*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Như thường lệ, vào mỗi mùa giáng sinh, tôi đều nhận được quà từ anh trai của tôi.
Nhớ lại Mùa Giáng sinh năm ấy, tôi cảm thấy rất vui, nhưng vui nhất không phải chỉ vì món quà anh tôi tặng, đó là một chiếc xe hơi, mà còn vì tôi đã học được một bài học rất thú vị, vào cái đêm đông lạnh lẽo ấy.
Đã 7 giờ tối, mọi người trong công ty đều đã ra về gần hết, tôi cũng đang đi đến gara để lấy xe, để về nhà, vui mừng Giáng sinh với gia đình.
Bỗng, có một cậu bé, ăn mặc rách rưới, trông như một đứa trẻ lang thang bụi đời, tiến lại, đang đi vòng quanh chiếc xe của tôi, vẻ mặt của cậu có vẻ như rất thích thú với chiếc xe này.
Rồi cậu chợt cất tiếng nói, khi thấy tôi đến gần: "Đây là xe của cô ạ?".
- Tôi khẽ gật đầu, và nói vài lời xã giao:
"Đây là quà Giáng sinh, mà anh trai cô tặng cô trong dịp lễ Giáng Sinh".
- "Ý cô nói: là anh trai cô biếu tặng chiếc xe này, mà cô không phải tốn tiền, hay phải trả bất cứ cái phí gì? "Ôi! Cháu ước gì...".
Rồi bỗng cậu bé vẫn ngập ngừng trong giây lác, rồi im luôn.
Tôi vẫn tỏ ra chăm chú, vẫn sẵn sàng muốn nghe ý cậu đang ngập ngường muốn nói. Nhưng cậu thì vẫn cứ cúi gằm mặt xuống đất, bàn chân thì di di trên mặt đất một cách vô thức, rồi bỗng lên tiếng:
- "Ước gì... cháu có thể trở thành một người anh trai giống như vậy".
Tôi nhìn cậu bé, ngạc nhiên với lời nói vừa rồi.
Bỗng tôi lên tiếng đề nghị với cậu bé:
- "Cháu nghĩ sao, nếu chúng ta đi một vòng quanh thành phố bằng chiếc xe hơi này?".
Như sợ tôi đổi ý, cậu bé đã nhanh miệng trả lời:
- "Dạ, cháu thích lắm. Dạ, cháu thích lắm ạ!"
Sau khi bước lên xe, cậu bé tỏ thái độ dè dặt, đề nghị với tôi một điều, với ánh mắt sáng ngời, đầy hy vọng,
- "Cô có thể lái xe về nhà cháu được không ạ?".
Tôi có vẻ hơi bất ngờ về đề nghị này, nhưng ngại hỏi lại. Tôi tươi cười và gật đầu đồng ý.
Tôi thầm nghĩ: Chắc là cậu bé này muốn “lấy le” với hàng xóm, khi thấy cậu đã về nhà, trên chiếc xe hơi đẹp như thế này nè !!!!
Thế nhưng, tôi đã lầm:
Bất ngờ cậu bé lên tiếng:
- "Xin cô dừng lại ở đây, và xin phiền cô đợi cháu một giây lát thôi ạ."
Nói rồi, cậu bé chạy nhanh một cách vội vã, vào trong một con hẻm sâu hun hút, ánh sáng tối om, tưởng chừng như chẳng có ai sống trong ấy.
Ít phút sau, tôi nghe thấy cậu bé quay lại, qua tiếng bước chân, nhưng hình như lần này cậu không chạy như lúc nãy, mà đi rất chậm.
Và đi theo cậu, là một cô bé nhỏ nhắn, mà tôi nghĩ chắc đó là em của cậu, cô bé với đôi bàn chân bị tật, đang ngồi trên chiếc xe lăn.
Cậu bé đẩy chiếc xe lăn. Còn em cậu thì đang ngồi trên xe đó. Xe trông rất cũ kĩ, như một phế liệu.
Cậu đưa em xuống, cách rất cẩn thận, và dừng lại bên cạnh chiếc xe của tôi.
Cậu lên tiếng nói với em:
- "Cô đó em. Đây là người, mà lúc nãy anh vừa nói với em. Anh trai của cô ấy đã tặng cho cô một chiếc xe hơi này, nhân dịp Giáng sinh, mà cô chẳng phải trả một phí tốn nào. Hy vọng, một ngày nào đó, anh cũng sẽ tặng em một món quà giống như vậy, để em có thể tận mắt nhìn thấy những ánh đèn rực rỡ, những cảnh vật hoành tráng, đẹp đẽ ngoài đường phố, trong đêm Giáng sinh, và anh sẽ không phải cố gắng miêu tả nó cách vụng về cho em nữa!".
*****
Tôi không thể cầm được nước mắt trước cảnh tượng này. Tôi bước ra khỏi xe, giúp đưa cô bé đáng thương ấy vào trong xe hơi.
Ánh mắt cô bé nhìn tôi đầy vẻ cảm phục và thân thiện.
Ba chúng tôi bắt đầu một chuyến đi tham quan vòng quanh thành phố, thăm viếng một vài cái hang đá, thưởng thức quang cảnh rực rỡ của đêm Giáng sinh.
Qua ánh đèn đường, tôi thấy ánh mắt của 2 cháu thật rạng rỡ, những cử chỉ và những giọng nói líu lo, tíu tít, thì biết là chúng nó thật vui.
Bỗng tôi đã cảm nghiệm được việc tôi đang làm, là một việc đạo đức, là một việc làm thật có ý nghĩa.
Cho đến hôm nay, tuy đã qua bao Mùa Giáng Sinh qua rồi, mà những kỷ niệm của đêm hôm đó không thể nào quên trong tôi, nhất là mỗi khi những bông tuyết lạnh giá của đêm Giáng sinh bắt đầu rơi.
Theo Âm lịch, thì năm nay gọi là năm Giáp Thìn (2024). Năm Thìn cầm tinh con Rồng.
Chúng ta biết: Năm Âm lịch, đã lấy 12 con Giáp, làm biểu tượng cho từng năm, trong một chu kỳ 12 năm. Đó là Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Nói theo kiểu dân gian, thì gọi là: Năm con Chuột, con Trâu, con Cọp, con Mèo, con Rồng, con Rắn, con Ngựa, con Dê, con Khỉ, con Gà, con Chó, con Heo.
Con Rồng là chi thứ 5 trong 12 con giáp.
Sách xưa có ghi rõ về các loại Rồng như sau:
- Rồng có cánh thì gọi là Ứng Long. - Rồng có sừng thì gọi là Cù Long. - Rồng không có sừng thì gọi là Ly Long. - Rồng có vảy thì gọi là Giao Long. - Rồng sống được 500 tuổi thì có sừng. - Rồi sống được 1.000 tuổi thì có cánh. - Rồng chưa bay lên được thì gọi là Bàn Long....
Nhưng, có ai đã từng thấy con Rồng bao giờ chưa?
Thưa chưa, bởi rồng là một con vật không có thực, mà chỉ hiện diện ở trong các huyền sử, huyền thoại, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, tích chuyện dân gian.
Rồng là một linh vật cao quí nhất, đứng đầu 4 loài linh vật là: Long, Ly, Quy, Phụng.
Rồng tượng trưng cho Vua Chúa, cho sự cao quí, sang trọng, cho quyền năng, cho sức mạnh vô địch, cho sự thiện mỹ, cho sự dũng cảm phi thường, cho sự huyền bí linh thiêng, và cho sự nhân hậu, vì Rồng hút nước lên trời, rồi phun nước, làm mưa xuống đất, làm cho mùa màn được màu mỡ xanh tốt.
Tất cả những câu chuyện, vật dụng, ngôi thứ, có liên quan đến rồng, đều là chuyện cao cả, tốt đẹp và hạnh phúc.
Rồng được tin là đem lại sự trường sinh, sung túc, ấm no và an vui cho mọi người.
Các Vua Chúa thời quân chủ, luôn tự xem mình là Rồng.
Và những gì thuộc về nhà vua đều được thêm chữ long vào. Chẳng hạn:
- Long Vương, là Thần biển (Tứ hải Long Vương). - Long Nhan, là mặt của Vua. - Long Bào, là áo Vua mặc, - Long sàn, là giường của Vua nằm. - Long Xa, là xe để Vua đi, - Long Thuyền là ghe xuồng để Vua đi, - Long Mạch là mạch rồng, theo người ta nghĩ: Đây chỗ đất thịnh vượng, nếu cha mẹ được chôn cất ở nơi đó, thì con cháu sẽ làm ăn thịnh vượng, phát đạt, giàu sang. - Long Huyệt là hàm rồng. - Long Phi là rồng bay. - Ngân Long Phi là tiền có hình con rồng bay. - Đền rồng là đền Vua. - Ngai Rồng là Ngai Vua ngự. - Bệ Rồng là bệ để Vua đặt chân khi ngự giá. - Rồng Chầu là rồng chầu chực bên vua khi vua ngự triều.
Ngoài ra, chúng ta thấy có nhiều danh từ nói về rồng:
- Như Múa Rồng, múa Rắn, cây xương Rồng, cây lưỡi Rồng, đậu Rồng, cá Rồng Rồng .. hoặc là duyên cỡi Rồng, để ám chỉ các cô gái lành, gặp được chồng tốt ...
Tại Việt Nam, người ta cũng thích dùng chữ long, để đặt tên cho các công trình, cho các địa danh.
Chẳng hạn: Hàm Rồng, Hàm Long, Long Hải, sông Cửu Long, thành Thăng Long, Long Đổ, (rún Rồng), Long Biên, Vịnh Hạ-Long, Bình Long, Phước Long, Long Thành, Long Khánh, Long Hải, Long Bình, Long An, Long Hồ, Long Mỹ, Thới Long, Vĩnh Long và Long Xuyên, vv...
Hình tượng con Rồng thường được khắc, được chạm trổ một cách công phu và trang trọng, được đặt nơi các kiến trúc văn hóa, trong các cung điện nhà Vua, hoặc ở các nơi công viên công cộng, ở các nơi vui chơi giải trí, hoặc ở những nơi trang nghiêm thờ phượng, như bàn thờ gia tiên, đình, chùa, miếu, đền…
Người Việt chúng ta coi rồng là một vị thần linh, là chủ của nguồn nước, là sự hiện thân của hạnh phúc cho nhà nông.
Rồi, theo quan niệm của người Việt, Rồng thì phải được vẽ, phải được khắc theo đúng tiêu chuẩn này, đó là thân rắn, vảy cá chép, đầu lạc đà, sừng hưu, mắt tôm hùm, bùng con sò, gang bàn chân của con hổ, vuốt móng của chim ưng, mũi, bờm, đuôi của sư tử.
Rồng còn là biểu tượng của học vị tiến sĩ, còn hổ thì tượng trưng cho học vị cử nhân.
Con Rồng được quan niệm là một trong những con giáp hùng mạnh nhất. Cho nên những người mang tuổi con rồng, thường rất là cao thượng, quảng đại, vị tha, thông minh, bền bĩ, và có tài lãnh đạo.
Họ luôn biết chắc là mình muốn gì, và khi đã quyết, thì quyết tâm làm cho bằng được mới thôi.
Hơn thế nữa, người mang tuổi con Rồng thường dễ tạo ảnh hưởng trên các bạn bè, và cũng dễ là trung tâm điểm, gây chú ý trong các sinh hoạt, và trong các cuộc họp mặt giao tế.
Trong văn chương và thi ca Việt Nam, Rồng cũng được nhắc đến khá nhiều.
Chẳng hạn:
- "Rồng bay phượng múa" là ám chỉ những nét chữ viết "lả lướt", bay lượn, uốn khúc thật đẹp, thật mỹ thuật.
- Còn trong nhà đạo, người ta nói, là Thánh Anphongsô, vị Sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, khi giảng thuyết đến lúc hùng hồn, cũng đã có những cử chỉ lả lướt, giống như "rồng bay phượng múa!"
- "Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa" là ám chỉ đến những người, ăn thì rất nhiều, nói thì huyên thuyên, thao thao bất tuyệt, còn khi tra tay vào việc làm, thì lại biếng nhác, làm chẳng đâu ra đâu.
- "Rồng đến nhà tôm", là ám chỉ một kẻ nghèo hèn, mà lại được vinh dự đón tiếp một vị thượng khách, hay một vị khách quí đến nhà.
- "Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa", đó là câu tục ngữ ca dao, diễn tả kinh nghiệm của các nhà nông khi làm ruộng.
- "Rồng vàng tắm nước ao tù, người khôn ở với người ngu bực mình": Rồng vàng là giống quý, nên sẽ không bao giờ lại đi tắm nước đục ở các ao tù. Cũng vậy, người khôn ngoan, mà phải chung sống với những kẻ ngu đần, thì rõ thật là "bực mình".
- "Rồng nằm bể cạn phơi râu, mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi": Con rồng thân hình thì to lớn, cho nên khi nằm phơi nắng, thì ai cũng trông thấy. Tương tự như thế, những lời nói dối, thiếu thành thực, nếu có giấu giếm khúc đầu, thì thế nào, rồi cũng lòi khúc đuôi ra, nghĩa là sự thật rồi sẽ chẳng giấu được ai đâu.
Đây là lời nhắc nhở chúng ta, hãy cố gắng mà sống chân thực, theo như Chúa Giêsu đã từng dạy, trong Mt 5,37:
"Có thì phải nói có, không thì phải nói không. Còn thêm điều, đặt chuyện là do ma quỉ mà ra".
Ngoài ra, năm con Rồng, mà nếu ta không nhắc đến chuyện “Con Rồng Cháu Tiên”, thì phải kể là một thiếu sót lớn:
Tích xưa kể lại rằng:
Lạc Long Quân là vị thần của vùng biển, là con trai của Kinh Dương Vương và Long Nữ (con gái của Long vương), có thân hình một con rồng, sức khoẻ phi thường.
Lạc Long Quân được cha trao cho nhiệm vụ cai quản miền Lĩnh Nam, diệt trừ yêu quái và dạy dân chúng trồng lúa nước, nấu cơm, đốn gỗ làm nhà.
Còn Âu Cơ, là con gái của thần Đế Lai, là tiên nữ ở trên trời.
Khi hai người gặp nhau, thì đã kết duyên với nhau. Bố rồng, mẹ tiên đã ăn ở với nhau, và sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành 100 con trai.
Trong cuộc sống hôn nhân, hai vợ chồng luôn có nhiều xung khắc, bất đồng, nên một hôm, Lạc Long Quân mới nói với Au Cơ:
“Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, Thủy và Thổ, luôn tương khắc với nhau, nên không thể nào sống lâu bên nhau được”.
Thế là, hai người đành thỏa thuận chia con ra, 50 con theo cha về biển, 50 con theo mẹ về núi.
Họ đã chia nhau, để cai quản các vùng, các miền.
Khi chia tay từ biệt nhau, hai vợ chồng đã hẹn ước: Sau này, nếu có gặp phải nguy hiểm nào, thì báo cho nhau hay, để cứu giúp lẫn nhau.
Trăm người con trai đó đã tỏa đi khắp các nơi, trở thành tổ tiên của người Bách Việt.
Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua Đất Văn Lang, lấy hiệu là Hùng Vương.
Con trai của vua thì gọi là Quan Lang, con gái của vua thì gọi là Mỵ Nương.
Ngôi vua nhiều đời nối tiếp nhau, được gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời.
Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, mà dân tộc Việt Nam, đã nhận mình là dòng giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên.
Lạy Chúa, câu chuyện “Lạc Long Quân và Âu Cơ”, tuy chỉ là một truyền thuyết mà thôi. Nhưng chúng con rất hãnh diện về nguồn gốc dân tộc của chúng con.
Dịp năm mới đang đến, năm Giáp Thìn 2024, chính là dịp để nhắc nhở chúng ta hãy sống sao cho xứng đáng là "con Rồng cháu Tiên".
Nghĩa là chúng con phải cố gắng sống nhân ái, sống bao dung, giúp đỡ lẫn nhau, biết đoàn kết yêu thương nhau, biết tổ chức cuộc sống gia đình và xã hội, sao cho hài hòa, để mọi người Việt Nam chúng con trong năm mới này, được thêm ấm no, được thêm hạnh phúc, hầu xứng danh là “Con Rồng Cháu Tiên”.
Mà trên hết, nguồn gốc của chúng con là từ Thiên Chúa, bởi mọi sự trong trời đất vũ trụ này, đều là do Thiên Chúa tạo dựng nên, cho nên, chúng con quyết cố gắng trong năm mới này, sẽ sống xứng đáng hơn nữa là con hiếu thảo đích thực của Chúa, là Cha chúng con ở Trên Trời.
Xin Chúa giúp chúng con. Xin Chúa chúc lành cho cho chúng con, và xin Chúa cũng chúc lành cho mọi công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này, được nhiều thuận lợi, được tiến triển một cách tốt đẹp. Amen.
Để tạo dựng trời đất, Thiên Chúa chỉ cần “phán một lời": “Hãy có ánh sáng.”, liền có ánh sáng. (St 1,3)
Nhưng để cho Con Thiên Chúa đi vào thế giới loài người hầu cứu độ loài người, thì xem ra Thiên Chúa vất vả hơn nhiều:
- Phải chuẩn bị xa, chuẩn bị gần, chuẩn bị một dân riêng, chuẩn bị những người báo trước, chuẩn bị người Tiền Hô, để rồi tới phút cuối, còn phải sai sứ giả đến ngỏ lời với hai “nhân vật vô danh” ở Nadarét, nhưng lại cực kỳ quan trọng:
Đó là cô thôn nữ Maria và anh thợ mộc Giuse.
Sứ giả không chỉ ngỏ lời, mà còn phải “uốn ba tấc lưỡi” thuyết phục, giải thích cặn kē, dù là trong giấc mộng, để có được lời ưng thuận...
“Này ông Giuse, con cháu Đavit, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang, là do quyền năng Chúa Thánh Thần.”
Đó là cách Thiên Chúa cứu độ con người:
Ngài trân trọng, mời gọi con người cộng tác với Ngài một cách có ý thức và tự do, chứ không phải như những “con rối".
Chương trình cứu độ con người cho đến hôm nay vẫn chưa hoàn tất, và Thiên Chúa vẫn tiếp tục đến gō cửa từng người, Ngài thầm thì với bạn cả trong ... giấc mơ!
Ngài cần thêm một tấm lòng. Ngài cần thêm một bàn tay, để Con Thiên Chúa tiếp tục đi vào thế giới loài người, mang lại cho con người ơn tha thứ, sự sống, bình an, yêu thương và niềm vui trọn vẹn.
Ngài muốn là Đấng Em-ma-nu-el trong lòng bạn, trong gia đình bạn và giữa những vòng tay kết nối yêu thương chung quanh bạn.
“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 1,23)
Gia đình em Cécilia cư ngụ ở mạn Bắc nước Ý, trong một xóm lao động nghèo nàn.
- Ba em là một công nhân, cho nên từ sáng sớm, đã phải đến sở làm việc, và mãi tới 8 - 9 giờ tối mới trở về nhà.
Chính vì thế, mà chẳng mấy khi Cécilia gặp được ba.
- Còn mẹ thì lo việc nội trợ và làm nhiều việc phụ nữa, để kiếm chút ít thêm vô ngân quỹ gia đình.
Bà rất bác ái, và rất đạo đức.
Tuy kinh tế của gia đình chẳng sung túc gì, nhưng nhà có gì, thì bà cũng đều san sẻ cho bà con lối xóm. Ai đau ốm, bà cũng biếu thuốc men, áo quần cho kẻ rách rưới, bà cũng bỏ giờ ra để khâu vá hộ, nhà nào có nhu cầu đến bà, thì bà cũng cố đem hết khả năng ra để giúp đỡ. Cả làng xóm, ai ai cũng đều quý mến bà, đều tấm tắc khen bà là người hiền lành, phúc hậu.
- Em bé Cécilia mới được 6 tuổi đầu, mà đã học cấp 1. Em rất hãnh diện về mẹ và cảm thấy mình sống trong một gia đình hạnh phúc, được mẹ yêu quý, mến thương.
Em Cécilia học ở trường đạo của giáo xứ, nên em cũng được huấn luyện thêm gáo lý, tìm hiểu kinh thánh, học hỏi việc sống Lời Chúa.
Em cũng đã từng bị xúc động, vì thấy Chúa Giêsu cũng bị hành hạ, bị sĩ nhục, … nhất là bị bỏ rơi, trong những con người nghèo khó, bị áp bức, đau khổ. Vì Chúa đã tự đồng hóa mình với họ…
Em rất ngoan và rất thường hay chia sẻ kinh nghiệm sống với các bạn bè, những gì em đã học được.
Một hôm, thật bất ngờ, như một gáo nước lạnh tạt vào mặt, do một đứa bạn nói:
"Này Cécilia, mẹ mày thực tốt, nhưng bà thì lại khốn khổ vô cùng."
- Sao thế?
- Mày đừng tưởng gia đình mày hạnh phúc: Này nhá, bố mày đêm nào về đến nhà cũng đều trong tình trạng say xỉn, be bét. Ông đánh đập chửi mắng mẹ mày, hàng xóm, nhà nào cũng nghe. Mày không tin, thì cứ rình thử mà xem!
Câu nói đó như sét đánh vào tai Cécilia... bao nhiêu giấc mơ xinh đẹp về gia đình mình, phút chốc đã tan tành sụp đổ. Tất cả những hãnh diện xưa nay, bây giờ đã trở thành tủi nhục.
Quá xấu hổ với bạn, Cécilia đành cúi mặt làm thinh.
Tối hôm ấy, mẹ Cécilía cho em ăn cơm sớm, để em có thời giờ học bài, rồi bà đưa em lên gác.
Đọc xong kinh tối với con, bà ôm hôn con, chúc con ngủ ngon, rồi bà đắp chăn cho con, rồi nhè nhẹ xuống nhà làm việc, đợi chồng về cùng ăn cơm một thể.
Nhưng đêm hôm ấy, Cécilia chẳng tài nào ngủ được, bởi em quyết không ngủ, để xem câu chuyện các bạn nói hồi chiều có đúng không.
Em cứ trằn trọc, thao thức, cho đến khi tiếng chuông gọi cửa vang lên. Cécilia nghe rõ tiếng mẹ ra mở cửa.
Vứt chăn cách mau lẹ, em rón rén bước nhẹ từng bước đi xuống thang gác, nép kỹ sau bức màn và hồi hộp theo dõi...
Một cảnh tượng hãi hùng đang diễn ra trước mặt Cécilia: ba em thi đầu bù, tóc rối, hơi thở rặc toàn mùi rượu.
Ông ném mạnh mũ và áo xống xuống nền nhà, bà mẹ dịu dàng thu nhặt lên, cất vào tủ, vui vẻ dọn bàn, mời chồng ăn tối.
Đôi mắt ông đỏ ngầu, ông trợn trừng nhìn bà, rồi chê tới chê lui, rồi tuôn ra hằng loạt lời mắng chửi như điên.
Bà mẹ cúi mặt làm thinh, vừa ăn, vừa khóc.
Lát sau, ông lùa nguyên cả mâm cơm xuống nền nhà, chén bát vỡ tan tành, đồ ăn chảy lênh láng ....
Cũng chưa vừa ý, ông còn tặng vợ những cú đá tàn nhẫn ...
Sau bức màn, Cécilia chết lịm.
Em thầm thì: "Thôi đúng rồi, tụi bạn đâu có nói oan.... cả lối xóm, mọi đều biết cả .... nhục nhã quá!"
Gượng mình đứng dậy, Cécilia rón rén bước lên gác.
Hôm sau, bi kịch ấy lại tái diễn trước mắt Cécilia ...
Tuy thế, sáng nào, Cécilia thấy mẹ cũng vui tươi, nén lòng, lao vào công việc phục vụ đàn con nhỏ.
Riêng Cécilia thì tâm thần bấn loạn, lòng thì đau xót.
Em suy nghĩ, cầu nguyện, nhớ lại lời Chúa và thương mến mẹ vô cùng. Thấy bà, tuy đau khổ vì chồng, nhưng vẫn một mực thương yêu, trọng kính, phục vu...
“Đúng là Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trong ba, trong mẹ”. Cécilia xác tín được điều đó.
Em băn khoăn, suy nghĩ hoài, nhưng chẳng biết làm sao. Em cầu nguyện, xin Chúa giúp.
Cuối cùng, Chúa đã soi sáng cho em một diệu kế rất hay.
*****
Từ đó, tối nào, Cécilia cũng nằm thức đợi ba về.
Vừa nghe tiếng chuông, em liền ra cổng đón ba, cất áo mũ cho ba. Vừa kéo ghế cho ba ngồi, rồi em quay sang giúp mẹ dọn bàn.
Trong suốt bữa ăn, em cứ ngồi kế bên ba, ríu rít kể những chuyện vui ở trường, hỏi thăm ba về công việc ở sở.
Thoạt đầu ba em rất lấy làm lạ, càu nhàu khó chịu, nhưng dần dần ông cũng đành chịu thua con, nhưng trong lòng cũng cảm thấy vui vui...
Có lúc, Cécilia đứng giữa nhà, hát cho ba nghe các bài hát ở trường em, ông thích thú lắm.
Bầu khí gia đình ngày càng nhẹ nhàng, dễ chịu hơn.
Mỗi lần ông bảo: "Cécilia đi ngủ đi, để sớm mai còn dậy sớm đến trường".
Cécilia đều nũng nịu: "Con thương ba nhọc mệt suốt ngày, con muốn ngồi mãi với ba".
Tuy vẫn còn ngà ngà say, ông cũng lấy làm cảm động, vì câu nói đơn sơ của con, đoạn choàng tay ôm hôn con một cách âu yếm.
*****
Ba tháng trôi qua, bi kịch ngày xưa đã lui vào dĩ vãng.
Một hôm như thường lệ, ba Cécilia bảo:
"Đi ngủ đi, mai còn dậy sớm để đến trường mà con!"
- "Ba chẳng biết. Con thức với làm chi, cho hại sức khỏe"
- "Không đâu ba ạ. Nếu ba má thương con, ba má cho phép con được nói điều này. Ba đừng la mắng con nha !!"
- "Ừ, nói đi ba má nghe đây".
Cécilia đánh bạo thuật lại cách đơn sơ, những xúc động của em về sự hy sinh, vất và, chịu đựng của mẹ, và những tủi nhục trước những câu nói mỉa mai, chê bai của các bạn bè. Và em kể tiếp, hằng đêm, em lén đứng sau bức màn che, em đã chứng kiến tất cả...
*****
Cécilia thú thực là em thương ba má lắm. Em thấy Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong ba trong má, vì thế em muốn mang Chúa đến cho ba má, yêu thương Chúa, như đang bị bỏ rơi trong ba má ...
Càng nghe, hai ông bà càng xúc động. Họ mừng mừng, tủi tủi, không ngờ con bé khôn ngoan, đạo đức đến như vậy.
Ba má Cécilia ôm siết lấy con, rồi nghẹn ngào nhìn nhau...
Lát sau, ba của Cécilia mới thốt nên lời:
"Từ nay, con phải đi ngủ sớm nghe không? Ba hứa với con: ba và má sẽ hòa thuận lại với nhau, sẽ thương yêu nhau. Ba má cũng sẽ tìm hiểu Kinh Thánh và sống lời Chúa như con. Ba má thương yêu con lắm!"
*****
Phương tiện độc nhất để biến đổi tâm hồn con người là yêu thương, yêu thương như Chúa yêu.
- Vì yêu, Chúa Giêsu đã bỏ Trời, xuống trần gian, sinh ra nơi hang lừa máng cỏ. - Vì yêu, Chúa đã hòa mình sống với con người, sống giữa con người, sống như con người. - Vì yêu, Chúa đã chọn con đường thập giá, chịu mọi cơ cực, chấp nhận một cái chết thật nhục nhã đau thương trên thánh giá, để đền tội thay cho con người, để làm hòa con người với Thiên Chúa Cha, để con người được làm con Thiên Chúa, và sẽ được sống hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa.
17 tuổi, một mình đi bộ 600 cây số từ Áo đến Đức. Rồi đi tiếp 1.200 cây số nữa từ Đức đến Rôma, để xin được vào dòng Tên như lòng mong ước:
"Tôi được sinh ra là để sống cho những gì cao quý hơn".
Đó là thánh Sta-nis-lao Kost-ka (1550-1568), một tập sinh dòng Tên, qua đời khi vào nhà tập chưa được một nǎm!
*****
Cūng như Sta-nis-lao Kost-ka, tất cả các thánh Tử đạo Việt Nam, mà Giáo Hội Việt Nam mừng kính hôm nay, đều đã chọn “sống cho những gì cao quý hơn".
"Sống cho những gì cao quý hơn”, khi chọn rời bỏ quê huơng đi cả ngàn dặm, sang Việt Nam rao giang Tin Mừng, và rồi hiến dâng mạng sống, để làm chứng cho lời rao giảng ấy, như một Borie Cao, một Her-mo-sil-la Liêm, một Cu-é-not Thể....
“Sống cho những gì cao quý hơn”, khi nhất định không man trá, không giả bộ bước qua thập giá, dù chỉ là “đi vòng quanh thập giá”, để làm chứng cho đạo Chúa, như một tá điền Au-gus-ti-nô Mới, một tân tòng Stê-pha-nô Vinh, một thợ may Tôma Đệ....
"Sống cho những gì cao quý hon” khi chọn “Lấy tình yêu đáp trà tình yêu, dâng mạng sống, báo đền sự sống” như một Thầy giảng Anrê Phú Yên.
"Sống cho những gì cao quý hon”, khi ở trong tù, bị tra tấn đau đớn, nhưng vẫn khuyên nhủ con cái: “Hãy vững tâm giữ đạo, sáng tối đọc kinh xem lê, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá đến cùng....”, như một bà Anê Lê Thị Thành.
Hằng ngày, mỗi khi dám "lội ngược dòng” để chọn sống cho những gì cao quý hơn”, đó là bạn đang đi con đường các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi, dù không đổ máu đào.
Nếu hôm nay, bạn “không xấu hổ” sống lời Thầy Giêsu, thì sẽ đến ngày, Thầy Giêsu sẽ hãnh diện “khoe” bạn, trước mặt toàn thể các thiên thần, và trước mặt cả... Satan như trường hợp Ông Gióp:
"Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Một con người vẹn toàn...”(G 2.3).
"Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy."(Lc 9,24)
Chuyện kể rằng: Trong một buổi họp phụ huynh, cô giáo mầm non nói với một người mẹ:
– Con trai chị có bệnh “tăng động”, cháu không ngồi yên trên ghế được 3 phút.
Trên đường trở về nhà, cậu bé hỏi mẹ cô giáo đã nói gì. Người mẹ đáp:
– Cô giáo nói là trước đây con trai mẹ không ngồi trên ghế được một phút, giờ con đã ngồi được 3 phút rồi, con có tiến bộ.
Cậu bé rất vui và tối hôm đó, cậu bé tự mình ăn được hai chén cơm.
Vài năm sau, khi cậu bé ấy vào tiểu học. Cô giáo dạy toán nói với người mẹ:
– Cả lớp có 50 em, con chị xếp thứ 48, có thể con chị có một chút vấn đề về trí tuệ.
Trở về nhà, người mẹ nói với con:
– Cô giáo nói: chỉ cần con chú ý một chút, con sẽ xếp trước 48 bạn.
Nghe mẹ nói vậy, ánh mắt cậu bé vụt sáng. Từ hôm đó, tối nào cậu bé cũng cố gắng làm thêm vài bài tập toán, rồi mới đi ngủ.
Khi cậu bé lên cấp hai, thầy giáo lại than phiền với người mẹ:
– Theo kết quả học tập hiện nay của con chị, thì việc thi vào trung học phổ thông sẽ khó đấy!
Trên đường về, người mẹ xoa vai con trai và nói:
– Thầy giáo nói, chỉ cần con nỗ lực hơn nữa, rất có hy vọng là con sẽ đỗ vào trường công lập.
Với cõi lòng tràn ngập niềm vui và hy vọng, cậu bé chăm chỉ đến các lớp luyện thi, không vắng một buổi nào.
Rồi đến ngày cậu tốt nghiệp trung học phổ thông, và đến khi trường đại học có thông báo kết quả thi, cậu bé từ trường trở về, mang theo giấy thông báo trúng tuyển một trường đại học danh tiếng, đưa cho mẹ, nước mắt rưng rưng:
– Mẹ ơi, con không phải là một đứa trẻ thông minh, nhưng mẹ luôn ở bên cạnh cổ vũ, động viên, và ghi nhận sự cố gắng của con. Nhờ mẹ mà con đã đạt được mơ ước của mình, một cách hết sức kỳ diệu.
Lời Bàn: - Khích lệ con cái là điều mà những người cha, người mẹ cần phải quan tâm thực hiện. - Và những người con cũng cần lắng những lời nói và những cử chỉ khích lệ trìu mến của cha mẹ mình.
Ngày xửa ngày xưa, có một anh tiều phu nghèo, cha mẹ bệnh nặng nên mất sớm, anh phải sống mồ côi từ nhỏ. Tài sản duy nhất anh có chỉ là một cây rìu (búa) bằng sắt.
Hàng ngày, anh xách lưỡi búa vào rừng, để đốn củi bán lấy tiền, sống cho qua ngày.
Ngay tại bìa rừng có một con sông nước chảy rất xiết, ai đó mà lỡ trượt chân rơi xuống sông, thì kể là tiêu đời, bởi rất khó mà bơi vào bờ được.
Rồi một ngày nọ, như bao ngày bình thường khác, anh tiều phu vác búa vào rừng đốn củi. Khi trờ về, hôm đó củi hơi bị nhiều, trên vai anh vác có phần nặng. Tuy rất cẩn thận, nhưng khi đi qua cầu, chân anh bị vấp ở đầu nối của cầu, thế là cái búa bị văng xuống sông.
Nhìn dòng sông nước đang chảy quá xiết, nên tuy biết bơi, nhưng anh tiều phu cũng không dám xuống sông, để tìm lưỡi búa.
Thất vọng, không biết làm gì, anh tiều phu bèn ngồi bên bờ sông mà khóc rủ rượi, vừa khóc anh vừa than thở về số phận hẩm hiu của mình.
*****
Bỗng đột nhiên, từ đâu xuất hiện một cụ già, râu tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ, xuất hiện trước mặt anh.
Ông cụ nhìn anh và hỏi:
- Con đang có chuyện gì, mà khóc lóc, buồn bã như vậy?
Anh tiêu phu ngước lên, nhìn ông cụ và trả lời:
- Thưa cụ, bố mẹ con mất sớm, con sống mồ côi từ nhỏ, cả gia tài của con chỉ có duy nhất một cây búa mà bố mẹ để lại. Nhờ có cái búa đó, mà ngày ngày con vào rừng, đốn củi bán kiếm sống qua ngày được. Vậy mà, nó vừa bị rơi xuống sông, con không thể nào lấy nó lên được. Sau này, con không biết lấy gì, để kiếm sống cho qua ngày được. Cho nên con buồn lắm cụ ạ!
- Ta tưởng chuyện gì lớn. Vậy con đừng lo, ta sẽ lặn xuống sông tìm chiếc búa đó lên giúp con.
Vừa dứt lời, ông cụ lao xuống dòng nước đang chảy xiết. Một lúc sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước, tay cầm một cây búa bằng bạc, sáng loáng, và hỏi anh tiều phu nghèo:
- Đây có phải cây búa, mà con đã đánh rơi không?
Anh tiều phu nhìn lưỡi búa bằng bạc, thấy đó không phải là cây búa của mình, liền lắc đầu và bảo cụ:
- Thưa cụ, đó không phải lưỡi búa của con. Lưỡi búa của con bằng sắt cơ ạ.
Vậy là, ông cụ lại lao mình xuống dòng sông, để tìm lưỡi búa cho chàng tiều phu.
Lần này, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước, tay cầm cây búa bằng vàng và cụ hỏi chàng tiều phu.
- Đây có phải là lưỡi búa của con đánh rơi không?
Anh tiêu phu nhìn vào chiếc búa vàng sáng chói, liền lắc đầu và bảo:
- Đây cũng không phải lưỡi búa của con, thưa cụ.
Lần thứ ba, ông cụ lại lao mình xuống sông. Lần này khi trở lên, trên tay ông cụ cầm là cây búa bằng sắt.
Ông liền hỏi:
- Đây có phải là chiếc búa của con không?
Thấy đúng là lưỡi búa quen thuộc của mình, chàng tiều phu mừng rỡ, reo lên sung sướng:
- Dạ thưa cụ, đây mới là lưỡi búa của con ạ. Con cảm ơn cụ đã tìm hộ lưỡi búa cho con.
Ông cụ đưa cho chàng tiều phu chiếc búa bằng sắt và khen:
- Con quả thật là một người trung thực, không tham lam, không ham lợi lộc.
Bây giờ, thí ta tặng cho con cả 2 hai lưỡi búa bằng vàng và bằng bạc kia nữa.
Mong sau này, cuộc sống của con đỡ vất vả hơn. Đây là món quà ta tặng ban cho con, con cứ vui vẻ nhận.
Anh chàng tiều phu vui vẻ nhận lấy hai lưỡi búa mà ông cụ tặng, rồi cảm tạ.
Liền sau đó, ông cụ hóa phép, rồi biến mất.
Lúc này, anh tiều phu mới biết là mình vừa được ông tiên đến giúp đỡ, cứu khổ mình.
Ai sinh ra cũng đều có mắt! Nhưng không phải hể có mắt là nhìn thấy! Bởi thế giới này có biết bao người có mắt, mà lại mù: Mù bẩm sinh, mù do bệnh tật, do tai nạn...
Có “đau mắt", mới hiểu được nỗi khát khao của anh mù ǎn xin ở thành Giê-ri-khô.
Anh đã phải gồng gân cổ lên để kêu, để gào, át cả đám đông:
"Lạy ông Giêsu, Con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!”
Bởi anh khát khao nhìn thấy:
"Lay Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được."
Và nỗi khát khao của anh đã được Thầy Giêsu lấp đầy.
*****
Thế giới hôm nay không chỉ có những người mù mắt, mà còn biết bao thứ “mù” khác nữa: Mù chữ, “mù vi tính”, “mù ngoại ngữ”, v.v...
Nhưng có một thứ mù đáng sợ hơn, đó là “mù quáng”: "mù”, mà cứ cho rằng mình “sáng” và “vênh vang” dẫn đường cho những người khác!
Hiện tại, bạn đang "mù” hay "sáng” đây?
Nếu bạn không thể thấy Chúa trong cuộc đời mình, không thể nhận ra Chúa đang ở với mình, nơi những người chung quanh, qua từng biến cố, thì coi chừng, có thể bạn dang bị... “mù” đấy!
Nếu bạn hoàn toàn “vô cảm” với những người khổ đau, bệnh tật, nghèo đói chung quanh bạn, thì coi chừng, có thể bạn đang trong tình trạng..."mù”!
Ban có thấy khát khao như anh mù thành Giê-ri-khô không?
- “Lạy Thầy, xin cho con nhìn thấy được!”
- "Anh nhìn thấy đi, Lòng tin của anh đã cứu chữa anh"(Lc 18.12)
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe những gì tôi chứng kiến và cảm nhận trong đêm Noel đầu tiên ấy.
Tôi có thể giới thiệu bằng tên của mình, nhưng tên tôi sẽ không nói lên được gì. Các bạn sẽ thấy gần gũi tôi hơn, nếu tôi bảo rằng: Chính tôi là đứa con gái chủ quán trọ, mà ông Giuse và bà Maria, đến xin tá túc đêm đó.
Năm ấy, tôi độ 7, 8 tuổi.
Tôi đang ở vào lứa tuổi vừa đủ trí khôn để hiểu rằng: thế giới người lớn là một thế giới, mà tôi không thể nào hiểu nổi.
Cha mẹ tôi suốt ngày bận bịu với những người lạ mặt. Họ đến, ăn uống, ca hát, gây gỗ một vài đêm, rồi ra đi.
Cha mẹ tôi nhẹ nhàng tươi cười với họ, kể cả những khi họ tỏ ra thô lỗ, cộc cằn.
Sau những lần như vậy, cha mẹ tôi lại giận dữ cau có sau lưng họ, và trút lên đầu tôi những bực dọc vô lý đó.
Có lần mẹ tôi thấy tôi khóc vì oan ức, bà an ủi tôi bằng cách cho tôi biết rằng: cha mẹ cần đến những người ấy, vì họ có tiền, cha mẹ cần có thật nhiều tiền để cho tôi vui sống.
Tôi không hiểu gì nhiều... Tôi chỉ thấy rằng cha mẹ ít khi tươi cười với tôi, và tôi chẳng có ai để trò chuyện.
Tóm lại, từ khi 7 tuổi, tôi đã là một đứa bé hiểu được quá sớm rằng mình đang thiếu một cái gì đó, một cái gì thật căn bản để tạo ra niềm vui trong cuộc sống, và cái gì đó, chắc chắn không phải là tiền.
Cuộc sống của tôi trôi đều đều như thế cho đến đêm hôm ấy.
*****
Những ngày vừa qua, lữ khách đến quán trọ của chúng tôi tấp nập hơn, xa lạ hơn. Hình như họ đã đổ xô từ khắp nơi về đây. Cha mẹ tôi bận rộn suốt ngày. Cha mẹ tôi càng niềm nở với khách lạ bao nhiêu, thì càng gắt gỏng với tôi bấy nhiêu.
Vì thế tối hôm đó, tôi lánh mặt trên gác một mình. Đã hơn 8 giờ tối rồi, mà khách lạ vẫn còn tuôn đến đông thât đông.
Mẹ tôi dọn cho khách ăn trong nhà, còn cha tôi đứng ở cửa mời khách. Cha tôi chỉ nhận vào quán trọ những người khách có dáng giàu sang, còn những người có vẻ nghèo hèn thì ông khéo léo xua đuổi.
Tôi cảm thấy buồn vô hạn, khi nhìn thấy những người khách nghèo cúi mặt quay đi.
Bỗng nhiên tôi chú ý đến hai người nãy giờ đứng thật lâu trong bóng tối. Họ có vẻ nghèo nàn và mệt mỏi. Hình như họ là hai vợ chồng trẻ, nhưng chỉ có một con lừa cũng mệt mỏi như họ. Có lẽ họ đã đi từ nơi nào đó xa lắm. Họ do dự một lúc lâu, rồi người chồng bước đến gặp cha tôi.
Ông ta nói điều gì đó tôi không nghe rõ. Cha tôi nhìn người khách từ đầu đến chân, rồi trả lời:
- Xin cảm phiền nhé, quán tôi hết chỗ rồi.
Người đàn ông đưa mắt nhìn cha tôi, với cái nhìn van xin, tay chỉ về phía người vợ, ông ấp úng một câu gì đó.
Tôi nghe cha tôi nói tiếp:
- Tôi rất thông cảm, nhưng không biết làm sao. Vợ ông không đủ sức đi xa hơn nữa, nhưng quán tôi quả thật không còn chỗ.
Tôi muốn chạy ngay xuống và la lên với cha tôi rằng: Quán vẫn còn chỗ. Rằng tôi sẵn sàng xuống bếp ngủ đêm nay, dành phòng cho hai vợ chồng ấy. Nhưng tôi biết, có nói cũng vô ích, vì chắc chắn cha tôi sẽ nạt ngang rằng: con nít không được xen vào chuyện người lớn.
Người đàn ông không nói thêm gì nữa, nhưng tôi thấy đôi mắt của ông ta long lên trong bóng đêm.
Trước cảnh đó, mắt tôi bỗng nhoà đi trong màn lệ, tôi không còn nghe gì, không còn thấy gì nữa. Khi tôi trấn tĩnh lại, để có thể nhìn rõ mọi vật, thì tôi thấy người đàn ông dắt lừa chậm rãi bước về phía chuồng bò.
Các bạn phải hiểu là tối hôm đó, tôi không tài nào chợp mắt được. Trằn trọc mãi cho tới khuya, tôi khẽ bước xuống giường và lén ra khỏi nhà. Tôi không dám sờ soạng tìm áo lạnh, vì sợ gây tiếng động làm cha mẹ tôi thức giấc. Tôi vẫn nhát gan, nhất là trước bóng đêm, nhưng không biết sao đêm nay có một cái gì thúc bách, khiến tôi không thể nào nằm yên được. Tôi ra khỏi nhà, lần mò xuống chuồng bò, xem hai vợ chồng lúc tối ngủ thế nào.
Nhưng kìa, họ vẫn còn thức, và chuồng bò lại rực sáng như ban ngày, sáng hơn cả phòng ăn trong quán trọ của chúng tôi.
Lạ một điều, là trong chuồng bò không có ngọn đèn nào cả, chỉ có một đám lửa rơm sắp tàn.
Rồi vẳng nghe ở đâu đó có một loại âm thanh nhẹ nhàng như tiếng suối, như tiếng chim, như tiếng gió vờn trên hoa dại mùa xuân. Một âm thanh tôi chưa bao giờ nghe qua. Ngỡ mình ngủ mê, tôi thử cắn vào tay, vẫn cảm thấy đau. Nhưng sao tôi vẫn không cảm thấy lạnh, cũng không cảm thấy sợ hãi.
Nhìn vào trong, tôi thấy người phụ nữ ngồi bên máng cỏ, trên đó có một cậu bé đang nhắm mắt ngủ yên, bên cạnh, người chồng đưa tay vuốt ve đầu con lừa, chăm chú nhìn cậu bé con. Đúng là một cậu bé. Hồi tối, tôi đâu có thấy cậu bé này!
Tôi chẳng có thì giờ suy nghĩ, vì cậu bé đã thức giấc. Cậu đưa mắt nhìn mẹ và mỉm cười. Người vợ đưa mắt nhìn chồng, rồi cả hai cũng mỉm cười. Và điều lạ đã xảy ra: con lừa cũng mỉm cười.
Tôi cam đoan với các bạn là lừa cũng biết cười, vì rõ ràng tôi nhìn thấy. Chuồng bò như rạng rỡ vì những nụ cười ấy.
Và tôi chợt hiểu rằng: sở dĩ cuộc đời tôi u buồn, vì tôi chưa hề đón nhận được một nụ cười nào như thế.
Đồng thời tôi cảm thấy sung sướng, và biết rằng vẫn có những nụ cười chân tình trên cuộc đời này.
Tôi đứng đó thật lâu, rồi im lặng quay trở về phòng. Cha mẹ tôi vẫn còn ngủ. Chỉ có một mình tôi đang thức trong căn nhà này. Tôi có cảm giác cha mẹ tôi đã ngủ lâu lắm rồi.
Vì ngủ mê, nên không biết rằng có một thứ nghèo, đáng sợ hơn nghèo tiền, nghèo bạc, đó là nghèo tình thương.
Vì ngủ mê, cha tôi không còn chỗ trong lòng mình để chấp nhận người khác, nên ông bảo rằng quán trọ không còn chỗ.
Và chỉ có những người ngoài kia là thức. Vì thức tỉnh, nên cho dù trong chuồng bò giá buốt, họ vẫn có nụ cười trên môi. Vì họ thức, nên mới đánh thức tôi đêm nay.
Và vì tôi thức, nên tôi nghĩ rằng: Đã đến lúc, tôi phải tìm cách đánh thức người khác, bắt đầu từ cha mẹ tôi.
Ngày xửa, ngày xưa, có một cậu bé tên là Tích Chu. Bố mẹ cậu mất từ sớm, nên Tích Chu ở với bà.
Hàng ngày bà phải làm việc quần quật để kiếm tiền nuôi Tích Chu. Có thức ăn gì ngon, bà cũng đều nhường hết cho Tích Chu. Hàng đêm, bà thường thức để quạt cho Tích Chu ngủ.
Thấy bà thương Tích Chu nhiều đến như vậy, có người đã nói với bà:
- Bà ơi, lòng bà thương Tích Chu cao hơn trời, rộng hơn biển, sau này lớn lên, thể nào Tích Chu cũng sẽ không quên công ơn của bà đâu.
Thế nhưng, khi lớn lên, Tích Chu chẳng hề thương bà. Bà thì làm việc vất vả. Còn Tích Chu chỉ biết suốt ngày lêu lỏng, rong chơi với bạn bè.
Do làm việc mệt nhọc, ăn uống kham khổ, nên bà đã bị ốm. Bà lên cơn sốt cao, nhưng chẳng có ai bên canh để trông nom.
Một buổi trưa nóng nực, cơn sốt lên cao, bà khát nước, liền gọi Tích Chu:
- Tích Chu ơi, cho bà xin ngụm nước. Bà khát khô cả cổ rồi.
Bà gọi một lần, rồi hai lần, ba lần, nhưng không thấy Tích Chu đâu.
Khi Tích Chu về nhà, thì cũng là lúc bà hóa thành con chim và vỗ cánh bay lên trời.
Tích Chu hốt hoảng nhìn theo và kêu than, khóc lóc:
- Bà ơi, bà đừng bỏ cháu, bà ơi!
Con chim liền cất tiếng:
- Cúc cu… cúc cu… cúc cu… Muộn rồi cháu ạ. Bà không thể trở lại như trước được nữa rồi.
Nghe thấy tiếng chim nói, Tích Chu òa khóc càng thê thảm hơn. Lúc này, Tích Chu mới cảm thấy thương bà và vô cùng hối hận.
Trong lúc đó, thì bỗng một bà tiên xuất hiện. Bà tiên bảo Tích Chu:
- Tích Chu à, con hối hận là điều tốt rồi, nhưng nếu con muốn chuộc lại lỗi lầm, và muốn bà có thể trở lại thành người sống với con, thi con hãy đi đến suối tiên, mang nước ở Suối Tiên về cho bà con uống. Nhưng đường lên suối tiên thì xa lắm, lại ghồ ghề, quanh co, khó đi, phải vất vả lắm… con có làm được không?
Cậu bé Tích Chu hết sức mừng rỡ, gật đầu lia lịa. Không chút chần chừ, cậu đã hăng hái, vội vàng lên đường ngay. Đi đến đâu, gặp ai, cậu cũng hỏi, cũng xin chỉ đường. Cậu quyết tâm tìm cho ra suối tiên mới thôi…
Tích Chu chạy mãi, chạy mãi, vượt qua bao nhiêu rừng núi, hiểm trở, thật gian nan. Cuối cùng cậu cũng đến được Suối Tiên. Tích Chu vội vàng lấy nước đầy bình, mang về cho bà.
Về đến nhà, liền gọi to:
- Bà ơi bà! Bà ơi! Cháu mang nước tiên về cho bà đây. Bà mau xuống đây uống đi.
Khi nghe tiếng của Tích Chu, con chim bay tới, và uống nước tiên. Vừa khi con chim uống ngụm nước đầu tiên, thì con chim liền hóa thành bà của Tích Chu, bà trở lại thành người như trước đây. Tích Chu ôm chầm lấy bà và òa khóc:
- Bà ơi! Cháu xin lỗi, cháu biết lỗi rồi ạ. Từ nay, cháu sẽ không ham chơi nữa. Cháu sẽ luôn ở bên cạnh bà và chăm sóc bà.
Và từ đấy trở đi, cậu bé Tích Chu hết lòng yêu thương bà. Hai bà cháu sống bên nhau thật hạnh phúc. Bà cháu sống nương tựa vào nhau thật mặn nồng, thắm thiết.
Lời Bàn:
Đây là bài học quý giá, nhắn nhủ mọi người, đặc biệt là giới trẻ: Chúng ta phải biết yêu thương, quan tâm và chăm sóc những người xung quanh, những người thân yêu, đặc biệt là ông bà, cha mẹ, những người đã dày công nuôi dưỡng, giáo dục ta nên khôn lớn như hôm nay.
Ta gửi lá thư này tới các con với tất cả tình yêu và lòng xót thương vô bờ.
Mùa Giáng sinh đã tới. Mùa của an bình, niềm vui và hy vọng. Ta là hoàng tử hòa bình, từ trời cao đến, để mang hòa bình cho nhân loại; nhưng buồn thay, hơn hai ngàn năm qua, con người chẳng có hòa bình. Họ dùng chiến tranh để giải quyết những bất đồng, tranh chấp, gây tang tóc, đau thương cho nhau. Những đóm hỏa châu của bom đạn hận thù đã che khuất tinh tú và các vì sao trên trời. Nhân loại đang bước đi trong tăm tối không thấy Ánh Sáng.
Năm nay (Giáng Sinh 2023), tại Bét-la-hem, nơi mà Ta sinh ra, mọi sinh hoạt Giáng sinh đều dừng hoạt động. Tại miền đất nơi Con Thiên Chúa giáng sinh năm xưa, người ta đã làm một hang đá giữa đống gạch vụn đổ nát của chiến tranh, và đặt Ta nằm trong máng cỏ ở đó. Ta cảm thông những đau khổ, mà dân lành đang phải gánh chịu vì chiến tranh.
Thế giới hôm nay đang cố gắng lấy tên và hình ảnh của Ta ra khỏi mùa lễ, vì họ muốn thuộc về thế gian, như lời Kinh Thánh đã viết: “Người đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”.
Giáng sinh dần dần không còn là ngày thánh thiêng, để mừng kính sinh nhật của Ta, mà là ngày hội của mua sắm và thương mại.
Con người đang mất niềm tin vào Vị cứu tinh, mà năm xưa cha ông của họ đã mòn mỏi chờ mong.
Họ mau quên, vô ơn, bạc nghĩa chẳng khác gì 10 người phong cùi được chữa khỏi, mà chỉ có 1 người quay trở lại tạ ơn Thiên Chúa.
Họ đến cầu cứu Ta, khi xảy ra biến cố khủng bố khiến hai tòa nhà sụp đổ vào ngày 11 tháng 9.
Họ than khóc ăn năn, kêu cứu tới Ta, khi đại dịch Covid, lấy đi bao sinh mạng con người.
Rồi những thiên tai kinh hoàng liên tục của sóng thần, cháy rừng, lụt lội, bão tố… là những dấu chỉ thời gian, để họ tỉnh thức, mà nhận ra ai có quyền trên sóng gió, bão táp, ai có thể cứu họ, nhưng cũng chỉ hiệu lực trong thời gian ngắn ngủi, và đâu lại vào đó.
Hỡi các con bé nhỏ,
Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời.
Đừng để khi ông Noe vào tàu và trời trút cơn mưa, mới sám hối, ăn năn.
Hãy vững tin vào Ta, vì Ta là Thiên Chúa của lòng nhân từ thương xót.
Nếu các con muốn tặng Ta một món quà, để tưởng nhớ ngày sinh nhật của Ta, thì đây là danh sách niềm mong ước mùa Giáng Sinh của Ta.
Các con chọn một hành động nào đó, như mang một cọng rơm đến máng cỏ sưởi ấm cho Ta, giữa mùa đông giá rét, nơi trái tim con người.
1- Hãy là sứ giả của hòa bình qua việc làm hòa với anh em của mình. Ba vị vua phương đông đi tìm kiếm Ta, họ có trái tim hiệp nhất và hiệp hành với nhau. Họ cùng chung một cái nhìn, để nhận ra một ánh sao dẫn đường tới hang Bêlem.
2- Hãy tìm kiếm Ta ở nơi những người anh chị em nghèo khổ, cô đơn, bệnh tật vì Ta không sinh ra trong nhung lụa, gấm vóc.
3- Hãy thăm viếng Ta nơi các nhà thương, viện dưỡng lão, viện mồ côi, nhà tù… vì tại đây, những ánh mắt mỏi mòn đợi mong và tâm hồn héo hắt đang khát khao.
4- Hãy cho nhau món quà không mất tiền mua là thời gian và nụ cười. Đừng chọn Iphone là thế giới riêng của mình.
5- Hãy cho nhau tình thương, vì nó sẽ được ghi nhớ mãi trong tim và là món quà ngàn năm không phai nhòa của người ở lại.
6- Hãy có lòng biết ơn, vì các con đã nhận lãnh mọi sự cách nhưng không từ Thiên Chúa ban cho, và là người quản lý trung tín.
7- Hãy cho đi, vì cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh. Cho đi là các con đang đầu tư khôn ngoan nhất vào kho tàng không bao giờ mục nát và hư mất.
Đó là niềm mơ ước Giáng sinh của Ta và Ta đặt niềm mơ ước ấy trọn vên nơi trái tim và đôi bàn tay của các con. Ta cảm ơn các con và những ân sủng cùng muôn phúc lành Giáng sinh của Ta sẽ luôn ở cùng các con.
Một người con trai ở bang Texas (Mỹ), đưa cha đi ăn tiệm.
Cha anh là một ngưới lính già, mắc bệnh tay chân run rẩy (Parkinson), trong lúc ăn, làm vương vãi, rơi thức ăn vào người, và rơi đầy xuống đất.
Một vài người trong tiệm tỏ vẻ khó chịu. Người con vẫn thản nhiên, ngồi ăn và trò chuyện với cha.
Đợi ông ăn uống xong, anh đứng dậy, đến bên cha, và nhẹ nhàng nhặt các vụn thức ăn trên áo ông, cầm tay dẫn cha vào nhà vệ sinh, rửa và lau sạch cho cha, chải tóc và đội mũ, sửa lại áo quần và đeo kính lại cho ông.
Trở lại bàn, anh cúi xuống đất lượm sạch những vụn thức ăn, mà cha mình vừa làm rơi vương vãi, không để lại một chút rác nào. Xong xuôi anh mới dìu cha ra quầy trả tiền .
Đột nhiên, một cụ già thực khách ở bàn kế bên, gọi anh lại và nói to: "Này, anh bạn trẻ ơi, anh để rơi lại cái gì đàng kia kìa".
Chàng thanh niên quay lại, nhìn kỹ chỗ cha mình ngồi, rồi nói: "Đâu có gì đâu, tôi đâu có để lại cái gì đâu?"
Cụ già đứng lên, chậm rãi nói lớn tiếng:
"Có, anh vừa để lại một bài học quý giá, về lòng hiếu thảo của một người con, một bài học quý giá cho các con cái, và nhất niềm hạnh phúc cho các bậc cha mẹ!"
Cả tiệm đang ồn ào, bỗng im lặng, mọi người sững lại vài giây, rồi tất cả đều vỗ tay ào ào, vì xúc động.
Những người, mà trước đó đã nhăn nhó và phàn nàn, thì bây giờ ngượng nghịu, vì cảm thấy xấu hổ!
Chủ tiệm ăn cũng xúc động, nên tính giá thật đặc biệt cho hai cha con, và ghi thêm vào tờ biên lai dòng chữ: "Xin cám ơn sự đóng góp của cụ!"
- Còn bạn thì sao? Mỗi khi đi ra đường, thì bạn để lại điều gì?
Có lẽ Bạn đã lâm vào cảnh tan cửa nát nhà, trước đây Bạn giàu sang, bây giờ Bạn túng thiếu.
Thánh Gióp ngày xưa có lẽ đã giàu sang hơn Bạn.
Kinh thánh nói: Ngài có bảy nghìn con chiên, ba nghìn lạc đà, năm trăm đôi bò và năm trăm con lừa cái, người ăn người ở không biết bao nhiêu. Ngài đã được xếp vào hạng giàu có bậc nhất ở Đông Phương thời ấy.
Thế mà trong một giờ đồng hồ, bao nhiêu của cải sang tay người khác, chỉ còn lại có hai bàn tay trơn.
Có lẽ Bạn khổ vì mất con mất cháu, mất vợ mất chồng… mất cha mẹ anh em.
Nhưng Bạn có biết rằng: ông Gióp xưa, cũng con đàn cháu đống, hòa thuận, êm đẹp, thường hội họp, để thắt chặt thêm dây thân ái. Thế mà cùng một lúc, của cải và đoàn vật sang tay người khác, bao nhiêu con cái Ngài cũng từ biệt Ngài sang thế giới bên kia.
Có lẽ Bạn đau phiền vì bạn hữu thất tín. Thánh Gióp ngày xưa có gì hơn Bạn. Đang lúc Ngài nằm trên đống tro, thì ba người bạn đến thăm. Lẽ ra họ đã phải yên ủi Ngài, họ lại đã nói nhiều lời gần như thóa mạ, và đổ cho Ngài những tội Ngài không có, đến nỗi sau chính Chúa phải can thiệp để bênh đỡ Ngài, và bắt ba người bạn phải tạ lỗi.
Có lẽ Bạn đã rộng tay làm phúc, mà đến lúc Bạn lâm nguy, người đời theo nhau bỏ Bạn, thì Thánh Gióp ngày xưa có hơn gì Bạn? Phú quý đa nhân hội, bần cùng thân thích ly. Thời nào chả thế?
Có lẽ Bạn bị người trong gia đình hóa lòng lang dạ thú, đã không giúp Bạn đỡ đau buồn, lại còn chất thêm sầu khổ cho Bạn, thì thánh Gióp xưa cũng thế: Người vợ, lẽ ra đã phải rịt những vết thương cho chồng, thì lại xui chồng nói phạm đến Chúa, rồi có chết thì chết đi cho rồi.
Ấy là tôi chưa nói đến những sự đau đớn Thánh Gióp chịu trong thân thể Ngài, Bạn đã biết, và tôi dám chắc Bạn chưa đau đớn đến vậy đâu.
Tâm hồn Bạn phiền muộn xao xuyến. Nhưng Thánh Gióp ngày xưa, có khác gì Bạn. Bạn hãy đọc lại những lời Ngài than thở, tôi đã trích đăng ở đầu sách này.
Bây giờ tôi xin hỏi Bạn:
- Bạn dám tự phụ mình thánh thiện hơn Thánh Gióp chưa? - Bạn đã được chính Chúa làm chứng về Bạn, như đã làm chứng về Thánh Gióp chưa?
Kinh thánh chép: Chúa đã khen Thánh Gióp là người đơn thật, ngay thẳng, kính sợ Chúa, xa lánh tội. Chúa đã khen Ngài là người có một không hai trong loài người.
Ấy thế mà Thánh Gióp đã chịu khó nhiều hơn Bạn, mặc dù có lẽ Bạn đã phạm tội nhiều hơn Thánh Gióp, ít ra Bạn chưa được dấu chắc tỏ rằng: Bạn thánh thiện hơn Thánh Gióp.
Vậy mà, khi Thánh Gióp nghe những tin khủng khiếp ấy, Ngài đã sấp mình xuống đất thờ lạy Thánh ý Chúa và than thở: “Tôi đã sinh ra trần trụi, thì tôi cũng chết trần trụi… Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin theo Thánh ý Chúa, chúc tụng Thánh danh Chúa”.
Kinh thánh nói tiếp:
“Trong hoàn cảnh éo le ấy, ông Gióp đã không hở một lời gì dại dột phạm đến Chúa”.
1 Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. 2 Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. 3 Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Ðông. 4 Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. 5 Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: "Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng!" Lần nào ông Gióp cũng làm như thế.
6 Vậy một ngày kia, các con cái Thiên Chúa đến trình diện Ðức Chúa; Xa-tan cũng đến trong đám họ. 7 Bấy giờ Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi từ đâu tới?" Xa-tan thưa với Ðức Chúa: "Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây.” 8 Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác!” 9 Nhưng Xa-tan thưa lại với Ðức Chúa: "Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng? 10 Chẳng phải chính Ngài đã bao bọc, chở che nó tư bề, nó cũng như nhà cửa và tài sản của nó sao? Ngài đã ban phúc lành cho công việc do tay nó làm, và các đàn súc vật của nó lan tràn khắp xứ. 11 Ngài cứ thử giơ tay đánh vào mọi tài sản của nó xem, chắc chắn là nó nguyền rủa Ngài thẳng mặt!” 12 Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ðược, mọi tài sản của nó thuộc quyền ngươi, duy chỉ có con người của nó là ngươi không được đưa tay đụng tới." Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan Ðức Chúa.
13 Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, 14 thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, 15 dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.” 16 Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.” 17 Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.” 18 Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, 19 thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay."
Ngày xửa ngày xưa, có một chàng trai hiền lành, khỏe mạnh, tên là Khoai. Chàng đi cày thuê cho vợ chồng ông phú hộ. Hai vợ chồng ông phú hộ hứa:
- Con cứ chịu khó làm lụng cho ta, ba năm nữa ta sẽ gả con gái ta cho.
Anh Khoai tin lời hứa của hai vợ chồng phú hộ, ra sức làm việc chăm chỉ, không ngại khó, ngại khổ.
Thời gian thấm thoát 3 năm trôi qua. Anh Khoai đã giúp cho hai vợ chồng phú hộ kiếm được rất nhiều của cải. Đến lúc phải thực hiện lời hứa, phú ông bèn trở mặt.
Ông đưa ra điều kiện, là anh Khoai phải tìm được một cây tre, có đủ một trăm đốt, để làm nhà, cưới vợ, thì ông mới đồng ý gả con gái cho.
Anh Khoai đồng ý và lên rừng, quyết tâm tìm cho được cây tre có đủ một trăm đốt.
Nhưng tìm mãi, tim hoài mà vẫn không thấy, anh bèn thất vọng ngồi sụp xuống khóc.
Bỗng nhiên, một ông Bụt hiện lên, bảo anh hãy đi tìm đủ 100 đốt tre về đây.
Sau khi tìm đủ một trăm đốt tre, ông Bụt liền bảo:
- Khi con muốn 100 đốt tre nối lại với nhau, con hãy đọc câu thần chú này: “Khắc nhập, khắc nhập”.
Ngay lúc đó, 100 đốt tre nhập lại thành một cây tre trăm đốt. Rồi ông Bụt dặn thêm:
- Khi con muốn những đốt tre rời ra, con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất”.
Vừa nói xong, 100 đốt tre tách rời thành từng đốt như cũ. Anh Khoai mừng rỡ cảm ơn ông Bụt và gánh 100 đốt tre về làng, ra mắt phú ông.
Về đến nhà phú ông, anh Khoai thấy phú ông đang gả con gái mình cho con trai của một phú ông khác.
Thấy anh Khoai về mang theo 100 đốt tre, phú ông cười coi thường.
Anh Khoai liền hô: “Khắc nhập, khắc nhập” như lời ông Bụt dặn. 100 đốt tre liền thành cây tre trăm đốt.
Phú ông không tin vào mắt mình, liền sờ tay vào cây tre. Thế là phú ông bị dính luôn vào cây tre. Rồi lần lượt từng người muốn kéo phú ông ra, thế là cũng bị dính luôn vào nhau xếp thành hàng dài.
Lúc này, phú ông liền phải giữ lời hứa với anh Khoai, gả con gái của phú ông cho.
Thế là anh Khoai liền hô: “Khắc xuất, khắc xuất”. Cả hàng người ngã nhào ra phía sau.
Sau khi được thả ra, phú ông đã giữ đúng lời hứa, gả con gái của anh.
Từ đấy, anh và con gái phú ông sống rất hạnh phúc bên nhau.
Lời bàn:
Câu chuyện Cây tre trăm đốt muốn gửi gắm đến mọi người rằng: Phải giữ đúng lời hứa với mọi người. Đừng thấy những người hiền lành, mà lợi dụng, mà bắt nạt và thất hứa với họ.
Mặc dù biết rất rõ mình chẳng có hoa tay và tài khéo, nhưng lại “mê” vẽ, thành thử hồi còn ở trung học nội trú, cứ chiều thứ năm được đi dạo phố, gã và mấy đứa bạn cùng sở thích thường hay la cà ở đường Tự Do, từ bến Bạch Đằng đến nhà thờ Đức Bà, hễ thấy có phòng triển lãm nào là chui vào ngắm nghía. Rồi về nhà cùng nhau đọc sách và “ngâm kíu” thêm về hội hoạ, cho nên gã cũng hiểu lõm bõm được thế nào là luật phối cảnh, thế nào là cách thức pha màu và những tỷ lệ cần phải giữ khi vẽ chân dung…
Ngoài ra, gã cũng nhận thấy có những bức tranh đẹp, vì tác giả đã diễn tả được cái vẻ cân đối hài hoà, nhưng cũng có những bức tranh đẹp, vì ông hoạ sĩ đã sử dụng một cách tài tình những đường nét tương phản.
*****
Cuộc đời mỗi người cũng chính là một bức tranh.
Chẳng thế mà trong “Cung Oán Ngâm Khúc”, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết:
- Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Vân là mây, cẩu là chó. Mây đó, rồi lại chó đó.
Xuất phát từ câu “bạch vân biến vi thương cẩu” của thi hào Đỗ Phủ, nghĩa là đám mây trắng, bỗng biến thành con chó xanh, để nói lên những đổi thay của đời người, nay còn mai mất.
Đời sống và nhất là đời sống hôn nhân cũng thế.
Có những cuộc tình đẹp do vẻ hài hoà cân đối.
Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa, khi dựng vợ gả chồng cho con cái, thường tuân thủ định luật về “môn đương hộ đối”, nhà cửa phải ngang bằng với nhau, có ý nói đến sự tương đương về tiền bạc, về địa vị xã hội, giữa nhà trai và nhà gái, đang lăm le kết tình xui gia.
Thế nhưng, cũng có những cuộc tình đẹp, do nét tương phản: So với chị vợ, anh chồng thường phải cao hơn một tí, già hơn một tí và giỏi hơn một tí….
Mặc dù không nói ra, nhưng xem ra ai cũng công nhận và coi đó là một định lý thuận, một qui luật chung, chuyện đời phải vậy mà thôi.
Tuy nhiên, nếu tình thế bị lật ngược, có nghĩa là so với anh chồng, chị vợ cao hơn một tí, già hơn một tí và giỏi hơn một tí, lúc đó trời đất sẽ quay cuồng, mọi người sẽ không ngớt bàn ra tán vào, bàn vào tán ra. Thật là rách việc!
Cũng chính vì thế, mà hôm nay, gã xin trình bày đôi ba nét về cái “định lý đảo” này.
*****
Thứ nhất, đó là khi chị vợ… cao hơn anh chồng
Chồng cao hơn vợ một cái đầu, đó chỉ chuyện thường ngày ở huyện.
Bên cạnh nhà gã có một cô bé, hình dong bên ngoài hơi bị khiêm tốn, nếu không muốn nói là bị thiếu hụt thước tấc một cách trầm trọng.
Bù lại, ông trời đã hào phóng ban tặng cho cô bé cái năng khiếu bên trong về ngoại ngữ thật tuyệt vời. Cô bé trở thành giáo viên dạy tiếng Anh tại một trường đại học.
Thế rồi, cô bé và một vài người khác được chọn, thay mặt cho nhà trường, đi trao đổi văn hoá tại Ấn Độ, với bạn bè quốc tế của khối nói tiếng Anh.
Và trong cuộc giao lưu này, một anh chàng Ăng Lê chính hiệu mắt xanh, tóc vàng hoe đã làm quen với cô bé.
Sau đó, khi trở về nước, tình yêu của họ bắt đầu đâm chồi, nảy lộc qua những cái “meo” được trao đổi, cũng như qua những lần nói chuyện đường dài, “nấu cháo điện thoại”.
Cuối cùng, anh chàng Ăng Lê đã chịu đèn, say mê cô bé như điếu đổ, đích thân qua Việt Nam thăm cô bé, rồi lại đưa cả bà mẹ sang xin cưới hỏi đàng hoàng, theo đúng thủ tục và nghi lễ của dân tộc ta.
Thế nhưng, cô bé chỉ đứng tới ngực anh chàng Ăng Lê mà thôi.
Có một lần, trong chỗ riêng tư, gã đã hỏi cô bé:
- Khi hai người muốn hôn nhau một phát, thì phải làm sao nhỉ?
Cô bé vô tư trả lời:
- Thì mình kiễng chân lên một tí, còn anh ta thì cúi đầu xuống một tí. Và thế là có ngay một nụ hôn nồng thắm!
Bà con lối xóm chỉ lắc đầu ngao ngán cho cái thói to gan, bạo phổi của cô bé.
Nhưng dầu sao cho tới lúc này, cô bé vẫn luôn hạnh phúc mãi tận xứ sở của sương mù, bên cạnh anh chồng cao khều của mình.
*****
Tuy nhiên, điều không được bình thường cho lắm, khi áp dụng định lý đảo này vào chị vợ, nghĩa là chị ta lại cao hơn anh chồng một tí. Có lẽ chính chị vợ cũng đã ngán ngẩm khi nhận ra sự trực trặc ấy, như ca dao đã từng diễn tả:
“Mẹ em tham thúng xôi rền, Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng. Em đã bảo mẹ rằng đừng, Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào. Bây giờ chồng thấp vợ cao, Như đôi đũa lệch so sao cho vừa”.
Còn bàn dân thiên hạ thì lại nhìn anh chàng bằng cặp mắt soi mói, cộng thêm một chút thương hại:
“Chồng thấp mà lấy vợ cao, Nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa”.
Viết tới đây, gã bỗng cảm thấy ngao ngán thay cho những cô hoa hậu Việt Nam, bởi vì trong những năm gần đây, người ta thường hay bình chọn những cô cao khoảng một mét bảy đổ lên, để được bằng chị bằng em, lỡ có phải ra nước ngoài thi thố.
Nhưng người ta đâu có nghĩ tới tình trạng “lệch pha” của những người đẹp chân dài, khi bước vào đời sống vợ chồng.
*****
Thứ hai, đó là khi chị vợ…già hơn anh chồng.
Anh chồng nhiều hơn chị vợ một vài tuổi, đó là chuyện bình thường. Có khi còn hơn cả một hai con giáp, thì cũng chẳng ai nhòm ngó.
Thậm chí ngày nay nhiều cô gái trẻ lại thích lấy anh chồng già, vì anh chồng già xem ra chững chạc hơn, và nhất là biết chiều chuộng hơn: Chồng già vợ trẻ là tiên!
Chứ còn lấy anh chồng trẻ, tuổi tác xấp xỉ ngang nhau, cả hai tính khí vẫn như con nít, xoay như chong chóng, chẳng biết đường nào mà mò. Vợ chồng trẻ con, thích đấy, rồi lại chán đấy.
Thế nhưng, nếu chị vợ chẳng may già hơn anh chồng một tí, thì lập tức liền bị bàn dân thiên hạ dí mũi, chõ miệng vào mà chê bai và phê phán: Vợ già chồng trẻ là duyên…con bò!
Hay như ca dao cũng đã tốn nhiều lời bình luận:
- Chồng lớn vợ bé thì xinh, Chồng bé vợ lớn ra tình chị em!
- Chồng già vợ trẻ là tiên, Vợ già chồng trẻ như tiền vứt đi.
- Chồng già vợ trẻ là tiên, Vợ già chồng trẻ là con điên lấy thằng khùng.
Bạn bè thì khuyên nhủ:
- Bây giờ cậu còn trẻ, giỏi giang, hắn mê cậu thật, nhưng sau mười năm nữa, cậu sẽ trở thành một bà già và hắn sẽ bỏ cậu để chạy theo những đứa con gái trẻ đẹp cho mà xem.
Bản thân chị vợ nhiều lúc cũng bực bội tức tối không ít, như câu chuyện dưới đây:
Vừa về đến nhà, bà M vứt phịch cái túi xuống, rồi ngồi thừ trên ghế.
Đứa con gái vừa mon men lại gần, bà liền quát um lên.
Ông chồng dựng xe xong đi vào. Con gái cười cười hỏi bố:
- Bố lại vừa phạm tội gì à?
- Tao trẻ hơn mẹ mày, là tao có tội hử?
Chỉ chờ có thế, bà M liền nổi trận lôi đình.
Thì ra hai vợ chồng bà vừa đi ăn cưới về, tiện thể rẽ vào nhà đứa con gái lớn chơi.
Mấy người họ hàng nhà thông gia bên ấy không hiểu mắt mũi thế nào, mà lại đồng thanh chào:
- Cháu chào bà, cháu chào chú!
Bực nhất, là có đứa còn hỏi ông chồng ra vẻ quan tâm:
- Chú đưa mẹ vợ đi chơi đấy à?
Hai vợ chồng bà M mặt… ngắn tũn, sượng sùng! (Diên Vỹ).
Tình trạng “lệch pha” này, được cánh báo chí hiện nay diễn tả một cách cụ thể và chính xác bằng cụm từ “phi công trẻ, lái máy bay bà già”!
*****
Thứ ba, đó là khi chị vợ… giỏi hơn anh chồng
Chị vợ là giảng viên đại học. Anh chồng là tài xế taxi. Những ngày mới cưới, họ còn ngồi xem TV và trò chuyện với nhau.
Nhưng rồi, công việc của chị vợ mỗi ngày một nhiều. Trong lúc chị vợ bận rộn đọc tài liệu, soạn bài giảng, dịch sách, thì anh chồng lại ngồi đánh bài, hay tán dóc với bè bạn.
Nhất là khi đứa con trai của họ khôn lớn và bước chân vào ngưỡng cửa đại học, có việc gì nó cũng hỏi mẹ. Thành thử cứ mỗi lần hai mẹ con trao đổi với nhau về chuyện học hành, thì anh chồng lại bỏ ra quán cà phê, hay tức tối gây sự. Anh cảm thấy mình chỉ là một kẻ thừa thãi trong căn nhà đầy đủ tiện nghi.
Theo các chuyên gia tâm lý, thì sự chênh lệch về học thức, rất dễ tạo nên những mâu thuẫn trong nhiều lãnh vực, chẳng hạn như giáo dục con cái, kế hoạch chi tiêu, quan hệ xã hội và thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục.
Những anh chồng học vấn thấp, thường cảm thấy ấm ức trước những ý kiến của chị vợ, nhất là khi chị vợ lại tỏ ra áp đặt.
Rồi từ đó, anh chồng mang một thái độ tiêu cực và bất cần, không chịu chia sẻ công việc gia đình với chị vợ, và nhiều khi còn tìm cách bạo hành vợ, để “bù đắp” những khuyết điểm của mình. (Minh Long).
Tác giả Lâm Thanh trên báo Phụ Nữ, khi phân tích về tình trạng “vợ giỏi”, cũng đã ghi nhận như sau:
Do quan niệm Á Đông đề cao nam giới, nên người vợ giỏi sẽ rất dễ làm nảy sinh mặc cảm và những suy nghĩ tiêu cực nơi anh chồng.
Chị vợ thành đạt không còn có nhiều thời gian như trước đây, chị bận bịu hơn, nên thời gian dành cho gia đình cũng ít hơn, khiến anh chồng lại càng mặc cảm. Anh ngộ ra rằng: Vợ không còn đoái hoài gì đến mình, và mình cũng chẳng còn giá trị gì nữa.
Từ đó, anh chồng thường tỏ ra bất hợp tác với mọi việc làm của vợ, thậm chí còn quát mắng, đánh đập để thể hiện uy quyền của mình…
Không thiếu những anh chồng nghĩ rằng: Là phụ nữ, dù có giỏi giang, thành đạt đến đâu đi chăng nữa, thì cũng vẫn là phụ nữ, nghĩa là vẫn phải nấu cơm, vẫn phải giặt quần áo cho chồng”.
Đúng như ca dao đã diễn tả:
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà, Dù rằng vụng dại cũng là đờn ông!
Có anh chồng đã quan niệm:
- Phụ nữ sinh ra không được quyền tài giỏi hơn chồng.
Thậm chí có anh chồng còn hung hăng phát biểu:
- Làm đàn ông có thể chịu khổ, chứ không thể chịu nhục được.
*****
Sau cùng thứ tư, đó là chị vợ…giàu hơn anh chồng
Chữ giàu ở đây được hiểu theo hai nghĩa, đó là gia đình thuộc vào hàng khá giả và bản thân lại kiếm được nhiều tiền.
Người con gái trước khi lấy chồng được sánh ví như một tấm lụa:
- Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Nếu lấy được anh chồng giàu, thì mọi người đều trầm trồ khen ngợi, cho đó là một sự may mắn và số phận dường như mỉm cười với chị ta.
Trong khi đó, người con trai chẳng may lấy được cô giàu, thì lại bị miệng lưỡi thế gian xỉa xói:
- Đũa mốc mà lại chòi mâm son: nghĩa là con nhà nghèo, học dốt, xấu trai, mà lại đòi lấy vợ đẹp, con nhà giàu!
- Chuột sa chĩnh gạo: mỉa mai sự may mắn được làm rể nhà giàu. Thậm chí còn được phong làm kỹ sư…đào mỏ, như ngôn ngữ thời nay người ta vốn thường dùng.
Một khi đã bước vào cuộc sống lứa đôi, để xây dựng mái ấm gia đình, thì anh chồng và chị vợ phải biết cộng tác với nhau: Chồng như đó vợ như hom, của chồng công vợ. Tiền của ai cũng được, miễn là thu nhập một cách chính đáng.
Tuy nhiên, sự đời lại không đơn giản, nhất là khi chị vợ có thu nhập cao hơn chồng.
Đây chính là một con dao hai lưỡi, luôn đe doạ cắt đứt những sợi chỉ mỏng manh dệt nên tấm vải hạnh phúc.
Hệ luỵ của nó, nhẹ thì ở mức vợ chồng lục đục, còn nặng thì đổ vỡ hay con cái hư hỏng.
Sở dĩ như vậy là vì trong tư tưởng của người Việt Nam, anh chồng vốn là cột trụ gia đình, có nhiệm vụ kiếm tiền để bảo đảm một cuộc sống ấm no cho mọi người. Chính vì thế, khi chị vợ có thu nhập cao hơn, thì lúc bấy giờ tiền sẽ trở thành nguyên nhân gây nên những xáo trộn và bất ổn. Nhiều anh chồng ngán ngẩm trước chị vợ giỏi kiếm tiền, đã rút ra được những kinh nghiệm quí giá như sau:
1- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, anh chồng dễ dàng bị sai khiến, không còn nở mày nở mặt và khoác lác được với bạn bè nữa.
2- Với chị vợ có thu nhập cao, về đến nhà chị ta sẽ nằm dài trên ghế sofa và truyền: Anh chỉ kiếm được vài đồng thì mệt mỏi cái nỗi gì, mau đi nấu cơn cơm cho em ăn! Mất toi những yêu thương và chăm sóc của bà xã.
3- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, anh chồng không còn là trụ cột của gia đình nữa, mà chỉ là một hạng ký sinh ăn bám mà thôi, thậm chí có khi còn bị đuổi ra khỏi nhà, vất vưởng, bơ vơ. Bằng không thì cũng phải bất đắc dĩ đóng trọn vai trò vừa làm bố, vừa làm mẹ, vừa làm “người chồng mẫu mực”.
4- Với chị vợ có thu nhập cao, anh chồng phải thường xuyên tháp tùng đi mua sắm và làm phu khuân vác đến toát cả mồ hôi hột, mệt nhừ cả người và chân tay bải hoải.
5- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, khi đi lại thì ngồi trên xe con có máy lạnh, ít hoạt động, nên dễ sinh bệnh tật. Khi ăn uống thì dùng những của ngon vật lạ, nếu huyết áp không cao, thì lượng mỡ trong máu cũng sẽ tăng vọt.
6- Với chị vợ có thu nhập cao, tiền bạc của anh chồng chỉ là chuyện nhỏ, không cần quản lý chặt chẽ, nên anh ta khó tránh khỏi những thói hư tật xấu, như rượu chè, cờ bạc và bồ nhí!
Chị vợ kiếm tiền giỏi hơn chồng không có nghĩa là “lên mặt”, trái lại cần phải mềm mỏng và nhẹ nhàng xử lý các tình huống, đồng thời dành quyền quyết định cho anh chồng. Chị vợ nên khéo léo gợi ý, rồi vận dụng khả năng thuyết phục một cách hợp lý, để nhận được sự đồng thuận của anh chồng.
Chị HM là một người phụ nữ xinh đẹp, tháo vát và khéo nuôi con, nhưng lại mắc phải một tật xấu duy nhất là kiếm tiền giỏi hơn chồng. Bản thân chị không bao giờ chê chồng kém, nhưng ngặt một nỗi, cứ bàn đến chuyện gì trong gia đình có liên quan tới tiền, thì anh chồng lại nói dỗi:
- Tôi làm sao được bằng cô, cô giỏi mà!!!
Thế nhưng, chị vẫn tôn trọng anh và cho biết:
- Một tháng tôi có thể làm thêm được hai ba chục triệu, nhưng nhìn một triệu anh đưa, tôi vẫn cảm thấy sung sướng, vì tôi biết mình đang cầm những đồng tiền do mồ hôi của chồng đổ xuống.
Còn anh chồng, trong những lúc sa cơ thất thế, hay bị sao quả tạ chiếu tướng, thay vì có thái độ tiêu cực, mặc cảm và bất hợp tác hãy khẳng định mình bằng những hành vi giúp đỡ cho chị vợ.
Để kết luận, gã xin ghi lại một hình ảnh đã được đăng tải trên báo Phụ Nữ như sau:
Trong đợt tập huấn về bạo hành gia đình được tổ chức tại Hà Nội vừa qua, không ít người đã tròn mắt ngạc nhiên trước cảnh sống của một cặp vợ chồng Singapore. Họ sang Việt Nam để thuyết giảng về tâm lý. Người được mời là bà vợ, còn ông chồng đi theo để… bế con và lo cơm nước.
Hàng ngày, sau khi đưa vợ đến hội trường, ông lái xe đưa bọn trẻ đi chơi và lo chăm sóc chúng. Ông chăm sóc một cách tự nhiên và thuần thục. Cuối ngày, ông đi đón vợ, mang cả con cái theo. Gặp vợ, ông lo lắng hỏi han về công việc, không có chút mặc cảm nào, khi phải thực hiện vai trò “nội tướng” của mình. (Lâm Thanh).
Tôi chối từ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn hiện diện, vì Ngài là Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần tôi chứng minh có Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng không cần kẻ khác chứng minh cho tôi biết về Thiên Chúa, vì Thiên Chúa thì không cần chứng minh. Như mặt trời không cần ai chứng minh về ánh sáng cho người mù. Như người dưới căn hầm, mặt trời không hiện diện với đôi mắt ấy mà thôi, mặt trời vẫn hiện diện với vũ trụ.
Từ đó,
Lạy Thượng Đế, xin cho con biết kêu lên: Con biết con cần Ngài.
*****
Trong các kinh Tiền Tụng của thánh lễ, lời Tiền Tụng Chung IV là kinh rất ít khi giáo dân nghe linh mục đọc. Hầu hết các thánh lễ chỉ dùng Kinh Tạ Ơn II. Lời Tiền Tụng Chung IV đọc như sau:
Lạy Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi, mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con.
Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Vì thế hiệp với các thiên thần và các thánh, chúng con ca ngợi Cha muôn đời vinh hiển, và đồng thanh tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Chí Thánh….
Qua lời Kinh Tiền Tụng này, Giáo Hội chỉ rõ cho ta biết: bản chất Thiên Chúa như thế nào.
Một thần linh là Thượng Đế thì không cần tiếng ca tụng của người phàm.
Vì là Thượng Đế, nên lời ca tụng của phàm nhân chúng ta chẳng thêm gì cho Ngài.
Trong ngôn ngữ con người, chúng ta hay nói, hãy ca tụng Chúa, để Thiên Chúa được vinh danh, là lời nói có thể làm hiểu sai lạc về bản chất Thiên Chúa. Chính Sách Lễ Roma của Giáo Hội đã xác định như trên.
Vậy chúng ta chỉ còn một cách hiểu chính xác theo Sách Lễ Roma là:
Được tạ ơn Chúa, là hồng ân cao cả cho chính tôi. Lời ca tụng của chúng tôi không thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng tôi ơn cứu độ.
Từ Lời Tiền Tụng trên, chúng ta hãy xin cho mình lời nguyện là:
- Lạy Thượng Đế, con biết con cần Ngài.
Nhiều người nghĩ rằng: Mình làm “vinh danh” Chúa, bằng lời ca tụng của mình, nên khi bất mãn với Giáo Hội, thì ngừng ca tụng Chúa.
Có người nghĩ rằng: Chúa cần mình, nên khi “bất mãn” với Chúa, thì không ca tụng, để Thiên Chúa bị thiệt thòi.
Có ai cứ nhắm mắt lại để mặt trời bớt ánh sáng không.
Có ai xuống hầm tối cho mặt trời thiệt thòi không.
Khi chúng ta hiểu rõ: Lời ca tụng của chúng ta, không thêm gì cho Chúa, nhưng lại thêm cho chính mình.
Khi chúng ta hiểu rằng: Thiên Chúa không cần ai ca tụng, nhưng ca tụng Chúa lại là hồng ân cho chính mình, thì chúng ta phải nghiêm chỉnh đặt vấn đề, về những lời ca tụng của chúng ta:
*****
Thái độ thứ nhất: Ao ước được ca tụng.
Lạy Chúa từ bi và nhân hậu, Người thanh niên giàu có trong Phúc Âm đến hỏi Chúa đâu là con đường siêu thoát.
Chúa cho anh ta một hồng ân, là đến theo Chúa. Anh không muốn từ chối. Nhưng lòng anh quá nặng nề, sau cùng, anh cúi mặt bước đi buồn rầu.
Rất tội nghiệp cho anh.
Tại sao Chúa không năn nỉ anh? Hình ảnh rất ấn tượnt ở đây, là Chúa không năn nỉ.
Phải chăng, vì theo Chúa, là một hồng ân đem lại ơn cứu độ cho chính anh.
Hôm nay, rất nhiều cha mẹ phải “năn nỉ” con cái đi lễ.
Rất nhiều linh mục “năn nỉ” giáo dân đến nhà thờ.
Trong các thánh lễ, có rất nhiều thứ “năn nỉ”: Năn nỉ đóng tiền. Năn nỉ làm việc tông đồ.
Bởi đâu, lạy Chúa, chúng con có những não trạng như thế ?
Phải chăng chúng con đã không hiểu rằng: những lời ca tụng kia là cần thiết cho chính chúng con.
*****
Thái độ thứ hai: Khiêm tốn trong lời ca tụng.
Vì Chúa là thần linh, không cần lời ca tụng của phàm nhân, nên con phải xin Chúa cho con được ca tụng.
Lời của phàm nhân tội lỗi, tâm trí phàm nhân u mê, sao chúng con dám ca tụng thần linh.
Bởi đó, được ca tụng Chúa là hồng ân, nên chúng con phải khiêm tốn trong mọi công việc tông đồ.
Biết đâu, có linh mục hôm nay rất tự hào về những công trình của mình.
Từ đó, cũng biết đâu, nhiều tín hữu thấy mình quan trọng trong lời ca tụng, và việc dâng cúng.
Tất cả chúng con đều lầm lẫn. Xin Chúa từ bi và nhân hậu, thương xót chúng con.
*****
Thái độ thứ ba: Chờ đợi được ca tụng.
Lạy Chúa từ bi và nhân hậu, vì lời ca tụng Chúa mang ơn cứu độ cho chính chúng con, nên chúng con phải khiêm tốn, ao ước và chờ đợi được ca tụng.
Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa gọi các môn đệ theo Chúa.
Chúa truyền cho các ông làm việc này, việc kia. Đấy là hồng ơn cao cả, chứ không phải Chúa thiếu thốn.
Cái thiếu thốn của chúng con là thiếu Chúa.
Cái nghèo của chúng con là không được Chúa sai đi.
Khi hiểu thế, chúng con phải hạnh phúc biết bao khi được Chúa kêu mời.
Lạy Chúa từ bi nhân hậu, Xin cho con biết lắng nghe Chúa sai bảo thật tha thiết, chờ đợi như kẻ cắp rình mồi. Vì con nghèo lắm, nếu Chúa không sai con đi. Nếu không được ca tụng Chúa, con lấy đâu hồng ân cho hạnh phúc của con.
*****
Bạn thân mến,
Công việc mục vụ của tôi là đi giúp tĩnh tâm.
Có người hỏi tôi, Phúc Âm thì lần nào đọc cũng giống nhau. Đọc mãi Cha có chán không.
Lời Phúc Âm chỉ có vậy, nhưng tùy cách nghe, mà lời đó khác.
Một lần kia, vì lối nói của tôi, phút đầu khai mạc làm một người bất mãn.
Họ không muốn đi tĩnh tâm. Nhưng vì bị “năn nỉ” quá, sau cùng có mặt trong cuối tuần linh thao.
Một cuối tuần đến retreat house – nhà tĩnh tâm như thế, ít ra cũng hết một trăm năm mươi đô la một đầu người.
Hầu hết những người ngại đi tĩnh tâm là không có thời giờ, và tiếc tiền.
Hầu hết cha mẹ nói với con cái, linh mục nói với giáo dân là “hy sinh” dâng cho Chúa một cuối tuần tĩnh tâm, để ca tụng Chúa.
Đối với tôi, đấy không phải là hy sinh.
Hy sinh là chịu thiệt về mình, cho người khác phần lợi.
Vì cách nói của tôi làm họ bực bội:
- Thưa Cha, nếu không hy sinh, con không đến đây chiều nay được. Còn biết bao công việc ở nhà, nếu không hy sinh làm sao bỏ được.
Họ bực với tôi, bực luôn với những ai đã “năn nỉ” họ đi. Tôi không ngờ buổi tối khai mạc mà bầu khí không êm ả chút nào, tôi cố gắng đưa mọi người vào giờ kinh tối, rồi đi ngủ.
Qua một ngày thinh lặng, tối hôm sau, trước giờ kinh tối:
- Thưa cha, con xin có đôi lời.
Người này cất tiếng. Rồi tiếp:
- Tôi xin lỗi anh chị em, những gì tôi nói tối qua. Sau một ngày thinh lặng, tôi thấy có một cái gì đang xảy ra nơi tâm hồn tôi. Tôi chưa có bình an, chưa thấy Chúa đâu, nhưng có một chút gì đó làm tôi suy nghĩ.
Nhìn bóng đèn trên trần nhà. Tâm sự với mọi người:
- Có tôi hay không, thì chiều nay bóng đèn này vẫn sáng. Đâu phải thiếu tôi mà bóng đèn bớt sáng đâu.
Rồi quay nhìn ra sân tối:
- Tôi cũng xin lỗi những ai tôi xúc phạm, những ai đã khuyến khích tôi đi khóa linh thao này.
Nếu tôi bỏ lò sưởi, ra sân đứng thì tôi lạnh, chứ đâu phải thiếu tôi, tôi làm cho lò sưởi bớt sức nóng đâu.
Thiên Chúa là như vậy.
Tôi đến thì tôi ấm, tôi xa Ngài, tôi lạnh, Thiên Chúa cho tôi sức ấm, chứ tôi làm sao cho Ngài thêm lửa nóng được.
Bạn thân mến,
Sau cùng, người này đã có những ngày tĩnh tâm – nghỉ ngơi với Chúa rất đẹp.
Chớ gì chúng ta hiểu rõ và thưa với Chúa: Lạy Chúa, con biết con cần Chúa.
Riêng với bạn đang đọc dòng này, không cùng tôn giáo với tôi. Tôi cầu chúc bạn hãy nói:
- Lạy Thượng Đế, lạy Trời Phật, con biết con cần Ngài.
Bởi, đó là con đường đi rất đẹp của một phàm nhân.
(Chuyện Đời Đạo - Sách 14- Bài 302) ------------------------------------------
Bạn thân mến,
Chủ đề tĩnh tâm Giáo phận năm nay là truyền giáo. Đức Giám mục hô hào đẩy mạnh phong trào truyền giáo. Phương pháp truyền giáo là phát triển Dân Sinh, Dân Trí và Dân Đạo....
Bất ngờ ngài nói với anh em một câu của một vị thừa sai nào đó:
“Linh mục Việt Nam chỉ có tài coi sóc họ đạo, chứ không biết gầy dựng họ đạo”.
Vì tự ái dân tộc, mình giơ tay và đứng bật lên như một cái lò xo:
- Thưa Đức cha, không phải linh mục VN không biết gầy dựng họ đạo, nhưng vì chưa có “Bài sai"(Văn thư bổ nhiệm một linh mục do Đức Giám Mục ấn ký) của Đức cha.
Mình hung hăng chừng nào, thì Đức Giám mục bình tĩnh chừng ấy. Với giọng trầm buồn, ngài thủng thẳng trả lời:
- Tôi biết đi truyền giáo thì thiếu thốn và cực khổ nhiều lắm, nên không nỡ tâm sai các cha đi. Cha nào tình nguyện thì tôi mới dám. Vậy cha nào tình nguyện thì giơ tay lên.
Mình đếm được sáu cánh tay giơ thật cao và thật thẳng: Hai cha già, hai cha sồn sồn, và hai cha trẻ. Đức Giám mục cười và khôi hài:
- Các cha đi truyền giáo thì bỏ họ đạo, bỏ chủng viện, bỏ trường học cho ai ?
Cả hội trường cười hì một cái.
Thế là đánh trống bỏ dùi. Vấn đề truyền giáo chỉ được nêu lên như một sự gợi ý và thăm dò. Rồi đây, sau tuần tĩnh tâm, ai nấy lại trở về với họ đạo của mình và tiếp tục rao giảng Tin Mừng cho người đã nghe. Tuyệt nhiên không nghĩ gì, không làm gì cho người lương dân, những người chưa bao giờ được nghe Tin Mừng.
Viết đến đây, mình liên tưởng đến Đức Giêsu khi Ngài đến rao giảng tại Ca-phác-na-um.
Sau khi được nghe giảng và chứng kiến nhiều phép lạ, dân thành Ca-phác-na-um nảy ra một sáng kiến
- Xin Thầy ở lại với chúng tôi, đừng đi đâu nữa.
Câu nói của họ hàm nhiều ý nghĩa:
1. Vì quá thương, họ muốn Chúa ở lại với họ. Họ không muốn Chúa lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi, ăn không trọn bữa, ngủ không đầy giấc, do các chuyến đi liên tục. Họ muốn có một “ngôi nhà xứ” có đủ tiện nghi cho Chúa sử dụng. Họ sẽ kiếm cho Chúa một bà bếp nấu ăn thật giỏi, có thể đó là mẹ vợ của ông Simon.
2. Họ muốn gởi gắm sự nghiệp của mình vào sự nghiệp của Chúa. Ca-phác-na-um sẽ là trung tâm rao giảng, trung tâm trị bệnh. Ca-phác-na-um sẽ trở thành thủ đô của nước “Is-ra-el mới” . Sự nghiệp của Chúa sẽ gắn liền với sự nghiệp vẻ vang của Ca-phác-na-um.
“Xin Thầy ở lại với chúng tôi, đừng đi đâu nữa !”.
Ôi thương quá là thương ! Nghe mà nẫu cả ruột ! Đó là một chước cám dỗ, chước cám dỗ dễ thương vô cùng.
Để đối phó, Chúa đã khẳng định:
- Ta còn phải loan báo Tin Mừng cho các thành khác nữa. Chính vì thế mà Ta được sai đến.
Sau đó Chúa đã đi thật, và đi mãi.
Chúa ơi, Chúa đã giã từ Ca-phác-na-um để đi loan báo Tin Mừng, còn chúng con thì đã chui vào đó để “Ngồi Họ” .
Quả vậy, Giáo hội của Chúa có một truyền thống yêu thương giáo xứ. Con cái của Chúa quây quần bên nhau thành một xóm đạo. Bản thân con đã được sinh ra và lớn lên trong một xóm đạo như thế. Giáo xứ nơi con sinh trưởng có một ngôi thánh đường nguy nga. Nhà thờ có tháp cao. Sáng, trưa, chiều chuông từ trên tháp cao ấy đổ hồi vang tới tận xóm ngoại, và vọng lại từ những đồi cọ xa mịt mù.
Cha xứ của chúng con sống trong nhà xứ, có lũy tre dày bao bọc xung quanh, có cổng gỗ lim đóng im ỉm, mà bọn nhí chúng con chẳng bao giờ dám bén mảng tới.
Cha xứ của chúng con rất yêu thương giáo dân. Hằng năm, ngài chỉ vắng mặt đúng một tuần lễ để đi cấm phòng theo lệnh Đức Giám mục.
Ngài đã rửa tội cho hằng ba thế hệ trong giáo xứ. Ngài đã cho con xưng tội và rước lễ lần đầu. Ngài đã mời Đức Giám mục đến để chúng con được lãnh bí tích Thêm sức.
Hễ ai đau yếu mà mời ngài đến xức dầu, thì dù ngày hay đêm, ngài cũng xăng xái đi liền. Nếu có ai qua đời thì ngài đến tận nhà cử hành nghi lễ tẩm liệm, đến tận nhà để rước xác về nhà thờ làm lễ quy lăng, rồi ngài tiễn chân ra tới phần mộ và làm phép huyệt. Ngài chỉ ra về khi đã ném xuống đó một nắm đất như một cử chỉ tiễn biệt.
Tháng Năm nào ngài cũng tổ chức dâng hoa và kiệu hoa liên họ. Giáo xứ bập bùng ánh đèn.
Mùa Chay thì ngắm nguyện. Lễ Phục sinh và Lễ Các Thánh thì thi kinh bổn. Tiếng trống thi đánh thì thùng suốt ngày. Giáo xứ tưng bừng như đại hội.
Đến tháng hè, các thầy trường lý đoán, các chú trường Latinh về tổ chức kịch tuồng. Nào tuồng “Thánh Alêxù”, nào tuồng “Thánh Antôn ẩn tu”….. Giáo xứ rộn lên niềm phấn khởi.
Cha xứ và giáo dân chúng con gắn bó với nhau khắng khít hơn cả xương sườn của Ađam gắn bó với da thịt của Eva, đến mức độ quyền phép của Đức Giám mục cũng không phân ly được. Bởi thế, khi con nứt mắt ra thì Cha xứ của con đã ở đó. Và bây giờ, khi con ngồi viết những dòng này thì ngài cũng vẫn còn ở đó, bình chân như vại.
Xóm đạo của chúng con chỉ cách xóm ngoại bằng một con đường đất nhỏ hẹp, đến mức độ hai con trâu đi ngược chiều phải cọ sườn vào nhau. Vậy mà hai xóm, có hai nền văn hóa khác nhau, như hai dân tộc, như hai quốc gia:
- Bên kia có mái chùa cong cong. Bên này có ngọn tháp cao nghều nghệu.
- Bên kia có tiếng chuông chùa rỉ rả ngân nga. Bên này có tiếng chuông thánh đường binh boong dồn dập.
- Bên kia người ngoại gọi là “Huê Hồng”, thì bên này người đạo gọi là “Hoa Hồng”
Làng tôi thờ bà Thiều Hoa, nên người ngoại tránh tên húy của bà, mà đổi Hoa thành Huê.
Người đạo thì không chia sẻ tục lệ ấy.
Theo truyền tụng của làng tôi, bà Thiều Hoa là tướng của hai Bà Trưng. Sau khi hai bà tự vẫn tại Hát Giang, quân kháng chiến bị tan rã, bà Thiều Hoa về làng tôi sống ẩn dật bằng nghề may vá. Bà rất yêu trẻ em, nên bà lấy vải vụn cột thành trái bóng cho trẻ em chơi. Từ đó, làng tôi có môn đánh phết.
- Bên kia người ngoại gọi là con cua, thì bên này người đạo gọi là con căng-xe (Từ “cua” ở làng tôi có thêm một nghĩa tục, nên các Cố Tây bắt giáo dân gọi con cua là con căng-xe (Cancer trong tiếng Latinh).
- Nhí xóm đạo và nhí xóm ngoại lâu lâu lại tổ chức choảng nhau một lần.
Bởi vậy từ ngày có trí khôn cho tới bây giờ, con chưa thấy một người ngoại nào theo đạo của Chúa. Chẳng bao giờ con thấy cha xứ than phiền về điều đó. Đức Giám mục cũng chẳng bao giờ phiền trách ngài về điều đó.
Tin Mừng của Chúa đã vón cục lại trong giáo xứ.
Giáo xứ là cái ghetto quản thúc Tin Mừng. Nó là cái pháo đài ngạo nghễ để biến chúng con thành những người tự cao, tự đại, trước mắt người lương dân.
Lạy Chúa, đến bao giờ chúng con mới nói được với giáo xứ lời này:
"Chúng tôi còn phải đi loan báo Tin Mừng tại các thành khác nữa. Chính vì thế mà chúng tôi đã được sai đến". Lm. Pio Ngô Phúc Hậu (Nhật Ký Truyền Giáo)
Vào một đêm giá lạnh, thấy một ông lão nghèo khổ ngồi ngoài trời, người tỷ phú nọ lo lắng, nên tiến lại gần hỏi:
- Ông không cảm thấy ngoài trời đang lạnh lắm hay sao, mà ông chẳng có áo ấm gì cả ?
Ông già trả lời:
- Tôi không có áo ấm, nhưng tôi đã quen với cái lạnh rồi.
Người tỷ phú nói:
- Hãy chờ đợi ! Tôi sẽ về nhà... đem đến một áo ấm cho ông.
Ông già hết sức mừng rỡ:
- Tôi sẽ chờ đợi ông.
Thế nhưng, khi về nhà, do bận rộn nhiều việc quá, nên người tỷ phú nọ quên hẳn ông già đang đợi mình trong đêm giá rét.
Sáng hôm sau, chợt nhớ lại, vị tỷ phú vội vã tìm đến, nhưng ông lão đã chết cóng tự bao giờ.
Ông lão để lại lá thư, với những dòng chữ nguệch ngoạc, trong đó ông viết:
"Khi không có áo ấm, tôi có sức mạnh tinh thần để chống lại cái lạnh, nhưng khi ông hứa giúp, tôi bám víu vào những gì ông hứa và chính điều đó đã giết chết ý chí và sức mạnh tinh thần của tôi.”
*****
Đừng hứa hẹn với ai cái gì hết, nếu bạn cảm thấy khó thực hiện, Lời hứa có thể không quan trọng với bạn, nhưng lại rất quan trọng đối với người khác.
Làm người, nếu không giữ lời hứa, thì bạn chính là người không biết tôn trọng mình và cũng không biết cách giữ gìn danh dự của mình.
Khi thất hứa, bạn đã đẩy người ta vào khó khăn, thậm chí có thể đưa họ vào chỗ chết.
Đó chính là tội ác!!!
------------------------------------------
Những sách cha Mễn đã in (62 cuốn): https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html
như lương thực tinh thần, để biếu tặng bà con qua lại, thời Đại Dịch Covid-19, khi nhà thờ không có thánh lễ, không có giảng dạy, không có các lớp giáo lý, không có các sinh hoạt đoàn thể.
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 )
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (7 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12 13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (27 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (6 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6