đời, không thể không xét đến.

Ngày nay, người ta thương bảo :

- Tiền là tiên là phật,

  Là sức bật của tuổi trẻ,

  Là sức khỏe của tuổi già,

  Là cái đà của danh vọng,

  Là cái lọng để che thân,

  Là cán cân của công lý.

Còn người xưa thì lại xác quyết :

- Có tiền mua tiên cũng được.

Riêng gã, gã không hiểu tiên là liền ông hay liền bà, đẹp hay xấu, nhưng chắc chắn là phải thuộc “ cõi trên “, mà gã thì lại hay dị ứng với những người cõi trên, nên chi ngó thẳng vào thực tế để nó được thêm phần cụ thể hơn.

Trước hết, với tiền bạc, người ta có thể mua được địa vị cùng với quyền ăn và quyền nói như người xưa đã bảo :

- Mạnh vì gạo bạo vi tiền.

- Miệng nhà giàu có gang có thép.

Nếu tìm hiểu về phong tục của xã hội Việt nam thuở trước, chúng ta thấy nhiều nơi có tục lệ mua quan bán tước, và ngay cả trong lòng Giáo hội cũng có vài xứ bán chánh bán trùm.

Người nhà giàu chỉ cần bỏ ra một số tiền theo qui định là ẵm ngay được chức lý trưởng, chức chánh trương, chức trùm quản gì đó để vênh vang với đời.

Rồi mỗi khi có hội hè đình đám, thì được ngồi vào chiếu trên mà ngất ngưởng với các vị bô lão và chức sắc, bằng không thì sẽ bị xếp vào chiếu dưới, lẫn lộn với hạng cùng đinh, vai nặng chân trơn mà chớ.

Với tiền bạc, người ta còn có thể mua được lẽ phải, mua được công lý.

Hồi còn bé, mỗi lần đi ngang qua tòa án, gã thấy các vị thẩm phán, luật sư, thùng thình trong bộ đồ riêng của nghành nghề mình, toát ra một sư oai nghiêm, đạo mạo.

Thế nhưng, khi lớn lên và va chạm với cuộc sống, gã thấy rằng quí vị đạo mạo ấy cũng chỉ là người, nên trong bụng vẫn chất chứa chút sân si và trong máu con virus ham hố vẫn phá thối. Vì thế, có kẻ bạo phổi dám bỏ tiền ra mua đứt tòa án, đánh gục quí vị đại diện cho thần công lý.

Đúng là :

- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.

- Kim ngân phá lề luật.

Nếu chẳng may đụng phải mấy ông quan tòa có bản lãnh, không tơ tưởng tới tiền bạc, thì cứ yên chí nhớn, hiên ngang bước chân vào tù.

Thế nhưng, trong thế giới tù ngục, có tiền vẫn hơn, bởi vì, với tiềân người ta vẫn mua được mọi thú tiện nghi chẳng kém gì ở ngoài. Sau đây, gã xin trích một đoạn trong báo Công An mô tả về nhà tù ở Bolovia thuộc Nam Mỹ :

“ Các nhà tù ở đây giống như những thành phố ở bên trong thành phố. Tại khuôn viên, nhà tù có đủ cả từ các tiệm tạp hóa cho tới các  nhà hàng, thậm chí có cả khoản dịch vụ của các ả mãi dâm…

“Những tù nhân giàu thì có thể sống như ông hoàng. Với 3.000 mỹ kim, Freddy Alvarez, kẻ can tội buôn lậu ma túy, đã “ mua “một phòng giam tươm tất để có thể chung sống cùng vợ con.

“Hắn ta kể lại :

- Tôi giống như một kẻ sống ở vùng ngoại ô mà thôi. Tôi có nhà riêng, các con tôi hằng ngày vẫn tới trường và vợ tôi vẫn đi ra ngoài làm việc, chúng tôi ăn uống no đủ.

“Chưa hết, có một số tù nhân dám bỏ ra cả 15.000 mỹ kim để được ở trong những phòng giam đạt tiêu chuẩn “ khách sạn năm sao “. Nếu chi khoảng 60 mỹ kim, một tù nhân có thể đi bát phố trọn ngày, còn với 90 mỹ kim, hắn ta có thể đi dự dạ hội, chơi hộp đêm ngoài phố “ over night” luôn.

“Các nhà tù không lo tù nhân bỏ trôn vì gia đình họ cũng đang sống trong nhà tù như những con tin.

Hơn nữa, với tiền bạc, chúng ta còn có thể mua được cả bạn bè và tình nghĩa.

Các cụ ta ngày xưa đã để lại một kinh nghiệm sống ….khí sượng một chút, đó là :

- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghĩa là nghèo kiết xác mà cắm dùi ngay giữa phố chợ thì cũng chẳng ma nào viếng thăm, trái lại hễ giàu sang, phất lên một tí thì dù ở chốn rừng sâu núi thẳm cũng khối kẻ chịu khó cất công tìm đến.

Bên cạnh nhà gã có một anh hàng xóm, thuở còn khố rách áo ôm, dù vợ anh có đẻ cặp hai cặp ba thì thiên hạ vẫn phớt tỉnh ăng lê,  dù bản thân anh có bị tai nạn xe cán gẫy tay hay lòi ruột, thì người ta vẫn mặc kệ nó.

Bỗng một hôm thần tài gõ cửa, anh trúng số độc đắc, tiền bạc cứ như quà tặng từ trời rơi xuống. Đi tới đâu các cô gái cũng toét miệng cười :

- Anh sáu ơi, anh sáu à…

Đúng là :

- Thấy người sang bắt quàng lam họ.

Ghé vô chỗ nào anh cũng được thiên hạ mời tiệc tùng ăn nhậu, vì thế về khoản rượu chè, anh lên “ đô “ trông thấy và mặt lúc nào cũng đỏ gay như gà chọi.

Trước kia, chẳng ai dám cho anh vay vì sợ bị ăn quịt. Còn mỗi khi ngân hàng tới đòi nợ, anh bèn phải ẩn mình đi tị nạn chính trị, ẩy bà xã ú ớ ra tiếp.

Còn bây giờ, người ta mời anh giữ chức này chức nọ, hy vọng anh sẽ chơi trội mà chi cho tí tiền còm mỗi khi cần đến. Có tiền và có chức, cuộc đời anh lên hương từ đó.

Tiền bạc có thể mua được đủ thứ : nào cơm ăn áo mặc, nào tiện nghi hưởng thụ…đó mới chỉ là những chuyện thường ngày ở huyện.

Ngoài ra, với tiền bạc người ta còn có thể mua được cả chiến thắng.

Theo dõi những cuộc vận động tranh cử tổng thống Mỹ, chúng ta thấy ứng cử viên nào “ yếu địa “, chắc chắn sẽ bị rớt đài và đi đoong vì làm sao mà trải thảm mua đứt báo chí, truyền thanh, truyền hình, dư luận và tình cảm của cử tri.

Bình thường, thể thao vốn là lãnh vực lành mạnh và công bằng, vì mọi người đều cố gắng chơi đẹp dựa trên sức khỏe và tài năng của mình, thế mà tiền bạc cũng đã len lỏi  vào, bằng cách mua đứt trọng tài hay cầu thủ, khiến cho thiên hạ phải chõ mồm bàn luận chung quanh những vụ bán độ ở chỗ này hay chỗ khác.

Trên đây là lãnh vực mua, tiếp đến là lãnh vực mở.

Tục ngữ đã bảo :

- Tiền không chân, xa gần đi khắp.

Nó là chiếc chìa khóa vạn năng mở được tất cả. Hay như Shakespeare đã viết :

- Khi tiền bạc dẫn đầu thì mọi cửa đều mở rộng.

Nói theo dân ghiền bóng đá thì tiền bạc chính là tiền vệ xuất sắc nhất chọc thủng mọi cầu môn.

Trước hết, nó sẽ mở được cửa quyền.

Hiện nay trên thế giới, hầu như nước nào cũng có tệ nạn tham nhũng. Với tiền bạc, người ta mua đứt các viên chức để rồi việc khó hóa thành dễ như người xưa đã bảo :

- Có tiền việc ấy mà xong nhỉ.

Nhiều chính phủ bị sụp đổ,  nhiều viên chức phải nằm nhà đá đếm lịch chỉ vì tham nhũng, hám tiền như tục ngữ cũng đã nói :

- Hạt tiêu nó bé nó cay,

  Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền.

Ngoài ra, nó còn mở được cửa trái tim.

Có những người không lấy nhau vì tình nhưng lại lấy nhau vì tiền.

Hơn nữa, vì đồng tiền họ dám bán tuốt luốt, kể cả danh dự và nhân phẩm của mình. Có những cô gái vì tiền mà “cũng liều nhắm mắt đưa chân“ lấy đại chú ba tàu Đài loan nào đó, để rồi cuối cùng đã phải ngậm đắng muốt cay.

Đã nói đi thì cũng phải nói lại. Dưới một góc cạnh này thì là như thế, còn dưới một góc cạnh khác thì …hỏng phải vậy đâu. Bởi vì tiền bạc là như con dao hai lưỡi, biết dùng thì có lợi, không biết dùng thì có hại.

Hay như một câu danh ngôn đã bảo :

- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt có thể giúp chúng ta nhiều việc nhưng đồng thời lại là một ông chủ hà khắc bóp nghẹt những gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta.

Như trên chúng ta đã thấy :

- Kim ngân phá lề luật.

Trong phạm vi cá nhân, thì tiền tài hắc nhân tâm, nó làm cho tâm địa chúng ta trở nên hắc ám với những toan tính đen tối, chà đạp công bằng, phá đổ tình thương, coi rẻ nhân nghĩa, mặc sức bóc lột người khác miễn sao vơ vét về cho đầy túi tham của mình, đúng như văn hào Léon Tolstoi đã viết :

- Tiền bạc chỉ là một thứ nô lệ mới không người, thay thế cho thứ nô lệ có người trước kia.

Một khi chúng ta để cho lòng mình quá ham hố, quá quyến luyến tiền bạc, thì lúc đó tiền bạc sẽ chỉ huy chúng ta và làm cho chúng ta phải khốn đốn.

Hơn nữa, nếu chúng ta xây dựng tình nghĩa trên nền tảng căn bản của tiên bạc, thì tình nghĩa ấy thật bấp bênh và có thể tiêu tan bất kỳ lúc nào như Nguyễn bỉnh Khiêm đã viết :

- Còn bạc còn tiền còn đệ tử,

  Hết cơm hết gạo hết ông tôi.

Trong tiếng Việt, chữ tiền thường đi đôi với chữ bạc. Và theo sự suy diễn “ ngang hơn cua “ của gã, thì tiền chính là thủ phạm làm cho bạc tình bạc nghĩa.

Có tiền, người ta dễ thay lòng đổi dạ :

- Trong tay đã sẵn đồng tiên,

  Thì lòng đổi trắng thay đen khó gì.

Thế nhưng không có tiền, người ta lại càng dễ đi tới chỗ lật lọng, quay phắt 180 độ :

- Hễ không điều lợi khôn thành dại,

  Đã có đồng tiền dở cũng hay.

Có một bản tin trên báo Công an mang tựa đề là “ hợp đồng tình yêu “, nội dung như sau :

Châu Sa là một cô gái trẻ đẹp. Năm 17 tuổi, cô bỏ học đi làm vũ nữ. Được hai năm, cô gặp Tuấn, một người thành đạt trong lãnh vực kinh doanh địa ốc. Vì không muốn người mình yêu bị kẻ khác nhòm ngó, Tuấn đề nghị Châu sa làm vợ bé của mình.

Thấy Tuấn giàu có lại hào hoa phong nhã, phần vì ngán ngẩm với cảnh đời vũ nữ, Châu sa đồng ý với điều kiện Tuấn phải mua nhà, mua xe và hàng tháng phải cho 1000 đô để cô xài và gửi về giúp gia đình.

Để  ngăn ngừa việc ông chồng hờ của mình nửa chừng chạy theo một bóng hồng khác, Châu sa thảo ra một bản hợp đồng ghi rõ việc cô sẽ chung sống với Tuấn 5 năm…Nếu ai bỏ ngang giữa chừng thì phải bồi thường cho đối phương 10.000 đô. Tuấn đã ký vào bản hợp đồng và chấp nhận tất cả những điều kiện, dù là vô cùng trắng trợn và thực dụng của Châu sa.

Từ đó Tuấn và Châu sa đã chung sống với nhau trong một tổ ấm trị giá 70 cây vàng mà Tuấn đã tậu cho cô vợ bé xinh đẹp của mình.

Thế nhưng chẳng ai học được chữ ngờ. Bản hợp đồng tình yêu của Tuấn và Châu sa chưa được ba tháng thì công việc làm ăn của Tuấn ngày càng xuống dốc. Số tiền 1.000 đô đối với Tuấn ngày xưa chỉ là chuyện nhỏ, thì nay lại trở thành gánh nặng.

Thấy số tiền Tuấn nộp cho mình hàng tháng cứ hao hụt dần, Châu sa cho rằng Tuấn đã thay lòng đổi dạ, nên quyết định dạy cho ông chồng hờ của mình một bài học vì tội đã dám vi phạm hợp đồng.

Cô photo bản hợp đồng  rồi gửi cho gia đình Tuấn. Kết quả là vợ Tuấn nổi giận, kiên quyết đòi ly dị. Lúc này Tuấn như người bị dồn vào bước đường cùng. Thất bại trong công việc, vợ lớn đòi ly dị, vợ bé đòi tiền bạc. Tình yêu cùng sự si mê ngày xưa đã cạn. Trong lòng Tuấn chỉ còn lại niềm oán hận đối với cô vợ bé ngag ngược.

Ngày 20.7.1998, Tuấn mang acit đến nhà Châu sa, đầu tiên chỉ tính dọa cho hả cơn giận. Thế nhưng, sau một hồi lời qua tiếng lại, Tuấn không kiềm được sự nóng nảy của mình, nên đã vung tay tạt ca acit vào mặt Châu sa, khiến cô bị thương trầm trọng. Và thế là tiền hết, tình tan.

Cách đây mấy năm, một nguyệt san xuất bản tại Luân đôn có yêu cầu đọc giả đưa ra một định nghĩa về tiền bạc và cho biết đọc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất sẽ được thưởng.

Tòa soạn đã nhận được cả ngàn câu định nghĩa và đây là câu định nghĩa đã trúng giải nhất :

- Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng, với nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế giới, trừ lên trời là không được, với nó chúng ta có thể mua được mọi sự, trừ hạnh phúc.

Còn lúc này, gã đang nghiền ngẫm một tư tưởng của Francis Bacon  :

- Tiền bạc như phân bón, nếu không rải nó ra thì chẳng lợi ích gì.

Đúng thế, phân bón phải được tung vãi trên ruộng đồng thì cây lúa mới lớn lên, đâm bông và kết trái, nhưng nếu cứ xếp đống trong kho thì chăúng ăn thua gì.

Còn tiền bạc tiêu dùng thì…ô hố…sao nhỉ ?

Tác giả:  Chuyện Phiếm của Gã Siêu

-------------------------------

 

GãSiêu 96: VÌ TÔI LÀ LINH MỤC

 

Nếu gã nhớ không lầm thì hồi trước năm 1975, Lệ Hằng, một nhà văn nữ, đã viết cuốn tiểu thuyết GãSiêu 96


Nếu gã nhớ không lầm thì hồi trước năm 1975, Lệ Hằng, một nhà văn nữ, đã viết cuốn tiểu thuyết mang tựa đề là “Tóc mây”, nói về cuộc tình giữa Tố Kim, một cô sinh viên Đà lạt, với Hà Vĩnh Duy, một linh mục nhạc sĩ. Tác phẩm này đã tạo nên một cơn lốc, mà lúc bấy giờ thiên hạ gọi là “hiện tượng tóc mây”. Hình như trước hay sau đó ít lâu, nhạc phẩm “Vì tôi là linh mục” cũng được trình làng. Bài hát này đã gây được một âm vang khá lớn, thậm chí những lúc buồn tình, các cô gái ngây thơ cũng chu mỏ và ngay cả các “ma xơ” cũng mở miệng nghêu ngao: Vì tôi là linh mục, không mặc chiếc áo dòng, nên chi đời đau khổ, nên trót đời lang thang. Hẳn đây là tâm sự buồn của một linh mục lỡ dại trót yêu một tín đồ duy nhất, nên đã cởi bỏ chiếc áo chùng thâm mà đi bụi đời?

Xét về nguyên do của việc tu trì, thiên hạ xấu bụng thường bảo: Trốn việc quan đi ở nhà chùa. Chán đời, hay thất tình thì mới đi tu, bởi vì tu là cõi phúc, tình là dây thun.
Gã chơi thân với một anh chàng. Anh chàng này thương một cô nàng, nhưng đây chỉ là một tình yêu đơn phương, có nghĩa rằng thì là anh chàng thì thương da thương diếc, còn cô nàng thì lại lạnh lùng, ngoảnh mặt làm ngơ, khiến cho anh chàng cứ héo hắt và quay quắt. Thế rồi, cô nàng bỗng đi lấy chồng, kết tóc xe duyên với một thằng bạn cùng học “mí nhau” từ thuở còn mặc quần thủng đũng. Và thế là trái tim anh chàng cũng tan nát theo kiểu: Ngày nhà em pháo nổ, anh cuộn mình trong chăn, như con sâu làm tổ, trong trái vải cô đơn. Anh chàng thẫn thờ thờ thẫn như kẻ mất hồn, lang thang như người cõi trên và miệng thì lảm nhảm theo giai điệu của bài “Love story”: Ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn, cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá, cuộc tình lớn quá ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn. Sau cú sốc đau điếng vì cuộc tình quá lớn bị vỡ tung, anh chàng lặng lẽ khăn gói quả mướp, lê từng bước chân âm thầm vào một nhà dòng và tu ở đó. Ơn Chúa tuôn đổ. Một thời gian sau, anh chàng được thụ phong linh mục. Trong ngày mở tay, cô nàng dắt cháu bé tới và nói: Con ạ cha đi con. Cha mới chớp chớp đôi mắt “mơ huyền” và lãng đãng nhìn về chốn xa xôi. Bây giờ mỗi khi nhắc lại chuyện xưa, vị linh mục này thường hay mỉm cười nói với bè bạn: Nếu không bị cô nàng đá lên đá xuống, toạc đầu xẻ mũi, thì có lẽ mình đã làm bố cụ, chứ đâu có thèm làm cụ như anh em thấy đó. Chúa chọn con như sét chọn một cây tầm thường. Thánh ý Ngài nhiệm mầu hết xảy.
Bên đạo chúng ta, lý do “thất tình đi tu” chẳng phải là không có, nhưng xem ra rất họa hiếm, vì chú nhóc thường vào tiểu chủng viện hay nhà dòng từ hồi nhỏ, tóc còn để chỏm. Thế nhưng, ở cái thuở “thò lò mũi xanh” ấy, chú nhóc làm sao hiểu được ơn gọi là gì? Đơn giản, chú nhóc thích đi tu chỉ vì thấy mấy “cụ” được đi giày tây, ăn bánh tây và ở nhà tây. Ra ngoài đường được cả và thiên hạ khoanh tay cúi đầu chào: Con xin phép lạy cha ạ. Đôi khi cha mẹ muốn cho con cái đi tu chỉ để sau này chúng được nhàn hạ và hạnh phúc, như lời phát biểu hăng tiết vịt của bà hiền mẫu nọ với cha phó kia trong một cuộc họp hàng tháng: Đi tu như các cha các dì thế mà sướng, chứ đèo bồng ở ngoài đời như chúng con khổ lắm cha ơi! Có chú nhóc đi tu chỉ vì ông già, bà già thầm mong được mọi người gọi mình là “ông cố”, “bà cố”. Bởi cái giấc mộng vàng ấy, khi thấy chú nhóc của mình trở chứng, muốn giã từ đời tu, một ông “chuẩn cố” đã thẳng thừng nói với “chú nhà tràng” như sau: Thà rằng mày làm con chó nhà Đức Chúa Trời, còn hơn là làm vương làm tướng ngoài thế gian, con ạ.
Những lý do “lôm côm” ban đầu này cùng với năm tháng dần dần được đẽo gọt, được mài dũa, để rồi kết tinh và cô đọng lại thành cái lý tưởng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Trong thánh lễ mở tay của cha mới, các vị giảng thuyết thường hùng hổ đến xùi cả bọt mép đề cao vẻ đẹp tuyệt vời của thiên chức linh mục, ít ai dám đề cập tới những thập giá của tước vị này, khiến cho cha mới chỉ nhìn thấy bông hồng mà quên đi những gai nhọn của nó. Thế nhưng, tiệc rượu thì chóng tàn, ngày vui thì qua mau, vinh quang Taborê chỉ kéo dài trong thoáng chốc, để rồi tới lúc phải xuống núi và đối đầu với thập giá đời thường. Và đời thường thì nhiêu khê, lắm nỗi truân chuyên và nhiều phen lao đao, xất bất xang bang.


Sau đây gã chỉ xin trình bày hai trường hợp, hai thái cực nho nhỏ, trong đó giáo dân đã xô linh mục vào chân tường, đã đẩy linh mục tới chỗ bất ổn hay đã làm hư linh mục.
Trường hợp thứ nhất đó là thái độ quá trọng kính đến độ khúm núm, coi linh mục như là một người thông biết mọi sự và chẳng hề sai lỗi bao giờ. Mới ngày nào bè bạn còn “mày tao chi tớ” mí nhau, nhưng một khi đã thụ phong linh mục, từ hòn đất được cất nên ông bụt, thì lập tức được gọi là cha, là cụ, là cố, khiến cho thiên hạ, kể cả những người thân yêu nhất, cũng phải “kính nhi viễn chi”. Trọng kính linh mục là điều rất tốt, nhưng quá trọng kính đến độ khúm núm thì lại là điều nguy hiểm, vì nó dễ làm cho linh mục quên đi mình xuất thân từ một cục đất, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường trong bàn tay Thiên Chúa, để rồi luôn mang ảo tưởng mình là ông bụt, mình là cái rốn của vũ trụ và từ đó trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán.
Trường hợp thứ hai là thái độ vô ơn, nghiêm khắc và thiếu cảm thông của giáo dân đôi khi đã làm cho linh mục buồn đau đến rơi cả nước mắt. Một trong những nguyên tắc cư xử thông thường, đó là hãy nghiêm khắc với bản thân mà khoan dung với người khác. Thế nhưng, thiên hạ hay hành động ngược lại với nguyên tắc thông thường ấy, bằng cách tỏ ra nghiêm khắc với người khác mà khoan dung với chính bản thân mình. Quan điểm này cũng được giáo dân áp dụng vào mối liên hệ với linh mục.
Thiên hạ thường nói: nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi của mình, kể cả linh mục vì linh mục cũng mang thân phận mỏng giòn. Rồi bá nhân bá tánh, năm người mười ý, bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn. Linh mục được sánh ví như người làm dâu trăm họ, nên khó có thể làm vừa lòng mọi người và nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người, thì rốt cuộc sẽ chẳng làm vừa lòng một ai. Giáo dân hay quên mất những công ơn linh mục đã làm, mà chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của linh mục, để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao, dắt díu nhau lên Tòa giám mục, nộp đơn cho Đức cha hay cho nhà nước mà kiện tụng linh tinh.
Một cha sở trẻ vừa mới khánh thành ngôi nhà thờ cho giáo xứ thì lâm bệnh nặng. Bệnh nặng chữa không khỏi mà tiền bạc thì lại hao tốn. Cha sở trẻ nằm dưỡng bệnh ở nhà xứ, rồi cứ vài tuần lại phải đi tái khám và mua thuốc uống tận Saigon. Cứ thế, cứ thế. Lúc đầu chưa có chuyện gì, nhưng sau một thời gian, những tiếng eo xèo bắt đầu nảy sinh, mỗi ngày một lớn, cộng thêm với chuyện này chuyện nọ, cuối cùng cha sở trẻ đã phải khóc mà xin đi hưu non, như “con chim ẩn mình chờ chết”.
Có lẽ thấm thía nhất là nỗi cô đơn của linh mục. Nỗi cô đơn sẽ đậm đặc hơn khi linh mục đau yếu. Một cha phó đã bật mí cho gã biết như sau: Ngày nọ mình bị đau nhờ chú nhỏ giúp lễ đi tìm người cạo gió. Nhờ bà này hay cô kia thì không ổn, bởi vì thiên hạ sẽ bảo rằng đó là chước mốc ma quỉ. Các bà các cô, hiền thì có hiền, nhưng đôi khi cũng dữ như sư tử Hà đông. Khi đoàn “nữ binh mùa thu” này mà đã loan tin bằng chiến thuật rỉ tai thì còn nhanh hơn cả những máy móc điện tử hiện đại nhất. Được dặn dò kỹ càng, chú nhỏ giúp lễ kêu về một ông hàng xóm đang trong tình trạng say không ra say, xỉn không ra xỉn, mới xơi đâu được ba xị rượu đế. Mà như dân ghiền thường bảo: Một xị thì mở mang trí hóa, hai xị thì giải bớt cơn sầu, ba xị thì mũi chảy đầy râu, bốn xị thì ngồi đâu khóc đó. Vì được thoa dầu, nên khi cạo gió thân thể mình đang nóng bừng bừng, thì bỗng dưng cảm thấy lạnh toát ở xương sống, hóa ra nước mũi của ông hàng xóm cứ vô tư rơi thánh thót trên tấm lưng của mình. Lần khác khi giác hơi, ông ấy đã đổ ụp cả một ống dầu hôi lên người. Nhiều khi đau ốm, đành âm thầm nằm ngó lên trần mà xem những con thằn lằn đuổi nhau.
Sau cùng, nỗi cô đơn sẽ đặc quánh khi linh mục về già. Nhà hưu thì nơi có nơi không. Mà có thì cũng khá thiếu thốn. Còn về ở với gia đình, không phải là không bất tiện. Nếu mình có tí tiền còm, thì con cháu xem ra hăm hở nhiệt thành. Nhưng khi tiền đã hết, thì tình cũng chắp cánh bay cao và sự chăm sóc bèn trở thành một gánh nặng. Có khi chưa chết, chúng đã vội chia chác, hay chôm chỉa được cái nào hay cái ấy. Chuyện còn dài, nhưng gã xin “xì tốp” nơi đây bằng mẩu chuyện sau đây:
Đức giáo hoàng Piô X, ngay sau khi vừa được tấn phong làm Giám mục Montova, đã về thăm gia đình và khoe với mẹ chiếc nhẫn giám mục của mình: Này bu, bu xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp hay không? Người mẹ bèn giơ ra chiếc nhẫn cưới đang đeo trên tay và bảo: Nếu không có cái này thì làm sao có cái kia.
Từ khi vào tiểu chủng viện cho đến lúc tiến tới chức linh mục, tỷ lệ 10%. Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít. Còn bao nhiêu thì rơi rụng dọc đường. Điều đó chứng tỏ tu không phải là chuyện dễ và đời tu cũng không phải là vắng bóng thập giá. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Đã cố gắng tu mà chẳng được làm cha cố, thì làm ông cố cũng tốt thôi, vì không có ông cố, làm sao có cha cố!

Tác giả:  Chuyện Phiếm của Gã Siêu
Nguồn: gpvinhlong.net

-------------------------------

 

GãSiêu 97: Chân dung Gã Siêu

 

Có một thời gian, Gã Siêu hay gửi Chuyện Phiếm đăng trên lebaotinh.com. Kẻ khen hay, người GãSiêu 97


Có một thời gian, Gã Siêu hay gửi Chuyện Phiếm đăng trên lebaotinh.com. Kẻ khen hay, người chê rông rài. Nhưng chẳng mấy ai biết Gã Siêu mặt mũi ra sao, cứ đoán già đoán non loạn cả lên.

Gã Siêu viết chuyện phiếm từ thời học sinh. Bài phóng sự “chuyện phiếm” đầu tiên xuất hiện trên tờ nội san của lớp, ký tên Nham Nhở, trêu ghẹo hết tất cả mọi người trong lớp, không trừ một ai. Chẳng ai nhận ra tác giả, vì chính tác giả là người bị chọc ghẹo cay độc về đôi mắt lệch lạc của anh ta, mắt nhắm một đàng, lại nhìn một nẻo. Về sau, anh lấy tên Gã Siêu, bởi: Siêu thị, nghĩa là người có tài nhìn phía bên này mà lại thấy bên kia.

Gã Siêu ấy chính là linh mục Phanxicô Xaviê Hoàng Đình Mai, sinh ngày 28/07/1947 tại làng Tụy Hiền, An Tiến, Mỹ Đức, Hà Đông (nay là Hà Nội), vào Tiểu Chủng viện Piô XII (Chủng viện di cư của Giáo phận Hà Nội) năm 1959, lên Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X năm 1967, thụ phong linh mục ngày 03/12/1975 tại nhà thờ Tân Hiệp. Sau đó, Cha phục vụ tại Giáo xứ Ngọc Thạch (từ 1976 – 1979), Chính xứ An Sơn (1979-2008) rồi về Tòa Giám mục Long Xuyên làm quản lý Giáo phận năm 2008 và qua đời ngày 01/09/2018. Cha ra đi an bình trong đêm khuya, bên cạnh những sổ sách giấy tờ của chức vụ quản lý Nhà Chung, đèn bàn và đèn phòng vẫn sáng, cửa chỉ khép hờ. Thánh Lễ An táng đã được cử hành vào lúc 15h chiều ngày thứ Ba 04/09/2018 tại nhà thờ Giáo xứ An Tôn, Kênh 1A, Cái Sắn.

Chuyện đời Gã Siêu Hoàng Đình Mai cũng có lắm giai thoại. Thời ở chủng viện Piô XII của giáo phận Hà Nội di cư tại số 223 Nguyễn Tri Phương, Sài Gòn, Gã là chuyên gia “mì gõ”. Nghe tiếng rao, Gã liền ra lan can, đứng trên lầu, ra hiệu cho người bán mì gõ, rồi thòng cả bộ đồ nghề và tiền xuống cho anh ta. Chỉ một lát, Gã thao tác như kéo gàu nước dưới giếng lên, xong là cả bọn có bữa tiệc nóng sốt trong đêm.

Sau này, lên Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X ở Đà Lạt cũng thế, Gã Siêu Hoàng Đình Mai thường ra phố Đà Lạt, cặp nách cái hộp bánh quy tròn bằng thiếc, nhẹ hều, màu đỏ. Đi ngang quán phở, Gã ghé vào, giao hộp bánh quy cho chủ quán, rồi nhận lại cái hộp màu đỏ ấy, nặng, bọc trong bịch ni-lông. Về phòng, Gã mời anh em đến ăn phở, bàn chuyện phiếm rôm rả. Cha giám luật đi ngang qua cứ tưởng các Thầy ăn bánh quy, uống trà!

Những chuyện nghịch ngợm, Gã không thua ai, nhưng bắt tay vào việc lại nghiêm túc chẳng ai bằng. Hồi đó, ở Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt nở rộ nhiều nhóm dịch thuật. Gã cũng lập thành nhóm sáng tác, lấy bút danh Tụy Hiền dành cho những chuyện ngoan ngùy, đứng đắn. Tác phẩm đầu tay của Gã là bút ký Hình Bóng Cũ, viết về người mẹ đã ra đi khi tác giả còn ấu thơ. Bút ký khiến độc giả xúc động đến ứa nước mắt. Gã còn là chủ biên tập san Lửa Hồng quy tụ một số cây bút trẻ là học sinh các trường trung học tại Đà Lạt cùng cộng tác, in ronéo xinh xắn trên giấy hồng, rất ấn tượng.

Sự ra đi của Gã để lại cho đời bao nuối tiếc. Đức Giáo hoàng Phanxicô khẳng định rằng, một trong những nét tiêu biểu của sự thánh thiện ngày nay là biết hài hước, nhìn đời cách hóm hỉnh, lạc quan: “Các thánh vui tươi và rất biết đùa. Mặc dù không xa rời thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Sống đời Kitô hữu là sống ‘hoan lạc trong Chúa Thánh Thần’ (Rm 14,17), vì tình bác ái nhất thiết sẽ đem lại niềm vui; hễ đã yêu thì bao giờ cũng vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu mến... hoa quả của tình bác ái là niềm vui”. (trích Tông huấn Tiếng Gọi Nên Thánh trong thế giới ngày nay, số 122).

Để tưởng nhớ một nhân tài - Lm PX. Hoàng Đình Mai, BBT lebaotinh.com sẽ tiếp tục đăng tải những câu chuyện phiếm của Gã Siêu trên mục Thư Giãn. Xin kính mời Quý Cha và Quý vị đón xem.

BBT lebaotinh.com
http://gpbanmethuot.com/van/chan-dung-ga-sieu-45929.html
-------------------------------

 

GãSiêu 98: CŨNG LÀ ĐỜN ÔNG

 

Có một cô gái vào hỏi ý kiến cha sơ về người yêu của mình. Cha sở khuyên cô : - Anh ta chỉ GãSiêu 98


Có một cô gái vào hỏi ý kiến cha sơ về người yêu của mình. Cha sở khuyên cô :
- Anh ta chỉ có cái mã bên ngoài, chứ còn tính tình thì nát bét. Nào rượu chè say xỉn, nào cờ bạc xì phé…
Thế nhưng cô gái nhất định không chịu nghe theo lời khuyên bảo vì anh chàng này giàu có. Cô mơ tới một cuộc sống nhung lụa với nhà lầu xe hơi, ti vi tủ lạnh…Và cô ta đã trả lời với cha sở :
- Ít là con phải nhìn thấy một cái gì bảo đảm đã chứ.
Hôn lễ của họ được cử hành một cách long trọng và dềnh dang với tiệc tùng linh đình. Nhưng chỉ ba tuần lễ sau, cô ta trở lại gặp cha sở với khuôn mặt sưng vù vì bị chồng đánh trong một cơn say.
Lúc đó Cha sở mới bảo :
- Bây giờ thì mắt con đã nhìn thấy cái gì bảo đảm rồi chứ ?
Trước khi bước vào cuộc sống lứa đôi, anh đờn ông cũng như chị đờn bà đều âm thầm đưa ra cho mình những tiêu chuẩn để chọn lấy một người bạn đời, nếu không tuyệt vời và hết ý, thì cũng phải trên mức trung bình một chút, để rồi cùng nhau dệt nên những giấc mộng vàng. Những tiêu chuẩn ấy thay đổi tuỳ nơi, tuỳ thời và cũng tuỳ người.
Chẳng hạn anh đờn ông, thấm nhiễm lời các cụ ta ngày xưa dạy bảo, thì nhất định phải chấm cái nết, bởi vì cái nết đánh chết cái đẹp. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều anh đờn ông lại nhắm mắt chạy theo cái đẹp, bởi vì cái đẹp đè bẹp cái nết. Và còn nhiều tiêu chuẩn ăn theo khác nữa.
Riêng đối với các chị đờn bà, vấn đề xem ra có vẻ nhiêu khê và phúc tạp hơn. Trong lúc ngồi “tán hươu tán vượn” với nhau, các chị thường nhỏ to về ba tiêu chuẩn: Một là đẹp trai, hai là tốt bụng và ba là lắm tiền. Thế nhưng, hiếm thấy một đối tượng nào hội đủ cả ba tiêu chuẩn này. Hay nói theo kiểu ngày nay là “ba trong một”, nghĩa là ba tiêu chuẩn trong một con người.
Nếu chịu khó nhìn xem và suy gẫm, hẳn bàn dân thiên hạ sẽ nghiệm ra những sự thật sau đây, tuy không trúng phóc một trăm phần trăm, thì ít ra cũng được bảy mươi hai phần dầu.
Này nhé, những người đờn ông tốt bụng, thì thường không được đẹp trai. Trong khi đó, những người đờn ông đẹp trai, thì thường lại không tốt bụng. Còn những người đờn ông vừa đẹp trai, lại vừa tốt bụng, thì thường bị người khác phỗng tay trên mất rồi, nghĩa là họ đã cưới vợ, đã lập gia đình, chẳng đợi tới lượt mình.
Tiếp đến, những người đờn ông không đẹp trai cho lắm, nhưng tốt bụng, thì thường không có nhiều tiền. Trong khi đó những người đờn ông không đẹp trai cho lắm, nhưng tốt bụng và có nhiều tiền, thì lại thường nghĩ rằng đờn bà con gái theo đuổi họ chỉ vì…tiền. Còn những người đờn ông đẹp trai, nhưng không có tiền, mà theo đuổi đờn bà con gái, thường chỉ là để…”đào mỏ”!
Sau cùng, những người đờn ông hơi bị đẹp trai, nhưng không mấy tốt bụng, thì lại nghĩ rằng đờn bà con gái không phải là phái đẹp. Trong khi đó, những người đờn ông hơi bị đẹp trai và tốt bụng, đồng thời cũng luôn nghĩ rằng đờn bà con gái chính là phái đẹp, thì lại thường là những kẻ nhát gan, dị ứng với phụ nữ và chẳng bao giờ dám bước cái bước đầu tiên đi vào con đường tình yêu.
Vì vậy, dẫu có đốt đèn đi giữa ban ngày thì cũng khó mà tìm thấy một người đàn ông phù hợp với những tiêu chuẩn và đáp ứng được những đòi hỏi của mình. Chuyện đơn giản, thế mà lại hoá ra phức tạp. Thôi đành phải chọn lấy một anh chồng được xếp vào hạng “thường thường bậc trung”, và tự an ủi lấy mình:
- Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.
Thế nhưng, nào đã hết đâu. Sau khi đã yên bề gia thất, anh chồng thường thường bậc trung này mới để lộ ra bộ mặt thật của mình. Và bộ mặt thật ấy ấy mới khó thương làm sao. Gã xin liệt kê mấy điểm chính, vốn thường làm cho anh chồng trở nên…xấu xí.
Điểm thứ nhất là óc gia trưởng và độc đoán
Anh chồng luôn cho ý kiến của mình là đúng, là phải, còn ý kiến của chị vợ là sai, là trái. Nhiều anh chồng đã lên tiếng khinh bỉ và coi thường chị vợ: Ôi giời, đàn bà con gái biết chi mà nói.Bao giờ anh chồng cũng lấy cái “lý đoán” của mình mà áp đảo và buộc chị vợ phải nhắm mắt vâng theo răm rắp, đúng với cốt cách “gia trưởng” ngày xưa: Phu xướng, phụ tùy. Chồng đã phán, thì vợ phải chấp hành nghiêm chỉnh.
Rồi những lời nói ngọt như đường cát mát như đường phèn của cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, mặc dù không có cánh, thế mà bỗng dưng bay đi đâu mất tiêu, chỉ còn đọng lại những lời chua chát và gắt gỏng.
Nếu rước kia: Anh anh, em em, thì bây giờ lại: Mày mày, tao tao…Thậm chí còn: Con mẹ mày, con mụ nọ, cái con chết bầm kia…Rồi anh chồng cũng sẵn sàng dành cho chị vợ tất cả những món cao lương mỹ vị, bằng những tiếng chửi bới cộc cằn, lôi cả bố mẹ, ông bà và tổ tiên không biết bao nhiêu đời ra mà riếc móc. Anh chồng cứ nghĩ rằng: Càng nói to, càng gắt gỏng thì chân lý và phần thắng sẽ thuộc về mình.
Trước kia anh chồng chiều chuộng nâng niu theo kiểu: Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Còn bây giờ thỉnh thoảng lại cho nồi niêu xoong chảo bay ra ngoài sân, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau.
Điểm thứ hai là những thói hư tật xấu
Đờn ông con trai hay sa đà vào những thói hư tật xấu, chẳng hạn như rượu chè, cờ bạc, trai gái…Thử tưởng tượng xem liệu có chị vợ nào chịu đựng nổi một anh chồng lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu, hay một anh chồng, mặc dù không đến độ sáng say, chiều xỉn và tối lăn quay, nhưng lại thích tổ chức ăn nhậu triền miên khói lửa: Nay thết đãi bạn bè ở nhà, mai mời khách khứa đi ăn tiệm, mốt làm đám giỗ linh đình để bà con họp mặt…
Đối với anh ta, cuộc đời chỉ có nghĩa với những tiệc nhậu. Tôi nhậu, vậy tôi hiện hữu. Còn nhậu là còn tất cả. Hết nhậu là hết mọi sự. Chẳng cần phải nghĩ đến việc tiết kiệm và phòng xa. Chẳng cần phải cảm thông với những cực nhọc của vợ con trong việc nấu nướng, cung phụng, hầu hạ và dọn dẹp.
Chuyện rằng: Mỗi buổi chiều đi làm về, chị vợ lo chợ búa, cơm nước, còn anh chồng thì đi đón con. Khổ nỗi giờ con tan học cũng là “giờ đẹp”, “giờ vàng” để bố đi nhậu. Vì thế, anh chồng thường để con nước mắt ngắn dài đứng chờ bố trước cổng trường. Con tan học lúc 4g30, nhờ cô giáo giữ hộ tới 5g30 vì anh còn phải tranh thủ chén thù chén tạc với bè bạn một lúc.
Điểm thứ ba là tật lười biếng
Nhìn vào nhiều gia đình, gã thấy có những ông chồng đã sống rặp theo khuôn mẫu của Tú Xương ngày xưa, nghĩa là :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Hay như ca dao cũng đã diễn tả:
- Bố tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Thảo nào mà các chị vợ vốn thường hay tâm sự:
-“Tôi suốt ngày ở chợ, công việc nhà cứ dồn ứ. Ông nhà ấy hả? Đố mà đụng tay. Có hôm 11 giờ đêm tôi vẫn còn phải cặm cụi lau nhà”.
- “Ông nhà tôi cũng có hơn gì đâu, nhà cửa bề bộn, kể cả khi thau đồ dơ chất cao tới nóc, ông cũng không thèm đụng tới. Vậy chứ có ai ới đi uống cà phê là ông lao đi ngay”.
Nếu có giúp được một tí, thì với bàn tay “hậu đậu” không hỏng trước, cũng sẽ hỏng sau, như câu chuyện vui được báo Phụ Nữ kể lại:
Ông bố kia tắm cho đứa con lên bốn. Xong việc, ông “kiêu hãnh”:
- Thấy chưa, bố hoàn toàn có thể tắm cho con đó, vậy mà mẹ con cứ chê.
Đứa con lý nhí:
- Nhưng bố ơi, lúc nào tắm cho con, mẹ cũng cởi giày ra rồi mới dội nước.
Và nếu ông bố khác biết cởi giày cho con, thì không chừng ông ta lại xát xà phòng trước khi dội nước. Đờn ông tệ quá vậy sao?
Cộng thêm vào đó là cái tật bừa bãi, bạ đâu quăng đấy, bởi vì cái trật tự của anh chồng chính là cái vô trật tự dưới mắt chị vợ. Thậm chí có anh chồng còn chân thành nguyện ước: Xin cho các bà xã đi vắng lâu lâu một chút, để bọn đờn ông không phải dọn dẹp, sắp xếp đồ đạc, nhà cửa và nhất là tối lên giường khỏi phải rửa chân. Thật là hết biết.
Sau cùng là tật quá bận rộn
Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ trên, đó là có những anh chồng đa đoan công việc, để rồi thường xuyên vắng mặt, không lo lắng gì cho người vợ và cũng chẳng chăm sóc gì đến đàn con. Thực vậy, có những anh chồng, khi đã đam mê một vấn đề gì đó, thì quên ăn quên ngủ, quên cả vợ lẫn con, đổ dồn mọi nỗ lực, mọi cố gắng vào vấn đề đó.
Chẳng hạn đam mê hoạt động chính trị, xông xáo hết chỗ này đến chỗ khác, ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà, cả đời lăn lóc với những hoài bão chưa một lần trở thành sự thực. Một là thường xuyên vắng nhà để hoạt động thế này, thế khác. Hai là lúc nào cũng bất mãn, phản đối, tuyên bố vung vít để rồi kết thúc bằng cách nằm dài trong nhà giam, nhà tù mà bóc lịch.
Chẳng hạn đam mê bắt mối “áp phe”, tìm tiền kiếm bạc. Đối với họ, tiền bạc là tất cả, có một thế lực vạn năng, nên suốt ngày suốt tháng, họ vội vã chạy đi kiếm tìm, nay mối này mai mối khác, không còn thời giờ nào để ngó ngàng đến vợ con, tỉ tê tâm sự và chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn đối với người vợ. Về đến nhà là hùng hục ăn. Ăn xong lại lăn ra ngủ để lấy sức cho ngày mai còn mánh mung.
Những anh chồng này đã có một quan niệm sai lạc về chị vợ. Đối với họ, chị vợ chỉ là kẻ đầy tớ, con ở hay như một dụng cụ trong gia đình. Chị vợ chỉ là kẻ làm đồ nhậu để đãi bè bạn, một chiếc máy để thỏa mãn những nhu cầu sinh lý hay sản xuất ra những “tí nhau”. Họ không bao giờ nghĩ rằng: Chị vợ chính là người phụ tá, người cộng tác đắc lực, người bạn đường cùng đi với mình suốt dọc cuộc sống.
Hơn thế nữa, nơi người phụ nữ, con tim chiếm một địa vị quan trọng và chi phối toàn bộ cuộc đời của họ. Bởi vậy, họ thích được để ý, được nâng niu và chiều chuộng. Đem về cho chị vợ tiền bạc mà thôi chưa đủ, mà còn phải đem về cho họ một tình yêu thương chân thành và đậm đà.
Nếu cứ kể tội đờn ông, thì nói mãi nói hoài cũng chẳng hết. Đứng trước những điểm làm cho khuôn mặt anh chồng ra xấu xí, nhiều chị vợ đã phát biểu:
- Thà bỏ quách đi cho nhẹ nợ.
Thế nhưng, nói vậy mà không phải vậy đâu. Theo tác giả Trần Triều trên báo Phụ Nữ: Số người than phiền thì nhiều, nhưng số người “dám bỏ quách đi” thì lại rất ít. Thậm chí, miệng cứ bảo rằng “bỏ”, nhưng lỡ có ai mon men lại gần, thì liền nhảy dựng lên ngay:
- Củi mục mà để trong rương,
Ai mà rớ tới, trầm hương của bà!
Vì vậy, phương thế vừa hợp tình lại hợp lý nhất, đó chính là học cách “sống chung với lũ”. Muốn sống chung với lũ, thì chị vợ cần phải cố gắng nhìn vào những điểm tốt của anh chồng. Lúc bấy giờ, cuộc đời sẽ nhẹ nhõm và tươi vui hơn nhiều.
Nếu anh chồng mà lúc nào cũng canh xem nhà có vết bẩn để lau, nắm rõ nhà còn bao nhiêu ký gạo, đo lọ muối, đếm củ hành củ tỏi…thì e rằng chị vợ lại càng khó mà sống.
Biết đâu, những thói xấu đó đã làm nên một người đờn ông đầy nam tính. Chẳng thế mà từ xưa ông bà mình đã “bênh” cánh đờn ông:
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà,
Dẫu rằng vụng dại cũng là đờn ông.
Để “túm” lại, gã xin mượn đỡ mấy vần thơ, do một anh bạn sưu tầm được và đã gửi cho gã.

Thơ của Tú Xương:
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được thứ nào hay thứ ấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.

Hoạ lại của Tú Thịt:
Cái nhà, cái cửa, cái ông chồng,
Ba cái lôi thôi thật mất công.
Nếu phải bỏ gì trong mấy thứ,
Bỏ nhà, bỏ cửa, giữ ông chồng.

Vì vậy, một tác giả Khuyết Danh mới có thơ rằng:
THẾ GIỚI THIẾU ĐÀN ÔNG
Nếu thế giới này thiếu các ông,
Khác chi vườn cảnh thiếu lao công.
Một màu ảm đạm thê lương sẽ,
Biến khắp mọi nơi cảnh vắng không.

Nếu thế giới này thiếu các ông,
Đêm nằm bà phải quấn chăn bông.
Chăn bông dù ấm không bằng được,
Nằm sát kề bên nách của chồng.

Nếu thế giới này thiếu các ông,
Ra công trang điểm để ai trông?
Đầu bù tóc rối ai chê trách?
Có điểm trang thì cũng uổng công.

Nếu thế giới này thiếu các ông,
Đi làm về trễ chẳng ai mong.
Chẳng ai tựa cửa mà trông ngóng,
Thui thủi nghe sao lạnh cõi lòng….

Nếu thế giới này thiếu các ông,
Lấy ai phục vụ chẳng đòi công?
Lấy ai sai bảo như đầy tớ?
Chẳng có ai hơn được quý ông.

Nếu thế giới này thiếu các ông,
Nơi đâu bà trút hết cơn khùng?
Nơi đâu hứng hết cơn hờn giận?
Chịu đựng bao lời nói tứ tung.

Nếu thế giới này thiếu các ông,
Quý bà mắn đẻ cũng như không.
Loài người tuyệt chủng đâu còn nữa,
Nói phét cho vui có phải không?

Thế thì bà cũng như ông, đều cần đến nhau, đều phải tựa vào nhau, để cùng xây dựng một cuộc đời chung. Đó phải chăng chính là quy luật của muôn đời.

-------------------------------

 

GãSiêu 99: NÓI MÓC


Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Hồi còn bé, gã đa cảm thấy say mê và thích thú khi đọc câu chuyện, cung nhu khi xem cuốn phim GãSiêu 99


Hồi còn bé, gã đa cảm thấy say mê và thích thú khi đọc câu chuyện, cung nhu khi xem cuốn phim về Đavít và Goliát. Theo Kinh thánh, lúc bấy giờ nguời Do Thái và quân Philitinh đang dàn trận đánh nhau. Bên quân Philitinh có Goliát, là một tên khổng lồ. Hắn cao ba thuớc, đầu đội mu chiến bằng đồng, mình mặc áo giáp vảy cá và nặng năm muoi ký. Chân mang tấm che bằng đồng, vai đeo cây lao cung bằng đồng. Cán giáo của hắn nhu trục khung cửi thợ dệt, còn mui giáo của hắn đuợc làm bằng sắt và nặng sáu ký. Trong khi đó, Đa vít chỉ là một cậu bé chăn chiên, trong túi có mấy hòn đá cuội nhặt đuợc ở duới suối, còn tay thì chỉ cầm một sợi dây bắn đá.

Sáng nào cung thế, Goliát đều đến truớc doanh trại của nguời Do Thái mà khích bác:

- Sao chúng bay không xông ra trận? Hãy chọn lấy một nguời và nó hãy xuống đây với ta. Nếu nó đủ sức mạnh để chiến đấu với ta và hạ đuợc ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ cho chúng bay. Còn nếu ta mạnh hon nó và hạ đuợc nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ và hầu hạ chúng tao.

Vua Saun và toàn thể dân Israel nghe những lời ấy, thì kinh khiếp và sợ hãi lắm. Thế nhung, Đavít liền nói với nhà vua:

- Xin đừng ai ngã lòng vì hắn ta. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Philitinh ấy.

Đồng thời, Đavít đa trấn an nhà vua:

- Tôi tớ ngài là nguời chăn chiên chăn dê cho cha. Khi su tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con đuổi theo nó, đánh nó và giật con vật khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó và đánh cho nó chết. Tôi tớ ngài đã đánh cả su tử lẫn gấu, thì tên Philitinh không cắt bì này cung sẽ là nhu một trong các con vật đó, vì nó đa thách thức các hàng ngu của Thiên Chúa hằng sống…

Nhà vua liền nói với Đa vít:

- Con hãy đi và xin Đức Chúa ở với con.

Khi nhìn thấy Đavít, tên Philitinh liền tỏ vẻ khinh dể và đã nói với cậu:

- Tao là chó hay sao mà mày cầm gậy đến với tao…Tới đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú.

Đavít bảo tên Philitinh rằng:

- Mày mang guom, mang giáo, cầu lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngu Israel mà mày thách thức. Ngay hôm nay, Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay, tao sẽ đem xác chết của quân đội Philitinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Israel…

Khi tên Philitinh bắt đầu xông lên và đến gần để đuong đầu với Đavít, thì Đavít vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đuong đầu với tên Philitinh. Đavít thọc tay vào bị, lấy từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Philitinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến hắn ngã sấp mặt xuống đất. Thế là Đavít đã chiến thắng tên Philitinh chỉ nhờ một dây phóng và một viên đá cuội. Nhung vì trong tay không có guom, Đavít bèn chạy đến, đứng trên xác của tên Philitinh, lấy guom của hắn, rút khỏi bao, kết liễu đời hắn và dùng guom chặt đầu hắn.

Theo truyện “Tam quốc chí diễn nghia” do Tử Vi Lang dịch, thì vào cuối đời nhà Hán, Trung Hoa lục địa bị chia thành ba nuớc, làm nên cái thế chân vạc, đó là nuớc Thục ở phía tây do Luu Bị cai quản, nuớc Ngô ở phía đông do Tôn Quyền cầm đầu và nuớc Nguỵ ở phía bắc do Tào Tháo thống lãnh. Chiến tranh và loạn lạc xảy ra trong khắp cả thiên hạ. Tuy nhiên, có điều gã cung nhận thấy đó là truớc mỗi cuộc giao tranh, bên này thuờng khích bác bên kia, còn bên kia thì lại thuờng chửi bới bên này một cách thậm tệ. Giống nhu một luợng dầu đuợc đổ thêm vào lửa, làm cho ngọn lửa bùng cháy lên, thì những lời khích bác và chửi bới ấy cung đa làm cho binh lính của cả đôi bên hăng tiết vịt. Và thế là họ liền hùng hổ xông ra chiến trận, hăng say chém giết lẫn nhau.

Từ những sự việc kể trên gã đi vào đề tài của mục chuyện phiếm hôm nay bàn về “nghệ thuật nói móc”. Hẳn rằng mọi nguời đều biết ngôn ngữ và tiếng nói là một thứ quà tặng, đuợc Thuợng Đế uu ái trao ban cho con nguời, để họ dùng làm phuong tiện mà liên hệ với nhau. Vì thế, chúng ta có thể xác quyết một cách mạnh mẽ: Nguời là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.

Di nhiên, gã không phủ nhận noi con vật cung có một thứ ngôn ngữ, một thứ tiếng nói nào đó để diễn tả những uớc muốn của chúng, nhung dầu sao thì thứ ngôn ngữ và tiếng nói ấy, cứ tạm gọi là nhu thế, vẫn còn ở trong tình trạng ấu tri và đon giản. Chỉ có ngôn ngữ và tiếng nói noi con nguời mới thực sự liên tục phát triển và tiến tới một đẳng cấp, một trình độ nghệ thuật mà thôi.

Thế nhung, tuỳ theo phuong thức sử dụng, ngôn ngữ và tiếng nói có thể mang lấy tính cách xây dựng hay phá đổ. Thực vậy, có những lời nói chân thành, những lời nói an ủi và khích lệ đã tạo đuợc một bầu khí hoà thuận, đã bắc đuợc một nhịp cầu cảm thông, làm cho con nguời hiểu nhau, nhờ đó mà xích lại gần nhau hon. Nhung đồng thời cung có những lời nói độc địa và cay đắng, những lời nói bỏ vạ và cáo gian, đa làm cho nguời khác bị thân bại danh liệt, khoi rộng thêm mối hận thù, vốn di đã từng âm ỉ trong cõi lòng của con nguời.

Và theo thiển ý của gã, thì một trong những loại ngôn ngữ mang lại hậu quả tàn phá, đó là nói móc. Thực vậy, mở bất kỳ một cuốn tự điển Việt Nam ra đễ tra cứu, gã đều thấy phạm trù “nói” của nguời Việt Nam thật là phong phú. Chẳng hạn trong cuốn “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức, gã đếm đuợc cả thảy hon sáu trăm chữ đuợc ghép với chữ “nói”, từ “nói ấm ớ” đến “nói xiên nói xéo”…Quả là tuyệt vời! Vậy thế nào là nói móc? Tuỳ theo mức độ “đậm đặc” và ý đồ đen tối của nguời nói, gã ghi nhận đuợc nhiều cấp bậc nói móc khác nhau:

Đầu tiên là nói bóng nói gió, tức là nói một cách xa xôi để nguời ta hiểu ngầm, thuờng là với những lời hai ý. Tiếp đến là nói mát, tức là mỉa mai nguời ta một cách nhẹ nhàng cho thoả mãn nỗi tức giận của mình. Ai có tật thì giật mình.

Sau khi đa xoi qua những món khai vị, thì bây giờ mới tới món chính, gồm có: Nói kháy là nói với giọng điệu khiêu khích; nói móc là cố ý chọc tức, nói thế nào khiến cho nguời ta phải bực bội. Cung trong phạm vi này, còn có nói xỏ, nói xóc, nghia là chọc cho nguời ta tức, nói cho nguời ta giận. Sau cùng, theo ngôn ngữ của nguời Hà Nội hôm nay, còn có nói đểu, nghia là nói với đầy ác ý cốt để cho nguời khác phải tức giận đa đanh, mà còn bồi thêm một cú mỉa mai và khinh bỉ.

Theo một vài nhà “ngâm kíu”, thì nói móc là một thứ đặc sản của dân ta. Nó không phải chỉ là “tuyệt chiêu” của các bà các cô, mà nhiều lúc còn trở thành “độc chiêu” của giới mày râu nữa.

Thí dụ: Ta chẳng ua gì một ông hàng xóm, nhung lại không dám nói thẳng ra, và thế là ta bèn nói kháy, nói móc, khiến cho ông bạn tức nhu bị bò đá mà vẫn cứ phải nín khe. Ông bạn càng bực, càng tức, thì ta lại càng hả hê, khoái cái miệng và suớng cả cõi lòng.

Thí dụ: Một đứa bé học trò nghịch ngợm trong lớp, bị ông thầy đánh cho ba roi. Trong khi ông thầy quất cái roi xuống, đứa bé theo phản xạ tự nhiên bèn đua tay ra đỡ. Chẳng may cái roi dụng phải cái móng tay đứa bé và làm cho nó chảy máu. Đứa bé nuớc mắt lung tròng chạy về nhà kể lể và tả oán với bố nó. Ông bố cáu tiết bèn làm một màn nói móc và chửi đổng. Ông ta vừa chạy dọc theo con đuờng duy nhất trong làng, vừa quát tháo ầm i :

- Tiên su bố nó! Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con nguời ta nhu thế kia à. Tiên su bố nó!

Thậm chí ngay cả quí vị con nít cung học đoi bắt chuớc nguời lớn mà nói móc, nói kháy. Thí dụ: Tí đến nhà Tèo choi. Vì đang học đan, nên Tèo hí hửng lấy cây guitar và gẩy biểu diễn mấy bài liền, sau đó quay sang hỏi Tí:

- Bạn thấy bài nào hợp với mình nhất?

Suy nghi một lát, Tí lắc đầu và nói:

- Trong số những bài này, thì mình không biết, nhung mình biết có một bài rất hợp với bạn.

Tèo mừng húm:

- Bài nào vậy?

Tí tỏ vẻ bí mật, nói nhỏ vào tai Tèo:

- Bài “Đập vỡ cây đan”.

Nói xong, Tí ôm bụng cuời ngặt nghẹo, còn Tèo thì bực tức, muốn cho thằng bạn xỏ lá xoi mấy cú đấm vào mặt.

Nhu trên gã đa bảo: nói móc là một trong những cách thức mau chóng phá đổ tình nghia trong lãnh vực đời thuờng cung nhu trong phạm vi cuộc sống gia đình. Nhất là khi nguời ta lại móc quá sâu và quá đậm thì thuờng để lại những hậu quả thảm khốc, khó mà luờng nổi. Gã xin muợn đỡ một vài kinh nghiệm của tác giả Trần Triều trong bài “Bệnh kháy” đuợc đăng tải trên báo “Phụ Nữ Thứ Ba” số ra ngày 18.8.2009.

Truớc hết là trong lãnh vực đời thuờng

Một tốp thanh niên đang ngồi uống bia trong quán, thì một tốp khác cung vào và ngồi ở bàn bên cạnh. Tốp này nói với tốp kia:

- Chúng mày muốn uống bia thì phải gọi chúng tao bằng ông nội, không thì ăn đon.

Một tên tốp kia hùng hổ tiến tới, nhung bất ngờ bị ngáng chân té lăn cù trên đất, khiến cho tốp này đều cuời ồ lên. Thế là cả tốp kia đều rút lui có trật tự, nhung chỉ một lát sau liền trở lại quán với dao phay và mã tấu. Hỗn chiến xảy ra, khiến một em chết liền tại chỗ!!!

Tiếp đến là trong phạm vi cuộc sống gia đình

Hai vợ chồng đang ngồi xem phim với nhau, đến đoạn nhân vật nam ngoại tình, chị vợ bèn phán:

- Cái thứ đan ông mèo mả gà đồng, trăng hoa cho lắm. Một vợ thì nằm giuờng lèo, hai vợ thì nằm chèo queo, ba vợ thì ra chuồng heo mà nằm.

Anh chồng nóng mặt vì anh thừa biết chị muợn nhân vật trong phim để “xoáy, nghiền, bóp” cái vết thuong cu của mình. Một năm truớc, anh đi theo công trình xây dựng xuống Kiên Giang, và ở đây anh đã léng phéng chút đỉnh với cô bán cà phê, nhung đa giải quyết dứt điểm. Chuyện tuy đa qua, nhung hễ có dịp là chị vợ lại “móc” cho một phát. Phim đến đoạn nhân vật nữ nổi con ghen, anh liền “tung đòn”:

- Cái thứ đan bà mà ghen quá đáng nhu vậy, có ngày mất chồng luôn mà không hay. Thằng đan ông đã bực lên rồi thì bỏ hết, bất chấp tất cả.

Từ chỗ đang cùng ngồi coi phim một cách đầm ấm, bỗng chốc cả hai vợ chồng quay ra hầm hè, cố tìm ra những từ, những cách nói khiến “đối phuong” càng đau, thì mình càng “đa”. Từ chỗ mình mình, em em, bỗng chốc biến thành cái thứ này, cái thứ nọ…

Chuyện chua kết thúc. Bực mình chị vùng vằng bỏ vào buồng, nhung không quên quăng lại một câu:

- Coi cái phim này, khối thằng đan ông sáng mắt ra, bồ bịch lăng nhăng thì cứ chuồng heo mà nằm.

Anh nổi điên:

- Nằm chuồng heo còn hon nằm với con đan bà điêu ngoa. Thật hết chịu nổi.

Chỉ vì mấy câu nói móc mà vợ chồng đang sống chung hoà bình, bỗng chuyển biến thành chiến tranh!

Một truờng hợp tuong tự khác. Anh tay trắng từ miệt vuờn lên Saigon lập nghiệp, cuới đuợc chị là con gái một gia đình khá giả. Thế nhung, mẹ ruột anh lại có tính hay “bòn”, mỗi lần lên thăm anh, đều xin một vài món lặt vặt trong nhà, mà bà cho rằng các con “thừa”, không dùng đến. Chị thì chỉ “bằng mặt chứ không bằng lòng”. Còn anh thì lại chẳng quan tân đến mấy chuyện vặt vãnh đó. Vấn đề là sau mỗi lần mẹ chồng ra về, chị lại móc:

- Tôi ghét nhất là mấy nguời đến đâu cung góp góp nhặt nhặt. Đồ của nguời ta mà cứ nghi là không dùng đến, rồi năn nỉ ỉ ôi.

Anh nghe mà nổi nóng, vì có cảm giác mẹ mình bị xúc phạm:

- Cô muốn gì, thì cứ nói thẳng ra, chứ đừng bóng gió nhu thế.

Chị trêu nguoi:

- Tôi nói vu vo vậy

đó. Ai có tật thì giật mình chớ.
Anh lại càng tức điên lên, nhung nếu mắng mỏ thì xoàng quá, phải móc lại mới đuợc. Anh nhẹ nhàng bảo:

- Ừ, họ gom hết đồ của con trai về xài, còn hon cái ngữ lén chồng, gom của nhà mình đua về nhà mẹ. Mà nhà mẹ có khó khăn gì đâu, rặt một lu luời lao động, chảy thây ra đó.

Đến luợt chị tức anh ách, nhung đanh phải nín thinh bỏ đi một mạch, bởi vì anh biết chị lén “tiếp tế” cho nhà ngoại từ lâu, nhung làm thinh, vì nghi chuyện cung chẳng đáng gì. Nhung khi bị vợ “nói đểu”, anh đã không dằn lòng đuợc.

Một lần khác, anh tỏ ra hào hiệp cho nguời bạn thân vay tiền mua xe. Biết có “xin”, thì chị cung chẳng “cho”, nên anh “tiền trảm hậu tấu”. Sau khi nghe anh “tấu”, thì điều thật lạ lùng, đó là chị không nổi giận mà lại tỏ ra dửng dung, khinh khỉnh. Biết mình có lỗi, anh bấm bụng cho qua, coi nhu “kết thúc vụ án”. Vậy mà một lần chị bâng quo nói với con:

- Con cố gắng lớn lên biết mở mắt ra một chút, chứ đừng có khôn nhà dại chợ nhé con.

Chỉ nghe câu nói đó, anh đa hất chiếc tivi bể tan, đập bẹp thêm chiếc quạt máy, rồi hầm hầm bỏ đi.

Kinh nghiệm cho thấy: Khi mâu thuẫn xảy ra, thà rằng hét toáng lên cho hả giận, hoá ra lại hay hon là nhẹ nhàng “sửa lung” nhau”, bởi vì việc cãi vã to tiếng sẽ sớm đi vào lãng quên, còn nói móc hay nói kháy lại gây nên những vết thuong lòng âm ỉ và dai dẳng. Những cặp vợ chồng xung đột trực tiếp, xem ra lại ở bền với nhau hon những cặp choi trò nói móc và nói kháy. Nhiều khi cái “bệnh móc” này thấm sâu vào lục phủ ngu tạng, đến nỗi một chuyện nhỏ cung trở thành chuyện lớn. Chẳng hạn, anh chồng húp bát canh thấy mặn, thay vì nói thẳng, thì lại nói bóng nói gió:

- Canh hôm nay nhạt nhỉ?

Chị vợ bực vì bị chồng “nói đểu”, tức vì đa là vợ chồng với nhau nhung lại không trao đổi thật lòng. Chuyện nhỏ mà bị móc sẽ hoá thành chuyện lớn. Và chuyện lớn mà bị móc thêm, sẽ dễ nổ tung nhu trái lựu đạn.

Một anh chồng đa tâm sự nhu sau: Hồi mới cuới, chúng tôi cung đa từng cạnh khoé với nhau dữ lắm. Tôi quyết tâm sửa là vì sau mỗi lần nói móc, dù đạt đuợc mục đích tức thời là làm cho vợ tức điên lên, nhung sau đó ngẫm lại, thấy bản thân mình cứ hèn hèn sao ấy… Nguợc lại, vợ bóng bóng gió gió, tôi cung tức điên lên và ghét cay ghét đắng cái tật ấy. Từ đó, mỗi lần vợ mở miệng ra định móc, tôi liền cuong quyết:

- Muốn nói gì thì nói thẳng, hoặc đừng nói gì cả.

Dần dần thói quen nói thẳng và nói thật đuợc hình thành. Ngồi vào bàn ăn thấy thiếu tuong ớt thì nói thẳng:

- Em oi, còn thiếu tuong ớt.

Chứ hồi còn mắc bệnh “móc”, thế nào tôi cung nói:

- Hình nhu độ này em chăm làm đẹp quá, sợ mặt nổi mụn nên kiêng ăn tuong ớt đó à?

Tóm lại, các cụ ta ngày xua đã bảo: Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Hay nhu một câu danh ngôn cung đa khuyên nhủ: Hãy ngoáy luỡi bảy lần truớc khi nói, để mỗi lời chúng ta nói ra sẽ là một góp phần vào việc tạo nên một bầu khí hoà thuận và bắc đuợc một nhịp cầu cảm thông:

- Lời nói chẳng mất tiền mua,

Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.

-------------------------------

 

GãSiêu 100: SAU LƯNG ANH ĐỜN ÔNG

 

Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có truyện rằng : Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc quan, có GãSiêu 100



Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có truyện rằng :

Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc quan, có tên đánh xe theo hầu.
Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cái dù, tay cầm dây cương, mặt vác lên trời, dương dương tự đắc.
Lúc chồng về nhà, nàng xin từ bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi :
– Tại làm sao ?
Nàng nói :
– Án Tử người gầy thấp và bé nhỏ, nhưng làm đến tướng nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông ấy vẫn có ý chín chắn và khiêm nhường, như chưa bằng ai. Chớ như chàng cao lớn đẫy đà, mới chỉ làm được một tên đánh xe tầm thường và hèn hạ, thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh hạnh, tưởng không ai bằng. Thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi.
Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chừa được cái tính nông nổi. Án Tử thấy thế, lấy làm lạ, bèn hỏi. Tên đánh xe bèn đem việc nhà mà kể lại. Án Tử bèn cất cho làm đại phu.
Qua câu chuyện trên, gã bèn nhớ tới một câu nói, được xếp vào hàng “ranh ngôn”, như sau :
– Mặc dù vợ không có công sinh ta ra, nhưng lại có công nuôi dưỡng và dạy dỗ ta nên người.
Câu ranh ngôn này, được một tác giả nào đó ngẫu hứng làm thành một bài thơ với tựa đề là “Sợ Vợ” :
– Dù không sinh đẻ ra ta,
Nhưng công nuôi dưỡng thật là lớn lao.
Khi ta đau ốm xanh xao,
Vợ lo chăm sóc hồng hào khỏe ngay.
Sợ ta đi trật đường rầy,
Vợ liền theo dõi, kéo ngay về nhà.
Khi ta tán tỉnh ba hoa,
Vợ liền “quát nạt”, để mà răn đe.
Vợ mà dạy, phải lắng nghe,
Mai sau “khôn lớn”, mà khoe mọi người.
Nói ra xin hãy chớ cười,
Vợ ta, ta sợ! Vợ người…còn lâu!
Câu ranh ngôn này còn được chứng thực bằng những kinh nghiệp đời thường.
Bên cạnh nhà gã có một anh chàng mới lớn, tính tình rất ngang bướng, lại thích làm đại ca, nên hễ có chỗ nào đánh nhau, hắn liền vác búa, vác dao tới tham dự, cho dù chỉ là đánh hôi, đánh chùa…Vì thế, hắn được coi là một đại họa cho bà con lối xóm.
Trong một lần “đánh hội đồng”, phe hắn gây thương tích hơi bị nặng cho một anh chàng ở làng khác. Đàn em bỏ chay, hắn đứng ra chịu tội, nên được ưu ái mời vô nhà tù mấy năm.
Trong trại cải tạo, hắn được tôn làm đại bàng vì thái độ ngông nghênh coi trời bằng vung. Hết thời gian ngồi bóc lịch, hắn trở về quê cũ. Chẳng hiểu ông già bà già hắn tỉ tê, dỗ ngon dỗ ngọt thế nào, mà bỗng dưng hắn bằng lòng đi lấy vợ.
Và cũng kể từ khi có bà xã kè kè bên cạnh, hắn như người được lột xác, được thuần hóa, trở nên hiền hòa, chí thú làm ăn, dễ thương và dễ mến, khiến bàn dân thiên hạ phải tấm tắc ngợi khen.
Thành thử, mỗi khi có người cha hay người mẹ nào than phiền về đứa con ngỗ nghịch của mình, các cụ trong dân đều góp ý :
– Cứ bắt cái vợ cho nó là xong ngay. Chỉ mình vợ nó mới trị được nó mà thôi.
Sự dạy dỗ của chị vợ tuy âm thầm mà lại kết quả, tuy êm dịu mà lại thành công, đúng với kế sách :
– Mưa dầm, thấm đất.
– Mật ngọt chết ruồi.
Hay như bàn dân thiên hạ thường nói :
– Người ta bắt được nhiều ruồi bằng một giọt mật, còn hơn bằng cả một thùng dấm chua!
Cũng vì thế, mà gã mới nghiệm ra rằng :
– Sau lưng anh đờn ông đức độ, đều có bóng dáng một chị đờn bà.
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” cũng có truyện rằng :
Đời nhà Đường, giặc Lý Hy Liệt đã đánh được Châu Biện, kéo đến đánh huyện Hạng Thành. Quan huyện Hạng Thành là Lý Khản, muốn chạy trốn. Bà huyện, người họ Dương, bèn nói :
– Giặc đến cướp thành thì phải hết sức giữ thành. Giữ mà không được, thì phải liều chết với thành. Nay ông lại chực chạy trốn, nghĩa là làm sao ? Bây giờ cứ mộ quân cho nhiều, khao thưởng cho to, thiết tưởng còn có thể giữ được thành.
Nói rồi, chính bà huyện hội họp cả nha lệ, sĩ dân lại mà hiểu dụ rằng :
– Quan huyện là chủ của các ngươi thật đấy, song chẳng qua chỉ ở đây độ dăm ba năm, rồi cũng thiên đi nơi khác, không liên can lắm bằng cách ngươi sinh trưởng ở đất này, gây dựng cơ nghiệp ở đất này, mồ mả cha ông ở đất này. Vậy sống chết, các ngươi cũng phải hết sức mà giữ lấy thành thì mới được.
Ai nấy nghe đều cảm động, rơm rớm nước mắt và đoan xin liều chết để cố giữ thành. Bà huyện hạ lệnh rằng :
– Ai lấy gạch đá đánh được giặc, thưởng tiền một nghìn. Ai lấy gươm giáo giết được giặc, thưởng tiền một muôn.
Tất cả được hơn một trăm người kéo nhau ra giữ thành, chống lại với giặc. Bà huyện thân đi trông nom lương thực cho quân lính. Khi giao chiến, quan huyện trúng phải một mũi tên lui về, ý không muốn đánh nữa. Bà huyện giận mà nói :
– Ông không ở đây, thì ai chịu liều chết ? Cho dù ông giữ thành mà chết, lại chẳng hơn là chết ở xó giường ư ?
Ông huyện nghe cảm kích, hăng hái hơn trước, lại chạy lên thành, liều đánh một trận nữa. Quân giặc túng thế phải kéo đi. Huyện Hạng Thành nhờ vậy mà được an toàn.
Câu truyện trên thật đúng với kinh nghiệm của các cụ ta ngày xưa :
– Gái ngoan làm quan cho chồng.
Trong công việc làm ăn, không phải lúc nào anh chồng cũng gặp được cảnh thuận buồm xuôi gió, trái lại nhiều lúc đã phải cắn răng chịu đựng những cảnh xất bất xang bang, cũng như những thất bại ê chề.
Vì vậy, anh chồng rất cần đến sự góp ý của chị vợ, để đánh giá đúng mức tình hình, có được một cái nhìn sáng suốt và đưa ra những giải pháp vừa hợp tình lại vừa hợp lý, bởi vì :
– Hai cái đầu bao giờ cũng hơn một cái đầu.
Hay như ca dao cũng bảo :
– Chồng khôn vợ được đi hài,
Vợ khôn chồng được nhiều bài cậy trông,
Hơn thế nữa, trong những lúc thất vọng nản chí, anh chồng rất cần đến những lời an ủi và khích lệ của chị vợ, để lấy lại sự bình tĩnh và can đảm.
Và nếu như cả hai vợ chồng đều cộng tác với nhau, thì quả thật là trên cả tuyệt vời :
– Chồng như đó, vợ như hom.
– Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Với sự cộng tác như vậy, gã thầm nghĩ : Khó khăn nào cũng có thể vượt qua, thử thách nào cũng có thể giải quyết. Hay như tục ngữ đã nói :
– Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn.
Sau đây gã xin đưa ra hai thí dụ chứng thực cho kinh nghiệm gã vừa mới trình bày.
Đầu tiên là trường hợp của cặp vợ chồng bác học, ông bà Curie.
Ông đã phải ba năm đeo đuổi mới đạt được mục tiêu. Bí quyết của họ là yêu thương nhau trong sự cộng tác. Về tài năng, có thể nói ông tám lạng thì bà cũng nửa cân, nhưng cả hai đều biết tôn kính và nể trọng nhau. Cùng học và cùng làm việc trong phòng thí nghiệm. Bằng chứng là ghế giáo sư vật lý tại đại học đã được dành cho bà, là người phụ nữ đầu tiên, thế chỗ cho ông sau khi ông mất.
Lúc nhận chức, bà chỉ khiêm tốn nói :
-Tôi thử cố gắng dạy.
Và quả nhiên, bà đã thành công không kém gì ông.
Tiếp đến là trường hợp của bà Nixon.
Sự nghiệp của ông tổng thống nước Mỹ này phần lớn là do bà vợ. Bà luôn ở bên ông trong mọi việc và trong mọi lúc để chia sẻ những cực nhọc thuở hàn vi, cũng như phụ giúp đắc lực cho ông trong việc tranh cử, soạn diễn văn, tiếp đón quan khác. Bà là người đầu tiên xứng đáng để cho ông giới thiệu với các ký giả lúc tuyên thệ nhận chức tổng thống.
Thảo nào mà các vị quan lớn, mỗi khi đi đâu cũng kéo theo cái “rờ mọc” là bà xã của mình, để tạo nên mình hình ảnh hài hòa và đẹp đẽ trước mặt bàn dân thiên hạ.
– Chồng sang vợ được đi giày,
Vợ sang chồng được nhiều ngày cậy trông.
Ngay cả Clinton, tổng thống của nước Mỹ, mặc dù đang bị báo chí làm rùm beng vì chuyện lẹo tẹo tình cảm với cô tập sinh Monica, còn Hilary, mặc dù đang giận thâm gan tím ruột vì chuyện ăn…phở của đức ông chồng, thế mà cả hai người vẫn cứ đàng hoàng khoác tay nhau trong những chuyến công du, như chẳng hề có những ngọn sóng ngầm trào dâng trong cõi lòng.
Từ những sự việc cụ thể kể trên, một lần nữa gã lại nghiệm ra rằng :
– Sau lưng anh đờn ông thành công, đều có bóng dáng một chị đờn bà.
Tuy nhiên, như một đồng tiền có hai mặt : mặt phải và mặt trái, đã nói đi thì cũng phải nói lại. Nếu sau lưng anh đờn ông đức độ và thành công, đều có bóng dáng một chị đờn bà, thì sau lưng anh đờn ông bị thất bại te tua, cũng đều có bóng dáng một chị đờn bà.
Chắc hẳn tận đáy lòng, chị vợ nào mà lại chẳng muốn cho anh chồng của mình gặt hái được những thành quả tốt đẹp trên bước đường công danh và sự nghiệp, thế nhưng lắm khi chỉ vì những lời nói và những thái độ của mình, một cách hữu ý hay vô tình, đã tích cực góp phần đẩy anh chồng của mình vào một tình trạng thê thảm.
Dĩ nhiên là có rất nhiều cách hại chồng, nhưng trong phạm vi bài viết này, gã chỉ xin trình bày một “độc chiêu” mà thôi. Đó là có những chị vợ đã vô tình “chặt chân tay của chồng”, bằng cách làm cho chồng mất hết bạn bè, cũng như mất hết người cộng tác trong công việc giao dịch và làm ăn.
Đối với anh chồng, bạn bè cùng phái là một nhu cầu rất cần thiết cho cuộc sống, như tục ngữ đã xác quyết :
– Giàu vì bạn, sang vì vợ.
Có những anh chồng còn mạnh dạn tuyên bố :
– Nhiều chuyện tớ chỉ dám nói với bè bạn, chứ không thể nào nói với bà xã được.
Dĩ nhiên, có những người bạn mà vừa nhìn mặt, chị vợ đã thấy ghét, chẳng hạn như bạn ăn nhậu, bạn cờ bạc…Đó là điều rất bình thường và chính đáng, vì chị vợ không muốn anh chồng sa đà vào những chốn chơi bời, đề rồi trở thành hư thân mất nết lúc nào cũng không hay.
Thế nhưng, có những chị vợ muốn chiếm giữ độc quyền anh chồng bên mình. Hết giờ làm việc là phải trở về nhà với vợ con, không được cà kê dê ngỗng chỗ ở này hay chỗ khác, với anh nọ và anh kia. Thậm chí, chị vợ còn tỏ ra bực bội mỗi khi bạn bè của anh chồng tới nhà chơi.
Bạn bè cùng lớp mỗi năm có thói quen họp mặt một lần và năm nay, mọi người đều nhất trí và đồng ý sẽ gặp nhau tại nhà anh. Anh vui vẻ nhận lời vì cho đó chỉ là chuyện nhỏ.
Tuy nhiên, khi về nhà bàn với chị vợ, thì chị vợ lại đưa ra đủ thứ lý do để từ chối, không muốn “đăng cai” tổ chức , nào là nhà cửa chặt chội, nào là ăn uống bầy hầy và tốn kém…
Anh chồng ra sức thuyết phục :
– Điều chính yếu không phải là chuyện ăn uống phủ phê hay nhà cửa tiện nghi, mà là một không gian ấm cúng để được thoải mái sống cái tình bè bạn và nhớ lại những kỷ niệm xa xưa.
Bất đắc dĩ chị vợ phải chấp nhận. Tới ngày gặp gỡ, mặt mũi chị vợ lạnh tanh lạnh ngắt như bánh bao chiều. Không nói một lời, không cười một tiếng, làm cho bầu khí bỗng trở nên nặng nề và ngột ngạt, mặc dù anh chồng đã ra sức cứu vãn bằng những cái bắt tay và những câu chuyện cười, đồng thời chữa cháy bằng những ly rượu mời…
Khi ra về, một tên bạn ghé tai và nói nhỏ với anh:
– Chắc là tụi này cạch đến già, hỏng dám tới nhà bạn nữa đâu.
Mới đây, hôm mồng hai tết, một anh bạn dẫn con tới chúc tuổi. Trong lúc anh chồng vui vẻ tiếp bạn, thì chỉ vợ đi qua đi lại, nói xiên nói xỏ, đại khái rằng :
– Tôi không muốn những hạng người như anh giao du với nhà tôi.
Thấy hoàn cảnh không được thuận lợi để ngồi uống với nhau ly rượu mừng xuân, anh bạn bèn bỏ của chạy lấy người, dẫn con ra về cái một. Và khi anh bạn vừa đi khỏi, thì liền diễn ra cảnh vợ chồng đóng cửa…dạy nhau. Thế là những ngày đầu năm đang vui bỗng biến thành buồn và mất toi một cái tết.
Đối với những bạn bè cùng phái mà còn như vậy, huống nữa là đối với những bạn bè khác phái của anh chồng. Việc kiểm soát lại càng trở nên gắt gao và nghiêm ngặt, còn hơn cả lệnh giới nghiêm.
Ai cũng phải công nhận điện thoại di động thật tiện lợi và hữu ích, vì mình có thể liên lạc được với nhau ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thế nhưng, đối với anh chồng thì lại khác. Kể từ khi được chị vợ sắm cho một “con dế nho nhỏ xinh xinh”, anh chồng cảm thấy sự tụ do của mình bị cắt xén và lúc nào cũng nhận ra sự canh chừng của chị vợ ở sát ngay bên mình.
Bất kỳ lúc nào chị vợ cũng có thể gọi để kiểm tra xem anh chồng có mặt trong sở hay là lại đang vi vút ở đâu và với ai…Nếu trong giờ làm việc, mà điện thoại “tạm thời không liên lạc được”, hay “ở ngoài vòng phủ sóng”, thì chị vợ bèn tức tốc chạy thẳng tới sở hay gọi tới gọi lui cho đám bè bạn để điều tra về sự…mất tăm mất tích đột xuất này.
Giữa đêm hôm khuya khoắt mà bỗng có tiếng dế kêu, thế nào chị vợ cũng hỏi xem ai gọi và gọi để làm gì. Nếu anh chồng trả lời ngập ngừng thì hẳn là có vấn đề. Còn nếu anh chồng trả lời trơn tru, thì lại bị cho là dẻo mép, quen thói dối vợ có bài bổn dọn sẵn.
Nắm vững tình hình của hai vợ chồng là như vậy, đám bè bạn “trời đánh thánh vật không chết” lâu lâu lại cắt một thang thuốc, bày ra một trò chơi, bằng cách “phệu” một tin nhắn thật lâm ly và bi đát, cho chui tọt vào máy của anh chồng…Rồi chờ xem chiến sự xảy ra như thế nào?
Nếu chẳng may chị vợ khám phá ra một tin nhắn được lưu lại trong máy với những lời lẽ nhõng nhẽo hay ngọt ngào, thì anh chồng chỉ còn nước từ chết đến bị thương mà thôi.
Những giận hờn triền miên không biết đến bao giớ mới hết, những day dứt kéo dài tưởng chừng như vô tận, mặc cho anh chồng ra sức thanh minh thanh nga. Và dù anh chồng có thề sống thề chết, thì cũng chẳng tạo được một chút niềm tin nơi chị vợ.
Mặc dù không được huấn luyện hay trải qua trường lớp, chị vợ vẫn cứ nghiễm nhiên là một nhà thám tử. Và dưới mắt chị vợ, thì hình như mọi phụ nữ đều có thể trở thành tình địch, trở thành người thứ ba, sẵn sàng chớp lấy anh chồng của mình.
Người ta thường bảo, có yêu thì mới ghen, như tục ngữ đã diễn tả :
– Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng,
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Một cái ghen sáng suốt, nhẹ nhàng có thể làm cho tình yêu thêm mặn nồng, nhưng trái lại một cái ghen mù quáng và điên khùng có thể giết chết tình yêu và dẫn tới những hậu quả thảm khốc. Gã đã từng thấy có chị vợ đã nổi máu ghen khi anh chồng gặp gỡ, chào hỏi và nói chuyện với đám học học trò mình.
Sống trong cảnh bị “kìm kẹp” như vậy, anh chồng không bị suy sụp tinh thần mới là chuyện lạ, bởi vì chẳng còn ai muốn giao du và đi lại với anh ta nữa.
Còn rất nhiều những “độc chiêu” khác nữa. Chẳng hạn như vì tiêu xài theo kiểu con nhà lính tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài, khiến tình trạng tài chánh trong gia đình bị thâm thủng nặng nề, hay vì lòng tham không đáy của mình, chị vợ chỉ mong sao anh chồng kiếm được nhiều tiền lắm bạc bằng những lời tỉ tê. Và thế là anh chồng cũng liều nhắm mắt đưa chân, nhận phong bì hối lộ, còn chị vợ thì mở cửa sau để nhận quà cáp. Rồi tới một ngày ông chồng bị công an sờ gáy và mời vô khám nằm bóc lịch…
Chẳng hạn như cái tật phát ngôn bùa bãi, thích nói hành nói tỏi người này người nọ, thậm chí sẵn sàng kể ra những thói hư của chồng, để mua vui cho bàn dân thiên hạ, bất chấp sự ngượng ngùng, tủi hổ của anh chồng…
Những “độc chiêu” này, khi có dịp gã sẽ bàn tới sau. Còn bây giờ xin lặp lại lời đã nói ở trên như một kết luận :
– Nếu sau lưng anh đờn ông thành công rực rỡ, đều có bóng dáng một chị đờn bà, thì sau lưng anh đờn ông thất bại te tua, cũng đều có bóng dáng một chị đờn bà.

Tác giả: Chuyện phiếm của Gã Siêu

----------------------------------

 

GãSiêu 101: ĐỜN BÀ CON GÁI

 

Lâu lắm rồi, gã được nghe một câu nói thuộc hạng danh ngôn, đại khái như thế này: - Đờn bà con GãSiêu 101


Lâu lắm rồi, gã được nghe một câu nói thuộc hạng danh ngôn, đại khái như thế này:
- Đờn bà con gái giống như con mèo, nếu con mèo ngoáy đuôi bên trái, thì chắc chắn nó sẽ nhảy sang bên phải.
Cũng trong chiều hướng ấy, gần đây ở Việt Nam giới choai rất  khoái một bài hát mang tựa đề là ‘’đừng nghe những gì con gái nói’’.
Bài hát này được liệt vào ‘’tốp ten’’ nghĩa là mười bài hát được thiên hạ ưa chuộng nhất với những lời lẽ thật dí dỏm về dễ thương:
- Con gái nói có là không, con gái nói không là có.
  Con gái nói một là hai, con gái nói hai là một.
  Con gái nói ghét là thương, con gái nói thương là ghét.
  Con gái nói giận là yêu, con gái nói yêu là giận.
  Đừng nghe những gì con gái nói, đừng nghe những gì con gái nói.
  Con gái nói không biết ghen là ghen như điên đấy nhé.
  Con gái nói không biết yêu là yêu tới quên đường về.
  Đừng nhge những gì con gái nói, đừng nghe những gì con gái nói.
Gã có một thằng bạn, thâm niên quân vụ về cái khoản đờn bà con gái. Sau nhiêu phen bị các nường đá lên đá xuống, nó đã tích lũy được một số vốn kinh nghiệm khá đồ sộ, đáng mặt sự phụ.
Ngày kia vị sư phụ nay đã truyền cho đệ tử bài học vỡ lòng về tâm lý con gái như sau:
- Con ơi, con nên nhớ rõ điều này: khi cô nường nói với con “ghét anh ghê…à”, nhất là lại kèm theo một cái liếc nhìn, nheo mắt có đuôi, thì con có thể yên chí nhớn mà hét toáng lên rằng: ôi sung sướng quá nhẽ vì đời toàn màu hồng. Bởi vì đó chính là lúc cô nường đã chịu đèn, yêu con khủng khiếp. Con hãy nhào vô liền tù tì để kiếm chút cháo, kẻo dịp may đã qua đi thì khó mà trở lại đó, ngốc ạ.
Đối với một tên đại ngố như gã, thì đờn bà con gái quả thực là một màu nhiệm, toàn những chuyện ngược đời và nghịch lý, nhiều kiểu rắc rối, đến quỉ thần cũng không lường nổi.
Đọc lại sách Sáng thế ký, gã nhận thấy thưở ban đầu, thượng đế lấy bùn đất nhào nặn mà làm thành Adong.
Sau khi ban cho Adong sinh khí bằng cách thổi hơi vào lỗ mũi, Ngài đã cho Adong sống trong vườn địa đàng. Với khu vườn kỳ diệu này, dù chim hót có véo von, cây cối có trổ bông khoe sắc, thì Adong vẫn chỉ cu ki một mình, lặng lẽ đến từng bước chân âm thầm.

Chính thượng đế cũng cám cảnh trước sự cô đơn đậm đặc ấy, Ngài  thầm nghĩ:
- Người đờn ông ở một mình không tốt, Ta sẽ dựng nên cho nó một người nội trợ giống như nó.
Nói và làm. Thượng đế chờ cho tới lúc Adong ngủ say, bèn rút trộm một chiếc xương sườn của Adong mà dựng nên Evà, rồi dẫn Evà tới ra mắt Adong.
Thoạt nhìn thấy Evà, cặp mắt Adong long lên còng cọc và miệng ông sững sờ kêu to:
- Này đây xương tôi và thịt bởi thịt tôi.
Nếu lúc bấy giờ Adong biết dùng tiếng Việt Nam để diễn tả ý tưởng tuyệt vời này, thì hẳn ông chỉ cần rên lên hai tiếng ngắn gọn:
- Mình ơi!
Bởi vì chữ ‘’mình’’ vừa là thân xác, vừa là anh, vừa là em, vừa là chúng ta nữa. Ôi hai tiếng ‘’mình ơi’’ sao mà ngọt như đường cát, mát như đường phèn, thấm tới tận lục phủ ngũ tạng, làm chết lịm cả con tim. Ôi, mình ơi!
Thế nhưng, đời không như là mơ. Sau cái phút gặp em tinh tú quay cuồng, ‘’sau cái’’ thuở ban đầu lưu luyến ấy, sau cái cảm giác ngọt lịm của hai tiếng ‘’mình ơi’’ và bốn mắt liếc nhìn nhau, thì khởi sự cho những ngược đời và nghịch lý, những nhiều kê và rắc rối.
Evà không còn bằng lòng với thân phận của mẩu xương sường nữa, mà muốn nhảy phóc vào lồng ngực Adong, chiếm lãnh vị trí con tim, đòi Adong phải yêu thương và chiều chuộng. Rồi thừa thắng xông lên, tiến thẳng tới đầu và xơi ngay vai trò óc não, muốn chỉ huy cả Adong nữa.
Chính vì thế, dân Tây ban nha, một dân tộc rất mê đấu bò, cũng đã phải kêu lên:
- Đờn bà là tai họa khủng khiếp nhất trong tất cả những tai họa của loài người.
Tai họa đầu tiên đó là đờn bà đã cám dỗ đờn ông.
Thực vậy, nước làm hư rượu, xe bò làm hư đường lộ thế nào thì đờn bà cũng làm hư đờn ông như rứa.
Đúng thế, đờn bà vốn nổi tiếng về cái thói ăn vặt như tục ngữ đã diễn tả
- Đi chợ mất tám tiền quà,
  Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Cái thói ngốn hàng này đã thấm sâu vào máu huyết và trở thành nghề ruột của các nường. Thậm chí các em nữ sinh mắt nai ngơ ngác, thế mà trong chiếc cặp sách dễ thương cũng đã tích lũy bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh có thể xơi được: nào ổi, nào cóc, nào xoài, nào tầm duộc, nào xí muội…
Chính vì thế, ngay từ lời dụ khị đầu tiên của con rắn, Eva đã nuốt phăng ngay trái cấm. Rồi sau đó, Eva đã năn nỉ ỉ ôi Adong:
- Thôi mờ, ăn đi mờ…
Với lời lẽ nhỏng nhẻo mầm duyên như thế, Adong làm sao có thể chối từ. Adong đưa mắt nhìn, nuốt nước bọt và xơi liền tù tì, ăn ngấu ăn nghiến, đến nỗi mắc nghẹn nơi cổ, làm thành một cục, còn tồn tại cho đến ngày hôm nay ở bất cứ anh chàng đờn ông con trai nào.
Ghiền ngẫm về sự việc này, ông thánh Âu cu tinh đã phát biểu một câu xanh dờn:
- Đờn bà chính là thủ phạm làm tăng thêm tội lỗi cho loài người.
Kinh nghiệm trên không ngừng lặp đi lặp lại trong dòng lịch sử. Vua Kiệt vì say mê nàng Muội Hỉ bỏ bê triều chính, ăn chơi trác táng, sau bị Thành thang cướp mất ngai vàng.
Vua Trụ vì nghe theo nàng Đắc Kỷ giết hại trung thần, lòng dân oán thán, cuối cùng sự nghiệp cũng bị tan tành theo mây khói.
Ngô phù Sai yêu quí nàng Tây Thi. Cô nàng bé bỏng này có chứng đau bụng. Mỗi lần đau bụng thì lại nhăn mặt. Và mỗi lần nhăn mặt thì lại đẹp quỉ khóc thần sầu, khiến cho Ngô Phù Sai cứ mê mẩn cả tâm thần.
Tương truyền rằng:
Ngô Phù Sai đã ra lệnh ai làm cho Tây Thi cười thì sẽ được trọng thưởng. Nghe theo lời hiến kế của bọn quân sư quạt mo, ông đã cho xé hết lụa trong kho vì nghĩ rằng khi nghe tiếng lụa xé, nàng xẽ cười mím chi, thế nhưng nét mặt Tây Thi vẫn buồn rười rượi.

Sau cùng ông cho đốt lửa trên Cô Tô đài để khẩn báo cho các chư hầu biết kinh thành đang nguy khốn, nên phải vội đem quân về tiếp cứu.
Nhưng khi về đến nơi thì mới chưng hủng, chẳng thấy địch đâu cả, mà chỉ thấy Ngô Phù Sai đang cũng cụng li mí Tây Thi.
Trước thái độ chưng hủng ấy, Tây Thi đã phát cười như nắc nẻ. Nhưng rồi khi địch quân vây hãm thực sự, dù lửa báo động đã nổi lên, thì cũng chẳng ma nào đến tiếp cứu, khiến Ngô Phù Sai phải thua chạy.
Từ những bằng chứng cụ thể ấy thiên hạ đã kết luận:
- Vua nghe vợ mất nước.
Một chính tri gia mà lem nhem, gây nên sì căng đen với đờn bà con gái, thì chỉ có nước thân bại danh liệt mà chớ.
Bình thường chúng ta thường gọi đờn ông là phái mạnh đờn bà là phái yếu. Thế nhưng nếu đem ra cân do, đong đếm, chưa chắc đờn ông đã ăn được đờn bà và phái nam chưa chắc đã xơi tái được phái nữ.
Thực vậy, đờn ông phải thức trắng một vài đêm, thì tứ chi liền bải hoải, ngồi đâu ngáp đấy. Trong khi đó, làm sao có thể kể hết những giấc ngủ đứt đoạn và những đêm thức trắng của các bà mẹ để chăm sóc cho đứa con của mình.
Xét về góc cạnh bền bỉ, dẻo dai để chịu đựng, thì đờn bà hơn hẳn đờn ông. Vì thế, đờn bà con gái thường sống thọ hơn đờn ông con trai. Nói cách khác, các ông thường ngỏm sớm hơn các bà. Sự kiện này để lại một hậu quả trầm trọng, đó là số đờn bà góa chồng đông hơn số đờn ông góa vợ bội phần.
Chẳng biết có ai đã lưu tâm tìm cách giải quyết vấn đề xã hội này chưa ?
Bình thường đờn bà con gái vốn dịu hiền và tế nhị, thế nhưng hãy đợi đấy. Nói vậy mà hỏng phải vậy đâu. Con mèo tuy hiền thật, nhưng khi cần nó chỉ cào cho một phát, là đã toạc da và vãi máu, vì móng của nó rất nhọn và răng của nó rất sắc.
Đờn bà con gái một khi đã nổi máu tam bành, thì hiền cũng hóa dữ. Gã đã từng chứng kiến những cô em bé bỏng tựa nai vàng ngơ ngác, dịu hiền như… ni cô, hỏng dám như ma xơ đâu, thế mà khi cơn giận bừng bừng bốc lên, tẩu hỏa nhập ma, cũng lồng lộn như bò điên nước Ăng lê, cũng xỉa xói như con choi choi, cũng chửi rủa có bài có bổn như mấy cô đào cải lương ca sáu câu vọng cổ có mùi.
Gã xin đưa ra một vài nạn nhân của quí bà chằng lửa.
Trước hết là Socrate. Ông là một triết gia nổi tiếng của Hy Lạp, một bậc thầy trong thiên hạ, nhưng oái oăm thay, ông lại là nạn nhân của một bà vợ. Bà khinh bỉ ông là thứ trói gà không chặt. Ngày kia, ông định ra phố, thì liền bị bà tặng cho một chậu nước dơ vào mình sau cơn giận lôi đình.
Thế nhưng, ông vẫn bình tĩnh nói:
- Có sấm có sét, ắt trời phải đổ mưa.
Ngán ngẩm trước mụ vợ đanh đá, ông đã phát biểu một cách chua chát:
- Trời đất sinh ra biết bao thú dữ, những đờn bà mới thật là con thú dữ đáng sợ nhất.
Đó là chuyện bên tây, còn chuyện bên đông thì kể lại:
Thi hào Tô đông Pha có một người bạn tên là Trần quí Thường. Quí Thường có người vợ hay ghen tức và hung dữ. Mỗi lần Tô đông Pha đến chơi, thì đều được nghe những tiếng chửi bới la hét ầm ĩ.
Thấy vậy, họ Tô bèn làm thơ chế diễu như sau:
- Hốt văn Hà đông sư tử rống
  Trụ trượng lạc thủ tâm mang mang.
Có nghĩa là:
- Bỗng nghe sư tử Hà đông rống
  Tay run gậy rớt lòng kinh hãi.
Từ đó, bốn chữ “sư tử Hà đông” thường được dùng để chỉ người vợ có tính tình hung dữ. Tuy nhiên, Hà đông ở đây là Hà đông bên Tàu, chứ không phải là Hà đông bên Ta. Vì thế quí bà quí cô gốc Hà đông, đừng vội lòng động lòng lo mà sinh ra buồn bã.
Bình thường thì tề gia nội trợ và giáo dục con cái vốn là lãnh vực riêng của đờn bà con gái. Vì thế, thiên hạ thường phong cho quí bà quí cô làm ‘’nội tướng’’.
Và nhiều khi uy quyền của vị ‘’nội tướng’’ thật là ghê gớm, khiến cho mấy ông chồng thuộc nòi râu quặp phải nín khe:
- Làm trai rửa bát quét nhà,
  Vợ gọi thì dạ, bẩm bà… em đây.
Gã đã thấy có những ông giám đốc hay những viên chức cấp nhớn, đến công sở thì hét ra lửa, nhưng khi về nhà, thì lại miềm nhũn như con chi chi, phục vụ và vâng lời bà xã hết mình.
Vì thế tục ngữ đã bảo:
- Lệnh ông không bằng cồng bà.
Lợi dụng điểm yếu này, dân bắt mánh áp phe thường đi của hậu, nghĩa là đút lót, lấy lòng quan bà trước, rồi mới nhờ quan bà ton hót, tấu với quan ông, thì việc khó đến đâu cũng xong cả.
Được đằng chân lân đằng đầu. Từ vai trò người nội trợ, làm bạn đường cùng đi, đờn bà con gái xông tới, nắm quyền chỉ huy. Lúc bấy giờ quả thực là nguy to như một cơn ác mộng, vì họ cai trị theo tình cảm và lệnh truyền đổi thay như chong chóng.
Thực vậy, trên đời không có gì hay thay đổi cho bằng thời tiết và đờn bà con gái.
Có lẽ do sự nể nang và nhượng bộ của Adong thuở ban đầu, mà nhân loại đã trải qua một thời gian sống dưới chế độ mẫu hệ, trong đó người mẹ nắm giữ vai trò điều khiển gia đình và xã hội.
Thật là tội nghiệp cho thân phận đờn ông con trai lúc bấy giờ:
- Ba đồng một chục đờn ông,
  Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi.
Ngày nay với phong trào giải phóng đờn bà, nam nữ bình quyền, quí bà quí cô đang hăng hái xông xáo tiến ra ngoài xã hội, chiếm giữ những lãnh vực mà từ xưa  cho đến rày, vốn là của phe đờn ông con trai. Và họ đã gặt hái được những thành công rực rỡ.
Có những bà những cô đã làm tới thủ tướng và bộ trưởng, giám đốc và chuyên viên. Cung cách điều khiển của họ cũng cứng không kém gì phe đờn ông con trai, chẳng hạn như bà đầm già Teacher, thủ tướng nước Ăng lê, vốn được mệnh danh là bàn tay sắt bọc nhung.

Đờn bà con gái chiếm được uy quyền không phải chỉ bởi tài năng, mà còn bởi nhiều thứ vũ khí khác nữa, chẳng hạn như sắc đẹp, như nước mắt, như nụ cười…
Vì thế người Đức đã nói:
- Chỉ một sợi tóc của người đờn bà cũng giật mạnh hơn cả giây chuông.
Còn dân Nhật thì bảo:
- Chỉ với một sợi tóc, người đờn bà có thế trói được cả… voi.
Chuyện đời còn bất công hơn nữa. Người đờn ông chắt chiu học hành mới ẵm được cái bằng bác sĩ, đấu tranh vào tủ ra khám bao nhiêu năm mới leo lên được cái ghế bộ trưởng.
Trong khi đó người đờn bà chỉ cần gật đầu hay ừ một phát, bằng lòng lấy anh ta, thì liền khều được cả con người lẫn chức vị của anh ta, nghiễm nhhiên trở hành bà bác sĩ, bà bộ trưởng, mà chẳng cần tốn một giọt mà hôi. Đờn bà là một phản ứng cộng, một chiếc tàu há mồm, khả dĩ vơ vét về cho mình đủ mọi thứ.
Xem ra gã khen thì ít mà chê thì thật nhiều, chỉ biết kê tủ đứng, kể tội đờn bà con gái. Cứ điệu này, lỡ thò mặt ra đường, ắt sẽ bị quí bà quí cô cho ăn trứng thối mất thôi.
Cho đến bây giờ, đờn bà con gái vẫn là một màu nhiệm, một vấn đề lớn. Để diễn tả về sự ngược đời và nghịch lý của đờn bà con gái, hình như một ông nhà văn Ấn độ đã bảo:
- Khi tạo dựng đờn bà con gái, Thượng đế đã trộn lẫn những vật thể đối kháng vào với nhau. Chẳng hạn Ngài lấy một chút gió mát mùa thu với một chút nắng chói chang mùa hạ, một chút ngọt của mật ong với một chút đắng của bồ hòn, một chút cay của ớt với một chút chua của chanh, một chút hiền hòa của chim bồ câu và một chút hung dữ của sư tử, một chút khôn ngoan của con rắn và một chút ngốc nghếch của con bò… Tất cả được Ngài hòa lẫn với nhau và tạo nên người đờn bà đầu tiên.
Cách đây không lâu, gã lượm được một bài thơ nói về người vợ, đại khái như thế này:
-Vợ là tình cảm sâu xa,
Vợ là gió mát, vợ là bão dông.
Vợ như một đóa hoa hồng,
Vợ là sự tử Hà đông kinh người.
Vợ là êm ái tuyệt vời,
Vợ là bão táp rụng rời chân tay.
Vợ là một chất men say
Vợ là cái đắng cái cay trong lòng.
Có người nhờ vợ nên ông,
Có người vì vợ mất không cơ đồ.
Và tác giả kết luận:
-Tốt số lấy được vợ hiền,
Vô duyên vớ phải bà khùng bà điên.
Đờn bà con gái mãi mãi ngược đời như thế đó, nhưng thử hỏi:
- Nếu không có họ thì đời còn gì là đời nữa…
Phải, nếu không có họ, thì lũ đờn ông con trai lại lầm lũi cu ki một mình, như những ‘’con sâu làm tổ, trong trái vả cô đơn”. Cho nên, đờn ông Pháp, vốn dư chất ‘’ga lăng’’ trong máu, đã phát biểu:
- Nhà không có đờn bà như xác không hồn, như đờn không giây.
Chả hiểu quí bà quí cô đã bằng lòng và sẵng sàng ban cho gã một nụ cười… ruồi chưa đấy ?
Gã Siêu.

-------------------------------
 
 

GãSiêu 102: CON NGƯỜI QUẢ LÀ…DỄ SỢ.

 

Cách đây không lâu, gã có theo dõi trên truyền hình một bộ phim hình sự nhiều tập của Úc mang GãSiêu 102


Cách đây không lâu, gã có theo dõi trên truyền hình một bộ phim hình sự nhiều tập của Úc mang tựa đề là “Cuộc chiến thầm lặng”. Tuy chỉ xem bữa đực bữa cái, hôm được hôm không, nhưng rất may mỗi tập là một vụ án, nên có đứt đoạn cũng chẳng sao cả.
Hôm ấy, anh chàng cảnh sát được lệnh đi công tác nhưng không được mang theo súng để xâm nhập vào một tổ chức buôn lậu bạch phiến.
Thế nhưng, không hiểu sao, anh chàng lại lén vào kho, lấy trộm một khẩu mà nhét vô cạp quần. Khi hoàn tất công tác, bị cấp trên khiển trách, anh chàng đã trả lời:
-Khẩu súng không nguy hiểm, nhưng con người xử dụng khẩu súng mới thật là… nguy hiểm.
Câu trả lời này khiến cho gã phải “vắt chân lên trán” mà suy gẫm lung tung, đến nỗi “đêm quên ăn, ngày quên ngủ”, khiến cho dung nhan ngày càng thêm tiều tụy và thân thể ngày càng thêm hốc hác.
Tuy nhiên, càng suy gẫm, gã lại càng cảm thấy chí lý. Có lúc khoái quá vỗ đùi đánh đét một cái, xin bái phục người đã phệu ra câu nói trên.
Thực vậy, theo Khổng tử thì “nhân chi sơ tính bổn thiện”, con người thuở ban đầu vốn tốt lành, nhưng rồi dần dần trở nên xấu xa do ảnh hưởng của xã hội và những người chung quanh.
Còn theo Kitô giáo, Thượng đế dựng nên con người từ bùn đất, rồi Ngài thổi hơi vào lỗ mũi, qua đó trao ban cho nó sự sống cùng với một tấm linh hồn.
Tấm linh hồn này có hai cơ năng chính là trí khôn và ý muốn. Với trí khôn, con người không ngừng phát triển. Với ý muốn, con người được tự do chọn lựa. Và đây cũng chính là một thảm kịch làm cho con người trở nên thật…dễ sợ.
Trước hết là với trí khôn. Mấy ông triết gia bên tây thường phát biểu:
- Người là một con vật có trí khôn.
Còn Pascal thì bảo:
- Người là một cây sậy biết suy tư.
Đúng thế, trí khôn nhờ biết suy tư đã làm cho con người trổi vượt trên muôn vật và  liên tục phát triển.
Con ong ngày xưa làm tổ và kéo mật thế nào, thì hôm nay nó vẫn làm tổ và kéo mật y chang như vậy.
Nếu có nhúc nhích được tí xíu nào là do con người tập luyện cho chúng, chẳng hạn như con khỉ biết làm trò, con chó biết múa may quay cuồng.
Đang khi con vật hành động theo bản năng và dậm chân tại chỗ qua muôn thế hệ, thì con người đã tạo được những tiến bộ trong mọi lãnh vực. Gã xin đưa ra một vài phạm vi thông thường nhất để chứng minh cho sự thật trên.
Chẳng hạn về chuyện ăn.
Ngày xưa, thiên hạ ăn sống nuốt tươi. Vớ được trái cây hay thú rừng là liền xơi tái ngay lập tức. Rồi con người đã tìm thấy lửa và bắt đầu nấu nướng. Còn hôm nay, trên thực đơn người ta không biết có bao nhiêu thứ mà kể. Nào luộc, nào nướng, nào chiên. Rồi món tây, món tàu, món ta…chỉ sợ không có đủ tiền để nếm thử mỗi món một lần trong  đời.
Chẳng hạn về chuyện uống.
Ngày xưa thiên hạ chắc hẳn chỉ uống nước lã. Rồi sau đó biết cách làm cho lên men từ một số lá cây để rồi hôm nay người ta đã chế ra biết bao nhiêu thứ rượu và bao nhiêu thứ chất uống khác nhau.
Chỉ nguyên tại Việt Nam mà thôi, người ta cũng không thể đếm hết có bao nhiêu thứ nước suối, nước ngọt, nước uống có ga, nước uống có cồn…Và không hiểu một ai đó đã phát biểu một cách rất anh dũng và rất “hách xì xằng” như sau:
- Mặc dù quê hương ta còn nghèo đói và khó khăn, nhưng rất ta rất lấy làm hãnh diện vì đất nước này đã hội tụ được đầy đủ các hãng bia nổi tiếng trên cả và thế giới.
Như thế, phải chăng tinh thần ăn và uống của dân ta đã phất lên như diều gặp gió, như rồng gặp mây.
Chẳng hạn về chuyện ở.
Ngày xưa thiên hạ ở dưới hang, ở trong lỗ. Tiến bộ hơn một tí là ngôi nhà tranh vách đất. Còn hôm nay, người ta ở trong những ngôi nhà gỗ, nhà bê tông cốt thép. Nào chung cư, nào biệt thự, nào lâu đài…
Và người ta đã xây không biết bao nhiêu tòa nhà chọc trời, cao hàng mấy trăm mét. Không hiểu những kẻ đau tim, can đảm chê cầu thang máy, có đủ sức leo từng bậc từ dưới lên, hay mới chỉ được nửa đường thì đã thở hồng hộc, đứt hơi mà chết.
Chẳng hạn về chuyện mặc.
Sách Sáng thế ký đã chẳng kể lại sau khi phạm tội, Adong Eva đã kết lá mà che thân vì thấy mình trần truồng và xấu hổ. Đó là “mô đen” thứ nhất.
Tiến thêm một bước, người ta làm áo quần bằng da thú. Đó là “mô đen” thứ hai.
Còn hôm nay với ngành dệt may phát triển, người ta không ngừng thay đổi mẫu mã, từ thấp lên cao, rồi lại từ cao xuống thấp. Từ dày tới mỏng rồi lại từ mỏng tới dày. Thời trang mỗi ngày một khác. Thậm chí có những mốt thật là quái đản và kinh dị, đố  chị em đờn bà con gái nào dám mặc vào để nghênh ngang dạo chơi phố phường.
Chẳng hạn về chuyện đi.
Ngày xưa có lẽ phương tiện duy nhất để di chuyển chính là đôi chân của mình, vì thế, người ta thường phải đi bộ, đi “căng hải”, hay đi “lô ca chân” đường dài mà chẳng biết mỏi. Nhích lên một chút, người ta cưỡi lừa, cưỡi ngựa, cưỡi bò, cưỡi lạc đà…
Còn hôm nay, người ta đã có biết bao nhiêu phương tiện di chuyển khác nhau: Nào là đi xe đạp, đi xe gắn máy, đi xe ô tô. Nào là đi tàu lửa, tàu thủy, tàu bay, tàu ngầm…Rồi còn có cả những phương tiện thật tối tân và nhanh chóng, như phản lực, phi thuyền, hỏa tiễn… Không phải chỉ đi từ nơi này đến nơi kia, mà còn đi từ hành tinh này tới hành tinh khác.
Khoa học đã, đang và sẽ còn tiến những bước tiến khổng lồ, đúng như lệnh truyền của  Đấng Tối Cao:
- Hãy làm chủ cá biển, chim trời và muôn loài trên mặt đất.
Tiếp đến là với ý muốn, con người được quyền tự do chọn lựa. Ý muốn và sự tự do chính là một qùa tặng tuyệt vời nhất Thiên Chúa đã trao ban cho con người và làm cho con người trở nên cao cả.
Một ông vua đầy uy quyền cũng không thể bắt tôi làm điều tôi không muốn. Thậm chí ngay cả Thiên Chúa cũng đành phải chào thua trước sự tự do của con người, như lời ông thánh Âu cu tinh đã viết:
- Ngài sẽ không thể cứu chuộc tôi nếu như chính bản thân tôi lại không muốn.
Ý muốn và sự tự do làm cho con người trở nên cao cả, nhưng đồng thời cũng có thể biến con người thành nguy hiểm và dễ sợ. Nếu không biết điều khiển và quản lý chặt chẽ, nó sẽ đọng lại, kết tủa và hóa kiếp con người thành một con thú hoang lang thang trong cõi lòng. Đây là điều mà các vị tiền bối đã diễn tả:
- Con người vừa có thể là một thượng đế, lại vừa có thể là một con vật.
- Trong mỗi con người đều có tiềm ẩn một con thú hoang.
- Con người là một con vật hai chân, thuộc loài hỗn thực, nghĩa là xơi được mọi thứ, nhưng lại biết…mặc quần đùi.
- Dưới làn da của con người đều có bóng dáng của nhiều súc vật.
Bây giờ gã sẽ đi từ trong ra ngoài, từ bản thân đến cuộc đời và xã hội để tìm dấu vết của con thú hoang ấy.
Trước hết là nơi bản thân.
Thượng đế đã ban cho mỗi người chúng ta một cái miệng, đôi khi cũng được gọi là cái mồm. Công dụng của mồm miệng là để ăn và để nói. Dĩ  nhiên còn nhiều công dụng khác nữa, chẳng hạn như hôn, hút, mút…gã xin được miễn bàn tới.
Về chuyện ăn thì như chúng ta vừa thấy: con người thuộc loài hỗn thực, nghĩa là xơi được tất tật mọi thứ. Đây cũng là một điểm làm cho con người khác với con vật. Bình thường thì mỗi con vật chỉ xơi một vài loại thức ăn nào đó. Chẳng hạn như con trâu thì ăn cỏ, con hổ thì ăn thịt sống.
Trong khi đó, con người thì thượng vàng hạ cám, có thể đút vào miệng  mình đủ thứ, từ lá cây ngọn cỏ đến hoa trái, từ con giun con rắn đến con gà con vịt. Ngay cả đến những con vật khổng lồ như con voi, con tê giác…con người cũng xơi được cả.
Mọi vất vả con người phải chịu cũng chỉ để phục vụ cho cái miệng. Và nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra cũng chỉ vì nhu cầu ăn của con người.
Thậm chí có những thứ không nên xơi mà vẫn cứ xơi, thí dụ trong một trận đấu quyền anh, Mike Tyson đã xơi tái cái tai của Holyfield. Chẳng hiểu cái tai ấy có dòn như tai lợn bóp gỏi hay không, thì khi nào thuận tiên gã sẻ hỏi Mike Tyson và sẽ “báo cáo” lại sau.
Hơn thế nữa, còn có những thứ không được xơi mà cứ vẫn phớt tỉnh “ăng lê”, lại còn xơi bạo nữa là khác, thí dụ ăn tiền, ăn gian, ăn cắp, ăn cướp, ăn hối lộ…May ra thì chỉ có ăn đòn hay ăn tát là…em hỏng dám đâu.
Còn về chuyện nói, thì như chúng ta đã biết: ngôn ngữ là phương tiện Thượng đế đã trao ban để chúng ta bộc lộ những ý nghĩ, những ước muốn hầu tạo lấy một sự cảm thông.
Đây cũng là một điểm làm cho con người khác với con vật, bởi vì như thiên hạ thường bảo:
- Người là một con vật có tiếng nói, có ngôn ngữ.
Thế nhưng, lời nói lại là điều chúng ta thường hay sai lỗi vấp phạm hơn cả. Thậm chí, thay vì tạo được một bàu khí hòa thuận, bắc được một nhịp cầu cảm thông, thì lại gây ra thù oán, làm cho người khác thân bại danh liệt, đi đoong cả một đời.
Mới đây báo Công An TPHCM có đăng một mẩu tin nho nhỏ với tựa đề là “Câu nói đùa tai hại”, đại khái như thế này:
Cô H. yêu anh N. và đã có thai được ba tháng. Vốn tính hay ghen, cô H. nghĩ rằng anh N. không còn yêu mình nữa. Tối hôm trước, anh N. sang nhà cô H. chơi và thấy cô H. đang ngồi khóc, nên nói đùa:
- Anh sẽ cưới em làm vợ nhỏ, còn vợ nhớn anh sẽ đi lấy ở nơi khác.
Trong lúc đang nghi ngờ và giận dỗi, câu nói đùa của anh N. khiến máu ghen nơi cô H. bốc lên đùng đùng. Vì cho đó là sự thật, nên cô H. đã uất ức, uống thuốc độc tự tử mà chết.
Trên cơ thể con người, Thượng đế còn ban cho chúng ta đôi bàn tay. Với đôi bàn tay, chúng ta có thể bồng ẵm con cái, lao động sản xuất để nuôi sống gia đình, làm việc để giúp đỡ người khác, vân vân và vân vân…
Tuy nhiên, rất nhiều lần chúng ta đã dùng đôi bàn tay để làm những việc mờ ám, gây nên thiệt hại cho những người chung quanh, chẳng hạn dùng đôi bàn tay để uỵch nhau, để thoi nhau, để cướp của, để giết người…
Nếu cứ lần lượt bới lông tìm vết, mổ xẻ từng bộ phận một để lần ra dấu ấn của con thú hoang, thì e  rằng chẳng biết viết đến bao giờ mới chấm hết. Thế nhưng chỉ với hai bộ phận nho nhỏ ấy mà thôi, chúng ta cũng đã thấy được con người chính là yếu tố quan trọng, quyết định trong mọi tình huống.
Tiếng Việt Nam chúng ta không phân biệt giống đực và giống cái. Vì thế mới có chuyện rằng:
Hai vợ chồng nhà kia, sau nhiều ngày cơm chẳng lành canh chẳng ngọt bèn rã gánh một cách êm ru bà rù. Tuy nhiên trước khi ca bổn anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi, thì cũng phải chia chác tài sản vì của chồng công vợ.
Chị vợ bèn phát biểu:
- Anh là đờn ông còn tôi là đờn bà. Anh là giống đực còn tôi là giống cái. Vậy hễ đồ vật nào là cái thì thuộc về tôi, còn đồ vật nào là đực thì thuộc về anh. Bằng lòng chứ ?
Anh chồng gật đầu và OK liền tù tì.
Chỉ chờ có vậy, chị vợ bèn vội vã vơ vét về tất cả bởi vì hầu như mọi đồ vật đều mang chữ cái trên đầu: cái nồi, cái niêu, cái soong, cái chảo…Phát hoảng, anh chồng bèn chộp bừa con dao rựa và hô to:
- Đực rựa.
Có lẽ vì thế mà đực rựa vừa có nghĩa là loại dao lưỡi dài và sống dày, vừa có nghĩa là đờn ông và con giai.
Trong tiếng Pháp, người ta chia danh từ thành hai giống: giống đực và giống cái. Còn trong tiếng La tinh, ngoài giống đực và giống cái, còn thêm một giống nữa, đó là giống… dở (neuter), chẳng đực mà cũng chẳng cái. Trung lập, trung hòa, vô tính.
Sự vật chung quanh chúng ta phần lớn thuộc giống dở, chẳng đực mà cũng chẳng cái. Xét theo phương diện luân lý, thì chẳng tốt mà cũng chẳng xấu. Nó trở nên tốt hay nên xấu là do con người.
Thực vậy, con người xử dụng nó với ý hướng tốt, hay với mục đích tốt, thì nó sẽ tốt. Còn nếu con người xử dụng nó với ý hướng xấu, hay với mục đích xấu, thì nó sẽ xấu.
Chẳng hạn như tiền bạc. Tự bản chất, tiền bạc chẳng tốt mà cũng chẳng xấu. Nó tốt hay xấu là do cách thức con người kiếm nó và xài nó.
Thực vậy, nếu tiền bạc được tìm kiếm một cách chính đáng và công bằng qua lao công vất vả, qua mồ hôi và nước mắt của chúng ta thì lúc bấy giờ tiền bạc ấy quả thực là tốt.
Còn nếu tiền bạc được tìm kiếm bằng con đường bất chính và bất công: Kẻ sản xuất thì tung ra những mặt hàng dổm, kém chất lượng. Kẻ buôn bán thì dùng cân thiếu, thước hụt. Quan chức thì tham nhũng hối lộ…Những đồng tiền được nhồi nhét cho đầy túi tham theo kiểu này, chắc chắn sẽ là những đồng tiền xấu xa và nhơ bẩn.
Khi đã có đồng tiền rủng rỉnh trong hào bao, thì cách xài tiền cũng không kém phần quan trọng. Nếu tôi dùng tiền để nuôi sống bản thân và gia đình cũng như giúp đỡ những người chung quanh, thì lúc bấy giờ tiền bạc sẽ đem lại nhiều lợi ích.
Trái lại, nếu tôi vung tiền bạc cho những cuộc ăn chơi thâu đêm suốt sáng, nếu tôi dùng tiền bạc để dụ khị kẻ khác làm điều bất chính…lúc bấy giờ tiền bạc sẽ làm rạn vỡ gia đình, gẫy đổ tình yêu và gây nên biết bao nhiêu đau khổ, đúng như một câu danh ngôn đã bảo:
- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ hà khắc.
Chẳng hạn như thiên nhiên với những sức mạnh tiềm ẩn, tự bản chất  chẳng tốt mà cũng chẳng xấu. Ăn thua là ở con người xử dụng những sức mạnh ấy.
Lâu lắm rồi, gã có đọc một bài trong cuốn “Dừng”, đại khái tác giả đã viết như sau:
Hẳn chúng ta đã biết trái bom nguyên tử đầu tiên đã được ném xuống thành phố Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945. Trong nháy mắt, trái bom ấy đã giết hại hơn 200.000 người. Từ đó, bao nhiêu vũ khí khủng khiếp hơn nữa đã được chế tạo. Nào là bom khinh khí. Nào là bon neutron. Một trái bom 500 mégatonnes có đủ sức làm cho Việt Miên Lào và một phần Thái lan bị chìm xuống đáy biển. Một trái bom 2000 mégatonnes có thể làm cho chúng ta thấy được ngày tận thế !
Chiến tranh nguyên tử thật kinh khủng, nó là như một cơn ác mộng đè nặng trên nhân loại, Tuy nhiên cái đáng sợ không phải là bom nguyên tử mà là con người xử dựng nó. Bom đạn vốn là vật vô hồn, không thể mang lấy trách nhiệm của cuộc chiến. Chính con người đã chế tạo ra bom đạn và xử dụng bom đạn  mới phải gánh lấy trách nhiệm ấy hoàn toàn.
Các năng lực thiên nhiên tự nó rất hữu ích và cũng chẳng hề biết gì đến nhân nghĩa cả. Nó đã bị con người lợi dụng để chà đạp nhân nghĩa.
Điện khí rất hữu ích để làm đèn soi sáng, chứ không phải để chạy vào thành ghế, thành giường. Lửa rất hữu ích để thổi nấu chứ không phải để đốt nhà. Sức mạnh của nguyên tử cũng thế, nó không đe dọa hòa bình, không tàn sát, không tiêu diệt, trái lại còn phụng sự hòa bình, phát triển nông nghiệp và các ngành nghề khác. Chỉ có con người xử dụng sức mạnh nguyên tử mới đe dọa hòa bình, tàn sát và phá hoại mà thôi.
Ngay cả những thực tại vốn  dĩ tốt đẹp cũng vẫn có thể bị con người xào xáo, làm cho trở thành xấu xa.
Chẳng hạn như nghề nghiệp. Người xưa đã từng bảo:
- Nghề nghiệp nào cũng đáng quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con người xấu mà thôi.
Thực vậy, với nghề nghiệp chúng ta kiếm được tiền bạc nuôi sống bản thân và gia đình, như tục ngữ đã bảo:
- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.
Đồng thời nhờ đó, chúng ta góp phần xây dựng xã hội. Thế nhưng nếu xử dụng tay nghề của mình vào những mục đích xấu, lúc bấy giờ chúng ta sẽ gây nên những tai họa thảm khốc.
Thí dụ: tôi giỏi nghề in, nhưng không dùng khả năng ấy để in sách, in báo hầu nâng cao dân trí, nhưng lại dùng để in tiền giả khiến cho nền kinh tế quốc gia bị lũng đoạn.
Tôi giỏi nghề võ, nhưng không dùng khả năng ấy để bảo vệ bản thân và giúp đỡ những kẻ cô thân cô thế, nhưng lại dùng để uy hiếp, để trấn lột người khác…
Chẳng hạn như tình yêu, một thực tại vốn được ca ngợi là thiêng liêng và cao đẹp, thế nhưng con người cũng vẫn có thể lợi dụng tình yêu để làm những điều xằng bậy.
Thí dụ: một chàng trai dùng những lời đường mật của tình yêu để dụ dỗ cô gái, khiến cho cô gái phải mang bầu, rồi truất ngựa truy phong, bỏ rơi cô gái…Hay mượn đỡ danh nghĩa tình yêu để lường gạt tiền của theo kiểu kỹ sư đào mỏ…Cũng có thể yêu nhầm đối tượng mà làm cho gia đình bị đổ vỡ tan hoang, vợ mình chẳng yêu lại cứ nhè vợ người ta mà yêu, thế mới rách việc.
Báo Công an TPHCM cũng đăng tải một mẩu tin ngắn như sau:
Anh T. vốn thầm yêu chị H. là một góa phụ. Trong lúc đến chơi, lợi dụng cơ hội tư riêng, anh đã hôn chị một miếng. Chẳng may vô tình cháu L. nhìn thấy và khóc thét lên rồi chạy sang mách người hàng xóm. Người hàng xóm bèn đến can ngăn và đuổi anh T. về. Cảm thấy xấu hổ trước mặt bà con lối xóm, ngày hôm sau chị H. đã thắt cổ tự tử. Chị H. chết đi bỏ lại đứa con thơ mới chín tuổi. Đúng là một cái hôn gây nên hậu quả khó lường.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta thấy trong mọi việc yếu tố con người là quan trọng hơn cả. Và nơi con người thì cái tâm hay nói một cách nôm na và bình dân hơn, là cái lòng sẽ nắm phần quyết định. Tốt hay xấu cũng bởi nó. Vì thế sách giáo lý có câu:
- Hỏi tội bởi đâu mà ra ?
- Thưa tội thì bởi trong lòng mà ra.
Hay như người xưa cũng dạy:
- Nhân dục thắng, thiên lý vong.
Có nghĩa là lòng dục của con người phát triển thì đạo lý của trời sẽ bị mai một,
Hay:
- Dục vọng đánh đổ đạo lý.
Chính vì thế có người đã phát biểu:
- Thà rằng ngồi trong trái tim con sư tử còn hơn là ngồi trong trái tim con người.
Và tiền nhân cũng đã từng cay đắng khi đưa ra kinh nghiệm chua chát của mình:
- Homo hominibus lupus.
Có nghĩa là người với người là chó sói của nhau.
Thế nhưng cái tâm ấy lại âm u. Cái lòng ấy lại đầy những ý đồ đen tối như tục ngữ đã bảo:
- Sông sâu còn có kẻ dò,
  Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
- Dò sông, dò biển, dễ dò,
  Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Điều khó khăn và gay go nhất đó là phải làm thế nào để kiểm soát được cái tâm và hướng dẫn được cái lòng của mình. Thế nhưng dù khó khăn và cam go đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải thực hiện nếu muốn cho mọi việc luôn được êm xuôi và tốt đẹp.
Ngày kia, có một đứa bé ném hòn đá vào lớp khiến cho cửa kính vỡ tung. Cô giáo đỏ mặt tức tối.  Tuy nhiên, thay vì sửa phạt cậu học trò tinh nghịch, thì cô giáo lại đi lượm viên đá, rồi lấy thước kẻ đánh cho viên đá một trận. Vừa đánh vừa nói:
- Từ nay, mày phải trở nên mềm dẻo chứ không được cứng rắn như thế này nữa nhé.
Phải kiểm soát cái tâm,  phải hướng dẫn cái lòng vì nhân tâm hay lòng người là nơi sản xuất ra những thứ vũ khí nguy hiểm, những toan tính mờ ám, những hành động dã man.
Và để kết luận, gã xin lập lại câu nói ban đầu của một diễn viên trong bộ phim “Cuộc chiến thầm lặng”:
-Khẩu súng không nguy hiểm, nhưng con người xử dụng khẩu súng mới thực nguy hiểm.
Ôi, con người quả là…dễ sợ.
Gã Siêu.

-------------------------------
 
 

GãSiêu 103: CÁI LƯỠI

 

Ngày xưa có một ông vua nước Ai Cập gửi cho nhà hiền triến Bias một con vật vừa quí lại vừa GãSiêu 103


Ngày xưa có một ông vua nước Ai Cập gửi cho nhà hiền triến Bias một con vật vừa quí lại vừa hiếm để tế lễ các thần minh. Thế nhưng ông vua này muốn chơi khăm nhà hiền triến một vố, bèn phán:
- Sau khi cúng kiếng xong, ngươi phải trả lại cho ta cái gì vừa tốt nhất lại vừa xấu nhất nơi con vật quí hiếm ấy.
Nhà hiền triết cũng không phải là tay vừa, bèn xẻo ngay cái lưỡi mà trao cho ông vua.
Cử chỉ đó gián tiếp nói lên rằng:
- Cái lưỡi là phần tốt nhất nếu biết sử dụng, nhưng đồng thời cũng là phần xấu nhất nếu không biết sử dụng.
Đúng thế, cái lưỡi là một bộ phận quan trọng để phát ra tiếng nói. Hồi tôi còn bé, mẹ gã thường răn đe:
- Con mà chửi tục, thì cái lưỡi sẽ thụt vào trong cổ, để rồi từ rày mà đi cho đến lúc rình xinh thì sẽ chẳng còn nói năng được nữa !
Hay:
- Con mà chửi tục, ông ba bị nghe thấy, thì ông ấy sẽ cắt ngay cái lưỡi để xơi…tái.
Và như chúng ta đã thấy:
- Tiếng nói là một phương tiện hữu hiệu để chuyển đạt cho người khác biết những tư tưởng, những ý nghĩ, những ước muốn thầm kín ấp ủ tận đáy tâm can tỳ phế, nhờ đó bắc lấy một  nhịp cầu cảm thông.
Chính vì thế, mấy ông triết gia đã phát biểu:
- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói. Sông có thể cạn núi có thể mòn nhưng chân lý ấy ngàn đời vẫn không thây đổi.
Một kẻ câm ú a ú ớ, diễn tả bằng cử điệu thật là vất vả và người không quen cũng khó mà hiểu được những cử điệu ‘’búa xua’’ ấy.
Tuy nhiên, cái lưỡi cùng với lời nói lại là điều chúng ta thường hay vấp phạm hơn cả, bởi vì chúng ta có thể vấp phạm bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào và bất kỳ với ai.
Do đó Kinh thánh đã bảo:
- Số người chết vì cái lưỡi thì nhiều hơn số người ngã gục vì gươm giáo ngoài chiến trường.
Và tục ngữ dân Ăng lê cũng xác quyết:
- Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi.
Trước hết là trong lãnh vực gia đình.
Nhiều khi sóng gió nổi lên chỉ vì một lời nói nóng nảy và thiếu tế nhị.
Có một chị vợ cặm cụi nhổ cỏ ở thửa ruộng sau nhà. Theo sự phân công thì hôm đó anh chồng đóng vai tề gia nội trợ. Và thế là anh chồng bèn trổ mấy món ruột của mình để lấy điểm ‘’mí’’ bà xã.
Mồ hôi mồ kê chảy xuống ròng ròng. Khi đã nấu nướng xong, yên chí nhớn và hớn hở bắn một điếu thuốc lào, anh chồng mới sai đứa con nhỏ ra mời mẹ.
Đứa bé chạy tới và nói:
- Bu ơi bu, bố bảo về ăn cơm.
Chẳng nói chẳng rằng, chị vợ vẫn cứ lặng lẽ nhổ cỏ.
Đứa bé trở về, mặt xụ xuống như bánh bao chiều.
Một lúc sau, anh chồng lại sai đứa khác ra mời, nhưng chị vợ vẫn cứ nín thinh cặm cụi nhổ cỏ.
Đứa bé trở về, mặt xìu xìu như trái bóng xì hơi.
Dường như không chờ đợi được nữa, vả lại sợ thức ăn để lâu sẽ  nguội và mất ngon, nên lát sau anh chồng liền sai đứa út ra mời, ông cười ruồi và thầm nghĩ trong bụng:
- Quá tam ba bận. Ba keo mèo phải mở mắt đứt đuôi con nòng nọc chứ còn gì.
Thế nhưng lần thì chị vợ lại tỏ ra tức tối. Chị ta đứng lên. Hai tay chống nạnh. Mắt long còng cọc như một tia chớp. Miệng hét toáng chẳng khác gì sư tử rống:
- Bố con mày có hốc thì cứ việc hốc đi.
Trước sự nổi tam bành của chị ta, đứa út run cầm cập, ba chân bốn cẳng vội chạy về méc bố.
Đến đây thì chuyện phải đến ắt sẽ đến. Sau khi nhổ hết đám cỏ bợ, chị vợ đủng đỉnh về nhà. Thế nhưng vừa mới tới sân thì hàng xóm đã phải nghe thấy những tiếng kêu la thất thanh:
- Ối giời ơi ! Ối đất ơi ! nó đánh tôi, nó giết tôi, làng nước ơi, cứu tôi với…
Rồi thì nồi niêu soong chảo, chổi cùn rế rách, mâm bàn chén đĩa cùng với những thứ cao lương mỹ vị thi nhau bay ra ngoài sân, bởi sức người chịu đựng có hạn. Và lúc này đến lượt anh chồng đang nổi máu yêng hùng,  đùng đùng nổi trận lô đình như Trương Phi !
Giá như chị vợ biết nhún nhường và tế nhị một chút trong lời nói của mình thì đâu đến nỗi xảy ra sự việc đáng tiếc kể trên. Còn thân thể ‘’liễu yếu đào tơ’’ của chị ta đâu đến nỗi tím bầm và lãnh đủ những thứ cú thượng cẳng chân hạ cẳng tay của đức ông chồng, ‘’vai năm thước rộng, thân mười thước cao’’, như vóc dáng của anh chàng Từ Hải trong truyện Kiều !
Bởi đó, tục ngữ đã dậy:
- Chồng giận thì vợ làm lành
  Miệng cười tươi hỏi rằng anh giận gì.
- Chồng giận thì vợ bớt lời
  Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.
Còn nếu ông cũng ghê bà cũng gớm, thì chắc chắn phải kết thúc bằng xô xát, bằng tan hoang và đổ vỡ.
- Bên thẳng thì bên phải chùng
  Hai bên đều thẳng thì cùng đứt dây.
- Bên giận thì bên phải lùi
  Hai bên cùng giận thì… dùi nó quăng.
Cho nên, muốn gia đình được êm ấm thì phải biết nhường nhịn và tha thứ:
- Một sự nhịn là chín sự lành.
Đồng thời phải biết phát ngôn cho êm dịu và tế nhị, bởi vì:
- Lời nói chẳng mất tiền mua
  Liệu lời mà  nói cho vừa lòng nhau.
Tiếp đến là trong tương quan xã hội, trong mối liên hệ với người khác.
Hẳn rằng, đã có lần chúng ta bực bội tức tối trước những luồng dư luận xuyên tạc, trước những miệng lưỡi thâm độc và xảo trá của người đời. Bởi vì dư luận vẫn thường là luận dư, lời đôn thổi bao giờ cũng phóng đại tô màu, chẳng biết đâu mà lường:
- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.
Hay như ca dao đã diễn tả:
- Ở sao cho vừa lòng người
  Ở rộng người cười ở hẹp người chê
  Cao chê ngỏng, thấp chê lùn
  Béo chê béo trục béo tròn
  Gầy chê xương sống, xương sườn hở ra.
Tuy nhiên, chúng ta không thể nào sống cu ky, đơn độc, lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi hay như một pháp đài biệt lập. Trái lại, sống là sống là sống với người khác. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền.
Nếu biết dùng những lời nói ôn tồn, chúng ta sẽ hóa giải được những thù oán, triệu tiêu được những  giận hờn, bởi vì mật ngọt chết ruồi. Người ta có thể giết được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn là bằng cả một thùng dấm chua.
Một lời thiếu ý thức được sánh ví như một lon dầu đổ vào lửa, làm bừng lên sự tức giận, thiêu hủy hết tình ruột thịt cũng như nghĩa bà con lối xóm.
Một lời nói vu oan có thể làm người khác mất hết tiền bạc, mất hết danh dự, tiêu tan sự nghiệp để rồi thân bại danh liệt và đi vào thế giới lao tù.
Sau cùng là trên bình diện cá nhân.
Như chúng ta đã biết:
- Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.
Dựa vào lời nói, người khác có thể biết được phần nào tâm hồn chúng ta. Dựa vào lời nói, thiên hạ sẽ đánh giá con người  và nhận rõ bộ mặt thực của chúng ta.
Nếu chúng ta nói những điều hữu lý, thiên hạ sẽ cho chúng ta là người tài giỏi và khôn ngoan. Nếu chúng ta nói những điều vô lý, thiên hạ sẽ cho chúng ta là kẻ ngu ngốc và dại khờ. Nếu chúng ta nói những điều xằng bậy,  thiên hạ sẽ cho chúng ta là kẻ tầm phào và láo khoét.
Được yêu mến và kính trọng hay bị khinh bỉ và ghét bỏ một phần lớn là do bởi cái lưỡi và lời nói của chúng ta.
Như thế, cái lưỡi đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành uy tín và thế giá của mọi người,  như một câu danh ngôn đã bảo:
- Lưỡi người khôn ngoan tạo nên danh dự,  còn mồm kẻ ngu dại gây đổ vỡ tan hoang.
Bởi đó, phải biết đắn đo cân nhắc, để tránh đi những lời lộng ngôn xúc phạm đến Đấng Tối Cao, những lời chua cay độc địa nhằm hạ nhục uy tín người khác, cũng như những lời côïc cằn tục tĩu làm hoen ố những tâm hồn đơn sơ trong trắng, đồng thời bôi nhọ chính bản thân mình, vì ngậm máu phun người dơ miệng mình.
Như thế, nếu không biết sử  dụng cái lưỡi cho đúng đắn, thì lời nói sẽ là nguồn ngốc phát sinh rất nhiều giống tội thay vì là một phương tiện giúp chúng ta cảm thông và xích lại gần nhau.
Êsôpe là một tên lô lệ, nhưng lại được ông chủ tên là Santô rất yêu mến và kính trọng.
Ngày kia có khách đến chơi, ông chủ sai Êsôpe ra chợ mua thức ăn, nhưng không bảo là mua những thứ gì. Êsôpe bèn dinh về đủ các thứ lưỡi: lưỡi lợn, lưỡi bò và lưỡi ngựa… để nấu nướng.
Lạ miệng nên xơi ngon. Ông chủ và khách khứa đều hài lòng về tài bếp  núc của Êsôpe. Rồi khen lấy khen để.
Lần sau cũng có khách, ông chủ lại sai Êsôpe đi chợ và cũng không dặn phải mua những gì, Êsôpe cũng lại dinh về toàn những lưỡi là lưỡi, chỉ khác ở cách chế biến và thêm bớt gia vị.
Thấy vậy, ông chủ rất đỗi ngạc nhiên, còn Êsôpe thì kính cẩn làm một màn lý luận, bàn về cái lưỡi như sau:
- Phàm ở trên đời này, mọi sự tốt hay xấu, lợi hay hại… tất tật đều do bởi việc sử dụng cái lưỡi một cách khôn khéo hay vụng về.
Chính nhờ vậy, mà Êsôpe được chủ yếu mến và sau này được giải thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than.
Ý thức được tầm mức quan trọng của cái lưỡi là như vậy, chúng ta hãy lắp đặt một cái phanh vào miệng, để những lúc ngứa mồm, muốn phát ngôn bừa bãi, thì biết “sì tốp” lại đúng nơi và đúng lúc.
Viết tới đây, gã bèn nhớ tới lời khuyên của người xưa, đó là:
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
Gã Siêu

 -------------------------------


 

GãSiêu 104: TẤP TỂNH NGƯỜI ĐI

 

Sáng hôm ấy, sau khi đã uống một ly cà phê đen và “bắn” một phát thuốc…lào, gã đang ngồi vểnh GãSiêu 104


Sáng hôm ấy, sau khi đã uống một ly cà phê đen và “bắn” một phát thuốc…lào, gã đang ngồi vểnh cằm lên trần nhà mà vặt mấy sợi râu mọc vô tổ chức và để cho hồn mình “mơ theo trăng mà vơ vẩn cùng mây”, bỗng có tiếng chuông điện thoại.
Bốc máy lên, mới vỡ nhẽ:
- À thì ra đó là cụ chủ nhiệm.
Chưa kịp mở mồm mở miệng, thì đã nghe cụ ấy làm một màn “đắc nhân tâm”:
- Chuyện phiến của chú mày khá là được chiếu cố đấy nhé.
Nghe vậy, gã bèn kê tủ đứng:
- Xin cụ hãy nhớ cho rằng kẻ nào bốc thơm mà bốc phải ấy là bạn ta, còn kẻ nào bốc thối mà bốc phải ấy là thày ta. Cụ muốn điều gì thì xin cứ nói mẹ nó ra, bởi vì tôi tớ cụ đang lắng tai nghe, cần gì phải vòng vo tam quốc.
Hình như có tiếng hắng giọng kèm theo một nụ cười ruồi. Cụ bảo:
- Sinh ta ra là cha mẹ ta, còn hiểu được lòng ta chính là chú mày đấy. Sao chú mày lại đi guốc trong bụng ta vậy. Thôi, chú mày hãy chịu khó viết nhăng viết cuội, tán hươu tán vượn cho ta tí tẳng về đề tài việt…kều được không ?
Chẳng kịp suy nghĩ, gã đã buột miệng nói:
- Chuyện nhỏ, dễ ợt mà.
Thế là cụ bèn cúp máy cái rụp, chẳng kịp để cho gã lấy thêm mấy cái ý kiến ý cò chỉ đạo. Thôi đành chịu vậy, biết sao được.
Thiên hạ thường bảo:
- Lao động thì vinh quang,
  Lang thang thì chết đói,
  Hay nói thì ở tù,
  Lù khù thì sống lâu.
- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Có nghĩa là một lời nói tuột  ra khỏi miệng, thì bốn ngựa đuổi theo cũng chẳng kịp.
- Chẳng cái dại nào bằng cái dại miệng.
Vì thế, bây giờ gã mới ân hận, bởi vì gã chưa bao giờ để tâm để trí vào lãnh vực này, hay bới lông tìm vết mà khám phá ra những cái sở trường và sở đoản, những cái hay và dở, những cái tốt lành và lôm côm của…phe ta, khi trở về thăm lại quê hương.
Giá mà gã cứ chối phắt ngay từ đầu, thì có phải là khỏe re, như con bò kéo xe hay không. Nhưng hối bất cập, “bi giờ” thì đã quá muộn, đành phải vò đầu bứt tai làm tròn điều đã lỡ hứa với cụ chủ nhiệm vậy.
Đối với dân Việt nam ta, phàm cái gì cũng có thể trở nên một phong trào, một hiện tượng.
Nếu trí nhớ của gã không tồi thì trước ngày giải phóng, ở miền Nam đã có những phong trào, những hiện tượng. Chẳng hạn như phong trào nuôi chim cút, hiện tượng đọc chuyện kiếm hiệp của Kim Dung, hay đọc chuyện tình cảm ẩm ướt của Quỳnh Dao.
Còn trong những ngày gần đây, thì trên cả nước có hiện tượng sì ke ma túy, hiện tượng học trò đánh đấm thày cô, phong trào dật hụi, phong trào thi cử gian lận…Và nếu không lầm, thì thời gian từ năm 1978 đến năm 1981 chính là cao điểm của phong trào…vượt biên.
Hồi ấy, gã đã từng nơm nớp lo sợ:
- Có một buổi sáng sám xịt nào đó, khi thức giấc tỉnh dậy sau giấc ngủ mệt mỏi đầy ác mộng, thì ngó tới ngó lui, chẳng còn ai ở chung quanh mình, bởi vì tất cả đều đã khăn gói quả mướp…ra đi.
Thêm vào đó, ngày nào cũng có những tin tức về những “kẻ ngồi thuyền vượt biển” được rêu rao trên các đài phát thanh BBC, VOA…Thậm chí có kẻ đã trả lời phỏng vấn như sau:
- Nếu cái cột đèn biết đi thì nó cũng…đi.
Thành thử, những người bám trụ, còn ở lại cũng cảm thấy chao đảo và nếu lập trường không vững, thì cũng rất dễ sa vào “cơn cám dỗ cuối cùng” này, theo kiểu:
- Tấp tểnh người đi tớ cũng đi,
  Cũng thuyền, cũng bến cũng…ra khơi.
Ra đi lúc bấy giờ quả thật là một hành động liều lĩnh và  mạo hiểm, một được hai thua, được thì vẻ vang, còn thua thì nắm chắc cái chết trong tay, hay ít nữa thì cũng tù tội. Thế mà thiên hạ vẫn cứ ào ào ra đi, bất chấp mọi khó khăn.
Nơi gã ở lúc bấy giờ đang trong cao điểm ấy, không ngày nào mà không có một vài người, hay một vài gia đình…biến. Thậm chí có những người đã từng bị bắt đôi ba lần, thế mà khi được thả ra, liền lập tức âm mưu, tính toán cho một chuyến đi khác.
Làm sao kể cho hết những khó khăn và gian khổ của những người ra đi. Ở đây, gã chỉ xin “kê đơn hoàn tán” một vài khó khăn gian khổ chính yếu mà thôi.
Cái khó khăn thứ nhất là phải làm thế nào thoát khỏi sự dòm ngó và lùng bắt của công an.
Gã có một thằng bạn, nhà liền vách với trạm công an, thế mà hắn đã đưa được cả gia đình xuống tàu một cách êm ru bà rù. Quả là tâm phục, khẩu phục. Sau này gã mới khám phá ra mưu chước của hắn.
Số là hắn có một thửa ruộng cách xa nhà. Và thế là ngày nào hắn cùng vợ con đi lao động, chăm sóc thửa ruộng ấy. Cho đến một ngày, khi mọi sự đã sẵn sàng…và thế là hắn đã biến cùng với những người thân yêu của hắn.
Nhiều người muốn được bảo đảm an toàn đã mua đứt bến bãi, bằng cách đút tiền cho công an, nhưng nếu chẳng may vớ phải mánh dổm, thì tiền mất tật mang, trọn ổ bị hốt về trại giam, hay bỏ của chạy lấy người, mạnh ai người ấy trốn, mỗi người một ngả, may thì thoát.
Cái khó khăn thứ hai là phương tiện di chuyển.
Đối với những người sống ở ven biển, có sẵn tàu thuyền thì không mấy khó khăn. Còn đối với những người sống sâu trong đất liền, có khi chưa một lần đặt chân tới  vùng biển, thì cách thức đơn giản nhất là đi theo mánh. Phó mặc toàn bộ công việc cho những kẻ tổ chức. Tới thời điểm đã định, chỉ việc đến điểm hẹn để được…ém quân, rồi sau đó được chở bằng thuyền nhỏ, gọi là “tắc xi” để được bốc lên thuyền lớn. Thế nhưng rất nhiều người đã méo mặt vì  vớ phải mánh dổm, đụng phải những kẻ lừa gạt chuyên nghiệp.
Bọn này cũng cho đi xem ghe thuyền đàng hoàng, cũng ấn định điểm hẹn và còn bảo đảm cả bến bãi đã được mua đứt…Những rồi khi tay xách nách mang tới điểm hẹn, thì chẳng thấy ma nào hết.
Ở lại thì sợ bị công an thộp cổ, nên chỉ còn cách “dĩ đào vi thượng sách”, chạy trốn là kế sách hay hơn cả, bằng mọi cách phải cao chạy xa bay khỏi điểm hẹn chết tiệt ấy.
Giá cả lúc bấy giờ cũng thật là chóng mặt. Mỗi đầu người là mười đồng, tức là mười cây vàng, chứ nào có phải là ít. Vì thế, có những gia đình chỉ sau một đêm mà mất toi sản nghiệp được chắt chiu gầy dựng suốt bao nhiêu năm trời, đúng là “kiếm củi ba năm thiêu một giờ”, hay:
- Ra đi trong hy vọng khấp khởi,
  Trở về trong rầu rĩ hoang mang.
Thấy kiểu này vừa hao tốn, vừa bấp bênh, nên về sau nhiều người đã tự tổ chức lấy, đứng ra sắm ghe thuyền, hải bàn, bản đồ… mua lương thực, săng dầu…rồi thuê tài công, thợ máy…nghĩa là lo từ A đến Z cho chuyến đi định mệnh ấy.
Tuy nhiên, đứng ra tổ chức không phải là không có những trục trặc và rủi ro. Chẳng hạn người tài công hay thợ máy vào phút chót thì giở quẻ, đòi cho vợ con hay tình nhân của mình đi theo.
Chẳng hạn để bù lỗ phần nào những chi phí, thường phải nhờ kẻ dắt mối bắt khách ăn chia, thế những khi thuyền sắp rời bến, kẻ dắt mối lại đòi phải nhồi nhét thêm cho một vài khuôn mặt ăn có khác nữa làm cho con thuyền bị…quá tải.
Người xưa đã từng diễn tả:
- Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
  Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Ở đây thì những người ra đi phải trốn chui, trốn nhủi, làm gì có cảnh đưa tiễn rầm rộ, nhưng nước mắt đổ ra khi rời bỏ nơi quê cha đất tổ và những người thân yêu chắc chắn không phải là ít.
Thế nhưng bước chân được xuống thuyền đã là điều mừng, để rồi từ đó phó mặc cho số phận dun dủi:
- Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
  Màø xem con tạo xoay vần tới đâu.
Thực vậy, ghe thuyền nhiều khi chỉ là một chiếc “cà dom” ọp ẹp, dài hơn chục mét mà phải chất chứa đến mấy chục mạng người. Thêm vào đó, máy móc lại quá “đát”, có lúc chỉ là một chiếc máy xăng BS9…tất cả chẳng khác chi một chiếc vỏ trứng tròng trành trên sóng nước, nhưng mà:
- Một liều ba bảy cũng liều.
Còn tài công lắm khi cũng chỉ là những kẻ “ấm ớ hội tề”, mang tý nhãn hiệu trình tòa hay cái mác của hải quân mà chẳng biết đã có lần nào chui xuống tàu hay đi ra biển chưa là nghiễm nhiên có quyền gật đầu, ừ đại để được đi…chùa, khỏi tốn tiền hao bạc, mà lại còn được cõng thêm một vài người khác gọi là chút đỉnh thù lao đền bù. Vì thế đôi khi đã xảy ra những chuyện cười làm vãi cả nước mắt.
Có một nhóm bè bạn liên kết với nhau để tổ chức bằng cách tự mua sắm thuyền và thuê mướn tài công. Lúc xuất phát từ Nha trang, họ đã xin lễ cầu bằng an. Lúc xuống thuyền, mặc dầu không hát thành lời, nhưng hầu như ai nấy đều thầm thĩ kêu xin:
- Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển….
Con thuyền thuận buồm xuôi gió, luớt sóng được mấy ngày thì thấy một hải đảo hiện ra. Mọi người đều tin rằng miền đất hứa đang mở rộng vòng tay chào đón.
Và thế là họ lớn tiếng dâng lời cám ơn Thiên Chúa:
- Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa…
Tuy nhiên, khi bước chân lên bờ, họ bỗng rụng rời khiếp hãi khi nhìn thấy cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay. Thì ra nơi họ tưởng là miền đất hứa chính là đảo Phú quốc. Rồi chuyện gì phải đến ắt sẽ đến. Tất cả mọi người, nam phụ cũng như lão ấu, liền ông cũng như liền bà, không trừ một ai, đều được thưởng thức món cơm hẩm nhà tù một thời gian.
Và như trên gã đã viết:
- Đây là chuyến đi định mệnh, một được hai thua.
Về cái chuyện được thua ấy, thiên hạ đã diễn tả như sau:
- Được làm vua, thua chui vô hàm cá mập.
Hay:
- Được làm vua, thua làm mồi cho cướp.
Có một ông chồng đã dặn dò người vợ yêu dấu trước khi bước chân xuống thuyền như thế này:
- Nếu sau một thời gian mà không nhận được tin tức gì của anh cả thì: “giỗ tết từ đấy nhớ đến ngày”. Coi như anh đã đi đứt, đang phiêu diêu miền cực lạc, hay đang tắm mát dưới suối vàng.
Còn biết bao nhiêu gian truân và hiểm nguy trên mặt đại dương. Còn biết bao nhiêu tủi nhục và cay đắng khi sa vào tay bọn hải tặc. Còn biết bao nhiêu hãi hùng và nước mắt khi thuyền chìm giữa biển khơi. Còn biết bao nhiêu ê chề khi ở trại tị nạn. Và không biết bao nhiêu người đã chết mất xác…
Có lần gã đã hỏi một người bạn ở Mỹ về như thế này:
- Liệu bây giờ mi có dám làm một chuyến vượt biển như hồi đó hay không ?
Hắn đã lắc đầu quầy quậy mà trả lời:
- Có các vàng thì em cũng…chả dám đâu.
Nhiều người tin rằng vượt biên cũng có cái số của nó. Có kẻ đi mãi đi hoài, vào tù ra khám, tiêu tan sản nghiệp, mà vẫn không xong. Có kẻ đi một cú là liền tới bến. Có kẻ vượt biên bất đắc dĩ, không muốn đi nhưng bị ép phải đi thế mà cũng êm ru bà rù.
Những người ra đi lúc bấy giờ, theo gã nghĩ, gồm có ba thành phần.
Thành phần thứ nhất là những người muốn đi tìm một cuộc sống tự do vì họ nghĩ rằng:
- Nếu ở lại, họ sẽ bị trù dập, bị tù tội vì đã tham gia vào guồng máy cai trị của chế độ cũ, hay sẽ không được thực sự sống niềm tin của mình.
Thành phần thứ hai là những người muốn đi tìm một cuộc sống giàu sang, thỏa mái vì họ nghĩ rằng:
- Nếu ở lại, kinh tế gia đình họ sẽ gặp khó khăn và tương lai con cái họ không được sáng sủa.
Thành phần thứ ba là những người chẳng có ý định nào suốt, thấy người ta bồng bế nhau đi thì mình cũng đi.
Họ có thể là những người ra đi “bất đắc dĩ”. Chẳng hạn như cha mẹ bắt con cái phải đi để có được một ngày mai tươi sáng hơn. Chẳng hạn một anh chàng nào đó dạo chơi phất phơ gần chỗ thiên hạ”bốc hàng”, và thế là để bảo đảm an toàn, thiên hạ bèn dùng áp lực bắt anh ta xuống thuyền và cho dông luôn.
Ngoài  ra còn có một hạng người được gọi là dân “can me”.
Họ là những kẻ không có một đồng xu dính túi để đóng góp, nên đành phải đi chùa của thiên hạ bằng cách nhờ tình cảm của tài công, thợ máy, kẻ dắt mối giới thiệu cho đi ké mà chẳng phải mất một cắc bạc… hay do hoàn cảnh dun dủi, gặp được thời cơ thuận lợi, họ cứ nhảy đại xuống thuyền theo kế sách: nhất lý, nhì lì, tam ì, tứ ẩu…rồi thì đến một lúc nào đó con thuyền cũng sẽ cặp bến mà chớ.
Ra đi lúc bấy giờ không phải chỉ  là “chết trong lòng một tí”, mà hơn thế nữa, còn được coi như là chia lìa vĩnh viễn, đôi ngả ngăn cách ngàn đời, như cõi âm và cõi dương, người sống và kẻ chết, vì “bước chân đi cấm kỳ trở lại”.
Gã còn nhớ hồi năm 1954, những người di cư vào miền Nam, lúc đầu còn được liên hệ với những thân nhân tại miền Bắc bằng cách viết vào một tấm giấy bìa màu vàng, tựa như tấm “cạc pót tan”, rồi nhờ “Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến” chuyển giao.
Viết thì cứ viết, nhưng liệu tấm thư bỏ ngỏ ấy có đến được tay người thân hay không, thì hãy bắc thang lên hỏi ông trời vì chỉ có một mình ông mới biết mà thôi.
Giòng sông Bến Hải nào có rộng rãi chi, thế mà người từ bên ấy muốn qua bên này cũng chẳng được và ngược lại, người từ bên này muốn qua bên ấy cũng đành bất nhóc nhách, huống lọ là hai bờ Thái Bình Dương cách xa ngàn trùng, thì làm sao mà có thể trở về thăm lại quê hương.
Người ra đi thì hiểm nguy khiếp hãi, còn kẻ ở lại thì cũng không kém phần long đong khốn khó…Nhưng thôi, chả dám viết nữa, kẻo có người lại thở dài mà than:
- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.
Thế nhưng sự đời vốn thường thiên biến vạn hóa, thay đổi không ngừng, như người xưa đã bảo:
- Thương hải biến vi tang điền. Nghĩa là biển cả biến thành ruộng dâu.
Hay như một bài hát quen thuộc:
- Than ôi trái đất vẫn tròn,
  Chúng mình hai đứa vẫn còn gặp nhau.
Đúng thế, một luồng gió mới đã thổi vào Việt nam với chính sách đổi mới. Nhà nước mở cửa, kêu gọi nước ngoài đầu tư, nới rộng kinh doanh, phát triển du lịch, một loại kỹ nghệ không có khói nhưng đem lại nhiều lợi nhuận…
Gã không thông thạo lắm về chuyện này, nhưng có lẽ vấn đề cấp bách là phải vực cái nền kinh tế vốn dĩ đã èo uột và lạc lậu lên vì lợi tức đầu người hàng năm lúc bấy giờ của mình thuộc vào hạng thấp nhất thế giới.
Thôi thì như Đặêng Tiểu Bình đã nói, nếu như gã không lầm, rằng:
- Mèo trắng, mèo đen không sao cả, miễn là bắt chuột.
Song song với đó, nhà nước cũng kêu gọi những người Việt nam đang sinh sống ở nước ngoài góp phần xây dựng đất nước, sẵn sàng mời họ trở về thăm lại quê hương xứ sở. Và thế là các Việt kiều bắt đầu lục tục kéo nhau về.
Lúc đầu các Việt kiều còn e dè vì sợ rằng đây chỉ là một cái bẫy do Nhà nước giăng ra. Một khi đã về thì bẫy liền sập, nhất là  đối với  những người đã từng cộng tác với chế độ cũ. Vì có tội thì phải đền tội. Hoặc còn ngại ngùng vì sợ tư thù cá nhân, không được luật pháp bảo vệ, sẽ bị đối xử theo luật rừng, hay theo kiểu giang hồ, mắt đền mắt, răng thế răng…
Nhưng rồi những  cái “sợ rằng” ấy không phải là sự thật. Khi đặt chân xuống mảnh đất quê hương, họ được ân cần tiếp đón như những người thân yêu đi vắng xa nay đã trở về, như những người con đã lạc mất nay lại tìm thấy.
Sở dĩ như vậy vì có lẽ chính sách, đường lối và lập trường của Nhà nước đã thay đổi, nếu không muốn nói là chiếc bản lề đã quay hẳn một góc 180o.
Trước kia, nếu những người vượt biên bị coi là phản quốc, thì nay được coi là yêu nước, được cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa…
Và sở dĩ có bước ngoặt này vì có lẽ Nhà nước đã ý thức được rằng Việt kiều cũng là những người con của Mẹ Việt nam, cũng là những thành phần trong lòng dân tộc, khả dĩ  có thể đóng góp khả năng và chất xám, vật chất và tiền của để xây dựng và phát triển đất nước. Cụ thể là những đồng đô la do các Việt kiều gửi hay đem về giúp đỡ thân nhân.
Tuy nhiên, đồng đô la thì cũng có mặt phải và mặt trái. Việt kiều thì cũng có người tốt và kẻ xấu.
Có những đồng đô la hữu ích đem lại vui mừng và hy vọng, nhưng cũng có những đồng đô la bất hạnh gây đổ vỡ tan hoang. Có những Việt kiều trở về đã sưởi ấm tình yêu thương trong gia đình hay khu xóm, nhưng cũng có những Việt kiều trở về chỉ để hưởng thụ, lường gạt  hay toan tính những việc làm ăn mờ ám.
Muốn biết được những sự việc tốt lành và lôm côm này, xin mời bạn đọc đón xem những bài sau ắt sẽ rõ.
Gã Siêu

--------------------------
 
 

GãSiêu 105: TÌNH YÊU THỜI MỞ CỬA

 

Khi học về lịch sử Việt Nam, gã còn nhớ một trong những nguyên nhân khiến người Pháp đem GãSiêu 105


Khi học về lịch sử Việt Nam, gã còn nhớ một trong những nguyên nhân khiến người Pháp đem quân chiếm đóng và dày xéo quê hương này, đó là chính sách “bế môn tỏa cảng” của vua chúa triều Nguyễn.
Thời bấy giờ, người Pháp đang cần thị trường để tiêu thụ hàng hóa, mở rộng bờ cõi, phát huy quyền lực và ảnh hưởng của mình. Thế nhưng, luật “cấm vận” và nghỉ chơi của triều đình Huế đã làm cho người Pháp đánh rơi bổn tính ga lăng của dân Gô loa, để rồi nổi máu yêng hùng “Tạc dăng”, biểu lộ ý đồ xâm lăng đen tối của mình.
Và dân tộc Việt Nam khốn khổ đã bị tròng vào cổ cái ách một-trăm-năm-nô-lệ-giặc-Tây.
Thế nhưng, các cụ ta ngày xưa hình như rất khoái món bế môn tỏa cảng và cấm vận này, nên đã bê nguyên con mà ấp dụng trong lãnh vực tình yêu.
Thực vậy, hồi đó khi con trai và con gái mới lớn lên thì bị cấm tiệt, không được giao du quen biết nhau, theo khẩu hiệu từ ngàn xưa đã để lại:
- Nam nữ thọ thọ bất thân.
Khi đến tuổi đi lập gia đình, thì phải tuyệt đối vâng lời quí vị phụ huynh:
- Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó.
Và tiêu chuẩn quí vị phụ huynh thường đặt ra để cho con cái mình được ngồi vào, đó là môn đăng hộ đối: phải cân bằng về tuổi tác, về địa vị, về kinh tế…Vì vậy, nhiều lúc đã xảy ra những chuyện thật chéo cẳng ngỗng:
- Mẹ em tham thúng xôi rền,
  Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh hưng.
  Em đã bảo mẹ rằng đừng,
  Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.
  Bây giờ chồng thấp vợ cao,
  Như đôi đũa lệch so sao cho vừa.
Lắm khi hai ông bố ngồi chén thù chén tạc, rồi kết tình xui gia mí nhau, ngay cả lúc hai trẻ chưa mở mắt chào đời, vì thế mới xảy ra cái cảnh:
- Bồng bồng cõng chồng đi chơi,
  Đi đến chỗ lội đánhrơi mất chồng.
  Cho tôi mượn chiếc gàu sòng,
  Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên.
- Lấy anh từ thuở mười ba,
  Đến năm mười tám, thiếp đà năm con,
  Ra đường thiếp hãy còn son,
  Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Luật bế môn tỏa cảng này còn được biểu lộ một cách rõ rệt nhất qua chủ trương:
- Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
Hay:
- Ta về ta tắm ao ta,
  Dầu trong dầu đục, ai nhà vẫn hơn.
Hồi đó, hẳn chưa có lý lịch trích ngang để nắm vững đối tượng, nhưng nhờ chủ trương này, các cụ vẫn biết rõ kẻ mình định chọn.
Hơn nữa, sau khi gả bán, các cụ còn mua đứt đường về và tình nghĩa cho con cái:
- Có con mà gả chồng xa,
  Trước là mất nghĩa sau là mất con.
Hay là kiếm chác tí đỉnh lợi lộc để bù lỗ:
- Có con mà gả chồng gần,
  Có bát canh cần nó cũng đem cho.
Đến thời Pháp thuộc, hay Mỹ thuộc chăng nữa, lập trường này vẫn còn được tuân giữ nghiêm chỉnh. Những cuộc hôn nhân “dị chủng” hay “đa quốc gia” năm thì mười họa mới xảy ra và những kẻ trong cuộc đều bị thiên hạ coi khinh bằng nửa con mắt với tên gọi là “me tây” hay “me mẽo”, cho dù đôi lúc những cuộc hôn nhân này cũng đã thành công.
Thực vậy, có những anh chàng mẽo phong nhã cũng xơi tiết canh lòng lợn như điên, cũng nhậu thịt chó riềng mẻ và nhâm nhi ly rượu đế đến say khướt có bợ mà mồm thì vẫn cứ ngân nga:
-Sống trên đời ăn miếng dồi chó,
Xuống âm phủ biết có hay không ?
Cũng ăn cà ghém và khi ăn còn quết mắm tôm thật đậm, đến như gã, dân ghiền mắm tôm hạng nặng cũng đành phải chào thua.
Có những chàng hoàng tử mắt xanh mũi lõ tỏ ra hào hoa “mí” người tình bé bỏng an nam mít, đến độ nhớ nhung phát ốm tương tư:
- Dê cờ ri tình thơ uyn lét,
  Để cho nàng con nét mông cơ.
Nghĩa là:
- Viết lên một bức thư tình
  Để nàng biết rõ lòng mình đắm say.
Có một ông chồng tây chính hiếu con nai vàng, ngày kia dẫn bà vợ an nam mít đi sắm đồ. Thấy vợ kêu:
-Tré sô (tres chaud), nghĩa là quá nóng
Ông chồng dư máu ga lăng liền
vội vàng mua lấy mua để kẻo bà vợ mi nhon bị cái nắng nhiệt đới hành hạ. Thế những khi về đến nhà, ông chồng tây liền bị bà vợ việt xài xể cho một trận tơi bời hoa lá:
- Ối giời ơi, ngu chi ngu lạ, người ta bảo “ tré sô” thì phải hiểu là “trố se” (trop cher) nghĩa là quá đắt. Nói lóng đấy… bò ạ.
Và ông chồng tây chỉ còn nước trố mắt ngạc nhiên, tay giơ lên trời và miệng thì không ngừng kêu:
- Ố là là, ố là là.
Nếu lỡ bị nàng cho leo cây hay đá dăng cu lơ thì cũng đắng cay chua xót:
- Từ ngày lủy kít tê dơ
  Bon nơ cũng lắm, ma lơ cũng nhiều.
Nghĩa là:
Từ ngày mình bỏ rời nhau,
Mừng vui cũng lắm, khổ đau cũng nhiều.
Sau ngày giải phóng, đất nước mình được hoàn toàn độc lập tự do, nhưng tinh thần cấm vận, nghỉ chơi  vẫn được thi hành một cách triệt để, nhất là đối với dân tư bản.
Cũng dễ hiểu thôi, bởi vì ta phải đề cao cảnh giác, kẻo địch lợi dụng những sơ hở để chống phá cách mạng. Bởi đó, việc đầu tiên cần phải làm ngay là xin mời quí vị ngoại quốc về quê ngồi chơi xơi nước để ta ổn định việc nhà, vì có tề gia thì mới trị quốc và bình thiên hạ.
Tiếp đến là phải dè chừng những kẻ có liên hệ với nước ngoài. Gã còn nhớ hồi bấy giờ gã đang cắm dùi tại một vùng vừa sâu lại vừa xa, thư từ liên hệ với bạn bè thật là khó khăn.
Thư về đến xã thì bị mất tích, phiêu diêu miền cực lạc, hay được những bàn tay tò mò tọc mạch ưu ái mở ra xem trước. Buồn tình, gã mới nhờ địa chỉ của một người thân trên tỉnh, thế mà cũng được công an sờ gáy:
- Anh có một hòm thư  bí mật trên tỉnh. Anh liên hệ với ngoại quốc. Anh là người được Xịa cài lại hả ?
Hồi bấy giờ vượt biên bị coi là phản quốc, phản dân tộc và những gia đình có thân nhân ra nước ngoài lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị công  an  chiếu cố hỏi thăm, vì dù sao mình cũng mang lấy mặc cảm tội lỗi.
Trong thời gian này, đốt đuốc đi giữa ban ngày cũng chả tìm thấy một cuộc tình đa quốc gia.
Nhưng rồi con tạo xoay vần. Nhà nước đã chơi một cú ngoạn mục, đá “vô lê” quay phắt 180 độ với chủ trương mở cửa, đổi mới. Việt kiều trở về được coi là yêu nước, được cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.
Họ rót đô la cho thân nhân xây nhà xây cửa, góp vốn mần ăn. Người nước ngoài ào ào tới Việt Nam như tới miền đất hứa. Nào công ty này. Nào xí nghiệp nọ. Đất cát ven đô rơi vào một cơn xốt cấp tính. Bác nông dân ngày nào còn nghèo rớt mùng tơi, nay chỉ cần bán đi vài công ruộng là khẻo re, đủ phương tiện làm le “mí” thiên hạ.
Trong bối cảnh đó, tình yêu thời mở cửa mang lấy tính cách toàn cầu hóa. Nhưng cuộc tình đa quốc gia hay xuyên lục địa, những cuộc hôn nhân dị chủng nở rộ như lúa hè thu nảy mầm sau trận mưa dầm dề.
Thế nhưng, ăn theo vào đó, biết bao nhiêu chuyện hỉ nộ ái ố đã phát sinh. Gã xin ghi nhanh qua mấy tờ báo thường đọc như Tuổi trẻ Chủ nhật, Công an thành phố… rồi “cọp dê” để chiềng làng, báo cáo với bàn dân thiên hạ, hầu mua vui lấy “một vài chống canh”. Thảng hoặc có dư chút thời giờ chả biết làm gì, thì thử vắt tay lên trán, ngẫm nghĩ sự đời mà cười cho hai chữ nhân tình éo le.
Trước hết là cảnh tỉnh ‘’hờ’’ theo sự tính toán cho cả hai cùng có lợi, nhưng rốt cuộc bị bể mánh, chẳng ‘’nước mẹ’’ gì cả.
Số là vì nuôi mộng ước không bình thường được ra ngoại quốc và trở về làm việt kiều, một cô nường ở Sài gòn đã ưng thuận kết hôn giả với một cống dân Pháp chính gốc con gà trống ‘’Gô-loa’’ vừa chẵn băm lăm tuổi.
Theo sự thỏa thuận, hai người là vợ chồng trên giấy tờ pháp lý, nhưng không được sống chung ‘’mí’’ nhau. Khi đã định cư ở nước ngoài rồi, thì lập tức ly dị liền tù tì. Nếu mọi sự êm xuôi tốt đẹp, anh chồng hờ được hưởng ba ngàn đô, còn chị vợ hờ thì được phe phẩy ở nước ngoài.
Cuộc tình hờ này được trình tòa và được chính quyền thành phố ký nhận. Cứ tưởng mọi sự đã thuận chèo mát mái, ai dè vào phút chót anh chàng ‘’phú lãng sa’’ này lại nhảy rào, xé hợp đồng, đòi làm chồng thiệc, chứ không chịu đóng vai chồng hờ, khiến cho cô nường tóa hỏa tam tinh, chạy vội đến ba tòa quan lớn để xin can thiệp một phen, vì thà chịu vỡ mộng còn hơn là tàn một kiếp …hoa.
Dù sao chuyện tình hờ kể trên, thực chất chỉ là một loại tình dổm, dựa trên sự tình toán cân đo đong điếm.
Bây giờ, gã xin đi vào những cuộc tình nặng đô hơn và cũng day dứt hơn.
Dân Việt Nam ta vốn bản chất dễ hòa đồng và đón nhận cái mới. Chả thế mà ngày xưa Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo đã sống chung hòa bình với nhau một cách rất đề huề trong xã hội.
Dưới thời Pháp thuộc, chúng ta đã xơi ngay phần tình túy của nền văn minh phương tây và đã mượn đỡ mẫu tự La tinh mà chế biến thành chữ quốc ngữ.
Vì  thế, chuyện những cô gái thích lấy chồng ngoại âu cũng chỉ là một chuyện hết sức bình thường. Ấy là gã chưa nói tới xu hướng toàn cầu hóa đang xâm lấn vào mọi lãnh vực, kể cả lãnh vực tình yêu.
Bởi vì như chúng ta thường bảo:
- Biên giới của yêu thương là thương yêu không biên giới.
Một khi đã ‘’chịu đèn’’ và ‘’phê’’ mí nhau rồi , người ta sẵn sàng vượt qua mọi ngăn cách về màu da, về ngôn ngữ, về thổ địa… để được sống cùng nhau. Ngày xưa cũng như hôm nay, vẫn có những cặp vợ chồng hai quốc tịch rất hạnh phúc và chuyện tình của họ đẹp như một huyền thoại.
Có một cô hàng bán nước giải khát ở bến Bạch Đằng. Cuộc đời  đang phẳng lặng, thì bỗng một anh chàng si tình xuất hiện. Ngày nào anh chàng mắt xanh da trắng này cũng đến nhấm nháp một con mực khô, uống hai long bia và ‘’bám trụ’’ tại quán suốt hai tiếng đồng hồ để được ngắm nghía cô hàng nước xinh đẹp một cách đăm đăm.
Và thế là tình yêu bắt đầu từ đôi mắt, liên tục phát triển theo số tiền bo hậu hĩnh và số quà cáp mỗi ngày một tăng. Rồi sự gì phải đến đã đến. Anh chàng gà trống Gõ loa đã tỏ tình thẳng đét ‘’mí’’ chị gà mái an nam mít:
- Tôi yêu em, tôi muốn cưới em làm vợ. Em trả lời tôi đi.
Riêng  cô nàng đã bật mí cho biết:
- Yếu tố hớp hồn và hấp dẫn của con gái Việt Nam là nét thùy mị, dịu dàng, kín đáo và đặc biệt là sự bẽn lẽn, e thẹn. Rồi tà áo dài chiếc nón lá… đều là những cái thật dễ thương và đáng yêu.
Tuy nhiên, hiện tượng lấy chồng ngoại không thể không xảy ra những bất trắc, những bi kịch hụt hẫng bởi những mưu tính vụï lợi nhỏ nhen của cả đôi bên, đặc biệt lo ngại là những cô gái lấy chồng Đài Loan.
Bất chấp những trớ trêu từ các cuộc hôn nhân, mai mối chẳng khác chi mua bán nô lệ, đổi chác hàng hóa. Đó là chưa ai để ý đến số phận của những cô gái phải theo chồng về xứ lạ đang hối hả nộp đơn xin ly dị, tìm đường về nước, còn nóng vội hơn cả hôm xuất ngoại theo chồng. Những trục trặc đắng cay xảy ra đều do bởi những cái không biết sau đây.
Cái không biết thứ nhất là về bản thân của đối tượng.
Các cụ ta ngày xưa đã dạy:
- Lấy vợ xem tông,
  Lấy chồng xem giống.
Nhiều khi phải thẩm tra ngược dòng thời gian tới ba bốn đời xem có chi bất ổn. Đằng này người ta sờ mó và chọn mình, chứ mình đâu được quyền chọn người ta.
Phận gái lấy chồng ngoại giống như giọt mưa sa. May thì rơi vào chỗ nước trong. Chẳng may thì rơi vào vũng bùn hay đống phân trâu thì cũng đành phải chịu vậy.
Có chàng sang Việt Nam với mác kỹ sư, nhưng thực chất chỉ là tay thợ hồ hay bốc vác, không hơn dân cu li cu leo là mấy. Có chàng vì tai nạn bị phỏng nặng, toàn thân đầy sẹo to sẹo nhỏ nhưng được che phủ bằng những bộ quần áo đắt giá, nhưng khi về đến nhà thì… hỡi ôi.
Cô nàng kia vớ được anh chồng tướng tá cao ráo, đi đứng lúc nào cũng từ tốn chập chạp. Đến tân hôn, từ phòng tắm bước ra, cô nàng suýt hét lên bởi vì trước mặt cô là một anh chàng chỉ có ‘’một khúc mà thôi’’.hai chân giả quá khéo được lấy ra, kể ngay đầu giường. Thế là kể từ đó, anh chàng ‘’thiếu chân đứng’’ này luôn hành hạ cô nàng, bắt cô nàng phải cõng đi ăn, phải bế đi tắm… chỉ khi ra đường mới chịu gắn chân giả.
Cái không biết thứ hai là về mục đích.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng.
Thế nhưng, khi lấy chồng ngoại, người con gái lại mù tịt về chồng cũng như về nhà chồng, thì làm sao mà gánh vác ? Hơn nữa, phần lớn những cuộc hôn nhân này lại diễn ra theo nhịp điệu của mua bán. Người con gái không biết mình được mua để làm gì ?
Có những kẻ cưới vợ là để vợ làm những việc đồng áng nặng nhọc như những người làm thuê. Có những kẻ cưới vợ là để vợ chu toàn những công việc bếp núc trong nhà như một người đầy tớ. Có những kẻ cưới vợ là để thỏa mãn những đòi hỏi thân xác.
Báo Công an kể lại:
Một cô gái trẻ Việt nam lấy một ông chồng già Đài loan bằng tuổi ông ngoại. Ai ngờ khi về nước, lão viên ngoại đốn mạt này bắt cô phải phục vụ “chuyện ấy” cho em trai, rồi con trai, rồi cháu trai của lão cho đáng đồng tiền bát gạo lão đã bỏ ra để mua cô về.
Bất hạnh hơn nữa phải kể đến những cô gái lâm vào thế đường cùng nơi đất khách, bị lọt vào những tổ chức mại dâm quốc tế. Những tổ chức này tại Việt nam có thể được mang những vỏ bọc bên ngoài đẹp đẽ, như môi giới hôn nhân, lao động ở nước ngoài… những thí sinh được tuyển chọn, khi đi hăm hở bao nhiêu, thì khi về cũng vội vã bấy nhiêu.
- Khi đi thì dệt mộng vàng,
  Đến khi về nước thì ngậm bồ hòn đắng cay.
Cái không biết thứ ba là về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ và tiếng nói là phương tiện Thượng đế trao ban để chúng ta chuyền đạt những tư tưởng, những ý nghĩ cho người khác hầu xích lại gần nhau và bắc được một nhịp cầu cảm thông.
Thế nhưng, vì bất đồng ngôn ngữ, không hiểu nhau, không cảm thông cùng nhau, thì cũng khó mà hạnh phúc với nhau.
Để chứng thực điều trên, gã xin kể lại một câu chuyện cho tất cả cùng… cười.
Thấy thiên hạ có con gái lấy chồng Đài loan, chẳng khác nào đào trúng mở vàng. Nhà cửa vinh vang. Xe cộ đổi đời liên tục. Ông hai Nhơn nôn nóng. Ngó đi ngó lại chỉ còn mỗi cô gái út tên là Mén. Kể ra Út Mén cũng hiền lành lại đẹp gái, vì thế ông kiên quyết phải cho con gái mình lấy chồng ngoại, chứ không cho lấy chồng nội.
Chẳng bao lâu mơ ước của ông đã thành sự thật. Một chàng rể Đài loan to con tốt tướng, tóc húi cao và tuổi sấp xỉ bằng ông xuất hiện. Lối xóm xì xào bàn tán. Ông bỏ ngoài tai, ông rất hài lòng và hãnh diện vì Út Mén đã có chồng ngoại. Hôm bà mối dẫn anh chàng Đài loan về ra mắt ông Hai Nhơn và coi mặt Út Mén, thiên hạ cứ tưởng rằng bạn ông ghé thăm.
Đến khi gia đình làm tiệc chiêu đãi, muốn biết khẩu vị của anh chàng rể tương lai thì được bà mối giải thích:
- Hễ anh chàng Đài loan kêu “ột ột” là thích ăn thịt heo, kêu “hùm bò” là thích ăn thịt bò, kêu “cạp cạp” là thích ăn thịt vịt, kêu “ò ó o” là thích ăn thịt gà. Khi ăn no thì ôm bụng xua tay. Và thế là cả nhà đều vui vẻ.
Một tháng sau, anh chàng rể Đài loan đột xuất về thăm bố vợ và cô vợ sắp cưới. Có lẽ vì đột xuất nên chỉ đi với bác tài xế mà không có bà mối kèm theo.
Bác tài xế thì tiếng anh mới chỉ lõm lõm, thích nói bằng tay hơn bằng mồm, còn tiếng tàu thì hoàn toàn mù tịt. Vì thế khi vô nhà, mọi người đều chào nhau, nhìn nhau, cười nhau và chẳng nói với nhau được sự gì.
Sau khi nhận quà cáp, ông Hai Nhơn bảo vợ và con gái làm tiệc đãi anh chàng rể quí. Những do không biết món gì hợp khẩu với anh chàng rể, ông bèn nhớ đến mấy ngôn ngữ bà mối đã méc lần trước. Ông bèn đưa tay khều anh chàng rể một cái và nói:
- Cạp cạp cạp.
Anh chàng rể gật đầu. Ông khều cái thứ hai và nói:
- Ò ó o.
Anh chàng rể cũng gật đầu. Ông tiếp tục khều cái thứ ba và nói:
- Ột ột ột
Anh chàng rể cười cười, rồi gật đầu. Thế là ông Hai Nhơn cùng Út Mén làm thịt một cặp vịt, một con gà và một con lợn bốn chục ký.
Trong khi ăn, anh chàng rể quẳng một mẩu xương gà xuống đất. Hai con chó chạy lại giành:
- Gừ gừ… Gâu gâu.
Có lẽ vì lạ tai vui mắt, chàng rể bèn buông đũa, bỏ bát, tay chỉ hai con chó, miệng mỉm cười và:
- Gừ gừ… Gâu gâu.
Ông Hai Nhơn tưởng anh chàng rể đòi ăn thịt chó, nên lập tức truyền cho con gái đun nước sôi và đích thân ông ra tay hạ thủ hai chú chó vô tội.
Nấu thịt cầy xong và dọn lên. Anh chàng rể và bác tài xế ngơ ngác. Vợ chồng ông Hai Nhơn cũng ngơ ngác. Cô Út Mén lại càng ngơ ngác hơn.
Vì ham chồng ngoại, rể ngoại, không ít người đã liều nhắm mắt đưa chân, phớt tỉnh ăng lê những chuyện không biết kể trên, để rồi đã phải lãnh đủ những hậu quả dở cười dở khóc.
Mà chắc chắn, khóc phải nhiều hơn cười rồi.
Gã Siêu

------------------------------
 
 

GãSiêu 106: THAM NHŨNG VÀ HỐI LỘ

 

Trong những năm tháng gần đây, việc gian lận, xơi tiền của dân của nước mỗi ngày một phát triển GãSiêu 106


Trong những năm tháng gần đây, việc gian lận, xơi tiền của dân của nước mỗi ngày một phát triển, cả về số lượng lẫn về phẩm chất. Mặc dù không nhớ rõ lắm, nhưng gã cũng xin “kê đơn hoàn tán” những vụ điển hình.
Ngày xưa, Nguyễn văn Mười Hai, chủ tiệm nước hoa Thanh Hương, đã dùng thủ đoạn vay vay mượn mượn để ẵm của những người dân tội nghiệp hơn 104 tỷ đống.
Theo vết xe đổ, Phạm công Tước cũng đã dùng mánh mung trên để nuốt trửng 130 tỷ đồng của ngân hàng Nhà nước.
Người đẹp Trần xuân Hoa, với độc chiêu ấy cộng thêm tí nhan sắc trời ban cho, đã xơi tái 250 tỷ đồng của ngân hàng.
Noi gương các vị tiền bối, Phạm huy Phước cũng đã vay vay mượn mượn và rồi đã ăn trọn hơn 300 tỷ đồng.
Có một thời, phong trào giật hụi, bể nợ như một trận cuồng phong thổi vào đất nước, ở mọi nơi và trong mọi lúc, người ta dở khóc dở cười, dở mếu dở máo vì đồng tiền chắt chiu bằng mồ hôi nước mắt của mình bỗng dưng bị bốc hơi, còn thủ phạm thì cao chạy xa bay, hay ngồi tù ít ngày để tồn tâm dưỡng tánh vì không còn khả năng chi trả.
Và gần đây hơn, hai vụ nổi cộm đã làm cho người dân phải xót xa, đó là vụ Tân trường sanh và Tăng minh Phụng.
Với vụ Tân trường sanh thì số hàng nhập lậu lên tới hơn 900 tỷ đồng. Riêng số tiền chè nước lo lót khoảng 9 tỉ rưỡi. Còn vụ Tăng minh Phụng, thì Nhà nước mất toi 4.000 tỷ đồng, bằng số tiền của toàn dân thắt lưng buộc bụng mua công trái trong hai tháng đầu tiên được phát động của năm 1999.
Từ những sự kiện trên, gã bỗng nhớ tới câu chuyện cổ tích “ăn khế trả vàng”.
Ngày xửa ngày xưa, tại một làng nọ có một nhà kia, ông bố chết đi để lại hai người con trai với một gia tài kếch xù. Ông anh, ỉ mình là trưởng nam quyền huynh thế phụ, đã nuốt vội nuốt vàng toàn bộ sản nghiệp to lớn ấy, chỉ để lại cho chú em một túp lều tranh xiêu vẹo và một cây khế.
Hằng ngày, chú em hái khế đem ra chợ bán lấy tí tiền còm đong gạo và mua sắm những thứ cần thiết cho sinh hoạt gia đình bởi vì đó là nguồn thu nhập duy nhất.
Cũng như mọi ngày, sáng sớm hôm đó chú em ra hái khế, thì một con quạ to ơi là to đã xơi hết những trái chín. Thấy vậy, chú em bèn than thở cả tiếng:
- Quạ ơi quạ, quạ biết tôi nghèo túng mà còn nỡ lòng nào xơi hết những trái khế chín của tôi.
Quạ trả lời:
- Anh đừng lo, ta sẽ đền ơn đáp nghĩa cho anh. Anh hãy về may một cái túi rồi sáng mai chờ ta tại đây.
Nghe quạ nói, chú em về nhà may một cái túi, rồi sáng hôm sau ra gốc cây khế chờ quạ. Chờ chưa được bao lâu thì quạ đến và công chú em tới một hải đảo xa xôi, nhưng lại đầy vàng.
Khi chú em lượm chặt  túi, quạ liền công chú về. Với túi vàng này, chú em làm lại nhà cửa và trở nên một người giàu có trong làng.
Sững sờ trước sự phất lên mau chóng của chú em, ông anh bèn gạ gẫm hỏi cho biết bí quyết mánh mung. Chú em đơn sơ thật thà kể lại đầu đuôi sự việc là như thế cho ông ta.
Sáng hôm sau, ông ta ra hái khế, thấy quạ đã xơi hết trái chín, liền than thở đúng bài bổn và được quạ căn dặn về nhà may túi.
Khấp khởi mừng thầm vì phen này ắt hẳn vớ to. Ông ta quát tháo bà vợ may cho mình một chiếc bao thật lớn, loại bao hai dạ “được mùa” của các bác nông dân vùng đồng bằng sông Cửu long.
Sáng hôm sau, ông ta cũng ra chờ ở gốc khế và được qua công ra đảo vàng. Ông ta lèn cho đầy một bao, rồi lại còn nhét vào trong túi quần, túi áo và ngậm cả ở trong miệng.
Quạ công ông ta về, nhưng  vì không kham nổi trọng lượng của bao vàng, nên cuối cùng đã phải thả ông ta xuống biển khiến ông ta bị chết trôi chết nổi giữa sóng nước.
Từ câu chuyện trên gã nghiệm ra một sự thật:
- Phàm đã là người thì dường như không nhiều thì ít, ai cũng có tí máu tham trong mình. Đã cầm cuốc thì ai cũng cuốc vào chứ nào ai có cuốc ra bao giờ. Hễ có dịp, thì dường như ai cũng chịu khó vơ vét cho đầy túi tham. Chỉ phiền một nỗi là đối với lắm kẻ thì túi tham ấy lại thủng đáy, cho nên vơ vét vào mà chẳng bao giờ đầy.
Sự việc xảy ra ở bên Đức:
Khi trận đấu bóng kết thúc, mọi người ra khỏi sân vận động, không hiểu tiền ở đâu mà rơi vãi lắm thế trên hè phố. Thế là tất cả, từ những người đạo mạo và mô phạm cho đến những tay cà chớn, ai nấy đều mắt trước mắt sau, lấm lét cúi giả bộ như sửa giây giày, nhưng thực chất là xuống lượm và lượm cho bằng hết những đồng tiền rơi vãi.
Tuy nhiên, khi về tới nhà, dưới ánh đèn sáng choang thì mới bật ngửa, té ra đó chỉ là những đồng tiền giả của một kẻ chơi khăm, muốn trắc nghiệm xem có quí vị nào không tham.
Nếu gian tham là một chứng bệnh, thì nơi những người có quyền có chức, chứng bệnh này thường được bộc phát qua hai dạng đặc biệt, đó là tham nhũng và hối lộ.
Đúng thế, phải có quyền có chức, phải là các quan thì mới có điều kiện và cơ may để đớp tiền chùa của nhà nước cũng như xơi tiền mồ hôi nước mắt của dân, như cha ông chúng ta ngày xưa đã từng lên tiếng báo động:
- Con ơi, nhớ lấy câu này,
  Cướp đêm là giặc, cướp ngày là…quan.
Người ta thường dùng lẫn lộn tham nhũng và hối lộ, nhưng theo thiển ý của gã, mặc dầu có chung một mẫu số là xơi tiền của dân của nước, nhưng mỗi bên đều có những lãnh vực riêng biệt.
Vậy thế nào là tham nhũng và thế nào là hối lộ ?
Trước hết, chúng ta sẽ cùng nhau bàn về tham nhũng.
Impact, một tạp chí chuyên ngành về tài chính có uy tín đã đưa ra một định nghĩa khá mỹ miều như sau:
- Tham nhũng là sự coi thường tính minh bạch và liêm khiết trong các vấn đề có liên quan đến lợi ích công cộng.
Định nghĩa này xem ra có vẻ hoa hòe hoa sói, nhiêu khê và rắc rối.
Còn theo “Việt nam tự điển” của Lê văn Đức thì:
- Tham nhũng xuất phát bởi bốn chữ “tham lam nhũng lạm”. Bốn chữ này có nghĩa là ăn bớt của chung.
Còn nếu nói huỵch toẹt như gã, thì :
- Tham nhũng chính là ăn cắp của công.
Nghệ thuật ăn bớt, ăn xén, ăn cắp…của các quan thì thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không lường nổi.
Chẳng hạn như Nhà nước trao cho quan xây dựng một công trình. Quan liền ký hợp đồng với một công ty nào đó, thỏa thuận nâng giá thành lên để rồi chia nhau phần sai biệt. Làm như vậy, cả hai đều có lời, nhưng lại là một thứ cấu kết liên doanh với ma quỉ.
Rồi khi mua sắm vật tư, quan có thể làm hóa đơn khống, nghĩa là không mua mà vẫn có hóa đơn, hay mua một nhưng ghi thành hai, hay mua rẻ nhưng ghi thành mắc…Vì thế, quan càng làm, càng có tiếng với dân, lại càng có nhiều miếng để mà đớp.
Quan đánh hơi thấy chỗ nào có mùi tiền là liền vươn vòi bạch tuộc tới đó, hay chịu khó nhúng cả bàn tay lông lá vào ngay. Thậm chí có những quan vui vẻ xơi ở cả những chỗ không đáng xơi.
Chẳng hạn đồng tiền của những cơ quan viện trợ giúp cho những người phong cùi hay mồ côi, chạy vòng vo tam quốc, thế nào cũng rò rỉ vào túi các quan một mớ, quan lớn xơi nhiều, quan bé xơi ít, để rồi khi tới tay trại phong cùi hay viện cô nhi thì chẳng còn bao nhiêu. Chỉ là như mấy giọt nước tong teo được nhỏ xuống mà thôi.
Gã còn nhớ, năm 1978  vùng gã ở bị lụt lớn. Nhà nước kêu gọi toàn dân nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm lá rách. Thậm chí ngay cả những thày cô giáo vùng gã, vốn mang danh là những người “húp cháo”, lại đang gặp thiên tai cũng phải hưởng ứng lời kêu gọi cứu trợ. Mà không hưởng ứng cũng không được vì thiên hạ trừ tật vào tiền lương của mình. Thôi thì lá rách ít đùm lá rách nhiều, lá rách vừa vừa đùm lá rách te tua, cứu trợ bất dắc dĩ cũng chẳng sao, đổi khóc thành cười mà miệng thì cứ méo xệch.
Theo số liệu trên báo chí thì khoản tiền cứu trợ này thật đáng khích lệ, nhưng cuối cùng trong cả ấp của gã thì chỉ có mấy gia đình thuộc hạng “khố rách áo ôm”, nghèo rớt mùng tơi là được chiếu cố, đi lãnh mấy ký gạo hẩm và một lít nước mắm thối của cái được gọi là cứu trợ đồng bào bị  thiên tai. Quả là đầu voi đuôi chuột.
Những vị quan có máu tham nhũng được sánh ví như là những con chuột nhắt đục khoét bồ lúa, hay như một loại mối mọt ăn rỗng cây cột và làm cho cây cột bị gẫy đổ lúc nào không hay. Quĩ của Nhà nước mỗi ngày một tóp lại và trở nên rỗng tuếch, còn quĩ  của các quan mỗi ngày một phình ra, nào nhà lầu, nào xe hơi và trăm thứ lỉnh kỉnh khác nữa.
Hồi gã còn bé ở ngoài Bắc không có nhiều kẹo như bây giờ. Cả nhà có mỗi một khạp mật được bố cất kỹ để dùng mỗi khi cần đến chất ngọt. Thế là những lúc bố đi vắng, gã bèn chui vô ăn vụng bằng cách chấm ngón tay vào khạp mật, ngoáy một vòng rồi đưa lên miệng mút lấy mút để, mút hết cả ghét khiến ngón tay cứ…trắng tươi.
Với các quan cũng vậy, hành động tham nhũng chính là hành động chấm mút. Các quan chấm ngón tay vào công quĩ rồi  vô tư, mặc sức mà…mút cho thoải mái.
Bây giờ gã xin bàn tới phạm trù thứ hai, đó là ăn hối lộ.
Ngày xưa có những bọn cướp thường chặn và bắt dân chúng phải đóng một khoản tiền được gọi là “mãi lộ”, để “mua đường đi”, thì mới được qua lại trên đoạn đường ấy. Chẳng hiểu có phải vì vậy mà phát sinh ra hai chữ hối lộ, tức là đút lót tiền cho các quan để nhờ cậy một công việc, để được che chở hay được một ơn huệ nào đó.
Nói cách khác, hối lộ là việc người dân dùng tiền bạc hay quà cáp… có khi vui lòng, có khi bị ép buộc mà dâng cho các quan một cách kín đáo trong một dịch vụ nào đó.
Thuở ban đầu, khi nhân chi sơ tính bản thiện, thì hành vi biếu xén rất có thể chỉ là một hành vi đền ơn đáp nghĩa.
Chẳng hạn gia đình bị mất trộm, tôi đến công an trình báo và công an không những đã tìm ra thủ phạm mà còn bắt thủ phạm phải hoàn trả những món đồ đã chôm được của gia đình tôi. Khi nhận lại những của đã mất, tôi thầm nghĩ  mình cũng phải biết điều, ít  nữa là đối với những anh em công an. Mặc dầu họ không đòi, nhưng mình vẫn phải làm, như có một sự thúc ép từ bên trong:
- Đã nhận ơn thì phải biết ơn và đền ơn.
Thế nhưng chuyện đời không đơn sơ và phẳng phiu như thế. Kinh nghiệm cho thấy: đồng tiền đi trước, đồng tiền khôn. Đằng nào cũng đút thì nên đút trước, bởi lẽ sẽ làm cho quan vui vẻ hơn. Và một khi quan đã vui vẻ thì công việc của mình hẳn sẽ đầu xuôi đuôi lọt, đỡ phải những mắc míu khó khăn, như một nhà thơ đã phát biểu:
- Có tiền việc ấy mà xong nhỉ.
Trong báo”Tuổi trẻ chủ nhật” có ghi lại một mẩu chuyện hài hước của Zadorop. Mẩu chuyện ấy đại khái như thế này.
Vừa qua, người ta đưa tôi vào bệnh viện để mổ ruột thừa gấp. Thế nhưng bác sĩ nói:
- Hôm nay chúng tôi phải giải phẫu cho mấy người nước ngoài.
- Xin bác sĩ  cứ tính gấp đôi.
Bác sĩ vui vẻ nói:
-Đây lại là chuyện khác, đáng lẽ anh nên nói ngay từ lúc đầu.
Thế là bác sĩ  mổ cho tôi ngay lập tức, không kịp tiêm thuốc tê vì cô y tá gây tê xin nghỉ bù sáng nay.
Khi ruột thừa đã cắt xong thì đúng mười hai giờ. Bác sĩ buông dụng cụ, lột bao tay và nói:
- Hết giờ làm việc.
- Thế ông không khâu lại cho tôi sao ?
- Tự nó sẽ lành thôi.
Tôi lại thử một lần nữa:
- Chỗ quen biết, ông cứ tính cả tiền xăng dầu, lẫn tiền cà phê luôn nhé.
- Thế thì được, theo nguyên tắc chúng tôi không khâu cho ai ngoài giờ cả. Nhưng chỗ quen biết với nhau, tôi linh động cho anh đấy.
Cuối cùng, bác sĩ đã khâu bụng lại cho tôi. Nhưng chẳng có ai đưa tôi về phòng. Tôi cố gọi mấy cô y tá, nhưng ai cũng đi qua vội vã. Mãi nửa đêm tôi mới nhờ được một người tàn tật cho bám vào xe lăn.
Chính vì thế, dân cảm thấy đó là như một bổn phận vì muốn được việc thì cần phải biết điều, cần phải hối lộ. Còn các quan, được đút mãi, được xơi hoài thành tật theo kiểu “quen mui thấy mùi ăn mãi”, và nghiễm nhiên coi đó là một thái độ phải có, một bổn phận phải làm của dân.
Đây quả là cái vòng luẩn quẩn của một mê hồn trận, của một thế cài răng lược, tựa lưng vào nhau mà sống: Có đớp thì mới đút và có đút thì mới đớp.
Thậm chí trong vụ Tân trường sanh, bị cáo Phùng long Thất, một cán bộ Hải quan cao cấp đã phải thốt lên ai oán:
- Thân mình không thể không nhận “bồi dưỡng”, vì ngày nào cũng bị khách hàng o bế cung phụng.
Và như thế, tệ trạng hối lộ đã trở thành chuyện đời thường, như một tục lệ đương nhiên. Mà đã là lệ thì khó mà xóa bỏ, bởi vì phép vua còn thua cả lệ làng.
Tệ trạng hối lộ vẫn đang liên tục phát triển, trăm hoa đua nở với những danh xưng thật mỹ miều, nào là tiền bồi dưỡng, tiền chè nước, nào là phong bì, quà cáp…Tệ trạng này có mặt trong mọi lãnh vực, gã xin ghi lại nơi đây một số ý kiến của bạn đọc về vấn đề này đã được đăng tải trên báo Công giáo và Dân tộc.
“Khi xin giấy tờ về nhà đất, về kinh doanh hay mua bán xe…tất cả đếu phải “trà nước” nếu muốn nhanh việc. Cho dù đây không phải là luật, nhưng đã là lệ. Nếu phải chạy đi chạy lại nhiều lần cho một công việc nào đó, gia đình sẽ bảo tôi là khờ, là không bén “nhạy”.
“Bây giờ muốn làm gì thì khó mà đi tay không. Việc tặng quà đã  trở thành cái nếp, gần như là một cố tật của xã hội. Người ta cho rằng những món quà chỉ mang ý nghĩa “tình cảm”. Thật ra chẳng tình cảm chút nào cả, chỉ có người tặng quà và người nhận quà mới biết rõ nó mang ý nghĩa gì. Theo tôi, hối lộ có nhiều mức độ khác nhau, nhưng mức độ khởi đầu của nó là quà biếu.
“Tôi xin làm bản sao khai sinh cho con để nộp đơn đi học. Nhân viên hộ tịch bảo phải một tuần sau. Tôi đành đưa một phong bì bồi dưỡng. Thế là mọi chuyện ổn thỏa nhanh chóng.
“Mấy lần trước về tới Tân sơn nhất, nhiều Việt kiều nhét 5 USD  vào giấy thông hành. Lần này về thăm gia đình, lại chẳng tốn đồng nào. Tôi nghĩ  đã có sự thay đổi trong đội ngũ hải quan. Nhưng gia đình tôi lại nói chắc là họ quên.
“Ba tôi mất ở bệnh viện bị đưa xuống nhà xác. Gia đình phải chi tiền bồi dưỡng cho nhân viên quản lý, xác ba tôi mới được nhanh chóng về nhà. Mẹ tôi cũng nằm viện, do rút kinh nghiệm, nên khi mẹ hấp hối, gia đình xin đưa mẹ về trước. Nhưng cũng phải bồi dưỡng cho các bác sĩ, y tá…
“Có người đã gọi ngày nhà giáo là “ngày cho đồ thày cô”. Tôi buồn quá. Một ngày kỷ niệm bị biến thành ngày nặng về vật chất, bôi nhọ luôn những món quà đầy ắp tình cảm.
Lời phát biểu trên chưa đau cho bằng lời phát biểu của một vị phụ huynh mà gã đã được nghe thấy:
- Chúng tôi đã đóng tiền cho các thày các cô nhậu rồi còn đòi hỏi gì nữa!!!
Từ những cảm nghĩ trên, có người đã cho rằng: tiền hối lộ chính là một “chất mỡ” bôi trơn bánh xe vận hành thương mại và đầu tư ở các nước đang phát triển.
Họ nêu ra trường hợp một địa phương miền nam Trung quốc, nhà đầu tư phải lo lót tiền cho chính quyền xã để mở một con đường giao thông huyết mạch đi ngang qua xã này mà không có trong qui hoạch. Mấy năm sau, con đường ấy phát huy tác dụng, nhà đầu tư lẫn địa phương đó đều giàu lên.
Tuy nhiên, một vài trường hợp như trên không đủ để thuyết phục bất cứ ai thấm thía với tệ nạn tham nhũng hối lộ bởi vì nó chính là yếu tố quan trọng  hơn cả làm suy thoái kinh tế và mất ổn định xã hội.
Luật sư  Nguyễn văn Phương cũng viết:
“Một nguyên nhân nổi bật và gây nhức nhối là vấn đề “tiền bồi dưỡng”. Với “tiền bồi dưỡng”, người ta đã có thể mua được cả một ngành mà nhiệm vụ là gác cổng không để hàng lậu lọt vào phá hoại kinh tế quốc gia. Nhưng đâu chỉ có ngành Hải quan nhận tiền bồi dưỡng, mà vấn đề tiền bồi dưỡng có mặt ở khắp nơi, trong mọi hoạt động, trong mọi ngành nghề. Thiếu nó thì công việc không chạy, hoặc chạy không trơn tru, nên thật khéo khi người ta gọi nó là “tiền bôi trơn”. Vấn đề này xảy ra thường xuyên quá đến nỗi người ta coi nó là chuyện đương nhiên và không hề có mặc cảm tội lỗi khi thực hiện nó.
Theo con số thống kê quốc tế, trong thời gian từ 1988-1992, kim ngạch xuất khẩu bình quân hằng năm của mười tập đoàn xuất khẩu vũ khí đạn dược lớn trên thế giới là 30 tỷ mỹ kim, trong đó có khoảng 4 tỷ mỹ kim được dùng vào việc hối lộ trực tiếp hoặc gián tiếp các chính khách và các quan chức cao cấp.
Nếu gã không lầm thì hình như chính phủ của thủ tướng Tanaka bên nước Nhật cũng đã bị gục ngã vì số tiền hối lộ của một công ti chế tạo máy bay tại nước Mỹ!
Tuy nhiên đút được và được đút cũng như đớp được và được được đớp quả là một nghệ thuật. Ở đây gã chỉ bàn thêm chút xíu về hai thứ nghệ thuật này.
Hồi trước ngày Giải phóng, tất cả các xe đò muốn qua trạm kiểm soát một cách mau chóng thì anh lơ phải mau mắn nhảy xuống xe đút một tờ báo cho viên cảnh sát. Dĩ nhiên là trong tờ báo ấy có kẹp thêm “Đức thánh Trần”, tức là tiền năm trăm thời đó.
Bây giờ, các Việt kiều muốn thủ tục nhập cảnh được êm xuôi, thì khi tới sân bay, cứ việc kẹp sẵn vài đồng đô la trong hộ chiếu là qua cửa ải cái vù. Đó cũng là một cách đút.
Nếu đút cửa trước xem chừng có vẻ…căng, thì hãy chịu khó luồn cửa hậu, cửa sau, nghĩa là hãy chịu khó liên hệ với quan bà, vì một lời của quan bà đối với quan ông thì bằng ngàn lời của người dưng nước lã.
Thấy tiền và nhất là thấy vàng, chắc chắn quan bà sẽ rất lấy làm xúc động mà bàu cử cho.
Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi vì  lấy vàng để nhử đờn bà và lấy đờn bà để nhử đờn ông, vốn là một qui luật của ngàn đời.
Riêng các quan, muốn đớp một cách khéo léo ít kẻ biết được, thì mỗi khi có tí chuyện vui hay tí chuyện buồn như: đám giỗ cho các cụ thân sinh, đám cưới cho con, đám thôi nôi cho cháu, hay đám kỷ niệm quan ông lấy quan bà…thì cứ việc mở tiệc cho linh đình.
Đối với dân đen, thì đông vui hao, chứ đối với các quan, đông vui…thì chỉ có lời. Các thân chủ khi nhận được thiệp báo tin thì hãy lo chuẩn bị một phong bì thật chất lượng, hay quà cáp thật hậu hĩnh.
Có một vở kịch mang tựa đề là “phong bì” được báo Công An thành phố tóm lược như sau:
Có ông bác sĩ “lương y như từ mẫu” nên rất nghèo, quanh năm cứ được bà vợ cho ăn cơm với rau muống. Hết luộc tới xào, hết xào tới nộm, khiến ông thấy rau muống là phát ngán.
Cuối cùng hai vợ chồng mới tìm ra nguyên nhân khi soi rọi lại các đồng nghiệp của mình cứ giàu lên, đó là do ông bác sĩ  chân chính này không chịu nhận phong bì. Hai vợ chồng ông bác sĩ sau khi “ngộ” ra cái nguyên nhân nghèo của mình, nên quyết định…nhận phong bì.
Bất ngờ có một đứa bé gái đến gõ cửa nhờ cứu mẹ đang nằm trong bệnh viện chờ mổ và đưa cho ông bác sĩ cái phong bì. Quyết tâm thì có, nhưng lương tâm thì chống lại, nên ông bác sĩ rất khổ sở, giằng xé trước cái phong bì. Nhận hay không nhận ? Bà vợ càng thúc giục, ông bác sĩ  càng đau khổ.
Hỏi thăm hoàn cảnh của “khổ chủ” mới vỡ lẽ ra rằng trước đây đứa bé gái cũng có một người cha đau nặng phải vào nhà thương để mổ, nhưng vì nghèo quá không có phong bì nên người cha ấy đã chết. Bây giờ cô bé không muốn mất thêm người mẹ, nên cương quyết phải đưa phong bì cho ông bác sĩ.
Cuối cùng, cái gút của vấn đề đã được mở cũng từ cái phong bì khi có sự giằng co của bà vợ ông bác sĩ  khiến tiền trong bì bị rơi: thì ra chỉ là mấy đồng bạc lẻ.
Để kết luận gã xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ trong sách “Cổ học tinh hoa”.
Có một ông quan vừa mới nhận chức tại một huyện xa xôi. Ban đêm, một người bạn đến thăm và đút cho ông ta một số tiền lớn. Ông quan thanh liêm nhất định không nhận, nhưng người bạn liền nói:
- Trời thì tối, chẳng có ai biết được đâu mà sợ.
Ông quan trả lời:
- Trời biết, đất biết, anh biết và tôi biết, sao lại nói chẳng có ai biết được đâu ?
Thế nhưng, các vị quan thời nay cứ phớt tỉnh ăng lê, ung dung xơi một cách tận tình, miễn sao đừng để cho sao quả tạ chiếu tướng.  Chỉ khi nào lỡ chùi mép không kịp, bị sờ vào gáy và bị lôi ra tòa xét xử thì mới giật mình và vội vã kêu lên rằng:
- Mình bị oan…mình bị lừa…hay mình dốt và thiếu khả năng nhưng bị đặt ngồi vào ghế cao một cách bất đắc dĩ…
Giữa lúc ba tòa quan lớn xét xử những vụ tham nhũng hối lộ nổi cộm như Tân trường sanh, Minh phụng… thì  báo chí cho biết:
- Các nhân viên hải quan đang thi hành nhiệm vụ vẫn tiếp tục nhận tiền bồi dưỡng và những người làm thủ tục hải quan vẫn tiếp tục đưa tiền bồi dưỡng như thường lệ.
Nếu vậy,  cứ diệt tham nhũng, nhưng diệt rồi thì biết lấy ai mà lo việc dân việc nước.
Và thế là tòa xử, tòa cứ xử. Ta đớp, ta cứ đớp.
Gã Siêu

--------------------------
 
 

GãSiêu 107: NHẬU 2

 

Một nhà học giả kia đã bàn về cái cười của người dân Việt, đại khái như sau: - Dân An nam ta GãSiêu 107


Một nhà học giả kia đã bàn về cái cười của người dân Việt, đại khái như sau:
- Dân An nam ta cái gì cũng cười. Vui cũng cười mà buồn cũng cười. Động một tí là vén môi cười…tồ tồ.
Mà đúng thế. Một vị linh mục, gốc Canada, ngày nọ loan báo cho đám học trò của mình:
- Cha Bolumburu, vị giáo sư khả kính của chúng ta mới qua đời.
Bỗng một tiếng cười ồ của đám học trò vang lên, làm cho vị linh mục tức giận đến nỗi đỏ mặt tía tai, suýt nữa thì hộc cả máu mồm. Bởi đó, ngài liền mắng te tua:
- Tôi không hiểu được tại sao khi loan báo một tin buồn như thế mà các anh lại cười được.
Cuối cùng, mấy tên đầu sỏ, đại diện cho đám học trò, bèn phải gặp gỡ để giải thích:
- Chúng con cười không phải vì mất đi một vị giáo sư, nhưng cười vì tên của ngài nghe thật lạ tai. Bolumburu mà.
Tuy hiểu là như thế, nhưng xem chừng vị linh mục ngoại quốc này vẫn còn tức như bị…”tê giác húc” ấy.
Cũng một thể thức ấy, gã có thể phán về sự nhậu của người Việt mình như sau:
- Dân An nam ta cái gì cũng nhậu. Vui cũng nhậu mà buồn cũng nhậu. Động một tí là…nhậu liền tù tì.
Gã đã lượm trên báo “Tuổi trẻ chủ nhật” một mẩu ngăn ngắn với tựa đề: “Quá trời là nhậu”. Tác giả đã viết:
“Khó mà kể hết có bao nhiêu cách để nhậu, bao nhiêu chuyện để nhậu. Này nhé:
- Nhờ người bạn mua giúp chiếc xe honda…cũng nhậu. Hôm qua mới lĩnh lương…cũng nhậu. Tuần rồi mới nhận hàng “bển” gửi về…cũng nhậu.
Rồi này:
- Vừa tậu được xe mới hả…nhậu “tân xe” đi. Mới trúng số hả…”khao đi”. Kỳ này lên chức hả…làm một chầu “rửa lon” đi…Rõ ràng nhậu không hề có “luật” chi hết, nhưng đã trở thành “lệ” rồi.
“Khánh thành, cũng nhậu. Tổng kết, cũng nhậu. Cuối năm, cũng nhậu. Đám cưới, đám giỗ, đám hỏi, đám ma, đám đầy tháng, đám thôi nôi, đám sinh nhật, đám khai trương tiệm may, đám mừng tốt nghiệp…đều nhậu tất. Coi bộ thật khó để sửa cái đã thành nếp này.
Gã có một tên bạn thuộc hạng nghèo kiết xác, nghèo rớt mùng tơi. Hôm trước anh ta đi chợ, đụng phải một tên thương phế binh. Tóc tai bờm xờm, râu ria rậm rạp.
Tên thương phế binh này vừa mời vừa bắt anh ta mua vé số kiến thiết. Bất đắc dĩ anh ta phải mua một tấm cho yên chuyện. Rủi thay tấm vé số bất đắc dĩ giúp người ta lại trúng ngay lô hạng bét, lãnh được hai chục ngàn đồng.
Bè bạn hay tin anh ta trúng số, lục tục kéo đến mừng, rồi cắm dùi tại nhà anh ta, thành thử anh ta bèn phải miễn cưỡng tổ chức một chầu nhậu xương xương ngoài ý muốn tốn gấp đôi, gấp ba số tiền thưởng. Quả là một tấm vé số… bất hạnh.
Cũng trên báo “Tuổi trẻ chủ nhật”, tác giả Danh gia đã mô tả cái bàu khí “nhậu” thật ồn ào náo nhiệt của thành phố Saigon như sau:
“Mỗi buổi chiều cắp cặp đi làm về đều chạy qua khu “chợ nhậu hải sản” đường Thi sách. Tiếng bao khăn lạnh nổ đôm đốp, tiếng bia từng thùng được vác ra chất đống cứ như thể ngồi bên cái “đề bô” bia mới gọi là sang, tiếng réo nhau ơi ới trên điện thoại cầm tay rủ nhau đến đông vui xen vào giữa những tiếng hò “dzô, dzô”, tiếng tâng bốc, tiếng “tứ hải giai huynh đệ kết nghĩa”, tiếng khích bác, tiếng chửi thề, tiếng gây gỗ…quyện lẫn với mùi tôm, mùi cá, mùi lươn, mùi nghêu, mùi sò…Tất cả tạo thành một cảnh hỗn mang mà bất cứ một cái chợ cá nào cũng phải hổ thẹn vì thua kém.
“Quẹo ra đường Tôn Đức Thắng, rẽ qua Thị Nghè, Hàng Xanh về nhà cũng bấy nhiêu cảnh tương tự dọc hai bên đường. Không biết có bao nhiêu “chợ nhậu” như thế trong thành phố này ? Chỉ biết đi đâu cũng thấy, khiến phải băn khoăn đặt  câu hỏi:
- Phải chăng đây là “hoạt động văn hóa” chủ yếu của thành phố này vào giờ tan tầm ?
“Cứ thế ngày này sang ngày khác, các độ lớn, độ nhỏ, độ XO, độ VSOP, độ bia, độ đế, độ rượu thuốc từ lâu đã thay thế bữa cơm tối vợ chồng, con cái đoàn tụ trong nhiều gia đình. Mù mịt đến khuya chồng mới bò về đến nhà, vợ có hỏi, may mắn lắm mới được chồng    nạt:
- Làm ăn mà. Thời buổi kinh tế thị trường không nhậu làm sao làm ăn, làm sao ký hợp đồng được chớ ?
“Còn rủi phận hơn thì ăn đấm, ăn đá.
Chúng ta thường nói:
- Con người không sống để mà ăn, trái lại con người ăn để mà sống.
Nhờ ăn, mà cơ thể được bồi dưỡng, có đủ sức để lao động sản xuất. Nhờ uống chút ít mà chúng ta có thể tạo được một bàu khí vui vẻ, cởi mở và thân mật. Chính vì thế, khi ngồi vào bàn tiệc, chúng ta thường được nghe những câu nói để tạo “khí thế”, chẳng hạn như:
- Nam vô tửu như kỳ vô phong. Có nghĩa là con trai mà không uống rượu thì như cờ không có gió, rũ rợi, ủ dột, buồn tẻ.
Những kẻ đạo đức hơn một tí thì khôi hài sánh ví:
- Cỗ không có rượu, như kiệu không có cụ. Nghĩa là đi rước kiệu mà thiếu vắng cha chủ sự, thì  quả là nhạt nhẽo vô duyên tệ.
Trong Thánh vịnh cũng đã từng có câu:
- Chúa ban rượu ngon làm vui thỏa lòng người.
Và trong cuộc sống, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần tham dự những đám tiệc. Ngài đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng tiệc cưới tại Cana và kết thúc bằng bữa tiệc Vượt qua với các môn đệ.
Tuy nhiên, nhân đức bao giờ cũng phải ở vào cái thế trung dung, “virtus in medio stat”, bởi vì phàm cái gì thái quá thì cũng bất cập. Ăn nhiều quá sinh ra bội thực , rồi từ chỗ bội thực sinh ra bệnh nọ tật kia. Còn uống nhiều quá thì  “hóa rồ hóa rại”  như tục ngữ đã bảo:
-Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm. Có nghĩa là rượu vào thì như cọp dữ giữa rừng.
- Tửu nhập tâm như  cẩu cuồng tọa thị. Có nghĩa là rượu vào thì như chó điên cắn càn giữa chợ.
Làm mất nhân phẩm của mình đã đành, mà còn gây nên đổ vỡ cho gia đình, đồng thời va chạm với những người chung quanh, làm sứt mẻ tình nghĩa bà con lối xóm.
Trước hết là đối với bản thân.
Dân bợm nhậu thường nói:
- Chưa hề có một mộ bia nào trên đó khắc ghi hàng chữ: đây là nơi an nghỉ của kẻ đã chết vì rượu.
Thế nhưng trong cuộc sống thường ngày, không thiếu chi những chuyện vui buồn xảy đến cho những kẻ say xỉn. Uống say rồi lăn kềnh ra ngủ,thì còn đơ đỡ  và không cần nói tới. Nhưng uống say mà phát rồ phát rại,thì cần phải đặt lại vấn đề.
Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi rượu vào thì lại thi nhau nhai ly, nhai cốc, nhai chén, nhai bát.
Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi rượu vào người mềm nhũn như con chi chi, đứng lên không nổi, phải có người kè người vực.
Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi rượu vào thì chân nam đá chân chiêu, đường rộng rãi thênh thang không muốn đi, chỉ muốn đi vào bụi rậm cho gai đâm sứt cằm, xẻ mũi. Lái xe thì xiên bên nọ xọ bên kia khiến cho mấy thày cảnh sát phải thổi còi biên phạt.
Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi rượu vào đã chửi bới, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay “mí” nhau, thậm chí còn vác cả gậy gộc, dao búa phang nhau túa máu đầu, gây thành án mạng như báo chí không ngớt đăng tải.
Không rồ không rại mà tại sao thiên hạ lại diễn tả về họ, những kẻ say xỉn,  như sau:
. Một xị thì mở mang trí hóa.
. Hai xị thì giải bớt cơn sầu.
. Ba xị thì mũi chảy đầy râu.
. Bốn xị thì ngồi đâu khóc đó.
. Năm xị thì cho chó ăn chè.
. Sáu xị thì làm xe lội nước.
. Bảy xị thì vợ rước không về.
. Tám xị thì ra nhị tì mà ở.
Đồng thời, thiên hạ cũng thường hát vui về họ, những kẻ say xỉn, như sau:
- Hiu hiu gió thổi đầu non,
  Những người uống rượu là con ngọc hoàng.
  Ngọc hoàng ngự tại ngai vàng,
  Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi.
  Tưởng rằng con uống con chơi.
  Ai dè con uống, con rơi xuống….xình.
Tiếp đến là những bất ổn cho gia đình.
Thường xuyên rủ nhau đi nhà hàng hay thường xuyên tổ chức ăn nhậu tại nhà đã là một sự tốn kém cho ngân quĩ  vốn dĩ eo hẹp của gia đình trong cái thời buổi khó khăn, gạo châu củi quế này, bởi vì những sự cần cho được uống rượu nên xem ra cũng rất gắt.
Ấy là chưa kể đến những cực nhọc cho vợ con, nhất là khi phải thu dọn những bãi cho chó ăn chè. Thực vậy, người ta đã hỏi một tên bợm nhậu, thuộc hạng thâm niên quân vụ, nhiều năm trong nghề, như sau:
- Hỏi phải làm mấy sự cho được uống rượu nên ?
Đúc kết kinh nghiệm của bản thân sau nhiều năm lăn lóc trên các chiến trường với những chiến hữu lưu linh của mình, hắn ta đã trả lời:
- Thưa phải làm ba sự này, một là tốt cái nhắm, hai là lắm anh em, ba là muốn nhắm thì nhắm.
Đông, vui, hao, đó là qui luật của muôn đời. Thế mà “nghệ thuật ăn nhậu” lại đòi hỏi vừa phải tốt cái nhắm, lại phải lắm anh em, thì chỉ có nước đập bể nồi cơm gia đình khiến vợ con phải treo niêu, ăn chay trường dài dài mà thôi.
Còn nếu đi uống rượu ở nơi khác, khi trở về nhà, mà giữ được tác phong cốt cách thì còn đơ đỡ, nhưng như trên gã đã nói: nhiều kẻ đã bị rượu bốc lên, làm cho hóa rồ hóa rại.
Đúng thế, không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi rượu vào lại tung hê nồi niêu xoong chảo cùng với bát đũa ra ngoài sân, để rồi khi tỉnh cơn say. Lại phải hì hục lao động kiếm tiền mua sắm.
Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi rượu vào, bỗng trở thành “vũ phu chi cục mịch”, chửi vợ đánh con, khiến cho gia đình bị đổ vỡ tan hoang. Hay ít nữa, khi tỉnh cơn say thì cũng phải bỏ tiền mua thuốc men và bỏ công sức chăm sóc cho vợ con đã bị chính mình hành hung một cách dã man trong lúc xỉn.
Thấy thiên hạ lao mình vào tệ nạn cờ bạc, một đức ông chồng, uống rượu thuộc hạng dân ghiền, đã hãnh diện tâm sự với bà xã:
- Em phải cám ơn anh nhiều lắm đấy, bởi vì anh không bài bạc như mấy tên hàng xóm.
Thế nhưng, bà xã đã phản pháo một cách rất chính xác:
- Ông không bài với bạc, nhưng tối ngày những rượu cùng chè, những say cùng xỉn, khiến tôi phát chán cả lên.
Nhưng phiền hơn cả là trong những lúc say xỉn như vậy, chúng ta lại thường gây nên những sự rắc rối, phiền toái cho bà con lối xóm. Thực vậy, thiên hạ thường bảo:
- Tửu nhập, ngôn xuất. Rượu vào thì lời ra.
Cái thứ “ngôn xuất” này, cái thứ “lời ra”này, cũng thường thay đổi thiên hình vạn trạng, đến quỉ thần cũng không lường nổi.
Có kẻ khi say thì cười, nhưng cũng có kẻ khi say thì lại khóc.
Có kẻ khi say thì hát nhưng cũng có kẻ khi say thì lại sổ tiếng Ăng lê.
Có kẻ khi say thì vui miệng, vợ mình không khen, lại cứ nhè vợ người ta mà khen, nên mới rách việc, dẫn đến chuyện đánh đấm nhau phun cả máu đầu.
Có kẻ mượn hơi men để có đủ can đảm mà đi…xưng tội, nhưng cũng có kẻ mượn hơi men để chửi xéo người này người nọ, đôi khi chửi cả cha mẹ và những người họ hàng thân thích, khiến cho tình nghĩa ruột thịt cũng như lối xóm nhiều lúc như muốn đứt đoạn.
Có những kẻ bình thường rất hiền lành, thế nhưng do ma men dẫn đường, rượu ngấm vào, máu yêng hùng nổi lên, cũng sẵn sàng vác gậy, vác đá đi hỏi thăm sức khỏe người khác, giống như một kẻ côn đồ thứ thiệc, để rồi khi hết cơn yêng hùng, lúc phải ký vào biên bản,thì như quả bóng xì hơi, năn nỉ ỉ ôi hết người này đến người khác, như tục ngữ đã diễn tả:
- Chưa đánh được người, mặt đỏ như vang,
  Đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ.
Có thể nói được rằng: ngành nghề ăn nhậu ở Việt Nam hiện nay luôn được liên tục phát triển. Chỉ cần rảo qua một vòng phố xá, chúng ta liền thấy, tiệm cà phê và quán nhậu mọc lên như nấm sau cơn mưa. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có…Đúng là trăm hoa đua nở.
Những tháng ngày sau giải phóng thì cho rằng: đờn ông thanh niên bấy giờ vì thiếu những phương tiện giải trí nên đâm ra nhậu nhoẹt say sưa. Còn lúc này, những phương tiện giải trí không thiếu, nhưng thiên hạ vẫn hăng hái nhậu liên tu bất tận.
Có thể vì trong túi có sẵn tí tiền còm, nhất là tiền hối lộ, tiền buôn lậu, tiền áp phe, áp chảo…không nhậu cũng uổng. Có thể vì nền kinh tế thị trường, có nhậu thì mới bắt được mánh làm ăn, mới làm được những giao lưu và trao đổi…Thôi thì có đủ một ngàn lẻ một lý do để biện minh cho cái “dịch vụ ăn nhậu này”.
Tuy nhiên, cũng trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Danh Gia đã đưa ra một vài nhận định nho nhỏ về đờn ông phương tây như sau:
“Đừng đổ thừa cho kinh tế thị trường khi chưa từng thấy “mặt mũi” đích thực của nó. Không tin cứ đi hỏi các giám đốc ngân hàng nước ngoài sẽ nghe họ nghĩ gì về cách duyệt hồ sơ cho vay “quen thuộc” của các ngân hàng trong nước khác với cách của họ như thế nào. Bởi thế mới đẻ ra bao vụ “Tamexco” lớn nhỏ, mới có tỉ lệ thua lỗ “bộn”, nợ nần dính chùm như thế.
“Đàn ông các nước công nghiệp, tức các nước kinh tế thị trường nhất, đến giờ tan sở mệt nhoài vì công việc chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng, ba chân bốn cẳng leo lên tàu điện, đổi dăm ba tuyến đường mới về được đến nhà phụ vợ con dọn cơm, rửa chén rồi đi ngủ sớm, đến cuối tuần cần tranh thủ sửa sang nhà cửa, chở vợ đi chợ. Xu hào đủng đỉnh lắm thì tối thứ sáu đưa vợ, đưa con đi ăn tiệm hoặc đưa vợ con đi nghỉ mát cuối tuần, chứ không ai rỗi hơi nát rượu tối này sang tối khác với bạn bè.
“Không tin, nếu có dịp đi tây, chiều tối cứ xuống các trạm xe điện ngầm ở Paris chen chúc với bốn triệu người, ta sẽ thấy rõ thế nào là nếp sống kinh tế thị trường đích thực. Chớ tưởng dân đi chơi tối giữa Paris, Luân đôn…là người dân bản xứ. Trừ một thiểu số nhung lụa hoặc của “thế giới về đêm”, người lao động lĩnh lương trong tháng, cho dù có là giám đốc, chẳng mấy khi léo hánh đến quán xá vào những tối trong tuần.
Khi người ta phải đóng thuế thu nhập giá chót cũng 30%, khi người ta ở nhà thuê hay mua trả góp mỗi tháng cũng phải đóng từ 1/3 đến 1/5 lương cho tiền nhà, khi người ta sắm cái xe hơi, cái máy giặt, cái máy sấy khô quần áo…sao cho cuộc sống gia đình tiện nghi hơn, để rồi cuối tháng bị ngân hàng tự động trừ nợ, người ta mới không dám vứt thì giờ và tiền bạc cho các độ nhậu triền miên vì sợ ngày mai dậy không nổi, mất năng xuất, mất óc sáng tạo dễ có ngày thất nghiệp.
“Khi người ta phải ngày ngày mất ít nhất hai giờ để di chuyển, khi người ta phải làm việc ngày tám tiếng ra tám tiếng mới được chủ trả lương, thì người ta mới biết quí thì giờ và sức lực của mình.
“Ngay cả đàn ông xứ Thái sát cạnh đây, tức một nước chưa công nghiệp bao nhiêu, thưở còn thịnh vượng có phần trễ nải hơn ở hàng quán, song giỏi lắm cũng chỉ uống một chai bia Singa nội địa chứ hiếm ai uống đến chai thứ nhì.
Thói quen rượu chè say sưa là một tật xấu khó chừa, bởi nếu không nhậu thì….nhạt miệng, nên phải đi tìm chỗ gài độ để khỏi ngồi ngáp vặt.
Vì thế Tản Đà đã bảo:
- Say sưa nghĩ cũng hư đời,
  Hư thời hư vậy, say thời cứ say.
Hay như Nguyễn Khuyến đã thú nhận:
- Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
  Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
  Hay ưa đến nỗi không chừa được.
  Chừa được mà ông cũng chẳng chừa.
Thành thử người say xỉn nghiện ngập cứ kéo lê cuộc đời mình trong một tình trạng be bét. Cần phải có một ý chí vững mạnh mới có thể dứt khoát được với tật xấu này.
Một dân bợm nhậu nọ quyết tâm giã từ rượu chè. Cứ mỗi lần ngồi vào bàn tiệc là anh ta nhỏ một giọt nếân vào chiếc ly uống rượu…Cứ thế, cứ thế…ngày qua ngày…cho tới khi chiếc ly đầy nến và anh ta cũng bỏ được tật say xỉn của mình.
Gã xin tạm ngưng việc kể tội đờn ông ở đây.
Gã Siêu

----------------------------------
 
 

GãSiêu 108: TỪ HÀNG GIẢ ĐẾN NGƯỜI GIẢ

 

Mấy hôm nay rảnh rỗi, gã đọc lại chồng báo xuân Mậu dần 1998  và gã tóm được một mẩu tin GãSiêu 108


Mấy hôm nay rảnh rỗi, gã đọc lại chồng báo xuân Mậu dần 1998  và gã tóm được một mẩu tin làm đề tài tán hươu tán vượn, không biết nên buồn hay vui. Và nếu có cười thì nụ cười cũng méo mó, rất có thể sẽ rơi cả nước mắt.
Mẩu tin ấy ở trong báo Công an, mang tựa đề là “chồng thật- chồng giả “, đại khái như thế này:
Với mong muốn được vi vút ở ngoại quốc, nên khi được người quen gợi ý, cô BT, ngụ tại phường 12 quận 6, đồng ý liền tù tì.
Để hợp thức hóa việc xuất ngoại, BT ưng thuận làm thủ tục kết hôn giả với một với công dân Pháp, tên là Simon, 35 tuổi, hơn BT vừa đúng một con giáp.
Theo hợp đồng, hai người là vợ chồng nhưng không sống chung. Khi đã định cư ở nước ngoài, thì ly dị và BT phải trả công cho ông chồng hờ 3.000 mỹ kim.
Ngày 06-5-1997, BT và Simon được Ủy ban nhân dân thành phố cấp giấy chứng nhận kết hôn. Từ đây, cô gái những tưởng mọi chuyện đã xuôi chèo mát mái, bắt đầu thêu dệt mộng…việt  kiều.
Nào ngờ chàng rể vi phạm hợp đồng, đòi làm chồng thật, chứ nhật định không chịu đóng vai làm chồng hờ nữa. Đường cùng, BT phải đâm đơn cho ba tòa quan lớn xin ly hôn. Vì thà “ vỡ mộng “còn hơn    là …tàn một kiếp hoa.
Từ sự việc trên đây, đêm nằm vắt chân lên trán, gã nghiệm   rằng:
- Sự giả là một cơn bệnh trầm trọng của xã hội hiện nay, là một hiện tượng được liên tục phát triển qua một lãnh vực, từ hàng hóa đến con người.
Vậy giả là gì ?
Dĩ nhiên, giả có nhiều nghĩa, nhưng trong phạm vi bài này, gã chỉ xin được tự hạn chế:
- Giả là nhái cho giống để gạt người ta.
Thí dụ như giả điếc, giả câm, giả bộ…Riêng dân có tinh thần ăn uống cao, ghiền món “cờ tây’’ mà nếu không sẵn, thì bèn phệu ra món ‘’giả cầy’’ để xài cho đỡ nhớ. Vật liệu được làm bằng thịt heo, tẩm liệm với riềng mẻ và mắm tôm, xào lên thơm phưng phức, làm điếc cả mũi hàng xóm, xơi vào cũng êm trời gió bụi, chẳng khác chi thịt cầy thứ thiệc.
Bây giờ xin trở lại với phạm trù hàng giả.
Hàng giả hơi khác với hàng dổm một tí, bởi vì hàng dổm là hàng có phẩm chất kém. Còn hàng giả, ngoài phẩm chất tồi, còn mắc thêm cái tội ‘’cóp pi’’ mẫu mã y chang thứ hàng thật, rồi tung ra thị trường, nhằm dối gạt người mua, gây thiệt hại đôi ba bề.
Hàng giả lúc này thật ê hề, tràn lan từ cái tăm đến hộp xà phòng, từ chiếc đồng hồ đeo tay đến những máy móc đắt tiền.
Chẳng thế mà có thời người ta để mỉa mai:
- Hồng kông ư ?
- Hỏng dám đâu, có mà bên hông Chợ lớn ấy.
Nghệ thuật làm hàng giả ngày càng tinh vi, khiến cho người tiêu dùng khó mà nhận ra, chỉ khi mua về đem xài thì mới vỡ nhẽ ra đó là hàng giả.
Dịp tết, gã bóp bụng mua một chai rượu tây cho đời lên hương. Từ vỏ chai đến nhãn hiệu trình tòa đều là thứ xịn, nhưng khi khui ra để uống, thì hỡi ơi, chỉ toàn là một thứ nước màu vàng, sặc mùi cồn mà thôi.
Bởi đó, trong những năm gần đây, người ta chịu khó tổ chức nhiều cuộc triểm lãm hàng giả, để người mua kẻ sắm nhận diện.  Hay trong những mục quảng cáo trên truyền hình, người ta luôn dặn dò:
- Xin nhìn kỹ mẫu mã để khỏi mua nhầm hàng giả.
Tới đây, gã xin kể lại hai mẩu chuyện nho nhỏ.
Mẩu chuyện thứ nhất về tiền giả ở bên Đức.
Hôm ấy, hai đội bóng tranh giải vô địch. Sân vận động chặt cứng như nêm. Người hèn có, kẻ sang có và những bậc tai mắt lại càng nhiều.
Khi tan cuộc, mọi người hối hả ra về, thì thấy giữa đường đi, rải rắc nhiều tờ giấy bạc 500 đồng, của một hay nhiều khán giả vô ý nào đó đánh rơi.
Ai cũng lấm la lấm lét. Thế rồi kẻ trước người sau, tất cả đều lần lượt cúi xuống…sửa giày. Có kẻ sửa tới năm bảy lần. Kẻ sang cũng như người hèn, thượng lưu cũng như bình dân. Không ai trao đổi với ai một tiếng, nhưng ai cũng thấy vui như mở trong bụng:

- Đi xem đá bóng hôm nay đúng là được thần tài phò trợ.
Về đến nhà, xoa tay cho sạch, thò vào túi, rút xấp bạc ra, sung sướng và hí hủng.
Thế nhưng dưới ánh đèn sáng, nhìn kỹ lại, thì ôi thôi, khóc vì hổ ngươi. Vừa tức lại vừa nhục. Tức cho ai mà cũng nhục cho ai. Các ngài đã bị sập bẫy trong một cuộc chơi trắc nghiệm của một tổ chức nào đó. Bời vì giấy bạc toàn là thứ giả mà thôi.
Xem thế, thì phàm đã là người, ai cũng có một chút máu tham trong mình.
Mẩu chuyện thứ hai về vàng giả ở Việt Nam.
Trưa Sài Gòn, trời nắng như đổ lửa. Đường phố ngái ngủ. Xe cộ thưa thớt. Một cô nàng ăn mặc thật đúng mốt. Cổ thì giây chuyền. Tay thì vòng vàng óng ánh. Còn thân hình yểu điệu thì đang cưỡi trên một chiếc xe gắn máy, dường như cô nàng vừa mới đi dự tiệc và đang trên đường về nhà.
Bỗng một chiếc xe gắn máy khác trờ tới và ép sát cô nàng. Người ngồi sau lanh tay lẹ con mắt chộp vội sợi giây chuyền nơi chiếc cổ nõn nường, khiến cho chiếc xe lảo đảo và cô nàng xuýt bị đo đường.
Thế nhưng, chỉ một lúc sau hai tên kẻ cướp vòng xe lại, ném sợi giây chuyền vào mặt cô nàng và chửi:
- Tiên sư em nhé, đẹp như tiên mà xài toàn đồ giả, thối không chịu nổi.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải lưu ý điều này:
- Hàng giả đang lũng đoạt thị trường, nhưng không nguy hiểm cho bằng người giả.
Thực vậy, nhìn vào con người, chúng ta thấy từ vóc dáng và hành động bên ngoài đến tình cảm và ý nghĩ bên trong, người ta đều có thể giả được tuốt luốt.
Nếu các cụ ta ngày xưa thường bảo:
- Cái răng cái tóc là góc con người.
Thì ngày nay, với kỹ thuật giải phẫu thẩm mỹ và trang điểm tuyệt vời, người ta có thể cải lão hoàn đồng, từ một bà già trầu móm mém gần đất xa trời trở nên một cô thiếu nữ liễu yếu đào tơ trong thoáng chốc bằng cách trang bị cho bà cụ những thứ đồ giả: nào là mái tóc giả, nào là hàng mi giả, nào là hàm răng giả, nào là bộ ngực giả, nào là cặp mông giả…
Người ta cũng có thể tạo nên những nụn ruồi giả, những má lún đồng tiền giả, những chiếc cằm xẻ giả. Thậm chí có những anh chàng đực rựa “chăm phần chăm” được cải trang thành những cô gái y như thật với những ý đồ đen tối và hắc ám, khiến cho những đấng mày râu háo sắc và ngây thơ cụ cũng phải bé cái lầm.
Thế nhưng cái “hình dong bên ngoài” không quan trọng cho bằng những cái làm nên phẩm chất bên trong của con người. Và những thứ này lại cũng toàn là đồ giả.
Chẳng hạn để khoe khoang với bè bạn, để dễ dàng trong công ăn việc làm, cũng như để luồn lách vào chức vụ nọ chức vụ kia, người ta có thể bỏ tiền ra mua một cái bằng…phó tiến sĩ giả, để hù dọa bà con lối xóm.
Người ta cũng có thể mượn danh làm công an giả, cán bộ giả, thậm chí cả linh mục giả để dối gạt thiên hạ, ẵm về cho mình những món tiền lớn và những lợi nhuận kếch xù.
Thế nhưng bẽ bàng và cay đắng hơn cả, đó là người ta đã mượn tạm danh nghĩa, lợi dụng những chức vụ giả ấy để ăn cướp cơm chim, phỗng tay trên chén cơm manh áo của các em nhỏ trong viện mồ côi, của các cụ già trong nhà dưỡng lão…bằng cách lừa đảo các tổ chức từ thiện cũng như các nhà hảo tâm.
Mánh mung của bọn này thì thiên biển vạn hóa, đến quỉ thần cũng không lường nổi mà chúng ta thấy nhan nhản trên báo chí.
Từ phẩm chất giả, quạ mượn lông công, cáo mượn oai hùm, chúng ta bàn tới những hành động giả. Và một trong những hành động giả mà gã xin đề cập đến, đó là hôn nhân giả.
Thực chất của cuộc hôn nhân giả chính là tình yêu giả. Người ta giả bộ yêu nhau để toan tính những công việc khác chẳng hạn như để xuất ngoại, để làm ông nọ bà kia.
Họ nhìn vào người ấy không phải để thấy người ấy dễ thương và dễ mến, nhưng để thấy túi tiền người ấy đang có, cái ghế người ấy đang ngồi, tòa nhà người ấy đang ở, chiếc xe người ấy đang đi…Tóm lại, họ không yêu gì người ấy, mà yêu cái tài sản, cái chức vụ của người ấy mà thôi.
Nổi cộm trong hàng loạt hành động giả này, đó là cái thói giả hình, hay nói một cách cụ thể hơn, cái thói giả nhân giả nghĩa, hay đạo đức giả.
Họ là những kẻ khẩu phận tâm xà, miệng nam mô bụng bồ dao găm,  đúng như tục ngữ đã diễn tả:
- Ngoài thì thơn thớt nói cười,
  Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
 Hay:
- Nam mô.
  Một bồ dao găm,
  Một trăm dao mác,
  Một vác dao bầu,
  Một xâu thịt chó.
Họ là những kẻ nghĩ thế này, nói thế kia, nói một đàng làm quàng một nẻo. Tư tưởng không đi đôi với lời nói, còn lời nói thì không đi đôi với việc làm. Tư tưởng, lời nói và việc làm của họ không còn trong suốt như pha lê. Không còn hợp nhất với nhau.
Họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí họ còn làm ngược lại với điều họ nói.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã diễn tả một cách rất chính xác về hạng người này:
- Họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt hết tài sản của các bà góa. Họ rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ. Họ giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì có vẻ đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.
Để kết luận, tôi xin ghi lại nơi đây ý kiến của chị Nguyễn thị Oanh, tác gỉa bài ‘’tính trung thực’’, đăng trên báo tuổi trẻ Chủ Nhật, như sau:
“Tôi thấy cán bộ công đoàn ngồi lại đánh giá công nhân trên những phát triển của họ ở các buổi học tập chính trị. Còn công nhân thì thổ lộ: Người ta không cần biết chúng tôi sản xuất như thế nào ? Đối xử với anh em ra sao ? Gìn giữ tài sản chung đến mức nào ? Mà chỉ coi trọng lời nói. Tôi thì rất ngượng ngùng phải nói những điều không xuất phát từ đáy lòng. Đó là vào giữa thập kỷ 80.
‘’Còn ngày nay, trở lại sự trung thực thì ta thấy trong cuộc sống: mắt mũi môi giả, hàng giả, bằng lái giả, bằng cấp giả, hôn nhân giả ! Người ta giả vờ với nhau một cách tỉnh bơ. Đáng sợ hãi cho tương lai là chuyện gian dối ở chỗ mà lẽ ra sự trung thực là nguyên tắc hàng đầu. Đó là ở phòng thi: thày làm ngơ để trò quay cóp.
‘’Con người lấy gì làm cơ sở để quan hệ với nhau khi cái trục chính của chiếc cầu đã gẫy ? Cái túi nước silicon rò rỉ, đã biến những con người muốn làm đẹp thành xấu xí đến tai hại. Thực phẩm giả, bằng lái giả gây chết người. Còn bằng cấp giả ?
Xin trích thêm đoạn dưới đây từ báo phụ nữ ngày 27-9-1997.
‘’NM sinh viên khoa ngữ văn, một cô gái tài hoa, có lối sống khá bạt mạng, mệt mỏi tâm sự:
- Ở gia đình, bố mẹ luôn dạy tôi cách sống tốt, chân thật, nhưng tôi biết rõ ràng đó chỉ là lời nói. Thực tế còn cả một khoảng cách.
“Cái khoảng cách ấy đã được NM nhận rõ  khi người ta phát hiện hai cái học vị phó tiến sĩ của bố và mẹ NM đều là của giả. NM bộc lộ:
- Tôi không quan lắm đến danh dự gia đình, nhưng bố mẹ, những thần tượng của tôi, đã hoàn toàn sụp đổ.
“Để trốn chạy thực tế, NM thường đóng kín cửa phòng, đắm mình trong âm thanh của Spice Girls, hoặc phóng xe hết tốc lực ngoài đường.
‘’ Thế đấy, cái giả tưởng chừng như vô thưởng vô phạt đang giết chết một thế hệ về mặt tinh thần. Và ngày nay không cần thiết phải chứng minh tính chính trị của đạo đức nữa. Cái khó là tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa và những cơ chế vận hành nào đã đưa tới tình trạng báo động này.
‘’Ta đánh giá cao những báo cáo tô hồng, những trường có tỉ lệ ‘’lên lớp’’, ‘’thi đậu’’ cao, những người nói đúng bài bổn nên cấp dưới tập phản xạ nói dối, phản xạ này ăn sâu trong tâm tư họ đến nỗi có người không còn biết nhận ra và phân biệt thật và giả, đúng và sai.
‘’Phải tập lại từ đầu, không phải bằng hô hào mà bằng hành động. Khó có thể kêu gọi tuổi trẻ bằng những khẩu hiệu chung chung, nhưng họ sẽ hưởng ứng ngay với cách làm mới.’’
‘’Khen thưởng những ai lật tẩy sự dối trá. Phạt nặng sự dối trá trong sản xuất. Chỉnh đốn triệt để ngành giáo dục vì bao giờ còn gian lận trong ngành này thì không thể gọi nó là giáo dục. Văn học nghệ thuật phải đem sự dối trá ra làm trò cười cho đến nơi đến chốn.
Và rồi cuối cùng:
- Sự thật sẽ giải thoát chúng ta.
Gã Siêu

------------------------------
 
 

GãSiêu 109: THƯƠNG HẠI

 

Ngày xửa ngày xưa, có một ông tây chính hiệu “Phú lãng sa”, trong người đặc sệt dòng máu “Gô GãSiêu 109


Ngày xửa ngày xưa, có một ông tây chính hiệu “Phú lãng sa”, trong người đặc sệt dòng máu “Gô loa”, nhãn hiệu con gà trống. Thế nhưng ông tây này lại yêu đến chết mê chết mệt một “cô em Bắc kỳ nho nhỏ”.
Và khi đã yêu ai như điếu đổ, người ta sẵn sàng yêu cả đường đi cùng với mọi tông chi họ hàng. Vì thế, ông tây này cũng xơi thịt chó như điên, cũng húp canh cua rau đay chùn chụt, cũng dùng cà ghém quệt đẫy mắm tôm và bắn thuốc lào kêu ro ro như bắp nổ. Đặc biệt, ông tây này đã hết lời ca ngợi tiếng Việt của dân ta.
Hình như trong một bài báo, ông tây này đã bạo phổi cả gan gọi tiếng Việt của dân ta là “mère des langues”, nghĩa là mẹ của các ngôn ngữ.
Và rồi ông tây này đã đưa ra lập luận của mình, gã chỉ còn nhớ mang máng, xin ghi lại nơi đây để trình làng, đồng thời có thêm mắm thêm muối tí chút cho rộng  đường dư luận.
Ngôn ngữ cổ xưa nhất phải là ngôn ngữ độc âm, tượng hình và tình cảm, giống như một đứa bé khi mới học nói, nó chỉ nói được từng tiếng một và diễn đạt những cái cụ thể, gần gũi với nó nhất.
Dưới góc độ này thì tiếng Việt của dân ta thừa sức qua cầu. Thực vậy, như chúng ta đã thấy tiếng Việt của dân ta tự bản chất vốn đã là một ngôn ngữ độc âm, từng tiếng một và hơn thế nữa những ngôn từ thông dụng, cụ thể và gần gũi nhất đều xuất phát từ….tiếng Việt.
Chẳng hạn như người Việt chúng ta gọi “Ba”, thì người Pháp gọi là papa hay père, còn dân Ăng lê thì gọi là father. Người Việt chúng ta gọi “Má, Mẹ” thì người Pháp gọi là maman, mère, còn dân Ăng lê thì gọi là mather, người Tàu thì gọi là mẫu…
Riêng cái khoản tượng hình và tình cảm thì tiếng  Việt của dân ta hẳn phải ăn đứt thiên hạ.
Chẳng hạn chỉ một màu trắng mà thôi, trong tiếng Việt, đã có biết bao nhiêu mức độ đậm nhạt khác nhau như: trắng bạc, trắng bệch, trắng bong, trắng bốp, trắng dã, trắng đục, trắng hếu, trắng mét, trắng mịn, trắng mởn, trắng ngà, trắng ngần, trắng nõn, trắng phau, trắng phếu, trắng tinh, trắng tuốt…
Trong phạm vi tình cảm cũng vậy, chỉ nguyên cái chuyện giận mà thôi cũng đã thấy nhiêu khê và rắc rối: giận bậy, giận cùn, giận dai, giận dữ, giận giỗi, giận hờn, giận lẫy, giận phừng phừng, giận run cả người, giận tím cả gan, giận bể cả phổi, giận sôi cả tim….
Có lần gã định dịch một câu hát của Trịnh Công Sơn qua tiếng Pháp:
- Nắng có hờn hằn lên môi em…
Rốt cuộc, gã đành chào thua. Có thể vì khả năng tiếng “phăng xe” của gã còn yếu kém, nhưng cũng có thể vì cái nắng, cái hờn trong tiếng Việt Nam có những “gam”, những mức độ đậm đặc tuyệt vời khó mà diễn tả.
Gã không chuyên về ngôn ngữ học, nên chẳng hiểu lý luận trên đây của ông tây này được ban giám khảo chấm cho được mấy điểm.
Riêng phần gã, gã hoàn toàn “ khẩu phục, tâm phục” cách ghép chữ của ông cha ta ngày trước. Gã chỉ xin đưa ra một vài thí dụ điển hình mà thôi.
Chẳng hạn: “học hành”, đã học thì phải hành, nghĩa là phải làm, phải thực hiện thì mới ăn tiền. “Đạo đức” nghĩa là đạo giúp chúng ta trở nên người nhân đức, vì thế đã có đạo thì phải sống tốt lành nếu không thì chỉ bằêng thừa mà thôi. “Nhường nhịn” đã nhường nhau thì cũng phải nhịn nhau, dù người ta có chửi cha chửi mẹ, đào mồ tổ tiên ông bà hay cho ăn những thức cao lương mỹ vị thì cũng phải cắn răng chịu vậy, bởi vì đã nhường thì phải nhịn và nhịn như vậy thì lắm lúc cũng…nhục lắm. Thế mới gọi là nhịn nhục chứ.
Trong mục “tán hiêu tán vượn” hôm nay, gã chỉ xin bàn đến hai chữ “thương hại” mà thôi. Đây quả là hai chữ tuyệt vời và hết ý.
Thực vậy, tình thương là một cái gì tốt đẹp như khi cha mẹ thương yêu con cái mình. Tình thương là một lý tưởng cao cả cần phải được cổ võ. Chẳng hạn trước những đồng bào gặp phải thiên tai như bão lụt, chúng ta nên biểu lộ tình thương một cách cụ thể theo kiểu: thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách, còn lá rách thì cũng cố mà đùm lấy lá…te tua.
Thế nhưng trong đời thường lại có biết bao nhiêu kiểu thương vô cùng tai hại, mà hậu quả nhiều khi khó lường nổi.
Trước hết trong phạm vi gia đình.
Có những bậc cha mẹ vì thương con, sợ con phải cực, phải  nhọc, phải đau nên sẵn sàng “bao cấp”, làm hết mọi việc cho nó, biến nó trở thành một thứ “cô chiêu, cậu ấm”, chỉ biết đòi hỏi, bắt người khác phục vụ, chẳng biết khuôn mình vào một kỷ luật tối thiểu nào cả, luôn ỉ lại và không bao giờ biết tự chủ lấy một ly ông cụ.
Bên cạnh nhà gã có một cặp vợ chồng già sinh được một mụn con trai. Hai ông bà hết sức muông chiều cậu ấm như người ta diễn tả:
- Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.
Thấy bọn nhóc tập xe đạp, cậu ấm cũng đòi tập, những hai ông bà kiên quyết nhất trí không cho vì sợ cậu ấm té ngã, trầy da tróc vẩy, toạc đầu xẻ chân…Vì vậy cho tới già, cậu ấm vẫn không biết đi xe đạp và mang một nỗi mặc cảm với chúng bạn.
Có những bậc cha mẹ vì thương con nên hết sức cưng chiều. Nó đòi gì là lập tức cho ngay, thậm chí còn thỏa mãn ngoài nhu cầu của nó. Từ chỗ có tiền, nó đâm đua đòi bè bạn học thói xì ke ma túy. Từ chỗ xì ke ma túy bước sang trộm cắp, khoảng cách rất gần, chả cần đến một cú nhảy vọt.
Gã xin lượm lặt những mẩu tin trong báo Công an để chứng tỏ sự thật bi đát trên.
“…Thành là con út trong gia đình nên rất được ông bố cưng chiều. Cậu quí tử này đã đàn đúm cùng lũ bạn xấu tập tành hút xách. Thương con cách mù quáng, thay vì đưa con đi cai nghiện, ông bố lại còn đưa thêm tiền để nó thỏa mãn cơn nghiện. Ngày 6.11.1997, do không chịu nổi cơn ghiền, Thành đã về nhà dí dao vào cổ ông bố, bắt ông phải đưa tiền cho hắn…
“…Vì cha mẹ cho rằng học nhiều cũng chẳng đi đến đâu, nên đã mười mấy tuổi, Toàn vẫn còn là một “thằng bé lêu lổng”, ngỗ nghịch. Nhà gần chợ, suốt ngày Toàn lê la quán xá, học đòi ăn chơi và không biết từ bao giờ nó đã nghiện…ma túy. Nghe tin dữ ấy, cha mẹ Toàn chỉ còn biết mắng vuốt đuôi một trận te tát, sau đó đâu lại vào đấy. Cuộc mưu sinh cuốn họ vào những lo toan “cơm áo gạo tiền”. Việc Toàn nghiện hút được gia đình mặc nhiên thừa nhận như thể đó là chuyện phải đến với một thằng bé 15 tuổi. Thời gian đầu chưa kiếm được tiền, Toàn tự trích lại một phần thuốc bán được 5.000đ để dành cho cữ ngày hôm sau. Hết tiền thì mua chịu, ký nợ. Cứ như thế, từng ngày từng giờ Toàn lún sâu vào nghiện ngập, lún sâu vào việc buôn bán ma túy…
Có những bậc cha mẹ vì thương con, nên khi con sai lỗi, đã không sửa dạy mà con dấu diếm và bênh vực những sai lỗi ấy. Chẳng hạn như trong trường hợp của Toàn trên kia. Tại tòa án, khi được hỏi thì bà mẹ của Toàn đã thản nhiên trả lời:
- Tôi biết nó hút héroin, nhưng vì nó còn bé, đưa đi cai nghiện thì tội nghiệp…Tôi cũng biết nó bán héroin, mấy lần nó còn nhờ tôi bán giúp. Thỉnh thoảng nó cho tôi ba, bốn chục ngàn. Tôi nghĩ con cái có tiền cho thì xài, không cần hỏi lại.
Rất nhiều chuyện cỏn con không đâu của đám con nít, nhưng chỉ vì bênh con nên đã hóa thành chuyện lớn làm mất đi bàu khí êm ấm và cảm thông trong khu xóm: bênh con, lon xon mắng láng giềng là vậy.
Tiếp đến trong phạm vi xã hội.
Cũng có nhiều kiểu thương mà rất hại. Gã chỉ xin đưa ra một trường hợp cụ thể đó là nạn ăn xin.
Tác giả Nguyễn thị Oanh trên báo Tuổi trẻ Chủ nhật đã phân tích như sau:
“Không nói đến người già cả, tàn tật, cô thế mà ta có nhiều cách nâng đỡ, chứ không chỉ máy móc cho tiền, người còn sức lao động sẽ ỷ lại, chai lỳ. Đó là cái hại thứ nhất.
“Việc kiếm tiền dễ dàng khiến cho nhiều người lấy xin ăn thành một nghề. Như vậy cái hại thứ hai của cử chỉ ban phát là tạo một lớp người ăn bám.
“Hơn thế nữa, ta còn góp phần tạo ra tội phạm là những kẻ giả dạng thày tu, thương binh và nghiêm trọng hơn nhiều, ta góp tay vào nạn lạm dụng trẻ em để làm công cụ xin ăn. Có em bị gây thương tật, bị cho uống thuốc ngủ và nội chuyện phơi nắng suốt ngày…. cũng đã đủ nhức nhối.
Để gợi lòng thương, dân ăn xin dám làm những chuyện thật tai hại khác. Ngoài việc lạm dụng trẻ em, còn một số mánh đã được báo Công an mô tả.
“…Phổ biến nhất là chuyện tạo ra thương tật giả, lấy sự bi đát ghê rợn để diễn cảm hầu kích thích lòng nhân ái, từ tâm. Những “dân chơi bất cần thân thể” này chẳng sợ hoại thư, chẳng cữ bất cứ vi trùng gì, cứ  “triển lãm sản phẩm” là những vết lở loét rất kinh tởm, mủ máu, ruồi nhặng bu đầy, có thế mới ép phê, mới tạo sự xót xa để rồi khổ chủ càng lòi nhiều tiền ra.
Trong phút nói thật, có kẻ đã tiết lộ bí quyết như sau: Ban đầu chỉ là một vết cào xước bằng đá xanh tự làm lấy, tự tạo ra. Rồi một nắm tóc được ngâm lâu trong nước tiểu, rịt vào, băng thật kín lại, vết loét sẽ lan rộng sau một tuần bị bí hơi và không được rửa ráy, bôi thuốc, mà còn phải ăn hằng ngày xôi đậu phộng, bánh tét…để vết thương lồ lộ cho ruồi muỗi bu vào đẻ đái, kết quả một tháng thôi đã quá đủ để bá tánh đi chợ nhăn mặt, sẵn 200, 500 tiền thối đáng gì cho họ làm phước, tội nghiệp.
Để cho mắt sưng lên, chảy cả mủ lẫn ghèn, trông như đui đến nơi, chúng chỉ cần nhỏ vài giọt mủ xương rồng.
Để tạo cảm giác mạnh với một dúm ruột máu me đỏ hỏn lủng lẳng trước bụng, chúng dùng đoạn ruột heo rửa sạch bôi thuốc đỏ, đặt ở bụng, rồi dùng bao nylon ém lại, lấy giây buộc quanh bụng. Qua lớp nylon cáu bẩn thật là khó phân biệt, hơn nữa đã có mấy ai được biết ruột thật ra sao ?
Để vừa bò vừa lết, chúng nằm sấp trên chiếc xe đẩy tự tạo, một chân gập ngược ra sau, buộc cho chặt, sau đó phủ lên trên bằng lớp quần áo cũ rách…
Qua những mánh được xử dụng trong nghề ăn xin như vậy, có lẽ nên tự hỏi xem mỗi khi bố thí, mình sẽ làm cho họ vươn lên hay ngược lại, sẽ làm cho họ ỉ lại, đảy họ vào chỗ phụ thuộc, ăn bám và đánh mất lòng tự trọng. Thương như vậy quả là thương mà hại.
Sau cùng trong phạm vi quốc tế.
Cũng không thiếu những kiểu thương mà hại. Một nước giàu viện trợ cho một nước nghèo, trước mặt bàn dân thiên hạ, thì đó là một hành động biểu lộ tình thương. Thế nhưng hành độâng biểu lộ tình thương này không phải là không có những tác hại của nó.
Nếu viện trợ về súng ống, đạn dược, thì họ đảy chúng ta vào vòng chiến tranh, làm cho quê hương bị rách nát hầu nuôi sống ngành công nghệ chế tạo vũ khí của họ.
Nếu viện trợ về tiền bạc, thì họ làm cho chúng ta bị lệ thuộc một cách êm ái. Khi muốn gây áp lực, chỉ cần cúp viện trợ, lập tức chúng ta bị xính vính và xin qui thuận vô điều kiện như một chư hầu ngoan ngoãn và dễ bảo.
Ngoài ra những đồng tiền bất hạnh này còn tạo ra một thứ phồn vinh giả tạo, ru ngủ chúng ta trong việc phát triển kinh tế, để rồi không cần thắt lưng buộc bụng, ăn xài theo kiểu bóc ngắn cắn dài, con nhà lính tính nhà quan, nên đã lệ thuộc thì lại càng lệ thuộc hơn nữa, bằng không chẳng sớm thì muộn cũng sẽ sụp đổ về chính trị cũng như về kinh tế.
Hôm nay dám xía vô lãnh vực chính chị chính em thì quả là bạo phổi, vì lãnh vực này gã chẳng hề có tí hiểu biết nào sốt, đúng là múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm…Ví bằng có điều gì sai sót, thì gã xin…rút.
Trở về với lãnh vực đời thường nhỏ bé, gã xin kể lại một kinh nghiệm bản thân.
Hồi sống trên Đàlạt, gã có một bà dì. Gia đình bà dì này cũng lâm vào cảnh túng thiếu. Ông chú đi làm không đủ chi bởi vì họ có những tám đứa con.
Nhiều lúc bà dì đã cầu viện gã giúp đỡ. Hoàn cảnh của gã lúc bấygiờ cũng chẳng khấm khớ gì cho lắm, bởi còn đang trong kiếp học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Chắt chiu vét hào bao thì cũng chỉ được mấy chục ngàn. Mà mấy chục ngàn thì có là bao, đánh vèo một cai là đã hết. Đúng là của vào nhà khó như gió vào nhà trống.
Nằm vắt chân lên trán để tìm kế giúp đỡ sao cho có hiệu quả. Cuối cùng sau nhiều ngày tháng tiết kiệm, nghĩ tới nghĩ lui, gã bèn mua tặng cho bà dì một chiếc máy may cũ hiệu Sinco.
Thế rồi, cũng từ chiếc máy may này, đời sống kinh tế dần dần được cải thiện. Mấy đứa nhỏ đi học về, bèn chia phiên nhau may gia công giúp mẹ. Thời gian sau, bà dì gã tậu thêm được một chiếc máy nữa, vì cũng lắm…con gái. Kinh tế không những được bảo đảm mà còn có mòi phất lên là đàng khác.
Viết đến đây, gã bèn nhớ tới một câu thành ngữ của người    Tàu:
- Thụ chi dĩ ngư, cần cung nhất phạn chi nhu, giáo nhân dĩ ngư, tắc chung thân thụ dụng vô cùng. Nghĩa là trao cho người ta con cá thì chỉ giúp được một bữa ăn, dạy cho người ta biết câu cá thì người ta suốt đời được hưởng dụng vô cùng.
Chẳng hiểu câu thành ngữ này có thể trở thành một đường lối cho chúng ta trong việc giúp đỡ người khác và một chính sách trong việc viện trợ cho các nước nghèo hay không ?
Còn gã, khi trích dân câu thành ngữ này của người Tàu, liệu có đáng mặt ….cụ đồ hay “nho chùm” không đấy chứ ?
Gã Siêu

------------------------------
 
 

GãSiêu 110: KHÔN MÀ KHÔNG NGOAN

 

Mục “Sổ tay Văn hóa” trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật” số ra ngày 06.12.1998, có một bài viết ngăn GãSiêu 110


Mục “Sổ tay Văn hóa” trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật” số ra ngày 06.12.1998, có một bài viết ngăn ngắn của Nguyễn ngọc Bích, với tựa đề: “Món hàng từ siêu thị Cora”.
Gã xin phép tác giả được trích dẫn nguyên con, kẻo bị mang tiếng là “thuổng văn” thiên hạ. Rồi bị lôi ra ba tòa quan lớn với tội danh được thành lập là xâm phạm tác quyền thì thật  nguy to.
Cora ở Đồng Nai là một siêu thị lớn nhất và hiện đại nhất nước, do doanh nhân Pháp đầu tư. Ở đó người ta không phải đối phó với chuyện buôn bán ế ẩm, nhưng với việc hàng hóa bị mất cắp. Sự kiện mất cắp hàng hóa tại đây đặt ra cho chúng ta vấn đề đạo đức và phát triển.
Đối với mỗi cá nhân, đạo đức dễ làm cho người ta cảm thấy thiệt thòi và có những khi muốn vứt bỏ nó. Tuy nhiên đối với xã hội, đạo đức của mỗi cá nhân lại cần thiết cho sự phát triển.
Sự việc mất cắp ở siêu thị Cora cho chúng ta thấy ít ra năm điều:
. Không chỉ là chuyện ăn cắp vặt mà là ăn cắp có tổ chức.
. Một cụ già 60 tuổi ăn cắp bị bắt còn chửi người bảo vệ rằng: “lấy đồ của Tây chứ đâu có ăn cắp của Nhà nước“.
. Điều mà chủ nhân siêu thị lo ngại không phải là ở chỗ mất cắp mà là không có người nào muốn bắt cắp, và là sẽ phải đóng cửa vào ngày chủ nhật vì số tiền bỏ ra cho chi phí bảo vệ sẽ cao hơn số tiền kiếm được.
. Đối phó, siêu thị đã phải thêm người bảo vệ, thêm quầy tính tiền.
. Giới chức có trách nhiệm tại trung ương và địa phương khi được hỏi đã cho biết đại ý là cần làm nhanh, nếu có báo cáo và được chỉ đạo sẽ họp với các ngành để làm rốt ráo.
Đó là một hiện tượng xã hội. Và chúng ta rút ra được gì khi nhìn vụ Cora trong bối cảnh của đạo đức ?
. Nếu siêu thị đóng cửa một ngày, hay đóng cửa luôn thì có nghĩa là khi thiếu đạo đức bên trong, chúng ta sẽ không được hưởng những tiện nghi bên ngoài.
Như thế,  để cho xã hội phát triển về kinh tế thì không chỉ trong giao tiếp giữa con người, chúng ta mới phải xứng đáng với nhau;  mà ngay cả với vật chất, nó cũng đòi hỏi như thế. Người sử dụng nó phải xứng đáng với nó về mặt đạo đức. Thấy Cora nó to, hàng nhiều, nhưng chớ táy máy.
. Nếu hưởng được, thì giá trả sẽ đắt hơn so với những nước khác. Tiền thuê thêm bảo vệ hay phải mở nhiều quầy thu tiền thì cũng sẽ được tính vào giá hàng.
Ấy là tại sao giá thành ở chúng ta cao, và sức cạnh tranh của chúng ta thấp. Ấy là tại sao vào siêu thị, phải gửi túi, bỏ cặp…Chúng ta có thể được nhìn, được kể nhiều về văn minh thế giới, nhưng chẳng bao giờ những thứ đó đến tay ta.
. Trong tâm lý của chủ nhân và của những nhân viên siêu thị, trước kia họ vui vẻ đón chờ thì nay sẽ là cảnh giác đề phòng. Khách hàng vào đó sẽ ít tìm thấy ở họ những nụ cười của vui tươi.
Một môi trường của sự lương thiện không thể tồn tại khi nó không được một nền tảng đạo đức hỗ trợ.
. Chính quyền sẽ không còn nhiều thì giờ để nghĩ và làm những việc tốt cho dân, mà sẽ bị bận rộn vì giải quyết cái xấu của kẻ cắp.
. Tình trạng có thể kéo dài mãi nếu như  “ không người nào muốn bắt cắp”, hay còn nghĩ  “ ăn cắp của Tây”! Sao mà hội nhập kinh tế ?
Cha mẹ thương con, mua tủ sắm giường. Vậy là khi chúng ta làm cho người khác thì xã hội có thêm của cải.
Cora cho thấy khi lấy của người khác thì cái hiện có trong xã hội cũng sẽ mất đi. Cora là một minh chứng về vai trò của đạo đức đối với phát triển. Ý nghĩa về nó là thước đo cho thấy khả năng hội nhập kinh tế của chúng ta. Siêu thị cho chúng ta một món hàng, một bài học cụ thể cho một đề tài trừu tượng.
Tác giả đã nhìn sự kiện Cora trong phạm vi kinh tế và đã đi tới một kết luận:
- Đạo đức rất cần thiết và là nền tảng cho phát triển.
Còn gã, mỗi khi nhớ hay đọc lại sự kiện trên, gã liền cảm nhận một nỗi buồn tê tái, vừa xót lại vừa thương.
Phải, gã cảm thấy xót xa như chính mình bị bôi tro trát trấu, hay như chính mình bị một ai đó tát vào mặt. Tự ái dân tộc nơi gã nổi lên đùng đùng, nhưng đành phải “ngậm đắng nuốt cay” thế nào. Gã băn khoăn tự hỏi:
- Không hiểu mấy ông tây bà đầm ấy sẽ nghĩ gì về người Việt Nam. Rồi khi về nước, chắc hẳn họ sẽ xì xầm bàn tán với bà con lối xóm rằng: người Việt Nam thế này, người Việt Nam thế nọ…Và cuối cùng họ sẽ đi tới một thái độ cụ thể, đó là hãy đề cao cảnh giác, tránh cho xa cái bản mặt người Việt Nam.
Có kẻ đã kể cho gã nghe rằng: ở một vài vùng bên Mỹ, tại những nơi công cộng hay trên xe buýt, người da trắng mang nặng đầu óc kỳ thị, đã bạo phổi viết những hàng chữ bậy bạ như sau:
- Coi chừng người Việt Nam ăn cắp.
Gã không tin rằng câu chuyện này là có thực, bởi vì người Mỹ vốn đã vỗ ngực khoe khoang mình là dân tộc văn minh, hiện đại và tự do nhất hành tinh này. Thế nhưng khi nghe qua, Gã đã tức suýt nữa thì bể phổi và hộc máu ra mà chết.
Buồn ơi là buồn và đau ơi là đau. Nhưng nghĩ đi thì cũng phải nghĩ  lại. Và khi nghĩ  lại, Gã cảm thấy thương cho những người Việt anh dũng ấy, đã có can đảm đi ăn cắp và đã có can đảm phát ngôn thật hách xì xằng:
- Lấy đồ của Tây, chứ đâu có ăn cắp của nhà nước.
Bình thường, những người Việt anh dũng này đang lâm vào một hoàn cảnh kinh tế không mấy sáng sủa, nếu không muốn nói là còn đen hơn cả mõm chó, bởi vì như cha ông chúng ta thưở trước đã dạy:
- Bần cùng sinh đạo tặc.
- Đói ăn vụng, túng làm liều.
- Bụng đói thì đầu gối phải bò.
Thế nhưng, bò đâu không bò, lại bò ngay vào cái siêu thị của mấy ông chủ Tây mà chôm chỉa, nên mới rách việc.
Gã còn nhớ hồi trước giải phóng, gã có một bà bác cắm dùi tại giáo xứ Bắc hà, quận Củ chi. Giáo xứ này nằm sát một căn cứ của quân đội Mỹ.
Và thế là đang từ một giáo xứ nghèo rớt mùng tơi, dân chúng lục đục bỏ đi nơi khác để tìm đường sống, bỗng dưng hồi sinh cái một. Đờn ông cũng như đờn bà, già cũng như trẻ, người người đều đi làm sở Mỹ, nhà nhà đều đi làm sở Mỹ. Bọn nhóc con thì lang thang bán kẹo cao su và thuốc lá. Ấy là chưa kể đến đội quân “gà móng đỏ” kéo về, khiến những quán “bar” mọc lên như nấm sau cơn mưa.
Bà bác tôi,  lúc bấy giờ dù đã có tí tuổi, nhưng cũng vẫn hăng hái hưởng ứng phong trào đi làm…sở Mỹ. Kể từ đó, trong nhà rủng rỉnh những cam và táo. Mỗi buổi chiều, khi tan sở về, thế nào bà cũng moi trong cạp quần ra được một hay hai trái.
Bà kể lể sự thật như sau:
- Bọn Mỹ chúng nó rất thương các bà già, chúng gọi các bà già là “má mì san” và thường cho các bà già trái cây. Thế nhưng các bà già không ăn, để dành đem về cho con cho cháu. Lỡ hôm nào chúng không cho, thì nhanh tay lẹ con mắt, chớp vội vài trái mà dắt đại vào cạp quần chứ sao.
- Bộ khi ra cổng, MP tức là quân cảnh chúng không khám không xét ư ?
- Đối với các “má mì san”, chúng đều cho ra mà chẳng khám xét chi cả.
Chuyện rằng có một cô gái được làm ở khâu nhà bếp, thấy đứa con ở nhà mỗi ngày một ròm và còm cõi vì suy dinh dưỡng, nên chiều hôm ấy cô quyết tâm khi về sẽ lấy một ký thịt bò đông lạnh, rồi quấn kỹ quanh bụng.
Thế nhưng, khi ra đến cổng, do sức nóng của cơ thể, miếng thịt bò đông lạnh bắt đầu chảy nước và nhỏ xuống đất những giọt đo đỏ. Bọn quân cảnh Mỹ thấy vậy tưởng cô gái đã tới…tháng  hay mắc phải chứng bệnh đờn bà con gái gì đó, nên vội kêu xe cứu thương, chở gấp tới bệnh xá.
Tại đây, người ta mới khám phá ra và cười ồ lên:
- À, té ra là thế.
Cái khó ló cái khôn. Hôm nay, cái khó thì vẫn còn đó, nhưng liệu sẽ ló ra được bao nhiêu cái khôn siêu đẳng thuộc loại này ? Vậy đâu là nguyên nhân phát sinh ra tệ trạng trên?
Các cụ đồ nho, học trò Đức Khổng Tử, thì cho rằng:
- Nhân chi sơ tính bản thiện.
Bổn tính con người khi sinh ra vốn dĩ tốt lành. Nhưng rồi do hoàn cảnh xã hội, cái tính bản thiện ấy  mỗi ngày một tuột dốc và xấu dần, xấu dần thêm mãi.
Còn các nhà thần thọc thì phán rằng:
- Xuất phát từ lòng bàn tay Thiên Chúa, con người tốt lành như các thiên thần, thế nhưng do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người bắt đầu xuống cấp. Trí khôn trở nên mờ tối. Ý muốn bị dục vọng khống chế. Và lòng tham thì như một vực thẳm không đáy.
Chính vì lòng tham không đáy này, người ta luôn hướng chiều tới “việc vơ vét về”. Và người ta đã nghĩ ra trăm phương ngàn kế để thực hiện ý đồ đen tối ấy.
Riêng với người Việt Nam, theo gã nghĩ, còn có một nguyên nhân lịch sử khác nữa.
Số là như chúng ta đã biết cha ông chúng ta đã từng sống một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, rồi một trăm năm nô lệ giặc Tây và hai mươi năm nội chiến từng ngày. Trong kiếp nô lệ đằng đẵng này, muốn được sống phây phây và phè phỡn, người ta cần phải khéo luồn và  khéo lách…Tất cả nghệ thuật luồn và lách này được kết tinh thành những cái khôn, như:
- Khôn quỉ hay khôn xảo, nghĩa là hiểu biết và thu lợi nhiều cho mình một cách quỉ quyệt và xảo trá.
- Khôn ranh, khôn lỏi hay khôn vặt, nghĩa là hơn người trong những việc vặt vãnh, nhỏ mọn chẳng đáng.
Những cái khôn này, tự bản chất: rằng khôn thì thật là khôn nhưng lại chẳng ngoan tí nào, bởi vì chẳng biết phân biệt phải trái. Cứ thấy tiền của, lợi lộc và chức tước là húc đầu vào như con thiêu thân lao mình vào lửa hay như con bò rừng nhào tới tấm vải màu đỏ trong đấu trường Tây ban nha.
Những cái khôn này đều có hai điểm chung.
Điểm chung thứ nhất đó là luôn đặt cái lợi của mình lên trên hết và sẵn sàng dùng mọi phương tiện để đạt cho được mục đích, dù đó chỉ là những phương tiện xấu xa và  hèn hạ.
Điểm chung thứ hai đó là  những cái khôn này luôn mang tính cách lươn lẹo, gian dối và thiếu thành thật. Nhiều khi miệng thì nam mô, nhưng trong bụng lại chất đầy một bồ dao găm. Hay như tục ngữ cũng đã diễn tả:
- Miệng thì thơn thớt nói cười,
  Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Với một bề dày lịch sử nổi cộm như thế, những cái khôn ranh và khôn vặt này đã bén rễ sâu trong tâm hồn và luôn lưu thông trong máu huyết của người Việt Nam, dù đã cố gắng rất nhiều nhưng vẫn chưa thể đánh bật được nó ra ngoài.
Chính vì thế mà cho đến hôm nay, nó vẫn còn để lại những hệ lụy, những hậu quả giây chuyền thật thê lương và thảm thiết.
Thực vậy, vì thiếu thành thật, nên người Việt Nam chúng ta rất khó cộng tác với nhau. Người ngoại quốc đã nhận xét về các sinh viên Việt Nam như sau:
- Sinh viên Việt Nam rất giỏi, chỉ số thông minh của họ rất cao. Nếu một chọi một, nghĩa là một sinh viên Việt Nam địch với một sinh viên ngoại quốc, họ dễ dàng nắm phần thắng. Thế nhưng một nhóm sinh viên Việt Nam đấu trí với một nhóm sinh viên ngoại quốc, thì họ sẽ thua xa. Sở dĩ như vậy là vì họ không biết hay không thể cộng tác với nhau.
Đây cũng là kinh nghiệm gã đã từng trải qua. Thưở còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, cứ mỗi lần thảo luận theo nhóm là thấy khỏe re con bò kéo xe, bởi vì chỉ cần bàu lên một tên trưởng nhóm, rồi sau đó ngồi tán gẫu, cà kê dê ngỗng cho đến hết giờ, phó mặc tên trưởng nhóm tha hồ ba hoa chích chòe, vẽ rồng vẽ rắn, thêm râu thêm ria khi lêân trình bày hay báo cáo cùng bàn dân thiên hạ.
Cũng chính vì sự thiếu cộng tác này mà cho đến ngày hôm nay dân tộc mình không để lại được cho đời một công trình nghệ thuật tầm cỡ nào.
Chẳng hạn về kiến trúc, các lăng tẩm ở Huế còn quá nhỏ nhoi so với khu đền Ăng ko của người anh em Campuchia. Về văn học, hiện giờ chúng ta chưa có được một bộ bách khoa tự điển đầy đủ…Mạnh ai, người ấy viết. Mạnh ai người ấy làm. Mà sức làm, sức viết của mỗi cá nhân thì thật hạn hẹp. Một cái đầu làm sao bằng hai cái đầu.
Một bộ tự điển “Larousse” của Pháp mà thôi cũng đã có biết bao nhiêu người cộng tác, rồi từ năm này qua năm khác, họ vẫn luôn duy trì sự cộng tác chặt chẽ ấy, để có những bổ túc cập nhật hóa, khỏi bị lỗi thời. Thấy mà thèm.
Rồi vì lòng tham, thấy cái lợi liền bị tối tăm mặt mũi như kẻ phải gió, nên mới nảy sinh ra những hành động làm nghèo cho đất nước.
Thực vậy, có người đã quan niệm: của nhà nước là của chùa, cứ mặc sức mà vơ vét, tuy nhiên phải khôn ranh một tí để khỏi bị tóm cổ. Nếu lỡ bị tóm cổ, thì hãy liệu mà chạy thuốc, lo lót càng sớm càng tốt, vì:
- Đồng tiền đi trước, đồng tiền khôn.
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
Có một độ, nhà nước thu thuế bằng hiện vật. Chẳng hạn anh nông dân thì phải đóng thuế bằng lúa. Và thế là anh ta không ngần ngại trộn cát hay dội nước vào lúa cho nặng ký, khiến cho cả núi lúa thuế bị hư hỏng hay không thể xài được. Đây rõ ràng là tham cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng.
Cũng vì tham cái lợi mà biết bao xí nghiệp, công ti đã lỗ chổng vó, đã thua sặc gạch hay đã biến thành một thứ “công ti năng tan” chỉ vì ngài giám đốc hay cô thư ký biển thủ.
Biết bao đường giây hụi bị bể vì người cầm trịch ẵêm tiền bỏ trốn đi mất. Ấy là gã chưa nói đến những thứ “giả” được sản xuất để trục lợi.
Chẳng hạn làm hàng giả để kiếm lời. Hôn nhân giả để được xuất cảnh. Ly hôn giả để được cấp đất, cấp nhà. Bằng cấp giả để lòe thiên hạ hay để được ngồi vào chiếc ghế này, chiếc ghế kia. Mang thai giả để tống tiền. Đạo đức giả để lấy điểm hay để được thương…chỉ còn thiếu mỗi cái hàm răng giả để cho khỏi móm mà thôi. Hy vọng khi có dịp, gã sẽ mổ xẻ về những thứ giả này.
Càng viết, gã lại càng thương và càng xót, càng tủi và càng hận. Rốt cuộc, yếu tố quan trọng nhất vẫn là yếu tố con người. Chẳng thế mà cha ông chúng ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, rồi sau đó mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ.
Ngày nay, muốn phát triển và nâng cấp nền kinh tế, thì tiên vàn, phải phát triển và nâng cấp chính con người trước mình đã.
Gã Siêu

-------------------------------
 
 

GãSiêu 111: NÓI VÀ LÀM

 

Chuyện xưa tích cũ kể lại rằng: Ngày kia, vợ thày Tăng Tử đi chợ, thấy con khóc đòi theo, bà GãSiêu 111


- Con ở nhà, rồi khi về, mẹ sẽ làm thịt
Chuyện xưa tích cũ kể lại rằng:
Ngày kia, vợ thày Tăng Tử đi chợ, thấy con khóc đòi theo, bà liền phỉnh gạt:
- Con ở nhà, rồi khi về, mẹ sẽ làm thịt heo cho con ăn.
Lúc vợ về, thày Tăng Tử  bèn bắt heo làm thịt. Vợ bảo là mình chỉ nói đùa mà thôi, nhưng thày lắc đầu:
- Đừng khinh rẻ trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm chi thì con cái thường hay bắt chước mà làm như vậy. Nay mình nói dối con, là mình dạy con nói dối rồi đó.
Và thế là thày đi làm thịt heo cho con ăn.
Từ câu chuyện trên gã nhận ra hai mẫu người. Thày Tăng Tử là mẫu người nói và làm, còn bà vợ là mẫu người nói và lờ.
Trong cuộc sống, giữa nói và làm có biết bao nhiêu tình tiết nhiêu khê rắc rối. Thậm chí nhiều lúc có cả một vực thẳm ngàn trùng xa cách. Chính vì thế, gã xin mạn phép được bàn đến mối quan hệ giữa nói và làm.
Khi tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho con người một cái lưỡi. Nhờ cái lưỡi, con người có thể nói được. Và nhờ tiếng nói, con người biểu lộ cho nhau những tình cảm, những ước muốn, những suy nghĩ  hầu xích gần lại ‘’mí’’ nhau hơn. Bởi đó, người ta thường bảo:
- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.
Thế nhưng, phàm bất cứ việc gì trên cõi đời này cũng đều có hai mặt. Mặt phải và mặt trái. Mặt phải của cái lưỡi, đó là một nhịp cầu cảm thông được bắc bằng ngôn ngữ và tiếng nói.
Còn mặt trái, đó là những uẩn khúc, những hận thù, những đổ vỡ mà cái lưỡi đã gây nên, đúng như người xưa đã bảo:
- Lưỡi người còn độc hơn cả họng ong.
Sở dĩ như vậy là vì cái lưỡi không có xương. Mà đã không có xương thì lại lắm đường lắt léo. Nói dọc nói ngang, nói quàng nói bậy, nói thế nào cũng được, như tục ngữ đã diễn tả:
-Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười ở hẹp người chê
Cao chê ngỏng thấp chê lùn
Béo chê béo trục béo tròn
Gầy chê xương sống xương sườn phơi ra.
Trong mối liên hệ giữa nói và làm, thì hạng người tệ hại nhất đó là  những kẻ nói một đàng, làm quàng một nẻo. Những kẻ nói thì hay, nhưng làm thì ngược lại những điều mình nói. Họ nói vậy mà không phải vậy đâu, cho nên phải đề cao cảnh giác, bởi vì:
- Ngoài thì hơn hớt nói cười
  Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Họ đúng là những kẻ ‘’khẩu phật tâm xà’’, ‘’miệng nam mô bụng bồ dao găm’’ như ca dao đã bảo:
-Nam mô, một bồ dao găm
Một trăm dao mắc
Một vác dao bầu
Một xâu thịt chó.
Chính Đức Kitô cũng bàn về hạng người này một cách rất chính xác:
- Họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt trửng gia tài của các bà góa… Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ và đủ mọi thứ xú khí.
Người ta thường cho rằng:
- Nói và làm ngược lại điều mình nói là một chứng bệnh trầm kha của nhiều người, đặc biệt của các thương gia và chính khách.
Với các thương gia trong lãnh vực buôn bán mà cứ thật thà như đếm thì làm sao khấm khớ. Muốn khấm khớ thì phải cân non, thước thiếu, hàng dổm vẫn cứ nói là hàng xịn.
Còn với các chính khách trong việc hoạch định chính sách và đường lối của mình mà cứ thẳng như ruột ngựa thì làm sao thành công. Muốn thắng lợi thì phải tung hỏa mù, càng mập mờ càng tốt.
Khi vui thì ta cắt nghĩa rộng cho đối phương thoải mái tí chút, còn khi buồn thì ta cắt nghĩa hẹp để có thể chịt cổ những kẻ ngo ngoe chống cưỡng. Chả hiểu nhận xét trên đúng hay sai.
Tiếp đến, một hạng người khác bớt nham hiểu hơn, đó là những kẻ nói và lờ. Họ nói nhưng không làm, giống như bà vợ của thày Tăng Tủ, bảo đi chợ về sẽ làm thịt heo, nhưng rồi bà liền đánh trống lảng, cho đó chỉ là chuyện đùa.
Quái chiêu được hạng người này xử dụng đó là ‘’lờ tít’’. Những điều tâm niệm được họ áp dụng trong cuộc sống, đó là :
- Yên lặng là vàng.
- Cố đấm ăn xôi.
- Nhất lí nhì lì tam ì tứ ẩu.
Sau khi tuyên bố vung vít, họ bèn lặn thật sâu, im hơi lặng tiếng thật dài. Mặc cho thiên hạ phản đối, mặc cho thiên hạ yêu cầu. Nói lắm mỏi miệng. Rồi cũng chìm xuồng và đi vào quên lãng để họ thủ lợi. Dù có bị mang tiếng là đánh trống bỏ dùi, thả diều cắt dây, đem con bỏ chợ…thì lợi nhuận cũng đã chui vô đầy túi.
Gã thấy trong những cuộc vận động, ứng cử viên nào cũng hứa sẽ làm điều này, sẽ làm điều kia cho dân chúng khấp khới mừng thầm mà dồn phiếu
Đến khi đã ẵm được cái ghế này, ghế nọ, đã yên vị tại Quốc hội, hay tại chỗ nọ chỗ kia, thì những lời hứa chắc như đinh đóng cột khi trước liền bốc hơi và trở thành những lời hứa hão. Mọi sự vẫn y nguyên như cũ.
Gã vốn thường phong cho những kẻ nói và lờ, nghe và lặn là những vị ‘’giám đốc’’, nghĩa là họ dám xúi, dám đốc cho thiên hạ làm, còn họ thì chỉ tay năm ngón, ngồi nhà mát ăn bát vàng, dẻo miệng đỡ tay chân.
Họ chất những bó nặng lên vai người khác, còn bản thân thì chả đụng một tí móng tay để lay thử. Bao nhiêu việc nhọc nhằn thiên hạ lãnh đủ, còn họ chỉ việc phe phẩy vuốt mấy cọng râu cá chốt của mình. Nói thì nói vậy chứ đôi lúc gã cũng thấy mình đã muốn và đã làm như thế.
Hạng người thứ ba gã muốn bàn đến đó là những kẻ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Dầu sao, đối với hạng người này, gã còn thấy được một đốm sáng ở cuối con đường hầm.
Trước sự kiện ‘’làm chẳng được bao nhiêu này’’ họ có sẵn trong bụng một ngàn lẻ một lý do để biện minh. Nào là tại, nào là bởi, nào là vì… ôi thôi, cái khó bó cái khôn.
Họ quên mất lời người xưa đã dạy:
- Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình, biết người trăm trận đều thắng.
Nhiều lúc họ cố tình không muốn biết mình, nên cứ tuyên bố vung vít, cứ nói cho sướng cái lỗ miệng, rồi thì đến đâu hay tới đó. Mọi sự sẽ hạ hồi phân giải. Mà phân giải không được thì sẽ đánh bài ‘’lờ tít’’.
Họ luôn đâm ngực người khác mà rằng:
- Lỗi tại anh, lỗi tại chị, lỗi tại hoàn cảnh…
Họ chẳng bao giờ dám đấm ngực mà rằng:
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi  mọi đàng.
Bây giờ,  gã xin đề cập tới những hạng người mà lời nói thường đi đôi vói việc làm. Giữa hai phạm trù này có một tỷ lệ thuận nào đó, và đặc biệt, lãnh vực ‘’làm’’thì không ngừng phát triển.
Trước hết là những kẻ nói ít mà làm thì cũng ít. Họ tiêu biểu cho những kẻ an phận, hưởng nhàn, luôn bằng lòng với gì mình có. Không muốn đấu tranh, không muốn dây dưa vào những chuyện rắc rối của cuộc đời, xin cho được hai chữ bình yên.
Trái với hạng người này là những kẻ nói nhiều mà làm thì cũng nhiều. Nói hăng mà làm thì cũng hăng. Họ tượng trưng cho hạng yêu đời, và năng động, dám nói, dám làm và dám lãnh nhâän trách nhiệm của mình trước những thành công và thất bại. Đi tới đâu, họ cũng gieo vãi niềm vui mừng và hy vọng cho những người chung quanh.
Sau cùng là những người nói ít mà làm nhiều, nói thỉ chẳng bao nhiêu mà làm thì lại rất nhiều, thậm chí có những người không nói chi cả mà vẫn âm thầm làm việc. Họ là những người vừa khiêm tốn, vừa nhiệt thành lại vừa thiện chí.
Tiêu biểu cho hạng người này là thánh Giuse.
Mặc dù nắm giữ một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ, thế mà qua Tin mừng, gã không thấy vị thánh này để lại cho hậu thế một lời nói nào, mà chỉ toàn là những việc làm. Vâng phục tối mặt, ngay cả trong những hoàn cảnh bi đát và tăm tối nhất. Gã xin kê đơn hoàn tán, kể lại một số việc làm điển hình.
Vừa mới đính hôn với Maria chưa được bao lâu, thì Giuse thấy người yêu bé bỏng của mình bỗng dưng mang bầu.
Giả như chúng ta, thì chúng ta phải làm cho ra nhẽ, phải bôi tro trát trấu khiến cho cô ấy bị  bẽ mặt. Còn Giuse, khi nhận ra Maria mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, liền mau mắn đón cô ấy về nhà làm bạn mình.
Tiếp đến, khi Maria đang bụng mang dạ chửa, và sắp tới ngày sinh nở, thế mà chiếu chỉ của hoàng đế lại truyền cho mọi người phải trở về quê hương bổn quán của mình để kê khai nhân hộ khẩu.
Giá như chúng ta, thì chúng ta đã nại lý do này lý do kia để đánh bài xù. Còn Giuse thì đã âm thầm đưa Maria về Bêlem để chu toàn bổn phận của một người công dân.
Rồi đang đêm, được thiên thần báo mộng:
- Hãy đưa con trẻ và mẹ Ngài trốn sang Ai cập vì Hêrôđê đang truy tìm để giết hại.
Giá như chúng ta, thì chúng ta sẽ mường tượng ra những vất vả của cuộc hành trình trốn chạy, những khó khăn của cuộc sống vất vưởng nơi đất khách quê người để rồi ca bài “xù”. Còn Giuse thì khác, đã mau mắn vâng theo lệnh truyền, giữa đêm hôm khuya khoắt, vội vã đưa Hài nhi Giêsu và Mẹ Maria lên đường trốn sang Ai cập.
Cũng như sau này, qua lời báo của thiên thần, Giuse đã đem gia đình về định cư tại làng Nagiarét, hầu Kinh thánh được ứng nghiệm.
Cuối cùng, suốt những năm tháng dài, Giuse đã âm thầm đổ những giọt mồ hôi, lao động cật lực với đôi bàn tay chai cứng tại xưởng mộc Nagiarét, cố đem lại cho gia đình chén cơm manh áo, bảo đảm một cuộc sống vật chất ấm no hạnh phúc cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Giuse không nói nhưng đã làm thật nhiều. Rõ ràng khác xa với chúng ta.
Thời buổi hiện nay là thời buổi lạm phát lời nói nhưng lại khan hiếm và thiếu vắng việc làm.
Trong một ngày, trên báo chí, truyền thanh và truyền hình, chúng ta được nghe biết bao nhiêu lời tuyên bố nảy lửa, biết bao nhiêu giọng điệu tuyên truyền, biết bao nhiêu mẫu quảng cáo hấp dẫn… nhưng  thử hỏi kết quả được ngần nào ?
Có những lúc gã cảm thấy như người ta nói để mà nói, chứ chả có một tí quyết tâm để biến lời nói thánh việc làm. Người ta tô hồng bằng những bản báo cáo đầy triển vọng đang lúc thực tế còn rất bâáp bênh và đen tối.
Ngay cả những lúc thiên tai bão lụt ập xuống, mùa màng thất bát. Mà mức thu hoạch vẫn gấp đôi cùng kỳ năm ngoái. Thế có oai không chứ.
Có một khẩu hiệu khiến gã không ngừng suy gẫm, đó là câu:
- Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Nhưng rốt cuộc nhân dân làm đến mửa mật, mà tiền do mồ hôi nước mắt lại chui tọt vào cái túi không đáy của những ông quan tham nhũng.
Riêng trong phần đạo, chúng ta cũng đang mắc phải tệ trạng này:
- Lạm phát lời nói nhưng lại khan hiếm việc làm.
Từ lúc có trí khôn cho đến bây giờ, chúng ta đã được nghe biết bao nhiêu bài giảng, chúng ta đã học được biết bao nhiêu bài giáo lý, chúng ta đã đọc biết bao lời kinh, còn những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh thì liệu có được một ‘’dúm’’ hay không ?
Và ngay cả bản thân, có lẽ chúng ta cũng đã nói rất nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu!
Tuy nhiên, việc làm lúc nào cũng có lợi điểm, giá trị và ưu thế riêng biệt của nó.
Thực vậy, nhờ việc làm chúng ta chứng tỏ cho người khác tình yêu nồng nàn của chúng ta. Làm sao có thể nhận ra một tình yêu không việc làm, bởi vì tình yêu không việc làm chỉ là một tình yêu đã chết, một tình yêu trong mơ tưởng chứ không hề tồn tại trong cuộc sống.
Trái lại, với những việc làm dù nhỏ bé, dù tầm thường nhất cũng đủ cho thấy mức độ đậm đà của tình yêu chúng ta.
Lắm khi chỉ là một nụ cười, một ánh mắt, một lời nói, một cử chỉ trìu mến đã làm ấm lên cả cõi lòng người mình thương mến.
Hơn nữa, nhờ việc làm chúng ta có thể lôi cuốn và hấp dẫn được người khác như tục ngữ đã bảo:
- Lời nói như gió lung lay
  Việc làm như tay lôi kéo.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Việc làm mới là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn. Lời nó chỉ là một tên lùn, còn việc làm mới thực sự là một anh chàng khổng lồ.
Con người hôm nay có lẽ đã chán ngấy những lời công bố, những khẩu hiệu tuyên truyền, những hình ảnh quảng cáo theo kiểu thùng rỗng kêu to, nhưng lại rất cần đến những chứng tá bằng việc làm, những chứng tá bằng cuộc sống.
Thiên hạ cúi đầu ngưỡng mộ một cha Phêrô ở Paris, suốt đời giúp đỡ cho những kẻ lang thang không nơi ăn chốn ở. Thiên hạ không ngớt ca tụng một mẹ Têrêxa ở Calcutta, luôn hy sinh chăm sóc cho những kẻ nghèo hèn, ốm đau và hấp hối.
Chính những hành động bác ái, chính những việc làm yêu thương nhằm xoa dịu những nỗi đau là điều nhân loại hôm nay đang cần đến.
Còn những ý đồ, những toan tính chính trị núp sau lưng những lời nói nặng phần trình diễn, chẳng sớm thì muộn, chẳng hôm nay thì ngày mai cũng sẽ bị lịch sử lật tẩy.
Viết tới đây, gã tự cảm thấy mình nói cũng khí nhiều, chỉ xin ghi lại một ý tưởng nữa, cho cái kết luận được thêm phần… có hậu:
- Thượng đế đã ban cho chúng ta chỉ có một cái miệng, nhưng lại có những hai bàn tay. Nếu như ai cũng ý thức điều đó, để rồi giảm nói mà tăng làm, thì chắc hẳn cục diện thế giới sẽ đổi thay, khuôn mặt nhân loại sẽ tươi sáng, môi trường xã hội sẽ ổn định và an bình hơn bao giờ hết.
Gã Siêu

-------------------------------
 
 

GãSiêu 112: NHỮNG KIỂU PHỤ NỮ

 

Truyện xưa kể lại rằng:  Vua Arthur, vị vua trẻ tuổi của nước Anh, bị quân Pháp phục kích và GãSiêu 112


Truyện xưa kể lại rằng:
Vua Arthur, vị vua trẻ tuổi của nước Anh, bị quân Pháp phục kích và bắt giữ. Lẽ ra vua nước Pháp sẽ giết ngài, nhưng vẻ trẻ trung dễ mến của Arthur đã làm cho vua Pháp cảm động. Ông ta hứa sẽ trả tự do cho Arthur nếu ngài giải được một câu đố cực khó. Thời hạn để Arthur đưa ra câu trả lời là một năm. Nếu sau một năm không tìm ra lời giải, Arthur sẽ phải chết. Câu đố ấy là: Phụ nữ thật sự muốn gì? Đối với Arthur, câu đố này quả là một thử thách quá lớn. Nhưng dù sao nó vẫn tốt hơn là cái chết. Arthur đành chấp nhận mạo hiểm.
Khi trở về Anh  quốc, ngài hỏi tất cả mọi người từ các công chúa đến các cha xứ và đến cả các quan toà, nhưng không ai có thể đưa ra một câu trả lời hoàn hảo. Cuối cùng, mọi người khuyên nhà vua hãy đến hỏi bà phù thuỷ già, bởi vì chỉ mình bà ta mới giải được câu đố hóc búa đó. Những ngày cuối năm cũng đã tới gần. Arthur không còn cách nào khác là đến xin ý kiến của mụ phù thuỷ. Bà ta đồng ý sẽ đưa câu trả lời nhưng với một điều kiện. Đó là bà ta muốn lấy Garwain, chàng hiệp sĩ dũng cảm, bạn thân nhất của nhà vua. Arthur thất kinh. Bà ta vừa xấu, lại vừa bẩn. Ngài chưa từng bao giờ thấy một ai đáng tởm như bà ta. Không, ngài sẽ không để bạn thân của mình phải chịu thiệt thòi như vậy.
Khi biết chuyện, Garwain nói với Arthur rằng sự hy sinh của chàng làm sao có thể so sánh được với sự sống của nhà vua, sự tồn tại của vương quốc Anh. Và chàng hiệp sĩ quyết định hy sinh. Cuộc hôn nhân được chấp thuận và vua Arthur nhận được câu trả lời. Điều phụ nữ thật sự muốn đó là “Có toàn quyền quyết định mọi việc trong cuộc sống của mình”.  Ngay lập tức ai cũng nhận ra rằng mụ ta vừa thốt lên một chân lý. Nhà vua của họ sẽ được cứu thoát. Quả thật vua nước nước Pháp rất hài lòng với lời giải đáp và cho Arthur khỏi cái án tử hình.
Lại nói về đám cưới của mụ phù thuỷ và chàng hiệp sĩ. Tưởng chừng như không gì có thể khiến Arthur hối hận và đau khổ hơn nữa. Tuy nhiên chàng hiệp sĩ của chúng ta vẫn cư xử hết sức chừng mực và lịch sự. Mụ phù thuỷ thì trái lại, trong tiệc cưới, mụ ta làm nháo nhào mọi thứ lên. Thỉnh thoảng mụ lại lấy cái tay bẩn thỉu của mụ nhón cái này một chút, bốc cái kia một tý. Thật chẳng ra làm sao cả. Mọi người thì hết sức khó chịu.
Đêm tân hôn, Garwain thu hết can đảm bước vào động phòng hoa chúc. Nhưng gì thế này? Trên giường không phải là mụ phù thuỷ già nua xấu xí mà là một cô gái vô cùng xinh đẹp đợi chàng tự bao giờ. Nhận thấy sự ngạc nhiên trên nét mặt chàng hiệp sĩ, cô gái từ tốn giải thích là vì chàng rất tốt với nàng lúc nàng là phù thuỷ, nên để ân thưởng, nàng sẽ trở thành một người xinh đẹp dễ mến đối với chàng vào nửa ngày. Vấn đề là chàng phải lựa chọn hình ảnh đẹp của nàng vào ban ngày hay ban đêm. Chao ôi sao mà khó thế? Garwain bắt đầu cân nhắc: Ban ngày nếu nàng là một cô gái xinh đẹp thì ta có thể tự hào cùng nàng đi khắp nơi, nhưng ban đêm làm sao mà ta chịu cho nổi? Hay là ngược lại nhỉ, ta đâu cần sỹ diện với bạn bè cơ chứ, cứ để nàng ta xấu xí trước mặt mọi người đi, còn khi màn đêm buông xuống, ta sẽ được tận hưởng những giây phút chồng vợ với thiên thần này. Garwain đã trả lời: “Nàng hãy tự quyết định lấy số phận của mình. Nàng muốn đẹp hay xấu vào lúc nào cũng được”. Tất nhiên câu trả lời này đã làm cho mụ phù thuỷ đội lốt cô nàng xinh đẹp kia hài lòng và nàng nói rằng nàng sẽ hóa thân thành một cô nương xinh đẹp suốt đời. Đó là phần thưởng dành cho người biết tôn trọng ý kiến của phụ nữ.
Câu truyện trên khiến gã nhớ tới một câu danh ngôn đại khái như thế này: Phụ nữ giống như bức tranh trừu tượng mà mãi 300 năm về sau cũng chẳng có ai hiểu được. Hôm nay, gã xin dựa vào một bài trên trang mạng “Dân Trí”, để bàn về một vài kiểu phụ nữ…quái chiêu. Thực vậy, sống trên đời, anh đàn ông nào mà chẳng thích những phụ nữ đẹp đẽ, duyên dáng, dịu dàng và đảm đang, tuy nhiên đôi khi vẫn thấy xuất hiện những kiểu phụ nữ làm cho họ phải “chết khiếp”.
 
Thứ nhất là những phụ nữ thích tiền
Nói đến tiền, ai mà chẳng thích. Ngay cả một đứa nhỏ cũng thích và hình như càng già lại càng thích, bởi vì từ nhỏ cho tới lớn, từ già cho chí trẻ, ai cũng hiểu được “siêu giá trị” của đồng tiền: Có tiền mua tiên cũng được, có tiền là có tất cả. Thế nhưng, khuynh hướng thích tiền của một số  chị vợ lại được biểu lộ bằng những độc chiêu, khiến cho đối phương, tức là những anh chồng, phải ngậm đắng nuốt cay.
Thực vậy, hầu như chị vợ nào cũng muốn quản lý chặt chẽ những đồng tiền còm của chồng. Các chị có một bộ nhớ trên cả tuyệt vời, bao nhiêu chi tiêu của anh chồng đều được lưu giữ, chẳng hề sai trật một đồng xu cắc bạc nào cả. Các chị còn là một thứ ngân hàng đặc biệt, chỉ biết đầu vào mà chẳng biết đầu ra. Thu vào thi vui vẻ, bao nhiêu cũng nhận. Còn phát ra thì bủn xỉn, xẻn so từng đồng, như tâm sự của một anh chồng sau đây:
Vào ngày tui mới lãnh lương,
Vợ tui bỗng chốc dễ thương vô cùng.
Về nhà, “bả” tới ôm “hun”,
Dường như lòng bả nhớ nhung quá trời,
Xong rồi bả mới mở lời:
Tiền lương cuối tháng em coi xem nào.
Dứt lời, túi trước túi sau,
Hai tay bả móc, tui đau…đớn lòng.
Chỉ vài ba phút là xong,
Tiền trong tay bả, tui không còn gì.
Thế rồi bả cất bước đi,
Nét duyên khi nãy còn gì nữa đâu.
Tháng qua hai chín ngày sầu,
Ngày vui duy nhất, trôi mau quá trời.
(Trần Thành Nghĩa)
Trong khi đó, các chị lại mang “cái máu mua sắm” trong mình và người ta có thể coi việc thích mua sắm là bản tính “bẩm sinh” của một số phụ nữ. Các chị “ghiền” đi siêu thị và một khi đã bước chân vào, thì đố mà dứt cho ra. Các chị mải mê ngắm nghía hết gian hàng này tới gian hàng nọ. Kinh nghiệm cho thấy mấy anh chồng thường nghĩ rằng đồng tiền kiếm được là do lao động vất vả, nên phải chi tiêu sao cho hợp lý và chỉ mua những thứ cần thiết, còn các chị vợ thì khác, các chị mua sắm những thứ mình thích. Thậm chí có những thứ mua về rồi để một chỗ chẳng khi nào dùng tới. Thành thử người đời vốn thường bảo: Người đàn ông thành công là người phải kiếm được nhiều hơn số tiền vợ anh ta chi tiêu.
 
Thứ hai là những phụ nữ thích…so
So ở đây có nghĩa là so sánh. Hội chứng so sánh này còn được gọi là hội chứng đứng núi này trông núi nọ, được voi đòi tiên, chẳng bao giờ biết bằng lòng với số phận của mình:
- Chồng người ta thì…thế nọ thế kia, còn anh thì cứ…thế này, thế này. Vậy nghĩa là làm sao?
Cái điệp khúc trên được rỉ rả suốt cả ngày và được rù rì suốt cả đêm, đến độ quỷ thần cũng không chịu nổi, huống lọ là anh chồng. Ấy là chưa nói tới cái danh dự, cái tự ái to bằng cái rế của anh chồng bị xúc phạm năng nề, vì dù sao mình cũng là thằng đờn ông kia mà. Thực vậy, sau một ngày đi làm mệt mỏi, trở về nhà chỉ toàn nghe thấy vợ mình khen chồng người khác giỏi giang, mua nhà lầu, sắm xe hơi, vợ người ta ăn sung mặc sướng, cuộc sống nhàn hạ… Chắc hẳn anh chồng nào cũng cảm thấy chối tai. Còn đâu cái cảnh:
Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
 
Thứ ba là những phụ nữ thích gây
Gây ở đây có nghĩa là gây sự. Các chị vợ thuộc loại này rất hiếu chiến, hễ gặp chuyện không vừa ý là nổi cơn tam bành, không còn biết cảm thông, chia sẻ là gì nữa. Các chị quên mất rằng hạnh phúc gia đình phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu. Các chị không còn nhớ rằng sự dịu dàng đằm thắm của phụ nữ chính là thứ vũ khí mạnh nhất chinh phục cánh mày râu.
Nếu tại các khu rừng rậm thuộc châu Á, cọp là vua của loài thú, thì ở châu Âu, sư tử là chúa sơn lâm. Khi nghe sư tử rống lên, các loài thú khác đều hoảng sợ, cụp đuôi chạy trốn mất.
Trần Quí Thường là bạn của thi hào Tô Đông Pha. Ông ta có một người vợ nổi tiếng là hay ghen và hung dữ. Mỗi lần Tô Đông Pha đến chơi, đều nghe tiếng bà ta la hét ầm ĩ. Thấy vậy, họ Tô mới làm một bài thơ cám cảnh mà chế diễu ông bạn có người vợ hung dữ như sau:
Thùy tự Long Khâu cư sĩ  hiền,
Đàm không thuyết pháp dạ bất miên.
Hốt văn Hà Đông sư tử hống,
Trụ tượng lạc thủ tâm mang mang.
Có nghĩa là:
Ai hiền hơn cư sĩ Long Khâu,
Đọc kinh giảng đạo suốt canh thâu.
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
Tay run gậy rớt lòng hoang mang.
Những chị vợ hung dữ như sư tử Hà Đông bên Tàu, thì quả là hiếm hoi, nhưng không phải là không có. Bởi vì trên đời này, đôi khi cũng vẫn xảy ra cảnh “gà mái đá gà cồ”. Chẳng tin thì xin nghe thử tâm sự của “Người mặt sẹo” như sau:
Nắng Sài Gòn anh đi mà lạnh ngắt,
Bởi vì em sinh quán ở Hà Đông.
Bao lần anh khiếp hãi sợ vô cùng,
Và trên mặt vẫn còn lằn vết sẹo.
Anh vẫn nhớ em ngồi đâu quát đấy,
Cầm khúc cây dài lắm chỉ đe anh.
Anh kinh hồn vội vã né lung tung,
Chờ sơ hở phóng ra rồi dông tuốt…
 
Thứ tư là những phụ nữ thích nói
Người ta thường bảo: Nơi nào có hai hoặc ba người phụ nữ họp lại với nhau, nơi đó sẽ biến thành một cái chợ. Nếu hai hoặc ba chị phụ nữ ngồi lại với nhau là có tiếng xì xèo to nhỏ, cũng giống như hai hoặc ba anh đàn ông tụ lại với nhau là có tiếng bát đũa, ly tách khua vang. Khi gặp mặt nhau, các chị nói đủ thứ chuyện, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện trong nhà đến chuyện ngoài ngõ, đặc biệt là những chuyện thầm kín, riêng tư.
Không phải các chị chỉ “rậm lời” với nhau, mà còn “dài lời” với chồng con trong nhà. Về nghệ thuật “nói dài, nói dẻo, nói dai, nói day, nói dứt”, thì các chị ăn đứt, khiến mấy anh chồng chỉ có nước ngồi bó tay, chịu trận mà thôi.
Trước hết, phần lớn các chị vợ đều mắc phải chứng bệnh than, nào là thời buổi gạo châu củi quế, nào là vật giá leo thang, nào là gạo đường tăng lên vùn vụt:
Anh ạ, bình ga đã hết rồi,
Cộng dồn hai cái trả gấp đôi.
Đây nữa, nhà đèn đưa giấy báo,
Hẹn ổng cuối tuần phải đóng thôi.
Còn cái “a lô” nữa anh à,
Chuyện này không hoãn được đâu nha,
“Ầu ơ ví dặm là ổng…cắt,
Hóa đơn em nhận mới chiều qua.
Tiếp đến, các chị không ngần ngại nói tới nói lui, nhắc đi nhắc lại những sai lỗi của chồng, nhất là những lem nhem, những phản bội trong lãnh vực tình cảm. Đây chỉ là chuyện rất bình thường, không có chi là khó hiểu. Thực vậy, các chị vợ sống bằng trái tim. Đối với các chị, tình yêu là tất cả và chi phối mọi sinh hoạt. Vì thế, những lỗi phạm tới tình yêu sẽ trở thành như một vết chém, không bao giờ nguôi ngoai trong cõi lòng họ. Tình yêu của họ giống như bát nước đầy, một khi đã bị hắt xuống đất, thì không thể nào hốt lên được. Vì thế, anh chồng nào đã  bị lưu vào hồ sơ tội trạng, thì chẳng thể nào bôi xóa cho hết được.
 Mấy anh đàn ông rất sợ phải chung sống với kiểu người nói dài, nói dai. Suốt ngày bị lải nhải bên tai là một cực hình đối với họ. Họ không hiểu sao các chị vợ lại có thể nhắc đi nhắc lại mãi một vấn đề mà không biết chán. Họ chỉ biết lắc đầu lè lưỡi và tìm cách tẩu thoát cho nhanh khi “cái đài” được bật lên.
Trên đây, chỉ là một vài kiểu điển hình “tiên tiến” mà thôi. Chắc hẳn trong đời thường còn lắm mẫu gương tuyệt vời hơn thế nữa. Tuy nhiên, chỉ nguyên suy gẫm những kiểu trên mà thôi, một ông bố đã đưa ra những lời khuyên cho cậu con trai của mình như sau:

1- Kẻ thù lớn nhất của con là vợ con.
2- Ngu dốt lớn nhất của đời con là không hiểu được nó.
3- Thất bại lớn nhất của đời con là không bỏ được nó.
4- Bi ai lớn nhất của đời con là phải sống với nó.
5- Sai lầm lớn nhất của đời con là quyết định lấy nó.
6- Tội lỗi lớn nhất của đời con là nghe lời nó.
7- Đáng thương lớn nhất của đời con là bị nó sai khiến.
8- Đáng khâm phục lớn nhất của đời con là con vẫn chịu được nó.
9- Tài sản lớn nhất của đời con là những thứ nó đang giữ.
10- Khiếm khuyết lớn nhất của đời con là con không lấy được hai vợ.
Tới đây, gã xin kể lại một truyện cổ tích Ấn Độ như sau:
Thượng Đế tạo ra đàn ông trước, sau thấy đàn ông rầu rĩ, cô đơn quá, Ngài bèn lấy vẻ đẹp của Hoa, tiếng hót của Chim, mầu sắc của Cầu Vồng, cái độc ác của Chó Sói, cái hợm hĩnh của Con Công, cái lạnh lùng của Băng Tuyết, sự bất thường của Nắng Mưa, sự mềm mại của Gió, sự nhút nhát của Thỏ Rừng, đường cong của Vầng Trăng, lồi lõm của Đồi Núi.... để tạo thành đàn bà.
Thượng Đế cho đàn ông tặng vật tuyệt vời này làm vợ. Người đàn ông mừng quá, dắt người đàn bà đi, quên cả cám ơn. Nhưng chỉ ít lâu sau, chịu không thấu, gã bèn đem trả lại cho Thượng Đế.
Một thời gian ngắn, buồn héo hắt vì cô đơn, gã lại đến xin người đàn bà. Tiếp tục như thế mấy lần, xin trả rồi trả xin, Thượng Đế nổi giận và mắng: “Đây là lần cuối ta cho ngươi, từ nay sướng khổ ráng mà chịu lấy, đừng quấy rầy ta nữa vì ta còn bận trăm công ngàn việc với cái trần gian đa sự này. Biết chưa?”
Thôi thì xin ghi nhớ câu danh ngôn sau đây như một kết luận: Để có được hạnh phúc với một người đàn ông, bạn cần phải hiểu anh ta nhiều và yêu ít thôi. Còn để có được hạnh phúc với môt người phụ nữ, bạn cần phải yêu nhiều và đừng cố hiểu cô ta.
Gã Siêu

--------------------------------
 
 

GãSiêu 113:  VỢ DẠI

 

Có thể nói được rằng tục ngữ ca dao là cái túi khôn của người Việt Nam, đã tích luỹ được biết bao GãSiêu 113


Có thể nói được rằng tục ngữ ca dao là cái túi khôn của người Việt Nam, đã tích luỹ được biết bao nhiêu kinh nghiệm quí giá. Gã xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn như bàn về cái ngu, các cụ ta đã bảo:
- Trên đời có bốn cái ngu,
  Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.
Chẳng hạn như bàn về cái khó, các cụ ta đã nói:
- Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà,
  Cả ba việc đó đều là khó thay.
Chẳng hạn như bàn về cái khổ, các cụ ta đã cho hay:
- Thứ nhất vợ dại trong nhà,
  Thứ hai nhà dột, thứ ba nợ đòi.
Hôm nay, gã xin lượm lặt những mẩu chuyện nho nhỏ trên mạng, cũng như trên báo chí, để “tám” về nỗi khổ thứ nhất của các anh chồng có vợ dại.
Thực vậy, đờn ông ai cũng muốn vợ mình phải là một phụ nữ giỏi giang, tháo vát, vừa khéo chiều chồng, lại vừa khéo nuôi con. Bởi vì một chị vợ vụng về làm sao có thể vun quén được một mái ấm gia đình hạnh phúc, một bà mẹ vụng về làm sao có thể nuôi dạy được những đứa con nên người. Chữ “dại” ở đây không phải là ngu dốt, cũng không phải là điên khùng, mà chỉ là hơi bị đần một chút xíu mà thôi. Sự dại ấy thường được biểu lộ qua hai trạng thái:
 
TRƯỚC HẾT, ĐÓ LÀ VỢ CHẬM.
Anh chồng vốn tính nóng nảy, làm việc gì cũng phải nhanh nhẹn. Còn chị vợ thì trái lại, vốn tính chậm rãi, khoan thai, từ tốn. Anh ta nghĩ rằng một khi đã ráp lại với nhau và thành vợ thành chồng, hai tính khí khác biệt ấy sẽ bổ túc cho nhau, để rồi sẽ dẫn tới một tình trạng tuyệt vời. Nhưng anh ta đâu có ngờ, ngay sau ngày cưới, đã phải nếm mùi đau khổ vì cái sự khoan thai, chậm rãi và từ tốn của nàng. Chính anh ta đã “bật mí” cho bàn dân thiên hạ biết về nỗi đau khổ của anh ta trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 13, ra ngày 10.4.2011, đại khái như thế này:
 
Nỗi khổ thứ nhất là chờ nàng trang điểm  
Khi mới yêu nhau, mỗi lần hẹn hò, thì việc chờ nàng là cả một hạnh phúc, anh ta hồi hộp và sung sướng, dù có phải chờ một hai tiếng đồ hồ cũng chẳng nhằm nhòi gì. Lúc mới cưới, mỗi lần chuẩn bị đi chơi, anh ta rất lấy làm thú vị khi nhìn ngắm nàng trang điểm. Đôi khi còn ra vẻ hiểu biết, góp ý cho nàng pha màu và chọn quần chọn áo. Thế những bây giờ sự đời đã ra khác. Việc phải chở nàng đi đâu đó quả là một cực hình. Anh ta “thắng bộ” xong xuôi, uống hết ly cà phê, đọc xong tờ báo mà nàng vẫn chưa rời bàn phấn. Việc chờ đợi trước kia thi vị bao nhiêu, thì nay lại khốn khổ bấy nhiêu. Có những lần đi đám cưới, khi vợ chồng anh ta tới nơi, thì thiên hạ đã xử tới món…tráng miệng!
 
Nỗi khổ thứ hai là chờ nàng nấu cơm
Lúc đầu anh ta phụ giúp nàng những việc lặt vặt, nhưng sau mấy lần đói muốn xỉu cả người, mà vẫn chưa có cơm ăn, anh ta bèn phải xung phong làm bếp chính. Anh ta đảm trách việc nấu cơm, kho cá, còn nàng thì nhặt rau. Nồi cơm đã xong, niêu cá đã rắc tiêu, thịt đã bằm sẵn và nước cũng đã sôi, thế mà nàng vẫn còn đánh vật với rổ rau.
Nàng biết mình chậm chạp, nên cũng rất cố gắng. Đi làm về, nàng tranh thủ bắt tay ngay vào phần việc của mình, vậy mà lục đục mãi cũng vẫn chưa xong. Nhiều bữa nàng đi làm về với bộ dạng ủ rũ, thì ra nàng bị sếp dũa te tua vì cái tội làm việc với tốc độ rùa bò. Anh ta cũng đã thử giúp nàng cải thiện tình hình, chẳng hạn như lên lịch làm việc cho hợp lý, sắp xếp đồ đạc cho ngăn nắp…tính chậm chạp của nàng cũng được cải thiện ít nhiều, nhưng vẫn không thể nhanh như lòng mong muốn.
 
Nỗi khổ thứ ba là chậm chạp trong việc chăm sóc con cái
Chính anh ta đã bật mí cho biết sau khi sinh con, cũng vì tính chậm chạp của nàng, mà thằng nhỏ mấy lần suýt phải đưa vào bệnh viện. Chẳng hạn tắm cho con, thằng nhỏ lạnh run, mà mẹ nó vẫn chưa xong tiết mục quấn tã và mặc áo. Chẳng hạn thằng con sốt bừng bừng, bác sĩ dặn phải cho uống thuốc hạ nhiệt ngay, thế mà mẹ nó cứ loay hoay mãi, ly thuốc vừa pha xong lại đánh đổ mất. Cuối cùng anh ta đành phải kết luận: Có vợ chậm, khổ ơi là khổ. (Văn Thuỳ).
 
TIẾP ĐẾN, ĐÓ LÀ VỢ ĐOẢNG
Khi nói tới chữ “đoảng”, người ta thường nghĩ ngay đến sự vụng về trong phạm vi “nữ công gia chánh” của phe đờn bà con gái. Thế nhưng, không phải chỉ phe đờn bà con gái mới đoảng, mà nhiều khi cánh đờn ông con giai cũng đoảng thầy chạy, và hơn thế nữa, đoảng còn có mặt trên từng cây số trong nhiều lãnh vực khác nhau. Câu chuyện sau đây là một điển hình:
Hai vợ chồng ghé vào ăn tại một quán ven đường. Ăn xong, khi đã lên xe và đi được khá xa, chị vợ mới sực nhớ là mình quên cặp kính trên bàn ăn. Suốt quãng đường trở lại quán, anh chồng luôn cằn nhằn tính đoảng và hay quên của chị vợ. Thế nhưng, đến chỗ cũ, khi chị vợ tất tả chạy vào tìm kính, anh chồng bèn dặn với theo:
- Em nhớ cầm ra luôn cả chiếc mũ của anh nữa nhé!  (Quy Tung).
Tuy nhiên, trong bài này, gã chỉ xin bàn tới sự đoảng của các chị vợ mà thôi.
 
Đoảng với bản thân
Một anh chồng đã tâm sự: “Tôi có người vợ xinh, tác phong sinh hoạt thì luộm thuộm, bạ đâu bỏ đó, không có thói quen đánh răng buổi tối. Khi ngủ thì ngáy to và toàn mùi tỏi do thức ăn bữa tối còn đọng lại. Có lần ngủ quên, dậy muộn, bèn mặc nhầm cả quần của tôi để đi làm, mặc dù quần rất rộng mà cũng chẳng hay biết”. (Quốc Hiếu).
Một anh chồng khác nhiều lần phải đỏ mặt khi nhà có khách. Số là chị vợ có phong cách ăn mặc khá mát mẻ. Hôm nào oi bức là chị diện áo mỏng, khoét cổ rộng, hãi nhất là bên trong không thèm mặc gì cả. Có ai đến chơi, chị vợ đều vô tư cúi người, rót nước mời khách. Anh chồng góp ý, thì chị vợ lại bảo:
- Có ai để ý đâu mà anh lo.
“Chịu hỏng nổi” tính đoảng của chị vợ, một anh chồng đã kể lại như sau: Hôm lễ thượng thọ của bố, vợ chồng đến nơi, vui vẻ trò chuyện với mọi người. Thế nhưng, sắp vào giờ thiêng, chuẩn bị tuyên bố lý do, bỗng nhiên bà xã tôi trốn biệt trong buồng, gọi mãi cũng không chịu ra. Mẹ tôi bực mình:
- Sao lại tránh mặt, không thích quay phim, chụp hình thì cũng phải chịu chứ.
Tiệc chưa tàn, bà xã nằng nặc đòi về. Trên đường đi, mặt tôi sưng lên như bị dị ứng, lúc đó bà xã mới tiết lộ:
- Em phát hiện ra mình quên mặc áo trong anh ạ, hèn gì mà thấy dễ chịu mát mẻ thoải mái như ở nhà. Không biết có ái nhìn thấy không? Kỳ quá, làm sao mà dám xuất hiện ở chỗ đông người.
Nhìn bà xã cười hì hì, tôi cũng nghẹn luôn. (Phư Chu, Tuổi Trẻ Cười).
Nhiều chị vợ mắc sai lầm khi cho rằng đã là vợ chồng, thì cuộc sống chung thế nào cũng được. Chị vợ có ăn mặc lôi thôi, nhà cửa có hơi bề bộn thì anh chồng cũng cố mà chịu. Dĩ nhiên, anh chồng không đòi vợ mình rực rỡ như hoa hậu, nhưng các chị vợ cũng cần phải gọn ghẽ và sạch sẽ. Phần lớn các anh chồng đều chết khiếp vì vợ mình lôi thôi, nhà cửa bề bộn và con cái bẩn thỉu. Nếu chẳng may mắc phải tính cẩu thả, chị vợ nên tự nhìn nhận để tìm cách sửa đổi. Hoàn thiện bản thân cũng chính là một cách giúp duy trì hạnh phúc gia đình.
 
Đoảng với chồng
Chuyện rằng:
Anh chồng nọ vốn sợ cái tính đoảng của vợ. Ngày tết, hai người đến chúc tuổi thủ trưởng. Vừa vào nhà, chị vợ đã ôm chầm lấy vợ thủ trưởng mà khen:
- Lâu không gặp chị, dạo này chị trẻ và xinh quá. Chẳng bù cho ông nhà tôi, ngày một hói trán và bụng phệ. Chị có bí quyết gì bảo em với.
Vợ thủ trưởng rất ngượng vì lời khen ấy. Và cũng từ đó, anh chồng không bao giờ đi đâu cùng chị vợ nữa.
Chuyện rằng:
Anh chồng kia đi làm về, thấy chị vợ có vẻ lo lắng bèn hỏi:
- Em gặp chuyện gì buồn phiền à?
Chị vợ trả lời:
- Em buồn lắm, bởi vì lúc ủi quần áo, em sơ ý đã làm thủng một lỗ trên chiếc quần mới của anh.
Anh chồng an ủi:
- Đừng nghĩ ngợi nhiều! Chẳng lẽ em không nhớ anh còn một chiếc quần mới giống hệt chiếc ấy sao?
Chị vợ mỉm cười:
- Tất nhiên là em nhớ lắm. Thế nên mới có cái để vá vào chiếc quần thủng này chứ.
Chuyện rằng:
Một anh chồng khác được vợ đãi món canh bầu nấu hến. Anh ta nói:
- Đó là món mình mê nhất đấy.
Thế nhưng hôm ấy, anh ta đã phải nhắm mắt nuốt canh vì bầu thì nhão, còn hến thì nguội và rất tanh. Anh ta còn hài hước nói thêm:
- Chưa hết, vợ mình mà thái thịt xong, nếu chịu khó tìm xung quanh, thế nào cũng nhặt được vài miếng. Có miếng nằm cạnh bình gas, có miếng ở gần chân ghế, và có miếng lại vắt vẻo trên vòi nước trong chậu rửa bát. Thế mới ghê!
 
Đoảng với con cái
Ngày mới quen nhau, trông cô ấy hơi…tưng tưng, thấy hay làm sao. Như lúc vào quán ăn, cô ấy nhìn muối ra đường, nhìn đường ra bột ngọt, bỏ lung tung vào tô cháo, ăn không được, cả hai cùng cười ngặt nghẻo…Vui thế, mới nên duyên chồng vợ. Nhưng rồi, cái kiểu “vớ vẩn” của chị vợ không thể tạo ra niềm vui mãi được.
Ai đời, bả tắm cho con, mà thằng bé cứ vùng vẫy khóc thét lên. Anh chồng sốt ruột, đến kiểm tra hiện trường thì trời ơi! Toàn kiến. Hoá ra bả không rửa cái thau, cứ đặt con vào. Thằng bé khóc, bả tưởng nó nhõng nhẽo, còn phét vào mông nó nữa chứ. Chỉ hai mẹ con trong nhà mà như có chiến tranh. Thế mới ghê!
 
Đoảng với bàn dân thiên hạ
Có những chị vợ thật tốt nết, nhưng chỉ phải cái tật…đoảng. Chẳng hạn một chị vợ kia đi công tác xa. Trong thời gian vắng nhà, thì ông bố chồng phải cấp cứu, tưởng không qua khỏi. Ngày chị vợ về, anh chồng đã căn dặn:
- Ông nội ốm nặng, em đến thăm ông ngay đi.
Tưởng chị vợ sẽ vội vã đi ngay, nào ngờ cô ấy đáp:
- Mệt lắm, em về nhà ngủ đã, để mai.
Anh chồng tức đến nghẹn lời. Anh ta biết bản chất chị vợ rất tốt. Bình thường cô ấy vẫn yêu quý bố mẹ anh ta và không nề hà việc gì. Tuy nhiên, có lẽ cô ấy đã nghĩ rằng đằng nào ông cũng ốm, đến ngay cũng chẳng giải quyết được việc gì. Nhưng cô ấy đâu biết còn có bao nhiêu người trong gia đình anh đang nhìn vào.
Khi đón ông về nhà, chị vợ rất tận tình chăm sóc: cơm cháo mỗi ngày một thực đơn. Thế nhưng, cô ấy lại oang oang nói chuyện diện thoại, hay vặn tivi quá lớn, khi ông nội đang gật gà ngủ trưa. Dọn dẹp thì vẫn cái tính động đến cái gì là loảng xoảng cái nấy. Ầm cả nhà. Góp ý, thì cô ấy bảo:
- Em quen rồi, không nói nhỏ, không làm nhẹ được.
Một cặp vợ chồng khác có con đi  học nhà trẻ. Nhân sinh nhật cô giáo, vợ chồng bàn với nhau:
- Mua quà không thực tế bằng phong bì.
Sợ chị vợ ăn nói không khéo, anh chồng nhận nhiệm vụ đưa con đi học, rồi gửi phong bì cho cô. Thế mà đến tối, chị vợ bồn chồn báo cáo với chồng:
- Anh ơi, em đoảng quá anh ạ. Hình như em chưa bỏ tiền vào phong bì.
Trời đất, anh chồng giận như muốn la làng, còn chị vợ lại đổ thừa:
- Anh phải kiểm tra chứ.
Mẹ chồng ở quê lên chơi, mới vài ngày cũng đã đòi về vì cái tính đoảng của con dâu:
- Đời thuở nhà nao, hết xíu quách, chân gà đến bắp nướng, ổi giòn. Bộ vợ con tính cướp đi mấy cái răng còn sót lại của mẹ à? (Phư Chu, Tuổi Trẻ Cười).
Đối với tính đoảng của chị vợ, anh chồng la mắng hay phàn nàn thì cũng tội nghiệp, mà không phản ứng, thì cấp độ đoảng ngày càng gia tăng, để rồi đi đến chỗ sứt mẻ và đổ vỡ.
Hiện nay, chưa có một nghiên cứu khoa học nào xác minh tính đoảng có phải do di truyền hay không? Nhưng nếu bình tĩnh mà phân tích, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy các bà mẹ vợ đã góp phần không nhỏ vào chuyện “đẻ” ra các bà vợ đoảng. Có hai nguyên nhân chính:
Nguyên nhân khách quan, đó là trong thời gian ở nhà với mẹ, các cô gái được ưu tiên không phải làm gì cả, “vì kêu nó làm, chỉ vướng chân, rồi mình phải làm lại”. Đến khi lập gia đình dễ phát sinh ra chứng đoảng qua các biểu hiện đầu óc không tập trung, nói và làm không đi đôi với suy nghĩ. Dạng này được điều chỉnh bằng cách luyện tập thể thao cho tâm trí, phải nghĩ kỹ trước khi phát ngôn, hay hành động.
Còn nguyên nhân chủ quan là do các chị vợ muốn anh chồng để ý, quan tâm tới gia đình. Số này có quan điểm: Mình đảm qúa, chồng ỷ lại và hư đi. Từ đoảng giả chuyển sang đoảng thật lúc nào cũng không hay.
Thế nhưng, dù chủ quan hay khách quan, dù thật hay giả, thì anh chồng cũng đừng ngồi đó  mà rủa xả hay than trách tính đoảng của chị vợ, nhưng hãy lấy tình yêu và sự kiên nhẫn của mình để giúp chị vợ biến đổi từ đoảng sang đảm, cho gia đình được an vui hạnh phúc.
Gã Siêu

--------------------------------
 
 

GãSiêu 114: NĂM TUẤT NÓI CHUYỆN CHÓ

 

Thuở ban đầu nơi gã đang cắm dùi, chỉ có một số ít gia đình làm nghề dệt chiếu. Những gia đình GãSiêu 114


Thuở ban đầu nơi gã đang cắm dùi, chỉ có một số ít gia đình làm nghề dệt chiếu. Những gia đình này đều thuộc gốc Phát Diệm và nghề dệt chiếu vốn là nghề cha truyền con nối, được đem từ miền bắc vào miền nam.
Cùng với thời gian, họ đã sinh con đẻ cái và con cái họ lấy vợ lấy chồng. Vì thế, nghề dệt chiếu như được nối vòng tay lớn và liên tục phát triển. Rồi sau đó,  bàn dân thiên hạ thấy “mần ăn” được, nên cũng nhào vô kiếm chút cháo và nghề dệt chiếu được tràn lan khắp thôn ấp.
Ăn theo vào đó là nghề trồng đay, nghề xe đay và nhất là nghề đổi…chó, hay còn được gọi là nghề…chiếu chó!
Những người làm nghề chiếu chó phải là những thanh niên khỏe mạnh và dẻo dai. Chỉ cần một chiếc xuồng là hai vợ chồng có thể tung tăng chèo bơi trên sóng nước vào những đêm trăng sáng, cũng như vào những đêm trời tối với nghề chiếu chó. Khá hơn một chút thì ráp thêm chiếc máy nổ, cho đỡ tốn sức lao động và chỉ cần một người trên ghe cũng đủ.
Họ lấy chiếu từ nhà hay mua chiếu từ những gia đình dệt chiếu. Nếu mua thì họ thường mua chịu, gối đầu hai ba chuyến. Tiền bán chó lần này sẽ được dùng để thanh toán cho tiền mua chiếu của những lần trước. Có nghĩa là làm nghề này thì không cần bỏ vốn, mà chỉ cần bỏ công sức mà thôi. Chiếu mua thường là chiếu mỏng và chất lương…tồi, thì mới lời.
Họ phải len lỏi vào các kênh rạch chằng chịt, đi tới những nơi mà thiên hạ còn kiêng thịt chó, hay chưa mặn mà với món “mộc tồn” cũng như món “cờ tây”, thậm chí còn phải chui vào tận những sóc Miên, vì càng đi xa thì càng có lãi. Họ không mua chó, nhưng  đem chiếu ra để mà đổi lấy chó.
Mỗi chuyến đi của họ thường kéo dài năm ngày. Nói theo ngôn ngữ vi tính hiện nay, thì đó là “mô đen 2.5”, có nghĩa là khởi hành vào sáng thứ hai và trở về vào chiều hay tối thứ sáu.
Ngày thứ bảy là thời điểm để bán chó. Họ có thể mang chó ra chợ, nhưng phần lớn đều đã được đặt hàng từ trước, hay được các “lái chó” đến cân, để rồi đem lên Saigon, Xóm Mới, Hố Nai… Nếu chẳng may có con chó bị nghẹt thở mà ngỏm củ riềng, thì họ mới làm thịt và sai vợ con đi bán rong.
Ngày kia, một cô nàng đội mẹt thị chó đi ngoài đường và rao bán:
- Ai thịt chó không ?
Bỗng một người từ trong nhà gọi vọng ra:
- Chó, chó lại đây.
Cô nàng đội thịt chó cũng không phải là tay vừa, nên đã hỏi lại:
- Ai chó đấy.
Giống như những tên tử tù, trước khi bị hành quyết, thường được cho ăn một bữa phủ phê, thì cũng vậy, trước khi bán chó hay cân chó, họ cho chó xơi một bữa thịnh soạn, muốn ăn bao nhiêu thì ăn, ăn cho đã thèm tới lúc căng bụng lên mới thôi. Chỉ tính riêng khoản này, họ cũng đã kiếm lời thêm được một vài ký khi bán chó hay cân chó.
Mua chiếu dổm, đổi chó rẻ và bán chó mắc, thành thử nhiều anh chàng “chiếu chó” làm ăn phất lên trông thấy. Tính trung bình mỗi chuyến đi như vậy, sau khi đã trừ mọi chi phí, họ còn lời được cả chỉ vàng.
Thời hoàng kim của nghề chiếu chó tại vùng khỉ ho cò gáy này là vào khoảng năm 1986, nghĩa là cách đây vừa đúng hai mươi năm. Hồi đó, nếu chỉ bấm đốt ngón tay, gã cũng có thể ghi nhận được ít nhất 50 ghe chiếu chó ăn theo trong ấp. Và bây giờ gã thử nhẩm làm một phép tính xem như thế nào nhé.
Bình thường thì một ghe, một tuần, một chuyến. Mỗi chuyến đem về khoảng 100 ký chó. Với con số 50 ghe trong ấp, vị chi sẽ đem về khoảng 5.000 ký chó, hay nói vắn tắt là 5 tấn chó trong một tuần. Một năm tính tròn là 52 tuần lễ, như vậy sẽ đem về khoảng 260 tấn chó mỗi năm. Số chó khổng lồ này sẽ được phân tán đi khắp tứ phương thiên hạ cho dân nhậu xài chơi.
Tuy nhiên, con người thời nay đã đổi khác. Người ta bắt đầu ưa chuộng nệm “mút”, nệm thông hơi, nệm nước, với những nhãn hiệu nổi tiếng, chẳng hạn như Kym Đan…Một khi đã quen nằm nệm rồi, mà lỡ đi tới đâu phải nằm chiếu, thì cứ y như rằng  mọi xương sống, xương xườn, nghĩa là tất cả bộ xương cách trí của mình như đâm xuống giường, đau nhức không ngủ nổi.
Ngoài ra, dân chúng ở đây muốn dệt chiếu, thì phải mua cói tận Sađéc, thành thử chiếu nơi gã không địch nổi với chiếu Sađéc, vì giá cả mắc hơn. Một vài gia đình cũng thử trồng cói, nhưng không thành công, vì cói vừa ngắn lại vừa không đạt chất lượng.
Trong khi đó, nhiều loại chiếu khác nhau xuất hiện trên thị trường, từ chiếu ny lông đến chiếu gỗ, từ chiếu Thái Lan đến chiếu Trung Quốc được quảng cáo là vừa êm lại vừa có công dụng chữa bệnh!
Chính vì những lẽ ấy, hàng chiếu bị ế ẩm và nghề dệt chiếu dần dần bị dẹp tiệm.
Hơn thế nữa, nuôi được một con chó không phải là chuyện dễ. Kinh nghiệm về việc nuôi chó đã cho gã thấy như vậy. Có những lúc trong nhà ba con chó cái cùng đẻ một lúc, nên lúc nhúc ba bầy chó con. “Khuyển số” tổng cộng lên tới gần bốn chục.
Thế nhưng, khi chó con bắt đầu biết ăn cũng chính là lúc bệnh đường ruột xuất hiện và cướp đi sinh mạng của chúng. Số chó sống sót, khôn lớn và trưởng thành chỉ còn lại đôi ba con mà thôi.
Do đó, số cung không theo kịp với số cầu, số chó được nuôi không lấp đầy nổi cái khoảng trống vô cùng to lớn của dân bợm nhậu, khiến cho  “nguồn” cung cấp chó ở khắp nơi bị cạn kiệt.
Chính vì lẽ ấy, dân chiếu chó lâm vào cảnh ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh, nên phần lớn đã bỏ nghề chiếu chó mà xoay sang nghề khác.
Trong văn học sử có một giai thoại khá thơ mộng về một cô nàng bán chiếu. Giai thoại ấy như sau:
Ngày kia trên đường về nhà, Nguyễn Trãi đã gặp một cô gái rất đẹp, đang gánh chiếu đi bán.  Muốn bỡn cợt cô gái nọ, Nguyễn Trãi đã đọc bốn câu thơ:
- Ả ở đâu mà bán chiếu gon ?
  Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
  Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?
  Đã có chồng chưa, được mấy con ?
Không một chút do dự, cô nàng đã họa lại:
- Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon,
  Nỗi chi ông hỏi hết hay còn ?
  Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ.
  Chồng còn chưa có, hỏi chi con.
Ngạc nhiên về sự thông mình xuất chúng của cô gái, Nguyễn Trãi bèn hỏi tên cô gái là gì ? Cô gái đã trả lời tên là Thị Lộ. Và rồi Nguyễn Trãi đã cưới cô nàng bán chiếu ấy về làm hầu thiếp. Câu chuyện “tình cô bán chiếu” còn dài, dẫn tới vụ án “Lệ Chi Viên”,  khiến cho Nguyễn Trãi bị “tru di tam tộc”, bị giết tới ba đời, nhưng gã xin “xì tốp” ở đây để trở lại với cái nghề chiếu chó nơi quê hương gã.
Cái nghề chiếu chó nơi quê hương gã không được thơ mộng như cô nàng Thị Lộ bán chiếu ở Tây Hồ, trái lại rất nặng nề vất vả, trầy da tróc vẩy, đổ mồ hôi sôi nước mắt, mới kiếm được tí tiền còm đem về nuôi vợ nuôi con.
Một mình một ghe, nên ban đêm dân chiếu chó thường phải tìm những nơi đông dân cư, như chợ búa, nhà thờ hay nhà chùa để mà ngủ, bằng không sẽ trở thành miếng mồi ngon và rơi vào tầm ngắm cho bọn trộm cướp hỏi thăm sức khỏe.
Những đêm tạnh ráo còn đỡ, chứ những đêm mưa to gió lớn, thì vừa rét lại vừa run, nằm co ro trên chiếc xuồng nhỏ, vừa tròng trành, lại vừa nồng nặc mùi…chó, đến quỉ thần cũng không chịu nổi.
Cái mùi chó cũng rất đặc biệt. Những anh lái chó và nhất là những anh chuyên môn làm…chó, tức là giết chó lấy thịt, thì hình như bị cái mùi ấy, không phải chỉ ám vào áo quần, mà còn ám vào tận lục phủ ngũ tạng, dù tắm gội thế nào cũng không tẩy sạch nổi. Bởi đó, bất kỳ họ đi tới đâu đều bị lũ chó sủa vang.
Sinh nghề tử nghiệp. Trong ấp của gã đã có hai anh chàng chết vì nghề chiếu chó rồi đấy.
Một anh thì bị rơi tõm xuống sông vào mùa lụt lớn trong đêm giông bão và bị dòng nước cuốn trôi lúc nào không hay. Còn một anh thì bị chó cắn trong lúc thi hành phận sự, nhưng vì coi thường không thèm đi chích ngừa, đã nổi cơn điên một thời gian sau đó và đi tầu suốt sang thế giới bên kia, để lại người vợ trẻ và mấy đứa con thơ trong một căn nhà xiêu vẹo. Thì ra con chó cắn là một con chó dại.
Thời hoàng kim của nghề chiếu chó đã qua đi và chìm vào dĩ vãng, bởi vì số gia đình dệt chiếu bây giờ “lơ thơ như tơ liễu buông mành”, chỉ còn một vài hộ mà thôi. Ngoài ra, hàng chiếu cũng không còn được ưa chuộng nhiều trên thị trường như ngày xưa. Từ đó, nghề chiếu chó cũng bị tàn lụi theo, để rồi  trên đám tro tàn ấy, nghề mua chó hay lái chó được phát triển theo một chiều hướng mới.
Thực vậy, cho đến bây giờ thịt chó vẫn là món…”khoái khẩu” cho dân bợm nhậu. Hơn thế nữa, trong cơn đại dịch H5N1, bao nhiêu gà vịt, chim chóc, nghĩa là phần lớn gia cầm gia súc đều bị giết sạch, chôn sạch, đốt sạch để khỏi bị lây lan bệnh cúm, nên thịt chó bỗng lên ngôi, vừa tương đối rẻ, lại vừa an toàn cho sức khỏe.
Chính vì lẽ ấy, hiện nay tại Việt Nam các quán thịt chó thi nhau mở ra như đi vào mùa xuân với trăm hoa đua nở. Con đường nào cũng có quán thịt chó, từ những con đường lớn dẫn vào trung tâm thành phố đến những con đường nhỏ dẫn về những vùng quê khỉ ho cò gáy. Mọi vùng đất, từ thị xã, thị trấn đến những thôn ấp đèo heo hút gió cũng thấy mọc lên những quán thịt chó, với những tên gọi rất quen thuộc và thân thương, chẳng hạn như: Cờ tây, Mộc tồn, Lá mơ, Nó kìa, Đúng rồi, Sống trên đời…
Gã ở nông thôn, nên cũng được xơi thịt chó đều đều. Thế mà đôi khi về Saigon, lũ bạn vẫn không ngần ngại rủ đi nhậu thịt chó. Địa chỉ của những quán ấy bây giờ không còn là độc quyền của khu vực Ngã Ba Ông Tạ hay Xóm Mới, mà đã lan tràn tới nhiều nơi, nhiều chỗ.
Lũ bạn gã, lúc thì lôi gã tới quán 297 đường Lý Thái Tổ, khi thì kéo gã tới quán Văn Bái ở bên Thanh Đa. Thậm chí có lần mò tới tận quán Tư Thân ở Bùi Môn. Nhưng đặc biệt nhất có lẽ là “cụm quán mộc tồn” ở một con hẻm đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Đường Nuyễn Thị Minh Khai, ngày xưa là đường Hồng Thập Tự, khởi đi từ “bùng binh” Cộng Hòa, qua bệnh viện Từ Dũ, qua rạp Olympique với đoàn kịch nói Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô của Kim Cương, qua vườn Tao Đàn…
Hiện nay, nếu đi về hướng cầu Thị Nghè,  thì sẽ gặp một con hẻm nhỏ. Rất tiếc vì hôm đó gã tới vào buổi tối nên không nhìn rõ tên con hẻm, nhưng nếu hỏi những nhà ở gần đấy rằng quán Hai Mơ ở đâu, chắc chắn họ sẽ chỉ cho ngay vì ai cũng biết đến tiếng tăm của “cụm quán” này.
Nằm sâu một chút trong con hẻm nhỏ, có tới cả chục quán thịt chó. Quán này liền vách với quán kia. Có lẽ do một nhóm dân cư họ hàng, bà con lối xóm với nhau ở ngoài bắc, kéo vô lập nghiệp.
Ở đây có  hai hình thức ngồi nhậu thịt chó, một là ngồi ghế xoay quanh một chiếc bàn như vốn thường thấy. Hai là “đánh tệt”, nghĩa là ngồi xếp bằng bằng xuống chiếu, theo kiểu Nhật.
Các món ở đây được chế biến theo phong cách miền bắc như: luộc, nướng, dồi, hầm, chả chìa, rựa mận, xáo măng…Đặc biệt có món “bàn chân chó” thật tuyệt vời. Khi kêu món này, thì phải đặt hàng là mấy cái. Người ta sẽ dọn lên trong một hay hai cái đĩa toàn bàn chân chó. Có lẽ người ta đã phải hấp cho nhừ, rồi nướng lại trên than hồng, nên bàn chân chó vừa dẻo, vừa dòn lại vừa thơm vừa ngon nữa.
Còn ở thủ đô Hà Nội, hai địa điểm thịt chó được bàn dân thiên hạ chiếu cố và thường hay nhắc đến, đó là thịt chó ở đê Yên Phụ và thịt chó ở phố Nghi Tầm. Tuy nhiên, Hà Nội có một phong cách thưởng thức thịt chó hơi bị đặc biệt, đã từng được báo chí đề tới, đó là thịt chó ôm!!! Miết rồi cái gì người ta cũng có thể ôm được, từ cà phê ôm đến bia ôm, từ rượu đế ôm đến thịt chó ôm. Nhưng trong các thứ ôm ấy, chỉ có “xe ôm” là tương đối sạch sẽ nhất.
Nét đặc sắc của các quán “cờ tây” trên toàn quốc, là chỉ bán thịt chó mà thôi, không kèm theo bất cứ thứ thịt nào khác. Có lẽ một khi đã xơi thịt chó chấm mắm tôm, công thêm với lá mơ và củ riềng, củ xả, người ta sẽ nghiệm thấy thịt chó thật là đậm đà khó quên, trên cả tuyệt vời nữa, nên những thứ thịt khác, dù là đặc sản, cũng trở nên nhạt nhẽo, không thể sánh nổi.
Nói tới việc bán toàn thịt chó trong quán, gã nhớ tới một câu chuyện đã được đọc từ lâu trong một tác phẩm của Toan Ánh. Câu chuyện ấy như thế này:
Thời Pháp thuộc, có một viên tri huyện thường bị các quan trên bắt nạt. Ông ta tức lắm, nhưng nghĩ mình chức nhỏ, thấp cổ bé miệng, nên đành phải chịu vậy. Tuy nhiên, ông ta vẫn có ý muốn trả miếng lại những kẻ vẫn bắt nạt ông.
Ngày kia, nhân có việc, ông làm tiệc mời các hàng quan lớn, quan bé tới dự. Bữa tiệc đặc biệt này được ông làm toàn bằng thịt chó và ông thuê bếp Tàu đến nấu nướng rất ngon.
Vào tiệc, gắp một miếng chó hầm, xơi thấy ngon, quan tuần phủ mới hỏi quan huyện:
- Món gì mà ngon quá vậy.
Quan huyện kính cẩn đáp:
- Bẩm món chó đấy ạ.
Rồi ông ta đưa tay khoa một vòng như để chỉ món đã được bầy biện cũng như để chỉ khắp mọi người và nói:
- Hôm nay toàn chó thôi ạ. Tất cả đây đều là chó hết
Tới đây, gã xin trở lại với nghề mua chó hay lái chó. Thực vậy, theo định luật kinh tế:  đã có cầu thì ắt phải có cung, có người mua, thì  ắt phải có người bán. Trước nhu cầu thịt chó ngày càng gia tăng,  người ta phải lùng xục khắp các hang cùng ngõ hẻm để tìm cho ra chó.
Như trên gã đã trình bày: Nghề chiếu chó nơi quê hương gã đã tàn lụi, thế nhưng trên đám tro tàn ấy, nghề mua chó hay lái chó được phát triển theo chiều hướng mới. Đúng thế, bây giờ, người ta không mang chiếu đi đổi lấy chó, nhưng người ta đi mua chó đàng hoàng.
Một anh lái chó hôm nay được trang bị bằng một chiếc xe gắn máy, phía sau “đèo” thêm một cái lồng chó hay một cái cũi chó bằng sắt. Ban sáng, anh ta chạy phom phom trên những con đường làng, ban chiều anh ta trở về với cái lồng hay cái cũi nhốt những con chó đủ   loại: mực có, vàng có và lôm nhôm cũng có; già có, tơ có và xà mâu cũng có. Đôi khi còn có cả vài ba con mèo nữa, bởi vì mèo cũng là một món khoái khẩu, được dân bơm nhậu chiếu cố và được ưu ái gọi bằng cái tên…”tiểu hổ”.
Trong một vài năm gần đây, gã thấy xuất hiện ở nhiều nơi một cái nghề chẳng giống ai, đó là nghề…trộm chó.
Trước năm 1975, Saigon thường giới nghiêm vào ban đêm, nghĩa là từ mười hai giờ khuya cho tới ba bốn giờ sáng không ai được đi  ngoài đường phố, ngoại trừ lực lượng “bạn dân”, tức là lực lượng cảnh sát, có bổn phận phải tuần tra.
Gã có một ông anh, lúc bấy giờ làm cuộc trưởng cảnh sát tại Hòa Hưng, còn được gọi là Cống Bà Sếp. Các bạn dân nằm tại cuộc  cảnh sát này, thỉnh thoảng cũng mắc phải chứng bệnh nhạt miệng và thèm…thịt chó. Và thế là vào giờ giới nghiêm, ngài cuộc trưởng bèn phái mấy tay đàn em, leo lên chiếc xe díp, trực chỉ một bãi rác nào đó.
Ban đêm, chó thường kéo nhau tới bãi rác để kiếm thêm tí chút bồi dưỡng. Chỉ cần rút một khẩu súng, nhắm vào con chó nào có tướng tá ngon lành nhất,  “pằng” một phát, rồi chạy đến bỏ vào bao tải, quẳng lên xe, chạy về cuộc. Trong khi đó ở nhà, những người khác đã đun nước sôi và chuẩn bị mọi thứ gia vị cần thiết. Thoáng một chốc là đã có những đĩa thịt chó nóng hổi vừa thổi vừa xơi. Nhanh, gọn, đẹp.
Đi trên đường phố, nhiều lần gã được chứng kiến cảnh nhân viên công lực bắt chó…chạy rông. Họ dùng một chiếc xích có thòng lọng ở đầu. Gặp một con chó chạy rông, họ đuổi con chó chạy về hướng người cầm thòng lọng đang đón đường sẵn. Khi chó chạy tới, người đó nhẹ nhàng, nhưng lại nhanh như cắt, đưa thòng lọng vào đầu con chó. Con chó càng dãy dụa, thòng lọng càng siết chặt. Sau cùng, con chó được đưa lên xe một cách rất êm ru bà rù.
Gã phải công nhận rằng người cầm thòng lọng đón đầu con chó thật điêu luyện và thành thạo, rất ít khi đoán sai và tròng hụt. Con chó chạy qua, họ đã chụp là phải đúng, như những tay thiện xạ, bách phát bách trúng. Những kẻ hành nghề trộm chó, cũng hay dùng cách thức này để bắt chó.
Ngoài ra, chúng còn dùng tới bả, tức là tẩm thuốc độc vào một miếng thịt và ném cho chó ăn. Khi chó ngấm thuốc và rơi vào tình trạng hôn mê, chúng chỉ cần nhét chó vào bao, mang về xả thịt, rồi mang tới những quan thịt chó, vốn là mối ruột của chúng. Cách thức này thường mất toi bộ lòng, vốn dĩ là một món tuyệt vời của thịt chó, như người xưa vốn bảo:
- Sống trên đời, ăn miếng dồi chó,
  Xuống âm phủ, biết có hay không ?
Trong cuốn “Ăn trộm và nghệ thuật bắt trộm”, Toan Ánh đã ghi lại hai cách thức trộm chó của người xưa, mà gã đã liệt vào hạng…tuyệt chiêu, vậy xin được chép lại, kẻo mai mốt bị thất truyền, hậu duệ con cháu những kẻ trộm chó chẳng biết đâu mà mò.
Tuyệt chiêu thứ nhất được gọi là “mỹ cẩu kế”, dùng chó cái để bắt chó đực. Toan Ánh đã mô tả tuyệt chiêu này như sau:
Bọn chúng nuôi một hai con chó cái. Chúng ta thả những con chó cái này ra để bắt “cẩu tình” vời những con chó đực và giữa lúc chó đực đang say men tình chó cái, thì chúng gọi chó cái về. Lẽ tất nhiên chó đực đi theo… Đầu tiên, đến ngõ nhà nàng thì chó đực rút lui, nhưng sau không thấy gì nguy hiểm, thì theo hẳn vào trong nhà. Chó đực đâu biết mình đã đi vào chỗ chết. Tên trộm chỉ chờ chó đực vào nhà liền đóng cửa lại để hạ thủ.
Tuy nhiên, nhiều chó đực đi theo chó cái nhưng lại không chịu vào nhà ban ngày, mà chỉ thường đến vào ban đêm, đứng ngoài cửa mà…rít gọi. Đối với loại chó đực này, bọn trộm khóet một lỗ hổng ở tường, chỉ chui vừa con chó. Bên trong  chúng xích chó cái. Chó đực tới bên ngoài và rít lên để gọi. Chó cái ở bên trong cũng rít lên để trả lời. Chờ lâu không thấy bạn tình xuất hiện và thế là chó đực bèn chui qua lỗ tường. Tại đây, tên trộm đã rình sẵn. Và chó đực đi đời nhà ma.
Tuyệt chiêu thứ hai gã tạm gọi là “chó ơi là chó”. Có hai anh trộm chó đã nghĩ ra một mưu thật chiến. Mưu ấy như sau: Hàng ngày chúng dắt nhau ra cánh đồng, chỗ bàn dân thiên hạ đổ rác, cũng là nơi lũ chó thường tới để kiếm chút bổng lộc ngoài luồng.
Lợi dụng thói quen của lũ chó, một tên ngồi…ị, còn một tên vác vồ đi đi lại lại như  anh nông phu vác vồ ra ruộng đập đất. Chó mon men đến chờ và khi đã vục đầu vào xơi cái món nóng sốt ấy, thì chiếc vồ sẽ đập ngay vào đầu nó và nó chỉ còn đủ thời giờ để kêu lên hai tiếng ăng ẳng mà thôi.
Chẳng biết hai tên trộm áp dụng tuyệt chiêu này đã bắt được bao nhiêu chó, nhưng rồi ngày hôm ấy, cũng theo bài bổn cũ, một tên ngồi đồng, còn một tên vác vồ. Thế nhưng, tới lúc đập, vì bị hoa mắt nên tên vác vồ thay vì đập chó, thì đã đập tên ngồi đồng, khiên tên này lăn đùng ra bất tỉnh trên chính cái món nóng sốt hắn đã cho ra.
Ơi chó ơi là chó.
Để kết luận, gã xin kể lại sự việc một chú chó đáng được lưu danh đã làm. Báo Công An Thành Phố đã kể lại sự việc ấy như sau:
Một con chó cái giống Esquimaux đã cứu mạng một cháu bé mới chào đời tại Đài Loan. Chị Huang, hai mươi bốn tuổi, mang bầu tháng thứ chín, hôm Chúa nhật chị cảm thấy khó chịu nên đi vào phòng tắm, con chó của chị là Baby theo sau.
Trong phòng tắm, chị chuyển dạ bất ngờ, rồi sinh một bé trai. Chị cố xoay sở để cắt rốn bé bằng một chiếc kéo, nhưng không được và chị gục xuống sàn, kiệt sức đến nỗi không thể gọi người bạn cùng phòng giúp đỡ.
Nhưng con chó trung thành đã ngoạm cẳng chân đứa bé và cứu nó khỏi chết đuối. Khi đứa bé đã thở và khóc được nhờ con chó liếm mặt, Huang mới cố lấy hết sức gọi người tới giúp. Và đứa bé được cứu sống.
Đặc tính của chó là trung thành và tận tụy giúp đỡ chủ. Phải chăng đó cũng là những điều đáng cho chúng ta suy gẫm trong năm Bính Tuất này lắm chứ.
Gã Siêu

-------------------------------
 
 

GãSiêu 115: NĂM QUÍ MÙI NÓI CHUYỆN…DÊ

 

Cho đến bây giờ gã vẫn chưa có dịp tìm hiểu tại sao người Á đông chúng ta, dưới ảnh hưởng của GãSiêu 115


Cho đến bây giờ gã vẫn chưa có dịp tìm hiểu tại sao người Á đông chúng ta, dưới ảnh hưởng của mấy chú ba Tàu, lại chia vòng thời gian thành từng chu kỳ, mỗi chu kỳ kéo dài mười hai năm và được gọi là một can hay một con giáp.
Chẳng hạn khi nói:
- Vợ nó hơn nó một con giáp.
Câu nói này  nghĩa là:
- Nó kém vợ nó những mười hai tuổi. Đúng theo cái mốt “vợ già chồng trẻ là duyên con…bò”.
Tất cả có mười can, đó là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quí.
Mỗi năm trong một can hay trong một con giáp được gọi là chi. Tất cả có mười hai chi, đó là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Mỗi chi lại được biểu tượng bằng một con vật nào đó.
Thí dụ năm nay là năm Quí Mùi. Quí là can chót, can thứ mười. Còn Mùi là vị thứ tám trong mười hai chi và thuộc về con Dê. Năm tới 2004, sẽ trở lại can đầu là Giáp và chi thứ chín là Thân. Như thế năm 2004 sẽ được gọi là năm Giáp Thân, cầm tinh con khỉ.
Theo tục lệ tốt lành vốn có từ lâu trong nghề viết lách, hôm nay gã xin bàn rộng bàn dài, tán hươu tán vượn về con dê, để bàn dân thiên hạ được xả hơi trong những ngày đầu năm, mà quên đi những căng thẳng của công ăn việc làm và những khủng bố đang xảy ra khắp đó đây trên cả và trái đất.
Sách “ Cổ Học Tinh Hoa” kể lại như sau:
Người láng giềng nhà Dương Chu mất một con dê, bèn sai hết cả nhà đi tìm, lại sang nói với Dương Chu cho mượn một người đi tìm hộ.
Dương Chu nói:
- Ôi ! Sao mất có một con dê mà cho những bao nhiêu người đi tìm.
Người láng giềng đáp:
- Vì đường có lắm ngã ba.
Khi các người tìm dê đã về, Dương Chu hỏi:
- Có tìm thấy dê không ?
Người láng giềng nói:
- Không.
- Sao lại không tìm thấy ?
- Tại đường đã lắm ngã ba, theo các ngã ba đi một chốc lại có nhiều ngã ba khác. Thành thử không biết đi vào đường nào để tìm thấy dê, phải chịu về không cả.
Ấy đường cái chỉ vì lắm ngã ba mà dê mất  không tìm thấy. Người đi học cũng vậy, chỉ vì  mê muội mà mất cả lương tâm.
Theo “Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức, thì:
“Dê là loài thú có sừng, có râu, lông nhiều và hôi, bốn móng thon nhọn, thích chồm phá để kiếm cỏ và dây leo để ăn.”
Khi con dê đực mang nặng tuổi đời và trở về già, lúc bấy giờ râu cằm dài, lông nhiều và mùi hôi thật đậm đặc, người ta gọi nó là dê…xồm.
Riêng những kẻ muốn bắt chước dê, để một chòm râu ở cằm, thì bộ râu ấy liền được bàn dân thiên hạ tặng phong cho danh hiệu là bộ râu dê.
Trong chữ Tàu, dê được gọi là dương. Chẳng hạn cao dương là dê con, sơn dương là dê núi.
Tại Việt Nam có một thời người ta đua nhau nuôi dê để lấy sữa bởi vì theo các nhà phân tích, thì sữa dê có nhiều chất bổ dưỡng. Thậm chí các cụ già thường xuyên uống sữa dê thì sẽ trẻ ra vài chục tuổi, còn quí bà quí cô ấy hở, nếu thường xuyên tắm sữa dê, thì da dẻ lúc nào cũng cứ trắng nuốt như trứng gà bóc vậy !!!
Xem ra các chú ba Tàu, cũng như dân bợm nhậu rất khoái món thịt dê, bộ phận nào của dê cũng được liệt vào hàng quí hiếm và được chiếu cố tận tình, chẳng hạn như: dương trường là ruột dê, dương can là gan dê, dương huyết là máu dê, dương nhục là thịt dê, dương thận là thận dê…Mỗi thứ này được tẩm liệm và chế biến theo một cách thức riêng để trở thành món đặc sản của những nhà hàng tại  Chợ Lớn.
Những người chuyên nghiệp làm dê, tức là mần thịt dê, cho  hay:
- Để khử cái mùi hoi của dê, người ta thường phải đuổi cho dê chạy thật lâu, hay cho dê uống rượu cốt để cho dê say  đến toát cả mồ hôi hột, rồi sau đó mới chọc tiết. Thịt sẽ không còn hoi nữa.
Có một thời ở Saigon, dân bợm nhậu rất ghiền  cái món lẩu dê, đi tới chỗ nào cũng thấy những bảng hiệu quảng cáo và mời gọi cho lẩu dê. Thậm chí cả một dẫy phố, nhà nhà đều trở thành quán nhậu với món lẩu dê. Sau thời đại của lẩu dê, tới thời đại của lẩu mắm. Còn bây giờ tại các đám tiệc, cái “mốt” lẩu tươi sống đang rất được  thịnh hành.
Ngày nọ, gã về Saigon và được mấy tên bạn cùng lớp rủ đi nhậu lẩu dê. Quán nhậu chỉ gồm vỏn vẹn mấy chiếc bàn và một ít ghế thấp lè tè được bày ngay trên  lề đường vào ban tối. Khi món nhậu được bưng ra, gã nhận thấy có một cái niêu đựng thịt dê đã được nấu sẵn với chao, đặt trên bếp than và đang sôi sùng sục. Đi kèm với nó là hai đĩa mì vắt và hai đĩa cải đắng. Mì và cải đắng được nhúng vào lẩu trước khi ăn.
Dân nhậu chính hiệu con nai vàng, khi xơi lẩu dê, thì phải uống rượu huyết dê, nghĩa là rượu đế được pha với máu dê. Uống chừng dăm cốc thì bầu khí bỗng trở nên vui vẻ, ai cũng thích nói to và nói dài. Dường như mình là người duy nhất nắm được chân lý trên đời.
Riêng  phần gã, dù bị dị ứng với mùi tanh của máu, cũng phải nhắm mắt nhắm mũi làm vài cốc cho vui lòng bè bạn. Ăn miếng thịt dê mà vẫn cứ phân vân không biết dê hay chó, bởi vì dê đâu mà lắm thế !
Nhậu lẩu dê là một hình thức nhậu bình dân và rẻ tiền nhất. Chẳng thế mà quán lẩu dê nào cũng đông khách. Mấy anh tài xế xe ôm, mấy bác đạp xích lô, sau một ngày lao động cực nhọc, ban tối rủ nhau làm một cái lẩu dê với vài xị rượu huyết dê là sẽ quên tuốt  những vất vả và khốn khổ của mình.
Nhiều khi không có thịt dê, dần ghiền bèn phệu ra món “giả dê”, tương tự như món “giả cầy” để được tưởng nhớ mùi hương. Người ta dùng chân giò heo, nướng lên rồi thái nhỏ và bóp với riềng. Khi thưởng thức, miệng thì ăn nhưng lòng thì phải mường tượng ra đó là thịt dê chính gốc.
Có một điều gã ghi nhận được khi suy gẫm về loài dê, đó là từ đông sang tây, từ cổ chí kim, người ta đều nhìn dê bằng một cặp mắt khinh bỉ, gán cho dê những thói hư tật xấu và đồng hóa dê với tội lỗi. Chẳng hiểu có oan cho dê lắm không ?
Thực vậy, sách Lêvi của Cựu ước đã mô tả về nghi thức của ngày lễ xá tội như sau:
Người ta dẫn tới trước mặt Aaron một con dê đực còn sống. Ông ta sẽ đặt hai tay lên đầu nó mà xưng thú hết mọi sai lầm, hết  mọi phản nghịch, nghĩa là hết mọi tội lỗi của con dân Israel, như thể trút tất tật lên đầu nó, rồi dùng tay một người đang chờ sẵn mà đuổi nó vào sa mạc. Ở đó chẳng có sự hiện diện đầy yêu thương của Đức Giavê, mà chỉ có sự hiện diện của ma quỉ độc dữ mà thôi.
Con dê này được người Do thái gọi là “oan dương”, con dê gánh tội, con vật hy sinh.
Trong Tân ước, gã lại còn thấy rõ điều ấy hơn nữa.
Thực vậy, hoạt cảnh vể ngày phán xét chung đã được Kinh thánh  mô tả như sau:
Bấy giờ các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ ra, như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê thì ở bên trái.
Như thế, dê là biểu tượng cho những kẻ đứng bên trái, tức là những kẻ tội lỗi, những kẻ sẽ bị trừng phạt đời đời kiếp kiếp chẳng cùng. Thật là đại họa và vô phúc cho chúng ta nếu như trong ngày định mệnh ấy chúng ta bị đứng ở bên trái và lầm lũi bước theo dấu chân dê mà đi xuống hỏa ngục.
Chẳng biết có phải vì dê tượng trưng cho tội lỗi và ngoại diện của nó không được bắt mắt  cho lắm mà người ta rất ngại vẽ dê.
Năm ngoái cầm tinh con ngựa, thì hình ảnh về ngựa thật là ê hề, từ hình chụp đến hình vẽ, từ ngựa đực đến ngựa cái, từ ngựa mẹ đến ngưa con, thậm chí có cả ngựa đang mang bầu.
Còn năm nay cầm tinh con dê, gã đã phải chạy đôn chay đáo, chạy ngược chạy xuôi, thậm chí còn vắt cả giò lên cổ mà chạy để tìm cho ra một tấm lịch có hình con dê, hầu làm thiệp đón mừng xuân mới, gửi cho bè bạn khắp bốn phương trời, thế nhưng bạc mắt tìm mà cũng chẳng thấy.
Riêng đối với người Việt Nam, nết xấu nổi bật nhất nơi con dê đực, chính là cái  “tính thích đờn bà con gái”, chính là cái “thói ve vãn, chọc ghẹo đờn bà con gái”.
Cái tính và cái thói này nhiều khi nằm sẵn trong huyết quản vì thế những kẻ mắc phải cái tính và cái thói này thường được gọi là kẻ có…máu dê, hay máu băm nhăm.
Khi cái tính và cái thói này liên tục phát triển và lên tới tột đỉnh của nó, thì kẻ ấy nghiễm nhiên được bàn dân thiên hạ phong cho cái chức…”dê xồm”, tức là kẻ cả gan dám dê một cách trắng trợn, ngay cả giữa ban ngày ban mặt, giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng kể gì đến những lời bàn ra tán vào. Kẻ ấy giống như “dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, mà Hồ Xuân Hương đã diễn tả.
Ngày xửa ngày xưa, vua Tấn Võ Đế có rất nhiều cung phi mỹ nữ. Ban đêm, nhà vua ngồi trên chiếc xe khảm vàng khảm ngọc, do một đàn dê kéo đi khắp trong cung, tự ý dê muốn đi đâu tùy thích. Xe dừng ở nơi nào, nhà vua sẽ nghỉ đêm tại đó.
Vì thế, các cung phi liền lấy lá dâu treo ở ngoài cửa và dùng nước muối rắc, để cho dê thấy lá dâu và ngửi mùi nước muối thì thèm ăn, mà kéo xe đi vào cửa cung.
Chẳng hiểu có phải vì vậy mà dê bị gán cho cái tác phong  “thiếu đứng đắn” khi giao tiếp với “phe địch” hay không ? Nếu chỉ vì thèm ăn nắm lá dâu mà dê bị kết tội dê, tức là “táy máy với đờn bà con gái”, thì thật hơi oan cho dê một tí.
Cái tội dê này, báo chí phương tây hiện giờ đã mặc cho nó một danh xưng nhẹ nhàng và mỹ miều hơn, đó là cái tội “quấy rối tình dục”. Và theo những nhà tâm lý, thì từ “quấy rối tình dục” đến “lạm dụng tình dục” chỉ cách nhau có một đốt ngón tay. Mấy ông quan tòa bên đó đã dành cho những kẻ quấy rối tình dục những bản án nặng nề, nhưng chẳng biết  có  “sì tốp” được cái tính và cái thói dê ấy chút xíu nào hay không ?
Trong ngôn ngữ, gã ghi nhận được một vài câu tục ngữ, nói lên tính cách giả dối của người đời liên quan tới dê.
Trước hết các cụ đồ sính chữ nho hay những người thuộc vào hàng nho chùm vốn thường bảo:
- Dương chất hổ bì.
Câu này có nghĩa là:
- Cốt là cốt dê, mà da lại là da cọp.
Từ đó ám chỉ những kẻ dùng thế lực giả tạo bên ngoài để lòe bịp hay hù dọa thiên hạ.
Họ là những kẻ:
- Mượn đầu heo nấu cháo.
Hay:
- Mượn hoa cúng Phật.
Họ giống như:
- Cáo mượn oai hùm.
Chứ thực  chất bên trong của họ chẳng đáng giá một đồng xu cắc bạc nào cả.
Chuyện xưa kể rằng:
Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Còn Chiêu Hề Tuất chỉ là một người bầy tôi của Tuyên Vương. Thế mà người phương bắc ai nghe thấy nói Chiêu Hề Tuất cũng phải kính sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thần vì cớ làm sao ? Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng:
- Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được một con cáo. Cáo bảo: Liệu đó! Chớ  đụng chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi ăn thịt ta, là ngươi trái mệnh trời, hại đến thân tức khắc… Không tin, thử để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà lại không sợ hãi tìm đường trốn mau hay không ? Hổ cho là cáo nói thật, bèn đi theo cáo. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ vẫn không biết bách thú sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ cáo. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua, cũng như bách thú sợ hổ vậy.
Câu chuyện trên ám chỉ kẻ dưới thích mượn quyền thế  “bề trên” để hống hách và dọa nạt. Nếu không biết, người ta còn sợ, chứ khi “lừa đã thò tai” thì chẳng những người ta đem lòng khinh bỉ, mà còn làm đê nhục để cho bõ ghét.
Tiếp đến, người bình dân trong ngôn ngữ thường ngày vốn thường hay nói:
- Treo đầu dê, bán thịt chó.
Cửa hàng treo bảng hiệu bán thịt dê, nhưng thực chất bên trong chỉ toàn chó với chó.
Cũng giống như gã đã trình bày ở trên: khi ngồi nhậu lẩu dê với bè bạn mà lòng cứ thắc thỏm không hiểu là thịt dê hay thịt chó, bởi vì dê đâu mà nhiều thế.
Câu tục ngữ ngắn gọn này cũng đủ diễn tả tác phong của kẻ giả hình, họ nói vậy mà không phải vậy, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo.
Kinh thánh đã bảo:
- Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì đầy dòi bọ cùng mọi thứ xú khí.
Tục ngữ Việt Nam đã liệt họ vào hạng:
- Khẩu Phật, tâm xà.
- Miệng na mô, bụng bồ dao băm.
- Ngoài thì thơn thớt nói cười,
  Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Như thế, họ không làm đã đành, mà thậm chí còn làm ngược lại những gì họ đã nói:
- Na mô, một bồ dao găm,
  Một trăm dao mác,
  Một vác dao bầu,
  Một xâu thịt chó.
- Na mô, một bồ dao găm,
  Một trăm con chó,
  Một lọ mắm tôm,
  Một ôm rau húng,
  Một thúng rau răm.
Bàn về hạng người giả nhân giả nghĩa ấy, thiết tưởng còn nhiều điều phải nói. Tuy nhiên để kết thúc những sự việc lỉnh kỉnh về con dê, gã xin mượn một mẩu chuyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”. Mẩu chuyện ấy mang tựa đề là “Người bán thịt dê”:
Vua Chiêu Vương nước Sở bị mất nước, phải bỏ chạy.  Có người bán thịt dê tên là Duyệt, cũng chạy theo vua.
Thời gian sau, vua Chiêu Vương  trở về, lấy lại được nước. Vua bèn thưởng cho những người chạy theo mình khi trước, trong số đó có cả người bán thịt dê nữa.
Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình người bán thịt dê từ chối và nói:
- Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong thưởng.
Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng:
- Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Nhà vua lấy lại được nước, không phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.
Vua bảo:
- Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người bán thịt dê nói:
- Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tôi xét mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi chạy đi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu ! Nay nhà vua muốn bỏ phép nước đến chơi nhà tôi, e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Tử Kỳ rằng:
- Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mời được người ấy ra nhận chức tam công cho ta.
Người bán thịt dê nghe thế bèn nói:
- Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bàn thịt dê.

Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay.
Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp thêm lời bàn như sau:
“Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khí mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo mình là người ta có lòng trung thành với mình. Người bán thịt dê không nhận thưởng là lấy cái nghĩa không đáng nhận, vì không có công cán gì.”
“Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là công minh lắn ru ! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có gì mà cũng cố cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vụ để lòe đời vậy.”
Theo ý gã, nếu các vị tai to mặt lớn mà không tham sân si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ tạn tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã phất lên từ lâu.
Và trước khi giã từ để…ăn tết, gã xin:
Long trọng…kính chúc…Quí vị…năm con…dê nhiều…may mắn !!!
Gã Siêu.

----------------------------------
 
 

GãSiêu 116:  ĐỜN BÀ VÀ ĐỜN ÔNG

 

Trong những tháng vừa qua, gã đã phải bất đắc dĩ làm cái nghề “bới lông tìm vết” moi móc những GãSiêu 116


Trong những tháng vừa qua, gã đã phải bất đắc dĩ làm cái nghề “bới lông tìm vết” moi móc những thói hư tật xấu của cả phe mình lẫn phe ta, của cả đờn ông lẫn đờn bà, của cả chồng lẫn vợ. Sự moi móc này chẳng đem lại một tí lợi lộc nào hết, mà chỉ chuốc thêm thù oán vào thân, bởi vì nó đã làm cho nhiều người phẫn nộ. Gã chỉ sợ mỗi khi vác mặt mo của mình ra ngoài phố, thì sẽ bị xơi cà chua hay trứng thối bất kỳ lúc nào mà thôi.
Bản thân gã cũng cảm thấy nhức nhối, bởi vì vạch áo cho người ta xem lưng thì nào có hay ho gì, nhất là khi lưng của mình lại đầy những vết sẹo. Mà người ta ở đây lại là phe địch, đứng ở bên kia chiến tuyến, thế mới chết không cơ chứ.
Đờn bà và đờn ông, chuyện dài của muôn đời, có lẽ viết mãi viết hoài cũng chẳng bao giờ hết. Đờn bà và đờn ông có những khác biệt ngay từ lúc Thượng Đế cho ra lò tác phẩm đầu tay của mình, thành thử nếu không khéo hòa hợp, những khác biệt ấy sẽ  trở thành những đối kháng làm cho tê liệt mọi sinh hoạt, thì quả thật là thậm chí nguy.
Phải, chị đờn bà thì chu mỏ chê bai anh đờn ông, như tục ngữ ca dao đã diễn tả:
- Đờn ông ba bảy đờn ông,
  Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
Hay như:
- Ba đồng một chục đờn ông,
  Ta bỏ vào lồng, ta xách ta chơi.
  Ai ngờ dây đứt, lồng rơi.
  Nó bò lổm ngổm mỗi thằng một nơi.
Trong khi đó anh đờn ông thì lại ngán ngẩm, dài cổ ra mà ca với cẩm:
- Kiếp sau chẳng dám làm chồng,
  Làm cây cọc cắm bên sông cũng đành.
  Còn hơn có vợ bị hành,
  Bầm lên dập xuống như chanh cuối mùa.
  Lương chưa kịp giấu sơ cua,
  Đã moi sạch nhách chẳng chừa một xu.
  Giữ chồng còn hơn giữ tù,
  Đi đâu bà cũng lù lù theo sau.
  Bạn bè vừa mới gặp nhau,
  Chai chưa kịp cạn, “về mau, tối rồi”.
  Điểm tâm sáng chỉ gói xôi,
  Cà phê, thuốc lá xa rời từ lâu.
  Tan sở chẳng dám đi đâu,
  Đón con, ghé chợ mua rau, mua hành.
  Về nhà kho cá, nấu canh.
  Lau chùi giặt giũ, dỗ dành... bày heo.
  Mười năm khổ vẫn còn đeo,
  Trời ơi, cứu kiếp bọt bèo của con. (PNCN số 45).
Mặc dầu sự đời vốn dĩ là như thế, đờn bà và đờn ông tuy lườm nguýt nhau, nhưng vẫn cứ lôi cuốn, hấp dẫn lẫn nhau, cho tình yêu được nở rộ, cho nòi giống được tồn tại. Anh đờn ông thì:
- Trai thấy gái lạ,
  Như quạ thấy gà con.
Còn chị đờn bà thì:
- Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
  Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Đây quả thực là ý muốn vừa thâm sâu, lại vừa nhiệm màu của Đấng Tạo hóa. Vì thế các cụ ta từ ngày xửa ngày xưa vốn đã từng xác quyết:
- Nhất âm, nhất dương chi vi đạo.
Âm dương, qui luật của muôn đời, không phải chỉ là đạo người mà còn là đạo chung của tất cả vạn vật. Thực vậy, muôn loài trong vũ trụ đều bị chi phối bởi luật âm dương. Hơn thế nữa, âm và dương luôn thu hút lẫn nhau mà lưu truyền trong dòng thời gian. Vì thế, anh đờn ông có liếc mắt đưa tình chị đờn bà, hay chị đờn bà có liếc mắt đưa tình anh đờn ông, âu cũng là chuyện thường ngày ở huyện:
- Có âm dương, có vợ chồng,
  Dẫu từ thiên địa, cũng vòng phu thê.
Và như vậy, gã thấy trong vũ trụ vật chất thì âm cũng cần, mà dương cũng cần. Còn trong cõi nhân sinh, thì đờn bà cũng quí, mà đờn ông cũng trọng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý đó là phải biết điều hòa, chứ đừng nhất bên trọng, nhất bên khinh. Các cụ ta ngày xưa đã từng dạy:
- Thái quá bất cập.
Nhân đức bao giờ cũng đứng giữa, ở vào cái thế trung dung, chứ không nghiêng bên này, hay  ngả bên kia. Âm dương phải hòa hợp, nam nữ phải đề huề, thì mới liên tục phát triển:
- Gái có chồng như rồng có vây.
Bằng không thì rất khó mà tiến tới:
- Gái không chồng như cối xay chết ngỏng.
Có biết tôn trọng lẫn nhau, thì mới tạo được sự bình an và hạnh phúc. Còn gì êm đẹp cho bằng hình ảnh vợ chồng đồng lao cộng khổ với nhau như ca dao tục ngữ đã diễn tả:
- Đôi ta là nghĩa tào khang,
  Xuống khe bắt ốc, lên đàng hái rau.
- Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
  Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
- Râu tôm nấu với ruột bàu,
  Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.
Còn nếu như bị “lệch pha”, chẳng hạn như “âm thịnh dương suy” ắt sẽ tạo nên những bất ổn, như danh ngôn đông tây vốn đã đề cập đến:
- Đờn bà không có đờn ông như vườn không có rào.
Trong khi đó:
- Đờn ông không có đờn bà như đàn đứt dây.
- Nhà không đờn bà như thân xác thiếu mất linh hồn.
Thành thử sau hai bài viết: thế giới không đờn bà và nhân loại chẳng đờn ông, gã mới “ngộ” ra rằng, đó là hai thái cực không thể nào chấp nhận được. Phải có đờn bà cũng như phải có đờn ông. Đồng thời cả hai phải biết tựa vào nhau để mà sống.
Đọc lại những trang đầu của sách Sáng thế ký, gã thấy được một quan niệm rất đặc sắc về hôn nhân, cũng như về đờn bà và đờn ông của Kitô giáo.
Thực vậy, sau khi dựng nên Adong, Thiên Chúa đặt ông đứng đầu để trông coi cá biển chim trời và muôn vật sống trên mặt đất. Thấy ông sống cô độc, lẻ loi và cu ki, Thiên Chúa thầm nghĩ:
- Người đờn ông ở một mình không tốt. Ta hãy dựng nên cho nó một người nội trợ giống như nó.
Đợi lúc ông ngủ say, Thiên Chúa bèn lấy một nửa chiếc xương sườn của ông mà tạo thành người đờn bà. Rồi Ngài dẫn bà ra mắt ông. Thoạt nhìn thấy Eva, Adong đã mừng rỡ, hớn hở kêu lên:
- Này đây mới thật xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là người nữ vì bởi người nam mà ra.
Như thế, Adong đã đồng hóa Eva với chính thân xác của mình. Để diễn tả ý tưởng “một xương một thịt”, theo gã nghĩ, trong tiếng Việt Nam của chúng ta có một danh từ thật dễ thương, thật tuyệt vời, đó là chữ “mình”.
Bởi vì mình vừa là anh và cũng lại vừa là em, vừa là chàng và cũng lại vừa là nàng. Vừa là ngôi thứ nhất:
- Mình làm ra chẳng ma nào giúp.
Và cũng lại vừa là ngôi thứ hai:
- Biển sâu sóng vỗ rập rình,
  Biển bao nhiêu sóng thương mình bấy nhiêu.
Mình còn là cả chúng ta. Ngoài ra, mình vừa là thân xác:
- Mình lính, tính quan.
Và cũng lại là cả con người nữa.
Nếu thế thì khi thoạt nhìn thấy Eva, Adong đã hớn hở gọi:
- Mình ơi!
Hai chữ  “mình ơi” quả thật đã ngọt hơn đường cát, mát hơn đường phèn và trên cả tuyệt vời nữa.
Từ hai chữ “mình ơi” gã bỗng nhớ tới hai chữ “ai ơi”. Số là cách đây mấy chục năm tại Việt Nam người ta vẫn còn e thẹn, dù đã là vợ chồng “mí nhau” nhưng rất ít khi người ta gọi nhau một cách thẳng thừng:
- anh anh, em em.
Có hai vợ chồng trẻ mới cưới. Chị vợ nấu cơm trong bếp. Anh chồng làm cỏ ngoài vườn. Khi nồi cơm đã chín, từ trong bếp chị vợ bèn gọi vọng ra:
- Ai ơi về ăn cơm.
Anh chồng bèn hỏi:
- Cơm ai nấu.
Chị vợ liền trả lời:
- Ai nấu chứ ai.
Ôi chu choa, tiếng Việt mình quả là dễ thương và hết xảy!!!
Cũng từ một nửa chiếc xương sườn, gã liên tưởng đến hình ảnh một nửa trái tim. Có một câu chuyện thần thoại kể về việc tạo dựng trái tim đờn bà và đờn ông được tóm lược như sau:
Thưở ban đầu, Thượng đế chỉ dựng nên có một trái tim duy nhất. Sau đó, Ngài bổ trái tim ấy thành hai mảnh đều nhau. Một mảnh thì Ngài đặt trong thân xác người đờn ông. Còn mảnh kia, thì Ngài đặt trong thân xác người đờn bà. Hai mảnh trái tim ấy luôn khắc khoải tìm kiếm nhau.
Cho dù hai người có sống cách xa nhau hàng ngàn cây số, thì vẫn có những cuộc tình xuyên lục địa. Cho dù hai người có sống ở hai bên bờ biển ngàn trùng, thì vẫn có những cuộc tình xuyên đại dương. Cho dù hai người có sống ở những đất nước khác nhau, thì vẫn có những cuộc tình xuyên quốc gia...
Vì thế, người Pháp mới gọi người vợ hay người chồng thân thương của mình là:
- Ma moitié! Có nghĩa là “Nửa của anh ơi!” “nửa của em ơi”!
Qua hình ảnh một nửa chiếc xương sườn và hai nửa trái tim, gã nhận thấy đờn bà và đờn ông đều đáng quí đáng trọng và phải được bình đẳng với nhau.
Nói tới hai chữ bình đẳng, hẳn chúng ta lại nghĩ tới những phong trào đòi nam nữ bình quyền, phụ nữ đòi quyền sống... Những phong trào này một thời đã gây ồn ào và làm cho quần chúng chú ý đến. Thế nhưng rất nhiều người lại thích hiểu lầm về hai chữ “bình đẳng”.
Thực vậy, họ cho rằng người đờn bà mặc gì, thì người đờn ông cũng có thể bắt chước mà mặc như vậy. Vì thế ngày nay, chúng ta mới thấy anh đờn ông để tóc dài, đeo bông tai...Chỉ còn việc mặc váy là chưa được phổ biến sâu rộng, ngoại trừ đờn ông xứ Tô Cách Lan!
Họ cho rằng người đờn ông làm gì thì người đờn bà cũng có thể bắt chước mà làm như vậy. Vì thế, ngày nay chúng ta mới thấy nhiều chị đờn bà cũng để đầu trọc, đấu võ Sumô, hút thuốc và uống rượu như điên.
Báo “Công an Thành phố” có đăng tải về đời sống của “Bà Tư xả láng”. Đây là một chuyện buồn, buồn nẫu cả gan và thối cả ruột. Chuyện buồn ấy như thế này:
Ông bà ngày xưa thường nói:
- Phúc đức mới sinh được nhiều con.
Nếu cứ theo cách nghĩ của người xưa, thì bà Trần Kim Nga thật có phước. Bà có tới tám đứa con, lớn nhất ba mươi, nhỏ nhất lên mười và các con bà thuộc loại chăm chỉ. Bốn con trai lớn đã về quê vợ làm ăn, hai con trai kế tiếp đi làm phụ hồ và xúc cát mướn. Cô con gái xinh đẹp tên là Nghi chỉ học đến lớp chín, rồi ở nhà may quần áo đem bán để phụ mẹ và nuôi đứa em út mới lên mười tuổi.
Thế nhưng, bà Nga không biết giữ gìn hạnh phúc trời cho ấy. Bà sinh tật uống rượu vì buồn chồng mèo mỡ. Năm 1955 khi bà và người chồng chính thức chia tay, bà bán căn nhà, nơi cả gia đình sinh sống những ngày tháng đầm ấn nhất, được mười hai lượng vàng. Bà chia cho chồng năm cây để chồng đi với vợ mới, còn bà thì bắt đầu đến với rượu nhiều hơn để “hóa giải” cơn sầu! Bà uống hết hiệp này sang hiệp khác và say bí tỉ, vì vậy dân nhậu đặt cho bà biệt danh “Tư xả láng”.
Từ tháng 6 năm 2001, Tư xả láng có quan hệ thân thiết như vợ chồng với anh Nguyễn Văn Tuấn, ngụ cùng phường và cũng là bạn nhậu của Tư xả láng.
Tuấn thua bà Nga, tức Tư xả láng, mười bốn tuổi, hai người thường bỏ nhà đi chơi tới ba, bốn giờ sáng mới về. Mỗi lần say về, bà ói mửa, rên hừ hử, bắt các con bóp tay chân và chửi mắng thô lỗ. Mọi chuyện trong gia đình bà phó mặc cho Nghi, để chị em Nghi bữa đói bữa no. Thỉnh thoảng bà mới tỉnh rượu, gặp lúc lối xóm kêu đi chùi xoong nồi, bà làm và lấy tiền đi nhậu với Tuấn.
Nghe lối xóm đồn ầm ĩ về chuyện hai người, Nghi hỏi mẹ:
- Mẹ và chú Tuấn yêu nhau à ?
- Ừ, chú ấy yêu mẹ.
- Không được đâu, mẹ đã lớn tuổi vả lại chú ấy kém tuổi mẹ nhiều!
- Mẹ yêu là để trả thù ba vì ba có vợ nhỏ, bỏ mẹ.
Khuyên nhủ mẹ không được, nhiều lần Nghi gặp Tuấn để can ngăn hãy buông tha mẹ để mẹ lo cho em của Nghi. Nhưng mặc lời can ngăn, mối quan hệ vẫn tiếp diễn. Bà Nga bỏ mặc các con ngay cả lúc con trai út sốt xuất huyết nặng, Nghi phải chạy vạy vay tiền đưa em vào bệnh viện cấp cứu.
Mười lăm giờ ngày 01.4.2001, bà Nga và Tuấn đi chơi ở Châu Đốc về. Bà lên giường nằm một lúc rồi lại vùng dậy đi nhậu tiếp. Tới 18g30 không thấy mẹ về, Nghi lo mẹ uống nhiều sẽ bệnh, nên vội đi tìm. Gặp những người cùng nhậu với mẹ, Nghi hỏi:
- Mẹ con đâu ?
Mọi người trả lời:
- Bà ấy với thằng Tuấn đi rồi.
Nghi nháo nhào đi tìm khắp nơi không thấy, nên chạy đến nhà Tuấn. Gõ cửa phòng mười lăm phút không thấy ai trả lời, nghi lén leo lên vách nhà nhìn vào thì thấy mẹ đang nằm trên giường của Tuấn. Gõ thật mạnh một lúc nữa mới thấy Tuấn mở cửa. Nghi đề nghị:

- Chú Tuấn để cho mẹ tôi về.
Nghi đưa mẹ về nhà và nói:
- Mẹ nghỉ cho đỡ mệt.
Rồi nhìn cảnh nhà bữa đói bữa no, đứa em lên mười ngơ ngác tội nghiệp, người mẹ chỉ nhậu về là rên la, không lo gì cho con, trong lòng Nghi nổi lên ý định giết Tuấn để “giành lại mẹ”. Lúc hai mươi giờ, Nghi lấy dao Thái Lan dắt vào bụng và tới nhà Tuấn, mời Tuấn ra quán cà phê nói chuyện.
Ra quán, Nghi năn nỉ Tuấn hãy buông tha mẹ để mẹ chăm lo cho gia đình, chăm lo cho chị em Nghi và nhờ Tuấn khuyên mẹ không nên uống rượu vì mẹ lớn tuổi. Tuấn nói:
- Tôi thương rồi, bỏ không được.
Vào lúc ấy, bà Nga lại đi tìm Tuấn. Thấy Tuấn đang ngồi với Nghi, bà định bỏ đi, nhưng Nghi kéo mẹ lại ngồi giữa Nghi và Tuấn:
- Đây có mẹ, ba mặt một lời, mẹ nói mẹ có thương chú Tuấn   không ?
Bà Nga nói:
- Mẹ không thể lấy Tuấn vì tuổi tác, nên xem nhau như bạn thôi.
- Vậy chú Tuấn thì sao ?
- Tôi thương bả, không thể cưới được, nhưng cũng không thể bỏ được.
Quá uất ức, Nghi đập chai nước ngọt vào đầu Tuấn và đâm Tuấn. Sau đó, Nghi mang dao đến công an phường tự thú.
Chính vì sự hiểu lệch lạc hai chữ “bình đẳng” mà phát sinh ra những hành động đáng tiếc theo kiểu “ông ăn chả, bà ăn nem” làm cho gia đình bị tan vỡ.
Vậy bình đẳng là như thế nào ?
Dĩ nhiên, gã không phủ nhận những khác biệt giữa đờn bà và đờn ông. Chẳng hạn đàn bà thì yếu, còn đờn ông thì mạnh. Đàn bà thiên về tình cảm, còn đờn ông thiên về suy luận. Đờn bà có óc phân tích, còn đờn ông có óc tổng hợp... Tuy nhiên, những khác biệt ấy không phải là để đối chọi và triệt tiêu lẫn nhau, như ánh sáng và bóng tối, như lửa và nước, nhưng là để bổ túc và nâng đỡ cho nhau.
Vì thế, người ta thường bảo:
- Cái nhìn đúng không phải là cái nhìn của anh hay của em, nhưng là cái nhìn của cả hai đứa chúng mình.
Tiếp đến, gã cũng phải công nhận rằng trong thân thể có nhiều chi thể và mỗi chi thể có một nhiệm vụ, nhưng  tất cả đều hướng tới một mục đích, đó là làm cho thân thể được liên tục phát triển.
Ngày nọ, hai chân lên tiếng phản đối cái miệng. Chúng nói:
- Suốt ngày tôi phải đi rạc cả cẳng, còn ngươi thì chỉ việc ngồi nhà mát ăn bát vàng.
Hai tay cũng lên tiếng:
- Tôi phải làm lụng quần quật suốt ngày, còn ngươi thì chỉ việc xơi hết những thành quả do tôi làm ra.
Thế là đôi tay và đôi chân đình công, không đi và cũng không làm nữa, thành thử cái miệng chẳng có gì để ăn. Nhưng chỉ một ngày, toàn thân ủ rũ như sắp chết đến nơi. Nhờ sự can thiệp của bộ óc, các chi thể mới hiểu được vai trò cần thiết của mình và tiếp tục hoạt động lại, làm cho toàn thân được sống và sống dồi dào.
Ngoài xã hội cũng vậy, mỗi người có một nghề để sinh sống và đóng góp cho đất nước. Nếu mọi người đều cấy lúa thì lấy ai dệt vải. Nếu mọi người đều dệt vải thì lấy ai xây nhà...
Đêm kia, một thi sĩ nằm mơ. Anh chàng thấy người giúp việc đến và nói:
- Tôi xin nghỉ việc. Từ nay, anh phải nấu lấy mà ăn, giặt lấy mà mặc.
Người giết heo cũng đến và bảo:
- Tôi xin giải nghệ. Từ nay anh tự nuôi lợn, mổ lấy mà ăn.
Rồi người trồng cà phê, người trồng thuốc lá, người cấy lúa... Tất cả đều xin nghỉ việc, khiến anh chàng lo toát cả mồ hôi, đập mạnh chân xuống giường, thì ra đó chỉ là một giấc mơ.
Thế nhưng, từ giấc mơ này anh chàng nhận ra rằng: mình cần đến người khác và mình mắc nợ người khác nhiều lắm.
Nơi gia đình luật phân công ấy cũng đã được áp dụng: người thì kiếm tiến, kẻ thì nấu bếp... Tuy nhiên, tất cả đều có chung một nỗi băn khoăn lo lắng, đó là góp phần xây dựng cho cuộc sống được tốt đẹp hơn.
Như thế, mỗi người đều có một công việc một bổn phận và không  có công việc nào là thấp hèn, đáng khinh đáng ghét. Trái lại, công việc nào cũng tốt và cũng cần như nhau.
Giống như khi nói về nghề nghiệp:
- Nghề nào cũng đáng quí đáng trọng. Không có nghề xấu mà chỉ có người xấu mà thôi.
Sau khi đã khẳng định như vậy, gã nhận ra rằng bình đẳng có nghĩa là đờn bà và đờn ông đều bằng nhau về nhân vị và phải được tôn trọng như nhau. Đờn bà cũng là một con người, cũng có một phẩm giá và cũng phải được quí mến như đờn ông. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” chuộng nam chê nữ, hay “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” một cậu con giai là đã có, chứ còn mười cô con gái cũng chỉ là số không, quả là đã xưa rồi Diễm ơi!
Tiếp đến, bình đẳng còn có nghĩa là đờn bà và đờn ông đều bằng nhau về quyền lợi cũng như về trách nhiệm. Cả hai đều phải kề vai sát cánh cộng tác với nhau trong việc xây dựng một cuộc đời chung, một mái ấm chung.
Người chồng ngoài giờ đi làm, cũng phải giúp đỡ người vợ trong việc “tề gia nội trợ” cũng như giáo dục con cái, Người vợ ngoài việc bếp múc, cũng phải phụ với người chồng một tay trong việc bươm chải, tìm tiền kiếm bạc cho gia đình có được một cuộc sống vật chất ấm no. Nhất là khi người chồng bị sao quả tạ chiếu tướng, rơi vào tình trạng thất nghiệp, ở nhà đuổi gà cho vợ và ngồi chơi xơi nước, không còn kiếm ra một đồng xu nào sốt, thì người vợ cũng đừng vì thế mà lên tiếng chì chiết người chồng là hạng vô tài bất tướng, ăn hại đái nát. Rồi thay lòng đổi dạ.
Lệnh Nữ là con gái của quan thái thú Hạ Hầu Văn Ninh, được gả cho Tào Văn Thúc, cháu nội của Tào Tháo. Văn Thúc chẳng may chết sớm, Lệnh Nữ góa chồng. Nàng sợ cha mẹ bắt phải tái giá, nên cắt cụt tóc, ý muốn ở vậy thờ chồng. Nhưng cha mẹ không nghe, ép phải lấy chồng. Lệnh Nữ bèn dùng dao cắt đứt hai tai, rồi sang ở với người anh họ của chồng là Tào Sảng. Khi Tư mã Ý diệt nước Ngụy, giết cả dòng họ Tào, chú của Lệnh Nữ bắt nàng về Lương Châu định ép gả. Nàng lại tự xẻo mũi, cương quyết ở vậy cho trọn đạo vợ hiền. Bà con thấy vậy liền bảo:
- Tất cả họ hàng nhà chồng đều bị tru diệt, nàng thủ tiết với ai mà phải đày đọa thân xác đến thế ?
Lệnh Nữ đáp:
- Tôi thường nghe người nhân chẳng lấy lẽ thịnh suy mà đổi tiết. Xưa kia họ Tào còn thế lực, mọi người thảy đều khuất phục để thụ hưởng giàu sang, nay chẳng may bị tru diệt, tôi há lại hùa theo thiên hạ mà làm điều bất nghĩa hay sao ?
Hẳn rằng khi bước vào cuộc sống hôn nhân, chúng ta đã lớn tiếng đọc lên lời thề hứa rằng:
- Sẽ giữ lòng chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc khỏe mạnh, để yêu thương và tôn trọng nhau trong suốt cả cuộc đời.
Viết đến đây, gã xin khép lại chuyện đờn bà và đờn ông, để chuyển sang một đề tài khác, theo ý muốn của cụ chủ nhiệm. Đề tài ấy như thế nào, thì xin... hạ hồi phân giải.
Gã Siêu

------------------------------
 
 

GãSiêu 117: Nhớ dai và nói dài

 

Hôm nay, gã xin đề cập tới cái tật nhớ dai và nói dài của phe ta. Hai chữ nhớ dai chỉ có nghĩa là GãSiêu 117


Hôm nay, gã xin đề cập tới cái tật nhớ dai và nói dài của phe ta. Hai chữ nhớ dai chỉ có nghĩa là nhớ lâu, nhớ bền, nhớ kỹ mà thôi. Xin đừng hiểu cong queo mà có tội đấy!!! Hai chữ này làm cho gã nghĩ tới máy vi tính. Trên  một tờ báo, người ta đã đưa ra câu hỏi: Tại sao máy vi tính lại thuộc về giống cái? Và người ta đã ghi nhận được nhiều điểm của máy vi tính rất gần và rất giống với đờn bà con gái:
1- Ngay cả những người tạo ra nó cũng chẳng hiểu được nó.
2- Một lỗi, dù là nhỏ nhất của bạn, cũng sẽ được ghi nhớ tức thời.
3- Người khác không thể nào hiểu được loại ngôn ngữ mà máy vi tính dùng để trao đổi thông tin với nhau.
4- Khi trang bị máy vi tính, tức là bạn đang trút phân nửa hào bao
cho các thứ phụ tùng lỉnh kỉnh.
5- Bạn luôn muốn thử máy của người khác.
6- Máy vi tính lỗi thời rất  nhanh.
7- Tuy nhiên, các máy vi tính có một lợi thế lớn hơn nhiều so với đờn bà con gái, bởi vì chúng có nút “tắt và mở”.
Riêng phần gã, gã xin thêm một đặc tính khác nữa, đó là chẳng biết được lúc nào và tại sao nó lại trục trặc, cũng giống như anh chàng chẳng thể nào biết được lúc nào và tại sao chị nàng lại nổi giận đùng đùng, lại “bo xì” v nghỉ chơi với mình.
Ảnh Internet
Nếu gã nhớ không lầm thì có một vài ông triết gia nào đó đã đưa ra những câu định nghĩa hết sức “vô lý”, chẳng hạn: Trí nhớ là một khả năng để quên. Còn ai nghĩ đến quên thì ắt sẽ nhớ. Trong phạm vi lý luận, người ta lại khoái cái món “vô lý” như thế thì phải. Vì thế, các bậc thầy trong thiên hạ thường nghiệm ra rằng: Điều gì càng tối, thì lại càng sâu. Chứ còn đơn giản, ai cũng biết thì còn hay ho gì nữa. Cho nên cần phải phát ngôn làm sao để thiên hạ không thể hiểu nổi, phải nể phục mình sát đất và thế là nghiễm nhiên mình nhảy tót lên hàng sư phụ.
Riêng trong phạm vi đời thường, người ta thấy đờn ông con giai vốn có đầu óc tổng hợp, cái gì cũng đại khái chủ nghĩa, “qualoarement”, nên rất ư là hay quên. Gã có một thằng bạn, thỉnh thoảng hai đứa lại rủ nhau lên thành phố. Tối hôm trước, thằng bạn tự tay gấp quần áo bỏ vào giỏ, thế mà lần nào cũng vậy, không quên cái này thì cũng sót cái kia. Có lần khi chui vào phòng tắm nhà người ta, hắn mới phát giác ra rằng mình quên không mang theo quần đùi, nên vội khều gã lại và nói nhỏ với gã: Cậu chịu khó ra phố mua cho tớ hai chiếc quần xà loỏng. Mau lên nhé. Còn việc hắn mặc quần tây mà quên không kéo “phẹc-mơ-tuya”, thì đó chỉ là chuyện nhỏ, vốn xảy ra thường ngày.
Tuy nhiên, dưới một góc cạnh nào đó, cái quên cũng có những lợi ích của nó. Bởi vì nếu phải nhớ hết mọi sự, chẳng bao giờ được phép quên, ắt hẳn đầu óc sẽ không còn đủ chỗ chứa cho những dữ kiện được nạp vào, bấy giờ nó sẽ nổ tung và điên lên mất, chỉ vì bị quá tải. Chính vì thế, có người đã phát biểu như sau: Đôi khi quên những điều mình biết cũng làm lợi ích. Biết quên là một hạnh phúc hơn là một nghệ thuật. Kinh nghiệm bản thân cũng cho gã hay: Nhiều lúc gặp phải chuyện buồn, mình cũng muốn quên phứt đi tất cả. Quên đời và quên người. Có quên đi thì mới được ngủ mới yên. Bằng không thì cuộc sống cứ nặng trình trịch như đeo cối đá vào cổ vậy.
Trong khi đó, đờn bà con gái thì ngược lại, vốn có đầu óc phân tích, sợi tóc chẻ làm bốn, luôn chú trọng tới những chi tiết nhỏ mọn nhất, nên rất ư là nhớ dai. Chính vì thế, hồi ở tiểu học, phe con gái thường dẫn đầu những môn học thuộc lòng, lên trung học phe kẹp tóc thường giỏi về sinh ngữ và khi thò chân vào cuộc đời, các chị thường thích hợp với nghề thư ký, dạy học, nội trợ là những nghề đòi phải có óc tỷ mỉ và nhớ dai. Gã có một bà chị ở bên Mỹ, trước khi về Việt nam bốn tháng, bà chị ấy đã truyền cho gã cả một “bộ luật chương trình”, ngày nào phải đi đâu, phải làm gì. Rồi lại còn hỏi xem có cần phải thay đổi hay bổ túc gì không? Gã chỉ biết trả lời: Cứ về đã, rồi hạ hồi phân giản, tới đâu hay tới đó.
So với máy vi tính thì đờn bà con gái còn nhiêu khê và rắc rối hơn nhiều. Đối với máy vi tính, một văn bản hay một hình ảnh đã được lưu vào bộ nhớ, lúc nào mình muốn bỏ đi thì chỉ cần bấm chọn tận gốc rồi nhấn nút “delete”, thế là xong, an toàn chăm phần chăm. Chứ còn đờn bà con gái ấy hở, một khi đã nhớ thì nhớ mãi nhớ hoài, nhớ vào tận tim gan phèo phổi, chẳng thể nào bỏ được. Mình càng cố gắng xóa đi thì họ lại càng nhớ dai hơn, thành thử tình huống trở nên rất ư là phức tạp. Sau đây gã xin ghi lại tâm sự buồn của một ông chồng có bà vợ nhớ dai. Tâm sự buồn này đã được đăng tải trên báo Phụ nữ Chủ nhật. Gã xin trích dẫn nguyên con như thế này:
Ảnh Internet
“Cho dù các nhà khoa học có phát minh ra loại máy tính hiện đại nào có bộ nhớ tốt đến đâu đi nữa, tôi cam đoan rằng nó vẫn không bằng trí nhớ của vợ tôi. Thuở mới yêu nhau, sự nhớ dai của nàng làm tôi hạnh phúc và tuy đó không phải là yếu tố quyết định, nhưng lại là một trong những lý do khiến tôi cưới nàng làm vợ. Lấy nhau rồi, tôi mới nhận ra sự nhớ dai của nàng làm tôi khổ sở. Thuở yêu nhau, không có sinh nhật của người nào trong gia đình tôi mà nàng không nhớ. Vào những ngày đó, bao giờ nàng cũng dành cho gia đình tôi những bất ngờ thật dễ thương, không phải những món quà, mà chính sự quan tâm sâu sắc, sự tinh tế chu đáo của nàng làm cho mọi người trong nhà rất có cảm tình với nàng. Ba mẹ tôi giục tôi “cưới vợ thì cưới liền tay” bởi ông bà sợ vuột mất cô dâu quí. Mấy đứa cháu thì tối ngày cứ quấn lấy nàng khiến tôi có khi phải ganh tị với nàng. Còn thói quen của mọi người trong nhà, thì nàng nhớ chính xác không sai vào đâu được: mẹ tôi kiêng món gì, ba tôi thích đọc loại sách nào, còn đứa em gái tôi thích mặc đồ “size” bao nhiêu. Tóm lại, nàng có thể nhớ tất tần tật những gì mà một thằng tôi sống trong gia đình từ bé đến lớn cũng không biết, chứ đừng nói là nhớ. Cho đến khi cưới xong, gia đình tôi vẫn an tâm hài lòng về sự chu đáo của cô con dâu mà theo mẹ tôi “còn hơn cả những đứa con ruột tao đẻ ra nữa”. Chỉ có tôi mới biết tôi phải khổ sở bởi tính nhớ dai của nàng như thế nào. Trước khi cưới, có lần nàng bảo tôi: Anh hãy dọn dẹp lại phòng riêng của mình coi xem có gì cần “niêm phong” lại không thì làm trước khi em về, đừng để sau này em phát hiện ra là “mệt” đó! Tôi hiểu nàng “ám chỉ” cái gì và câu nói với mệnh đề “nếu…thì…” của nàng còn bao hàm cả sự “đe dọa”, bởi trước kia tôi đã “thật thà thú thiệt” với nàng về những mối tình thời sinh viên của mình mà quên mất một câu đúc kết vô cùng chí lý là: “thật thà thường thua thiệt”. Nàng muốn tôi “dọn dẹp” những lá thư tình, những hình ảnh hay những kỷ vật có liên quan đấy mà. Lúc đó, tôi nghĩ thật đơn giản: Có gì mà phải dọn, miễn là mình chỉ còn yêu cô ấy và lấy cô ấy mà thôi là đủ rồi. Vả lại, bấy giờ tôi cũng chẳng nhớ mình để những thứ đó ở đâu. Tôi quan niệm những gì qua rồi thì thôi, tính tôi không thích những hoài niệm cũ với quá khứ. Vậy mà, chỉ sau tuần trăng mật, nàng bắt đầu ra tay “thanh lý” cái mớ bòng bong trong phòng tôi và không mấy khó khăn truy ra một đống “kẻ thù của những bà vợ hay ghen”: thư từ, hình ảnh, vài chiếc khăn tay và cả những thứ tôi từng tặng cô người yêu cũ nhưng bị trả lại kèm với những lời yêu đương vô cùng thắm thiết. Thế là nàng yên lặng suốt mấy ngày sau đó. Bình thường sự ít nói của nàng đáng yêu vô cùng, nhưng lúc đó tôi chỉ thấy rờn rợn một sự lạnh lùng bao phủ hai vợ chồng. May mà tôi vừa tận hưởng những gì ngọt ngào nhất của tuần trăng mật, chứ nếu không, có lẽ nàng trừng phạt tôi bằng “mật đắng” mất. Nàng đọc tất cả không sót một chi tiết nào và sau này cứ mỗi lần có dịp là nàng lại lôi ra, không để “dằn vặt” thì cũng để “dằn mặt” tôi vì đã để cho nàng xem những thứ cấm kỵ đó. Và chính cái trí nhớ chết tiệt của nàng đã hỗ trợ cho nàng trong việc công kích tôi. Đi ngoài đường, nếu tôi có lỡ dại ngoái nhìn một người nào đó trông quen quen thì nàng nhỏ nhẹ: Giống chị ấy quá hở anh? Khi tôi khen nàng cao và trắng, thì nàng hờn dỗi: May mà em giống chị ấy ở chỗ cao và trắng, nên anh mới lấy, chứ nếu không dễ gì. Rõ ràng những tấm ảnh nàng bắt gặp được đã in tạc vào bộ nhớ của nàng mất rồi. Những lúc đó tôi chỉ còn biết chịu trận. Người ta nói: Cái gì chẳng phải trả giá. Tôi biết mình đang phải “trả giá” cho sự “sơ sót” của mình, nhưng tôi không nghĩ hậu quả lại kéo dài và dai dẳng đến vậy. Sau nhiều lần nhún nhường, tôi nổi cáu thực sự. Thế nhưng, khi thấy nàng thút thít: Tại sao biết em nhớ dai như vậy mà anh còn cố tình để em thấy những thứ đó làm chi? Tôi mới nhận ra lỗi là ở tôi cũng như ở cái trí nhớ dai dẳng của nàng, chứ nào phải nàng muốn làm khổ tôi. Nếu có được một điều ước, tôi sẽ ước cho vợ tôi đừng có trí nhớ tốt như vậy, tương đương bộ nhớ của Pentium IV. Sẵn đây cũng xin nhắn nhủ cùng những người vợ có thói quen thích lôi quá khứ của chồng ra “nhắc nhở”: Các ông chồng dù có thương vợ đến đâu cũng không thể chịu đựng nổi cái kiểu đào xới quá khứ của chồng lên như thế, tìm hiểu quá khứ của chồng chỉ để thông cảm và hiểu hơn về người chồng của mình thì tốt, bởi ai mà chẳng có quá khứ, nhưng đừng đay nghiến, xỏ xiên hay chỉ trích, bởi đó cũng là một phần cuộc sống của mỗi người, hơn ai hết lại là của người mình đầu ấp tay gối, kề cận mỗi ngày. Trân trọng quá khứ của chồng hóa ra cũng chỉ là một cách yêu thương và tôn trọng chồng vậy!
Ảnh Internet
Chắc hẳn trong khối óc của đờn bà con gái, trung khu thần kinh về nhớ chắc hẳn nằm cận kề với trung khu thần kinh về nói. Vì thế, một khi đã nhớ dai thì chắc chắn họ cũng sẽ nói dài. Lòng đầy thì ắt hẳn phải tràn ra ngoài mà thôi. Như chúng ta đã biết: Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói. Ngôn ngữ và tiếng nói chính là một quà tặng quí giá Thượng đế ban tặng cho con người, để truyền thông những tư tưởng, những ý nghĩ, nhờ đó hiểu nhau hơn và xích lại gần nhau hơn.  Thế nhưng, ngôn ngữ và tiếng nói lại là điều chúng ta thường sai lỗi hơn cả, bởi vì với ngôn ngữ và tiếng nói, chúng ta có thể sai lỗi ở mọi nơi, trong mọi lúc và với mọi người. Gã không rõ có ai đó đã phát biểu một câu được liệt vào hạng “ranh ngôn” như thế này: Nơi nào có hai hay ba chị đờn bà tụ tập lại, thì nơi đó bỗng trở thành một cái chợ. Lúc bấy giờ chị nào cũng nghiêm nhiên là một phóng viên vỉa hè. Họ thu lượm và thông truyền cho nhau đủ mọi thứ tin tức từ trong nhà cho ra đến ngoài phố, từ chuyện riêng tư cho đến chuyện công cộng, chị đờn bà nào cũng cảm thấy ngứa cái miệng, nên rất khỏe nói: nói dẻo, nói dai, nói dài. Gã không đồng ý với mấy câu ca dao vốn ca tụng cánh đờn ông con giai: Đờn ông nông nổi giếng khơi, đờn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
Thực vậy, trong cuộc sống không thiếu gì những anh đờn ông khù khờ và dại dột, đồng thời cũng không thiếu những chị đờn bà khôn ngoan và giỏi giang, chẳng vậy mà có chị đờn bà đã làm tới chức nữ hoàng, thủ tướng, bộ trưởng. Thế nhưng, không phải cứ nói dẻo nói dài mà sự thực và phần thắng sẽ thuộc về mình, bởi vì: Khôn ngoan chẳng lọ nói nhiều, người khôn mới nói nửa điều đã khôn. 
Tuy nhiên, nói dẻo nói dài nói dai mà thôi chưa kinh khủng cho bằng việc nói day và nói dứt. Thực vậy, một anh chồng, ở sở thì bị cấp trên chèn ép, cấp ngang ganh tị, cấp dưới bướng bỉnh. Về nhà chỉ thầm ước một điều là sẽ tìm thấy khuôn một mặt dịu hiền, một nụ cười tươi thắm, một lời nói ngọt ngào của chị vợ để quên đi những buồn đau và cực nhọc: Bảy thương nết ở khôn ngoan, tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Thế nhưng, có chị vợ lại thường xuyên càu nhàu và cạu cọ. Cứ thấy anh chồng vác mặt về là liền nhào vô đay nghiến và day dứt: Sao anh thua người ta thế này, sao anh thua người ta thế nọ. Người ta kiếm tiền như nước đem về cho vợ cho con, còn anh sao vô tài bất tướng quá vậy. Khốn thân tôi, khổ thân tôi. Ngay cả những lúc thân mật, chị vợ ấy cũng sẵn sàng rót vào tai anh chồng những lời nói chua như giấm và cay hơn cả ớt. Nhất là những khi xảy ra chuyện xích mích, thì nói dẻo nói dài nói dai mà thôi chưa đủ, chị vợ ấy còn nói xiên nói xẹo, nói bóng nói gió, nói gian nói dối, nói méo nói móc,  xóc vào đến tận tâm can tì phế anh chồng.
Ảnh Internet
Hai chủ đề thường được chị vợ đem ra mà day dứt đối với anh chồng, đó là chuyện “cơm áo gạo tiền” và chuyện “tình cảm lem nhem”, cho dù chưa được phối kiểm hay chỉ là những tin đồn thất thiệt. Đến nước đó, anh chồng chỉ còn hai cách giải quyết: Một là yên lặng bỏ đi, hai là thượng cẳng chân hạ cẳng tay, cho cô ấy một trận để câm miệng lại. Cả hai cách giải quyết đều bất ổn và bất lợi cho bản thân cũng như cho gia đình. Gã cũng xin ghi lại nơi đây nỗi buồn của một anh chồng có chị vợ vốn nói dẻo và nói dài, nói day và nói dứt: “Khi yêu nhau thì hầu như các cô rất dịu dàng, e lệ và ít nói. Nhưng khi đã yên bề gia thất, thì cái sự nói dài tỷ lệ thuận với năm tháng và tuổi tác. Những lời dễ thương âu yếm thì còn êm tai, chứ đi làm về mệt mà nghe những chuyện ngày xưa dai nhách thì thật khổ. Đôi khi giận cá chém thớt, cằn nhằn con rồi la rầy luôn cả chồng, coi chồng như con. Các ông kiếm cớ kéo dài thời gian ở ngoài đường để khỏi bị “nhai lỗ tai”, rồi những chuyện gì xảy ra thì chỏ có trời mới biết! Có ông tâm sự rằng: Ước gì có thể ghi âm “bài ca không bao giờ quên” của vợ để được quyền bấm nút stop bất kỳ lúc nào muốn, chứ thực tế ngoài đời thì đành chịu thua.
Cuộc sống ngày càng cuốn hút con người vào tốc độ của nó. Những giây phút hiếm hoi ở nhà, ở bên nhau nên là những giây phút êm đềm. Hãy nói những lời yêu thương mật ngọt. Nếu mệt quá thì chí ít là nên im lặng để có thể thư giãn nghỉ ngơi. Chuyện gì thủng thẳng lúc hai vợ chồng bình tĩnh cùng trao đổi. Đừng làm khổ nhau vì những chuyện không đáng, nhằm giữ cho mái ấm luôn là “một cõi đi về”.
Ảnh Internet
Sau cùng là nói gian và nói dối. Nói dối chồng con trong việc chi tiêu, nói dối bè bạn trong việc giao tế, buôn bán và nhất là nói gian cho người khác. Cũng lại một câu “ranh ngôn” khác phát biểu: Nơi nào có hai hay ba chị đờn bà tụ lại với nhau, chắc chắn nơi đó có nói hành nói xấu, bằng không thì cứ chặt đầu tôi đi. Nói đúng sự thật những sai lỗi của người khác còn có thể thông cảm, chứ phóng đại tô màu, bóp méo sự thật, để vui cười hay để hạ nhụ nhau, thì đó là điều bất ổn làm mất đi danh dự của người khác, khó mà đền trả cho được, bởi vì: Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời nói ra khỏi miệng, thì bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp. Bởi đó, người xưa đã khuyên: Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói. Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau. Để kết luận, gã xin ghi lại lời một người mẹ khuyên cô con gái rượu của mình sắp sửa đi làm dâu thiên hạ như sau: Con ơi mẹ bảo con này, học buôn học bán cho tày người ta. Con đừng học thói chua ngoa, họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
Gã Siêu

------------------------------
 
 

GãSiêu 118: CHẢ VÀ NEM

 

Gã xin bắt đầu mẩu chuyện phiếm hôm nay bằng cách tìm hiểu về nguồn gốc của Táo Quân. Trước GãSiêu 118


Gã xin bắt đầu mẩu chuyện phiếm hôm nay bằng cách tìm hiểu về nguồn gốc của Táo Quân.
Trước hết là bên Tàu: Người Trung Hoa có một tập tục rất xa xưa, đó là cứ đến mùa hạ, thì tổ chức lễ tế thần Táo. Chung quanh sự kiện này, có rất nhiều giả thuyết và truyền thuyết được lưu hành trong dân gian.
Theo Châu Lễ, Táo Quân tên thật là Chúc Dung.
Sách Hoài Nam Tử lại chép vua Hoàng Đế là người đầu tiên đặt ra việc nấu nướng, đến khi mất, hóa thành Táo Quân.
Ngũ Kinh Di Nghĩa lại chép: Thần Táo tên là Tô Cát Lợi.
Theo sách Dũ Dương tạp trở thì Thần Táo tên là Ổi, có vẻ mặt xinh đẹp như con gái.
Tiếp đến là bên ta: Theo một truyền thuyết, thì hai vợ chồng nhà nọ rất nghèo, phải phiêu bạt mỗi người một nơi. Về sau, người vợ lấy chồng khác. Một hôm có người ăn mày đến xin sự bố thí. Khi người đàn bà đem cơm gạo ra cho, thì mới hay người hành khất ấy chính là chồng cũ của mình.
Sợ người chồng sau biết được, người vợ liền đem dấu vào ổ rơm. Bất ngờ, người chồng sau lại dùng ổ rơm để nướng con thú vừa mới săn được. Người chồng trước sợ chui ra sẽ làm cho người vợ xấu hổ với người chồng sau, liền can tâm chịu chết thiêu.
Người vợ quá đỗi khổ đau, bèn nhảy vào đống lửa mà chết theo chồng. Người chồng sau thấy vậy quá thương vợ, cũng nhảy vào cùng chịu chết luôn.
Linh hồn của ba người này được Thượng Đế thưởng công, truyền cho làm thần Táo. Vì thế, trong ca dao Việt Nam mới có câu:
- Thế gian một vợ một chồng,
Nào như vua bếp, hai ông một bà.
Từ câu chuyện trên, gã rút ra được hai điểm son đáng suy gẫm, đó là địa vị của chị đờn bà trong xã hội và sự chung thủy trong tình yêu vợ chồng. Hai điểm son nay thật là quí hiếm, nếu không phát huy thì sẽ dần dần bị mai một.
Về địa vị của chị đờn bà trong xã hội, gã nhận thấy từ đông sang tây, cũng như từ cổ chí kim, hầu như cả và thiên hạ đều mang lấy một quan niệm na ná giống nhau, đó là trọng nam khinh nữ.
Sách Sáng Thế ký của Kitô giáo viết rằng: Thiên Chúa đã dựng nên Adong, tức là người đờn ông đầu tiên, từ bùn đất, rồi phú bẩm cho một sinh khí để ông được sống động.
Thấy ông cô đơn vò võ một mình, Thiên Chúa động lòng trắc ẩn, bèn dựng nên cho ông Eva, tức là người đờn bà đầu tiên, từ nửa chiếc xương sườn của ông. Thoạt nhìn thấy Eva, cặp mắt Adong đã sáng lên niềm vui, ông hớn hở nói:
- Này đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi.
Chẳng biết có phải vì Adong được dựng nên trước, còn Eva được dựng nên sau, cũng chẳng biết có phải vì Eva được dựng nên chỉ bằng một nửa chiếc xương sườn của Adong hay không mà trải qua dòng thời gian, đờn ông vẫn được trọng kính và trọng dụng hơn đờn bà, mặc dù Giáo hội đã ghi công đầu trong việc giải phóng và nâng cao địa vị của người phụ nữ.
Ngay như thánh Phaolô cũng đã viết:
- Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như phục tùng Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh.
Trước khí thế đấu tranh đòi bình quyền và bình đẳng giữa nam và nữ, trong những năm gần đây ở bên Tây cũng như ở bên Mỹ đã dấy lên một phong trào đòi cho phụ nữ, ít nữa là các…ma sơ, được làm cha, làm linh mục !
Còn ở Việt Nam, lác đác trên báo Công Giáo và Dân Tộc gã cũng đã thấy xuất hiện một vài bài viết, đại khái các sơ than thở về thân phận hẩm hiu của mình và mong sao được các đấng các bậc trong Hội Thánh lưu ý, nâng đỡ và trân trọng hơn một tí.
Đồng thời, gã cũng thấy xuất hiện một vài bài viết, đại khái so sánh địa vị “ông bà cố của cha” với “ông bà cố của sơ”, để rồi nghiệm ra rằng ông bà cố của cha nặng ký hơn nhiều vì được bàn dân thiên hạ kính trọng. Còn ông bà cố của sơ cũng được kính trọng đấy, nhưng còn bị lép vế nhiều bề, cứ y như ngọc bị đá đè vậy !
Bên tây phương, thân phận chị đờn bà thật rẻ rúng, họ bị liệt vào hàng nô lệ, bị coi như một phương tiện cho cánh đờn ông con giai mua vui, hay bị đồng hóa như một đồ vật để đổi chác.
Khi một bé gái mở mắt chào đời, thì ông bố là người quyết đình sự tồn vong của nó. Ông muốn nó sống thì nó được sống. Ông muốn nó chết thì nó phải chết.
Còn bên đông phương, thân phận chị đờn bà cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Nền luân lý Khổng Mạnh đã thống trị toàn bộ những sinh hoạt xã hội.
Thực vậy, người ta coi trọng con giai hơn con gái:
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Nghĩa là sinh một cậu con giai thì được kể như là có, chứ còn sinh mười cô con gái, thì vẫn bị kể như là không.
Rồi ba chữ tòng là như ba sợi dây bền chắc đã cột chặt người con gái cũng như người đờn bà vào với gia đình và chồng con:
- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ở nhà thì phục tùng cha. Đi lấy chồng thì phục tùng chồng. Chồng chết thì phục tùng con.
Thành thử, bà vợ chỉ còn là một chiếc bóng mờ nhạt trong gia đình cũng như ngoài xã hội:
- Phu xướng phụ tùy. Chồng phán điều chi, thì vợ lập tức phải nghe theo.
Từ đó, ông chồng dễ mang lấy cung cách xử sự theo kiểu “chồng chúa vợ tôi”, coi bà vợ như một đầy tớ không công, hay như một chiếc máy để đẻ con cho mình không hơn không kém.
Có những bà vợ đã hy sinh trót cả tuổi thanh xuân, tần tảo nuôi ông chồng ăn học. Thế nhưng khi vừa mới đỗ đạt, ông chồng bội bạc bèn nhảy tót sang thuyền khác, kiếm lấy một cô vợ vừa trẻ đẹp, vừa giàu sang, vừa con nhà quan để làm bàn đạp tiến lên trên đường danh vọng. Chỉ tội nghiệp cho bà vợ già, âm thầm và lầm lũi khi tuổi đời xế bóng về chiều.
Tại một số nơi như Ấn Độ người ta còn thi hành một tập tục dã man khác, đó là khi ông chồng qua đời, thì bà vợ cũng phải chết để theo hầu ông chồng nơi chín suối.
Nhất là trong lãnh vực tình cảm, số phận của bà vợ thật là bẽ bàng và cay đắng. Hai chữ “tiết hạnh” được dành riêng cho người phụ nữ:
- Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Cũng vì hai chữ tiết hạnh này, khi ông chồng còn sống, bà vợ chẳng bao giờ được phép tơ tưởng linh tinh đã đành, mà ngay cả khi ông chồng đã phiêu diêu miền cực lạc, bà vợ cũng phải ở vậy thờ chồng và nuôi con. Chứ mà bước thêm một bước nữa, ắt sẽ không thoát khỏi búa rìu và sự cười chê của dư luận.
Trong khi đó, nền luân lý ấy lại tỏ ra lỏng lẻo và dễ dãi đối với cánh đờn ông con giai:
- Trai năm thê bảy thiếp,
Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
Anh con trai tha hồ mà vung vít. Năm thê bảy thiếp là hệ biên chế, hệ trong luồng và hệ chính ngạch, có cưới có xin hẳn hoi. Còn những cuộc tình qua đường, thầm lén vụng trộm thì chỉ mình ông trời mới biết.
Ca dao cũng đã từng diễn tả:
- Dầu chàng năm thiếp bảy thê,
Thì chàng chẳng bỏ gái…sề này đâu.
Theo sử sách còn ghi lại thì một con người chững chạc và đáng kính như Nguyễn Công Trứ lại tỏ ra sành sỏi và phong lưu hết ý. Khi lên chùa, ông cũng dắt theo mấy cô hầu non để cùng “đăng sơn ngoạn cảnh” và ông đã diễu cợt:
- Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Với một sinh lực dồi dào và cường tráng, năm 73 tuổi ông vẫn còn cưới thêm nàng hầu và có tất cả 14 bà vợ.
Đêm tân hôn, giai nhân hỏi ông bao nhiêu tuổi, (tân nhân dục vấn lang niên kỷ), ông đã chẳng ngần ngại đáp:
- Ngũ thập niên tiền nhị thập tam, nghĩa là năm mươi năm về trước tôi mới 23 tuổi.
Anh đờn ông con giai được thả lỏng như vậy, thì đâu có lỗi phạm gì khi chán cơm, mò đi ăn phở. Vì thế, ngoại tình dường như chỉ là một tội được dành riêng cho chị đờn bà con gái:
- Không chồng mà chửa mới ngoan,
|Có chồng mà chửa thế gian thiếu gì.
Nơi người Do Thái, gã cũng thấy như vậy. Đã phạm tội ngoại tình, thì đương nhiên phải có cả nam lẫn nữ. Thế mà khi bắt quả tang những kẻ phạm tội này, bọn Biệt phái chỉ dẫn đến Chúa Giêsu mỗi một cô nàng để Ngài xét xử, còn cậu chàng thì được làm ngơ cho cao chạy xa bay.
Riêng ông chồng, nếu không ưng vợ mình ở điểm nào và muốn rãy bỏ, thì chỉ cần đưa cho bà một tờ giấy chứng nhận thế là xong, đường ai người ấy đi.
Trong khi ông chồng nhởn nhơ và phè phỡn với những cuộc tình trong luồng cũng như ngoài luồng, thì bà vợ sẽ lãnh đủ nếu lỡ dại đính dấp vào tội danh này.
Thực vậy, nơi người Do Thái cũng như nơi người Hồi giáo, bà vợ ngoại tình sẽ bị ném đá cho chết. Còn nơi người Việt Nam, thì ngày xưa có những nơi đã áp dụng những hình phạt cực kỳ nghiêm khắc và nặng nề như cạo đầu bôi vôi, cột bè trôi sông…cốt để cho mà tởm, nhưng đồng thời cũng để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của cánh đờn ông con giai.
Tuy nhiên, ngày hay hoàn cảnh đã đổi thay và thế gian bỗng dưng đã ra khác.
 Những tháng năm về trước, khí thế đấu tranh và giải phóng cho thân phận người phụ nữ bốc lên bừng bừng. Người ta đòi hỏi cho đờn bà con gái phải được bình đẳng và bình quyền với đờn ông con giai.
Người phụ nữ dần dần giã từ vai trò “nội tướng”, bầu bạn với nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách, mà nhảy bổ ra ngoài xã hội, nắm giữ những vai trò quan trọng và thu nhập cũng chẳng kém gì phe mày râu. Có người làm tới thủ tướng, bộ trưởng, nghị sĩ, giám đốc…Một khi đã có tài khoản riêng, không còn bị lệ thuộc vào vấn đề kinh tế và tài chánh, người phụ nữ vững bước trên đôi chân của mình.
Thế là họ muốn được bình đẳng về mọi phương diện. Sự gì anh đờn ông con giai làm được, thì chị đờn bà con gái cũng sẽ làm được.
Ngày xưa anh đờn ông con giai được ô dù Khổng Mạnh bao che, nên chẳng tội vạ gì mỗi khi vung vít tình cảm, còn chị đờn bà con gái nào lỡ dại thì bị lãnh đủ.
Còn ngày nay thì khác, chị đờn bà được pháp luật che chắn và bảo vệ. Nếu chẳng may lôi nhau ra ba tòa quan lớn vì chuyện cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, thì ông chồng hãy liệu hồn đấy, phải đề cao cảnh giác, bằng không có khi mất cả chì lẫn chài, mất cả tình lẫn tiền.
Cũng vì sự đấu tranh đòi bình đẳng ấy mà ngày nay, tội ngoại tình không còn là độc quyền của phái nam hay phái nữ, mà dường như nó liên tục được phát triển ở cả hai giới, đúng như các cụ ta ngày xưa đã diễn tả:
- Ông ăn chả, bà ăn nem.
Chả là thức ăn bằng thịt, cá, tôm hay cua, được quết nhuyễn, rồi đem lên hấp, chiên hay nướng. Còn nem là thức ăn bằng thịt, được quết nhuyễn trộn với thính và gói chặt cho chua. Nói chung cả hai đều là những món đặc sản cao cấp và trong những bữa tiệc lớn, thì phải xuất hiện đủ bộ sậu tứ quái: giò, nem, ninh, mọc. Còn trong những yến tiệc của hàng vương đế, ít nhất cũng phải có nem công, chả phượng…
Với câu tục ngữ “ông ăn chả, bà ăn nem”, người ta muốn diễn tả việc vợ chồng phân bì nhau, để rồi tranh nhau làm điều quấy quá, xằng bậy như cờ bạc, trai gái với người khác.
Chẳng hạn ông binh sập xám, thì bà cũng phải bài cào tứ sắc.
Ông có bồ nhí, thì bà cũng phải có kép nhỏ.
Trong một bài viết, tác giả Chu Tất Tiến đã báo cáo về những cuộc tình còm ngoài luồng tại Hoa Kỳ như sau:
Có những điếu mà ta nghe thấy thì giật mình, vì cứ theo trí tưởng tượng thì không đến nỗi như vậy. Theo một thống kê ở xứ Mỹ năm 1993, thì có tới 25% đờn ông, tức là 19 triệu người chồng ngoại tình và 17% đờn bà, tức là 12 triệu người vợ có tình ái lăng nhăng với người không phải là chồng mình.
Chuyện anh đờn ông ăn chả hay ngoại tình là chuyện thường ngày ở huyện, bởi vì bổn tính của anh ta vốn háo sắc, nên hễ thấy bóng hồng nào xinh xinh là chạy theo liền tù tì. Anh đờn ông, nhiều phen chẳng hề nhìn thấy cái nết, mà chỉ nhìn thấy cái đẹp của chị đờn bà, thành thử thay vì cái nết đánh chết cái đẹp, thì cái đẹp đã đè bẹp cái nết.
Người ta đã làm một cuộc trắc nghiệm như sau:
Một cụ già đứng bên đường vẫy xe xin đi quá giang, thì hầu như bác tài nào cũng không nhìn thấy và có nhìn thấy chăng nữa, cũng vẫn chịu khó lờ tít. Thế nhưng một cô gái trẻ, nhất là lại ăn mặc mát mẻ một tí mà đứng bên vệ đường vẫy xe đi nhờ, thì hầu như bác tài nào cũng rất sốt sắng…làm phước ! Quả thật, tình yêu đã đi vào anh đờn ông con giai bắt đầu bằng đôi mắt.
Vì thế, ở đây gã xin miễn bàn đến việc ông ăn chả, mà chỉ nói tới việc bà ăn nem mà thôi.
Ngoại trừ một số rất ít chị đờn bà có tính lẳng lơ và ham vui và thích của lạ, nên mới kết mô đen với một anh kép nhỏ. Chứ phần đông cánh phụ nữ, khi đã yêu thì đều yêu bằng tất cả trái tim của mình. Vì thế, tình yêu của họ thường bền vững và chung thủy:

- Yêu anh đến chết vẫn còn yêu anh.
Nếu chẳng may tình yêu của họ bị phản bội hay bị chia sớt, thì cơn ghen lập tức nhập vào lục phủ ngũ tạng, khiến họ ăn không ngon và ngủ không yên, cho tới khi nào dành lại được địa vị tuyệt đối trong tình yêu hay là đã dạy cho tình địch một bài học đích đáng:
- Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Hay như Thúy Kiều đã trả lời Hoạn Thư:
- Rằng tôi chút phận đàn bà,
Ghen tương thì cũng người ta thường tình.
Vậy đâu là lý do khiến bà vợ đi ăn nem hay chia sẻ tình yêu vớimột kẻ thứ ba ?
Lý do thứ nhất là sự bất mãn về ông chồng của mình. Ông chồng ấy có thể là một người độc tài, độc đoán và đôi lúc cũng độc ác nữa, khiến cho bà vợ chịu hết nổi. Tức nước thì phải vỡ bờ. Trong hoàn cảnh ấy, nếu gặp được một anh đờn ông ga lăng, biết chiều chuộng và mềm mỏng, thì từ chỗ tình bạn để gửi gấm tâm sự đến chỗ tình yêu, cách nhau chẳng bao xa và rồi bà đã ăn nem lúc nào cũng chẳng hay.
Ông chồng ấy có thể là người mang trong mình dòng máu đào hoa. Nay cô này, mai cô khác. Hết cà phê đèn mờ đến quán xá bia ôm. Cứ như vậy thì bà vợ chịu làm sao cho nổi. Nếu không suy nghĩ chín chắn, hẳn rằng bà ấy sẽ trả thù đời bằng cách đi ăn nem cho bõ ghét.
Ông chồng ấy có thể là người rất yêu vợ, nhưng lại không kiếm ra tiền. Vì thế, trước những nhu cầu tiêu dùng của bản thân và gia đình, bà vợ cảm thấy như điên cái đầu. Giữa lúc đen tối ấy mà xuất hiện một “quới nhân” phò trợ, sẵn sàng chi tiền để giúp đỡ, bà vợ sẽ mừng húm như vớ được chiếc phao cứu mạng. Rồi từ nghĩa dẫn đến tình và bà vợ sẽ sẵn sàng ăn nem một cách êm ru bà rù, như một hành động đền ơn đáp nghĩa. Ấy là chưa kể những anh đờn ông hắc ám mang ý đồ đen tối, đã tính toán cộng trừ nhân chia khi bỏ tiền ra giúp đỡ.
Ông chồng ấy có thể là một người rất gắn bó với gia đình, nhưng cũng lại rất say mê với một lý tưởng, hay tất bật trong công việc làm ăn, nên không còn thời giờ dành cho vợ cho con. Bà vợ cần một trái tim để chia sẻ, cần một bờ vai để tựa đầu. Chờ miết mà không được, đợi mãi mà không thấy, thì đành phải đi tìm một trái tim khác để chia sẻ và một bờ vai khác để tựa đầu. Và thế là rơi tõm vào cảnh ăn nem.
Dĩ nhiên ông chồng ấy còn có thể mắc phải những sai lỗi khác nữa, có những sai lỗi công khai, có những sai lỗi thầm kín, nhưng bằng đó mà thôi cũng đã đủ để kiểm điểm lại quãng đời làm chồng của mình.
Lý do thứ hai là những hoàn cảnh bên ngoài. Những hoàn cảnh ấy nhiều lúc đã ảnh hưởng sâu đậm và làm cho chị đờn bà bị lung lạc và chao đảo.
Chẳng hạn như bạn bè xấu. Hễ tụ tập lại với nhau, nếu không nói xấu người vắng mặt, thì cũng lại bàn về chuyện…ấy, chuyện ăn nem và rất lấy làm hãnh diện như muốn khoe thành tích vậy. Thậm chí đôi lúc còn rủ rê nhau nhập hội, nhập băng, làm thử, chí ít cũng một lần, cho biết…mùi đời.
Chẳng hạn như những phương tiện thông tin hiện đại. Nào “chát”, nào “meo”, nào “mô bai”, tha hồ mà cởi mở cõi lòng, tha hồ mà tâm sự bầu cua tôm cá, tha hồ mà hò hẹn một cách bí mật chẳng ai biết đến.
Những hoàn cảnh ấy là như “ma dẫn lối, quỉ đưa đường”, hay nói cách khác, những hoàn cảnh ấy là những thế lực ngầm thúc đẩy chị vợ đi tới chỗ…ăn nem.
Để kết thúc, gã xin đưa ra hai mẫu gương nói về sự thành công trong đời sống gia đình cũng như trong đời sống vợ chồng.
Mẫu gương thứ nhất là ông bà Curie.
Ông đã phải vất vả đeo đuổi và tấn công suốt ba năm mới dành được tình yêu của bà. Bí quyết sống của họ, đó là:
- Yêu nhau trong sự hợp tác.
Cùng học và cùng làm việc với nhau trong phòng thí nghiệm. Về tài năng có thể nói được rằng:
- Ông tám lạng thì bà cũng nửa cân.
Cả hai đều biết kính nể nhau. Bằng chứng là ghế giáo sư vật lý ở trường đại học đã được dành cho người phụ nữ đầu tiên là bà, sau khi ông mất. Lúc nhận việc, bà đã khiêm tốn nói:
- Tôi thử cố gắng dạy.
Quả nhiên, bà cũng đã thành công chẳng thua kém gì ông.
Mẫu gương thứ hai là ông bà Nixon.
Sự nghiệp của ông tổng thống nước Mỹ này phần lớn là do bà vợ. Bà luôn sát cánh với chồng qua mọi việc, ở mọi nơi và trong mọi lúc, để chia sẻ những nỗi cực nhọc thuở hàn vi, cũng như làm phụ tá đắc lực cho ông trong việc tranh cử, soạn diễn văn, thiết đãi quan khách…Bà là người đầu tiên xứng đáng để cho ông giới thiệu với các ký giả, lúc tuyên thệ nhận chức tổng thống.
Không biết những mẫu gương này có còn được những cặp vợ chồng hôm nay noi theo và bắt chước nữa hay không ?
Gã Siêu

-------------------------------
 
 

GãSiêu 119:  NÀNG DÂU XƯA VÀ NAY


NÀNG DÂU THỜI XƯA
 
 

Nếu như bây giờ gã đưa ra câu hỏi: Ai là người vợ hạnh phúc nhất trên trần gian? Không chừng có GãSiêu 119


Nếu như bây giờ gã đưa ra câu hỏi: Ai là người vợ hạnh phúc nhất trên trần gian? Không chừng có người sẽ trả lời: Đó là bà Eva. Đúng thế, vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, bên cạnh Adong không hề có hình ảnh một người đẹp nào cả, để rồi phải ghen lồng ghen lộn. Và nhất là bên cạnh Adong không hề có bóng dáng một bà mẹ chồng hà khắc, để rồi phải ngậm đắng nuốt cay những giọt nước mắt tủi hờn. Như vậy quả là một niềm hạnh phúc tuyệt vời! Nhưng rồi sau đó suốt dọc thời gian năm tháng, mối liên hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu, cũng như giữa nàng dâu và mẹ chồng đã nhuốm đủ mùi vị hỉ nộ ái ố, đã thăng trầm đủ cả ba chìm, bảy nổi và chín cái lênh đênh, đúng như bài ca hài hước về “ba bà mẹ chồng” mà ban AVT ngày xưa đã trình diễn: Vào một ngày thứ sáu đẹp trời, ba bà đi bán lợn con, được dịp gặp nhau, bà nào cũng hăng hái, cũng ồn ào tố khổ nàng dâu của mình. Lời ca thật châm biếm, nhưng cũng phản ảnh được phần nào sự thật. Nàng dâu thì nói xấu mẹ chồng, như hai cô ca sĩ chẳng hề khen nhau. Còn mẹ chồng thì tố khổ nàng dâu, như Nga với Mỹ có thương nhau bao giờ. Và rồi bài hài hước này đã kết thúc bằng một lời kêu gọi: Đình chiến với nàng dâu, mẹ chồng đình chiến với nàng dâu, ôi thôi là thế gian hết loạn, bà ơi, hãy mau mau hòa bình.
Quả thực, đây là một kinh nghiệm chua xót, đã gây đổ vỡ cho nhiều gia đình. Mẹ chồng không ai nói tốt cho nàng dâu, còn nàng dâu thì cũng chẳng ai nói tốt cho mẹ chồng. Mẹ chồng thì nghi ngờ nàng dâu, còn nàng dâu thì lườm nguýt mẹ chồng. Tục ngữ ca dao cũng đã đề cập rất nhiều về vấn đề này: Thật thà cũng thể lái trâu. Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng. Lý do gây nên tình trạng bất ổn trên cũng thật đơn giản và dễ hiểu. Người mẹ bao giờ cũng yêu thương con cái và muốn nó phải tuân theo ý muốn của mình, cũng như muốn độc quyền chi phối những tình cảm của nó. Thế nhưng bây giờ nó đã lớn và vượt ra ngoài vòng phủ sóng của mình, nó dồn mọi yêu thương cho một kẻ xa lạ, nhất là khi kẻ xa lạ này lại không phải là người mình chọn. Bởi đó, người mẹ cảm thấy tình thương như bị phản bội và hụt hẫng. Thành ra có ác cảm với nàng dâu. Từ nỗi ác cảm ấy, thường dễ có những thái độ, những lời nói thiếu tế nhị với nàng dâu và nhìn nàng dâu bằng cặp mắt soi mói để bắt lỗi: Xem nó nói năng, làm lụng như thế nào? Với cặp mắt hình sự, mẹ chồng dễ dàng nhận ra những sơ hở, những khuyết điểm của nàng dâu, để rồi lên tiếng đả kích và chê bai, khởi đầu cho một tình trạng chiến tranh lạnh.
Trong khi đó kể từ ngày khăn gói quả mướp “theo chàng về dinh”, nàng dâu phải gánh vác cả giang sơn nhà chồng, phải thực hiện câu nói ngày xưa các cụ ta đã đề ra: Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục. Không được lấy gia đình mình làm khuôn mẫu cho gia đình chàngï. Thế nhưng việc thích nghi với tình hình và nhiệm vụ mới không phải là không có những khó khăn. Khó khăn ở cách xưng hô: Phải kêu những người lạ hoắc này là thầy, là bu, là anh, là chị, là em. Khó khăn ở những công việc lặt vặt trong nhà: Ngày xưa mình được chiều chuộng, chẳng phải động tay vào việc quét nhà, thổi cơm. Còn bây giờ phải loay hoay suốt ngày dưới bếp, đổ cả hôi hột mà nồi cơm vẫn trên sống dưới khê. Khó khăn ở thói quen, ở cung cách cư xử cũng như sinh kế làm ăn. Bởi đó, nếu không tế nhị và kiên nhẫn, thì sẽ không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những hiểu lầm, những buồn phiền. Và một khi đã va chạm, thì bản tính tự vệ bèn nổi lên đùng đùng. Người ta đã “pháo” mình thì mình cũng phải tìm mọi cách để “phản pháo”. Và như thế chuyện bé liền bị xé ra to. Âm ỉ tức tối, nên mỗi lần về thăm bu là lại tỉ tê hết chuyện nọ sang chuyện kia. Người mẹ và những cô em luôn đứng sau hậu thuẫn, bày mưu đối lại. Thế là chiến tranh bùng nổ giữa hai gia đình. Xui gia xui giáo thay vì nấu cháo nuôi nhau, thì nay sẵn sàng lấy giáo mà đâm nhau. Một khi tình nghĩa đã sứt mẻ, rất khó mà hàn gắn.

NÀNG DÂU THỜI NAY
Tất cả những sự việc kể trên đã, đang và sẽ còn tồn tại trong cuộc sống gia đình của người Việt Nam. Tuy nhiên, ngày nay do những chuyển biến ngoài xã hội, những tập tục cũ dần dần bị đổi thay. Nếu ngày xưa mẹ chồng được sánh ví như một cơn ác mộng, như một vì sao quả tạ chiếu vào số kiếp của nàng dâu, thì bây giờ “sao” đã đổi ngôi, nàng dâu bỗng trở thành một cơn ác mộng, một vì sao quả tạ tác oai tác quái trên vận mạng của mẹ chồng. Theo sự suy nghĩ nông cạn của gã, thì có hai lý do chính yếu đã tạo nên sự đổi ngôi và đảo lộn này.
Lý do thứ nhất đó là vì nhiều nàng dâu ngày nay đã được học hành đến nơi đến chốn, không còn bị giam hãm trong căn bếp nhỏ hay trong bốn bức tường của một ngôi nhà, với những công việc thuộc phạm vi nồi niêu xoong chảo, hay tề gia nội trợ, nhưng đã ung dung tiến ra ngoài xã hội. Họ cũng đi làm, cũng kiếm tiền và cũng nắm giữ những địa vị quan trọng. Có khi họ còn kiếm được nhiều tiền và nắm giữ những địa vị quan trọng hơn cả anh chồng. Ngoài ra, họ còn được xã hội che chắn và bênh vực với những phong trào giải phóng đàn bà con gái, đòi cho được sự bình đẳng giữa nam và nữ. Mấy anh đàn ông con giai mà nổi máu “yêng hùng”, thượng cẳng chân hạ cẳng tay với họ, thì lập tức liền bị cảnh sát mò tới hỏi thăm. Và khi phải đối chất trước ba toà quan lớn, thì luật pháp thường đứng về phía họ và bảo vệ cho họ.
Lý do thứ hai đó là vấn đề con cái. Trước tình trạng bấp bênh về công ăn việc làm, trước sự sa sút về kinh tế, tiền vô thì ít mà tiền ra lại nhiều, khiến việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái trở nên khó khăn. Vì thế, người ta hạn chế sinh sản, ấn định một số con phù hợp với khả năng của mình. Sự hạn chế này còn được xã hội ủng hộ mãnh liệt. Người đã vẽ ra cả một tương lai đen tối khi trái bom dân số bùng nổ. Đi tới đâu cũng thấy nhan nhản những khẩu hiệu: Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ. Một số nước trên thế giới còn liệt vấn đề này vào hàng “quốc sách” và ấn định mỗi cặp vợ chồng chỉ được phép có một hay hai con là cùng. Nếu vượt quá số này, thì sẽ bị phạt tiền ngu và bị chế tài về nhiều phương diện.
Con cái càng hiếm, thì lại càng quí và càng được cha mẹ hết sức cưng chiều. Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Ngày xưa con cái nghịch đất nghịch cát và lê la bẩn thỉu, còn ngày nay người ta cẩn thận giữ phép vệ sinh, áo quần lúc nào cũng thơm tho. Ngày xưa người mẹ thường mớm cơm cho con, ngày nay người ta dùng biết bao nhiêu loại sữa, từ sữa tươi cho đến sữa bột. Hơn thế nữa, một số nàng dâu còn sử dụng con cái làm vũ khí chống lại mẹ chồng, hay đòi hỏi mẹ chồng phải thoả mãn những yêu cầu của mình. Trên báo “Phụ Nữ Chủ Nhật”, số 41 ra ngày 24.10.2010, trong một bài viết, tác giả Nguyễn Thiện đã đưa ra những trường hợp cụ thể để minh chứng. Chẳng hạn trường hợp của vợ chồng Hà. Hai vợ chồng xích mích nhau trong việc nuôi con. Phần lỗi của con dâu được mẹ chồng chỉ rõ cho con trai thấy. Để trả thù tội chỉ điểm, Hà bế cháu về ngoại, để mẹ chồng “biết thế nào là lễ độ”. Theo Hà, khi bị cách ly với con, với cháu, chồng khổ một, thì mẹ chồng sẽ phải khổ gấp mười! Y như rằng cả chồng lẫn mẹ chồng đều “ngấm đòn” chỉ sau một ngày xa con, xa cháu. Sau hai ngày trừng phạt, thấy chồng buồn, Hà cũng xao lòng, nhưng vẫn kiên quyết giữ vững lập trường. Muốn mang cháu về, thì bà phải thực hiện năm điều sau đây:
1- Móng tay bà phải luôn cắt ngắn.
2- Bà chỉ được cho cháu ăn và uống những thứ có trong danh sách đã “niêm yết”.
3- Dụng cụ cho cháu ăn, bà phải trụng nước sôi trước khi sử dụng.
 4- Được bế cháu hai lần trong một ngày, sau khi bà đã tắm và thay đồ mới.
5- Không được chơi trò “ú oà”, làm cháu hết hồn.
Chấp nhận năm điều kiện trên và được con dâu khoan hồng, khi bế cháu trên tay, bà thừa nhận: Thật ra những điều nó muốn, về lý thì không sai, nhưng về tình, thì thật là quá quắt!
Ngoài ra, bằng lợi thế trình độ học vấn cao hơn, giao tiếp rộng hơn, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhanh hơn, bắt trúng điểm yếu của mẹ chồng chính xác hơn, các nàng dâu đang “nắm kèo trên” nhưng cũng mắc không ít sai lầm khi muốn mẹ chồng phải theo ý mình. Tuy nhiên, nếu hai bên cứ tiếp tục tố khổ và kể tội lẫn nhau, thì có lẽ “truyện phim buồn” sẽ không có hồi kết thúc. Người khác đau khổ đành, mà chính bản thân mình cũng đau khổ không ít.
Để thoát ra khỏi cái vòng kim cô này, chúng ta phải xác tín rằng: Một khi đã chọn lựa, thì cũng phải chấp nhận. Chấp nhận không phải chỉ bản thân của chồng mà còn phải chấp nhận cả môi trường sống và những liên hệ của nhà chồng, rồi dần dần biến đổi mối ác cảm thành thiện cảm. Nếu chẳng may xảy ra sự căng thẳng, hãy kiên nhẫn và từ từ giải quyết. Nhất là hãy biết cảm thông với chồng trong những hoàn cảnh như vậy, bởi vì tiến thoái lưỡng nan, bên hiếu bên tình, bên mẹ bên vợ, ngả sang bên nào cũng không ổn, mà giữ thái độ yên lặng cũng chẳng xong. Bởi vì, nếu yên lặng, thì bà mẹ sẽ nói: Đấy, con vợ mày nó như vậy, mà mày cứ câm như hến được sao? Trong khi đó, người vợ lại tỉ tê: Đó, mẹ mắng em như vậy mà anh cũng chẳng bênh em được lấy một nửa lời, hay là anh chẳng còn thương em nữa.
Để kết luận, thiết tưởng không gì hơn, là mẹ chồng nàng dâu, hãy biết quên đi và tha thứ, hãy nhường nhịn và chịu đựng. Nếu mẹ chồng và nàng dâu biết sống chung hòa bình, không còn giận hờn, không còn bới móc và nói xấu nhau nữa, chắc hẳn bàu khí gia đình sẽ nhẹ nhàng và hạnh phúc hơn rất nhiều.
Gã Siêu

-------------------------------
 
 

GãSiêu 120:  GIÁNG SINH BUỒN

 

Mấy bữa nay, trời Saigon đổ lạnh. Một cái lạnh họa hiếm và quí giá cho miền Nam oi bức. Đây GãSiêu 120


Mấy bữa nay, trời Saigon đổ lạnh. Một cái lạnh họa hiếm và quí giá cho miền Nam oi bức. Đây là cơ hội ngàn vàng, một năm mới có một lần để cho phe đờn bà con gái trình làng các thứ áo lạnh, từ áo gió cho tới áo len. Còn cánh đờn ông con giai ngồi uống cà phê bên vỉa hè tha hồ ngắm nghía và đưa ra những lời bình luận loạn cào cào. Có tên đã dựa vào bao thuốc lá Salem mà phát ngôn rông rổng:

- Sao áo len em mỏng.

Một tên khác, đọc ngược lại với cặp mắt lim dim tuồng như đang mơ mộng:

- Mắt em là ánh sao.

Riêng phần gã, mỗi khi xuống phố, hai tay thọc vào túi quần, vừa đi vừa nghêu ngao nho nhỏ bài tình ca thuở nào:

- Lại một Noel nữa.

Mấy mùa Giáng sinh buồn.

Anh ở miền biên giới,

Thương về một khung trời.

Chắc Đàlạt vui lắm.

Mimosa nở vàng.

Anh đào khoe sắc thắm.

Hương ngào ngạt không gian…

Mà lạ thật, cứ mỗi độ Noel về, gã lại nhớ tới Đalạt một cách day dứt và quay quắt. Noel Đalat ngày xưa như có một cái gì thật thơ mộng và vấn vương, để lại trong đầu óc gã những kỷ niệm chẳng bao giờ nhạt phai, nhất là với cái lạnh.

Đúng thế, thời tiết Saigon chẳng phù hợp với bầu khí Noel tí nào. Có những năm trời nóng toát cả mồ hôi hột: trong nhà thờ quạt máy thổi vù vù, còn tại những vùng sâu vùng xa, ánh sáng điện đóm chưa chiếu tới, thì quạt nan, quạt giấy cứ phành phạch loạn cả lên…thế mà miệng vẫn cứ phải hát to:

- Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời.

Oái oăm hơn nữa, có những năm vào chiều ngày hai mươi bốn, ông trời bỗng giáng cho một trận mưa. Và thế là bao nhiêu công trình trang trí bỗng đi đoong. Lặng lẽ đứng nhìn những núi đá bằng giấy xi măng “vỡ ra tan tác” mà bụng rầu thối cả ruột.

Năm ấy, trời Đalat rét sớm. Chui vào khu chợ mới, rảo qua các hàng quán, rồi từ tầng trệt bước lên lầu, gã nhìn thấy một cô gái nhỏ người người thượng, đang co ro nơi góc cầu thang tăm tối. Ánh mắt van xin. Đôi tay run rẩy giơ ra như đợi chờ những đồng tiền lẻ bố thí.

Hình ảnh này khiến gã nhớ tới câu chuyện “Cô bé bán diêm” của Andersen, mà gã đã say mê đọc. Câu chuyện đại khái như thế này:

Buổi chiều ngày hai mươi bốn tháng mười hai, trời thật lạnh. Cô bé lảo đảo bước đi trong gió rét. Làm sao cô bé có thể bán hết những bao diêm trong một buổi chiều mà mọi người đều đang vội vã chuẩn bị cho một ngày lễ lớn.

Nhớ tới những bao diêm còn tồn đọng, cô bé không dám trở về nhà vì sợ bà dì ghẻ đay nghiến. Cô bé tìm một nơi ẩn khuất để ngồi nghỉ chân. Từng cơn gió lạnh thổi qua. Cô bé thầm nghĩ:

- Bây giờ mình thử quẹt một que diêm để sưởi ấm tí chút đôi lòng bàn tay.

Thế rồi, que diêm thứ nhất được quẹt lên. Cô bé thấy mình đang ngồi trong một căn phòng rộng lớn. Củi nơi lò sưởi cháy bừng bừng và tỏa ra hơi ấm. Thế nhưng, chỉ thoáng chốc, que diên lại vội tắt. Chung quanh cô bé chỉ là một màn đêm dày đặc.

Với que diêm thứ hai, cô bé thấy mình đang ngồi trước một bàn ăn thịnh soạn, được dọn sẵn cho cô bé trong đêm Giáng sinh. Nhưng rồi que diêm chợt tắt, trước mặt cô bé chỉ còn là băng giá.

Que diêm thứ ba được quẹt lên, cô bé thấy mình đang đứng trước một cây Noel với những món quà xinh đẹp. Giữa lúc cô bé đưa tay ra để ngắt lấy, thì que diêm lại tắt ngấm. Chỉ còn lại đường phố tấp nập, kẻ đến người đi.

Và cô bé vẫn ngồi đấy, lập cập trước từng cơn gió lạnh thổi tới. Một que diêm nữa, rồi lại một que diêm nữa. Bao nhiêu ước mơ êm đem nhất lần lượt xuất hiện, rồi lại tan biến theo ánh lửa yếu ớt của que diêm.

Cuối cùng cô bé thấy mẹ đến bên mình và cô bé đã van xin cho mình được đi theo mẹ. Hình như mẹ đã mỉm cười với cô bé.

Sáng hôm sau, người ta nhận ra cô bé đã chết vì giá lạnh giữa những que diêm đã cháy. Người ta chép miệng thở dài và nói:

- Thật tội nghiệp. Hẳn là cô bé muốn sưởi ấm cho mình đây, nhưng rồi lại chết, chết trong đêm Giáng sinh.

Hình ảnh cô gái nhỏ người thượng và hình cảnh cô bé bán diêm khiến gã liên tưởng tới lễ Giáng sinh đầu tiên được diễn ra nơi máng cỏ và gã thầm nghĩ:

- Đây hẳn phải là một lễ Giáng sinh nghèo, thật nghèo.

Đúng thế, Giuse và Maria, cặp vợ chồng trẻ nhưng nghèo trở về Bêlem, quê hương bản quán, để khai hộ khẩu theo chiếu chỉ của hoàng đề Cêsar Augustô. Nhìn bộ dạng thiểu não và túng quẫn, cộng thêm vào đó, Maria đang bụng mang dạ chửa, sắp sửa tới ngày sinh nở, nên chẳng hàng quán nào thèm tiếp nhận. Thành thử hai vợ chồng phải dắt díu nhau ra ngoài đồng vắng tìm chỗ trú chân.

Và Hài Nhi Giêsu đã được sinh ra trong cảnh thiếu thốn như thế. Không nhung lụa êm ấm. Không hoàng cung rực rỡ. Mẹ Maria đã phải lấy tã bọc Hài Nhi Giêsu và đặt nằm trong máng cỏ.

Rồi những người khách đầu tiên đến viếng thăm là ai ? Họ là những người chăn chiên, hạng cùng đinh trong xã hội. cũng nghèo hèn và cơ cực.

Thực vậy, sau khi được thiên thần Chúa hiện ra trên cánh đồng Bêlem với lời loan báo:

- Ta mang đến cho các ngươi một tin vui và cũng là tin vui cho toàn thể dân Israel, hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi trong thành vua Đavít.

Và thế là họ vội vã lên đường. Tuy nghèo về tiền bạc, nhưng họ lại giàu về tình bác ái yêu thương. Phải chăng chính tình bác ái yêu thương này đã sưởi ấm cho Hài Nhi Giêsu ?

Hình ảnh cô gái nhỏ người thượng và hình cảnh cô bé bán diêm, cũng như hình ảnh máng cỏ tại Bêlem thật khác biệt với bầu khi Noel hôm nay.

Đúng thế, hôm nay người ta đã đón mừng lễ Giáng sinh một cách tưng bừng và lộng lẫy. Người ta đã quốc tế hóa, thương mại hóa và tục hóa ngày lễ thánh thiện này.

Trước hết, người ta đã quốc tế hóa ngày lễ thánh thiện này.

Thực vậy, Không phải chỉ người có đạo tin theo Đức Kitô mới mừng, mà hầu như bàn dân thiên hạ đều mừng. Từ người già cho đến người trẻ, từ người phương tây cho đến người phương đông, từ người dân ở thành thị cho đến người dân ở hóc bà tó, đèo heo hút gió…Tất cả đều mừng biến cố trọng đại Chúa sinh ra đời.

Cũng giống như cây thánh giá. Đúng thế, ngày xưa cây thánh giá dấu chỉ của người có đạo, còn hôm nay cây thánh giá đã trở thành một thứ đồ trang sức. Những cô gái trẻ đeo thánh giá toòng teng trên hai tai, mang thánh giá lủng lẳng ở trước ngực và không chừng có cô còn cột cả thánh giá ở hai mắt cá chân nữa. Gã không biết nên cười hay nên khóc trước cảnh tượng này.

Tiếp đến, người ta đã thương mại hóa ngày lễ thánh thiện này.

Thực vậy, ngay từ đầu tháng mười hai, những cây thông Noel, những hang đá Noel và những ông già Noel đã được dùng để trang trí khắp nơi khắp chốn.

Rồi những cửa tiệm bán thiệp Giáng sinh, bán đồ chơi cho trẻ em và bán quà tặng cho người lớn được mọc lên như nấm, nhất là tại các thành phố lớn. Đây là dịp để bàn dân thiên hạ mua sắm sau một năm vất vả kéo cày và cực nhọc lao động. Đây cũng là dịp béo bở để cho con buôn hốt bạc. Mỗi năm mới có một lần, làm sao mà chẳng mong chẳng đợi, còn hơn cả người có đạo sống tâm tình mùa vọng vậy.

Và sau cùng, người ta đã tục hóa ngày lễ thánh thiện này.

Thực vậy, đối với nhiều người, Noel chỉ là một dịp để gửi cho nhau những tấm thiệp với lời mừng chúc: Một mùa Giáng sinh vui vẻ và một năm mới bình an! A merry Christmas and a happy new year! Un joyeux Noel et une heureuse année!

Đối với nhiều người, Noel chỉ là một dịp để trao cho nhau những món quà.

Cha mẹ tặng quà cho con cái để thưởng công chúng đã ngoan ngoãn, chăm chỉ và vâng lời đã đành, mà hơn thế nữa các nhân viên cấp dưới còn có bổn phận biếu xén cho các xếp lớn của mình, để cầu ơn mưa móc, để tạo được những ấn tượng tốt cũng như để tránh không bị trù dập. Chuyện đời là thế. Đồng tiền đi trước đồng tiền khôn. Nếu không biết điều, thì hãy liệu hồn đấy.

Nói tới ông già Noel, nhiều người chẳng cần tìm hiểu gốc gác, cội nguồn, để biết ông ta là hiện thân của thánh Nicôlas, vị giám mục thành Myre, sống vào đầu thế kỷ thứ tư.

Thánh nhân mở mắt chào đời tại Patara, xứ Lycia, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Ngài luôn giúp đỡ những người nghèo túng và bất hạnh. Cuộc đời ngài được dệt bằng những huyền thoại.

Chẳng hạn nhờ lời cầu nguyện, ngài đã truyền cho sóng yên biển lặng trong cơn giông bão, vì thế ngài được đặt làm bổn mạng các thủy thủ.

Đặc biệt, ngài luôn yêu thương trẻ nhỏ: Chính ngài đã làm cho ba em bé bị tên đồ tể giết chết được sống lại và cũng chính ngài đã cứu ba cô gái bị cha mẹ bắt đi làm điếm chỉ vì không có của hồi môn để lấy chồng, vì thế, ngài cũng được đặt làm bổn mạng của giới thiếu nhi. Ngài qua đời vào khoảng năm 350 và được mừng kính vào ngầy 6 tháng 12.

Có lẽ vì lòng yêu thương tuổi thơ mà ngài được dân gian gán cho công việc phát quà đêm Giáng sinh. Các trẻ em bên phương tây, vào ngày lễ Giáng sinh, trước khi ngủ, thường đặt đôi vớ hay cặp ủng của mình ở đầu giường, hay ở lò sưởi, cho ông già Noel để quà vào đó, vì ông già Noel thường vào nhà qua ngả ống khói.

Phải, nói tới ông già Noel, hiện nay người ta chỉ nghĩ ngay đến một ông già tốt bụng, râu tóc bạc phơ, đội mũ đỏ và mặc áo đỏ, vai mang túi vải, có nhiệm vụ đi phát quà cho các em thiếu nhi trong đêm Giáng sinh. Hình ảnh này đã được một họa sĩ Thụy Điển vẽ vào năm 1890. Và đến năm 1931, được hãng Coca-Cola sử dụng cho chiến dịch quảng cáo của mình.

Đối với nhiều người, Noel chỉ là một lễ hội để ăn nhậu và nhảy nhót, nhất là đối với giới trẻ.

Thực vậy, ngay từ chiều ngày hai mươi bốn, người ta đã nhốn nháo đổ xuống đường phố, không phải là để tới nhà thờ tham dự thánh lễ, mà là để khoe khoang quần áo mốt miếc. Thiện chí lắm là làm một vòng, rảo qua mấy ngôi nhà thờ để ngó những kiểu cọ hang đá. Thấy người ta đi thì mình cũng đi, mà chẳng biết đi để làm gì ?

Tại những ngôi nhà thờ, hang đá hôm nay không còn phải là một hang hôi hám và tăm tối cho chiên bò ngủ đêm, nhưng là một cảnh tượng huy hoàng và rực rỡ với muôn ngàn bóng điện màu chớp nhá. Thế nhưng, cõi lòng người tin Chúa thì sao ? Có lẽ nó cũng hôi hám và tăm tối như hang chiên bò ngày xưa ?

Sau khi chen chúc ngoài đường phố, tạo nên cảnh tượng kẹt cứng trên các trục lộ giao thông, người ta kéo nhau về nhà mình hay đi tới những nhà hàng để ăn nhậu nhậu. Nào là những chai rượu đắt tiền đổ ra như nước lã. Nào là những món ăn quí hiếm mắc mỏ thừa bứa. Khi đã sừng sừng thì kéo nhau ra sàn gỗ để nhảy nhót và để lắc tới lắc lui, tơi bời hoa lá, quay cuồng trong tiếng nhạc xập xình. Nhảy nhót chán thì lại ăn nhậu tiếp cho tới sáng, khiến nhiều chiến binh đã phải gục ngã, cho chó ăn chè ngay tại bàn nhậu.

Một số khác khi đã sừng sừng thì nhảy lên xe, phóng bạt mạng như những hung thần ngoài xa lộ, tạo nên những cái chết thật oan uổng và đau đớn trong đêm cực thánh này.

Tất cả lễ Giáng sinh chỉ có vậy mà thôi: mua sắm, ăn nhậu, nhảy nhót… Người ta chẳng cần biết đến giây phút trọng đại nhất của lịch sử loài người. Giây phút Con Thiên Chúa xuống thế làm người để giải thoát nhân loại đang ngồi trong tăm tối và đang bị trói buộc dưới gông cùm tội lỗi, giây phút giao hòa đất với trời. Thậm chí người ta cũng chẳng biết đến Hài Nhi Giêsu là ai.

Viết tới đây, gã nhớ tới một mẩu chuyện của Gibran. Gã xin kể lại như một kết thúc. Mẩu chuyện ấy như thế này:

Vào một đêm giáng sinh, đường phố ngập tràn muôn ánh đèn màu và từng lớp người mừng vui bước đi.

Tôi muốn lẩn tránh những âm thanh ồn ào, tìm kiếm một vài phút giây thinh lặng để suy tưởng về con người vĩ đại nhất mà thiên hạ đang tôn kính.

Con người ấy đã sinh ra làm thân trẻ nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, đã chết một cách ô nhục như một tên tội phạm với khổ hình thập giá trên đỉnh đồi Canvê.

Tôi dừng chân và ngồi trên chiếc ghế đá công viên, để mặc cho những tâm tư trào dâng. Một lúc thật lâu, tôi bỗng giật mình vì có một người đã ngồi bên cạnh tôi từ lúc nào tôi cũng chẳng hay biết. Người đó đang cầm một cành cây khô và vạch những đường nét bâng quơ trên đất. Tôi nghĩ rằng:

- Hẳn ông ta cũng là một kẻ cô đơn.

Dường như đọc được ý nghĩ của tôi, người ấy nói:

-Chào anh.

Tôi thận trọng đáp lễ:

-Dạ, xin chào ông.

Rồi tôi gợi chuyện:

-Hẳn ông là một kẻ xa lạ trong thành phố này ?

Người ấy đáp:

-Phải, tôi chỉ là một kẻ xa lạ trong thành phố này cũng như trong mọi thành phố khác.

Tôi hỏi tiếp:

-Chắc ông cũng cảm thấy vui trong bầu khí tưng bừng của ngày lễ Giáng sinh hôm nay chứ ?

Người ấy đáp:

-Vào những ngày như thế này, tôi lại càng cảm thấy xa lạ và cô đơn hơn bao giờ hết.

Tôi nói tiếp:

-Dường như ông đang cần một sự giúp đỡ ? Vậy xin ông vui lòng nhận lấy mấy đồng bạc này.

Tôi mở bóp và đưa tiền. Thế nhưng, người ấy vội xua tay, lắc đầu với nét mặt chán ngán:

-Tôi rất cần một sự giúp đỡ, nhưng không phải là tiền bạc.

Tôi đề nghị:

-Hay là ông về nhà tôi để chúng ta cùng nghỉ ngơi ?

Người ấy đáp:

-Tôi cần một nơi để nghỉ ngơi, một chỗ để tựa đầu, một mái nhà cho tâm tư chìm lắng. Tôi đã cố gắng đến mọi lữ quán, đã gõ cửa mọi căn nhà, nhưng tất cả đều chối từ. Tôi mệt mỏi nhưng không thất vọng. Đúng ra tôi không tìm một ngôi nhà, nhưng tìm một tâm hồn, tìm một nơi nghỉ ngơi trong lòng người.

Tôi nhìn thấy một giọt nước mắt rơi xuống trên gò má người ấy. Nói rồi, người ấy đứng lên, giơ hai tay ra phía trước. Tôi bỗng nhìn thấy những dấu đinh nơi lòng bàn tay.

Tôi bàng hoàng phủ phục và kêu lên:

-Ôi! Lạy Chúa Giêsu.

Lúc bấy giờ Chúa nói tiếp:

-Mọi người đang tôn vinh Ta, đang thêu dệt chung quanh Ta những huyền thoại, những hào quang rực rỡ. Còn về phần Ta, Ta mãi mãi vẫn chỉ là một kẻ xa lạ và cô đơn trên mặt đất này. Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có lấy được một hòn đá để tựa đầu.

Đúng thế, Hài nhi Giêsu vẫn còn cô đơn trong chính ngày lễ bàn dân thiên hạ mừng kính Ngài. Ngài vẫn còn âm thầm khổ đau giữa cảnh tưng bừng của ngày Ngài giáng sinh. Ngài vẫn còn xa lạ ngay cả đối với những người đã tin nhận Ngài.

Và hơn thế nữa, nếu Ngài thực sự hien diện nơi người khác, thì chính Ngài cũng đang bị hắt hủi nơi những cô gái nghèo hèn người thượng, Ngài cũng đang bị chết dần chết mòn nơi những cô bé bán diêm túng thiếu, Ngài cũng đang bị quằn quại trong đau đớn nơi những em nhỏ lây nhiễm HIV ở Phi Châu, Ngài cũng đang bị vất ra ngoài đường nơi những người lâm cảnh màn trời chiếu đất tại những nơi đang xảy ra chiến tranh.

Nếu những chủ quán ngày xưa tại Bêlem đã không dành cho Ngài một chỗ cư ngụ, thì hôm nay biết bao nhiêu người cũng đã đóng kín cõi lòng và xua đuổi Ngài, để Ngài phải vất vưởng cùng giá rét.

Và rồi một giọng hát quen thuộc với nhạc phẩm “Bài thánh ca buồn” vang lên nơi tiệm cà phê của người hàng xóm:

- Bài thánh ca đó còn nhớ không em.

Noel năm nào chúng mình có nhau.

………………………………………

Rồi những đêm thánh thường đón Noel,

Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.

Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối,

Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn.

Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi.

--------------------------------
 

Tác giả: Lm FX. Hoàng Đình Mai

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây