Bạn thân mến, đau khổ mà năn nỉ thở than, phải chăng là biểu hiện một tâm hồn yếu nhược khuyết điểm?
Nhiều người nghĩ thế, nhưng trái lại, tôi tưởng than thở trong những phút phiền muộn, chỉ là tiếng tự nhiên của lòng người. Chúng ta không phải thiên thần, chúng ta là người có thân thể, là vật dễ cảm xúc nên mỗi khi gặp điều khó chịu, tự nhiên chúng ta phát lộ ra ngoài.
Những câu ca dao truyền tụng trong dân gian, biểu lộ tấm lòng đau đớn, đời nào mà không được ngâm đi học lại:
– Sống đời chinh chiến Vũ Thang, Cho nên phải chịu nhiều đàng đắng cay. – Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần. – Có con phải khổ vì con, Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Những câu như thế và trăm nghìn câu khác còn não nùng hơn nữa, đều tỏ rằng: Người ta khó tránh khỏi thở than trong những lúc sầu buồn.
Trong các sách cổ điển, chúng ta cũng gặp nhan nhản những lời than thở não nuột bi ai.
Cuốn “Cung oán” là gì, nếu không phải một tiếng đau da diết?
Cả cuốn “Chinh phụ ngâm” cũng chỉ là một lời than không dứt của một thiếu phụ xa chồng.
Quyển “Bần nữ thán” nào không phải những dòng nước mắt của một thiếu nữ nghèo?
Tại sao tôi nhắc tên những sách ấy? Là để đáp câu tôi nói lúc nãy: gặp đau khổ mà thở than đó chỉ là tiếng tự nhiên của lòng người. Mấy ai thoát được cái công lệ ấy.
Thật vậy, không những các người trần tục, những người chưa hiểu giá trị sự đau khổ, mà cả đến những bậc vĩ nhân, những bậc thánh nhân trong những giờ phút đau khổ, cũng phát ra những tiếng não nùng, những tiếng lòng.
Trong “Sấm truyền cũ”, không thiếu gì những truyện ấy, Bạn hãy mở ra mà đọc. Đây là vài đoạn làm ví dụ.
Ông Gióp ngồi trên đống tro đã làm gì ?
Ngài đã than những lời rất u uất; đọc lên, những người đa cảm không thể cầm nổi giọt lệ:
“Vô phúc cho ngày tôi đã sinh ra. Và cái ngày người ta nói: một người đã ra đời. Ước gì ngày ấy đã hóa nên tối tăm u ám, Ước gì Chúa trên trời đã không săn sóc đến ngày ấy, Ước gì ánh sáng đừng soi cho ngày ấy. Ước gì sự tối tăm đã bao phủ lấy ngày ấy, Và ngày ấy đã không được tính vào ngày trong năm. Ước gì đừng ai tính ngày ấy vào ngày trong tháng. Ước gì đêm ấy là một rừng hoang không cây cỏ. Ước gì không ai nghe một tiếng vui vẻ ở đấy…” (1)
Bạn thân mến, đó là tiếng than thở của các vị thánh nhân. Các Ngài là những bậc mến Chúa hơn ta nên đã hiểu mọi việc đều do Chúa Quan phòng, và sự đau khổ có một giá trị cao cả, thế mà, đứng trước đau khổ, các Ngài còn phải phát lên những tiếng não nùng bi ai như thế, huống chi những người phàm trần…
Các Đấng Thánh trong Đạo cũ đã thế, mà các Đấng Thánh trong Đạo mới, nhiều Đấng cũng vậy. Nhiều Đấng cũng đã kêu gọi sự chết đến, để các Đấng mau thoát cõi tù ngục tội lỗi và đau khổ này.
Tôi không dám nói: mong chóng chết là điều tốt hơn. Nếu ta mong chết, để hết phạm tội, để kết hợp cùng Chúa đời đời, thì cái mong ấy tốt. Nhưng ta mong chết, chỉ vì sợ chịu đau khổ, chỉ vì muốn “thoát nợ đời” thì cái muốn ấy không được cao thượng. Chính Chúa cũng đã quở trách ông Gióp.
Tôi chỉ muốn nói, nếu đôi khi Bạn thấy mình nản chí, gần như thất vọng, Bạn đừng bối rối, đừng ngạc nhiên vì chính các Vị Thánh cũng đã gặp những giây phút ấy.
Đây tôi xin thuật thêm vài truyện, để minh chứng lời tôi vừa quả quyết.
Trước là truyện Đức Mẹ – Như Bạn đã biết, Đức Mẹ đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem chầu lễ. Lễ xong, Chúa Giêsu ở lại, mà không cho Đức Mẹ biết. Đức Mẹ phải khó nhọc tìm Chúa trong ba ngày. Sau cùng, Đức Mẹ đã tìm thấy Chúa trong Đền Thánh. Bạn đã biết, giờ ấy Đức Mẹ làm gì. Đã hẳn, Đức Mẹ mừng lắm, nhưng vì đã tốn công tìm Chúa trong ba ngày, nên khi tìm thấy, Đức Mẹ đã phát lộ sự đau đớn ra ngoài “Hỡi con, con làm gì vậy? Con có biết, Thầy Mẹ đã phải khó nhọc đau đớn tìm con trong ba ngày không?” (2)
Đó chính là tiếng lòng, tiếng lòng đau đớn. Đã đành, Đức Mẹ là Đấng Thánh, nên trong khi Đức Mẹ thổ lộ sự đau đớn, Người không than trách như ta. Nhưng câu Đức Mẹ nói ấy cũng cho ta thấy rằng: Gặp sự đau đớn mà phát lộ ra ngoài, không phải một điều lạ; đó chỉ là sự phù hợp với tính tự nhiên của con người. Đó chỉ là tiếng của quả tim bằng thịt, là vật dễ rung động, dễ cảm xúc. Một việc cỏn con cũng đủ làm cho nó rung động, một nụ cười thân mật của người yêu, một cử chỉ vô nghĩa của người ghét… tất cả đều có thể làm cho nó rung động được.
Rồi như Bạn đã biết, Chúa Giêsu trong vườn Giệtsimani, Người đã làm gì. Đối diện với sự đau khổ Người sắp chịu trong ngày Thương khó, đứng trước những tội lỗi thiên hạ sẽ phạm sau này, nhìn thấy những sự tệ bạc của chúng ta, nhất là của những linh hồn Người yêu cách riêng, Chúa Giêsu thấy tim mình xúc động. Người phán: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được..”. Rồi Người than thở cùng Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được xin cất chén đắng này đi cho con…” (3)
Tiếng lòng đấy, Bạn ạ.
Chính Chúa, phải, chính Chúa là Đấng đã xuống thế gian để cứu loài người, chính Chúa là Đấng đã hiến toàn thân chuộc tội thiên hạ, chính Chúa là Đấng các Thánh Tiên Tri đã gọi là “Hiện thân” sự đau khổ, chính Chúa là Đấng đã hiểu giá trị sự đau khổ hơn mọi người, thế mà khi sự đau khổ đến, Chúa cũng đi tìm sự yên ủi, Chúa cũng xin Đức Chúa Cha cất chén đắng đi cho mình, nghĩa là xin cho khỏi chịu đau đớn…
Huống nữa là ta!
Nhưng Bạn đừng quên. Sau khi đã xin Đức Chúa Cha cất chén đắng đi, Chúa Giêsu đã không quên nói tiếp lời: “Nhưng xin tuân thánh ý Cha, chứ đừng theo ý riêng con.”
Hỡi linh hồn đau khổ, hỡi Bạn thân ái, Kinh thánh có lời rằng: “Ớ linh hồn tôi, sao mày buồn sầu cùng bối rối? Mày hãy trông cậy vào Chúa… ”(4)
Lời Thánh vịnh ấy, tôi cũng có thể dùng để nói với Bạn. Hỡi Bạn, sao Bạn buồn phiền bối rối? Sao lúc nào trên mặt Bạn cũng điềm những nét nhăn nheo, sao trên môi Bạn không lúc nào thấy nở một nụ cười? Sao đêm nào Bạn cũng khóc than? Sao Bạn chỉ muốn chết để thoát nợ đời? Sao Bạn nhìn thế giới như chốn tử địa? Sao Bạn không say sưa nhìn ngắm những ánh sáng tưng bừng của buổi sớm, nhất là những buổi rạng đông lộng lẫy của mùa xuân? Sao Bạn không khoan khoái khi đứng trước một cảnh trăng sao dầy đặc của mùa hạ? Sao Bạn không hưởng hết cái khí vị êm đềm ở nụ cười hồn nhiên của đứa trẻ? Sao Bạn không nhìn sâu vào đôi mắt trong suốt của đứa bé thơ, để nhận cho hết những cái đáng yêu đáng quí của một tâm hồn trong sạch?
Rồi những buổi mặt trời nhô trên mặt bể, rồi những lúc trăng lặn bên kia những lớp sóng bạc, rồi những đám lân tinh tung toé mỗi lúc mặt bể bị lay động… rồi những cử chỉ ân ái của người mẹ săn sóc đứa con nằm trên giường… rồi những cái chết anh dũng của người lính đã chết trên trận địa, để gìn giữ đất nước…
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, lúc mới 14 tuổi, cũng đã biết ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên và nâng lòng tới Đấng Cao Cả.
Sau đây là một trang rất êm đềm, đầy thi vị trích trong Truyện Một Linh hồn chính Người đã chép:
“Trước khi tới đích cuộc đi viếng, là La Mã, chúng con đã vượt qua nước Thụy Sĩ, có nhiều núi cao, ngọn tuyết trắng xóa, hòa lẫn với mây trời: có những thác nước đổ xuống trắng như màn bạc, có những thung lũng sâu hoắm, chi chít những cây cổ thụ, những bụi phượng vĩ to lớn, với những chòm hoa đỏ hồng.
Mẹ thân mến, cái phong cảnh thiên nhiên hữu tình đẹp đẽ, do một bàn tay bí mật tạo tác, khiến lòng con được ích lợi muôn phần. Nó nâng rước hồn con lên tới Tòa Đấng Tạo hóa, đã chẳng ngại ném xuống cõi tục, một mai sẽ đi vào hư vô, những công trình vĩ đại bao la ấy.
Thỉnh thoảng chúng con được lên đỉnh núi cao chót vót: đứng đấy nhìn xuống chân, thấy những vực sâu hoắm, không biết đâu là tận cùng, con có cảm giác như chúng muốn nuốt trửng chúng con. Xa xa hơn, chúng con lại đi qua một làng coi cũng xinh xinh với những nhà gỗ, với ngọn tháp thơ mộng cao quá tầm mắt, như đang đùa giỡn với những đám mây nhạt. Chỗ kia là chiếc hồ rộng, nước trong như lọc, mặt lặng như phản, pha lẫn màu xanh biếc với ánh nắng nhạt của ác vàng đang lặn.
Con biết tả sao cái cảm giác mê man trước cảnh hùng vĩ, đầy thi vị ấy? Con liên tưởng đến những cảnh vô cùng ngoạn mục trên nơi hằng sống… ”.
Rồi cái cảnh hiện tại đem lòng thiếu nữ tưởng đến đoạn đời tương lai:
“Khi ấy cũng như bây giờ, con cũng đã hiểu thế nào là cuộc đời đi tu: đi tu là phải sống trong khuôn phép nhiệm nhặt, sống với hy sinh hằng ngày, sống với trăm nghìn thứ kềm hãm trong âm thầm, trong kín đáo. Con đã biết, vì thế người ta có thể quên mục đích cao thượng của ơn kêu gọi dễ như không. Nên con đã răn mình rằng: Sau này được đi tu trong Nhà Kín, gặp bước gian nan hay bị những cám dỗ ám ảnh rằng: mình chỉ được xem có một quãng trời hẹp, lúc ấy tôi sẽ nhớ lại ngày hôm nay, tôi đã được đứng giữa cảnh thiên nhiên uy hùng lộng lẫy, với muôn cảnh ngoạn mục, để thêm can đảm mà tu thân tích đức. Nghĩ đến uy quyền toàn năng của Chúa, tôi chẳng còn thèm gì đến những lợi nhỏ nhen của tôi, tôi sẽ quyết chí yêu một mình Chúa, tôi sẽ không để lòng dính bén các loài thụ sinh rơm rác nữa, vì giờ đây, tôi đã được thoáng thấy những cái Chúa dành để cho những ai tận tình mến Chúa”.
Trong ngày lĩnh nhận bí tích Rửa tội, vị đại diện Chúa khuyên Bạn phải làm tôi Chúa trong sự vui vẻ. Là vì trong ngày ấy Chúa đổ ơn Thánh hóa đầy tràn linh hồn Bạn. Nhờ ơn Chúa Thánh hóa Bạn đã chiếm được chính hạnh phúc đích thực của Thiên đàng, ấy là chính Chúa. Linh hồn Bạn đã biến thành thiên đàng, vì có Chúa ngự trong ấy. Như thế, thì lẽ gì Bạn không vui? Cả trong khi bị đau đớn, bị bách hại, bị vu khống, già, chết, chân lý ấy cũng đủ yên ủi Bạn, và tiêm thuốc bổ vào người Bạn, vì ngay cho Bạn có thiếu hết mọi mùi hạnh phúc ở đời, Bạn mà còn giữ được ơn Thánh hóa, bạn vẫn còn vui được.
Bởi vậy, Thánh Phaolô đã kêu lên: “Tôi đầy tràn vui thú giữa những tai vạ của tôi”. (5)
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, trong lúc máu chảy tràn ra ngoài miệng cũng than thở: “Tôi thấy máu sôi lên trong cổ tôi, tôi tưởng tôi sắp chết và tim tôi vui mừng đến bị vỡ tan ra”.
Thánh Phanxicô khó khăn nói: “Sự buồn sầu chỉ xứng cho ma quỷ và các thủ hạ của nó; còn chúng ta, hãy vui mừng trong Chúa”.
Thánh Bênêdictô Láp (Labre), giữa lúc bị lũ trẻ chế nhạo, vì mặt mũi gầy còm, áo mặc rách tã, Người đã kêu lên: “Ước gì các em hiểu được hạnh phúc của tôi”.
Những lời như những lời ấy tôi không thuật lại hết được.
Nhưng tôi cũng xin thuật lại một truyện. Một hôm Bá tước Stolberg (Xi-tô-bê) gặp một cụ già đang khóc bên cạnh đường. Bá tước dừng lại, và hỏi cụ già sao khóc. Cụ già chỉ cho Bá tước xem đống gạch vụn của ngôi nhà cụ vừa bị thần hỏa thiêu. “Bây giờ tôi chỉ có một mình. Trước đây tôi cũng có gia đình. Nhưng giờ không còn sống một ai”. Bá tước thở dài: “Cụ già khốn nạn quá… ” rồi lấy tiền làm phúc cho cụ. Bỗng nhiên, như lấy lại được sức mạnh của Đức Tin, cụ đứng lên, nhìn thẳng vào mặt Bá tước, và nói: “Không, tôi không phải người khốn nạn. Mẹ tôi đã dạy tôi rằng: trên đời chỉ có một cái khốn nạn, ấy là tội trọng. Nhờ ơn Chúa, đời tôi chưa khi nào tôi dám phạm tội trọng. Tôi không phải người khốn nạn”. Không khác gì cụ già nói: Giữa những tai bay vạ gió này, tôi vẫn sung sướng, vì ơn Thánh hóa vẫn ở trong lòng tôi.
Bạn, hết những cái vui cái đẹp ấy, những cái có sức làm thỏa mãn lòng Bạn hoặc làm cạn những nguồn đau khổ của lòng Bạn ấy, cũng như những tấm gương anh hùng ấy, chính Chúa đã tạo nên, và đã tặng cho Bạn. Chúa có tiếc gì với Bạn đâu. Sao Bạn không nhìn nhận những lạc thú tự nhiên, hoặc siêu nhiên đầy yên ủi ấy. Bạn cứ mặt ủ mày chau, Bạn không muốn hưởng những thú vui trong sạch, Chúa đã dành riêng cho Bạn; những thú vui ấy, là con đường đưa Bạn đến niềm vui thật trên trời, miễn Bạn biết dùng cho nên.
Bạn hãy trông cậy vào Chúa. Chúa sinh ra Bạn không phải để làm khổ cho Bạn, Chúa sinh ra Bạn, để mai sau thưởng Bạn một cuộc đời sung sướng bất tuyệt, vô cùng vô tận… Và ngay lúc còn sống ở đời, Chúa cũng không bắt Bạn chịu khó quá sức Bạn.
Tôi xin nói lại, Kinh Thánh đã chép: “Anh em hãy làm tôi Chúa trong sự vui vẻ”. (6) Thánh Phaolô cũng viết thư cho giáo hữu thành Philiphê: “Anh em hãy vui mừng. Thầy nói lại, Anh em hãy vui mừng”. (7) Trong khi dâng lễ, biết bao lần chúng ta đã hát lời: “Gaudeamus omnes in Domino: Chúng ta hãy vui mừng trong Chúa”. Cả mùa Phục Sinh, trong khi dâng lễ, đọc kinh, Bạn thấy vang dội những tiếng Alleluia, chúng ta hãy vui mừng, hãy ca tụng Chúa.
Chính Chúa Giêsu cũng đã làm gương cho ta. Ngày Chúa Giáng Sinh, dù Chúa ra đời để chịu đau khổ chuộc tội ta, mà các Thiên thần cũng phán với các trẻ mục đồng: “Này ta đưa tin mừng cho các em” chứ không phải đưa tin buồn. Rồi các Đấng hát ca khải hoàn: “Gloria in allissismis Deo… Trên trời mừng Chúa hiển vinh”.
Trong khi còn sống, Chúa đã không nhiều lần dự các cuộc vui như tiệc cưới là gì?
Chúa đã muốn Bạn vui, Giáo Hội đã muốn Bạn vui, sao Bạn lại muốn làm trái lời Chúa, đi ngược với huấn lệnh của Giáo Hội?
Không, tôi hiểu Bạn lắm. Sở dĩ Bạn buồn phiền là vì Bạn chưa hiểu sự đau khổ, Bạn chưa biết dùng những phương thế giúp Bạn hưởng những thú vui trong sạch thanh cao, thú vui cả trong lúc đau khổ, thú vui vì được đau khổ.
Vậy thì như tôi đã nói ở trang trên, mấy trang này viết riêng cho Bạn, cốt giúp Bạn hiểu thêm ý nghĩa sự đau khổ. Hiểu thêm, để Bạn chịu khó cho nhẫn nại, chịu cho có công nghiệp trước mặt Chúa; hiểu thêm, để lúc nào Bạn cũng tươi cười, cái tươi cười của con cái Chúa, vui cười sung sướng để người khác cùng vui sướng lây.
Là vì, như người ta nói: “một vị thánh hay buồn, là một vị thánh đáng buồn”.
Tôi mong Bạn sẽ hiểu những điều tôi viết ra đây, và Bạn hãy vừa đọc vừa cầu nguyện để Chúa giúp Bạn hiểu xa hơn cả những điều tôi muốn viết, mà không viết được.
Chúc Bạn được như lòng tôi và lòng Bạn mong ước.
--------------------------------- (4) Tv 41,6 (5) II Cor. 7,4 (6) Tv. 99,2 (7) Phil. 4,4
Chắc Bạn còn nhớ truyện ông Adong Bà Eva ăn quả cấm. Ăn xong Ông Bà liền bị Chúa lên án phạt. Chúa phán với Bà Evà: “Ngươi sẽ phải đau đớn khi sinh nở, và phải chịu lụy chồng”. Và với ông A-dong: “Vì ngươi nghe lời vợ hơn nghe lời Ta, thì đất sẽ sinh ra gai góc cỏ rả… ngươi sẽ phải đầu tắt mặt tối, sẽ phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới kiếm được của mà ăn; khi chết, lại trở về với đất bụi”. (8)
Bạn thân mến, đó là một cái án, một cái án Chúa Tạo thành đã ra, và không ai có quyền hủy án ấy; án Chúa ra có một lần, nhưng kết quả của nó thì vĩnh viễn, nghĩa là bao lâu còn người sinh sống trên mặt đất thì bấy lâu án ấy vẫn còn, và vẫn còn thi hành triệt để. Không một ai thoát được án ấy, ông nào bà nào cũng vậy, từ cung điện nhà vua cho đến hang cùng ngõ hẻm, từ những người cầm đầu trăm họ, cho đến những người khăn rách áo ôm, không ai thoát được, vì nó là cái án chung cho ông bà, và cho toàn thể con cháu, không trừ một ai.
Vậy ta cũng chỉ là một trong các con cái cháu chắt hai ông bà, ta cũng có xác thịt có thể yếu đau, bệnh tật, có thể đói khát nóng lạnh, ta cũng có một quả tim dễ bị cảm xúc, ta cũng có một khối óc dễ bị kích động, ta cũng chỉ là một thân xác hay rữa mục, hay thối nát như mọi người, thì đau khổ chỉ là một điều rất tự nhiên và hợp với bản tính tự nhiên của loài người.
Nếu có lạ, thì lạ ở chỗ chúng ta sống mà không bị đau khổ… vì đó là một đặc ân Chúa ban cho hai ông bà trước khi phạm tội, nhưng khi hai ông bà đã đánh mất đặc ân ấy trong khi phạm tội rồi.
Cái án Chúa đã ra ấy, lại là một cái án công bằng. Ông Bà ta đã phạm tội, thì chúng ta phải phạt lây. Có lẽ Bạn cho thế là lạ. Nhưng, con cái hạng bình dân thì tự nhiên lúc sinh ra cũng chỉ bình dân như cha mẹ chúng, mà ai bảo thế là bất công. Ông Bà nguyên tổ ta đã phạm tội, thì chúng ta là con cái, chúng ta phải gánh lấy những hình phạt của hai Ông Bà, cái ấy có gì là bất công? Những cái hai Ông Bà không có, thì trối lại cho chúng ta sao được? Vậy sau khi Ông Bà phạm tội, thì chỉ còn những cái hợp với bản tính tự nhiên, mà trong những cái tự nhiên ấy, thì có sự đau khổ phải chịu vì tội: lẽ tất nhiên hai Ông Bà chỉ có thể trối lại cho ta những cái ấy mà thôi, còn sự sung sướng, là cái hai Ông Bà đã mất sau khi phạm tội, thì không lẽ trối lại cho ta được?
Và đây là điều yên ủi lòng ta.
Cái án rất công bằng Chúa đã ra để phạt tội Tổ tông và con cháu hai Ông Bà ấy, chính Chúa Giêsu và Đức Mẹ là những Đấng vô tội, mà cũng vui lòng lĩnh nhận như hết thảy chúng ta, mà hai Đấng còn vui lòng chịu gấp trăm gấp nghìn lần chúng ta nữa. Tôi không cần nhắc lại đây thiên “khổ sử” của Chúa và Đức Mẹ, ai là người công giáo mà không biết qua những đoạn “khổ sử” ấy.
Nhưng, Bạn yêu quí, nếu Bạn suy thêm điều này nữa, là điều tôi nói ở trang đầu, thì Bạn thấy rằng: Mặc dù Chúa đã lên án phạt tội tổ tông ta, nhưng án ấy hãy còn nhẹ lắm. Ấy là dù chúng ta đáng sống một cuộc đời hoàn toàn đau khổ để đền tội nhưng Chúa cũng không quên gửi tặng chúng ta trăm nghìn nguồn vui tự nhiên và siêu nhiên, để chúng ta đỡ phiền muộn cay đắng trên đường đời, để chúng ta hiểu thấu lòng nhân từ đại độ của Chúa. Chúa phạt, nhưng phạt vì công bằng, phạt nhưng không bỏ qua tình thương, mà có lẽ thương hơn là công bằng.
Vậy ta đừng phàn nàn than trách nữa, đừng mặt ủ mày chau nữa, đừng thở vắn than dài nữa; đừng kêu ca lẩm bẩm nữa; ta chỉ là con cháu Adong Evà, nghĩa là ta chỉ là người, như các người khác, thì ta hãy ghé vai chung lấy một phần đau đớn ở đời, ta hãy nhìn Chúa và Đức Mẹ, hai Cha Mẹ thân mến của ta, hai Đấng đã vui lòng lĩnh lấy Thánh giá của ta, riêng Chúa Giêsu đã vác thật, và đã chịu đóng đanh thật vào Thánh giá nữa, cũng vì ta, và thay cho ta. Vậy ta hãy bắt chước Hai Đấng mà vui nhận lấy Thánh giá Chúa gửi đến cho, ta hãy vui lòng nhận lấy án Chúa đã ra cho ta, cũng như đã ra cho cả loài người, ta hãy hôn kính Bàn tay nhân từ đã gửi những Thánh giá ấy đến cho. Dù ta cựa quậy đàng nào, dù chạy ngược chạy xuôi, ta cũng không thể thoát được án công bằng Chúa đã ra.
Vậy mà Bạn biết yêu mình, Bạn mà thực tình mến Chúa, thì xin Bạn hãy vui lòng lĩnh nhận hết những Thánh giá Chúa nhân lành gửi đến cho Bạn, Bạn hãy tươi cười để tỏ lòng Bạn biết vâng phục thánh ý Chúa. Bạn hãy hăng hái mà sống, không những sống cho xứng đáng làm người, mà còn sống cho xứng người Công giáo, hiểu thế nào là đau khổ, là giá trị sự đau khổ. Bạn không thể thoát được đâu, mà cần gì phải trốn tránh? Bạn hãy chạy đến ôm lấy Thánh giá có hơn không, như thế, có phải Bạn tỏ Bạn là “Bạn” không?
Tôi vừa nói: Bạn không thể trốn thoát được; thật thế, mà nhất là nếu Bạn đã phạm tội, thì, Bạn hãy đọc tiếp…
Bạn rất thân mến, dù yêu Bạn tha thiết, dù muốn luôn luôn chỉ nghĩ hay nghĩ tốt về Bạn, tôi cũng phải buộc lòng mà nói với Bạn rằng: Hỡi Bạn, chính những tội lỗi Bạn đã phạm, làm cớ cho Bạn đau khổ. Nói kiểu khác, chính Bạn đã làm cớ cho Bạn đau khổ.
Bạn hãy xét mình lại, từ nhỏ đến giờ, Bạn đã phạm biết bao giống tội, tội bề trong, tội bề ngoài, tội phạm một mình, tội phạm chung với người khác, tội lỗi Luật Chúa, tội lỗi Luật Giáo hội, tội lỗi bổn phận: bổn phận của người giáo hữu, bổn phận của người đi tu, bổn phận của bậc người mà Chúa đã đặt Bạn vào… Bạn thử ngồi mà tính xem, số tội ấy to tát, lớn lao, nhiều khi nặng nề chừng nào! Ấy là tôi chỉ xin Bạn tính những tội Bạn còn nhớ thôi, chứ nếu nhờ ơn Chúa soi sáng, Bạn lại nhớ được tất cả những tội Bạn đã phạm từ khi biết phạm tội cho đến ngày nay, không trừ một tội nào, thì tôi không hiểu, Bạn còn can đảm mà tính lại không, và tôi không hiểu khi tính lại như thế, Bạn có đủ sức để sống nữa không, hay Bạn sẽ chết vì rùng mình sợ hãi? Bạn sẽ bảo mình: “Thương ôi! Tôi đã phạm tội nhiều và nặng nề đến thế ư? Tôi đã làm phiền lòng Chúa nhân từ đến thế ư?”
Phải, Bạn đã phạm tội nhiều như thế đấy! Bạn đã làm phiền lòng Chúa đến thế đấy, và còn hơn thế nữa, vì Bạn không thể hiểu được tội làm phiền lòng Chúa đến mức nào.
Khổ một điều là sự dốt nát và nhất là lòng tự ái của chúng ta thường che lấp những tội chúng ta phạm đến Chúa và không cho thấy – ít ra theo sức loài người của chúng ta – tội lỗi là sự kinh khủng ghê gớm chừng nào.
Chắc Bạn cũng nhớ truyện vua Đavít, sau khi đã cả gan phạm hai tội ngoại tình và giết người, thì được Chúa sai Tiên tri Natan đến. Tiên tri lấy một ví dụ cho Vua hiểu tội mình. Một người giầu có, nhân một người bạn đến chơi, đã chẳng lấy một con trong đoàn vật của mình để thết tiệc bạn, lại cướp con cừu độc nhất của người láng giềng nghèo khó… Nghe vậy, Vua liền thịnh nộ và nhất định sẽ phạt nhà giàu ấy cho đáng tội. Tiên tri mới cho Vua hiểu: Người giàu đó chính là Vua, vì Vua đã cướp vợ ông Uria, trong khi Vua có sẵn trong Điện bao nhiêu thê thiếp. (9)
Xét về phương diện tôi đang nói ở đây, chúng ta đều giống Vua Đavít cả.
Vì yêu Bạn, vì tín nhiệm ở Bạn, tôi đoán Bạn chưa phạm tội trọng mất lòng Chúa; nếu được vậy, thì sung sướng nào bằng!
Tôi hãy tưởng tượng rằng: Bạn mới chỉ phạm một tội nhẹ, phải, dù Bạn mới chỉ phạm tội nhẹ mất lòng Chúa, thì Bạn ôi, Bạn cũng đáng chịu trăm ngàn sự đau đớn xác hồn và chịu cho đến tận thế, rồi chịu mãi trong luyện ngục để đền cái tội nhẹ ấy. Nếu Bạn hiểu được, tội nhẹ là cái gì, cái mà chúng ta gọi là tội nhẹ, trước mắt Chúa nó to tát chừng nào, thì Bạn sẽ vui lòng chịu hết mọi sự đau đớn phiền muộn ở đời để đền tội ấy.
Vậy nếu không có công nghiệp vô cùng Chúa Giêsu đền tội thay cho ta, thì dù ta ra sức đền một tội nhẹ cho đến tận thế, cũng không đền nổi, dù ta đành chịu lấy mọi sự đau đớn xác hồn một mình thay cho nhân loại, thì cũng không sao một mình đền được một tội nhẹ. Vì tội nhẹ là gì? Là một sự sỉ nhục đến Đấng Cao trọng vô cùng, đến Chúa tể càn khôn vũ trụ, cho nên phải có công nghiệp của một Đấng khác cũng cao trọng vô cùng, mới đền được tội nhẹ. Thế mà những sự đau đớn ta chịu thì có cùng, có hạn, lấy cái có cùng có hạn, để đền vào cái vô cùng, vô hạn sao được? Bởi thế, bao nhiêu sự khó Bạn chịu đời này, không thấm vào đâu với những hình phạt Bạn đáng chịu vì một tội nhẹ.
Huống nữa trong đời, Bạn cũng như mọi người khác, chúng ta đã phạm biết bao tội nhẹ, phạm nhiều đến không thể đếm, không thể nhớ được, thì không lẽ ta còn kêu ca khi phải chịu một hai sự khó để đền tội. Nhưng chốc nữa, tôi sẽ nói đến việc đền tội, bây giờ thì chỉ nói: Ta đã phạm tội, thì phải chịu phạt.
Bạn hãy nghe lời Chúa phán với Thánh nữ Catarina, người thành Xiêna: “Hỡi con, con có biết không, tất cả các thứ đau phiền một linh hồn phải chịu và có thể chịu được ở đời này, không thể đền được một tội nhẹ nhất.” Chúa phán tiếp: “Sự sỉ nhục làm cho Cha chịu là Đấng vô cùng, đòi phải có một sự đền tội vô cùng”. (10 )
Tôi nói lại Bạn hãy suy lời ấy, suy đi suy lại cho thấm thía, rồi Bạn sẽ thấy những hình khổ, những sự đau đớn Bạn chịu ở đời này chưa thấm vào đâu với sự đau khổ Bạn đáng chịu để đền một tội nhẹ, dù chỉ là một thứ tội nhẹ nhất.
Hơn nữa, Bạn ôi! Nếu trong đời Bạn, Bạn đã trót dại phạm một tội trọng, tôi chỉ nói ví dụ thế thôi, chứ tôi chắc Bạn chưa dám phạm tội trọng mất lòng Chúa, phải, tôi hãy tưởng tượng như Bạn đã phạm một tội trọng mất lòng Chúa, phải, chỉ một tội trọng chứ không cần nhiều, thì than ôi, Bạn có biết Bạn đáng chịu gì để đền tội trọng ấy không.
Bạn hãy nghe, để đền một tội trọng Bạn phải xuống hỏa ngục, không phải chỉ trong một hai năm, hoặc một trăm một nghìn, một triệu năm, không phải để chịu năm ba hình khổ, mà là để chịu hết các thứ đau khổ, và chịu cho đến đời đời… chứ bao nhiêu sự khổ khác ở đời này, không đủ để phạt một tội trọng. Bạn hãy xin Chúa cho Bạn hiểu thế nào là tội trọng, thì Bạn sẽ vui lòng chịu hết các sự đau đớn ở đời, để đền một tội trọng đã trót phạm ấy, và Bạn sẽ không thấy những sự khổ Bạn chịu là nặng nề quá, là đau đớn quá. Không những Bạn sẽ vui lòng chịu, Bạn lại còn ước ao chịu cho nhiều để đền tội quái gở ấy nữa.
Nói kiểu khác, nếu Bạn đã trót dại phạm một tội trọng, thì Bạn là người vượt hỏa ngục. Bạn hãy suy đi suy lại lời sau này của Thánh Ghêgoriô: “Khi chúng ta bị Chúa để cho chịu đau khổ, chúng ta hãy ôn đi ôn lại những lỗi lầm mà đau đớn trong thinh lặng, chúng ta hãy đặt trước mắt chúng ta tất cả những việc tội lỗi chúng ta đã làm, thì chúng ta sẽ thêm lòng thống hối ăn năn hơn là sẽ kêu ca lẩm bẩm”. (11)
Đàng khác, một khi đã “vượt được hỏa ngục” Bạn có dám chắc Bạn sẽ không rơi lại vào đó nữa không? Không, không ai dám chắc được điều ấy. Thánh Anphongsô dạy cho Bạn biết rằng: Bạn lại có thể sa vào chốn khốn nạn ấy, và chỉ một tội nhẹ, cũng có thể dần dần đưa Bạn đến tội trọng và như vậy là đẩy Bạn xuống hỏa ngục. Bởi thế, thay vì kêu trách Chúa khi gặp đau khổ, Bạn sẽ làm như Thánh Isidôrô, linh mục. Một hôm, một thầy tu sĩ thấy người nước mắt giàn giụa thì hỏi tại sao. Thánh nhân đáp: “Tôi khóc lóc tội lỗi tôi, vì nếu chúng ta chỉ phạm đến Chúa một lần thôi, chúng ta cũng không đủ nước mắt để đền tai nạn ghê gớm ấy”. (12)
Một lần, Chúa cho Bà thánh Catarina người thành Xiêna, được thấy một tí sự xấu xa của tội. Bà chỉ được thấy thoáng qua như chớp, thế mà Bà kinh khiếp đến nỗi máu trong mạch đọng lại, khiến Bà la lên kinh khủng. Sau Bà nói: “Nếu Chúa còn để tôi xem thêm một tí nữa thì dù thân thể tôi có bằng kim cương, nó cũng ngã chết tức thì”. Bà nói thêm: “Khi tôi nghĩ đến sự xấu xa của hình bóng một tội, tôi tưởng nếu Chúa không gìn giữ, tôi sẽ phải chết; và ở trên đời, nếu tôi ước ao cái gì, thì ấy là ước ao tả được những cái tôi biết và cảm trong mình, khi được thấy một tội; và nếu tôi phải chịu hết mọi thứ hình khổ của các Thánh Tử Đạo và của các kẻ dữ để làm cho người ta biết, và hiểu được sự quái gở ấy, thì tôi cũng cam lòng. Từ ngày Chúa thương cho tôi biết tội lỗi xấu xa thế nào, thì tôi không còn ngạc nhiên sao hỏa ngục lại ghê sợ đến thế, và lâu đời đời. Trái lại, tôi thấy các hình khổ trong hỏa ngục hãy còn nhẹ nhàng êm ái khi sánh với sự ghê tởm của một tội, vì hình bóng của một tội mọn cũng đủ làm cho tôi sợ hãi quá sức… ” (13)
Vậy, vì yêu Bạn tha thiết, mà tôi không muốn thấy Bạn than thở kêu ca, khi phải chịu đau đớn, phiền buồn. Tôi đau lòng khi thấy Bạn phải chịu đau đớn, khi thấy Bạn không được vui, nhưng tôi còn buồn phiền hơn nữa, khi thấy Bạn không chịu khó cho nên, nhất là khi thấy Bạn kêu ca lẩm bẩm, như trách Chúa sao để Bạn chịu khó nhiều như vậy. Chưa nhiều, Bạn ạ. Tội lỗi ta còn đáng cho ta chịu nhiều hơn nữa, chịu nhiều không thể tưởng tượng được.
Bạn đừng bắt chước người trộm bên trái trên thập giá. Anh ta đã kêu ca, đã oán Chúa, đã nói phạm… Bạn hãy bắt chước người trộm bên phải, nhẫn nại để đền tội. Và thực sự, người trộm lành đã đền được tội, và đã được Chúa hứa thiên đàng ngay lúc còn sống.
Có lẽ Chúa đã tha các tội cho Bạn. Tôi cũng mong thế. Nhưng Chúa đã thương Bạn, đã cứu Bạn khỏi hỏa ngục, khỏi luyện ngục lâu dài, thì Bạn lại không vui lòng chịu một đôi sự khó Chúa gửi đến để đáp đền ơn Chúa ư? Hỏa ngục, luyện ngục, ghê gớm lắm Bạn ạ, nhưng tôi sẽ nói sau.
Đây, tôi xin Bạn, nếu Bạn thực tình mến Chúa, hàng ngày Bạn hãy than thở cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa, bao nhiêu cũng được, miễn con chịu khó cho nên, và xin Chúa ban cho con được ơn chịu cho nên, cho nhẫn nại, không oán thán, không phiền buồn. Vâng, lạy Chúa, tội lỗi con đã phạm làm cho con đáng chịu những sự khó con đang chịu bây giờ, và trăm nghìn sự khổ sở đau đớn khác nữa. Con xin tin thật như vậy… Nhưng, lạy Chúa, xác thịt thì lúc nào cũng là xác thịt, nghĩa là nó vẫn yếu đuối lắm lắm, nên con dễ quên, thành thử nhiều phen con trách Chúa, nếu không trách ra ngoài miệng, thì cách con ăn ở cũng như con trách Chúa thật. Thôi, từ nay con xin cam lòng chịu hết các sự đau khổ hồn xác, Chúa sẽ thương gửi đến cho con. Xin Chúa giúp con nhẫn nại chịu cho hết.
Nếu cần, xin Chúa cứ gửi thêm thánh giá cho con. Con sẵn sàng lĩnh nhận hết mọi gánh nặng Chúa sẽ đặt lên vai con. Con chỉ cần sức mạnh của Chúa, vì có sức mạnh của Chúa thì con không sợ gì nữa, con không sợ, mà con lại sẽ sung sướng, vì được chịu khó; con không sợ, mà con lại sẽ ước ao, lại sẽ đi tìm chịu khó cho nhiều nữa… ”
“Lạy Đức Mẹ, xin giúp con chịu khó cho nhẫn nại như Mẹ xưa, để con đáng được gọi là con thảo hiền của Mẹ sầu bi. Amen”.
------------------------------- (9) 2 Sam. 12, 1-13 (10) Sách Dial. Đoạn III,1… (11) Sách Mor. III trang 12 (12) Ecole de Perfection religieuse, Cha Clément, trang 248 (13) Le Prêtre dans le Ministère: J. Bertihier quyển 1 trang 558 số 1662
Đoạn trên có vẻ khó hiểu lắm, phải không Bạn? “Chính Bạn làm Bạn đau khổ”. Cái lý luận ấy, hình như xa xôi quá nhỉ? Trong đoạn này tôi muốn minh chứng vừa đủ cho Bạn thấy, một số lớn các sự đau khổ ta chịu ở đời, chính chúng ta gây nên cho chúng ta.
Tôi hãy dùng mấy ví dụ.
Một anh chàng, ngày đêm mài miệt trong cuộc đen đỏ, không còn thiết gì đến chuyện làm ăn. Về nhà vợ con đay nghiến. Anh ta đã chẳng hồi tâm, lại còn đánh chửi đập phá.
Thế rồi, một lúc kia “ruộng nương bán hết, xỏ chân vào cùm”. Hết khổ cùm, đến khổ đói. Bao nhiêu bạn bè đều lảng hết, anh ta lang thang “tìm việc”. Nhưng tìm đâu ra?
Anh ta mới quay than thở, kêu trách, oán thán, nói phạm thượng v.v…
Nhưng phải đâu Chúa muốn làm anh ta đau khổ. Nếu anh ta biết nghe lời, biết chăm chỉ làm ăn như người khác, đừng bè bạn với “xóc dĩa”, với “tổ tôm”… thì ngày nay có đâu nên nỗi. Chả lẽ lúc anh ta đóng sòng, Chúa phải cho anh ta được luôn, dù anh ta chơi vụng… chả lẽ Chúa phải cho hết mọi con bạc đều được cả…
Thật là “lỗi tại tôi mọi đàng”.
Và đây, một anh bợm. Anh ta tài lắm. Bao nhiêu lần đào ngạch, bao nhiêu lần cướp của đều xuôi hết.
Nhưng, không may “đi đêm có ngày gặp ma”, anh ta sa lưới pháp luật. Và người ta đã mời anh ta vào dưỡng sức tại nhà đá… với cơm vôi nước đục.
Phải làm bạn với thần đói, thần rét, anh ta mới đâm ra chửi rủa, oán thán, oán Chúa đã làm anh ta đau khổ.
Thật là hết sức phi lý. Ai bảo anh ta đào ngạch khoét tường… ? Hay là Chúa phải bịt mắt cảnh binh, tuần tráng, để họ khỏi thấy những “thủ đoạn anh hùng” của anh ta?
Thật là “lỗi tại tôi mọi đàng”.
Và đây một chàng thanh niên tuấn tú dư tài dư lực… Thân thể cũng như tinh thần, anh ta là niềm hy vọng lớn lao cho gia đình, cho đất nước.
Nhưng anh ta đem hoài phí tuổi xuân với tài lực trong những cuộc truy hoan khả ố; ngoài những chuyện hành lạc cả ngày lẫn đêm, anh không còn tìm thấy lẽ sống ở chỗ nào nữa. Thế rồi đâm ra “nội thương ngoại cảm”, thủng phổi, thối ruột… bị đày ải trong xó nhà thương lẻ loi cô quạnh, bao nhiêu bạn “tom chát” không còn một người tới lui… Anh ta đâm ra oán ghét mọi người, oán ghét xã hội, oán ghét cả Chúa.
Nhưng ai bảo anh ta hành lạc, ai bảo anh ta hoài phí tuổi xuân?
“Lỗi tại tôi mọi đàng”
Và đây một thiếu phụ than thở: “Biết thế này, thì chẳng lấy nhau cho xong… Kêu khấn mãi mà cũng không thấy bằng yên…”
Nhưng chị quên rằng: trước khi lấy anh, người ta đã hết sức can ngăn, cha mẹ đã hết lời phản đối, vì anh chàng chỉ có cái mã… Chị nhất định không nghe… và quyết rằng sẽ gây được hạnh phúc cho nhau. Vả chị có bằng thì sợ gì… cha mẹ không bằng lòng, thì chị sẽ bỏ nhà ra đi… theo tiếng gọi của người yêu.
Nếu chị có biết nghe lời hơn lẽ thiệt, nếu chị đừng quá tin những tiếng đập dồn dập của quả tim, thì đâu nên nông nỗi ấy…
“Lỗi tại tôi mọi đàng”
Bà Phán được mỗi một mụn con. Bà coi hơn ngọc ngà. Nhưng Bà vẫn thắc mắc về cái tương lai của cháu. Bà nghĩ đêm nghĩ ngày. Sau cùng Bà tìm được một kế. Bà đem tiền đi hỏi thầy bói. Thầy gieo quẻ… quẻ khôn… quẻ càn… quẻ ly… quẻ tốn… gieo đi, gieo lại… hỏi ngược hỏi xuôi… ngày sinh tháng đẻ… hướng nhà hướng vườn… Sau cùng thày trịnh trọng tuyên bố: “Nguy đến nơi, ba tháng nữa, cháu sẽ bị một tai nạn lớn”. Bà Phán tái mặt, về nhà mất ăn mất ngủ… lo ngày lo đêm… đau khổ vì con…
Nhưng ai làm cho Bà khổ… Bà đừng đi hỏi thầy bói, có phải mẹ con tha hồ mà vui vẻ với nhau không?
“Lỗi tại tôi mọi đàng”.
Trước đây, trên nhiều quãng đường ở thành phố Hà Nội, người ta thấy sừng sững những tấm biển: “Đi mau quá, sẽ đưa anh đến… nhà thương không chừng… đề lao chắc chắn”.
Nhiều ông tài xế đã thấy chứ có không đâu. Nhưng các ông “bất cần”, cứ phóng bạt mạng, phóng cho hết tốc lực… Một hôm, cảnh binh đến làm “ăng két”! Hôm sau bác tài được đưa đi an trí… ba tháng… không lương.
Khổ… Khổ… nhưng người ta đã bảo bác “nhà lao chắc chắn…” Bác đã “bất cần” kia mà!
“Lỗi tại tôi mọi đàng”.
Thôi, Bạn ạ. Chúng ta “đừng trách lẫn trời gần trời xa…” chính ta đã nhiều phen tự gây họa cho mình! Chả có lý gì, Chúa phải luôn luôn ngăn tất cả những cái đau khổ… nhất là tự mình đã cố ý gây cho mình, tự mình đã làm cả những cái Chúa cấm. Chả lẽ Chúa phải cho hễ đánh bạc thì được, phải cho những anh học trò lười cũng đậu, những người trác táng quá độ không mắc bệnh tật, phải cho dù kết bạn cách mù quáng, gia đình cũng phải được yên vui.
Không, Chúa không thể làm thế và ai “đã gieo gió, thì phải gặt bão”.
Đọc Kinh thánh, ví dụ truyện Vua Đavít, chúng ta thấy rõ ràng, nhiều sự đau khổ đời này là do chính tội chúng ta gây nên.
Chẳng hạn: Vì mê bà vợ ông Uria, nên Vua đã dám ngoại tình với bà, rồi để che giấu tội lỗi của mình, Vua đã mánh khóe tìm cách gián tiếp giết ông Uria. Chúa liền sai tiên tri Natan đến quở trách Vua. Khi thấy Vua thực tình hối tội mình thì tiên tri nói với Vua: “Chúa tha thứ tội cho Vua, nhưng đứa con (ngoại tình) ấy phải chết”; cách ít lâu đứa bé chết thật. [14]
Lần khác Vua cho làm sổ kiểm tra dân số trong nước. Kiểm tra dân số, đâu có phải việc xấu, nhưng vua đã cho kiểm tra vì lòng xấu. Nên Chúa đã sai tiên tri đến nói với Vua rằng: vua phải chọn một trong ba hình phạt: một là trong nước bị ba năm đói kém, hai là phải kẻ thù địch đánh đuổi và phải trốn chạy trong ba tháng, ba là cả nước phải chết dịch trong ba ngày. Vua đã nhận hình phạt thứ ba, và trong ba ngày có bảy vạn người chết [15]
Và tôi có thể thêm truyện nước Do Thái bị chia sẻ làm hai vì tội vua Salomon.
Dù vậy, cả trong những nố kể trên, và các nố tương tự như thế, chúng ta vẫn thấy Chúa đầy tình thương. Mình đã chuốc lấy khổ cho mình, nhưng Chúa vẫn sẵn lòng tha thứ những lỗi lầm ấy. Rồi một khi đã quay về với Chúa, người ta lại có thể lợi dụng sự đau khổ chính mình gây nên, để đền tội, lập công, và chuẩn bị cho phần phúc thiên đàng.
Vậy nếu không may Bạn phải sa vào một trong những trường hợp kể trên, thì đừng thở than làm chi vô ích, và vô lý. Bạn hãy thành thực đấm ngực, ăn năn: “Lỗi tại tôi mọi đàng”, xin Chúa thứ tha, và lợi dụng ngay những cái đau khổ ấy để mưu ích lợi thiêng liêng cho mình.
Bạn hiểu chứ?
__________________ [14] II Sam. 11-12 [15] II Sam. 24
Hỡi linh hồn đau khổ, hỡi Bạn, Bạn còn nhớ câu chuyện người mù từ mới sinh đã chép trong Kinh thánh.
Một hôm, trong khi đi đường, Chúa và các tông đồ gặp một thiếu niên mù từ khi mới sinh. Các tông đồ thưa Chúa: “Thưa Thầy, người này mù từ khi mới sinh, tại lỗi nó, hay tại lỗi cha mẹ nó?”. Chúa phán: “Không phải tại lỗi ai, nhưng để làm sáng danh Chúa”. Rồi Chúa chữa em khỏi mù. (16)
Chuyện ấy nhắc nhủ ta rằng: Ở đời có những việc bề ngoài rất khó hiểu, người ta tìm cách giải nghĩa, mỗi người một cách, tùy theo học lực, trí tuệ, tùy theo giáo dục, tâm tình, tùy theo thành kiến của mình. Nhiều khi người ta đổ tại vật này, tại người khác. Nhưng biết bao nhiêu lúc người ta lầm: những lý lẽ người ta viện ra để bênh vực ý kiến của mình đều không có nền tảng, có khi trái sự thực. Công việc Chúa làm, nhiều khi rất bí nhiệm, chúng ta trí thấp hèn, không sao cắt nghĩa nổi. Mà chính Chúa cũng không cho ta hiểu, trước ngày Chúa đã định. Đến khi Chúa đã cho chúng ta hiểu và khi đã mở mắt ra, chúng ta mới nhận thấy rằng: những điều mà trước đây chúng ta đoán, hoặc đã cho là đúng, đều sai sự thật cả. Bạn xét lại đời Bạn xem, biết bao lần Bạn đoán một đàng mà công việc đã xảy ra một nẻo.
Vậy, Bạn thân mến, những sự đau khổ Chúa để Bạn chịu cũng thế… Trên kia, tôi đã nói, chính vì tội tổ tông và tội riêng Bạn. Nhưng nhiều lần, không phải tại lỗi Bạn, mà chỉ vì sáng danh Chúa.
Bạn ngạc nhiên: Bạn chịu khó thế này thế kia, sao lại làm sáng danh Chúa? Chẳng hạn Bạn nói: “Nếu cha mẹ tôi, chị em họ hàng tôi đi Đạo cả, hoặc giữ Đạo sốt sắng, tử tế, siêng năng đọc kinh cầu nguyện, có phải sáng danh Chúa hơn không? Bây giờ Chúa để họ còn chưa nhận biết Chúa… hoặc khô khan, hoặc sống trong tội lỗi, thì hàng ngày họ có thể làm biết bao điều phiền lòng Chúa… và chính tôi có lần đã muốn kêu trách Chúa, hoặc đã kêu trách Chúa thật… thì làm sáng danh Chúa sao được?”
Tôi nói một ví dụ. Khi Bạn ốm đau, Bạn phải dùng thuốc đắng, Bạn phải để cho người ta mổ, người ta đốt những chỗ có vết thương và chính cha mẹ cũng bắt buộc Bạn chịu. Cha mẹ đứng nhìn cũng đau đớn lắm, đau đớn đến chảy nước mắt ra được, và có khi cha mẹ, nhất là người mẹ muốn chịu thay cho con, nhưng cha mẹ đành cắn răng nhìn con đau khổ, hoặc nghe lời con trách móc, la rầy… Nhưng cha mẹ đành thế, không phải vì ghét con, cũng không phải vì ghét mình, mà chính vì yêu con, chính vì biết lo cho mình. Vì một khi con cái đã khỏi bệnh, thì những sự đau phiền cha mẹ và con cái chịu đều tiêu tan hết, và những sự đau đớn của con cái, lại là căn cớ cho cha mẹ vui mừng, con cái sẽ thêm lòng yêu mến cha mẹ, đã vui lòng chịu hy sinh đau đớn vì mình.
Vậy Bạn, Chúa để Bạn phải đau đớn cực lòng, có khi không phải lỗi tại Bạn, không phải vì Chúa vui khi Bạn khổ, nhưng Chúa đành như thế để rồi đây khi Bạn đã được như lòng sở nguyện, Bạn càng được vui mừng và càng mến Chúa hơn.
Vậy nếu Bạn chịu khó cho nên, thì Bạn làm sáng danh Chúa nhiều lắm, vì Bạn tỏ mình biết vâng theo thánh ý Chúa, Bạn biết bỏ mình, và hy sinh; chính những cái ấy, là những cái làm vui lòng Chúa, hơn những việc đạo đức người ta làm cách khô khan nguội lạnh, hoặc hơn chính việc cha mẹ, họ hàng anh em Bạn đi Đạo, hoặc ăn năn trở lại ngay lúc này, nhưng Bạn lại mất dịp làm sáng danh Chúa, bởi sự Bạn biết bỏ mình vâng theo Thánh ý Chúa.
Nếu Bạn hiểu rõ điều ấy, thì Bạn sẽ không ngạc nhiên, sao Chúa lại để Bạn chịu khổ như thế, sao Chúa lại để người thân yêu của Bạn làm phiền lòng Chúa. Một lời nói của người thân yêu làm Bạn vui lòng sung sướng hơn trăm nghìn câu truyện của những người ghẻ lạnh cùng Bạn, có phải không? Bạn hãy nhớ lại những khi Bạn được gần gũi những người thân yêu. Chắc Bạn còn nhớ lắm và những lời của những người ấy làm Bạn quên ăn quên ngủ, quên cả những lời của người khác làm mất lòng Bạn. Trái lại, những lời lạnh lùng Bạn được nghe hằng ngày của những khách qua đường, thì Bạn có nhớ đâu!
Với Chúa cũng vậy, vì thương Bạn, vì thấy Bạn mến Chúa, vì muốn cho Bạn mến Chúa hơn, nên Chúa đã muốn dùng dịp đau đớn của Bạn, để Bạn có dịp nhớ Chúa, có dịp than thở cùng Chúa, có dịp tuân theo Thánh ý Chúa, và vì thế, làm Chúa sung sướng trong lòng.
Bạn thân mến, bây giờ thì Bạn đã hiểu thêm được tí nào chưa? Bạn hãy cầu xin Chúa cho Bạn hiểu rõ những điều tôi muốn nói với Bạn. Bạn hãy suy cho thấm thía, thì hết những sự đau đớn của Bạn sẽ không làm cho Bạn buồn phiền nữa. Ôi, ước gì Bạn hiểu được, khi làm cho Chúa vui thỏa thì Bạn được sung sướng chừng nào, và đó là một hạnh phúc to tát chừng nào! Còn gì làm thỏa một linh hồn bằng thấy mình làm sáng danh Chúa, dù chỉ trong những việc rất nhỏ mọn. Bây giờ thì có lẽ Bạn chưa hiểu mấy, nhưng tôi hy vọng rồi đây, khi Bạn đã tiến xa trên đường nhân đức. Bạn sẽ càng hiểu, và khi ấy, Bạn sẽ cám ơn Chúa vì đã tìm dịp cho Bạn hiểu.
Xin Chúa ban cho Bạn hiểu được điều tôi mới nói với Bạn. Sung sướng chừng nào, nếu từ nay Bạn vui lòng chịu khó vì Chúa, nếu từ nay Bạn không còn xin Chúa cất sự khó đi, mà chỉ xin Chúa giúp Bạn biết chịu khó.
Tôi nói lại, điều tôi hết lòng mong ước lúc này là thấy Bạn vui lòng chịu đau khổ để đẹp lòng Chúa.
Bạn nghĩ sao?
Tôi mong ở Bạn một lời.
------ (16) Gioan, 9, 1-8. Xin Bạn hãy đọc cả đoạn phúc âm này, linh động tươi tắn vào hạng nhất của Phúc âm
Chắc Bạn chưa quên truyện ông Lagiarô. Ông này là em hai bà Matta và Maria. Hai bà thấy em ốm nặng thì sai người nhắn tin cho Chúa Giêsu, hy vọng Người đến chữa. Nhưng Chúa không đến, Người chỉ phán: “Bệnh này không đến nỗi chết. Nhưng sẽ làm sáng danh Chúa”.
Rồi Người cứ ở lại nơi Người đang giảng.
Ông Lagiarô chết.
Cứ bề ngoài, thế là xong. Hai chị em Matta, Maria xót xa đau đớn, khóc lóc thương em. Nhưng khỏi mấy ngày Chúa đến làng Bêtania, là làng của hai chị em. Và như Bạn đã biết, Chúa thổn thức trong lòng, vì thấy hai chị em khóc. Chúa cũng khóc theo.
Sau cùng, Chúa đã cho ông Lagiarô sống lại. (17)
Bạn thân ái, có lẽ Bạn cũng như hai bà Matta và Maria. Bạn khóc, khóc đã nhiều, không phải vì em Bạn chết, nhưng vì người thân mến của Bạn, người cha, người mẹ, người anh, người chị, người vợ, người chồng, người em, người họ hàng chết, không phải chết phần xác, nhưng là chết phần hồn. Bạn đã nhắn tin cho Chúa, mong Người đến chữa. Bạn mong đợi, mong đợi đã lâu, nhưng hình như Chúa không để ý đến lời Bạn thiết tha kêu mời, Chúa chỉ phán: “Bệnh này không đến nỗi chết”. Rồi Chúa như không lưu ý đến người thân yêu của Bạn đang nằm trên giường, và người ấy vẫn còn đau, vẫn còn ốm… còn Bạn, cũng như hai chị em Matta, Maria, Bạn vẫn khóc, mà Chúa vẫn ở tận đâu xa, vẫn làm thinh như không có chuyện gì.
Bạn đã sốt ruột lắm, Bạn đã gần nản lòng. Bạn nghĩ: hay là Chúa không nghe lời Bạn.
Nhưng, xin Bạn đừng quên: ngày trước, sau khi thấy hai chị em khóc, Chúa đã cho em hai bà sống lại.
Đó là một điều yên ủi lòng Bạn. Nếu Bạn cũng đã khóc lóc như hai chị em Matta, thì Bạn cũng sẽ được Chúa nghe lời như hai chị em. Đành rằng Bạn khóc đã lâu, mà Chúa vẫn chưa cho người thân yêu của Bạn sống lại. Đó là một việc bí nhiệm, ta không hiểu được, và cũng không cần hiểu, Chúa muốn như thế, thì ta hãy muốn như thế.
Nhưng Bạn hãy tin chắc rằng: cũng như xưa, Chúa đã để hai chị em khóc, rồi Chúa làm cho em hai bà sống lại, thì ngày nay, vì Bạn đã khóc nhiều, thì là dấu Chúa sắp cho người thân mến của Bạn sống lại.
Bạn có muốn tin không?
Có đâu Bạn không tin ở tình yêu vô cùng của Chúa! Không ai dám nói tiên tri, nhưng tôi cũng có thể nói với Bạn rằng: Bạn cứ hy vọng, cái ngày vô cùng sung sướng của Bạn, có lẽ sắp đến. Không ai dám hẹn đúng ngày với Bạn. Nhưng tôi trông cậy nó sẽ đến, và có lẽ gần lắm rồi. Tôi sợ lầm, nhưng Chúa không thể bỏ qua được những giọt nước mắt thống khổ của Bạn.
Ngày xưa, Bà thánh Mônica đã khóc lóc thảm thiết vì chồng vì con, trong hai mươi năm liền… mà hình như không thấy kết quả ở đâu. Thấy vậy, một vị Giám mục đã nói với Bà rằng: “Bà cứ an tâm, nước mắt bà đã đổ ra chả lẽ lại không có kết quả”! Và kết quả, là sau hơn hai mươi năm khóc lóc, Bà đã thấy chồng con trở lại trước khi chết.
Cũng có lần, Chúa không bắt chúng ta phải chờ lâu đến thế. Trong sách “Truyện một linh hồn”, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu có chép câu truyện này:
Một chị nhà tập, một buổi sáng đến thuật lại cho Thánh nữ giấc mộng của chị mới thấy ban đêm. Chị thấy mình ở gần một người chị hãy còn ở đời và sống một cuộc đời rất xa hoa. Chị nhà tập liền giải thích cho chị mình hiểu thế gian chẳng ra gì… và khẩn khoản nài xin chị hãy bỏ mọi sự mà theo Chúa. Hình như người chị động lòng lắm… Thấy vậy, chị nhà tập nghĩ, có khi Chúa muốn dùng mình để đem linh hồn kia về cùng Chúa. Chị liền hỏi ý Thánh nữ xem có nên xin phép viết thư về nhà không. Lúc ấy đang mùa Chay, mà Luật nhà không cho phép viết thư. Nhưng chị Nhà tập nghĩ, nếu đợi đến Phục sinh thì lâu quá… Thánh nữ Têrêsa nói: thử xin phép xem sao. Chị Nhà tập xin phép, nhưng Bà Mẹ Bề Trên không cho. Thánh nữ liền bảo chị: “Thôi, hãy chịu khó dâng việc hãm mình ấy cho Chúa, và cố gắng cầu nguyện hơn. Biết đâu đến cuối mùa Chay, lại đã không thấy kết quả”. Chị Nhà tập vui lòng dâng sự “sốt ruột” ấy cho Chúa và cầu nguyện nhiều hơn. Có ngờ đâu, Chúa đã nhận sự hy sinh ấy, và đến cuối mùa Chay, người chị kia đã từ giã cuộc đời xa hoa dâng mình cho Chúa.
Vậy, Bạn thân ái, không biết Chúa sẽ nhận lời Bạn ngay, hay sẽ bắt đợi lâu ngày, nhưng đàng nào tôi cũng có thể nói với Bạn rằng: không lẽ nước mắt Bạn đổ ra, hòa lẫn với bao lời cầu nguyện, bao việc hãm mình lại không có kết quả. Không, không lẽ người thân yêu của Bạn lại không được ơn ăn năn trở lại.
Chúa cũng đã phán: Người có thể làm cho những viên đá hóa thành con cháu Ông Abraham (18)
Vậy Bạn hãy tin vào tấm lòng từ bi nhân lành của Chúa. Bạn hãy trông cậy cho hết lòng hết sức. Bạn hãy trông cậy một ngày một hơn. Chỉ sợ một điều, là ta không trông cậy cho đủ. Chính Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu cũng đã nói: “Không khi nào chúng ta trông cậy Chúa quá”. Nếu Bạn trông cậy cho đủ, thì Bạn sẽ thấy những sự lạ lùng, Chúa làm cho những người hết lòng trông cậy Chúa. Chúa đã phán: “Ai trông cậy Ta, thì sẽ làm được những sự lạ lùng hơn chính Ta đã làm nữa… (19) Ai vững lòng cho tới cùng, thì sẽ được rỗi”. (20)
Thì cả pho Lịch sử Giáo hội, đã không minh chứng lời ấy là gì?
Phúc cho kẻ tin cậy, tin và cậy cả những lúc gần như không thể tin cậy được.
Tin đi, trông cậy đi, Bạn.
Phúc cho Bạn, nếu Bạn tin, thì Bạn sẽ thấy những điều Bạn ước ao bấy lâu thành sự thực.
Chúa sinh ra Bạn có một bộ mặt, lúc nào cũng hướng lòng lên trời là quê chúng ta. Vì thế, thức cũng như ngủ, lúc nào Chúa cũng muốn chúng ta nhìn lên trên ấy. Mà ngay sau lúc chúng ta đã bị chôn trong lòng đất, mặt chúng ta cũng còn quay về trời.
Nhìn lên trên ấy, nhìn lên trời để làm gì, hử Bạn? Để nhớ rằng: Cha ta đang ở trên ấy, Mẹ ta đang ở trên ấy, gia đình ta, cũng như những người thân yêu ta, đang ở trên ấy, và đang đợi ta. Ta hãy nhìn lên chốn cao xa ấy, ta có hết những cái làm ta mến chuộng.
Nhưng, làm thế nào để lên được chốn ấy? Có phải hạng người ăn uống say sưa, chè chén chơi bời, chỉ biết làm thỏa xác thịt hèn hạ không? Có phải hạng người ấy, và những hạng người khác giống họ không? Không, những người ấy, họ đã có một chỗ khác, một chỗ trái với chỗ tôi nói đây.
Còn Bạn, Bạn không vào hạng người ấy.
Tất nhiên chốn cao sang ấy, không phải ai cũng lên được. Chỉ có những người theo đúng như Chúa dạy, mới lên được.
Mà thương hại thay, được mấy người theo! Chính Chúa cũng đã than phiền rằng: “Con đường hẹp là đường đưa tới nơi hằng sống, thì có ít người đi”. (21)
Chúng ta đã được diễm phúc theo Chúa thì chúng ta phải nhất định theo tới cùng, nghĩa là cho tới ngày được vào chốn trường sinh vĩnh phúc.
Vậy phải làm gì để được phúc ấy? Bạn hãy nghe lời Chúa phán: “Ta là đường, là sự thật, là sự sống” (22) “Ai theo Ta thì không đi vào con đường tối tăm” (23)
Chúa là đường. Vậy đường ấy là đường nào? Phải chăng là đường đầy hoa hồng, phải chăng là đường đi ăn cưới? Không, Bạn hãy nghe: “Ai muốn theo Ta thì phải bỏ mình đi, vác Thánh giá mình mọi ngày mà theo Ta” (24). Đó là đường Chúa đã đi, đó là chương trình Chúa đã phác ra cho hết mọi người muốn theo Chúa. Ai rẽ đường khác, thì thế nào cũng lạc. Và nếu lạc, thì thương ôi, khốn nạn và đau đớn dường nào! Nhưng tưởng làm gì đến cái ngày đau đớn ấy, và tôi ước mong ngày ấy, không khi nào sẽ xảy đến cho Bạn, và cho tôi.
Vậy Bạn thân yêu, nếu chúng ta muốn ngày thê thảm ấy không xảy đến, thì có mỗi một phương thế: “Vác Thánh giá lập công” lập công, lập công, không có công nghiệp không thể nào lên thiên đàng được, vì thiên đàng là một phần thưởng. Vậy, nếu Bạn muốn lập công, muốn cho chắc được lên nơi hằng sống, lên nơi chỉ có hạnh phúc, và không khi nào mất được nữa, thì chỉ có mỗi một phương thế, chính Chúa đã chỉ cho ta, ấy là “vác Thánh giá”. Không vác Thánh giá, thì làm sao có công nghiệp… mà đã không có công nghiệp, thì đừng hòng lên chốn nghỉ ngơi. Bạn nghĩ sao? Lập công và chịu khó, đó chính là hai chị em rất thân yêu, không lúc nào rời nhau được.
Thánh Phanxicô Năm Dấu, một lần thấy mình bị những đau khổ đè nặng trên tâm hồn và trên thân thể, đã than thở lời này cùng Chúa: “Chúa ôi, xin hãy ghé mắt nhìn đến con, xin hãy cứu giúp con, xin hãy giúp con vui lòng chịu đựng những tật bệnh giày vò thân xác con”. Phanxicô liền nghe tiếng đáp lại: “Hỡi Phanxicô, con có biết cái làm cho chiếm được nước vô giá phải có giá trị thế nào không: con hãy biết các sự đau khổ con đang chịu có giá trị hơn tất cả tài sản thế gian, dù rằng tất cả núi non biến thành vàng, dù rằng tất cả các thứ đá biển thành hạt trai, dù rằng tất cả các nước biển biến thành dầu thơm”. Thánh Phanxicô đáp lại: “Vâng lạy Chúa, con cũng đánh giá các sự đau phiền Chúa gửi đến cho con: vì con biết Chúa muốn dùng các sự đau khổ ấy để phạt tội con ở đời này, để thương xót con đời sau”. Tiếng ấy lại phán: “Hỡi Phanxicô, hãy vui mừng đi, con đường con đang đi là đường đưa đến chốn hằng sống”.
Đành rằng Chúa Giêsu đã lập công đầy đủ và dư thừa cho ta, nhưng Thánh ý Chúa muốn cho ta cũng lập công chịu khó với Chúa, không phải vì Chúa thích bắt ta chịu khó, và lấy thế làm vui. Không, cha mẹ thật tình thương con không thể thấy con đau khổ mà vui sướng được. Chúa cũng vậy. Chúa không thể vui khi thấy ta đau đớn, nhưng vì Chúa muốn chính ta có công mưu sự sống đời đời của ta, nên Chúa đã muốn cho ta chịu khó một chút. Nếu ta chỉ có được thưởng mà không có một tí công gì, thì điều ấy có thể làm bớt sự vui sướng của ta. Nhưng ta thấy chính mình cũng có công tìm kiếm lấy phúc trường sinh, thì ta sẽ vui lòng và vui sướng sống cuộc đời đầy ải này.
Vậy ta hãy cám ơn Chúa, mỗi khi gặp điều khó chịu, vì như thế, là Chúa kính nể ta, Chúa muốn ta cộng tác với Chúa để tìm nước thiên đàng của ta. Dại gì mà ta ruồng rẫy thánh giá Chúa gửi đến cho!
Chắc Bạn muốn lên thiên đàng. Vậy Bạn hãy thông công các sự thương khó Chúa; Chúa muốn vậy và chính Bạn cũng phải muốn như thế, vì điều ấy làm vinh dự cho Bạn, và, tôi nói lại, còn gì sung sướng cho bằng khi thấy mình có công trong việc mưu hạnh phúc đời đời của mình. Xin Bạn từ nay đừng ca thán, khi phải chịu một hai điều sầu muộn, trái lại, Bạn hãy tự cho mình có phúc, vì được làm chính việc Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc Bạn, ấy là chịu khó.
Người ta thuật truyện, một Thầy tu sống rất khổ hạnh trong một khu rừng vắng… ngày đêm không lúc nào ra khỏi căn lều ẩm thấp chật hẹp… ấy là chưa kể đến những thứ hình khổ Thầy dùng để làm đau cho xác. Một hôm có mấy người quý phái đến thăm, họ hết sức ngạc nhiên, khi thấy Thầy tu hành hãm mình đến thế. Họ hỏi Thầy, thì Thầy đáp lại: “Xin các ông đứng gần cửa sổ kia, rồi tôi sẽ đáp lại”. Các ông liền ra đứng gần cửa sổ. Thầy tu hành hỏi: “Các ông có xem thấy gì không?” Các ông nói: “Chỉ thấy một cái tường có mọc rêu phong và một lỗ nẻ bằng cái bàn tay”. Thầy đáp: “Chính là cái giúp tôi chịu khó. Mỗi khi xác thịt muốn nổi loạn, thì tôi nhìn qua lỗ nẻ ấy và tôi thấy thiên đàng. Thiên đàng, ôi thiên đàng!” Thầy tu hành than lên mấy lời ấy, bằng một giọng rất cảm động, nét mặt như người ngất trí, khiến mấy nhà quý phái kia thổn thức đến tận đáy lòng. Về nhà, các ông liền thu xếp việc gia đình, rồi cùng nhau từ giã thế gian, dâng mình cho Chúa.
Kết luận: Nếu chúng ta cùng chịu khó cho nhiều và cho nên, thì ngày sau những sự đau đớn cũ sẽ không còn làm chúng ta phiền muộn nữa; trái lại những giọt nước mắt cũ sẽ là căn cớ cho chúng ta vui mừng, vì chính những giọt nước mắt ấy, đã làm cho chúng ta nên giống Chúa.
Đã cùng nên giống Chúa trong sự đau khổ, thì chúng ta sẽ cùng nhau hưởng nhan Chúa, và hát bài ca yêu mến bất diệt đời đời.
“Phúc cho ai ở đời này đã khóc lóc, vì đời sau sẽ được yên ủi” (25). Sự yên ủi Chúa hứa cho chúng ta ấy, không phải là sự yên ủi mau qua chóng hết như những sự yên ủi chúng ta gặp trên đời, nhưng là những sự yên ủi lâu dài đời đời, không khi nào hết nữa. Sung sướng thay! Nhưng muốn được thế phải đi con đường Chúa đã đi, là vui lòng vác Thánh giá.
Ta hãy cầu nguyện cho nhau được vui lòng vác Thánh giá hằng ngày mà theo Chúa.
Bạn nghĩ sao ?
---------- (21) Matt. 7,14 (22) Gioan 14,6 (23) Gioan 8,12 (24) Matt 16,24 (25) Matt 5,5
Bạn đã nhìn lên. Bạn đã ngắm phúc Thiên đàng, và chắc Bạn đã hiểu: Muốn lên chốn cực lạc ấy, thì phải chịu khó, phải đi đường Chúa đã đi: con đường ấy Bạn biết rồi, không phải đường đầy hoa hồng, không phải đường sống theo xác thịt; không, nó là đường đầy đau khổ, đường thánh giá, đường tử nạn. Chúa đã đi trước, và hết mọi người muốn theo Chúa, đều phải đi theo.
Nhưng, Bạn thân ái, vì muốn Bạn hiểu những điều tôi muốn nói cùng Bạn, vì muốn cho Bạn chắc được hạnh phúc, mà tôi nói thêm với Bạn một điều này nữa, một điều có sức giúp Bạn chịu khó cho nên:
Tôi xin Bạn: Hãy nhìn xuống.
Nhìn xuống đâu? Và nhìn xuống để làm gì? Bạn nán lòng chờ đợi, Bạn sẽ hiểu.
Bạn hãy nhìn xuống.
Trước hết, Bạn hãy nhìn xuống hỏa ngục.
Nếu trước đây, Bạn đã trót phạm một tội trọng thì chính là chỗ Chúa dành cho Bạn rồi. Chính nhẽ ngày nay Bạn phải ở dưới ấy rồi… Ở dưới ấy??? Lạy Chúa, ai hiểu được ở hỏa ngục là thế nào? Nếu loài người hiểu được hỏa ngục là gì, thì ai dám phạm tội nữa, nhưng người ta phạm tội trọng, là vì không hiểu hỏa ngục đáng ghê đáng sợ dường nào!
Trong sách “Thánh Mẫu Phương danh Kim thư”, Thánh Anphongsô thuật truyện sau này:
Vào khoảng năm 1604, tại một tỉnh thuộc miền Flandre (Phờ-lăng) nước Pháp, có hai chàng thanh niên trẻ tuổi tên là Richard (Risa) và René (Rơ-nê) cùng lưu học. Nhưng cả hai chẳng lo học tập, chỉ mải vùi đầu trong cuộc truy hoan…
Một đêm, hai người hẹn nhau tới vui đùa trong một xóm thanh lâu, mãi tới khuya Richard bỏ ra về, René vẫn còn mải vui ở lại.
Về đến nhà thay quần áo ngủ xong, Richard chợt nhớ lại, ngày hôm ấy chưa đọc ba kinh Kính mừng dâng Đức Mẹ như đã quen. Người mỏi mệt, mắt díp lại vì buồn ngủ, nhưng chàng cũng cố đọc cho xong mấy kinh Kính mừng thường lệ, vừa đọc vừa ngủ gật, tắc trách cho chóng xong rồi ngả lưng.
Vừa mới chợp mắt, chàng bỗng thấy có tiếng đập cửa, và liền khi ấy cánh cửa phòng tuy vẫn đóng, Richard kinh hãi thấy một người mặt mày hốc hác, thân hình tiều tụy, sừng sững đứng đối diện với chàng về phía cuối giường. Chàng thất đảm kêu lên:
– “Ngươi là ai?”
Người kia đáp:
– “Kìa anh, anh không nhận ra tôi à?”
Nghe tiếng nói, Richard nhận ra được tiếng René, bạn chàng. Chàng hỏi:
“Nhưng trông sao anh kinh hãi thế? Anh làm sao mà ra nông nỗi này?”
Người bạn rền rĩ nói: “Khốn nạn thân tôi!..Anh ôi, tôi bị đày… ”
Richard ngắt lời: “Nhưng vì cớ gì?”
– “Để tôi kể cho anh nghe. Khi tôi vừa bước chân ra khỏi căn nhà khốn nạn, mà chúng ta vừa vui chơi khi nãy, tôi liền bị một thằng quỷ bóp chặt lấy cổ, làm tôi tắt hơi. Xác tôi nằm ngang giữa phố vắng, hồn tôi bị dẫn đưa xuống hỏa ngục.
Về phần anh, anh ơi, giá không có mấy kinh Kính mừng hằng ngày anh dâng kính Đức Mẹ, thì có lẽ anh cũng đã cùng chung một số phận như tôi rồi, Đức Mẹ đã thương anh lắm, Người có ý dùng miệng tôi để bảo cho Anh biết liệu sớm ăn năn hối cải, mà lo tu tỉnh, kẻo chậm mất”.
Vừa nói, người bạn khốn khổ kia vừa mở rộng tà áo cho Richard trông thấy những ngọn lửa bùng bùng đương thiêu đốt, những nanh dữ tợn đương cấu xé anh. Đoạn anh lặng lẽ nhìn Richard, rồi biến mất.
Richard vội nhảy xuống giường, sấp mặt xuống đất, nước mắt chảy chan hòa. Chàng thực tình hối lỗi và thầm tạ ơn Đức Mẹ đã dủ lòng thương cứu giúp chàng.
Trong khi chàng suy nghĩ sửa đổi cuộc đời trụy lạc của mình, thì tiếng chuông cửa nhà Dòng gần đấy nhịp nhàng ngân hiệu báo sáng.
Tiếng chuông ngân dài trong sương sớm khiến Richard tưởng như tiếng Đấng chí nhân phán bảo: “Hãy đền tội, hãy đền tội”.
Chàng theo tiếng chuông, lần tới cửa nhà Dòng gõ cửa xin đi tu. Sau một cuộc điều đình rất khó khăn, Richard được nhận vào Dòng, ăn năn đánh tội…
Về sau chàng đem ơn Cứu chuộc đi thức tỉnh tội lỗi thiên hạ, qua đất Ấn, tới đất Nhật, và ở đấy, chàng được phúc chết vì đạo.
Bạn thấy chưa, chàng thanh niên trụy lạc kia, mới được thấy có một phần nhỏ hỏa ngục, mà đã kinh khiếp đến chừng ấy, và cái phần nhỏ mọn chàng được chứng kiến, cũng đủ làm cho chàng từ chỗ trụy lạc đến chỗ chết vì đạo. Huống chi, nếu chúng ta được thấy chính hỏa ngục, và cả hỏa ngục thì còn ghê gớm đến chừng nào nữa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu được đôi chút hỏa ngục là gì, và ban sức cho chúng con đừng khi nào dám phạm tội trọng mất lòng Chúa nữa.
Bạn thân yêu, chỉ nghĩ đến có ngày chúng ta có thể bị giam trong biển lửa sinh diêm ấy cho đến đời đời, mà tôi đã thấy ghê sợ kinh khiếp lắm rồi! Nhưng, lạy Chúa nhân từ, xin cứu chúng con khỏi cái ngày ghê sợ ấy.
Thôi, tôi chắc Chúa thương Bạn chưa phạm tội trọng mất lòng Chúa, hoặc có phạm, thì cũng ăn năn đủ rồi, và ta hãy xin Chúa thương gìn giữ ta từ nay đừng phạm tội trọng mất lòng Chúa, cho khỏi sa xuống chốn cực hình khốn nạn ấy.
Nhưng, tôi chắc được là Bạn đã phạm nhiều tội nhẹ mất lòng Chúa, phạm đến nỗi Bạn không thể nhớ được nữa… Và như Bạn biết: đã phạm tội nhẹ, thì tất nhiên phải bị giam cầm khổ sở trong luyện ngục để đền tội ấy.
Ôi ! Luyện ngục, chính vì chúng ta không hiểu luyện ngục là gì, nên chúng ta phạm tội nhẹ như không. Nhưng Chúa thì không coi tội nhẹ như không. Vì tuy chúng ta gọi những tội ấy là nhẹ, nhưng những tội ấy phạm đến uy quyền của Chúa là Đấng cao cả vô cùng đáng mến vô cùng và thương ta vô cùng; bởi thế, Chúa phạt tội nhẹ cách rất thẳng nhặt cả đời này, cả đời sau.
Dưới đây tôi sẽ thuật lại cho Bạn nghe mấy tích ghê sợ để Bạn hiểu một tí, thế nào là một tội nhẹ, và Chúa phạt nó thế nào.
Ngay ở đời này, Chúa cũng phạt tội nhẹ rất thẳng tay. Nhiều sự khốn khó chúng ta chịu hằng ngày, chính là hình phạt của tội nhẹ. Đôi khi Chúa phạt nhãn tiền.
Kinh thánh có thuật lại tích bà Maria chị ông Maisen, vì cả lòng kêu trách ông Maisen, mà Chúa phạt bà bị phong hủi… Chính ông Maisen, vì hồ nghi phép Chúa trong một phút, mà bị Chúa phạt không cho vào đất Chúa đã hứa cho tổ tông. Thương hại thay, trong ngót bốn chục năm, ông Maisen chịu biết bao đau đớn để đem dân Do thái về đất tổ phụ, thế mà lúc tới nơi, chỉ vì ông hồ nghi phép Chúa trong một phút, mà Chúa phạt phải chết ở ngoài. (26)
Bạn hãy nghe thêm truyện thánh nữ Magarita Maria kể về mình. Hồi Thánh nữ còn ở Nhà tập, một lần có sơ suất một điều nhỏ mọn, Chúa liền hiện ra và phán “Con phải biết Cha là một ông thầy thánh thiện, và dạy đàng thánh thiện. Cha là đấng trong sạch, và không chịu được một vết gì, dù rất nhỏ mọn”. Bà thánh nói tiếp: “Chúa phán những lời ấy bằng một giọng nghiêm nghị đến nỗi tôi thà chịu hết mọi thứ hình khổ, còn hơn phải nghe những lời công thẳng ấy”. Bà lại viết: “Một lần vì tôi đã để mình theo tính khoe khoang mà nói về mình tôi, lạy Chúa tôi, lúc tôi ở một mình, Chúa liền hiện ra quở trách tôi nặng lời: Hỡi tro bụi, mày có gì để khoe mình, vì tự mày, mày chỉ là không. Và để mày khỏi quên mày là vật gì, thì tao muốn cho mày thấy linh hồn mày bây giờ”. Nói rồi, Chúa cho Bà thấy thoáng qua cuộc đời của Bà, bản tính của Bà. Bức tranh ấy làm cho Bà ngạc nhiên và ghê tởm mình Bà, đến nỗi nếu Chúa không nâng đỡ, thì Bà phải chết vì đau đớn; đó là hình phạt Chúa phạt Bà, mỗi khi Bà để mình theo tính khoe khoang, tự phụ, khiến Bà đôi khi thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa, hoặc Chúa cho con chết đi, hoặc đừng để con thấy bức tranh ấy nữa”. Vì Bức tranh ấy khiến Bà chê ghét mình Bà và thù hằn với mình, và đàng khác, đức vâng lời lại không cho phép Bà phạt mình để đền tội như ý muốn, nên bà không thể tả được những sự đau khổ Bà phải chịu. (27)
Nhưng tôi không định nói đến tội nhẹ trong bài này, vì dài quá. Đây tôi chỉ muốn nói đến hình phạt Chúa dành để phạt tội nhẹ trong luyện ngục, nhưng chúng ta có thể trừ bớt hình phạt ấy dễ dàng như tôi sẽ nói sau đây.
Bây giờ tôi kể cho Bạn nghe vài câu truyện ghê sợ, Chúa phạt tội nhẹ trong luyện ngục như thế nào.
Những người theo tính xác thịt, lo ăn mặc cho đẹp mắt thế gian đã bị Chúa phạt kinh khủng.
Bà Maria Vilani, Dòng thánh Dominicô, rất có lòng sùng kính các linh hồn trong luyện ngục, hằng đọc kinh cầu nguyên cho các linh hồn ấy; nên nhiều lần Chúa cho các linh hồn hiện về cám ơn, hoặc xin cầu nguyện. Bà có kể rằng: Trong các linh hồn ấy, có một linh hồn phải chịu hình phạt rất ghê gớm. Bà động lòng thương thì hỏi linh hồn ấy căn do tự đâu. Linh hồn ấy đáp: “Tôi ở trong lửa này đã lâu, vì khi xưa, tôi thích ăn mặc cho xinh xắn, tôi hay sửa sang y phục cho đẹp mắt người đời… Từ khi tôi xuống lửa này, hình phạt tôi không giảm bớt tí nào. Khi tôi còn sống, chỉ lo ăn mặc, lo đánh phấn soi gương, lo chải tóc cho mốt, lo đi dự các cuộc lễ, các cuộc hội họp ăn chơi của người đời, và những sự vui thế gian, tôi ít nghĩ đến bổn phận của tôi, hay chỉ lo đến một cách thờ ơ gọi là… Tôi chỉ lo một điều, là cho người ta biết tôi và cho gia tài những người thân quyến tôi ngày thêm sung túc… Bây giờ thì xin Bà xem, tôi phải khốn nạn thế này đây. Những người nhà tôi không ai còn nhớ đến tôi nữa, cha mẹ, con cái, bạn hữu, những người thân yêu đều quên tôi hết”.
Bà Vilani xin linh hồn ấy cho mình cảm thấy một tí những sự đau đớn linh hồn ấy phải chịu. Bà liền thấy như có ngón tay bằng lửa chạm đến trán Bà, Bà thấy đau đến nỗi Bà hết cơn ngất trí. Đầu ngón tay đã đặt trên trán Bà sâu đến nỗi hai tháng sau, người ta còn nhận thấy, và vẫn làm cho bà rất đau đớn. (28)
Bạn yêu quý, bây giờ thì Bạn thấy: không phải vô cớ mà những người coi sóc linh hồn muốn cho Bạn ăn mặc đơn sơ. Những cái làm vui mắt thế gian rồi đây sẽ làm ích gì cho Bạn khi Bạn đã sa vào luyện ngục? Trái lại, như Bạn đã biết… Bạn đừng tưởng Bạn chết rồi, người sống sẽ thương Bạn, sẽ nhớ cầu nguyện cho Bạn… Không, nhiều người đã lầm. Họ có nhớ chăng cũng chỉ ít ngày rồi thôi. Thời gian trôi đi, với những công việc mới, với những người bạn mới, thì tình thương nhớ Bạn cũng nhạt theo… Đã không nhớ, còn cầu nguyện gì nữa.
Thì Bạn hãy suy sở chính mình Bạn… Bạn có nhớ đến những người thân yêu, những người bạn đã khuất không? Bạn có năng cầu nguyện xin lễ cho họ không… ? Suy bụng ta ra bụng người.
Vậy thì Bạn đừng khờ khạo, quá tín nhiệm vào người sống. Bạn hãy lo thương lấy mình trước, lo cho sau này khỏi phải sa vào chốn khốn nạn ấy, hoặc có sa vào, thì cũng chóng được ra, không cần phải có người nhớ đến Bạn mãi.
Cách ấy, là vui lòng chịu khó.
Xin Bạn nghe thêm truyện này nữa.
Những người lúc còn sống đã làm gương xấu, đã gây dịp tội cho người khác hãy nhớ rằng: rồi đây, nếu may mà còn được xuống luyện ngục thì không những họ phải chịu đau khổ vì tội riêng mình mà còn phải chịu đau khổ vì những tội họ đã làm dịp cho người khác phạm nữa. Và thứ hình khổ sau đó có lẽ lại nặng nề hơn các hình khổ phải chịu do chính tội mình phạm.
Trong sách về Luyện ngục có kể rằng: có một họa sĩ rất được mộ mến vì lòng đạo đức của ông ta. Lần ấy ông ta được mời đến vẽ tại nhà dòng các cha Camêlô. Ông ta chết ngay ở chỗ ấy.
Ít ngày sau, ông được phép hiện đến với một tu sĩ, khóc lóc kêu van giữa những ngọn lửa bốc cháy phầng phầng. Ông xin vị tu sĩ đoái thương cầu nguyện cho ông vì ông đang phải chịu đau đớn không thể nào tả được. Vị tu sĩ ngạc nhiên hỏi, tại sao ông đã sống một cuộc đời đạo đức gương mẫu như thế mà còn phải phạt nặng nề như vậy. Ông nói: sau khi vừa tắt hơi ông ta bị điệu đến trước Tòa Chúa phán xét, và ở đó, ông thấy có nhiều người phàn nàn vì nhìn một bức vẽ không trong sạch ông đã vẽ, nên họ đã có những tư tưởng, những ước muốn xấu xa, vì thế họ bị giam cầm đau khổ trong luyện ngục. Một số người khác còn đau khổ hơn, đang bị giam trong hỏa ngục, cũng rên rỉ tố cáo ông vì bức tranh nhơ nhớp bẩn thỉu của ông, khiến họ sa ngã và mất linh hồn. Cho nên ít ra ông cũng đáng phải chịu hình khổ như họ.
Lúc ấy một số các Thánh trên Thiên đàng hiện xuống bênh vực ông. Các Đấng nói rằng: bức tranh ấy ông vẽ lúc còn ít tuổi; về sau ông đã vẽ nhiều bức ảnh đạo đức khác để làm sáng danh Chúa và các Thánh thay vào rồi. Đàng khác, ông cũng đã làm nhiều việc phúc đức đền tội. Các Đấng xin Chúa khoan dung tha thứ cho ông nhờ những của bố thí ông đã làm. Nhờ những lời bầu cử ấy, ông được thoát khỏi hỏa ngục, nhưng ông sẽ bị giam cầm trong luyện ngục cho đến khi bức tranh dơ bẩn kia được hủy đi đã, để nó không còn làm gương xấu, làm dịp tội cho ai nữa. Ông nài nẵng xin vị tu sĩ hãy chịu khó đi tìm con người còn giữ bức tranh ấy, nài xin người ấy đốt nó ra tro, vì đó là điều kiện cần thiết để ông thoát được luyện ngục. “Nếu Thầy tả tình cảnh đau xót của tôi, chắc người ấy sẽ động tình thương mà hủy nó đi ngay. Để minh chứng tôi đã hiện ra thật với Thầy, thì xin Thầy hãy nói với người ấy rằng: ít lâu nữa, người ấy sẽ mất hai đứa con, để phạt tội đã giữ bức tranh lâu ngày. Nếu người ấy cũng không hủy nó đi, thì người ấy cũng sẽ bị chết non”.
Nghe những lời ghê gớm ấy, người kia liền vội vàng đốt bức tranh ra tro. Không đầy một tháng sau, hai đứa con ông bị chết. Còn ông, thì ông đã hết sức làm việc đền tội và đã xin vẽ nhiều bức tranh đạo đức để bù vào. (29)
Bạn muốn hiểu một sự khó mà chịu cho nên sẽ giúp Bạn bớt được bao nhiêu hình khổ trong luyện ngục không? Bạn hãy nghe câu truyện này:
Một chị nữ tu tên là Cecilia Avoyzdra (Avoara) một lần đến xin phép Bà Bề trên là Bà mẹ Emilia Dòng Thánh Magarita (ở Verceil) uống nước vì khát quá. Bà Bề trên nói: “Thôi, chị hãy chịu khát một tý, vì lòng mến Chúa và để cứu các linh hồn trong luyện ngục”. Chị đáp: “Thưa Mẹ, con nhịn khát thế này là việc hy sinh to quá, con chết khát mất”. Tuy có buồn phiền, nhưng chị cũng nhịn, không uống nước. Việc vâng lời và hãm mình ấy rất đẹp lòng Chúa. Mấy tuần sau chị chết. Cách ba ngày, chị hiện về cùng Bà Bề trên. Chị nói: “Thưa Mẹ, con cám ơn Mẹ, con cám ơn Mẹ dường nào! Vì con quá yêu gia đình nên chính nhẽ con còn phải phạt trong luyện ngục lâu lắm, nhưng khỏi ba ngày, thiên thần bản mệnh của con hiện xuống tay cầm một chén nước con đã hy sinh không uống ngày trước. Thiên thần đổ chén nước ấy xuống lửa, lập tức lửa tắc hết và con được ra khỏi luyện ngục… bây giờ con về thiên đàng, và không bao giờ con dám quên ơn Mẹ”. (30)
Vậy nếu có ai khuyên Bạn chịu khó cho vui lòng, thì không phải vì muốn Bạn chịu cho qua đi. Nhưng vì rằng: mỗi sự khó ta chịu cho nên, một sự hy sinh ta chịu vì muốn đẹp lòng Chúa, thì có công nghiệp trước mặt Chúa, và sau này có thể cứu chúng ta khỏi lửa luyện ngục. Nếu Cha giải tội muốn Bạn bỏ một hai sở thích, không phải vì Ngài thích làm khổ cho Bạn, nhưng vì nếu Bạn làm thế, thì sau này Bạn sẽ đỡ nhiều trong lửa luyện ngục. Hỡi Bạn, bây giờ thì Bạn đã hiểu cách Cha giải tội xử với Bạn. Bạn sẽ không khó chịu, khi thấy các Ngài bắt làm những điều trái ý Bạn nữa. Cần lắm Bạn ạ. Ngày sau Bạn sẽ cám ơn Cha giải tội, vì đã bắt Bạn làm trái ý Bạn.
Xin Bạn ghi những lời ấy vào lòng thì mọi sự Chúa bắt chịu, Bạn sẽ vui lòng lĩnh nhận để làm ích cho Bạn. Tôi tin ở Bạn và hy vọng từ nay bao nhiêu sự khó Bạn cũng lấy làm ít, Bạn yêu quí, từ nay mỗi khi Bạn thấy ngươi này người nọ, nhất là những người thân yêu của Bạn, làm những điều khó chịu cho Bạn, hay cằn nhằn, hay nói những lời xúc phạm đến lòng tự ái của bạn, hoặc khô khan, không chịu đọc kinh, dâng thánh lễ… Bạn hãy dâng những sự cực lòng ấy cho Chúa, để cứu các linh hồn trong luyện ngục và để đền vào trăm nghìn tội nhẹ Bạn đã phạm và còn phạm sau này nữa.
Nếu khi chết, chúng ta được đi thẳng vào thiên đàng, không phải qua lửa luyện tội, hay chỉ qua trong ít ngày, trong mấy giờ, thì còn vui thú nào bằng… tôi cầu chúc Bạn được ơn quí trọng ấy. Tôi hy vọng, nếu Bạn chịu khó cho nên thì Bạn có thể được ơn ấy lắm!
“Lạy Nữ Vương các Linh hồn Luyện ngục, xin thương xót chúng con cùng. Chúng con xin vui lòng dâng các sự khó chúng con chịu cho Mẹ, hợp với những sự đau đớn của Chúa và của Mẹ để đền tội chúng con đời này, và đời sau. Amen.”
---------
(26) Num 20,6-13 (27) Histoire de là Bse Marg. Marie. Mgr Bougaud, trang 146 (28) Trích trong sách Dogme du Purgatoire của Cha Schouppe, S.J (29) Lấy trong sách Livre d’or des Âmes du Purgatoire của L.m Benoit de J. trang 74 (30) Trích trong sách Dogme du Purgatoire của Cha Schouppe, S.J
Bạn thân yêu, đây là bức thư của một linh hồn đầy lòng ký thác trong tay Chúa. Tác giả nó là một học sinh trường Đệ tử, độ 17 tuổi, tuy còn ít tuổi, nhưng Bạn đọc rồi sẽ thấy, em đã học được đức phó thác trong tay Chúa, không kém những người tập đàng nhân đức đã lâu.
*****
Huế, 15-6-42
Thăm Thầy yêu dấu.
Em gửi thư thăm Thầy, vì có một sự tình cờ mới xảy đến cho em là em phải về luôn. Vì là Thánh ý Chúa, nên em viết mấy hàng thăm Thầy. Năm học vừa qua, em vẫn luôn luôn khoẻ mạnh, công việc học hành cũng có phần hết quả. Tưởng là Chúa chọn em sau này nhưng ai ngờ ý Chúa mầu nhiệm, Ngài muốn định em đi lối khác, nhưng đàng nào? Em còn tối tăm chưa thấy chút gì hết. Vậy vì lòng mến Chúa Giêsu, xin Thầy cầu cùng Chúa soi sáng chỉ đàng cho em luôn luôn, và điều em nguyện ước hơn hết là đừng bao giờ chán nản ngã lòng, nhưng luôn luôn phải tin cậy Trái tím Đ.C.G. và Đức Mẹ, luôn luôn cầu nguyện theo ý Thánh Anphongsô.
Em trông nơi lời cầu nguyện của Thầy lắm lắm…
Đó không phải là vì sức khoẻ, mà là vì lẽ ngăn trở riêng ở gia đình em.
Cám ơn Thầy hết sức…
Nay thư.
*****
Đọc xong bức thư ấy, Bạn có cảm tưởng gì? Một người hãy còn trẻ tuổi, đức hạnh có, minh mẫn có, được thầy yêu, được bạn mến, hết sức theo đuổi ơn Kêu gọi… Nếu là người thường, thì đã than thở, đã oán trách gia đình. Nhưng người này thì không. Em ấy đã ký thác mọi sự trong tay Chúa và Đức Mẹ. Em không xin gì khác, chỉ xin bền lòng theo ý Chúa.
Một tấm gương hy sinh hiếm có, một tấm gương ký thác cảm động.
Bạn thân ái, trong đời Bạn, rồi không thiếu việc đau đớn như thế. Có lẽ Bạn đã gặp. Nếu chưa thì Bạn hãy chờ, nó sẽ đến, mà có lẽ càng lâu càng nhiều, khiến Bạn không kịp xoay sở. Bạn sẽ bị người đời bỏ vạ, sẽ bị họ nghi ngờ cho Bạn những điều không có, họ sẽ phao những điều rất quái gở có thể làm tổn hại danh tiếng của Bạn. Mà điều làm Bạn đau đớn hơn cả, là họ sẽ làm Bạn mất thanh danh ở những người Bạn tin yêu nhất trên đời. Nhiều người đã gặp, và tôi nói trước để khi đến lượt Bạn, Bạn đừng ngạc nhiên, và có đủ can đảm chịu cho nhẫn nại.
Nhiều người không xấu bụng, họ không có ý làm mất thanh danh ta để họ sướng. Không, nhưng vì họ bị một ý tưởng quá mạnh ám ảnh, nên trong khi phán đoán, họ không làm chủ mình. Những người ấy trước mặt Chúa, nhiều khi họ không có tội hay cùng lắm chỉ có tội nhẹ. Đã đành, Chúa không yêu những lời nói hại đến thanh danh người khác, nhưng chắc một điều, là Chúa muốn chúng ta chịu cho nhẫn nại, Chúa thích nhìn xem ta chiến đấu cùng sự đau khổ, Chúa ở cạnh ta, Chúa không để ta mồ côi. Mặc dầu cả thế gian mưu hại ta, nhưng nếu Chúa ở cùng ta, ta đừng ngại, đừng sợ: Cây ngay không sợ chết đứng. Và lời Thánh Phaolô: “Nếu Chúa ở cùng ta, thì ai làm gì được ta?” (31) Lời ấy ta hãy đem ra suy ngắm để thêm sức mạnh.
Tôi không muốn nói: Bạn không được bầu chữa cho mình. Không, nhiều khi Bạn có nghĩa vụ phải tự bầu chữa. Nhưng không khi nào được làm hại đến thanh danh người khác trái đức thương yêu và công bình. Vậy khi nào Bạn có quyền và có thể, lại có nghĩa vụ bầu chữa, để cứu vãn tiếng tốt của Bạn, Bạn hãy làm việc ấy trong sự bình tĩnh, và nếu có thể được, Bạn hãy bàn hỏi trước với Cha linh hồn, hoặc người nào khôn ngoan, kẻo lúc Bạn muốn cứu vãn tiếng tốt, Bạn lại mất tiếng tốt thêm, như đã xảy đến cho nhiều người. Hoặc sẽ làm phiền lòng Chúa là điều quan trọng hơn tiếng tốt của Bạn. Ngoài ra, Bạn hãy phó thác mọi sự trong tay Chúa và Đức Mẹ.
Nói đến đây, tôi sực nhớ lại mấy câu truyện rất ý nghĩa.
Trước là truyện Thánh Giêrađô. Thánh Giêrađô là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế. Thầy là người rất thánh thiện, đã từng làm nhiều phép lạ lúc còn sống. Các Đấng Bề trên không bắt bẻ được điều gì, và rất có lòng tôn trọng Thầy. Nhưng Chúa đã để cho Thầy gặp một sự khó rất nặng. Thầy bị cáo gian về tội dâm dục. Chúa để cho Cha Bề trên cả lúc ấy là Thánh Anphongsô lầm và phạt Thầy rất nặng, trừ việc đuổi ra khỏi Dòng. Thầy Giêrađô nín lặng không tìm đàng chữa lỗi.
Chúa không thể chịu thua lòng anh hùng khẳng khái ấy. Sau Chúa cho Thánh Anphongsô biết mình đã bị lừa và từ đấy càng tin yêu Thầy Giêradô hơn trước.
Rồi chính Thánh Anphongsô cũng bị một sự rất đau phiền, có một không hai trong lịch sử các Thánh. Chính Người là Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, đã làm Giám mục và chép bao sách vở để bênh vực Giáo hội và Đức Giáo Hoàng. Người đã làm cho bao nhiêu người ăn năn trở lại, đã làm cho bao nhiêu phép lạ, đã nói bao lời tiên tri… Thế mà về cuối đời, Chúa đã để cho chính Đức Giáo Hoàng lầm và đuổi Người ra khỏi Dòng. Thánh Anphongsô đã làm gì trong cơn đau đớn ấy ? Người chỉ nói một câu: “Ý Đức Giáo Hoàng là ý Chúa”; chỉ có thế, không hề ca thán nửa lời. Người lại còn can những người muốn nhắc đến việc ấy. Sau chính Đức Giáo Hoàng đã phạt Người lại hết sức lo cho Người được phong thánh.
Và đây là truyện Thánh nữ Têrêsa Cả, Đấng sửa lại luật Dòng Kín Camêlô (ta thường gọi tắt là Dòng Kín).
Hồi Têrêsa vào Dòng Kín, tuy trong dòng vẫn còn nhiều người ăn ở đạo đức, nhưng ta cũng phải công nhận rằng, cái tinh thần siêu việt của Dòng Kín, khi ấy cũng bị giảm giá đi nhiều. Người thế gian thường năng lui tới chuyện trò, làm các Chị mất thời giờ, chia trí, và xa dần cõi thánh thiện.
Phải chứng kiến cái cảnh suy sụp ấy, Têrêsa đã làm gì? Têrêsa đã khóc, khóc rất nhiều, ngày thì khóc với Chúa trước Nhà Chầu, đêm thì khóc một mình trong phòng vắng… Têrêsa chưa cho thế là đủ. Một tiếng bên trong âm thầm, nhưng mãnh liệt, thúc bách Têrêsa phải làm một việc khác, một việc có hiệu lực hơn nước mắt: Têrêsa được lệnh Chúa dạy, sửa lại luật Dòng Kín để chị em giữ luật nghiêm ngặt như lúc dòng mới sáng lập.
Công việc ấy nào phải một trò chơi. Lập dòng còn dễ, chứ sửa luật dòng không phải chuyện dễ. Làm thế nào để vượt được một lớp người đã từng theo một khuôn khổ nhất định, một cái khuôn khổ đã đành không hoàn thiện, nhưng chưa đến nỗi đốn mạt. Têrêsa biết, và chính Chúa cũng tỏ cho Têrêsa biết, sẽ phải vượt qua nhiều đoạn trường gian lao, trong khi thi hành sứ mệnh Chúa đã ủy thác. Nhưng đã sẵn có một tâm hồn quảng đại và khẳng khái, Têrêsa nhất định đương đầu với hết mọi nỗi khó khăn, để thi hành đúng lời Chúa.
Thấy nói đến việc sửa luật dòng, thiên hạ bắt đầu xôn xao bàn tán: “Chà, cái cô mặt tươi như hoa hồng ấy mà nói chuyện sửa luật dòng à? Dễ thường cô tưởng các bà các chị trong dòng, là bọn người hư thân cả chắc!?”
Không những họ nói, không những họ cười, không những họ nhạo, họ còn xử tàn tệ hơn nữa. Hỏa ngục như đã một phen đắc thắng: vì không những chỉ có những người phần đời, là những người xưa nay vẫn thường lui tới làm hại các chị, không những chỉ có các chị em dòng “Ngôi Hai Giáng thế” là dòng Bà đang ở lúc ấy, mà cả đến nhiều vị linh mục cũng ra mặt phản đối và công kích. Có những nhà giảng thuyết lên tòa giảng công nhiên bỉ báng xỉ mạ Bà, họ cho Bà là người giả hình, là đứa kiêu ngạo, là con dở người, là phường rối đạo… Cha Bề trên Tỉnh Dòng Camêlô nhất định không cho Bà làm theo ý Bà. Thêm vào đấy, chính cha linh hồn của Bà cũng hùa với dư luận để cấm đoán công kích Bà. Nhưng, như ta đã biết, Bà Thánh đã qua hết các cơn giông tố phũ phàng ấy, và đã sửa lại được luật Dòng Kín như chúng ta thấy ngày nay.
Những truyện ấy chứng minh cái gì, thưa Bạn? Những truyện ấy chứng minh câu nói trên kia: Bạn hãy phó thác mọi sự trong tay Chúa và Đức Mẹ. Và ở đây tôi nói thêm: Chúa và Đức Mẹ sẽ có thừa kế, để gỡ tiếng tốt cho Bạn.
Vậy gương người thanh niên viết bức thư kia rất có sức yên ủi Bạn, trong khi Bạn bị những điều đau đớn bất ngờ, nhất là khi không phải lỗi Bạn. Bạn hãy nhìn nhận tay Chúa trong hết mọi sự. Nếu Chúa không thích cái việc xảy đến, vì ở trong ấy có tội, thì ít ra Chúa muốn Bạn dùng dịp ấy để chịu khó và để tỏ lòng Bạn tin cậy kính mến Chúa.
Xin Bạn ghi sâu vào lòng và ngày ngày cầu xin cho được như vậy, không thế, thì sự đau đớn không làm ích gì cho ta, trái lại, chỉ làm thêm đau khổ, đời này đã vậy, mà có lẽ cả đời sau.
Chắc Bạn chưa quên lời Chúa phán trong Kinh Thánh: “Không có tình yêu nào mạnh mẽ bằng vui lòng chết cho bạn mình” (32)
Thật thế, nếu yêu mà không hy sinh một tí cho người yêu, thì tình yêu ấy nếu không giả dối, thì cũng không mặn mà gì.
Và tình yêu cao cả ấy ta gặp thấy ở đâu? Ta thấy nhất là ở người mẹ. Người mẹ, đó là công trình tuyệt diệu của Chúa, một công trình hoàn hảo về tình yêu. Người mẹ yêu con và hy sinh mọi sự cho con. Bởi thế, Bạn thấy Chúa dạy con cái phải yêu mến cha mẹ, chứ có thấy nói cha mẹ phải thương yêu con cái đâu, là vì cái tình yêu ấy nó tự nhiên đến nỗi không cần phải truyền dạy.
Yêu và hy sinh, đó mới thật là yêu. Và tôi nói lại, ta gặp thấy nhất là ở người mẹ.
Nhưng Bạn đã thấy người mẹ nào chết thay cho con chưa? Còn Chúa, Chúa đã dạy ta biết rằng: không tình yêu nào to tát bằng tình yêu của kẻ chết cho người mình yêu. Chúa đã dạy thế, và Chúa cũng đã thi hành đúng như thế.
Vậy, Bạn thử xét mình lại xem. Bạn đã kính mến Chúa chưa? Thực ra, khó biết được chúng ta đã mến Chúa đến chừng nào. Nhưng may, Chúa đã cho ta cái đấu để đong tình yêu. Cái đấu ấy, chính là chịu đau khổ cho người mình yêu. Vậy nếu ta chưa chịu khổ cho Chúa, nếu ta còn năn nỉ khi gặp đau khổ, nếu ta còn chạy xuôi chạy ngược để tránh đau khổ, thì Bạn ơi, ta không cần nhọc trí xét mình, ta cứ chắc rằng: ta chưa mến Chúa tí nào, hay chưa mến Chúa là mấy. Nếu vậy thì đáng lo.
Nhưng có một điều, là ngày nay, Chúa đã sống vinh quang trên thiên đàng, chúng ta không thể chịu khó thay cho Chúa được nữa. Vậy làm thế nào? Lại một cái may. Chúng ta hết thảy là một thân thể mầu nhiệm mà Chúa là Đầu. Ta không thể chịu khổ cho Đầu là Chúa, thì ta có thể chịu khổ thay cho các phần của thân thể ấy.
Kinh thánh có một đoạn rất hay: đoạn tả ngày phán xét chung. Ngày ấy, Chúa sẽ phán xét ta về những việc đã làm để giúp đỡ người khác: Ta có cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống không, ta có thăm viếng kẻ liệt, kẻ bị đày ải trong nhà ngục không, ta có yên ủi những người đau đớn không?… Tôi chắc Bạn đã thuộc lòng cả đoạn ấy. (33)
Vậy nếu Bạn thật lòng mến Chúa, thì Bạn hãy chịu khó thay, hoặc với những người đau khổ. Chúa muốn thế và Chúa sẽ thưởng Bạn gấp trăm gấp nghìn trên chốn trường sinh. Vì cũng trong đoạn Phúc âm ấy, Bạn thấy Chúa chỉ nói với kẻ lành và thưởng họ về những việc thương người, việc họ đã giúp đỡ những người phải giúp đỡ. Sao thế? Là vì kẻ đau khổ là những linh hồn được Chúa yêu dấu cách riêng, yêu như con ngươi trong mắt Chúa. Thì chính Chúa đã phán: “Hễ cái gì các ngươi làm cho một kẻ rốt cùng trong anh em Ta, thì Ta kể như làm cho chính mình Ta… cái gì các ngươi không làm cho một ngươi rốt cùng trong anh em Ta, thì Ta kể như không làm cho ta” (34)
Thánh Martin lúc còn đang học đạo, một lần đi ngựa, thấy một người khó khăn nằm bên đường, rét run lẩy bẩy. Thánh nhân động lòng thương dừng ngựa lại hỏi han người ấy. Nhưng đến khi muốn làm phúc, thì trong túi không có một xu. Ngài liền lấy gươm đeo bên mình, cắt một mảnh áo khoác trao cho người nghèo, rồi đi. Đêm ấy, Ngài mơ thấy Chúa, ngự giữa các thiên thần, khoác tấm áo Ngài mới cho người kẻ khó, và phán với các thiên thần: “Đây là tấm áo, Martin tuy chưa tin Ta, đã cho Ta… ”.
Câu chuyện ấy chẳng qua chỉ là để giải thích rõ ràng, lời Chúa đã phán lúc sinh tiền, mà tôi thuật lại trên kia.
Các Thánh hiểu rõ điều ấy lắm, nên không ngần ngại hy sinh, có khi hy sinh cả tính mệnh cho người khác vì lòng mến Chúa.
Một vị linh mục hỏi Thánh Gioan Maria Viannê, chính xứ Art:
“Nếu Chúa cho Cha chọn, một là bay thẳng về thiên đàng, hai là ở lại thế gian để chịu khó, Cha sẽ chọn đàng nào?” Thánh nhân đáp: “Tôi chọn ở lại thế gian”. Vị linh mục kia hỏi: “Nhưng trên thiên đàng các thánh được hạnh phúc lắm kia mà!” – “Phải, nhưng trên thiên đàng, các thánh là những người ăn lương hưu trí: Các đấng không thể chịu khó thêm cho Chúa được nữa”. – “Nhưng nếu Chúa cho Cha chọn, một là bay thẳng về thiên đàng, hai là ở lại thế gian mà chịu đau khổ cho đến tận thế thì Cha chọn đàng nào?” – “Tôi chọn ở lại”. – “Vậy thì Cha sẽ còn sống lâu lắm, như thế Cha có nhất định cứ thức dậy thật sớm nữa không?” – Thánh nhân không ngần ngại đáp lại: “Có chứ, tôi sẽ cứ thức dậy từ nửa đêm. Vì cha thấy, tôi yêu chịu khó lắm”.
Sống đến tận thế, và đêm nào cũng vậy, cứ thức dậy từ nửa đêm để cứu các linh hồn, đó là ý nguyện của Thánh Gioan Maria Viannê.
Trong truyện các Chân phúc Tử đạo Việt Nam, chắc Bạn cũng biết truyện Chân phúc Mỹ.
Ông làm lý trưởng trong làng. Sau khi bị bắt với nhạc phụ, là người đã có tuổi, cả hai cha con đều bị tra tấn kinh khủng… Ông Mỹ sợ rằng cha mình vì già cả thì sẽ không chịu được tra tấn mà bỏ đạo, nên đã xin chịu tra tấn thay cho cha, nhờ vậy, cả hai đã được phúc chết vì đạo.
Nói tóm lại: Nếu Bạn muốn tỏ mình mến Chúa hết lòng hết sức như lời Chúa đã phán, nghĩa là chết cho bạn mình, mà Bạn phải yêu ai bằng Chúa, thì Bạn hãy chung khổ với những người đau khổ, phải đỡ đần họ, yên ủi họ… và nếu Bạn được chịu một hai sự khó để tỏ tình yêu họ, thì Bạn hãy lấy thế làm sung sướng, vì như vậy, là Bạn đã tỏ lòng Bạn mến Chúa, và mến thật, chứ không phải chỉ mến ngoài miệng…
Nhưng thôi, tôi sợ ra ngoài đề. Bạn đã hiểu.
Chúc Bạn thành công.
---------- (32) Gioan 15,13 (33) Matt 25,31-46 (34) Matt 25, 40 và 45
Bạn thân yêu, chúng ta phải mến Chúa, đó là nghĩa vụ chính của đời chúng ta. Đời không mến Chúa, tức là đời bỏ đi. Nhất là những người có nghĩa vụ phải mến Chúa thay cho người khác, hoặc muốn đi vào con đường ấy, thì càng phải mến Chúa hơn. Tôi chắc Bạn muốn vào sổ những linh hồn ấy.
Vậy Bạn phải làm gì? Bạn phải vui lòng chịu đau khổ cho nhiều, vì chỉ có thế, Bạn mới tỏ mình mến Chúa thật.
Nhưng, còn một nghĩa vụ đi liền với nghĩa vụ ấy cũng đòi hỏi phải chịu đau khổ nhiều. Bạn muốn biết nghĩa vụ ấy, thì hãy nghe lời Chúa phán: “Hết cả lề luật gồm trong hai việc: mến Chúa và yêu người”. Hai nghĩa vụ ấy, không lìa biệt nhau được, hễ mến Chúa, thì cũng yêu người, ai không yêu người, thì cũng không mến Chúa. Chắc Bạn đã hiểu điều ấy, tôi không cần giải thích ở đây. Tôi chỉ muốn nhân cái chân lý ấy nhắc lại một điều ít người quan tâm.
Bạn hãy nhìn quanh Bạn, Bạn sẽ thấy ngổn ngang những người, hoặc chưa biết Chúa, hoặc đã biết Chúa nhưng lại thờ ơ lãnh đạm với Chúa, hoặc khốn nạn hơn nữa là thù ghét Chúa.
Đây là mấy con số, giúp Bạn hiểu hiện trạng mà tôi cho là đáng thương của đạo Công giáo. Hiện nay trên thế giới có chừng 3 tỷ (3.000 triệu) người. Trong số ấy mới chỉ có chừng 540 triệu là công giáo. Như vậy là hãy còn ngót 2 tỷ rưỡi người chưa phải công giáo. Hoặc lấy tỷ lệ mà nói cho dễ hiểu, trong 100 người mới chỉ có 18 người là công giáo, hay nói cho già giặn lên, thì 100 người trên thế giới mới được 20 người là công giáo. (20 phần trăm). Con số ít ỏi lắm thay ! Còn những 80 phần trăm trong loài người chưa phải công giáo.
Nếu chúng ta cộng cả số anh em không công giáo, nhưng có tin Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ được con số hơn 900 triệu. Đem con số ấy so với nhân số trên thế giới, thì chúng ta sẽ thấy: mới chừng 30 phần 100 trong số nhân loại nhận biết có Chúa Giê su.
Bạn nên nhớ đó là công trình vất vả mồ hôi, nước mắt và máu của ngót hai mươi thế kỷ giảng đạo.
Riêng về Á-châu, có 1.533 triệu dân. Trong số ấy mới chỉ có 30 triệu là công giáo, nghĩa là cứ 100 người Á châu thì mới có 3 người là công giáo.
Lúc này Giáo hội nói rất nhiều đến anh em ly giáo (nghĩa là những anh em cùng tin Chúa Giêsu, nhưng không nhận quyền Đ.G.H.) thì chúng ta thấy, số các anh em ly giáo cũng bằng 2 phần 3 số anh em công giáo.
Số 80 phần trăm chưa phải công giáo, số 2 phần 3 anh em ly giáo, cũng là những con số phải làm chúng ta bận lòng. Và mỗi người chúng ta phải thấy mình có bổn phận gì đối với các anh em ngoài công giáo ấy.
Cố nhiên, ngày đêm, Chúa khát khao cho họ chóng trở về với Chúa. Cả đời Chúa, nào không phải là để đi tìm chiên lạc ư? Còn gì làm cho Chúa sung sướng bằng một người có tội ăn năn trở lại! Chúa có thể làm việc ấy một mình, không cần đến ai. Công nghiệp Chúa đã dư đủ: Chỉ một lời Chúa than thở cùng Đức Chúa Cha, chỉ một giọt mồ hôi, cùng lắm chỉ một giọt máu, cũng đủ cứu chuộc thế gian này, và nghìn vạn thế gian khác. Nhưng không, Chúa không làm thế. Chúa đã muốn chịu hết các thứ hình khổ, cho đến chết, cái chết nhục nhã nhất trong lịch sử loài người. Như tôi vừa nói, dù công nghiệp Chúa đầy tràn vì nó vô cùng, nên không cần có ta cộng tác vào, để lo việc cứu thế, nhưng Chúa lại muốn chúng ta cộng tác vào việc cứu linh hồn anh em ta.
Chúa muốn thế, thật là một điều vinh hạnh cho ta. Một người lính được chịu khổ để chống giữ đất nước cho khỏi quân thù xâm lăng, thì vinh hạnh nào bằng!!!
Vậy ta được cộng tác với Chúa, để cứu các linh hồn anh em ta, thì còn gì sung sướng cho ta bằng, hỡi Bạn?
Nhưng cũng như Chúa đã đổ hết máu mình để cứu chuộc ta, thì ta, nếu muốn cứu chuộc anh em ta, nghĩa là nếu ta muốn đem người khác về cùng Chúa, nếu ta muốn thiên đàng thêm số kẻ hầu hạ ca tụng Chúa đời đời, thì đời này ta cũng phải bắt chước Chúa nghĩa là cũng phải chịu khó, vì đó là đường chắc chắn đem ta đến thành công, nghĩa là đem anh em ta lại cùng Chúa. Xin Bạn cầm trí lại mà suy điều ấy, nhất là hãy xin Chúa soi sáng cho Bạn hiểu được điều ấy, vì xác thịt tự nhiên không muốn và không thể hiểu được. (35)
Ôi! Còn gì sung sướng cho người mẹ bằng thấy một đứa con mình đã khó nhọc vất vả, liều chết cho bao lần, ngày nay đã thành danh phận. Bà không nói ra, nhưng mỗi lần nhìn thấy đứa con đau khổ của mình, Bà không khỏi ngậm ngùi, khi nghĩ lại tất cả những sự nhọc nhằn hy sinh mình đã chịu xưa cho nó, ngậm ngùi nhưng không đau đớn, ngậm ngùi mà cảm động.
Vậy còn gì sung sướng cho Bạn bằng sau này, Bạn thấy linh hồn ấy linh hồn nọ, nhờ Bạn đau khổ mà được ơn cứu chuộc và được rỗi linh hồn! Còn sung sướng nào bằng cái sung sướng ấy không? Chắc Bạn muốn lắm. Cái sung sướng ấy, nhiều người đã được, và tôi cầu chúc cho Bạn cũng sẽ được. Tôi cầu chúc cho Bạn, vì tôi chắc Bạn thật tình yêu các linh hồn như Chúa đã yêu và vẫn còn yêu. Vậy thì phải chịu hy sinh, hy sinh cho nhiều, phải chịu đau đớn, chịu đau đớn cho nhiều, chịu cho nhẫn nại, chịu cho can đảm, chịu vì lòng mến Chúa để cứu các linh hồn. Nếu chỉ chịu vì phải chịu, thì không ăn thua mấy. Nhưng tôi đâu dám nghĩ cho Bạn chịu khó mà lại lẩm bẩm, kêu ca phàn nàn, than thở.
Can đảm lên, Bạn!
Nhất là, xin Bạn chú ý, nhất là nếu trong những người tội lỗi khô khan kia, lại có một hoặc nhiều người trong gia đình Bạn, trong những người đã lấy máu đào mà tác thành nên Bạn, trong những người mà ngày đêm làm bận trí óc Bạn, nếu có những người ấy, thì Bạn ơi, Bạn càng phải vui lòng chịu đau khổ cho nhiều, để cứu vớt những linh hồn ấy. Linh hồn người ta quí trọng lắm, Bạn ạ. Cần phải đổ máu. Chúa đã đổ trước rồi, bây giờ đến lượt chúng ta, cũng phải đổ máu: “Không đổ máu, không có ơn cứu chuộc”, lời Kinh thánh đã dạy.(36)
Bạn đừng tưởng Bạn phải đổ máu như các Thánh Tử Đạo. Nếu Chúa ban ơn ấy cho Bạn thì còn hạnh phúc nào bằng và tôi thành thực mừng Bạn trước.
Nhưng Bạn nên nhớ, ở đâu cũng có máu và ở đâu cũng đổ máu được.
Bạn hãy nhìn bàn tay Bạn, nó lấm tấm máu.
Bạn hãy sờ lên ngực Bạn, nó đầy những máu.
Bạn hãy liếc nhìn cuộc đời Bạn, nó cũng máu là máu…
Máu, ấy là sự nhẫn nại của người vợ đối với người chồng tàn nhẫn, rượu chè, thất trung, lúc nào cũng bất mãn. Máu, là sự người chồng tha thứ người vợ bép xép, nhẹ dạ, đàng điếm, ăn chơi, hay chấp vặt quá đáng.
Máu, ấy là cách cư xử tàn tệ của một người cha vô liêm sỉ, một ngươi dì ghẻ, một người mẹ vô phúc chỉ biết hành hạ những đứa con nhỏ không biết tự vệ.
Máu, ấy là sự bỏ tất tưởi, nhục nhã, bị khinh chê, khốn khó mà các người già lão tàn tật phải chịu vì những con cháu bạc bẽo vô ơn.
Máu, ấy là những sự bất công chán chường, những sự khuynh gia bại sản, những sự bóc lột, những lời vu khống mà một số người vô tội phải chịu.
Máu, ấy là những công việc mà Bạn phải làm hàng ngày, ở gia đình, ở xưởng thợ, ở bàn giấy, ở lớp học, ở cạnh những người đau ốm và trẻ em.
Máu, ấy là những tang tóc cắt xé tim Bạn, ấy là tính nết hư đốn của một đứa con Bạn rất quý, ấy là sự bạc bẽo của một người mình yêu, ấy là cảnh biệt ly của một người thân ái.
Máu, là Bạn ở lặng lúc bị người ta vu oan, lúc bị người ta làm nhục; Máu, ấy là sự khôn ngoan cẩn thận để giữ đức thanh khiết; Máu, ấy là sự cố gắng để giữ lấy ơn Thánh hóa, ấy là những sự hy sinh Bạn bắt mình phải chịu để chu toàn bổn phận.
Máu, ấy là cảnh hàn vi thanh bạch với tất cả những sự nhục nhã, thiếu thốn, lo lắng kèm theo.
Máu, ấy là sự yếu đau, bất tài bất lực, khiến Bạn thấy mình vô dụng.
Máu, ấy là tư tưởng tối tăm của một ông chủ nhà, khi nghĩ đến cảnh túng quẫn của gia đình, vì ông chưa có công ăn việc làm độ thân.
Máu, ấy là sự sầu khổ của một số đông thiếu nữ, không được đi tu như lòng ước vọng.
Nếu Bà là người Mẹ Công giáo thì kìa Máu chảy tràn trong tim Bà. Nhưng Bà đừng quên, nhờ sự đau khổ mà triều thiên Bà được thêm quý báu. Muốn cho gia đình thêm vinh hiển tức là phải thêm đau khổ, thêm xé ruột, thêm thức khuya, thêm hy sinh, thêm nước mắt, thêm lo lắng, thêm hấp hối, thêm sầu muộn.
Máu, có thiếu đâu! Ở đâu cũng có máu! Chỉ thiếu những linh hồn biết lợi dụng sự đau khổ để cứu chuộc thế gian. Và thiệt hại chừng nào, khi người ta để hỏng bao nhiêu dịp cứu chuộc.
Hỡi Bạn, là Bà Mẹ Công giáo, Bà đang đau đớn vì con cái hư thân; hỡi Bạn, là người vợ đau đớn vì chồng phụ bạc; hỡi Bạn là người con đau đớn vì người cha tội lỗi, các Bạn đừng than thở kêu ca vô ích, hãy nghĩ đến Thánh Mônica. Những sự đau khổ của các Bạn sẽ mua được ơn trở lại cho người này, hoặc ơn vững vàng cho người kia.
Đức Mẹ có chức linh mục đâu, nhưng Người đã là Đấng Đồng công Cứu chuộc.
Bạn không được phúc tế lễ trên Bàn thờ, nhưng Bạn có thể dâng mình làm của lễ trên Bàn thờ, và như thế, cuộc đời của Bạn sẽ biến thành một lễ Misa liên lỉ, Bạn sẽ làm sáng danh Chúa, Bạn sẽ cứu được các linh hồn.
Bạn không được thay mặt Chúa giơ tay tha tội trong Tòa Giải tội, nhưng nhờ Bạn chịu khó, nhiều người tội lỗi sẽ được ơn tha tội: nhiều vị linh mục được hạnh phúc đem các linh hồn về cùng Chúa, nhưng biết đâu công lại không phải là của Bạn?
Bạn không được lên tòa giảng để rao truyền lời Chúa, nhưng cuộc đời nhẫn nại của Bạn lại không như một bài giảng về Chúa ư?
Bạn không được phong chức linh mục như các Giám mục, nhưng các sự đau khổ Bạn chịu lại không lôi kéo cho Giáo hội một số đông thanh niên ưu tú, lại không mưu ơn bền vững cho một số chủng sinh, lại không đổ tràn những ơn siêu việt cho một số linh mục ư ?
Bạn không được hân hạnh đi giảng Đại phúc, nhưng sự đau khổ của Bạn lại không tưới ướt được công việc các vị giảng thuyết ư?
Không khi nào Bạn được phong chức Giám mục, nhưng nhờ Bạn hy sinh, đau khổ, Bạn sẽ mưu được cho Giáo hội những vị Giám mục nhiệt thành, thánh thiện, biết dẫn dắt con chiên cho khôn ngoan xứng đáng.
Nói tóm lại, những sự đau khổ Bạn chịu hàng ngày có một giá trị rất cao cả, vì nó giúp Bạn cộng tác vào công cuộc cứu thế, cũng như Đức Mẹ xưa.
Và như thế, là Bạn có thể đổ máu một cách âm thầm, êm ái, nhưng vẫn có thể cứu các linh hồn được, cứu linh hồn ấy, linh hồn nọ, có lẽ là linh hồn Bạn yêu quí hơn chính mình Bạn, linh hồn đã làm Bạn đổ bao nhiêu nước mắt, mất ăn bao nhiêu ngày, mất ngủ bao nhiêu đêm. Bạn cần phải đổ máu, nghĩa là cần phải hy sinh nhiều. Bạn hy sinh đã nhiều rồi, tôi chắc vậy, nhưng linh hồn người ta quí lắm, linh hồn người thân yêu của Bạn quí lắm, quí quá sức Bạn tưởng tượng. Nên dù Bạn đổ hết máu Bạn để mua chuộc một linh hồn cũng không đủ, phải có công nghiệp vô cùng của Chúa mới chuộc được.
Thế thì những nỗi thống khổ đó, Bạn hãy lấy mà dâng cho Chúa, để nhờ vào công nghiệp vô cùng Chúa, Bạn hy vong và tin chắc ngày kia, ngày ấy là ngày nào tôi không biết, nhưng Bạn hãy tin chắc là ngày kia, con người mà Bạn đã bao năm chịu khó cầu nguyện và khóc lóc cho ấy, sẽ ăn năn trở lại cùng Chúa. Và Bạn càng chịu khó lâu, thì công nghiệp Bạn càng đầy, phần thưởng Bạn càng quí, Bạn có mất đi đâu mà sợ.
Đau đớn nhất là chính những người, hay chính người, Bạn hằng cầu nguyện, hằng chịu khó, hy sinh cho ấy, lại ngày ngày làm cực lòng Bạn. Tôi hiểu chỗ ấy lắm. Nhưng tôi cũng hiểu rằng: Chúa Giêsu đã chịu chết cho ta và cho Bạn nữa: còn chúng ta, và cả Bạn nữa, thì ngày nay phạm đến Chúa không biết bao nhiêu. Vậy thì đến lượt Bạn, Bạn cũng phải chịu khó cho chính người Bạn hằng thương yêu và cầu khẩn cho. Đó chỉ là làm việc chính Chúa đã làm cho ta, có gì lạ đâu, Bạn? Nếu Bạn mến Chúa thiết tha thì Bạn hãy chịu khó cho nhiều và Bạn hãy tin chắc: một ngày kia Bạn sẽ thấy nhiều sự lạ lùng, Bạn không ngờ rằng sẽ có.
Đến đây, tôi xin Bạn một điều. Tôi không biết Bạn còn sống mấy năm nữa. Nhưng tôi hãy nói: Bạn còn sống mười năm nữa. Mười năm hãy tính là 3.652 ngày. Vậy mỗi ngày Bạn chịu khó thì hãy dâng cho Chúa, để cứu lấy một linh hồn; và như thế trong mười năm Bạn sẽ cứu được 3.652 linh hồn. Bạn bằng lòng không?
Hay Bạn hãy làm như một người đàn bà nghèo khó mà Cha Faber đã kể truyện. Cứ mỗi buổi sáng, bà ấy quì trước một bức địa đồ, rồi đọc một bài đền tạ cho một nước.
Và để Bạn bằng lòng, tôi xin hiến Bạn ít nhiều truyện rất ly kỳ sau đây:
Một hôm Bà Thánh Catarina Siêna suy ngắm về tình thương yêu loài người, Bà không hiểu sao Chúa có thể thương yêu loài người đến nỗi chịu đau khổ cho loài thụ sinh hèn hạ đến thế.
Chúa liền hiện ra cùng Bà và cho Bà xem thấy một linh hồn có ơn thánh hóa đẹp đẽ chừng nào. Chúa phán với Bà: “Con hãy xem, nào chẳng đáng sống, đáng chịu đau khổ và chết cho một loại thụ sinh đẹp đến chừng ấy ru?”
Cũng trong sách truyện Bà Thánh Catarina Siêna có kể rằng:
Bà có một chị bạn Dòng Ba tên là Palmérina (Pan-mê-ri-na) không hiểu sao ghét Bà quá sức, và chỉ tìm dịp vu khống cho Bà, Bà Catarina đêm ngày cầu nguyện cho chị kia. Chúa nghe lời Bà mà cho chị bị bệnh trong xác để chữa linh hồn. Bà Catarina đến chăm sóc chị với một hy sinh tận tụy không bờ bến… Nhưng chị kia không hề thay đổi, và đã có lần đuổi Bà Catarina ra khỏi nhà. Chúa liền phạt và để cho chị ấy hấp hối, lo sợ không kịp chịu các bí tích sau cùng.
Thấy cơn nguy biến, Bà Catarina càng thêm hãm mình cầu nguyện. Chị Palmérina tỉnh lại, nên đã kịp chịu các Bí tích, và chết lành.
Lập tức Chúa cho Bà Catarina được thấy linh hồn ấy.
Bà kể rằng: “Linh hồn ấy đẹp làm sao, sáng làm sao, không có cách gì tả được”.
Chúa phán với Bà: “Con thân mến, đấy là linh hồn con đã chuộc lại cho Cha. Con hãy xem nó đẹp đẽ và quý báu chừng nào! Nếu chính Cha là sự Đẹp tuyệt đối, mà còn say mê vẻ đẹp của các linh hồn, cho đến nỗi bỏ thiên đàng xuống thế, để chịu chết chuộc tội chúng con, huống chi chúng con càng phải hy sinh chịu khó lẫn cho nhau, để không một linh hồn tốt đẹp thế phải hư đi”.
Sau, Bà Catarina thưa lại với Cha Giải tội rằng: “Nếu Cha có được thấy linh hồn sạch tội trọng đẹp đẽ nhường nào, thì Cha sẽ vui lòng hy sinh sự sống Cha trăm lần để cứu nó cho rỗi”.
Một hôm Thánh nữ Lutgarde (Lu-ga) trong một lúc ngây ngất tình yêu Chúa, đã xin chóng chết để về thiên đàng cho mau. Đức Chúa Giêsu hiện ra cùng Bà, và cho Bà xem những vết thương hãy còn đẫm máu của Chúa. Chúa phán: “Hỡi con thân mến, hãy nhìn và hãy nghe tiếng các vết thương Cha kêu với con, để máu Cha đừng chảy vô ích, để sự chết của Cha đừng hóa vô công hiệu”. Trinh nữ run sợ và âu yếm xin Chúa cho Bà hiểu vết thương Chúa kêu những gì. Chúa phán: “Vết thương của Cha kêu nài con hãy lấy đau khổ và nước mắt để làm nguôi cơn giận Đức Chúa Cha, xin Người đừng phạt kẻ có tội, và cho họ được ăn năn trở lại”.
Bà Maria Têrêsa, vị sáng lập Dòng Nữ tu Đền tạ, nói với Cha Lefèvre (Lơ-phe) những lời này: “Con vui lòng sống nghìn năm trong đau khổ, miễn sao cứu được vài linh hồn và dâng cho Chúa”.
Thánh Lutgard cũng có lần thưa Chúa: “Lạy Chúa, con sẵn sàng chịu hết mọi giống hình khổ, để cứu các linh hồn”.
Thánh Catarina còn can đảm hơn. Người xin Chúa phạt người, nhưng tha cho kẻ có tội.
Và nhất là truyện này:
Chân phúc Félix de Nicosie (Phê-li-xê Ni-cô-xi) ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, thức khuya để cầu cho kẻ có tội ăn năn trở lại, và rỗi linh hồn. Một hôm Cha Macaire (Ma-ca-ri-o) bất ưng vào phòng Chân phúc trong giờ nghỉ trưa, thấy Ngài đang đánh tội ghê gớm. Cha liền kêu lên: “Thôi đủ rồi, tôi cấm không được đánh nữa”. Chân phúc dừng lại rồi quay mặt nhìn Cha Bề trên, khóc lóc và xin: “Lạy Cha, xin thương cho con đánh tội… con không dám đánh mạnh quá nữa. Con đánh tội để cầu nguyện cho một người tội lỗi lúc này đang phạm tội. Lạy Chúa, nếu Chúa phạt người ấy lúc này thì khốn nạn cho người ấy quá!” Cha Macaire bắt buộc Thầy phải cho Người biết kín người tội lỗi ấy, rồi cho phép đánh tội như ý… Cách mấy ngày người tội lỗi ấy bị một địch thủ giết bất ưng. Được tin ấy, Thầy Félix lại càng thêm đánh tội làm khổ xác. Một hôm, linh hồn ấy hiện về cám ơn Thầy, vì dù bị chết bất ưng, không kịp lãnh nhận các Bí tích, nhưng nhờ Thầy, Chúa đã cho kịp ăn năn…
Có Đấng Thánh quả quyết rằng: Thánh Têrêsa Cả đã cứu được nhiều linh hồn không kém gì Thánh Phanxicô Xaviê là Đấng bao năm đã rảo khắp cõi Á đông này, và đã chịu bao sự khốn khó để cứu các linh hồn. Vậy mà Thánh nữ Têrêsa Cả chỉ hãm mình cầu nguyện trong dòng Kín.
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã làm gì? Người đã sống trong dòng Kín có mười năm, thế mà ngày nay Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã tôn làm Quan thầy các vị thừa sai và các xứ Truyền giáo ngang hàng với Thánh Phanxicô Xaviê.
Nhân vừa nhắc đến Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, tôi xin thuật lại cho Bạn vài cử chỉ của Thánh nữ để Bạn hiểu tâm hồn Người.
Có lần Bà đã than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, con xin Chúa tha thứ cho anh em của con. Bao lâu Chúa còn muốn thì con còn bằng lòng ăn bánh đau khổ. Vì lòng mến Chúa, con sẽ ngồi luôn ở bàn ăn cay đắng, là chỗ kẻ có tội ăn, con sẽ ngồi mãi cho đến khi Chúa lên hiệu đứng dậy… và nếu cần, thì con xin một mình con ăn bánh đau khổ cho kẻ có tội… và con sẽ ăn mãi cho đến khi Chúa đem con về nơi đầy ánh sáng…”
Lần khác Bà than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, được làm bạn trăm năm của Chúa, được làm Nữ tu Dòng Kín, tức là nhờ sự kết hợp cùng Chúa, con sẽ làm Mẹ các linh hồn. Lẽ ra bấy nhiêu con phải cho là đủ. Nhưng con vẫn còn thấy trong mình có nhiều ơn Thánh triệu khác: con muốn làm tiến sĩ, con muốn làm linh mục, con muốn làm tông đồ, con muốn làm chiến sĩ, con muốn chết vì Đạo… con thấy con có can đảm như một lính Nghĩa binh Thánh giá, con muốn được chết ngoài bãi chiến trường để bênh vực Giáo hội.”
“Con muốn làm linh mục… con muốn làm tiên tri… con muốn làm tiến sĩ… Nhưng nhất là con muốn chết vì Đạo. Chết vì Đạo, đó là chí nguyện của con lúc còn trẻ… nhưng đây mới lại là một sự điên rồ khác, con không muốn chịu một thứ hình khổ, con muốn chịu hết các thứ hình khổ mới thỏa lòng…”
Và Bà đã kể ra một chuỗi các thứ hình khổ một số các Thánh tử đạo đã chịu, và Bà muốn được chịu hết cả như các Đấng ấy, vì lòng mến Chúa và để cứu các linh hồn.
Cho đến những em bé cũng hiểu giá trị sự đau khổ đối với việc cứu các linh hồn.
Một em gái chưa đầy bốn tuổi, ốm nằm trên giường, em nhất định không muốn uống một thứ thuốc y sĩ đưa. Người mẹ lo lắng, không biết làm gì. Bà nói: “Con yêu của mẹ, con hãy uống một tí để cầu cho một người có tội”. Nghe câu ấy, em tỏ vẻ nghĩ ngợi. Em ngẩng đầu nhìn mẹ, nhiều giọt nước mắt lăn trên má em, em giơ hai tay nhỏ nhắn ra nâng lấy chén thuốc, run run, uống một ngụm, rồi một ngụm nữa, cho đến khi uống hết. Uống xong, em tỏ vẻ khoan khoái, quay lại nói với mẹ: “Như thế là con cứu được những người tội lỗi”… (37)
Tôi ước Bạn cũng hóa nên Thánh Têrêsa thứ hai. Sung sướng lắm, Bạn ạ. Bạn đừng từ chối cái danh dự đặc biệt ấy nhé. Khó thì khó thật, tôi cũng nhận thế. Nhưng không phải là không làm nổi. Chỉ cần Bạn cố gắng và nhất định. Bạn nghĩ sao?
Tôi đã định dừng lại ở đây. Nhưng tôi hãy còn mấy truyện rất ly kỳ và cảm động, tôi xin hiến Bạn, kẻo rồi đây, không còn cơ hội nào khác.
Tập “Tiếng vang Lộ đức” năm 1918, có thuật lại truyện này.
Một người không có niềm tin đã chịu cho đem đứa trẻ đến Hang Lộ đức. Ông ta nói: “Nếu tôi thấy con bé khỏi bệnh và đứng lên được tôi mới trở lại… ” Người ta đem đứa bé vào giếng.
Cha Bailly liền kêu lên: “Anh chị em, có người nào trong anh chị em, can đảm đủ để dâng mình hy sinh cho linh hồn này trở lại cùng Chúa không?”
Giữa cái yên lặng cảm động ấy, một bà tàn tật, chống nạng đứng lên: “Tôi xin vui lòng”. Cùng lúc ấy, một người mẹ, đứng gần chắn song trước Bàn thờ, đã ba năm bế con đến Lộ đức xin cho nó khỏi bệnh câm điếc, Bà ôm đứa bé giơ lên cho Cha: “Đây con xin dâng Cha con con, Cha hãy dâng nó cho Đức Mẹ, cho người kia ăn năn trở lại”.
Cùng lúc ấy, cô bé bất toại được khỏi bệnh.
Trước cảnh tượng anh hùng ấy, người cha đó liền quỳ gối kêu lên: “Lạy Chúa, xin tha tội cho tôi, tôi xin tin”.
Và một truyện khác.
Năm 1860 ở thành Liège (Li-e) bên nước Bỉ, Cha de Clanvière (La-ri-ve) có giao thiệp với một ông đại úy hưu trí, đã lâu năm không còn giữ đạo. Vị sĩ quan ốm nặng và không có hy vọng sống được. Cha đến thăm, và đánh bạo nói đến việc xưng tội. Nhưng ông ta gạt đi ngay. Cha lại đến, nhưng họ đóng cửa không cho vào.
Cha tự bảo mình: “Thường tôi thích uống cà phê sau cơm trưa lắm. Nhưng tôi sẽ kiêng, để ông ta ăn năn trở lại”. Cùng lúc ấy, có người giật chuông. Người ta mời Cha đến thăm một bệnh nhân ở phố ấy… số ấy… Cha nói: “Đúng ông ta rồi”.
Cha vừa đến, viên đại úy nói: “Thưa Cha, từ lúc nãy, một ý tưởng ám ảnh tôi: “Tôi phải xưng tội”. Xin Cha giải tội cho tôi”.
Việc hãm mình của cha đã sinh hiệu quả trông thấy.
Nhiều người trong chúng ta có nghe nói đến tên một nhà chính trị Pháp rất ghét đạo Công giáo, đến nỗi người ta đặt tên cho ông là Con Cọp… tên ông là Clémenceau (Cờ-lê-măng-cô). Trong lúc chính phủ Pháp đang chống đối các Dòng Tu của Đạo Công giáo, nhất là các Dòng tu chuyên cầu nguyện, và đuổi ra khỏi nước, thì đến lượt Dòng La Trappe (La-tờ-ráp). Nhà Dòng ủy Cha Chautard (So-ta) đi tiếp xúc với Con Cọp nói trên. Nhờ tài khéo léo, nhất là nhờ ơn Chúa, Cha Chautard đã thành công. Dòng La Trappe không bị di cư.
Nhưng, cái thành công lớn lao nhất, là cha Chautard và Con Cọp đã biến thành đôi bạn tâm giao. Tình tâm giao ấy đã hẳn có lợi cho Dòng La Trappe, nhưng nhất là có lợi cho Con Cọp.
Cách ít lâu, Cha Chautard được tin Con Cọp bị ốm nặng, phải đi điều dưỡng tại một nhà thương…Nhất là ít lâu sau nữa, ngài được tin Con Cọp đã thở hơi cuối cùng. Cha được yên ủi, khi nghe một nữ tu đã từng săn sóc Clémenceau (Sơ Théoneste) cho biết, khi gần chết, bệnh nhân đã đọc đi đọc lại nhiều lần mấy tiếng: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi!” (38)
Tại sao ông đã được ơn cao quý ấy? Bạn đoán được: Cha Chautard đã không thả mồi ngon Chúa gửi đến cho… Con Cọp – ta hy vọng thế – đã được cứu rỗi nhờ sự hy sinh và lời cầu nguyện của một nhóm con chiên hiền lành, là Cha Chautard và các tu sĩ dòng Người…
Ta không nên thất vọng về phần rỗi của một ai, khi người ấy đã là đích cầu nguyện hy sinh của một linh hồn đạo đức… và chính ta cũng hãy hy sinh cầu nguyện đi… nhiều linh hồn sẽ được nhờ.
Cha Plus (Pơ-luy) nói: “Qua các thế hệ, mỗi khi chúng ta nhận thấy ở đâu công việc truyền giáo đặc biệt có kết quả, ta không cần tìm mãi tận đâu xa cho thấy lý do của nó. Ta thấy ngay rằng: là vì ở chỗ ấy máu đã chảy. Không tất nhiên là máu trong mạch. Nhưng ít ra, luôn luôn máu bề trong, là sự đau khổ của quả tim, của ý muốn, của sự tự hiến thân”.
Đúng lắm! Máu Thánh Tê-pha-nô chảy ra đã chuộc được Saolê bắt đạo, và hóa ông thành vị Đại Tông đồ.
Máu ở “Năm dấu” của Thánh Phanxicô đã hoán cải được tâm trạng cả một thế kỷ.
Máu của Năm vị Tử đạo Dòng Thánh Phanxicô, đã hiến cho Giáo hội một vị Đại thánh: Thánh Antôn hay làm phép lạ.
Máu Thánh Jeanne d’arc (Gio-an-na Đắc), đã cứu vãn được nước Pháp, như một lễ Rửa tội thứ hai.
Thì cần phải tìm tận đâu xa: nào không phải Máu của tiền nhân chúng ta trong thế kỷ trước, đã đem lại cho chúng ta một quang cảnh công giáo phồn thịnh, khiến cả thế giới ngạc nhiên ư ?
Một vị linh mục đến than phiền với thánh Gioan Maria Viannê rằng: mình đã cố gắng hết sức mà chưa hoán cải được con chiên. Thánh Gioan đáp lại: “Nhưng Cha đã ăn chay chưa ? Cha đã mang áo nhặm chưa ? Bao lâu Cha chưa chịu đau khổ cho con chiên Cha, thì Cha chưa thể nói được rằng: Cha đã làm hết sức để đem họ về cùng Chúa”.
Có lẽ Bạn còn nghi ngờ và tự hỏi: tại sao những sự đau khổ của Bạn lại cứu được các linh hồn? Tôi xin đáp lại chỉ vài câu.
Một khi Bạn có ơn Thánh hóa Chúa trong linh hồn, nói cách khác, mỗi khi Bạn sạch tội trọng, mà chịu đau khổ để cứu các linh hồn, thì chính Chúa chịu đau khổ trong mình Bạn; bởi thế, các sự đau khổ của Bạn là những sự đau khổ của Chúa và tất nhiên cứu được các linh hồn.
Sau đây là những lời bà Elisabet Lơ-dơ (Lơ-dơ) viết cho một người bạn đau ốm: “Sự đau khổ là một thứ luật cao cả trên đường thiêng liêng. Càng linh hồn được Chúa yêu, càng không thoát được luật ấy. Họ phải trả nợ của người khác, và nhiều khi trả rất đắt. Sau này ta mới thấy những công việc chúng ta làm được, nhờ những đau khổ và hy sinh của chúng ta. Tất cả các sự hy sinh đau khổ ấy, đều đi thẳng vào Trái Tim Chúa, và trong ấy nó kết hợp cùng kho cứu chuộc, và sẽ đổ tràn ơn thánh xuống cho các linh hồn. Chúng ta có thể làm cho trở lại, có thể thánh hóa, có thể yên ủi mà không cần ra khỏi nhà, không cần phải băn khoăn. Mỗi khi chúng ta dâng lên cho Chúa những sự xé nát lòng chúng ta, những giọt máu của tâm hồn chúng ta, những giọt máu làm thành các thánh tử đạo thiêng liêng, thì chúng ta sẽ rất quyền năng trước mặt Chúa”.
Một hôm, thánh Phanxicô Xaviê đang giảng đạo ở miền Travancor (Tra-văng-cô), một toán quân man rợ tấn công anh em giáo hữu tân tòng. Thánh nhân liền cầm ảnh chuộc tội trong tay, giơ cao lên trước mặt bọn man rợ. Bọn man rợ thất đảm chạy tán loạn. Mỗi khi ta nhẫn nại chịu đau khổ, chúng ta cũng biến thành những tượng Chuộc tội sống, nên chúng ta sẽ đánh tan được đạo binh ma quỷ, và lôi được các linh hồn lại cho Chúa.
Bạn hãy tưởng tượng một thiên thần hiện đến nói với một người tham của: “Ngươi hãy nhẫn nại vác Thánh giá thì mỗi ngày Chúa sẽ thưởng cho ngươi một triệu bạc”, chắc là người ấy sẽ nhẫn nại lắm… Nhưng Chúa lại phán với Bạn rằng: “Con hãy vui lòng vác Thánh giá can đảm, thì Cha sẽ cho con các linh hồn”. Vậy Bạn có muốn nghe lời Chúa không? Một linh hồn quý hơn tất cả các thứ vàng bạc, hạt trai, đá ngọc, và quý gần như vô cùng. Bạn đã biết thế, phải không?
Vậy thì câu kết luận đã rõ ràng lắm rồi.
Rõ ràng hơn nữa, là nếu tôi kể cho Bạn nghe thêm truyện khác về Thánh Phanxicô Xaviê.
Thánh nhân là một bậc danh nhân ở kinh thành Paris hồi ấy. Đàng sau Ngài là cả một cuộc đời thơ mộng, một tương lai tươi sáng… Nhưng Phanxicô đã làm gì? Với một chiếc áo dòng cũ, Ngài đã vượt trùng dương với bao nỗi nguy hiểm của thời xưa… Ngài đã chạy ngang dọc bao nhiêu dân nước… Ngài đã xông pha bao nhiêu rừng rậm, đã từng sống lộn với bao nhiêu dân man rợ sẵn sàng dọn cho Ngài những đau khổ với cái chết bất ngờ… Vừa “đổ bộ” lên đất Ấn Độ, Ngài gặp ngay một thiếu phụ, tay bế một em bé hấp hối. Ngài vội vàng chạy lại lấy nước đổ lên đầu em bé. Em bé nhắm mắt… nhưng linh hồn bay thẳng về nhà Cha… Thánh Phanxicô liền quỳ xuống đất, mắt đẫm lệ và than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, thế là Chúa đã trả nợ con rồi, con vừa cứu được một đứa bé… ”. Ngài đã hy sinh cả mọi sự, liều cả sự sống… và Ngài cho là mình đã được đền đáp đầy đủ, khi thấy đã cứu được một linh hồn… Là vì Ngài hiểu một linh hồn có giá trị cao quý dường nào.
Đến đây, tôi mong ước cho Bạn rằng: ngày Bạn theo Chúa vào thiên đàng, Bạn sẽ được chứng kiến một quang cảnh rất yên ủi, là Bạn sẽ thấy trên thiên đàng, không phải một linh hồn, nhưng hàng trăm hàng nghìn linh hồn đã lên trên ấy trước Bạn, nhưng sở dĩ lên được, là vì đã nhờ Bạn giúp đỡ bằng sự đau khổ. Những linh hồn ấy, chính là những con nuôi của Bạn.
Cha Perreyve (Pe-rây) viết: “Các Bạn đừng tưởng công lao khó nhọc các Bạn chỉ là dã tràng xe cát, và những trận chiến đấu âm thầm của tình yêu nhẫn nại của các Bạn không làm ích gì cho thế giới. Các sự đau khổ của các Bạn là kho báu chung của tất cả mọi linh hồn, và đến ngày Chúa mở màn bí mật ra, các Bạn sẽ thấy người ấy người nọ, không khi nào các Bạn biết, thế mà ngày nay được trở lại và được hạnh phúc, là nhờ sự hy sinh của các Bạn”.
Còn gì sung sướng cho Bạn bằng được làm Cha, làm Mẹ thiêng liêng những linh hồn, mà nếu không có Bạn cộng tác vào ơn cứu chuộc, họ đã không được hưởng thánh nhan Chúa, ca tụng Chúa, và kính mến Chúa đời đời! Bạn ơi! Bạn không lấy thế làm sung sướng hay sao? Và nếu Bạn cho thế là sung sướng, thì lẽ đâu Bạn còn ngại chịu khó cho được cái hạnh phúc tuyệt đối ấy?
Tôi xin dừng ở đây, để Bạn có thời giờ suy nghĩ, và quyết định một lần cho xong. Bạn đừng ngần ngại, đừng lần lữa rầy mai, đừng nửa muốn nửa không nữa.
Tôi hy vọng rất nhiều ở Bạn, miễn là Bạn làm đúng lời tôi yêu cầu, và đó cũng là Thánh ý Chúa.
“Lạy Chúa Giêsu, là Đấng chúng con hết lòng kính mến, ước gì mỗi người chúng con hết sức chịu khó để cộng tác vào việc cứu chuộc các linh hồn! Ước gì chúng con từ nay chung sức với nhau, để cứu cho thật nhiều linh hồn. Việc ấy quá sức chúng con. Nhưng chúng con đâu dám dựa vào sức hèn mọn chúng con. Chúng con chỉ dựa vào sức vô cùng của Chúa, và vào lời Đức Mẹ chuyển cầu. Xin Chúa ban cho chúng con được như lòng chúng con sở nguyện. Điều chúng con sở nguyện, Chúa đã biết rồi. Ước gì được như vậy”.
---------- (35) I Cor, 2, 14 (36) Héb. 9,22 (37) Và truyện em bé An-tô-ni-et-ta, xem TÔNG ĐỒ TÝ HON, cùng một tác giả. (38) Images de Dom Chautard của E. Maire.
Bạn thân mến, để chứng minh thêm cái chân lý tôi vừa diễn giải ở chương trên, nghĩa là những sự hy sinh nhỏ mọn hằng ngày, có một mãnh lực rất to tát để cứu các linh hồn, tôi xin hiến Bạn câu truyện cảm động, mà Cha Mathêuô, một vị tông đồ Thánh Tâm, đã kể:
Một hôm Cha được mời đi thăm một bệnh nhân đã bị vạ tuyệt thông, vì những cuộc vận động bài tôn giáo ghê gớm của ông.
Ông ta hết sức ngạc nhiên, khi thấy một vị linh mục đứng cạnh giường. Ông hằm hằm nói: “Xin ông ra khỏi đây lập tức”. – “Không, không giải tội được cho ông, nhân danh Thánh Tâm thì tôi không thể ra khỏi đây” – Ông ta càng la to: “Ông đừng nói đến truyện ấy, ông ra ngay cho, ông không biết ông đang nói với ai”. – “Thưa ông, tôi biết lắm, ông là kẻ thù của Người, ông đã đâm thủng Tim Người, nhưng lỗ thủng ấy đã biến thành cửa thiên đàng và cửa tha thứ cho ông, và Người sai tôi đến xin ông vui lòng nhận sự tha thứ của Người” – Ông ta đáp lại ngay: “Không đời nào, xin ông ra cho”.
Nhưng Cha Mathêuô nhất định không đi vì người nhất định không thả chiếc mồi của lòng nhân từ Chúa, Cha đòi Chúa một phép lạ. Cha liền van ông ta: “Thưa ông, ông ghét Người, nhưng Người yêu ông. Xin ông đọc với tôi câu này: Lạy Chúa Giêsu, con mến Chúa vì Chúa là Chúa Giêsu”.
Nhưng mỗi lần, ông đều đáp lại với tất cả lòng thù ghét của ông. Cha Mathêuô lại càng nài: “Xin ông hãy đọc cùng tôi: Lạy Chúa Giêsu, con mến Chúa vì Chúa là Chúa Giêsu”. Cha nhắc lại, mười, hai mươi lần, và hơn nữa… cái câu có sức lạ lùng ấy. Và Cha thấy hình như càng ngày câu ấy càng đâm sâu vào tận đáy lòng ông. Phải, Cha cảm thấy ông ta cảm động, và không còn thấy hằn học tức tối nữa.
Cha Mathêuô lại nài nẵng thêm: “Xin ông đọc với tôi: Lạy Chúa Giêsu, con mến Chúa vì Chúa là Chúa Giêsu”. Đến một nửa giờ sau, sau những phút yên lặng nặng nề, ông ta mới ngửa mặt lên nhìn Cha Mathêuô, và trong khóe mắt, thấy ướt lệ. Ơn Chúa đã bắt đầu thắng. Cha lợi dụng ngay cơ hội, và giục ông ta: “Ông hãy đọc với tôi: Lạy Chúa Giêsu, con mến Chúa vì Chúa là Chúa Giêsu”.
Sau một lúc chiến đấu và quyết liệt, ông ta giơ tay lên cùng Cha Mathêuô, và nức nở: “Phải, tôi mến Người… vì Người yêu tôi”. Cha Mathêuô ôm ông ta vào người. Thánh Tâm Chúa đã thắng vinh hiển. Khỏi một lúc, cũng như Sao-lê, ông hỏi Cha: “Tôi phải làm gì?” – Cha đáp: “Ông phải xưng tội. Tôi sẽ giúp ông”.
Một giờ rưỡi sau, ông vui mừng sung sướng, gọi vợ chưa rửa tội, và ba con trai cũng chưa rửa tội đến và khuyên bắt chước gương ông ta.
Một tháng sau, cha Mathêuô được phép dâng lễ ngay trong phòng người bệnh ấy, chung quanh giường ông, là bốn người vừa mới được rửa tội hôm trước, vợ và ba người con trai… và trong căn phòng ấy đã vang dội bài ca Christus vincit (Chúa Kitô chiến thắng).
Cha Mathêuô kết luận: Bất cứ chỗ nào có một nắm rơm thành Bê-lem cháy, nghĩa là một linh hồn thánh, dù bề ngoài rất bé mọn, thì ở đấy, có nguồn mạch sinh sự sống, dù cần đến phép lạ.
Vậy nắm rơm trong gia đình ấy là ai? Là một người đàn bà, đã 25 năm làm người giúp việc trong gia đình ấy. Bà đã dâng hết mọi lời cầu nguyện, mọi sự hy sinh, mọi giọt nước mắt, mọi nỗi nhọc nhằn… rước lễ hàng ngày, thức đêm cầu nguyện, chỉ xin Thánh Tâm Chúa ban cho một ơn là thấy cả gia đình ấy ăn năn trở lại, trước khi mình nhắm mắt.
Vậy thì ai không làm tông đồ được, ai không cứu các linh hồn được?
Bạn hãy nhất định làm nắm rơm kia đi, rồi Bạn sẽ thấy chung quanh Bạn cháy sáng… như và có khi còn hơn gia đình Bạn vừa nghe kể truyện trên đây.
Từ ngày ông bà nguyên tổ chúng ta phạm tội, sự đau khổ đã thành điều kiện cần thiết để thành công, trên bất cứ phương diện nào.
Đây, một cậu học sinh, nếu muốn một ngày kia đỗ đạt hoặc có một học vấn kha khá, thì cậu không thể không phải hy sinh, không thể không phải chịu đau khổ: thức khuya dậy sớm, hy sinh bao nhiêu thú vui… có khi phải hy sinh cả bao nhiêu tình bạn bè… biết bao nhiêu lần, cậu đứng trước những thử thách đủ thứ, nhất là về nhục dục, nhưng, vì muốn đạt được lý tưởng, cậu phải gạt bỏ những quyến rũ, những đòi hỏi của thể xác, của tình bạn… cả những thú vui tự nó chính đáng…
Cách đây ba mươi năm, tôi có đi tìm thăm một người bạn. Anh ta ở một ngõ hẻm khuất khúc tại thành phố Hà Nội. Tìm mãi mới ra. Nhưng, khi đã lên được cái thang hẹp, thì tôi thấy cửa phòng đóng. Ở ngoài, có mảnh giấy dán: “Không tiếp khách”.
Mấy hôm sau, tình cờ gặp anh, tôi có nói lại truyện đến thăm anh và hỏi sao anh lại không tiếp khách. Anh xin lỗi tôi và tiếp: “Anh tính, ở cái thành phố này, mình muốn học thì phải tìm chỗ hẻo lánh nhất, và cũng phải thất lễ cả với bạn bè, không vậy, thì đừng mong học được anh ạ”.
Đây, một nhà nông, nếu muốn rồi đây ruộng của ông ta đầy những bông lúa chín vàng, nếu muốn rồi đây trong gia đình được ấm no… ông phải chịu khó, phải hy sinh nhiều, rất nhiều. Có khi bốn giờ sáng đã phải bỏ giấc ngủ, có những ngày mười giờ đêm chưa được đặt lưng xuống giường… rồi bao nhiêu nhọc nhằn do mưa nắng, bao nhiêu mồ hôi dưới ánh nắng mặt trời… Ông đâu còn tưởng đến truyện nay lên tỉnh xem xi-nê, mai lên tỉnh đi dự các cuộc dạ hội v.v…
Đây, một người thợ, một người lao động, họ đâu có ngồi yên một chỗ, rồi ngủ trưa, rồi say sưa, mà làm nên sự nghiệp, hoặc đủ mặc, đủ ăn. Bạn đã chẳng thấy họ đổ mồ hôi, tràn nước mắt mới hy vọng kiếm được của nuôi thân, nhiều người vẫn chỉ được bữa sớm lo bữa chiều. Đổ mồ hôi, có khi đổ cả nước mắt nữa, để đổi lấy manh áo bát cơm, cho mình, cho vợ con, cho gia đình: đó là đời sống hằng ngày của họ.
Vì không ai hiểu bằng ông bà ta xưa đã từng nói:
Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Đây, một nhà buôn… thì Bạn đã chẳng thấy có những nhà buôn quanh năm phải bôn tẩu ngược xuôi, chẳng mấy lúc được ngồi yên để hưởng thú vui đầm ấm của gia đình; nào Bạn đã chẳng thấy có những người đã liều chết để cho cái quỹ gia đình khỏi càng ngày càng hao hụt… nào Bạn đã chẳng thấy có những người đã bị đưa vào nhà lao, chỉ vì quá lo cho cuộc sinh sống… Đói ăn vụng, túng làm càn…
Đây, một toán binh sĩ, ngày ngày phơi sương giãi nắng… nhiều khi cơm trộn lẫn với cát… tính mệnh của họ như treo lơ lửng bằng một sợi chỉ mỏng. Họ đau khổ, họ xa mọi thứ thú vui, cả đến những thú vui chính đáng trong gia đình. Họ lại còn liều chết nữa, để làm gì? Để giữ vững bờ cõi giang sơn… và có lẽ đối với một số người, đó là con đường tiến thân của họ.
Nhưng, thôi, Bạn hãy kể cho tôi nghe có một hạng người nào trên đời, muốn thành công mà không phải hy sinh, không phải chịu khó, không phải đau khổ? Nếu có, thì cái muốn ấy, chỉ là cái muốn vờ, cái muốn giả hiệu thôi.
Còn Bạn, còn tôi, chúng ta đều muốn thành công tất cả… nhưng đây là nói đến cái thành công trên đường siêu nhiên, thành công trên đường thánh thiện, thành công trên con đường về Thiên quốc… thành công trên con người cứu các linh hồn. Không lẽ chỉ có đường thiêng liêng, muốn thành công lại không cần chịu khó, không cần hy sinh, không cần chịu đau khổ?
Những kết quả trên đường thiêng liêng này, do những đau khổ chúng ta chịu, tôi đã và sẽ còn lần lượt trình bày với Bạn trong quyển sách nhỏ mọn này.
Ở đây, tôi chỉ cần xin Bạn in sâu vào tâm khảm chân lý này: Muốn thành công bất cứ phương diện nào, chúng ta phải hy sinh, phải chịu khó, phải chịu đau khổ, phải đổ mồ hôi, phải tràn nước mắt, nhiều khi phải đổ tràn máu nữa. Thành công càng lớn lao, càng rực rỡ, thì sự hy sinh, sự đau khổ cũng càng phải lớn lao, càng phải nặng nề.
Không muốn hy sinh, không muốn chịu khó, muốn gạt đau khổ ra ngoài cho hết sức, tức là Bạn đã từ chối không muốn thành công.
Nhưng, tôi chắc Bạn muốn thành công, phải không Bạn? Vậy thì đây, tôi chỉ cho Bạn cái bí thuật thành công ấy: nhẫn nại chịu đau khổ, tập cho biết vui chịu đau khổ. Chính Chúa cũng đã qua đường đau khổ, để bước vào chốn vinh quang kia mà, Bạn? Chúc Bạn thành công nhiều trên đường thiêng liêng của Bạn. Chúc như thế, cũng là chúc Bạn biết chịu đau khổ, biết vui chịu đau khổ, như Chúa xưa, như các môn đệ trung tín của Chúa từ xưa đến nay.
Hôm ấy, một ngày mùa hạ, khí trời oi ả nóng nực. Chiều lại, một người nhờ cơn gió hiu hiu đem diều ra thả. Chiếc diều từ từ bay lên, hòa vào không gian những tiếng bổng trầm, khiến cho, không những người có diều, mà cả những người xung quanh, cũng được thư thái, bỏ những lúc thiêu đốt ban ngày.
Nhưng giữa lúc bao người đang sung sướng hưởng tiếng sáo thì trong một căn nhà nhỏ hẹp, một bà lão rên rỉ. Bà khó chịu, khó chịu vì bệnh và khó chịu vì một cớ khác nữa, một cớ tuy chỉ nhất thời, nhưng nó cũng đã làm tăng khó chịu cho Bà. Bà cất tiếng bảo người con: “Này con, con xem ai thả diều, thì xin họ làm ơn hạ xuống, kẻo mẹ khó chịu lắm”.
Đó là câu truyện có thật trăm phần trăm, và nó có thể cho ta một bài học. Ở đời, chúng ta phải chung đụng với nhau, thành thử biết bao cái làm ta sung sướng thì đồng thời lại làm người khác đau khổ, và trái lại, có cái làm ta đau khổ, thì lại làm người khác sung sướng.
Những buổi chiều mùa hạ, đang lúc chúng ta mong được một luồng gió mát, nếu cơn giông đổ đến, chúng ta sẽ khoan khoái chừng nào! Nhưng biết đâu rằng: chính lúc ấy, thì những nhà có lúa phơi, đang khốn đốn chạy lúa vội, hơn nữa, những người đang vượt biển, hoặc trên sông lớn, lại lo lắng sợ hãi. Thế là cái làm ta vui, lại làm người khác khổ. Trong lúc nhà ta có người nằm xuống, đang lúc ta lo lắng phiền muộn, thì biết đâu ở nhà nào đó, người ta lại không sung sướng, không phải vì ta buồn, nhưng vì họ bán được chiếc quan tài, hoặc mấy chục thước vải, nhờ đó họ có gạo trong nhà.
Chèo ngược gió, ta mong gió xuôi lại, nhưng ta quên rằng: những ngươi đang đi xuôi gió, họ lại mong cho gió đừng thổi, vì đổi gió thì khổ cho họ.
Bạn sắp đến một ngã ba, thình lình một chiếc ôtô đang tung bụi đàng trước, Bạn mong cho chiếc ôtô rẽ sang lối khác… mà quên rằng, ôtô mà rẽ, tức là nhả bụi cho những người đang đi bên ấy. Đó chỉ là mấy ví dụ trong trăm nghìn câu truyện thường xảy ra trên đời.
Tôi có ý làm chứng rằng: nhiều sự đau khổ chúng ta gặp phải chưa chắc đã là sự khổ thật, hay nói đúng hơn, tự nó không phải là khổ. Nó chỉ khổ, đối với ai lâm vào cảnh ấy. Nhưng đồng thời, nó có thể là nguồn hạnh phúc cho nhiều người khác.
Vậy tôi định nói gì? Tôi muốn nói Chúa là Cha chung cả mọi người, mọi vật, Chúa phải quan phòng đến cả thế giới, không lẽ Chúa chỉ quan tâm đến một vật, một người, trừ khi có lẽ thật đích đáng. Chúa đã quan phòng cách chung, thì cố nhiên những phần tử riêng, phải chịu thiệt thòi vì ích chung, hoặc vì ích của người khác. Cũng như mọi người trong gia đình nhiều khi phải hy sinh một hai sở thích riêng, để mưu ích chung cho cả gia đình. Bạn thích xem chớp bóng tức là bạn phải về muộn, lúc cả nhà đã đi ngủ, và thế là bạn làm cả nhà mất ngủ, để thỏa tính ham mê của bạn. Bạn sẽ đành hy sinh những buổi chớp bóng… để cả nhà vui lòng.
Một người dân cũng nhiều khi phải chịu hy sinh tư lợi, để mưu công ích. Đó chính là cái chết của những binh sĩ ngoài mặt trận, hoặc những y sĩ bỏ mình vì muốn cứu bịnh nhân trong những ngày dịch tễ. Bạn thân mến, Bạn cũng chỉ là một phần tử cấu thành vũ trụ. Bạn cũng không ra ngoài các công lệ này: một người nhiều khi phải hy sinh tư lợi cho công ích. Vì rất nhiều khi những cái đau đớn khổ sở của Bạn, lại là căn cớ cho người khác, hoặc nhiều người khác được vui mừng. Đã đành Chúa có thể làm cách khác.
Nhưng Thánh ý Chúa đã muốn như vậy, thì Bạn nghĩ sao? Bạn phải tin chắc rằng: ta không khôn hơn Chúa, ta chỉ thấy những cái lợi nhỏ mọn, và nhiều khi nhỏ nhen của ta; Còn Chúa thì Chúa phải lo đến ích lợi chung cho cả toàn thể. Vậy cũng như trong gia đình người con thảo lúc nào cũng sẵn sàng để cho cha mẹ làm những việc, tuy không có lợi trực tiếp cho họ, hoặc đôi khi lại ngược với tư lợi của họ, nhưng họ nghĩ đến tình liên lạc trong gia đình, và ích lợi chung cho cả nhà hơn, nên họ cũng bằng lòng hy sinh tư lợi; hoặc bằng lòng chịu khó để mưu ích chung cho cả nhà. Và nếu có phải người con có hiếu thật, một người anh, người chị, người em có lòng yêu thương anh chị em thật, thì người ấy sẽ cho thế là vinh hạnh, vì thấy chính cái khổ của mình làm cho gia đình sung sướng. Vậy nếu ta thực tình mến Chúa, nếu ta thực tình yêu nhân loại, là anh em ta, thì ta phải vui lòng chịu những cái đau đớn nhỏ mọn, ta phải vui lòng hy sinh những cái sở thích riêng để mưu ích cho người khác.
Ta phải nhận rằng: Chúa là Đấng thông minh và khôn ngoan vô cùng. Chúa không làm một cái gì, mà không do sự khôn ngoan và thông minh vô cùng ấy. Đã vậy ta còn phàn nàn kêu trách Chúa gì nữa? Sao ta còn năn nỉ, khi người khác vui còn ta khổ? Vì biết bao lần, người khác đã đành hy sinh những khoái lạc của họ để ta được hạnh phúc. Nhiều lần Chúa cũng đã bắt người khác đau đớn để ta được vui mừng. Thì Bạn hãy nhớ những sự hy sinh cố gắng cha mẹ Bạn đã chịu từ lúc Bạn chưa ra đời cho tới ngày nay, cho tới ngày Bạn trưởng thành, lúc không cần đến sự săn sóc của cha mẹ nữa. Đó là lẽ tuần hoàn trong vũ trụ. Tôi muốn Bạn hiểu lẽ ấy, một lẽ rất đơn sơ, rất tự nhiên, mà nhiều người lại không để ý tới.
Nhưng Bạn đừng tưởng tôi muốn cấm Bạn không được cầu xin Chúa cất bớt những sự khốn khó Bạn gặp trên đời. Không, Bạn ạ, có đâu tôi độc ác đến thế. Trái lại, tôi cứ lời Chúa dạy trong kinh Lạy Cha, mà khuyên Bạn, khi gặp sự khó hãy lấy lòng trông cậy, chạy đến cùng Chúa, xin Chúa cứu Bạn thoát những sự khó ấy. Các Thánh cũng đã làm như vậy. Có Đấng đã xin Chúa cất mình khỏi thế gian, như Thánh Phaolô; và chính Chúa Giêsu trong vườn Diệt, cũng đã nguyện xin Đức Chúa Cha cất chén đắng cho Người. Vậy lẽ gì tôi lại cấm Bạn không được xin Chúa cất bớt sự khó Bạn gặp hàng ngày?
Nhưng tôi chỉ muốn nói điều này, là khi Bạn xin Chúa cất bớt sự khó đi cho, thì Bạn cũng hãy bắt chước Chúa mà thêm lời này: “Nhưng xin theo ý Cha, đừng theo ý con”. Đó là điều quan hệ. Chúng ta lúc nào cũng phải theo Thánh ý Chúa, vì duy Thánh ý Chúa là đường chắc đưa ta đến cùng Người. Không theo Thánh ý Chúa, là hỏng cả mọi việc, sự đau khổ đã không bớt, nhiều khi lại tăng thêm, nhất là thiệt mất bao dịp lập công đền tội. Vậy, hỡi linh hồn đau khổ, hỡi Bạn thân yêu, tôi nhắc lại, mỗi khi ta thấy sự khốn khó đến dày vò, ta hãy suy đó là Thánh ý Chúa, vừa sâu nhiệm vừa đầy tình thương; rồi sự khó ta chịu hiện nay chắc sẽ là căn cớ cho ta được đầy công nghiệp, và biết đâu không là căn cớ cho người khác được vui mừng sung sướng. Không tình yêu nào to tát bằng chết cho người mình yêu, như tôi đã bàn giải vắn tắt trong bài “Yêu thật”. Chính Chúa đã dạy, và chính Chúa đã làm gương trước cho ta soi. Vậy ta còn ngần ngại gì mà không bắt chước Chúa, chịu khó để theo Thánh ý Chúa, chịu khó để nhiều lần, nhờ vậy, người khác được hạnh phúc?
Đó là mấy lời chân thành tôi trao lại cho Bạn. Nếu Bạn hiểu và thi hành những điều ấy, thì sau này triều thiên của Bạn sẽ sáng láng gấp nghìn gấp vạn lần.
Bạn nghĩ sao? Bạn có đủ can đảm để thi hành những điều ấy không? Tôi mong Bạn có đủ can đảm. Mà nếu Bạn thấy mình thiếu can đảm, Bạn hãy cầu xin hàng ngày. Thế nào Chúa và Đức Mẹ cũng ban cho Bạn.
Đây là một nhận xét: trên đời, chính những cái làm ta khó chịu, thì nhiều khi ta lại cần đến nó.
Chẳng hạn, Bạn giẫm phải một cái gai, Bạn tức mình, đem nhổ nó đi ngay, rồi trong lúc bực mình, Bạn bẻ nó ra nhiều khúc và quăng cho xa… Phải, Bạn có quyền làm thế, và có lẽ phần đông chúng ta đều làm thế.
Nhưng ngờ đâu, một lúc sau, Bạn bị một cái dằm đâm vào thịt, nặn thế nào cũng không ra. Lúc ấy Bạn làm gì? Bạn đi tìm cái gai để lẩy nó.
Trên đời, nhiều truyện cũng như truyện cái gai ấy. Chúng làm ta khó chịu trong chốc lát. Nhưng, rồi có lúc chúng ta lại cần đến. Chúa không làm cái gì vô ích, miễn chúng ta hiểu Thánh ý Chúa, và vui lòng nhẫn nhịn.
Tôi muốn dẫn thật nhiều ví dụ, để khi gặp cái tôi nói đây, Bạn hiểu ngay bài học tôi muốn tặng Bạn lúc này và nhờ thế, Bạn thêm nhẫn nại để đền tội lập công.
Con nhện làm ta khó chịu, vì trong nhà luôn luôn phải quét những cái màng nó chăng tứ phía. Vừa quét buổi sáng, thì đến trưa đến chiều lại phải quét, vì nó lại đã chăng đầy nhà. Nếu thiếu nhẫn nại, thì ta đã tức bực chửi rủa những con vật vô tội ấy. Nhưng tôi hỏi Bạn, Bạn có biết chính những con nhện ấy đã giết cho nhà Bạn bao nhiêu con muỗi không, mà chính những con muỗi ấy, mới là những con vật làm hại cho Bạn hơn? Không những thế, đến khi Bạn đứt tay, Bạn làm gì? Chắc Bạn cũng biết ở nhà quê, người ta lấy trứng nhện để rịt chỗ đứt tay. Nhưng nếu bao nhiêu trứng nhện trong nhà bị đập dập hết, thì còn đâu để chữa những vết thương cho Bạn? Con nhện phải chăng là nguồn đau khổ cho Bạn? Bạn nhẫn nại một tí, thì nó đã mưu ích cho Bạn, Bạn thấy không?
Một người muốn thắp đèn, nhưng bị gió thổi tắt. Người ấy phát khùng, la lối, quăng cả diêm, cả chụp vào xó nhà: “Để tao làm giời cho, lúc gió thì không gió, lúc này thì gió như bão”. Đó là một truyện thật, chính tôi đã chứng kiến.
Nhưng Bạn ạ, gió, phải chăng là căn cớ làm ta khó chịu? Cũng con người tôi vừa nói đó, lúc nóng nực họ lại la: “Lúc cần gió, thì không gió”. Thế thì biết làm sao để chiều họ được? Cái mà lúc trước họ nguyền rủa, thì một lúc sau lại đi tìm.
Một ví dụ khác. Người ta thường nói: “Thủy khắc hỏa”, nước và lửa nghịch nhau. Cái ấy cũng có phần đúng. Nhưng người ta quên hẳn cách Chúa Quan phòng an bài mọi sự. Chúng ta cần cả hai thứ như nhau và bằng nhau. Nếu không có nước, thì nhiều khi tắt sao được lửa? Trong những đám cháy nhà, người ta làm gì? Người ta đi tìm nước. Không có nước là hỏng. Khi muốn nấu dọn đồ ăn, muốn có một chén nước, người ta làm gì? Người ta đi tìm lửa. Thì ra cả hai cái mà người ta cho là tương khắc nhau, lại bổ túc cho nhau, lại có thể dung hòa với nhau được, để mưu ích cho chúng ta.
Nói xa chẳng qua nói gần. Trong gia đình, có hai người, hai chị em chẳng hạn, khác tính nhau. Một người thì nóng nảy, một người thì chậm chạp. Người nóng nảy làm người chậm chạp khó chịu, và ngược lại, người chậm chạp cũng làm người nóng nảy khó chịu; nhưng hai người ấy đều cần cho nhau, và đều có thể giúp đỡ bổ túc cho nhau. Người nóng nảy có thể lấy người chậm chạp làm bài học cho mình, và người chậm chạp cũng có thể lấy người nóng nảy làm bài học cho mình. Vậy, cả hai người nếu biết lợi dụng, thì đều có thể, một người bớt chậm chạp, một người bớt nóng nảy, như thế cả hai sẽ hóa nên người đúng mực. Rồi có những việc phải giao cho người nóng nảy để họ thi hành cấp tốc, có những việc phải giao cho người chậm chạp để họ làm cho cẩn thận hơn. Hai người cùng bổ túc cho nhau, và giúp đỡ lẫn nhau ở những công việc mà người nọ làm không bằng người kia.
Bạn đã thấy chưa? Ở đời, Chúa không làm cái gì vô ích, chỉ cần một điều, là chúng ta biết lợi dụng, biết nhẫn nại để mưu ích cho mình, và mưu ích lẫn nhau.
Đó chỉ là những ví dụ. Và tôi không có ý nói, chẳng hạn, không được lẩy cái gai mắc ở chân. Tôi chỉ có ý lợi dụng những ví dụ tự nhiên ấy để dẫn Bạn đến phương diện khác, tôi có ý bàn đến ở đây, là phương diện siêu nhiên, vì những cái xung khắc ấy, những cái ngược ý ấy, giúp chúng ta rất nhiều trong việc luyện tập nhân đức. Mỗi giờ mỗi phút, chúng ta có dịp tập nhẫn nại, có dịp lập công.
Bạn hãy lấy truyện Đức Chúa Giêsu làm tỉ dụ. Trong ba năm ở với các tông đồ, Chúa làm gì? Trước hết Chúa có thể chọn những tông đồ sáng suốt, minh mẫn, dịu dàng và có đủ đức tính; hoặc Chúa làm ngay cho các ông nên thánh thiện, xứng với chức vị tông đồ. Đàng này Chúa làm khác, Chúa đã chọn những người tầm thường, có nhiều tật xấu. Chúa giảng đi giảng lại nhiều lần, mà các ông vẫn không hiểu những điều Chúa dạy. Sao Chúa làm thế? Là để Chúa có dịp hãm mình, để các tông đồ có dịp tập nhẫn nại, và chịu đựng sự khó với nhau.
Ấy cũng là một tấm gương để chúng ta cùng soi. Chúa không muốn chúng ta sống giữa những người hoàn toàn. Chúa muốn chúng ta sống cạnh những người có nhiều tật xấu, và chính chúng ta có nhiều tật xấu – ai dám tự phụ mình không có tật xấu? Nhân vô thập toàn, mà! – Như vậy để chúng ta có dịp giúp đỡ nhau lập công, do sự tập nhẫn nại. Nếu chúng ta không hiểu bài học ấy thì cuộc đời sống chung với nhau, sống cạnh những người không hợp tính, sẽ là một cuộc đời đau khổ. Phải sống cạnh những người từ sáng đến tối không hiểu nhau, và chỉ làm cho nhau khó chịu, thì còn gì đau đớn bằng? Trái lại, nếu chúng ta hiểu bài học ấy, nếu chúng ta biết lợi dụng hết những người chung quanh chúng ta để làm lợi cho mình, và mưu ích cho họ, thì cuộc đời chúng ta sẽ đỡ khổ nhiều, và những người sống chung với ta cũng được hạnh phúc.
Các Thánh đã hiểu thế, nên ít khi các đấng tránh những người không hợp tính với mình.
Chẳng hạn Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã tình nguyện săn sóc một chị nữ tu già khó tính, dù chị đã hết sức chiều chuộng, mà chị kia vẫn không khi nào được như ý… Nhưng Thánh nữ vẫn tươi cười, khiến chị kia phải ngạc nhiên. Nhờ thế, Bà đã lập được nhiều công, và chị nữ tu kia sau cũng được nhiều ích lợi.
Đời các Thánh không thiếu gì những truyện giống như thế. Bạn hãy đọc lại truyện thánh Catarina Siêna với một chị bạn Dòng Ba, tôi đã kể ở đoạn “Phải đổ máu”.
Bạn muốn làm Thánh không? Chắc là có. Vậy thì hãy soi gương các Thánh, đừng tránh trút những dịp làm mình khó chịu, nhất là khi không thể tránh được, thì lại càng nên nhẫn nại. Làm Thánh ở chỗ ấy, chứ không phải ở chỗ luôn luôn gặp những điều vừa ý.
Ta hãy đi xa hơn tý nữa. Bạn hãy tưởng tượng, nếu ở đời, cái gì cũng giống nhau, thì sẽ ra thế nào? Nếu ai cũng lớn như ai, ai cũng nhỏ như ai, nếu cái gì cũng đỏ, cái gì cũng trắng, cái gì cũng đen… nếu lúc nào cũng mưa, lúc nào cũng nắng… nếu chỉ có ngày, nếu chỉ có đêm… thì buồn chán biết mấy!
Trăm nghìn điều khác vậy. Chúa khôn ngoan vô cùng đã hiểu những cái ấy trước ta, nên Người đã an bài mọi cái cho khác nhau, khác nhau về vị trí, khác nhau về tính tình, khác nhau về sức khoẻ, khác nhau về học lực, khác nhau về nhiều phương diện khác, để trên thế giới có sự thay đổi, nhờ thế, có sự đẹp, và vì khác nhau, các vật mới có thể giúp đỡ lẫn nhau, và làm ích cho nhau.
Bạn hãy nghĩ, trong một đám rước nếu tất cả ban tổ chức, cùng tính tình như nhau, nên tất cả mọi cái đều theo một màu xanh, thì tuy có đẹp, nhưng không đẹp bằng biết nhiều màu, con mắt ta sẽ được thỏa mãn hơn…
Hay nếu các phần mình ta đều như nhau cả, nếu phần nào cũng là tay, thì lấy gì mà đi, nếu phần nào cũng là chân, thì lấy gì mà nói, nếu phần nào cũng là miệng, thì lấy gì mà nghe v.v… Đó chỉ là một ví dụ, nhưng nó giúp Bạn hiểu được các sự điều hòa trong thế giới, khi thấy các vật khác nhau, và người ta khác tính nhau.
Nói tóm lại, Chúa đã an bài mọi việc từ việc lớn đến việc nhỏ, với một trật tư hoàn toàn khôn ngoan, chúng ta hãy cúi đầu xuống để ca tụng Chúa và cảm tạ Chúa. Chả lẽ Chúa lại không bằng một họa sĩ khi vẽ một bức tranh, biết chỗ thì tô đậm, chỗ thì tô nhạt, có chỗ nét to, có chỗ nét nhỏ… Ta hãy vui lòng lĩnh nhận những cách Chúa an bài, không khi nào dám phàn nàn năn nỉ… chịu cho vui lòng, để tỏ mình biết vâng phục Thánh ý Chúa, để tập thêm nhẫn nại, để lập công, để mình được bình tĩnh mà sống… để nên thánh. Vậy từ nay Bạn hãy đem những ý tưởng ấy ra mà suy ngắm. Nhờ sự suy ngắm, ta có thể chôn chặt những điều ấy vào lòng, và như thế, mỗi khi gặp sự khó, ta có thể hiểu ngay Thánh ý Chúa, và ta sẽ vui lòng chịu được các sự khó Thánh ý Chúa gửi đến cho.
Bạn, ai trong ta đã không nhiều lần sốt ruột, vì cớ này hay vì cớ khác.
Chờ tàu, tàu không đến, sốt ruột; mong mẹ về, mẹ không về, sốt ruột; mong chóng đến ngày đi tu, ngày ấy không đến, sốt ruột; mong chóng được rửa tội, ngày ấy chậm đến, sót ruột; mong chóng được công ăn việc làm, mãi không được, sốt ruột… và bao nhiêu cái sốt ruột khác nữa. Trong đời Bạn, cũng như trong đời bất cứ ai, chúng ta đã gặp trăm cái sốt ruột, lắm lúc đến đổ mồ hôi, lắm khi đến quên ăn mất ngủ, lắm lúc đến phát điên phát khóc, phải không Bạn?
Nhưng ngồi nghĩ lại, sốt ruột làm gì cho mệt trí, và lắm khi sốt ruột chẳng ích gì… Mong tàu, tàu không đến, sốt ruột… được ích gì? Bạn có sốt ruột đến mấy nó vẫn không đến… Người khác không sốt ruột, thì tàu cũng đến một lúc với người sốt ruột. Thế có phải sốt ruột vô ích không?
Mong người Bạn đến chơi, người Bạn không đến như đã hẹn… sốt ruột, nhưng có ăn thua gì? Vì người Bạn vẫn chậm đến như lúc mình không sốt ruột.
Sốt ruột không ảnh hưởng gì đến giờ tàu, cũng không ảnh hưởng gì đến người bạn.
Sốt ruột thường đã không ích gì, nhiều khi có hại. Sốt ruột rồi đâm ra cáu, đâm ra gắt, cáu gắt với tất cả những người không có liên lạc gì đến căn cớ làm mình sốt ruột. Người chủ nhà sốt ruột, đâm ra la mắng hết cả vợ con, người giúp việc; người vợ sốt ruột, đâm ra lôi thôi to tiếng với tất cả chồng con, người nhà…
Thật là vô lý! Làm phiền cho người khác trong khi người ấy không đáng mình làm phiền. Ấy là chưa kể những lời nói phạm đến những người làm mình sốt ruột, nhưng thực ra họ không có lỗi gì… Một người Bạn đã hẹn lại thăm mình, nhưng rồi họ bị ngăn trở lớn mà chưa kịp báo tin cho mình, mình đâm ra nói hành, thóa mạ.
Sốt ruột đã làm phiền người khác, lại làm phiền cho chính mình, nhất là cho chính mình.
Trong khi chúng ta sốt ruột, chúng ta thấy mình tức bực, thấy mình đau khổ, trong người mất hẳn sự bằng yên, có phải thế không Bạn? Thì ai mượn mình sốt ruột, để làm cho mình đau khổ vô cớ?
Sốt ruột lắm khi đến cực độ, nó làm ta mất cả trí khôn, và nói, hoặc làm những điều phiền lòng Chúa. Người ta sốt ruột, không được nắng mưa như ý, người ta quên cả đức tin, cậy, kính mến, người ta nói phạm đến Chúa.
Tôi chắc Bạn chưa khi nào sốt ruột đến thế. Có một điều là người khác đã sốt ruột đến thế, thì có thể một ngày kia, nếu không cẩn thận, chúng ta cũng sa vào cái lỗi ấy.
Chúng ta hãy lấy Chúa làm gương. Bạn thử xét xem Chúa làm gì không được? Thế mà Chúa đã vui lòng nhẫn nại, chờ những mấy nghìn năm, mới xuống thế chuộc tội cho loài người. Trong khoảng thời gian ấy, thiên hạ làm biết bao điều cực lòng Chúa. Nhưng Chúa cứ chờ đợi, chờ ngày Đức Chúa Cha đã định mới xuống thế gian. Xuống thế gian, Chúa có thể xuống như một người lớn, hai, ba, mươi tuổi. Nhưng không, Chúa đã ngự trong lòng Đức Mẹ chín tháng… Chúa biết dùng trí tuệ, ngay từ giây phút đầu tiên trong đời Chúa, nhưng Chúa đã vui lòng giam hãm chín tháng. Chúa có sốt ruột đâu. Sinh ra, Chúa có thể “vươn mình một cái”, rồi đi giảng, rồi làm phép lạ, rồi chinh phục cả thế giới, dễ như trở bàn tay. Nhưng không, Chúa theo luật tự nhiên, tuần tự lớn dần cho đến ba mươi tuổi mới đi giảng đạo.
Về sau, Chúa lập Giáo hội, cần gì Chúa phải lập một Hội hèn yếu như thế, Chúa có thừa sức chinh phục thế giới một cách dễ dàng. Nhưng Chúa đâu có sốt ruột như chúng ta. Mỗi việc Chúa làm, đã dự định sẵn. Khi đến giờ thì Chúa làm, lúc chưa đến thì Chúa chưa làm, Chúa sẵn lòng chờ đợi… Chúa không biết sốt ruột.
Tính loài người quen ỷ lại, cái gì mượn hoặc sai người khác làm được, là ta không muốn làm. Có những hạng người chỉ quen miệng sai khiến, không khi nào, hoặc rất ít khi, họ chịu bắt tay vào công việc gì; từ những việc to tát, đến những việc nhỏ mọn… nhất nhất cái gì cũng sai hoặc mượn người khác làm thay.
Nhưng việc gì thì việc, chứ đến việc “ăn thay” thì quả là không ai mượn được: có đời nào Bạn ăn thay cho tôi mà tôi lại no được?
Trên đường thiêng liêng cũng có những thứ không ai làm thay được. Thứ ấy là thứ gì? Thứ ấy là Triều thiên của mỗi người. Mỗi người có triều thiên của mình, chính mình phải kết lấy, không thể cậy người khác kết thay. Triều thiên ấy quý hay không, đẹp nhiều hay đẹp ít, có đầy hạt trai đá ngọc hay không, có sáng chói ngần nào, là tùy ta có biết tô điểm cho nó hay không.
Nhưng mua đâu được những thức tô điểm triều thiên của mình? Bạn phải sắm cho thật nhiều vàng, vì có vàng thì Bạn sẽ mua được các thứ hạt trai, đá ngọc ấy. Vàng ấy là gì?
Truyện thần thoại có kể: Bà tiên nọ có một cái gậy, hễ chọc cái gậy ấy vào vật gì, thì vật ấy tức khắc biến ra vàng. Chắc Bạn ước được cái gậy ấy.
Nhưng Bạn chớ quên, cái gậy ấy có thể làm hại cho Bạn, vì nó có thể làm cho cơm Bạn ăn hóa vàng, nước Bạn uống hóa vàng… thì Bạn chết mất.
Về đàng thiêng liêng, ta không cần nhờ đến gậy của bà tiên, ta có một thứ gậy làm cho tất cả việc ta làm, hóa thành vàng. Gậy ấy là lòng mến. Vậy Bạn muốn có thật nhiều vàng để sắm triều thiên, thì Bạn hãy chịu khó vì lòng mến.
Vậy cũng như vàng vật chất ở đời không phải tự nhiên người ta có, nhưng người ta phải sắm nó, và phải vất vả chịu khó mới sắm được. Vàng mến cũng vậy. Phải cố công chịu khó mới sắm được, và mỗi người phải tự sắm lấy cho mình, chứ không ai sắm thay được cho ai. Đấy là chỗ khác với vàng vật chất, vì thứ vàng này còn có thể sắm thay người khác. Cũng vì thế vàng Mến khó sắm hơn, và Chúa bắt như vậy.
Bạn phải lấy gì mà sắm, mà mua vàng Mến ấy? Bạn phải sắm. Nghĩa là phải mua nhất là bằng sự đau khổ. Chúa muốn cho ta sắm vàng ấy, thì Chúa cũng đã chịu khổ trước. Đến lượt ta, ta muốn sắm cho ta, thì ta cũng phải làm cho Chúa, nghĩa là chịu đau khổ. Phi đau khổ, chúng ta khó sắm được triều thiên chúng ta.
Bạn thân ái, Bạn muốn sắm triều thiên ấy không? Hẳn là có, Bạn có muốn cho triều thiên Bạn được sáng láng chói lòa, được xinh đẹp mỹ miều không? Hẳn là có. Vậy thì Bạn hãy dùng sự đau khổ mà mua cho nhiều vàng, vàng ấy sẽ giúp Bạn sắm những hạt trai, những đá ngọc, một mai sẽ giát vào triều thiên Bạn. Mỗi ngày, mỗi việc, mỗi sự hy sinh nhỏ mọn, phải là một viên ngọc giát vào triều thiên ấy.
Tôi muốn nói, Bạn không được để qua ngày nào mà không chịu hết các sự khó, để triều thiên Bạn được nhiều hạt ngọc, nghĩa là được thêm vinh quang, hạnh phúc trước mặt Chúa. Tôi lấy một ví dụ. Một cậu học trò làm một bài toán. Một bài toán có biết bao con số phải viết. Có bài dài đến một trang giấy, hoặc hơn nữa. Nhưng cậu học trò không nản lòng. Cậu không nói: Thôi, nhiều con số thế này, thì bỏ bớt ra cho tiện. Cậu biết bỏ đi không được, vì mỗi con số đều quan hệ đến cả bài toán. Bỏ một con số, là có thể làm tổn hại đến cả bài, càng bỏ nhiều càng hỏng.
Đời ta cũng vậy. Mỗi ngày là một phần bài toán Chúa đã ra cho ta làm. Câu trả lời đúng, tức là điều kiện để được triều thiên Chúa đã hứa thưởng ta. Những con số tỉ mỉ chi chít làm đi làm lại trong bài toán tức là những sự khó chúng ta chịu hàng ngày. Nếu mọi con số đều quan hệ đến cả bài, nhất là đến câu trả lời, thì mỗi sự khó chúng ta chịu, cũng quan hệ đến cả đời ta, nhất là đến triều thiên Chúa bắt ta kết sau này. Bỏ một sự khó không chịu cho nên, tức là bỏ mất con số trong bài toán. Ta bỏ nhiều sự khó, tức là bỏ nhiều con số, tức là làm hỏng triều thiên ta. Mà hỏng triều thiên ấy ta mong gì khác nữa?
Đã đành, đó chỉ là một ví dụ, để so sánh, nhưng nó cũng không xa sự thực bao nhiêu.
Vậy Bạn thân mến, xin Bạn chịu khó làm xong bài toán Chúa đã ra cho Bạn. Bạn hãy kiên tâm, hãy nhẫn nại, viết cho hết các con số trong bài toán ấy và cặn kẽ làm cho đến cùng, vì nếu Bạn sơ suất bỏ quên, hoặc viết sai một con số, tức là bài toán của Bạn có thể đi đến chỗ hư hỏng. Sáng ngày dậy, Bạn hãy bảo mình: “Hôm nay tôi phải lo làm bài toán của tôi cho tử tế. Mỗi sự khó tôi chịu, là một hạt ngọc giát vào triều thiên của tôi, cũng như mỗi con số là một điều kiện cần thiết để tôi làm xong bài toán của tôi”
“Lạy Chúa, con xin nhất định làm xong bài toán của con, dù phải bóp trí nặn óc, con cũng vui lòng, miễn đến cuối ngày, nhất là đến cuối đời, con nộp bài cho Chúa, và sẽ được Chúa phê cho ba chữ: Tối ưu hạng.”
Trước khi kết luận bài này, tôi xin kể Bạn nghe vài câu truyện.
Có lẽ Bạn muốn thấy một điềm lạ, như thày ẩn tu nước Đan Mạch đã được. Thày ấy bị đau đớn quá sức, và bị đã lâu ngày. Để thêm sức mạnh cho Thày, Chúa cho Thày thấy nhiều thiên thần trên thiên đàng đang mải miết chạm một triều thiên bằng vàng và triều thiên ấy sắp xong. Bệnh nhân hỏi: “Triều thiên của ai thế?” Có tiếng đáp: “Triều thiên của con đấy! – Khi nào xong?- Khi nào con chịu khó đã đủ”. – Thầy hiểu bài học ấy, và để triều thiên của mình được hoàn thành, Thày đã nhẫn nại chịu khó đến chết.
Tôi xin hỏi Bạn: Bạn sẽ cảm tưởng thế nào với cảnh này. Sau khi Bạn tắt nghỉ, Chúa mở trước mắt Bạn sách Hằng sống và bảo Bạn: “Này con xem, hết các sự đau đớn con chịu đều đã được ghi chép bằng nét vàng. Nay là giờ lĩnh thưởng, con hãy đến chiếm ngai đã dọn sẵn thưởng con”. Bạn lên… và thoáng thấy một ngai lộng lẫy. Bạn hỏi: “Có phải tòa kia không, lạy Chúa? – Chưa phải, con hãy lên cao hơn”. Bạn sẽ ngạc nhiên và hỏi: “Lạy Chúa, con đã làm gì cho đáng những sự vinh hiển ấy?”. Chúa đáp lại: “Là vì con đã đau khổ nhiều và đã biết chịu đau khổ”. Tôi xin hỏi lại: Đứng trước cảnh tượng ấy, Bạn nghĩ thế nào?
Và sau đây là vài truyện nữa, trước khi kết luận hẳn truyện này.
Hôm ấy là ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời. Một bà công tước nói với hai cô con gái: “Hai con hãy mặc những áo đẹp nhất, mang triều thiên vàng, chúng ta sẽ cùng nhau đi lễ tại Nhà Thờ Đức Bà”. Hai cô công chúa trang điểm như mẹ bảo. Vào nhà thờ, họ quỳ trước một tượng Chuộc tội. Nhìn thấy Chúa chịu treo mình đầy những thương tích và hấp hối, cô em liền hạ triều thiên trên đầu xuống với tất cả các thứ nữ trang, rồi xuống quỳ trên nền gạch. Bà Mẹ thấy thế, tỏ vẻ không bằng lòng. Cô con liền nói: “Mẹ xem kìa, trước mặt con là Chúa Giêsu hiền lành nhân hậu, đầu đội mũ gai nhọn sắc, thân người trần trụi đầy những máu. Còn con, con chỉ là một loài thụ sinh hèn hạ, không lẽ con dám ở trước mặt Người, đầu đội triều thiên vàng và đầy những hạt trai… Làm thế, tức là con làm sỉ nhục Người”. Nói rồi cô khóc lóc thảm thiết và tình yêu tự Trái Tim Chúa đã bắn ra đâm thủng tim cô. Cô bé lớn dần… cô đã vui lòng từ bỏ triều thiên vàng, để nhận lấy triều thiên gai Chúa trao cho… về sau, cô đã biến thành Bà thánh Elizabeth, Hoàng hậu nước Hung-Ga-Ri.
Phải, muốn được triều thiên bất diệt trên nơi hằng sống, từ đời này, ta cũng phải bắt chước Chúa, và các tôi trung của Người, ta hãy vui vẻ nhận lấy triều thiên gai, với tất cả các sự đau khổ trong cuộc đời ta.
Vua Carolô thứ năm nước Pháp, một hôm muốn thử hoàng tử, thì bảo đặt trên bàn triều thiên và vương trượng của Vua, còn trên bàn khác thì đặt một cái gươm. Vua cho gọi hoàng tử đến và bảo hoàng tử chọn. Vua ngạc nhiên biết mấy, khi thấy hoàng tử không nhìn gì đến triều thiên và vương trượng, lại chọn thuẫn và gươm. Vua hỏi? “Sao thế?”. Hoàng tủ đáp: “Nhờ cái này mà được cái kia, nhờ thuẫn và gươm, người ta chiếm được triều thiên và vương trượng.”
Chúa cũng xử với Bạn như thế, Chúa dọn sẵn triều thiên cho Bạn trên trời, nhưng khi Bạn còn sống, thì Bạn phải nhận lấy thuẫn và gươm mà chiến đấu. Ngày nào Bạn thắng trận, sau khi đã nhẫn nại chịu đau khổ, ngày ấy Bạn sẽ được lĩnh triều thiên. Gươm đau khổ chính là khí cụ để Bạn chiếm triều thiên hạnh phúc. Tô điểm triều thiên Bạn, đó phải là nguyện vọng tha thiết của đời Bạn, cũng như tô điểm triều thiên tôi, phải là nguyện vọng tha thiết của đời tôi. Chúng ta hãy giúp nhau bằng sự cầu nguyện và hy sinh, để triều thiên chúng ta được đúng với kích thước và khuôn mẫu Chúa đã chỉ cho mỗi người.
Hết mọi việc xảy ra ở đời, to hay nhỏ, trọng hay hèn, không việc nào là không do Thánh ý Chúa khiến nên, hoặc ít ra tha phép cho xảy đến. Bạn đừng quên điều này: Phàm việc gì Chúa đã cho xảy đến thì tất nhiên là sáng danh Chúa, và làm ích lợi cho ta, không xác thì hồn, nhất là hồn. Với cặp mắt cận thị, chúng ta chỉ thấy những cái xẩy ra trước mắt, và ngay những truyện xảy ra trước mắt, nhiều khi chúng ta cũng thấy lầm. Người ta đã thí nghiệm: Một cái gậy cắm xuống hồ, chúng ta có cảm giác là chiếc gậy gẫy ở giữa… Nhưng lại gần nhắc chiếc gậy lên, chúng ta thấy nó thẳng như thường.
Chúng ta lại chỉ thấy và chỉ tìm những cái lợi nhãn tiền, trước mắt, mà quên những cái lợi sâu xa hơn, cao cả hơn. Một người học trò, vì thích chơi nên đã bỏ học; anh ta quên rằng, nếu cứ thế thì rồi đây thi sẽ hỏng, và sẽ gặp nhiều điều phiền muộn khác nữa. Trong nhiều việc, chúng ta cũng chỉ như anh học trò ngu muội ấy.
Còn Chúa, thì Chúa thấy mọi sự. Trước mặt Chúa không có gì là trước, là sau, Chúa thấy luôn một lúc hết mọi việc xảy ra trong vũ trụ này, việc đã xảy ra, việc đang xảy ra và sẽ xảy ra. Đàng khác, Chúa lại là Đấng thương yêu ta vô cùng, không khi nào Chúa muốn làm hại làm khổ cho ta, nhất là những người con riêng Chúa, nghĩa là những linh hồn trung thành với Chúa. Nhất là Chúa quan tâm đến ích lợi đích thực thiêng liêng của ta, hơn những cái lợi hiện tại vật chất, nhiều khi chỉ có hại cho linh hồn.
Vậy hỡi Bạn, Bạn cũng vào số những linh hồn trung thành làm tôi Chúa, thì can gì Bạn sợ Chúa làm khổ cho Bạn? Từ nay mỗi khi Bạn thấy Chúa làm những việc trái mắt Bạn, Bạn hãy nhớ lại: Tầm con mắt tôi rất ngắn; còn Chúa Chúa thấy xa, tôi chỉ thấy cái lợi trước mắt và nhiều khi là những cái có hại, còn Chúa, thì Chúa xét nhất là những cái lợi đời đời của tôi. Ấy là tôi chưa nói đến nhiều cái lợi vật chất đời này mà tôi không ngờ.
Cô Marguerite de Cortone (Magarita Cóc-ton), trong thời niên thiếu, có tình cảm với một người thanh niên. Một lần nàng không tìm được người yêu, nhưng thấy con chó của chàng cứ đến quanh quẩn bên nàng luôn. Nó rên những tiếng thảm thiết và cắn lấy gấu áo nàng lôi đi. Magarita theo con chó. Đến một đống lá, con chó lấy chân gạt lá ra và sủa rất dữ. Magarita lại gần. Cái gì vậy? Nàng thấy xác tình nhân đã có mùi và bắt đâu rữa. Hai giọt lệ từ từ lăn trên má, không mấy chốc những giọt nước mắt đau đớn ấy đã biến thành những giọt nước mắt ăn năn.
Nàng tự nhủ: “Đồ điên dại, đây là vật mày đã quý hơn Chúa”.
Cảnh tượng đau đớn ấy đã đổi lòng nàng. Từ ấy người ta thấy nàng ăn mặc rách rưới, đứng ở cửa thành, vẫn còn đầy nhưng vết tích tội lỗi của nàng, và xin những khách qua lại tha lỗi. Sau cùng nàng đã làm thánh.
Ông Chateaubriand (Sa-tô-ri-ăng) có thuật lại những nỗi thống khổ do cái chết của mẹ ông gây nên. Nhưng ông lại thêm rằng: “Tôi đã khóc, và tôi đã tin”. Nước mắt khóc mẹ, đã đem đức tin trả lại cho nhà thi hào Chateaubriand.
Vua Phê-đê-rich, vua nước Phổ, đã tính rằng mỗi năm chim sẻ làm thiệt hại đến hai triệu đấu lúa trong cả nước. Để đỡ thiệt hại, vua truyền thưởng những ai giết được một con chim. Toàn dân thi đua bắt sẻ. Không mấy tháng, trong nước không còn một con sẻ nào. Nhưng năm sau, sâu róm và cào cào làm hại hết cả mùa màng. Vua liền ra lệnh không được giết sẻ nữa.
Cách đây ít năm, một người Anh muốn sang Mỹ. Chính lúc xuống tàu, người ấy ngã gẫy chân… nên phải bỏ việc du lịch. Các bạn đến chia buồn với anh ta. Nhưng anh ta nói: “Những cái Chúa làm, là những cái tốt cả.” Hôm sau người ta được tin, chiếc tàu ra khơi hôm trước, đã bị đắm, và hành khách chết hết.
Trong truyện các Thánh tu hành có thuật lại tích này. Có một nhà nông, được hạnh phúc hơn các bạn. Người ta hỏi anh ta tại sao. Anh ta đáp: “Lạ gì, là vì tôi muốn giời thế nào, thì được như thế” – Họ đáp: “Không thế được” – Nhà nông nọ giải thích: “Thật thế. Vì tôi chỉ muốn những cái Chúa muốn… bởi vậy lúc nào Chúa cũng cho tôi được mùa như tôi muốn”
Ông Chouvaloff (Su-va-lóp), một vị tướng Nga rất thời danh, một hôm đi từ nước Nga đến đất Ý. Ông ta giàu, ông ta trẻ, ông ta có nhiều bạn, ông ta có người vợ gồm đủ tứ đức, và hai đứa con xinh như mộng. Ông có đủ hết các thứ hạnh phúc, chỉ thiếu cái hạnh phúc được biết Đạo thật. Đau đớn thay, người vợ trẻ ấy bỗng đã rời vòng tay thân ái của ông, bước sang kiếp khác. Trong mấy phút, ông thấy tất cả tòa nhà hạnh phúc của ông đổ sụp. Từ nhỏ, không khi nào ông cầu nguyện, thế mà lần này ông đã quỳ gối gần quan tài vợ. Và ông đã tin.
Biết bao lần Chúa xử như thế. Chúa đến với người ta tay cầm gươm. Chúa đâm thẳng vào tim. Người ta ngã quy, tim bị thủng, nhưng lòng hóa trong hơn, mắt đầy nước, nhưng cuộc đời đầy công nghiệp, bị bóc lột hết cả các thứ hạnh phúc khói mây, nhưng lại được thừa hưởng hạnh phúc bất diệt.
Vậy Bạn hãy nhắm mắt mà theo ý Chúa, Chúa đã phán: “Tất cả các sợi tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả” [39] nên không sợi nào rơi xuống ngoài thánh ý Chúa được. Huống hồ những việc to tát như việc thế giới lộn xộn, chiến tranh tàn khốc, việc phải tản cư đang lúc gia đình vui vẻ xum họp, rồi sống bơ vơ lạ người lạ cảnh, với hai bàn tay trắng, mắt phải nhìn những cảnh thương tâm tai phải nghe bao tiếng than thở não nuột… vợ bắc chồng nam, con mồ côi cha, vợ mất chồng. Tất những cảnh ấy không thể ra ngoài Thánh ý Chúa được. Bạn đừng trách cái này cái khác, đừng đổ lỗi cho người này người nọ. Không, không tại cái gì, không tại người nào, hay có tại cái gì, người nào, thì cái ấy người ấy cũng phải do Chúa khiến truyền, hoặc tha phép. Chúa đã muốn thế, thì Bạn không khỏi kêu ca lẩm bẩm, trách cái này, giận người kia. Trách như thế, giận như thế, tức là Bạn liều mình trách Chúa, giận Chúa là Đấng đã khiến, hoặc đã tha phép cho truyện ấy xẩy ra. Bạn hãy cúi đầu lĩnh nhận thánh giá Chúa gửi đến cho. Bạn phải tỏ cho người quanh Bạn thấy rằng: Bạn tập đi đường nhân đức đã cứng cát; cho họ hiểu rằng: đối với Bạn: Sự khó chỉ là con đường đưa đến cõi thánh thiện.
Bạn hãy than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, con xin vâng theo Thánh ý Chúa. Chúa muốn bao nhiêu, con xin muốn bấy nhiêu. Xin Chúa giúp con chịu khó cho nên. Con xin chịu khó để đền tội con, để tỏ lòng con vâng phục Thánh ý Chúa, và để cứu các linh hồn… Lạy Chúa con đã có lời giao… 3652 linh hồn… con nhất định không bỏ lỡ cơ hội nào mà không chịu khó để làm theo ý ấy. Lạy Chúa, con cần gì phải tìm sự khó tận đâu xa, các sự khó Chúa gửi đến, là những sự khó làm ích cho con hơn cả, vì không phải những sự khó con tự chọn, con đã không chọn thì chắc con không lầm. Con xin vâng theo Thánh ý Chúa. Có lẽ sự khó này sẽ kéo thêm sự khó khác… Nhưng con không xét gì nữa, con chỉ xét rằng đó là Thánh ý Chúa thì con cứ vâng theo, Chúa muốn nó ra thế nào tùy Thánh ý Chúa”.
Một lời than thở cùng Chúa như thế trong khi Bạn chịu đau đớn thì đẹp lòng Chúa hơn Bạn ăn chay một tuần lễ, hơn Bạn ngồi trong nhà thờ đọc kinh từng mấy giờ, nhưng chỉ là những việc làm theo ý Bạn, và nhiều khi những việc lành tự ý chọn ấy, lại là dịp tho Bạn tự phụ cậy mình… Nhưng khi Bạn vâng theo Thánh ý Chúa, Bạn không phải là Bạn nữa, Bạn đã nên như Chúa, vì Bạn đã đem ý riêng của Bạn hợp nhất cùng Thánh ý Chúa.
Một lần Chúa phán với thánh nữ Magarita Maria rằng: “Đôi khi vì vâng lời mà nhận lấy những cái dễ chịu cho xác, còn quí hơn làm những việc hãm mình đền tội khác thường nhưng là làm theo ý riêng”.
Hai người yêu nhau thật, thì lo cho hai ý muốn nên một. Người này muốn cái gì, người kia cũng muốn cái ấy. Bạn hãy xét lại vài việc cỏn con xảy ra trong đời tình cảm của Bạn, Bạn sẽ thấy, vì đó là tính cách của tình yêu. Hai ý muốn nên một; nhiều khi phải ép mình để muốn cái người kia muốn. Nhưng chính vì ép mình để muốn những cái người yêu muốn, mà tình yêu thêm khắng khít bền chặt. Không thể yêu cho thực tình, mà không hy sinh. Tình yêu không hy sinh, là một thứ tình yêu ngoài miệng, nếu không thật là giả dối.
Tôi chắc Bạn mến Chúa thực tình, chứ không phải chỉ mến ngoài miệng. Vậy thì Bạn hãy can đảm mà chịu những sự đau khổ Chúa gửi đến cho Bạn. Một sự đau khổ chịu cho nên thì đẹp lòng Chúa hơn trăm nghìn lời than thở sốt sắng, hoặc trăm nghìn việc đạo đức làm khi tâm hồn thư thái, và được tràn ngập sự yên ủi.
Thánh Phanxicô Năm Dấu, lúc bị bệnh tật, vẫn giữ được bộ mặt vui tươi. Có một thầy khuyên Ngài nên xin Chúa cho khỏi bệnh. Thánh nhân liền đáp: “Cũng vì ngây thơ mà thầy nói thế, nếu không, tôi sẽ không cho thầy đến thăm tôi nữa”. Thánh nữ Gertrude (Giê-tu-đê) mỗi ngày nguyện 365 lần lời này: “Vâng theo Thánh ý Chúa”. Một lần Chúa cho Bà chọn trong hai việc, một là khỏe, hai là ốm. Bà đáp lại: “Lạy Chúa, con ước ao hết lòng hết sức, không phải Chúa làm theo ý con, nhưng Chúa hãy làm theo ý Chúa”.
Thánh Félix de Cantalice (Phi-li-xê người thành Can-ta-li), là một vị Thánh hoàn toàn tuân theo Thánh ý Chúa. Lúc nào người ta cũng thấy Ngài vui tươi. Miệng Ngài thốt luôn lời: “Deo gratias”: Tạ ơn Chúa. Bởi vậy các trẻ em thành La-mã, mỗi khi thấy Ngài còn xa, chúng đã chạy đến mà reo lên: “Kìa, Thầy Tạ ơn Chúa… Chào Thầy Tạ ơn Chúa”.
Bạn có hiểu những gương ấy không? Chắc Bạn hiểu. Vậy Bạn hãy cố gắng đi. Bạn hãy chịu sự cực này… sự khó nọ… cho can đảm, cho Chúa được vui, cho các linh hồn được nhờ.
Đến đây tôi thấy cần phải nói thêm một lời, kẻo Bạn hiểu nhầm ý tôi. Nói đúng hơn, Bạn hãy đọc lại đoạn nói về “Chiếc diều sáo”. Trong bài ấy tôi đã nói: tôi không dám cấm Bạn, không được xin Chúa cất sự khó đi cho Bạn, trái lại… nhưng thôi, xin Bạn hãy đọc lại bài ấy.
Không những thế, tôi còn cầu xin Chúa cho bạn được thoát khỏi những sự đau đớn đang bọc quanh Bạn. Và đang khi chờ sự khó lui đi, xin Chúa ban cho Bạn được chịu khó cho nhẫn nại. Hoặc Bạn có muốn năn nỉ thì hãy năn nỉ dưới chân Chúa, dưới chân Đức Mẹ, chứ đừng năn nỉ vô ích với người trần tục…
Tôi vừa nói Bạn hãy năn nỉ với Chúa, với Đức Mẹ. Nhưng đó chỉ là một lời khuyên bất đắc dĩ. Vì theo lời Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu, nếu ta không nên đem bộ mặt buồn phiền đến trước mặt người khác, thì càng không nên đem bộ mặt ấy đến trước nhan Chúa. Chính chúng ta có bổn phận phải yên ủi Chúa, chứ không phải Chúa yên ủi ta. Đã đành, khóc với Chúa thì Chúa sẽ chùi nước mắt cho ta, vì Chúa thương ta vô cùng. Nhưng Chúa quí linh hồn vui vẻ hơn [40]. Nên ta hãy hết sức giấu những nỗi phiền muộn ta đi, đừng cho Chúa biết… hoặc có cho Chúa biết, thì cũng phải thêm lời: “Lạy Chúa, con sung sướng vì được chịu đau khổ cho đẹp lòng Chúa”.
Tôi nói lại, cố giấu sự đau khổ mình được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, nhưng khi không giấu nổi nữa, thì thà năn nỉ dưới chân Chúa, dưới chân Đức Mẹ, chứ đừng năn nỉ vô ích với người trần tục.
Thế thì, Bạn thân ái, chúng ta hãy thi nhau chịu khó, chịu khó cho nhiều, chịu khó cho nhẫn nại, để đẹp lòng Chúa, để cứu các linh hồn, và – như tôi sẽ nói sau – để nên giống Chúa. Chúng ta hãy chịu khó, nhưng không phải chịu khó trong một lúc, trong một đôi việc nhỏ mọn lặt vặt, chúng ta hãy chịu khó cả đời, và trong hết mọi sự khó, không trừ một sự khó nào. Bao lâu ta còn sống, thì còn phải đua nhau chịu khó, đua nhau làm Chúa vui lòng, vui lòng vì thấy ta vui cười trong lúc lĩnh nhận sự khó Chúa gửi đến cho. Nếu vì xác thịt yếu đuối, ta không vui cười ngoài miệng được, thì ít ra hãy vui cười trong lòng, vì trong khi đau đớn, xác thịt ít khi có thể vui được, nhưng ta hãy để mặc nó, ta vui trong lòng là đủ.
Chắc Bạn đã hiểu lời tôi. Bây giờ thì Bạn hãy thi hành những điều Bạn hiểu. Bạn sẽ đẹp lòng Chúa lắm lắm.
Thôi, tôi dừng lại ở đây và tôi hy vọng những lời tôi nói với Bạn, sẽ là những hạt giống gieo vào những đám đất đủ điều kiện.
Xin Chúa, xin Đức Mẹ ban ơn cho Bạn được chịu khó cho nên.
Bạn thân yêu, người ta ai cũng kêu mình đau khổ. Nhưng nhiều người quên rằng: lắm khi chính mình làm cho mình đau khổ chứ không phải ai.
Trong bài này tôi chỉ nói đến một ví dụ, một ví dụ có ích cho Bạn sau này.
Nhiều người bỏ thế gian vào nhà Chúa, nhưng họ quên hẳn rằng: Họ vào nhà Chúa không phải để được Chúa chiều chuộng, mà là để chịu khó vì Chúa, và chịu khó cho có công nghiệp hơn. Chẳng hạn có người tưởng vào nhà Chúa, sẽ được trăm nghìn lạc thú, họ tưởng họ sẽ được tràn ngập sự yên ủi, sẽ được bơi lội trong biển vui vẻ thiêng liêng. Họ tưởng tượng họ sẽ được Chúa chiều chuộng nâng niu, như người ta chiều chuộng một đứa con đang nằm liệt trên giường.
Sở dĩ họ lầm như thế, là vì họ vào Dòng không phải để làm tôi Chúa, nhưng để tránh trút sự khó. Đàng khác, họ thấy có ít nhiều Đấng Thánh, hoặc một đôi người, khi bước chân vào Nhà Dòng, thì được hưởng ngay nhiều sự vui vẻ thiêng liêng, họ tưởng ai cũng thế và lúc nào cũng thế, thành thử khi họ thấy họ không được như vậy, là họ đau đớn, họ buồn phiền, họ than trách, họ thất vọng… rồi thêm ma quỷ cám dỗ, họ muốn bỏ Nhà Dòng để trở về thế gian, như nhiều người đã bỏ thật…
Tôi muốn Bạn hiểu rõ điều này, kẻo sau này khi Bạn thấy không được Chúa yên ủi thì Bạn đâm chán nản, ngã lòng, và liều mình bỏ ơn Kêu gọi, hoặc không bỏ ơn Kêu gọi, thì đời Bạn sống trong Dòng, cũng sẽ là một đời đau đớn: Bạn sẽ sống những ngày buồn tẻ, thiếu mọi hứng thú trong việc làm tôi Chúa. Sống bất mãn như vậy, cuộc đời tu trì không đem lại cho Bạn được chút gì yên ủi, trái lại, nó sẽ biến thành khối đá nặng đè trên người Bạn, làm cho Bạn than thở buồn phiền, chán ngán, giẫy giụa, và, đời này, Bạn đã phải khổ sở vô ích, đến đời sau, may ra khỏi khổ sở trong hỏa ngục, thì lại mất triều thiên quý báu Chúa hứa thưởng những người bỏ mọi sự để theo Chúa.
Xin Bạn chịu khó đọc kỹ những lời sau này, Bạn hãy suy cho chín chắn, và nhất là Bạn hãy xin Chúa ban ơn cho Bạn hiểu những lời tôi muốn nói với Bạn, và còn hiểu hơn thế nữa, để sau này, Bạn khỏi mắc mưu ma quỷ, và đời Bạn sẽ là một cuộc đời hạnh phúc, hạnh phúc đời sau đã đành, mà hạnh phúc ngay ở đời này, như lời Chúa đã hứa thưởng những người theo Chúa, gấp trăm ngay từ đời này… [41]
Trước hết, Bạn nên nhớ rằng: khi các Thánh, hoặc ít người nói đến những sự vui thú khoái lạc Chúa ban cho khi bỏ thế gian, thì họ không có ý nói, mình chỉ được những vui thú, mà không gặp một sự gì đau khổ.
Không, không ai muốn nói vậy. Họ chỉ có ý nói: đi làm môn đệ Chúa, không phải chỉ là dấn thân vào cuộc đời vất vả, không phải chỉ là chảy mồ hôi để trèo lên núi Calvariô, mà còn là trèo lên núi Tabôrê nữa. Vì thế, những người muốn theo Chúa đừng ngã lòng, đừng quá sợ hãi. Nếu Chúa bắt ta chịu một hai sự khó, thì Chúa lại cũng có nhiều cách để bù lại cho ta, có khi ngay ở đời này. Chúa bù cách nào, ta không biết, chỉ chắc rằng: Chúa là Đấng nhân từ độ lượng vô cùng, không khi nào Chúa chịu thua lòng rộng rãi của ta. Nào Chúa đã không phán: “Một bát nước lã làm phúc cho kẻ khó vì Chúa, Chúa cũng không quên công” [42] huống nữa, hy sinh cả một đời vì Chúa, Chúa lại quên ta sao được? Bạn hãy chắc điều ấy. Đọc truyện các Thánh, Bạn thấy các Ngài xưa đã chịu bao điều đau khổ, tôi không cần minh chứng ở đây. Nhưng tôi cũng xin tặng bạn một câu truyện về Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu.
Bà viết: “Thưa Mẹ, như Mẹ đã biết, những bước đầu trong cuộc đời nữ tu của con, con đã gặp nhiều gai hơn hoa hồng. Trước hết, linh hồn con chỉ được ăn có một thứ bánh, ấy là sự lạt lẽo khô khan, rồi Chúa đã cho mẹ chúng ta xử với con rất thẳng nhặt, có lẽ chính người không ngờ thế. Không lần nào con gặp người, mà không được nhận một lời quở trách: Con nhớ một lần, con đã để một cái màng nhện ở hàng hiên, người đã mắng con trước mặt cả nhà: “Ai mà không biết, các hàng hiên trong nhà là do một con bé mười lăm tuổi quét. Thảm hại thật. Thôi, quét cái màng nhện ấy đi, lần sau phải làm việc cho cẩn thận hơn. Những khi gặp riêng người trong một giờ đồng hồ, con thấy mình bị quở trách luôn. Mà cái làm con đau khổ hơn cả, ấy là không biết phải sửa mình như thế nào… ”. Sau khi đã kể thêm những truyện bị Bà Mẹ mắng, nhiều khi không hiểu căn cớ tự đâu, Têrêsa kết luận: “Và trong hết mọi sự, Mẹ Bề trên vẫn xử với con như thế”, nghĩa là cứ quở tránh luôn…
Nhưng có một điều cần phải chú ý là chính trong khi các Đấng gặp những điều trái ý, là lúc các Đấng đã được yên ủi, không phải những sự yên ủi ngoài giác quan hoặc những sự sung sướng trong linh hồn, nhưng yên ủi vì các Đấng thấy mình được Chúa yêu; Chúa có yêu Chúa mới gửi sự khó đến cho, càng được Chúa yêu càng gặp sự khổ.
Các Thánh đã say sưa sự đau khổ đến nỗi Thánh nữ Têrêsa Cả đã nói: “Một là chịu đau khổ, hai là chết”, chứ sống sao được. Thánh nữ Mađalêna Padi còn nói mạnh hơn nữa: “Đau khổ mà đừng chết”, vì chết thì còn chịu khó vì Chúa sao được !
Và Bạn hãy nghe lời Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu viết về người trong “Truyện một linh hồn”: “Linh hồn con đã qua biết bao cơn thử thách, con đã đau khổ rất nhiều. Lúc còn bé, con đau khổ và buồn nhưng ngày nay con mến tất cả các thứ quả đắng trong sự bằng yên và vui vẻ… ” Và: “Đừng tưởng con được bơi lội trong sự yên ủi. Không, chính sự yên ủi của con, ấy là không được yên ủi ở đời”. Nhất là những lời này: có một chị hỏi Bà: “Người ta nói: Không khi nào chị bị đau khổ lắm, có phải không?” Thánh nữ liền chỉ vào cốc thuốc đựng một chất đỏ tươi và nói: “Chị hãy nhìn cái cốc này, ai cũng tưởng nó đầy chất ngọt, nhưng thật ra không gì đắng hơn nữa. Đấy chính là hình ảnh linh hồn em : trước mắt người khác, đời em là một vườn hoa đầy những màu tươi thắm, người ta tưởng em chỉ được uống toàn những chất ngọt và thơm, nhưng thật ra em chỉ uống toàn chất đắng. Em nói chất đắng, nhưng đời em không cay đắng, vì em đã làm cho chất đắng hóa vui và ngọt… Em đã hóa thành con người không biết đau khổ nữa vì hết mọi sự đau khổ biến thành sự ngọt ngào cho em… ”. Ông Clément Roux (Lê-măng Ru) thuộc tỉnh Grasse (Gơ-rát), đã bị những bệnh tật biến ông thành một khối điêu tàn, một mảnh giẻ, một người đau khổ. Ông đã viết trong nhật ký của ông những lời này: “Ngay từ lúc còn ít tuổi, tôi đã hiểu ý nghĩa sự đau khổ, nhất là tự nhiên mà hiểu. Mỗi khi tôi không thấy mình đau khổ, hoặc chỉ đau khổ qua loa, tôi cảm thấy một sự trống rỗng trong tâm hồn, và đi đâu tôi cũng phải mang theo. Những cái vui đều làm tôi khó chịu, những cái thú đều làm tôi nặng lòng. Bây giờ thì nhờ ơn Chúa tôi đã được thỏa mãn và hạnh phúc; vì tôi chịu đau đớn và đền tội ; không có thế tôi cảm thấy đời tôi không có nghĩa lý gì. Lạy Chúa, được đau khổ thật là một phần gia tài quí báu chừng nào cho một loài thụ sinh! Và tại sao Chúa lại đoái nhìn đến một vật thụ sinh hèn nhát, khốn nạn nhất này để nâng nó lên cao đến thế?”
Chị Claire (Cơ-le) nữ tu Dòng Thánh Bênêđitô, cũng không kém vẻ anh hùng. Chị nói: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết con muốn chịu đau khổ, con muốn như điên cuồng. Từ chối hết các thứ thú vui, dù là những thú vui được phép, để tỏ lòng con mến Chúa thật là một hạnh phúc to tát chừng nào! Vâng, con muốn làm khốn con hằng ngày, con muốn nghiền tán con hằng ngày”. Đấy không phải lời than thở trong lúc bồng bột, vì khi Thánh giá đến, chị không hề đổi thái độ, chị kêu lên: “Chúa tốt lành vô cùng. Tôi không muốn ở trong tình trạng khác. Tôi cảm ơn Chúa hết lòng… Tôi không muốn phàn nàn gì cả, vì lúc nào tôi cũng xin Chúa cho tôi được chịu đau khổ. Không tình yêu nào mạnh bằng chết cho người mình yêu. Lạy Chúa, con mến Chúa, nếu con phải chết trẻ, thì, lạy Chúa, xin ban cho con được chịu khổ cho nhiều trước đi, được chịu khổ liên lỉ, được chịu khổ cho đến cùng”. Chị chết lúc 28 tuổi, sau khi đã chịu một cuộc tử đạo mà không hề lộ một cử chỉ bất nhẫn.
Còn em bé Anne de Guigné (Anna Ghi-nhê) không biết phải làm gì để cám ơn Chúa, vì một ơn Chúa vừa ban cho mẹ em, em liền nghĩ ra được một kế, là lăn mình vào trong bụi gai, khiến hai cánh tay nhỏ nhắn của em đỏ ngòm những máu. Lúc lên 8 tuổi, em đã bị nằm lâu ngày trên một tấm phản. Nghĩ rằng như thế là được nằm trên Thánh giá cùng Chúa Giêsu Hài đồng, em nhẫn nại như một thiên thần.
Chị Maria (Marie Ste Cécile de Rome) trong khi chịu đau khổ đã kêu lên: “Alleluia! Lạy Chúa, vâng, xin Chúa cứ việc đổ và đổ thêm mật đắng vào chén của con. Con muốn nếm nó như nếm một thứ mật ngọt. Ôi, hỡi sỉ nhục thánh đã hết, hãy đến, ta yêu ngươi và ta sung sướng thân ái ôm lấy ngươi. Tôi khát, ôi! Tôi không thể tả ra được tôi khát chịu đau khổ chừng nào! Tôi khát các linh hồn chừng nào! Tôi khát tình yêu chừng nào! Đau khổ, các linh hồn, tình yêu! Đó là ba thứ mê điên cuồng mỗi giây phút thêm cháy nóng, đó là ba thứ hình khổ của tôi, đó là ba thứ tử đạo của tôi”
Rồi bạn thanh niên Gérard Raymond (Giêrađô Rây-mông), ngay lúc còn thiếu niên đã ở nhiệm nhặt hãm mình, đánh tội ghê gớm, ai cũng rùng mình, và ngay từ lúc 18 tuổi đã nhất định ôm lấy Thánh giá. Chàng ước ao được chết vì đạo: “Tôi muốn được chết cho kẻ có tội, tôi muốn được phúc tử đạo. Hôm nay, hằng ngày chịu tử đạo âm thầm, ngày mai chịu tử đạo ở góc trời Trung Hoa”. Chúa đã nghe lời chàng, chiều mồng 2 tháng giêng năm 1932 chàng bị một trận thổ huyết và trận thổ huyết ấy đã báo cho chàng sẵn sàng để hy sinh triệt để. Chàng vẫn giữ nét mặt bình tĩnh: “Tôi sẵn sàng lĩnh nhận hết mọi sự… dâng những dòng máu nóng của tuổi thanh niên, cái ấy cũng đáng giá bằng chịu tử đạo ở phương xa lúc đã già, nhưng không chắc có được. Lạy Chúa Giê su, xin làm cho con khổ, nếu đẹp lòng Chúa”.
Chàng chịu đau khổ, và chàng chết lúc có 19 tuổi, sau một cuộc đời chìm đắm trong sự bỏ mình và vui chịu hy sinh.
Còn nhiều lắm, nhưng sau đây là hai mẩu truyện của trẻ em.
Một em gái mới 9 tuổi, đã hai năm dưỡng bệnh trong một nhà thương. Một hôm, chị nữ tu khán hộ hỏi em: “Paulina, thế nào, có khá không?” Em đáp lại: “Hôm nay con không khá, vì không được chịu đau khổ mấy”.
Và đây, một em bé bốn tuổi, Monica. Em bị thương ở ngón tay, nhưng em lại nắm chặt lấy ngón tay bị thương. Một người chị hỏi rằng: “Em làm gì thế?” Em đáp: “Khi em riết chặt ngón tay, thì em đau hơn, và khi em đau hơn, thì Chúa Hài đồng Giêsu bằng lòng hơn”.
Tôi có cần trưng thêm ví dụ không? Tưởng không cần trưng thêm, vì bấy nhiêu cũng đủ cho Bạn thấy rằng: Sự vui vẻ khoái lạc thấy trong truyện các Thánh, không tất nhiên là những sự vui vẻ theo nghĩa thường, trái lại nhiều khi sự vui thú ấy, chính là những sự đau khổ, mà đau khổ rất nhiều. Vậy, thưa Bạn, Bạn đừng tưởng lầm các Thánh chỉ gặp toàn những sự vui vẻ yên ủi trong linh hồn. Nhiều người nghĩ thế, nên khi không được Chúa ban những sự vui vẻ, thì ngã lòng và lầm tưởng đời tu sĩ là một cuộc đời buồn tẻ, sầu muộn không ai sống nổi.
Một vị quan cao cấp trong triều nước Anh, một hôm đi hộ giá bà Hoàng hậu. Đến chỗ có bùn, sợ lấm giầy Hoàng hậu, ông đã cởi áo nhung rất quý đang khoác, ném xuống bùn, để Hoàng hậu bước qua lên… Người đời cho thế là lịch sự nhã nhặn.
Huống chi, làm tôi Chúa, ta càng phải quên hẳn thân mình, chỉ nhớ đến Chúa, chỉ muốn một việc, là phụng sự Chúa; và muốn phụng sự Chúa, thì phải chịu khổ, chịu khổ cho đến chết, và bằng lòng chết để tỏ lòng mến Chúa. Nếu Bạn hiểu được ơn kêu gọi, thì Bạn sẽ vui lòng chịu mọi nỗi đau thương, để đáp lại ơn Chúa.
Hằng ngày, cứ sáng dậy, Bạn nên cám ơn Chúa, vì đã ban thêm cho bạn một ngày nữa để Bạn chịu khó vì Chúa, và Bạn thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa, bao nhiêu cũng được, càng nhiều càng hay, con chỉ xin một điều, là giúp con chịu cho nhẫn nại; hễ Chúa ở cùng con, thì con không cần gì khác nữa, được chịu khó như Chúa và với Chúa, thì còn vinh hạnh nào bằng!”
Chiều đến, bạn hãy than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa, vì đã ban cho con được ở trong Nhà Chúa thêm một ngày nữa. Nếu con đã nhát đảm mà tránh trút sự đau khổ, thì xin Chúa thương tha thứ… ngày mai, con xin ăn ở tử tế hơn… ”.
Bạn hãy nhớ lời Bạn đã giao hứa, các linh hồn đang cần nhờ sự đau khổ của Bạn… 3652 linh hồn đang chờ Bạn… Bạn có nhớ không? Chắc Bạn chưa quên chóng thế. Không gì khó chịu cho một tu sĩ bằng chiều đến, khi xét mình, không thấy chịu được tí gì cay đắng khác những ngày đã qua; nghĩ đến điều ấy mà phát sợ. Thật thế, Bạn ạ. Tôi ước rồi đây, Bạn cũng cảm thấy những cái Bạn nghe từ lúc nãy.
Nói thế, để sau này khi gặp những nỗi đau thương tràn ngập linh hồn, Bạn sẽ nhớ rằng: đã có người nhắc trước cho Bạn. Tôi không nói tiên tri, vì thế nào cũng xảy ra. Bạn sẽ chán ngán; nhưng ai đã không bị chán ngán? Hết mọi người đi tu, cũng đã chịu những buổi chán nản, những phút ngã lòng. Bạn nhớ điều ấy cho kỹ, và ghi vào lòng. Bạn nên nguyện ngắm luôn về ơn Kêu gọi. Sống chết không bỏ mất ơn quý trọng ấy. Bạn hãy than thở: “Lạy Chúa con không tìm sự vui thú cho con, nếu con có ý ấy, thì thà con ở lại thế gian, con có thể tìm được một hai lạc thú tạm gửi, nhưng đã vào chốn này, con nhất định không tìm cái gì khác ngoài sự mến Chúa, và mến Chúa bằng sự đau khổ. Có bấy nhiêu, cuộc đời của con chỉ gồm trong mấy tiếng: Mến và chịu khó. Con đã đau khổ nhiều, nhưng con sẵn lòng hứng lấy hết những nỗi đau khổ Chúa còn thương gửi đến cho con”.
Vừa bước chân vào cổng Nhà Dòng, Bạn nên nhớ đọc ngay câu ấy, và không nghĩ đến những cách người ta sẽ chiều chuộng Bạn. Không, không, không. Bạn ơi, Bạn hãy bỏ ngay cái ý nghĩ sẽ được nhiều người hiểu Bạn và chiều Bạn. Không, không, không. Cái ý nghĩ ấy đã giết chết bao nhiêu người, xin Chúa cho Bạn đừng để nó giết. Trái lại, Bạn phải can đảm tiến vào Nhà Dòng, để hứng lấy những cái khó chịu, mà Bạn sẽ gặp thấy ngay giây phút đầu tiên trong đời tu sĩ của Bạn. Quên hẳn mình đi. Học vấn với tài gì đi nữa, cũng không phải là cái Bạn được dựa vào, để mong lấy một vài phút chiều chuộng nâng niu. Khốn cho những tu sĩ, hoặc nữ tu đã tìm một đôi cái chiều và chỉ thân với những người nâng niu. Bạn đừng muốn được nâng niu, và được tiếng là “con nuông của Nhà Dòng”. Không, những cái ấy đã làm hại nhiều người, ước gì Bạn đừng bị nó làm hại. Thảng hoặc, Bạn có được nâng niu chiều chuộng lúc đầu – cái ấy có thể lắm – Bạn hãy bỏ ngoài, vì nó không được lâu đâu, nó là những cái kẹo người ta thí trẻ cho nó khỏi khóc. Khi nó thôi khóc, thì biết đâu người ta lại không… ! Trong khi Bạn được những cái kẹo ấy, Bạn hãy thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, con có dám xin những đồ ngọt này đâu, nó tự ở đâu đến, chứ không phải tự con. Đã đành, nếu Chúa ban, thì con không dám từ chối, và con cám ơn Chúa. Nhưng con không cầu, mà Chúa muốn lấy lại lúc nào cũng tùy Thánh ý Chúa. Con không phải đứa trẻ thơ, cần phải dỗ phải thí. Con muốn rằng Chúa xử với con, như xử với đứa con cứng đầu cứng cổ, cần phải roi vọt, hành hạ”.
Bạn đừng tưởng như thế là nghiêm khắc quá. Không, cuộc đời các Thánh đã là cuộc đời như vậy, và cũng nhờ vậy các Đấng đã làm Thánh. Tôi muốn bạn làm Thánh, nhưng làm một Đấng Thánh được uống dấm chua mật đắng, chứ không phải một Đấng Thánh ăn đồ ngọt.
Chiều chuộng, chiều chuộng. Nó có hại, hại lắm, Bạn ạ. Vậy Bạn đừng mong gì những cái chiều chuộng vô ích thế gian. Có những cái khác đáng được yêu chuộng hơn nhiều, những cái ấy không tìm được ở trần gian.
Thôi, tôi để Bạn suy nghĩ trước mặt Chúa. Bạn hãy thề hứa với Chúa là Bạn sẽ nhất định không đi tìm sự vui thú, dù nhỏ mọn đến đâu cũng vậy.
Bạn hãy hứa đi !
Xin Chúa xin Đức Mẹ giúp Bạn hiểu những lời này. Chúng ta hãy ngày ngày cầu cho nhau được nên giống Chúa, là Đấng trên Thánh giá đã uống dấm chua mật đắng.
Chúa là Cha. Có khi nào Bạn suy nghĩ chân lý yên ủi ấy cho thấu đáo không? Ở đây, tôi không muốn chứng minh chân lý ấy. Bạn chỉ cần mở Phúc âm ra, và Bạn sẽ thấy nhiều lần Chúa dạy chúng ta cho biết Chúa là Cha. Chẳng hạn một lần các tông đồ xin Chúa dạy cho biết cầu nguyện, thì Chúa dạy rằng: “Khi chúng con cầu nguyên, chúng con hãy đọc: Lạy Cha chúng con ở trên trời… ” [43] Nếu Chúa chỉ phán một câu ấy, cũng đủ chúng ta tin nhận Chúa là Cha, huống chi, như tôi vừa nói ở trên, rất nhiều lần Chúa dạy chúng ta: Chúa không phải chỉ là Đấng tạo thành chúng ta, Chúa không phải chỉ là Vua, là Chúa chúng ta, Chúa không phải chỉ là Đấng cứu chuộc chúng ta, tất cả những tước vị ấy đều đúng với Chúa hết, nhưng… đọc những tiếng ấy lên, chúng ta thấy mình hình như xa Chúa quá… chúng ta có cảm giác như Chúa không biết gì mấy đến chúng ta, Chúa không săn sóc gì mấy đến chúng ta, cùng lắm Chúa chỉ chăm sóc chung chúng ta, như Chúa săn sóc tất cả các loài thụ sinh, nhưng Chúa còn muốn chúng ta gọi Chúa là Cha.
Vậy, nếu Chúa là Cha, thì tình thế đổi hẳn: chúng ta sẽ là con; và vì là Cha, Chúa sẽ săn sóc đến chúng ta chu đáo, như cha săn sóc con… và còn hơn tất cả các người cha thế gian săn sóc con, dù là người cha hiền đến đâu… ông Téctulianô nói: Nemo tam pater, nghĩa là không ai Cha bằng Chúa. Đã gọi là Cha thì phải có lòng nhân từ đại độ đối với con cái, phải tận tâm hy sinh cho con cái… phải có can đảm hy sinh tất cả, hy sinh cả sự sống, nếu cần, để tỏ tình thương yêu con…
Nhưng người cha nào ở đời đã làm được đến thế? Người cha nào ở đời đã có thể xưng được: Tôi là chính tình yêu. Chỉ có một mình Chúa, như lời Kinh thánh đã nói: Chúa chính là tình yêu.[44] Còn có thể nói thế nào rõ hơn, mạnh hơn về tình yêu của Chúa được nữa? Và Chúa đã dùng cả khối tình yêu vô cùng của Chúa, của người Cha, để phụng sự con cái là chúng ta.
Chúng ta hãy tưởng tượng một người con ở trần gian được một người cha yêu thương tha thiết bằng một trăm, hoặc bằng một nghìn người cha, thì đứa con ấy sẽ được săn sóc yêu thương biết chừng nào… và ai không nói đó là đứa con hạnh phúc nhất đời.
Nhưng Chúa không phải chỉ có một khối tình yêu như một trăm, như một nghìn, như một triệu người cha, nhưng là một thứ tình yêu gấp vô cùng lần tất cả các tình yêu của tất cả các người cha, của tất cả các người mẹ từ Adong, Evà cho đến tận thế. Và hằng ngày Chúa đem cả khối tình yêu vô cùng ấy ra để yêu thương chúng ta, để săn sóc chúng ta. Vậy mà chúng ta lại không sung sướng, sung sướng đến vỡ cả lồng xương ngực chúng ta ra sao?
Một người cha như Chúa thì không thể làm một cái gì cho chúng ta, không thể để chúng ta gặp một câu truyện gì, không thể để chúng ta bị một sự đau khổ nào mà không phải do tình yêu, một tình yêu vô cùng.
Cha yêu con đến đâu, cũng phải có lúc để con chịu khó, chịu khổ, chịu cực. Mà một ngươi Cha càng biết yêu con, càng bắt con chịu thương chịu khó, vì có biết chịu thương chịu khó, đứa con mới mong nên người được. Người cha yêu con đến đâu, thì khi con cần uống thuốc đắng, khi con cần bị mổ bị đốt, người cha cũng đành lòng bắt con uống thuốc đắng, bắt con bị mổ bị xẻ… vì có vậy, con mới sống được, con mới khỏe được.
Nếu chúng ta biết quan niệm Chúa như người cha – vì thật Chúa là Cha chúng ta – một ngươi Cha thương chúng ta, không phải chỉ lắm lắm, nhưng là thương ta vô cùng, và thương đúng lối, chứ không phải thương theo lối nhiều người cha mẹ thế gian, thương con không phải đường, thương con phần xác, phần trí, mà quên phần hồn con, quên đời sau của con… nếu ta biết quan niệm được như thế, thì không khi nào chúng ta còn phàn nàn kêu trách, khi Chúa để chúng ta đau khổ, khi Chúa trao thuốc đắng cho chúng ta, khi Chúa bắt chúng ta chịu mổ, chịu xẻ, chịu cắt, chịu chặt về đàng thiêng liêng, nói kiểu khác, khi Chúa gửi Thánh giá đến cho, vì trong tất cả những phiền muộn đau buồn, trong tất cả những Thánh giá ấy, chúng ta thấy tấm lòng yêu đương vô cùng của Chúa, chúng ta chỉ thấy hai bàn tay êm ái của người Cha… chỉ biết thương chứ không biết ghét, chỉ muốn chữa bệnh, chứ không phải bắt chúng ta chịu cay, chịu đắng để thỏa cơn giận của mình. Nói cho thân mật hơn, chúng ta sẽ hôn bàn tay nhân từ, thương yêu của Chúa, khi Chúa cho của ngon của ngọt, cũng như khi Chúa đưa thuốc đắng, cũng như khi Chúa dùng roi để sửa trị nết xấu của chúng ta.
Trước đây, khi một người con bị cha mẹ phạt, khi một người học trò bị ông thầy đánh thì sau khi bị phạt, người con, người học trò lạy cha mẹ, lạy ông thầy ba lạy để tỏ lòng biết ơn, vì cha mẹ, vì ông thầy có thương mới sửa phạt, cốt cho mình nên thân nên người.
Tại sao đối với Chúa, chúng ta không cư xử như thế, mà lại kêu ca lẩm bẩm, lại mất cả lòng tín nhiệm, có khi bỏ cả Đạo nữa? Lý do, là vì chúng ta chưa hiểu Chúa là Cha, một người Cha nhân ái vô cùng, thương con vô cùng.
Tôi rất tiếc, trong khuôn khổ quyển sách nhỏ này, không thể đem hết những đoạn rất ý nghĩa và rất cảm động của Phúc âm ra đây để giúp Bạn hiểu thêm. Tôi khuyên Bạn hãy tìm Phúc âm mà đọc. Đồng thời hãy đọc Truyện Một Linh Hồn, hoặc các sách khác nói về Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu… Bạn sẽ hiểu thêm nhiều về lòng Cha của Chúa, và Bạn sẽ thấy mình khác hẳn từ trước, khi thấy những đau khổ vây bọc quanh Bạn .[45]
Hiện thời tôi hãy xin Bạn một điều là từ đây mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, bắt đầu những tiếng: Lạy Cha chúng con, Bạn hãy thiết tha xin Chúa cho Bạn hiểu Chúa là Cha và hãy xin cho Bạn được biết đối xử với Chúa như đứa con ngoan nhất với ngươi Cha hiền nhất.
Bạn thử đi!
---------- [43] Matt. 6,9 [44] Gioan 4, 16 [45] Tôi hy vọng một ngày không xa sẽ được hân hoan hiến Bạn quyển CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG CỦA TH. TÊRÊSA H.Đ.GIÊSU. (đang soạn)
Bạn thân mến, có một điểm tôi muốn nhắc với Bạn hôm nay, đó là chúng ta đối xử với Chúa cũng tựa như những đứa con được cưng chìu trong gia đình thường đối xử với cha mẹ chúng, ấy là chúng chỉ biết luôn miệng kêu ca đòi hỏi, mà không mấy khi biết mở miệng cám ơn cha mẹ. Tôi không dám chối rằng: trên đời chúng ta gặp nhiều sự đau khổ trong ngoài. Không công nhận một việc hiển nhiên như vậy, tức là con người đã mất hết cảm giác. Nhưng, có một điểm, chúng ta cũng không thể chối cãi, nhưng lại là một điểm ít người biết nhận ra, ấy là bên cạnh những sự đau khổ buồn phiền chúng ta chịu hằng ngày, chúng ta nhận được không biết bao nhiêu ơn Chúa ban cho, mà những ơn Chúa ban này (đây tôi chưa nói đến chính những sự đau khổ cũng là ơn Chúa ban, chỉ nói đến ơn Chúa ban xét theo nghĩa rất tầm thường thôi), tôi nói lại, những ơn Chúa ban lại còn nhiều hơn cả những cái mà chúng ta gọi là đau khổ, nguyên vì nó làm cho chúng ta khó chịu.
Có khi nào Bạn nghĩ rằng: không khí Bạn thở là ơn Chúa ban không? Có khi nào Bạn nghĩ rằng: cơm Bạn ăn, nước Bạn uống là ơn Chúa ban không? Có khi nào Bạn nghĩ rằng: áo Bạn mặc là ơn Chúa ban không? Có khi nào Bạn nghĩ rằng: giấc ngủ của Bạn là ơn Chúa ban không?… rồi những làn gió mát… những trận mưa rào… những đóa hoa thơm… những quả ngon ngọt… những cảnh đẹp mắt… tiếng nhạc du dương… thân thể lành mạnh… một người Bạn quý… một người mẹ hiền… một người vợ yêu… một người chồng tốt… một đứa con ngoan… một trang sách đạo đức… rồi trí tuệ, rồi ý muốn, rồi tình yêu… rồi bao nhiêu tai nạn Bạn đã thoát được, và v.v… tôi kể thế nào hết được.
Lẽ ra, mỗi ngày nhiều lần Bạn phải than lên lời Giáo hội đặt vào miệng linh mục sau khi đã chịu Mình Thánh Chúa: “Quid retribuam Domino pro omnibus quae retribuit mihi. Lạy Chúa, con biết làm gì để đáp lại muôn vàn ơn cao cả Chúa đã ban cho con và sẽ còn ban cho con nữa?” [46]
Tôi vừa nhắc đến phép Mình Thánh. Nhắc đến phép Mình Thánh, tức là tôi muốn nhắc lại với Bạn trăm nghìn ơn thiêng liêng, siêu nhiên Chúa tuôn xuống cho Bạn, từ khi nước rửa tội chảy trên trán Bạn, cho đến ngày nay, và cho đến chết… ơn được cầu nguyện để truyện trò với Chúa, với Đức Mẹ, với thiên đàng… ơn được chịu hai Bí tích Giải tội và Mình Thánh… để Bạn trở nên trong sạch, để Bạn kết hợp mật thiết với Chúa… ơn được cứu cho khỏi chết thiêu trong hỏa ngục bao nhiêu lần… ơn được dạy dỗ về đạo đức… rồi cả Thiên đàng đầy dẫy hạnh phúc đang chờ đợi Bạn bên kia, miễn Bạn biết sống xứng con cái Chúa, miễn Bạn biết chịu đau khổ cho nên.
Những ơn thiêng liêng này còn nhiều gấp trăm lần những ơn tự nhiên, ơn vật chất Chúa ban cho Bạn nữa.
Không, Bạn ạ, chúng ta chính là những đứa con được chiều chuộng trong nhà Cha, vì không có một người Cha, người mẹ nào đã nuông chiều con cái bằng Chúa đã nuông chiều những người trong ta, Bạn cũng như tôi, cũng như bất cứ một người nào khác. Chúa đã nuông chiều chúng ta không những vì bạn không biết bao nhiêu ơn, mà còn nhịn nhục chúng ta quá sức tưởng tượng. Chúng ta sống ở giữa các ơn lành Chúa ban, cũng như con cá sống ngoài biển cả, cũng như con chim bay giữa không gian lồng lộng.
Vậy thì từ nay, thay vì hơi tí chúng ta mở miệng oán thán kêu ca, chúng ta hãy tập mở miệng cám ơn Chúa. Ít ra mỗi ngày năm ba lần, nhất là mỗi khi được một ơn gì rõ ràng, dù là một ơn coi như rất nhỏ mọn, chúng ta hãy lập tức thưa cùng Chúa rằng: Deo gratias: Cám ơn Chúa. Ít ra sáng vừa thức dậy, việc đầu tiên của ta là cám ơn Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho ban đêm, và tối trước khi ngủ, hãy cám ơn Chúa vì các ơn Chúa đã ban cho cả ngày. Không làm được thế, chúng ta đã tỏ ra là con người thờ ơ lãnh đạm với ơn Chúa, nếu không phải là những đứa con tệ bạc.
Trên đây, tôi đã nói, chính những đau khổ Chúa gửi đến cũng là ơn lành Chúa ban cho… nhưng tôi không minh chứng ở đây, vì từ đầu đến cuối sách này, Bạn đã hoặc sẽ thấy tôi minh chứng điểm ấy bằng cách này hay cách khác.
Trước khi ngừng lại ở đây, tôi xin Bạn hãy cùng tôi nhắm mắt lại một phút, và cùng nhau than thở cùng Chúa như Giáo hội rằng: “Lạy Chúa, con biết làm gì để cám ơn Chúa vì các ơn đầy tràn Chúa đã ban cho con?” Và tôi cũng xin khuyên Bạn hãy đọc thuộc lòng câu ấy để mỗi ngày dâng lên Chúa cho thật nhiều lần. Lời ấy sẽ lấp được bao nhiêu lời, chính Bạn và bao nhiêu người, hằng ngày oán thán, kêu ca, lẩm bẩm khi gặp truyện đau khổ bên trong bên ngoài.
Bạn thân yêu, hai người yêu nhau tự nhiên muốn nên giống nhau, giống nhau từ lời ăn tiếng nói, đến cách cử chỉ ăn mặc.
Viết đến đây, tôi nhớ đến truyện mấy người học trò bắt chước thầy họ, trong hết mọi cái họ bắt chước được: lời ăn tiếng nói, cách viết văn, cho đến lối viết chữ. Hễ cái gì của thầy họ, là họ muốn biết và làm theo. Có những bức thư thật dài, họ cũng không ngại chép lại hết và học thuộc lòng.
Ấy là một tính cách của tình yêu.
Vậy nếu Bạn mến Chúa thật, thì thế nào Bạn cũng phải muốn nên giống Chúa. Không nên giống người yêu, không yêu cái người yêu yêu, thì tình yêu ấy không lấy gì làm vững chắc mặn mà.
Tôi chắc Bạn muốn nên giống Chúa, vì Bạn thực tình mến Chúa. Vậy Bạn có biết Chúa đã làm gì lúc còn sống không? Có phải Chúa đã sống một cuộc đời xa hoa lộng lẫy, một cuộc đời quý phái trưởng giả, có phải Chúa đã sống một cuộc đời lên xe xuống ngựa, nằm trên chăn bông, ngồi trên nệm gấm không? Có phải Chúa đã sống một cuộc đời yểu điệu kiều dưỡng hay ít ra cuộc đời tạm gọi là đầy đủ không? Không, sách Phúc âm đã nói trái lại, và chính Phúc âm cũng không tả hết cuộc đời đau khổ của Chúa. Sách phúc âm chỉ thuật lại một phần rất nhỏ như chính Thánh Gioan đã quả quyết [47]. Ấy thế mà khi đọc Phúc âm, ta thấy đời Chúa là một cuộc đời đau thương khổ não, một đời hàn vi thanh bạch, trăm đường phiền muộn. Từ khi giáng thai, trong lòng Đức Mẹ, cho đến khi chịu táng trong mồ, không giây phút nào là không đau khổ thiếu thốn: “Con cáo có hang, con chồn có tổ, Con Người không có nơi dựa đầu” [48]. Chính Chúa đã phán về mình như thế. Khổ hơn nữa, là vì Chúa có thể sống một cuộc đời lộng lẫy, Chúa có thể tránh được hết mọi sự đau khổ dù nhỏ đến đâu, nhưng vì không thèm những cái vui hèn, dù là những cái vui chính đáng, nên Chúa đã chọn lấy một cuộc đời tràn ngập đau đớn, đau đớn ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Chúa đã biến thành “Người đau khổ” [49]. Tôi không cần thuật lại sách Phúc âm, vì Bạn đã hoặc sẽ nghe đến nhiều lần. Tôi chỉ cần nhắc lại cho Bạn biết rằng: Chúa đã chịu đau khổ, và đau khổ không miệng nào, không bút nào tả được.
Không những thế, Chúa lại còn nhìn cuộc đời đau khổ với đôi mắt lạc quan.
Khi phán về sự thương khó, Chúa đã phán: “Ta phải chịu rửa bằng máu, và Ta khát mong chóng được rửa như thế chừng nào!” [50]. Và như tôi đã nói trong bài “tiếng lòng”, tuy Chúa tha phép cho phần cảm giác được rùng mình sợ hãi, nhưng lúc nào Chúa cũng tỏ ra Người yêu sự đau khổ. Trên Thánh giá, sau khi chịu hết các giống hình khổ, Chúa đã thốt ra lời: “Mọi sự đã hoàn tất [51]. Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” [52].
Khúc ca khải hoàn ấy, các bạn hữu Chúa cũng đã ca theo. Kìa, các Thánh Tông đồ khi bị tra tấn, sỉ nhục… ra khỏi tòa, các Đấng đã tỏ lòng vui mừng vì đã đáng chịu khó vì Chúa [53]. Kìa, các thánh Tử đạo, khi đến pháp trường thì vui mừng sung sướng như người khác đi ăn tiệc. Ấy là chưa nói đến các thánh Tu hành hãm mình trong rừng vắng, ấy là chưa kể đến các thánh Đồng trinh giam hãm mình trong bốn bức tường, hy sinh cho bạn chí thánh. Bà Bá tước thành A- lăng-xông (Alenson), thấy ngọn lửa tràn đến để thiêu Bà, Bà nói với vị nữ tu đứng bên cạnh: “Chị này, giờ tỏ lòng mến Chúa đã đến, ta hãy vui mừng”.
Thánh nữ Delphine (Đen-phin) một lần hỏi bạn người là Thánh Elzéar (En-dê-a) làm sao người có thể giữ mình bình tĩnh khi gặp sự sỉ nhục ghê gớm như thế, bạn Người thưa: “Khi người ta làm sỉ nhục tôi, tôi nghĩ đến Chúa Cứu Chuộc chịu nhục nhã trên Thánh giá, và tôi suy đi suy lại cho đến khi tôi thấy mình được bình tĩnh hẳn”.
Vậy tôi cũng xin nói với Bạn, nếu Bạn muốn nên giống Chúa, thì chỉ có một con đường phải theo là con đường đau khổ, con đường Thánh giá, con đường chông gai, con đường đi đến chỗ chết, chết dần chết mòn, chứ không phải chết dưới lưỡi gươm của đao phủ hoặc sau tiếng nổ của phát súng… đó là con đường ta phải đi theo. Nếu ta đi đường khác thì thế nào cũng lạc.
Nếu bạn thật lòng mến Chúa, thì Bạn hãy vui lòng can đảm bước lên chông gai; nếu cần, bạn hãy bước qua lửa, để đi đến cùng Chúa, Chúa đã đi trước, các môn đệ trung thành của Chúa cũng đã bước theo chân Chúa, và hết thảy chúng ta cũng phải đi theo, theo cho tới ngày gặp Chúa trên nơi hằng sống.
Hay ta muốn vừa mến Chúa, vừa không nên giống Chúa? Không, không được. Không nên giống Chúa, thì không thể nói là mình mến Chúa được. Cái ấy không cần phải minh chứng. Nếu ta không muốn nên giống Chúa, thì muốn nên giống ai? Nếu không muốn nên giống Chúa thì chỉ mến Chúa ngoài miệng, chứ không phải mến Chúa thật trong lòng. Mà những người chỉ mến Chúa ngoài miệng ấy, đáng nghe lời Chúa đã phán với dân Do Thái xưa: “Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng nó ở xa Ta” [54], và lời này: “Bay hãy xéo đi, Ta không biết chúng bay là ai” [55]
Bạn thân mến, tôi muốn thành thật và sung sướng nói về Bạn rằng: “Người này mến Chúa thật lòng, chứ không phải mến Chúa ngoài miệng, vì suốt đời đã nhẫn nại chịu đau khổ, đã hy sinh để đẹp lòng Chúa, và nên giống Chúa”. Tôi cầu chúc cho Bạn được ơn ấy, để ngày phán xét, Chúa phán cùng Bạn. “Hỡi con yêu quý, vì con đã giống Cha hoàn toàn, nhất là đã nhẫn nại chịu đau khổ khi còn ở thế gian, thì con hãy lại gần đây, để Cha hôn con lần đầu hết, và đem con vào chốn cả sáng đời đời, đã dọn cho những kẻ suốt đời ra sức nên giống Cha”.
Ôi, còn hạnh phúc nào cao quý và đáng ước ao bằng hạnh phúc ấy!
Bạn nghĩ sao?
Vậy ta hãy can đảm mà chịu khó đi, ta đừng phàn nàn năn nỉ nữa, ta hãy để Chúa trước mắt mà suy ngắm và hãy cố gắng nên giống Chúa: Yêu đau khổ, nhẫn nại chịu đau khổ và vui mừng chịu đau khổ. Ta hãy cầu nguyện cho nhau được vui lòng hy sinh chịu khó để nên giống Chúa ở đời này, đời sau ta sẽ cùng nhau nghe tiếng êm ái Chúa mời gọi vào chốn cực lạc.
Tôi mời Bạn cùng tôi leo lên đỉnh núi Sọ. Chúng ta sẽ thấy ba cây Thánh giá dựng trên ấy. Và trên ba cây gỗ hèn hạ ấy, ta thấy ba người bị án tử hình. Chúng ta đã biết ba người ấy là những ai.
Bên tả là người tội lỗi khốn nạn, anh ta cưỡng lại với sự đau đớn.
Bên hữu là người trộm lành, anh ta vui lòng chịu khó.
Ở giữa là Chúa Giêsu, Đấng yêu mến sự đau khổ.
Thế giới cũng là một núi Sọ khổng lồ, cắm đầy những Thánh giá. Trên các Thánh giá ấy, là các con cái Adong, là Bạn, là tôi… là tất cả mọi người chúng ta.
Có người thì giẫy giụa khi phải đóng vào Thánh giá, giống như người trộm dữ.
Người khác thì nhẫn nại, chịu đau khổ, giống như người trộm lành.
Một số ít người khác, thì yêu mến Thánh giá như Chúa Giêsu, đấy là những người thánh, những người tạo nên người thánh.
Mỗi người chúng ta, Bạn, tôi… chúng ta vào hạng người nào trong ba hạng người ấy?
Trên Thánh giá người trộm dữ, chúng ta thấy gì? – Chúng ta thấy một người chửi rủa Thánh giá, một kẻ thù Thánh giá.
Lẽ ra người trộm dữ kia, trong cơn đau khổ, đã phải cảm thương Đấng chí công chí thánh, đang chịu cùng hình khổ như anh ta mới phải, bởi vì anh ta đã gần mồ, thì phải lo dọn mình chết, và không gì tốt bằng nhẫn nhục nhận lấy sự đau khổ để đền tội. Đàng này không, linh hồn cứng cỏi, khô rắn và thô bỉ của anh ta chỉ nhớ đến những của hèn hạ mau qua đời này, anh ta bám chặt vào sự sống đang sắp lìa anh ta và anh ta thất vọng. Để cứu được mấy phút sống tàn của anh ta, anh ta đã ngạo ngược xin Chúa làm phép lạ cứu anh ta cho sống [56]. Chúa không làm phép lạ, nên anh ta lại đổ cho Chúa là căn cớ gây khốn nạn cho anh ta, và chửi rủa Chúa. Vì sợ chết, anh ta tìm cách giẫy giụa trên Thánh giá, cho đến lúc từ Thánh giá anh ta đã chết không bằng an, ít ra chúng ta nghĩ được như vậy.
Trên đời những kẻ bắt chước người trộm dữ có thiếu không Bạn? Khi Chúa giả làm lơ, không nghe lời họ cầu nguyện, hoặc không làm phép lạ như ý họ muốn, là họ oán thán, cưu hờn, đôi khi đâm thù ghét Chúa.
Người ta kể rằng: một cụ già theo xác con ra huyệt. Lúc đã hạ huyệt rồi, ông ta đến gần, giơ tay trên quan tài của cậu con, và nói: “Tôi thề sẽ báo thù Thiên Chúa”. Thật là quái gở! Nói sao làm vậy. Ông ta đã báo thù thật, và báo thù một cách hết sức ma quỷ. Ông ta tìm cách làm gương xấu cho người khác, tìm hết cách làm hư các linh hồn. Thật là một cách báo thù hết sức ghê rợn, ít thấy xảy ra.
Không mấy người quái gở đến thế, nhưng biết bao người đã nói phạm, đàn ông thì nói phạm công khai, đàn bà thì kín đáo hơn, nhưng cũng là phạm thượng thật. Họ nói: Chúa không công bằng… tôi đã làm gì nên tội mà Chúa bắt tôi khổ thế này thế khác… Hạng người kiêu ngạo! Sao không nhớ đến tội mình đã phạm? Họ là hạng người thô bỉ, chỉ mong được lĩnh thưởng ngay từ đời này, như bọn Do Thái xưa; và tôn giáo, đối với họ, chỉ là phương thế giúp họ thêm hoặc chắc được dễ chịu, được thịnh vượng ngay từ đời này. Vì không được như ý muốn, họ nói phạm đến Chúa, họ không giữ đạo nữa.
Một hôm, ở một xứ Đạo kia, có cuộc rước kiệu. Không hiểu trong lúc đi kiệu có truyện gì xích mích… một người trong bọn họ, là ông chánh, ông trưởng gì không biết… la lối chửi rủa om xòm chung quanh Nhà Thờ… lúc về nhà ông ta đập phá bàn thờ và không cho vợ con giữ đạo nữa.
Một người khác, trong khi đi vắng, ở nhà mất trộm. Về nhà, anh ta tức quá, cả gan đem tượng Đức Mẹ ra vườn hành hạ, vì Đức Mẹ đã không biết giữ nhà cho anh ta… ấy là tôi không dám thuật ra đây những câu vô cùng phạm thượng anh ta đã nói với Đức Mẹ trong lúc ấy. Nói lên ai nghe cũng rùng mình.
Họ là những người khốn nạn, làm thế tức là họ tự làm khổ cho mình, vì họ đã tự mình làm mất sự bình an và yên ủi trong tôn giáo; chỉ có những sự yên ủi ấy mới giảm được nỗi buồn; họ làm cho họ đau khổ thêm, và buồn sầu vì đã lỗi bổn phận người có Đạo, linh hồn họ thêm lạnh lẽo tối tăm, và Chúa là sự sáng, sự nóng đã ra khỏi linh hồn họ.
Bạn thử xét mình xem, Bạn có thể tự nhủ rằng Bạn không có điều gì đáng trách về phương diện này không? Chắc là không khi nào Bạn dám tìm cách báo thù Chúa, nhưng nhiều lần Bạn đã không quạu cọ là gì? Chắc là Bạn chưa đến nỗi dám nói phạm đến Chúa, nhưng mỗi khi khó chịu quá – hoặc Bạn tưởng mình phải chịu đau khổ quá – Bạn đã không than thở kêu trách Chúa là gì? Chắc Bạn chưa đến nỗi bỏ việc làm bằng hữu Chúa, nhưng nào đã không có nhiều lần, Bạn đã bỏ một hai việc đạo đức quen làm là gì? Đã hẳn, Bạn chưa dám ngã lòng – ít ra tôi nghĩ thế – nhưng chắc là nhiều lần Bạn đã để mình chán nản, và vì chán nản, Bạn đã mong chết, để thoát nợ đời. Cái ấy không được, ông Gióp xưa đã làm thế, và ông đã bị Chúa quở. Tiên tri Giona xưa cũng đã làm thế, và cũng đã bị Chúa quở.
Vậy thì khi bị treo trên Thánh giá, chúng ta đừng làm như người trộm dữ, ta hãy nín lặng.
Trên Thánh giá của người trộm lành, ta thấy gì? – Ta thấy một người thống hối biết nhẫn nhục.
Người trộm lành trước cũng là người tội lỗi, một người lỗi nặng. Lúc đầu, anh ta cũng đã nói phạm đến Chúa, nhưng vì thấy Chúa can đảm, nhẫn nại, bình tĩnh trong sự đau khổ, anh ta đã hết sức cảm phục, anh ta lại còn ra mặt bênh Chúa nữa. Anh ta nói với người trộm kia: “Sao anh lại sỉ nhục Người, Người là Đấng công chính, nào Người có phạm tội gì đâu”. [57]
Và hạ mình xuống trước mặt Chúa, trước mặt thiên hạ, anh ta tuyên bố: “Còn chúng ta, chúng ta chịu thế này là đáng lắm”. Anh ta thành thực hối lỗi và nhẫn nại chịu khó để đền tội. Người khiêm nhường thật, lúc nào cũng đầy lòng trông cậy. Anh ta liền ngửa mặt lên cùng Chúa và than: “Lạy Chúa, khi nào Chúa về nước Chúa trị, xin nhớ đến tôi cùng”. Anh ta liền được nghe lời yên ủi Chúa phán: “Ta nói thật, ngay ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở nơi vui vẻ cùng Ta”. [58]
Đó là một người trộm lành. Ông được coi như gương mẫu những người nhẫn nại chịu đau khổ. Ông không phải người đi đón rước sự đau khổ, ông ta đã làm hết sức để tránh sự đau khổ Nhưng khi thấy sự đau khổ là hình phạt xứng đáng với các tội lỗi của mình, ông ta hiểu rằng: nhờ sự đau khổ, người ta có thể được nghĩa cùng Chúa, nên ông ta đã bắt đầu yêu sự đau khổ. Chỉ nói được là bắt đầu, vì người ta không thấy dấu gì tỏ ra ông ta đã ham mê sự đau khổ, mà không kêu ca, không lẩm bẩm. Vì biết mình chịu phạt là đúng, nên ông ta đã cúi đầu lĩnh nhận hình phạt Chúa gửi đến. Như thế mới là nhẫn nại, nhưng là sự nhẫn nại của con nhà Kitô hữu.
Không phải thứ nhẫn nại kiêu ngạo của con người bất nhẫn, họ không làm gì được, thì làm bộ không cảm thấy đau khổ. Hạng người ấy có được công gì? Họ được một tí danh vọng của loài người, là cái không đáng kể. “Họ đã được công của mình rồi” [59] nhưng hạng người khoa trương thì chỉ được chút phần thưởng mây khói.
Cũng không phải cái nhẫn nại của hạng người tin vào định mệnh… hạng người cho rằng: cái gì cũng đã có số. Họ coi đời này như một người đàn bà mặc một bộ áo thật sang, lúc người ấy bước đi thì vạt áo gạt phải đàn kiến, và đè giập chúng nó. Và tất cả loài người chỉ là đàn kiến ấy… bị đè bẹp… thế là xong. Chỉ có thế, chứ không có bàn tay Chúa nào trong ấy. Hạng người ngu ngốc ấy đáng được cái gì? Không đáng được cái gì cả… và cứ thế, là các con người kiến kia sẽ kéo nhau xuống hỏa ngục.
Cái nhẫn nại của người trộm lành là cái nhẫn nại của người công giáo: sự đau khổ, ông ta có cảm thấy. Ông ta thú nhận rằng: ông ta cảm thấy đau khổ, nhưng ông ta cũng nhận thấy rằng sự khó là do Chúa gửi đến, và nếu Chúa tha cho không bắt chịu khó, thì ông ta sẽ bằng lòng, nhưng vì Chúa muốn thì ông ta vui lòng chịu để đền tội, và để làm nguôi cơn giận Chúa. Ấy là sự nhẫn nại của con người công giáo.
Hết mọi người chúng ta phải lo cho được ít ra như thế, và nhất là những linh hồn đã dâng mình cho Chúa, trước hết phải lo cho được bằng ấy. Chúng ta đau khổ, nào chúng ta lại không phải nói rằng: tôi đáng chịu đau khổ? Nếu ta chỉ phạm một tội trọng thì chúng ta đã đáng sa hỏa ngục đời đời, vậy thì những sự đau khổ chúng ta chịu bây giờ đã thấm vào đâu với những sự đau khổ lẽ ra chúng ta phải chịu trong hỏa ngục. Nếu chúng ta chỉ phạm tội nhẹ, dù chỉ một tội nhẹ, thì chúng ta sẽ đáng chịu phạt trong luyện ngục, vậy những sự đau khổ chúng ta chịu, đã thấm vào đâu với những sự đau khổ rồi đây chúng ta phải chịu trong luyện ngục… hoặc lẽ ra chúng ta sẽ phải chịu… xin Bạn hãy xem đoạn nói về hỏa ngục và Luyện ngục trên đây, trong mục Hãy nhìn xuống.
Vậy chúng ta hãy nhận lấy những sự đau khổ ấy để đền tội, để làm nguôi cơn giận Chúa, để cứu các linh hồn, để làm sáng danh Chúa.
Đã đành, chúng ta có thể hy vọng Chúa đã tha tội cho rồi, nhưng vì Chúa đã tỏ tình thương ta như thế, ta lại không phải vui lòng chịu khó một tí để đền những sự “thiệt hại” ta đã làm cho Chúa ru? Rồi, dù Chúa đã tha tội cho ta, nhưng cửa luyện ngục vẫn còn mở rộng để đón ta. Vậy ta phải nhẫn nại chịu đau khổ để đóng khóa cửa luyện ngục lại.
Ta hãy bắt chước người trộm lành, hãy nhẫn nại cho xứng người công giáo.
Trên Thánh giá Chúa Giêsu, ta thấy gì? – Ta thấy một Đấng hy sinh khải hoàn, ca bài ca yêu mến.
Đây là mấy đặc điểm nhận thấy nơi Chúa:
1) Chúa đã hoàn toàn tình nguyện hy sinh, như lời Kinh thánh đã nói “Người đã dâng mình, vì đã tự ý muốn dâng mình” [60] Ta đã thấy Chúa mau mắn đi đến chỗ chết. Ở vườn Diệt, dù phần giác quan Chúa có phản kháng, nhưng Chúa đã vui lòng nhận lấy chén đắng. Lúc bọn Giuđa đã bị ngã ngửa, Chúa lại cho chúng đứng dậy. Chúa có sẵn mười hai cơ đội thiên thần, Chúa có sẵn toàn thể các thiên thần để bảo vệ Chúa, nhưng Chúa đã không cho phép các Đấng. Chúa có thể cứu chuộc ta mà không cần phải đau khổ, không cần phải chết, nhưng Chúa đã muốn đau khổ, Chúa đã muốn chịu chết.
2) Chúa đã hy sinh, vì lòng yêu mến. Yêu mến Đức Chúa Cha: Trước khi chịu chết, Chúa đã phán rõ ràng: “Để cho thế giới biết ta yêu mến Đức Chúa Cha thì ta hãy đứng dậy và đi” [61] Yêu mến loài người, là các em của Chúa. Lời Kinh thánh nói: “Người đã yêu ta và đã nộp mình để cứu chuộc ta” [62] Và: “Ngày nào treo Ta lên, thì Ta kéo mọi người lên cùng Ta” [63].
Chúa đã hy sinh, và hy sinh vì lòng yêu, một thứ tình yêu cao cả xứng với Thiên Chúa.
3) Chúa đã hy sinh một cách vui vẻ. Khi nói về ngày thương khó của Chúa, Chúa đã phán lời này: “Ta phải chịu phép rửa trong máu Ta, và Ta khao khát chóng tới ngày ấy chừng nào!” [64]
Thật ra ở nơi Chúa, cũng như ở nơi chúng ta, phần cảm giác vẫn không ưa chịu khổ, và để ta biết than thở cùng Chúa, như con cái than thở với cha mẹ thì Chúa đã để cho phần cảm giác Chúa than thở, nhưng trong ý muốn Chúa, lúc nào Chúa cũng ham chịu khó, cũng nhảy nhót trong khi chịu khó, và trên Thánh giá, sau khi Chúa đã than lên lời đau đớn này: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?” [65] thì Chúa đã nói một lời đầy tình yêu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. [66]
Lời ca yêu mến ấy, các bạn hữu của Chúa về sau, cũng đã xướng lên theo Chúa. Các Thánh Tông đồ, đã vui mừng sung sướng vì được chịu khổ vì Chúa. Các Thánh Tử đạo đã chạy đến chỗ tử hình, như người khác chạy đi ăn tiệc, và trong lúc say sưa đau khổ, các đấng đã thốt ra những lời như lời này: “Tôi là lúa mì của Chúa. Tôi cần phải được răng thú dữ nghiền tán tôi, các chúng hãy đến đi, nếu chúng do dự, các ông hãy thúc chúng đến, nếu không, thì chính tôi sẽ thúc chúng”. Kìa, từng đoàn đông vô số, đã lan tràn khắp hết rừng sâu, họ tìm hết cách để làm khổ cho thân xác họ, cũng như người khác tìm hết cách cho xác thịt họ được thỏa mãn. Kìa, những Bạn trăm năm Chúa trong những bức tường kia, là những của hy sinh vì Chúa và sung sướng vì được làm của hy sinh, họ đã tình nguyện đi đày vì Chúa, và sung sướng vì đã đày đọa được tấm thân vì Chúa.
Còn chúng ta, Bạn cũng như tôi, chúng ta có vào sổ những vị anh hùng ấy không? Chúng ta có thật vào sổ những người Mến Thánh giá ấy không? Tôi vừa nói mấy tiếng: Mến Thánh giá: vì trên Thánh giá của Chúa, ta không phải chỉ còn thấy con người nhẫn nại, con người cam tâm, con người vui lòng chịu đóng đanh để đền tội, nhưng ta đã thấy con người yêu mến Thánh giá, yêu say mê, say mê đến nỗi nếu có cần phải nằm luôn trên Thánh giá mới cứu được thế gian, thì Chúa cũng sẵn sàng nằm luôn trên ấy, để cho người ta muôn đời nhìn ngắm, và để cho kẻ dữ muôn đời sỉ nhục.
Chính tình yêu đã làm cho Chúa chúng ta nhảy mừng trên Thánh giá của Chúa.
Và đó cũng là gương cho hết mọi người muốn tỏ lòng mến Chúa thiết tha, thực tình, phải làm, là yêu mến Thánh giá, nhảy mừng khi được chịu khổ để tỏ lòng mến Chúa, để cứu linh hồn mình, và cứu linh hồn anh em mình.
Chắc là Bạn cũng như tôi, chúng ta đều ước ao được mến Thánh giá như Chúa, chứ không phải chỉ muốn nhẫn nại như người trộm lành. Đã đành được như người trộm lành đã là khá, và một số đông trong ta đã được đến chỗ ấy. Nhưng ta còn phải cố gắng yêu mến Thánh giá như Chúa, say mê Thánh giá như Chúa, và trong khi chịu khổ, ta sẽ xướng bài ca yêu mến như Chúa.
Đã đành, ta chưa thể và không khi nào có thể nhảy mừng trên Thánh giá được như Chúa, và dùng Thánh giá như khí giới để toàn thắng, nhưng ít ra ta hãy cố gắng bắt chước Chúa cho hết sức ta.
Nhờ thế, ta sẽ nhìn thấy Thánh giá như một cuộc toàn thắng của tình yêu, trước là yêu chính mình ta, vì Thánh giá sẽ ban cho ta được vững chắc, được bằng yên. Rồi đến tình mến Chúa, vì Thánh giá giúp ta nên thánh, mà nên thánh, tức là mến Chúa. Sau cùng là tình yêu anh em ta, vì nhờ Thánh giá ta sẽ đưa được nhiều linh hồn về cùng Chúa.
Thánh giá là thắng trận của tình yêu: khi ta suy nghĩ đến điều ấy, mà lại không yêu mến Thánh giá sao được ?
Người ta kể truyện một người nằm liệt trên giường. Đang khi người ấy suy đi nghĩ lại rằng: mình là vật vô dụng, chẳng ích lợi gì cho ai, thì Chúa Giêsu hiện đến, và dạy cho người ấy hiểu những ích lợi của Thánh giá, và người ấy đã làm bao nhiêu ơn ích mà không ngờ: Nào đã sắm sẵn cho mình một tòa cao sang trên nơi hằng sống, nào đã được đẹp lòng Chúa, nào đã làm cho nhiều người tội lỗi ăn năn trở lại, đã giúp nhiều linh hồn công chính được vững vàng, và giúp cho nhiều dân đang bị uy hiếp được thắng trận. Người ấy hết sức ngạc nhiên và sung sướng, người ấy đã xướng bài ca tụng Thánh giá.
Phần ta, ai cũng phải cố gắng sao để dùng Thánh giá như bài ca khải hoàn, bài ca yêu mến của ta, khải hoàn vì ta đã sắm được cho ta một ngôi tòa cao sang trên Thiên đàng; khải hoàn vì ta đã làm vui lòng Chúa; khải hoàn vì ta đã cứu được nhiều linh hồn; khải hoàn vì ta đã giúp được nhiều linh hồn nên thánh thiện hơn; khải hoàn vì ta đã yên ủi được bao nhiêu linh hồn đau khổ… Muốn được thế, ta hãy ngày ngày suy đến những ích lợi của Thánh giá. Nhất là ta hãy mến Chúa cho nhiều… nếu chịu đau khổ là dấu yêu mến, thì càng mến càng dễ chịu đau khổ cho người mình yêu.
Sau cùng, ta hãy cầu nguyện, cầu nguyện cùng Đức Mẹ, là Đấng, trừ Chúa ra, không ai đã đau khổ bằng Người, và cũng trừ Chúa ra, không ai đã hiểu giá trị và những ích lợi của sự đau khổ, của Thánh giá bằng Người.
Ước gì mỗi người chúng ta là một Chúa Giêsu nhảy mừng ca hát trên Thánh giá; được như vậy, thế giới sẽ thay đổi bộ mặt và hòa bình sẽ chóng trở lại, cũng như Giáo hội sẽ càng ngày càng đông con.
Chúa hy vọng vào mỗi người chúng ta. Chúng ta đừng để Chúa thất vọng.
Nhất là những người đã được hạnh phúc Chúa gọi vào con đường mến Chúa cách riêng. [67]
---------- [56] Luca 23,39 [57] Luca 23,41 [58] Luca 23, 42-43 [59] Matt 6,2 [60] IS 53,7 [61] Gioan 14,31 [62] Eph 5,2 [63] Gioan 12,32 [64] Luca 12,50 [65] Matt 27,46 [66] Luca 23,46 [67] Phỏng theo Cha Billet, C.Ss.R. trong sách Le Crucifix.
Chúa tạo thành chúng ta đã thương cho một ơn đặc biệt, là cho chúng ta có hai đời. Một đời mau qua, và một đời bất diệt. Mỗi đời Chúa muốn chúng ta dùng một cách. Hai đời ấy, là đời này và đời sau. Đời này Chúa muốn chúng ta dùng để chịu khó, chịu khó cho nên, cho nhẫn nại, đời sau Chúa muốn chúng ta dùng để hưởng mặt Chúa, để sống một đời hạnh phúc hoàn toàn.
Nhưng, Bạn đừng quên: hai đời ấy liên lạc với nhau rất chặt chẽ, rất mật thiết. Đời này là bước đầu để chúng ta tiến đến đời sau, ta có đến được đời sau hay không, là tùy ta có biết đi, có biết dùng đời này hay không. Vậy đời này Chúa đã chỉ cho chúng ta làm những gì? Đời này Chúa chỉ cho chúng ta chịu khó, nhất là chịu khó. Đời này không phải để hưởng khoái lạc, khoái lạc chính đáng và vô tận là phần của đời sau.
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Đời này quả thật đầy đau khổ, nhưng tại sao ta lại tìm hạnh phúc ở đời này? Vì đời này chẳng qua chỉ là như “một đêm trọ trong một cái quán hôi hám chật hẹp” như lời Thánh Têrêsa Cả nói”.
Đã đành, đời này chúng ta có thể gặp ít nhiều vui thú, Chúa muốn vậy, vì thương ta, để ta khỏi chán nản, nhưng nó chỉ là những quà nhỏ mọn cha mẹ thường cho con cái, nhất là những đứa nhỏ, để chúng nó làm việc, hoặc chịu khó. Những thú vui ấy cũng ví như những viên đường, người ta dùng để uống thuốc. Mục đích không phải để hưởng những chất ngọt của đường, nhưng là để uống thuốc cho dễ. Những vui thú Chúa cho ta gặp trên đời cũng vậy, không phải để ta dính bén vào nó, Chúa dùng nó để giúp ta chịu khó dễ hơn.
Bạn thân mến, chúng ta chỉ là khách bộ hành. Khách bộ hành thì lúc nào cũng nhìn đến chỗ quê hương, chỗ mà họ mong chóng tới. Bởi thế trên đường, họ có thể gặp những cảnh tươi đẹp, những bóng mát, nhưng có đâu họ đứng lại cả đêm cả ngày để hưởng những thú vui ấy. Không, họ không đứng lại lâu, họ chỉ nhìn qua và hưởng mấy phút, rồi họ đi, mặc dù đàng trước họ, còn bao nhiêu cái khó chịu, bao quãng đường nguy hiểm, bao vũng bùn lầy, bao khúc nóng như thiêu. Họ cam lòng đón lấy hết cả những đau khổ ấy, con mắt họ chỉ đăm đăm nhìn vào cõi xa xăm, cõi mà lòng họ lúc nào cũng nghĩ đến và mong cho chóng đến. Chính sự mong ước ấy giúp họ đủ can đảm chịu đựng hết những nỗi khổ cực họ còn gặp trên quãng đường họ đi.
Vậy còn gì vô lý bằng người bộ hành chỉ chăm tìm những thú vui vô ích, họ có thể gặp trên đường, nhất lại là những thú vui tục tằn khả ố, và vì thế làm họ chậm hoặc hỏng ngày về quê.
Chúng ta cũng vậy, không gì vô lý bằng sống đời này, để về quê thật đời sau mà chúng ta lại mải mê tìm những thú vui vô ích, những thú vui làm ngăn trở ta trên đường tiến đến quê thật là nước Thiên đàng. Làm như thế, chúng ta còn dại dột hơn người bộ hành nữa, vì người bộ hành đi tìm những thú vui ấy, thường chỉ làm chậm ngày đến quê, còn chúng ta, nếu đi tìm những thú vui hư hèn ấy, thì chúng ta còn liều hỏng mất cuộc đời bất diệt, cuộc đời hoàn toàn hạnh phúc của ta nữa.
Cũng vì biết tính nết hư hèn của ta, hay tìm những thú vui nguy hiểm cho cuộc đời sau, nên Chúa thường gieo rắc trên đường đời chúng ta những chông gai, những đau khổ, để chúng ta luôn luôn chú ý, để chúng ta nhắc nhủ mình: đời này, ta chỉ là khách bộ hành, ta phải mau mau đi tới quê thật, không được đứng lại, để hưởng những thú vui, đôi khi Chúa cho gặp trên đời.
Bạn có thấy không, tiền tài đã làm bao người đau khổ, thế mà người ta vẫn ham mê tiền tài, có người đã đành bán linh hồn, đã đành chối Chúa để kiếm mấy đồng bạc.
Tình yêu đã làm bao người đau khổ đến quyên sinh, thế mà người ta vẫn đi tìm tình yêu và vẫn bám lấy tình yêu, có người hai chân đã kề miệng lỗ, cũng không chịu bỏ cái tình chỉ một chốc nữa sẽ đẩy họ xuống hỏa ngục.
Tôi chỉ nói về tiền tài, với tình yêu, chứ bất cứ cái gì có thể làm thỏa mãn dục vọng người đời, đều có thể làm họ say mê đến quên cả linh hồn, dù những cái thỏa mãn ấy, biết mấy phen đã đem lại cho họ bao cay đắng, bao hận lòng.
Vậy nếu Chúa không pha giấm chua mật đắng vào các sự vui thú ở đời, thì còn ai nghĩ đến linh hồn? Còn ai nghĩ đến Chúa??? Cho nên những thú vui Chúa dành để cho ta ở trên đời, không phải là những cái chúng ta được dính bén vào nó, vì nếu dính vào nó, nó sẽ ghì ta lại, không cho ta tới cõi hằng sống nữa.
Một lần Chúa phán với thánh Têrêsa Cả lời này: “Hỡi con, con hãy tin nhận rằng: ai được Cha Ta yêu hơn cả, thì người ấy sẽ gặp nhiều Thánh giá nặng nề hơn cả”. Để minh chứng lời ấy, Thánh Têrêsa Cả, trên đường sửa Dòng Kín, thường phải nay đây mai đó; một hôm vào buổi chiều mùa đông, Bà lạc vào một khu rừng. Sau nhiều giờ phiêu lưu, Bà đã tìm ra được tu viện Bà có ý đi thăm. Bà giật chuông nhưng không ai ra mở cửa. Bà giật, giật mạnh, không may trượt ngã làm gẫy chân. Lúc ấy một nữ tu mới ra mở cửa. Bà than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa làm gì vậy? Con sẽ bị giam ở đây, không có y sĩ chăm nom, mọi công việc của con sẽ bị chậm trễ”. Chúa đáp: “Đó là cách Cha xử với những linh hồn Cha yêu”. Bà liền đáp: “Chính vì vậy, mà Chúa ít bạn hữu trên mặt đất”.
Nhất là Bạn hãy nghe lời sau đây đã được ghi chép trong sách Chân phúc Henricô Sudô: “Con hãy nghe lý do tại sao Cha thử thách những đầy tớ của Cha và con hãy ghi sâu vào tận đáy lòng con những lời con sắp nghe sau đây. Cha ngự trong linh hồn như ngự trong thiên đàng đầy vui thú và Cha không chịu được cho nó tìm vui thú ở ngoài Cha, Cha không chịu được cho nó bám lấy các loài thụ sinh. Cha muốn chiếm lấy nó và muốn nó trong sạch thanh tịnh, nên Cha vây quanh nó bằng một hàng rào đau khổ, để nó không thoát khỏi được tay Cha. Cha gieo rắc trên đường đời nó đầy chông gai, để nó khỏi nằm yên trên những cái hèn hạ thụ sinh và để nó chỉ tìm hạnh phúc nơi các sự toàn thiện của Cha. Chính con cũng đã có kinh nghiệm là tất cả các thánh giá Cha gửi đến cho con, bất cứ là thứ gì, thì nâng lòng con lên, và giúp con kết hợp với Cha mật thiết hơn, sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn tất cả những thánh giá con tự chọn lấy. Nếu con được tắm gội đắm chìm trong nguồn yên ủi êm ái thiêng liêng, nếu những ơn trên trời đốt cháy lòng mến của con, thì con phải biết, những lúc ấy con không được công nghiệp bằng khi con chịu thử thách, bị lạt lẽo thiêng liêng. Nhờ những sự phiền muộn quấy nhiễu, con trở thành con yêu của Cha và con chiếm được quyền lợi ăn phần gia tài trọng hậu thiên đàng: Cha ban phát ơn lành cho kẻ lành, cả kẻ dữ, nhưng Cha dành thánh giá cho kẻ Cha đã chọn riêng. Con hãy suy xét, hãy so sánh đời tạm với đời đời; con sẽ hiểu thà chịu thiêu đốt trăm năm trong lò lửa cháy, còn hơn bị mất một thánh giá bé nhỏ nhất Cha có thể và muốn ban cho. Nào không phải rằng: vui vẻ nhận lấy những sự cực phiền, tức là dành để cho mình một phần thưởng bất diệt ? Thánh giá là một món quà quý giá đến nỗi con nên biết rằng: dù cả một trăm năm con sấp mặt xuống đất xin Cha ban cho ơn ấy, con cũng không đáng được”.
Cho nên Bạn đừng ngạc nhiên khi nghe các Thánh ca tụng Thánh giá, ca tụng sự đau khổ.
Bạn hãy nghe một lời sau đây, có thể thu tóm hết mọi lời khác.
Sách Gương phúc nói: “Không gì đẹp lòng Chúa, không gì ích lợi cho chúng ta ở đời này bằng vui lòng chịu đau khổ vì Chúa Giêsu Kitô”.
Vậy Bạn ơi, đứng trước trăm nghìn sự đau đớn Bạn sẽ gặp trên đời, Bạn hãy nhìn qua những quãng đời đau đớn ấy, để nhận cho ra, đâu là quê nhà, rồi hăng hái bước mạnh đi. Khách bộ hành đứng trước quãng đường lầy lội, họ có đứng yên mà nhìn đâu, họ nhìn qua những quãng đường ấy, rồi họ nhìn quãng đường xa tắp trước mặt họ, họ bước liều để qua quãng đường khó đi.
Chúng ta cũng phải làm như vậy. Là vì ở đầu đường bên kia, chúng ta sẽ có cả một cuộc sống đời đời, để hưởng hết những cái thú vui thanh cao và sẽ hưởng đời đời.
Ta có phúc hơn người bộ hành, vì dù sao, người bộ hành cũng có thể lỡ đường, không về đến quê, do những tai nạn bất ngờ có thể xảy đến. Nhưng, chúng ta thì khác, chúng ta chắc sẽ về tới quê, tuy không biết ngày nào, và cũng không cần biết, chỉ biết chắc là nếu ta cố đi, thì thế nào cũng tới.
Tôi xin chúc Bạn lúc nào cũng nhớ đến quê thật đời sau, luôn luôn nhắc cho mình rằng: “Tôi có một quê, và rồi đây không sớm thì muộn, thế nào tôi cũng phải đến nơi”. Cùng với ý tưởng ấy, Bạn hãy bảo mình: “Nhưng tôi lại phải vui lòng lĩnh nhận hết các sự gian nan đau khổ sẽ đến, vì đó là điều kiện tối cần để đến quê nhà. Không qua đường khốn khó, không về được quê. Không qua núi Sọ không thể tới núi cây Dầu là chỗ Chúa đã lên trời… ”.
Can đảm đi, Bạn, hăng hái đi, Bạn !
Tôi thành thực cầu chúc Bạn lòng hăng hái ấy, lòng can đảm ấy!
Sáng ngày 20 tháng Ba năm 1811, một trăm phát đại bác từ điện Invalides (Anh-va-lít) nước Pháp nổ vang, báo cho dân thành Balê biết một tin quan trọng. Một hoàng tử, con vua Nã-phá-luân, đã chào đời. Sau khi hoàng đế băng hà, hoàng tử sẽ lên ngôi hoàng đế nước Pháp. Trong khi hoàng đế còn sống, hoàng tử được gọi là Quốc vương La-mã. Nhưng, thương hại thay, không đầy năm năm sau, Nã-phá-luân mất chức hoàng đế.
Năm năm sau nữa, vua từ trần giữa một đảo xa xôi. Vua cha chết được 11 năm, ông “Quốc vương La-Mã” cũng chết theo, chưa kịp thừa hưởng nước Pháp.
Các gia tài ở đời là thế. Hoặc người chia gia tài, sau không thể giữ được lời hứa, hoặc người thừa hưởng gia tài không kịp nhận gia tài hoặc không giữ nổi gia tài đã chiếm được.
Nhưng Bạn ạ, chúng ta, người công giáo, chúng ta có một gia tài, mà gia tài ấy, nhất định chúng ta sẽ được hưởng, miễn chúng ta giữ Đạo cho nên. Gia tài ấy, Bạn biết rồi, chính là Thiên đàng.
Thiên đàng là gì? Trong những bài trên, tôi đã nhắc đến Thiên đàng nhiều lần. Trước khi từ biệt Bạn, tôi thấy cần phải nói qua về Thiên đàng, để cho cuộc nói truyện cần đầy đủ hơn.
Trước hết Thiên đàng là chốn nghỉ đời đời.
Đời này, chúng ta lúc nào cũng lo sợ… sợ đau đớn cho thân thể; trên Thiên đàng, không còn đau khổ nữa.
Ở đời ta phải làm việc: hằng ngày lúc thức dậy, phải ghé vai vào ách… nếu những người ác tâm, không làm rầy rà cho chúng ta, đã là khá lắm rồi.
Trên Thiên đàng, không còn phải làm việc nữa.
Ở đời chúng ta rên rỉ vì bệnh tật: một cơ quan trong mình ta chưa kịp khỏi thì một cơ quan khác đã bắt đầu đau. Nếu toàn thân ta, không cùng đau một lúc, thì đã hạnh phúc cho ta lắm rồi. Thân thể ta tế nhị hơn, tinh vi hơn thân thể cầm thú, chẳng qua cũng là để ta chịu đau khổ hơn.
Trên thiên đàng không còn bệnh tật nữa.
Ở đời, ta phải chết: đau đớn thay những giây phút hấp hối, ghê tởm thay những sự rùng rợn trong mồ.
Trên thiên đàng không còn chết nữa.
Chúng ta hãy trông cậy! Có lẽ Bạn đã thấy con sâu róm… trông thấy mà rùng mình. Nhưng đến một lúc kia, con sâu ấy cuộn mình trong một miếng lá, không khác gì bị chôn trong mồ. Những sức tiềm tàng của Tạo hóa bắt đầu làm việc, những chân nó dùng để bò, sẽ rụng xuống, các phần khác mọc ra: kìa những cánh nhẹ nhàng sặc sỡ, đẹp như ánh sáng mặt trời.
Nó bay lên không gian, ánh sáng mặt trời lại như tô thêm vẻ đẹp… Trước đây một tháng, ai trông thấy nó cũng sợ, bây giờ từng đoàn trẻ chạy theo bắt nó, vì sắc đẹp của nó đã làm chúng mê mẩn. Trước đây, nó ăn những lá cây thô, bây giờ nó chúi đầu hút những nhụy trong những cánh hoa vàng.
Xác ta này, cũng thế. Một ngày kia, nó cũng sẽ biến hình. Nó cũng sẽ tung những cánh đầy ánh sáng, nó sẽ gieo vào không gian những tiếng ca khải hoàn, nó sẽ tắm gội trong không gian nức mùi thiên hương. Và ở đấy, nó không còn phải làm việc nữa, nó không còn bệnh tật nữa, nó không còn chết nữa: trên Thiên đàng chỉ có nghỉ ngơi, trong một cuộc đời dài vô tận.
Nói tắt, trên Thiên đàng, thân thể ta không còn đau khổ nữa.
Ở đời, tim ta đau khổ: trên Thiên đàng, tim ta không còn đau khổ nữa.
Ở đời, tim ta đã gặp bao nhiêu thất vọng chua chát. Nó đã mơ màng lạc thú, nhưng nó đã gặp biết bao sự ưu phiền. Thánh Jeanne de Chantal (Gio-an-na Săng-tan) nói: “Trong tim tôi, có một cái gì lúc nào cũng run rẩy!”. Chúng ta cũng nói được: Trong tim tôi có một cái gì lúc nào cũng làm cho phải khóc. Vậy thì cuộc đời ta phải đem so sánh với cái gì? Với một ngày tưng bừng thơm nức của mùa xuân chăng? Không, phải so sánh với một ngày đông sầu ảm đạm. Thương ôi, những cái chúng ta gặp trên đời, không phải là những cái chúng ta mơ ước. Hãy nhớ lại, hồi chúng ta mười sáu, hai mươi tuổi, chúng ta hăng hái tiến thủ, lòng đầy hy vọng, tràn trề vui vẻ, hai môi nhấp nháy những bài ca hùng mạnh. Đó là những mơ mộng của tuổi trẻ, của tuổi hai mươi. Những mơ mộng ấy, ngày nay đã biến đâu rồi? Lớn lên chúng ta không còn mơ mộng khoái lạc, chúng ta mơ ước thành công. Nhưng thành công có thấy đâu, chỉ thấy toàn thất bại. Còn gì đau đớn ê chề hơn nữa!
Nhưng, này, ta hãy ngửa mặt lên. Vì nếu ta thật tình muốn, thì ta sẽ vào Thiên đàng, và trên Thiên đàng không còn bị thất bại.
Tim ta đã gặp thất bại, nó lại còn gặp những sự bội phản.
Ai trong ta cũng cần có một quả tim thân ái. Ta đã tìm, ta tưởng rằng: đã thấy. Nhưng một hôm, trong một lúc không ngờ, người Bạn ấy đã biến tan trong sương sớm, để ta lại trơ trọi cô độc. Vì một tí lợi, vì một lời nói vô tình, vì sự hiểu lầm không đáng kể, họ đã quay lưng lại với ta và ta đã gạt lệ trong âm thầm… để tiếp tục bước đi trong im lặng buồn tủi.
Nhưng ta hãy can đảm lên, vì rồi đây lên Thiên đàng, ta không còn gặp bội phản nữa.
Tim ta đã gặp bao cảnh biệt ly tang tóc. Tang tóc biệt ly trong gia đình, biệt ly tang tóc ở những người thân quyến, bạn hữu… Họ ra đi, không hẹn ngày về, chúng ta ở lại hàn gắn những vết thương sâu hoắm.
Chúng ta hẳn chưa quên những lời than thở của người chinh phụ; mấy lời vắn tắt nhưng cũng tả hết nỗi đau đớn của cảnh biệt ly và mong chờ:
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca, Nay quyên đã giục oanh già, Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo. Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió, Hỏi ngày về phỏng độ đào bông, Nay đào đã quyến gió đông. Tuyết mai trắng bãi, phù dung đỏ bờ… Hoặc một câu vắn tắt trong “Hai chị em lưu lạc”: Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông nhìn mả mẹ ruột đau chín chiều.
Bèo tan, trăng khuyết… kẻ ở, người đi, tuy cái cảnh ấy chẳng có gì lạ, nhưng nó cũng đã gây bao mối hận lòng, nó đã khoét thành bao nhiêu hồ nước mắt.
Nhưng ta hãy ngửa mặt lên: một ngày kia, ta sẽ nghe lời Chúa phán như đã phán với người trộm lành: “Ngày hôm nay, con sẽ ở nơi cực lạc cùng Ta” [69], và khi ấy, hết tang tóc, hết biệt ly [70].
Ở đời ta sợ những sự đau khổ cho linh hồn. Trên Thiên đàng linh hồn không còn đau khổ nữa.
Sống ở đời, nhiều khi ta phạm tội, và đã mang tội vào thân, thì lao đao tân khổ chừng nào! Chúng ta hãy nhớ lại truyện Chàng thanh niên hoang đàng… chàng ngồi sầu khổ dưới bóng cây… Cạnh chàng là một đàn lợn đẵm trong đám bùn hôi. Mặc không đủ che thân, hai tay ôm lấy đầu, chàng lặng lẽ nghĩ đến cuộc đời đã qua và hiện tại. Bên ngoài là một sự yên lặng nặng nề. Nhưng trong người chàng là cả một cơn giông tố dữ dội… Chàng ước mong biến thành bầy lợn vô linh tính… Nhưng không được, trước sau, chàng vẫn là người… để chịu đau khổ, để bị những cắn rứt của lương tâm.
Phàm kẻ có tội, đều bị khổ, giống như chàng hoang đàng kia. Nhưng nếu ta muốn, thì ta cũng có thể một ngày kia lên Thiên đàng, và trên Thiên đàng, không còn tội lỗi nữa.
Sống ở đời, nhiều khi sợ mình đang sống trong tội. Áy náy thay ! Chính Thánh Bênađô cũng đã từng than lên: “Loài người không biết chắc được Chúa yêu hay bị Chúa ghét”. Ta chưa phải thánh Bê-na-đô, thì ta còn phải kêu lên đến thế nào nữa. Có lẽ chúng ta đã ngã, thì chúng ta đã đứng dậy chưa? Chúng ta đã bị cám dỗ, thì chúng ta có chống lại cho mạnh mẽ không? Nhưng nếu ta muốn, thì ta sẽ được lên Thiên đàng, và trên Thiên đàng ta không còn áy náy nữa. Sống ở đời, vẫn còn lo sẽ phạm tội. Lúc nào ma quỷ cũng mạnh mẽ và mưu mô, lúc nào thế gian cũng quỷ quyệt và quyến rũ, lúc nào tim ta cũng hùa theo tình dục. Lúc nào cũng bị cám dỗ, lúc nào cũng sợ mất nghĩa cùng Chúa… Thật là chua xót đắng cay!
Nhưng trên Thiên đàng, thì không còn sợ phạm tội nữa.
Nói tóm lại: trên Thiên đàng không còn phải làm việc, không còn bệnh tật, không còn phải chết, không còn bị thất bại, không còn bị bội phản, không còn phải ly biệt, không còn tội lỗi, không còn áy náy, không còn nguy hiểm… sống trên Thiên đang như thế, thì sung sướng chừng nào!
Thánh Tê-pha-nô nằm dưới những trận mưa đá, Người ngửa mặt lên và kêu: “Tôi thấy Thiên đàng mở ra”, rồi Người mỉm cười. [71]
Trong lúc thấy trăm nghìn sự đau khổ đổ trên người Bạn, Bạn hãy nhìn lên Thiên đàng và hãy tự bảo mình: Trên Thiên đàng, tôi không còn gặp những cái làm tôi sợ hãi, đau khổ nữa. Lời ấy cũng sẽ tăng sức mạnh cho Bạn và Bạn cũng sẽ mỉm cười được như thánh Tê-pha-nô.
Trên Thiên đàng, Bạn không còn đau khổ nữa, nhưng đã hết chưa? Là vì Thiên đàng của chúng ta còn có hết những cái ta ước ao. Ta ước ao được ngắm, ta sẽ được ngắm Chúa.
Ta sẽ được thấy lâu đài Chúa, và nó đẹp chừng nào! Chúng ta hãy ngắm một nắm bụi, mà ta gọi là quang chất. Nó có những tính cách rất lạ lùng… ta đã thấy những tấm kính ba mặt, nhìn qua, ta sẽ thấy màu sắc của ánh sáng mặt trời… Ta đã thấy đôi cánh của con cánh quýt, một con sâu nhỏ, nhưng Chúa đã mặc cho nó một bộ cánh với những màu sắc rất xinh đẹp… Đã thế, thì Chúa có thể tạo một ngôi nhà, một cung điện còn đẹp đẽ lộng lẫy, xứng đáng với con cái Chúa đến chừng nào nữa!
Chúng ta được thấy con cái Chúa, tức là triệu triệu các thánh, ngự trên những ngai tòa sáng láng hơn mặt trời, và không cái nào giống cái nào. Ta sẽ thấy triệu triệu Thiên thần, không đấng nào giống đấng nào.
Tại La Mã cổ, những nhà được người ta tìm thuê hơn cả, là những nhà mà chung quanh là những người lân bang tử tế. Những nhà muốn bán mà có treo cái biển “lân bang tử tế”, thì dù là những căn nhà tầm thường, cũng được người ta ham mua. Vậy thì trên Thiên đàng, chúng ta được thân cận với các Đấng thánh thì ta sẽ sung sướng chừng nào! Nhất là ta sẽ có Đức Mẹ, hai tiếng “Đức Mẹ” cũng đủ kích thích lòng ta rồi, và nguyên sắc đẹp của Đức Mẹ cũng đủ làm ta ngây ngất đời đời.
Nhưng nhất là chúng ta sẽ thấy Chúa, sẽ được ngắm Nhan Thánh Chúa. Chúa chính là sự đẹp tuyệt đối, tất cả những cái đẹp ở trần gian và Thiên đàng, chỉ là những phản ảnh lờ mờ của cái đẹp vô cùng ấy. Vậy thì mắt ta sẽ được đứng trước một cái đẹp mê hồn chừng nào! Và lòng ta sẽ sung sướng ngây ngất chừng nào nữa!
Trên núi Tabo, Thánh Phêrô được thấy ánh sáng ở thân thể Chúa giãi ra trong chốc lát, người đã ngây ngất đến nỗi “quên cả cõi tục”. “Lạy Thầy, ở đây thì tốt lắm, chúng tôi xin làm ba nhà…” [72] làm mà ở luôn trên núi ấy, để ngắm sự xinh đẹp của Chúa… Vậy thì rồi đây chúng ta sẽ được ngắm Chúa, không phải chỉ trong mấy phút, không phải chỉ qua quít ở cái vỏ ngoài, nhưng là đời đời và tận đáy lòng Chúa… khi ta được thấy Chúa nhãn tiền trước mắt, thì ta sung sướng chừng nào!
Phải, nếu Chúa không lấy sức mạnh vô cùng của Chúa mà nâng đỡ ta, thì ta sẽ biến tan vì sung sướng.
Chúng ta mong được yêu. Chúng ta sẽ yêu mến Chúa.
Trước hết, chúng ta sẽ yêu các con cái Chúa: các Thiên thần, các Thánh nam nữ, nhất là những người bà con, thân quyến, bạn hữu của ta lúc còn ở trần gian. Trên Thiên đàng, chúng ta sẽ nhận ra nhau, chúng ta sẽ sống cùng nhau, không còn chia rẽ, không còn biệt ly và sẽ yêu nhau đời đời. Đó là một điều yên ủi lòng ta ngay từ đời này.
Chúng ta sẽ yêu mến Đức Mẹ, và được Đức Mẹ yêu. Cái yêu ấy mới là cái yêu thâm thúy sâu xa êm đềm biết chừng nào!
Nhất là ta sẽ yêu mến Chúa. Đứng trước vẻ đẹp của Chúa, ta sẽ ngây ngất. Khi ta thấy lòng thương vô hạn của Chúa, lòng yêu đã yêu ta từ đời đời, thì ta sẽ bị chìm đắm trong bể ái, lòng ta sẽ sung sướng chừng nào!
Thánh Phanxicô Xaviê chỉ được có một tàn lửa mến của Chúa bắn vào trong tim, mà Người còn phải kêu lên: “Lạy Chúa, thôi, đủ rồi, nếu Chúa cho thêm thì con chết mất”. Vậy thì khi không phải chỉ một tàn lửa mến, nhưng cả lò lửa mến thiêu đốt lòng ta thì ta sẽ kêu lên những lời gì nữa?
Nếu Chúa không lấy sức mạnh vô cùng Chúa để giữ ta thì sự vui mừng sẽ giết chết ta.
Ở đời nhiều khi đứng trước một vẻ đẹp thiên nhiên, mà người ta còn ngây ngất ngắm không biết mỏi… Huống nữa về sau, khi được chìm ngắm trong những cái đẹp ngoài sức tưởng tượng, thì chúng ta biết lấy lời gì để tả những sự ngây ngất ấy!
Sau cùng, ta muốn được hưởng; Ta sẽ hưởng Chúa.
Nhiều lần chúng ta đã mơ thấy những cái làm ta mê mẩn sung sướng, ta làm tổng thống, ta được giàu sang, ta được lạc thú… bao lâu còn trong giấc mộng, ta còn thấy hạnh phúc của ta êm đềm trong trẻo… nhưng đùng một cái, ta giật mình dậy, thế là bao nhiêu mộng đẹp đều biến tan… quả đất lại hóa ra chốn lưu đày khóc lóc…
Vậy thì chúng ta hãy tưởng tượng hết những cái gì có thể tưởng tượng được, không phải chỉ là một giấc mơ, nó sẽ là những sự thực. Thiên đàng là tự do: ta muốn đi đâu thì đi, ta muốn làm gì thì làm, là vì ta không thể phạm tội được nữa. Thiên đàng là bao nhiêu kho báu của Chúa sẽ là của ta. Thiên đàng là danh vọng: chúng ta sẽ ngồi đồng bàn cùng Chúa. Thiên đàng là mau kíp: ta muốn đi đâu, thì trong nháy mắt đã đến. Thiên đàng là sức mạnh: không còn cái gì là khó ngại, là trở lực. Thiên đàng là hòa thuận: một đại gia đình, tất cả các anh chị em hòa thuận dưới mắt một người cha hiền. Thiên đàng là lạc thú: ta sẽ hưởng hạnh phúc vô cùng và đời đời. Thiên đàng là sức khỏe: không còn bệnh hoạn tật nguyền, không còn biệt ly chết chóc. Thiên đàng là tình yêu: ta sẽ yêu Chúa, yêu Đức Mẹ, yêu các Thánh và được yêu lại. Thiên đàng là an ninh: không còn đạo tặc, trộm cướp, thù địch. Thiên đàng là sự đẹp: khiến ta luôn luôn ngây ngất. Thiên đàng là thông minh: chúng ta sẽ nhìn thấy Chúa rõ ràng. Thiên đàng là trường thọ: một thứ hạnh phúc hoàn toàn và lâu dài vô tận. Bạn hãy tưởng tượng hết các cái đẹp, cái hay, cái tốt, cái gì Bạn cũng được gặp trên Thiên đàng, và lại chắc được hưởng tất cả những cái ấy cùng một lúc và đời đời. Nói tắt một tiếng: tất cả ngũ quan và tâm tư chúng ta đều được hưởng những hạnh phúc riêng của mình, và sẽ hưởng đầy đủ và mãi mãi…
Nhất là ta sẽ được hưởng chính Chúa. Ta sẽ được uống trong suối khoái lạc Thiên Chúa. Hạnh phúc chúng ta không làm chúng ta chán ngán; được thỏa mãn nhưng vẫn muốn được thêm luôn. Hạnh phúc của chúng ta không khi nào có cùng, mỗi phút sung sướng, ta phát lên một câu hỏi, như một người bị đầy: “Cho đến khi nào ?” và cũng như người bị đầy chung thân, chúng ta sẽ nghe đáp lại: “Không khi nào hết!”.
Ở đời này, không cái gì bền vững. Bạn còn trẻ trung khỏe mạnh, nhưng ngày mai? Ngày mai, Bạn sẽ đứng tuổi, Bạn sẽ già, rồi bệnh hoạn, rồi chết… Bạn dự một ngày lễ, nhưng ngày mai cuộc đời lại nặng nề trôi, ôm theo những lo nghĩ, những buồn phiền, những đau khổ.
Trên Thiên đàng thì không thế, hạnh phúc của Bạn sẽ là hạnh phúc vô cùng vô tận… Lúc nào cũng là lúc bắt đầu, không khi nào hạnh phúc Bạn đã qua một phần tư, một phần mười… Lúc nào cũng mới và cứ mới mãi mãi…
Bạn sẽ hưởng luôn, luôn mãi, mãi mãi… Đó chính là Thiên đàng. Nguyên một tư tưởng ấy, nếu không được Chúa giữ Bạn, cũng đủ làm cho Bạn chết đi được.
Bạn hoài nghi chăng? Hoài nghi sao được? Nếu Bạn chết trong khi sạch tội trọng, thì tất cả những cái tôi vừa tả qua đó, sẽ là của riêng Bạn, và Bạn sẽ chiếm giữ mãi cho đến đời đời. Nói tóm lại, được nhìn ngắm chính sự Đẹp, được yêu chính tình yêu, được hưởng chính hạnh phúc, được tất cả những thứ ấy cùng một lúc và đời đời: đó chính là Thiên đàng.
Đến đây ta có thể hiểu được cơn ngất trí của Thánh Augustinô. Hôm ấy là ngày 30 tháng 9 năm 421, Thánh nhân quỳ trong phòng vắng và suy về hạnh phúc Thiên đàng. Bỗng một tia sáng Thiên đàng bao phủ lấy Thánh nhân, và một tiếng từ xa vọng lại: “Augustinô làm gì thế? Ông thu biển cả vào bàn tay ông, còn dễ hơn hiểu được một sự vui thú nhỏ nhất trên Thiên đàng”. Thánh nhân hỏi tiếng ấy là ai? Tiếng ấy đáp lại: “Tôi là linh hồn linh mục Giêrônimô, tôi vừa từ giã xác nặng nề của tôi ở thành Bê-lem, bây giờ tôi đã được vào Thiên đàng”. Tiếng nói im bặt. Và Augustinô tự nhiên thấy mình được đưa vào khu vực siêu nhiên ngây ngất.
Những cái ngây ngất của Thánh Augustinô, mới chỉ là những giây phút nếm thử phúc lộc Thiên đàng. Thiên đàng là thế. Hay nói đúng hơn, Thiên đàng chưa phải là thế, vì chúng ta không thể tả được Thiên đàng, như lời Thánh Giêrônimô nói với Thánh Augustinô. Nhưng ít ra ta hiểu được một tí, Thiên đàng là cái gì, và đồng thời ta hiểu thêm đất này là gì.
Khoảng năm 100, thời bách hại của Marc-Aurèle (Mác-ô-ren), hai anh em quý phái Valerien (Va-lê-riêng) và Tiburce (Ti-bút) bị tống ngục vì theo đạo Công giáo. Mắc-xim là một ông quan có trách nhiệm điệu hai anh em ra pháp trường, lúc đến nhà ngục mở cửa, thấy hai anh em đang quỳ gối mắt nhìn lên trời, vẻ mặt bình tĩnh khác thường. Tuổi thanh niên, dòng quý phái, sự trong sạch, tính nhẫn nại của hai người tù đã làm ông ta cảm kích. Ông ta quay ra khóc. Hai anh em liền hỏi: “Sao ông lại khóc?” Ông đáp: “Tôi khóc vì thấy hai anh em trẻ tuổi, giàu sang, quý phái mà phải điệu đi xử”. Hai anh em đáp lại: “Xin ông đừng lầm, chúng tôi có đạo, và những người có đạo, khi từ giã cõi đời, sẽ bước sang kiếp khác, là chỗ không còn chết nữa. -Lời hai ông nói có thật không? Nếu ông hứa theo đạo, thì trong giờ chúng tôi chết, chính mắt ông sẽ thấy những cái chúng tôi nói lúc này”. Mắc-xim hứa. Lúc hai anh em bị chém, ông được thấy linh hồn hai anh em sáng láng… Chính ông, sau cũng được phúc chết vì đạo.
Bạn ôi, chúng ta cũng hãy bắt chước ba Thánh Tử đạo ấy mà ước mong Thiên đàng. Ta đã thấy đất này chỉ là chốn đau khổ và tội lỗi, thì dại gì ta còn dính bén vào nó. Thiên đàng là chốn hưởng đầy tình yêu và hạnh phúc, thì sao ta lại không ước mơ ?
Bạn còn nhớ truyện Lụt Hồng Thủy. Sau khi nước rút xuống, ông Noê thả một con quạ, gặp những xác chết, thì nó bám chặt vào, mà không còn quay về tàu nữa. Ông Noê cũng thả một con chim bồ câu, nhưng nó không tìm được chỗ đậu, thì lại quay về tàu. Ta đừng làm con quạ, ta hãy làm chim bồ câu, hãy may mau về tàu, là Thiên đàng. Muốn được thế, ta đừng bắt chước con quạ, đừng bám vào những cái phù vân, vào những lạc thú đê hèn… trái lại ta hãy tìm, hãy bám vào những cái vô biên. Sau cùng, ta hãy sống trong hy vọng. Mặc dù sự đau khổ đang vây bọc quanh ta, ta cũng không mất hy vọng. Không gì làm cho ta mất hy vọng, dù chính những tội chúng ta đã phạm, cũng không thể làm cho ta thất vọng, vì ta hãy khóc lóc các tội lỗi ta, và hễ đã khóc lóc tội ta, thì Chúa sẽ trả lại ơn Thánh hóa, và tình yêu của Chúa cho ta, tình yêu đời này, và Thiên đàng đời sau.
Tôi thành thật cầu chúc Bạn ngày sau chiếm được Thiên đàng, và xin Bạn cũng thương cầu cho tôi đừng mất Thiên đàng.
Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT
---------- [68] Bài này viết theo Le Crucifix. của Cha Billet, C.Ss.R. và Vivre của ARAMI. [69] Luca 23,43 [70] K.H. 21,4 [71] CVTĐ 7,55-60 [72] Matt 17,4
Linh hồn đau khổ, Bạn thân yêu, chắc đã có lần Bạn nghĩ: “Trên đời, chỉ có mình tôi là đau khổ, ít ra trên đời không ai đau khổ bằng tôi”.
Tôi không khinh Bạn, cũng không cười Bạn. Vì cái lầm tưởng ấy rất dễ hiểu. Sự khổ của ta, ta cảm thấy rõ rệt, còn sự khổ của người, ta không cảm thấy, hay chỉ cảm thấy sơ qua. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Sự khó người khác, chỉ là giấc mộng”.
Buồn cười hơn nữa, là nhiều khi người ta sống giữa cảnh giàu sang, mà vẫn cho rằng: người nghèo khó sung sướng hơn. Đây, Bạn hãy đọc một đoạn thư tôi nhận được đã gần 20 năm nay: “Có lẽ những người nghèo nhất, lại là những người sướng nhất, vì họ chỉ mong sao kiếm cho được ngày hai bữa, ngày đến tối là xong, họ có thể ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng, không phải lo nghĩ gì cả… Có những người bề ngoài trông có vẻ giàu có phú quý, song biết đâu trong tâm hồn óc trí họ, lại không bị nhiều cái quay cuồng đảo lộn… Chính gia đình con cũng vậy đó. Trông bề ngoài, ai lại không bảo họ phong phú sung sướng, cũng tạm gọi được là nhà cao cửa rộng, cũng trại cũng ruộng, cũng ăn mặc đầy đủ, song trong gia đình không mấy lúc được hưởng sự yên vui”. Đọc những lời ấy, chắc các người nghèo khó sẽ mỉm cười và đáp: “Phải, nói thì hay lắm, nhưng sự thực có phải thế đâu”.
Nhưng cái lầm tưởng ấy lại rất tai hại. Thật thế, tưởng chỉ có mình đau khổ nhất trên đời, tức là vô tình làm tăng những sự đau khổ của mình lên, nhiều hay ít, tùy sức tưởng tượng của mình.
Để giúp Bạn đỡ khổ, – tôi chỉ nói đỡ khổ – và đem lại cho Bạn một nguồn yên ủi, tôi xin hiến Bạn thêm mấy trang này nữa, xin Bạn vui lòng đọc cho hết.
Mấy trang này sẽ giúp Bạn thấy rằng: trên đời không phải chỉ mình Bạn đau khổ, trên đời còn nhiều người đau khổ, không hơn Bạn ít ra cũng bằng Bạn.
Ở đời, Bạn sẵn có những người cùng bệnh với Bạn, tôi muốn nói bệnh đau khổ, mặc dù Bạn không biết những người ấy. Đó cũng là một bài thuốc cứu khổ rất thần hiệu, và biết đâu Bạn lại không cảm thương họ hơn chính mình Bạn nữa.
Người ta thuật truyện một bệnh nhân bị nằm liệt trên giường đã lâu. Ông ta muốn được khỏi bệnh để nuôi sống gia đình. Người ta đã đưa ông đi Lộ đức xin Đức Mẹ chữa. Nhưng lúc ông về, người ta vẫn thấy ông nằm liệt như trước. Có người tò mò hỏi, thì ông đáp: “Lúc đi trên xe lửa, tôi thấy còn có nhiều người đau yếu đáng thương hơn tôi, nên tôi đã cầu xin cho họ, mà quên xin cho chính mình tôi…”.
Biết đâu, đọc xong những trang cuối cùng này, Bạn lại không cảm như ông ta.
Bạn hãy nhìn quanh Bạn. Bạn hãy đọc truyện các Thánh, Bạn hãy đọc Kinh thánh, Bạn hãy ngắm cuộc đời Đức Mẹ, nhất là cuộc đời Chúa Giêsu, Bạn sẽ thấy rằng: Không một sự khó nào Bạn chịu, mà người khác đã không chịu trước Bạn, và đang chịu như Bạn, có lẽ còn chịu hơn Bạn nữa. Tôi nói lại, những đau khổ Bạn thấy ở người khác, sẽ giúp Bạn chịu nhẫn nại và yên ủi mình rằng: dù sao, những sự đau đớn tôi chịu, cũng chưa thấm vào đâu với sự đau đớn của người khác.
Đây tôi tặng Bạn vài ba truyện, chỉ vài ba truyện thôi, vì đọc Kinh thánh, hoặc truyện các Thánh, Bạn đã thấy, hoặc sẽ thấy nhiều.
Ngay ở trang đầu, tôi đã nhắc đến truyện ông Thánh Gióp, thì ở trang cuối này, tôi lại muốn nhắc đến truyện Ngài.
Có lẽ Bạn đã lâm vào cảnh tan cửa nát nhà, trước đây Bạn giàu sang, bây giờ Bạn túng thiếu. Thánh Gióp ngày xưa có lẽ đã giàu sang hơn Bạn. Kinh thánh nói: Ngài có bảy nghìn con chiên, ba nghìn lạc đà, năm trăm đôi bò và năm trăm con lừa cái, người ăn người ở không biết bao nhiêu. Ngài vào hạng thế phiệt nhất mạn Đông thời ấy. Thế mà trong một giờ đồng hồ, bao nhiêu của cải sang tay người khác, chỉ còn lại có hai bàn tay trơn.
Có lẽ Bạn khổ vì mất con mất cháu, mất vợ mất chồng… mất cha mẹ anh em. Nhưng Bạn không biết rằng: ông Gióp xưa, cũng con đàn cháu đống, hòa thuận êm đẹp, thường hội họp để thắt chặt thêm dây thân ái. Thế mà cùng một lúc của cải và đoàn vật sang tay người khác, thì bao nhiêu con cái Ngài cũng từ biệt Ngài sang kiếp sau.
Có lẽ Bạn đau phiền vì bạn hữu thất tín. Thánh Gióp ngày xưa có gì hơn Bạn. Đang lúc Ngài nằm trên đống tro, thì ba người bạn đến thăm. Lẽ ra họ đã phải yên ủi Ngài, họ lại đã nói nhiều lời gần như thóa mạ, và đổ cho Ngài những tội Ngài không có, đến nỗi sau chính Chúa phải can thiệp để bênh đỡ Ngài, và bắt ba người bạn phải tạ lỗi.
Có lẽ Bạn đã rộng tay làm phúc mà đến lúc Bạn lâm nguy, người đời theo nhau bỏ Bạn. Thì Thánh Gióp ngày xưa có hơn gì Bạn? Phú quý đa nhân hội, bần cùng thân thích ly. Đời nào chả thế?
Có lẽ Bạn bị người trong gia đình hóa lòng lang dạ thú, đã không giúp Bạn đỡ đau buồn, lại còn chất thêm sầu khổ cho Bạn. Thì thánh Gióp xưa cũng thế. Người vợ, lẽ ra đã phải rịt những vết thương cho chồng, thì lại xui chồng nói phạm đến Chúa, rồi chết thì chết.
Ấy là tôi chưa nói đến những sự đau đớn Thánh Gióp chịu trong thân thể Ngài, Bạn đã biết, và tôi dám chắc Bạn chưa đau đớn đến vậy.
Tâm hồn Bạn phiền muộn xao xuyến. Nhưng Thánh Gióp ngày xưa, có khác gì Bạn. Bạn hãy đọc lại những lời Ngài than thở, tôi đã trích đăng ở đầu sách này.
Bây giờ tôi xin hỏi Bạn: Bạn dám tự phụ mình thánh thiện hơn Thánh Gióp chưa? Bạn đã được chính Chúa làm chứng về Bạn, như đã làm chứng về Thánh Gióp chưa? Kinh thánh chép: Chúa đã khen Thánh Gióp là người đơn thật ngay thẳng, kính sợ Chúa, xa lánh tội, Chúa đã khen Ngài là người có một không hai trong loài người [73].
Ấy thế mà Thánh Gióp đã chịu khó nhiều hơn Bạn, mặc dù có lẽ Bạn đã phạm tội nhiều hơn Thánh Gióp, ít ra Bạn chưa được dấu chắc tỏ rằng: Bạn thánh thiện hơn Thánh Gióp.
Vậy mà khi Thánh Gióp nghe những tin khủng khiếp ấy, Ngài đã sấp mình xuống đất thờ lạy Thánh ý Chúa và than thở: “Tôi đã sinh ra trần trụi, thì tôi cũng chết trần trụi… Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin theo Thánh ý Chúa, chúc tụng Thánh danh Chúa”.
Kinh thánh nói tiếp: “Trong hoàn cảnh éo le ấy, ông Gióp đã không hở một lời gì dại dột phạm đến Chúa” [74].
Thánh Lidvin, người Hà Lan, sinh trưởng trong gia đình nề nếp quý phái, nhưng gia tư lúc ấy không lấy gì làm phong phú lắm. Bà là con gái duy nhất của gia đình. Trên dưới bà còn tám anh em trai nữa.
Lidvin ra đời giữa ngày lễ Lá năm 1380, chính lúc cả nhà thờ dân chúng đang ngắm sự Thương khó Chúa. Nhân đấy, song thân đặt tên cho là Lidvin, hai tiếng có nghĩa là đau khổ lắm lắm. Không ngờ mà tên ấy lại như báo trước cuộc đời đau khổ của Bà.
Ngay hồi còn trứng nước, Lidvin đã bị một chứng bệnh hiểm nghèo hành hạ.
Đến năm lên bảy, cô dâng toàn thể xác hồn cho Chúa, và ít chơi đùa với chúng bạn.
Năm mười hai tuổi, Lidvin đã nổi danh là hương trời sắc nước, và ông thân đã tính đến chuyện tìm cho gái sắc một trai tài, nhưng cô nhất định cự tuyệt, và nếu ông cụ cứ nhất định ép thì cô sẽ xin với Chúa cho thân hình hóa nên tiều tụy xấu xí cho không còn ai thèm nhìn đến. Ông thân thấy vậy thì thôi, không còn nói đến chuyện nhân duyên nữa. Mà không cần phải cầu xin. Chúa đã như hiểu ý Cô, và cho cô được chịu bệnh hoạn, không những để cho thân thể hết vẻ quyến rũ, mà nhất là để cô nên gương sáng nhẫn nại cho mọi người.
Năm mười lăm tuổi, cô bị sẩy chân ngã trên nước đông, nên bị gãy một xương sườn, và phải nằm liệt luôn ba mươi tám năm, nghĩa là cho đến chết. Suốt mười bảy năm, bà chỉ hơi cử động được đầu và cánh tay trái. Đến sau dạ dày cũng suy nhược, và không chịu được một thứ đồ ăn nào, mãi đến khi nhắm mắt. Tả sao được những chứng bệnh của bà, sợ Bạn sẽ rùng mình ghê tởm. Chỉ cần nói tóm lại bằng một câu: Tất cả các thứ kinh khủng của bệnh tật, có thể làm cho bà đau đớn đều đã tập trung nơi Bà, để hoành hành tấm thân đã tiều tùy sẵn của Bà. Cực hơn nữa, lúc ấy Bà hầu như bị mọi ngươi đày đọa, có kẻ lại còn luôn luôn xỉ mạ Bà, Bà chỉ còn trông cậy vào Chúa; để được yên ủi, ngày đêm Bà chỉ còn biết suy ngắm sự thương khó Chúa. Cứ mười lăm ngày, rồi sau mỗi tuần bốn năm lần, Bà được phép rước Mình Thánh Chúa. Nhờ phép cực trọng, linh hồn Bà càng thêm sáng suốt và can đảm trong lúc bệnh mỗi ngày một tăng. Thế mà có nhiều khi Bà còn xin Chúa cho bệnh mình thêm đau đớn.
Hồi ấy có một thứ bệnh hủi đang gieo rắc tai ương ở trong vùng. Bà Lidvin liền xin Chúa trút cơn thịnh nộ Chúa vào một mình mình và tha cho dân. Vừa kêu xin xong, Bà cảm thấy ngay mình bị bệnh hủi, thân thể đau đớn quá chừng. Mẹ Bà, lúc gần qua đời, có xin Bà giúp lời cầu nguyện cho mình. Bà liền xin dâng hết những vết thương, những sự đau đớn, những nỗi thống khổ, cùng tất cả những điều nhuốc hổ Bà chịu cho mẹ. Nhờ thế bà cụ đã được ơn chết lành bằng yên.
Nhưng sau khi đã nhường hết công nghiệp cho mẹ, Bà Lidvin lại bắt đầu lo đến phần mình, nên Bà thấy mình cần phải gây thêm cho đủ số. Bà liền bắt mình chịu khổ thêm vào bệnh tật Chúa gửi đến, Bà thắt vào người một dây lưng bằng lông cứng ráp, và mang mãi tới chết.
Nói đến những sự đau khổ Thánh Anphongsô đã chịu, thật không bút nào tả được… nhất là nếu chỉ nói tóm lại trong năm mười câu, cho hợp khuôn khổ sách nhỏ mọn này.
Bởi vậy, ở đây, tôi không nhắc đến những đau khổ về tinh thần. Thánh nhân đã chịu từ khi định bỏ thế gian dâng mình cho Chúa, nhất là nơi thân phụ Người… tôi cũng không muốn thuật lại những nỗi khó khăn Người phải chịu khi lập Dòng Chúa Cứu Thế, khó khăn do người ngoài, khó khăn do các bạn đầu tiên của Người… Tôi cũng không muốn nhắc lại những cơn nguy hiểm Người trải qua để giữ cho Dòng khỏi tan nát bởi những cuộc bách hại do Satan và người đời gây nên… Tôi cũng không nhắc lại một đoạn lịch sử đau đớn nhất trong đời Thánh nhân, đoạn Dòng Người bị kẻ thù chia đôi, và chính Người bị Đức Giáo Hoàng cất chức Bề trên Cả và không công nhận Dòng Người ở Napoli là Dòng Chúa Cứu Thế nữa. (Xin bạn xem lại đoạn Một linh hồn).
Ở đây, tôi chỉ xin nhắc lại mấy dòng về những đau khổ Thánh nhân chịu trong thân thể Người.
Suốt cả đời Thánh Anphongsô, những bệnh tật Người hằng đeo trong mình khiến Người lúc nào cũng như gần cửa mồ. Đây là những chứng đau đầu khiến Người có lúc như bị hấp hối; đây là bệnh đau thần kinh nhức nhối kèm thêm hai nơi phỏng ở chân, khiến nhiều ngày Người không dâng thánh lễ được, rồi tì vị không chịu làm việc… đến sau Người hóa như điếc… Lúc khác Người bị nhức trong đầu đến nỗi có thể làm được cho một quả núi tuyết chảy tan ra… Suốt mười bảy năm trường, chứng bệnh tê thấp của Người khiến Người “biến hình”, đầu Người bị cắm xuống ngực, và chịu lâu quá, sau chỗ cằm giáp ngực biến thành ung nhọt, không những làm thối thịt, mà chạm vào đến tận xương. Chắc Bạn cũng đã từng thấy ảnh Thánh Anphongsô, đầu Người gập quặp xuống ngực, đó là tả lúc Người bị chứng tôi đang nói đây… Và tôi xin nhắc lại, Người chịu như thế, ngày đêm liên lỉ đủ 17 năm liền. Ba năm cuối đời, Thánh nhân bị như đóng xuống giường, hoặc ghế, không còn dâng thánh lễ được nữa, chỉ có thể dự lễ thôi. Mấy tháng trước khi lìa trần, Người bị thêm chứng bệnh trong cuống họng, đau đớn đến nỗi mỗi khi Người nuốt một vật gì, thì như nuốt phải gai…
Ở đây, tôi không có ý nói, đang lúc Người bị giày vò trong thân thể, thì đồng thời Người phải chịu khốn khó trong linh hồn, không ai có thể nói được.
Nhưng Thánh nhân luôn luôn vui vẻ tuân theo Thánh ý Chúa… Không ai thấy Người tỏ dấu buồn phiền, hoặc thốt ra một lời ta thán… dù kẻ giúp việc có biết cách giúp, hay không, dù thuốc và của ăn có tử tế hay không, không khi nào Người nói ra một lời, hoặc có một cử chỉ bất mãn… Người luôn luôn nói ra những lời tuân theo Thánh ý Chúa… Một lần Người nói: “Một giờ chịu đau đớn cho nên, để tuân theo Thánh ý Chúa, thì quý hơn tất cả các kho báu thế gian. Một người nghèo khó mà mến Chúa, thì chết bằng yên sung sướng hơn tất cả những người giàu có thế gian, nhưng không mến Chúa… Lạy Chúa con cám ơn Chúa, vì đã thương gửi sự đau đớn cho con… và cho con chịu những mũi nhọn đâm vào mình… chúc tụng Chúa… Chúa không ném con xuống hỏa ngục, đã là may cho con lắm rồi… Con sẵn sàng chịu hết mọi sự đau đớn. Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn định về con thế nào, tùy Thánh ý Chúa… ”.
Tôi không thể chép lại đây những lời như những lời trên, vì nhiều quá, nó có thể dầy bằng quyển sách này… Hy vọng bấy nhiêu cũng đủ.