TẤM BÁNH CHO ĐỜI - Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật và Lễ Trọng Năm B - Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
+ Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
2021-11-07T07:58:14-05:00
2021-11-07T07:58:14-05:00
https://linhmucmen.com/news/tgm-giuse-ngo-quang-kiet/tam-banh-cho-doi-suy-niem-tin-mung-chua-nhat-va-le-trong-nam-b-tgm-giuse-ngo-quang-kiet-1237.html
https://linhmucmen.com/uploads/news/2021_10/tgm-kiet.jpg
Linh mục Mễn
https://linhmucmen.com/uploads/logo_1.png
Thứ bảy - 02/10/2021 07:00
TẤM BÁNH CHO ĐỜI - Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật và Lễ Trọng Năm B - Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
TẤM BÁNH CHO ĐỜI
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật và Lễ Trọng Năm B
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
------------------
MV 1-B: TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN.. 3
MV 2-B: DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA.. 4
MV 3-B: CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG.. 6
MV 4-B: KHIÊM NHƯỜNG ĐÓN NHẬN.. 8
Lễ GS Đêm-B: NOEL CHIA SẺ.. 10
Lễ GS Rạng Đông-B: HÃY CỨU LẤY GIA ĐÌNH, HÃY CỨU LẤY TRẺ THƠ.. 12
Lễ GS Ban Ngày-B: LỜI ĐÃ THÀNH XÁC PHÀM... 14
Lễ Thánh Gia-B: TRƯỜNG HỌC THÁNH GIA.. 16
Lễ Hiển Linh-B: CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN CHÍ 17
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa-B: SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI CHỊU PHÉP RỬA.. 19
Thứ Tư lễ Tro-B: HÃY XÉ LÒNG.. 21
MC 1-B: VÀO HOANG ĐỊA.. 24
MC 2-B: SỐNG THÂN MẬT VỚI CHÚA.. 26
MC 3-B: THANH TẨY ĐỀN THỜ.. 27
MC 4B: NHÌN LÊN ÁNH SÁNG.. 30
MC 5-B: HẠT LÚA MỤC NÁT.. 31
Lễ Lá-B: NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI 33
Thứ Năm Tuần Thánh-B: BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH BÍ TÍCH CỦA TÌNH YÊU.. 35
Thánh lễ Tiệc ly-B: BÀI HỌC RỬA CHÂN.. 37
Thứ Sáu Tuần Thánh-B: CHIẾN THẮNG CỦA THẬP GIÁ.. 39
Lễ Vọng PS-B: ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI 40
PS 1-B: NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH.. 42
PS 2-B: CỘNG ĐOÀN PHỤC SINH.. 44
PS 3-B: NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG.. 45
PS 4-B: MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 47
PS 5-B: SINH NHIỀU HOA TRÁI 49
PS 6-B: YÊU NHƯ CHÚA YÊU.. 51
Lễ Chúa Thăng Thiên-B: NGƯỚC MẮT NHÌN TRỜI 53
PS 7-B: ÁC THẦN.. 55
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – B: RA ĐI – THA THỨ.. 57
TN 02-B: HÀNH TRÌNH ƠN GỌI 59
TN 03-B: ĐỔI MỚI CUỘC ĐỜI 61
TN 04-B: MA QUỶ THỜI ĐẠI MỚI 63
TN 05-B: ĐI GIEO TIN MỪNG.. 65
TN 06-B: BỆNH PHONG TÂM HỒN.. 66
TN 07 : ĐỨC TIN TRONG SÁNG.. 68
TN 08-B : BÌNH MỚI – RƯỢU MỚI 70
TN 09-B : ĐIỀU CHÍNH - ĐIỀU PHỤ.. 72
TN 10-B : CHIẾN ĐẤU.. 75
TN 11-B : NƯỚC THIÊN CHÚA.. 76
TN 12-B : THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI 78
TN 13-B : CẢM NGHIỆM VỀ CHÚA.. 80
TN 14-B : ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI 82
TN 14-B (2) : THIÊN KIẾN.. 84
TN 15-B : HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ.. 85
TN 16-B : NHỊP SỐNG KITÔ HỮU.. 88
TN 17-B : ĐÀO TẠO TRÁI TIM... 89
TN 18-B : BÁNH ĐÍCH THỰC.. 92
TN 19-B : BÁNH BỞI TRỜI 94
TN 20-B : THỊT TA LÀ CỦA ĂN.. 96
TN 21-B : HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN.. 97
TN 22-B : VỚI CẢ TÂM TÌNH.. 99
TN 23-B : HÃY MỞ RA.. 101
TN 24-B : TƯỞNG LẦM... 103
TN 25-B: NỀN VĂN MINH MỚI 105
TN 26-B: QUYẾT LIỆT DỨT KHOÁT VỚI TỘI LỖI 107
TN 27-B: HÔN NHÂN TRONG TÌNH YÊU.. 109
TN 29-B: HIẾN THÂN PHỤC VỤ.. 112
TN 30-B: TỚI NGUỒN SỰ SÁNG.. 113
TN 31-B: ĐẦU TƯ VÀO NƯỚC TRỜI 115
TN –B: 32 ÁNH MẮT THIÊN CHÚA.. 117
TN 34-B: Lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. 120
Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa 1/1: GHI NHỚ VÀ SUY NIỆM... 122
Lễ đầu năm dương lịch: VUA HÒA BÌNH.. 124
Tết Cổ Truyền Dân Tộc: NHỮNG NÉT ĐẸP TIN MỪNG CỦA NGÀY TẾT.. 126
Lễ Chúa Ba Ngôi-B: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU.. 128
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô-B: NÀY LÀ MÁU THẦY.. 130
Lễ 2 Thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ: VIẾNG MỘ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ.. 132
Lễ Chúa Hiển Dung: BIẾN HÌNH.. 134
Lễ Đức Mẹ Mân Côi: XIN VÂNG.. 136
Khánh Nhật Truyền giáo: HÃY LOAN BÁO TIN MỪNG.. 138
Khánh Nhật Truyền Giáo: TRUYỀN GIÁO THEO GƯƠNG MẸ TÊRÊXA.. 140
Lễ Các Thánh Nam Nữ: AI CŨNG CÓ THỂ NÊN THÁNH.. 142
Lễ Các Thánh Tử đạo Việt Nam: CON ĐƯỜNG HẠT LÚA.. 144
-------------------
MÙA VỌNG & GIÁNG SINH
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 63,16b-17.19b ; 64,2b-7
- 1Cr 1,3-9
- Mc 13,33-37
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt miền Trung. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Người.
Tỉnh thức là hành động. Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào làm việc. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ li bì, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Chúa. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Chúa là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ. Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Chúa Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Tỉnh thức là đừng mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta mê ngủ?
2. Tỉnh thức là tỉnh táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi Chúa đến?
3. Tỉnh thức là phải hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm những gì?
4. Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để tỉnh thức?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 40,1-5.9-11
- 2Pr 3,8-14
- Mc 1,1–8
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong những trận lũ lụt vừa qua, nhiều người bị kẹt không đi đến được những nơi muốn đến. Đường xá bị hư hỏng, ngập lụt không đi lại được. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay. Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người.
Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt. Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau. Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề. Tâm hồn ta gồ ghề vì những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, thánh Gioan Tẩy giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến.
Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.
Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Tẩy giả đề nghị cho ta phương thế rất tốt.
Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết thánh ý để ta thi hành. Chúa Giêsu, trước khi đi rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm thánh ý Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.
Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Thánh Gioan Tẩy giả đã sống theo chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng sinh ngự đến.
Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Con đường tâm hồn tôi có những đồi núi, vực sâu, khúc quanh nào cần sửa chữa?
2. Tôi có cần đến những phương thế của Thánh Gioan Baotixita không?
3. Tôi sẽ làm gì trong tuần này để thực hành Lời Chúa?
4. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi tâm đắc nhất câu nào?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA:
- Is 61,1-2a.10-11
- 1Tx 5,16-24
- Ga 1,6.8.19–28
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Tẩy giả là chứng nhân của Chúa Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của Ngài. Nhìn vào cuộc đời Ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh Ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiếng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng Ngài không xứng đáng xách dép cho Đấng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo Ngài một làn ánh sáng. Ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của Ngài càng có sức thuyết phục. Ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời Ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Tẩy giả còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của Ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của Ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niềm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Tẩy giả chờ đón chính là Chúa Giêsu Kitô mà Ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên Ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên Ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hêrôđê không được phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Chúa Giêsu Kitô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với ngài, ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Chúa Giêsu, nên ngài nói: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người” (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo ngài, nhưng ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Chúa Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Chúa Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên Ngài nói: “Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Thánh Gioan Tẩy giả thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Tẩy giả để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến. Xin thánh Gioan Tẩy giả giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Thánh Gioan Tẩy giả luôn ý thức mình là chứng nhân của Chúa. Tôi có luôn ý thức mình là chứng nhân của Chúa không?
2. Vì ý thức mình là chứng nhân của Chúa, thánh Gioan Tẩy giả đã luôn khiêm nhường, quên mình, trung thực. Còn tôi, tôi đã làm gì?
3. Trong đời sống, tôi để ý làm chứng cho Chúa nhiều, hay tôi chỉ để ý làm chứng cho bản thân mình?
4. Trong tuần này, tôi quyết định làm gì để làm chứng cho Chúa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 2S 7,1-5.8b-12.14a-16
- Rm 16,25-27
- Lc 1,26–38
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trương Lương là một tướng tài thời Hán Sở tranh hùng. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: “Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta”. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy, không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương:
“Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta”. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: “Thằng bé này dạy được đây”. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elizabeth. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elizabeth đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên Chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa “Xin vâng”, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do Thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên Chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa “Xin vâng”, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu Thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giêsu trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?
2. Từ bỏ ý riêng có dễ không?
3. Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?
4. Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 9,1-6
- Tt 2,11-14
- Lc 2,1-14
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mỗi dịp Noel, tôi thường đứng trước máng cỏ, nhìn ngắm Chúa Giêsu bé thơ và hỏi xem Người muốn nhắn gửi điều gì nhân ngày lễ Giáng sinh trong tình hình xã hội hiện tại. Năm nay, khi nhìn ngắm Người rét run giữa mùa đông lạnh giá, tôi chợt thấy tái hiện cảnh những đồng bào nạn nhân bão lụt trong năm qua. Và tôi nghe tiếng Người mời gọi “CHIA SẺ”.
Chia sẻ không phải là bố thí, cũng không phải là ban ơn. Bố thí và ban ơn là đứng từ trên cao ban xuống và chỉ cho những gì dư thừa. Chia sẻ là đứng ngang hàng và cho đi những gì chính bản thân cần thiết. Hiểu như thế, Chúa Giêsu chính là mẫu gương chia sẻ. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người có thể ngự trên trời, dùng quyền năng mà cứu độ nhân loại. Nhưng vì muốn chia sẻ với nhân loại, nên Người đã xuống thế làm người để ở với nhân loại. Sự chia sẻ của Người đạt đến tột đỉnh vì Người không chỉ chia sẻ một phần nhưng đã tặng ban tất cả bản thân cho nhân loại. Vì muốn chia sẻ, Người đã tự huỷ mình khỏi thân phận Thiên Chúa. Vì muốn chia sẻ, Người đã không ngần ngại chọn xuống chỗ bé nhỏ rốt cùng của thân phận con người. Vì muốn chia sẻ, nên Người đã tự nguyện nếm cảm hết những đau khổ mà con người có thể gặp. Ta đau khổ vì cảnh nghèo ư? Chính Người cùng chia sẻ với ta cảnh khó nghèo, đói khát, lạnh lẽo. Ta đã chịu nhiều đau khổ ư? Chính Người chia sẻ với ta trong những thất bại, bị phản bội, bị hành hạ và chết cô đơn nhục nhã. Người chia sẻ với mọi người dù ở những hoàn cảnh khốn cùng, khắc nghiệt nhất của cuộc sống.
Nằm trong hang đá nghèo hèn, với bầy chiên bò, giữa đêm đông giá rét, Chúa Giêsu trở nên một lời mời gọi chia sẻ. Giờ đây, Người chỉ là một em bé sơ sinh yếu ớt cần đến sự giúp đỡ của ta. Đêm đông lạnh lẽo, Người cần cả đến hơi thở của con bò để sưởi ấm tấm thân. Khi trốn sang Ai Cập, Người cần nhờ con lừa chở đi. Khi còn thơ bé, Người cần bàn tay săn sóc nâng niu của Đức Mẹ và thánh Giuse. Khi đi rao giảng, Người cần có bạn bè giúp đỡ. Khi cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, Người bộc bạch nỗi buồn mong được các môn đệ an ủi. Khi vác thánh giá, Người yếu nhược phải nhờ đến ông Simon giúp sức. Người hóa thân làm một con người yếu ớt nhất, túng thiếu nhất, khốn cùng nhất, đau khổ nhất, để mời gọi ta biết mở rộng tâm hồn chia sẻ. Người sẵn sàng đón nhận sự giúp đỡ, dù rất bé nhỏ, kể cả của súc vật, để mời gọi ta quảng đại.
Hôm nay, lời mời gọi chia sẻ ấy vẫn vang lên rất thiết tha, rất khẩn cấp. Chúa Giêsu vẫn đang lên tiếng kêu cứu qua những trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, không những không được chăm sóc, không có cơ hội đến trường, mà còn bị hất hủi, bị lạm dụng, bị xâm hại. Chúa Giêsu vẫn đang âm thầm nhẫn nhục trong số phận hẩm hiu của những người bị quên lãng. Chúa Giêsu vẫn đang oằn vai gánh nặng trong kiếp lầm than của những người nghèo nàn, vất vả vật lộn với cuộc sống. Chúa Giêsu vẫn đang quằn quại trong những tấm thân gầy mòn bị cơn bệnh nan y gặm nhấm. Chúa Giêsu vẫn đang tức tưởi trong những người thất bại, không tìm thấy tia sáng hy vọng cho tương lai.
Trong năm nay, nhiều thiên tai trên thế giới đang làm xuất hiện những khuôn mặt mới của Chúa Giêsu với những lời kêu cứu khẩn cấp. Đây Chúa Giêsu bé thơ với khuôn mặt tái xanh vì đói vì lạnh. Kia Chúa Giêsu bị đóng đinh vào mái nhà chết chìm dưới dòng nước lũ. Đó Chúa Giêsu hốt hoảng nhìn những người thân yêu bị dòng nước oan nghiệt cuốn đi. Tất cả là một hang đá Bêlem, trong đó Chúa Giêsu đang cất lời mời gọi chia sẻ.
Hãy mở rộng tâm hồn để chia sẻ, Vì khi mở rộng tâm hồn chia sẻ, ta đón nhận ơn Chúa. Chính khi mở rộng tâm hồn để chia sẻ, ta đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu bé thơ trong hang đá Bêlem.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ, xin dạy con biết sống trọn vẹn mầu nhiệm giáng sinh bằng mở lòng ra chia sẻ với mọi người.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Bạn có thái độ nào đối với những nạn nhân thiên tai? Dửng dưng? Cảm thương trong lòng? Thực sự chia sẻ?
2.Nếu bạn có mặt khi Chúa sinh ra, bạn nghĩ đã có thể làm gì? Như Hêrôđê? Như các luật sĩ? Như mục đồng?
3.Nếu hôm nay Chúa sinh ra, bạn nghĩ Chúa đang sinh ra ở đâu? Trong thành phố hay ở thôn quê? Trong dinh thự hay trong túp lều? Nơi những người dư giả hay nơi những người túng thiếu?
4.Bạn sẽ chia sẻ với Chúa Giêsu khó nghèo bằng việc làm cụ thể nào ngay hôm nay?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 62,11-12
- Tt 3,4-7
- Lc 2,15-20
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nhìn vào hang đá ai cũng phải chạnh lòng. Một trẻ thơ mới sinh ra đời đã phải vất vả lầm than. Không có nhà cửa giường chiếu đã đành. Lại còn phải ở chung với súc vật. Đối với một con người bình thường như thế đã là khốn khổ quá mức. Đối với Thiên Chúa làm người thì lại càng không thể chấp nhận được.
Chịu cảnh lầm than khốn khổ trước sự vô tình của đồng loại chưa đủ, Chúa Giêsu bé thơ còn phải chịu cảnh khốn khổ vì sự độc ác của bạo vương Hêrôđê. Hêrôđê nghe tin có Đấng Cứu Thế ra đời, sợ mất chức quyền nên đã cho quân đội truy tìm để tiêu diệt. Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria đã phải bồng bế Hài nhi Giêsu còn non nớt chạy trốn sang Ai Cập.
Tuy khung cảnh hang đá có thô sơ đạm bạc, nhưng nhìn vào vẫn thấy ấm cúng. Một bầu không khí thương yêu toả ra bao trùm cảnh tối tăm nghèo khổ hôi hám. Ánh mắt thánh Giuse, ánh mắt Đức Mẹ, ánh mắt Chúa Giêsu bừng lên tình thương yêu, sự quên mình, sự quan tâm. Đó là bầu khí gia đình yên vui đầm ấm. Hạnh phúc vẫn dâng đầy dù trong cảnh khó khăn túng thiếu.
Ta không thể mường tượng được cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu sẽ ra sao nếu không có gia đình. Chính gia đình tốt đẹp đã đưa hài nhi Giêsu vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Chính gia đình vui tươi đầm ấm đã giúp hài nhi Giêsu triển nở nên người, hoàn thành sứ mạng cứu nhân độ thế.
Gia đình là chiếc nôi êm ái nhất nâng niu giấc ngủ trẻ thơ. Gia đình là lương thực bổ dưỡng nhất giúp phát triển trẻ thơ. Gia đình là thành trì vững chắc nhất để bảo vệ trẻ thơ.
Nhìn ngắm Chúa Giêsu sơ sinh trong máng cỏ nghèo hèn, ta không thể không nghĩ tới biết bao trẻ thơ sinh ra hôm nay đang phải chịu cảnh đói nghèo thiếu thốn. Không chỉ là thiếu thốn vật chất mà còn thiếu thốn tình thương. Không chỉ thiếu thốn nhà cửa mà còn thiếu một mái gia đình. Không chỉ bị giá lạnh của thời tiết mà còn bị giá lạnh vì thiếu vòng tay ôm ấp vỗ về.
Không có cảnh nghèo nào khốn cùng hơn cảnh trẻ thơ thiếu tình thương. Không có mái nhà nào rách nát hơn mái gia đình tan vỡ. Không có mùa đông nào giá lạnh hơn mùa đông của trái tim. Muốn cứu lấy trẻ thơ phải cứu lấy gia đình. Gia đình là tương lai của trẻ thơ. Gia đình là tương lai của thế giới.
Nhìn cảnh bạo vương Hêrôđê săn đuổi Chúa Giêsu bé thơ, ta không khỏi nghĩ đến biết bao trẻ thơ hôm nay cũng đang bị săn đuổi. Những bạo vương thời đại mới chỉ vì tiền bạc lợi nhuận mà giết chết biết bao đời trẻ thơ. Vì tư lợi các bạo vương thời mới không ngần ngại phát tán nọc độc chết chóc trong các sách báo, phim ảnh xấu. Vì lợi nhuận những Hêrôđê thời mới đã giết biết bao đời trẻ thơ trong nạn nghiện ngập xì ke ma tuý. Để phục vụ quyền lợi của cá nhân, các bạo vương thời mới không ngần ngại khai thác trẻ thơ trong lãnh vực kinh doanh. Hãy cứu lấy trẻ thơ khỏi tay các bạo vương thời mới. Trẻ thơ là tương lai của chúng ta. Hãy cứu lấy tương lai chúng ta.
Chúa Giêsu vẫn tươi cười trong hang đá lạnh lẽo tối tăm hôi hám vì bên cạnh Người còn có một gia đình yên vui đầm ấm, có tình yêu thương của Đức Mẹ Maria, của thánh Giuse. Yêu thương trẻ thơ, trân trọng tương lai của Giáo hội, của thế giới, ta hãy cầu nguyện cho các gia đình, đặc biệt trong năm nay, năm mà Giáo phận đã dành để cầu nguyện, học hỏi và canh tân gia đình công giáo.
Xin Chúa Giêsu bé thơ thương đến các trẻ em hôm nay, ban cho các em được sự quan tâm chăm sóc của mọi người. Xin Người gìn giữ các gia đình được yên vui đầm ấm để tương lai trẻ thơ được tươi sáng.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Súc vật sinh ra đã có thể kiếm ăn. Nhưng con người sinh ra cần có gia đình. Bạn nghĩ thế nào về điều này?
2.Gia đình thời nay đang gặp những khó khăn nào?
3.Nhờ đâu Chúa Giêsu bé thơ có thể sống sót, trưởng thành và hoàn thành công cuộc cứu chuộc?
4.Trẻ em hôm nay đang gặp nhiều nguy cơ. Bạn sẽ làm gì để bảo vệ trẻ em?
--------------------------------
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 52,7-10
- Dt 1,1-6
- Ga 1,1-18
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Lời nói thật quan trọng trong đời sống. Nhờ lời nói ta có thể bộc bạch nỗi lòng. Nhờ lời nói ta hiểu được người khác. Chúa Giêsu chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã thành xác phàm. Qua Hài nhi Giêsu trong hang đá Bêlem, ta hiểu được phần nào tâm tình của Thiên Chúa muốn ngỏ với loài người.
Lời của Thiên Chúa là Lời Yêu Thương. Một trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ. Đó là gì nếu không phải là tình yêu. Vì yêu thương Thiên Chúa đã muốn nói với nhân loại bằng chính ngôn ngữ của nhân loại. Không phải chỉ nói bằng lời nói nhưng còn bằng cả thân xác. Lời Thiên Chúa trong thân xác trẻ thơ. Thật gần gũi. Thật yêu thương. Vì yêu thương Thiên Chúa đã vượt ngàn trùng để đến chia sẻ kiếp người. Nếu yêu thương là muốn ở gần và muốn hi sinh cho người mình yêu thì Chúa Giêsu bé thơ trong hang đá Bêlem chính là một lời yêu thương bằng xương bằng thịt. Một lời yêu thương có thể chạm tới được. Thân xác bé bỏng hôm nay rét run trong làn gió lạnh, mai sau sẽ run rẩy dưới những ngọn roi, co giật vì những nhát búa, tả tơi trên thánh giá. Tất cả đều là lời ngỏ của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lời của Thiên Chúa là Lời Cứu Độ. Tình yêu của Thiên Chúa không phải là cảm tính, nhưng là một chương trình lâu dài. Lời Thiên Chúa nói với loài người không phải để làm vui tai, nhưng đem đến ơn cứu độ. Trong kinh Tin Kính chúng ta đọc: “Vì loài người chúng tavà để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Vâng, Chúa xuống thế làm người chính là để cứu chuộc chúng ta. Chúa xuống thế làm người để biến đổi thân phận con người. Ngài trở nên bé nhỏ để ta được lớn mạnh. Ngài trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Ngài xuống thế làm người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thân xác bé bỏng của Hài nhi Giêsu là tất cả niềm hi vọng được cứu độ của loài người. Lời Chúa nói với người bất toại: “Tội của con đã được tha” (Mt 9,2), và lời hứa với người trộm lành: “Hôm nay con sẽ ở trên thiên đàng với ta” (Lc 23,43) đã bắt đầu từ hang đá Bêlem.
Lời của Thiên Chúa là Lời Soi Sáng. Trong tội lỗi, định mệnh của con người bị bế tắc. Tội lỗi là bóng tối bao phủ khiến ta mất phương hướng không biết đi về đâu. Con người đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Ngôi Lời Thiên Chúa từ trời xuống để khai thông định mệnh con người. Ngôi Lời Thiên Chúa mặc lấy xác phàm để làm cho cuộc đời con người có ý nghĩa. Người từ trời xuống thế để mở cho ta đường về trời. Người đã chiếu ánh sáng vào đêm tối loài người. Ai đi theo Người là đi trong ánh sáng. Ánh sáng dẫn đưa tới sự thật và sự sống.
Từ ngàn xưa Thiên Chúa đã dùng đủ mọi người, mọi cách để ngỏ lời với nhân loại. Hôm nay, Người muốn nói với ta qua Con của Người. Nhưng Lời Yêu Thương ấy thì thầm quá, chỉ trái tim rộng mở mới có thể lắng nghe. Lời Cứu Độ ấy nhẹ nhàng quá, chỉ tấm lòng khao khát mới có thể đón nhận. Lời Ánh Sáng ấy sâu thẳm quá, chỉ những tâm hồn thiện chí mới hiểu thấu ý nghĩa. Hãy mở rộng trái tim như Đức Mẹ và thánh Giuse để ta nghe được lời yêu thương của Thiên Chúa. Hãy có tấm lòng khao khát như các mục đồng để ta nhận được ơn cứu độ. Hãy có tâm hồn thiện chí như ba nhà đạo sĩ để ta hiểu được ý nghĩa lời Chúa soi sáng hướng dẫn cuộc đời ta.
Lạy Chúa Cha từ ái, xin mở trái tim con, mở tâm trí con, mở linh hồn con để con lắng nghe được tiếng Chúa, để con đón nhận Chúa Giêsu là Lời của Cha, và để con cũng được hạnh phúc trở thành Con của Cha.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Lời đã thành xác phàm. Bạn có nghe được Lời Chúa nói với bạn qua Hài nhi Giêsu bé nhỏ nằm trong máng cỏ không?
2.Bạn có hiểu được tâm trạng của những người nói không nên lời không?
3.Bạn có quan tâm đến những tâm tư thầm kín của những người thân không?
4.Hôm nay bạn nghe Chúa nói với bạn điều gì?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- St 15,1-6 ; 21,1-3
- Dt 11,8.11-12.17-19
- Lc 2,22-40
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Một trong những lo âu hàng đầu hiện nay của các bậc cha mẹ là lo chạy trường cho con. Làm sao tìm được trường tốt không những để con cái học giỏi, mà còn rèn luyện đạo đức, tránh khỏi các tệ nạn xã hội.
Hôm nay Hội Thánh giới thiệu với chúng ta ngôi trường lý tưởng, một mô hình đào tạo thành công. Đó là Thánh Gia Nazareth.
Thật vậy, cứ đọc câu kết thúc bài Tin Mừng vừa nghe: “Còn Hài nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” cha mẹ nào mà không nức lòng mong cho con cái mình được như thế. Thánh Gia đã thành công trong việc đào tạo. Thánh Gia đã trở thành ngôi trường kiểu mẫu giúp phát triển con người toàn diện. Không chỉ giúp phát triển thân xác, mà còn trí tuệ và nhất là đạo đức.
Qua trình thuật Tin Mừng, ta có thể thấy vài nét trong chương trình đào tạo của ngôi trường Thánh Gia.
Đào tạo lương tâm
Việc Thánh Gia dâng con trong đền thờ là một việc tự nguyện. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng đã tự nguyện tuân thủ lề luật của con người. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa nhưng đã tự nguyện hoà mình vào nhịp sống cộng đoàn. Dâng con không chỉ biểu lộ thái độ khiêm nhường mà còn nói lên một lương tâm trong sáng. Giữ luật cả khi không bắt buộc phải giữ. Giữ luật cả khi không có người kiểm soát. Hoàn toàn với lương tâm, sự tự nguyện.
Đào tạo đức tin
Đường đời đầy bóng tối nghi nan. Để bước đi phải có niềm tin vững mạnh. Thánh gia chính là gương mẫu của gia đình sống đức tin. Dù không hiểu chương trình của Thiên Chúa, Đức Mẹ vẫn cúi đầu xin vâng. Dù không hiểu những sự việc xảy ra, vẫn ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Thánh Giuse, dù không hiểu vẫn chấp nhận sống với Đức Mẹ, vẫn mau mắn thi hành lời Chúa dạy. Như tổ phụ Abraham cứ lên đường dù không biết đi đâu. Cứ vâng lời sát tế dù là cậu con duy nhất bảo đảm cho dòng dõi gia tộc.
Đào tạo đức ái
Đức ái hệ tại việc mở lòng ra trong thái độ dâng hiến. Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ. Abraham sát tế Isaac trên đồi. Dâng con có khác gì dâng mình. Hiến dâng là mở tâm hồn ra vô biên. Hiến dâng là kết hợp với Thiên Chúa. Là nhận thực con cái thuộc về Thiên Chúa, phải đi vào chương trình của Thiên Chúa, phải chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao. Hiến dâng cũng là đến với nhân loại. Việc sát tế Isaac khiến Abraham trở thành Cha của các dân tộc. Việc dâng Chúa Giêsu chỉ kết thúc trên Núi Sọ để đem ơn cứu độ đến cho mọi người như lời Siméon tiên báo.
Một chương trình đào tạo như thế thật cần thiết cho thời đại hôm nay. Khi người ta đã bắt đầu coi trọng lương thực hơn lương tâm. Khi những bóng mây nghi hoặc đang làm chao đảo bao tâm hồn thơ trẻ. Khi chủ nghĩa cá nhân đang hướng tới hưởng thụ ích kỷ, dửng dưng lạnh lùng trước nhu cầu của tha nhân.
Nếu mỗi gia đình trở thành một Thánh Gia, ta sẽ đào tạo được những Giêsu cho thời đại mới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Tương lai nhân loại sẽ đi ngang qua các gia đình”. Thật vậy, tương lai thuộc về giới trẻ. Giới trẻ được đào tạo trong các gia đình. Giới trẻ giống như hạt giống Chúa gieo vào vườn ươm gia đình. Nếu vườn ươm gia đình là thửa đất tốt thì hạt giống sẽ triển nở và nhân loại sẽ gặt được gấp trăm trong mùa gặt tương lai.
Trong Đại hội gia đình lần thứ IV tại Manila, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mong ước các gia đình Kitô hữu trở thành Tin Mừng cho thiên niên kỷ thứ III. Thánh Gia Nazareth đã là Tin Mừng cho nhân loại, đã trao cho nhân loại Tin Mừng sống động, Tin Mừng nguyên bản là Chúa Giêsu Kitô. Nếu các gia đình công giáo chúng ta sống theo gương Thánh Gia Nazareth, chúng ta cũng sẽ trở thành Tin Mừng cho xã hội hôm nay. Và chúng ta cũng có thể gửi tặng cho xã hội hôm nay những người con của chúng ta, là những người công dân tốt đẹp, những phiên bản của Tin Mừng nguyên thuỷ, được đào tạo theo khuôn mẫu Chúa Giêsu Kitô.
Lạy Thánh Gia Nazareth, xin dạy gia đình chúng con sống theo gương Ba Đấng.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Thánh Gia Nazareth đã đào tạo Chúa Giêsu thế nào?
2.Bạn có mong ước được sống trong gia đình Thánh Gia Nazareth không?
3.Bạn tái hiện Thánh Gia Nazareth trong gia đình bạn thế nào?
4.Chúa Giêsu càng lớn lên càng thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và được ân nghĩa. Bạn làm gì để được như Chúa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 60,1-6
- Ep 3,2a.5-6
- Mt 2,1-12
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do Thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu Thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu Thế hạ sinh.
Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông thạo Kinh Thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu Thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh Thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác. Trong khi đó, Chúa Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu Thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp được Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn biết được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn gặp Chúa, phải dấn thân lên đường.
Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các gài là những tâm hồn thiện chí. Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên Chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. Ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là Đức cha Kim ở giáo phận Kontum vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Ba Vua thiện chí ở những điểm nào?
2- Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không? Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế nào?
3- Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa: giảng giáo lý, tranh luận, sống bác ái?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 55,1-11
- 1Ga 5,1-9
- Mc 1,7-11
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Cả ba bài đọc hôm nay đều qui chiếu về Đức Giêsu. Tất cả ba bài đều trình bày cho ta những hình ảnh đẹp về cuộc đời và sứ mạng của Người.
1. Hình ảnh về một Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ
Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Chúa Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hoà mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Chúa Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hoá Gioan khi ông còn trong trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, chối không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
2. Hình ảnh về cuộc giao hoà đất trời
Chính lúc Chúa Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hoà. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
3. Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa
Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Chúa Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.
4. Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa của Chúa Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra. Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta. Ban cho ta cuộc sống thần linh. Cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa. Cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa. Là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.Ta hãy noi gương Chúa Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn Bí tích Rửa tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn có dễ nhận lỗi không?
2- Bạn đã thực sự sống như một người con hiếu thảo đối với Chúa chưa?
3- Ơn phép Rửa tội là gì? Bạn đã sống ơn Phép Rửa tội chưa?
4- Bạn đã thực sự là Tin Mừng cho những người chung quanh chưa?
5- Chúa Giêsu chịu phép rửa trình bày cho ta những hình ảnh nào về Chúa.
--------------------------------
MÙA CHAY & PHỤC SINH
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ge 2,12-18
- 2Cr 5,20 – 6,2
- Mt 6,1-6.16-18
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thầy trò hăng hái lên đường. Đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thầy trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thầy uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thầy ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thầy. Thầy ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thầy đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thầy thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thầy biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro. Và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên Chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào hai ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Người Do Thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối.
Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Tại sao ngày nay Giáo Hội cho ăn chay ít hơn ngày xưa?
2.Hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Câu này có ý nghĩa gì?
3.Khi được xức tro, bạn cần có tâm tình nào?
4.Năm nay bạn sẽ làm gì cụ thể để sống mùa chay?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- St 9,8-15
- 1Pr 3,18-22
- Mc 1,12-15
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma qủy, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Chúa Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma qủy, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai Cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Ápraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới được Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói, cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.
Cuộc chiến đấu thứ hai mà Chúa Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma qủy. Thiên Chúa cho phép ma qủy thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma qủy cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma qủy thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma qủy. Chúa Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma qủy đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma qủy thường là cám dỗ về đức tin. Adong Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Chúa Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma qủy.
Cuộc chiến đấu thứ ba mà Chúa Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Chúa Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường kiêu căng để đi vào con đường khiêm nhường. Từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp. Từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường khó. Từ bỏ con đường vinh quang để đi vào con đường thập giá.Từ bỏ con đường giàu sang để đi vào con đường nghèo hèn. Từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Elia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Chúa Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hi sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Chúa Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma qủy đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma qủy đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên người con hiếu thảo của Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?
2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?
3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu người?
4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- St 22,1-2.9a.10-13.15-18
- Rm 8,31b-34
- Mc 9,2–10
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Chúa Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rời Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi nhìn ngắm dung nhan Chúa Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Chúa Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết Người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hi sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hi sinh Con Một yêu quí của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu của người dám hi sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Chúa Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2- Sống thân mật với Chúa ta sẽ được hiểu biết gì?
3- Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xh 20,1-17
- 1Cr 1,22-25
- Ga 2,13-25
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các dòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe doạ vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hoá, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Chúa Giêsu vào đền thờ và đã thanh tẩy đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1- Người đã thanh tẩy đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hi sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ, dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Chúa Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi đền thờ.
2- Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Chúa Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên đàng”. Những con buôn đưa súc vật vào đền thờ không do lòng yêu mến Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế đền thờ cao trọng, họ đã dùng đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và đền thờ để phục vụ tư lợi.
3- Khi đuổi súc vật ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta. Trước kia người ta dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Chúa Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối như lơi Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Chúa Giêsu đã làm trên thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa” (Dt 10,5-7). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hoà.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ những đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là đền thờ của Chúa.
Trong Mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không?
2- Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không?
3- Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Sbn 36,14-16.19-23
- Ep 2,4-10
- Ga 3,14-21
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Đức Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông khẩn cầu Đức Chúa. Đức Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên, sẽ được sống (Ds 21,4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Chúa Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Chúa Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1- Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do Thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Chúa Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Chúa Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2- Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hi sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Chúa Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dạy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hi sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
3- Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ thánh giá chiếu tỏa sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa sự sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32). Xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2- Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3- Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gr 31,31-34
- Dt 5,7-9
- Ga 12,20-33
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến...Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn... Làm sao mình có thể cho búp non xoè lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ... Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều nay đúng đối với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ giữ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người, những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lai. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để hoàn toàn làm theo ý Chúa. Từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong vườn Giệtsimani. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha đã khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Cứ mỗi lần lớn lên là mỗi lần từ bỏ. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả?
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây cỏ?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 50,4-7
- Pl 2,6-11
- Mc 14,1 - 15,47
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do Thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.
Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Trong thư chung năm 2005, Hội Đồng Giám Mục đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ: “Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9). Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà Nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíctô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
--------------------------------
Thánh lễ làm phép Dầu Thánh
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 61,1-3a.6a.8b-9
- Kh 1,5-8
- Lc 4,16-21
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có thể gọi ngày Thứ Năm Tuần Thánh là ngày của Tình Yêu. Chúa nói những lời chan chứa yêu thương: “Thầy là cây nho, anh em là cành nho” (Ga 15,5); “Anh em hãy nên một như Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha” (Ga 17,20); “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hi sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Chúa thực hành những cử chỉ yêu thương: Lập phép Thánh Thể, hiến cả thân mình cho nhân loại. Phép Thánh Thể tuyên bố cái chết đau thương trên thập giá vì tình yêu. Và thật lạ lùng, Người bưng nước rửa chân cho các môn đệ.
Quả thực, Chúa đã yêu thương đến cùng. Không còn có thể yêu hơn được nữa. Chúa đã làm tất cả những gì có thể để bày tỏ tình yêu thương vô biên của Người. Không thể còn làm gì hơn được nữa.
Lòng yêu thương không muốn ngừng lại, nhưng muốn tiếp tục mãi mãi. Trong ý hướng ấy, Người lập bí tích Thánh Thể. Và để Bí tích Thánh Thể được tiếp tục luôn mãi, Người lập bí tích Truyền Chức Thánh. Các linh mục sẽ tiếp nối tình yêu thương của Người. Trái tim linh mục sẽ tiếp nối nhịp đập của trái tim Người. Các linh mục sẽ đi gieo tình yêu thương của Người đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian.
Như thế, các linh mục được tuyển chọn không phải để cai trị, nhưng để yêu thương, sống và loan báo tình yêu thương. Khi tuyển chọn thánh Phêrô, Chúa Giêsu không dựa vào khả năng của ông mà dựa vào lòng mến của vị tông đồ này. “Phêrô con có mến Thầy hơn những anh em này không” (Ga 21,15). Cũng vì yêu mến, Chúa mới trao phó cho Phêrô sứ mạng chăm sóc đoàn chiên của Chúa.
Để chu toàn nhiệm vụ, các linh mục cần rất nhiều khả năng, nhưng quan trọng nhất chính là khả năng yêu thương. Để làm việc tông đồ, các linh mục cần rất nhiều phương tiện, nhưng nếu thiếu trái tim, tất cả mọi phương tiện sẽ trở thành vô ích. Trái tim là cơ quan đầu não của chức vụ linh mục. Yêu thương là căn tính của linh mục.
Yêu thương để cảm thông. Yêu thương để tha thứ. Yêu thương để phục vụ. Yêu thương để chấp nhận những khác biệt. Yêu thương để biết quên mình.
Các linh mục hiện diện trước mặt Anh Chị Em hôm nay là những người được Chúa tuyển chọn. Các ngài có thể thiếu nhiều khả năng, nhưng chắc chắn các ngài không thiếu khả năng yêu thương.
Vì yêu thương, các ngài đã tình nguyện đến phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và phục vụ anh chị em.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã lập nên chức linh mục. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta các linh mục để chúng ta tiếp tục nhận được tình yêu thương của Chúa.
Hôm nay nhân kỷ niệm ngày Chúa lập bí tích Truyền Chức Thánh. Các linh mục sẽ nhắc lại những lời thề hứa khi chịu chức để sống lại những giây phút ban đầu đầy tình yêu thương. Các ngài muốn múc lấy suối nguồn tình yêu thương từ trái tim Chúa để có thể yêu thương phục vụ Anh Chị Em hữu hiệu hơn.
Anh Chị Em hãy hiệp ý với các ngài. Anh Chị Em hãy cầu nguyện cho các ngài. Anh Chị Em hãy cộng tác với các ngài, để tất cả chúng ta nên một như lòng Chúa mong ước, để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Tại sao có thể gọi Thứ Năm Tuần Thánh là ngày của tình yêu?
2.Đối với Chúa, Linh mục cần năng lực nào nhất?
3.Linh mục phải làm gì để tiếp tục công việc của Chúa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xh 12,1-8.11-14
- 1Cr 11,23-26
- Ga 13,1–15
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chiều thứ Năm Tuần Thánh là một buổi chiều của tình yêu. Cả bầu không khí thấm đẫm tình yêu. Phòng Tiệc ly thật ấm cúng. Từng lời nói, từng cử chỉ của Chúa Giêsu đều trang trọng và đậm đặc sứ điệp tình yêu. Hai cử chỉ nổi bật trong bữa Tiệc ly là Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể và rửa chân cho các Tông đồ.
Thánh Gioan không tường thuật việc lập Phép Thánh Thể, nhưng chỉ tập trung vào việc rửa chân. Việc rửa chân được miêu tả rất tỉ mỉ, rành rọt, từng chi tiết, bằng lời văn trang trọng. Ta hãy đọc lại đoạn tả Chúa Giêsu chuẩn bị rửa chân cho các môn đệ: “Chúa Giêsu đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Người đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ”.
Chúa Giêsu cử hành việc rửa chân một cách trang trọng như cử hành một bí tích. Vì việc rửa chân bổ túc cho bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể được cử hành trong nhà thờ. Việc rửa chân được thực hiện ngoài cuộc đời. Khi rửa chân cho các Tông đồ, Chúa Giêsu có ý dạy ta hãy thực hành đạo không chỉ trong nhà thờ mà còn ngoài xã hội nữa. Bí tích Thánh Thể hướng lòng ta về Chúa. Việc rửa chân hướng lòng ta về con người. Khi rửa chân cho các Tông đồ, Chúa Giêsu có ý dạy ta rằng chỉ mến Chúa thôi thì chưa đủ, cần phải yêu người nữa mới trọn vẹn điều răn Chúa truyền. Bí tích Thánh Thể được cử hành trên bàn thờ. Việc rửa chân được cử hành trên con người. Khi rửa chân cho các Tông đồ, Chúa Giêsu dạy ta rằng con người chính là đền thờ, là bàn thờ của Chúa.
Chúa Giêsu cử hành nghi thức rửa chân một cách trang trọng vì Người kính trọng con người. Đang ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn thắt lưng. Đó là cử chỉ của người đầy tớ. Khi chủ đang ngồi ăn, đầy tớ phải đứng phục vụ. Để việc phục vụ được dễ dàng, đầy tớ phải cởi bỏ áo ngoài, thắt lưng cho gọn gàng. Hãy xem, Người quỳ gối xuống trước mặt môn đệ. Ai nhìn cảnh tượng này mà không xúc động đến ứa lệ. Thiên Chúa quỳ gối trước mặt con người. Thiên Chúa hạ mình phục vụ con người. Thật là một cảnh tượng mà không trí óc nào có thể tưởng tượng nổi. Thật là một sáng kiến mà không có nhà phát minh nào dám ngờ tới. Chưa hết, khi Phêrô lên tiếng hỏi, Chúa Giêsu ngẩng mặt lên để trả lời. Một cảnh tượng khiến những tâm hồn kiêu căng phải vỡ ra tan nát. Thiên Chúa phải ngẩng đầu lên mới đối diện được với con người. Thiên Chúa hạ mình thẳm sâu để tôn vinh con người. Thiên Chúa trân trọng con người, biến con người thành đối tượng phục vụ.
Có thứ phục vụ vì bắt buộc. Có thứ phục vụ vì yêu thương. Chẳng ai có thể bắt buộc Thiên Chúa phục vụ con người. Chính tình yêu thương đã thúc đẩy Người làm điều ấy. Hãy nhìn Người nâng niu bàn chân nhân loại. Những bàn chân đã lầm đường lạc lối. Những bàn chân mang đầy thương tích. Những bàn chân cáu bẩn bụi trần. Người âu yếm kỳ cọ cho sạch mọi đau thương. Người nhẹ nhàng tẩy rửa mọi vết nhơ phản bội. Người dịu dàng phủi đi lớp bụi kiêu căng. Người lặng lẽ xoá đi những dấu vết mặc cảm. Người rửa sạch đôi chân để từ nay nhân loại có thể đứng thẳng lên. Người uốn nắn đôi chân để từ nay con người biết đi vào đường ngay nẻo chính.
Chúa Giêsu không giải thích trước khi rửa chân cho các Tông đồ. Làm rồi Người mới nói. Việc làm của Người không chỉ đi đôi mà còn đi trước lời nói. Người muốn dạy tôi hiểu rằng việc làm quan trọng hơn lời nói. Việc phục vụ tự nó đã là một giải thích sâu xa, dễ hiểu và có sức thuyết phục. Chính việc làm minh chứng một tình yêu chân thành tha thiết.
Chiêm ngắm Chúa rửa chân cho các Tông đồ, tôi hiểu rằng: Thánh lễ không kết thúc ở nhà thờ mà vẫn còn tiếp tục trong cuộc sống. Thánh lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng không kém gì thánh lễ trong nhà thờ, nên cũng phải cử hành một cách trang nghiêm kính cẩn. Lễ vật dâng trên bàn thờ còn thiếu sót nếu tôi chưa dâng trong đền thờ thân xác con người lễ vật yêu mến phục vụ anh em. Cuộc kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể chưa trọn vẹn nếu tôi không kết hiệp với anh em trong tình yêu thương được biểu lộ trong sự phục vụ khiêm nhường. Việc giữ đạo sẽ khập khiễng nếu tôi chỉ tạo được mối liên hệ tốt với Chúa mà không có mối liên hệ tốt với anh em. Tôi sẽ không thực hành ý Chúa nếu tôi chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà không kính trọng con người. Trân trọng con người, quan tâm phục vụ anh em đó là tất cả ý nghĩa của bài học rửa chân mà chúng ta sắp cử hành theo gương Chúa Giêsu Kitô Thầy Chí Thánh.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Rửa chân và bí tích Thánh Thể có liên hệ gì với nhau?
2.Rửa chân có ý nghĩa gì?
3.Tôi phải làm gì để thực hành lời Chúa dạy: các con hãy rửa chân cho nhau?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 52,13 – 53,12
- Dt 4,14-16 ; 5,7-9
- Ga 18,1 - 19,42
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Theo cái nhìn bình thường ở đời, cái chết của Chúa Giêsu là một thất bại lớn. Thánh giá là một tủi nhục đến tột cùng. Nhưng thật ra, cái chết của Chúa Giêsu chính là một cuộc chiến thắng. Thánh giá chính là vinh quang của Chúa.
Đó là cuộc chiến thắng của tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa muốn đem tình yêu ấp ủ nhân loại. Nhưng ma qủy đã gieo hận thù vào thế giới. Hận thù không ngừng tàn phá thế giới. Chúa Giêsu nhập thể đem tình yêu trở lại trần gian. Đi đến đâu Ngài gieo rắc tình thương đến đấy. Các thế lực thù hận vây hãm và muốn tiêu diệt Ngài. Nhưng Người vẫn đáp lại bằng tình yêu.
Rõ nét nhất là trong cuộc khổ nạn. Người bị phản bội, bị ruồng bỏ, bị cáo gian, bị hành hình, bị treo trên thập giá. Cả một bầu khí thù hận vây bọc muốn quật ngã Người. Nhưng Người vẫn đáp lại bằng tình yêu. Yêu cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Yêu cho đến nỗi tha thứ tất cả những xúc phạm đến Người. Yêu cho đến nỗi xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình. Tình yêu của Người đã chiến thắng thù hận.
Đó là cuộc chiến thắng của tự do.
Nô lệ là một tình trạng đáng buồn của nhân loại. Người ta bị nô lệ nhiều cách. Xưa kia người nghèo bị bắt làm nô lệ cho người giàu. Nước yếu bị làm nô lệ cho nước mạnh. Ngày nay tình trạng nô lệ như thế đã giảm. Nhưng lại xuất hiện những hình thức nô lệ mới. Nô lệ tiền bạc. Nô lệ danh vọng. Nô lệ chức quyền. Nô lệ lạc thú. Nô lệ những bản năng thấp hèn.
Chúa Giêsu hoàn toàn tự do khi tự nguyện xuống thế làm người. Người sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo hèn, để hoàn toàn tự do đối với tiền bạc, với những nhu cầu. Người tự do đi vào cái chết để không nô lệ cho thói ham sống sợ chết. Người chấp nhận tủi nhục đau thương để không còn nô lệ vào dư luận, những danh vọng hão huyền ở đời. Chết trần trụi, Chúa Giêsu trở thành người tự do nhất, chiến thắng được tất cả mọi thứ nô lệ trói buộc con người.
Đó là cuộc chiến thắng của sự sống.
Tội lỗi gieo sự chết vào thế gian. Không chỉ cái chết thể xác. Mà nguy hiểm nhất chính là cái chết của tâm hồn. Cả một nền văn hoá sự chết đang làm nhân loại tàn lụi. Có những lương tâm đã chết trong thói tham lam ích kỷ. Có những tình nghĩa đang chết trong sự ghen ghét hận thù. Có những niềm tin đang chết trong sự hoang mang nghi ngờ. Có những niềm hi vọng đang chết trong sự tuyệt vọng.
Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi. Cái chết của Người mở ra một đời sống mới: đời sống cởi mở, vị tha; đời sống yêu thương tha thứ, đời sống tràn đầy tin yêu, hi vọng. Chúa Giêsu nâng đời sống ta lên sự sống của con cái Thiên Chúa. Nên Núi Sọ là kinh thành chiến thắng. Thập giá là ngai toà chiến thắng. Vành gai là triều thiên chiến thắng. Chiến thắng của tình yêu, của sự tự do, của sự sống. Đó là những giá trị cao quí nhất của con người. Chúa Giêsu, qua cái chết của Người, đã phục hồi con người, phục hồi những giá trị cao đẹp của con người, làm cho con người xứng đáng là người, còn hơn thế nữa, làm con Thiên Chúa tình yêu, tự do và hằng sống.
Tạ ơn thánh giá Chúa. Tạ ơn Chúa đã chết để cứu chuộc con. Xin cho con biết noi gương Chúa, chết cho con người cũ để được hưởng tình yêu, tự do và sự sống của Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Bạn hiểu thánh giá chiến thắng thế nào?
2.Tại sao ta thường thất bại khi đương đầu với các cuộc tấn công của ma quỷ?
3.Bạn muốn làm gì để đi vào đường thánh giá của Chúa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- St 1,1 – 2,2
- St 22,1-18
- Xh 14,15 – 15,1a
- Is 54,5-14
- Is 55,1-11
- Br 3,9-15.32 – 4,4
- Ez 36,16-17a.18-28
- Rm 6,3-11
- Mc 16,1-8
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm trong bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Chúa Giêsu chưa phục sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến phục sinh tượng trưng cho Chúa Kitô phục sinh. Chúa Kitô phục sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Chúa Kitô phục sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết. Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình, Chúa Kitô đã phải chiụ tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết ần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta. Để ánh sáng phục sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới. Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma qủy và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, Chúa đã chiến thắng ma qủy, xin giúp chúng con chiến đấu với ma qủy, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Chúa Kitô phục sinh chiếu lên những làn ánh sáng nào?
2.Thế giới hôm nay còn những bóng tối nào?
3.Trong bạn còn những bóng tối nào?
4.Bạn sẽ làm gì để thoát khỏi bóng tối? Và đi vào ánh sáng phục sinh?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 10,34a.37-43
- Col 3,1-4
- Ga 20,1-9
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúa Kitô đã phục sinh. Đó là niềm vui của chúng ta. Còn hơn thế nữa, đó là đức tin của chúng ta, đó là niềm hi vọng của chúng ta. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh của chúng ta có cơ sở vững chắc ở những bằng chứng khác nhau.
Có bằng chứng tiêu cực của các lính canh mộ. Khi an táng Chúa Giêsu, các thượng tế đã cẩn thận xin Philatô cho đóng cửa mộ bằng một phiến đá lớn rất nặng rồi cho niêm phong và cắt cử lính canh cẩn thận. Nhưng khi Chúa sống lại, ánh sáng rực rỡ chiếu lên chói lòa, cửa mộ bật tung, lính canh hoảng sợ chạy trốn. Sau đó lính canh đi loan tin rằng: Trong khi chúng tôi ngủ, các môn đệ đến lấy trộm xác Chúa. Ai cũng biết đó là tin giả. Vì các môn đệ còn đang rất sợ hãi, trốn chạy, làm sao dám lấy trộm xác. Thánh Augustinô đã bài bác điều này khi nói: Lính canh ngủ hay thức. Nếu họ thức thì làm sao họ để cho các môn đệ lấy trộm xác Chúa. Nếu họ ngủ, làm sao họ biết là các môn đệ lấy trộm xác Chúa.
Có những bằng chứng tích cực của các môn đệ. Sáng sớm, ba người đầu tiên đã đến mộ và không thấy xác Chúa. Bà Mađalêna hốt hoảng cho rằng người ta đã lấy mất xác Chúa. Phêrô vào trước nhưng chưa có ý kiến gì. Gioan vào sau. Ông đã thấy và đã tin. Ông thấy gì? Ông thấy khăn che đầu và khăn liệm xếp đặt gọn gàng trong mộ. Là người môn đệ được Chúa yêu thương ông có một trực giác đặc biệt. Hơn nữa ông đã biết rõ thói quen của Chúa. Nhìn khăn liệm xếp đặt gọn gàng, ông nhận ra thói quen đó. Tuy nhiên niềm tin ban đầu còn mơ hồ. Niềm tin chỉ chắc chắn nhờ được củng cố bằng việc trực tiếp nhìn thấy Chúa.
Sau ngày phục sinh, Chúa hiện ra nhiều lần với nhiều người. Hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín. Hiện ra với Tôma và cho ông xem các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn. Hiện ra với hai môn đệ đi đường Emmaus. Hiện ra trên bờ biển và chỉ dẫn cho các môn đệ đánh một mẻ cá lạ lùng. Nhưng có lẽ cuộc hiện ra có tác động mãnh liệt nhất là với Phaolô. Thuở ấy Phaolô còn có tên là Saolê, một người Do Thái thù ghét Chúa Giêsu, hăng say đi tìm bắt những người tin Chúa. Ở Damas, ông bị một làn ánh sáng chói lọi chiếu vào khiến mù mắt. Con ngựa hất ông ngã lăn xuống đất. Và có tiếng từ trời phán bảo: “Saolê, Saolê, tại sao ngươi tìm bắt ta”. Hoảng sợ Saolê thưa: “Thưa ngài, ngài là ai”. Tiếng từ trời trả lời: “Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt”. Từ đó Saolê tin vào Chúa Kitô Phục sinh, trở thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành đi loan Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Những kết quả của việc Chúa Phục sinh được thấy rõ ràng. Trước hết là sự đột biến nơi các môn đệ. Ngày Chúa chịu chết, các ông là những người nhút nhát, trốn chạy, thậm chí còn phản bội, chối Chúa. Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn, các ngài thay đổi một cách mãnh liệt. Đang nhút nhát, ẩn trốn bỗng hiên ngang xuất hiện ở chốn công khai. Đang phản bội, chối Chúa bỗng hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Đang sợ hãi bỗng trở nên can đảm lạ thường. Không những vui mừng được chịu đau khổ vì Chúa mà còn sẵn sàng chịu chết vì Chúa. Chắc chắn các ngài đã được gặp Chúa nên con người các ngài đã biến đổi tận gốc rễ. Chắc chắn các ngài đã gặp Chúa nên lời chứng của các ngài có sức thuyết phục.
Thật vậy, làm sao những người tín hữu đầu tiên tin vào lời chứng của các tông đồ đến nỗi sẵn sàng bỏ của cải làm của chung, sẵn sàng chịu sống chui rúc, trốn chạy cuộc bách hại của đế quốc La Mã, sẵn sàng chịu chết vì đức tin của mình. Làm sao Giáo hội có thể tồn tại 2000 năm, qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách do những người muốn tiêu diệt đạo gây nên. Nếu Chúa không Phục sinh, không thể giải thích được những việc đó.
Chúa Phục sinh, đó là nền tảng của đức tin. Đó là sự vững chắc của Giáo hội. Và đó là chính là niềm hi vọng lớn lao của chúng ta. Chúa phục sinh biến đổi thân phận chúng ta. Từ thân phận phải chết sẽ được sống lại với Chúa. Từ thân phận tội lỗi được trở nên trong sạch. Từ cát bụi phàm trần được trở lại làm con Chúa. Từ định mệnh mong manh phù du được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời.
Lễ Chúa Phục Sinh đem lại cho ta niềm vui lớn lao. Vì thế mừng lễ Chúa Phục Sinh mời gọi ta biến đổi đời sống nên tươi mới cho xứng đáng với niềm tin, xứng đáng với phẩm giá của con người được Chúa yêu thương cứu chuộc.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Những bằng chứng tiêu cực nào cho thấy Chúa Giêsu thực sự sống lại?
2. Những bằng chứng tích cực nào cho thấy Chúa Giêsu thực sự sống lại?
3. Chúa Giêsu sống lại ảnh hưởng thế nào đến vận mệnh nhân loại?
4. Bạn phải sống thế nào để xứng đáng với niềm tin vào Chúa Phục sinh?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 4,32-35
- 1Ga 5,1-6
- Ga 20,19-31
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Các bài đọc hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn cứ vào các sách Tin mừng và nhất là sách Công vụ Tông đồ, ta thấy cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:
Đó là cộng đoàn cầu nguyện.
Hoàn cảnh ban đầu với những cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Chúa Kitô, người Thầy thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ khai tha thiết họp nhau cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại kỷ niệm của Thầy Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của Thầy. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thầy để ghi tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thầy đã làm cho lời cầu nguyện của các ngài trở nên sống động. Và Chúa Kitô phục sinh vẫn thường đến an ủi các ngài trong các buổi cầu nguyện ấy.
Đó là cộng đoàn đức tin.
Các ngài quây quần sống bên nhau vì cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh. Niềm tin ấy rất mãnh liệt vì các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Người. Niềm tin ấy không chỉ là lý trí mà còn ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ấy không chỉ biểu lộ trong những giờ cầu nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa, trong những sinh hoạt đời thường. Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và phục hồi đức tin. Như trường hợp của Tông đồ Tôma. Ông tìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại đức tin cho ông khi ông ở giữa cộng đoàn.
Đó là cộng đoàn đức ái.
Đức tin chân thật sẽ dẫn đến đức ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu lộ trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là cả trong việc chia sẻ của cải vật chất. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung...Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu”. Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đời sống của một cộng đoàn như thế.
Đó là cộng đoàn chứng nhân.
Các ngài làm chứng cho nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh quá mãnh liệt làm cho các ngài sung sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc chia sẻ với bạn bè. Câu nói “Chúng tôi đã thấy Người” là câu nói cửa miệng của các Tông đồ. Ta được nghe các chứng từ dồn dập của Maria Mácđala, của Phêrô và Gioan, của các môn đệ đi làng Emmau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng kêu của Tôma.
Hữu xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan toả ra cả những người chung quanh. Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống đức tin mạnh mẽ. Đời sống cầu nguyện sống động. Đời sống bác ái chan hoà. Tất cả trở thành một lời chứng hùng hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa, các ngài còn hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất chấp mất danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống.
Cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, đã đón nhận được ơn phục sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những con người mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng đoàn phục sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn phục sinh tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Giáo xứ của bạn, khu xóm của bạn, gia đình của bạn đã được ơn phục sinh chưa?
2- Bạn phải làm gì để góp phần đem ơn phục sinh đến cho gia đình, khu xóm, giáo xứ của bạn?
3- Trong những nét đẹp của cộng đoàn phục sinh, theo bạn nét đẹp nào có sức hấp dẫn nhất?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 3,13-15.17-19
- 1Ga 2,1-5a
- Lc 24,35-48
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có truyện kể rằng trước khi dâng mình cho Chúa, thánh Anphongsô là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời. Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, ngài quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Thiên đàng.
Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Chúa Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an.
Có lần Chúa Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế. Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Chúa Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe doạ đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.
Khi đức tin các Tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Chúa Giêsu là có thực. Đức tin của các Tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Chúa Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các Tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Chúa Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng ố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Có khi nào bạn đã gặp những đau buồn quá sức, tưởng như đã bị Chúa bỏ rơi không?
2- Qua đau khổ đến bình an, bạn đã bao giờ cảm nghiệm được điều này chưa?
3- Thánh Kinh giúp ta hiểu biết Chúa và biết sống theo thánh ý Chúa. Bạn có siêng năng đọc và học hỏi Thánh Kinh không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 4,8-12
- 1Ga 3,1-2
- Ga 10,11-18
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hi sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhạy bén đến độ hiểu được hết những gì mà trí óc con người không hiểu thấu, nghe được hết những âm thanh của tâm hồn mà tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Chúa Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Chúa Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán, ràng buộc. Chúa Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Người cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những dòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hi sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu nhiều càng sẵn sàng hi sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hi sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Chúa Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống. Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thầy cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ. Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hi sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Chúa Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 9,26-31
- 1Ga 8,18-24
- Ga 15,1–8
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Ai trồng cây cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, cũng phải lắm côngphu. Không phải cứ xanh tốt lớn mạnh là có quả. Có những ruộng lúa xanh tốt, nhưng chỉ tốt lá, nên chỉ cho những bông lúa lép. Có những cây xum xuê cành lá, nhưng đến mùa chẳng thấy quả nào. Xanh tốt như thế không phải là thành công, nhưng là thất bại. Cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Được điều phụ mà mất điều chính, đó là thất bại. Chúa Giêsu quan sát cây nho và thấy rằng một cây nho muốn có nhiều hoa quả cần phải có hai điều kiện sau đây:
Điều kiện thứ nhất: Cành phải liên kết với cây. Cành không liên kết với cây, không thể sinh hoa kết quả. Cành không liên kết với cây khi dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn không luân lưu sang cành. Có những con sâu con bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành kết hợp chặt chẽ với cây, dòng nhựa từ thân cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái.
Điều kiện thứ hai: Cành lá phải được cắt tỉa. Ai đã trồng nho thì biết: Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Muốn cây có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.
Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh cây nho để nói về đời sống đạo của ta. Đời sống đạo của ta được sánh ví như đời sống của cây nho. Cũng như người trồng nho muốn cho vườn nho của mình không bị tàn lụi, nhưng phát triển, sinh hoa kết quả, Đức Chúa Cha đã tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi, nhưng để con người phát triển, sinh hoa kết quả và tồn tại.
Để được phát triển, con người cũng cần những điều kiện.
Điều kiện thứ nhất: Phải kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phải liên kết mật thiết với Chúa Giêsu. Người là nguồn cội sự sống của ta. Tách lìa Người, ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Người là dòng sông ân sủng. Khi ta kết hợp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Sự kết hợp mật thiết với Chúa làm cho ta sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hợp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.
Điều kiện thứ hai: Phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu tỉa bớt những cành lá rườm rà. Cũng thế, linh hồn phải để Chúa cắt tỉa những gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhường. Chúa cắt tỉa ta bằng những thất bại ta gặp phải. Chúa huấn luyện ta bằng những lời phê bình chỉ trích của những người chung quanh. Chúa mài giũa ta bằng những hiểu lầm nghi kỵ của người khác. Chúa đào tạo ta trong những phản bội của người thân tín. Việc cắt tỉa làm cho ta đau đớn, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho ta khi Người sống kết hợp mật thiết với Đức Chúa Cha. Sự kết hợp ấy được diễn tả qua việc Người chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo ý Chúa Cha. Người đã để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bỏ ý riêng, nhận uống chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Chính vì thế, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thông cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu là Cây Nho Thật, xin cho con biết kết hợp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong con để con sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như Chúa mong ước.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Còn những gì trong bạn ngăn cản bạn kết hợp với Chúa?
2- Trong bạn còn những gì cần phải cắt tỉa?
3- Bạn có sẵn sàng để Chúa cắt tỉa không?
4- Những thất bại, những đau khổ bạn gặp phải có ích gì cho bạn không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 10,25-26.34-35.44-48
- 1Ga 4,7-10
- Ga 15,9-17
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Chúa Giêsu đã đưa ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phải yêu như Chúa. Tình yêu của Chúa Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải qui chiếu về trái tim Chúa Cha.
Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.
Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những người dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan cả tới súc vật cỏ cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24.27).
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hi sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. Vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hi sinh Con Một yêu dấu để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hi sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.
Tinh yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tiền, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được ăn no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đẹp, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf. Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Chúa Cha. Thật kỳ diệu tình yêu của Người. Người quên hết tất cả những lỗi lầm của ta. Người yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.
Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hi sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Từ trước đến nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?
2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh...?
3- Đối với bạn, yêu thương người khác dễ hay khó?
4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 1,1-11
- Ep 4,1-13
- Mc 16,15-20
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập. Việc Chúa Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.
Như thế trời là niềm hi vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời. Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.
Hôm nay Chúa cũng sai chúng ta đi gieo Tin mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người. Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời. Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc. Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?
2- Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?
3- Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 1,15-17.20a.20c-26
- 1Ga 4,11-16
- Ga 17,11b-19
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong đời sống điều ta cần nhất là yêu thương. Ai cũng muốn được yêu thương. Ai cũng muốn yêu thương. Ai cũng nói về yêu thương. Thế nhưng tại sao thế giới lại luôn gây chiến tranh thù hận? Tại sao các cộng đoàn luôn có chia rẽ bất hoà? Thậm chí trong các gia đình được mệnh danh là tổ ấm yêu thương mà cứ phải khổ sở vì bất hoà lục đục? Và những người yêu thương nhau nhất lại gây khổ đau cho nhau. Như lời tục ngữ Việt nam: Thương nhau lắm thì cắn nhau đau? Đó chính là vì có sự hiện diện của ác thần. Như lời Chúa cảnh báo trong bài Tin mừng hôm nay.
Thiên Chúa là yêu thương hợp nhất. Ba Ngôi nhưng một Chúa, kết hợp trong yêu thương chan hoà. Từ lò lửa yêu thương ấy phát sinh sự sống cho muôn vật muôn loài. Thiên Chúa muốn cho loài người cũng như muôn vật muôn loài được tham dự vào lò lửa tình yêu và sự sống ấy, nên đã ném lửa ấy xuống trần gian, mong lửa ấy cháy lên trong lòng mọi người. Để mọi người sống yêu thương hợp nhất. Để sự sống sung mãn dồi dào trong hạnh phúc.
Nhưng ác thần là kẻ thù luôn gieo cỏ lùng vào ruộng lúa. Luôn khích động chia rẽ bất hoà. Đem đến sự chết cho con người. Ác thần lại có tay chân thi hành là thói thế gian.
Bài sách Công vụ Tông đồ đề cập đến Giuđa một nạn nhân điển hình bị thói thế gian và ác thần khống chế. Thói thế gian được biểu lộ rõ nhất qua tính tham lam. Trong đó tiền bạc thống trị thế giới ác thần. Giuđa bị nhiễm thói thế gian. Có tính tham lam từ lâu. Vì thế rơi vào cạm bẫy của ác thần. Đã gây nên chia rẽ giữa con người với Thiên Chúa để con người toa rập nhau giết chết Thiên Chúa. Gây nên chia rẽ bất hoà trong cộng đoàn, khiến môn đệ phản Thầy và anh em chống đối nhau. Gây nên chia rẽ trong chính bản thân. Nên Giuđa được tiền rồi lại ném trả vào đền thờ. Và cuối cùng gây nên cái chết đớn đau trong ray rứt buồn khổ. Đến nỗi Giuđa phải ra đi thắt cổ tự tử. Đó chính là kết cục của thói thế gian. Dẫn đến bất hạnh và cái chết.
Thư Gioan dạy ta muốn sống yêu thương hợp nhất phải sống theo Thần Khí. Thói thế gian sống theo xác thịt. Môn đệ Chúa phải sống theo Thần khí. Thói thế gian đưa đến chia rẽ. Thần Khí dẫn đến hợp nhất. Thói thế gian dẫn đến oán thù. Thần Khí dẫn đến yêu thương. Thói thế gian dẫn đến nô lệ ác thần. Thần Khí dẫn đến tự do trong tình yêu Thiên Chúa. Ác thần tiêu diệt sự sống. Thiên Chúa ban sự sống tràn đầy. Nô lệ cho ác thần dẫn đến bất hạnh. Sống trong Thiên Chúa con người đạt đến hạnh phúc niềm vui vĩnh cửu.
Ngày nay ác thần đang hoạt động tích cực hơn bao giờ hết. Nó không ngừng dùng thói thế gian để hấp dẫn lôi kéo con người. Giống như chiêu trò nó đã dùng với Giuđa xưa kia, ngày nay nó dùng tiền bạc, quyền lợi, hiệu quả và thành đạt khuynh đảo con người một cách có hệ thống. Tiền bạc, quyền lợi, hiệu quả và thành đạt đang trở nên hệ thống điều hành thế giới. Chúng đã chiếm vị trí trung tâm và gạt con người ra ngoài lề.
Biết rõ nguy cơ đó, nhưng Chúa Giêsu vẫn sai môn đệ vào thế gian để làm chứng cho tình yêu của Chúa. Đây là một cuộc chiến khốc liệt. Cuộc chiến giữa thế gian và Nước Trời, giữa ác thần và Thiên Chúa. Như các tông đồ xưa đã thay thế Giuđa bằng Mátthia. Thay kẻ theo thói thế gian bằng người đã sống trung tín với Chúa. Ngày nay môn đệ Chúa cũng phải thay đổi não trạng thế gian bằng tâm tình kết hợp gắn bó với Chúa.
Hôm nay chúng ta kỷ niệm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Tại Fatima Đức Mẹ đã cảnh báo tác hại của ác thần. Đó là hoả ngục, chiến tranh và bắt bớ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ hôm nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Vì những tội lỗi con người đang gia tăng. Như nạn buôn người, nạn phá thai phổ biến ở mức chưa từng có. Chiến tranh lạnh đã thay bằng chiến tranh khủng bố lan rộng khắp thế giới. Và còn bắt bớ: biết bao giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân vẫn bị tàn sát khắp nơi. Các sinh hoạt tôn giáo bị cấm cản. Tài sản bị cướp phá. Cụ thể trong những ngày này là dòng Phaolo tại Hà nội và dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm tại Saigon.
Trong tình hình đó chúng ta hãy lắng nghe và thực hành lời Đức Mẹ dạy: hãy ăn năn sám hối, hãy siêng năng lần hạt, hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ và hãy dâng loài người cho Trái Tim Mẹ. Đó chính là loại trừ thói thế gian và sống theo Thần Khí. Và chúng ta tin tưởng Trái Tim Mẹ sẽ thắng.
Lạy Chúa xin cứu chúng con thoát khỏi ác thần.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Ác thần còn hoạt động trong thế giới hôm nay không? Xin cho ví dụ cụ thể.
2. Tại sao ai cũng muốn và cần yêu thương, nhưng thù hận vẫn lan tràn?
3. Ta phải làm gì để không rơi vào bẫy của ác thần?
4. Làm thế nào để sống yêu thương?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 2,1-11
- 1Cr 12,3b-7.12-13
- Ga 20,19–23
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến 7 ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì lớn đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Chúa Thánh Thần là nguồn sức sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.
Nhiệm vụ thứ nhất mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồng gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ qui hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ đã được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.
Nhiệm vụ thứ hai mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần.
Ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo hội. Đó là người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo hội, đem đến cho Giáo hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.
Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Chúa Thánh Thần mời gọi bạn ra đi đến với người khác. Bạn có thường đi thăm viếng những người nghèo hèn, nhất là những người bạn không có cảm tình không?
2- Bạn có muốn tha thứ, làm hoà với người khác không? Bạn đã có cố gắng nào để làm hoà trong Năm Thánh?
3- Bạn nghĩ gì về việc Thánh Cha xin lỗi?
4- Bạn có sẵn sàng để Chúa Thánh Thần biến đổi bạn không?
--------------------------------
MÙA THƯỜNG NIÊN
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 1S 3,3b-10.19
- 1Cr 6,13c-15a.17-20
- Ga 1,35 – 42
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.
1. Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi
Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận của người nghe. Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng. Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan, đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng. Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thầy cả Hêli. Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai môn đệ đến với Chúa Giêsu.
2. Giai đoạn hai: Ta đáp trả
Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Chúa Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.
3. Giai đoạn ba: Sống thân mật với Chúa
Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha – Con thắm thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình được yêu thương. Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta được gột rửa sạch mọi tội lỗi. Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người. Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước điều gì khác nữa. Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống với Chúa Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì Người.
4. Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình yêu Chúa
Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người. Sau khi gặp Chúa Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Chúa Giêsu cho đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm thiết. Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội. Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe giảng. Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chúa Nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu? Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi mới ở khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người. Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi không?
2. Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi chưa?
3. Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chưa?
4. Bạn có cảm thấy cần tâm sự lâu giờ với Chúa không?
5. Tóm tắt hành trình ơn gọi trong 4 điểm.
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gn 3,1-5.10
- 1Cr 7,29-31
- Mc 1,14–20
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Tối thứ Tư vừa qua, đài phát thanh, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ Chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống xã hội.
Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Giona kêu gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu kêu gọi dân Do Thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Chúa Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.
Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi
Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.
Bước thứ hai: Sám hối
Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.
Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời
Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới, trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đấu tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.
Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: “Quả thật, Chúa Giêsu là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người.” Hiện nay, Chúa Giêsu đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?
2- Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn...).
3- Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?
4- Hãy tóm tắt 3 bước trong tiến trình đổi mới đời sống.
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Đnl 18,15-20
- 1Cr 7,32-35
- Mc 1,21–28
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma qủy luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma qủy. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Chúa Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma qủy. Ngay khi Chúa Giêsu xuất hiện, ma qủy mở lại bài cũ cám dỗ Chúa Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma qủy thất bại nặng nề. Chúa Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Chúa Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của Satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân qủy dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn lợn đang ăn bên bờ biển, và cả đàn lợn lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của Satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách Satan. Chúa Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Chúa Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Chúa Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma qủy. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma qủy. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ qủy đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ qủy dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma tuý.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hoà. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma qủy ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ. Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con qủy gây chia rẽ bất hoà, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma qủy, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn tin có ma qủy không? Ma qủy đã có tác động xấu nào trên đời bạn?
2- Có khi nào việc bạn làm lúc đầu thấy là tốt, sau cùng lại thấy nó dẫn đến điều xấu không? Bạn có khi nào bị ma qủy đánh lừa không?
3- Bạn có quyết tâm xua trừ ma qủy ra khỏi tâm hồn bạn không? Bạn làm cách nào để xua trừ nó?
4- Ngày nay ma qủy còn hoạt động không? Hoạt động thế nào?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- G 7,1-4.6-7
- 1Cr 9,16-19.22-23
- Mc 1,29-39
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Đoạn Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động của một ngày làm việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi gieo Tin Mừng.
Chỉ dẫn thứ nhất: Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào Hội đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời Chúa là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được rao giảng. Lời Chúa phải được công bố. Người môn đệ phải say mê rao truyền để cho Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên đường Sự Thật để đạt được Sự Sống.
Chỉ dẫn thứ hai: Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm chứng về điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà để chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời phong kiến với quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân, việc cầm tay phụ nữ có thể gây nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm đối với người bệnh và cả sự kính trọng đối với phụ nữ nữa.
Chỉ dẫn thứ ba: Tin Mừng phải đem đến tự do. Ma quỷ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma qủy trói buộc con người mất hết ý chí, không còn làm được việc lành, chỉ có thể làm theo mệnh lệnh ma quỷ. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người. Giải phóng khỏi sự trói buộc của ma qủy. Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải phóng khỏi những thói tục hủ lậu, những mê tín cấm kỵ. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có thể làm việc lành phục vụ Nước Chúa. Bà nhạc của Simon là một thí dụ điển hình. Khi được khỏi bệnh, bà liền đi đứng và làm việc phục vụ Chúa.
Chỉ dẫn thứ tư: Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu phải dành buổi sáng sớm để cầu nguyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan trọng biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng suốt cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với Đức Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
Người môn đệ muốn dấn thân rao giảng Tin Mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thầy Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình bày cho người khác. Nhất là phải làm chứng cho lời rao giảng bằng chính đời sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có thể làm những việc tốt đẹp, góp phần vào việc phục vụ Tin Mừng.
Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin hướng dẫn chúng con đi trên đường của Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn hãy thử tóm tắt những việc Chúa Giêsu làm trong một ngày.
2- Tha thiết với việc rao giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng Tin Mừng có kết quả tốt đẹp?
3- Lời nói phải đi đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời sống đạo của bạn?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Lv 13,1-2.44-46
- 1Cr 10,31 – 11,1
- Mc 1,40 – 45
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới.
Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị coi như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị coi như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Một lần nữa, Chúa Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Chúa Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.
Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.
Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Chúa Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Chúa Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh, Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Chúa Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Chúa Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Chúa Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với thầy cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.
Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm an ủi được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Chúa Giêsu. Người sẽ xoá đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.
Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Chúa Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hoà nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xoá đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kị. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Cha Damien và Đức cha Cassaigne đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh?
2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?
4- Bệnh phong tâm hồn là gì?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 43,18-19.21-22.24b-25
- 2Cr 1,18-22
- Mc 2,1–12
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Người bại liệt chịu nhiều thiệt thòi. Không làm được những việc cần làm. Không đến được những nơi muốn đến. Chúa Giêsu làm phép lạ chữa nhiều bệnh. Tin ấy lan tới mọi hang cùng ngõ hẻm thành Caphácnaum. Người bại liệt nghe biết, nhưng ông không làm cách nào đến gặp Chúa Giêsu để xin Người chữa lành. Đó là hình ảnh của những tâm hồn bại liệt. Chúa vẫn rộng rãi ban phát ân huệ của Người, nhưng những tâm hồn bại liệt, dù muốn cũng không thể đến lãnh nhận được.
Có tâm hồn bị bại liệt vì yếu đuối. Tâm hồn yếu đuối bị những đam mê, dục vọng đè bẹp, không sao chỗi dậy được. Đam mê, dục vọng giống như những sợi dây, rất mềm mại nhưng cũng rất chặt chẽ. Tâm hồn bị đam mê, dục vọng trói buộc sẽ trở nên tê liệt, thấy những điều tốt đẹp nhưng ngại ngùng phấn đấu, mất hết ý chí chỗi dậy, vươn lên.
Có tâm hồn bị bại liệt vì do dự. Tâm hồn do dự có nhiều ước muốn tốt đẹp, nhưng cứ mãi băn khoăn suy tính, rồi cơ hội qua đi mà vẫn không làm được điều mong muốn. Truyện ngụ ngôn kể lại: có con ngựa vừa đói vừa khát. Người ta đem đến một máng cỏ và một máng nước. Con ngựa cứ quay sang máng nước rồi lại quay sang máng cỏ, không biết nên ăn hay nên uống trước. Sau cùng nó chết vì đói và vì khát. Ngạn ngữ Pháp có câu: Hoả ngục được lát bằng những ước muốn tốt. Ước muốn suông mà không làm sẽ chẳng giúp thăng tiến thân phận con người.
Có tâm hồn bị bại liệt vì chai đá. Tâm hồn chai đá hoàn toàn mất hết khả năng ước muốn điều lành, thờ ơ với việc thăng tiến bản thân, dị ứng với những việc đạo đức. Đây là thứ bại liệt đáng sợ nhất.
Người bại liệt trong Tin mừng đã tìm ra phương thế để đến với Chúa. Ông nhờ những người thân khiêng tới. Cảnh bốn anh em khiêng người bại liệt, trèo lên mái nhà, rỡ ngói, thả chiếc cáng xuống trước mặt Chúa Giêsu, cho ta thấy một đức tin đơn sơ trong sáng.
Đức tin đơn sơ trong sáng không suy tính, do dự, nhưng cương quyết bắt tay vào việc làm. Nhìn thấy việc phải làm, họ bắt tay vào làm ngay không để chậm trễ, không mất thời giờ bàn bạc, so đo, tính toán, trốn tránh trách nhiệm. Biết người bệnh cần gặp Đức Giêsu, họ lập tức đi tìm cáng và bảo nhau khiêng người bệnh đến ngay.
Đức tin đơn sơ trong sáng lập tức lên đường, không chịu ngồi lì một chỗ. Đã quyết là lên đường ngay, không ngần ngại vì đường xa, không e dè vì gánh nặng. Họ khiêng người bệnh, nhưng bước chân vẫn thoăn thoắt, ánh mắt vẫn tin tưởng, nụ cười vẫn vui tươi vì tâm hồn họ luôn luôn sẵn sàng lên đường.
Đức tin đơn sơ trong sáng giúp họ đồng tâm nhất trí với nhau. Niềm tin chân thực loại trừ mọi xung khắc bất đồng, dẫn đến đoàn kết, hợp tác, cùng nhau làm những việc tốt có ích lợi cho người khác.
Đức tin đơn sơ trong sáng không lùi bước trước khó khăn. Gặp đám đông vây quanh, chắn lối đến với Chúa Giêsu, họ không sờn lòng nản chí, không bàn chuyện tháo lui, nhưng cương quyết tìm biện pháp khắc phục những khó khăn. Đã nỗ lực đổ mồ hôi để khiêng người bệnh đến, giờ đây họ lại phải nỗ lực vận dụng trí não để tìm cách đưa người bệnh tiếp cận Chúa Giêsu. Đức tin trong sáng đã làm cho trí khôn họ trở nên sáng suốt. Họ mau chóng tìm được một lối khác để đến với Người.
Đức tin đơn sơ trong sáng có những sáng kiến tuyệt vời, táo bạo. Không vào được cửa chính, họ trèo lên mái nhà. Không có cửa thì họ làm ra cửa. Tháo rỡ mái nhà quả là một biện pháp táo bạo. Biện pháp táo bạo càng chứng tỏ đức tin mãnh liệt của họ.
Đức tin trong sáng có sự tế nhị, nhẹ nhàng. Chắc chắn họ phải xin phép chủ nhà và sau đó, phải lợp lại mái nhà hẳn hoi tử tế. Trước sự tế nhị của họ, chắc chắn chủ nhà phải hài lòng và cảm phục.
Đức tin trong sáng không nhiều lời. Tự những việc làm đã nói nhiều hơn những bài diễn văn lê thê. Họ chưa nói lời nào để cầu xin Chúa, nhưng nhìn thấy người bệnh được thòng xuống trước mặt mình, Chúa Giêsu và tất cả mọi người đều thấy được đức tin của họ, và Chúa Giêsu đã chữa bệnh trước khi họ cầu xin.
Nhìn vào đức tin trong sáng của bốn người khiêng, ta thấy đức tin của mình còn đang bị tê liệt, không hoạt động. Ta bị tê liệt vì những đam mê dục vọng trói buộc. Ta bị tê liệt vì những lười biếng thiếu cố gắng. Ta bị tê liệt vì những ước muốn nửa vời. Ta bị tê liệt vì lòng nguội lạnh thiếu nhạy cảm trước những nhu cầu thiêng liêng.
Hôm nay, ta hãy noi gương 4 người khiêng bệnh nhân. Hãy ra khỏi tình trạng tê liệt tâm hồn. Hãy lên đường, ra đi đừng ngại ngùng, do dự. Hãy biến đức tin thành những việc làm chuyên chở đức bác ái. Hãy phấn đấu vượt qua mọi khó khăn. Hãy sống đức tin một cách sáng tạo, vui tươi và đoàn kết. Một đức tin như thế sẽ trở thành ngọn đèn phá tan đi bóng tối đang phủ vây giăng mắc, soi đường cho ta đi đến với Chúa, cùng đích của đời ta.
Lạy Chúa, xin hãy thêm đức tin cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Tình trạng đức tin của bạn hiện nay ra sao? Đang hoạt động hay bị tê liệt?
2- Đức tin của bạn đang bị những chứng tê liệt nào?
3- Khi nhìn ngắm đức tin của những người khiêng bệnh nhân bất toại, bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn? Lòng tin của bạn còn thiếu những nét nào?
4- Đức tin trong sáng có những đặc điểm nào?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Hs 2,16b.17b.21-22
- 2Cr 3,1b-6
- Mc 2,18-22
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có nhiều người cho rằng Chúa Giêsu là một nhà cách mạng. Điều này đúng nếu hiểu cách mạng là xoá bỏ những gì xưa cũ không giúp thăng tiến số phận con người, đổi mới thế giới nên tốt đẹp xứng đáng hơn. Cuộc đổi mới của Chúa Giêsu không nhắm đến hình thức bên ngoài, nhưng nhắm đến nội dung bên trong. Cuộc đổi mới ấy khởi đi từ cuộc đổi mới tôn giáo. Người mang đến một thứ tôn giáo hoàn toàn mới lạ so với tôn giáo cũ.
Chúa Giêsu mang đến một tôn giáo đậm đà tình nghĩa gia đình. Trước đó, đạo cũ mang nặng mầu sắc nô lệ. Thiên Chúa được hình dung như một vị hung thần chuyên tác oai tác quái. Con người đến với Thiên Chúa trong nỗi sợ sệt. Người ta giữ nghiêm nhặt những điều cấm kỵ vì sợ bị trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu đã mang đến một thứ tôn giáo mới. Người mặc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con.
Đạo là mối tình thân mật cha con giữa Thiên Chúa và loài người. Thiên Chúa yêu thương ta và Người mong ta đáp lại bằng tâm tình hiếu thảo của con cái.
Chúa Giêsu mang đến một tôn giáo chan hoà tình yêu thương. Trước đó, đạo cũ đề cao luật lệ. Có đạo có nghĩa là phải biết luật lệ. Giữ đạo có nghĩa là giữ luật một cách nghiêm chỉnh. Luật lệ trở thành chủ nhân của con người. Tôn giáo trở thành một gánh nặng đối với con người.
Chúa Giêsu mang đến cho đạo một khuôn mặt mới. Người tóm tắt đạo trong một điều luật duy nhất mà Người gọi là luật mới: đó là mến chúa, yêu người. Yêu mến là luật duy nhất và cao nhất của tôn giáo. Yêu mến là chu toàn mọi lề luật trong đạo. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi dạy rằng: Yêu người chính là yêu Chúa, giúp đỡ người bé nhỏ nghèo hèn là giúp đỡ chính Chúa. Ngày tận thế, Chúa chỉ phán xét ta về những việc lành ta làm cho những anh em bé nhỏ nghèo hèn mà thôi.
Chúa Giêsu mang đến một tôn giáo có chiều sâu nội tâm. Trước đó, đạo cũ chú trọng tới hình thức bên ngoài. Những luật lệ ràng buộc con người ở bên ngoài. Ví dụ như phải rửa tay trước khi dùng bữa. Khi ăn chay phải xức tro trên đầu, mặc quần áo rách rưới, để tóc tai bù xù. Trái lại, Chúa Giêsu dạy: Khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng kín cửa lại. Khi ăn chay, hãy xức dầu thơm, mặc quần áo đẹp, đầu tóc chải chuốt. Khi giúp người nghèo thì tay phải đừng cho tay trái biết.
Đạo không phải là một thứ trang sức làm đẹp cuộc đời. Đạo không phải để làm vui lòng dư luận. Đạo là mối liên lạc thâm sâu với Chúa. Ta làm mọi việc cho Chúa và vì Chúa. Chúa nhìn bên trong hơn bên ngoài. Chúa chú trọng tới nội tâm hơn hình thức bên ngoài. Chúa coi trọng chất lượng hơn số lượng.
Với tất cả những đổi mới như thế, Chúa Giêsu đem đến một luồng gió mới cho sinh hoạt tôn giáo. Tôn giáo không còn là một mớ giáo điều cứng nhắc chết chóc, nhưng đã trở nên địa chỉ của tình thương yêu, tràn đầy sức sống. Tôn giáo không còn là những luật lệ lạnh lùng vô cảm, nhưng đã trở nên sợi dây tình thương ấm áp nối kết con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Tôn giáo không còn là toà án xét xử và kết án, nhưng đã trở thành mái ấm gia đình chan chứa tình yêu thương. Tôn giáo không còn là những cấm kỵ nặng hình thức, nhưng đã trở nên sức sống nội tâm khơi nguồn từ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Với những đổi mới như thế, Chúa Giêsu đã biến tôn giáo thành một thứ rượu mới thơm ngon, làm say ngất lòng người. Rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ. Chất men rất mạnh của rượu mới sẽ khiến bầu da cũ nổ tung. Giáo lý mới không thể chứa trong tâm hồn cũ. Con người cũ không đủ sức đón nhận giáo lý mới. Cần phải có con người mới để đón nhận giáo lý mới.
Để sống tình cha con thân mật với Thiên Chúa, con người mới phải có tâm tình hiếu thảo thật sự, gần gũi Cha, yêu mến Cha, luôn tìm ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Để sống tình anh em với mọi người, con người mới phải có một trái tim rộng mở để đón nhận mọi người. Thực sự coi mọi người là anh em trong một gia đình. Quan tâm chăm sóc lẫn nhau, nhất là đối với những anh em bé nhỏ, nghèo khổ. Sẵn sàng tha thứ cho nhau, làm hoà với nhau.
Để sống đạo nội tâm thật sự, con người mới phải tránh những hình thức phô trương bên ngoài, sống khiêm nhường phục vụ. Thường xuyên thanh tẩy tâm hồn khỏi những khuynh hướng trần tục, để tiến đến gặp gỡ và kết hiệp trọn vẹn với Thiên Chúa. Phải đổi mới không ngừng, ta mới có thể chấp nhận được giáo lý mới của Đức Giêsu. Phải đổi mới không ngừng, ta mới có thể trình bày được giáo lý mới này cho mọi anh em bằng chính đời sống của ta.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Lối sống đạo của bạn đã đổi mới chưa, hay vẫn còn theo lối cũ?
2- Bạn có tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa bao giờ chưa?
3- Yêu mến anh em là yêu mến Chúa, theo bạn, thực hành điều này có dễ không? Bạn có kinh nghiệm gì về thực hành điều này?
4- Hãy tóm tắt những điểm mới trong đạo mới của Chúa Giêsu
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Đnl 5,12-15
- 2Cr 4,6-11
- Mc 2,23 - 3,6
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Cách đây ít lâu, báo “Tuổi trẻ cười” đăng câu chuyện có thật như sau: Vào thời chiến tranh, tại một vùng biên giới, có cây cầu không ai canh giữ. Hàng lậu nhập qua lối cầu này rất nhiều. Trong số đó có những hàng nguy hiểm như ma tuý, vũ khí. Đã có lần, quân giặc dùng cầu này làm bàn đạp sang quấy phá.
Thấy tình hình nguy hiểm, cấp trên phái hai người lính đến gác cây cầu. Nhưng khi cử hai anh lính đến gác cầu, khâu tổ chức được đặt ra. Hai anh lính cần có một thủ trưởng để bảo toàn an ninh. Thủ trưởng cần một anh văn thư và một tài xế. Một cơ sở được xây cất cho đơn vị mới này. Cơ sở xây xong, số người phục vụ cơ sở phải tăng lên. Nào là bảo vệ, nào là cấp dưỡng, nào là thủ kho v.v. Chẳng mấy chốc, đơn vị mới này đã có 35 khẩu. Đến thời giảm biên chế, cấp trên ra lệnh phải cắt giảm những nhân viên không cần thiết. Cơ quan bàn đi tính lại và thấy thủ trưởng là cần thiết, văn thư cũng cần, cấp dưỡng là không thể thiếu. Sau cùng mọi người đều đồng ý sa thải hai anh lính gác vì thấy hai anh này không cần thiết gì cho cơ quan cả.
Câu chuyện trên cho ta thấy một nghịch lý: cái chính yếu bị quên lãng và cái phụ thuộc lại được coi trọng. Cái chính yếu bị gạt bỏ và cái phụ thuộc lại được gìn giữ. Cơ quan này được thành lập để gìn giữ cây cầu, nhưng sau cùng người ta lại chú ý tới việc gìn giữ cơ quan hơn là gìn giữ cây cầu. Những người tới sau có mục đích giúp việc cho hai người lính giữ cầu, nhưng sau cùng người ta chỉ chăm lo cho những người giúp việc mà loại trừ hai người làm công tác chính yếu, đó là hai người lính giữ cầu.
Trong đạo cũng đã có những trường hợp thư thế. Người ta bãi bỏ điều chính yếu và chỉ lo giữ những điều phụ thuộc. Trường hợp người Do Thái giữ ngày sabbat là một thí dụ điển hình. Chúa đặt ra ngày sabbat để cho con người nghỉ ngơi. Sau một tuần lễ lao động vất vả, con người cần có một ngày nghỉ ngơi để phục hồi sức lực, để thoát ra khỏi công việc, thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất, có thời giờ thư giãn và trau dồi, bồi bổ đời sống tâm linh. Như thế ngày nghỉ sabbat được đặt ra để phục vụ lợi ích của con người, giúp con người phát triển toàn diện. Nhưng người Do Thái đã mau chóng biến luật nghỉ ngày thứ Bảy thành một gánh nặng khi cấm người ta làm bất cứ việc gì. Ai làm việc gì, dù vô vị lợi, dù rất nhỏ nhặt là sai lỗi nặng. Họ đã làm lệch lạc ý nghĩa luật nghỉ ngày thứ Bảy. Biến luật này từ chỗ phục vụ con người trở thành luật cấm ngặt nghèo trói buộc con người.
Người Do Thái sai lầm vì không biết phân biệt điều chính với điều phụ. Điều chính là con người thì họ không chọn. Họ lại chọn điều phụ là lề luật. Họ sai lầm vì không hiểu được nội dung lề luật, nên họ chỉ câu nệ vào hình thức. Nội dung lề luật nhằm phục vụ con người. Họ câu nệ hình thức nên đã biến con người thành nô lệ cho lề luật. Họ sai lầm giữa mục đích và phương tiện. Con người mới chính là mục đích, lề luật chỉ là phương tiện giúp duy trì trật tự. Họ lại đảo ngược coi lề luật là mục đích, biến con người thành phương tiện phục vụ lề luật. Những sai lầm đó đã khiến tôn giáo trở thành hình thức, nặng nề, tàn nhẫn, thiếu sức sống và vô lý.
Hôm nay Chúa Giêsu vạch rõ những sai lầm của họ khi Người nói: “Ngày sabbat được làm ra vì con người chứ không phải con người vì ngày sabbat. Bởi đó, Con Người cũng làm chủ luôn cả ngày sabbat”. Ngày nghỉ cuối tuần nhằm mục đích phục vụ con người chứ không phải là một uý kị khiến người ta không dám nhấc chân động tay làm gì nữa.
Tuy nhiên, ta cần tránh hai thái độ bất cập và thái quá đối với việc nghỉ ngơi ngày cuối tuần.
Khi tôi sang Mỹ, tôi đã gặp những gia đình làm đầu tắt mặt tối đến nỗi vợ chồng, cha mẹ con cái không gặp nhau bao giờ. Kết quả là gia đình có rất nhiều tiền, nhưng con cái không được chăm sóc đâm ra hư hỏng. Tôi hỏi một gia đình – Tại sao ông bà bỏ Việt Nam sang Mỹ? Họ trả lời – Vì tương lai con cái. – Tại sao ông bà phải làm việc đầu tắt mặt tối? – Thưa, vì tương lai con cái. – Thế bây giờ ông bà đã đạt được mục đích chưa? - Thưa, bây giờ chúng con thấy mình đã mất tất cả. Hi sinh đi làm đến mất cả hạnh phúc gia đình. Lo đi làm kiếm tiền nuôi con ăn học. Bây giờ, tiền thì có mà con cái hư hỏng. Nếu các bậc cha mẹ biết làm lụng vừa phải, dành thời giờ cho gia đình, theo dõi, dạy dỗ con cái thì đâu phải thất bại như thế. Nhưng cũng có nhiều người lạm dụng ngày nghỉ, tiêu phí sức lực quá đáng trong những ngày nghỉ, đến nỗi ngày thứ Hai không còn làm việc được nữa.
Hôm nay, ta hãy biết nghe lời Chúa dạy, làm việc vừa phải, có thời giờ nghỉ ngơi để dành cho gia đình, cho bạn bè. Nghỉ ngơi không phải là không làm gì, nhưng là làm những việc vô vị lợi, có ích cho xã hội như: đi thăm viếng người bệnh, đi giúp người neo đơn, phục vụ cộng đoàn. Nhất là có thời giờ cầu nguyện, bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Biết sống như thế, ta mới giữ được quân bình. Biết sống như thế, ta mới trở nên con người tự do, không bị nô lệ việc làm, cũng không bị nô lệ cho lề luật. Biết sống như thế, ta mới phát triển con người toàn diện: phát triển bản thân, phát triển đời sống tình cảm gia đình, phát triển quan hệ xã hội, và nhất là phát triển đời sống tâm linh theo đúng ý Chúa mong muốn.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn thường làm gì vào ngày Chủ nhật?
2- Bạn có thời giờ dành cho con cái, thăm viếng người bệnh, làm việc có ích chung không?
3- Bạn có nguyên tắc, có qui luật, nhưng bạn có biết du di, thông cảm với người khác không?
4- Bạn đã phân biệt được điều chính điều phụ trong đạo chưa? Có lần nào bạn đã bỏ điều chính để chọn điều phụ chưa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- St 3,9-15
- 2Cr 4,13 – 5,1
- Mc 3,20-35
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Lời Chúa hôm nay trình bày lịch sử cứu độ trong ba cuộc chiến.
Cuộc chiến thứ nhất
Ông bà nguyên tổ đã thua trận. Ma quỷ quá hiểm độc. Ông bà quá ngây thơ. Rơi vào bẫy của ma quỷ. Bẫy đó là những lời hứa hẹn đường mật. Đánh vào thói kiêu căng và ham thích hưởng thụ ngay tức khắc. Những lời dối trá xảo quyệt khiến ông bà quên đi Lời Chúa. Lỗi phạm lệnh Chúa truyền. Nên mất tất cả.
Mất tình nghĩa với Thiên Chúa. Không còn dám gặp mặt Thiên Chúa. Lẩn trốn trong bụi rậm. Còn đâu tình nghĩa thắm thiết. Ngày ngày cùng Thiên Chúa đi dạo trong vườn. Gió thổi hiu hiu. Tiếng chim ca hót.
Mất tình nghĩa với nhau. Trước kia Adam đã coi Eva là xương thịt của mình. Là một thân thể với mình. Nay ông cho đó là tai hoạ Thiên Chúa gửi đến. Đã khiến ông lầm lỗi.
Mất tình nghĩa với chính mình. Xấu hổ với chính mình. Không dám đối diện với chính mình. Phải kết lá làm áo che thân.
Mất tình nghĩa với thiên nhiên vạn vật. Bị thiên nhiên vạn vật chống đối. Phải ra sức chiến đấu chinh phục.
Mất tất cả. Mất sự sống. Con người chìm trong vực thẳm sự chết. Luôn ngước lên kêu cầu xin Thiên Chúa thương tha thứ tội lỗi và giải thoát khỏi ách tử thần (Đáp ca). Thiên Chúa tràn đầy tình thương xót. Đã lập tức hứa ban Đấng Cứu Thế. Xuống trần giúp loài người trong cuộc chiến thứ hai.
Cuộc chiến thứ hai
Lời hứa của Thiên Chúa ứng nghiệm trong Chúa Giêsu. Là dòng dõi sinh ra bởi người nữ. Là sức mạnh của Thiên Chúa. Không rơi vào cái bẩy xảo quyệt dối trá của ma quỷ. Nên đã chiến thắng ma quỷ. Đã đạp dập đầu con rắn. Tái lập sự thống nhất trong đời sống. Tạo nên mối hiệp thông đã bị đứt đoạn vì tội lỗi.
Hiệp thông với Thiên Chúa. Bằng nối lại tình nghĩa. Bằng tuân phục mệnh lệnh Thiên Chúa. Trong ba cuộc cám dỗ của ma quỷ, Chúa Giêsu luôn đề cao sự tuân phục thánh ý Chúa Cha. “Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng còn bởi Lời Chúa”. “Ngươi chỉ được thờ lạy một mình Thiên Chúa”. “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa.”
Hiệp thông với nhân loại. Qui tụ tất cả mọi người thành một gia đình. Thành những người con hiếu thảo của Chúa Cha. Thành những người anh em trong một gia đình. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
Hiệp thông với chính mình. Chúa Giêsu luôn ý thức được Chúa Cha sai đến. Sẽ trở về với Chúa Cha. Nên luôn làm theo ý Chúa Cha. Dù phải đau đớn từ bỏ ý riêng. “Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự.”
Trong mối hiệp thông, Chúa Giêsu đã trở thành người mạnh nhất. Chiến thắng ma quỷ. “Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó.” Chúa Giêsu đã trói tay Satan. Đưa Satan đến ngày tận số. Để chúng ta vững vàng trong cuộc chiến thứ ba.
Cuộc chiến thứ ba
Đây là cuộc chiến của tất cả mọi người chúng ta. Nhờ Chúa Giêsu đã chiến thắng nên chúng ta tin tưởng bước vào cuộc chiến và tin chắc sẽ chiến thắng. Để chiến thắng thánh Phaolô khuyên ta nên đi vào con đường Chúa Giêsu đã đi.
Đó là con đường tin tưởng vào Chúa Cha. Chúa Cha đã cho Chúa Giêsu sống lại, cũng sẽ cho chúng ta được sống lại.
Đó là con đường siêu thoát thế gian. Thế gian là bên ngoài. Bên ngoài có tiêu tan đi thì bên trong ta càng đổi mới. Những gì hữu hình thì chỉ tạm thời. Hãy chú tâm đến những thực tại vô hình tồn tại vĩnh viễn. Để siêu thoát thế gian phải chấp nhận gian truân. Nhưng phần thưởng trên trời dành cho ta sẽ vô cùng lớn lao.
Đó là con đường từ bỏ chính mình. Kể cả sự sống. Vì “nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên tời, không do tay người thế làm ra.”
Đời sống trần gian là một cuộc chiến đấu. Đây là cuộc chiến khó khăn. Ma quỷ thì luôn xảo quyệt lừa đảo. Xác thịt ta lại yếu hèn. Nên phải hết sức cảnh giác. Phải noi gương Chúa Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Phải noi gương thánh Phaolô siêu thoát thế gian. Chỉ sống cho Chúa và chết cho Chúa. Có thế ta mới mong chắc thắng trong cuộc chiến phức tạp này.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Tại sao nguyên tổ đã thua trận?
2.Chiến thắng của Chúa Giêsu mở ra những hiệp thông nào?
3.Đối với cuộc chiến ta đang đương đầu, ta phải có thái độ nào?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ez 17,22-24
- 2Cr 5,6-10
- Mc 4,26-34
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Lời Chúa hôm nay đem đến cho ta bao niềm hi vọng. Vì cho ta hiểu được mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Và hướng dẫn ta cách làm cho Nước Thiên Chúa phát triển.
Nước Thiên Chúa không không do tay người phàm.
Giống như sự sống. Con người hoàn toàn không làm gì được với sự sống. Như người nông phu gieo lúa ra đồng. Hạt lúa nảy mầm thế nào ông không biết. Mọc lên cây lúc nào ông không hay. Chỉ có đến lúc lúa chín vàng thì ra gặt về. Nước Thiên Chúa cũng như sự sống thuộc quyền Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa gieo trồng. Chính Thiên Chúa cho mọc lên. Tuỳ lúc tuỳ nơi. Chính Thiên Chúa cho phát triển hay tàn lụi. Như bài sách Ezechiel cho biết: “Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta là cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi”.
Nước Thiên Chúa không thấy bằng mắt phàm.
Vì Nước Thiên Chúa khởi đầu rất bé nhỏ và âm thầm. Như một hạt giống vùi chôn trong lòng đất. Như một chồi non nhỏ Chúa ngắt từ một cây bá hương. Như một hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các loại hạt. Không ai thấy. Không ai ngờ. Nhưng rồi khi Chúa muốn chúng mọc lên thành cây cao bóng cả. Chồi non “thành một cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương mình bên nó, và ẩn thân dưới bóng lá cành”. Hạt cải “mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Nước Thiên Chúa phát triển trong Thiên Chúa.
Vì Nước Thiên Chúa là của Thiên Chúa. Nên việc phát triển Nước Thiên Chúa chỉ ở trong Thiên Chúa. Không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân. Chính vì thế điều quan trọng không phải là ta làm việc nọ việc kia. Điều quan trọng là ta ở trong Thiên Chúa. Để Thiên Chúa làm việc. Thánh Phaolo hiểu rõ điều này. Nên sống hay chết đối với ngài không quan trọng. Quan trọng là luôn ở trong Chúa và làm đẹp lòng Chúa. Cứ ở trong Chúa, Chúa sẽ làm việc. Và mọi sự sẽ tốt đẹp. Cũng thế người công chính “vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Libăng, được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta. Già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn”.
Lời Chúa hôm nay khiến tôi hết buồn phiền lo âu. Vì tôi cứ u buồn sầu não tại sao việc truyền giáo không có kết quả. Hai ngàn năm trôi qua mà số người nhận biết Chúa quá ít. Giáo hội luôn là một thiểu số bé nhỏ. Đã thế còn bị vùi dập. Bị áp bức. Bị ghét bỏ. Và chính chúng ta cũng gây không ít thiệt hại cho Giáo hội.
Lời Chúa hôm nay khiến tôi thêm vững vàng tin tưởng. Vì truyền giáo là việc của Chúa. Hôm nay nếu Lời Chúa vẫn là một hạt giống bé nhỏ. Hạt giống ấy vẫn bị chôn vùi. Chưa nhiều người biết. Không ai thấy được. Nhưng tôi tin chắc, khi đến thời giờ Chúa muốn, Chúa sẽ cho hạt giống mọc lên thành cây xum xuê tươi tốt. Muôn dân sẽ nhận biết. Sẽ đến trú ẩn trong cây của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay cũng soi sáng cho tôi biết sống. Tôi làm việc gì không quan trọng. Tôi sống hay chết cũng không là gì. Điều cần thiết là tôi ở trong Chúa. Khi đã ở trong Chúa, dù tôi có làm việc tầm thường bé nhỏ, Chúa cũng cho có hiệu quả phi thường.
Hãy lắng nghe và đón nhận Lời Chúa. Hãy tuân giữ và thực hành Lời Chúa. Hãy cắm rễ sâu vào tình yêu và ân sủng của Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ cho Lời Chúa sinh hoa kết quả vô cùng phong phú.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Hạt giống âm thầm mọc lên cho thấy nó thuộc quyền Thiên Chúa hay thuộc quyền con người?
2.Bạn hiểu nước Thiên Chúa giống như hạt cải có ý nghĩa gì?
3.Điều quan trọng bạn phải làm trong đời là gì? Làm những việc lớn lao? Hay âm thầm sống trong Chúa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- G 38,1.8-11
- 2Cr 5,14-17
- Mc 4,35-41
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa. Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vở được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.
Thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quýt lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách ồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?
2. Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?
3. Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kn 1,13-15 ; 2,23-24
- 2Cr 8,7.9.13-15
- Mc 5,21-43
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa. Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc. Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy.
Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khoẻ mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống. Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Chúa Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Chúa Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộm phép lạ, chị trở thành người được Chúa Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Chúa Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín.
Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Chúa Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là lo cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.
Người phụ nữ và em bé đã được Chúa Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.
Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Chúa Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Chúa Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Chúa Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.
Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Chúa Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, Người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi.
Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần đụng chạm vào Chúa thôi, đời ta sẽ biến đổi. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
2- Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
3- Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ez 2,2-5
- 2Cr 12,7-10
- Mc 6,1-6
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con thỏ ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi xin ăn và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe doạ để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm toả lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hi sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hi vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.
Tương tự như thế, những người ở làng quê Nazareth hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Chúa Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nazareth đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nazareth nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm. Khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh. Khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc. Khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã. Khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách. Qua các vị bề trên. Qua các tai nạn. Qua lời khuyên của những người thân. Qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nazareth và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.
Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
2- Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?
3- Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ez 2,2-5
- 2Cr 12,7-10
- Mc 6,1-6
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Cổ học Tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại kháinhư sau: Một người thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc, Ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa.
Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là ý kiến mình có sẵn về một người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người và vật theo suy nghĩ riêng chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực. Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu của kính. Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều xanh. Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh là ở mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán đoán của người có thiên kiến thường không chính xác.
Thiên kiến có nguồn gốc ở sự thiếu học hỏi. Vì không được học nên hiểu biết giới hạn. Thiếu hiểu biết nên phán đoán thiếu chính xác. Thiên kiến cũng do đầu óc thiển cận, hẹp hòi. Tục ngữ có câu: “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. Con ếch ngồi dưới đáy giếng chỉ nhìn thấy một mảnh trời vừa bằng miệng giếng, cho rằng trời chỉ có thế. Người có đầu óc thiển cận hẹp hòi cũng tưởng mọi chân lý đều chứa trong đầu óc của mình cả. Thiên kiến thường do sự thiếu khiêm tốn. Sự thật mênh mông. Chẳng ai dám tự hào mình biết tất cả sự thật. Người khiêm tốn là người thấy rõ giới hạn của mình, nên cố gắng đi tìm sự thật. Chỉ những người thiếu khiêm tốn mới hay huênh hoang tự đắc và chủ quan.
Thiên kiến thường dẫn đến những hậu quả tai hại. Vì thiên kiến, vua quan triều Nguyễn đã không chấp thuận những kiến nghị đổi mới của Nguyễn Trường Tộ. Nên đã để đất nước chìm trong lạc hậu. Nếu nghe theo chương trình đổi mới, có lẽ đất nước ta đã tiến nhanh hơn Nhật Bản. Vì Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy vấn đề và đề nghị từ cuối thế kỷ 19, trong khi Nhật mới chỉ canh tân từ đầu thế kỷ 20.
Nếu trong đời sống xã hội thiên kiến đã đưa đến những hậu quả tai hại, thì trong đời sống thiêng liêng, thiên kiến cũng gây ra những thiệt hại không kém. Người dân làng Nazareth mang nặng thiên kiến về Chúa Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh Đông dẹp Bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Chúa Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không tin. Vì họ không tin, nên Chúa Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nazareth nữa. Thật là thiệt hại cho làng quê Nazareth. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời. Rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại. Thiên kiến đã làm hại họ.
Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thiên kiến. Thiên kiến đối với anh em. Thiên kiến đối với Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nazareth, ta hãy tránh thiên kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn. Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý Nước Trời đem lại hạnh phúc cho ta.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Thiên kiến là gì? Hãy kể những lý do khiến ta có thiên kiến.
2- Muốn tránh thiên kiến ta phải làm gì?
3- Nhiều người ngoài đạo có những hiểu lầm về đạo. Hãy kể ra một vài hiểu lầm đó.
4- Bạn có những ý nghĩ không tốt về một người. Nhưng sau khi gặp gỡ, bạn lại nghĩ tốt về họ. Bạn rút kinh nghiệm gì về điều này?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Am 7,12-15
- Ep 1,3-14
- Mc 6,7-13
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Chúa Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Chúa Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Chúa Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Chúa Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ “không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Chúa Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình. Ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Chúa Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực đáng tin. Hơn nữa, Chúa Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài thi hành nhiệm vụ mà còn là cách làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Chúa Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị qủy ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Chúa Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào?
3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
4- Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gr 23,1-6
- Ep 2,13-18
- Mc 6,30-34
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư nhưng cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Hai nhịp chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, ta đã thấy Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm, Người đã bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.
Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống thể xác, con người phải làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình. Vì sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng, bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.
Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phụ vụ anh em.
Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện là tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hợp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?
2- Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?
3- Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?
4- Gia đình bạn có cầu nguyện chung với nhau trước khi đi ngủ không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 2V 4,42-44
- Ep 4,1-6
- Ga 6,1-15
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Tôi rất thích bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Chúa Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Chúa Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên Người đã làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Chúa Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Chúa Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dạy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giàu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2- Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3- Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4- Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xh 16,2-4.12-15
- Ep 4,17.20-24
- Ga 6,24-35
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Cách đây ít năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giàu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giàu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo balô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô tô. Có ô tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Chúa Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên Chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc? Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Chúa Giêsu Kitô.
Những người Do Thái đã sai lầm khi đi tìm Chúa Giêsu để được ăn bánh. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Chúa Giêsu. Ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dạy tổ phụ Abraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Abraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Abraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âutinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó?
2- Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không?
3- Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Chúa Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 1V 19,4-8
- Ep 4,30 – 5,2
- Ga 6,41-51
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình Người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Giêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng, người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về Nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, ủi an. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về Nhà Cha, Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Chúa Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể
Chúa Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma qủy cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Chúa Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy” (Ga 4,34). Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Lazarô, cho con trai bà goá thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Zakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samari. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời Ban Sự Sống Đời Đời” (Ga 6,68).
Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Chúa Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong Bí Tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính Thịt Máu Người, Chúa Giêsu không những muốn kết hợp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí Tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh Thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hoá chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Chúa Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.
Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Chúa Giêsu. Trong Thánh lễ, ta nghe Lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời.
Bởi thế, khi tham dự Thánh Lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự Thật và sự Sống. Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh Thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.
Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quí của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Có câu Kinh Thánh nào đã soi sáng bạn trong lúc khó khăn và đã trở thành kim chỉ nam cho đời bạn?
2- Có khi nào bạn cảm thấy Chúa muốn dạy dỗ bạn qua những bài Sách Thánh không?
3- Bạn cảm thấy thế nào mỗi khi rước lễ? Bạn có cảm thấy Chúa Giêsu gần gũi bạn không?
4- Hãy tóm tắt những tác dụng của Lời Chúa và của Thánh Thể Chúa.
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cn 9,1-6
- Ep 5,15-20
- Ga 6,51–58
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gien” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.
Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.
Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 16). Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.
Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.
Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hợp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình Máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một cuộc biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.
Khi mời gọi ta đến kết hợp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hợp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là Sự Sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2- Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?
3- Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?
4- Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gs 24,1-2a.15-17.18b
- Ep 5,21-32
- Ga 6, 54a.60-69
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết.
Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Khi Chúa Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Chúa Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.
Thế mà hôm nay, khi Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Chúa. Dù chưa hiểu những điều Chúa nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nước, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin mừng hôm nay.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đến lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?
2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?
3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Đnl 4,1-2.6-8
- Gc 1,17-18.21b-22.27
- Mc 7,1-8a.14-15.21-23
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do Thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Chúa Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Chúa Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Chúa Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).
Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng. Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Rửa tay hay rửa linh hồn, điều nào quan trọng hơn?
2- Điều gì quan trọng nhất trong đạo? Làm những việc phi thường hay là mến yêu Chúa và yêu thương anh em?
3- Bạn thường đi lễ cho đầy đủ bổn phận hay đi lễ vì yêu mến Chúa?
4- Bạn làm việc thiện vì yêu mến người nghèo hay vì muốn khoe khoang?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 35,4-7
- Gc 2,1-5
- Mc 7,31-37
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghịu, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc”. Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ. Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhạy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên Chúa.
Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu. Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đến nói với ta: “Ephata”. Hãy mở ra. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa. Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Hãy kể ra những thứ ngọng và nói lý do của những thứ ngọng đó
2- Hãy kể ra những thứ điếc và nói lý do của những thứ điếc đó.
3- Khi gặp người khác bạn thích nói hay thích nghe. Hoặc bạn không muốn nói cũng chẳng muốn nghe?
4- Lắng nghe có dễ không. Bạn có để ý lắng nghe Chúa và nghe nhau không?
5- Nói những điều tốt đẹp rất có ích lợi. Bạn đã có kinh nghiệm gì về điều này chưa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 50,5-9a
- Gc 2,14-18
- Mc 8,27-35
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời.
Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Zêbêđê mới xin Chúa cho 2 người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công, được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Chúa Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dạy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu Thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết. Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ?
Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Chúa Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Đâu là những cách hiểu sai lầm về Chúa?
2. Đâu là những hiểu lầm về người môn đệ của Chúa?
3. Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình hay không?
4. Tại sao Chúa chịu đau khổ?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kn 2,12.17-20
- Gc 3,16 – 4,3
- Mc 9,30-37
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Vào năm 2000, hàng tỷ người trên thế giới say mê theo dõi những cuộc tranh tài giữa các vận động viên hàng đầu của hành tinh trong Đại hội Olympic Sydney. Điểm đặc biệt của Olympic cuối cùng của thiên niên kỷ này là có sự tham dự của các vận động viên phụ nữ. Đây là một điểm son không của riêng Olympic mà của cả nhân loại. Điều đó chứng tỏ phụ nữ đang được trân trọng. Càng ngày vị trí của người phụ nữ càng được nâng cao. Nữ giới đang đi vào bình đẳng với nam giới trên hầu hết mọi lĩnh vực. Thế giới đang đi vào một nền văn minh mới mà Chúa Giêsu tha thiết truyền dạy cho các môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay.
Thời xa xưa, khi còn sống hoang dã, con người ta đối xử với nhau thật tàn nhẫn. Người ta tranh giành thực phẩm. Người ta tranh chấp đất đai. Tất cả đều theo định luật cạnh tranh sinh tồn. Trong cuộc cạnh tranh thì dĩ nhiên mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Khi con người đã biết tổ chức thành xã hội, sự cạnh tranh được định chế hoá trong giai cấp, quyền chức. Người có quyền có chức bao giờ cũng được lợi. Người dân đen thấp cổ bé miệng bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi. Người nghèo không được có tiếng nói. Chính vì thế, ai cũng cố gắng vượt lên trên người khác hoặc bằng tiền bạc hoặc bằng chức quyền. Ai cũng muốn làm người đứng đầu. Ai cũng muốn làm lớn. Vì thế luôn luôn có sự cạnh tranh ngôi thứ. Trong cuộc cạnh tranh, người ta nhìn nhau như đối thủ cần phải chà đạp, cần phải loại trừ.
Hôm nay, khi thấy các môn đệ có dấu hiệu ham hố chức quyền, cạnh tranh ngôi thứ, Chúa Giêsu đã nhân cơ hội dạy cho các ông biết tinh thần mới mà người môn đệ trong Nước Thiên Chúa phải có. Đó là: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”. Đây thật là một cuộc cách mạng. Vị trí trong xã hội bị đảo lộn. Người đứng đầu không còn phải để ra lệnh, nhưng để phục vụ. Người làm lớn không còn ăn trên ngồi trốc, nhưng chọn chỗ hèn mọn nhất. Người bé nhỏ nhất trở nên người lớn nhất. Người yếu đuối nhất trở nên người được trọng vọng nhất.
Đây là một cuộc cách mạng không đổ máu. Vì người đứng đầu trở thành người phục vụ không phải vì bị ép buộc nhưng do tự nguyện. Vì người làm lớn xuống chỗ hèn mọn nhất không buồn sầu nhưng trong niềm vui. Thế giới biến đổi không do những đấu tranh giành quyền lợi, nhưng do người có quyền tự nguyện từ bỏ đặc quyền đặc lợi. Với lời dạy dỗ ấy, Chúa Giêsu đã mở ra một nền văn minh mới. Trong nền văn minh mới này, người ta không còn nhìn nhau như những đối thủ phải loại trừ trong cuộc cạnh tranh. Người ta nhìn nhau như những người anh em phải yêu thương nâng đỡ. Sẽ không còn tranh giành. Sẽ không còn xâu xé, chà đạp nhau. Sẽ chỉ có yêu thương. Sẽ chỉ có quan tâm nâng đỡ. Người mạnh sẽ quan tâm dắt dìu người yếu. Người lớn sẽ cúi xuống bồng bế người bé. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể.
Để làm gương cho ta, chính Chúa Giêsu đã tự hạ mình trước. Là Thiên Chúa, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Là Đấng cầm quyền, nhưng Người đã tự nguyện vâng lời. Là thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là người lãnh đạo, nhưng Chúa Giêsu không đòi hỏi đặc quyền đặc lợi, trái lại Người sẵn sàng hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Người đã hoá thân làm một con người bé nhỏ, nghèo túng, hèn yếu nhất. Để từ nay, ai đón tiếp một người bé nhỏ nhất là đón tiếp chính Người. Ai giúp đỡ một người yếu hèn nhất là giúp đỡ chính Người. Ai yêu mến một người nghèo túng nhất là yêu mến chính Người. Với sự hạ mình của Người, số phận con người từ nay thay đổi tận gốc rễ. Người bé nhỏ trở thành đối tượng được quan tâm phục vụ. Người yếu đuối được nâng niu chăm sóc. Người nghèo hèn được kính trọng yêu thương. Vì họ đã trở thành hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Từ nay, nhân loại đi vào một nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương. Nhân loại không còn tranh chấp nhau, nhưng trở nên anh em đoàn kết thương yêu nhau. Sức khoẻ, của cải, chức quyền không phải là những phương tiện để chà đạp, nhưng là những phương tiện phục vụ. Lãnh đạo không còn là một quyền lợi, nhưng trở thành một nhiệm vụ nặng nề vì phải quan tâm phục vụ mọi người.
Suy gẫm Lời Chúa dạy hôm nay hẳn phải khiến ta giật mình lo lắng. Không những ta không đi vào con đường Chúa đã vạch ra, mà rất nhiều khi còn chống lại Lời Chúa dạy bảo. Ta vẫn nuôi những tham vọng thống trị người khác. Ta vẫn muốn chiếm giữ những địa vị quan trọng. Ta vẫn coi thường những người bé nhỏ, hèn yếu. Ta đang đi ngược trở lại thời tiền sử. Ta đang đi ngược lại con đường Chúa đã đi.
Hôm nay Chúa mời gọi ta hãy trở lại con đường của Chúa. Hãy tự nguyện trở thành người bé nhỏ khiêm nhường. Hãy biết nâng dậy những số phận hẩm hiu. Hãy biết kính trọng những nạn nhân của số phận nghiệt ngã. Hãy góp phần xây dựng nền văn minh mới, trong đó những người yếu đuối như phụ nữ và trẻ em được quan tâm và được kính trọng.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Ngày nay, trẻ em, phụ nữ, những người bệnh tật được quan tâm hơn ngày xưa. Bạn có thấy đó là dấu hiệu Lời Chúa dạy đang được thực hiện không?
2- Tại sao Chúa Giêsu sinh làm một người bé nhỏ, nghèo hèn?
3- Tại sao con người không nên tranh chấp nhau nhưng phải yêu thương phục vụ nhau?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ds 11,25-29
- Gc 5,1-6
- Mc 9,38-43.45.47-48
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc chắn không một ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Chúa Giêsu nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những lời đó. Chúa Giêsu bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này phạm tội, có nghĩa là ta phải quyết liệt với sự xấu.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu, nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi mạng sống con người.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.
Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ. Dứt khoát với tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma tuý trở thành một phần thiết thân của đời sống đến nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như đánh mất chính sự sống.
Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt lìa với những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con người, những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau đớn vô cùng.
Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được hạnh phúc mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.
Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.
Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa muốn hạnh phúc cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy, biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn có kinh nghiệm về việc dứt bỏ một nết xấu chưa? Dứt bỏ dễ hay khó?
2- Bạn có cầu nguyện tha thiết để dứt bỏ một nết xấu không?
3- Bạn có thấy cần thiết phải từ bỏ nết xấu không? Có cần quyết liệt không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- St 2,18-24
- Dt 2,9-11
- Mc 10, 2-16
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những bài sách thánh hôm nay, đặc biệt bài Tin mừng, nói về hôn nhân theo chương trình của Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu khi tạo dựng con người, được đặt trong bối cảnh Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn và sau đó đón tiếp trẻ em càng làm sáng lên ý nghĩa của hôn nhân. Ý nghĩa đó là:
1. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu kết hợp. Chúa đã tạo dựng con người vì yêu thương. Và con người là hình ảnh của Chúa nên càng phải sống trong yêu thương. Hơn nữa Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ để họ yêu thương và kết hợp với nhau. Vì thế hôn nhân phải là kết quả của tình yêu, phải là phấn đấu xây dựng tình yêu và phải là tổ ấm phát sinh tình yêu. Trong nhiều nền văn minh cổ xưa và ngay cả trong thời điểm hiện tại, nhiều cuộc hôn nhân không dựa trên tình yêu, nhưng dựa trên sở thích cá nhân hoặc dựa trên ích lợi. Khi sở thích cá nhân không được đáp ứng. Khi không còn ích lợi thì hôn nhân tan rã. Con người là hình ảnh của Chúa. Hôn nhân phải rập theo khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi nhưng một Chúa. Cũng thế trong hôn nhân hai người nam nữ phải trở nên một. Ba Ngôi hiệp nhất trong yêu thương. Đó là mẫu gương của tình yêu hôn nhân gia đình. Tình yêu tự nhiên đưa đến kết hợp. Phân ly là không có tình yêu. Hôn nhân không có tình yêu là hôn nhân giả hiệu.
2. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu kính trọng. Đã có tình yêu phải có kính trọng. Kính trọng người bạn vì đó là người ngang hàng với mình. Adam không thể tìm được bạn bè trong đám súc vật nên buồn rầu mãi cho tới khi có Evà. Gặp Evà lập tức Adam nhận ngay ra người bình đẳng với mình, là “xương của xương tôi, thịt của thịt tôi” (St 2,23). Vẫn còn nhiều nơi coi phụ nữ như hạng người thứ cấp, như một nô lệ, như một dụng cụ. Nên khi người phụ nữ không đáp ứng được yêu cầu lập tức bị đuổi ra khỏi nhà. Chúa Giêsu dạy ta phải kính trọng mọi người, kính trọng phụ nữ và ngay cả trẻ em. Vì phụ nữ hay trẻ em cũng là người, cũng có nhân vị, cũng đáng được tôn trọng vì cũng là hình ảnh của Chúa. Chỉ có kính trọng tình yêu mới xứng đáng. Chỉ có kính trọng tình yêu mới bền vững.
3. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu hi sinh. Tình yêu đích thực là tình yêu hướng đến người khác, tìm hạnh phúc cho người khác. Vì thế tình yêu đích thực là tình yêu hi sinh. Đó chính là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa. Chúa Cha yêu thương Chúa Con nên đã ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có. Chúa Giêsu vì yêu thương Chúa Cha nên đã “vâng lời cho đến chết và chết trên thánh giá” (Pl 2,8). Vì thế Chúa Giêsu xứng đáng được Chúa Cha khen ngợi: “Con là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng” (Mc 1,11). Tình yêu càng tìm mình càng không gặp. Tình yêu càng quên mình lại càng được yêu thương. Tình yêu càng tìm bản thân càng thấy bất hạnh. Tình yêu càng quên mình lại càng hạnh phúc.
Nếu mọi cuộc hôn nhân đều được xây dựng trên tình yêu kết hợp, tình yêu kính trọng và tình yêu hi sinh theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi, theo gương của Chúa Giêsu thì chắc chắn sẽ bền vững, sinh hoa kết quả, làm đẹp cho xã hội và nâng cao phẩm giá con người.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Ngày nay những cuộc hôn nhân tan vỡ rất nhiều. Lý do tại sao?
2- Hôn nhân nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly. Luật của Chúa và Hội Thánh này làm tàn lụi hay làm thăng tiến con người?
3- Bạn học hỏi được điều gì nơi tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi và đặc biệt của Chúa Giêsu?
--------------------------------
TN 28-B: MẾN CHÚA TRÊN HẾT LÀ CHÌA KHOÁ SỰ KHÔN NGOAN
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kn 7,7-11
- Dt 4,12-13
- Mc 10,17–30
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Câu chuyện chàng thanh niên giàu có tốt lành có một khởi đầu đẹp. Đẹp đến nỗi Chúa nhìn và đem lòng yêu thương anh. Nhưng lại có một kết thúc đáng buồn. Anh thanh niên bỏ đi buồn bã vì không thể theo Chúa. Chúa Giêsu cũng buồn vì anh gắn bó với tiền bạc hơn yêu mến Chúa.
Câu chuyện người thanh niên có thể là câu chuyện của mỗi người. Cũng như chàng thanh niên, bình thường ta giữ đạo rất dễ dàng. Sáng đi lễ, chiều đọc kinh, không làm điều gì gian ác, không bất công tham lam của người khác. Nhưng khi gặp mâu thuẫn giữa cuộc sống với việc đạo, phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những giá trị trần gian, nhiều khi ta nao núng và rất nhiều người đã vì những giá trị trần gian mà bỏ Chúa. Có những người khi còn nghèo túng thì giữ đạo rất tốt. Nhưng khi đứng trước những cám dỗ của tiền của thì vì ham mê tiền của mà sống gian dối, đánh mất lương tâm công giáo. Có những người khi còn nhỏ thì rất ngoan ngoãn đạo đức, nhưng khi đến tuổi trưởng thành thì vì thú vui mà bỏ quên việc đạo. Nhưng nhất là có những người vốn con nhà đạo gốc rất sốt sắng, nhưng khi gặp cám dỗ về chức quyền thì vì một chút danh vọng, đành bỏ Chúa, bỏ đạo.
Theo suy nghĩ của người đời, những ai tìm được tiền của, đạt được danh vọng, nay lên chức mai lên quyền, là những người tài khéo khôn ngoan. Nhưng đó chỉ là khôn ngoan nhất thời kiểu trần gian. Vì cuộc sống trần gian có hạn. Con người ai cũng phải chết. Chết rồi có ai mang theo được của cải, danh vọng, chức quyền vào thế giới bên kia đâu. Thế mà cuộc sống sau cái chết mới là quan trọng, vì là cuộc sống vĩnh cửu không bao giờ tàn lụi. Ai đạt được hạnh phúc vĩnh viễn ở đời sau mới là người thực sự khôn ngoan. Vì đó mới là hạnh phúc vĩnh cửu không bao giờ phai tàn.
Chúa muốn ta đừng gắn bó với của cải nhưng phải gắn bó với Chúa, không phải vì Chúa muốn con cái phải khổ sở, hèn hạ. Nhưng vì Chúa muốn cho ta chọn con đường khôn ngoan, để đạt tới hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu.
Ta đi đạo để chọn Chúa. Vì chọn Chúa ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Những cản trở có thể là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Những cản trở cũng có thể là một người mà ta gắn bó, một nơi mà ta không thể dứt bỏ. Những cản trở đó cũng có thể là một lòng tự ái, một sự ghen ghét, bất mãn. Nếu ta biết dứt bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa ta sẽ đạt được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn. Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa. Vì thế khi thánh Phêrô hỏi Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con sẽ được gì. Chúa đã trả lời: ai bỏ mọi sự mà theo Chúa, sẽ được gấp trăm và được sự sống vĩnh cửu. Người khôn thì phải biết nhìn xa trông rộng. Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm những giá trị vĩnh cửu. Như thế yêu mến Chúa là chìa khoá của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa chính là hạnh phúc của con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn nghĩ gì về chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay?
2- Những khi tiền bạc, danh vọng, chức quyền làm cho bạn xa Chúa, xa đạo, bạn có dễ dàng từ bỏ tất cả vì Chúa, vì đạo không?
3- Có bao giờ bạn so sánh sự khôn ngoan trần gian với sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa không?
4- Bạn khao khát sự sống đời đời. Nhưng bạn có dám từ bỏ mọi sự vì sự sống đời đời không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 53,10-11
- Dt 4,14-16
- Mc 10,35-45
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong đời sống ai cũng muốn thăng tiến. Thăng tiến thường được hiểu là lên quyền, lên chức, lên địa vị. Đó chính là thái độ của hai anh em nhà Zêbêđê hôm nay. Họ cậy thần thế thân quen với Chúa Giêsu để vận động lên quyền lên chức. Xin ngồi bên tả bên hữu Chúa khi Chúa được vinh quang. Nhân dịp này Chúa dạy họ biết Nước Trời khác với nước trần gian. Lãnh đạo trong Nước Trời khác với lãnh đạo trong nước trần gian. Phải hiến thân phục vụ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho ta khi xuống trần cứu độ nhân thế.
Chúa Giêsu hiến thân phục vụ như người tôi trung.Từ xưa Isaia đã đưa ra hình ảnh người tôi trung bị nghiền nát vì đau khổ. Vì đã hiến thân phục vụ. Vì người tôi trung gánh lấy tội lỗi cho toàn dân. Nên phải chịu đau khổ thay cho toàn dân. Nhờ đó toàn dân được ơn cứu độ. Dòng dõi được trường tồn. Được thấy ánh sáng hy vọng.
Chúa Giêsu hiến thân phục vụ như vị Thượng Tế siêu phàm. Thư Do thái trình bày Chúa Giêsu là vị Thượng Tế siêu phàm. Vừa là con người. Nên đã chịu nhiều đau khổ thử thách. Vì thế biết cảm thương nhân loại yếu hèn. Vừa là Thiên Chúa nên có thể làm trung gian nối kết loài người với Thiên Chúa. Dâng lời khẩn cầu của con người lên Thiên Chúa.
Chúa Giêsu hiến thân phục vụ như người nô lệ. Đây chính là điều Chúa Giêsu trực tiếp dạy dỗ các môn đệ. “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lướn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”.
Chúa không chỉ nói. Chính Chúa đã hiến thân phục vụ đến hiến mạng sống. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Thành ra Nước Trời ngược với nước trần gian. Trần gian thăng tiến bằng đi lên. Nước Trời thăng tiến bằng đi xuống. Trần gian thăng tiến bằng thống trị. Nước Trời thăng tiến bằng phục vụ. Trần gian quên người để phục vụ mình Nước Trời quên mình để phục vụ người. Chính Chúa Giêsu đã đi con đường hiến thân phục vụ. Ta là môn đệ đâu thể đi con đường khác. Chính con đường hiến thân phục vụ mới đem hạnh phúc cho tha nhân.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Nhưng hình ảnh nào trong Thánh Kinh nói về Chúa Giêsu phục vụ?
2.Chúa Giêsu tự nhận mình làm gì để phục vụ?
3.Nước Trời khác nước trần gian thế nào về cung cách lãnh đạo?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gr 31,7-9
- Dt 5,1-6
- Mc 10,46-52
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.
Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thuở.
Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.
Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.
Nhưng Chúa Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng hi vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hi vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hi vọng. Niềm hi vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.
Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa. Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quí giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến Sự Thật và đến Sự Sống.
Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hi vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hi vọng vào Chúa. Niềm hi vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.
2- Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh.
3- Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?
4- Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?
5- Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Đnl 6,2-6
- Dt 7,23-28
- Mc 12,28b-34
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chuyện kể có một bà mệnh phụ giàu nứt đố đổ vách. Bà sống trong một biệt thự sang trọng như một toà lâu đài. Trong nhà không thiếu thứ gì. Ngoài căn biệt thự để ở, bà còn có những nhà nghỉ mát ở bờ biển, ở trên núi. Và có một khách sạn hạng sang. Kẻ ăn người ở tấp nập. Bà là người có đạo, thỉnh thoảng cũng đi lễ. Trong số người làm có anh tài xế là người có đạo rất sốt sắng, không những siêng năng đi lễ, đọc kinh cầu nguyện mà còn hiếu thảo với cha mẹ, hay giúp đỡ kẻ nghèo hơn mình.
Một lần anh tài xế chở bà đi công việc. Bị tai nạn xe, cả hai đều thiệt mạng. Bà chủ và anh tài xế đều được lên thiên đàng. Thánh Phêrô và các thiên thần dẫn 2 người đến nơi ở của họ.
Đi ngang qua một phố mặt tiền đầy nhà cửa cao tầng, thấy có một căn nhà đang xây, gạch đá, xi măng chất cao, thợ thuyền làm việc tấp nập. Thánh Phêrô chỉ căn nhà đang xây cho biết đây là nhà anh tài xế. Nhà sẽ xây 3 tầng và có đủ mọi tiện nghi. Bà chủ mừng vì nhà anh tài xế đã đẹp thế, chắc nhà mình sẽ đẹp hơn nhiều.
Nhưng thánh Phêrô và các thiên thần dẫn bà đi mãi, ra khỏi thành phố, vào một miền quê nghèo, thấy có mấy người thợ đang dựng một túp lều bằng mấy cây tre và lợp bằng rạ. Thánh Phêrô chỉ túp lều và nói đó là nhà của bà chủ.
Bà tức giận hỏi tại sao bà phải ở căn nhà tồi tàn còn anh tài xế được ở căn nhà sang trọng thế kia? Thánh Phêrô cho biết nhà được xây bằng chính vật liệu của mỗi người. Khi còn sống ở trần gian, ai gửi lên bao nhiêu thì khi chết, thiên đàng làm cho bấy nhiêu. Bà hỏi: Thế anh tài xế chuyển vật liệu lên cách nào mà nhanh và nhiều như thế? Thánh Phêrô trả lời: Anh tài xế đã dùng cả cuộc đời dương thế để chuyển vật liệu lên nước trời. Mỗi thánh lễ là một tấn sắt. Mỗi tràng hạt là một tấn xi măng. Mỗi việc bác ái là một viên đá hoa. Mỗi hi sinh là một ngọn điện. Cả đời anh đã gom góp gửi lên thiên đàng nên được nhiều như thế. Còn bà cả đời bà chỉ lo xây dựng nhà cửa nơi trần thế, không chịu đi lễ đọc kinh, không chịu làm việc bác ái, không hi sinh chịu khó, nên bà chỉ gửi lên được vài cây tre và mấy bó rạ.
Chắc chắn đây không phải là một câu chuyện có thật. Nhưng câu chuyện đã nói với chúng ta về những chân lý trong đạo. Chân lý đó là: Sự sống thay đổi chứ không mất đi.
Có những thay đổi nơi ở. Còn sống thì ở trần gian. Khi chết xác phải nằm dưới lòng đất lạnh. Hồn thì ra trước toà Chúa để chịu phán xét. Hồn đi đâu là tuỳ công phúc đã lập khi còn ở trần gian.
Có những thay đổi về trạng thái sống. Còn ở dương thế ta sống cả xác và hồn. Nhưng khi chết, xác nằm trong lòng đất, ta chỉ sống sự sống của linh hồn. Chỉ đến ngày tận thế, xác mới sống lại hoà nhập với hồn trong một cuộc sống vĩnh cửu không bao giờ tàn.
Nhưng quan trọng nhất là sẽ có những thay đổi về số phận. Có những người trên dương thế giàu sang, quyền thế, sung sướng nhưng khi chết phải khốn khổ. Có những người trên dương thế lầm than khốn khổ nhưng trên thiên đàng lại hạnh phúc vinh quang. Điều này Chúa đã kể cho ta nghe qua dụ ngôn “Người phú hộ và Lazarô”.
Người khôn phải biết chuẩn bị về đời sau. Người khôn phải biết chuẩn bị cho những gì lâu dài vĩnh cửu. Người khôn phải biết tìm kiếm hạnh phúc đích thực. Người khôn phải biết chăm lo đời sống linh hồn là đời sống không bao giờ tàn úa.
Tháng 11 đã chớm thu. Lá bắt đầu úa và dần đần rụng xuống. Năm cũ đã gần hết. Tất cả nhắc nhở chúng ta về sự mau qua của đời sống trần thế. Ngày đầu tháng 11, Giáo hội hướng lòng ta về những người thân yêu đã qua đời. Nhớ để cầu nguyện cho các ngài. Nhưng cũng là dịp để ta ngẫm đến thân phận dòn mỏng của con người. Biết cuộc sống mau qua để ta hướng lòng về đời sau.
Lạy Chúa, xin ban cho con sự khôn ngoan, để con biết tìm Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Hãy kể ra những thay đổi ở đời sau.
2- Những thay đổi ấy nhắc cho ta điều gì? Phải xây dựng nhà cửa ở đâu cho vững chắc? Phải tích trữ tiền của ở đâu cho an toàn? Phải đầu tư vào đâu để có lợi nhuận tối đa?
3- Tháng 11 có khiến bạn nghĩ đến cái chết?
4- Tháng 11 có khiến bạn nghĩ đến ông bà cha mẹ đã qua đời?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 1V 17,10-16
- Dt 9,24-28
- Mc 12, 38-44
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Người làm sao chiêm bao làm vậy. Tâm hồn thế nào sẽ bộc lộ ra trong ánh mắt thế ấy. Hôm nay, Chúa Giêsu ngồi trước cửa đền thờ Giêrusalem quan sát những người bỏ tiền vào hòm dâng cúng trong đền thờ. Người đã thấy. Và Người đã phán đoán. Qua cách quan sát và phán đoán ta có thể thấy được tâm hồn của Người.
Chúa quan tâm tới những người bé nhỏ. Hàng hàng lớp lớp người tiến đến dâng cúng. Tin Mừng thuật lại: “Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma”. Thật lạ lùng. Biết bao nhiêu người Chúa chẳng quan tâm, chỉ quan tâm tới một người bé nhỏ nhất. Biết bao nhiêu người giàu có mà Chúa chẳng quan tâm. Chúa chỉ quan tâm tới một người nghèo nhất. Một bà góa. Bà góa này chắc chắn phải gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nhưng Chúa đã chú ý đến bà. Người ta bảo tìm gì gặp nấy. Chúa yêu thương những người bé nhỏ, nên quan tâm tới người bé nhỏ và chỉ nhìn thấy những người bé nhỏ. Ánh mắt quan tâm nên nhìn thấy rõ, dù người đó bé nhỏ, lạc giữa đám đông. Ánh mắt yêu thương nên thấy người đó thật đẹp dù ăn mặc rất đơn sơ, hình dáng rất tiều tụy. Quả thật trái tim Chúa nhân hiền như người mục tử tốt lành, bỏ chín mươi chín con chiên béo tốt để đi tìm một con chiên lạc còm cõi. Như người phụ nữ đốt đèn tìm một đồng tiền nhỏ bé rơi trong góc nhà.
Chúa nhìn bên trong tâm hồn. Biết bao người giàu sang béo tốt quần là áo lụa, nhưng Chúa không nhìn. Chúa chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy gò, rách rưới. Biết bao người dâng cúng tiền rừng bạc biển mà Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen người phụ nữ bỏ vào thùng tiền 2 đồng xu nhỏ. Không những khen mà Chúa còn cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác. Thì ra Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. Chúa cho biết tại sao Chúa khen bà: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Chúa đã nhìn thấu tâm hồn của bà. Một tâm hồn thiết tha yêu mến Chúa và với công việc nhà Chúa. Chúa đã thấy tấm lòng của bà. Một tấm lòng quảng đại dám cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình.
Lời Chúa hôm nay vừa cảnh tỉnh tôi vừa dạy dỗ tôi về cách sống đạo và về cách nhìn người.
Về cách nhìn người, Chúa dạy tôi đừng chạy theo những người giàu sang phú quí quyền cao chức trọng, nhưng hãy biết chú ý tới những người bé nhỏ nghèo hèn trong xã hội. Đừng xét đoán người theo hình dáng bề ngoài, theo y phục hay theo tiền của. Hãy biết nhìn bên trong tâm hồn con người. Có những người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp hèn. Có những người nghèo hèn nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khó nhưng rất quảng đại.
Vì thế trong đời sống đạo, Chúa dạy tôi đừng giả hình vì Chúa nhìn thấu rõ tâm hồn. Tôi có thể lừa dối người khác, nhưng không thể lừa dối Chúa. Đừng khoe khoang kiêu ngạo vì Chúa chỉ yêu thích tâm hồn bé nhỏ khiêm nhường. Đừng tìm chỗ đứng trong xã hội, trước mặt người đời, nhưng hãy tìm chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết noi gương bà góa nghèo, biết sống đơn sơ chân thật, nhưng luôn quảng đại với Chúa và với anh em.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Trong Phúc Âm ta thấy Chúa quan tâm tới những người nào?
2- Chúa đánh giá người ta theo hình dáng bên ngoài hay tâm tình bên trong?
3- Vì sao Chúa khen bà góa dù bà bỏ rất ít tiền vào nhà thờ?
4- Bản thân tôi rút được bài học gì qua bài Tin Mừng hôm nay?
--------------------------------
TN 33-B: GHI TÊN VÀO CUỐN SÁCH CỦA CHÚA
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Đn 12,1-3
- Dt 10,11-14.18
- Mc 13,24-32
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Năm phụng vụ đang đi vào những ngày cuối. Giáo hội mời gọi ta hãy nghĩ đến chung cục của thế giới và của đời mình. Vì vũ trụ và con người đều phải chịu quy luật do Thiên Chúa đặt định. Nên ta phải chuẩn bị cho ngày trọng đại quyết định số phận mỗi người. Phải chuẩn bị với nhận thức những sự thực quan trọng trong đời sống.
Sự thực thứ nhất: Thiên Chúa là Chúa Tể vũ trụ và thời gian. Người quyết định vận mệnh của cả vũ trụ và của từng người. Không vật nào dù lớn dù nhỏ ra khỏi vòng kiểm soát của Người. Không thời gian nào dù dài dù ngắn mà Người không quan phòng sắp xếp. Và Người vượt trên mọi tầng trời, mọi quyền lực, uy nghi ngự đến thống trị thế giới. “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong mây trời mà đến.” Và mọi sự kể cả những kẻ thù địch phải quy phục Người. “Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân.”
Sự thực thứ hai: Thiên Chúa sẽ chấm dứt thế giới cũ. Theo quy luật của thời gian. Có sinh có tử. Có khởi đầu có kết thúc. Tất cả sẽ đi đến tận cùng. Cả những gì lớn lao nhất như mặt trời mặt trăng và các vì tinh tú: “Trong những ngày ấy, sau cơn gian nan lớn lao, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống”. Cả những quyền lực cho dù hùng mạnh nhất cũng sụp đổ: “các quyền lực trên trời bị lay chuyển.” Huống hồ là quyền lực nhỏ nhoi trên mặt đất. Tuy nhiên đó chưa phải là hết. Vì Thiên Chúa sẽ khai sinh một thế giới mới.
Sự thực thứ ba: Thiên Chúa sẽ khai sinh thế giới mới. Thế giới mới bắt đầu từ thế giới cũ. Thiên Chúa sẽ xét xử và tuyển chọn những người xứng đáng để được vào thế giới mới. “Lúc đó Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.” Kể cả những người đã chết cũng sẽ sống lại mà chịu xét xử. “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy.” Tất cả đều bị xét xử.
Sự thực thứ tư: Thiên Chúa tuyển chọn công dân của thế giới mới. Tất cả mọi người phải ra trước mặt Thiên Chúa. Và Thiên Chúa sẽ phân loại. “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.” Những người được tuyển chọn làm công dân mới, làm dân của Chúa, sẽ thoát cơn thịnh nộ. Như Đaniel đã báo trước: “Thời đó, dân Người sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa.”
Sau khi cho chúng ta nhận thức những sự thực liên quan đến vận mệnh cuộc đời, Lời Chúa hướng dẫn ta cách sống sao để trở thành người được tuyển chọn. Làm thế nào để được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa. Tức là cuốn sổ trường sinh. Thánh vịnh 15 trong bài Đáp ca hướng dẫn ta điều đó.
Trước hết đừng gắn bó với những thực tại trần gian. Vì tất cả rồi sẽ tan thành mây khói. Hãy lấy Chúa làm sản nghiệp. Sẽ muôn đời bền vững:
“Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng
Là chén phúc lộc dành cho con”
Nhận Chúa làm phần gia nghiệp là kho tàng thì ta phải luôn gắn bó với Chúa. Sống trước mặt Chúa. Tức là tuân giữ thánh chỉ của Người. Có Chúa ta tràn đầy niềm bình an và niềm vui:
“Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
Được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ
Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan”
Ở trong Chúa ta sẽ được phục sinh khỏi thế giới kẻ chết:
“Thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn
Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty
Không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ”
Chúa sẽ đưa chúng ta vào thế giới sự sống, ở bên Chúa, là niềm vui đời đời.
“Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống
Trước Thánh Nhan ôi vui sướng tràn trề
Ở bên ngài hoan lạc chẳng hề vơi!”
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Có phải những lãnh chúa trần gian làm chủ vận mệnh thế giới không? Tại sao?
2.Ta có nên trông cậy vào quyền lực và của cải trần gian không?
3.Ta phải làm gì để được ghi tên vào cuốn sách của Chúa?
--------------------------------
VUA SỰ THẬT
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Đn 7,13-14
- Kh 1,5-8
- Ga 18,33b-37
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúa Giêsu thật là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng cách trốn đi. Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất phới đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi. Thế mà Chúa lại phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay, phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thân tàn ma dại, chẳng còn hình tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang xưng mình là vua. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái chết, đối diện với quyền lực và đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng vương trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật.
Sự thật mà Chúa Giêsu làm chứng đó là có một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc trần gian. Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này còn có một cuộc đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là vương quốc của Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy vĩnh cửu vì vượt mọi thời gian. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Chúa Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết Vương quốc của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật mà Chúa Giêsu làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu đuối nhưng vẫn hiên ngang đối diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La Mã bao trùm thiên hạ, Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi quyền năng như Ngài đã trả lời Philatô: “Ông có quyền không bởi tự mình mà có, nhưng từ Thiên Chúa ban cho”. Thánh nữ Xêxilia cũng nói: “Quyền uy ở đời giống như quả bong bóng. Nó không triển nở ở tự nó. Nó không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ đến không khí. Nhưng chỉ một mũi kim cũng làm nó xẹp xuống”. Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Chúa Giêsu không xưng vương khi tràn đầy uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương khi được dân chúng tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn đầy uy tín, thì vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua chúa trần gian khác. Nhưng hôm nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung hô ủng hộ, Chúa Giêsu xưng vương để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và vinh quang theo thói thế gian. Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế những ai muốn vào vương quốc của Ngài phải biết coi thường mọi vinh quang quyền thế ở trần gian.
Sự thật mà Chúa Giêsu làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Chúa Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Chúa Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Chúa Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Chúa Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Chúa Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quí trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Chúa Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu là Vua của chúng con, xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu muôn đời.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Chúa Giêsu cho biết gì về vương quốc của Chúa?
2- Chúa Giêsu cho biết gì về quyền năng của Chúa?
3- Chúa Giêsu cho biết gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù hận?
4- Muốn sống trong vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
-------------------------------
CÁC LỄ ĐẶC BIỆT
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ds 6,22-27
- Gl 4,4-7
- Lc 2,16-21
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động. Những biến động của năm cũ khiến ta phải lo âu khắc khoải tự hỏi: Năm mới sẽ đi về đâu? Trong niềm băn khoăn khắc khoải đó, Giáo hội mời gọi ta hãy chiêm ngắm Đức Mẹ để tìm được hướng đi trong năm mới vừa khởi đầu.
Khi sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ đã sống trong những biến động lớn lao. Biết bao biến cố dồn dập xảy đến. Giữa những biến động ấy, Đức Mẹ vẫn giữ tâm hồn trầm lắng: quan sát, “ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đó là một mẫu gương của người luôn suy niệm Lời Chúa để tìm thánh ý Thiên Chúa, và từ đó tìm một hướng đi chính xác cho đời mình.
Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm vì biết Chúa là chủ lịch sử. Vì yêu thương Chúa đã sắp xếp cho con người một chương trình tốt đẹp. Khi con người hư hỏng làm sai, Chúa lại tìm cách cứu chữa. Riêng bản thân Đức Mẹ đã cảm nghiệm: từ việc truyền tin đến việc sinh ra Chúa Giêsu, từ việc các thiên thần ca hát đến việc các mục đồng chúc mừng, từ việc ba vua đến thờ lạy đến việc phải đưa Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập, tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Chương trình bày tỏ lòng Chúa yêu thương muốn cứu chuộc con người, vì hạnh phúc của con người.
Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm để cộng tác với Chúa. Đức Mẹ luôn ngoan ngoãn thi hành những điều Chúa dạy. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ tìm thấy qua những biến cố như kê khai hộ tịch, như trốn sang Ai Cập. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ thấy qua lề luật, như phải dâng con vào Đền Thờ, phải cho con trẻ chịu phép cắt bì. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ thấy rõ ràng qua lời thiên thần truyền, như việc thụ thai sinh con trai, như việc đặt tên cho Chúa Giêsu. Sau khi biết rõ thánh ý Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn thi hành. Nhờ thế chương trình của Chúa được thực hiện.
Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm để cộng tác với mọi người. Biết những người mình gặp gỡ đều do Chúa gửi đến nên Đức Mẹ sẵn sàng đón tiếp và cộng tác với mọi người. Từ thiên thần Gabriel cho đến bà thánh Êlizabét Từ thánh Gioan Baotixita cho đến thánh Giuse. Từ ba vua cho đến hoàng đế Augusto. Từ thiên thần ca hát cho đến mục đồng thờ lạy. Tất cả đều được Đức Mẹ đón tiếp và cộng tác để làm cho chương trình của Chúa được nên trọn.
Năm Mới vừa mở trang đầu tiên trước mắt chúng ta. Để năm mới được hoàn toàn tốt đẹp, ta hãy noi gương Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm những biến cố để tìm thánh ý Chúa. Đặc biệt trong Năm Lời Chúa ta hãy siêng năng suy niệm Lời Chúa. Chuyên chăm đọc, suy niệm Lời Chúa sẽ giúp ta tìm được thánh ý Thiên Chúa. Hãy nhận biết Chúa làm chủ lịch sử. Năm mới là món quà Chúa ban tặng cho ta với những chương trình tốt đẹp của Chúa. Nhưng để chương trình được thực hiện, Chúa cần nhờ sự cộng tác của ta. Và sau cùng ta phải cộng tác với mọi người. Mỗi người là một mắt xích trong kế họach của Chúa. Mỗi người có một vai trò trong chương trình của Chúa. Cần phải hợp tác với nhau, mỗi người một việc, để chương trình của Chúa được thực hiện.
Nhìn vào các chủng sinh ta càng thấy rõ sự quan phòng của Chúa. Mỗi ơn gọi là một mầu nhiệm. Mỗi ơn gọi là một lịch sử. Chính ơn Chúa kêu gọi từng người. Chính bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa sắp xếp từng phút giây của cuộc đời chủng sinh. Với chủng viện, Chúa muốn có một chương trình tốt đẹp cho Dân Chúa. Nhưng chương trình đó chỉ được thực hiện với sự cộng tác của từng cá nhân. Và chương trình đó chỉ được thực hiện với sự hợp tác của nhiều người. Hiểu rõ điều ấy, nên Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội hôm nay tổ chức ngày cầu nguyện cho các ân nhân. Xin Chúa ban dồi dào ơn lành để chúng ta hiểu biết thánh ý Chúa, cộng tác với ơn Chúa, và cộng tác với nhau để cho chương trình tốt đẹp của Chúa được thực hiện.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng năm mới này cho Chúa. Xin Chúa thương chúc lành và cho chúng con biết dùng năm mới này thực hiện chương trình của Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Tại sao Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng?
2.Lời Chúa là ngọn đèn soi bước con đi. Bạn có thấy Đức Mẹ thực hành lời đó không?
3.Bạn có ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa không?
4.Bạn sống Lời Chúa trong cuộc đời thế nào?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ds 6,22-27
- Gl 4,4-7
- Lc 2,16-21
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những giây phút đầu tiên là những giây phút thiêng liêng nhất. Dành những giây phút thiêng liêng nhất cho việc cầu nguyện tạ ơn Chúa thì thật đẹp. Những giây phút thiêng liêng dành cho những ước nguyện cao đẹp nhất. Đối với Hội Thánh ước nguyện cao đẹp nhất là hòa bình cho thế giới. Vì thế Hội Thánh dành ngày đầu tiên trong năm mới để cầu nguyện cho hòa bình.
Hòa bình không phải chỉ là một trật tự yên tĩnh. Một trật tự hoàn toàn im lìm thì đáng sợ hơn là đáng mơ ước. Theo nghĩa tích cực, hòa bình là cuộc sống hài hòa trong tôn trọng và giúp phát huy đến mức tối đa mọi tiềm năng. Đức Thánh Cha Bênêđichtô 16 nhấn mạnh: “Nhân vị là trái tim của hòa bình”. Theo Đức Thánh Cha, hòa bình phải được xây dựng trên sự tôn trọng phẩm giá con người. Tôn trọng con người dẫn đến tôn trọng môi trường sống của con người. Không chỉ là môi trường sinh thái thiên nhiên, nhưng còn là môi trường văn hóa xã hội và nhất là môi trường luân lý đạo đức. Chỉ chú ý tới phát triển khoa học kỹ thuật mà quên luân lý đạo đức sẽ không thể có hòa bình.
Trong ngày đầu năm, Hội Thánh mời gọi chúng ta theo gương mục đồng đến ngắm nhìn Chúa Giêsu trong hang đá Bêlem. Chúa Giêsu là Vua Hòa Bình. Như lời thiên thần ca hát: Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Hòa Bình dưới thế cho người Chúa thương. Chúa Giêsu là sứ giả từ trời xuống để nối kết đất với trời, để Thiên Chúa đối thoại với con người.
Đó là cuộc đối thoại bằng đời sống. Thánh Phaolô đã nhận định: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với loài người qua các tổ phụ và các tiên tri. Nhưng đến thời sau hết, Thiên Chúa nói với chúng ta qua Người Con” (Dt 1,1). Thiên Chúa xuống trần để trực tiếp đối thoại với con người. Không chỉ đối thoại bằng lời nói mà còn đối thoại bằng đời sống. Chúa xuống trần không như kiểu cách vua chúa cao sang hạ cố ban phát ân huệ cho con người khốn cùng, hèn hạ. Nhưng Chúa xuống như một người thân chia sẻ với người thân. Hãy nhìn vào hang đá Bêlem. Chúa sinh ra như một trẻ thơ bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn. Thật gần gũi và thân tình biết bao.
Đó là cuộc đối thoại bằng tôn trọng phẩm giá con người. Vì trân trọng con người, nên Chúa vui lòng mặc lấy thân xác con người, chia sẻ kiếp sống với con người. Chúa trở nên một trẻ thơ yếu ớt để trân trọng những người bé nhỏ, yếu ớt. Chúa sinh ra trong chuồng bò lừa để chia sẻ với những người nghèo khổ nhất trong xã hội. Sau này khi đi rao giảng, Chúa luôn trân trọng những người bé nhỏ, nghèo hèn, bị bỏ rơi trong xã hội.
Đó là cuộc đối thoại bằng yêu thương phục vụ. Chúa Giêsu nằm trên máng cỏ để trở thành lương thực nuôi dưỡng đoàn chiên. Thật là một cử chỉ yêu thương phục vụ tự nguyện cao cả. Yêu thương phục vụ được kết tinh vào lúc cuối đời. Hãy chiêm ngưỡng cảnh Chúa quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Chúa đã sống như lời Chúa nói: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Hãy chiêm ngưỡng Chúa chịu chết trên thánh giá. Đó là yêu thương phục vụ đến tuyệt đỉnh. Đó chính là mẫu mực của người kiến tạo hòa bình.
Sau khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong máng cỏ, các mục đồng ra về lòng tràn đầy niềm vui và cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa. Sau khi gặp gỡ Vua Hòa Bình, họ được tràn đầy niềm bình an.
Hôm nay, đại chủng viện Hà Nội muốn dâng thánh lễ này để cầu nguyện cho những ân nhân góp phần vào việc đào tạo chủng sinh. Các chủng sinh sẽ là những linh mục của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho các linh mục và các chủng sinh để các ngài thực sự là hình ảnh của Chúa Giêsu Vua Hòa Bình. Để qua đời sống của các ngài mọi người gặp gỡ các ngài đều cảm thấy niềm vui và bình an.
Năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam mời gọi ta sống YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ. Ta hãy tích cực sống yêu thương phục vụ theo gương Chúa Giêsu. Đó chính là góp phần vào việc kiến tạo hòa bình trên thế giới.
Lạy Chúa Giêsu Vua Hòa Bình, xin ban bình an cho chúng con.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Tại sao Giáo hội dành ngày đầu năm cầu nguyện cho hoà bình?
2.Tại sao gọi Chúa Giêsu là Vua Hoà Bình?
4.Bạn phải sống thế nào để kiến tạo hoà bình?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 65,17-21
- Kh 21,1-6
- Mt 5,43-48
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt Nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt Nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên Chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên Chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên Chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên Chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt Nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt Nam. Vì thế, người Việt Nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Bạn có nhận thấy những nét Tin Mừng trong phong tục ngày Tết không?
2.Bạn có muốn duy trì những phong tục ngày Tết không?
3.Bạn gìn giữ phong tục như hình thức bề ngoài hay phát xuất từ xác tín bên trong?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Đnl 4,32-34.39-40
- Rm 8,14-17
- Mt 28,16–20
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu thương. Từ đời đời, Chúa Cha yêu Chúa Con. Tình yêu ấy lớn lao đến nỗi Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con giống hệt như mình. Con là hình ảnh hoàn hảo, nguyên tuyền của Cha. Con là chính Cha, nên Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Cha có gì thì ban tất cả cho Con. Nên sau này Chúa Giêsu đã nói: “Tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 16,15). Tình Cha yêu Con thật lớn lao, kỳ diệu. Tình Con đáp lại tình Cha cũng nồng nàn tha thiết không kém. Những gì Con nhận được do tình yêu của Cha thì Con dâng lại cho Cha tất cả. Chúa Giêsu vì yêu mến Chúa Cha, nên đã vui lòng xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Trọn cuộc đời, Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha để thi hành. Người luôn tâm niệm: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy” (Ga 4,34). Người từ bỏ hết ý riêng mình để chỉ làm theo ý Chúa Cha. Người nên một với
Đức Chúa Cha trong tâm tình, trong tư tưởng, trong hành động. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 14,10). Trong giờ hấp hối, dù sợ hãi cái chết đến độ mồ hồi máu tuôn ra, nhưng Chúa Giêsu vẫn luôn vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho Con khỏi uống chén này. Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha mà thôi” (Mt 26,39). Thánh Phaolô đã tóm tắt về cuộc đời Người: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàntrút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2,6-8). Tất cả thái độ vâng phục nói lên sự dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần.
Ba Ngôi là lò lửa tình yêu lúc nào cũng ngùn ngụt cháy. Ba Ngôi là nguồn mạch tình yêu không bao giờ vơi cạn. Cuộc trao đổi cho đi và nhận lãnh làm cho tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa ngày càng sung mãn dồi dào. Tất cả mọi tình yêu đều bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi. Tất cả mọi tình yêu muốn trung thực và bền vững đều phải học theo khuôn mẫu tình yêu Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc là ta được tham dự vào bầu khí yêu đương của Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc sẽ đến khi mọi người biết yêu thương nhau trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Hôm nay, khi truyền cho ta đi rửa tội cho mọi người nhân danh Chúa Ba Ngôi, Đức Giêsu muốn ta đem tình yêu rửa sạch những oán ghét hận thù đang tàn phá thế giới. Người mong ta đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng những góc tối tăm chiến tranh, chia rẽ. Người mong ta đem mưa tình yêu tưới gội những vùng đất khô cằn vì thiếu vắng tình thương tha thứ. Người muốn cho tình yêu lên ngôi ngự trị trong hết mọi tâm hồn.
Phần ta, những môn đệ của Chúa, mỗi khi ta làm dấu Thánh giá nhân danh Chúa Ba Ngôi, ta hãy xin Ba Ngôi Thiên Chúa in tình yêu thánh thiện của Người vào tâm hồn ta. Xin cho ta được tham dự vào tình yêu vô cùng sung mãn của Người. Xin cho ta trở nên một đốm lửa trong lò lửa yêu thương của Người. Được cháy trong lò lửa tình yêu Chúa Ba Ngôi, ta sẽ trở nên giống như Người, luôn biết cho đi, luôn biết dâng hiến, luôn mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Khi cầu nguyện. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Bạn có cảm thấy Thiên Chúa là người Cha yêu thương và gần gũi không?
2- Bạn có mong muốn được tham dự vào luồng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không?
3- Thiên Chúa dựng nên bạn giống hình ảnh Người. Bạn đã thực sự là hình ảnh tình yêu thương của Chúa đối với những người chung quanh chưa?
4- Sau khi đã hiểu rõ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bạn sẽ có thái độ nào đối với Chúa và đối với anh em?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xh24,3-8
- Dt 9,11-15
- Mc 14,12-16.22-26
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Chúa Kitô trên thập giá. Trong bữa Tiệc ly, Chúa Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”.
Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu Ước. Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt qua. Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập. Nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát.
Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt qua, Chúa Giêsu trở thành Chiên Vượt qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy trên dân và nói: Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao ước cũ hay là Cựu ước.
Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hoà chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Chúa Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Chúa Giêsu giao hoà con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là Máu Giao ước.
Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thầy cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta. Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô. Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất hoà với nhau đã được Người giao hoà thành một gia đình thương yêu thuận hoà, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ. Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Chúa Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn có tham dự thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không?
2- Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Chúa Giêsu ngự trong bạn không?
3- Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại không?
4- Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 12,1-11
- 2Tm 4,6-8.16b.17-18
- Mt 16, 13-19
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Theo Giáo luật, cứ 5 năm một lần, mỗi Giám mục phải về viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Đây là lần đầu tiên tôi được tham dự cuộc viếng mộ cùng với đông đủ các vị Giám mục và Giám quản của hầu hết các Giáo phận.
Cuộc viếng mộ diễn ra từ ngày 14 đến ngày 24. Trong suốt 10 ngày đã có 22 cuộc gặp gỡ chính thức. 18 cuộc gặp gỡ với các Bộ và các Hội đồng Toà Thánh. 4 cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha. Tuy nhiên cao điểm vẫn là 2 thánh lễ ở bên mộ hai Thánh Tông đồ. Đối với tôi, đây chính là hai cuộc gặp gỡ quan trọng nhất, để lại trong tôi những cảm nghiệm sâu xa.
Cảm nghiệm thứ nhất là về ơn đức tin.
Đức tin không ai tự mình có được, nhưng là ơn Chúa ban. Điều này được thấy rõ trong cuộc đời hai Thánh Tông đồ. Không thể nói hai Thánh Tông đồ đã không có đức tin. Các ngài đã có một đức tin nào đó. Nhưng đó là thứ đức tin sai lầm, giả hiệu.
Thánh Phaolô tin sai lầm nên đã trở thành cuồng tín. Chỉ tin vào Lề Luật nên ngài ra sức bảo vệ Lề Luật. Không chỉ công kích mà còn đích thân lùng bắt những người tin Chúa. Ngài trở thành cơn ác mộng của các Kitô hữu tiên khởi. Để cảm hoá Ngài, Chúa đã quật ngã Ngài xuống khỏi lưng ngựa. Thay thế lòng cuồng tín bằng một đức tin chân thật.
Thánh Phêrô, vì đức tin non nớt, đã trở thành tự mãn. Khi mới tin Chúa, Ngài nghĩ rằng có thể làm được tất cả: đi trên mặt nước, trung thành hơn những người khác. Nhưng không ngờ Ngài đã bị chìm xuống, đã phản bội. Nhờ ơn Chúa thương yêu dìu dắt, dậy dỗ, đức tin của thánh nhân mới vững mạnh và trở thành người nâng đỡ đức tin của anh em.
Chúa đã thương ban cho các Ngài đức tin chân chính. Chúa đã huấn luyện cho đức tin của các Ngài nên trưởng thành. Đó là ơn của Chúa. Đó là sáng kiến của Chúa. Nếu không có ơn Chúa, các Ngài sẽ mãi mãi xa lạc. Trước mộ các ngài, tôi tha thiết cầu xin ơn đức tin. Tôi sợ đức tin của mình non nớt dễ trở thành tự mãn. Tôi sợ đức tin của mình sai lạc dễ trở thành cuồng tín.
Cảm nghiệm thứ hai là về ơn sám hối.
Hai vị Tông đồ Cả đã có thời lầm lạc. Không chỉ phạm những sai lầm nhỏ mọn nhưng là những sai lầm nghiêm trọng. Thánh Phaolô đã là kẻ thù của Chúa, đi tìm bắt giết những người theo Chúa. Thánh Phêrô là môn đệ của Chúa, nhưng đã phản bội, công khai chối Thầy. Nhưng các Ngài đã được ơn ăn năn sám hối. Một cú ngã ngựa đã làm thay đổi cuộc đời thánh Phaolô. Một ánh mắt của Thầy Chí Thánh đã hoán cải thánh Phêrô.
Thật lạ lùng sự hoán cải của tâm hồn con người. Đang cứng cỏi bỗng trở nên mềm mại. Đang hung hăng bỗng trở nên hiền lành. Đang chống đối bỗng trở nên kính mến. Đang thù ghét bỗng trở nên tin tưởng. Tâm hồn các Ngài biến chuyển nhanh chóng không nhờ sức thuyết phục của lí trí con người, nhưng nhờ ơn Chúa. Ơn Chúa tác động làm cho tâm hồn các Ngài nhạy bén nhận biết lỗi lầm và mau mắn trở về. Không có ơn Chúa tâm hồn tội lỗi không thể biết ăn năn.
Trong đền thờ có tượng thánh Phêrô bằng đồng đen nhánh. Nhưng bàn chân Ngài sáng bóng và mòn khuyết một nửa, vì mỗi khách hành hương đi qua đều chạm vào. Bàn chân ấy được yêu mến vì lầm đường nhưng đã biết quay trở lại. Xếp hàng rồng rắn theo đoàn hành hương, tôi cũng đến chạm vào bàn chân Ngài, lòng thầm cầu xin ơn sám hối.
Cảm nghiệm thứ ba là về ơn khiêm nhường.
Khi viếng mộ hai thánh Tông đồ, phải cúi mình rất sâu, vì phần mộ của các Ngài nằm sâu dưới lòng đất. Bước xuống những bậc thang sâu hun hút, rồi nhìn lên các Vương Cung Thánh đường đồ sộ cao thăm thẳm, tôi có cảm tưởng các Ngài bị chôn vùi thật sâu, đang phải oằn lưng gánh lấy sức nặng của những phiến đá khổng lồ. Chính những ngôi mộ chìm sâu trong lòng đất đã trở thành nền móng cho những ngôi thánh đường đồ sộ vươn lên. Hội Thánh được xây dựng trên những nền tảng khiêm nhường. Đó là nền tảng vững chắc nhất.
Việc xây dựng như thế phản ảnh đúng đời sống khiêm nhường của các Ngài. Sau khi được ơn sám hối, thánh Phêrô rất mực khiêm nhường. Theo lời truyền, Ngài đã ăn năn khóc lóc tội lỗi suốt cả đời. Trong những hầm mộ ở ngoại ô Rôma, nơi các Kitô hữu đầu tiên ẩn trú có khắc nhiều hàng chữ “Xin Chúa thương xót con”. Truyền thống cho đó là lời của thánh Phêrô.
Còn thánh Phaolô thì không ngại xưng mình là “phân bón thế gian, cặn bã của mọi người”. Các ngài giống như hạt lúa chịu chôn vùi dưới lòng đất, chịu mục nát đi để sinh bông hạt phong phú. Các Ngài tự nguyện làm nền móng cho những ngôi nhà đẹp đẽ vươn lên. Các Ngài tự nguyện làm gốc rễ nằm sâu dưới lòng đất hút chất bổ dưỡng nuôi cho thân cây Hội Thánh được xanh lá, tươi hoa, trĩu quả.
Sau cùng là cảm nghiệm về tình yêu.
Tất cả những ơn đức tin, ơn sám hối, ơn khiêm nhường các Ngài nhận được đều do tình yêu thương của Chúa. Chính Chúa chủ động đi tìm, ban ơn và dìu dắt các Ngài. Chúa đã bao phủ các Ngài bằng một tình yêu thương không gì so sánh được. Và các Ngài cũng đã mở lòng ra đón nhận, cảm nghiệm và đáp đền ơn tình yêu bằng một đời sống quảng đại, theo gương Thầy Chí Thánh. Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đền đáp tỉnh yêu. Tình yêu đã biến những con người bất tín trở thành tin tưởng, lầm lạc biết quay trở về, tự mãn trở nên khiêm nhường, cứng cỏi trở nên chan chứa yêu thương.
Đứng bên mộ, tôi cảm thấy các Ngài thật gần gũi. Gần gũi trong thân phận làm người với tất cả những yếu đuối mong manh. Gần gũi trong ơn gọi Tông đồ tôi được hân hạnh cùng các Ngài chia sẻ. Gần gũi trong thao thức được Chúa thương hoán cải, hướng dẫn. Nhất là gần gũi vì được ấp ủ, được tan hoà vào cùng một tình yêu của Thiên Chúa. Được gần gũi các Ngài, tôi cảm thấy mình được đưa đi rất xa trong hành trình nội tâm. Hành trình ấy dài hơn cả 10 nghìn cây số đường bay tôi đã trải
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Có người nói: Đừng kể những nhân đức cao vời, nhưng hãy nói cho tôi biết những yếu đuối của các thánh, như thế tôi dễ noi gương các ngài hơn. Bạn thấy thánh Phêrô và Phaolô có gần gũi với bạn trong những yếu đuối không?
2- Qua cuộc đời các ngài, bạn cảm nghiệm gì về tình thương của Chúa?
3- “Quên hẳn quãng đường đã qua, để lao mình về phía trước”. Đó là quyết tâm của thánh Phaolô sau khi được ơn trở lại. Bạn có quyết tâm như thế không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Đn 7,9-10.13-14
- 2Pr 1,16-19
- Mc 9,2-10
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Chúa Giêsu biến hình. Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do Thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Chúa Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Chúa Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Chúa Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng? Gần Chúa bạn sẽ được biến đổi. Bạn đã có kinh nghiệm về điều này chưa?
2- Cầu nguyện khiến ta nên tốt hơn, hiền lành hơn, yêu thương hơn? Bạn có cảm thấy điều này không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 1,12-14
- Gl 4,4-7
- Lc 1,26-38
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Hai tiếng “Xin Vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao. Trước hết hai tiếng “Xin Vâng” có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma qủy hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng “Xin Vâng” của Ngôi Hai Thiên Chúa. Vì vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng “Xin Vâng” với thiên thần, Chúa Giêsu cũng nói “Xin Vâng” với Chúa Cha. Với hai tiếng “Xin Vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng “Xin Vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng “Xin Vâng” có ảnh hưởng tới cả cuộc đời. Hai tiếng “Xin Vâng” nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, nhưng ảnh hưởng tới cả cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Chúa Cha, Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời thánh vịnh: “Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này Con đến để làm theo ý Cha”. Vì vâng lệnh Chúa Cha, Chúa Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Chúa Cha, Chúa Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây thánh giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi”.
Cũng vậy, khi nói tiếng “Xin Vâng” với thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai Cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà”. Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng “Xin Vâng” với Thiên Chúa, Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói “Không” với chính mình. Để một lần nói “Xin vâng” với Thiên Chúa, Chúa Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói “Không” với chính mình. Tiếng “Vâng” lớn thành hình nhờ những tiếng “Không” nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hi sinh bé nhỏ âm thầm. Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng “Xin Vâng” với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn. Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1. Hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến chương trình của Thiên Chúa?
2. Hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của Đức Mẹ.
3. Chúa Giêsu đã sống lời “Xin Vâng” thế nào?
4. Ta phải làm gì để chương trình của Chúa nơi ta được thực hiện?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Mc 16,15-20
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa Thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thầy lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa Thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, Thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ. Đến Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo. Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm Ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên Ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm, khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời “Chiến Tranh Lạnh”, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cu Ba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước mà chính thể của họ theo chủ nghĩa vô thần?
2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
--------------------------------
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Mc 16,15-20
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hôm nay, toàn thể Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Cũng hôm nay tại Rôma, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ Nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á thánh. Và ngài khuyên nhủ chúng ta hãy truyền giáo theo gương mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?
1. CUỘC ĐỜI
Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được sai đi Ấn Độ để phục vụ người nghèo. Khi đến Ấn Độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài đường. Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết, bị vứt vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước cảnh nghèo khổ, Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người. Rồi mở nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công việc càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông. Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo. Mẹ được cả thế giới biết tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Người ta gọi Mẹ là thiên thần giáng thế. Mẹ đã được những giải thưởng cao quí trong đó có giải Nobel Hoà bình. Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới, trong đó có phu nhân Tổng thống Mỹ Bill Clinton, phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac, đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của Mẹ. Nước Ấn Độ có đa số dân theo Ấn Độ giáo vốn không ưa Công giáo, thế mà đã cử hành nghi thức quốc táng cho Mẹ, đã bắn 21 phát súng đại bác bắn để tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2- TRUYỀN GIÁO
Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:
Phương cách thứ nhất: cầu nguyện. Có nhiều người lầm tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo lại đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỉ không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niệm trong hoạt động.
Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi trên đầu 5 ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt chương 25 của Tin mừng theo thánh Mátthêu: “Mỗi lần các con làm những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thầy”.
Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin thật Thiên Chúa đang ở trong những người nghèo. Vì yêu mến người nghèo, Mẹ đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu.
Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn Độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Chúa. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.
Năm 2004 sắp tới được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền giáo. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa. Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?
2- Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?
3- Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?
--------------------------------
Lễ Các Thánh Nam Nữ: AI CŨNG CÓ THỂ NÊN THÁNH
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kh 7,2-4.9-14
- 1Ga 3,1-3
- Mt 5,1-12a
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã tôn phong Mẹ Têrêxa Calcutta lên hàng Chân phúc mà ta quen gọi là Á thánh. Mẹ Têrêxalà một nữ tu nhỏ bé người nước Nam Tư cũ. Mẹ sang Ấn Độ với một mục đích duy nhất là phục vụ người nghèo.
Đến Ấn Độ, cảnh tượng đầu tiên đập vào mắt Mẹ đó là có nhiều người nằm hấp hối bên lề đường. Khi chết thì xác bị vất vào đống rác như xác một con thú vật. Cảm thương những người hấp hối tủi nhục, Mẹ đã mở một căn nhà chuyên thu nhận những người sắp chết ngoài đường về, săn sóc họ, tắm rửa cho họ, an ủi họ, kính trọng họ để cho họ được chết như một con người. Thương cảm những người nghèo nên có gì Mẹ Têrêxa đem hết cho họ. Bản thân Mẹ cũng chỉ sống như một người nghèo. Trong phòng của Mẹ chỉ có một chiếc giường, một bàn viết, một chậu nước và một ngọn đèn nhỏ.
Việc Đức cố Giáo Hoàng tôn phong Mẹ Têrêxa lên hàng Á thánh cho chúng ta thấy rằng ai cũng có thể nên thánh được. Thật vậy, Mẹ Têrêxa là một phụ nữ bình thường. Vóc người nhỏ bé như bà cụ Mến của ta. Học hành cũng vừa phải, không có những học vị cao. Mẹ cũng không làm những việc lớn lao phi thường hay những phép lạ kinh thiên động địa. Mẹ chỉ làm những việc nhỏ bé khiêm nhường âm thầm đó là phục vụ những người hấp hối nghèo khổ, không nhà cửa, không người thân thích.
Việc Mẹ Têrêxa được phong thánh làm ta nhớ đến thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Thánh nữ là một vị thánh lớn được nhiều người tôn kính. Cũng như Mẹ Têrêxa, thánh nữ không làm những việc phi thường vĩ đại. Thánh nữ chỉ là một nữ tu trong dòng kín. Quanh năm suốt tháng cầu nguyện. Thánh nữ cũng không sống lâu ở đời. Chỉ 24 tuổi đời. Và chỉ sống trong nhà dòng được 9 năm. Thánh nữ không làm chức vị gì lớn trong dòng, chỉ là một nữ tu tầm thường. Công việc hằng ngày của thánh nữ là đọc kinh cầu nguyện, quét dọn nhà dòng, giặt giũ quần áo. Tóm lại là những công việc tầm thường.
Vậy nhờ đâu mà hai vị thánh cùng mang tên Têrêxa lại trở thành những vị thánh lớn được mọi người tôn kính và yêu mến. Thưa vì các ngài có một bí quyết đó là làm những việc bé nhỏ tầm thường với lòng yêu mến Chúa tha thiết. Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu nói: Việc làm của ta ví như hạt sương chẳng có giá trị gì. Nhưng tình yêu của Chúa giống như ánh sáng mặt trời. Anh sáng mặt trời chiếu vào hạt sương tầm thường làm cho hạt sương óng ánh như hạt ngọc. Việc làm nhỏ bé với tình yêu mến Chúa sẽ có giá trị to lớn.
Việc hai vị thánh mang tên Têrêxa được làm thánh cho ta thấy ai trong chúng ta cũng có thể nên thánh được. Vì nên thánh không phải là làm những việc to lớn. Chỉ cần chu toàn bổn phận hằng ngày với lòng yêu mến Chúa là đủ. Quét nhà, nấu cơm, rửa bát, học bài đều trở thành những việc có giá trị nếu ta làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ Nhị nói với chúng ta: Anh chị em đừng sợ nên thánh. Hãy dám nên thánh. Chúa đã mời gọi chúng ta: “Các con hãy nên thánh như Cha các con là Đấng Thánh”. Chúa mời gọi vì Chúa biết chúng ta có thể nên thánh. Xuyên qua cuộc đời hai thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu và Mẹ Têrêxa Calcutta, ta nhận thấy việc nên thánh là vừa tầm tay mọi người.
Mừng lễ các thánh hôm nay, trong đó có các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ chúng ta. Chúng ta hãy noi gương các ngài: nên thánh bằng chu toàn những công việc bổn phận hằng ngày với lòng yêu mến Chúa. Để nhắc nhớ mình phải nên thánh, Mẹ Têrêxa đã ghi trên năm đầu ngón tay câu này: Tôi muốn trở nên thánh. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, ngày nào cũng nhắc đi nhăc lại trên năm đầu ngón tay: Tôi muốn trở nên thánh. Ước nguyện nên thánh của chúng ta thế nào cũng được Chúa thương chúc phúc vì trong mối phúc thứ 4 Chúa đã nói: “Phúc cho ai khao khát nhân đức trọn lành, vì họ sẽ được no thoả”.
Lạy Chúa, con muốn nên thánh, xin hãy giúp sức cho con.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Để nên thánh có cần làm những việc lớn lao không?
2.Mẹ Têrêxa Calcutta đã làm những việc gì?
3.Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu đã làm những việc gì?
4.Bạn có thể nên thánh được không?
--------------------------------
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 2Mcb 7,1.20-23.27b-29
- Rm 8,31b-39
- Lc 9,23-26
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Suốt ba thế kỷ đầu tiên, biết bao vị giáo hoàng và các thánh tử đạo đã được an táng ở đây. Biết bao tín hữu đã đi lại trong các đường hầm hun hút này. Và còn để lại nhiều lời cầu nguyện khắc trên vách hầm. Ba thế kỷ bách hại phải trốn chạy lẩn lút.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chỉ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má người có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp phải khó khăn trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bội thu, với kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Khi mới khai sinh Giáo hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo hội Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
Tác giả: + Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt