Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường: nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe thế nào! Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi”.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ có ba câu có vẻ rời rạc. Ba câu này thánh Luca đặt nằm ngay sau dụ ngôn về người gieo giống. Vậy ta phải hiểu các câu này trong bối cảnh của dụ ngôn trên, một dụ ngôn nói về việc đón nhận hạt giống Lời Chúa. Sống Lời Chúa cách nghiêm túc là thắp lên một ngọn đèn (c. 16). Vào thời xưa, người ta dùng đèn dầu, làm bằng đất nung. Hẳn nhiên ý hướng của người thắp đèn là soi sáng. Ngọn đèn sáng để soi đường cho “những kẻ khác” vào nhà, những người chưa được biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (c. 10). Vì thế thật vô lý nếu có ai sau khi thắp đèn, rồi lấy cái hũ mà đậy lại, hay đặt ngọn đèn dưới gầm giường. Dù có lúc ánh sáng đó như bị che khuất hay trở nên leo lét, nhưng đời Kitô hữu vẫn mãi mãi là ngọn đèn sáng đặt trên giá đèn cho một thế giới mà bóng tối không ngừng vây bủa tấn công. “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha trên trời.” Dù có lúc họ phải sống ẩn núp trong hang toại đạo, hay phải chịu sống như Giáo hội thầm lặng, nhưng giữ bí mật hay che giấu lén lút lại không phải là thái độ thường xuyên của người Kitô hữu (c. 17). Rồi đến ngày cái bí mật phải được vén mở, cái che giấu phải được đem ra ánh sáng công khai. Chúng ta có những hiểu biết về Thiên Chúa, về thân phận con người, về ý nghĩa của khổ đau và cái chết. Chúng ta có đức tin và niềm hy vọng, có niềm vui và bình an. Chúng ta biết mình từ đâu đến và đang đi về đâu. Kitô hữu không thể cất giấu kho tàng đức tin của mình được. Họ có nghĩa vụ phải chia sẻ cho một thế giới đang khát khao. Lời Chúa như nén bạc không được phép chôn giấu. “Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe.” (c. 18). Có cách nghe kiểu vệ đường, nước đổ lá khoai, có cách nghe không bám rễ vì sỏi đá, có cách nghe bị chết ngộp vì cái tâm đầy vọng động. Nhưng cũng có cách nghe của người giữ chặt lấy Lời trong trái tim tốt lành và nhẫn nại (c. 15). Ai nghe Lời Chúa cách hữu ích, người đó sẽ được lợi ích thêm. Khi ta mở rộng cửa cho Lời Chúa tác động, Lời sẽ xâm nhập vào đời ta càng lúc càng mạnh mẽ. Còn ai cứng cỏi từ khước, thì ngay từ đầu, họ đã mất cả chì lẫn chài. Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta vào thái độ tích cực, dấn thân. Thái độ của Kitô hữu là đứng hẳn về phía ánh sáng. Nhiệm vụ của chúng ta là thắp sáng, chiếu sáng và đem ra ánh sáng, để những ngọn đèn nhỏ của ta dẫn nhân loại đến với Ánh Sáng Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất. Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề. Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng. Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa. ----------------------------------
Lời Chúa là ngọn đèn. Đèn phải đặt trên cao để soi tỏ bước đi. Giống như ngọn hải đăng soi đường cho tầu bè đi trong đêm tối. Cũng vậy Lời Chúa phải hướng dẫn đời sống ta từ suy tưởng đến lời nói và đặc biệt trong việc làm. Lời Chúa phải trở thành châm ngôn, thành nguyên tắc, thành chỉ nam cho đời sống. Đời sống vốn tràn đầy bóng tối của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Chỉ có Lời Chúa mới phá tan bóng tối, chỉ cho ta biết đi trên đường ngay thẳng.
Người sống và làm theo Lời Chúa dạy, dù có âm thầm thì rồi cũng sáng tỏ. Hữu xạ tự nhiên hương. Hương thơm nhân đức sẽ lan tỏa tới mọi người, sẽ ướp thơm xã hội, sẽ biến đổi môi trường sống. Và Lời Chúa sẽ được tôn vinh.
Người nghe và thực hành Lời Chúa giống như hạt giống gieo vào đất tốt. Sẽ sinh bông hạt trăm nghìn. Càng thực hành Lời Chúa cuộc sống càng phong phú. Càng lắng nghe Lời Chúa tâm hồn càng bén nhậy và càng được Chúa mặc khải những chân lý cao sâu. Càng đi vào mầu nhiệm Nước Trời, tâm hồn càng nếm cảm sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Cứ thế mùa gặt càng thêm phong phú.
Vua Ky-rô là mẫu gương của người nghe và thực hành Lời Chúa. Được Lời Chúa phán bảo, nhà vua tức khắc ra chỉ thị tái thiết Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Kêu gọi người Ít-ra-en trở về xây dựng đền thờ. Chỉ thị cho mọi người trong đế quốc rộng rãi đóng góp vàng bạc, đồ vật quí giá và cả thực phẩm. Chỉ thị đó đem lại ánh sáng cho bao tâm hồn, từ người Do thái đến người dân ngoại, từ người ở Pa-lét-tin đến người đang lưu đầy xa xứ, từ bậc trưởng thượng đến hàng lê thứ. “Những người đứng đầu các gia tộc của Giu-đa và Ben-gia-min, các tư tế và các thầy Lê-vi, tất cả những người được Thiên Chúa tác động trên tâm trí, trỗi dậy để đi lên xây Nhà Đức Chúa ở Giê-ru-sa-lem. Mọi người hàng xóm láng giềng đều mạnh tay giúp họ: bạc, vàng, của cải, thú vật, những đồ vật có giá, không kể mọi lễ vật tự nguyện” (năm lẻ).
Trong đường hướng đó, sách Châm ngôn khuyên dậy ta hãy thực hành Lời Chúa, đặc biệt hãy làm điều lành cho tha nhân. Người thực hành Lời Chúa sẽ đi trên đường ngay thẳng, hành động chính trực công minh và được Chúa ban ngàn muôn phúc lành. Đặc biệt “những ai chính trực Người nhận làm bạn tâm giao…Đức Chúa tuổn đổ phúc lành trên nơi ở của những người chính trực công minh”. Được Chúa là được tất cả. Người được Chúa sẽ được hạnh phúc. Càng yêu mến và càng muốn nghe và thực hành Lời Chúa hơn. Đó là có lại cho thêm (năm chẵn).
Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ: tất cả những nghiên cứu của đại học đều được kỹ nghệ đỡ đầu, tất cả những phát minh mới của khoa học đều tìm được ứng dụng trong kỹ nghệ. Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để rút ra bài học cho đời sống đức tin của mình không?
Thánh Giacôbê Tông đồ đã viết: "Một đức tin không có việc làm là đức tin chết". Một đức tin không được diễn đạt, không được ứng dụng trong đời sống hàng ngày phải chăng không là đức tin chết?
Trong Tin Mừng hôm nay, khi đưa ra hình ảnh chiếc đèn, Chúa Giêsu muốn nối lại truyền thống thực tiễn của Cựu Ước. Cựu Ước không thích những lý luận trừu tượng, uyên bác của Hy Lạp. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước không lý giải về những phẩm tính trừu tượng của Ngài, nhưng tìm cách đo lường sự trung thành của Ngài trong lịch sử nhân loại. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước luôn nói đến những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử con người. Khi Thiên Chúa phán một lời, lời đó không phải là một lời nói suông, mà trở thành thực tế; Thiên Chúa không chỉ nói qua các tiên tri, nhưng cuối cùng Lời của Ngài đã thành xác phàm.
Chiếc đèn được đốt lên phải đặt trên cao để soi cho mọi người trong nhà. Ðây là hình ảnh cuộc sống đức tin của người Kitô hữu: cũng như chiếc đèn, đức tin cần phải được thắp lên và chiếu sáng; nó phải được đốt lên bằng những hành động cụ thể hằng ngày. Thiên Chúa là Ðấng chân thật, bởi vì sự chân thật ấy được thể hiện bằng một chuỗi những yêu thương đối với con người. Người Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi cuộc sống của họ thể hiện chính cuộc sống của Chúa, là yêu thương và phục vụ.
Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng chiếu soi cho mọi người mặc dù ánh sáng đó đôi khi gặp phải sự khước từ của phần nhân loại không tin. Thánh Gioan, nơi đầu sách Tin Mừng của ngài đã nhận định như sau: "Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người đến ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người". Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi mọi người mang đến ơn cứu rỗi cho mọi người, cho mọi người được chứa chan niềm vui khi họ mở rộng tâm hồn tin Người và chấp nhận những sự thật do Người mạc khải. Niềm vui vì biết được sự thật, niềm vui vì sống theo sự thật, niềm vui được biến đổi bởi ánh sáng Chúa Kitô và cũng được trở nên ánh sáng, niềm vui đó phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô. Ðây là căn bản của niềm hy vọng nơi mỗi người tin Chúa được trở nên ánh sáng trong Chúa, Ðấng là ánh sáng. Không phải chỉ có Chúa Kitô là ánh sáng mà thôi nhưng mọi đồ đệ Chúa cũng được biến đổi để trở thành ánh sáng. Nơi Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5, câu 14 trở đi, chúng ta đọc được những lời xác quyết trực tiếp của Chúa Giêsu: "Chúng con là ánh sáng thế gian, ánh sáng chúng con phải chiếu sáng được trước mặt mọi người để họ nhờ những việc làm tốt của chúng con, mà ngợi khen Cha chúng con trên trời".
Trở nên ánh sáng, không phải là đặc ân của một nhóm nhỏ mà là ân ban cho tất cả mọi người chấp nhận tuân theo Chúa, chấp nhận ánh sáng của Chúa. Ðây là lời mời gọi dấn thân, lời nhắc nhở trách nhiệm của người Kitô: ánh sáng phải chiếu sáng, phải phục vụ. Người Kitô phải là ánh sáng cho anh chị em bằng những việc tốt như Chúa Kitô là ánh sáng: "Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng có ánh sáng ban sự sống". Ánh sáng của Chúa Kitô được trao ban cho chúng ta để được cháy sáng, được phát triển luôn mãi trên bình diện thiêng liêng. Có được ánh sáng Chúa Kitô, không phải là tình trạng thụ động, mà là tích cực sinh động, mỗi ngày cần được phát triển thêm: "Ai có thì sẽ được cho thêm, ai không có thì cái mình tưởng là có cũng sẽ bị lấy mất đi". Ai có kho tàng đức tin và tình thương, có thiện chí và sức mạnh làm việc tốt thì sẽ được Chúa ban cho thêm những ân lành nhiều hơn nữa để cháy sáng thêm nữa nhờ lắng nghe Lời Chúa; ngược lại ai không có tình thương và thiện chí, không lo thực hiện việc tốt thì cả đức tin được trao ban cho cũng sẽ bị mất đi, không còn có đức tin nữa. Người Kitô nào không thực hành đạo thì sớm muộn gì cũng sẽ mất luôn cả đức tin.
Ước chi lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta trước trách nhiệm sống đức tin, làm việc tốt để được luôn luôn lớn lên trong Chúa Kitô, trở thành ánh sáng trong ánh sáng Chúa Kitô.
Lạy Cha
Chúng con cảm tạ Cha vì đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô làm ánh sáng soi dẫn chúng con, và cho chính chúng con được biến đổi, được trở thành ánh sáng trong ánh sáng của Chúa giữa thế gian. Xin giải thoát chúng con khỏi những bóng tối tật xấu, tội lỗi, làm che mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con; xin giúp chúng con thoát khỏi ảnh hưởng xấu của hận thù, mánh mung, láo khoét, buồn chán. Xin cho chúng con luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa cho đến ngày chúng con được đạt đến vương quốc ánh sáng vĩnh viễn muôn đời, nơi chúng con sẽ được kết hợp với Chúa mãi mãi muôn đời.
“Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.” (Lc. 8, 16)
Chắc chắn không ai đốt đèn để đặt dưới gầm giường. Ai cũng biết thế. Nhưng nếu Đức Kitô phải khổ tâm nói với chúng ta điều đó, chính vì Người thấy có người làm như kẻ đốt đèn đem đặt dưới gầm giường.
Ai cũng biết đốt đèn rồi đặt trên đế để soi sáng cho mọi người đi lại trong nhà. Đối với Thánh Lu-ca, đèn đây hẳn là lời Chúa.
Trước hết chúng ta cần quan tâm tìm cách giúp mình thấm nhuần lời Chúa mới mong giúp người khác sống lời Chúa. Càng sãn sàng đón nhận lời Chúa, càng được ánh sáng thấu suốt, sưởi ấm và gieo rắc có hiệu quả.
Lời của chúng ta có thành ánh sáng chiếu soi ra chung quanh có được hay không tùy mức độ chúng phản ảnh ánh sáng của Chúa. Nói cách khác, lời của chúng ta như lệnh vỡ kêu lạc điệu, nó không thể là tiếng vang lọt tai người khác. Ánh sáng của nó chập chờn leo lét như bình điện chì sắp hết hơi. Nó như đứa trò hề khua chuông gõ mõ, lập đi lập lại lời Chúa một cách máy móc, vô hồn. Thế giới ngày nay lột mặt nạ nhanh chóng hạng giả hình và càng ngày càng ít mắc lừa.
Làm sáng tỏ không đủ, còn phải biết soi sáng vào đâu và cách nào nữa. Đức Kitô đã dạy rất hay về điều đó. Người vừa nói mạnh mẽ, vừa tỏ ra tôn trọng vô cùng đối với mọi người. Người ta không dùng võ lực hay cưỡng bách để đưa lời Chúa đến cho con tim và khối óc được. Cũng không chiếu đèn pha làm mù mắt người ta. Chỉ có ánh đèn vừa phải kín đáo và sàng lọc hợp với yêu cầu mới làm cho dễ đón nhận. Những mầu êm dịu nhiều khi có hiệu quả hơn những mầu quá sống.
Một chiếc đèn đặt ở vị trí tốt là cả một nghệ thuật!.
Khi nói về đèn, người ta nghĩ ngay đến đặc tính của nó là: chiếu sáng và đẩy lui bóng tối. Mất đi yếu tố này, nó không còn phải là chính nó nữa. Có chăng, chỉ là vật trang trí.
Hôm nay, Đức Giêsu ví các môn đệ của Ngài như là cây đèn, và bổn phận của các ông là phải chiếu sáng: "Các con là ánh sáng thế gian". Khi nói như thế, Đức Giêsu có ý nhắc các ông rằng: nếu bản chất của đèn là chiếu sáng, thì đời sống của các ông cũng phải tỏa sáng như vậy.
Những ánh sáng của người môn đệ chính là đời sống nhân hiền, khiêm tốn, từ bi, hay thương xót, biết thông cảm, luôn đồng hành với những ai cần sự giúp đỡ, sẵn sàng bảo vệ cho công lý, sống chết cho sự thật toàn vẹn. Nếu người môn đệ đi ngược lại, thì chẳng khác gì có đèn mà không có dầu, hoặc có đèn nhưng thực tế đèn đã hư hỏng, không còn tác dụng nữa.
Tuy nhiên, muốn trở nên đèn sáng để soi chiếu trần gian, người môn đệ phải biết gắn bó đời mình với Đức Giêsu là nguồn Ánh Sáng. Luôn biết sẵn sàng để cho Lời Chúa soi chiếu cuộc đời của mình trước, rồi kế đó, người môn đệ sẽ chiếu tỏa cho anh chị em của mình những giá trị Tin Mừng.
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người đều được đón nhận một cây nến cháy sáng qua lời mời gọi của vị chủ sự: “Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô”. Như thế, chúng ta thuộc về Ánh Sáng, hay nói đúng hơn, chúng ta là ánh sáng và bổn phận phải chiếu tỏa ánh sáng cho mọi người xung quanh. Không bao giờ chúng ta được phép chỉ giữ ánh sáng cho riêng mình. Hoặc có khái niệm: “Đèn nhà ai nấy rạng”. Nếu chúng ta có chủ trương ích kỷ, hẳn là một điều vô lý, vì: "Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho ngọn đèn cháy sáng trong ngày Rửa Tội luôn chiếu sáng trên cuộc đời chúng con, để cuộc đời chúng con luôn phản chiếu ánh sáng của Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.
Sứ điệp: Hình ảnh cái đèn đặt trên giá cao để chiếu sáng, ám chỉ đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và của những ai tin vào Ngài. Mỗi tín hữu phải là ngọn đèn cháy sáng cho đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng của Chúa Cha hằng soi sáng cho gian trần. Chính Chúa đã phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống”.
Trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, con được trao ban cây nến cháy sáng, để chỉ rằng: từ nay, con được ánh sáng của Chúa soi chiếu cho trong cuộc đời, con phải giữ gìn ngọn đèn luôn cháy sáng, và đặt trên giá cao để soi sáng cho muôn người.
Lạy Chúa, ánh sáng tự nó không thể che giấu, nhưng luôn chiếu sáng. Là nhân chứng của Chúa, con không thể không rao giảng Tin Mừng. Vâng, lạy Chúa, rao giảng là làm chứng tá cho Chúa, là ơn gọi và là sứ mệnh Chúa đã trao phó cho con. Xin cho con luôn biết sống Phúc âm hằng ngày để làm chứng tá cho Chúa.
Xin cho con biết nhẫn nại thực hiện cách phi thường những công việc bổn phận hằng ngày, như chiếc đèn trong âm thầm lặng lẽ, không quên nhiệm vụ của mình là luôn giương cao ánh sáng cho muôn người.
Xin cho con biết sống đời phục vụ bác ái, vì trong mọi thời, ngôn ngữ của tình thương luôn dễ hiểu, và việc làm của tình thương luôn chiếu sáng.
Và giữa những đêm đen của đau khổ thất vọng, giữa những sương mù của cuộc đời phong ba bão táp, xin cho con là ngọn hải đăng đem lại niềm tin yêu và thắp sáng cho cuộc đời hôm nay. Amen.
Ghi nhớ: “Ðặt đèn trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy sự sáng”.
1.Qua hình ảnh chiếc đèn được đặt nơi cao chiếu ánh sáng, Đức Giêsu muốn khuyên tín hữu phải có một cuộc sống gương mẫu để chiếu sáng trước mặt người khác; Đức Giêsu đem Tin Mừng đến trần gian, giảng dạy về Nước Trời, thành lập Giáo hội. Ngài không muốn những điều trên dành riêng cho một nhóm người nào riêng biệt, nhưng muốn thông ban cho mọi người. Riêng các Kitô hữu, phải sống sao cho người ta nhìn vào mà nhận ra Tin Mừng Nước Trời. Họ đã được hưởng ánh sáng Tin Mừng thì họ đừng giữ cho riêng mình, đừng dập tắt; trái lại, phải tìm cách làm lan tỏa ánh sáng đó ra cho mọi người chung quanh.
2. Chiếc đèn được đốt lên phải được đặt trên cao để soi sáng cho mọi người trong nhà. Lý do hiện hữu của chiếc đèn là để soi sáng. Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của mình. Việc làm chứng cho đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm tất cả đời sống Kitô hữu chúng ta.
Chiếc đèn ấy được đốt lên bằng những hành động cụ thể hằng ngày. Thiên Chúa là Đấng chân thật, bởi vì sự chân thật ấy được thể hiện bằng một chuỗi những yêu thương đối với con người. Người Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi cuộc sống của họ thể hiện chính cuộc sống của Chúa, là yêu thương và phục vụ.
3. “Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường” (Lc 8,18).
Ánh sáng có nhiều tên gọi khác nhau. Ánh sáng mặt trời được gọi là ánh nắng; ánh sáng mặt trăng là ánh trăng; ánh sáng đèn được gọi là ánh đèn... Trong đêm Vọng Phục Sinh, khi mọi sự đang chìm trong bóng tối, ngọn nến phục sinh được thắp lên và được khởi xướng: “Ánh sáng Chúa Kitô”. Ánh sáng ấy là chính Chúa Kitô, là Lời Chân lý. Người Kitô hữu đón nhận ánh sáng Phục Sinh trong ngày lãnh bí tích Thánh Tẩy, được mời gọi giữ cho ánh sáng chân lý ấy tỏa sáng mãi trong suốt cuộc đời, để những người lân cận cũng nhìn thấy ánh sáng ấy. Nghĩa là, bằng nhiều cách thế, những ai tiếp xúc,”đi vào nhà”, đều nhìn thấy ánh sáng Chúa Kitô đang được ta “đặt trên đế” – trong cuộc sống của mình. Khi ấy, bạn được gọi tên “Ánh sáng cho trần gian”(Mt 13,14) (5 phút mỗi ngày).
4. Quả thật, Lời Chúa luôn có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn mà chúng không chịu cháy, nên chúng cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên thế giới có bị đốt hết đi thì người ta cũng vẫn có thể nhìn vào cuộc sống chúng ta mà chép lại Tin Mừng đúng từng câu, tững chữ”.
Đức Cha Jean Koret, vị Gám mục Tiệp Khắc đã từng phải sống lén lút ở chế độ Tiệp Khắc trước kia, tâm sự rằng: Ngài đã gặp gỡ được nhiều người tốt, lúc ngài phải đi làm việc như một công nhân, hơn là lúc ở trong tòa Giám mục. Tiết lộ trên đây của Đức cha Jean Koret, đã phản ánh trung thực điều Chúa Giêsu đã phán: “Có ai đốt đèn rồi đem để ở trong thùng hay dưới gầm giường không”?
5. Tuy nhiên, muốn trở nên đèn sáng để chiếu soi trần gian, người môn đệ phải biết gắn bó đời mình với Đức Giêsu là nguồn Ánh Sáng. Luôn biết sẵn sàng để cho Lời Chúa soi chiếu cuộc đời của mình trước, rồi kế đó, người môn đệ sẽ chiếu tỏa cho anh chị em của mình những giá trị Tin Mừng.
Ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, mỗi người đều được đón nhận một cây nến cháy sáng qua lời mời gọi của vị chủ sự: “Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô”. Như thế, chúng ta thuộc về Ánh Sáng, hay nói đúng hơn, chúng ta là ánh sáng và bổn phận phải chiếu tỏa ánh sáng cho mọi người chung quanh. Không bao giờ chúng ta được phép chỉ giữ ánh sáng cho riêng mình. Hoặc có khái niệm: “Đèn nhà ai nấy rạng”. Nếu chúng ta có chủ trương ích kỷ, hẳn là một điều vô lý, vì: “Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường”.
Chúng ta hãy cầu xin cho mọi Kitô hữu chúng ta, luôn ý thức tầm quan trọng của việc sống niềm tin trong cuộc sống và quyết tâm sống niềm tin ấy, để mỗi người trở thành những ngọn đèn được thắp sáng giữa môi trường mà chúng ta đang sống và cũng để cho cuộc sống của chúng ta đẹp hơn, có ý nghĩa hơn.
6. Truyện: Ngọn đèn tỏa sáng.
Vào buổi chiều nọ, một người lấy từ trong hộp một cây nến nhỏ và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đang đi đâu vậy? - Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tầu bè vào cảng. - Nhưng tôi bé nhỏ thế này làm sao tầu bè thấy được? - Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc để ta lo.
Tới đỉnh tháp, người ấy đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, mà ánh sáng lan tỏa ra và mọi tầu bè có thể thấy được.
Qua hình ảnh chiếc đèn được đặt nơi cao tỏa chiếu ánh sáng, Chúa Giêsu muốn khuyên tín hữu phải có một cuộc sống gương mẫu để chiếu sáng trước mặt người khác: Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến trần gian, giảng dạy về Nước Trời, thành lập Giáo hội. Ngài không muốn những điều trên dành riêng cho một nhóm người nào riêng biệt, nhưng muốn thông ban cho mọi người. Riêng các Kitô hữu, họ phải sống sao cho người ta nhìn vào mà nhận ra Tin Mừng Nước Trời. Họ đã được hưởng ánh sáng Tin Mừng thì họ đừng giữ cho riêng mình, đừng dập tắt, trái lại phải tìm cách làm lan tỏa ánh sáng đó ra chung quanh.
- “Chẳng có gì bí ẩn mà không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che dấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng”: Những chữ “gì” này nói đến các mầu nhiệm Nước Chúa ấy. Trong thời kỳ của Chúa Giêsu thì chúng còn được che dấu, còn là bí ẩn. Nhưng đến thời các tông đồ và thời của Giáo Hội, chúng phải được loan truyền, tỏa lan rực rỡ như ánh sáng của ngọn đèn đặt trên nơi cao.
- “Vậy hãy để ý đến cách thức anh em nghe”: Do cách nghe lời Chúa mà lời đó có kết quả hay không.
- “Ai có thì sẽ được cho thêm, còn ai không có thì ngay cái họ tưởng có cũng sẽ bị lấy mất”: Câu này là một ngạn ngữ được Chúa Giêsu mượn dùng. Một kinh nghiệm ở đời là kẻ đã giàu thì ngày càng giàu thêm, còn người đã nghèo lại cứ nghèo thêm, bởi vì “vốn sinh lãi, nợ đẻ nợ”. Chúa Giêsu mượn kinh nghiệm này để khuyến khích người ta chăm chỉ lắng nghe Lời Chúa: càng thực thi Lời Chúa thì lại càng được hiểu Lời Chúa nhiều hơn.
B.... nẩy mầm.
1. Lời Chúa là chiếc đèn soi sáng cho tôi và cho mọi người. Mỗi ngày ngọn đèn Lời Chúa được thắp sáng trong Thánh lễ và lúc nguyện gẫm. Để đèn trên giá cao là tôi sống Lời Chúa và nói Lời Chúa cho nhiều người khác được nghe. Lấy hũ che đèn lại hoặc đặt đèn dưới gầm giường là nghe Lời Chúa xong rồi quên đi, suốt ngày không nghĩ tới và không nói tới nữa.
2. Thực tế của các kitô hữu Việt Nam là đọc kinh, dự lễ nhiều nhưng chưa có thói quen học hỏi và sống Lời Chúa.
3. Thánh Giacôbê đã viết: “Một đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Một đức tin không được diễn đạt, không được ứng dụng trong đời sống hằng ngày phải chăng không là đức tin chết? ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Chẳng có gì bí ẩn mà không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che dấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng” (Lc 8,17)
Với ước mong “làm được cái gì đó” cho những người dân quê, chúng ta lên đường tham gia chiến dịch Ánh sáng văn hóa hè ở biên giới Tây Ninh. Lòng nhiệt thành hăng say của tuổi trẻ khiến chúng tôi bị hụt hẫng khi nhận ra những giới hạn của mình. Chúng tôi muốn làm một điều gì đó thật lớn lao cho họ nhưng đành bất lực.
Xin cảm tạ Cha vì Ngài đã cho con biết rằng: không phải khi nào con làm được điều gì lớn lao mới là lúc con làm vinh danh Chúa, nhưng từ những hành vi dù rất nhỏ bé của con: kể một câu chuyện, tập hát cho lũ trẻ, nghe và chia sẻ cùng thanh niên, đi làm chung với những người già… thì hình ảnh của Cha cũng sẽ ngày càng lớn lên trong mọi người (Hosanna)
1. Dụ ngôn cái đèn và những lời tiếp theo trong đoạn Tin Mừng hôm nay triển khai thêm chủ đề về việc nghe Lời Chúa.
Người nào càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn. Giàu thì được giàu thêm mãi. Trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất. Nghèo lại phải nghèo thêm.
Lý do hiện hữu của cây đèn là để soi sáng. Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của mình. Việc làm chứng cho đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những người Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn làm hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm tất cả cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.
Đề cập đến cuộc khủng hoảng Đức Tin ngày nay, Đức Hồng Y Ratzinger, Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin trước đây và bây giờ là Đức Bênêdictô XVI nói: “Việc chối đạo của những con người hôm nay, chính là việc loại bỏ chứng từ Đức Tin ra khỏi cuộc sống của người Kitô hữu”.
Rồi trong một đoạn khác, ngài nói tiếp: “Việc trở lại với Đức Tin của đế quốc Rôma ngày xưa, không phải là kết quả của những hoạt động do Giáo Hội hoạch định, mà chính là do những thành quả của những chứng từ Đức Tin, được thể hiện qua cuộc sống của những người Kitô thời đó”.
Như thế, đời sống của những người Kitô hữu phải là những ngọn đèn thắp sáng và được đặt trên giá đèn như ngọn Hải đăng giữa biển khơi để cho những người đi biển nhìn thấy ánh sáng chỉ đường để biết đường biết lối mà đi.
Trong bài giảng thánh lễ an táng mẹ Têrêsa Ðức Hống Y Angelo Sodono, quốc vụ khanh toà thánh, đại diện Đức Thánh Cha đã nói với mọi người: “Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn lửa tình yêu thương, mà những người con tinh thần của mẹ, nam cũng như nữ, những nhà truyền giáo của tình bác ái, từ nay cần tiếp tục giữ cho ngọn lửa đó cháy sáng mãi. Thế giới ngày nay đang hết sức cần ánh sáng và sự nồng ấm của ngọn lửa này. Sự kính phục mà chúng ta dành cho việc tưởng niệm vị nữ tu khiêm tốn, mà tình yêu to lớn đối với Ấn Ðộ và đối với thành Calcutta này không làm giảm tầm mức công dân của thế giới nơi Mẹ Têrêsa. Sự kính phục của chúng ta sẽ trở thành vô ích, nếu chúng ta, những tín hữu và những người thiện chí nam nữ, bất cứ đang sống nơi đâu, nếu chúng ta không tiếp tục từ nơi mà Mẹ Têrêsa đã ngừng lại. Người nghèo còn hiện diện với chúng ta. Và bởi vì họ là phản ánh của Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, họ cần phải hiện diện nơi chính trung tâm của sự quan tâm của chúng ta, nơi trung tâm của hành động chính trị, nơi trung tâm của sự dấn thân tôn giáo của chúng ta.”
2. “Vậy, hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất.” (Lc 8, 18)
Một vùng đất nọ thình lình mất ánh sáng. Mặt trời không mọc lên, tối tăm bao phủ cả vùng. Mọi người trong vùng đổ xô đến cửa tiệm ông Réno để mua diêm quẹt và đèn cầy, vì họ biết ông có cả một kho chứa các thứ đó. Nhưng dân chúng càng nài nỉ, ông càng từ chối...
Ngày qua ngày, dân chúng quen dần với bóng tối. Lúc đó ông Réno mới ý thức thái độ ích kỷ của mình. Ông mở cửa kho, mời gọi mọi người đến lấy diêm quẹt và đèn cầy về đốt. Nhưng trớ trêu thay mọi người trả lời:
- Chúng tôi đã quen sống với bóng tốt rồi. Chúng tôi không cần ánh sáng nữa!
Thái độ ích kỷ không những đã làm cho ông Réno mất đi lợi nhuận và hơn nữa còn mất đi cả niềm tin đối với những người chung quanh nữa. “Ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị mất đi” (Lc 8, 18).
Báo chí trước đây đã nói nhiều đến những vụ khủng bố, giết người, cướp nhà băng xảy ra tại Manila thủ đô nước Philippines. Việc này khiến Đức Hồng Y Jaime Sin ở Manila phải lên tiếng kêu gọi chính quyền lo thiết lập lại trật tự.
Phản ứng lại lời cảnh cáo của Đức Hồng Y, bộ trường bộ thông tin trả lời:
- Giáo Hội Công giáo cũng có phần trách nhiệm trong đó, vì đã không chu toàn vai trò của mình trong việc làm cho tín hữu Công giáo sống Tin Mừng.
Còn đâu là danh dự của một quốc gia mà dân số Công giáo lên đến gần 90 phần trăm!
Chúng ta hãy cầu xin cho mọi Kitô hữu chúng ta, luôn ý thức tầm quan trọng của việc sống niềm tin trong cuộc sống và quyết tâm sống niềm tin ấy, để mỗi người trở thành những ngọn đèn được thắp sáng giữa môi trường mà chúng ta đang sống và cũng để cho cuộc sống của chúng ta đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. Amen.
Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: "Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy". Người trả lời với họ rằng: "Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình ở Nadarét bao lâu, mà hôm nay Mẹ và anh em Ngài mới đến gặp Ngài. Có phải vì nhớ, hay vì lo lắng do nghe các lời đồn đại? Để biết được Ngài đang ở đâu, thì phải hỏi thăm, bởi hồi đó chưa có những phương tiện truyền thông như bây giờ. Vì vậy chuyện Mẹ đến được chỗ của Con là một nỗ lực không nhỏ. Tiếc là khi đã đến nơi Con đang giảng dạy, thì Mẹ lại không làm sao vào được, vì người đông quá (c. 19). Chắc Mẹ đã nhờ ai đó vào báo cho Đức Giêsu: “Có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy” (c. 20). Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đều không cho biết Đức Giêsu có ra ngoài để đón tiếp Mẹ và các anh em Ngài không. Điều này khiến ta có cảm tưởng bầu khí đón tiếp hơi lạnh lùng. Nhưng cả ba Tin Mừng đều kể lại câu nói gây sốc của Ngài: “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (c. 21). “Mẹ tôi và anh em tôi” là ai? Một câu hỏi quá dễ! Hiển nhiên đó là những người đang đứng ở ngoài kia. Mẹ của Ngài là bà Maria, người phụ nữ làng Nadarét, người đã cưu mang, cho bú mớm, và chăm lo dưỡng dục Ngài. Anh em là những người họ hàng gần gũi, tuy không phải là anh em ruột. Mẹ và anh em của Đức Giêsu là những người đang đứng ngoài nhà. Ngài không hề khinh họ, nhưng Ngài tập trung vào người trong nhà. Những người ở trong nhà là những người đang ngồi nghe lời Đức Giêsu. Họ được mời gọi không nghe suông, nhưng đem ra thực hành, để trở thành mẹ và anh em của Ngài. Như thế Đức Giêsu đã nới rộng gia đình của Ngài. Ngài không bó hẹp trong gia đình ruột thịt, mà khai mở một gia đình mới. Gia đình thiêng liêng thì rộng lớn hơn nhiều, và mỗi Kitô hữu đều có chỗ trong gia đình đó. Đức Giêsu có nhiều mẹ và nhiều anh chị em. Ai nghe và thi hành lời Thiên Chúa thì trở nên mẹ của Ngài, bởi vì, theo thánh Bêđa, qua gương sáng và lời nói của họ, họ sinh ra Ngài trong trái tim tha nhân. Đức Giêsu là Con, luôn nghe và thi hành lời Thiên Chúa Cha. Bất cứ ai sống như Ngài cũng trở nên con Thiên Chúa, nên lập tức trở nên anh chị em với Ngài. Chúng ta ít khi nghĩ tới chuyện mình có họ hàng với Đức Giêsu. Có một thứ liên hệ còn sâu nặng hơn cả liên hệ máu mủ nữa. Chúng ta mang dòng máu của Đức Giêsu, dòng máu vâng nghe lời Chúa. Chính Thiên Chúa nối kết Đức Giêsu và cả nhân loại thành một gia đình. Trong gia đình đó có chỗ quan trọng cho Đức Maria, vì hơn ai hết Mẹ là người đã lắng nghe và thi hành lời Thiên Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. ----------------------------------
Khi trả lời “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”, Chúa Giê-su không có ý chối từ Đức Mẹ. Trái lại còn ngợi khen Đức Mẹ. Và nhân đó nói lên mối liên hệ gia đình cần phải sâu hơn, cao hơn và rộng hơn mối liên hệ huyết thống.
Liên hệ huyết thống tuy sâu xa. Những ai nghe và giữ Lời Chúa thì kết hợp sâu xa hơn nhiều. Liên hệ gia đình bền vững mãi mãi. Vì có Lời Chúa làm nền tảng.
Liên hệ huyết thống tuy cao quí. Nhưng dừng lại ở giới hạn phàm trần. Những ai nghe và giữ Lời Chúa tạo thành một gia đình cao hơn. Vươn lên tới Thiên Chúa. Thành gia đình của Thiên Chúa.
Liên hệ huyết thống có giới hạn. Gia đình Thiên Chúa rộng lớn vượt không gian, thời gian. Bất cứ nơi đâu có người nghe và giữ Lời Chúa.
Đức Mẹ đã nghe và giữ Lời Chúa. Suốt đời kết hợp với Chúa Giê-su. Luôn thực hành thánh ý Chúa Cha. Nên mối liên hệ huyết thống với Chúa Giê-su đã vượt lên. Trở thành cao hơn, sâu hơn và rộng hơn.
Vua Đa-ri-ô khi nghe và thực hành Lời Chúa, đã biến cả vương quốc của vua thành một gia đình. Mọi người không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, đều góp phần vào việc tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem. “Đây là lệnh ta ban cho các ngươi về cách đối xử với hàng kỳ mục Do-thái trong việc tái thiết Nhà Thiên Chúa: phải lấy tiền bạc của nhà vua trích từ thuế thu được ở Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, mà cung cấp đầy đủ các chi phí cho những người đó”. Đó là một gia đình rộng lớn khắp đế quốc Ba-Tư. Một gia đình nghe và thực hành Lời Chúa. Một gia đình của Thiên Chúa (năm lẻ).
Đó chính là thực hành lời sách Châm ngôn: “Trong tay Đức Chúa, lòng vua tựa dòng nước chảy, Người lèo lái đi đâu tuỳ ý Người”. Không theo ý Chúa thì mọi việc rơi vào thất bại tàn lụi. Làm theo ý Chúa thì kết quả bền vững tốt đẹp: “Các người cho lối sống của mình là ngay thẳng, nhưng Đức Chúa thấu suốt mọi tâm can. Thực thi điều công minh chính trực thì đẹp lòng Đức Chúa hơn là dâng hy lễ” (năm chẵn).
Nghe và thực hành Lời Chúa. Ta trở thành gia đình của Chúa. Thật vinh dự cao quí biết bao!
Cả ba tác giả Nhất Lãm đều kể lại sự kiện Ðức Maria và các thân nhân Chúa Giêsu đi tìm Ngài, nhưng mỗi tác giả có một dụng ý riêng: Matthêu, Marcô xếp đoạn này lên trước phần Chúa Giêsu giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, còn Luca thì đặt sau dụ ngôn ấy, liền sau dụ ngôn chiếc đèn cháy sáng. Luca không đề cập đến việc các thân nhân đến tìm Chúa Giêsu để đưa Ngài về Nazarét, nhưng nhấn mạnh đến điểm này: "Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, đó là người sống trong gia đình Thiên Chúa, là Mẹ, là anh em của Ngài.
Một điểm nữa cần ghi nhận là trong đời sống thực tế, nhiều khi người ta cảm thấy gần gũi thân thiết với những người cùng chung chí hướng, nguyện vọng, hơn là những người ruột thịt, nhất là khi những người ruột thịt ấy không cùng chí hướng, nguyện vọng. Như thế, mối liên hệ sâu xa giữa con người với nhau không phải là liên hệ huyết thống, mà còn là liên hệ của cả tư tưởng, ý chí, tình cảm.
Chúa Giêsu đến trần gian để xây dựng một gia đình duy nhất của Thiên Chúa, gia đình của những người cùng một mục đích là nguyện cho Danh Cha được cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Ðể cho thấy sự duy nhất về cùng một gia đình đó, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: "Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha". Ðó là hình ảnh Chúa Giêsu muốn diễn tả khi Ngài nói: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Với ý nghĩa đó, Ðức Maria hai lần xứng đáng làm Mẹ Chúa Giêsu: Mẹ theo huyết thống và Mẹ của Thân mình mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Chẳng những là Mẹ thật vì đã sinh ra Chúa Giêsu, mà còn là Mẹ vì đã thực thi ý Cha trên trời. Trong biến cố truyền tin, Ðức Maria đã thưa với Sứ thần: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng theo lời thiên thần truyền". Ðiều đó nói lên suốt đời Ðức Maria, người luôn làm theo ý Chúa.
Câu định nghĩa của Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta con đường đi vào gia đình của Thiên Chúa, đó là làm theo thánh ý Chúa Cha. Xin cho chúng ta luôn biết thực thi thánh ý Chúa trong suốt cuộc sống chúng ta, để xứng đáng được thuộc về gia đình của Chúa.
Đức Giêsu nói: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”. (Lc. 8, 21)
Theo Thánh Marcô, khi gia đình Đức Giêsu định chặn bắt Thầy, chính vì họ xét thấy “Người đã mất trí” (Mc. 3, 21). Người ngột ngạt vì họ. Họ không để Người yên.
Thánh Lu-ca không nói đến chuyện khó chịu đó. Nếu Đức Maria và thân nhân không tới được Đức Giêsu, chính là kết quả lạ lùng của Đức Giêsu. Đông đảo dân chúng chen lấn tứ phía làm các Ngài không tới gần Người. Vượt qua hàng rào người xiết chặt chung quang là vô phương. Người ta chỉ có thể gợi lại cảnh đó bằng nhìn thấy những kẻ lãnh đạo vĩ đại thế giới thời nay được quần chúng ngưỡng mộ. Dân chúng vây quanh bắt tay gặp gỡ, ngó nhìn tận mắt, mỉm cười với các ông lớn đó. Đức Kitô không tránh khỏi cảnh vây quanh đó. Đó là lý do tại sao Mẹ Người và anh em chú bác không tới thăm và gặp được Người để có thể thông cảm với Người.
Khi người ta báo có thân nhân Người muốn gặp Người, lợi dụng lúc đó để lưu ý mọi người Đức Giêsu nhìn trừng trừng chung quanh, kêu lên như từ chối gia đình trần gian để nhấn mạnh đến tình nghĩa gia đình thiên quốc, Người nói: “Mẹ Tôi và anh em Tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”, như Người đã nhấn mạnh: Ai nghe lời Thiên Chúa là đất tốt sinh ra nhiều hoa trái, họ cũng là đèn sáng đặt trên đế đèn soi sáng cho tất cả chung quanh, và hơn hết họ thật là anh em bà con của Người.
Cố gắng thực hiện đầy đủ lời Chúa, chính là gia nhập vào gia đình Chúa thật sự, chính là ước muốn, suy niệm, hành động và thực hiện như Đức Kitô, chính là đón nhận hiến chương nước trời Người đã rao giảng trên núi, chính là đón nhận những đòi hỏi khó khăn của ơn tái sinh, chính là bước theo đường thánh giá tới đỉnh vinh quang phục sinh.
Anh em bà con của Đức Giêsu Kitô thực sự là thế! Người không chối bỏ thân nhân về ruột thịt, nhưng vượt lên cao hơn.
Đức Maria là mẹ của Đức Kitô về cả hai phương diện, mẹ thân xác và mẹ theo Đức Kitô tới đỉnh Can-vê. Mẹ cưu mang sinh thành và mẹ cưu mang thực thi lời Chúa.
Truyền thống từ xa xưa luôn tin nhận Đức Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế và là Nữ Tỳ Thiên Chúa. Đức Maria được diễm phúc cao trọng này là nhờ Mẹ đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa cách trọn vẹn. Vì thế, Đức Giêsu hết mực tôn kính Mẹ.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Maria và các anh em của Ngài đến tìm Ngài, và khi được tin báo, Đức Giêsu lại nói: "Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Qua câu nói này, người nghe cảm thấy ngỡ ngàng quá đỗi, bởi vì xem ra có vẻ Đức Giêsu quá thờ ơ với mối liên hệ ruột thịt! Hơn nữa, người đó lại là Mẹ mình... Phải chăng điều này không thể chấp nhận được!
Tuy nhiên, nếu chúng ta để ý thì đây là một cách gián tiếp, Đức Giêsu ca tụng Mẹ mình hơn ai hết. Tại sao vậy? Thưa! Vì Mẹ Maria là người trung thành và tín thác nơi Thiên Chúa tuyệt đối qua thái độ lắng nghe, Suy niệm và thực hành cách trọn vẹn Lời của Thiên Chúa trong cuộc đời và nơi các biến cố.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, tình nghĩa gia đình không chỉ xây dựng trên liên hệ máu mủ, mà thiết yếu phải được củng cố bởi lòng tin. Vì vậy, một cách mặc nhiên, câu trả lời của Đức Giêsu đã làm cho Mẹ thêm vinh dự, cao trọng và đáng để mọi người noi gương.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin nơi Chúa. Đón nghe Lời Chúa và thực hành thì sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống thường ngày. Ước gì cuộc đời của chúng con luôn được Lời Chúa soi dẫn. Amen.
Sứ điệp: Chính việc nghe và thực hành Lời Thiên Chúa làm cho ta nhập vào gia đình thiêng liêng với Chúa Giêsu, đồng thời chúng ta trở nên anh em và cũng là con cùng một Cha trên trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhìn thấy tâm tư sâu kín của lòng con. Rất nhiều lúc con cảm thấy nghe và thực hành Lời Chúa như một gánh nặng, như một việc khổ sở, và con đã tránh né hoặc làm một cách miễn cưỡng. Nhưng hôm nay, Chúa mặc khải cho con thấy: khi con nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành, con được nhập vào gia đình thiêng liêng với Chúa. Cho dù khi ấy con có phải hi sinh, nhưng trước hết đó là niềm vinh dự và hạnh phúc của con. Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nâng con lên, cho con trở thành người nhà của Chúa.
Chúa quý mến những người nghe và giữ Lời Chúa. Chúa đã đặt gia đình thiêng liêng cao hơn những liên hệ máu huyết, cao hơn những ràng buộc gia đình. Trong ánh sáng của Chúa, con hiểu được rằng Chúa không bao giờ coi thường Đức Mẹ. Nhưng trái lại, Chúa yêu mến Đức Mẹ không những vì Mẹ đã sinh ra Chúa, nhưng nhất là vì Mẹ đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Con muốn bắt chước Đức mẹ để trở nên người môn đệ được Chúa yêu mến.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con coi trọng Chúa hơn tình cảm gia đình. Xin đừng để con vì bênh cha mẹ hoặc bênh con cái, mà quên cả công bằng, quên cả lương tri và lẽ phải, hay vì danh dự gia đình mà không dám nhìn nhận sự thật. Xin đừng để con chỉ vì tình bạn hữu anh em mà bỏ cả dự lễ, cầu nguyện. Con cũng xin Chúa đừng để bậc cha mẹ chỉ vì muốn giữ con cái làm việc hoặc nối dõi tông đường, mà không cho con cái hiến thân làm tông đồ cho Chúa.
Xin Chúa giúp con hết lòng tin kính mến yêu Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”.
Đức Maria được chọn làm Mẹ của Con Đức Chúa Trời, Mẹ đã đáp trả lời xin vâng, đồng thời Mẹ khiêm hạ tự xưng mình là tôi tớ của Đức Chúa Trời. Khi nói mình là tôi tớ của Thiên Chúa, Đức Maria nói một cách chân thành, khiêm cung, xác tín, chứ không phải nói một cách giả hình giả bộ.
Khi nói lên sự vâng phục của mình như người tôi tớ của Chúa: “Này tôi là tôi tớ Đức Chúa Trời” (Lc 1,38), Đức Maria nói lên lời khấn thứ hai của mình, lời khấn đức vâng phục. Lời khấn thứ nhất của Đức Maria là lời khấn khiết tịnh, lời khấn mà Đức Maria đã nói ra cho thiên thần biết: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34).
Mẹ luôn sống thi hành thánh ý Chúa.
Suy niệm
Khi khẳng định: “Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”, Ðức Giêsu không có ý coi nhẹ tình gia đình, cũng như không phải lãnh đạm với Mẹ và anh em Ngài. Đức Giêsu muốn đề cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa.
Qua sự khẳng định Mẹ và anh em Ngài chính là những người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu không có chủ ý là không muốn nhìn nhận Mẹ của mình. Nhưng Chúa muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết.
Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Khi Mẹ nói lên lời khấn vâng phục: “Này tôi là tôi tớ Đức Chúa Trời”, Đức Maria muốn nói lên rằng Mẹ sẽ tuyệt đối vâng phục, vâng phục như một người tôi tớ luôn tuân theo thánh ý Chúa trong cuộc đời. Lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô hữu: Lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Qua lời chào của thiên sứ: “Kính chào bà đầy ơn phước” (Lc 1,28), cũng như qua lời ngợi khen của bà thánh Isave: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm” (Lc 1,43), Đức Maria biết rõ địa vị diễm phúc cao sang của mình trước mặt Thiên Chúa. Nhưng Mẹ không bao giờ gạt Chúa ra một bên. Trái lại, Mẹ luôn tìm cách vâng phục thánh ý Chúa một cách tối đa, trọn vẹn.
Chính Mẹ cũng đã đi trước làm gương và muốn cho chúng ta s
Sai 12 Tông Đồ đi rao giảng. 27/09 – Thánh Vinh sơn Phaolô, linh mục. Lễ nhớ. "Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".
* Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn, nước Pháp. Người làm linh mục rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập Tu Hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập Tu Hội Nữ Tử Bác Ái. Người là gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Kitô dạy, luôn sẵn sàng cứu giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô nơi bất cứ ai đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Đoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ".
Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi.
Sau một thời gian sống bên Thầy Giêsu, thấy việc Thầy làm và nghe lời Thầy giảng, giờ đây nhóm Mười Hai đã tương đối cứng cáp để được chia sẻ chính công việc Thầy đã làm. Đó là rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân (c. 2). Nhưng trước khi được chia sẻ công việc, họ được chia sẻ quyền trừ quỷ và chữa bệnh của Thầy (c. 1). Sứ vụ họ sắp làm là một thực tập cho sứ vụ lớn sau này (Lc 24, 46-47). Thầy Giêsu sai nhóm Mười Hai lên đường với những chỉ thị rõ rệt. Không thấy Thầy bảo phải chuẩn bị hành trang. Ngược lại, Thầy cấm không được mang theo gì cả. “Đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, hai áo” (c. 3). Ngay cả những người giảng rong theo phái Khắc Kỷ, tuy rất khắc khổ, nhưng cũng được mang theo gậy và bị để ăn xin. Thầy Giêsu muốn môn đệ của mình hoàn toàn cậy trông vào Thiên Chúa, và hoàn toàn cậy trông vào lòng tốt của con người. Họ phải tập chấp nhận sống bấp bênh và thiếu thốn trong bình an. Không mang đồ dự trữ, không gậy để bảo vệ khi đi đường, các môn đệ buộc phải mang theo lòng tín thác vô bờ nơi Thiên Chúa. Thầy còn chỉ thị cho cả nhóm biết về chuyện ăn ở của họ. Họ sẽ đến ở chung nhà với dân chúng, ăn uống những gì họ cho. “Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó…” (c. 4). Đừng đi từ nhà nọ sang nhà kia để tìm chỗ tiện nghi hơn. Khi ăn ở nơi nhà dân, người tông đồ có cơ hội gần gũi với họ, và chia sẻ cuộc sống thật của họ, để dễ loan báo Tin Mừng hơn. Nhưng cũng phải bình an chấp nhận những từ khước (c. 5). Có khi trong cả một thành, không tìm được một gia đình để trú chân. Thái độ phủi bụi chân lại cho thấy một sự dứt khoát đoạn tuyệt, không muốn dính dáng gì với những người ở đó nữa (x. Cv 13, 50). Khuôn mặt của người được sai cách đây hai ngàn năm thật là đẹp. Vừa quyền năng để trừ mọi thứ quỷ và bệnh tật, vừa khiêm tốn cậy dựa vào lòng quảng đại của người khác. Vừa có gì để cho, vừa có gì để nhận: cho Tin Mừng cứu độ và sự chữa lành, nhận sự giúp đỡ vật chất. Vừa gần gũi thân thiết với nỗi đau thân xác của con người, với những lo âu rất đời thường trong một gia đình, vừa thanh thoát với tiền bạc, không bị chi phối bởi nhu cầu vật chất. Nhóm Mười Hai sẽ phải đối diện với sức mạnh của ác thần đang tác oai tác quái trong đời nhiều người. Họ sẽ phải dùng quyền Thầy trao để giải phóng con người khỏi nô lệ. Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ bảo ta đừng đem gì? Đâu là những nét đặc trưng của khuôn mặt người tông đồ thế kỷ 21? Đâu là những bệnh tật và nô lệ của con người hôm nay? Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. -------------------------------
“Anh em đừng mang gì đi đường”. Nước Thiên Chúa không phải là nước trần gian. Nước trần gian cần nhiều phương tiện như lãnh thổ, tài nguyên, quân đội. Nước Thiên Chúa chỉ cần có Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả.
Sống đơn sơ khó nghèo, người môn đệ làm sáng lên sự hiện diện của Thiên Chúa cao cả. Không bám víu vào phương tiện trần gian, người môn đệ làm sáng lên sức mạnh của Thiên Chúa toàn năng. Hai bàn tay trắng người môn đệ làm chứng về niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và phó thác vận mệnh trong tay Người. Hành trang người môn đệ đơn sơ chỉ cần mang Thiên Chúa trong mình, đó là có tất cả.
Người môn đệ cậy dựa vào các phương tiện trần gian sẽ thất bại. Chỉ khi có Chúa việc tông đồ mới thành công. Ta hãy so sánh thời đại chúng ta với thời các tông đồ. Thời đó các ngài không có gì hết. Không cơ sở. Không nhân sự. Không tiền của. Bị bắt bớ. Thế mà việc truyền giáo phát triển với tốc độ vũ bão. Còn ngày nay ta có nhiều cơ sở hơn. Nhiều nhân sự hơn. Nhiều tiền của hơn. Ít bị bắt bớ hơn. Nhưng việc truyền giáo ì ạch. Lại còn có nhiều người bỏ đạo nữa.
Ta thất bại vì không có Chúa. Không có Chúa vì ta phạm tội. Ét-ra đau đớn nhận biết tội lỗi của cha ông đã quên Thiên Chúa, chỉ trông cậy vào thế lực trần gian nên đã bị trừng phạt nặng nề, bị lưu đày, bị làm nô lệ, bị tan nát, xấu hổ. “Từ thời tổ tiên chúng con cho đến ngày nay, vì chúng con đã mắc lỗi nặng và phạm tội, nên các vua và các tư tế của chúng con đã bị nộp vào tay vua chúa các nước ngoại bang”. Nay được Thiên Chúa thương đưa về quê nhà, ông xin nhất tâm xây dựng Đền Thờ để khuyến khích toàn dân thờ phượng Thiên Chúa là nguồn mạch sức mạnh, bình an và thịnh vượng. Tái thiết đền thờ chính là tái thiết con người. Ăn năn sám hối. Sống thánh thiện. Có Chúa ở cùng, sẽ có tất cả (năm lẻ).
Tác giả sách Châm ngôn cũng giúp ta ý thức điều này. Ông chỉ tha thiết được có Chúa. Vì Chúa là tất cả: “Mọi lời Thiên Chúa phán đều được chứng nghiệm, Người là khiên thuẫn cho ai tìm ẩn náu nơi Người”. Vì thế ông không dám xin Chúa sự gì nơi trần gian. Chỉ xin Chúa ban cho sống một đời sống đừng xa lìa Chúa, đừng lỗi phạm đến Chúa. Vì thế ông không xin sang giầu vì sợ sang giầu làm cho tâm hồn xa Chúa. Ông cũng xin Chúa đừng để ông nghèo đói vì sợ đói ăn vụng túng làm liều sẽ làm ô danh Chúa. Đây là một thái độ khôn ngoan chúng ta phải học hỏi và thực hành trong đời sống. Chỉ cần có Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Tránh xa những gì ngăn cách ta với Chúa. Có Chúa ở cùng ta sẽ có tất cả (năm chẵn).
Ðược Chúa Giêsu tuyển chọn và sống với Chúa, các Tông đồ cũng đã nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Luca thuật lại biến cố Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, Ngài nhắc nhở các ông phải sống khó nghèo và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
So với lần Chúa sai các môn đệ thì lần này có điểm khác biệt là thay vì được sai đi từng hai người, các Tông đồ được sai đi từng người một và được ban cho sức mạnh và quyền năng để trừ ma quỉ và chữa lành bệnh tật. Tuy nhiên, các ông cũng chỉ được sai đi trước để loan báo Ngài sắp đến. Huấn lệnh cho các Tông đồ trước khi lên đường có thể gồm 3 phần: Thứ nhất, trên đường đi các ông không được mang theo gì cả, mặc dù sứ vụ của các ông kéo dài một thời gian, chứ không phải chỉ có một vài ngày; điều đó có nghĩa là các ông phải hoàn toàn từ bỏ chính mình và chỉ tin vào sức mạnh của Lời Chúa. Thứ hai: khi tới nhà nào thì phải kiên trì, không được lùi bước; nói khác đi, các ông phải tin vào sứ mệnh của mình, tin vào sự quan phòng và chờ đợi thời giờ của Chúa. Thứ ba: các ông phải có can đảm trước sự cứng đầu của những kẻ chống đối các ông.
Mỗi thời đại có những cám dỗ riêng. Ma quỉ đã cám dỗ Chúa Giêsu từ bỏ sứ mệnh cứu thế, cũng như cám dỗ Ngài làm những việc lạ lùng, như hóa đá thành bánh, gieo mình xuống từ nóc Ðền thờ để mọi người thấy và tin. Ngày nay, không thiếu những người chỉ muốn dùng tiền bạc để giảng dạy hoặc dùng quyền bính để làm cho người khác kinh sợ. Một cám dỗ khác mà người Tông đồ thời nay thường mắc phải, đó là sự thiếu kiên nhẫn, chờ đợi thời giờ của Chúa. Họ dễ thoái lui rời bỏ nhiệm sở, thay đổi công việc. Cũng có những người Tông đồ không dám nói rõ những sai lầm của người khác cũng như những gì trái ngược với giá trị Tin Mừng. Thái độ chung của con người thời nay là ích kỷ và hưởng thụ, số người sẵn sàng để Chúa sai đi thật hiếm hoi, số các tệ nạn do sự sai lầm thiêng liêng ngày càng gia tăng, trong khi đó cái tôi tự do được thổi phồng.
Có lần nhà hiền triết Diogène đứng ở một góc đường và cười rã rượi như người điên loạn. Một khách bộ hành hỏi ông: "Có gì mà ông cười ngặt nghẽo như thế?" Ông đáp: "Anh có thấy tảng đá to ở giữa đường kia không? Từ khi tôi tới đây, đã có mười người vấp ngã vì nó và nguyền rủa nó, nhưng không ai quan tâm lấy nó đi để tránh cho người khác khỏi vấp ngã".
Có nhiều cách làm việc Tông đồ, nhưng hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt lành của mình. Xin Chúa giúp chúng ta đáp lại lời mời của Chúa và hăng say dấn thân phục vụ những người xung quanh vì Chúa.
Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm Mười Hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố Phục Sinh để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau Phục Sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, sau biến cố vượt qua mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày vẽ công việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do theo sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu. Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa cho rằng, Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu, một ý định vượt qua giới hạn thời gian, Chúa đã kêu gọi huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.
Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật.
Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh.
Nhà thờ để phụng thờ Thiên Chúa, nhà thương để chăm sóc bệnh nhân, nhà dưỡng lão để săn sóc người cao niên, nhà học tập dành cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa. Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sơ sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho chúng con quyền năng của Chúa để chúng con được canh tân và dấn thân nhiều hơn nữa, để chu toàn tốt hơn sứ mệnh Chúa đã trao phó cho trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa hãy thương hiện diện với chúng con và cùng hoạt động với chúng con luôn mãi.
Đức Giêsu tập họp nhóm mười hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân.” (Lc. 9, 1-2)
Mục đích và điều kiện truyền giáo là mang sứ điệp của Đức Giêsu đến cho mọi người vẫn không thay đổi từ thời Giáo Hội sơ khai của các tông đồ cho đến nay đều theo mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh.
Đức Kitô đã ban cho nhóm muời hai quyền đuổi quỷ, chữa lành các bệnh nhân và rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Tận nền tảng, vị truyền giáo không thể bằng lòng với lời nói, ông cần phải hành động yểm trợ cho lời nói, và lời nói cần giải nghĩa và soi sáng cho hành động. Từ nhiều năm nay có thể chúng ta đã vịn lý do chỉ cần những hành động công khai nên đã bỏ phần hỗ trợ thiết yếu của lời giảng, có khi còn loại bỏ lời nói để thay bằng lối sống chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô. Đến một mức nào đó, chúng ta phải cảm phục một số những nhà hùng biện ngày nay có sức thuyết phục thính giả chịu nghe các ông nói hằng giờ.
Đức Kitô đã làm khác với chúng ta và những nhà hùng biện, Người không chỉ dùng lời nói,mà vừa rao giảng vừa hành động. Bằng lời nói và chữa bệnh, Đức Kitô qui tụ chung quanh mình hàng ngàn, hàng ngàn người dân. Ngày nay, Người vẫn còn nói bằng rất nhiều hành động từ thiện và nhiều cách khác nữa để nâng đỡ lời giảng dạy. Như vậy việc truyền giáo đòi có cả hai điều: Lời giảng và việc làm: “Lời nói đi đôi với việc làm”.
Thử nhìn chung quanh mình, sẽ thấy khá rõ có giáo phái dù nhỏ bé, họ biết khôn khéo lợi dụng mọi cách để truyền giáo.
Phải chăng, chúng ta kém khôn khéo khi rao truyền đức tin Kitô giáo?
Nghèo khó và từ bỏ vẫn còn hữu ích và hơn bao giờ hết là điều kiện cho việc truyền giáo thật sự tiến triển. Chúng ta dễ bị cám dỗ dùng những phương tiện to tát và hấp dẫn đầy ấn tượng để truyền giáo. Sự từ bỏ là một vẻ đẹp, ngày nay cần thiết phải thực hiện để giúp chúng ta không quên điều Đức Kitô đã dạy muời hai người đánh cá làm nền tảng xây lên Giáo Hội, và nhờ đó mà chinh phục được thế giới, nhất là sự từ bỏ trên thập giá. Lời Chúa sẽ mãi mãi là hạt cải nhỏ bé đã lớn lên thành cây vĩ đại cho muôn chim trời đến trú ngụ.
Xem lại CN 15 TN B, thứ Năm tuần 4 TN và thứ Tư và thứ Năm tuần 14 TN
Thiên Chúa hằng chăm lo cho dân của Người. Vì thế, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã ban cho dân các Tổ phụ, rồi sai các Tiên tri, và thời sau cùng, Người trao ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã kiện toàn tất cả những gì đã loan báo trước đó, đồng thời, Ngài không ngừng mời gọi những môn sinh của mình tiếp bước để cùng Ngài ra đi và tiếp nối sứ mạng cao quý là loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Để củng cố lời rao giảng, Đức Giêsu còn trao ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên ma quỷ và chữa lành các bệnh tật. Mặt khác, Đức Giêsu muốn các môn đệ thanh thoát, nhẹ nhàng, để chỉ chú tâm cho công cuộc loan báo Tin Mừng là việc chính yếu, Ngài đã truyền cho các ông: “Đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo”. Bên cạnh đó, Ngài còn hướng dẫn các ông về cung cách ứng xử khi thi hành sứ vụ: “Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ".
Như vậy, nếu nhìn cách tổng thể, chúng ta thấy chính Đức Giêsu và sau đó là lệnh truyền của Ngài cho các môn đệ, làm toát lên sự thao thức và ý định muốn giải phóng con người toàn diện cả xác lẫn hồn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hân hoan đón nhận sứ vụ như là một hồng ân, dẫu rằng chúng ta không xứng đáng! Mặt khác, luôn sống trong sự phó thác nơi Chúa và đừng quá lo lắng về cơm áo gạo tiền trong khi thi hành sứ vụ. Bởi vì chính Đấng sai ta cũng đã sống cảnh: “Con cáo có hang, con chồn có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Sự thanh thoát này giúp chúng ta không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc nơi của cải vật chất, sự an tâm trần thế. Ngược lại, nhờ lối sống đơn giản, chúng ta được nâng đỡ tinh thần từ bỏ mình và tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa cách tốt đẹp hơn. Đức Giêsu cũng không quên nhắc các môn sinh của mình là không được dùng những hình thức khống chế, quyền lực để phụ trợ cho sứ mạng, ngược lại hãy dùng tình thương và gương sáng, tôn trọng tự do và ước muốn của người thụ huấn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thanh thoát và can đảm, tin tưởng và phó thác, vui mừng và hy vọng trong khi loan báo Tin Mừng tình yêu của Chúa cho anh chị em chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu ban ơn để sai các tông đồ rao giảng Nước Thiên Chúa. Chúa căn dặn phải thực hiện sứ vụ của mình bằng một cuộc sống thanh thoát và bình dị.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trở nên người Kitô hữu là lãnh nhận ơn gọi sống cho Chúa và sống cho kẻ khác. Chúa ban cho con ơn thánh Chúa và sai con vào môi trường sống hằng ngày. Cuộc sống hằng ngày là môi trường để con tỏ bày ơn Chúa cho kẻ khác. Con muốn xác tín một lần nữa trước mặt Chúa để con thực sự là người Kitô hữu, là người môn đệ của Chúa giữa xã hội.
Mỗi người có thể có nhiều vai trò, nhiều địa vị trong tương giao với kẻ khác. Có thể là giám đốc, là công nhân, là thầy, là thợ, là cha mẹ, là vợ chồng, là con, là anh, chị, em… Những vai trò này xác định cách sống. Cũng vậy, con là người Kitô hữu, là môn đệ của Chúa, đặc tính căn bản này sẽ xác định cách sống của con, sẽ hướng dẫn con trong những tương giao đối với mọi người. Xin Chúa giúp con sống đúng phẩm giá và danh hiệu Kitô hữu của con.
Với tư cách là người Kitô hữu, nhiều lúc con cũng sẽ phải chấp nhận những hy sinh, thiệt thòi cho chính mình. Nhưng con biết rằng Chúa đã muốn điều đó. Chúa dạy con vui lòng chấp nhận những tiện ích vật chất vừa đủ cho cuộc sống. Chúa dạy con phải biết cho đi chứ không chỉ thu góp cho mình.
Lạy Chúa, một cuộc sống như vậy không phải chỉ dành riêng cho các nhà tu nhiệm nhặt sao? Không, Lời Chúa hôm nay nói với chính con trong tư cách là một Kitô hữu. Đó phải là cuộc sống của con. Xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân”.
Tuy là một nữ tu Dòng Kín, nhưng Têrêsa vẫn ao ước được làm linh mục để đi truyền giáo khắp nơi, làm cho dân ngoại trở lại. Và chị ao ước làm linh mục truyền giáo như thế cho đến tận thế. Chị luôn sống đời cầu nguyện và hy sinh cho các linh hồn được trở lại.
Cuộc đời cầu nguyện và hy sinh của chị Têrêsa, tuy rất ngắn ngủi vì qua đời lúc 24 tuổi (1873 - 1897), nhưng đã làm cho vô số người trở lại. Giáo hội phong tặng chị là Bổn Mạng các vị truyền giáo và các xứ truyền giáo.
Suy niệm
Chúa Giêsu sai mười hai tông đồ đi rao giảng nước Thiên Chúa. Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận gọi và chọn mười hai vị với tên tuổi rõ ràng (x. Mt 10,1-6; Mc 3,13-19; 6,7-13; Lc 6,12-16; 9,1-6).
Sau này, các Giám mục kế vị các tông đồ, với sự nối dài cộng tác là các linh mục, phó tế. Các tín hữu Chúa tham dự bởi bí tích Rửa Tội, mang sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Người môn đệ được Chúa sai đi, hành trang duy nhất là sự nhiệt thành và lòng tin thác cậy trông, mang tâm tình của Đức Kitô truyền cho các môn đệ: “Đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó...”
Trên bước đường rao giảng, người môn đệ cũng như Thầy chí thánh luôn quan tâm đến người đau khổ, chữa lành bệnh tật, mang hạnh phúc cho mọi người. Thật thế, người môn đệ của Chúa luôn quan tâm đến những nhu cầu được chữa lành, chia sẻ cho anh em đồng loại như sau này Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ: “Vui với người vui, khóc với người khóc…” (Rm 12,15), và ở Cửa Đẹp đền thờ thánh Phêrô thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!… anh trở nên cứng cáp” (Cv 3,6-7).
Lời mời gọi các môn đệ ra đi làm việc trên cánh đồng truyền giáo của Chúa Giêsu ngày xưa cũng là lời mời gọi dành cho mỗi người chúng ta trong cộng đoàn tín hữu và nếu tôi, bạn là người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời mời gọi ấy nhưng đáp trả như Phaolô đã cảm nghiệm và sống sứ mạng: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Với ý thức đó, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc”. Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo”.
Ý lực sống:
“Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng” (Moody).
1. Đức Giêsu sai mười hai Tông đồ đi rao giảng Tin mừng để các ông được tham gia vào sứ mạng của Ngài. Đức Giêsu đã ban cho các ông năng lực làm phép lạ, chữa bệnh và quyền phép để xua trừ ma quỉ. Ngài cũng căn dặn các ông nhiều điều trước khi lên đường.
Lời căn dặn của Đức Giêsu phải chăng muốn nói: khi rao giảng phải bỏ hết những đồ dùng, kể cả lương thực? Thưa không, Ngài chỉ muốn nhấn mạnh rằng, với sứ mệnh loan báo Tin mừng, đừng để vật chất, danh vọng, tình cảm làm chủ mình. Nhưng, phải cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa và của Tin mừng thôi.
2. Thiên Chúa hằng chăm lo cho dân của Người. Vì thế, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã ban cho dân các Tổ phụ, rồi sai các Tiên tri, và thời sau cùng, Người trao ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã kiện toàn tất cả những gì đã loan báo trước đó, đồng thời, Ngài không ngừng mời gọi những môn sinh của mình tiến bước để cùng Ngài ra đi và tiếp nối sứ mạng cao quý là loan báo Tin mừng đến tận cùng trái đất. Để củng cố lời rao giảng, Đức Giêsu còn trao ban cho các ông năng lực của chính Ngài, để thực hiện các phép là và ban quyền phép để xua trừ ma quỷ.
3. Trước khi đi rao giảng, Đức Giêsu dặn bảo các ông cần có tinh thần siêu thoát: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo”. Theo đó, Đức Giêsu không bảo các ông phải vô sản, không chủ trương tìm sự thiếu thốn vật chất, nhưng có một giá trị nội tâm, nó giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc với của cải trần thế, và mở rộng lòng mình ra trước sự giàu có tinh thần. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh rằng, đừng để cho vật chất, danh vọng, tình cảm làm chủ và chi phối mình.
Chúa muốn nhà truyền giáo phải dựa vào ơn Chúa trước khi dựa vào tiền bạc, hãy dựa vào sự trợ giúp của Chúa hơn là sự trợ giúp của phương tiện vật chất. Chính ơn Chúa mới đem lại sự bình an thanh thoát trong tâm hồn. Sự từ bỏ, quên mình hoàn toàn mới chu toàn được sứ vụ rao giảng. Đi truyền giáo mà với đầy rẫy những thứ cồng kềnh vướng bận, thì khó mà toàn tâm toàn ý lo cho sứ vụ, bon chen và ham mê công việc lấn át hết thời giờ cho Chúa (Hiền Lâm).
4. Lý do của việc truyền giáo. Hội thánh luôn nhận lấy bổn phận và nhiệt tình truyền giáo từ chính tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả mọi người: “Vì tình yêu Đức Kitô thôi thúc tôi” (2Cr 5,14). Quả thế, “Thiên Chúa luôn cho mọi người được ơn cứu độ và đạt tới sự nhận biết chân lý” (1Tm 2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được ơn cứu độ nhờ nhận biết chân lý. Trong chân lý có ơn cứu độ. Những ai để cho Thần Chân Lý thúc đẩy thì đã ở trên đường cứu độ. Vì đã được uỷ thác chân lý, Hội thánh phải nắm bắt khát vọng của con người để mang chân lý đến cho họ. Vì tin vào ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, nên Hội thánh phải truyền giáo.
5. Loan báo Tin mừng Nước trời là sứ mệnh hàng đầu của Đức Giêsu và của cả Giáo hội, Ngài đã đến trần gian và ở lại 33 năm là để thi hành sứ mệnh này. Kế tiếp Ngài, các người được Ngài mời gọi, đi theo, ở với và rồi được sai đi cũng mang trọng trách ấy cho đến “khi Chúa đến”. Trước tiên, loan báo Tin mừng hệ tại việc “đi”: đi vào giữa lòng đời và đi ra vùng ngoại biên. Loan báo còn là làm chứng, thực hiện những dấu chỉ, trong đó có dấu chỉ chữa trị những vết thương tinh thần và cả thể lý của những kẻ môn đệ Chúa Kitô được sai đến. Lời loan báo, giới thiệu Tin mừng được đón nhận dễ dàng hơn khi có các dấu chỉ yêu thương, hy sinh, quảng đại... kèm theo. Điều này đòi hỏi các môn đệ phải nỗ lực thích nghi, sáng kiến trong sứ vụ. Nói cách khác, để chu toàn sứ mệnh, người môn đệ không thể ở yên một chỗ, nhưng phải di chuyển và đưa ra những kế hoạch cụ thể, thích hợp (5 phút Lời Chúa).
6. Chúng ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết, cử chỉ hay bất cứ phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa, để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa.
Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
7. Truyện: Chúa sai tôi đi
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm với hố, tường thì đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh cha rằng:
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ tôi ngày tôi chịu chức linh mục: “Nay con đã là linh mục của Chúa, cha chỉ cầu mong con ba điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào. Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào. Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa”.
Và thế rồi ngài an bình ra đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
Chúa Giêsu sai Nhóm 12 đi loan Tin Mừng và chỉ dẫn họ những điều cần thiết khi thi hành sứ mạng:
1. Sứ mạng:
- Họ sẽ được tham dự vào chính sứ mạng của Thầy mình, cho nên Chúa Giêsu ban cho họ năng lực, năng lực của chính Ngài, năng lực mà Ngài đã dùng để thực hiện các phép lạ mà chúng ta đã thấy ở các đoạn trước; Ngài cũng ban cho họ quyền phép, cũng là quyền phép của chính Ngài, quyền phép mà Ngài đã dùng để xua trừ ma quỷ mà chúng ta cũng đã thấy ở những đoạn trước.
- “Trừ mọi thứ quỷ và chữa các thứ bệnh”: người do thái quan niệm bệnh tật là dấu hiệu thống trị của Satan và tội lỗi. Vậy trừ quỷ và chữa lành bệnh đều có cùng một ý nghĩa là quyền lực Thiên Chúa đã chiến thắng Satan.
2. Những chỉ dẫn cần thiết:
- Chỉ dẫn thứ nhất là về lúc đi đường: đừng để mình bị quá vướng víu với những nhu cầu và phương tiện vật chất, nhờ thế mà sẽ biết phó thác vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa hơn. Muốn thế người tông đồ phải: a/ “Đừng mang gì đi đường” để được thảnh thơi khỏi cồng kềnh; b/ “Đừng mang gậy”: gậy nhằm tự vệ khi bị kẻ ác tấn công dọc đường. Người tông đồ khỏi lo việc này vì chính Chúa Quan Phòng sẽ bảo vệ họ; c/ “Bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo”: đó là những món có tính cách dự trữ, phòng xa cho những nhu cầu vật chất. Việc phòng xa này cũng không cần thiết vì Chúa Quan Phòng đã lo sẵn có những người dọc đường cung cấp các thứ cần thiết ấy cho người tông đồ.
- Chỉ dẫn thứ hai là về chỗ ở: Tông đồ không nên so đo chọn nơi ở sao cho vừa ý nhất, do so đo như vậy mà cứ đổi từ chỗ này sang chỗ khác cho dễ chịu hơn. Chúa Giêsu dặn phải chọn người xứng đáng ở trọ nhà họ rồi trọ luôn một chỗ đó. Cv 16,15 là một thí dụ minh họa cho điểm này.
- Chúa Giêsu cũng dự trù một trường hợp đặc biệt: có thể có nơi sẽ không chịu đón tiếp người tông đồ. Gặp trường hợp đó người tông đồ hãy "Ra khỏi thành và giũ sạch bụi chân để tỏ dấu phản đối họ": theo tục lệ do thái, cử chỉ này có nghĩa là đoạn tuyệt. Xứ nào không đón nhận Lời Chúa thì bị kể không phải là Đất Thánh, bụi của xứ đó đều là bụi dơ, phải phủi lại kẻo mang bụi dơ ấy sang những xứ biết đón nhận Lời Chúa. Cử chỉ phủi bụi chân và ra đi cũng có ý tuyên bố rằng từ nay người tông đồ không còn trách nhiệm với nơi đó nửa, trách nhiệm thuộc về chính nơi đó. Cv 13,51 cũng là một minh họa cho điểm này.
B.... nẩy mầm.
1. Đã lãnh nhận đức tin cách nhưng không thì chúng ta cũng có bổn phận truyền bá đức tin ấy cách nhưng không. Truyền giáo không phải là một việc “nhiệm ý làm thêm”, mà là một trách nhiệm của công bằng.
2. Dù không có sẵn bao bị, gậy, bánh, tiền… tức là những khả năng phương tiện, ta cũng đừng ngại thi hành bổn phận truyền giáo, bởi vì dù chúng ta có những thứ đó Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta đừng mang theo. Chúng ta có được sự hỗ trợ đắc lực nhất là chính Chúa.
3. Truyền giáo trước tiên không phải là nhằm dạy cho người ta biết một số kiến thức về giáo lý mà là nhằm “xua trừ ma quỷ và chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là đẩy lùi những sự dữ và sự xấu ra khỏi con người.
Có lẽ từ trước tới nay tôi chưa ý thức mục tiêu này.
4. “Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc, loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi”.
Các môn đệ xưa là những người dân lương thiện, chất phát. Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau: trí thức có, bình dân có… tất cả đều được sai đi để loan báo Tin Mừng. Với cả sự nỗ lực và lòng nhiệt thành, họ đã ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ.
Những người trẻ chúng ta cũng được mời gọi rao giảng Lời Chúa. Có thể chúng ta không phải đến những nơi xa xôi, mà ở đây, bằng chính cuộc sống của mỗi người nơi môi trường học đường, gia đình, làng xóm…
Lạy Chúa, xin ở bên con và bước đi cùng con (Hosanna).
1. Chúa Giêsu sai nhóm 12 đi loan Tin Mừng. Nói một cách cụ thể, Chúa sai các môn đệ đi truyền giáo. Và từ đó trở đi, việc truyền giáo đã trở thành sứ mạng của mọi người trong Giáo Hội.
Đây là lời của Công Đồng chung Vaticanô II trong Hiến Chế Truyền Giáo: “Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Đồ như vậy (Ga 20, 21) khi Người phán: “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy dỗ họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Lệnh ấy, Chúa Kitô long trọng truyền lại, Giáo Hội đã nhận lãnh từ các Tông Đồ để chu toàn khắp cõi đất (Cv 1,8). Vì thế, Giáo Hội xem lời sau đây của Thánh Tông đồ như lời của mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không giao giảng Tin Mừng” (1Cor 9,16), và vì thế, Giáo Hội không ngừng gửi sứ giả Tin Mừng cho đến khi các Giáo Hội trẻ được trưởng thành hoàn toàn và tự mình tiếp tục việc rao giảng Tin Mừng. Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Ngài để hoàn tất trọn vẹn ý định của Thiên Chúa là Đấng đã đặt Chúa Kitô làm nguyên lý cứu độ cho tất cả thế giới. Bằng việc rao giảng Tin Mừng, Giáo Hội sửa soạn cho người nghe đón nhận và tuyên xưng đức tin, và chuẩn bị cho họ lãnh phép Rửa, đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ của sự lầm lạc, tháp nhập họ vào thân.
2. Lý do của việc truyền giáo. Hội Thánh luôn nhận lấy bổn phận và nhiệt tình truyền giáo từ chính tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả mọi người: “Vì tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2Cr 5,l4). Quả thế, “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và đạt tới sự nhận biết chân lý” (1Tm 2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ nhờ nhận biết chân lý. Trong chân lý có ơn cứu độ. Những ai để cho Thần Chân Lý thúc đẩy thì đã ở trên đường cứu độ. Vì đã được ủy thác chân lý, Hội Thánh phải nắm bắt khát vọng của con người để mang chân lý đến cho họ. Vì tin vào ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, nên Hội Thánh phải truyền giáo.
3. Những con đường truyền giáo. “Chúa Thánh Thần là người chủ xướng mọi công cuộc truyền giáo của Hội Thánh” (RM.2l), chính Người dìu dắt Hội Thánh trên các nẻo đường truyền giáo. “Hội Thánh tiếp tục và triển khai qua dòng lịch sử sứ mạng của chính Chúa Kitô, Đấng được cử đến rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Được Thánh Thần Chúa Kitô thúc đẩy, Hội Thánh cũng phải tiến bước trên chính con đường Chúa Kitô đã đi là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người” (AG 5). Chính như thế mà “máu các thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh Kitô hữu” (Hộ Giáo 50).
Vào năm 1965, dư luận tại Italia ngỡ ngàng trước tin dược sư Marcello Candia, 59 tuổi, là giám đốc và là chủ nhân hai viện bào chế có tiếng ở Bắc Italia đã bán hết hai viện, nhà cửa, đất đai và tất cả sản nghiệp của mình rồi sau đó mang tiền sang miền Amazone Brazil, với sự đồng ý của Đức Tổng Giám mục Aristide Pirovano, giáo phận Maccapa thuộc Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo Milano. Ông Candia đã xây cất một nhà thương gồm 120 giường để tiếp đón và chữa trị cho các người nghèo trong vùng. Nhiều người cho rằng ý định của vị mục sư là một việc làm điên rồ. Nhưng ông đã nói:
“Ngay từ thời gian còn ở trung học, tôi vẫn thường tiếp xúc với dân nghèo ở khu vực ngoại ô Milano dưới sự hướng dẫn của một vị linh mục dòng thánh Phanxicô Capuciano. Lòng yêu mến công tác truyền giáo đã nảy sinh trong tôi từ dạo đó. Một lần kia, thày Kecillio, người giữ cửa tu viện đã nhờ tôi giúp phân phát cháo cho người nghèo, tôi đã vui lòng nhận lời. Tại phòng khách nơi nhiều người đang chờ tới phiên mình, tôi nhìn thấy tấm hình của cha Damiane de Samarate, người đã chết vì bệnh cùi năm 1924 tại thành phố Belem bên Brazil, sau khi đã tận tụy chăm sóc các người bệnh tại đây và chính người cuối cùng đã lây bệnh, rồi chết. Mỗi lần nhìn lên tấm hình vị linh mục, tôi lại cảm thấy một lời mời gọi văng vẳng bên tai: “Tại sao mình lại không bán hết tài sản để phục vụ người nghèo?
Sau khi đã đến thăm miền Amazone, tôi đã quyết định bán tất cả sản nghiệp và đến làm việc tại đây để phục vụ và giúp đỡ những người nghèo.”
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường thật nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của một người tìm được viên ngọc quý.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm chặt lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường. Amen (Rabboni)
Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: “Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại”; còn kẻ khác lại nói: “Ông Êlia đã hiện ra”; kẻ khác nữa nói rằng: “Một tiên tri thời xưa đã sống lại”. Nhưng Hêrôđê thì nói: “Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?” và vua tìm cách gặp Người.
Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài đã nổi tiếng ở vùng Galilê, qua các hoạt động rao giảng và chữa bệnh. Tiếng đồn về Ngài ngày càng lan rộng (Lc 5, 15). Điều đó hẳn đã đến tai của Hêrôđê (c. 7), vị tiểu vương cai quản vùng Galilê trong hơn bốn mươi năm (Lc 3, 1). Hêrôđê bối rối và lúng túng trước những tin mình nhận được. Ông đã cho chém đầu Gioan Tẩy giả, kẻ được coi là ngôn sứ (c. 9). Bây giờ lại nổi lên một người khác tên là Giêsu. Người ta đồn đãi nhiều về nhân vật Giêsu này. Có một số người nói ông này là Gioan bị chém đầu nay sống lại. Có những người khác nói đó là ông Êlia tái giáng sau khi đã được đưa về trời trong cơn gió lốc (2V 2, 11). Cũng có những kẻ nói Giêsu là một ngôn sứ nào đó thời xưa sống lại. Quả thật nhìn việc làm, lời giảng và lối sống của Giêsu, người ta dễ thấy Ngài là một ngôn sứ (x. Lc 7, 16-17). Mà chính Đức Giêsu cũng nhận mình là ngôn sứ (Lc 4, 24; 13, 33). “Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Hêrôđê tò mò muốn biết Ngài là ai. Ông không tin Đức Giêsu là Gioan bị chém đầu, nay sống lại. Và ông tìm cách gặp mặt Ngài (c. 9). Hêrôđê đã được gặp Đức Giêsu trong cuộc Khổ Nạn (Lc 23, 6-12). Lúc ấy Ngài xuất hiện trong tư cách một phạm nhân. Dù vậy Hêrôđê cũng vui sướng vì ước ao của mình được thỏa nguyện. Ông đã nghe Ngài làm được những phép lạ lớn lao, nên ông ước mong được chứng kiến tận mắt một vài phép lạ. Tiếc thay Đức Giêsu đã không muốn chiều Hêrôđê. Ngài đã không trả lời ông, cũng chẳng làm một phép lạ nào. Ngài thanh thản bình an trước những lời tố cáo của các thượng tế. Ngài không muốn tránh cái chết mà Ngài biết nằm trong ý định của Cha. “Ông này là ai?”, Hêrôđê đã tìm thấy câu trả lời khiến ông bị hụt hẫng. Giêsu chỉ là một anh khờ dại, chỉ đáng bị khinh bỉ và chế giễu. Cuộc tìm kiếm với nhiều tò mò của Hêrôđê kết thúc. Ông chẳng bao giờ biết được Đức Giêsu thật sự là ai. Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” (Lc 5,21; 7,49; 8,25). Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó. Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến. Tò mò, thích những điều giật gân, muốn thấy những điều lạ thường: tất cả những điều ấy không giúp ta khám phá mầu nhiệm một con người. Sự thật về Giêsu có khi lại được nhận ra qua cái im lặng cam chịu, qua sự bất lực đớn đau trên thập giá hơn là qua sự thi thố quyền năng. Phải đổi toàn bộ cái nhìn của mình để nhận ra được Giêsu là ai, để không vội vã đánh giá Ngài dựa trên tiêu chuẩn người đời. Như Hêrôđê, chúng ta có thể có cơ hội gặp mặt Giêsu, nhưng vẫn không biết Ngài là ai. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, khi đến với Chúa con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con, con đóng lại bút viết: các quan điểm của con, con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con, để con được ở một mình với Ngài, lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Sau khi được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào để đi theo đường của Chúa, con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa, con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của Chúa, con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa, con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa. (Graham Kings) ----------------------------------
Nghe những lời đồn thổi về Chúa Giê-su, Hê-rô-đê lo sợ. Vì người ta cho rằng Gio-an Tẩy giả sống lại. Mà ông đã giết chết thánh Gio-an. Có quyền sinh sát. Nhưng ông không có quyền trên lương tâm. Tuy chẳng ai dám phản đối, nhưng lương tâm kêu trách ông. Ông là vua. Nhưng có Đấng cao cả hơn ông. Có quyền phán xét ông. Thưởng phạt ông. Nên ông phải phân vân về việc làm của mình. Ông giết thánh Gio-an Tẩy giả. Giờ đây tiếng máu vô tội giầy vò ông, chất vấn ông. Mọi biến cố đều qua đi. Nhưng cách ta ứng xử với mỗi biến cố lại tồn tại. Và trở thành lời phán xét ta. Vì trên quyền thế trần gian, vẫn còn có Chúa Tể Càn Khôn cầm cân nảy mực. “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Đầu chém rồi nhưng trách nhiệm chưa hết đâu!
Có những điều mau qua. Nhưng vẫn còn đó những giá trị vĩnh cửu. Ông Cô-he-lét nói: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn”. Ông khám phá ra chân lý. Mọi sự đều hư ảo. Nhưng vẫn có thứ trường tồn. Đừng dại dột vất vả thu tích những gì hư ảo chóng qua như phù vân. Hẫy làm việc mà tìm kiếm điều vĩnh cửu (năm chẵn).
Ét-ra cho biết những gì ngoài Thiên Chúa đều vô ích vì mau qua và không kết quả. Chỉ khi nào ta tôn thờ Thiên Chúa làm mọi việc trong Thiên Chúa bấy giờ mọi thứ mới vững bền. Vì thế phải làm việc cho Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Nếu chỉ làm cho bản thân mọi sự sẽ suy tàn: “Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Các ngươi gieo vãi nhiều, nhưng thu hoạch chẳng bao nhiêu. Các ngươi ăn mà không đủ no, uống không đủ say, mặc không đủ ấm. Đồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng. Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta. Ta sẽ lấy làm vui và tỏ vinh quang Ta ở đó” (năm lẻ).
Khi có Chúa ở cùng mọi việc sẽ tốt đẹp. Đất sẽ trổ sinh hoa trái. Hãy ở trong Chúa. Hãy làm việc trong Chúa. Kết quả sẽ vững bền. Ngoài Chúa tất cả là hư vô. Là phù vân trên mọi phù vân.
Trong những dòng cuối cùng của Thông điệp "Hòa Bình Dưới Thế", Ðức Gioan XXIII đã định nghĩa một người Kitô hữu chân chính: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới phải là một mảnh sao băng chiếu sáng, là tụ điểm của tình yêu, là men sống động giữa anh em mình. Người Kitô hữu càng đóng trọn vai trò của mình, khi càng sống mật thiết với Chúa. Người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho và vì người khác. Một mảnh sao băng chỉ chợt lóe lên rồi lịm tắt, nhưng cũng đủ thu hút con người về một góc trời nào đó; một chút men bé nhỏ trong khối bột, nhưng cũng đủ làm dậy cả khối bột. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu, có sức thu hút, tạo chú ý, quấy rầy lương tâm người khác, nếu cuộc sống ấy là một cam kết, một dấn thân trọn vẹn.
Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy. Qua lời nói, việc làm, và nhất là cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời. Mỗi người một câu trả lời, nhưng bất cứ ai cũng được mời gọi để bày tỏ lập trường đối với con người của Chúa Giêsu. Riêng Vua Hêrôđê, ông tiến thêm một bước là muốn đến gặp Chúa Giêsu.
"Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không ngừng đặt ra cho chúng ta, và qua chúng ta, Ngài tiếp tục đặt ra cho mọi người. Qua cuộc sống của mình, người Kitô hữu cũng phải là một câu hỏi cho những người chung quanh; và dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên dồn dập khi cuộc sống ấy là một hành trình đi ngược dòng đời.
Giữa một xã hội lấy bon chen làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tinh thần nghèo khó. Giữa một xã hội lấy hận thù làm luật sống, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục yêu thương và tha thứ đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người thường buông xuôi, thất vọng, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống lạc quan tin tưởng vào Ðấng luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại. Giữa một xã hội mà sự tử tế đối với nhau đã thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tử tế với mọi người, ngay cả những người thù địch. Sống như thế quả là một đòi hỏi gay go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà là một thể hiện của một cuộc sống mật thiết với Chúa. Không có ơn Chúa, không sống kết hiệp với Chúa, người Kitô hữu không thể đi đến cùng những cam kết sống chứng nhân của họ.
Xin Chúa ban thêm sức mạnh, để trong cuộc sống chứng tá, chúng ta luôn xác tín rằng chúng ta đang sống nhờ Chúa, với Chúa và cho Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến mối tương quan giữa Chúa Giêsu và vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là ai? Dựa theo vài chi tiết trong Phúc Âm, chúng ta có thể nói ông là một con người dám làm điều nghịch lại với lương tâm mình vì say mê quyền hành và danh vọng. Dĩ nhiên, ông biết rõ điều gì đúng và điều gì sai, ông biết rằng ông không nên sống với người đàn bà không phải là vợ của mình, ông biết rõ ông không nên chiều theo áp lực của những bạn bè, ông biết rõ ông không được giết người vì sự sống con người là thiêng thánh. Nhưng ông đã làm những điều xấu đó, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm vì áp lực xã hội. Khuyết điểm khác nữa cũng của vua Hêrôđê là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm, ông muốn trấn an lương tâm và thuyết phục mình rằng không có gì sai quấy trong việc đã làm. Ông đã giết chết Gioan Tẩy Giả, nhưng khi ông thấy Chúa Giêsu Kitô thì ông tự nhủ là Gioan đã sống lại và như thế thì mình không có lỗi gì và rằng điều xấu ông đã làm đã được đền bù. Vua Hêrôđê đã hành động nghịch lại lương tâm và tệ hại nhất là việc ông không muốn đối diện với yêu cầu của lương tâm, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm và muốn che đậy những gì mình đã làm.
Căn bệnh của vua Hêrôđê tiếp tục là căn bệnh của chúng ta. Nhiều người trong chúng ta hành động nghịch lại với lương tâm; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm điều đó, vì chúng ta sợ kẻ khác sẽ nói; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm, bởi vì chúng ta yêu thích những niềm vui nhục dục hơn mọi sự khác; chúng ta biết rõ điều gì nên làm, lương tâm chúng ta dạy chúng ta rằng chúng ta nên sống liêm chính, nhưng chúng ta vẫn gian lận với nhau và lường gạt những kẻ thân yêu nhất, bởi vì rất dễ làm như vậy. Ðiều tệ hại là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm chúng ta che đậy căn bệnh bằng miếng băng cứu thương và giả đò mọi sự vẫn như bình thường. Sau khi hành động nghịch lại lương tâm, chúng ta che đậy tội ác, dường như thể không có gì xảy ra cả.
Thật là khủng khiếp biết chừng nào việc chúng ta phạm tội rồi chối bỏ không nhận tội. Tội nặng nề nhất của thời đại chúng ta là việc chối bỏ điều tội trong chúng ta. Chúng ta hãy trở về lại nơi chúng ta cần phải làm, trở về lại với bản tính tự nhiên của mình. Có lúc vua Hêrôđê khao khát muốn gặp Chúa Giêsu, chúng ta không biết đây là vì tò mò hay là vì tiếng lương tâm thúc đẩy, vì trong nội tâm còn có chút khao khát muốn thoát ra khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, nhưng khao khát của vua Hêrôđê có lẽ còn quá yếu ớt và có thể là vì những điều trần tục và những sự đam mê không được phép bóp chết đi.
Chúa Giêsu đã cho vua Hêrôđê được dịp gặp Ngài trong cuộc thương khó và chúng ta biết rõ vua Hêrôđê đã bỏ qua tất cả cơ hội để sống với thực thể thật của Chúa Giêsu, đã bỏ mất cơ hội canh tân đời sống mình. Chúng ta hãy học lấy kinh nghiệm của và từ vua Hêrôđê, ông đã hành động nghịch lại lương tâm và đã che giấu tội ác của mình.
Phần chúng ta, ước chi chúng ta không rơi vào cùng một lỗi lầm như vậy và cũng đừng bóp chết chút khao khát còn sót lại trong tâm hồn sau phút lầm lỗi, để khiêm tốn ăn năn thống hối trở về với tình yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương hướng dẫn con trở về với Chúa mỗi lần con lầm lỗi, xúc phạm đến Chúa và anh chị em chung quanh. Xin cho con biết lắng nghe lương tâm và thực hành và thực hành điều lương tâm chỉ dạy.
“Ông Gio-an ta đây đã chém đầu rồi! Vậy ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”Rồi vua tìm cách thấy mặt Đức Giêsu. (Lc. 9, 9)
Không phải quá khứ mới đặt câu hỏi về Người. Ngày nay vẫn còn nhiều câu hỏi lúng túng hơn xưa về Đức Giêsu. Lúc còn sinh thời, Người đã có vấn đề. Ông hoàng Hê-rô-đê xứ Galilê nghe tất cả những điều Người nói và làm. Ngay ở một thời, cả khối trung đông không cóvấn đề gì lớn,thế mà ông đã có những thông tín viên săn lùng tin tức cho ông. Tiếng tăm về Đức Kitô lan ra hầu khắp nơi. Những ý kiến về Người: tốt có, xấu có được loan truyền rộng rãi như trong thế giới chúng ta hiện nay.
Phải chọn lựa thế nào? làm sao biết được chính xác về nhân vật kỳ lạ nay?
Những người này coi Người là Gio-an Tẩy Giả đã sống lại. Những người khác cho là Ê-li-a tái xuất hiện. Nhiều kẻ nói: đây là một trong những tiên tri thời xưa sống lại. Họ đã có ý kiến khác xa nhau về cùng một vấn đề, quần chúng dễ tin và hầu như lúc nào cũng thèm khát những điều lạ lùng dễ cảm động. Đức Kitô, qua sứ điệp và cử chỉ cư xử của mình, đã nuôi nấng cái lòng ham thích lẫn lộn của những hạng người nhỏ bé chỉ biết hướng về cái trước mắt và tầm thường.
Hê-rô-đê bối rối về những tin đồn về Đức Giêsu, vì ông không bao giờ có lương tâm yên ổn. Ông không thể quên Gio-an đã bị ông ra lệnh chém đầu. Ông luôn tự vấn, nếu chém đầu một người vô tội và thánh thiện, sẽ bị công lý trừng phạt. Ông cũng muốn gặp Đức Giêsu. Ông mong có ngày sẽ gặp Người, nhưng như với Gio-an, ông sẽ bỏ qua một bên ơn phúc được ban cho ông.
Những người của thế kỷ chúng ta vẫn tiếp tục tra hỏi về Đức Kitô. Những người này khám phá thấy Người là con Thiên Chúa và con Đức Maria. Những người khác chẳng bao giờ đi đến cùng sự thật về căn tính của Người.
Bất hạnh thay! Tại sao thế? vì lý lẽ của họ giống như của Hê-rô-đê, không có lòng khiêm tốn cần thiết để chấp nhận những điều khó hiểu của đức tin và họ không có tinh thần từ bỏ mà đức tin yêu cầu. Sự thật về Đức Kitô, theo Tin Mừng của Người là một thách đố phiền phức. Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó mới có thể được nâng lên tới đỉnh vinh quang.
Tin Mừng hôm nay cho thấy vua Hêrôđê hoang mang vì nghe người ta đồn Gioan Tẩy Giả đã chết mà nay sống lại. Ông lo lắng vì tin đồn này đã đụng đến tận căn hành vi tội ác của ông. Bởi vì ông là một người nhu nhược và ham mê sắc dục, nên đã đang tâm giết một người công chính là Gioan Tẩy Giả, chỉ vì ngài đã dám lên tiếng bênh vực sự thật và tố cáo hành vi sai quấy của ông.
Như vậy, hôm nay, một lần nữa hình ảnh vua Hêrôđê xuất hiện đã gợi lại cho chúng ta về bản chất của con người ác tâm, thất đức này. Tuy nhiên, căn bệnh của vua Hêrôđê cũng không khó kiếm trong xã hội của chúng ta, nhất là những người làm lớn.
Hằng ngày, chúng ta vẫn chứng kiến cảnh vì lợi ích của một người hay một nhóm người, mà gây nên biết bao oan sai, thất đức cho những người chân yếu tay mềm! Lại cũng vẫn còn đó những người chỉ vì miếng cơm manh áo mà chối bỏ lương tâm và thi hành những điều bất chính. Hay vì những thú vui xác thịt, chóng tàn, mau qua và đi đến chuyện giết người dã man, ghê rợn.
Thật vậy, căn bệnh của vua Hêrôđê cũng vẫn và sẽ tồn tại trong xã hội của chúng ta, nếu chúng ta không can đảm để tra tay cắt đi khối “ung nhọt” ghê tởm đó ra khỏi lương tâm, và không tìm cách để chữa trị bằng đời sống đạo đức, tôn trọng lẽ phải, công bằng và thực thi bác ái...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức được con người của mình là yếu đuối, bất toàn, nên cần phải hồi tâm để kịp thời trở về với bản chất: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Không được vô cảm và phủi tay, hay gán ghép điều xấu cho người khác, để mình vô tội, rồi vô tư đến nỗi: “Bình chân như vại” như không có chuyện gì xảy ra!
Nếu chúng ta rơi vào tình trạng trên, hẳn chúng ta là một hạng người đê hèn và đáng trách, nhu nhược và đáng bị nguyền rủa. Cũng cần cảnh giác quan niệm chân lý thuộc về số nhiều mà chúng ta dễ bị “hiệu ứng đám đông” chi phối, làm cho chúng ta bị mập mờ không biết đâu là đúng, là sai, nhắm mắt đi theo những lời lẽ ngon ngọt của những kẻ nịnh bợ, rồi như một sự phát sinh tất yếu, chúng ta hành động chẳng khác gì những kẻ ác tâm, thất đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những con người tốt và biết thi hành điều tốt cho anh chị em chúng con. Xin Chúa cũng tha thứ tội lỗi cho chúng con và ban cho chúng con ơn sám hối để trở về với Chúa. Amen.
Sứ điệp: Tư tưởng và hành động của Chúa Giêsu đã tạo ra vấn nạn cho người đương thời: Chúa Giêsu là ai? Trải qua các thời đại, cho đến hôm nay, người ta vẫn không ngừng tìm hiểu về Ngài: Bởi vì con người Giêsu là một mầu nhiệm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những người Do thái đã gặp gỡ Chúa, đã sống với Chúa, nhưng họ vẫn không biết rõ về Chúa. Vua Hê-rô-đê đã nghe dư luận về Chúa và ông thắc mắc muốn tìm hiểu để biết Chúa là ai. Nhưng cuối cùng ông không được toại nguyện, vì ông chỉ muốn thoả mãn tính hiếu kỳ mà thôi.
Lời Chúa hôm nay nhắc con tự vấn thái độ của con qua những lần con gặp Chúa trong thánh lễ và các bí tích. Khi tìm hiểu lời nói, hành động của Chúa trong Tin Mừng, con ngỡ rằng đã hiểu Chúa nhiều hơn, nhưng thực ra nhiều lần con đã chẳng hiểu gì. Xin Chúa giúp con không bao giờ đóng khung khuôn mặt của Chúa trong những chữ viết, trong những thành kiến, nhưng biết khám phá khuôn mặt Chúa đang sống động trong cuộc đời con, nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khổ và bất hạnh.
Lạy Chúa, không ai có thể khám phá khuôn mặt Chúa thay con được, nhưng chính con phải tự khám phá trong suốt cả cuộc đời. Xin Chúa giúp con luôn kiên nhẫn kiếm tìm. Xin ban cho con đôi mắt luôn trong sáng để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống. Xin ban cho con đôi tai luôn biết mở rộng để lắng nghe tiếng Chúa gọi mời. Xin giúp con sống điều Chúa dạy để người khác cũng nhận ra bóng dáng Chúa đáng yêu nơi chính cuộc đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế”.
Lạ lùng vì được thụ thai trong lòng một bà già đã quá tuổi sinh con. Lạ lùng vì khi đang còn ở trong bụng mẹ, đã được sạch tội tổ tông. Lạ lùng vì khi đang còn thanh niên đã lên núi, sống cuộc đời thinh lặng và khắc khổ. Lạ lùng vì khi được dân chúng hoan hô khen ngợi như Đấng Cứu Thế, thì vẫn khiêm nhượng xưng mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Lạ lùng vì cái chết đầy anh dũng để bảo vệ Luật Chúa: Chết vì bị các kẻ dâm ô chặt đầu bỏ trên đĩa để cười đùa.
Đó là Gioan Tẩy giả…
Suy niệm
Chúa Giêsu đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời, với những giáo huấn mới lạ đầy quyền uy, những phép lạ làm cho người câm nói được, người điếc được nghe, người mù thấy được, người què và bại liệt đi lại được, người bị quỷ ám được giải thoát…
Vua Hêrôđê phân vân trước những phản ứng của người đời nói về Đức Giêsu: Ngôn sứ Êlia, vị ngôn sứ phải đến chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế, hay Gioan Tẩy giả mà chính mình đã sát hại nay sống lại hay một ngôn sứ thời xưa đã sống lại… Hêrôđê đã tự đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: “Ngài là ai?” Và ông đã tìm cách tiếp xúc với Ðức Giêsu để khám phá ra con người của Ngài. Tuy nhiên, Hêrôđê đã không được diện kiến Chúa Giêsu trong suốt thời gian Ngài đi công bố Tin Mừng vì ông muốn gặp Chúa Giêsu để thỏa mãn óc hiếu kỳ, sự tò mò... chứ không phải đi tìm kiếm chân lý với sự cảm phục yêu mến như Giakêu (x. Lc 19,3-4) đã được gặp Ngài và được ơn công chính… Hêrôđê không gặp được Ngài vì quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tỏ hiện: “Vì giờ của Con Người chưa đến” (Ga 7,30b). Chỉ khi giờ đến, những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu: Philatô chuyển giao Ngài cho ông nên ông mới gặp được Chúa: “Hêrôđê mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn gặp Người” (Lc 23,8). Nhưng vua không nhận ra Ngài là ai. Cơ hội gần kề nhưng vua không tận dụng được cơ hội khám phá ra nguồn chân lý.
“Chúa Giêsu, Ngài là ai”. Mỗi người một câu trả lời, nhưng bất cứ ai cũng được mời gọi để bày tỏ lập trường đối với con người của Chúa Giêsu. Riêng vua Hêrôđê muốn đến gặp Chúa Giêsu vì tò mò. Chúng ta, những người Kitô hữu, biết hướng về Chúa, kiếm tìm và ao ước gặp Chúa trong cuộc sống vì Ngài “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
Ý lực sống
Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài (Tv 25,4c.5a).
Khi nghe biết những phép lạ, những việc làm đầy quyền năng của Đức Giêsu, Hêrôđê đã tự đặt câu hỏi về Ngài: Đức Giêsu là ai? Theo dư luận, người thì cho là Gioan Tẩy giả sống lại, người thì cho là Êlia hiện ra hay một tiên tri ngày xưa sống lại. Ông sợ vì nếu Gioan Tẩy giả sống lại thật thì ông sẽ bị Gioan hỏi tội, bởi ông đã ra lệnh chém đầu Gioan. Ông phân vân. Vì thế, ông tìm cách gặp Đức Giêsu để khám phá ra con người của Ngài.
Tin mừng hôm nay cho thấy vua Hêrôđê hoang mang vì nghe người ta đồn Gioan Tẩy giả đã chết mà nay đã sống lại. Ông lo lắng vì tin đồn này đã đụng đến tận căn hành vi tội ác của ông. Bởi vì ông là một người nhu nhược và ham mê sắc dục, nên đã đang tâm giết một người công chính là Gioan Tẩy giả, chỉ vì ngài đã dám lên tiếng bênh vực sự thật và tố cáo hành vi sai quấy của ông.
Như vậy, hôm nay, một lần nữa hình ảnh Hêrôđê xuất hiện đã gợi lại cho chúng ta về bản chất của con người ác tâm, thất đức này. Tuy nhiên, căn bệnh của vua Hêrôđê cũng không khó kiếm trong xã hội chúng ta, nhất là những người làm lớn.
Hêrôđê tìm Chúa vì phân vân
Những gì ghi nhận của mọi người về Đức Giêsu không phải là sai, nhưng chưa đủ, mà chỉ nói lên được một khía cạnh trong sự tròn đầy của khuôn mặt Đức Giêsu là Chúa: Êlia, Gioan Tẩy giả. Khi nghe những lời đồn đại về Đức Giêsu, quận vương Hêrôđê đã phân vân và tìm cách gặp Ngài. Có thể cuộc gặp này để kiểm chứng thực hư, nhưng tiếc là ông ta không có cơ hội, mà đến Ngày Chúa bị kết án thì ông mới được Philatô giải đến cho gặp.
Còn chúng ta? Có bao giờ chúng ta dành ra những phút hồi tâm suy nghĩ về Thiên Chúa hiện hữu và tác động trên đời ta, qua những dấu chỉ cuộc sống, qua những gương chứng nhân, qua phụng vụ bí tích, qua đời sống đạo... để rồi chúng ta đến gặp Chúa và tạ ơn Người không?
Hêrôđê tìm gặp Chúa vì lương tâm cắn rứt Nói về lương tâm con người, dân gian có câu: Hổ giết người hổ lăn ra ngủ, Người giết người thức đủ năm canh.
Thái độ thứ hai của Hêrôđê là hoang mang vì đã đổ máu người vô tội. Chính vì một chút sĩ diện và ham mê nhục dục mà ông đã ra tay giết hại thánh Gioan Tẩy giả. Bây giờ nghe dân chúng đồn đoán Gioan đã sống lại nơi Đức Giêsu thì ông hoang mang muốn gặp... Sự xuất hiện của Chúa đã làm phơi bày ra những tội ác của kẻ ác, và đặt mọi người vào thế đối diện với chính mình và phải tự vấn lương tâm. Điều này cho thấy, khi chúng ta hành động tội lỗi, thì lương tâm sẽ cắn rứt và làm cho chúng ta mất bình an (trừ khi lương tâm đã ra chai đá). Để tìm lại sự bình an, chúng ta hãy mau tìm đến gặp Chúa nơi Bí tích Giải tội, để được Chúa tha thứ và giúp chúng ta hoà giải với Chúa và tha nhân.
Hêrôđê tìm cách gặp Đức Giêsu có lẽ do một sự sợ hãi: hình ảnh Gioan Tẩy giả ông giết chết vẫn còn ám ảnh tâm trí ông. Người chết thì không làm hại. Nhưng nếu quả thật ông Giêsu hay làm phép lạ này chính là Gioan tái sinh thì ông không thể ăn ngon ngủ yên được. Nhất định ông phải gặp cho bằng được ông Giêsu đó thôi. Ông muốn gặp được Giêsu chỉ để chứng kiến một vài phép lạ, để kiểm chứng có thật Gioan tái sinh hay không. Thế rồi một ngày kia ông cũng được thỏa lòng mong đợi. Đức Giêsu bị bắt và Philatô giao nộp Người cho Hêrôđê. Hoá ra Giêsu đang đứng trước mặt ông đây, thân tàn ma dại như thế này thì có hòng làm hại nổi ai. Ông đã thấy Chúa và ru ngủ lương tâm của mình, nhưng rồi ông vẫn không hối cải. Rồi, “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, Hêrôđê ông kết thân với Philatô, giao nộp Chúa cho ông này tuyên án tử hình cho Chúa (5 phút mỗi ngày).
Truyện: Cần làm chứng cho Chúa
Thế gian hôm nay đang cần những chứng nhân. Chúng ta hãy là những chứng nhân cho một Thiên Chúa đang sống cho thế giới hôm nay.
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần.
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao? - Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?
- Tôi rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khoá giáo lý, nhưng tôi lại quên mất. - Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi? - Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
- Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta? - Tôi không nhớ hết được.
- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự theo ông Kitô.
- Anh chỉ nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài.
Phản ứng của vua Hêrôđê trước dư luận về Chúa Giêsu:
- Những dư luận về Chúa Giêsu:
a/ Gioan tẩy giả sống lại,
b/ Êlia hiện ra,
c/ một tiên tri thời xưa sống lại.
- Phản ứng của Hêrôđê:
a/ Hơi sợ, vì nếu Gioan tẩy giả sống lại thật thì ông sẽ bị Gioan hỏi tội, bởi ông đã ra lệnh chém đầu Gioan;
b/ Mặt khác, vốn chịu ảnh hưởng văn hóa hy lạp, ông không tin vào việc sống lại, cho nên ông không nghĩ rằng Chúa Giêsu là Gioan, Êlia hay bất cứ một tiên tri nào khác sống lại;
c/ tuy nhiên ông không thể cắt nghĩa việc Chúa Giêsu làm những phép lạ. Tóm lại, ông phân vân. Vì thế ông tìm cách gặp Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Ngày xưa có nhiều dư luận về Chúa Giêsu. Các tông đồ đã đi khắp nơi để làm chứng cho người ta hiểu đúng Chúa Giêsu thực sự là ai.
Ngày nay cũng có nhiều dư luận sai lạc về Chúa Giêsu. Người ta nghĩ Ngài là ai? (những người của các tôn giáo khác nghĩ gì? những người vô thần nghĩ gì? những người đầu óc nặng thành kiến khoa học, thực dụng nghĩ gì?…) Thực ra, Chúa Giêsu là Ai? Tôi phải làm chứng cho Ngài thế nào?
2. Hêrôđê tìm cách gặp Chúa Giêsu chỉ để giải đáp một thắc mắc và để thỏa mãn một sự tò mò. Phần tôi thì tìm gặp Chúa Giêsu để xin ơn. Như thế có đủ và đúng chưa?
3. Dù muốn hay không, người ngoài Giáo Hội vẫn đồng hóa Kitô hữu với Đức Kitô. Thấy kitô hữu thế nào thì họ nghĩ Đức Kitô thế ấy. Vì thế, dù muốn hay không, cách sống của kitô hữu cũng là một lời chứng về Đức Kitô. Làm chứng đúng hay sai, tốt hay xấu là trách nhiệm nặng nề của chúng ta.
4. Chúa Giêsu đã là một dấu hỏi cho những người thời Ngài. Mỗi người chúng ta cũng phải là một dấu hỏi cho những người thời nay. Một kiểu sống rập khuôn “ai sao tôi vậy”, một kiểu sống sợ bị người khác coi là khác thường… không phải là một dấu hỏi. Ta không chủ trương sống lập dị, nhưng ta không có quyền che dấu những nét đẹp độc đáo của niềm tin chúng ta.
5. Vua Hêrôđê nói: ‘Ông Gioan, ta đây đã cho chém đầu. Vậy ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?’ Vua Hêrôđê tìm cách thấy mặt Chúa Giêsu” (Lc 9,9)
Khi nghe dư luận đồn về Chúa Giêsu: “Đó là Gioan từ cõi chết chỗi dậy” hay “Ông Êlia xuất hiện”… vua Hêrôđê tìm dịp gặp Chúa Giêsu để xem Ngài là ai.
Khác với Hêrôđê, để tìm gặp Chúa, Dakêu đã dấn bước lên đường. Ông leo cây và đã bắt gặp ánh mắt Chúa giữa đám đông. Ông đã biến đổi hoàn toàn. Còn Nicôđêmô lại tìm Chúa trong khung cảnh tĩnh mịch ban đêm.
Tôi cũng tìm Ngài trong cuộc đời, trong những giờ phút thinh lặng cầu nguyện, trong tiếng cười nói vui đùa của trẻ thơ, hay trong muốn người tôi gặp gỡ. Và tôi tin rằng Chúa sẽ không chối từ khi tôi biết mở lòng ra đón Ngài.
Lạy Chúa, niềm vui và hạnh phúc của con là được gặp Ngài trong cuộc đời. (Hosanna).
1. Trước những dấu lạ Chúa Giêsu làm, Tiểu vương Hêrôđê thắc mắc về Ngài: Ông ấy là ai? Ít ra Hêrôđê cũng đang biết thắc mắc về Chúa.
Nhìn vào cuộc sống của rất nhiều người trên thế giới hôm nay kể cả những người có đạo, chúng ta nhận thấy có nhiều người tỏ ra dửng dưng trước những vấn đề có liên hệ đến vận mạng cuối cùng của cuộc đời. Đối với họ thì cái cần thiết bây giờ là những gì đang có ở trước mắt như cơm áo gạo tiền. Ngoài ra không có gì đáng kể.
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh, trong đó có trưng bày một bức họa tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Bức hoạ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố ở trung tâm thành phố Luân đôn. Đây là khu đông đúc dân cư nhưng không một ai để ý tới Ngài. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Chúa. Một nhà thần học đang hăng say thuyết giảng về Đức Kitô mà không nhìn thấy Ngài. Duy nhất chỉ có một nữ tu nhìn thấy Chúa, nhưng vẫn dửng dưng bước đi trên con đường của mình.
Ông William Barclay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng trong thành phố Luôn Đôn đã bình luận về bức họa như sau: “Hoàn cảnh này cũng thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Giêsu tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới Ngài. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện thực tế hơn là việc lưu tâm tới Chúa, chẳng ai thắc mắc “Đức Giêsu là ai?”
2. Khi người ta không còn lưu tâm, không còn thắc mắc về Thiên Chúa nữa thì điều gì sẽ xảy ra? Hãy nhìn vào phần lớn cuộc sống hôm nay, chúng ta sẽ có câu trả lời.
Đó là một cuộc sống không có, không cần Thiên Chúa. Con người tự cho mình quyền làm chủ cuộc đời mình và một khi con người tự cho mình có quyền như thế thì mọi sự kể cả những gì là ghê tởm nhất, độc ác nhất đều có thể xảy ra.
Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của mình lại để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất này là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi.
Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả đều trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế? Hay là có chuyện gì trục trặc?
Các sứ giả đồng thanh đáp:
- Thưa Ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết rồi. Họ hận thù, chém giết nhau, gian tham, trộm cắp. Không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này mà ngược lại chẳng khác gì Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy, chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa.
3. Thế giới hôm nay đang cần những chứng nhân. Chúng ta hãy là những chứng nhân cho một Thiên Chúa đang sống để thế giới hôm nay:
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần:
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?
- Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?
- Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
- Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?
- Tôi không không nhớ hết được.
- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự theo ông Kitô.
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài.
----------------------------------
Thứ 6: 29/09 Các tổng lãnh thiên thần Micae, Gabrie, Raphae, kính
Bước vào Nước Trời. 29/09 Các tổng lãnh thiên thần Micae, Gabrie, Raphae, kính. "Các ngươi sẽ thấy các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người". * Chúng ta mừng các vị tổng lãnh thiên thần, nhưng đồng thời cũng mừng tất cả các thiên sứ được nhắc tới từ sách Sáng Thế cho tới sách Khải Huyền. Các vị hiện diện cách vô hình để hướng dẫn dòng lịch sử cứu độ. Tuy các vị là những sứ giả của Chúa, có nhiệm vụ bộc lộ cho con người biết các kế hoạch của Chúa và mang tới lệnh Người truyền, nhưng trước hết các vị là cộng đoàn đông đảo những vị thờ lạy Thiên Chúa hằng sống.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông rằng: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanaen đáp: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin. Ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa". Và Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng dựng nên muôn vật hữu hình cùng vô hình. Các thụ tạo vô hình ở đây chính là chư vị thiên thần. Chư vị này sống gần bên Thiên Chúa để phục vụ Ngài và nhân loại. Hơn nữa, các thiên thần là những người đã phục vụ Đức Giêsu Kitô, từ khi Ngài chào đời đến khi Ngài quang lâm. Sứ thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với trinh nữ Maria để loan báo về sự hạ sinh của Đấng Cứu Độ (Lc 1, 26). Ta nghe tiếng ngợi khen của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh trên trái đất (Lc 2, 13). Ta cũng thấy các thiên thần hiện ra để phục vụ Đức Giêsu (Mt 4, 11), sau khi Ngài chiến thắng những cám dỗ của quỷ dữ nơi hoang địa. Khi Đức Giêsu bị xao xuyến trước cái chết sắp đến, một thiên thần từ trời đã đến tăng sức cho Ngài (Lc 22, 43). Ngài đã không tránh né cái chết bằng cách xin Cha cấp cho mình mười hai đạo binh thiên thần (Mt 26, 53). Tin Vui Phục sinh được loan báo bởi các thiên thần từ mộ trống (Lc 24, 6). Vào ngày tận thế, các thiên thần của Đức Giêsu sẽ đi theo Ngài khi Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét cả thế giới (Mt 16, 27). Đức Giêsu nay ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời, trổi vượt trên các thiên thần và được các thiên thần thờ lạy (Dt 1, 4. 6). Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay cũng nói đến tương quan giữa Đức Giêsu và các thiên thần. Trong lần gặp gỡ với Nathanaen và các bạn của ông Đức Giêsu đã long trọng hứa là họ sẽ thấy trời rộng mở, và “các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51). Trong một giấc mộng, Giacóp đã chiêm bao thấy “một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28, 12). Đức Giêsu nhận mình chính là chiếc thang đó, là Đấng Trung Gian nối đất với trời, nối Thiên Chúa với nhân loại. Các thiên thần cũng phải qua Ngài mà đến phục vụ con người. Các thiên thần cũng là những đấng trung gian được sai đi, nhưng họ phải qua Đấng Trung Gian duy nhất và đích thực, vì Đấng đó vừa trọn vẹn là người, vừa trọn vẹn là Thiên Chúa. Lên lên xuống xuống trên thang Giêsu là việc của các thiên thần. Lên với Thiên Chúa để dâng cho Ngài nỗi thống khổ của nhân loại. Xuống với nhân loại để mang cho họ ân lộc và sứ điệp từ trời. Thiên thần vừa gần với con người, vừa gần với Thiên Chúa, vừa tựa trên đất, vừa đụng tới trời, nên kéo trời xuống đất và đưa đất lên trời. Xin được quyền năng của Sứ thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa. Xin được sức mạnh của Sứ thần Gabrien: Thiên Chúa hùng dũng. Xin được ơn lành mạnh của Sứ thần Raphaen: Thiên Chúa chữa lành. Kitô hữu là người hạnh phúc vì biết mình được nâng đỡ chở che. Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ, xin giúp con quên mình hoàn toàn để ở lại trong Chúa, lặng lẽ và an bình như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu. Lạy Đấng thường hằng bất biến, mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa; nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa! Xin làm cho hồn con bình an thanh thản, xin biến hồn con thành chốn trời cao, thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa, nơi Chúa nghỉ ngơi. Ước chi con không bao giờ để Chúa ở đó một mình nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người, với thái độ nhạy bén trong đức tin, cung kính tôn thờ và phó mình cho Chúa sáng tạo. (Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité) ----------------------------------
Sứ điệp: Thiên thần và loài người đều có bổn phận và quyền lợi là phụng sự Thiên Chúa. Chính việc phụng sự Thiên Chúa đem lại hạnh phúc đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên các thiên thần là loài thiêng liêng luôn chiêm ngưỡng, thờ lạy, tôn vinh Chúa. Các ngài còn được sai đi thi hành lệnh truyền của Chúa để giúp đỡ loài người.
Hôm nay, con mừng kính ba vị: Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-pha-en với tước vị cao trọng Tổng Lãnh Thiên Thần. Các Ngài đã tuyệt đối trung thành yêu mến và triệt để thi hành lệnh truyền của Chúa. Nhờ lòng yêu mến và trung thành trọn vẹn với Chúa, Chúa đã cho các Ngài được nâng lên và sáng láng trong vinh quang nước Chúa. Hợp với các thiên thần, con xin dâng Chúa lời chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã thương ban cho con có các thiên thần. Các ngài luôn giúp con sống yêu mến, trung thành và mau mắn làm theo Ý Chúa. Các ngài vẫn luôn đồng hành và phù trợ con để con được sống bằng an trong tình yêu Chúa. Xin Chúa soi sáng để con ghi nhớ hồng ân trọng đại này và cộng tác với các thiên thần để phụng thờ Chúa suốt cả đời sống con. Và con sẽ luôn giúp đỡ, yêu thương mọi người để nên giống các thiên thần. Xin đừng bao giờ để con ghen ghét, thù hằn anh em như loài quỷ dữ.
Lạy Chúa, cuộc sống con luôn bị quỉ dữ tấn công. Đó là các thiên thần phản loạn, chống lại Chúa và rình rập loài người. Xin Chúa luôn sai các thiên thần đến giúp con chiến đấu chống lại ma quỉ, để con trung thành, yêu mến và phụng sự Chúa mà thôi. Xin Chúa chúc lành cho ước nguyện chân thành của con. Amen.
Ghi nhớ: ”Các ngươi sẽ thấy các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người”.
Tại Tây phương, nhiều cuộc hiển linh của Tổng lãnh Thiên thần Micae càng làm cho việc sùng kính khởi sắc hơn, như tại núi Gargano miền Nam nước Ý, dưới thời Đức Gelase (192 - 196).
Tại Pháp, Tổng lãnh Thiên thần Micae cũng đã hiện ra với nhiều người, đặc biệt năm 708, ngài hiện ra với Ðức Giám mục thành Arranche và Ðức Giám mục đã xây một thánh đường nguy nga để kính dâng Ðức Micae tại Mont Saint Michel. Từ đó, nơi đây đã trở nên một vị trí hành hương lớn. Theo thánh nữ Gioanne d’Arc, Tổng lãnh Thiên thần Micae đã thúc giục bà đi gặp vua Charles VII để lên đường đi cứu nước.
Suy niệm
Micae, danh từ Hêbrơ có nghĩa “ai bằng Thiên Chúa” ám chỉ sự siêu việt của Thiên Chúa, được nói đến trong sách Đanien (10,13-21) và trong sách Khải huyền của thánh Gioan (12,7) như vị chiến thắng ma quỷ.
Tổng lãnh Thiên thần Micae đã chống lại thần dữ để bênh vực quyền tối cao của Thiên Chúa. Giáo hội nhận thiên thần Micae như Ðấng bảo trợ và tin rằng ngài vẫn dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên ngai tòa Chúa.
Raphael tiếng Hêbrê có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” hoặc “thầy thuốc của Thiên Chúa”. Sách Tôbia cho biết, chính ngài đã được Thiên Chúa sai đến giúp đỡ gia đình ông Tôbit trong cơn hoạn nạn. Trong câu chuyện này, ngài xuất hiện để dẫn dắt con ông Tôbit là Tôbia qua những cuộc mạo hiểm dị thường mà sau cùng dẫn đến một kết quả thật tốt đẹp: Tôbia kết hôn với Sarah, ông Tôbit được chữa khỏi mù mắt và tài sản của gia đình ông được hồi phục. Người đã cho hai cha con biết: “Ta là Raphael, một trong bảy khâm sai của Thiên Chúa hằng ở bên cạnh Ngài trong huy hoàng của Ngài hiện diện”. Thiên Chúa quan phòng hằng hoạt động trong đời con người và hằng nghe lời cầu xin. Raphael là đấng được nhiều người đến cầu xin cho thể xác khang an, linh hồn khỏe mạnh và là quan thầy người đi đường.
Gabriel, danh xưng Hêbrê có nghĩa là “Thiên Chúa là sức mạnh”, cũng còn được gọi là “Sứ thần truyền tin”, được gửi đến để báo tin Thiên Chúa can thiệp vào việc cứu rỗi nhân loại và Đấng Mêssia sẽ đến thực hiện. Gabriel được gửi đến với ngôn sứ Đanien (x. Đn 8,16; 9,21-27), với ông Dacaria và Đức Maria (x. Lc 1,11-38). Đây cũng là sứ thần đã nhiều lần hiện ra báo mộng cho thánh Giuse. Thánh Bernarđô nhận định: “Trong tất cả các thiên thần, đức Gabriel đã được thấy là vị xứng đáng loan báo những chương trình của Thiên Chúa cho Đức Mẹ và đón nhận lời fiat (xin vâng) của Mẹ”.
Chiêm ngưỡng ba vị Tổng lãnh Thiên thần Micae, Raphael và Gabriel trong chương trình của Thiên Chúa uỷ thác, như Chúa Giêsu nói bằng hình ảnh: “Các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người” (Ga 1,51), Thiên Chúa cũng có chương trình tốt đẹp nhất dành cho chúng ta, Ngài luôn là Đấng lên tiếng mời gọi chúng ta tham gia: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
Chúng ta hãy xin ba Đức Tổng Thiên thần luôn hướng dẫn chúng ta giữa những quyết định cần phải thực hiện trong cuộc sống: Luôn tìm ra thánh ý Thiên Chúa.
Ý lực sống
“Hãy chúc tụng Chúa đi, chư binh toàn thể, chư vị thần hạ thừa hành ý muốn của Chúa” (Tv 103,21).
Theo sách thánh thì Thiên Chúa đã dựng nên một loài thần đông vô số, và các thánh tiến sĩ thì nói có lẽ các thần này được dựng nên trong ngày thứ nhất khi bắt đầu công việc tạo dựng.
Thiên Chúa dựng nên loài thiên thần để chầu chực hầu hạ Đức Chúa Trời, giúp đỡ loài người và gìn giữ vũ trụ.
Theo như các lần các ngài hiện ra thì ta thấy các ngài là đấng thiêng liêng, tốt lành, quyền phép, mạnh mẽ và mau lẹ.
Trước khi các ngài được tiếp nhận vào trong nước của Thiên Chúa thì các ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách. Trong cuộc thử thách này có một số đông đã tỏ ra không chịu phục tùng Thiên Chúa. Đứng đầu là Luxiphe.
MICAE
Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát. Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe. Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu hiệu: “AI BẰNG THIÊN CHÚA”. Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.
Hôm nay Giáo hội mừng kính thánh Micae vị thủ lãnh các thiên thần lành trên trời và còn là bổn mạng của Giáo hội dưới thế. Chính Ngài đã nhiều lần hiện xuống trần gian với nhiều nhiệm vụ khÿc nhau để thực hiện sứ mạng cao cả của Ngài.
Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa. Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài: Ai bằng Thiên Chúa? Vâng! Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả. Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.
Không có một ai, một vật nào được phép đứng ngang hàng với Thiên Chúa của chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới là đấng tốt lành, thánh thiện, mạnh mẽ phép tắc vô cùng. Người nhân từ vô biên, hiểu biết mọi sự, làm được mọi sự. Ngài là cội rễ mọi sự, là cùng đích của mọi loài. Không ai bằng Thiên Chúa.
RAPHAE
Raphael xuất hiện ở trong Cựu Ước. Cựu Ước nói về Raphael như thế này:
“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận. Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa. Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn. Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở. Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn. Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia -để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con- đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay. Tobia-con sẵn sàng vâng lời những Tobia-con không biết đường đi. Tổng lãnh Raphael đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để đẫn đường. Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt. Tới nơi Raphael còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm Tobia.
Công việc xong, Tobia-con cùng với vợ trở về nhà. Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha. Tobia cha được khỏi mù. mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng. Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giuó đỡ gia đình mình. Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông. Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.
Câu truyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người. Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”
GABRIE
Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa”.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Đaniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.
Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa. Sứ thần của Chúa hiện ra với ông...thấy vậy ông bối rối. Sự sợ hãi ập xuống trên ông. Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elidabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”
Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điêu ấy? Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi.?
Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa. Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi” (Lc 1,1-20) vv. Và sau đó mọi việc xẩy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.
Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria. Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn. Việc của Giacaria với bà Elidabeth chỉ là việc giữa con người với con người. Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa”
Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ, cả vũ trụ đều phải nhảy mừng.
Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cũng đã phải run rảy mà thốt lên như sau:
“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel.
Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn loài?”
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.
Thuật ngữ Thánh Kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả”. Theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.
Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa”. Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đấng Michael, Kêrubim và Sêraphim.
Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”
Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa”
Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp”
Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma. Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael. Theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. Ý NGHĨA...
Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng tương đối nói ít về các thiên thần. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người”. Đây là sự tích lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người. Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.
1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe. Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”.
Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát. Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe. Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu:”AI BẰNG THIÊN CHÚA”. Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.
Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa. Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài: Ai bằng Thiên Chúa? Vâng! Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả. Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.
2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ). Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.
Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa”.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Daniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.
Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa. Sứ thần của Chúa hiện ra với ông ...thấy vậy ông bối rối. Sự sợ hãi ập xuống trên ông. Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elizabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”
Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi.?
Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa. Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. (Lc 1,1-20) vv. Và sau đó mọi việc xảy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.
Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria. Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn. Việc của Giacaria với bà Elizabeth chỉ là việc giữa con người với con người. Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa”
Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ cả vũ trụ đều phải nhảy mừng. Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cững đã phải run rẩy mà thốt lên như thế này:
“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel. Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ Người có nghe xôn xao muôn tinh tú Người có nghe náo động cả muôn loài?” Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.
3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.
Cựu Ước nói về Raphael như thế này:
“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận. Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa. Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn. Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở. Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn. Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia - Để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con- đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay. Tobia-con sẵn sàng vâng lời những Tobia-con không biết đường đi. Tổng lãnh Gabriel đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để dẫn đường. Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt. Tới nơi Gabriel còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm cho Tobia.
Công việc xong,Tobia-con cùng với vợ trở về nhà. Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha. Tobia cha được khỏi mù, mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng. Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giúp đỡ gia đình mình. Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông. Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.
Câu chuyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người. Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”
Xin được kết thúc bằng câu chuyện thật đẹp này:
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.
Ngày nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói:
- Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:
- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không? .
Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:
- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?.
Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài
Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:
- Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.
Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:
- Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu?
Hôm nay Giáo hội mừng kính tổng lãnh các Thiên Thần Micae, Gabriel và Raphael, đây là tên tuổi của ba vị Thiên Thần đã được Kinh thánh nhắc đến nhiều lần, và khi nói đến các Thiên Thần là nói đến vô số. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết với các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của các Thiên Thần, đây chính là mầu nhiệm gắn liền với những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Khi tự tỏ bày cho loài người, Thiên Chúa cũng một trật mạc khải cho chúng ta về thế giới của các Thiên Thần.
Một trong những dấu chỉ thời đại mang nhiều ý nghĩa, là hiện nay tại những nước văn minh như Hoa Kỳ, sách vở liên quan đến các thiên thần được xếp vào một trong những loại bán chạy nhất, ngày càng có nhiều người tin tưởng vào sự hiện diện chở che của thiên thần trong cuộc sống của họ.
Vào tháng 12 năm 1993, một cuộc thăm dò được tờ báo Time và đài truyền hình thực hiện, cho thấy rằng có đến 69% người dân Mỹ tin sự hiện hữu của các Thiên Thần. Một cuộc thăm dò khác được thực hiện trước đó cũng tìm thấy rằng, 75% dân Mỹ tin có thiên thần.
Ðầu thập niên 1970, một nhà giảng thuyết nổi tiếng của Hoa Kỳ được tạp chí Time cho vào danh sách một trong 20,000 những tư tưởng nổi bật nhất của thế kỷ XX đã viết một cuốn sách có tựa đề: "Các Thiên Thần và Nhân Viên Mật Vụ của Thiên Chúa". Trong cuốn sách được xem là bán chạy nhất này, tác giả đã viết: "Các Thiên Thần là một chủ đề mang lại niềm an ủi và phấn khởi lớn lao cho những người tin Chúa, đồng thời cũng là một thách đố để cho những người không tin phải tin".
Thật thế, nếu Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta sự hiện hữu và hoạt động của các thiên thần, hẳn Ngài cũng muốn cho chúng ta cảm nghiệm hơn về mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Dù chúng ta có thấy các thiên thần hay không, dù các ngài có đến với chúng ta như thần linh hay dưới hình bóng người phàm, thì lời cầu xin của chúng ta luôn được đáp trả. Thiên Chúa hằng can thiệp vào cuộc sống của chúng ta cách diệu kỳ, niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của các thiên thần luôn nhắc nhở chúng ta điều đó. Quả thật, cuộc sống của chúng ta được dệt bằng phép lạ từ giây phút đầu tiên được tạo thành trong lòng mẹ cho đến lúc chào đời rồi lớn lên, mỗi một nhịp đập của trái tim, mỗi một hơi thở của chúng ta không là phép lạ sao?
Với mỗi người Chúa âu yếm nói: "Ta đã gọi con bằng tên con, con thuộc về Ta". Chúa Giêsu đã có lý khi mời gọi chúng ta nên giống như trẻ thơ, bởi vì trẻ thơ không ngừng ngây ngất trước những điều kỳ diệu và những phép lạ của cuộc sống. Người lớn thì trái lại thường bị cuốn xoáy trong dòng đời nên dễ đánh mất khả năng chiêm ngắm trước những điều kỳ diệu và các phép lạ của cuộc sống.
Thiên Chúa yêu thương mỗi người, Thiên Chúa không ngừng bao bọc che chở chúng ta bằng sự hiện diện của vô số các thiên thần. Ðó phải là niềm tin hôm nay khi mừng kính các thiên thần Micae, Gabriel và Raphael, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta hâm nóng lại. Thiên Chúa đã ban cho cuộc sống chúng ta như một phép lạ, nhờ các sứ thần của Ngài, Ngài hướng dẫn và che chở chúng ta trong từng đường đi nước bước của chúng ta.
Nguyện xin các thiên thần nhất là thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa là tình yêu. (Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas
Thuật ngữ thánh kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả”; theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.
Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa”. Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đâng Kêrubim và Sêraphim (số ít là Kêrub và Seraf). Vài đấng được gọi tên là:
Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”
Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa”
Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp”
Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma. Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael, theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng nói tương đối ít về các thiên thần. Trong đoạn Tin Mừng này chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người”. Đây là lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người. Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.
B.... nẩy mầm.
1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe. Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”.
Xin Thánh thiên thần Micae trợ lực để chúng con chiến đấu và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xin Ngài luôn nhắc chúng con biết đặt Thiên Chúa ở vị trí cao cả nhất trong cuộc đời chúng con.
2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ). Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.
Xin Thánh thiên thần Gabriel giúp con mau mắn đón nhận những sứ điệp Chúa gởi đến chúng con, và mau mắn thưa lời “Xin vâng” như Đức Mẹ.
3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.
Xin Thánh thiên thần Raphael là bạn đồng hành của chúng con trong cuộc hành trình dương thế nhiều cạm bẫy. Xin Ngài nhắc nhở chúng con làm việc thiện, vì luôn biết rằng từng việc thiện âm thầm nhỏ bé cũng là những làn hương thơm tho bay lên toà Thiên Chúa.
Hôm nay toàn thể Giáo hội hân hoan mừng lễ các Tổng lãnh Thiên Thần Micaen, Gáprien và Raphaen. Trong niềm vui lớn lao được các Thiên Thần hộ phù, nâng đỡ, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về vai trò của các Thiên Thần trong đời sống Giáo Hội và con người.
THIÊN THẦN LÀ GÌ ?
Theo điển ngữ Thần Học Thánh Kinh, tên các Thiên Thần không do bản tính mà do chức vụ. Thiên Thần là sứ giả. Các Ngài là” những thần khí chuyên lo phục vụ, được sai đi giúp ích những người sẽ thừa hưởng phần rỗi( Dt 1, 14 ). Các Ngài lập thành một thế giới huyền nhiệm ở ngoài lãnh vực tri giác thông thường của chúng ta.
Cựu Ước thường diễn tả Thiên Chúa như một Đế Vương phương Tây. Những phần tử của triều đình cũng là những tôi tớ Ngài. Người ta còn gọi Ngài là Thánh hoặc Con của Thiên Chúa. Trong số các thần Kêrubim đỡ nâng ngai tòa Chúa, kéo xa giá Ngài, làm xa giá cho Ngài hoặc giữ lối vào thánh địa của Ngài không cho kẻ phàm tục vào; các thần sêraphim chúc tụng vinh quang Chúa và chính một vị trong các thần ấy đã thanh tẩy môi miệng ngôn sứ Isaia trong thị kiến đầu tiên. Người ta còn gặp thấy các thần Kêrubim trong những bức tượng nơi Đền Thờ làm cánh che hòm bia. Như thế, cả một đạo binh thiên quốc ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, và tuân phục ý Ngài trong việc điều hành vũ trụ cũng như thi hành các mệnh lệnh của Ngài, đạo binh ấy lập thành một mối liên lạc giữa trời và đất( Stk 28, 12 ).
Tuy nhiên, bên cạnh những sứ giả huyền bí trên, có những đoạn Thánh Kinh đề cập đến một sứ thần của Giavê Thiên Chúa. Nhưng với đà tiến của mạc khải, vai trò sứ thần Giavê dần dần được trao cho các Thiên Thần, những sứ giả thông thường của Thiên Chúa. Vai trò của các Thiên Thần cũng tiến triển đều đều. Lúc đầu người ta xếp lẫn lộn vai trò của các Thiên Thần, họ gán cho các Thiên Thần những phận sự xấu tốt lẫn lộn. Tuy nhiên, sau cuộc lưu đầy ở Babylon về, các phận vụ của các Thiên Thần được phân loại rõ ràng hơn và các Thiên Thần có được một phẩm tính luân lý tương ứng với vai trò của mình. Sau này, các Thiên Thần nhận được tên tương ứng với chức vụ:” Raphaen”Thiên Chúa chữa lành”, Gáprien” Anh hùng của Thiên Chúa”, Micaen” Ai được như Chúa”. Chính Thiên Thần Micaen, thủ lãnh các Thiên Thần, được trao nhiệm vụ coi sóc cộng đoàn Do Thái. Như vậy, gíao lý Cựu Ước đã luôn khẳng định sự hiện hữu của các Thiên Thần và sự hiện diện của họ trong thế giới nhân loại.
Tân Ước cũng liệt kê các Tổng Lãnh Thiên Thần (1 Thes 4); các thần Kêrubim (Dt 9, 5), các Ngai Thần, Quản thần, Lãnh Thần, Uy Thần (Colosê 1, 16), các Dũng Thần (Eph. 1, 21). Với nhiều cấp bậc thay đổi tùy theo kiểu nói, phẩm trật này không có tính cách một giáo lý nhất định mà chỉ là một yếu tố phụ thuộc và mềm dẻo.
Chính Chúa Giêsu còn minh định địa vị các Thiên Thần đối với con người, hình ảnh huyền bí của Người, nhất là trong vinh quang của Người sau này: tháp tùng Chúa ngày quang lâm (Mt 25, 31), lên xuống quanh Chúa (Ga 1, 51), Chúa sai các Thiên Thần đi tụ tập những kẻ được chọn, xua đuổi những kẻ bị luận phạt khỏi Nước Trời. Ngay lúc chịu thương khó, Đức Giêsu đã có thể đòi hỏi sự can thiệp của các Thiên Thần hằng theo phục vụ Người. Như vậy, thế giới Thiên Thần lệ thuộc vào Đức Kitô và chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Người.
Đối với con người, các Thiên Thần có một mối giây liên lạc mật thiết. Thiên Thần Gáprien mang hai sứ điệp truyền tin (Lc 1, 19.26); cả một đạo binh Thiên Quốc hát mừng trong đêm giáng sinh (Lc 2, 9-14), các Thiên Thần còn báo tin Chúa phục sinh (Mt 28, 5) và loan báo cho các môn đệ ý nghĩa cuộc Thăng Thiên (Cv 1, 10t…), phụ tá Đức Kitô trong việc cứu rỗi nhân loại (Dt 1, 14 ). Các Thiên Thần chăm sóc giữ gìn loài người (Mt 18, 10), dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các Thánh (Kh.5, 8), dẫn đưa linh hồn người công chính vào Thiên Đàng (Lc 16, 22). Để nâng đỡ Giáo Hội, các Thiên Thần sát cánh với thủ lãnh của mình là Micaen, tiếp tục cuộc chiến với satan, được khai diễn ngay từ nguyên thủy(Kh 12, 1-9).
LỄ HÔM NAY CÓ Ý NGHĨA GÌ ?
Mừng lễ các Tổng Lãnh Thiên Thần hôm nay, chúng ta toàn thể dân Chúa được hiểu rõ hơn vai trò, chức vụ, phẩm trật của các Thiên Thần, được hiểu rõ hơn về sự duy nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta hãy khắc ghi vào tâm hồn sứ điệp của Tin Mừng đem đến: Đức Kitô đến để làm chứng cho sự thật, sự cứu rỗi. Ngài đến để làm cho vai trò của Chúa Cha nổi bật và Ngài trở về trời để Chúa Thánh Thần tác động trong lịch sử nhân loại. Ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đã được tràn đầy Chúa Thánh Thần và các môn đệ cũng được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần. Nên cả Phêrô lẫn các môn đệ đều can đảm, hăng say làm chứng cho Chúa Giêsu chết và sống lại. Chính nhờ có Chúa Thánh Thần xuống, các môn đệ đã rút ra khỏi vỏ ốc sợ sệt của mình để hăng say, kiên trung làm chứng cho sự thật. Một sự thật đã bị con người cố tình làm cho lu mờ và muốn chối bỏ nó. Nhờ Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội sơ khai đã đứng vững trong lòng tin. Nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo hội hôm nay cũng kiên trì bền trí, đương đầu với những khó khăn thử thách và luôn đứng vững trước ba đào, thử thách, sóng gió.
Mừng lễ các Tổng Lãnh Thiên Thần: Micaen, Gáprien và Raphaen, chúng ta hãy khẩn khoản nài xin các Ngài chuyển cầu cùng Chúa để chúng ta cùng với Tổng Lãnh
Thiên Thần Micaen oai dũng làm chứng cho sự thật, cho công bình và bác ái, để chúng ta cùng với Tổng Lãnh Thiên Thần Gáprien tung hô mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa mỗi khi đọc kinh”kính mừng”, để chúng ta cùng với Tổng Lãnh Thiên Thần Raphaen cứu chữa phần xác và phần hồn mọi người.
Lạy Chúa là Đấng thượng trí vô song, Chúa đã muốn cho Thiên Thần và người thế cộng tác vào chương trình cứu độ. Xin cho các Thiên Thần đang phục vụ Chúa trên trời cũng luôn luôn phù hộ chúng con ở dưới đất( Lời nguyện nhập lễ, lễ Các Tổng Lãnh Thiên Thần Micaen, Gáprien, Raphaen ).
(Phêrô Phạm Văn Trung biên tập // Từ: aleteia.org và catholicculture.org)
Nguồn: https://hdgmvietnam.com
WHĐ (27.9.2020) – Kinh thánh chỉ nêu tên Gabriel, Michael và Raphael. Từ Tổng lãnh Thiên thần (archangel) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp αρχάγγελος. Archangelos = αρχ– (arch-) (“đầu tiên, bậc nhất, thủ lĩnh”) và άγγελος (angelos) (“người đưa tin”).
Thế giới thiên thần rất bí ẩn và có thể gây nhầm lẫn cho con người chúng ta. Chúng ta thường không nhìn thấy các thiên thần bằng mắt của mình, mặc dù nhiều nhân vật trong Kinh thánh được ghi lại là đã nhìn thấy các vị ở dạng có thân xác.
Đặc biệt, nhiều người hỏi: ”Có bao nhiêu tổng lãnh thiên thần trong Kinh thánh?”
Kinh thánh chỉ cho biết tên của ba thiên thần thuộc hạng “tổng lãnh thiên thần”.
Đó là:
Michael
”Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Michael và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến”.(Khải huyền 12:7)
Gabriel
”Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông”. (Luca 1:19)
Tuy nhiên, trong sách Tôbia, khi Thánh Raphael tiết lộ danh tính của mình, tổng lãnh thiên thần nói,”Tôi là Raphael, một trong bảy thiên thần đứng và phục vụ trước Vinh quang của Thiên Chúa” (Tôbia 12:15).
Điều này khiến nhiều người tin rằng có bảy vị tổng lãnh thiên thần. Con số này cũng xuất hiện trong Sách Hípri, một văn bản cổ của người Do Thái không được chấp nhận là kinh điển trong cả Kinh thánh Do Thái hay Kinh thánh Công giáo.
Vì một số giáo hội Kitô giáo, ví dụ như Chính thống giáo, chấp nhận bảy tổng lãnh thiên thần: Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Salathiel, Jébudiel và Barachiel là “chính thức”, nên một số người Công giáo cũng có lòng sùng kính đối với cả bảy vị tổng lãnh thiên thần kể cả bốn vị ngoài Kinh thánh này. Giáo hội Công giáo đã nói rất rõ ràng rằng điều này là nguy hiểm về mặt tâm linh.
Trong Danh mục về lòng đạo đức bình dân, Giáo hội tuyên bố, “Việc gán tên cho các Thánh Thiên thần không nên được khuyến khích, ngoại trừ trường hợp của Gabriel, Raphael và Michael, là những vị có tên trong Kinh Thánh.”
Kinh thánh là danh sách cuối cùng của chúng ta về các tổng lãnh thiên thần. Là người Công giáo, chúng ta chỉ biết đến ba tên nhất định của các thiên thần của Thiên Chúa. Bất kỳ tên nào khác đều bị nghi ngờ vì nó không phải là một phần của sự mặc khải thần linh.
Điều này không có nghĩa là chỉ có ba tổng lãnh thiên thần. Kinh thánh nói rõ rằng có thể có “hàng ngàn” thiên thần hoặc “vô số” thiên thần, như Thánh Luca đã đề cập lúc Chúa Giêsu giáng sinh,”Và bỗng đâu đến hợp đoàn với thiên thần, có đoàn lũ cơ binh trên trời ngợi khen Thiên Chúa” (Luca 2:13).
Sự sáng tạo của Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong ba vị tổng lãnh thiên thần, nhưng đồng thời chúng ta cũng không nên phát triển lòng sùng kính đối với các thiên thần không được Lời Chúa xác nhận.
Phụng vụ mừng lễ ba vị tổng lãnh thiên thần được tôn kính theo truyền thống của Giáo hội. Theo Nghi thức Đặc biệt trong Sách Lễ Rôma năm 1962 của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, 29 tháng 9 là lễ Thánh Micae. Trước khi cải tổ phụng vụ theo Công Đồng Vaticanô II, Lễ Thánh Gabriel được cử hành vào ngày 24 tháng 3 và lễ Thánh Raphael vào ngày 24 tháng 10.(1)
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã dạy một bài giáo lý về các Thiên thần trong các buổi Tiếp kiến Chung của ngài từ ngày 9 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1986. Thánh Giáo Hoàng nói: “Theo sách Khải Huyền, các thiên thần tham gia vào sự sống của Ba Ngôi trong ánh sáng vinh quang cũng được kêu gọi để đóng vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi con người, trong những khoảnh khắc được Thiên Chúa Quan phòng thiết lập. Tác giả của Thư Hípri (1:14) hỏi: ”Hết thảy họ lại không phải là những thần phục dịch được sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ thừa hưởng ơn cứu rỗi đó sao?”
Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 328 – 330 dạy chúng ta rằng, “Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng, không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý đức tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế”.
Thánh Augustinô nói: “Thiên thần” chỉ chức năng chứ không chỉ bản tính. Xét về bản tính là “thuần linh”. Xét về chức năng là “thiên thần”. Theo hữu thể, là thuần linh; theo hành động, là thiên thần; được tạo ra, ở một thứ bậc cao hơn con người, thiên thần không có cơ thể và không phụ thuộc vào vật chất để tồn tại hoặc hoạt động. Các vị khác với những vị thánh, mà con người có thể trở thành.
Tự bản thể, các thiên thần là những tôi tớ và sứ giả của Thiên Chúa. Vì các ngài hằng chiêm ngưỡng ”Thánh Nhan Cha Ta ở trên trời” (Mt 18,10), nên các vị là “những người đi thực hiện Lời Chúa, sẵn sàng phụng lệnh Người”, ”Hãy chúc tụng Yavê, hỡi các thần sứ của Người, những anh hùng dũng mạnh làm theo lời Người, sẵn vâng tiếng Người phán ra. Hãy chúc tụng Yavê, hỡi các cơ binh của Người, tôi trung tùng phục ý Người” (Thánh vịnh 103,1,15). Với tư cách là thụ tạo thuần linh, các ngài là những thụ tạo có ngôi vị creaturae personalis (Piô XII: Denzinger 3891)(2) có trí năng, ý chí và bất tử, ”Vì chưng họ không thể chết nữa, bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa, một khi đã là con cái của sự sống lại” (Luca 20,36). Các ngài hoàn hảo hơn mọi thụ tạo hữu hình. Vinh quang rực rỡ của các ngài minh chứng điều ấy, ”Tôi nghe tiếng lời ngài. Vừa nghe tiếng lời ngài, tôi đã chết điếng, dập mặt xuống đất. Và này, một bàn tay đụng đến mình tôi, tôi giật nảy, tôi chỗi dậy trên đầu gối …Trong khi ngài nói với tôi lời ấy, thì tôi đã đứng dậy mà cứ run cầm cập.” (Đaniel 10,9-11).
Tổng lãnh thiên thần Michael
Tổng lãnh thiên thần Michael, được đề cập trong Sách Đanien, ”Và này Michael, một trong các tướng hàng đầu đã đến trợ lực với ta…. Và không có một ai tăng sức cho ta đấu với các vị ấy, trừ phi là Michael, (thần sứ) tướng của các ngươi” (Đaniel 10,13.22) và trong Khải huyền của Thánh Gioan (Khải huyền 12.7), là hoàng tử của các thiên thần, chiến thắng Satan trong trận chiến của thời kỳ cuối cùng.
Tên của tổng lãnh thiên thần Michael, trong tiếng Do Thái có nghĩa là ai giống như Thiên Chúa? Ngài thường được hình dung như một chiến binh mạnh mẽ, mặc áo giáp và đi dép.
Tên của ngài xuất hiện trong Kinh thánh bốn lần, hai lần trong Sách Đanien, một lần trong Thư thánh Giuđa và một lần Sách Khải huyền. Từ sách Khải Huyền, chúng ta biết về trận chiến trên thiên đường, Thánh Michael và các thiên thần của ngài chiến đấu với Lucifer và các thiên thần sa ngã khác (hoặc ác quỷ).
Tổng lãnh thiên thần Gabriel
Tên của Tổng lãnh thiên thần Gabriel có nghĩa là “Chúa là sức mạnh của tôi”. Trong Kinh thánh, ngài xuất hiện ba lần với tư cách là một sứ giả. Ngài đã được cử đến Đaniel để giải thích thị kiến liên quan đến Đấng Mêsia, Và tôi nghe có tiếng người giữa (sông) Ulai; tiếng ấy gọi lớn và nói: ”Gabriel, hãy cho người này hiểu thị kiến!” (Daniel 8:16), ”trong lúc cầu kinh, tôi còn đang nói, thì Gabriel, người mà tôi đã thấy trong thị kiến ban đầu, đã vụt bay đến kề bên tôi vào lúc dâng của lễ ban chiều” (9:21). Ngài hiện ra với ông Dacaria khi ông đang dâng hương trong Đền thờ, để báo trước sự ra đời của con trai ông, Thánh Gioan Tẩy giả, ”Thiên thần Chúa đã hiện ra cho ông, đứng bên hữu hương án….Ta là Gabriel, kẻ chầu hầu trước mặt Thiên Chúa, ta đã được sai đến nói với ngươi và đem tin mừng này cho ngươi!” (Luca 1,11-19). Tổng lãnh Gabriel được biết đến nhiều nhất là thiên thần được Thiên Chúa chọn làm sứ giả Truyền tin, loan báo cho nhân loại biết mầu nhiệm Nhập thể, ”Tháng thứ sáu, thiên thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến một thành xứ Galilê, tên là Nazarét, tới cùng một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Yuse, thuộc nhà Ðavít, và tên trinh nữ là Maria” (Luca 1, 26-27).
Lời chào của Tổng thiên thần Gabriel đối với Đức Mẹ, đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, ”Vui lên! Hỡi Ðầy ơn phúc! Chúa ở cùng người!” (Luca 1, 28), đã trở thành lời cầu nguyện Ave Maria, Kính mừng Maria, thường xuyên và quen thuộc của mọi người Kitô hữu.
Tổng lãnh thiên thần Raphael
Hiểu biết của chúng ta về Tổng lãnh thiên thần Raphael đến từ sách Tôbia, ”Và Raphael đã được sai đến chữa lành cả hai: giựt khỏi mắt Tôbit những vệt trắng, để ông được thấy tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa – và ban Sara, con gái Raguel cho Tôbia con của Tôbit làm vợ và giải thoát nàng khỏi quỉ dữ Asmôđê” (3, 17). ”Và cũng vậy, Thiên Chúa đã sai ta đến chữa lành ngươi và Sara con dâu ngươi. Ta là Raphael, một trong bảy vị Thần sứ hằng túc trực để vào trước vinh quang Chúa” (12,15).
Nhiệm vụ của ngài như một người chữa bệnh tuyệt vời và đồng hành cùng Tôbia trẻ đã khiến ngài được mời gọi cho những cuộc hành trình và vào những thời điểm quan trọng trong cuộc sống. Truyền thống cũng cho rằng Raphael là thiên thần khuấy động nước tại hồ nước nuôi cừu chữa bệnh ở Bethesda. Tên của ngài có nghĩa là “Chúa đã chữa lành”.
Không giống như chúng ta, các thiên thần là những đấng thiêng liêng thuần khiết và không có bất cứ gì là vật chất. Các ngài không có cánh, thân xác hoặc gươm kiếm. Các Tổng Lãnh Thiên Thần được giao phó công việc giao tiếp và đưa những sứ điệp quan trọng cho con người. Các Tổng Lãnh Thiên Thần có thể bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ. Thánh Micae và các thiên thần có quyền lực trục xuất Satan ra khỏi một nơi chốn.
Các Tổng Lãnh Thiên Thần vẫn hiện hữu ngày nay. Thiên Chúa đã tạo dựng các thiên thần bất tử và các vị sẽ không bao giờ ngưng hiện hữu, cho đến muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc cực thánh của chúng con, chúng con xin Chúa ban phúc cho ngôi nhà của chúng con, gia đình chúng con, mọi người trong gia đình chúng con. Xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ.
Thánh Thiên Thần Michael, xin hãy bảo vệ chúng con chống lại tất cả những kẻ xấu xa của địa ngục.
Thánh Thiên Thần Gabriel, xin hãy ban cho chúng con sự khôn ngoan để chúng con có thể hiểu được thánh ý Thiên Chúa.
Thánh Thiên Thần Raphael, hãy bảo vệ chúng con khỏi bệnh tật và mọi nguy hiểm đến tính mạng.
Xin các thiên thần hộ mệnh thánh thiện gìn giữ chúng con ngày đêm trên con đường dẫn đến ơn cứu độ. Amen.
(1) Năm 745, tại công đồng Latêranô, Đức Giáo Hoàng Zacharia đã tuyên bố: “Giáo hội Công Giáo chỉ nhìn nhận ba tên gọi chính thức của các thiên thần: Michael, Gabriel và Raphael”.
Phụng vụ theo Công Đồng Vaticanô II mừng chung các tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel và Raphael vào ngày 29 tháng chín, ngày kỷ niệm lễ cung hiến một đại giáo đường kính thánh Michael ở thế kỷ IV, trong một miền quê Rôma nhưng ngày nay không còn.
(2) Enchiridion Symbolorum, definitionum et declarationum de rebus fidei et morum: Tuyển tập các tín biểu, định tín và tuyên bố về các vấn đề đức tin và luân lý.
Bài trình thuật Phúc Âm theo thánh Gioan hôm nay diễn tả sự kiện tông đồ Philipphê muốn thuyết phục người bạn của mình là Nathanaen rằng ông đã tìm thấy Ðấng cứu thế mà Lề Luật và các ngôn sứ đã tiên đoán trước, đó là Chúa Giêsu thành Nazareth, con ông Giuse. Nhưng Nathanaen là người công chính và có lòng tôn kính Thiên Chúa, và cũng như nhiều người Do Thái thời đó ông đang trông chờ Ðấng cứu thế đến. Chính lòng khao khát được trông thấy Ðấng cứu thế đã thúc đẩy ông nghe theo lời của Philipphê mà tới gặp Chúa Giêsu. Ông gặp và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa vì Ngài đã nhìn thấu được những khát vọng sâu xa trong tâm hồn của ông, đó là lòng ao ước được nhận biết Thiên Chúa và được hiệp thông với Ngài trong sự vinh hiển muôn đời.
Chúa Giêsu đã ban cho Nathanaen một niềm tin mới vào Ðấng cứu thế mà dân tộc Do Thái đã chờ đợi từ lâu là Ngài chính là chiếc thang nối kết giữa Nước Trời với trần gian, như Thiên Chúa đã mở rộng cánh cửa cho tổ phụ Giacóp để đưa ông và dân tộc Do Thái vào Nước Trời với Thiên Chúa hằng sống. Chúa Giêsu cũng mạc khải cho Nathanaen thấy rằng Ngài chính là Ðấng sẽ phải đến để hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa cho tổ phụ Giacóp.
Qua mầu nhiệm nhập thể, Con Một Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm cho sự cứu rỗi của nhân loại và thông qua sự cứu rỗi và mầu nhiệm Phục Sinh đã mở rộng con đường cho tất cả nhân loại bước vào một mối liên hệ mới là trở nên các con cái của Ngài. Con Một Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho nhân loại đi vào Nước Trời cũng như mang Nưới Trời vào thế gian và vào trong đời sống mỗi ngày của chúng ta, điều đó có nghĩa là Nước Trời hiện diện ở những ai đi tìm kiếm và thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mười hai môn đệ ở kề cận với Chúa Giêsu để được dịp chứng kiến sự kiện Chúa Cha tác động và ngự trên Chúa Con. Sự kết hợp được biểu lộ một cách trọn vẹn nhất qua mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Chính vào giây phút Ngài được nâng lên trên thập giá để bước vào sự vinh hiển muôn đời của Chúa Cha, tất cả chúng ta cũng được gọi để dự phần vào sự mạc khải này và mỗi lần chúng ta cử hành mầu nhiệm hy tế là chúng ta sống lại mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, là vị thượng tế và là con chiên hiến tế trong giao ước mới giữa Chúa Cha và nhân loại.
Lạy Chúa Cha trên trời,
Qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, Cha đã chỉ đường cho chúng con bước vào Nước Trời như chính Cha đã mạc khải cho các tổ phụ và các tông đồ. Xin Cha cũng tỏ lộ Cha cho tất cả chúng con để chúng con biết làm sáng Danh Cha qua cuộc sống chứng tá hằng ngày. Xin cho chúng con luôn tìm thấy niềm hân hoan trong sự hiện diện của Cha để tận hưởng niềm hạnh phúc và sự sống muôn đời nơi Nước Trời.
Nathanael ngạc nhiên khi thấy Đức Giê-su biết rõ ông dù hai người chưa gặp nhau bao giờ, thế mà lần thứ nhất thấy ông, Người đã thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm tư ông: “Lòng dạ ông không có gì gian dối”.
“Tôi đã thấy anh rồi”
Chúng ta ở với Đức Giê-su Ki-tô nhiều hơn chúng ta tưởng. Trong những cơn gian nan khốn khó suốt trên đường đời, Đức Giê-su luôn nhìn chúng ta, theo dõi chúng ta. Nathanael, trong ông: “không có gì gian dối”. Ông đã nhận được ơn mặc khải về tình yêu của Chúa đang hoạt động trong ông. “Tôi đã thấy anh trước rồi” nhưng “Anh sẽ còn thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”... Ông đã tin và được hứa cho thấy rõ ràng, sáng suốt một viễn tượng mới về các thực thể với muôn vật. Và “Anh sẽ thấy trời mở rộng”. Đức Giê-su đã đến: và từ nay trời với đất được hiệp thông với nhau. “Thiên Thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên con người”
Những sứ giả của Thiên Chúa
Ngày nay chúng ta không còn quen nhiều với các Thiên Thần nữa, ngay cả tên các Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e, Gabriel và Raphael. Chúng ta nhưng hơn cả là Thiên Thần Gabriel trong việc truyền tin: Ngài đã được sai đến với Đức Ma-ri-a để báo tin đầy ơn phúc cho Đức Ma-ri-a, theo Kinh Thánh, các Thiên Thần được dựng lên để chầu chung quanh Thiên Chúa và đưa lời Chúa. Các Thiên Thần còn hướng dẫn chúng ta ngợi khen Thiên Chúa và vâng lời Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, các Ngài can ngăn chúng ta khỏi co dúm, cuộn mình lại trong chiều kích thấp hèn hư nát của tạo vật, nhắc nhở chúng ta thuộc một cộng đồng siêu việt cao cả, hoàn toàn hướng lên Đức Ki-tô, trong ngôi vị của Con Người là đường dẫn lên Thiên Chúa, đang mở ra trước mắt chúng ta một trời mới, đất mới lớn lao vô cùng: chúng ta có biết lắng nghe tiếng các thiên thần tuyên dương ca tụng Thiên Chúa không?
Một liên kết mới giữa chúng ta và Thiên Chúa, phúc cho ai thấy và sống trong tình liên kết đó.
Tôi yêu chuộng một thứ vũ trụ đông đảo các Thiên Thần hơn cả cái vũ trụ trống rỗng và lạnh ngắt đang ở trước mắt chúng ta. Các Thiên Thần sống hòa hợp với Thiên Chúa tuyệt vời hơn là loài người được Đức Ki-tô đưa về sống với Thiên Chúa.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính tổng lãnh các Thiên Thần Micae, Gabriel và Raphael, đây là tên tuổi của ba vị Thiên Thần đã được Kinh Thánh nhắc đến nhiều lần, và khi nói đến các Thiên Thần là nói đến vô số. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết với các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của các Thiên Thần, đây chính là mầu nhiệm gắn liền với những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Khi tự tỏ bày cho loài người, Thiên Chúa cũng một trật mạc khải cho chúng ta về thế giới của các Thiên Thần.
Một trong những dấu chỉ thời đại mang nhiều ý nghĩa, là hiện nay tại những nước văn minh như Hoa Kỳ, sách vở liên quan đến các thiên thần được xếp vào một trong những loại bán chạy nhất, ngày càng có nhiều người tin tưởng vào sự hiện diện chở che của thiên thần trong cuộc sống của họ.
Vào tháng 12 năm 1993, một cuộc thăm dò được tờ báo Time và đài truyền hình thực hiện, cho thấy rằng có đến 69% người dân Mỹ tin sự hiện hữu của các Thiên Thần. Một cuộc thăm dò khác được thực hiện trước đó cũng tìm thấy rằng, 75% dân Mỹ tin có thiên thần.
Ðầu thập niên 1970, một nhà giảng thuyết nổi tiếng của Hoa Kỳ được tạp chí Time cho vào danh sách một trong 20,000 những tư tưởng nổi bật nhất của thế kỷ XX đã viết một cuốn sách có tựa đề: "Các Thiên Thần và Nhân Viên Mật Vụ của Thiên Chúa". Trong cuốn sách được xem là bán chạy nhất này, tác giả đã viết: "Các Thiên Thần là một chủ đề mang lại niềm an ủi và phấn khởi lớn lao cho những người tin Chúa, đồng thời cũng là một thách đố để cho những người không tin phải tin".
Thật thế, nếu Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta sự hiện hữu và hoạt động của các thiên thần, hẳn Ngài cũng muốn cho chúng ta cảm nghiệm hơn về mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Dù chúng ta có thấy các thiên thần hay không, dù các ngài có đến với chúng ta như thần linh hay dưới hình bóng người phàm, thì lời cầu xin của chúng ta luôn được đáp trả. Thiên Chúa hằng can thiệp vào cuộc sống của chúng ta cách diệu kỳ, niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của các thiên thần luôn nhắc nhở chúng ta điều đó. Quả thật, cuộc sống của chúng ta được dệt bằng phép lạ từ giây phút đầu tiên được tạo thành trong lòng mẹ cho đến lúc chào đời rồi lớn lên, mỗi một nhịp đập của trái tim, mỗi một hơi thở của chúng ta không là phép lạ sao?
Với mỗi người Chúa âu yếm nói: "Ta đã gọi con bằng tên con, con thuộc về Ta". Chúa Giêsu đã có lý khi mời gọi chúng ta nên giống như trẻ thơ, bởi vì trẻ thơ không ngừng ngây ngất trước những điều kỳ diệu và những phép lạ của cuộc sống. Người lớn thì trái lại thường bị cuốn xoáy trong dòng đời nên dễ đánh mất khả năng chiêm ngắm trước những điều kỳ diệu và các phép lạ của cuộc sống.
Thiên Chúa yêu thương mỗi người, Thiên Chúa không ngừng bao bọc che chở chúng ta bằng sự hiện diện của vô số các thiên thần. Ðó phải là niềm tin hôm nay khi mừng kính các thiên thần Micae, Gabriel và Raphael, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta hâm nóng lại. Thiên Chúa đã ban cho cuộc sống chúng ta như một phép lạ, nhờ các sứ thần của Ngài, Ngài hướng dẫn và che chở chúng ta trong từng đường đi nước bước của chúng ta.
Nguyện xin các thiên thần nhất là thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa là tình yêu.
Khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn đầu tiên, các môn đệ can ngăn. Lần thứ hai thì không ai dám nói gì. Tuy nhiên, vì biết Thầy sắp ra đi, vị trí lãnh đạo sẽ khuyết, nên các ông bắt đầu nẩy sinh chuyện tranh dành xem ai là người lớn nhất trong anh em. Biết được tâm tưởng của các môn đệ, nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã ban nhiều huấn dụ cho các ông để các ông hiểu và đi theo đúng con đường mà Đức Giêsu mong muốn nơi môn sinh của mình.
Huấn giáo của Đức Giêsu đã gây nên một ấn tượng mạnh nơi các môn đệ khi Ngài dùng hình ảnh một em nhỏ dẫn đến bên cạnh và nói: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”. Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ phải từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trước. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.
Ngày nay, hình ảnh và lối suy nghĩ của các môn đệ khi xưa vẫn thường diễn ra trong cuộc sống của chúng ta!
Thật vậy, vẫn còn đó những người kitô hữu có suy nghĩ và hành xử bè phái, cục bộ, không phục vụ vì Chúa và các linh hồn, nhưng là vì mình. Không quy về Đức Giêsu mà lôi kéo để mình có ảnh hưởng. Tính háo danh và ham địa vị, cũng như tính hay ghen tỵ cũng diễn ra thường xuyên.
Tất cả những thứ đó làm nguy hại đến tinh thần hiệp nhất và sứ mạng loan báo Tin Mừng rất lớn.
Vì thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Ngài dạy dỗ, bảo ban. Cần trở nên như trẻ nhỏ trong thái độ đơn sơ, chân thành và phục vụ cách vô vị lợi. Khiêm tốn và từ bỏ ham quyền, cố vị. Sẵn sàng cộng tác với hết mọi người để ra đi loan báo Tin Mừng cách trung thành.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tinh thần của Chúa là trở nên như hạt lúa, chấp nhận chôn vùi đi để sinh nhiều bông hạt khác. Xin cho chúng con có được tinh thần của trẻ thơ, để không màng chi đến danh vọng, nhưng chỉ một lòng yêu mến Chúa và yêu người tha thiết. Amen.
Tên các TLTT đều có tiếp vĩ ngữ “el”: Michael (Việt ngữ là Micael), Raphael, Gabriel. “El” nghĩa là “trong Thiên Chúa” còn Angel là Thiên thần. Tổng lãnh Thiên thần có thể xuất hiện cùng lúc ở nhiều nơi.
Trong các Tổng lãnh Thiên thần có 3 vị “nổi tiếng” là Micael, Raphael, và Gabriel được mô tả trong Kinh thánh. Có thể nhiều người chưa biết rằng TLTT Micael còn được gọi là Beshter, Mika'il và Sabbathiel; TLTT Raphael còn được gọi là Labbiel; TLTT Gabriel còn được gọi là Abruel, Jibril, Jiburili và Serafili. Thế kỷ VIII, Kitô giáo đã biết tôn sùng các Thiên thần.
1. MICHAEL (chúng ta quen gọi là Micae) nghĩa là “Người Giống Thiên Chúa” hoặc “Giống Như Thiên Chúa”.
Micael là Thiên thần đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, là vị trưởng trong các TLTT, có nhiệm vụ bảo vệ, khuyến khích, về sức mạnh, sự thật và chính trực. TLTT Micael bảo vệ chúng ta về thể lý, tâm lý và tình cảm. Ngài cũng giám sát mục đích sống của chúng ta. Chức năng chính của ngài là loại bỏ những điều xấu. TLTT Micael cầm gươm lửa để bảo vệ chúng ta khỏi Satan và những điều tiêu cực.
Khi có ngài ở bên, bạn có thể thấy lấp lánh ánh sáng xanh hoặc đỏ. Hãy cầu xin TLTT Micael nếu bạn thấy mình bị tấn công về tâm lý hoặc thiếu can đảm giữ lời hứa, thiếu động lực, thiếu lòng tin, thiếu can đảm, mất phương hướng, thiếu nghị lực, thiếu sức sống, thiếu tự tin, và cảm thấy bất xứng. TLTT Micael giúp chúng ta nhận biết mục đích sống và giúp bảo vệ.
Micael đã chiến thắng Satan (thiên thần sa ngã Luxiphe) ở trong Vườn Địa Đàng, dạy cho Adam cách gieo trồng và chăm sóc gia đình, nói với Môsê trên Núi Sinai, và năm 1950 ngài được tôn vinh là Thánh Micael, “bổn mạng của cảnh sát”, vì ngài giúp can đảm và anh dũng. Ngài cũng có “bí quyết lạ” về sửa các thiết bị điện và máy móc, kể cả máy tính và xe cộ. Nếu xe bị hư, hãy cầu xin TLTT Micael!
Ngài giúp chúng ta hành động theo sự thật mà không thỏa hiệp với tính lim chính và giúp chúng ta tìm ra bản chất và vẫn là chính mình. Ngài hay giúp đỡ nên khi gặp khó khăn trong công việc, khi bị chứng nghiện nào đó, khi bị bệnh, khi đau khổ, hoặc gặp ác mộng, hãy cầu xin TLTT Micael!
2. RAPHAEL nghĩa là “Sức Mạnh Chữa Lành của Thiên Chúa” hoặc “Thiên Chúa Chữa Lành”.
Chữ Raphael trong tiếng Do Thái nghĩa là “bác sĩ” hoặc “người chữa lành”. TLTT Raphael giúp chúng ta mau lành bệnh về thể lý và tinh thần nếu chúng ta cầu xin ngài. Kinh thánh kể chuyện ông Abraham khỏi đau sau khi ông chịu phép cắt bì. Bạn cũng có thể cầu xin TLTT Raphael thay cho người khác.
TLTT Raphael là người dễ gần gũi và vui vẻ nhất trong các Thiên thần. Ngài thường được vẽ là người vui vẻ nói chuyện với người khác. Ngài rất ngọt ngào, yêu thương, tử tế và hiền từ, khi bạn thấy những tia sáng xanh là ngài đang ở gần bạn.
Ngài thường hoạt động với TLTT Micael để trừ các thực thể xấu và luôn “hộ tống” mọi người ở khắp nơi.
Là người chữa lành, TLTT Raphael là “bổn mạng của các du khách” vì ngài đã giúp ông Tôbia trong các hành trình. Hãy cầu xin TLTT Raphael khi bạn đi du lịch hoặc đi đây đi đó để được bình an trong chuyến đi. Ngoài ra, ngài còn giúp việc chuyên chở, cư trú và đồ đạc an toàn. Ngài cũng nâng đỡ các chuyến hành trình tâm linh, giúp tìm kiếm chân lý và hướng dẫn.
TLTT Raphael dạy ông Tôbia cách làm hương liệu và dầu thơm bằng cá và đã chữa khỏi mù cho người cha của ông Tôbia. Ngài được cầu xin giúp các y bác sĩ, các thầy thuốc, các nhà trị liệu và các bác sĩ phẫu thuật. Hãy cầu xin ngài nếu bạn là sinh viên trường y hoặc đang học chữa bệnh và xin ngài giúp bạn học tập tốt. Ngài không chỉ giúp chữa lành về thể lý và tâm lý, mà ngài còn chữa lành các vết thương lòng từ quá khứ.
Trong các lĩnh vực khác, TLTT Raphael còn giúp tìm lại những thứ bị thất lạc, giúp cai nghiện, giúp sáng suốt, tạo tình đoàn kết. Hãy cầu xin TLTT Raphael!
3. GABRIEL nghĩa là “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hoặc “Thiên Chúa là Sức Mạnh của Tôi”.
Chỉ có TLTT Gabriel được mô tả là nữ giới trong nghệ thuật và văn chương, ngài là “sứ giả” và là một trong các TLTT có tên trong truyền thống Do Thái, được coi là một trong hai Thiên thần cao cấp theo truyền thuyết Do Thái giáo và Hồi giáo. Ngoài TLTT Micael, TLTT Gabriel là Thiên thần duy nhất được nhắc đến trong Cựu ước. Ngài là TLTT quyền thế và mạnh mẽ, những ai kêu cầu ngài sẽ cảm thấy muốn hành động và sẽ có kết quả tốt.
TLTT Gabriel là người đã truyền sứ điệp cho Thánh Êlidabét và Đức Mẹ Maria về việc thụ thai và sinh con, là Thánh Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu thành Nadarét. Nếu bạn sắp lập gia đình, hãy cầu xin TLTT Gabriel giúp bạn trong việc thụ thai, sinh sản và dạy dỗ con cái.
TLTT Gabriel có thể giúp chúng ta về nghệ thuật và giao tiếp. Ngài sẽ hành động như một huấn luyện viên, gợi cảm hứng và kích thích các nghệ sĩ, các nhà báo và những người làm việc về truyền thông, ngài giúp hành động một cách can đảm và mau mắn.
Ngài cũng giúp chúng ta nhận biết ơn gọi đích thực của mình. Hãy cầu xin ngài hướng dẫn nếu bạn đi không đúng đường tâm linh, nếu bạn muốn hiểu cuộc sống và mục đích sống. Nếu bạn dự định chuyển nhà, mua bán công to việc lớn hoặc muốn đổi nghề, hãy cầu xin TLTT Gabriel!
Cũng hãy cầu xin ngài nếu cơ thể bạn bị ngộ độc hoặc đầu óc nghĩ về những chuyện xấu, ngài sẽ giúp bạn thanh tẩy hồn xác. Các phụ nữ bị hãm hiếp hoặc bị quấy rối tình dục, rồi cảm thấy mình ô uế, bị dằn vặt, hãy cầu xin TLTT Gabriel!
“Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” (Ga 1,51)
Suy niệm: Giáo huấn của Giáo Hội dạy rằng có một thế giới thần thiêng trong đó gồm có thần lành thần dữ là thiên thần và ma quỷ ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Thiên thần là sứ giả, là những thần linh phục vụ Thiên Chúa. Thánh Kinh chỉ nêu tên ba vị Tổng lãnh thiên thần là Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-pha-en với ý nghĩa:
Mi-ca-en là “Ai bằng Thiên Chúa”. Gáp-ri-en là “Uy lực của Thiên Chúa” Ra-pha-en là “ Thiên Chúa cứu giúp”
Mi-ca-en là Đấng bảo trợ đặc biệt Hội Thánh, Gáp-ri-en là sứ giả được sai đến với Đức Maria và Ra-pha-en là vị tổng lãnh hầu cận Thiên Chúa.
Mời Bạn: Mi-ca-en giục chúng ta lòng tin Thiên Chúa là Chúa duy nhất để nhờ đó chúng ta biết quy hướng mọi sự về Chúa. Ga-bri-en giục chúng ta có lòng trông cậy vào Thiên Chúa quyền năng để nhờ đó chúng ta biết lệ thuộc vào Chúa trong mọi sự. Ra-pha-en giục chúng ta có lòng mến Chúa nhờ đó chúng ta gắn bó với Chúa trong mọi việc.
Sống Lời Chúa: Theo gương và lời chỉ dẫn của các vị tổng lãnh thiên thần, tôi chỉ tin vào một mình Thiên Chúa vì không ai bằng Ngài. Tôi luôn cậy trông vào Chúa, dù khó khăn thử thách đến đâu cũng không ngã lòng vì Chúa có uy lực vô biên có thể giúp bạn vượt qua bất cứ mọi khó khăn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không bao giờ thất vọng về chúng con, vì thế xin cho chúng con cũng không bao giờ thất vọng về chính mình, nhưng luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa.
“Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” (Ga 1,51)
Suy niệm: Mừng lễ các tổng lãnh thiên thần là dịp để về vai trò của các ngài trong phụng vụ, cách riêng trong thánh lễ. Khi Giáo Hội cử hành thánh lễ, không chỉ loài người chúng ta mà cả triều thần thiên quốc cùng tham dự vào hiến tế này: “Vì thế, hiệp với toàn thể thiên thần và các thánh, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng Chúa…” (Lời cuối các kinh tiền tụng).
Ngay đầu lễ, chúng ta xin các thiên thần chuyển cầu cho chúng ta: “Vì vậy, tôi xin… các thiên thần… khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa…” (Kinh Tôi Thú Nhận). Các thiên thần đem của lễ chúng ta dâng “lên bàn thờ thiên quốc, trước tôn nhan uy linh cao cả Chúa…” (Kinh nguyện tạ ơn II). Khi rước lễ, ta được lãnh nhận “bánh của các thiên thần”.
Mời Bạn: Hiến tế Thánh Thể cao cả, vì là cử hành của toàn thể Giáo Hội nơi trần thế cũng như trên thiên quốc và cả trong luyện ngục. Nếu bạn ý thức điều đó, hẳn là bạn sẽ phấn khởi khi tham dự thánh lễ, bởi vì mình chẳng là gì, thế mà được mời “đến dự tiệc vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa” (Dt 12,23).
Chia sẻ với người thân và bè bạn về sự cao cả của Thánh lễ, và cùng rủ nhau đến tham dự thánh lễ.
Sống Lời Chúa: Khi thánh lễ bắt đầu, đặc biệt hôm nay, bạn hãy dành ít phút cầu nguyện với các thiên thần, xin các ngài giúp bạn dọn lòng tham dự thánh lễ tốt đẹp.
Cầu nguyện: ”Lạy Chúa, giữa chư vị thiên thần, này con xin đàn ca kính Chúa; hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ.” (Tv 137)
Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh các môn đệ bước theo Chúa (Ga 1, 35-51), cách đặc biệt Philipphê và Natanaen. Có những điểm khác biệt với các Tin Mừng Nhất Lãm: sự kiện không xảy ra tại sông Giođan nơi Gioan làm phép rửa, nhưng xảy ra khi Chúa Giêsu trên đường đi Galilê. Chúa Giêsu đang trong cuộc đời công khai, và Ngài quy tụ các môn đệ lại để ở lại với Ngài, cùng chia sẻ cuộc sống và sứ mệnh của Ngài.
Natanaen (theo truyền thống là Bartôlômêô) là môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu gọi. Khi Philipphê nói với Natanaen rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanaen tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nadarét. Nhưng khi được Philiphê nói "hãy đến mà xem", thì Natanaen sẵn sàng gặp Chúa, đó là dấu chỉ của sự tìm kiếm chân thành và ước muốn đón nhận Chân Lý.
Thấy Natanaen mở rộng cõi lòng đến với mình một cách sẵn sàng, Chúa Giêsu đến và nói về ông như một người Israel chân chính. Natanaen ngạc nhiên: "Sao Thầy lại biết tôi?" Chúa Giêsu biết Natanaen bởi vì Ngài biết chúng ta từng người một và biết tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta. "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Natanaen có thể là một nhà thông luật, am hiểu Kinh Thánh; đó là hình ảnh của người yêu mến Lời Chúa, ngồi dưới gốc cây Thánh Kinh để biết về Đấng Messia. Người môn đệ cũng được Chúa nhìn bằng một cặp mắt yêu thương và dần dần họ sẽ cảm nghiệm tình yêu này cách mạnh mẽ.
Lời của Chúa Giêsu khiến Natanaen xúc động đến nỗi ông thốt lên: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Natanaen tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, tước hiệu nói đến thần tính của Chúa Giêsu. Chỉ một cuộc gặp gỡ với Chúa đã biến đổi Natanaen. Một khi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Giêsu, người môn đệ sẽ biết Ngài một cách sâu xa hơn; và khi biết Ngài một cách sâu xa thì sẽ yêu mến Ngài cách mãnh liệt hơn.
Mỗi người chúng ta cũng được kêu mời khám phá hành trình đức tin của mình: được Chúa Giêsu kêu gọi, các môn đệ đáp trả, trong một kinh nghiệm cá nhân với Ngài, và sau cùng niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng là lý lẽ và là vinh quang của người môn đệ.
Cuối đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hình ảnh liên hệ đến các vị tổng lãnh Thiên Thần chúng ta mừng kính hôm nay: "các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Hình ảnh này liên hệ đền tổ phụ Giacóp xưa, khi ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran, "đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống" (St 28, 10-12). Thiên Chúa dựng nên các thiên thần để chầu chực hầu hạ Đức Chúa Trời, giúp đỡ loài người và gìn giữ vũ trụ. Micae có nghĩa là ai bằng Thiên Chúa, được sai đi để gìn giữ và bảo vệ các tín hữu, như câu chuyện trong sách khải huyề; Raphael có nghĩa là thầy thuốc của Thiên Chúa được sai để giúp đỡ con người như câu chuyện trong sách Tôbia, và Gabriel có nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa được sai đi truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria.
Các thiên thần nêu gương cho chúng ta: trung thành với Chúa, phụng sự Chúa và chăm sóc con người. Người môn đệ sẽ được Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang, mặc khải cho những mầu nhiệm cao cả. Đây là niềm hy vọng của chúng ta. Chúa Giêsu hứa cho Nathanaen sẽ “được thấy những điều cao trọng hơn thế nữa”, thấy vinh quang của Thiên Chúa, thấy tầng trời mở ra và "các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người". Trời đất giao duyên: Chúa Giêsu là cầu nối giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người, là Đấng mặc khải Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót cho nhân loại.
Giáo huấn của Giáo hội về thế giới thần thiêng rất giản dị và không thay đổi, là có một thế giới như vậy, trong đó gồm có cả thần lành và thần dữ và ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng rằng việc tạo dựng được thể hiện gồm có "muôn vật hữu hình và vô hình".
Còn về ảnh hưởng của thế giới vô hình, của các thần thiêng đối với chúng ta, chỉ cần nhớ lại biến cố cám dỗ Eva tại vườn địa đàng và biến cố truyền tin cho Đức Mẹ. Trong lịch sử như Thánh Kinh trình bày, thế giới thần thiêng được tỏ lộ trong bối cảnh những thiên thể đến thế giới này để thi hành thánh ý Thiên Chúa hay để truyền đạt lời Chúa cho loài người. Thiên thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Grêgôriô thu nhặt nhiều đoạn khác nhau để xếp các thiên thần thành 9 phẩm.
Riêng phẩm tổng lãnh được 1Tx 4,16 nhắc đến. Nhưng Thánh Kinh chỉ nêu tên 3 vị tổng lãnh là: Micae, Gabriel, và Raphael mà thôi. Nhắc đến tên các ngài, chúng ta cũng cần phải ghi nhớ lời dặn dò của thánh Grêgôriô Cả: "tên các thiên thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính". Micae để có nghĩa là "ai bằng Thiên Chúa". Gabriel có nghĩa là "uy lực của Thiên Chúa". Raphel có nghĩa là "thầy thuốc của Thiên Chúa". Lần dở lại Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy rõ phận vụ mỗi đấng thực hiện và dĩ nhiên các phận vụ ấy liên quan đặc biệt đối với loài người chúng ta.
Người Do thái vẫn coi tổng lãnh thiên thần Micae là đấng bảo trợ đặc biệt. Trong Kitô giáo, ngài cũng là đấng bảo trợ đặc biệt Giáo Hội. Chúng ta coi ngài là đấng thống soái đạo binh trên trời, dựa theo lời kể của thánh Gioan: "Một cuộc chiến dữ dội xảy ra trên trời, tổng lãnh thiên thần Micae cùng với các đồng bạn giao chiến cùng con rồng, con rồng và các đồng đảng chống lại mãnh liệt. Song chúng không sao thắng nổi và chúng mất địa vị trên trời. Con rồng lớn tức là con rắn xưa kia, thường gọi là ma quỉ hay là Satan. Kẻ lừa dối thiên hạ, bị quăng xuống đất cùng với đồng đảng của nó" (Kh 12,7-9).
Tổng lãnh thiên thần Gabriel được sai đến với Đức Trinh Nữ Maria ở Nazareth để nói rõ cho Mẹ biết định mệnh của mẹ (Lc 1,23). Ngài cũng đến với Zacaria để nói cho biết việc sinh hạ của Gioan Tẩy giả (Lc 1,11-19). Chính Ngài đã tiên báo cho Daniel biết việc Đấng Thiên Sai đến (Dn 9,21). Nay ngài được nhận làm đấng bảo trợ của nhân viên bưu điện và điện thoại.
Tổng lãnh thiên thần Raphael là một trong bảy vị tổng lãnh hầu cận trước nhan Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện phận vụ này trong câu chuyện Tobia sau khi ngài giữ gìn trẻ Tobia trong một cuộc hành trình xa và khi được chữa lành cho Tobia cha được sáng mắt. Trong Tân ước, tổng lãnh thiên thần Raphael được đồng hoá với vị thiên thần đã khuấy nước trong hồ gần Giêrusalem và lại xuống hồ trước tiên khi nước mới sủi lên, thì bất cứ mắc bệnh tật gì đều được khỏi cả (Ga 5,1-4).
Hằng năm ngày 29.09. Giáo Hội mừng lễ kính Tổng lãnh Thiên Thần Michael cùng với hai vị Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel và Raphael.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael là ai và có liên quan gì với đời sống đức tin và con người?
Quis ut Deus?
Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?.
Theo tương truyền:
- Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.
- Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.
– Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.
Hình ảnh cùng tượng Thiên Thần Michael được vẽ phác họa hay khắc chạm là một người mặc quân phục thời cổ Lamã có hai cánh bay sau lưng với bắp thịt gân cốt dũng mãnh, một tay cầm gươm như vũ khí, một tay cầm chiếc lá chắn, và chân đứng đạp trên con khủng long hình ảnh của qủi dữ.
Hình ảnh chiếc gươm trên tay Tổng lãnh Thiên Thần Michael là hình ảnh nói lên sức mạnh của tình yêu trong ý nghĩa cánh tay của Thiên Chúa được dương ra. Tổng lãnh Thiên Thần Michael giúp đỡ chỉ cho chúng ta tìm lại nẻo chính đường ngay, khi tầm nhìn con mắt chúng ta lạc mất hướng về trời cao.
Theo Kinh Thánh cựu ước Michael là vị Thiên Thần có đẳng cấp cao nhất trong các Thiên Thần bên ngai Thiên Chúa (Danien 10,13; 12, 1) có nhiệm vụ che chở bảo vệ dân Israel trước các quân thù địch, cùng cho khỏi cảnh khó khăn thử thách.
Thiên Thần Michael vào thời cựu ước ngày xưa được trình bày là một vị Thiên Thần trong sáu hay bảy vị Thiên Thần đẳng cấp chỉ huy cai trị, được Thiên Chúa tin tưởng các đặc biệt trao cho nhiệm vụ giữ chìa khóa nuớc trời, cùng là vị Thiên Thần chỉ huy tối cao các Thiên Thần.
Theo Kinh Thánh tân ước, Michael là Tổng lãnh Thiên Thần chống lại ma qủi.
‘‘Cả những người mê sảng kia cũng vậy, họ làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ quần của Chúa, nói phạm đến các Bậc uy linh. Khi bàn cãi và tranh luận vói quỷ về thi hài ông Môsê, ngay cả tổng lãnh thiên thần Micaen cũng không dám đưa ra một phán quyết nào phạm đến nó, mà chỉ nói: Xin Chúa trừng phạt ngươi!” (Giuda 8-10)
‘‘Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Micaen và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không có chỗ trên trời nữa.” (Kh 12, 7-8)
Trong thời tân ước, Tổng lãnh Thiên Thần Michael được trình bày là sứ gỉa của Thiên Chúa với uy quyền sức mạnh đặc biệt, như người cầu khẩn phù hộ cho con người bên ngai Thiên Chúa, như Thiên Thần của dân Chúa Kitô, như người cùng đồng hành với người đang hấp hối, với linh hồn những người đã qua đời.
Đó đây trong các nghĩa trang, tượng Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xây dựng trên nấm mồ hay tường thành, tay cầm loa thổi kèn gọi người qua đời chỗi dậy ra trình diện Thiên Chúa. Đây là hình ảnh nói lên niềm hy vọng và sự công bằng cùng lòng thương xót trứơc mặt Thiên Chúa, khi con người trong giờ phút lịch sử ra trước thánh nhan Ngài.
Hình ảnh Tổng lãnh Thiên Thần trên tay cầm chiếc cân đo lường nói lên vị Thiên Thần này quan tâm săn sóc về luật pháp, về sự công bằng chính trực. Trong nhiệm vụ này Tổng lãnh Thiên Thần Michael là người phục vụ đi tìm chân lý sự thật, sự công bằng.
Năm 1947 những cuộn giấy sách chép Kinh Thánh được tìm thấy ở bờ Biển Chết bên Israel, trong đó có đoạn ghi lại coi Thiên Thần Michael là ‘‘vị thần ánh sáng”, chỉ huy đoàn quân của Thiên Chúa chống lại thần dữ. Và Thiên Thần Michael được mang tước hiệu ‘‘Phó vương trên trời”.
Danh xưng của Tổng lãnh Thiên Thần Michael ‘‘Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa? –‘‘có lẽ cần được dịch sang ngôn ngữ con người ngày hôm nay: „ Có điều gì khác hơn thay thế Thiên Chúa được không?”.
Câu trả lời theo lương tâm nghiêm chỉnh sẽ là: Tất cả đều có giới hạn, không có ai, không có sự gì như Thiên Chúa là Đấng hòan hảo toàn năng được!
Trong bức tranh vẽ trên trần nhà, tường vách thánh đường kính các Thiên Thần ở Palermo có hình cùng tên và chức vị của bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần:
1. Michael - Victoriosus - Người chiến thắng 2. Gabriel – Nuntius - Sứ gỉa 3. Raphael – Medicus - Thầy thuốc 4. Uriel – Fortis Socius – Người đồng hành mạnh mẽ 5. Jehudiel – Remunerator - Người làm ơn 6. Barachiel – Adjutor - Người trợ giúp 7. Sealthiel – Oarator - Người bầu cử
Tổng lãnh Thiên Thần Michael
Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng đầu bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa. Tiên Tri Daniel đã diễn tả Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng về phía Thiên Chúa: “Thời đó, Michael là đấng vẫn thường che chở dân người.” ( Daniel 12,1).
Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?
Theo tương truyền:
-Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.
-Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.
- Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael là vị Thiên Thần có sức mạnh khả năng đi đến quyết định dứt khoát lại mang chiến thắng cho Thiên Chúa, khi giết chết con rồng mãng xà ma qủi, như sách Kinh Thánh thuật lại: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa. Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. ” (Khải Huyền 12, 7-9).
Tổng lãnh Thiên Thần Michael, theo vâng mệnh Thiên Chúa, đã quyết định lằn ranh giữa Trời và hỏa ngục. Vì thế, Vị Tổng lãnh Thiên Thần Michael được chọn là quan thầy bầu cử cho những người trong giờ phút cơn hấp hối.
Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel
Tên Gabriel có ý nghĩa “sức mạnh của Thiên Chúa”. Là vị sứ giả của Thiên Chúa được sai đến báo tin cho thiếu nữ Maria ở Nazareth rằng: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sẽ đầu thai làm người trong cung lòng Maria: “Sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng sẽ phủ rợp bóng trên chị…” (Lc 1,26-38).
Khi hiện ra với Ngôn sứ Dacharia trong đền thờ, vị Tổng lãnh Thiên Thần đã nói: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.” (Lc 1,19).
Hằng ngày trong đời sống đức tin của Hội Thánh, vào lúc 12 giờ trưa chuông thánh đường đổ hồi, kinh tuyền tin được xướng đọc lên. Như vào mỗi ngày Chúa Nhật lúc 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha từ trên cửa sổ văn phòng làm việc cùng đọc kinh truyền tin với mọi người Gíao dân đứng tụ tập ở quảng trường Thánh Phêrô bên Vatican.
Tiếng chuông lúc 12 giờ trưa và Kinh Truyền tin nhắc nhớ đến Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel, là Sứ giả của Thiên Chúa mang loan báo tin vui Chúa Giêsu Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người.
Tổng lãnh Thiên Thần Raphael
Tên Raphael mang ý nghĩa ‘‘Thiên Chúa chữa lành”. Trong Kinh Thánh sách Tobia thuật lại Thiên Thần Raphael vâng mệnh Thiên Chúa chữa lành bệnh mắt cho Tobia:
“Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa. Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến chữa lành cho cả hai. Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông được ngắm nhìn tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa.” (Tobia 3, 16)
Thiên Thần Raphael luôn đồng hành che chở Tobia trên đường đi. (Tobia 6, 10)
Tổng lãnh Thiên Thần Raphael trở thành bổn mạng phù hộ cho con người đi xa du lịch
Ông Bà Cha Mẹ nào ngay từ lúc con cháu còn nhỏ thơ bé cũng đều to nhỏ âm thầm cầu xin với các Thiên Thần phù hộ cho đời sống thể xác lẫn tinh thần của chúng. Bằng an hồn xác là nhu cầu căn bản rất cần thiết cho đời sống.
Sống lòng bác ái giúp đỡ nhau, kính trọng sự sống, điều chân thật lẽ phải luôn là nhu cầu làm nên khung nền kiến tạo đường đời sống tình liên đới con người với nhau trong xã hội.
Sống thể hiện một đời sống trong tương quan tình liên đới với Đấng là nguồn đời sống, nguồn tình yêu và ơn tha thứ, luôn là nhu cầu khát vọng của tinh thần con người ở đời.
Nhu cầu tinh thần này không chỉ là nhu cầu thiêng liêng đạo giáo, nhưng đó là nhu cầu đời sống văn hóa của con người ở vào mọi thời đại. Nhu cầu tinh thần văn hóa này cùng với những nhu cầu khác cho sự sống thể xác giúp đời sống có đầy đủ ý nghĩa, triển nở cùng mang đến niềm vui hạnh phúc.
Các Thiên Thần của Thiên Chúa là Sứ giả được Thiên Chúa gửi sai đến cùng đồng hành trợ giúp con người trong mọi hoàn cảnh đời sống thể hiện tình lòng thương xót bác ái vị tha.
Với người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa là Đấng của sự chân thật, sự tốt lành thiện hảo, là Thiên Chúa của lòng khoan dung tha thứ qua Thánh Gía Chúa Giêsu Kitô.
Lòng tin vào Thiên Thần vượt quá khỏi sự suy hiểu cùng thắc mắc của trí khôn con người. Thắc mắc thuộc về đời sống con người. Và thắc mắc giúp con người tỉnh thức thêm ra.
Hôm nay, ngày 29.9, cùng Hội Thánh, chúng ta mừng lễ ba Tổng lãnh thiên thần: Gabriel, Michael và Raphael.
1. Tổng lãnh Michael.
Ngài xuất hiện trong Kinh thánh bốn lần: hai lần trong sách Đanien, một lần trong thư thánh Giuđa và một lần trong sách Khải huyền.
Chẳng hạn trong sách tiên tri Đaniel: “Này Michael, một trong các tướng hàng đầu đã đến trợ lực với ta…. Và không có một ai tăng sức cho ta đấu với các vị ấy, trừ phi là Michael, (thần sứ) tướng của các ngươi” (10,13. 22).
Còn sách Khải huyền: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Michael và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến” (12, 7).
Hình ảnh của thiên thần Michael trong Khải huyền rất đẹp: hoàng tử của các thiên thần; chiến thắng vang dội trước sức mạnh càn quét hiểm ác của ma quỷ trong thời kỳ cuối để bảo vệ toàn thể loài người.
Qua đó, ta được biết về trận chiến trên thiên đường: Tổng lãnh Michael và các thiên thần của ngài chiến đấu với Lucifer và các thiên thần sa ngã khác là bè lũ ác quỷ đi theo Lucifer.
Từ hình ảnh oai phong bên trên, thiên thần Michael thường được hình dung để tạc tượng, vẽ tranh như một chiến binh mạnh mẽ, mặc áo giáp, đi dép, cầm gươm đâm vào đầu ma quỷ và ma quỷ phải khuất phục dưới chân ngài.
Tên của tổng lãnh Michael, tiếng Do thái có nghĩa "Ai giống như Thiên Chúa?".
2. Tổng lãnh Gabriel.
Trong Kinh thánh, ngài xuất hiện ba lần với tư cách là sứ giả:
- Đến với tiên tri Đaniel. Tiên tri cho biết, có lệnh từ giữa sông Ulai, đó là một tiếng gọi lớn: “Gabriel, hãy cho người này hiểu thị kiến!” (Daniel 8,16). Đó là thị kiến liên quan đến Đấng Mêsia mà tiên tri nhìn thấy.
Tiên tri nói tiếp:”Trong lúc cầu kinh, tôi còn đang nói, thì Gabriel, người mà tôi đã thấy trong thị kiến ban đầu, đã vụt bay đến kề bên tôi vào lúc dâng của lễ ban chiều” (9, 21). Chính thiên thần Gabriel đã giải thích thị kiến.
- Đến với tư tế Dacaria khi ông đang dâng hương trong Đền thờ, để báo trước sự ra đời của con trai ông, thánh Gioan Tẩy giả. Thiên thần xưng danh: “Ta là Gabriel, kẻ chầu hầu trước mặt Thiên Chúa, ta đã được sai đến nói với ngươi và đem tin mừng này cho ngươi!” (Lc 1,11-19).
- Đến với Đức Maria. Tổng lãnh Gabriel được biết đến nhiều nhất trong lần báo tin mầu nhiệm Nhập thể: “Tháng thứ sáu, thiên thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến một thành xứ Galilê, tên là Nazarét, tới cùng một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít, và tên trinh nữ là Maria” (Lc 1, 26-27).
Lời chào của Tổng lãnh Gabriel đối với Đức Mẹ, đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, “Vui lên! Hỡi Ðầy ơn phúc! Chúa ở cùng người!” (Lc 1, 28), trở thành lời cầu nguyện "Kính mừng Maria" thường xuyên và quen thuộc của mọi người Kitô hữu.
Tên của Tổng lãnh thiên thần Gabriel có nghĩa là “Chúa là sức mạnh của tôi”.
3. Tổng lãnh Raphael.
Hiểu biết của chúng ta về thiên thần Raphael đến từ sách Tôbia: “Raphael đã được sai đến chữa lành cả hai: giựt khỏi mắt Tôbit những vệt trắng, để ông được thấy tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa – và ban Sara, con gái Raguel cho Tôbia, con của Tôbit làm vợ và giải thoát nàng khỏi quỉ dữ Asmôđê” (Tb 3, 17).
Chính Tổng lãnh Raphael xưng danh mình: "Thiên Chúa đã sai ta đến chữa lành ngươi và Sara con dâu ngươi. Ta là Raphael, một trong bảy vị thần sứ hằng túc trực để vào trước vinh quang Chúa” (Tb 12,15).
Bởi nhiệm vụ của thiên thần Raphael như một người chữa bệnh tuyệt vời và đồng hành cùng Tôbia trẻ, vì thế, các Kitô hữu thường cầu khẩn ngài trong những lúc đau ốm bệnh tật, những thời điểm quan trọng của đời mình hoặc trong những chuyến hành trình gian nan nguy hiểm.
Do lời tự giới thiệu: "Ta là Raphael, một trong bảy vị Thần sứ...", khiến nhiều người tin rằng có bảy tổng lãnh thiên thần.
Vì thế một số giáo hội Kitô giáo khác, ví dụ Chính thống giáo, chấp nhận bảy tổng lãnh thiên thần: Michael, Gabriel, Raphael, và đặt tên cho bốn vị còn lại là: Uriel, Salathiel, Jébudiel và Barachiel.
Tuy nhiên, Hội Thánh Công giáo không chấp nhận niềm tin này và cho biết: Việc tin như vậy và đặt thêm tên cho các thiên thần "là nguy hiểm về mặt tâm linh".
Tên của ngài có nghĩa là “Chúa đã chữa lành”.
Đức giáo hoàng Gregorio Cả giải thích:
Micael - Ai bằng Thiên Chúa - chiến thắng ác thần Gabriel - Sức mạnh của Thiên Chúa - truyền tin cho Đức Maria Rafael - Linh dược của Thiên Chúa - chữ mù mắt cho Tobia.
Trong sách Sáng Thế, tổ phụ Giacóp đã mơ thấy một chiếc thang, nối liền giữa Trời và Đất, trên chiếc thang có các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, khi Chúa Giêsu nói “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” đã cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chính là chiếc thang nối liền giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Thật vậy, với mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể thì Thiên Chúa từ trời cao đã đến với con người, và với mầu nhiệm cứu chuộc thì con người đã được đem lên đến tận trời cao với tước vị là con Thiên Chúa.
Mặc dù Chúa Giêsu là chiếc thang duy nhất, trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, nhưng do tình thương và sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa mà các thiên thần được tham dự vào vai trò trung gian của Chúa Kitô, nhất là các tổng lãnh Thiên Thần. Thiên Chúa vô cùng thánh thiện và vinh quang, vì thế, con người phàm hèn tội lỗi không thể gặp trực tiếp Thiên Chúa, nên cần qua trung gian là các Thiên Thần, và ngay cả khi tiếp xúc với các Thiên Thần thì các thánh cũng còn phải run sợ chứ đừng nói là tiếp xúc với Thiên Chúa. Trong trường hợp Chúa Giêsu Kitô thì Người đã che dấu vinh quang của Thiên Chúa nơi thân xác phàm nhân, nếu không thì con người cũng không thể đến gần Người được.
Chúng ta cần phân biệt rõ giữa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, và các Thiên Thần là những thụ tạo vô hình. Các ngài được Thiên Chúa dựng nên để thờ phượng ngợi khen Thiên Chúa; soi sáng cho con người biết và thực thi thánh ý Thiên Chúa; gìn giữ, hướng dẫn, bảo vệ con người trước sực quấy phá của ma quỷ; dâng lời khẩn nguyện, những hy sinh, cùng với Hy lễ Duy Nhất của Chúa Giêsu lên Thiên Chúa Cha.
Tổng lãnh thiên thần Micae là lãnh đạo của tất cả các thiên thần, chiến đấu để bảo vệ Dân Chúa, bảo vệ những người công chính chống lại Satan và bè lũ của nó, như Sách Khải Huyền chúng ta vừa nghe. Micae có nghĩa là “Ai Bằng Thiên Chúa”, ngài cho thấy không ai có thể sánh với Thiên Chúa, không ai đáng tôn thờ bằng Thiên Chúa, không ai tốt lành thánh thiện bằng Thiên Chúa, không ai quyền năng bằng Thiên Chúa, không ai có thể chống lại Thiên Chúa. Cuộc đời mỗi người chúng ta là một cuộc chiến không ngừng với Satan và bè lũ của nó, tự sức mình chúng ta không thể nào chiến thắng được, vì thế, chúng ta hãy cầu Thiên Chúa sai Tổng lãnh thiên thần Micae trợ lực giúp chúng ta chiến đấu và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xin ngài luôn nhắc chúng con biết đặt Thiên Chúa ở vị trí cao cả nhất trong cuộc đời chúng ta.
Raphael có nghĩa là “Thần dược của Thiên Chúa” hay “Thầy thuốc của Thiên Chúa”, ngài được Thiên Chúa sai đến săn sóc, dẫn dắt và chữa lành cho con người. Trình thuật của Sách Tôbia cho chúng ta thấy, Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, ngài cho biết thêm là ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa. Và ngài đến trợ giúp Tôbia không phải do lòng tốt của ngài, mà là do lòng tốt của Thiên Chúa. Chúa ta hãy xin Tổng lãnh thiên thần Raphael luôn là bạn đồng hành của chúng ta trong cuộc hành trình dương thế nhiều cảm bẫy, xin ngài săn sóc, dẫn dắt và chữa lành cho chúng ta và nhắc nhở chúng ta làm việc thiện.
Garbiel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa”, ngài được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho ông Giacaria và Đức Maria, qua đó cho thấy sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa nhằm cứu độ loài người, ngài cho chúng ta thấy rằng với sức mạnh quyền năng vô cùng của Thiên Chúa thì không gì là Thiên Chúa không làm được. Xin Tổng lãnh Thiên thần Gabriel giúp chúng ta mau mắn đón nhận những sứ điệp Chúa gửi đến cho mình, và mau mắn thưa lời "Xin vâng" như Đức Mẹ.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa đã sai các thiên thần và các tổng lãnh thiên thần đến trợ giúp và bảo vệ chúng ta trong cuộc chiến chống lại ma quỷ, sự hiện diện của các ngài cho thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng hãy năng tưởng nhớ và chạy đến tìm sự trợ giúp nơi các ngài, nhất là vâng theo sự soi dẫn của các ngài vì các ngài có nhiệm vụ truyền lệnh của Thiên Chúa cho chúng ta.
Vào cuối tháng 9, Giáo hội mời gọi chúng ta mừng lễ các vị thánh không giống như những thánh khác.
Vào ngày 29 tháng 9, Giáo hội mừng kính các thánh Tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel và Raphael. Những thiên thần siêu phàm! Giống như các thiên thần khác, các vị được Thiên Chúa sai đến với loài người: “Chúc tụng Chúa đi hỡi muôn ngàn thiên sứ, bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người, luôn sẵn sàng phụng lệnh” (Ca nhập lễ).
Các Tổng lãnh thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, tuyên bố điều lạ thường của Thiên Chúa, họ luôn ở trước thiên nhan Chúa và phụng sự Ngài suốt cả ngày đêm. Thường các vị được giao cho những nhiệm vụ bất khả thi. Khi ẩn danh, họ mang tên của con người, và mỗi tên mang một chức năng.
Chiến binh, nhà ngoại giao và lòng nhân ái
Đầu tiên là Tổng lãnh thiên thần Michael, “Ai bằng Thiên Chúa”, một chiến binh chống lại con rồng. Michael là thiên thần mạnh mẽ nhất trong số các thiên thần. Ngài là chiến binh xuất sắc chống lại thế lực của quỷ thần. Khi Thiên Chúa cần một sứ thần mạnh mẽ và nhanh nhẹn, Ngài sai gửi Tổng lãnh thiên thần Michael.
Và đây là nhà ngoại giao Gabriel, nghĩa là "Người của Thiên Chúa". Sách Đanien trình bày Gabriel như một thiên thần phụng lệnh. Trước hết, chúng ta biết ngài trong Tân Ước qua những lần hiện ra với Đức Maria và ông Zacaria. Khi Thiên Chúa muốn loan báo tin trọng đại, Ngài đã sai gửi Tổng lãnh thiên thần Gabriel.
Cuối cùng là Raphael từ nhân, nghĩa là “Thiên Chúa cứu chữa”. Thiên thần hay làm việc thiện này đồng hành với anh bạn trẻ Tobia trong một hành trình tuyệt vời. Cảnh báo cho khách hành hương và những người bộ hành: ngài cũng giải thoát họ khỏi thần khí sự ác. Raphael tự giới thiệu mình là một trong 7 thiên thần chầu chực trước mặt Thiên Chúa, dâng lên Chúa những lời cầu khẩn của chúng ta. Khi Chúa muốn hướng dẫn ai đó trên bước đường của cuộc sống, Ngài sai gửi Tổng lãnh thiên thần Raphael.
Khi các Tổng lãnh thiên thần gửi cho chúng ta những tín hiệu kín đáo
Các Tổng lãnh thiên thần ánh sáng này nói cho chúng ta biết Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào. Còn các thiên thần vô danh khác, gửi đến cho chúng ta những tín hiệu kín đáo, mà không ép buộc bất kỳ ai: họ cho chúng ta trực giác để làm điều thiện, cho chúng ta sự giúp đỡ để biện phân, để trở thành chính mình, can ngăn chúng ta vấp ngã, cho chúng ta một dấu chỉ đúng lúc, một niềm vui sống cho hiện tại.
Khi cử hành lễ các Tổng lãnh thiên thần, Giáo hội nói cho chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trên trần đời này. Thực vậy, các thiên thần cùng chiến đấu với chúng ta, chống lại quyền lực tối tăm. Trên hết, họ mời gọi chúng ta ngợi khen Thiên Chúa và tạm dừng để tôn thờ Chúa, và trong những lúc như vậy, đôi khi chúng ta cảm thấy họ đi qua, dù có cánh hay không, trong thinh lặng dịu êm của lời cầu nguyện.
Chấp nhận khổ đau với tình yêu. 30/09 –Thánh Giêrônimô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. “Con Người sẽ phải bị nộp. Các ông không đám hỏi Người về lời ấy”.
* Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơtriđôn, Đanmaxia. Người đến Rôma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông phương và làm linh mục. Trở lại Rôma, người làm thư ký cho Đức Giáo Hoàng Đamaxô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống 35 năm cuối đời ở Bêlem, gần cái hang nơi Đức Giêsu ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Người qua đời ở Bêlem năm 420.
Đang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: “Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời”. Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai. Bài này nằm ngay sau chuyện Đức Giêsu trừ quỷ cho một bé trai. Quyền năng trừ quỷ của Ngài làm mọi người kinh ngạc, bỡ ngỡ (c. 43). Chính vào giây phút thành công vẻ vang này, Đức Giêsu lại bất ngờ tiên báo về cuộc Thương Khó sắp đến. “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (c. 44). Một Giêsu đầy uy lực sẽ phải lùi bước trước một thế lực khác. Một Giêsu có quyền năng cao cả của Thiên Chúa lại phải chịu thua. Hẳn lời tiên báo này đã làm các môn đệ hết sức bối rối. Thánh Luca nhấn mạnh đến chuyện họ không hiểu: “Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó bị che khuất khỏi các ông, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa” (c. 45). Điều gì đã che khuất ý nghĩa của lời Đức Giêsu tiên báo về việc mình sắp bị nộp, phải chịu đau khổ và chịu chết? Lý do đầu tiên có thể là lòng ham muốn quyền lực. Ngay sau đoạn Tin Mừng này, các môn đệ vẫn loay hoay với vấn đề ai là người lớn nhất trong nhóm (c. 46). Sau bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã nhận mình là người phục vụ (Lc 22, 27). Việc phục vụ suốt đời này lên đến cao điểm nơi cái chết hy sinh. Các môn đệ thì chỉ thích làm lớn, làm đầu, hơn là phục vụ, nên chẳng lạ gì nếu họ không hiểu được con đường Thầy sắp đi, con đường hẹp, nơi cái tôi như bị xóa bỏ, để hiến dâng. Có lý do khác khiến các môn đệ không hiểu được lời tiên báo của Thầy. Đó là khi quá nôn nóng mong đợi ngày Thầy đến trong vinh quang, họ đã quên việc Thầy phải trải qua khổ đau và cái chết trước đã. Họ tưởng Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi (Lc 19, 11), và tưởng Thầy Giêsu sẽ cứu chuộc Ítraen ngay lập tức (Lc 24, 21). Ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, họ đã hỏi Ngài (Cv 1, 6): “Có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” Các môn đệ nóng lòng mong đợi vinh quang cho Thầy, thật ra là mong đợi vinh quang cho chính họ. Họ bị ám ảnh về quyền lực, cũng là ám ảnh về vinh quang, nên thất bại và cái chết nhục nhã là điều họ khó hiểu và khó chấp nhận. Như các môn đệ, chúng ta cũng không hiểu được làm sao một ngôn sứ như Đức Giêsu lại có thể bị loại trừ và thủ tiêu. Chúng ta không chấp nhận vai trò của đau khổ, nhục nhã và cái chết, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa (Lc 24, 25-27). Đức Giêsu đã phải soi sáng cho hai môn đệ Emmau về mầu nhiệm này. Chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm đau khổ nơi chính mình. Và chúng ta thường thấy nó vô nghĩa, vô lý, vô duyên. Đau khổ mãi mãi là một mầu nhiệm mà chúng ta muốn chối bỏ vì sợ hãi. Kitô giáo đã không dạy ta con đường tránh đau khổ bằng mọi giá. Đức Giêsu đã giang tay đón lấy đau khổ với một tình yêu bao dung, lập tức đau khổ ấy có ý nghĩa và nở hoa. Nơi thập giá chúng ta thấy rõ nhất tình yêu vô lượng của Cha, và tình yêu mênh mông của Đức Giêsu đối với nhân loại. Nơi thập giá chúng ta thấy sự kinh khủng của tội ác con người, và sự tha thứ vô bờ của Thiên Chúa. Như thế là ta đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa của thập giá và đau khổ. Thật ra các môn đệ chỉ hiểu được cuộc Thương Khó nhờ Phục Sinh. Khi sống lại, Chúa Giêsu cho tất cả những cái vô lý một ý nghĩa. Khi được nếm trước mầu nhiệm phục sinh ngay từ đời này, chúng ta thấy dễ đón nhận đau khổ hơn. Hãy mạnh dạn hỏi Đức Giêsu về ý nghĩa cuộc Thương Khó của Ngài, cuộc Thương Khó của cả nhân loại và của chính bản thân tôi. Đừng sợ hỏi, nhưng “hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời Ngài nói” (c. 44). Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con, Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ. Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống. Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã. Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu. Vượt qua những khắc khoải của niềm tin. Vượt qua những thành kiến con có về người khác... Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui. Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa. ----------------------------------
Chúa Giê-su đang làm những phép lạ lẫy lừng khiến mọi người thán phục. Đột nhiên Người nói dõng dạc với các môn đệ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” khiến các môn đệ sợ hãi. Thủ lãnh thế gian được quyền hoành hành ở thế gian trong một thời gian. Đó là thời kỳ thanh luyện. Chính Chúa, trong thân phận con người, cũng phải chịu một phép rửa thanh luyện. Đó là chịu đau khổ, chịu nhục nhã, chịu chết. Để thắng vượt mọi cám dỗ trần gian. Để siêu thoát mọi ràng buộc của xác thịt và thế gian. Để tự do đi vào Nước Trời. Để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Để mở con đường thăng tiến cho nhân loại. Đó là con đường khó khăn và đau khổ. Đến nỗi các môn đệ sợ hãi không dám hỏi lại.
Nhưng đó là con đường đúng đắn và cần thiết. Vì những giá trị trần gian chỉ là phù vân. Như sách Giảng viên khuyên nhủ thanh niên. Ngay lúc tuổi thanh xuân tươi đẹp hãy biết chuẩn bị cho đời sau. Vì đời này là chóng qua. “Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy tưởng nhớ Đấng đã dựng nên mình. Đừng chờ đến ngày tai ương ập tới, đừng chờ cho năm tháng qua đi, …Đừng chờ đến khi bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình…Phù vân chỉ là phù vân”. Hãy biết tích trữ kho tàng vĩnh cửu. Hãy biết sẽ bị Thiên Chúa xét xử để biết từ bỏ những cám dỗ vật chất trần gian. Mà chuẩn bị cho Nước Trời (năm chẵn).
Khi thế giới phù vân qua đi, một thế giới mới xuất hiện. Chúa lập nên thành Giê-ru-sa-lem mới. Vô cùng rộng lớn vì không còn biên giới. Vô cùng hạnh phúc vì được Chúa bảo vệ. Vô cùng lộng lẫy vì Chúa là vinh quang của thành. Đó là trời mới đất mới. Nơi chan hoà tiếng đàn ca. Nơi chan chứa tiếng vui cười. Nơi hạnh phúc vĩnh viễn. “Giê-ru-sa-lem phải là một thành rộng mở, sẽ có vô số người và súc vật đên cư ngụ ở đó. Phần Ta, sấm ngôn của Đức Chúa, Ta sẽ là tường luỹ bằng lửa bao quanh nó, và Ta sẽ là vinh quang ở giữa nó. Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi” (năm lẻ).
Chúa bị nộp vào tay người đời. Đó là tấm gương cho tôi biết sẵn sàng chịu thiệt thòi ở đời này. Từ bỏ những ràng buộc của danh vọng chức quyền đời này. Chắc chắn đó là một cuộc thanh luyện đớn đau. Nhưng khi sạch mọi vương vấn trần tục tôi mới có thể bước vào thành Giê-ru-sa-lem mới rạng ngời vinh quang, hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa xin cho con biết trao nộp vào tay người đời tất cả những gì của họ. Để con thuộc về Chúa. Thuộc về Nước Chúa.
Có hai người đang bị dằn vặt với nỗi khổ đau của mình. Họ tìm đến với một vị ẩn sĩ để xin ý kiến. Vị ẩn sĩ này giới thiệu họ đến gặp một vị ẩn sĩ khác. Sau khi nghe họ giãi bày tâm sự, ông trả lời: "Tốt hơn các anh hãy tìm đến một vị khác, tôi không có đủ tư cách để trả lời câu hỏi đó, bởi vì cả đời tôi có bao giờ nhận điều xấu từ bàn tay Chúa đâu". Hai người thanh niên chợt hiểu rằng khi con người vui vẻ đón nhận khổ đau, thì khổ đau không còn là vấn đề nữa.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi loan báo cuộc khổ nạn của Ngài, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài hãy đối đầu với khổ đau, nếu khổ đau là thành phần thiết yếu của cuộc sống. Vấn đề không phải là chối bỏ hiện thực của khổ đau hay tìm cách tránh né khổ đau, mà là đối đầu với nó. Chúa Giêsu đã vạch ra cho chúng ta cách thế đối đầu với khổ đau, đó là chấp nhận khổ đau với tình yêu. Ðau khổ mà không có tình yêu thì chỉ là hỏa ngục mà thôi.
Xem chừng tất cả các vấn đề của con người đều được gắn liền với khổ đau. Vì không muốn chấp nhận khổ đau mà con người gây ra bao nhiêu tội ác, vì không muốn hy sinh mà một người mẹ đang tâm giết đứa con trong lòng mình, vì không muốn thấy người thân đau khổ mà người ta giết họ một cách êm dịu, vì không muốn đối đầu với thực tại khổ đau mà người ta tìm quên trong men rượu, ma túy và mọi thứ kích thích khác: hỏa ngục là như thế đó.
Chúa Giêsu đã đón nhận khổ đau, Ngài đã biến khổ đau thành hiến lễ tình yêu, do đó khổ đau đã trở thành nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy vác lấy thập giá mình mà đi theo Ngài. Mỗi ngày có nỗi khổ riêng của ngày đó, hạnh phúc hay không, bình an hay không, là tùy con người có biết đón nhận khổ đau với tình yêu hay không.
Giữa muôn nghìn khổ đau và thử thách của cuộc sống, xin Chúa cho chúng ta đón nhận tất cả với lòng tin yêu, phó thác và cảm tạ tình yêu Chúa.
Hôm qua, chúng ta đã đọc và Suy niệm đoạn Tin Mừng nơi chương 9 cũng của Phúc Âm theo thánh Luca, trong đó chúng ta ghi nhận lời Chúa loan báo lần đầu tiên về cuộc tử nạn của Ngài để đáp lại lời tuyên xưng của thánh tông đồ Phêrô: "Thầy là Ðấng Thiên Sai của Thiên Chúa". Hôm nay, chúng ta lại được Giáo Hội cho đọc đoạn ghi nhận lời loan báo của Chúa Giêsu lần thứ hai về cuộc khổ nạn của Ngài để cứu chuộc nhân loại. Ðọc lại lời loan báo này, chúng ta ghi nhận sự kiện là Chúa Giêsu sử dụng ngôn ngữ của sách tiên tri Ðaniel chương 7,13 và áp dụng cho mình cách nói Con Người đến mạc khải về chính mình như là Ðấng Thiên Sai, Ðấng có nguồn gốc từ trên cao được sai xuống trần gian, và để lưu ý và sửa lại những lệch lạc trong quan niệm về một Ðấng Thiên Sai vinh quang. Chúa Giêsu nhắc đến việc Con Người bị nộp vào tay người đời. Chúa Giêsu mạc khải một Ðấng Thiên Sai chịu đau khổ, một Ðấng Thiên Sai là người Tôi Tớ của Thiên Chúa chịu đau khổ như được nhắc đến trong sách tiên tri Isaia. Phúc Âm ghi lại phản ứng của các tông đồ lúc đó là các ngài không hiểu ý nghĩa Chúa muốn nói, tuy nhiên các ngài có trực giác trước một điều gì đó khủng khiếp sắp xảy ra cho Chúa và cả cho các ngài nữa, bởi vì trước đó, trong lần tiên báo về cuộc khổ nạn của mình tại Giêrusalem, Chúa Giêsu nhắc đến điều kiện cần phải vác thập giá để theo Chúa. Linh tính trước có điều quan trọng sắp xảy đến mà các ông không hiểu nên các ông lo sợ, lo sợ nhưng lại e ngại không dám hỏi Chúa Giêsu.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng có thể hành sự như các tông đồ ngày xưa, chúng ta không hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong đời sống chúng ta, không hiểu được mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời của Chúa cũng như trong cuộc đời của chính mình. Không hiểu, chúng ta ngại không dám tiến tới, không dám tiếp tục con đường theo Chúa, ngại ngùng trước việc tìm hiểu biết Chúa, ngại ngùng lên tiếng xin Chúa trợ giúp cho ta hiểu biết Ngài trong việc cầu nguyện và tiếp xúc với lời Chúa và đến với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy khiêm tốn và tin tưởng đến với Chúa và xin Ngài mạc khải cho chúng ta được hiểu về Ngài mỗi ngày một sâu rộng hơn.
Lạy Chúa,
Xin thương tha thứ cho chúng con về những lần mà chúng con nghi ngờ về Chúa và về những sự nguội lạnh làm biếng của chúng con trong việc tìm biết về mầu nhiệm Chúa. Xin thương ban cho chúng con một con tim mới. Xin mạc khải cho chúng con hiểu thêm về Chúa, về con đường thập giá cần phải đi qua để tiến đến sự sống muôn đời với Chúa.
“Phần anh em hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (Lc. 9, 44)
Các tông đồ rất giống chúng ta, chúng ta cũng rất giống các Ngài. Các Ngài sợ biết rõ những điều Đức Giêsu muốn giải thích. Khi Người loan báo nhiều lần về cái chết của Người sắp tới. Đó là lý do tại sao các ông im không dám hỏi thêm về tin báo cái chết. Các ông tự thâm tâm từ chối nghĩ đến cái chết của Đức Kitô. Các ông không muốn hiểu dù Thầy đã thử làm sáng tỏ rằng: “Không có tình yêu nào lớn hơn hiến mạng sống cho người mình yêu”.
Các ông tuyệt đối không muốn thấy gương mù thập giá. Người ta có nên trách các ông không? các ông không thể từ bỏ quan niệm Đấng Kitô cai trị trần thế, chiến thắng huy hoàng và phục hưng nước Is-ra-el vinh quang. Người đến ban cho dân tuyển chọn tất cả mọi vinh hoa sang trọng như thời Mô-sê, Đa-vít và Sa-lô-môn xưa, để Is-ra-el trở thành vương quốc nhất thế giới. Các ông đã nuôi những tham vọnh như thế ngay cả lúc Đấng Kitô bị nộp vào tay kẻ đóng đinh Người. Cho nên, làm sao các ông có thể nắm bắt được ý nghĩ hy sinh mà Đức Giêsu đã đề cập tới? dầu các ông yêu Người và theo Người.
Sự hy sinh này là tâm trạng đời sống của Đức Kitô. Nó sẽ tóm tắt toàn diện sứ vụ của Người, đây là lý do Người đã đến trong thế gian, đây là lý do Người phải chịu đau khổ nhiều, đây là lý do Người là Đấng Trung Hòa và là Đấng Cứu Thế. Còn lý do tại sao Người không chịu giải thích tối đa để chuẩn bị các môn đệ chấp nhận thập giá? có phải thập giá gây cho các ông tuyệt vọng ê chề không?
Chúng ta cũng như các tông đô, chúng ta sợ biết phải đi vào con đường đau khổ với Đức Kitô. Chúng ta đôi khi không thích hỏi những ý nghĩa ẩn chứa trong Tin Mừng của Người. Chúng ta giải thích lời Người theo kiểu của mình, hay làm cho lời Người nên ngọt ngào êm dịu, sợ tư tưởng đó quá rõ, quá khó theo. Là môn đệ Đức Kitô, phải vui lòng chấp nhận ơn kêu gọi đặc biệt này là: “Hãy vác thập giá mình mà theo Ta”.
Xem lại CN 25 TN B, thứ Ba tuần 7 TN và thứ Hai tuần 18 TN
Trong một thánh lễ nọ, có một cụ bà đến bàn ghi ý lễ và nói: “Xin ơn chết lành!”. Vị ghi ý lễ không chịu, vì đây là điều quái gở, nên tự ý ghi lại là: “Xin như ý”. Biết được, bà cụ không đồng ý và yêu cầu ghi đúng nguyên văn. Ôi thật là người tràn đầy đức tin!
Cũng có một câu chuyện khác kể về hai người nọ đang gặp đau khổ và đến xin một vị ẩn sĩ tìm cách giúp cho mình vượt qua thực trạng của cuộc sống mà họ đang phải đối đầu.
Sau khi nghe họ giãi bày tâm sự, vị ẩn sĩ trả lời: “Tốt hơn các anh hãy tìm đến một vị khác, tôi không có đủ tư cách để trả lời câu hỏi đó, bởi vì cả đời tôi có bao giờ nhận điều xấu từ bàn tay Chúa đâu!”. Nghe đến đây, hai người thanh niên chợt hiểu rằng khi con người vui vẻ đón nhận khổ đau, thì khổ đau không còn là vấn đề bi đát nữa.
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài sẽ phải chịu ngay khi dân chúng và chính các môn đệ đang trầm trồ khen ngợi vẻ huy hoàng, vinh quang qua quyền năng của Đức Giêsu nơi các việc Ngài đã làm cho dân. Khi tiên báo lúc này, Đức Giêsu muốn các môn đệ hãy đi theo con đường hy sinh, từ bỏ và đón nhận đau khổ vì tình yêu thì sẽ đạt được hạnh phúc đích thực.
Khổ đau không bao giờ buông tha chúng ta! Nếu chúng ta đối đầu với chúng trong sự tiêu cực thì chính khổ đau sẽ vùi dập cuộc đời và nó sẽ làm cho chúng ta thất vọng. Còn nếu chúng ta đón nhận nó trong lòng mến Chúa và sứ vụ thì sẽ bình an và đôi khi hạnh phúc hiện lên từ những gian nan khốn khổ. Bởi lẽ, theo niềm tin của người Công Giáo thì: “Qua đau khổ mới được vào vinh quang”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: con đường theo Chúa là con đường của đau khổ và hy sinh. Tuy nhiên, trung thành với Chúa trong lòng mến, chúng con sẽ được phục sinh vinh hiển mai ngày. Amen.
Sứ điệp: Con đường cứu thế là con đường từ bỏ mình, vác thánh giá lên núi sọ. Ai muốn đạt tới vinh quang muôn đời phải can đảm và tin tưởng bước theo Chúa Giêsu trên con đường cứu thế ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vui sướng ai cũng thích, và khổ đau ai cũng sợ. Thấy vui tìm đến, thấy khổ tháo lui. Con bây giờ cũng thế, mà các tông đồ thuở xưa cũng vậy, lúc Chúa biến hình vinh quang, khi Chúa làm phép lạ diệu kỳ…, các tông đồ phấn khởi tin theo Chúa. Ngược lại, lúc tiên báo cuộc khổ nạn, lòng các Ngài như bị che khuất, chẳng hiểu và cũng không muốn hiểu.
Lạy Chúa, Chúa đến không phải được hầu hạ nhưng là để hầu hạ mọi người. Làm vua theo tinh thần của Chúa không phải là nghênh ngang trên kiệu vàng, mà là chịu khổ đau với thần dân. Điều đó trái với sự chờ đợi của mọi người. Xin cho con được hiểu rằng: theo Chúa là sẵn lòng bước đi trên con đường hẹp đòi hỏi nhiều từ bỏ hy sinh, và đón nhận một thập giá trên vai mình.
Chúa có hứa ban kho tàng trên trời cho kẻ từ bỏ mình vì Chúa. Xin cho con đừng trông chờ sự giàu sang trần thế.
Chúa có hứa ban sức mạnh tâm hồn cho kẻ theo Chúa. Xin cho con đừng thất vọng khi yếu đau sầu khổ.
Chúa có hứa ban vinh quang bất diệt mai sau. Xin cho con đừng ngỡ ngàng khi bị sỉ nhục vì Danh Chúa.
Xin cho con thêm lòng tin cậy mến để con can đảm bước vào con đường hẹp và theo Chúa tới phục sinh vinh quang. Amen.
Ghi nhớ: “Con Người sẽ phải bị nộp. Các ông không đám hỏi Người về lời ấy”.
Một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về Đ ức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Tờ báo cho biết, khi Đức Giáo hoàng còn là sinh viên du học tại Rôma, một hôm đã cùng với các bạn đi thăm cha đáng kính Piô, vị linh mục được Chúa in năm dấu thánh.
Vừa gặp, cha Piô ôm chầm lấy ngài và nói rằng một ngày kia cha sẽ làm Giáo hoàng và sẽ chịu đau khổ, máu sẽ chảy. Wojtyla trả lời: “Điều ấy tôi không sợ vì tôi sẽ không bao giờ làm Giáo hoàng”.
Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu! Wojtyla đã làm Giáo hoàng và máu đã chảy trong cuộc mưu sát ngày 13/10/1981 tại công trường thánh Phêrô. Gioan Phaolô là vị Giáo hoàng thứ 264, từ ngày vị Giáo hoàng tiên khởi là thánh Phêrô được Chúa trao quyền tối thượng (Theo Lm. Hồng Phúc, Suy niệm lời Chúa, năm A, tr. 128).
Suy niệm
Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô”, một “Đấng Kitô vinh hiển”, Đấng đến giải thoát dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ của người Rôma và làm cho nước Do Thái được hùng cường. Các môn đệ vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Kitô đến thiết lập một vương quốc trần gian hùng cường. Cho nên, các ông vẫn tiếp tục mong chờ một: “biến cố vẻ vang” chứng tỏ quyền năng của Đấng Mêssia. Một vương quyền, quyền uy chiến thắng sắp đến với Đấng Kitô.
Thật thế, ông và các bạn vẫn chưa hiểu hết về một Đấng Kitô như Đức Giêsu loan báo “Đấng Kitô đau khổ” mà Chúa Giêsu nhấn mạnh về Đức Kitô khổ nạn và truyền cho các môn đệ phải luôn ghi tâm khắc cốt: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”.
Ngài chấp nhận chết để tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ, đó là hy sinh vô bờ bến để cứu chuộc nhân loại: “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Chính vì thế, Đấng Kitô sẽ hy sinh trên thập tự đã làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa và được cứu độ.
Xin cho chúng ta luôn tin vào Chúa để được cứu độ. Và hiểu rằng vì tội lỗi nhân loại, mà Chúa Kitô đã chịu khổ hình, bị đóng đinh...
Ý lực sống
“Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia” (Tv 90,1).
Nhận thấy mọi người, trong đó có các môn đệ, kinh ngạc trước việc chữa lành đứa trẻ bị kinh phong mà nguyên nhân bởi quỷ ám. Đức Giêsu, một đàng sợ dân chúng ngộ nhận Ngài là Đấng Cứu Thế theo kiểu trần thế; đàng khác, Ngài muốn nhờ cơ hội này, để giáo huấn các môn đệ ngõ hầu từng bước một họ sẽ hiểu chính xác về công việc cứu thế của Ngài, nên Ngài đã loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời”.
Các môn đệ đang say sưa và hãnh diện về lời rao giảng và quyền năng của Thầy mình, thì đột ngột Đức Giêsu loan báo về cuộc thương khó sẽ xảy đến cho Ngài làm các ông ngỡ ngàng và không thể hiểu được.
Tại sao Thầy uy quyền, làm được những phép lạ lớn lao như thế thì ai có thể bắt được?
Tại sao Thầy chí thánh làm những việc thiện và cứu người lại bị nộp?
Nếu Thầy bị bắt thì sứ mạng Đấng Cứu Thế ở đâu?
Bởi vì từ lúc chọn theo Đức Giêsu cho đến lúc trước Phục sinh, các môn đệ chỉ nhìn Đức Giêsu với cái nhìn của con người. Họ nghĩ Ngài mang sứ mạng chính trị, dùng quyền lực giải phóng Israel khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, lên ngôi vua Israel. Từ đó các môn đệ cũng được chia phần vương giả. Chính vì thế mà Đức Giêsu dần dần dạy các ông hiểu về con đường cứu độ của Ngài là giải phóng toàn nhân loại khỏi ách nô lệ của ma quỷ, khỏi tội lỗi và sự chết. Con đường cứu độ này chỉ được thực hiện bằng giá máu.
Trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo cuộc khổ nạn của Ngài, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài hãy đối đầu với đau khổ, nếu đau khổ là thành phần thiết yếu của cuộc sống. Vấn đề không phải là chối bỏ hiện thực của đau khổ hay tìm cách tránh né khổ đau, mà là đối đầu với nó. Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta cách thế đối đầu với đau khổ, đó là chấp nhận khổ đau với tình yêu. Đau khổ mà không có tình yêu thì chỉ là hỏa ngục mà thôi.
Đức Giêsu đã đón nhận khổ đau, Ngài đã biến khổ đau thành hiến lễ tình yêu, do đó khổ đau đã trở thành nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy vác lấy thập giá mình mà đi theo Ngài. Mỗi ngày có nỗi khổ riêng của ngày đó, hạnh phúc hay không, bình an hay không, là tuỳ con người có biết đón nhận đau khổ với tình yêu hay không.
“Tôi sẽ không cho phép ai đi qua tâm trí mình với đôi chân dơ bẩn của họ” (M. Gandhi)
Tâm trí con người có một khả năng tuyệt vời là chỉ đón nhận, thông hiểu những gì thích hợp với mình, và loại trừ điều họ không thích. Khả năng ấy của tâm trí giải thích lý do tại sao các môn đệ không hiểu điều Thầy mình tiên báo về cuộc khổ nạn. Tâm trí các ông đầy ắp tham vọng ham muốn quyền lực, mong mình sẽ là người lớn nhất trong nhóm. Còn chỗ đâu để hiểu con đường quên mình, phục vụ của Thầy các ông. Lòng trí các ông chỉ biết một hướng: hướng vinh quang của Thầy trong Vương quốc, thì làm gì còn chỗ để nhận ra“Con người sẽ bị nộp vào tay người đời”(Lc 9,44) (5 phút Lời Chúa).
Ngày hôm nay, chúng ta cũng có thể hành sự như các Tông đồ xưa, chúng ta không thể hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong đời sống của chúng ta, không hiểu được mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời của Chúa cũng như trong cuộc đời của chính mình. Không hiểu, chúng ta ngại không dám tiến tới, không dám tiếp tục con đường theo Chúa, ngại ngùng trước việc tìm hiểu biết Chúa, ngại ngùng lên tiếng xin Chúa trợ giúp cho ta hiểu biết Ngài trong việc cầu nguyện và tiếp xúc với Lời Chúa và đến với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy khiêm tốn và tin tưởng đến với Chúa và xin Ngài mạc khải cho chúng ta được hiểu về Ngài mỗi ngày một sâu rộng hơn (R.Veritas).
Truyện: Biến đau khổ thành niềm vui
Một phụ nữ được các bác sĩ cho biết là chị đang mắc cơn bệnh bất trị. Chị cảm thấy như có một ngọn lửa bừng lên trong lòng và muốn nói với Chúa rằng chị muốn bỏ Ngài. Thế là giữa đêm khuya, chị bỏ nhà thương, đi thẳng đến nhà nguyện để gặp Chúa, trước cung thánh chị thốt lên:
- Ôi, ông Chúa, ông đã phỉnh phờ lừa dối tôi. Đã hơn 2000 năm qua, ông tự nhận mình là tình yêu, nhưng mỗi lần có ai được hạnh phúc một chút, là ông lập tức lại cho họ trắng tay. Tôi muốn nói cho ông biết là tôi chán ông lắm rồi, giữa tôi và ông không còn mối liên hệ gì nữa.
Người phụ nữ chỉ nói được thế rồi ngã quỵ, không còn đủ sức đứng dậy nữa. Nhưng trong ánh sáng mờ ảo của cung thánh, chị bỗng nhận ra một hàng chữ thêu trong tấm thảm trước mắt chị: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.
Vừa nhìn thấy thế, cơn giận trong chị bỗng tan biến. Chị gục đầu vào đôi tay. Từ trong thinh lặng u tối của nhà nguyện, và từ trong sâu thẳm của cõi lòng, người phụ nữ ấy như nghe thấy có tiếng nói với chị như sau:
- Con biết không, tất cả chỉ là lời mời gọi để hướng đời con về với Ta. Con chưa bao giờ làm như thế. Các bác sĩ đã làm hết sức mình để chữa trị cho con, nhưng chỉ một mình Ta mới có thể cho con được sức mạnh.
Chúa Giêsu báo tin lần thứ hai Ngài sẽ chịu nạn chịu chết.
- Ngài báo tin này “đang lúc mọi người thán phục” về những phép lạ hiển hách Ngài đã làm.
- Dù đây đã là lần thứ hai Ngài nói về điều này, “nhưng các ông không hiểu”
- Dù không hiểu, nhưng “các ông không dám hỏi”.
B.... nẩy mầm.
1. Đang lúc các môn đệ phấn khởi về quyền phép Chúa Giêsu thể hiện qua những phép lạ Ngài làm, thì đùng một cái Ngài cho các ông biết là Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và giết chết. Phải chăng Chúa muốn làm các ông mất hứng? Không, Chúa muốn dẫn các ông trở lại đúng con đường Ngài và các ông phải đi.
Nhiều khi chúng ta đang phấn khởi vì những niềm vui và những thành công, thì đùng một cái, đau khổ và thất bại ập đến. Cũng không phải là Chúa làm chúng ta mất hứng, mà Ngài đang dẫn chúng ta trở lại đúng con đường của mình. “Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mà theo”.
2. “Nhưng các ông không hiểu”: chúng con cũng chẳng hiểu. Tại sao con phải đau khổ? Tại sao Chúa để Giáo Hội gặp nhiều khó khăn? Tại sao kẻ làm lành mà lại bị thiệt thòi? Tại sao thế này, tại sao thế nọ? Tuy nhiên chúng con nhớ là Chúa đã bảo phải như thế !
3. “các ông không dám hỏi”: chúng ta đừng làm như các môn đệ xưa. Khi không hiểu về Thập giá, chúng ta cứ hỏi Chúa. Ngài sẽ trả lời: “Vì Thầy yêu thương chúng con. Thầy muốn chúng con chia sẻ thân phận của Thầy”.
4. Xem chừng như tất cả các vấn đề của con người đều được gắn liền với khổ đau. Vì không muốn chấp nhận khổ đau mà con người gây ra bao tội ác: vì không muốn hy sinh mà một người mẹ đang tâm giết chết đứa con trong lòng mình; vì không muốn thấp người thân đau khổ mà người ta giết họ chết cách êm dịu, vì không muốn đối đầu với thực tại khổ đau mà người ta tìm quên trong men rượu, ma túy và mọi thứ kích thích khác: hoả ngục là như thế đó… Đau khổ mà không chấp nhận, không có tình yêu thì chỉ là hoả ngục mà thôi ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Chúa Giêsu nói với các môn đệ: ‘Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời’. Nhưng các ông không hiểu lời đó” (Lc 9,44-45)
Từ khi vợ mất, ông lão dọn đến đây ở với đứa con gái duy nhất, những mong tìm được nguồn an ủi trong những tháng ngày còn lại. Nhưng hình như ông đã già lắm rồi thì phải. Ít ra, thái độ của cô con gái khiến ông cảm thấy như thế.
… Đã thành lệ, mỗi buổi sáng sau khi nhận được ít tiền từ con gái, ông lại lủi thủi một mình. Con gái ông còn bận “ngoại giao” bên hàng xóm hoặc vòng vòng ngắm nghía phố thị. Phần buồn nhớ vợ, phần cô đơn, ông đâm ra nghĩ quẩn… Vài ngày sau khi ông bỏ đi, người con gái nhận được giấy báo lên nhận xác ông, nghe đâu được một người dân chài vớt lên…
Đã bao lần tôi là thế, vô tư với nỗi niềm của người bạn bên cạnh tôi, những Giêsu của ngày hôm nay. Họ cũng đang cần sự cảm thông của tôi như Giêsu ngày xưa tìm kiếm sự đồng cảm nơi các môn đệ.
Lạy Chúa, xin cho con một trái tim đừng chỉ đập những nhịp đập cho riêng mình, nhưng còn biết rung lên những khúc ca vui với niềm vui của người khác, và cũng biết đớn đau trước nỗi đau của bao người quanh con. (Hosanna).
Chúa Giêsu báo tin lần thứ hai về cái chết của Ngài.
Đang lúc các môn đệ phấn khởi về quyền phép Chúa Giêsu thể hiện qua những phép lạ Ngài làm, thì đùng một cái Ngài cho các ông biết là Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết. Phải chăng, Chúa làm thế là muốn làm các ông mất hứng? Không, Chúa không muốn làm cho các ông mất hứng mà chỉ muốn dẫn các ông trở lại đúng con đường mà Ngài đang đi, đồng thời Ngài cũng muốn cho cả các ông cùng đi trên con đường đó với Ngài.
Trong vườn Giêthsêmani, có lúc Chúa cũng cảm thấy choáng váng khi thấy đau khổ gần kề, nhưng ngay sau khi biết được đó là thánh ý của Chúa Cha thì Ngài đã can đảm chấp nhận.
Chúa đón nhận khổ đau không phải vì khổ đau tự nó là điều đáng ước mong, nhưng Ngài đón nhận khổ đau vì lòng yêu mến Thiên Chúa Cha và Ngài đã biến khổ đau thành phương tiện cứu rỗi.
Người ta kể rằng, Indira đến gặp vị đạo sĩ Makia và thưa:
- Xin ngài hãy chỉ cho tôi một vị Thần để tôi tôn thờ và một tôn giáo để tôi sống theo.
Đạo sĩ liền đưa Indira đến một tòa nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành cho một căn phòng rộng. Vị đầu tiên là thần Bada được đạo sĩ Makia giới thiệu như sau:
- Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi đau khổ khỏi thế giới con người.
Nhưng Indira lắc đầu xin được sang căn phòng khác.
Đến vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu:
- Đây là vị thần có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ.
Nhưng Indira khẽ ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác.
Cuối cùng, hai người đến trước một người đang bị treo trên Thập Giá, Indira tò mò hỏi:
- Vị thần này là ai mà bị treo trên Thập Tự như thế này?
Đạo sĩ chậm rãi trả lời:
- Đây là Chúa Giêsu Kitô của những người Công Giáo.
Với một chút xúc động lộ ra trên nét mặt, Indira xin đạo sĩ giải thích thêm về những gì cần phải làm để được trở thánh đồ đệ của vị bị treo trên Thập Giá. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi lại:
- Này anh, anh làm tôi thắc mắc. Hai vị thần đã gặp lúc đầu, một đề nghị cất bớt sự đau khổ, một đề nghị tránh khỏi đau khổ, anh không thích người nào cả, thế nhưng tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của vị chịu treo nhục nhã trên Thập Giá này?
Đến phiên Indira giải thích cho vị đạo sĩ Makia:
- Hứa làm bớt sự đau khổ trên trần gian này là lời nói suông. Người ta không thể nào cất đi mọi đau khổ trên trần gian này. Dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống khiếp nhược. Tránh né được đau khổ này thì đau khổ khác sẽ đến. Nhìn vào vị Chúa của người Kitô, dám chấp nhận sự đau khổ như vậy, con người sẽ được mời gọi để hiểu ý nghĩa của sự đau khổ và chấp nhận nó, và một khi hiểu và chấp nhận mầu nhiệm đau khổ thì niềm vui và an bình có thể trổ sinh cả trên thế giới không mấy tốt đẹp này. Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy bị thu hút bởi Đấng bị treo trên thập tự kia và muốn làm đồ đệ của Ngài.”
Linh mục Bauer có kể lại chứng từ sau đây: Một phụ nữ được các bác sĩ cho biết là chị đang mắc cơn bệnh bất trị. Chị cảm thấy như có một ngọn lửa bùng lên trong lòng và muốn nói với Chúa rằng: chị muốn bỏ Ngài. Thế là, giữa đêm khuya, chị bỏ nhà thương, đi thẳng đến nhà nguyện để gặp Chúa. Trước cung thánh chị thốt lên:
- Ôi, ông Chúa, ông đã phĩnh phờ lừa dối tôi. Đã hai ngàn năm qua, ông tự nhận mình là tình yêu, nhưng mỗi lần có ai được hạnh phúc một chút, là ông lập tức cho họ trắng tay. Tôi muốn nói cho ông biết là tôi chán ông rồi, giữa tôi và ông không còn gì nữa.
Người phụ nữ chỉ nói được có thế rồi ngã quỵ, không còn đủ sức đứng dậy nữa. Nhưng trong ánh sáng mờ ảo của cung thánh, chị bỗng nhận ra một hàng chữ thêu trong tấm thảm trước mắt chị: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.
Vừa nhìn thấy thế, cơn giận trong chị bỗng tan biến. Chị gục đầu vào đôi tay. Từ trong thinh lặng u tối của nhà nguyện, cũng như trong sâu thẳm của cõi lòng, người phụ nữ ấy như nghe thấy có tiếng nói với chị như sau:
- Con biết không, tất cả chỉ là lời mời gọi để hướng đời con về Ta. Con chưa bao giờ làm như thế. Các bác sĩ đã làm hết sức mình để chữa trị cho con, nhưng chỉ một mình Ta mới có thể cho con được sức mạnh.
Giữa bóng tối, một tia sáng tin yêu đã lóe lên trong lòng người phụ nữ. Chị chấp nhận tất cả. Chị đã đầu hàng Chúa vô điều kiện và chị đã dâng cuộc sống còn lại cho Ngài. Chị gắng gượng trở về phòng và chưa bao giờ chị tìm được sự thanh thản trong tâm hồn như thế.