Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 3-A Bài 1-50: Chúa Giêsu - Nguồn Nước Hằng Sống ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 4, 5-42 (bài dài): "Mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
Ai cũng cần nước. Sau không khí, nước là yếu tố quan trọng của đời sống. Có nước mới có rau cỏ, mới có sự sống. Ai cũng biết thế, nhưng ít ai lại biết quí nước. Sở dĩ chúng ta không quí nước là vì nước quá nhiều. Sử dụng ở đâu và lúc nào cũng có.
Chỉ khi nào hạn hán mọi sông và giếng đều cạn, mọi suối đều khô, lúc ấy chúng ta mới biết đến giá trị của một giọt nước. Chúng ta thường quí những gì ít ỏi, hiếm hoi và có khuynh hướng phung phí và coi thường cái có nhiều.
Đối với Ả Rập hay Tây tạng, đối với khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là một giọt máu trong thân thể. Trái lại, với chúng ta ở đồng ruộng hay ven sông, có phung phí nước cũng không hết. Có nhiều khi còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt. Chúng ta là những người giàu có nước uống, nước giếng, nước sông, nước hồ, nước ao, nước mưa, nước trái cây và mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít nước để ăn uống, tắm giặt, tha hồ thoải mái.
Nhưng có bao giờ chúng ta uống nước nhớ nguồn. Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao tôi lại được dư giật nước như thế. Tại sao nước chúng ta dùng lại là nước ngọt, trong khi ở biển nước lại mặn đắng.
Kinh Thánh trả lời nước là tác phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Ngay từ buổi khai thiên lập địa, Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước. Thiên Chúa đã cho mưa thuận gió hòa, đã dùng nước để tiêu diệt cả một thế hệ vô luân ngoại trừ Noe là người công chính. Nước ở biển đỏ đã cứu thoát dân Do Thái và vùi dập đoàn quân của Pharaon. Qua những sự kiện ấy, chúng ta thấy được giá trị của nước.
Trước hết, nước tạo nên sự tươi mát. Bất cứ nơi đâu, dù là sa mạc mà có nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của cây cối. Đứng trước một dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình được tươi mới. Những ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm nước sông hay gặp nước mưa thì quả thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho đến lòng người,tất cả đều được đổi mới. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến dòng nước Rửa tội đã gây nên trong chúng ta những đổi mới cho đời sống thiêng liêng.
Tiếp đến nước tinh luyện và tẩy sạch. Còn gì sạch bằng nước, người Do Thái xưa kia đã hiểu như vậy, cho nên họ đặt ra những luật lệ trong việc sử dụng nước: phải rửa tay trước khi ăn uống, phải tắm gội trước khi dâng của lễ, phải rửa chân khi đi đường xa mà trở về nhà.
Nước còn được dùng để trừ bệnh phong cùi, tẩy sạch mọi ô uế tình dục. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý nghĩa thanh tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội để xóa bỏ mọi dấu vết của tội lỗi.
Nếu như nước thường do bàn tay Chúa dựng nên còn có ích cho việc dinh dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một thứ nước trường sinh như chính Ngài đã quả quyết với ông Nicôđêmô và người thiếu phụ Samaria:
Nước hằng sống của Chúa là nước cứu độ, ai uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ ước một thứ gì trên trần gian này nữa. Nước hằng sống này xuất phát từ trái tim ngập tràn yêu thương của Ngài, đã hoán cải được biết bao nhiêu người, không lẽ lại chẳng níu kéo được chúng ta ra khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nước sông Babylon đã chứng kiến nỗi lòng thống hối của một dân tộc lưu vong. Nước sông Giocđan đã góp phần chữa lành Naaman, đã được diễm phúc đón nhận Đấng Cứu Thế. Dòng nước hằng sống vọt ra từ cạnh sườn Chúa đã tha tội cho tên trộm lành, cho dân Do Thái cũng như cho toàn thể nhân loại.
Điều quan trọng là chúng ta có đến để kín múc hay không. Cho dù chúng ta có đang sống bên bờ con kênh nhỏ thì đừng bao giờ quên dòng nước hằng sống, đó là một dòng nước ít người biết đến nhưng lại không bao giờ cạn và nhiễm độc.
Điều cần thiết đó là: Hãy hiệp thông với dòng sông ấy để lãnh nhận những ân sủng của Chúa, nếu chúng ta không muốn là những kẻ bị chết khát.
Qua việc xin người khác cho đi sự gì đó, đôi khi chúng ta làm họ giác ngộ và trưởng thành. Họ có dịp để bước vào thế giới biết chia sẻ tình thương. Tagore đã viết một dụ ngôn rất có ý nghĩa.
Ngày nọ có một người ăn xin đi khắp làng, nhưng anh chẳng xin được gì vì nhà nào cũng đóng cửa. Anh bèn tìm cách đi ra khỏi ngôi làng vào giữa lúc ban trưa nắng đổ. Mồ hôi nhễ nhãi, mệt mỏi vì đói, chán nản vì bị từ chối, anh ngồi xuống bên vệ đường. Bên cạnh anh là một cái túi chứa một nắm hạt bắp. Anh dự định chiều tối về nhà sẽ đem ra xay thành bột, làm một cái bánh ăn cứu đói.
Thình lình mắt anh sáng lên khi nhìn thấy chiếc xe của vua từ đằng xa đang tiến lại gần. “Nhà vua nổi tiếng là một người tử tế”, anh tự nghĩ. “Ngài sẽ không lỡ đi qua mà chẳng cho mình cái gì”. Rồi anh chuẩn bị đứng lên, chờ đợi hồi hộp. Anh thật khoái chí khi thấy chiếc xe của vua từ từ chậm lại. Quả vậy, nó đã ngừng lại ngay chỗ anh đứng với đôi bàn tay giang rộng chờ đợi xin xỏ.
Cửa xe mở ra và nhà vua xuất hiện. Người ăn xin cúi gập người xuống dự tính nói: “May phước thay, thưa hoàng đế. Xin ngài bố thí cho tôi tớ hèn mọn này một ít tiền”. Nhưng nhà vua đã chìa tay ra trước và nói: “Xin bạn dành cho vua một hạt bắp nhỏ được không ?” Người ăn xin hoàn toàn ngỡ ngàng trước biến cố lạ lùng này. Lấy lại bình tĩnh, anh nói: “ Thưa hoàng đế, xin vâng lệnh”. Rồi mở chiếc bị ra, liếc nhanh vào trong, anh nhặt lấy một hạt bắp nhỏ nhất, và đưa cho vua với lời xin lỗi rằng đây là tất cả lương thực anh có. Nhà vua cám ơn anh, bước lên xe đi khỏi, để lại cho người ăn xin một cảm giác trống rỗng và thất vọng ê chề.
Suốt ngày ngồi ăn xin bên bên vệ đường mà chẳng được gì, khi hoàng hôn xuống anh trở về nhà buồn bã, mệt mỏi và đói bụng. Ngay khi về đến nhà anh bắt đầu làm bếp, đổ hết số hạt bắp trong bị ra. Khi kiểm tra lại những hạt bắp, anh giật mình khám phá thấy rằng hạt bắp nhỏ nhất đã được thay thế bằng một hạt vàng ròng cùng cỡ. Trong nuối tiếc, anh ngồi than thở rằng nếu biết được món quà nhà vua muốn cho, anh đã cho vua tất cả số bắp đang có trong bị. Nếu làm như thế, bây giờ anh đã trở thành một người giàu có và không bao giờ phải đi ăn xin nữa!
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng áp dụng phương pháp giáo dục này khi Ngài hỏi người đàn bà Samaria: “Xin bà cho tôi nước uống”. Ngài thường khởi sự làm phép lạ bằng việc xin một điều gì trước. Ngài đã xin những người đầy tớ đổ đầy những chum nước trước khi biến thành rượu ở tiệc cưới Cana. Ngài đã xin năm chiếc bánh và hai con cá từ em bé trai để hóa bánh ra nhiều.
Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã biểu lộ cho người đàn bà Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại. “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta”. Thánh Gioan đã dùng câu chuyện người đàn bà Samaria bên giếng nước để làm nổi bật lên chủ đề của Tin Mừng thứ Tư được tóm tắt trong lời mở đầu như sau: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”.
Lòng thương xót của Thiên Chúa vượt ra khỏi mọi giới hạn về quốc gia, văn hóa, sắc tộc, và phái tính. Sự cứu rỗi được ban cho tất cả nhân loại.
Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy nơi Chúa Giêsu, con người gặp gỡ được tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa với những diễn biến nội tâm:
1. Một sự thay đổi:
Cũng giống như các cuộc đàm thoại với ông Nicôđêmô, Marta và Maria, người đàn bà ngoại tình, tất cả đều kết thúc bằng một sự thay đổi. Qua lời Chúa mà tất cả các nhân vật đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Người đàn bà Samaria đã có sự thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu bà gọi Chúa Giêsu là ông (You), ngôi thứ hai, kế đó là Thưa Ngài (Sir), rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai. Dịch từ tiếng Hy lạp “Kyrios”, “Đấng Cứu Thế”, là Đấng mà theo thánh Phaolô diễn tả trong thơ gửi tín hữu Philipphê: “Mọi gối phải bái quì, cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ”.
2. Một sự hiểu biết:
Cuộc đối thoại đã thay đổi từ sự ngộ nhận tới thái độ thông cảm hiểu biết. Chúa Giêsu nói về Ngài như là nước hằng sống. Lúc đầu, người đàn bà hiểu nước hằng sống như là dòng nước luân lưu trôi chảy, khác với nước ao tù ứ đọng. Đối với người Do Thái, nước là một biểu tượng có ý nghĩa. Họ thường đề cập đến sự khao khát của đời sống tinh thần đối với nguồn nước hằng sống và sự khao khát của linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, suối nước biểu tượng cho chính Thiên Chúa hay cho sự khôn ngoan qua việc tuân giữ lề luật. Đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Theo Gioan thì đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng được Xức dầu của Thiên Chúa. Nước biểu tượng cho thần khí, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Ta, thì từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”.
3. Một lòng khao khát:
Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu đã vượt qua những hàng rào đố kỵ, ngộ nhận để đi thẳng vào lòng khao khát của con người. Theo William Barclay, thái độ của người đàn bà lúc đầu không những là hiểu lầm mà còn có vẻ mỉa mai, châm biếm Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Nhưng trong thái độ mỉa mai này đã biểu lộ một sự thật trong trái tim của con người. Đó là khát vọng tìm kiếm một điều gì mà chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Thánh Augustinô đã nói lên sự thật này: “Trái tim của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho đến khi được nghỉ yên trong Người”.
4. Một chứng nhân:
Cuộc đối thoại bị ngưng vì các môn đệ trở lại, và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước ở giếng, trở về làng. Bà trở về làng mà không mang vò nước theo chứng tỏ rằng bà rất vội vã, muốn chia sẻ Tin Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho những người khác. Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu rồi liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng. Bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo rằng đã gặp thấy Chúa.
Sứ mạng của người Kitô hữu cũng trải qua hai giai đoạn: trước hết gặp gỡ Đức Kitô một cách cá nhân, như là một chứng nhân ; sau đó trở nên nhà truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Sự khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã làm cho người đàn bà vui mừng đến nỗi không còn cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình nữa. Bà chạy đi loan báo công khai cho mọi người biết về một con người đã biết tất cả cuộc đời của bà. Bà chỉ nói về điều xảy ra cho bà, và mời mọi người hãy đến và xem.
Vai trò của người đàn bà Samaria là đưa mọi người đến với Chúa Giêsu như Công đồng Vatican II đã viết: “Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện bắt nguồn từ mạch sống phong phú đích thật Kitô giáo. Đó là căn bản và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân.
Dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô, nguồn nước hằng sống cũng là vai trò của Giáo Hội, của các người Kitô hữu như thánh Gioan đã nói: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế”.
Bài Tin Mừng thuật lại một trong những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở Samaria và cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.
Người phụ nữ này đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị ta không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.
Nhưng lại ở mức độ cụ thể của đời thường, người phụ nữ Samaria không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm một bước nữa, Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra một khuôn mặt mới: không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia mọi người đang mong đợi.
Thế là giếng đó, vò đó, người phụ nữ không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng sống vừa khám phá. Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở thành có khả năng nói về Chúa: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?” Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa Giêsu, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samaria trong thành, và những người này, sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samaria là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể tìm gặp được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương chúng ta, ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta đang muốn gặp gỡ Chúa ư ? Hãy nhớ lời Chúa nói: “Này Ta đang đứng ngoài cửa và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy”. Như vậy có nghĩa là cuộc gặp gỡ hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tấm lòng chúng ta nhiều lần rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc trong tấm lòng chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên chúng ta đã không nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì cần phải có những quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ cửa, chúng ta sẵn sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tấm lòng chúng ta ngay trong lúc này, chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn sàng mở cửa để Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa Chay.
Người phụ nữ Samaria gặp Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư của chúng ta, chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, sống hạnh phúc và có ý nghĩa.
Trong một câu chuyện ngụ ngôn "Những Sinh Vật của Thói Quen", kể rằng có hai vợ chồng bác nông dân kia cảm thấy cần phải sửa chữa cái chuồng gia súc cũ. Nóc chuồng thì dột, một vài tấm ván ghép tường bị mục, còn sàn chuồng bằng đất lại lồi lõm nên bị đọng nước mỗi khi trời mưa. Thế rồi chuồng mới được xây lên và chuồng cũ bị phá hủy trước khi mùa đông đến.
Sáng hôm sau, trước khi đi phố mua thêm đồ dùng, bác cho gia súc ra đồng cỏ và để cửa chuồng mở phòng hờ nhỡ khi thời tiết đổi xấu. Mà thật, thời tiết trở nên xấu thậm tệ. Nhiệt độ xuống thấp dần, mưa bắt đầu rơi và nước mưa chuyển thành băng. Bác nông dân cảm thấy rất vui khi nghĩ mấy con vật giờ đang được ấm áp trong căn chuồng mới. Khi bác về tới nhà liền đi thẳng ra chuồng thú vật, nhưng căn chuồng trống rỗng chẳng có con vật nào cả. Bác vội chạy ra ngoài tìm kiếm và thấy một cảnh thật lạ lùng. Đó là mấy con vật trông thật tội nghiệp, chúng nép vào với nhau và trên lưng chúng thì phủ đầy băng tuyết; đồng thời chúng lại đứng trên cái nền chuồng cũ, cảnh ấy thật là Những Sinh Vật của Thói Quen.
--------------------
Chúng ta thờ Chúa không phải chỉ làm những việc theo thói quen như đi nhà thờ hay đọc kinh, nhưng phải thờ Chúa trong cả đời sống chúng ta.
Vào thời Chúa Giêsu thì người Samaritanô là những người xưa ly khai và tách mình khỏi dân tộc Do thái. Không như người Do thái thờ Thiên Chúa tại đền thờ trên núi Sion ở Giêrusalem, người Samaritanô đã thờ Chúa Trời tại đền thờ trên núi Garizim. Bởi đó phụ nữ kia đã nói với Chúa Giêsu: "Tôi thấy Ngài là một tiên tri, vậy xin Ngài hãy nói với tôi biết, tại sao cha ông chúng tôi thờ Chúa Trời trên núi này, trong khi những người Do thái các ông lại nói: phải thờ tại Giêrusalem?"
Chúa Giêsu trả lời: "Hãy tin Ta, vì khi giờ đến thì người ta không còn thờ phượng Chúa Cha trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng khi giờ đến, mà thật sự nó đã đến rồi, thì những người thật sự thờ Thiên Chúa sẽ tin thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý; đó chính là điều Chúa Cha muốn" (Jn 4:20, 21, 23).
"Thờ Chúa Cha trong tinh thần và sự thật". Qua những lời đó Chúa Giêsu đã hướng quan niệm về việc thờ phượng Thiên Chúa từ nơi chốn, sang tính cách. Tức là việc tôn thờ Thiên Chúa hệ tại không phải là "ở đâu" nhưng là "thế nào". Người ta sẽ không còn cho rằng: Thiên Chúa chỉ ẩn mình trong những bức tường của đền thờ thế gian, hay Ngài chỉ quanh quẩn đâu đấy như trên đỉnh núi chẳng hạn. Thật sự, người ta sẽ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý. Và Nhà của Chúa được tìm thấy trong tâm hồn con người. Người ta không dựa vào thói quen, nhưng mặc lấy tinh thần của Chúa.
Thánh Phaolô đã nhắc nhớ chúng ta: phải tẩy sạch một số thói quen. Ngài nói: "Anh em hãy vất bỏ tất cả những gì thuộc về thế gian: gian dâm ô uế, đam mê sai trái, dục vọng xấu xa, tham lam ăn uống, giận dữ, nóng nảy, thù hận, chửi thề và ngôn từ lăng loàn... anh em hãy dứt khoát với mọi thói quen ấy" (Col 3:5-7). Kể cũng lạ, vì có rất nhiều trong chúng ta đi nhà thờ, đọc Thánh Kinh, bàn về đạo lý, nhưng vẫn cứ để cho những tính xấu ấy làm chủ đời mình.
Hơn nữa, Thánh Phaolô nói rằng: chúng ta cần phải thay đổi những tập quán xấu bằng những tập quán tốt. Ngài nói: " Hỡi những người được Chúa tuyển chọn, hãy mặc lấy lòng quan tâm trắc ẩn, tốt lành, khiêm nhường, quảng đại, nhẫn nại, chia sẻ nỗi buồn, tha thứ mọi lỗi lầm anh em xúc phạm tới ngươi, và trên hết hãy mặc lấy tình yêu" (Col 3:12-14).
Xin cho chúng con thật sự thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, trong cả cuộc sống chúng con.
Có lẽ chúng ta không còn cần câu chuyện nào khác để dẫn chứng cho chúng ta đối với đoạn Phúc Âm hôm nay. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria được mô tả một cách thật là hay, với nhiều chi tiết gợi ý và có thể thu hút sức chú ý của chúng ta. Tác giả Phúc Âm không nhắc đến tên của người đàn bà này, mà chúng ta có thể giả thuyết là Chúa và các tông đồ, dĩ nhiên trong số các tông đồ có cả tác giả Phúc Âm tức thánh Gioan, biết tên người đàn bà này, vì Chúa đã lưu lại nơi cộng đồng trong vùng hai ngày sau đó để giảng dạy. Người đàn bà không được nhắc đến tên, có lẽ vì hai lý do sau đây:
Trước hết là sự tế nhị không muốn nêu danh tánh của một người đàn bà đã có năm đời chồng và hiện đang sống với người không phải là chồng của mình.
Lý do thứ hai quan trọng hơn, là vì tác giả Phúc Âm thánh Gioan muốn trình bày nơi đây không phải lịch sử cuộc đời của một người đàn bà tội lỗi, nhưng trình bày cho chúng ta có thể nói là con đường đức tin của mỗi người chúng ta.
Nói cách khác, chúng ta không cần biết danh tánh người đàn bà đó là ai. Vì có thể nói, người đàn bà đó là mỗi người chúng ta đây trước mặt Thiên Chúa. Con đường đức tin của chúng ta, chúng ta hãy quan sát xem người đàn bà này đã gặp Chúa Giêsu như thế nào. Hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã gặp bà và hướng dẫn bà từ một thái độ đối nghịch sang thái độ kính trọng, cuối cùng tin nhận và làm chứng cho Chúa như thế nào.
Trước hết, dung mạo tinh thần của người đàn bà đó là ai? Mặc dù chúng ta không biết tên và không cần biết tên, đây là người xứ Samaria, con cháu của những người Do Thái mang dòng máu Adam. Chúng ta biết vào năm 700 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái bị bắt đi lưu đày sang Babilon và vùng đất Samari này được người khác đến cư ngụ. Năm 500 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái được trở về lập quốc và vùng đất Samari này là vùng đất mà những người Do Thái sống với những người ngoại quốc, họ lập gia đình với nhau, cưới hỏi nhau. Từ đó những người Samari này có thể nói là những người Do Thái mang dòng máu lai người ngoại quốc, không còn là Do Thái chính tông trong sạch như những người Do Thái ở vùng Giuđêa, quanh thành Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem.
Đây là những người bị người Do Thái coi như là kẻ thù theo cả hai nghĩa, kẻ thù của dân tộc Do Thái đã kết thân lập gia đình với những người ngoại quốc, và cũng là kẻ thù coi thường Luật Chúa, Luật Môsê, không xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của Thiên Chúa nữa. Hơn thế nữa, người đàn bà đã có năm đời chồng và đang sống với một người không phải là chồng của mình. Một người tội lỗi công khai, bị kẻ khác xét xử như là kẻ ngoan cố trong tội lỗi, vui lòng với tội lỗi của mình, mà theo quan điểm con người của chúng ta thì có lẽ đây là trường hợp hết thuốc chữa.
Người đàn bà Samari mà Chúa Giêsu gặp không còn xứng đáng với ơn cứu rỗi của Chúa, đó là nhìn theo quan điểm con người chúng ta, nhưng không hẳn như vậy, vì trong thâm tâm của bà vẫn còn có một thắc mắc, một khát khao vượt ra khỏi tình trạng hiện tại của mình. Chúng ta có thể ghi nhận bà còn một chút hiểu biết giáo lý, còn đang mong chờ Đấng Thiên Sai đến để ban ơn cứu rỗi. Do đó bà đã hỏi Chúa Giêsu: "Chúng tôi phải thờ Thiên Chúa ở đâu? Tại Giêrusalem hay trên núi này? Tôi biết rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến để dạy cho chúng tôi mọi sự". Đó là khao khát từ trong thâm tâm của bà hướng về Đấng Cứu Rỗi, và hơn nữa nơi con người bà còn có một điều tốt là can đảm nói sự về cuộc đời mình ra trước mặt Chúa. Bà đã dám nhìn nhận tôi không có chồng, bà ý thức về tội lỗi của mình, và có chút khao khát hướng về sự giải thoát, về ơn cứu rỗi.
Chúa Giêsu đã hành động như thế nào đối với bà? Chúa đến với bà trước hết trong dung mạo của người Do Thái, tức là kẻ thù của người Samari. Chúa vượt qua hai định kiến xấu đối với bà, người Samari và người đàn bà. Người vùng Samari như đã nói là những người Do Thái mang dòng máu lai ngoại quốc, không còn trung thành, không còn là Do Thái chính cống trong sạch với Luật Môsê nữa.
Một vị thầy của người Do Thái không bao giờ nói chuyện với người đàn bà nơi công cộng, nhưng Chúa Giêsu vượt qua hai định kiến xấu này và khơi dậy thiện cảm của người đàn bà khi mở miệng xin nước uống: "Xin bà cho tôi nước uống". Chúa tạo dịp cho người đàn bà làm một việc thiện, làm một điều tốt cho một người mà mình không thích để từ đó nâng dậy người đàn bà sa ngã.
Hành động và lời nói của Chúa Giêsu đã phá tan thành kiến nơi người đàn bà: "Sao ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samari?" Hành động và những lời nói của Chúa làm cho người đàn bà có một thái độ kính trọng hơn, bà đã đổi cách xưng hô từ việc ngay từ đầu gọi Chúa là ông một cách xa lạ, thì giờ đây biến thành: "Thưa Ngài, xin hãy cho tôi nước uống". Một lời thưa nói lên thái độ kính trọng, bà đã sẵn sàng lắng nghe Chúa nói với bà.
Chúa dùng hình ảnh nước uống để mạc khải về mầu nhiệm ân sủng Thần Linh từ Thiên Chúa muốn ban cho con người. Chúa không có thái độ khinh thị, Chúa sử dụng ngôn ngữ người đàn bà dễ hiểu và cuối cùng dẫn bà đến thực tại sâu xa nhất trong tâm hồn của bà. Đó là Chúa cho bà biết là bà đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải nước uống vật chất, không phải tình thương nhục dục, nhưng khao khát ơn cứu rỗi, khao khát gặp được Đấng Thiên Sai, trong lúc đó Chúa Giêsu đã mạc khải rõ ràng hơn cho bà Đấng Thiên Sai đó chính là Thiên Chúa, là người đang nói với bà đây. Con đường đức tin của bà đã bắt đầu, bà đón nhận và trở thành người chứng đầu tiên cho Chúa, bà chạy về làng kêu mời những người khác đến gặp Chúa Giêsu. Tin và làm chứng cho Chúa luôn đi đôi với nhau.
Tác giả Phúc Âm thánh Gioan không kể thêm chi tiết khác nữa, vì đó có thể là những chi tiết để thỏa mãn tính tò mò của mỗi người chúng ta hôm nay khi đọc đoạn Phúc Âm này, nhưng ngài muốn nói đầy đủ trong đoạn Phúc Âm này những chi tiết khác thuộc phạm vi riêng tư giữa Chúa và người đàn bà, giữa Chúa và mỗi người chúng ta, giữa Chúa và mỗi người mà chúng ta không cần biết đến.
Những gì đã được kể ra trong đoạn Phúc Âm hôm nay là để giúp cho mỗi người chúng ta nhìn lại con đường đức tin của mình: tôi đã gặp được Chúa như thế nào? Tôi đã gặp Chúa hay chưa? Để mỗi người chúng ta biết trở về nhìn nhận giây phút ân sủng mà Chúa đến thăm mỗi người, Chúa thực hiện một dấu lạ, một điều gì đó kể cả Chúa dùng tội lỗi của chúng ta như Chúa dùng trường hợp tội lỗi của người đàn bà để mạc khải một thực tại cao siêu hơn, để kêu gọi người đàn bà trở về, bà đã có năm đời chồng, bà nói đúng sự thật về người mà bà đang sống, bà biết người đang sống với bà không phải là chồng của mình. Chúa có thể dùng những tật xấu, những tội lỗi của chúng ta để thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta trở về với Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được thức tỉnh để nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình, nhất là nhìn nhận nơi chính thâm tâm của mỗi người chúng ta có một khao khát hướng về Chúa, có một khao khát được ơn Chúa cứu rỗi. Xin Chúa đến và củng cố đức tin của chúng ta.
Sau nửa ngày hành trình từ Giuđê về Galilê, Đức Giêsu nghỉ mệt bên một giếng nước ở vùng Samari. Ngài vừa đói vừa khát, giữa cái nắng ban trưa. Các môn đệ vào thành mua thức ăn. Còn lại một mình Đức Giêsu ngồi bên bờ giếng. Chính nơi đây đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Ngài và người phụ nữ Samari vốn bị coi là ô nhơ.
Đức Giêsu bắt đầu gieo hạt để chuẩn bị cho mùa gặt mai sau của các môn đệ.
"Cho tôi chút nước uống."
Đức Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Ngài chẳng sợ thú nhận sự thiếu thốn của mình.
Xin nước uống là làm một cuộc cách mạng, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samari và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ bốn thế kỷ.
Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Đức Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samari.
Đức Giêsu đã cúi mình phá bỏ những hàng rào để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.
"Cho tôi chút nước uống."
Ngài là người xin nước trước khi là người cho...
Chúng ta cũng có nhiều điều phải xin nơi chính những người cần chúng ta giúp đỡ.
Đức Giêsu cho thấy Ngài có một thứ nước lạ lùng, uống vào không còn khát nữa. Người phụ nữ vội vã xin Ngài thứ nước kỳ diệu đó. Chị đâu ngờ chính mình đã bắt đầu được nếm rồi.
Nước đó chính là Lời của Đức Giêsu, Lời vén mở dần dần con người thâm sâu của Ngài.
Đức Giêsu cho thấy Ngài biết rõ gia cảnh của chị.
Cái biết của Ngài không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông.
Cái biết của Ngài về những điều riêng tư thầm kín đã khiến chị coi Ngài là một ngôn sứ đáng tin.
Từ đó, chính chị gợi lên vấn đề tôn giáo, một vấn đề khiến chị rất bận tâm;
Chính chị nói lên niềm mong đợi của mình về Đấng Mêsia, Đấng sẽ đến dạy dỗ mọi sự (Ga 4,25); rồi cũng chính chị đã bỏ vò nước lại mà hân hoan chạy đi giới thiệu Đức Giêsu cho đồng bào.
Chị đã tìm thấy thứ nước tuyệt diệu nơi Đức Giêsu.
Ngài từ từ tỏ mình cho chị: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."
Không thấy nói đến chuyện Đức Giêsu ăn hay uống.
"Lương thực của Thầy là thi hành ý Đấng đã sai Thầy."
Đức Giêsu chỉ đòi một điều, đó là nuôi dưỡng nhân loại.
Ngài chỉ khát một điều, đó là ban nguồn nước sự sống.
Chúng ta có dám chia sẻ cơn đói khát của Ngài không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng trên đây, bạn thấy đâu là những thái độ cần thiết mà người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần có?
Con người đói khát cơm gạo và nước uống tinh khiết. Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay đói khát điều gì hơn cả (tình bạn, tình yêu, lòng tin, niềm hy vọng, ý nghĩa cho cuộc sống, sự trung thực...)? Kitô giáo có thể giúp gì cho giới trẻ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-tinh)
Đức Giêsu từ từ soi sáng cho người đàn bà. Ngài trao đổi lời đối thoại với người đàn bà tất cả là 7 lần, nhiều hơn với bất cứ những ai khác trong Kinh Thánh. Người đàn bà khởi đầu gọi Đức Giêsu là ông Do Thái ("dân ngoại" đối với dân Samari), rồi chuyển sang gọi là ngài, rồi xin cho được uống nước, rồi Ngài nói phải, rồi người đàn chuyển sang gọi Người là đấng tiên tri và cuối cùng là Kitô và ngưòi đàn bà đã kêu toàn thể dân làng ra tung hô Người là Đấng Cứu Thế.
Như thông lệ, Đức Giêsu đảo ngược cả xã hội bằng cách đi ngược lại thông lệ. Ngài trò chuyện với phụ nữ trong một xã hội mà nam nữ không nên giao thiệp. Tệ hơn thế, đây là một người đàn bà bị khinh rẻ và đã trải qua nhiều đời chồng. Có thể người đàn bà này bị các phụ nữ khác xa lánh, bởi thế người bà ta phải ra giếng vào giữa trưa (là giờ dành cho đàn ông) thay vì vào buổi sáng hay chiều cùng với các phụ nữ trong sạch khác.
Đức Giêsu thay đổi người đàn bà một phần bằng cách đánh vào nhược điểm của bà là bà có nhiều chồng.
Ngôi làng trước kia là Xykha, ngày nay là Askar. Ngôi giếng của Giacóp thì ở phía bên ngoài của làng trên con đường từ Galilê đến Giuđêa, khoảng 3 ngày đường.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu là vị cứu tinh của nhân loại.
Đó là sự kết luận của dân làng. Những người dân làng không phải là người Do Thái, điều này nói lên ơn cứu rỗi không chỉ dành riêng cho dân Do Thái. Như thông lệ, Đức Giêsu phá bỏ quy tắc và Ngài bắt đầu với một trong số những kẻ hèn mọn nhất: một người đàn bà ngoại quốc bị xã hội khinh rẻ.
Suy Niệm
Tôi có đưa mình vào những cuộc trò chuyện với Chúa để Ngài dạy bảo tôi không? Tôi có cho Chúa đả động đến nhược điểm của tôi không? Tôi đã trở nên một nhân chứng cho Chúa chưa?
1. Có thực tại trần gian nào thỏa mãn được những khát vọng vô hạn của con người không? Những thực tại siêu nhiên thì sao? Thực tại nào có thể thỏa mãn những khát vọng của con người để họ được hạnh phúc?
2. Người ta có luôn luôn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa trong kinh nguyện, trong thánh lễ, trong các bí tích không? Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa phải có những yếu tố nào?
3. Thế nào là thờ phượng, gặp gỡ Thiên Chúa «trong thần khí và sự thật»?
Suy tư gợi ý:
1. Khát vọng của con người không bao giờ được thỏa mãn
Khát nước, đó là tình trạng thiếu thốn mà ai cũng đều kinh nghiệm hằng ngày. Khát nước đòi người ta phải uống nước để thỏa mãn cơn khát. Nếu không thỏa mãn, con người sẽ bị cơn khát dằn vặt rất đau khổ. Uống rồi thì hết khát, nhưng chỉ một thời gian (một tiếng hay hai tiếng sau) cơn khát lại trở lại, và cứ thế mãi. Đói cũng tương tự như khát. Ngoài nước uống và thức ăn, con người còn đói khát nhiều chuyện khác: tình cảm, tình yêu, tình dục, tiếng khen, tiền bạc, địa vị, quyền lực, hiểu biết, trở nên hoàn hảo… Nhưng tất cả những thứ ấy, dù đạt được như lòng mong ước, thì con người cũng chỉ thỏa mãn một thời gian rất ngắn, để rồi lại tiếp tục cảm thấy thiếu thốn. Nếu không tiếp tục thỏa mãn, con người cảm thấy đau khổ. Khi không có chiếc xe đạp, ta cảm thấy thiếu và mong có được chiếc xe đạp. Khi đã có chiếc xe đạp, ta lại thấy thiếu và mong có chiếc gắn máy… Cứ thế, chẳng bao giờ ta hết thiếu thốn, ết đói khát, hay hết khát vọng cả. Hạnh phúc của con người vì thế chỉ luôn luôn tạm thời: được no đủ trong giây lát để rồi lại đói khát triền miên.
Như vậy, con người cứ phải nô lệ cho những cơn khát đủ loại của mình, cứ phải vất vả để tìm đủ cách thỏa mãn chúng. Trong khi tìm cách thỏa mãn chúng, nhiều khi con người phải hy sinh cả gì mình quí nhất: mạng sống, lương tâm, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em… Vì thế, cơn khát này chưa được thỏa mãn thì mình lại gây nên những cơn khát loại khác. Cứ thế mà con người lâm vào vô số những vòng luẩn quẩn trói chặt con người vào đau khổ.
2. Làm sao để hết khát vọng? để khỏi đau khổ?
Đức Giê-su nói: «Ai uống nước này, sẽ lại khát». Thật vậy, những cách thỏa mãn khát vọng của con người đều chỉ là tạm thời. Được thỏa mãn rồi lại tiếp tục khát vọng. Khát vọng siêu đẳng nhất của con người là muốn có một giải pháp để thỏa mãn vĩnh viễn mọi khát vọng, và không còn phải khát vọng nữa. Làm sao có được giải pháp đó trên đời? Đức Giê-su đã cho ta biết Ngài có giải pháp đó: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời». Ngài cho biết giải pháp của Ngài sẽ trở thành «một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» nơi người dùng giải pháp ấy. Có sẵn trong người một mạch nước thì ta sẽ không bao giờ khát nữa, mà trái lại còn có thể làm thỏa mãn cơn khát của người khác. Mạch nước ấy «đem lại sự sống đời đời». Mạch nước ấy là gì? Là chính Thiên Chúa, được hiện thân thành Đức Ki-tô. Chỉ cần thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô, ta sẽ có được mạch nước đem lại sự sống ấy ở trong ta. Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhờ thật sự gặp được Thiên Chúa, các vị thánh đã được biến đổi hoàn toàn, các ngài cảm thấy hạnh phúc vô biên bất chấp nghịch cảnh, đã yêu thương và có một sức mạnh tinh thần rất lớn để dấn thân và hy sinh cho Thiên Chúa và đồng loại không mệt mỏi. Vậy vấn đề mấu chốt là thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô.
3. Làm sao để thật sự gặp gỡ Thiên Chúa?
Nhiều khi ta đến để gặp Chúa – trong nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh lễ, v.v… – nhưng ta lại không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo thói quen, theo giờ giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối diện với Chúa trước nhà tạm, ta rước Chúa vào tận trong lòng mình, nhưng ta vẫn không thật sự gặp Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do Thái xưa, họ nói chuyện với Chúa, ở bên cạnh Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa. Cổ nhân có câu: «Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (Có duyên với nhau thì dù xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với nhau thì dù có mặt đối mặt cũng không gặp nhau). Như thế, sự gặp gỡ thật sự đòi hỏi phải có «duyên» với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau nào đó. Cổ nhân còn nói: «Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu» (Cùng âm thanh thì phụ họa nhau, cùng tính tình, khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp nhau). Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, nên chỉ những ai biết yêu thương – nghĩa là giống Thiên Chúa – mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: «Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa» (1Ga 4,7a-8). Chữ «biết» ở đây có nghĩa là cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người không biết yêu thương thì không thể gặp được Thiên Chúa.
Đức Giê-su nói: «Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem». Như vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian – tức chỗ này chỗ kia – không phải là chuyện quan trọng: «Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra» (Cv 7,48). Đức Giê-su cũng nói: «Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật». Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, ta cũng phải gặp gỡ Ngài trong thần khí và sự thật.
4. Gặp gỡ Thiên Chúa trong thần khí và sự thật
Để giải thích điều này, Đức Giê-su nói: «Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật». Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình – tức tâm hồn mình – để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì «con người là hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em» (1Cr 3,17; x. 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, mình mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Âu-Tinh đã từng than thở: «Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con» (Confession, cuốn VI, chương 1).
Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật sự gặp được Thiên Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân chất, «có nói có, không nói không» (Mt 5,36), không quanh quéo, uẩn khúc. Không thể gặp được Thiên Chúa những người nghĩ một đằng, nói một ngả, hay nói một đằng, làm một nẻo.
Cầu nguyện
Tôi nghe thấy tiếng Chúa: «Đã đến lúc trình độ tâm linh con người phải tiến cao hơn một bậc nữa. Con người không nên thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu vụ hình thức, vụ không gian, vụ thời gian, vụ vật chất nữa. Con người cần thờ phượng và gặp gỡ Thiên Chúa bằng thần khí chứ không phải qua vật chất, qua hình thức nữa. Con người cần gặp gỡ Thiên Chúa ngay trong bản thân mình hơn là ở một nơi nào bên ngoài. Con người cần hiểu biết Thiên Chúa theo sự thật, bằng chính bản chất của Ngài hơn là bằng những hiện tượng, danh từ, ngôn ngữ hay cách diễn tả đặc thù của mỗi tôn giáo, mỗi nền văn hóa. Có gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, con người mới được biến đổi để trở nên hoàn hảo và hạnh phúc hơn»
1. Các cụm từ «đã đến giờ» và «giờ đã đến – và chính là lúc này đây» trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
2. Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí»? Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật»? Trái ngược với hai kiểu thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu «mới» của Đức Giê-su?
3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v…). Có lần, để thử thách niềm tin và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu A-bra-ham sát tế đứa con trai duy nhất của mình là I-sa-ác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy A-bra-ham không tiếc với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu I-sa-ác (x. St 22,1-14). Đó là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giê-su, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: «Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem (…) Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (…) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật».
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần khí và sự thật
Đức Giê-su nói khi Ngài còn sống: «Đã đến giờ», «Giờ đã đến – và chính là lúc này đây». Như vậy, Đức Giê-su yêu cầu con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giê-su cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giê-su chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giê-su coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật»?
· Thờ phượng trong thần khí
Đức Giê-su nói: «Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí». Thần khí (pneuma – esprit – spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức Giê-su, Ngài là thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: «Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì rồi» (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: «Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời» (Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v…
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là «cái tôi» ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ – nơi sát tế – là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức Giê-su nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: «Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người». Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
· Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v… để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giê-su nói về việc thờ phượng của họ: «Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta. Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích» (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa: «Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con», nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ I-sa-i-a diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài ấy: «Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu» (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Ta đã chán những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!»
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria: Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng và xin nước uống v.v... Bài này ta đã từng nghe qua nhiều lần, nhưng để hiểu rõ tầm mức quan trọng, ta cầu đọc lại trong quan điểm lịch sử, biểu tượng và thực tiễn.
1. Quan điểm lịch sử: Muốn biết tại sao cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bà xứ Samaria gây ra tai tiếng, chúng ta nên dựa vào biến cố lịch sử đã qua.
Mối bất hòa giữa người Do Thái và người Samaria đã xảy ra vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, lúc mà người Axiri đến xâm chiếm đất Samaria, bắt đi lưu đày một phần lớn dân Samaria như một dân tộc tạp nhạp, lai căng lạc đạo; đã vậy, người Samaria không còn đi lễ ở Giêrusalem mà hành đạo ở đền núi Garidim... Vì không còn giao thiệp với Samaria, do đó bất cứ người Do Thái nào tiếp xúc với dân Samaria đều bị lên án, nặng nhất là người đàn ông Do Thái giao du với phụ nữ Samaria.
Trong tình thế đó, này đây Chúa Giêsu ngang nhiên nói chuyện với người đàn bà xứ Samaria mà không chút sợ sệt. Ngài còn tự do thoải mái ở lại thêm hai ngày nữa. Qua cuộc gặp gỡ và đối thoại này, Chúa Giêsu muốn cho ta thấy ý định của Ngài là dẹp thù hận. Vì đối với Thiên Chúa: không có ai là địch thù, không ai là người bị nguyền rủa và bị khai trừ, không ai mà không được tha thứ... Và Ngài còn ban phát Nước chảy ra sự sống đời đời cho tất cả mọi người, không phân chia giai cấp hoặc màu da sắc tộc, không phân biệt nguồn gốc xứ sở. Vì Thiên Chúa là Tình Thương cho tất cả.
2. Quan điểm biểu tượng: Ao hồ hay giếng nước thường là nơi của sự gặp gỡ (từ khách lạ trở nên bạn hữu), nhưng cũng có thể là nơi tranh chấp (vì tranh giành miếng nước mà trở nên cừu địch).
Giếng nước hay vũng nước, trong sa mạc hoặc những vùng đất khô cằn, không chỉ là nơi mà người người đều dừng lại múc lấy nước để phục hồi sức khỏe sau những ngày đường mệt lả khát nước, mà còn là nơi để người người cùng gặp gỡ, trao đổi câu chuyện và làm quen. Trong Kinh Thánh có những đoạn kể qua cuộc gặp gỡ nơi giếng nước đưa đến chuyện hôn nhân: người đầy tớ của ông Abraham gặp cô Rêbêca (St 24:10-27) từ đó lo chuyện cưới hỏi cho con ông chủ mình là Ygiaác. Ông Giacóp và cô Rakên (St 29:1-14) cũng gặp nhau tại giếng nước và hai người đã trở thành vợ chồng.
Vậy thì giếng nước trong bài Phúc Âm hôm nay, nơi mà Chúa Giêsu gặp người đàn bà xứ Samaria, cũng có tính cách biểu tượng: vì tại giếng nước này phát hiện một giao ước thiêng liêng, một cuộc đính hôn giữa Đức Kitô với nhân loại, cho dù loài người có bất xứng, đầy tràn tội lỗi... Ngài hứa ban "nước hằng sống" cho bất cứ ai tìm đến giải khát nơi Ngài và Ngài còn tuyên bố "từ nay mọi người sẽ không còn hành đạo tại núi này hay đền thờ nọ, nhưng đã đến lúc phải tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý".
Lời nói của Chúa Giêsu thật quá kỳ diệu, đánh động tâm hồn người đàn bà Samaria, khiến bà quên đi cả việc múc nước. Nước giếng không còn là mối bận tâm và không làm bà khao khát nữa, bà cũng không còn khao khát những mối tình trần tục (bà có sáu đời chồng), vì Lời Chúa vừa đem đến sự giải khát cho bà, và sau khi tin phục thì "nước Chúa (Lời Chúa) vừa ban cho bà thì nơi bà trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời", từ một người đàn bà xa lạ, bà đã trở nên môn đồ của Chúa qua việc để lại vò và chạy về thành loan báo cho mọi người: "Mau hãy đến xem... người đó là Đấng Kitô".
3. Quan điểm thực tiễn: Ta có thể khẳng định rằng đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhận rõ cuộc sống. Như xưa kia Chúa Giêsu đã làm phát sinh nước hằng sống nơi xứ Samaria, đất của dân ngoại, của những người bị miệt thị khinh chê... thì nay chúng ta cũng được mời gọi nên biết đón nhận những người Samaria, tức là những kẻ không cùng ý hướng tín ngưỡng với chúng ta và những kẻ bị người khác khinh thường loại bỏ, cũng như phải biết tôn trọng các giá trị của những người khác biệt với chúng ta.
Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ nay phải biết tìm đến uống nước Hằng Sống (các Bí Tích) phát sinh từ nơi Ngài: Lời Ngài tuôn chảy như một giòng suối đánh đổ những hiềm khích hận thù, tẩy sạch những kỳ thị bất công và loại bỏ việc sùng bái các tà thần ngẫu tượng (của cải tiền bạc, lợi danh quyền chức...) để chúng ta trở nên những con người hoàn toàn tự do, biết thật sự yêu thương tha nhân và "tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý".
Từ khi cầu Mỹ thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên chúa.
Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.
Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có.
Người phụ nữ có giếng nước, có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.
Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.
Trong phút chốc, chị trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng.
Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn.
Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.
Thì ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách: "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư ? ". Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người đối diện "Cao cả hơn tổ phụ Giacóp". Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Người là "Một tiên tri". Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.
Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui.
Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.
Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.
Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.
Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.
Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống: " con gì mà khủng khiếp quá nhỉ ". "Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà". Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.
Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.
Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Đức Giê-su đã thành công trong việc đưa người phụ nữ Samaria về nhận biết chân lý. Ta có thể học hỏi được gì ở nơi Người để thành công trong việc truyền giáo ?
2- Đang thoả mãn với vật chất, người phụ nữ Samaria chợt thấy thiếu thốn về mặt tâm linh. Đây là một cuộc hoán cải quan trọng, là một ơn Chúa ban. Bạn đã bao giờ được ơn sám hối để thấy khao khát đời sống tâm linh chưa ?
3- Đã bao giờ bạn cảm thấy Đức Giê-su là nguồn suối trong lành, là nguồn mạch hạnh phúc của bạn ?
Nước là một quà tặng rất quan trọng Chúa ban cho thế giới. Con người, con vật, cây cối đều nhờ vào nước. Trong thân thể con người, nước chiếm 70%, nếu một ngùi cân nặng 100 lbs, thì nước chiếm 70 lbs. Người ta có chừng 4.5 lít máu thì nước chiếm 2.8 lít rồi. Người ta có thể sống 40 ngày không có đồ ăn, nhưng nếu không có nước thì chỉ 3 ngàysẽ chết.
Sau một tai nạn máy bay (loại nhỏ) rớt ở vùng rừng rậm của Gianãđại (Canada), vợ chồng Ralph và Helen đã sống sót nhờ vào số lượng nước chảy ra từ đống tuyết tan. Họ điểm tâm bằng nước, dùng bữa trưa bằng nước và bữa tối cũng là nước. Nhờ có nước mà họ sống 6 tuần lễ cho tới khi gặp người đến cứu. Ngày nay một trong những mối lo ngại nhất của con người là nước dơ, nhất là tại các quốc gia Phi Châu, vì trong nước dơ có chứa nhiều vi khuẩn sinh ra bệnh. Mỗi năm trên thế giới có khoảng 10 triệu người chết vì bệnh ruột vì dùng nước dơ.
Phúc Âm hôm nay nói về nước. Chúa Giêsu đi đường mỏi mết và khát nước đến ngồi nghỉ trên miệng giếng, gặp một chị xứ Samarita, Chúa xin "Chị cho tôi uống nước với." Theo dõi Phúc Âm chúng ta thấy: Chúa Giêsu là một người khéo gợi chuyện và thu hút lòng người.
Thứ nhất người Do Thái và người Samarita vốn có sự bất hòa, thù ghét nhau, họ làm thành bức tường ngăn cách kiên cố lâu đời. Chúa Giêsu tới phá đổ bức tường ngăn cách đó bằng việc Ngài lên tiếng xin chị Samarita cho Ngài uống nước. Từ hình ảnh giếng nước tự nhiên cần thiết cho thân xác, Chúa đã dẫn chị tới nguồn nước siêu nhiên hằng sống cần thiết cho con người.
Thứ hai, đi sâu câu chuyện, mặc dầu Chúa biết chị đang sống bất hợp pháp với một người đàn ông, nhưng Chúa nói chuyện với một giọng nhân từ và yêu thương. Chính vì cách nói chuyện yêu thương, nhân từ đó mà Chúa đã giúp chị dần dần khám phá ra Chúa là ai? Phúc âm để lại, đầu tiên chị nhìn Chúa như một người Do Thái bình thường nào đó: "Ông là người Do Thái mà xin tôi là người Samarita nước uống." Thế rồi chị nhận ra Chúa là một tiên: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri". Bước sau cùng chị nhận ra Chúa là Đấng Kitô. Chị vào thành nói với người ta: "Đến mà xem, có một người đã nói cho tôi tất cả những gì tôi đã làm, ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?"
Chị Samarita là người đến kín nước để thỏa mãn cơn khát tự nhiên của chị. Thế nhưng chị vẫn còn khát khao một thứ nào đó mà chị không được mãn nguyện. Ở với 5 đời chồng và bây giờ chung sống với một nguời đàn ông khác mà vẫn không thỏa mãn cơn khát của chị.
Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng tương tự như vậy, 5 đời chồng đó là 5 thứ người ta khao khát trên đời: tiền bạc, danh vọng, chức quyền, tình yêu, kiến thức. Rồi người đàn ông bất hợp phát đó có thể là: thuốc phiện, rượu chè, cờ bạc, trai gái, lạc thú bất chính... Chúng ta tưởng những thứ đó đem lại hạnh phúc, thỏa mãn được cơn khát của chúng ta nhưng vô vọng, vì nó chỉ đem đến chán chường, trống rỗng.
Nước hằng sống Chúa muốn ban cho chúng ta đó chính là Ơn Thánh. Nghĩa là bình an khi sống thân mật với Thiên Chúa, nghĩa là tự do khi giữ Lề Luật Chúa, nghĩa là niềm vui khi chúng ta phục vụ tha nhân. Nước Hằng Sống hay Ơn Thánh đó chúng ta tìm thấy trong Thánh Thể trong các Bí tích, trong Lời Chúa, trong các việc lành, trong đời sống cầu nguyện, trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa.
Hãy uống nước hằng sống là chính Ơn Thánh để sau này hiệp hoan với Chúa Kitô trên Thiên Đàng chúng ta không bao giờ khát nữa.
Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ xứ Samaria, Chúa Giêsu dần dần đưa chị đến đón nhận một mặc khải quan trọng: Ngài chính là Nước hằng sống. Ta hãy lượt qua những giai đoạn chính của cuộc mặc khải này:
- Ban đầu Chúa Giêsu mở miệng xin chị cho mình uống nước.
- Tiếp đến, Ngài cho chị biết có một thứ nước quý giá mà hễ uống vào thì không bao giờ khát nữa.
- Chị tưởng đó cũng là một thứ nước “phép” nên mở miệng xin Ngài, “để tôi hết khát và khỏi đến đây lấy nước nữa”.
- Cuối cùng Ngài mới nói rõ Ngài chính là thứ nước ấy.
- Người phụ nữ Samaria đã tin Ngài là Đấng Messia và còn giới thiệu Ngài cho dân làng của chị nữa.
B.... nẩy mầm.
1. Người phụ nữ Samaria chỉ biết khát thứ nước vật chất và chỉ lo đi tìm thứ nước vật chất. Con người thời đại hưởng thụ ngày nay cũng thế. Và tôi, vì sống trong ảnh hưởng của thời đại, nên phần nào cũng thế.
Xin Chúa khơi lên trong lòng con và những người thời nay sự khát khao chính Chúa.
2. “Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa”. Chúa Giêsu nói rất đúng: tất cả những tiện nghi vật chất không bao giờ làm cho lòng người được no thoả, trái lại chúng còn khiến người ta khao khát thêm.
3. “Như nai rừng mong mỏi Tìm về suối nước trong Hồn con cũng trông mong Tìm đến Ngài, lạy Chúa” (Thánh vịnh)
4. Tâm hồn chúng ta được tạo dựng cho Chúa, vì thế nó sẽ không bao giờ no thoả khi chưa được nghỉ ngơi trong Chúa (chuyển ý của Thánh Au-gus-ti-nô).
5. Vài gợi ý để tự kiểm trong Mùa Chay: tôi thường khao khát những gì ? Tôi đã tìm được chúng chưa ? Chúng có làm tôi thỏa mãn không ? Tôi có ý thức cơn khát thiêng liêng mà chỉ có Chúa mới xoa dịu được không ?
Dưới ngòi bút linh động của Gioan bài Phúc âm hôm may mô tả cuộc gặp gỡ của Chúa bên bờ giếng Giacóp vời thiếu phụ Samaria. “Khi ấy, các Ngài tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria... Ở đó có giếng Giacóp,Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng giữa trưa hè. Chắc là Chúa ngồi sát mặt đất, lưng dựa vào bờ thành giếng. Ngài ngồi đó mỏi mệt, sao một khoảng đường dài qua xứ Samaria.
Ngài ngồi đó để chờ đợi. Ngài biết muốn gặp gỡ đàn ông thì ra phố chợ, muốn gặp gỡ đàn bà thì ra bờ giếng. Ngài ngồi đó để đón chờ chúng ta, vừa mệt vừa đói. Trời đã về trưa, nắng nóng. Ngài ngồi đó để chờ một người đàn bà mà cuộc đời có nhiều sóng gió, đang ỏn ẻn đầu đội vò, tay xách gầu đi ra.
Cuộc gặp gỡ tương tợ như những an gặp gỡ do Thánh Kinh.Kể lại giữa Gia cóp và Rachel (STK 9) , giữa Moisê và các con gái ủa Rơuel -Yêchrô (XH 2. 15-22) bên một suối nước. Chúa nói: “Xin bà cho tôi uống nước". Ngài khát. Nhưng khát gì ?
Lời nói của Chúa hàm chỉ hai ý nghĩa. Ngài khát sau những giờ cuốc bộ dưới nắng hè, nhưng Ngài khao khác cứu các linh hòn đang cần một thứ nước thiêng liêng cao trọng hơn.
Cuộc đối choại giữa Chúa và người đàn bà kênh kiệu bắt đầu. Từ bối cảnh một giếng nước sâu đến thảm trạng một tâm hồn ngụp lặn trong tội lỗi, Chúa Giêsu đã khơi lên mót giòng nước hằng sống “mà ai uống thì không bao giờ còn khát nữa”.
Mỗi ngày, thiếu phụ Samaria phải ra giếng kín nước. Nhưng càng uống lại càng khát cũng như càng đi sâu vào biền tình càng thấy thiếu thốn. Đời của bà là một chuỗi thất bại. Chúa đưa bà đến chỗ phải thú nhận. Tuy nhiên bà vẫn còn tin cậy và tìm kiếm, vẫn mong chờ Đấng Messia đến, “Ngài sẽ loan báo hết mọi sự”.
Và giòng nước đã vọt lên: "Hỡi bà, Đấng ấy clúnh là Ta, người đang nói với bà Thiếu phụ đã cầu được ước thấy, được rửa sạch. Giòng nước Ngài ban “Trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”.
Thiếu phụ Samaria không còn nghĩ đến giếng, đến vòi vội chạy về thành báo tin cho mọi người biết để họ cùng nhìn nhận Ngài là đấrg Cứu Thế.
Gioan qua từng giai đoạn đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Chúa Giêsu. Ngài là một người tha hương mỏi mệt, một người Do thái bị khinh chê, một nhà tiên tri đọc được trong tâm hồn, là Đấng Messia đến để dạy cách thờ phượng trong tinh thần và chân lý, là Đấng Cứu chuộc của nhân loại. Đó là tóm lược bài Phúc âm của Chúa nhật hôm nay.
Suy niệm bài Phúc âm này, một số chị em ở Bỉ đã lập ra Tu hội “Eau Vive" (Nước Hằng Sống). Ngoài việc cầu nguyện trước Thánh thể, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách hàng. Các cô chiêu đãi là những cô thuộc nhiều quốc tịch mà câu châm ngôn là phục vụ Chúa Giêsu trong các thực khách. Mỗi buổi tối lúc 9 giờ, chị em có giờ cầu nguyện, chia sẻ Phúc âm. Thực khách được mời tham dự, ai không tham gia thì cứ tự nhiên. Thế rồi các chị em cùng một số ít thực khách sắp ghế vòng quanh lại, bắt đầu cầu nguyện. Quán ăn đã trở nên Nhà Cầu Nguyện, vì có Chúa hiện diện như ngày xưa... bên bờ giếng Gia cóp.
Đức Giêsu đến một làng xứ Samaria, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacop đã cho ông là ông Giuse ở đấy có giếng của ông Giacop người đi đường mỏi mệt, ngồi ngay xuống bờ giếng lúc Đó vào khoảng mười hai giờ trưa có một người phụ nữ Samaria đến lấy nước.
Những trang viết lớn của Gioan thì không ai quên được Người ta có thế đọc chúng ở nhiều mức độ không đối lập với nhau:
1/ một báu vật văn chương và thi ca... 2/ một ý nghĩa nội sinh từ diễn tiến kịch tính của các màn diễn... 3/ một sự nêu bật giá trị tâm lý tinh tế của Đức Giêsu... 4/ một sự phong phú những kỷ niệm Kinh Thánh được sử dụng lại. 5/ một cách sử dụng các ý nghĩa biểu tượng sâu xa của loài người... 6/ và bên trong tất cả những thứ Đó, một nền thần học nhiệm tích và Kitô học cực kỳ cụ thế.
Vâng hãy nếm trước hết ý nghĩa hiện thực của cảnh tượng: Đức Giêsu mệt nhọc, vật vã, kiệt sức vì một chuyến đi dài dưới ánh nắng ban trưa. Người lại ăn chay ngay trước bữa ăn, không thế làm được gì nữa, Người ngồi xuống đất, lưng tựa vào thành bờ giếng.. người khát nhưng không có thùng múc nước một phụ nữ tới.. đội một vò nước, theo kiểu Phương Đông. Khi tôi kiệt lực, và tôi không thế làm được gì nữa, tôi có thế cầu ông Giêsu này, Người biết chuyện Đó là gì.
Đức Giêsu nói với chị ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống" lúc Đó các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn người phụ nữ Samaria liền nói: “ ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông uống nước sao? Quả thế người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria Đức Giêsu trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ của Thiên Chúa ban, và là người nói với chị "xin cho tôi chút nước uống thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống"
Đức Giêsu, con người tự do, ở đây vi phạm ba điều cấm kị: về chủng tộc, về tôn giáo, về giới tính".. Ở Phương Đông, người ta cấm nói với một người đàn bà chỗ công khai. Những tín đồ Do Thái tốt đều khinh miệt những người Samaria là những kẻ rối đạo và sùng bái thần tượng từ tám thế kỷ, người Samaria và Do Thái đã hết sức thù hằn nhau một cách dữ tợn nhưng Đức Giêsu tự do người không tin vào những cấm cản dứt khoát, những nhãn hiệu nẩy lửa, những khẩu hiệu quá đơn giản của những cách phân loại chính trị hay tôn giáo giữa người tốt và kẻ xấu.
Người phụ nữ ấy nói; "Thưa ông, ông không có gầu mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ Phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy" Đức Giêsu trả lời: "Ai uống nước này sẽ lại khát còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giừ khát nữa. Và nước tội cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi đến đây lấy nước”
Chúng ta bắt đầu đoán về tất cả nghệ thuật tâm lý của Đức Giêsu (và của Gioan) đây không phải chỉ là một ngụm nước mà một người nước ngoài đầy bụi bặm xin Đức Giêsu mang đến, ở chỗ sâu thẳm nhất của sinh thế mình, một thứ khát khao khác người đốt cháy lên nỗi khát khao làm cho những nguồn nước chảy vọt lên ở trong lòng những người đàn ông và đàn bà... Nước! Nước là một thực tại của sự sống. Không có một sự sống nào mà không có nước ! Cái yếu tố xem ra tầm thường và quá đơn giản này, lại là quí giá nhất ngay trong những vùng trên địa cầu mà ở Đó có nước dồi dào, thì ngày nay, người ta lại phát hiện được giá trị thiết yếu của nó: người bảo vệ, người ta để nó sang bên cạnh để nó không thiếu, người ta thanh lọc nó thế thì chẳng ngạc nhiên gì khi nước đã có một giá trị biểu tượng phổ biến trong tất cả mọi nền văn minh và tôn giáo trong Kinh Thánh "nước hằng sống" là chính hình ảnh Thiên Chúa ban sự sống (Gr 2,13 ; Is 12,3 - 55,1 ; Ed 47,1; Dc 14,8) biểu tượng nước đầy dẫy trong sách Tin Mừng Gioan: nước hóa rượu ở Cana (Ga 2,7) ; nước mà trong Đó người ốm muốn lặn xuống ở chỗ giếng Bết-da-tha (Ga 5,7) nước mở mắt cho người mù ở giếng Siloê (Ga 9,7), con sông nước hằng sống chảy từ ngực Đức Kitô được loan báo trên bậc thềm của Đền Thờ (Ga 7,38), nước của sự sống cho những ai muốn sinh lại bởi nước và Thánh Linh, được loan báo cho Nicôđêmô (Ga 3,5), Sau cùng, nước chạy vọt ra từ cạnh sườn của Đấng chịu khổ hình thập giá (Ga 3,39) bạn có một nguồn nước nơi bạn, bạn biết Đó, từ ngày bạn chịu phép thánh tẩy.
Đức Giêsu bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng Đức Giêsu bảo: “Chị nói, tôi không có chồng" là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”.
Biểu tượng miền Samaria "bán mình làm đĩ” cho các thần tượng.. mà cũng là người phụ nữ có thật Đó là thân bèo giạt hoa trôi, cái đồ thừa thãi đáng thương, bị chìm xuống vực thẳm làm một thứ đồ chơi cho cả một nửa lố đàn ông thế thì ông là ai, anh chàng nước ngoài mệt phờ này, cái anh chàng Do Thái bị tẩy chay này, mà lại đoán ra vết thương lòng của tôi? Thế thì ông là ai, cái anh chàng dò xét cõi lòng phụ nữ với một sự tế nhị đến độ không làm người ta phải ngượng ngùng. Ông là ai, cái người mà đã đoán được cả lòng tôi khát khao hạnh phúc mà những thứ tình qua đường của tôi không làm nguôi được. Ông là ai, cái anh bạn vô danh có vẻ muốn chìa tay cho tôi biết rằng, dù kinh nghiệm tôi trải qua có đau đớn thật, nhưng cuộc đời tôi có lẽ không phải là một thất bại?
Người phụ nữ nói với Người: Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ.. cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa" Đức Giêsu nói: “Này chị, hãy tin tôi, đã đến giờ các người thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem các người thờ phượng Đấng các người không biết, còn chúng tôi thờ đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái nhưng giờ đã đến và chính lúc này đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ Phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật" người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mại sự Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi người đang nói với chị đây".
Ôi đàn bà, cuộc đời của chị không phải đã hết, đã hỏng. Ôi, loài người, nỗi khát khao của người còn xâu xa hơn ngươi tưởng. Ôi tội nhân, sự thất bại của ngươi có lẽ sắp trở thành một nguồn suối.
Thờ phượng! Đấy là mục tiêu của người ! Ngươi không nghĩ đủ đâu: Nhưng tôi, tôi nhắc lại mười lần tiếng này: Thờ phượng người được tạo thành cho Thiên Chúa: Ôi, đàn bà, tấm lòng ngươi quá lớn lao, nên không chỉ bằng lòng với những hạnh phúc rời rạc và tạm bợ? Tất cả những gì tận cùng đều ngắn ngủi.
Thờ phượng! Dù muốn hay không, con người đã được lập trình cho chuyện này chỉ một mình Thiên Chúa mới thanh thỏa được nhu cầu về vô hạn nơi chúng ta nỗi khát không ngừng tái phát.
Thờ phượng! Thái độ huyền nhiệm của người đứng trước mặt Thiên Chúa, cõi lòng được ngoạm vào, hít vào, xoa dịu, no thỏa bởi Đấng trên cao!
Người phụ nữ Samaria vẫn còn có nhiều vấn đề tôn giáo còn tranh cãi: phải thờ phượng Thiên Chúa ở đâu? Trên núi Garizim, miền Samaria.. hay trên núi Sion ở Giêrusalem? Câu trả lời của Đức Giêsu còn là một sự vi phạm Truyền Thống: dám nói rằng Đền Thờ và các nghi thức phụng vụ không còn quan trọng gì cả! Thật là phạm thượng! Sự thờ tự Thiên Chúa đích thật là điều đã được thúc đẩy trong cuộc đời chúng ta nhờ chính "Thần Khí" đền Thờ Thiên Chúa đích thực là đền thờ mà Chân lý của chính Đức Kitô đến khánh thành: Đó là thân xác người... và Đức Giêsu nhận được sự Đón tiếp tốt nhất không phải chính tại Miền Giuđê, nhưng tại ngay giữa miền Samaria: Các ông thờ phượng điều mà các ông không biết! Chính người “Do Thái” biết sự thật nhưng chính "anh rối đạo" lại được phục quyền lạy Chúa, xin cho chúng con sự yêu thích thờ phượng trong Thần khí và trong sự thật.
Vừa lúc Đó, các ông trở về. Các ông ngạc nhiên vì Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế không ai dám hỏi Người "Thầy cần gì vậy ?" hoặc "Thầy nói gì với chị ấy thế?" Người phụ nữ ấy để vò nước lại, vào thành " và nói với người ta: "Đến mà xem, có một, người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm: ông ấy không phải là Đấng Kitô sao? Họ ra khỏi thành và đến gặp người.
Tấm lòng của Người phụ nữ đã được cứu thoát trong cuộc đời bị khô héo, một cuộc sống thấp lè tè dưới đất, hời hợt, (tiêu thụ đủ loại), một nguồn nước đã vọt ra nơi chị ta. Chị không còn gì làm với cái giếng và cái vò nước này. Chị chạy đi thông báo về nước hằng sống mà chị vừa khám phá ra. Làm sao mà không kêu lên tin mừng cho cả làng nghe ! Và chính cái quá khứ nặng nề tội lỗi của chị đã khiến cho chị thấy quá gấp để nói về Thiên Chúa! Hãy đến xem có người đã yêu tôi với lòng xót thương. Câu chuyện này không phải là câu chuyện của bạn sao?.
Trong khi Đó các môn đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa" người nói với các ông"Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mua thức ăn đến cho Thầy rồi chăng ?" Đức Giêsu nói với các ông. Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. Nào anh em chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt?" Nhưng này, Thầy bảo anh em “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái. Ai gặt thì lãnh tiền công và thứ hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế cả người gieo lẫn người gặt đều hớn hở vui mừng. Thật vậy câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt: quả là đúng thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra: Người khác đã làm lụng vắt vả, còn anh em được vào hưởng công lao vất vả của họ.
Có nhiều người Samaria trong thành Đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy, khi đến gặp Người dân Samaria xin Người ở lại với họ và Người đã ở lại Đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian".
Vâng, từng nấc một, Gioan đã đưa chúng ta xuống chiếc giếng sâu, chính là huyền nhiệm về bản vị Đức Giêsu: một người nước ngoài đáng thương mệt nhoài và khát đến cháy cổ. Một người Do Thái biết Đấng mình thờ phượng nhưng còn lớn hớn cả Giacóp, người sáng lập nước Ísraen một ngôn sứ đọc được trong lòng người ta và đoán được những âu lo bị che khuất... Đấng Mêsia được trông đợi đã làm chảy vọt lên nước hằng sống của cuộc sống muôn đời và dạy cho loài người biết sự khát khao đích thực: Thờ phường Thiên Chúa trong Thần khí và trong sự thật...; tóm lại Đấng Cứu Độ trần gian.
Bao lâu còn chưa khám phá ra cái suối này, Đức Giêsu, mà tất cả,thức ăn của Người là thực hiện ý muốn của Chúa Cha, thì thế gian chết Đói và khát. Cũng một thứ đồ ăn và thức uống Đó luôn ở trong thực đơn nơi bàn tiệc của Giáo Hội lễ Phục sinh đến gần: Phải chăng bạn sẽ ngã quỵ vì bệnh thiếu máu thiêng liêng ở gần ngay suối nước và bàn ăn? Và này, bạn khát khao cái gì?
-Khao khát chân lý vì cuộc sống nhiều gian dối.
-Khao khát tự do trong một xã hội nhiều trói buộc.
-Khao khát công bình trong một môi trường đầy dẫy bất công
-Khao khát yêu thương trong cuộc đời nhiều thù hận
-Khao khát hạnh phúc trong cảnh sống bất hạnh
-Khao khát niềm tin giữa cảnh đời nhiều nghi kỵ...
-v.v...
Tất cả những khao khát đó đều là biểu hiện của một khát vọng thâm sâu: “linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống”.
2. Chiếc vò nước được bỏ lại
Bên bờ giếng có một khách bộ hành mỏi mệt dừng chân. Chân lý đã vọt lên từ những lời ông ta nói. Cũng bên bờ giếng đó, người phụ nữ nọ đã để lại cái vò nước của mình, bởi từ nay nó chẳng giúp gì cho chị đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Cái vò nước bỏ quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận từng bị giam hãm trong đủ thứ công việc hằng ngày. Trong những quan hệ chẳng tới đâu với một loạt đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, qua những trao đổi với Người (...)
Như thế, chính qua những chuyện của đời thường như ăn, uống, cuộc sống chung với một người đàn ông, cố gắng quay về với Thiên Chúa... mà con người nghe được tiếng nói của Thánh Thần. Nhưng ở đây và lúc này, Người lại đến như một ân ban qua những bất trắc khôn lường của lời nói, qua thái độ chân thành của các bên đối thoại, qua những khoảnh khắc thinh lặng để cho chân lý lên tiếng nói
3. Thờ phượng trong thần khí và sự thật
Những người Samari thờ phượng Thiên Chúa trên núi Ganzim. Những người Do thái thờ phượng Thiên Chúa trên núi Sion. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.
Phải chăng đó là những chuyện đời xưa? Không. Ngày nay vẫn có những người chỉ muốn dự Thánh lễ ở nhà thờ này chứ không phải nhà thờ nọ; và có rất nhiều người chỉ thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ mà thôi. Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari: đã đến giờ và chính là lúc này những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng trong thần khí và sự thật. Thờ phượng trong thần khí là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng trong sự thật là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường, là sự thật và là sự sống.
4. Nước
Nước vô cùng thiết yếu cho sự sống. Không có nhà cửa, áo quần người ta vẫn có thể sống. Không có ăn, người ta vẫn còn sống một thời gian khá dài. Nhưng không có nước, người ta sẽ chết sau một vài ngày.
Bởi thế, khi nói về Thiên Chúa, Thánh Kinh thích dùng hình ảnh nước: Sách Sáng thế mô tả vườn địa đàng có một con sông tỏa ra 4 nhánh mang nước đi nuôi sống các sinh vật ở 4 phương trời. Tổ tông loài người sống trong khu vườn dồi dào nước ấy đã rất hạnh phúc. Nhưng rồi khi nguyên tổ phạm tội và bị đuổi khỏi vườn địa đàng thì cuộc sống vô cùng vất vả trên đất đai khô cằn sỏi đá.
Ngụ ý của tác giả đoạn sách Sáng thế ấy là: khi con người sống trong tình thân với Thiên Chúa thì cũng giống như sống bên nguồn nước tươi mát; còn khi họ tách rời Thiên Chúa thì phải khốn khổ như đang ở trong sa mạc khô cằn. Vì thế sách Khải huyền khi muốn diễn tả hạnh phúc thời cứu độ đã vẽ lên hình ảnh một thành Giêrusalem mới, trong đó cũng có một dòng sông hằng sống, nước sông tươi mát một cây hằng sống làm cho nó trổ sinh hoa quả suốt 2 tháng quanh năm, trái cây cho người ta ăn, và lá cây dùng làm thuốc chữa hét mọi chứng bệnh.
5. Những thứ nước
Người thiếu phụ xứ Samari mặc dù đang ở bên giếng nước nhưng cõi lòng vẫn khát khao. Nàng thèm khát một tình nghĩa đậm đà. Nàng tưởng rằng tình đời sẽ thỏa mãn được cơn khát ấy nên nàng đã lăn xả vào những cuộc phiêu lưu tình ái. Nhưng đã trải qua 5 đời chồng rồi, nay đã là dời chồng thứ 6 mà nàng vẫn còn khát. Chỉ sau khi gặp được Đức Giêsu, trò chuyện với ngài và được Ngài ban cho thứ nước siêu nhiên là tình nghĩa với Chúa thì nàng mới hết khát. Nàng còn chạy vào làng rủ thêm nhiều người đến với Đức Gíêsu, nguồn nước hằng sống đích thực.
6. Thánh vịnh 42
“Như nai rừng mong mỏi
Tìm về suối nước trong
Hồn con cũng trông mông
Tìm đến Ngài, lạy Chúa”.
7. Chuyện minh họa
Ngày xửa ngày xưa có một người ăn mày ngồi bên vệ đường để ăn xin, bên cạnh ông là một túi vải đựng vỏn vẹn vài hạt lúa. Bỗng ông thấy chiếc xe chở Nhà vua đang đi tới ông mừng lắm, tự nhủ rằng thế nào nhà Vua cũng bố thí nhiều tiền cho ông. Ông chạy ra đón đường
-Muôn tâu bệ hạ, xin dủ lòng thương xót bố thí cho kẻ thần dân nghèo khổ này một ít tiền để sống qua ngày. Nhà vua xuống xe, đến gần người ăn mày, và nói một câu khiến ông hết sức ngạc nhiên và thất vọng:
-Ông có thể dâng cho hoàng thượng của ông một món quà gì không?
Không cách nào từ chối được, người ăn mày lục lọi trong túi vải một hạt lúa nhỏ nhất đưa cho nhà vua.
Khi nhà vua đi rồi, người ăn mày tiếc rẻ mở túi vải ra đếm lại số hạt lúa của mình. Lạ thay, thay vào chỗ hạt lúa đã cho đi là một hạt vàng sáng lóng lánh, cũng bằng y hạt lúa ấy. Lúc đó người ăn mày vô cùng tiếc rẻ: phải chi mình cho hết những hạt lúa đi thì bây giờ mình đã có một túi đầy những hạt vàng
Ý nghĩa chuyện này:
-Người xin trở thành người cho và người cho trở thành người nhận, như Đức Giêsu và người phụ nữ Samaria vậy.
-Chính lúc cho đi là lúc nhận lãnh; chính khi xẻ chia là khi trở nên giàu có.
Đáp lại lời mời gọi của Chúa cho một cuộc sống tự do và hạnh phúc, Ít-ra-en đã cất bước lên đường. Nhờ ơn Chúa, họ đã vượt qua được Biển Đỏ để tiến về Đất Hứa. Con đường sống những tưởng sẽ thênh thang đi tới, nào ngờ đầy những gian truân và thử thách (I). Nhưng chính trong gian truân và thử thách, Ít-ra-en học biết tin tưởng và phó thác vào Chúa. Họ sẽ hân hoan khám phá ra huyền nhiệm một Thiên Chúa là hướng đạo và (đồng hành với họ trên khắp mọi nẻo đường. Khép lại ngõ cụt, Ngài khai mở một con đường dẫn tới sự sống vĩnh cửu ; Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã Vượt Qua và dẫn đầu đoàn người vượt qua từ cái chết đến sự sống muôn đời (II + III). Hội Thánh, Ít-ra-en mới, đoàn người lữ hành theo Đức Ki-tô tìm về nguồn mạch sự sống, sẽ không ngừng gắn bó với Đức Ki-tô là cộng tác với Ngài trong công cuộc xây dựng "trời mới, đất mới" (IV). Nói cách khác, Hội Thánh luôn "Vượt Qua" với Đức Ki-tô.
1. NHỮNG KHÓ KHĂN NGĂN LỐI BƯỚC
Hành ttrình vượt qua của Hội Thánh hôm nay có thể rút lấy kinh nghiệm từ cuộc hành ttrình băng qua sa mạc của Ít-ra-en. Vì sa mạc là nơi Ít-ra-en đã trải qua biết bao thử thách, để học biết tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa. 1. Ít-ra-en không có nước uống
Thử thách đầu tiên It-ra-en gặp phải là những thử thách về thể lý, phát xuất từ sự đói khát trên đường đi. Khi đói và khát, thân xác sẽ yếu dần. Cái thân xác thường cho con người cảm giác an toàn thì nay lại tạo ra cho họ sự bấp bênh kinh khủng. Bị dồn vào cơn khát khô cổ, họ bắt đầu sợ hãi và có cảm giác tương lai kể như đã hỏng. Cái chết thấp thoáng ở cuối chân trời như án ngữ hết mọi con đường sống. Sinh lộ thành tử lộ. Con đường chứa chan hi vọng bỗng trở thành ngõ cụt tối tăm và thất vọng.
2. Ít-ra-en gây chuyện và thách thức Thiên Chúa
Những thử thách về thể lý và tâm lý chuyển thành những thử thách về tâm linh. Tuyệt vọng, Ít-ra-en đâm ra nghi ngờ và oán trách cả Thiên Chúa lẫn con người. Họ tự nhủ: Thiên Chúa có tốt không ? Thậm chí, Người có hiện hữu hay không ? Phải chăng Thiên Chúa và Mô-sê chỉ là những kẻ phỉnh gạt ? Nếu không thì tại sao Người kêu gọi tôi đi tìm tự do và hạnh phúc mà lại đưa tôi vào tử địa ? Quả thật, "Người xử với tôi như con suối điêu ngoa, như dòng nước phỉnh gạt" (Gr 15,18), vậy mà tôi cứ ngỡ là nguồn nước trường sinh ! Cơn khát đã làm đảo lộn cả thế giới bên trong, làm sụp đổ hoàn toàn những gì Ít-ra-en đã từng xác tín. Ít-ra-en thật sự đã nổi loạn, gây hấn đối với con người cũng như đối với Thiên Chúa.
11 THIÊN CHÚA Mở Lối CHO ÍTRA-EN Đi Tới
Khi nổi loạn, ít-ra-en khó nhận ra được sự thật. Chỉ sau khi thử thách qua đi, họ mới có thể suy nghĩ lại. Biết thế nên Thiên Chúa đã ra tay. Bằng hành động và ngang qua hành động "giải thoát ít-ra-en khỏi cơn khát tuyệt vọng, Thiên Chúa muốn khơi dậy mềm tin và hi vọng để nâng đỡ bước chân họ đi về phía trước.
1 Thiên Chúa cho ít-ra-en uống nước chảy ra từ tảng đá Thiên Chúa đã ra tay - cho ít-ra-en uống nước chảy ra từ tảng đá - không phải để cứu vãn "danh dự và uy tín " của một Thiên Chúa bị nghi ngờ và thử thách, nhưng để mặc khải trọn vẹn tình thương của Nbơươi dành cho chính những kẻ vong ân, phản phúc. Thiên Chúa là thế đấy ! Là Thiên Chúa của kẻ sống, Người không muốn ai trong họ phải chết, nhưng mongmuốn họ được sống và sống đi dào. Chính Người là Đấng thoả mãn mọi khát vọng sống của con người. Người còn đáng khát khao vạn ìân hơn đng nùớe tự nhiên kia.
2. Thiên Chúa khơi dậy niềm tin và hi vọng nơi It-ra-en:
Có thể nói: để nâng Ít-ra-en lên, Thiên Chúa đã phải hạ mình ; và để đưa ít-ra-en đi tới, Thiên Chúa đã phải vượt qua sự "gây hấn" của chính họ. Lòng thương xót của Người mạnh hơn tội lỗi con người. Ngay khi họ nghi ngờ Thiên Chúa, Người vẫn tin vào con người. Người cư xử như thế để Ít-ra-en hiểu rằng "ngoài Chúa ra, không có vị thần nào khác". Không nơi đâu Ít-ra-en có thể tìm thấy được một sự hiện diện yêu thương và linh nghiệm như vậy. Hiện diện và đỡ nâng họ ngay trong những thử thách cuộc sống. Trung thành ngay trong lúc họ phản bội. Thiên Chúa biết rõ đây chẳng phải là lân cuối. Rồi Ít-ra-en sẽ quên đi những ân huệ của Người, sẽ thay lòng đổi dạ và sẽ tiếp tục thử thách Thiên Chúa của họ: Nhưng bởi vì Người là tình yêu nên Người không thể cư xử khác hơn. Bao giờ Thiên Chúa cũng khép lại những ngõ cụt và mở ra cho con người con đường sống.
III. TRONG ĐỨC KI-TÔ THIÊN CHÚA KHAI MỞ CHO TA CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN NGUỒN MẠCH SỰ SỐNG
Con đường sống mà Thiên Chúa khai mở cho nhân loại không ai khác hơn là Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng đã xác nhận: "Tôi là Đường, là Sự Thật và là sự sống" (Ga 14,6). Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã khai mở một con đường và khai sinh một triều đại mới, triều đại của ân sủng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay nằm trong văn mạch ấy.
1. Đức Ki-tô đánh thức dậy những khát vọng sâu xa của người phụ nữ
Cuộc đối thoại giữa Đức Ki-tô và người phụ nữ bên giếng Gia-cóp gợi lại câu chuyện năm xưa trong hoang địa giữa Thiên Chúa và It-ra-en. Những lời chị nói, đặc biệt những câu chị hỏi, cứ như muốn "gây sự" với Chúa vậy. Tuy nhiên, Đức Giê-su không hề tỏ ra bất bình. Ngài nhẫn nại giúp chị nhận ra cái khát vọng sâu xa trong tâm hồn, đó là khát vọng sống đời đời. Để thực hiện điều ấy, Đức Giê-su đã phải vượt qua cái hố ngăn cách giữa người Do-thái với người Sa-ma-ri-a, bước đến và bày tỏ sự thân thiện qua việc xin người phụ nữ Sa-ma-ri-a cho mình uống nước. Rồi từ câu chuyện về nước uống, Đức Giê-su chuyển sang câu chuyện về nước trường sinh để đặt người phụ nữ trước khát vọng sâu xa của mình. Khát vọng mà chị hằng ấp ủ và tìm kiếm trong cuộc đời, thậm chí ngang qua một cuộc đời không mấy tốt đẹp, nhưng vẫn chưa được toại nguyện. Từ khát vọng ấy, đức tin sẽ được khơi lên.
2. Đức Ki-tô dẫn người phụ nữ tới đức tin để mở lối cho chị vào, hưởng ân sủng của Thiên Chúa
Không chỉ dừng lại ở cử chỉ thân thiện hay ở khát vọng tự nhiên của con người, Đức Giê-su còn muốn dẫn người phụ nữ tới đức tin thật sự vào Thiên Chúa cũng như vào chính Ngài, điều kiện thiết yếu để được sống đời đời. Một khi khát vọng sống đời đời được đánh thức dậy: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát , thì tâm hồn người phụ nữ Sa-ma-ri-a sẽ hướng về Thiên Chúa: "Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này". Và hướng về Đấng Mê-si-a (Ki-tô): "Tôi biết Đức Mê-si-a, Đấng gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Đây là lúc thuận tiện để Đức Giê-su mặc khải về chính mầu nhiệm của Ngài: "Đấng ấy, chính là Ta, người đang nói với chị đây". đức tin của chị được biểu lộ qua việc làm chứng về Đức Giê-su cho những người Sa-ma-ri-a khác ở trong thành. Chính những người này đã đến gặp Đức Giê-su và xin Ngài ở lại với họ. Cuối cùng, họ cũng đã tuyên xưng: Ngài thật là Vị Cứu Tinh của trần gian ".
III. TIN VÀO ĐỨC KITÔ, ĐƯỜNG VỀ NGUỒN MẠCH SỰ SỐNG
Thco thánh Phao-lô, "vì chúng ta tin lên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa (Bài đọc 2). Thánh Gio-an thì dạy: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Người cho chúng ta, để ai tín vào Ngài thì không phải hư lất nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16). Do đó, tin vào Đức Ki-tô là nẻo đường tìm về nguồn mạch sự sống.
1. “Khi đến gặp Ngài, dân Sa-ma-ri-a xin Ngài ở lại với họ".
Người phụ nữ cũng như dân Sa-ma-n-a thừa biết "người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri-a". Vậy mà khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và Đức Giê-su là Ki-tô, họ đã vượt qua “hố sâu ngăn cách" ấy cũng như vượt lên trên "tự ái dân tộc" để đến gặp Đức Giê-su và xin Ngài ở lại với mình. Người Ki-tô hữu thừa biết mối quan hệ của họ đối với Chúa không phải lúc nào cũng dễ dàng. Thực tế cho thấy, không dễ chút nào trong việc thoát khôi xiềng xích trói buộc của tội lỗi mà trở về cùng Chúa. Nỗi sợ hãi, lòng kiêu ngạo, xu hướng an phận... ngăn bước chân ta. Nói được rằng có cả một hệ thống rào cản, ngăn lối ta tìm đến cuộc sống dồi dào, đến với cuộc sống tự do vốn là khát vọng sâu xa trong lòng ta. Đó có thể là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ" (Rm 8,35), cũng có thể là "thất vọng, chán nản" hay "lề thói tập tục" xa hội. Như thánh Phao-lộ, người Ki-tô hữu phải tin rằng: "Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta... cho dù là sự chết hay sự sống... hoặc bất cứ sức mạnh nào... không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta" (Rm 8,37-39). Vâng, trong mọi hoàn cảnh cũng như trong mọi cử hành, người Ki-tô hữu phải gặp được Chúa và ở lại với Ngài.
2. "Chúng tôi nghe và biết rằng Ngài thật là Vị Cứu Tinh của trần gian
Sau khi gặp gỡ Đức Giê-su, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Ngài giữa những người Sa-ma-ri-a trong thành. Còn những người Sa-ma-ri-a, sau khi gặp và xin Chúa ở lại với họ, đã hân hoan tuyên xưng rằng: "Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chúa chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Vị Cứu Tinh của trần gian ".
Cuộc sống của những ai đã khám phá và gặp gỡ Đức Giê-su luôn luôn là cuộc sống chứng tá, giới thiệu Đức Giê-su là Đấng thông ban cho con người sự sống phong phú dồi dào. Sống trong cuộc đời, người Ki-tô hữu chia sẻ nỗi khát khao của mọi người: khát nước, khát công bằng, khát tự do và nhân phẩm... Đồng thời, người Ki-tô hữu cững chia sẻ với anh em mình nỗi khát khao sâu lắng nhất: ấy là khao khát Thiên Chúa. Đồng thời giới thiệu Đức Giê-su cho mọi người vì chỉ nơi Ngài, mọi nỗi khát khao mới được đong đầy và cũng chỉ nơi Ngài, sự sống phong phú dồi dào mới được tặng ban.
* * *
Vì một thế giới công bằng và tự do, yêu thương và hạnh phúc, vì Thiên Chúa và con người, vì Nước Trời, Đức Ki-tô đã vượt qua khổ nạn và eái chết để dẫn cru đoàn người vượt qua đi vào sự sống vĩnh cửu. Hội Thánh, ít-ra-en mới, nhờ bàn tiệcLời Chúa và Mình Máu Chúa nâng đỡ, không ngừng vượt qua với Đức Ki-tô. Vượt trên mọi thử thách, Hội Thánh luôn gắn bó với Đức Giê-su và cộng tác với Ngài trong công cuộc xây dựng "trời mới, đất mới". Là khách đường mới, Hội Thánh sẽ hát bài ca mới và chẳng muốn hát lại "chuyện cũ" làm chi.
LỜI NGUYỆN TÍN HŨU
Chủ Tế: Anh chị em thân mến, Đức Giê-su đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri-a: "Ai uống nước tôi ban cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho, sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt, mang lại sự sống muôn đời". Cùng với người phụ nữ ấy, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Ý NGUYỆN:
1. Xin cho thế giới đang khao khát lẽ sống chân thật, công lý và bình an, được no thoả ân huệ của Thiên Chúa.
2. Xin cho Giáo Hội luôn biết đói khát Chúa, đói khát chân lý, thánh thiện, công bằng và tình thương.
3. Xin cho những người thành tâm thiện chí tìm kiếm Chúa, được biết Chúa và phụng sự Người thco thần Khí và Sự Thật.
4. Xin cho cộng đoàn chúng con luôn biết gắn bó với Chúa và trung thành theo Chúa trên mọi nẻo đường Phúc âm, để có thể làm chứng rằng Người thật là Vị Cứu Tinh của trần gian.
Chủ Tế: Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con Lời Chúa. Xin cho Lời Chúa trở thành mạch suối đức tin, tình yêu và quảng đại nơi tâm hồn chúng con, ngõ hầu cuộc sống chúng con được sinh hoa kết trái thánh thiện và tràn đây niềm vui. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời.
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những trình thuật lý thú nhất về tình người và phong phú nhất về ý nghĩa thần học của cuốn Tin Mừng thứ tư.
Vùng đồi núi Samari là một khung cảnh thơ mông, đầy nét thiên nhiên. Giêng Nước của tổ phụ Giacóp gợi nhớ tâm tình đạo đức đối với miền thánh địa và núi thánh Garijim của Thiên Chúa.
Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Đức Giêsu và người thiếu phụ Samari thật là hi hữu, đã dẫn đến những vén mở về bản thân Đức Giêsu một cách ý vị, sâu sắc.
1. Đức Giêsu sống hoàn cảnh của con người
Câu chuyện được bắt đầu bằng một hoàn cảnh của đời thường. Đức Giêsu đang trên đường đi từ Giuđê tới Galilê. Do đó, Người phải băng qua Samari. Người đến một thành xứ này, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có giêng của ông Giacóp. Người đi đường mệt mỏi, nên ngồi ngay xuống bờ giêng. Lúc đó, vào khoảng mười hai giờ trưa. Có một phụ nữ Samari đến kín nước. Đức Giêsu nói với người ấy: " Chị cho tôi xin chút nước uống!"
Đức Giêsu là một người xa lạ, rất xa lạ, đã trở nên gần gũi một phần nào đó với người phụ nữ Samari, vì Người đang sống hoàn cảnh đáng được thông cảm. Đường xa mỏi mệt, nắng trưa oi bức mà Nước Giêng thì trong mát, Người phải xin nước uống vì cơn khát.
Tuy nhiên, khoảng cách xa lạ vẫn còn khá. Giữa Đức Giêsu và người thiếu phụ, vẫn có những ngăn cách lớn về chủng tộc, phái tính, văn hóa và tôn giáo. Dù đây là một dịp riêng tư, nhỏ bé, nhưng đôi đàng vẫn bị ngăn chặn, xa cách:
“Ông là ngườí Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari cho ông uống nước sao?"
Đó là cảnh đời chua chát của con người mà Đức Giêsu phải nếm thử. Con người vẫn phải chịu đựng những nặng nề, bế tắc. Biết làm sao được, mặc dù lòng người đơn thành vẫn khao khát tình huynh đệ đại đồng. Mọi người đều giới hạn, bất lực. Không ai có thể thay đổi. Đức Giêsu chính là người sẽ thay đổi.
2. Đức Giêsu là Đấng ban nước hằng sống
Người không trả lời vấn nạn của người thiếu phụ. Người cảm thông với chị trong nỗi khổ tâm ấy. Người sẽ thay đổi tình trạng ấy bằng một vén mở:
“Nếu chị nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống thì hẳn chị đã xin và người ấy ban cho chị nước hằng sống”.
Câu nói của Đức Giêsu mới mẻ lạ lùng quá, làm cho người thiếu phụ phải chú ý, muốn biết người này là ai: " Thưa ông, ông không có gầu mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống, chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi?”
Người thiếu phụ đã đẩy Đức Giêsu tới cùng của vấn nạn. Một là chịu thua hai là vượt qua được. Nếu là người thường thì câu chuyện đã sớm kết thúc một cách nhạt nhẽo đây nhưng Đức Giêsu muốn vượt qua:
“Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa".
Người thiếu phụ bị chinh phục trước lời vén mở đầy hấp dẫn đó. Chị đã mau mắn xin: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây kín nước!"
Đó là điều lý thú. Đức Giêsu đã làm thay đổi tình thế. Thay vì Người là người xin nước thì bây giờ là người cho nước; còn người thiếu phụ là người cho nước, bây giờ lại là người xin nước của người.
Người thiếu phụ xin Đức Giêsu thứ nước hằng sống, thứ nước mà chị cần hơn cả thứ nước giếng vốn rất quí đối với những người miền núi. Đức tin sẽ cho chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của điều Đức Giêsu vừa mạc khải cho người thiếu phụ. Đức Giêsu chính là Đấng ban Nước hằng sống để cứu độ những con người tội lỗi, là Đấng ban Chúa Thánh Thần để cho họ một đời sống mới, đời sống của chính Thiên Chúa.
3. Đức Giêsu là Ngôn Sứ và Đấng Kitô hữu
Trước thái độ khiêm tốn đón nhận của người thiếu phụ, Đức Giêsu muốn vén mở một điều quan trọng khác, liên quan đến chính bản thân của chị.
" Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”.
Người dã bắt đầu một cách nhẹ nhàng như thế, trong khi Người đã biết rõ hình trạng bi đát thuộc mảng đời tình cảm của chị, phủ đầy sóng gió nhưng chị tội hoàn toàn cô đơn bất hạnh bằng những tình cảm chắp nối chóng qua. Chị cũng phải cắn răng chịu đựng những khinh miệt của dân làng bởi vì rõ ràng chị là một kẻ tội lỗi.
Tuy nhiên, trong cái nhìn thấu suốt và bao dung của Đức Giêsu chị thật sự là người đáng thương đang cần sự giải phóng. Có lẽ, chị đã nhận ra điều đó. Chị đã mạnh dạn nói, dù chỉ là một phần sự thật:
"Tôi không có chồng".
Thế là đủ rồi, đủ để diễn tả ước muốn tha thiết của chị. "Chị nói: tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”.
Đức Giêsu đã tỏ ra cho chị biết Người là ai khi Người đã biết trước và biết rõ hoàn cảnh éo le của chị. Chị rất ngạc nhiên và khâm phục:
“Thưa ông, tôi thấy ông là một ngôn sứ...”
Một điều rất kỳ diệu là chị đã thú nhận tất cả những gì Đức Giêsu nói về chị. Chị không xấu hổ và biện minh nhưng lại tuyên xưng, ca tụng Người. Tâm hồn chị được bình an và có một niềm vui mãnh liệt. Chị đã hạnh phúc với niềm vui mới. Chị đã "để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”
Chị sung sướng thật sự vì chị đã nhận ra người là vị ngôn sứ, là Đấng Kitô của Thiên Chúa: "Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho dân chúng tôi mọi sự.
Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.
4. Đức Giêsu dẫn mọi người đến sự thờ phượng đích thực
Tâm hồn người thiếu phụ Samari đã được giải phóng khỏi những vướng mắc nặng nề. Chị đang khao khát hướng lên Thiên Chúa. Nhưng cách thờ phượng nào mới là đích thực? Ai sẽ chỉ cho chị?
Có một thực tế là con người rất giới hạn và cục bộ. Luôn xa cách nhau, thậm chí khử trừ nhau vì những cái khác nhau. Đó là tình trạng bi đát mà người thiếu phụ đang là nạn nhân. Chị đã mạnh dạn giải bày:
“Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này, còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa!"
Đức Giêsu cũng biết rõ khó khăn vướng mắc này đã tồn tại từ lâu đời:
Người Samari đã căn cứ vào đoạn sách Thứ luật (27, 4 - 8) để tin rằng núi Garisim là thánh địa của Thiên Chúa. Sau biến cố xuất hành và sau khi vào được Đất hứa, dân Chúa đã lập bàn thờ kính Thiên Chúa ở ngọn núi này.
Còn người Do thái thì lại nghĩ khác. Ho cũng dựa theo sách Thứ luật, chương 12, 1-14 để khẳng định rằng toàn đất Nước lsrael chỉ có một đền thờ duy nhất mà thôi. Đó là Đền thờ Jêrusalem.
Đức Giêsu nói: "Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Jêrusalem!”
"Cách nói thân tình của người diễn tả mức độ tin tưởng vào người nghe. Người đã chuẩn bị tâm hồn chị, để đến lúc này, chị có thể lãnh nhận một mạc khải quan trọng: Thời kỳ cũ đã qua rồi và cách thờ phượng cũ đã chấm dứt. Nay là thời thiên sai, thời kỳ của ơn cứu độ phổ quát:
"Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật”.
Đức Giêsu đã khai mở và thiết lập giao ước mới. Nghi lễ cũ phải nhường cho nghi lễ mới. Người chính là của lễ mới và là Đền thờ duy nhất của Thiên Chúa Cha. Những ai tin nhận Người là Đấng Thiên sai, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết, Đấng ban Thánh Thần để con người có sự sống mới của Thiên Chúa cách đích thực.
Đức Giêsu đã thắp sáng lòng tin cho người thiếu phụ Samari. Tiến trình thiêng liêng của chị cũng là tiến trình thiêng liêng của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Những ai khiêm tốn nhìn nhận mình là một tội nhân đích hực, cần được cứu độ. Những tâm hồn mở rộng đón nhận giáo huấn và ân sủng của người thì cũng được người thắp sáng lòng tin. Một khi lòng tin đã được thắp sáng thì con người chúng ta sẽ được biến đổi cách tuyệt vời.
Trong bài Tin Mừng này, Thánh Matthêu có ghi chép: khi Chúa nói chuyện với người phụ nữ xứ Samaria, thì các môn đệ vào thành mua thức ăn. Lúc các Ngài trở về, đưa thức ăn mời Chúa dùng, thì Chúa nói:
“Thầy có của ăn mà các ocn không biết”
Thấy môn đệ thắc mắc về câu nói đó, nên Chúa đã nói tiếp:
“Của ăn Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của Ngài.”
Ước chi của ăn mỗi người chúng ta là biết vâng theo ý Chúa, và chu toàn công việc Chúa trao.
Thánh Vinhsơn Liêm (tử đạo ngày 7.11.1773, 41 tuổi) luôn luôn nghĩ tới việc tuân theo ý Chúa, và chu toàn công việc Chúa trao phó.
Trong thư đề ngày 17.6.1764 gửi về trên giám tỉnh ở Manila (Phi Luật Tân) cha Vinhsơn bày tỏ những nỗi khó khăn các giáo hữu Việt Nam gặp phải trong việc giữ đạo, và những gian nan của chính cha trong sứ vụ truyền giáo. Ngài viết:
“Con xin Cha bề trên cầu Thiên Chúa cho con trong Thánh lễ và kinh nguyện, để mỗi ngày con được nên hoàn thiện hơn và vui lòng nhận mọi sự khốn khổ theo Thánh ý Chúa.”
Cha Vinhsơn Liêm sinh năm 1732. Năm 12 tuổi cậu Liêm vào tu tại Lục Thủy, và đã tỏ ra thông minh đạo hạnh.
Sau 6 năm học tập, cậu được cha chính Huy chọn vào số thanh niên hưởng học bổng, sang Manila học trường San Juan de Letran. Trong thời gian học ở đây, thầy Vinhsơn Liêm rất xuất sắc và được các bạn học quý mến, thầy xin vào dòng Đaminh năm 1753, và sau một năm, thầy Vinhsơn Liêm tuyên khấn. Thầy tiếp tục thêm 4 năm thần học và các khoa chuyên môn tại đại học Santo Tomas. Năm 1786, Thầy thụ phong Linh mục và về nước giảng đạo.
Về Việt Nam, trước hết cha Vinhsơn Liêm được bổ nhiệm làm giáo sư đại chủng viện Trung Linh (Nam Định). Cha đã đem hết tài trí và nhiệt thành truyền đạt cho các chủng sinh, những kiến thức cha đã học được. Nhưng nguyện vọng của cha là loan báo Tin Mừng. ít lấu sau cha đa rời chủng viện dấn thân vào cánh đồng truyền giáo. Cha lần lượt đảm nhiệm các xứ Quất lâm. Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Lao, và từ khi cha Jacinto Gia bị bắt, cha kiêm luôn cả vùng Lai Ơn.
Hoạt động Tông đồ của cha không chỉ hạn hẹp trong các giáo xứ, mà còn mở rộng đến các làng ngoại giáo, bất chấp những khó khăn nguy hiểm của thời cấm cách TRịnh Sâm (1767-1782). Tại bất cứ nơi nào, cha luôn nhiệt tình yêu thương, giúp đỡ mọi người, cha khuyên mọi người sống can đảm, an ủi khích lệ lòng tin anh em, để không ai bị nao núng vì các nỗi gian truân.
Trong thời gian này cha Liêm thường thư từ với các bề trên và bạn học ở manila. Hai bức thư đề ngày 17.6.1764 một gửi cha Pedro Ire, bề trên Giám tỉnh ở Manila, một gửi Đức Cha Bernado Votaris, Giám mục đại phận Nueva Segovia (Phi Luật Tân). Cha Vinhsơn Liêm báo cho hai vị một tin vui: “Ông hoàng thứ 6, em của vị “Chúa” (Trịnh) xứ Bắc (Đàng ngoài) vào đạo Công giáo, và chịu phép rửa trước khi từ trần”.
Năm 1773, lễ Đức Mẹ Mân Côi, Cha Liêm đi giảng cho họ Lương Đống (cách thị xã Thái bình 15 km). Nhà cầm quyền nghe biết, sai người theo dõi bắt cha.
Ngày 2 tháng 10 năm 1773 quân bổ vây nhà ông nhiêu Nhuệ, nơi cha đang ở. Họ đột nhập bắt trói, đánh đấm cha. Máu chảy ướt cả áo. Họ đem nộp cha cho Chánh Tổng tên là Trần Văn Hiến. Ông này muốn giáo dân đút nhiều tiền để chuộc, nên giam giữ cha 12 ngày, cho đến khi thấy kết quả, mới giải cha lên Phố Hiến, nộp cho quan trấn. Ở đấy, cha Liêm gặp được Castaneda Gia trong ngục.
Ngày 20.10.1773, được lệnh của Phủ Liêu quan trấn dạy đóng gông cha Gia và cha Liêm, có ghi 4 chữ “Hoa Lang Đạo Sư”, rồi trao cho quan phủ Trần Khê giải hai cha lên Thăng Long.
Tịnh Đô Vương đã lên án trảm quyết hai Cha.
Ngày 7.11.1773 cha Liêm và cha Jacintô Gia được dẫn từ ngục ra pháp trường, dân chúng đi xem rất đông. Khi qua hoàng cung, theo thói quen quan biểu hai cha đứng lại nghe vua y án hay được ân xá. Một viên quan lớn tiếng nói: “Tên Gia và tên Liêm bị kết án tử hình vì tội làm đạo trưởng cho Hoa Lang Đạo, một đạo đã bị nghiêm cấm.”
Cha liêm sợ mất phúc tử đạo, lên tiếng khiếu nại:
“Cha Gia bị án trảm quyết vì lẽ gì, thì cũng phải kết án trảm quyết tôi lẽ ấy. Cha Gia là đạo trưởng, thì tôi cũng là đạo trưởng, nếu luật nước không kết án tôi, thì càng không được kết án cha Gia, vì tôi là công dân nước Việt, tôi phải giữ luật nước hơn người. Nếu chỉ giết cha Gia, còn tôi thì tha, án của vua chúa không công minh. Yêu cầu tha thì tha cả hai, mà giết thì cũng phải giết cả hai, thế mới công bình”.
Nghe cha Liêm nói, quan dân đều ngậm ngùi muốn tha tất cả, nhưng vì bản án đã công bố, nên quan phải y lệnh dẫn hai nhà truyền giáo ra pháp trường Đồng Mơ ở ngoài thành.
Hai Đấng tử đạo sung sướng cùng nhau tạ ơn Chúa. Hai vị đọc kinh Tin kính, hát kinh Salve Regina (Lạy Nữ Vương) cho tới pháp trường. Chiêng trống đổ hồi lên hiệu. Đầu hai đấng tử đạo rơi xuống, giáo dân cũng như lương dân ùa vào tranh nhau thấm máu, cắt gông cùm, xén áo dòng làm vật kỷ niệm. Giáo dân lập mưu lượm thi hài hai đấng Thánh, chôn táng một cách kính cẩn, gông xiềng cũng được cất giấu cẩn thận. Chỉ vài ngày sau, các bể trên trong địa phận cắt cử mấy thầy giảng đi Thăng Long để rước hai xác Thánh về Trung Linh.
Một thanh niên da đen đang theo học ở Đại học California để làm giáo viên, nhưng anh vẫn phải nhận làm công việc không trọn ngày ở trạm xăng dầu. Một vài khách hàng phản đối. Họ chỉ muốn người da trắng phục vụ. Người chủ trạm xăng dầu sắp sửa cho thanh niên da đen nghỉ việc, thì một bà khách hành hỏi: “Ông nghĩ xem là ông sẽ mất bao nhiêu khách hàng, nếu ông cứ để anh thanh niên da đen làm việc ?”
Chủ nhân đáp: “Có lẽ 18 hay 20 người”.
Bà khách hàng đề nghị: “Giả như tôi tìm được 20 khách hàng mới thì ông phải giữ anh ta lại chứ?”
Chủ nhân đáp: “Phải, tôi chắc chắn như thế”.
Trong nháy mắt, người đàn bà này thật giống Chúa Kitô, chạy vòng quanh kiếm được không phải là 20 mà được 25 khách hàng mới. Thế là anh thanh niên da màu được ở lại làm việc.
Người đàn bà đó đã có hành động tích cực đối với thành kiến chủng tộc, nó là một phần xấu xí của bức họa vĩ đại về những người Mỹ suy nghĩ và hành động không chỉ chống lại một màu da khác, mà còn chống lại cả quốc tịch khác, tôn giáo, giai cấp xã hội và cả điều kiện kinh tế nữa. Quá nhiều người trong đất nước “mọi người sinh ra được bình đẳng”, lại nỗ lực tách biệt, ngược đãi, kiềm chế những người mà họ nghĩ rằng có địa vị thấp kém hơn họ.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta một mẫu gương về điều tai hại này. Chúa Giêsu, một người Do thái, xin một phụ nữ Samaria cho uống nước, dù rằng, như Tin Mừng đã ghi rõ: “Người Do thái không giao thiệp với người Samaria”. Chúng ta không có nhiều thời gian để giải thích về khung cảnh của sự thù nghịch giữa hai dân tộc lân bang này. Nhưng cũng lưu ý rằng, Chúa Giêsu đã dừng lại để nói chuyện với phụ nữ này, làm cho chị và nhiều người láng giềng của chị nhyận biết Ngài là Đấng Cứu thế. Họ được chia sẻ Nước trường sinh của sự sống và ân sủng của Thiên Chúa.
Chúng ta có thể làm được nhiều việc thực tế để cải tiến cho những cá nhân hay những nhóm người chịu đau khổ vì thành kiến – như kiếm việc làm cho họ, như người đàn bà trong câu chuyện đã làm, giúp họ được giáo dục tốt hơn, điều kiện sống khá hơn, được luật pháp bảo vệ. Nhưng không ai làm được những điều gọi là nỗ lực thực tế mà trước hết lai không có ít cố gắng về tinh thần.
1. Cầu nguyện:
Bạn hãy xin Thiên Chúa giúp bạn biết điều phải làm và giúp bạn thực thi điều đó. Bạn hãy xin Thiên Chúa giúp bạn thắng vượt mọi thành kiến.
2. Sửa chữa:
Bạn hãy cố gắng đền bù vì những bất công, những đối xử phân biệt, những hành động tàn nhẫn của một số người trong xã hội. Còn thời gian nào thuận tiện hơn mùa chay, khi chúng ta làm mới lại cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu chịu đền bù tội lỗi chúng ta ? Còn thời gian nào tốt hơn Mùa Chay, khi chúng ta được nhắc nhở làm hòa với nhau ?
3. Kiên nhẫn:
Chúng ta không có thể thay đổi hoàn cảnh một sớm một chiều. Hãy kiên nhẫn, nhưng kiên nhẫn không có nghĩa là mong đợi điều gì đó xảy ra, mong đợi ai khác bắt dầu. Bạn hãy bắt dầu trong Thánh lễ này với sự chân thành cầu nguyện để hiểu biết.
4. Hy sinh:
Cần phải có hy sinh. Bạn hãy tiến hành một vài hy sinh ở đây, ngay lúc này. Hãy kết hiệp hy sinh của bạn với Hy Tế của Thánh lễ. Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta lòng can đảm, sức mạnh, ánh sáng và ân sủng để hoạt động cho sự bình đẳng của mỗi người trước mặt Chúa. Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Với Chúa Nhật hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta đã tiến vào Chúa Nhật III của Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hồng ân Chúa ban cho mỗi người chúng ta có thời giờ và cơ hội để tĩnh tâm, suy nghĩ hoán cải... hầu xây dựng cuộc sống nội tâm. Qua đó chúng ta có thể phát triển đến độ viên mãn hồng ân trọng đại mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, cốt trở nên những phần tử sống động hơn của Giáo Hội, để ngày càng trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa. Ước gì trong Thánh lễ này chúng ta thự sự gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng luôn ban cho chúng ta nước hằng sống là Mình và Máu Thánh Ngài. Vậy trong cuộc sống, chúng ta hãy noi gương Ngài chia sẻ những gì chúng ta đã lãnh nhận từ Thánh Thể mà phân phát cho anh chị em xung quanh.
Anh chị em thân mến!
Trong những năm gần đây, với mục đích giúp anh chị em Kitô hữu đào sâu ý nghĩa của bốn mươi ngày Mùa Chay để chuẩn bị mừng Đại Lễ Phục Sinh. một vài dòng tu đã tổ chức sống tuần tĩnh tâm với chủ đề: "Kinh nghiệm sa mạc".
Khi nói về sa mạc, người ta có thể hình dung sa mạc là biển cát mênh mông, nóng như thiêu như đốt vào ban ngày, nhưng lại trở nên lạnh buốt về đêm vắng. Sa mạc là biển cát vô định hướng, không biết địa thế, nếu không có kinh nghiệm mà lạc bước vào sa mạc thì chỉ còn một con đường duy nhất là đi tới. Nó có thể là con đường vô tận, có lối vào mà không có lối ra. Sa mạc còn là nơi khô cằn thiếu sự sống, là sự thử thách tột độ về sức lực của con người. Sa mạc là Mtền đất của đói khát và là Mtền đất của sự kiệt sức, của rã rời và của chết chóc.
Nhưng trên con đường dẫn dân Do Thái về đất hứa, Giavê Thiên Chúa đã dùng sa mạc làm trường học để huấn luyện, thanh tẩy và để hội tụ niềm tin của họ vào một mình Thiên Chúa duy nhất. Và ở giữa sa mạc, thỉnh thoảng người lữ hành có thể tìm một vùng cây cối xanh tươi, dịu mát để múc lấy sức sống từ mạch nước quí giá.
Anh chị em thân mến!
Theo một ý nghĩa nào đó, tiến vào bốn mươi ngày của Mùa Chay là các tín hữu Kitô chúng ta nối gót dân Do Thái xưa kia trong cuộc hành trình xuyên qua sa mạc để tiến vào Đất Hứa. Cũng như tiến vào bốn mươi ngày của Mùa Chay, chúng ta dõi theo bước chân Đức Giêsu đi vào hoang địa để chay tịnh, để cầu nguyện và suy niệm. Qua đó, đào sâu ý nghĩa của cuộc sống và nhận định lại bậc thang giá trị của mọi sự việc. Vào Chúa Nhật hôm nay, sau hai tuần vất vả hành trình xuyên qua sa mạc nóng bỏng, khô cằn, Phụng vụ Lời Chúa dẫn chúng ta đến giếng nước trong mát. Bài Tin Mừng mời gọi chúng ta dõi theo bước chân của người phụ nữ Samaria đến bờ giếng. Bà đến để xách nước, nhưng lúc rời khỏi nơi đây bà đã bỏ chiếc vò đựng nước lại. Bởi lẽ, nơi giếng nước bà đã gặp gỡ một nhân vật có khả năng giải thích những vấn nạn mà bà hằng ôm ấp bấy lâu nay. Nhân vật ấy có khả năng giúp bà thoả mãn mọi khát vọng cũng như mở cho bà một chân trời mới, một hướng đi mới. Và qua cuộc đối thoại với người lữ hành, bà đã cảm thấy được niềm vui chân thật chan chứa trong tâm hồn.
Vậy trên con đường hành trình xuyên qua sa mạc của Mùa Chay, Đức Giêsu cũng đang ngồi bên bờ giếng để mời gọi chúng ta đến kín nước hằng sống mà chính Ngài sẽ ban cho chúng ta, giải khuây mọi đói khát của cuộc sống và của tình yêu.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay đề nghị với chúng ta tiến tới mạch nước như người phụ nữ Samaria, hay nói cách khác, bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy dõi theo cuộc hành trình đức tin của bà. Khởi đầu nhận ra người lữ khách đối thoại với bà là một người Do Thái, sau đó bà cho rằng ông ta là một con người ăn nói khôn ngoan, có lẽ ông là một vị ngôn sức. Và sau cùng bà tin rằng có thể ông là Đấng Messia, Đấng Thiên Sai, và bà còn đặt nhiều câu hỏi về người lữ hành đang mệt nhọc ngồi cạnh bờ giếng xin mình nước uống, nhất là bà vẫn chưa tin câu tuyên bố của ông ta: "Đấng Kitô chính là Ta, là người đang nói với bà đây". Nhưng bà đã bỏ lại chiếc vò bên bờ giếng và quên cả mục đích ban đầu là ra giếng xách nước, và bà vội vàng trở về nói với dân chúng về kinh nghiệm của mình và hối thúc họ ra xem và nghe Đức Giêsu.
Cũng như người phụ nữ trên, mỗi Chúa Nhật chúng ta quây quần bên bàn tiệc Thánh Thể để gặp gỡ Chúa và để tắng nghe lời Ngài nói. Và khi dân chúng không hiểu hết lời của Đức Giêsu tuyên bố, thí dụ như: "Nước Trời đang hiện diện giữa các ngươi", hay "Này là Mình Ta, này là Máu Ta" hoặc "với Thiên Chúa không còn sự chết nữa", nhưng chúng ta vẫn tiếp tục đến để uống nước Lời Chúa, vẫn tiếp tục rước lấy sự sống được ban trong và qua Mình Máu Chúa Giêsu, hầu để tiến sâu vào mối dây liên hệ mật thiết với Ngài ngày một khăng khít và bền chặt hơn.
Rồi sau mỗi Thánh Lễ, chúng ta mang chính nguồn sống mà chúng ta đã lãnh nhận là Chúa Giêsu Thánh Thể, để từ nguồn sống cao quí thiêng liêng ấy, chúng ta có thể hướng dẫn kẻ khác đến với Chúa, hay ít ra là cố gắng thể hiện thực lại Nước Trời trong môi trường chúng ta đang sống. Một nước của công lý, hoà bình, một nước nơi tình yêu chân thật được thể hiện qua sự hiệp nhất, cảm thông, liên đới và chia sẻ. Có như thế nguồn sống và lương thực mà Thiên Chúa thông ban cho chúng ta qua cuộc gặp gỡ Người trong mỗi Thánh lễ mới trở nên như những nguồn nước tươi mát, mang sức sống mãnh liệt cho xã hội đang khô cằn như sa mạc. Bởi vì xã hội còn đầy dẫy những ích kỷ, ghen ghét, hận thù, độc lài, độc tôn, những bất công, đàn áp, hối lộ, tham nhũng và những hành động bất công như sự chà đạp lên các quyền lợi chính đáng của con người.
Giờ đây, anh chị em chúng ta hãy tiếp tục dâng Thánh lễ để đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: "Hãy đến uống nước để trở thành mạch nước tươi mát, để đổi mới và làm đẹp bộ mặt xã hội". Qua đó, đẩy mạnh tiến trình biến xã hội trần thế trở thành nước của Thiên Chúa.
Trước hết chúng ta hãy dựng lại khung cảnh của sự việc này. Xứ Palestine kể từ bắc xuống nam dài khoảng gần 200cs. Vào thời Chúa Giêsu nó chia thành ba vùng khác nhau phía bắc là Galilê , phía nam là Giuđê, và giữa hai phần đó là Samaria. Trong giai đoạn đó, Chúa Giêsu không muốn bị lôi cuốn vào việc tranh chấp về phép rửa, nên quyết định tạm thời rời Giuđê để chuyển sang hoạt động tại xứ Galilê. Giữa dân Do thái và dân Samaria đã có mối bất hòa kéo dài từ nhiều thế kỷ, sau đây chúng ta sẽ thấy nguyên nhân. Con đường ngắn nhất từ Giuđê đến Galilê là đi ngang qua xứ Samaria, mất khoảng ba ngày. Nếu đi đường khác để tránh xứ Samaria thì phải qua sông Giođan, đi lên theo phía đông của sông, rồi trở lại bờ bên này ở phía bắc Samaria để vào Galilê. Đi đường vòng xa gấp đôi, muốn chọn con đường ngắn nhất, Chúa Giêsu phải đi ngang qua Samaria.
Trên đường đi, đoàn người đến một thành phố gọi là Sikha. Ở gần Sikha, có một ngã ba (một ngã đi về phía đông bắc đến Xitôbôli, ngã kia đi về hướng tây đến Babơlu, rồi sau đó sang hướng bắc đến Enganim). Ngay tại ngã ba đường này, đến nay hãy còn một cái giếng, gọi là giếng Giacóp. Tại vùng này người Do thái có nhiều kỷ niệm. Giacóp có mua một mảnh đất nhỏ tại đó. Trước khi qua đời, Cụ trối lại chia mảnh đất này cho Giuse. Về sau Giacóp qua đời tại Aicập, xác ông được đưa về Palestine và chôn ở đó. Cho nên quanh vùng này người Do thái có rất nhiều kỷ niệm.
Cái giếng sâu hơn ba mươi mét, đây không phải loại giếng do mạch nước tạo thành, nhưng do nước ngầm thấm tụ lại. Giếng sâu nên không ai có thể lấy nước được nếu không có gầu múc. Lúc Chúa Giêsu và đoàn tùy tùng ít ỏi đến ngã ba đường này, Chúa ngồi lại để nghỉ chân vì đi đường xa mệt mỏi. Bấy giờ là giữa trưa (ngày của người Do thái bắt đầu lúc sáu giờ sáng đến sáu giờ tối, vào giờ thứ sáu tức là mười hai giờ trưa). Lúc ấy trời nắng nóng tối đa, và vì đi xa nên Chúa Giêsu thấm mệt và khát nước. Các môn đệ vào thành phố của người Samaria để mua thức ăn. Chắc phải có biến chuyển xảy ra nơi họ. Trước khi gặp Chúa, chắc chẳng bao giờ họ nghĩ đến chuyện mua thức ăn trong thành phố của người Samaria. Từ vô thức, các hàng rào ngăn cách từ từ bị phá bỏ từng chút một.
Khi Chúa Giêsu ngồi một mình tại đó, một phụ nữ Samaria đến. Tại sao bà đến giếng này thì vẫn còn là điều bí ẩn, vì từ Sikha đến đây đường dài gần 1cs , chắc là nhà bà trong làng và ở đó cũng có nước. Về phương diện đạo đức, bà thuộc hạng người bị khinh bỉ, có lẽ các phụ nữ khác vẫn dè bửu bà, nên bà tránh giếng nước trong làng và đến đây múc nước chăng? Chúa Giêsu đã xin bà cho Ngài nước uống. Bà kinh ngạc quay lại hỏi: "Tôi là người Samaria và ông là người Do thái , sao ông lại xin tôi cho ông nước uống ?" Tới đây, tác giả Gioan giải thích cho những độc giả Hilạp của Ngài rằng, người Do thái và người Samaria vốn không giao thiệp với nhau.
Chúng ta thấy rõ những gì ghi lại thật vắn tắt so với một buổi nói chuyện dài. Nếu có thể so sánh thì đây chỉ là biên bản của một buổi họp hội đồng chỉ ghi lại những điểm chính của cuộc thảo luận. Chúng ta có cảm tưởng rằng người đàn bà này đã trút hết gánh nặng của lòng mình cho người khách lạ. Đây là lần hết sức hiếm hoi trong đời, bà được gặp người có ánh mắt dịu hiền thay vì thái độ trịch thượng, chê bai, nên bà đã đổ dốc lòng mình ra. Qua câu truyện này, chúng ta biết về Chúa Giêsu:
1. Ngài có nhân tánh thật: Chúa mệt vì đi đường xa, Ngài ngồi lại bên miệng giếng mệt lả. Thật là ý nghĩa khi tông đồ Gioan, người nhấn mạnh thần tánh hoàn toàn của Chúa Giêsu hơn các tác giả Phúc Âm khác, lại cũng nhấn mạnh đầy đủ nhân tánh của Ngài. Ông không trình bày một mẫu người siêu nhiên không hề biết sự lao khổ, mệt mỏi của loài người, nhưng mô tả một con người cũng mệt mỏi và vẫn phải tiếp tục làm việc.
2. Ngài có lòng thông cảm: nếu gặp một lãnh tụ tôn giáo, một nhà lãnh đạo giáo hội chính thống của thời ấy, chắc người đàn bà đã phải xấu hổ. Chắc hẳn bà đã tránh gặp những người như thế. Chẳng may mà gặp thì bà cũng giữ thái độ im lặng đầy xấu hổ lẫn căm thù. Nhưng khi nói chuyện với Chúa Giêsu , bà tìm được sự tự nhiên gần gũi. Cuối cùng, bà như gặp được một người thân, không lên án mà còn thông cảm sâu xa với mình nữa.
3. Ngài triệt hạ mọi hàng rào ngăn cách: mối bất hòa giữa dân Do thái và dân Samaria bắt nguồn từ một câu truyện rất xa xưa. Khoảng năm 720TC, người Assyri xâm chiếm vương quốc Samaria ở phía bắc, chiếm lấy và thống trị. Cũng như các nhà đi chinh phục thời bấy giờ họ đưa hầu như toàn thể dân Samaria sang Mêđi, và đưa các dân tộc khác từ Babylon, Cút... đến tại Samaria (2V 17, 6.24). Nhưng thật ra, họ không thể đưa tất cả đi được, có một số người còn sót lại, và họ bắt đầu cưới gả với người ngoại bang mới đến. Họ đã phạm một tội mà người Do thái coi là trọng tội, không thể tha thứ. Họ đã làm mất thuần chủng Do thái. Cho đến nay, trong gia đình Do thái có một luật hết sức nghiêm khắc là, nếu có một đứa con trai hay con gái cưới vợ lấy chồng là người ngoại bang, thì người ta lập tức làm lễ an táng người con ấy. Một người như thế bị Do thái giáo chính thống xem như chết rồi. Như thế, đa số dân xứ Samaria thuộc vương quốc miền bắc bị đầy sang Mêđi và không bao giờ trở về nữa, họ bị đồng hóa với các dân tộc họ bị đầy đến. Họ là mười chi phái tản lạc mất luôn. Số người còn trong xứ lại cưới gả với dân ngoại bang được đưa đến đó, nên họ cũng mất luôn quyền làm người Do thái.
Về sau, vương quốc miền nam, là kinh đô Giêrusalem cũng bị xâm lăng và bại trận. Dân chúng bị đày sang Babylon, nhưng không mất gốc, họ vẫn còn là dân Do thái ngoan cố và không thay đổi. Cho đến thời Êdra và Nêhêmia, dân lưu vong được trở về Giêrusalem do đặc ân của vua Ba tư. Công tác đầu tiên của họ là lập tức sửa lại đền thờ đã bị phá hủy. Người Samaria đến giúp đỡ, muốn được cùng làm công tác thiêng liêng ấy, nhưng họ bị khinh miệt và khước từ. Người Samaria bị cho là đã đánh mất đi di sản Do thái nên không có quyền tham dự xây lại nhà của Chúa Giavê. Nhục vì bị khước từ, người Samaria quay lại chống đối kịch liệt, tại Giêrusalem. Sự xung đột đã xảy ra vào khoảng năm 450 TC và sự bất hòa vẫn còn gay gắt vào thời Chúa Giêsu.
Sự bất hòa còn gay gắt hơn, khi người Do thái phản đạo là Manase cưới con gái của Sabana một người Samaria (Neh 13,28), và tìm cách xây đền thờ đối lập trên núi Garisim, nằm giữa Samaria mà người đàn bà đã đề cập đến. Về sau, dưới thời dòng họ Maccabê năm 129TC , Hyrcanus lãnh đạo quân Do thái mở cuộc tấn công người Samaria , cướp phá và hủy diệt ngôi đền thờ tại Garisim. Người Do thái và Samaria lại càng thù ghét nhau hơn. Dân Do thái miệt thị gọi dân Samaria là dân Cút, theo tên của dân tộc mà người Assyri đã đưa đến định cư tại Samaria. Các đạo sĩ Do thái nói: "Không ai được ăn bánh của dân Cút, vì kẻ nào ăn bánh ấy, chẳng khác gì ăn thịt heo". Sách Huấn Ca cho rằng Thiên Chúa phán: "Có hai dân tộc mà hồn tôi phải ớn, còn dân tộc thứ ba thì không còn gọi là dân tộc: những người ngồi trên núi Samaria , người Philitinh và số người ngu dại tại Sichem" (50, 25,2). Sichem là một trong những thành phố lớn của Samaria. Kẻ bị oán ghét cũng trả đòn lại. Người ta kể lại rằng có lần đạo sĩ Giochanan đi qua xứ Samaria , trên đường đến Giêrusalem để cầu nguyện, một người gặp ông và hỏi: "Ông đi đâu đấy?" Ông đáp: "Tôi đến Giêrusalem để cầu nguyện." Người Samaria hỏi: "Thế ông cầu nguyện trên núi thánh này (núi Garisim) chẳng tốt hơn là đến ngôi nhà đã bị rủa sả đó hay sao?" Như chúng ta biết, các khách hành hương từ Galilê đến Giêrusalem nếu muốn đi bằng con đường ngắn nhất, thì phải băng qua xứ Samaria , và người Samaria rất thích chặn đường họ. Cuộc bất hòa giữa hai dân tộc Do thái và Samaria đã có từ hơn bốn trăm năm, nhưng vẫn ngấm ngầm gây oán ghét và cay đắng. Cho nên người đàn bà Samaria sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu là một người Do thái , lại bắt chuyện với mình.
4. Nhưng Chúa Giêsu còn phá hủy hàng rào chia rẽ theo một cách khác nữa. Người Samaria này là một phụ nữ, luật nghiêm nhặt của các đạo sĩ cấm họ chào phụ nữ ở giữa nơi công cộng. Cấm ngay cả ngỏ lời với vợ, con gái hay chị em của mình giữa nơi công cộng. Có cả một số người biệt phái bị gọi là nhóm "bầm dập" vì họ nhắm nghiền mắt khi gặp phụ nữ ngoài đường phố. Một đạo sĩ bị bắt gặp nói chuyện công khai với phụ nữ thì kể như tiếng tăm sự nghiệp tiêu tan. Thế nhưng Chúa Giêsu lại trò truyện với người đàn bà này. Chẳng những đây là phụ nữ, nhưng còn là một phụ nữ xấu nết. Không một người đàn ông đứng đắn nào, chứ đừng nói đến đạo sĩ, chịu để cho người ta thấy mình đứng chung hay trao đổi dù chỉ một lời với bà ta, thế mà Chúa Giêsu đã trò truyện với người đàn bà ấy.
Với người Do thái , thì đây là một sự kiện đáng ngạc nhiên. Tại đây Con Thiên Chúa lại mỏi mệt, kiệt sức và khát nước. Tại đây người thánh thiện hơn hết lại lắng nghe và thông cảm một câu chuyện đáng buồn. Tại đây Chúa Giêsu đang phá vỡ các hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia và các lề thói chính thống của Do thái giáo. Tại đây tính cách phổ quát của Phúc Âm là khởi điểm. Tại đây Thiên Chúa đang yêu thương thế gian, không bằng lý thuyết, nhưng bằng hành động.
Con cháu Giacóp trở nên đông đạo và thành một sức mạnh đáng lưu ý bên Aicập. Họ giầu có, an cư lạc nghiệp và như quên hẳn cái "đất hứa" đã dành cho họ tại Canaan. Thiên Chúa đã can thiệp, gây xáo trộn, tạo khổ đau cho họ qua sắc chỉ của Pharaôn biến họ thành nô lệ. Sự can thiệp tài tình này tái lập lòng ao ước trở về "đất hứa", trông mong vị cứu tinh và chờ ngày được giải phóng khỏi kiếp tôi đòi. Với ý định giải phóng, Thiên Chúa phải cấy trồng một Môisen trong khung cảnh đặc biệt. Môisen được cứu vớt, gìn giữ, trưởng thành và được giáo dục đầy đủ kiến thức về quân sự, hành chính và luật pháp. Cuối cùng Thiên Chúa đã trang bị Môisen bằng chiếc "gậy thần" và phong ông làm lãnh tụ đưa dân về đất hứa.
Chúa sắp xếp mối tình thơ mộng cho cặp Isaac và Rebecca. Người quản gia theo lệnh Abraham đi về quê tổ kiếm vợ cho con trai của chủ nhân. Ông bối rối và lo lắng tìm một thiếu nữ xứng đáng cho thiếu chủ. Bước đến bên giếng ông tha thiết cầu xin: "Thiếu nữ nào tặng ông nước uống và nước rửa chân thì đó là chính là chính tuyển nhân". Vì hiếu khách và thương người, Rebecca đã đon đả và mau mắn đến săn sóc người khách lạ. Dấu chỉ "cầu được ước thấy" nhãn tiền này đã thôi thúc quản gia mở hầu bao trao tặng phẩm, nhẫn vàng, bông tai, bông mũi và sắp xếp hôn lễ.
Chúa lại dự định tình "ơn nghĩa" thật hy hữu cho cặp Giacóp và Rachel. Giacóp vâng lời mẹ về với cậu Laban để tránh sự trả thù của Êsau. Giacóp gặp Rachel bên bờ giếng. Giếng được che kín và bảo vệ bằng một tảng đá lớn mà sức nữ nhi như Rachel không sao chuyển dời nổi. Giacóp đã lăn tảng đá xuống để Rachel có thể kín nước. "Ơn" này đã tạo nên duyên nợ và nghĩa vợ chồng cho Giacóp và Rachel.
Môisen đơn thân và mệt mỏi tiến vào xứ Mêđian. Ông gặp Zipporah, con gái tư tế Reuel đang bị đám mục tử địa phương chọc phá bên bờ giếng. Thấy "chuyện bất bình rút dao tương trợ", ông đánh đuổi bọn mục tử và giải cứu cho Zipporah. Tình của Môisen và Zipporah đã khởi sự bằng hành động "hiệp nghĩa" và dọn đường cho Môisen có một nhạc gia đáng kính và một hiền thê đảm đang và nhân đức.
Sau cuộc hành trình, Chúa Kitô mệt và khát ngồi bên giếng nước. Chợt thiếu phụ Samaria xuất hiện. Chúa khiêm tốn xin nước uống. Hành đông của người Do Thái này đã làm thiếu phụ Samaria ngỡ ngàng. Chúa đã xâm lăng thành Samaria bằng lời xin một ngụm nước và diễn tả Thiên Chúa là thần linh và là Chúa của mọi người, không phân biệt Do Thái hay Samaritan qua người thiếu phụ. Chúa đánh đúng yếu điểm, tạo hy vọng và rửa sạch mặc cảm tội lỗi của thiếu phụ. Chúa gợi chuyện rất tế nhị và vô tình khiến bà tự nguyện tâm sự và tỏ lộ cuộc đời hư đốn của mình. Bà bị cảm hóa và được ơn trở lại. Cùng với bà, tin mừng giải phóng được rao giảng tại Samaria.
Thiếu phụ vô danh Samaria đã hàn huyên với Chúa về dị biệt tôn giáo, về cách thờ phượng, về niềm tin, về nước hằng sống và về đời sau. Những đề tài bà đã suy nghĩ, nhưng chưa ai có thể đưa ra những lời giải thích thỏa đáng. Đức Kitô đã khai thông xa lộ mới theo nguyên tắc "cùng tắc biến, biến tắc thông". Đời sống, lời nói, hành động và tư tưởng của Ngài quả thật đã xoa dịu, cứu vớt, đem lại an bình và tin tưởng cho những ai đang chết chìm vì đời quái ác, vì người bất nhân. Đồng thời Ngài lên án những ngụy quân tử, những kẻ giả nhân nghĩa và những ai vờ đạo đức, đã không tạo cơ hội cho kẻ khác làm lại cuộc đời mà hở miệng ra là kết tội, lên án và ném đá. Tình Chúa là thân thương, ơn nghĩa, hiệp trượng, tha thứ và cảm hóa như bốn hình ảnh bên bờ giếng. Chúa đã đến can thiệp, tỏ tình, cứu vớt và nhập cuộc. Ai làm khác đường Chúa đi tức là thua thiếu phụ Samaria vì bà đã biết chia sẻ ơn cứu độ cho cả thành vui hưởng nước trường sinh và bà không bao giờ còn khát.
Hôm đó dân làng Cồn Cát (Kôn Kơ Xâm) uống rượu cần chung với nhau tại nhà rông, có một số dân làng bên cạnh cũng được mời. Ông Hồ Mua tới mời bốn vị thừa sai người ngoại quốc lên nhà rông uống rượu với ông, rượu riêng của ông. Mọi người đã tụ tập và trò chuyện ồn ào, hơi men bốc lên đầu. Ông Hồ Mua uống ít, gương mặt có vẻ lo âu.
Nhóm người ngoại quốc ngồi tại nhà rông khá lâu mới thấy ông Hồ Mua đứng phắt dậy, và bằng một giọng oang oang, ông nói:
“Tôi biết có nhiều người đã kết tội tôi vì làm bạn thân với những người Kinh xa lạ này, và tôi cũng nhận thấy người ta trách tôi tại sao lại mời họ đến dự buổi tiệc rượu này. Tại sao những người Kinh này lại có những kẻ thù ở giữa chúng ta? Họ đã làm điều gì xấu đối với chúng ta? Họ đã phạm điều bất công nào? Nếu họ đã ăn gạo của các người thì họ trả tiền sòng phẳng và không ai buộc các người phải bán cho họ thứ gì. Có ai trong các người, từ đứa bé cho đến ông già, đã bị họ làm điều gì xúc phạm? Hãy đứng lên xem nào, các người là những kẻ chỉ biết nói thầm nói lén và âm mưu ác đức trong bóng tối. Đồ hèn nhát, người nào dám trả lời tôi, hãy đứng lên xem! Phải, tôi nói thẳng trước mặt cả làng, tôi thương những người xa lạ này, bởi vì họ tốt lành, và chỉ mình tôi biết đối xử công bình với họ.”
Vừa dứt lời, ông Hồ Mua bỗng nhảy bổ tới cạnh bếp lửa, chụp lấy một thanh củi đang cháy và cắm ngay vào miệng, rồi gọi đích danh tên đầu đảng âm mưu sát hại nhóm thừa sai ngoại quốc và nói: “Nếu mày dám chống lại tao, thằng hèn nhát, thì hăy cắn vào thanh củi này tiếp theo tao. Hãy thề kết hận với tao như tao thề kết hận với mày.”
Tôi đã hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả!
Một sự im lặng căng thẳng đè nặng trên căn nhà trước đó vang lên tiếng chuyện trò huyên náo, đến độ người ta có thể nghe thấy tiếng ruồi bay giữa gian nhà đông đặc những người. Không ai dám đứng lên đối đáp với ông Hồ Mua. Tên đầu đảng bị gọi đích danh, run lên như tàu lá trước gió thổi. Chàng ta xin lỗi ríu rít. Và màn kịch chấm dứt ở đó.
Riêng cha Đỗ Đình Bộ (Dourisboure) và các bạn thừa sai người ngoại quốc chưa biết tiếng Bana, nên không hiểu gì về màn kịch nói trên. Ba năm sau tên đầu đảng trở lại đạo và được chịu phép rửa, các ngài mới rõ câu chuyện. Khi ấy nhớ tới tội tày đình anh suýt gây nên, anh vô cùng hối hận và đã sấp mình dưới chân cha Cung (Combes) và xưng thú. Anh nói với cha Cung: Thưa cha, khốn cho con là kẻ đã từng mưu sát cha. Nhưng bây giờ, nếu ai muốn tấn công cha, thì con sẽ sẵn sàng bảo vệ cha và chết vì cha. Người đó sẽ phải bước qua xác chết của con mới có thể làm hại được cha.”
Nhất là tôi đã phải xa lìa người mẹ tốt lành thánh thiện với biết bao đau lòng đứt ruột!
Quả thật, khác hẳn với bối cảnh ba năm về trước, khi cha Bộ và các thừa sai mới tới làng Cồn Cát, mọi người đều chạy trốn. Cha Bộ đã đau lòng ghi lại như sau: “Khi thấy anh chị em dân tộc chạy trốn chúng tôi, thì tim tôi như ứa máu, quặn đau không sao kể xiết! Chúa Giêsu nhân hậu đã nói với người đàn bà xứ Samari rằng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Những lời dịu dàng này thường đến với tâm trí tôi. Đôi khi, vì không thể làm cho anh chị em dân tộc hiểu được mình; cũng không làm sao cho tiếng nói của mình đến tai họ được, tôi la lên từ xa, với những kẻ chạy trốn: Hỡi anh chị em dân tộc đáng thương và yêu quí! Ước gì anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào và tôi muốn làm điều tốt lành cho anh chị em, tôi đã từng hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả, đã vượt biển cả, xem thường bão tố! Ước chi anh chị em biết được tổ quốc tôi như thế nào mà tôi đành lìa bỏ vì anh chị em! Nhất là anh chị em biết người mẹ tốt lành, thánh thiện của tôi ở nơi đó, cách xa đây hàng ngàn dặm, mà tôi phải xa lìa với biết bao đau lòng đứt ruột! Và tất cả những điều đó tôi chịu chỉ vì thương yêu anh chị em, thế mà anh chị em lại chạy trốn tôi, lại sợ tôi là người bạn tốt nhất của anh chị em!”
Trong câu chuyện vừa kể theo Dân Làng Hồ, Sàigòn 1972, cha Đỗ Đình Bộ ước ao biết bao để anh chị em dân tộc Bana nhận ra tình thương ngài dành cho họ: Còn trong Tin Mừng hôm nay, chính Đức Giêsu ước ao biết bao dân ngoại Samari nhận ra cái mới Người mang lại cho họ: Đó là suối nước vọt tới sự sống vô cùng vô tận; đó là nền phụng tự đích thực hợp với Đấng là Thần Khí. Cái mới ấy nối tiếp một loạt cái mới khác trong Tin Mừng Gioan dưới biểu tượng rượu mới tại Cana; Đền thờ mới chính là thân thể Đức Giêsu; cuộc tái sinh vượt bậc trong nước và Thần Khí. Đức Giêsu nhấn mạnh về của ăn Người dùng thường ngày là thể hiện ý của Thiên Chúa Cha. Ý ấy phần nào nhắm thẳng cánh đồng truyền giáo đã chín muồi cho việc gặt hái.
Khi ấy Đức Giêsu rời bỏ xứ Giuđê ở miền Nam, lên Galilê theo hướng Bắc. Người đi xuyên qua xứ Samari và vì mệt nhọc, Người ngồi nghỉ cạnh giếng nước do tổ phụ Giacóp đào, mà ngày nay người dân vẫn còn đến kín nước. Chính nơi đây diễn ra hai cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (cc.7-26); giữa Đức Giêsu và các môn đệ (cc.31-38).
Với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu cho biết chính Người mang lại suối nước vọt tới sự sống đời đời (c.14) vượt hẳn thứ nước từ giếng Giacóp. Kế đó, Đức Giêsu cho phụ nữ ấy nhận ra Người biết tất cả quá khứ của bà, đó là điều khiến bà đặt niềm tin vào Đức Giêsu (c.19).
Người phụ nữ Samari còn được cho biết về phượng tự trong thần khí và sự thật: “Giờ đã đến... những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (c.23).
+ Với các môn đệ, Đức Giêsu cho họ biết “Lương thực của Thầy là thi hành y muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người.” (c.34). Người còn gợi ý để họ phóng cái nhìn về cánh đồng truyền giáo đã chín vàng đang chờ đợi ngày gặt (c.35).
Kết luận: Nhiều người Samari tin Đức Giêsu thật là Đấng cứu độ trần gian (c.42).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về bài nói hùng hồn của ông Hồ Mua trước dân làng? Về lời tự thú của người trước kia định mưu sát cha Cung nay được chịu phép rửa tội? Về lời than trách của cha Đỗ Đình Bộ đối với anh chị em Bana?
2. Bạn hiểu gì về lời Đức Giêsu nói: “Nước tôi cho... đem lặi sự sống đời đời (c.14)? Giờ đã đến để... thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật (c.23)? Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy (c.34)? Đồng lúa chín vàng (c.35)?
Không ít các nhà chú giải Thánh Kinh đã có cùng nhận xét: Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ một câu hỏi vô cùng căn bản: "Các con bảo Thầy là ai?" Tính chất tồn vong hay tiến lùi của đạo Kitô đều dựa vào yếu tố trả lời cho câu hỏi đó. Không phải chỉ có trong thời của Đức Giêsu người ta mới nói: "Ngài là Êlia, Gioan Tẩy giả, hay một tiên tri nào đó", nhưng sau hơn 20 thế kỷ, tức sau một thời gian dài của nghe biết, học hỏi, và suy tư, vẫn không ít người, như anh em Hồi giáo, cho Ngài là một tiên tri lớn, hay dân Hy lạp xem Ngài là một hiền triết rất đáng kính trọng, hoặc dân Do thái chỉ coi Ngài như một con người siêu việt, không hơn không kém.
Nếu cùng một câu hỏi "Đức Giêsu là ai?" được đặt ra cho bạn và tôi, chúng ta sẽ trả lời thế nào?
Phải chăng Ngài là một thủ kho để khi khổ đau túng thiếu, ta chạy đến Ngài nài van khấn hứa? Rồi nếu lời ta cầu được như ý thì mình hăng hái tin Chúa hơn một tí, yêu Chúa hơn một tí. Còn nếu không được gì thì ta chán Chúa, chán nhà thờ, và chán đạo thêm một chút chăng?
Hay Đức Giêsu là một ông "kẹ", một quan án nghiêm khắc, để hễ ta phạm tội là Ngài giáng xuống ít điều xui xẻo cho sáng mắt ra? Không chừng vì xem Chúa như ông kẹ, nên việc giữ đạo hay sống đạo của tôi cứ mãi chìm ngập trong sợ hãi, cốt sao cho khỏi sa hỏa ngục là mừng lắm rồi.
Hay có phải Đức Giêsu là một tượng thạch cao vô tri vô giác, chẳng đụng chạm gì đến con người, cuộc đời, và thế giới của tôi?
Thiết tưởng, nêu lên vấn đề qua việc nhìn lại câu hỏi căn bản của Chúa Giêsu, hầu tái khám phá chân dung đích thật của "Con Người" mà mình đang tin theo, hẳn không phải là chuyện vô bổ.
Chắc chắn ai cũng công nhận Đức Giêsu là một nhân vật lịch sử: sinh ra trong xã hội Do thái, lớn lên dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, chết trong thời quan Philatô làm tổng trấn Giuđêa. Ngài có những tính chất rất người. Ấy là ngài cũng buồn, vui, sướng, khổ, khóc than, mệt nhọc... và đồng thời là một người rất hiểu biết, cảm thông, và nhân ái.
Ngài hiểu rằng là con người, ai cũng khát khao hạnh phúc. Trong câu chuyện bên giếng Giacóp với người phụ nữ xứ Samari, những mẫu đối thoại đã nêu lên điều đó. Chúa Giêsu nói với người đàn bà: "Cô nói cô không có chồng là đúng lắm. Nhưng đúng hơn là cô đã có 5 đời chồng, và người đang sống với cô lại không phải là chồng cô". Đức Giêsu nói thế không phải để vạch trần hay lên án tình trạng vô luân của người đàn bà, song là tỏ bày một sự hiểu biết về niềm khao khát hạnh phúc nơi con người: con người tìm kiếm liên lỉ, tìm kiếm đến 5, 6 đời chồng mà vẫn thấy chưa thoả.
Đức Giêsu cũng rất cảm thông trước nỗi khổ đau của nhân loại. Ngài từng dừng lại bên cửa thành Naim, thổn thức và chia sẻ nỗi niềm của một người đàn bà góa có đứa con trai qua đời. Niềm an ủi và chỗ tựa nương duy nhất không còn nữa. Nỗi đau thương đã đến tận cùng!
Đức Giêsu cũng từng rơi nước mắt, xót xa cho sự mất mát của hai chị em Matta và Maria khi Lazarô bị thần chết chế ngự.
Nhưng Đức Giêsu không dừng lại nơi đó. Ngài không dừng lại với việc tỏ bày vai trò của một tiên tri khi biết hết chuyện đời người ta, hay một tâm lý gia đại tài khi biết lắng nghe, chia sẻ, và cảm thông với người khác. Song Ngài đã bộc bạch vai trò và chân dung của một Vị Thiên Chúa, một Đấng Cứu Độ - Đấng Giải Thoát.
Chúa Giêsu không chỉ chứng tỏ sự hiểu biết của mình về nhu cầu hạnh phúc của con người với những khắc khoải kiếm tìm mà qua 6 đời chồng vẫn bế tắc, uống mấy vẫn còn khát. Trái lại, Ngài còn chỉ ra mạch nước mà khi uống vào sẽ không còn khát nữa. Mạch nước đó phát sinh từ chính Ngài. "Ai uống nước Ta ban sẽ không hề khát... Ai tin vào Ta sẽ sống muôn đời".
Chúa Giêsu không dừng lại với những cảm thông mất mát, chia sẻ khổ đau, và khóc than cái chết của con người. Nhưng Ngài còn chứng tỏ sức mạnh của một Thiên Chúa khi phục sinh kẻ chết, thánh hoá khổ đau, và mang lại niềm vui cứu độ cho thế giới.
Đó là tất cả những gì cần nói về chân dung của Đức Giêsu. Đó là tất cả những gì thánh Phêrô đã tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16). Đó là lời xác tín của dân làng Samari sau khi được Chúa ghé thăm: "Chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế" (Ga 4:42) Và đó cũng là tất cả những gì thánh Cyrilliô, một trong những nghị phụ nổi bật của Công dồng Êphêsô đã xác định: "Chúa Giêsu phải là con người toàn hảo để hiểu thấu và cảm thông tất cả những yếu đuối, tội lỗi, bất toàn của chúng ta. Và Chúa Giêsu phải là Thiên Chúa để cứu chuộc chúng ta". Bởi vì hiểu mà không cứu thì ăn thua gì, và cứu mà không hiểu thì cũng chỉ cứu nửa vời.
Thế nhưng, cái sức mạnh cứu chuộc - nguyên lý khiến cho Thiên Chúa hiểu thấu, cảm thông, và cứu độ - lại nằm trong một yếu tố duy nhất. Đó là Tình Yêu. Như vậy, nói cô đọng, chân dung của Chúa Giêsu là chân dung của Tình Yêu. Và như thế đọc lại Thánh Kinh bạn sẽ chỉ thấy hình ảnh của một Tình Yêu đau khổ, một Tình Yêu cảm thông, một Tình Yêu tha thứ, một Tình Yêu hiểu biết, một Tình Yêu khoan dung, một Tình Yêu chịu đóng đinh, một Tình Yêu cứu độ, một Tình Yêu mang lại sự sống.
Khám phá ra dung mạo của Chúa Giêsu là yêu thương như thế thì tìm Chúa và theo Chúa nghĩa là gì nếu không phải là tiến đến với cội nguồn yêu thương đó. Đành rằng trong yêu thương cũng có muôn lối đi, ngàn phương đến, nhưng đích điểm vẫn là để bước vào cuộc tình sâu thẳm với Đức Kitô, và đồng thời làm sáng tỏ dung nhan Ngài qua đời sống thân ái với tha nhân.
Nói đến nước, ta liên tưởng đến chất lỏng tinh ròng, trong mát mang sức sống cho mọi tạo vật. Nước từ trời cao tuôn đổ xuống khi trời mưa. Nước chảy ngầm trong lòng đất, từ trên thác nguồn, nơi bờ suối, trong lòng sông, ngoài biển cả. Nước là bảo vật từ Trời cao ban tặng cho địa cầu nuôi dưỡng mọi sinh vật. Không có nước, sự sống tiêu tan biến mất và trở nên hoang vu trơ trọi.
Con người, súc vật, cây cỏ ngay từ khi mới chớm nở mầm sống, đã cần đến nước cho sự phát triển lớn mạnh, cho sức khỏe. Vì thế các cơ quan từ thiện như Misereor, Terre des hommes, Unicef, Brot fuer die Welt... hằng chú trọng đến những dự án làm sao có giếng nước hay hệ thống lọc nước trong lành cho những vùng xa xôi hẻo lánh thiếu nước, cho những trại tiếp cư người tỵ nạn khắp nơi trên thế giới. Và các quốc gia đều quan tâm đến nước như vấn đề hàng đầu cho người dân và sự phát triển đất nước.
Con người không chỉ có ngưỡng vọng làm sao có cơm ăn áo mặc, nước uống no đủ, nhưng còn khao khát nguồn nước cho tâm hồn nữa. Chúa Giêsu trong cuộc nói chuyện với phụ nữ ra kín nước về nấu ăn, giặt quần áo ngoài bờ giếng, đã từ từ khơi lại và dẫn đưa chị ta tìm đến khát vọng sâu xa hơn: nguồn nước cho tâm hồn.
Nước giếng ngoài đầu làng có thể giải quyết cơn khát của chị ta, lúc khát nước, nhưng nó không giải quyết được ơn khát tâm hồn của chị. Điều nầy chị đã thố lộ cùng Chúa Giêsu: chị luôn tìm nguồn giải khát cho khát vọng của mình, nhưng không sao tìm được. Tâm hồn của chị cũng như của mọi người luôn có niềm khao khát về tình yêu, về hạnh phúc, về nhân phẩm giá trị cuộc sống làm người, về bình an.
Nguồn nào có thể giải quyết cơn khát này cho tâm hồn con người?
Nước giếng, nước sông, nước mưa, nước trên ghềnh thác, nước trong nguồn lòng đất chỉ có thể giúp làm bao tử, làn thớ thịt, thần kinh cảm giác thân thể trải qua cơn khát nước, mang lại sinh khí tươi mát cho thân thể.
Còn cơn khát vọng sâu thẳm trong tâm hồn chỉ có thể được thỏa mãn nơi nguồn nước từ Thiên Chúa, Đấng là nguồn tình yêu, là Người ban tặng giá trị nhân phẩm cho mỗi con người, là bờ bến bình an cho tâm hồn. Đấng đó ẩn hiện sâu thẳm trong trái tim tâm hồn con người, trong thiên nhiên, nơi những dấu chỉ trong cuộc sống. Điều này, thiết tưởng ai cũng đã có ít nhiều cảm nghiệm trong cuộc sống riêng tư.
Chị phụ nữ ra giếng nước, đã tìm thấy nguồn nước đức tin nơi Chúa Giêsu, người nói chuyện với chị, mà chị bao lâu hằng mong mỏi. Chị không giữ riêng cho mình nguồn nước đó, nhưng chị đã kêu cả dân làng giới thiệu cho họ xem nghe nguồn đó.
Tình liên đới, sự tha thứ làm hoà, lòng kính trọng con người trao tặng nhau, khác chi nguồn nước làm tươi mát cho tâm hồn và dịu cơn khao khát phát xuất từ tâm hồn. Con người đón nhận nguồn nước từ nơi Thiên Chúa cho tâm hồn mình và cũng có thể trở nên nguồn nước cho người khác trong cuộc sống liên đới làm người với nhau.
Trong một lớp Giáo lý, cô giáo hỏi các em: "Ai muốn lên thiên đàng giơ tay lên". Lập tức mọi cánh tay giơ lên trừ một em trai. Lấy làm ngạc nhiên, cô giáo hỏi em: "Vậy em không muốn lên thiên đàng hay sao?" Em trả lời: "Dĩ nhiên là có, nhưng mà không lên với bọn chúng nó". Con người thường hay viện nhiều lý do để chia cách với người khác. Nguyên việc bé không thương các bạn của bé, không biết có đáng lên thiên đàng không?
Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy người đàn bà xứ Samaria đã xa cách Thiên Chúa và tha nhân, nhưng Chúa Giêsu khi ngồi nghỉ nơi giếng Giacóp lúc đi đường nóng bức, đã nói chuyện với người đàn bà và chinh phục bà trở về với Thiên Chúa và với tha nhân. Người đàn bà Samaria đã xa cách Thiên Chúa và từ đó bà xa cách mọi người. Bà đã đi tìm hạnh phúc nơi người đời và người đàn ông đang sống với lại không phải chồng bà. Thông thường người ta ra giếng kín nước lúc sáng sớm khi còn mát hoặc lúc chiều khi trời ngả bóng. Đời sống bà có điều trắc ẩn nên bà không muốn đến kín nước lúc đông người, bà đến lúc trưa, lúc vắng người. Bà đã tự xa cách hàng xóm láng giềng.
Cũng như những người cùng thời, bà còn một điều xa cách to lớn hơn nữa là phân cách giữa người Do Thái và người Samaria: "Sao ông, một người Do Thái, lại xin tôi, một người Samaria nước uống?" Người Do Thái không muốn có gì liên quan đến người Samaria và người Samaria không muốn có gì liên quan đến người Do Thái.
Nhưng Chúa Giêsu đã lợi dụng cơ hội để chinh phục và giúp bà nhận biết chân lý và dạy chúng ta bài học. Đây là một cuộc đàm thoại dài nhất của Chúa Giêsu với bất kỳ ai đã được ghi lại. Luật Do Thái cấm thầy cả chào hỏi một người đàn bà nơi công cộng dù người ấy là vợ, con gái, chị em mình. Không thầy cả nào dám nói chuyện với đàn bà ngoài đường phố, vì như vậy là mất hết tiếng tốt. Nhưng Chúa Giêsu, một vị Thánh thiện tột bực, đã hạ mình lắng nghe một chuyện buồn của đời bà, để rồi cho bà ơn nhận biết chân lý, nhận biết Ngài là Đấng Thiên sai và làm hòa với tha nhân. Sau khi bà nói chuyện với Chúa, bà "thấy rõ Ngài là Vị Tiên Tri" thì bà đã mau mắn trở lại với dân làng, những người mà trước đây bà sợ hãi, xa tránh để kéo họ đến gặp Chúa Giêsu: "Hãy mau ra mà xem... Đấng Kitô". Dân chúng đã ra gặp Chúa và tất cả đã tin nhận Chúa.
Mùa Chay là mùa thống hối đền tội, mùa xa tránh tội lỗi. Tội là vi phạm giới răn Thiên Chúa, mà giới răn Chúa gồm yêu Chúa và yêu người, vậy tội là không yêu Chúa, không yêu tha nhân. Tội tức là cắt đứt sự liên hệ với Thiên Chúa và tha nhân, tức là xa cách Chúa, xa cách tha nhân. Chúng ta hãy làm hòa cùng Thiên Chúa và yêu tha nhân, nhất là thân thiết với những người trong gia đình, cộng đoàn chúng ta. Khi chúng ta yêu thương tha nhân, chúng ta sẽ thấy Chúa gần gũi hơn.
Cha John Powel, SJ, kể về một học sinh của ngài tên là Tommy. Tommy là một người vô thần nhưng cha John nói với Tommy: "Rồi Chúa sẽ tìm được cậu". Tommy trở lại gặp cha John sau nhiều năm xa cách, Tommy cho biết: Tommy bị ung thư trầm trọng. Cho tới ngày giải phẫu và chạy điện, tóc đã rụng gần hết, Tommy vẫn chưa nghĩ gì đến tôn giáo. Bỗng một ngày Tommy nghĩ, buồn biết bao nếu qua đi mà không nói cho những người mình yêu: "Tôi yêu anh, tôi yêu chị..." Rồi Tommy bắt đầu nói với người cha của anh: "Ba, con có điều muốn nói với ba". "Nói đi", ông nói lại nhưng vẫn không rời tờ báo đang đọc. "Con muốn nói điều rất quan trọng". "Điều gì đó", ông hạ tờ báo xuống một chút và hỏi. "Ba, con thương ba". Tommy cười và thưa với ba. Ông tung tờ báo ra rồi làm điều ông chưa bao giờ làm là ôm Tommy vào lòng và khóc. Tommy cảm thấy sung sướng khơi lên tình cha con mà chưa bao giờ họ cảm nghiệm được. Nói với ba rồi, Tommy thấy nói với các anh các chị dễ hơn. Ngày đó Chúa đã chinh phục được Tommy và Tommy đã thấy một Đấng cao cả yêu thương Tommy. Trong yêu thương, Tommy không còn là vô thần nữa, cậu đã tin Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết trở về với Chúa và tha nhân, biết yêu thương thân thiết mọi người để chúng con cảm nghiệm được Chúa ở giữa chúng con.
Phụng Vụ Mùa Chay Năm A: Tiến Trình Mạc Khải Tam Đoạn
Theo tinh thần của phụng vụ Mùa Chay, qua việc Giáo Hội sắp xếp biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ ở Chúa Nhật tuần thứ nhất Mùa Chay ngay trước biến cố Chúa Giêsu biến hình ở Chúa Nhật tuần thứ hai Mùa Chay, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa trong việc Ngài muốn tỏ mình ra nơi Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại là để họ có thể tin vào Ngài mà được sự sống đời đời. Mà tuyệt đỉnh mạc khải của Thiên Chúa là ở Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, một biến cố vô cùng mầu nhiệm được Giáo Hội long trọng cử hành trong Tuần Thánh và Đại Lễ Phục Sinh, Biến Cố Khổ Nạn, Tử Giá và Phục Sinh của Người. Đúng thế, chỉ qua Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, tuyệt đỉnh của "tất cả sự thật" (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người, con người mới có thể được "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Chúa Giêsu Kitô" (Jn 17:3).
Thế nhưng, theo Lịch Sử Cứu Độ và Đường Lối Cứu Độ, Thiên Chúa không mạc khải cho con người "tất cả sự thật" ngay từ ban đầu hay cùng một lúc, mà là từ từ cho tới khi "thời gian viên trọn" (Gal 4:4), lúc "Thiên Chúa nói với chúng ta qua Con của Ngài" (Heb 1:2), Đấng "là đường lối, là sự thật và là sự sống" (Jn 14:6). Nếu "không ai đến được với Cha mà không qua Thày" (Jn 14:6), thì quả thực Thiên Chúa đã từ từ tỏ mình ra cho con người nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài theo tiến trình tam đoạn: "đường lối", "sự thật" và "sự sống". Nhóm 12 Vị là một trường hợp điển hình: đầu tiên các vị được kêu gọi "hãy theo Thày" (Mt 4:19; 9:9), như đi vào một "đường lối" chật hẹp khó bước lại ít người đi (x Mt 7:14); sau đó các vị mới được từ từ tỏ cho biết "sự thật" về "Thày là ai?" (Mt 16:15); và sau cùng các vị đã được hoàn toàn "thông phần với Thày" (Jn 13:8), khi Người sống lại từ trong cõi chết để làm cho các vị được "sự sống" khi "Người thở hơi trên các vị mà nói: 'Các con hãy nhận lấy Thánh Linh'" (Jn 20:22).
Ba tuần (III, IV và V) giữa của Mùa Chay Năm A, Phúc Âm theo Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc, cũng cho chúng ta thấy tiến trình tam đoạn mạc khải này: Trước hết, ở tuần thứ ba, Chúa Giêsu "là đường lối" tỏ mình ra qua việc làm cho người đàn bà ngoại lai Samaritanô thấy rằng Người quả thực "là Đấng Thiên Sai" (Jn 4:26,29); thứ đến, ở tuần thứ bốn, Chúa Giêsu "là sự thật" tỏ mình ra qua việc làm sáng mắt người mù từ lúc mới sinh, để anh ta có thể thấy Người "là ánh sáng thế gian" (Jn 8:12); sau hết, ở tuần thứ năm, Chúa Giêsu "là sự sống" tỏ mình ra qua việc làm cho Lazarô hồi sinh để anh ta có thể tự động bước ra khỏi mồ, đúng như lời quyền năng của Đấng tự xưng mình trước khi ra tay "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Jn 11:25).
Nơi tiến trình tam đoạn mạc khải này, ngoại trừ ý nghĩa của việc mạc khải liên quan đến tiến trình "đường lối", "sự thật" và "sự sống" như thế, chúng ta còn thấy một điều đáng chú ý nữa, đó là đối tượng được mạc khải, những đối tượng từ xa tới gần và bao giờ cũng là đối tượng kép: đối tượng mạc khải thứ nhất là một con người ngoại lai tội lỗi ở Samaria vùng đất hoang đàng, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân làng của chị; đối tượng mạc khải thứ hai là một con người Do Thái thuần túy ở Giuđêa vùng đất chính giáo, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân chúng, nhất là nhóm Pharisiêu; đối tượng mạc khải thứ ba là một con người thân thiết chí tình ở Bêthania gần Giêrusalem thành thánh, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân chúng lẫn Hội Đồng Do Thái (x Jn 12:9-11).
Chưa hết, về tính cách của tam đoạn mạc khải theo Phúc Âm Thánh Gioan này, chúng ta thấy việc mạc khải hình như đi ngược với đường lối nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu, lời loan báo cho thấy yếu tố nhân sinh ("hãy cải thiện đời sống") đi trước yếu tố thần linh ("Nước Thiên Chúa đã đến"). Bởi vì, qua tiến trình mạc khải tam đoạn này, Chúa Giêsu, là tất cả "Mạc Khải Thần Linh" hay "Nước Thiên Chúa", lại tự động tỏ mình ra trước, tự ý đến với con người trước, nhất là ở trường hợp thứ nhất và thứ hai, để nhờ đó, nhờ việc Người tỏ mình ra đó, con người có thể tin Người. Tuy nhiên, nếu để ý kỹ, chúng ta thấy đường lối nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu vẫn còn hiện tỏ qua cả ba trường hợp. Bởi vì, ở vào chính giây phút quyết liệt nhất và tột đỉnh nhất của mạc khải, nghĩa là giây phút con người sửa soạn để thấy được Nước Thiên Chúa, để đi sâu vào Thực Tại Giêsu, họ cần phải "cải thiện đời sống", như Moisen cần phải bỏ dép ra trước khi tiến gần đến bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi vậy (xem Ex 3:5). Giờ đây chúng ta cùng nhau khảo sát từng mạc khải một.
Mạc Khải "Thày Là Đường Lối" cho người đàn bà ngoại lai Samaritanô.
Ở đoạn mạc khải thứ nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này:
Chúa Giêsu quả thực đã tự động đến gặp người đàn bà ngoại lai ấy với chủ đích tỏ mình ra cho chị. Người biết được hằng ngày vào giờ nào chị vốn ra kín nước, và giờ kín nước của chí ấy lại là giờ vắng vẻ không có ai, (chắc có thể vì chị mặc cảm bởi đời sống bê tha tội lỗi của mình nên muốn tránh mặt mọi người chăng?). Và chị phụ nữ ngoại lai tội lỗi diễm phúc ấy, dù có ý trốn lánh mọi người ấy, vẫn không thoát được ánh mắt của "Thiên Chúa là thần linh" (Jn 4:24), do đó, chị đã không biết được Vị Thần Linh này vẫn đang theo dõi chị từng giây từng phút, cho đến lúc Ngài thực sự tỏ mình ra cho chị, vào chính ngày giờ (buổi trưa), địa điểm (bờ giếng), hoàn cảnh (kín nước) và cách thức (xin nước), chị không thể nào ngờ được.
Giây phút quan trọng nhất, quyết liệt nhất, trong đoạn mạc khải thứ nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này là lúc Chúa Giêsu, sau khi đã khơi động được lòng khao khát chân thiện mỹ vốn nằm ở tận đáy cuộc đời tội lỗi của chị, như chị lên tiếng xin Người ban nước của Người cho chị, Người bảo chị "hãy về gọi chồng chị". Phải, ở đây, ngay tại chỗ này, vẫn chưa phải là tuyệt đỉnh của mạc khải thần linh, một tuyệt đỉnh chỉ xuất hiện khi nào yếu tố nhân sinh "cải thiện đời sống" nơi con người được tỏ ra, như trường hợp chị phụ nữ Samaritanô này đã tỏ ra, ở chỗ, chị đã thú thật là "tôi không có chồng".
Chính nhờ yếu tố nhân sinh vừa khao khát chân thiện mỹ, dù chưa biết rõ thực tại này ra sao, vừa thành thật không giấu diếm như thế, chị phụ nữ này đã thấy được sự thật về mình, khi nghe Người nói trúng tim đen cuộc đời quá khứ của chị. Nhờ đó, sau cùng chị đã lờ mờ được thấy sự thật về Người "Tôi biết có Đấng Thiên Sai sẽ đến. Khi Người đến Người sẽ nói cho chúng tôi biết hết mọi sự".
Nhất là sau khi Người tỏ mình ra cho chị: "Chính Tôi là Đấng đang nói với chị đây", nghĩa là sau khi mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh, chị đã chẳng những hoàn toàn nhận biết Người mà còn loan báo về Người nữa: "Hãy ra mà xem có người đã nói cho tôi biết mọi sự tôi đã làm! Người này không phải là Đấng Thiên Sai hay sao?".
Nội dung của đoạn nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này là vai trò Chúa Kitô "là đường lối" mà con người phải theo để có thể đến cùng Thiên Chúa chân thật duy nhất, bằng không sẽ dễ bị rơi vào tình trạng ngẫu tượng (tin tưởng giả tạo), để rồi hậu quả là sẽ đi đến chỗ ngoại tình (tôn thờ ngẫu tượng, hiến thân phụng sự ngẫu tượng). Như trường hợp của dân Samaria bấy giờ, điển hình là trường hợp của chị phụ nữ tội lỗi ngoại tình này. Do đó, ngay sau giây phút quyết liệt của mạc khải, và trước khi mạc khải tiến đến chỗ tuyệt đỉnh, Chúa Giêsu liền kêu gọi chị "Chị hãy tin Tôi đi", nghĩa là Người kêu gọi chị ta hãy đi theo Người, vì, như Người khẳng định với chị rằng: "Các người tôn thờ những gì các người chẳng hiểu gì cả, còn chúng tôi biết những gì chúng tôi tôn thờ".
Vấn đề thực hành sống đạo: Bài Phúc Âm Chúa Giêsu tỏ mình cho người ohụ nữ Samaritanô hôm nay cho thấy, tự mình, con người vốn "chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Jn 3:19) không thể nào biết "Thiên Chúa là thần linh" (Jn 4:24), nếu Ngài không tự tỏ mình ra cho họ nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài. Vì "Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý"(1Tim 2:4), nên Ngài luôn tỏ mình ra cho mọi người và từng người tùy theo hoàn cảnh của họ. Thậm chí cuộc đời tội lỗi của họ càng là cớ mạnh để Ngài đặc biệt đi tìm họ như mục tử đi tìm con chiên lạc duy nhất vậy. Thế nhưng, con người chỉ nghe thấy tiếng chủ chiên của mình, chỉ nhận ra Người "là Đấng đang nói với" mỗi người chúng ta (Jn 4:26; 9:37), khi nào chúng ta, ít là còn khao khát chân thiện mỹ, còn thành tâm nhìn nhận con người mê lầm tội lỗi của mình mà thôi. Ý nghĩa căn bản nhất của thống hối trong Mùa Chay chính là ở chổ này và bắt đầu từ chỗ này, nhờ đó chúng ta mới có thể tham dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.
Vào một buổi trưa hè oi ả, ánh nắng chói chang gay gắt giữa ngày như đang dồn hết sức nóng đổ xuống con đường làng nhỏ ngoằn ngoèo dẫn đến một bờ giếng. Cây cỏ bên đường lặng yên bất động, trời không một chút gió. Không gian thật im vắng như đang lắng nghe và chờ đợi một sự việc quan trọng sắp xảy đến.
Thấp thoáng trên đường làng bóng một người phụ nữ đang lầm lũi bước đi với dáng điệu mệt mỏi và đăm chiêu, một tay nàng cầm chiếc vò đã cạn nước, tay kia thỉnh thoảng đưa lên lau vội những giọt mồ hôi loang loáng trên khuôn mặt thoáng nét ưu tư. Bỗng nhiên nàng khựng lại khi thấy bên cạnh bờ giếng, một người đàn ông đang ngồi trầm ngâm, yên lặng. Hôm nay khác hẳn với mọi ngày vì sự hiện diện của người khách lạ. Nàng tự hỏi: "Ông ta làm gì ở đây? Tại sao không thấy kín nước mà chỉ ngồi yên như đang chờ đợi điều gì?". Một thoáng lúng túng chợt đến! Người khách lạ dường như đã đọc được những ý tưởng cũng như tâm trạng của người phụ nữ, nên đã lên tiếng mở đầu cuộc đối thoại.
Ông khách xin nàng một chút nước rồi lại ngỏ ý muốn cho nàng một thứ nước mà uống vào sẽ không còn khát nữa! Người đàn ông này thật lạ lùng. Hình như ông đã biết rõ cuộc đời nàng, và dường như sự gặp gỡ buổi trưa hôm nay bên bờ giếng không phải là một tình cờ!
Ngày nào đó, có thể là hôm nay, Chúa Giêsu đến để gặp gỡ và trao đổi câu chuyện với bạn và tôi như Ngài đã đến với người phụ nữ Samaria thuở nào.
Ngài đến vào một buổi trưa hè của cuộc đời, khi mọi sự ở chung quanh hầu như không còn ý nghĩa, tất cả như câm nín, ngưng đọng và trở nên nặng nề, khó thở.
Ngài đến khi những gay gắt và xáo trộn của cuộc đời đang đổ xuống trên chúng ta: thất bại trong công ăn việc làm, chia ly, đổ vỡ trong gia đình, một người thân qua đời, bạn bè hoặc người yêu phản bội, thất tín, bị ghen tương, hiểu lầm, vu khống...
Ngài đến giữa lúc chúng ta đang miệt mài kéo nước từ bờ giếng của những tham vọng, những đam mê nhất thời và mau qua hầu thoả mãn cơn KHÁT đang nung nấu tâm hồn. Thế nhưng những ngụm nước ấy không đủ sức giải khát tâm hồn, lòng chúng ta vẫn luôn luôn bất an và khắc khoải.
Hôm nay, bất chợt Chúa Giêsu đến giữa buổi trưa hè nóng bức ấy, bên cạnh bờ giếng của những đam mê quen thuộc, với ánh mắt hiền dịu nhưng trong suốt và với một giọng êm ái trầm ấm, Ngài xin chúng ta cho Ngài nước đó, Ngài thông cảm với cơn khát của chúng ta và còn hơn thế nữa, Ngài muốn ban tặng cho chúng ta một nguồn nước sự sống vĩnh cữu, nước sẽ làm thoả mãn cơn khát của tâm hồn, và chúng ta sẽ được no thoả. Nước ấy là chính Chúa Giêsu Kitô!
Đối diện và gặp gỡ Ngài trong Bí tích Thánh Thể, trong kinh nguyện và Lời Hằng Sống, chúng ta sẽ được biến đổi. Đối diện và gặp gỡ Chúa Giêsu cũng chính là lúc chúng ta đối diện và gặp chính mình. Người phụ nữ đã nhận ra chính mình, đồng thời bà cũng nhận biết Chúa. Một niềm vui dâng trào trong con tim, và bà đã để vò nước lại nơi bờ giếng, tất tả chạy về nói với mọi người niềm vui của bà. Bà đã được uống nước trường sinh và từ nay đời bà sẽ hết cô đơn héo hắt.
Bạn thân mến, mùa Chay là lúc mà Giáo hội khuyến khích chúng ta cũng có thói quen làm những việc chay tịnh bên ngoài. Ước gì qua việc ăn chay bên ngoài làm cho chúng ta cảm nhận và ý thức được sự đói khát sâu thẳm trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Đó chính là sự đói khát chân, thiện, mỹ, và chỉ duy một mình Thiên Chúa là Đấng có thể thoả mãn khát vọng sâu thẳm nhất đang chất chứa trong con tim của mỗi người.
Hôm đó, Chúa Giêsu đi ngang qua xứ Samaria. Mệt mỏi vì đường xa. Ngài ngồi nghỉ bên bờ giếng Giacóp. Bấy giờ có một thiếu phụ đến kín nước. Nàng không để ý gì tới Chúa Giêsu, một người Do thái đang ngồi gần đấy. Cũng như những bậc cha ông thuở trước, nàng coi những người Do thái là những kẻ thù truyền kiếp.
Khi nàng vừa mới kéo được một xô nước lên thì người lạ mặt liền cất tiếng:
- Xin chị cho tôi uống.
Một người Do thái mà lại xin một phụ nữ Samaria chút nước để uống ư? Làm sao lại như thế được, bởi vì dân Do thái coi việc tiếp xúc với người Samaria là một việc uế tạp. Trước sự ngạc nhiên của người phụ nữ, Chúa Giêsu đã nói với nàng:
- Nếu chị nhận biết ơn lành của Chúa và người xin chị nước uống là ai, thì chính chị sẽ là kẻ xin người ấy ban cho nước sự sống.
Người phụ nữ không hiểu gì cả, nhưng trong cõi lòng đã nhen nhúm một chút kính trọng. Nàng coi người lạ mặt như một bậc thầy bởi vì cách thức Ngài nói thật khiêm tốn, khác hẳn thái độ kiêu căng của người Do thái. Nàng lên tiếng:
- Thưa thày, xin ban cho tôi thứ nước đó.
Người phụ nữ đó thật chân thành, nhưng cõi lòng của nàng còn giằng đặc một nỗi buồn vì những sai lỗi của mình. Nàng cần phải nhận biết những sai lỗi ấy trước khi được nước ban sự sống tràn ngập tâm hồn mình. Bởi đó Chúa Giêsu đã nói với nàng:
- Chị hãy đi kêu chồng chị tới đây.
Có lẽ nàng đã xấu hổ cúi mặt xuống. Làm sao nàng có thể nhìn thẳng vào Ngài. Nàng khẽ nói:
- Thưa thày, tôi không có chồng.
Với một thái độ ân cần và dịu hiền, Ngài nói với nàng:
- Chị có lý khi nói rằng mình không có chồng. Bởi vì chị đã có năm đời chồng và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị.
Người phụ nữ cảm thấy Chúa Giêsu như thấu suốt cõi lòng mình nên đã kêu lên:
- Thày là một vị tiên tri.
Tâm hồn nàng như bừng sáng và nàng muốn thấu triệt những bí ẩn về con người lạ mặt ấy:
- Tôi biết đấng Messia sẽ đến.
Trước lời lẽ đơn sơ và chân thành ấy Chúa Giêsu đã tỏ lộ:
- Đấng đó chính là ta, người đang nói với chị.
Người phụ nữ lòng đầy tin tưởng bởi vì đấng Messia đang đứng trước nàng. Nàng không còn một chút nghi ngờ, bởi vì thái độ cũng như lời nói của Ngài đều minh chứng cho sự thật ấy. Nàng vội chạy về làng, báo cho bà con lối xóm hay biết. Nàng muốn mọi người cũng chia sẻ niềm vui với nàng. Nàng đi đến từng nhà, kể lại cho họ từng sự kiện và kêu mời họ:
- Hãy đến mà xem Đấng đã nói cho tôi biết những việc tôi đã làm. Đấng đó là ai nếu không phải là Đức Kitô.
Người ta kéo đến với Chúa và xin Ngài ở lại với họ. Chúa chấp nhận lời yêu cầu của họ, Ngài ở lại Sichem hai ngày và rao giảng cho họ trong nhà hội. Nhiều người đã tin vào Ngài và họ nói với người phụ nữ: - Bây giờ không phải vì những gì chị nói chúng tôi mới tin vào Ngài. Trái lại, chính chúng tôi đã được nghe nói và chúng tôi biết Ngài là đấng cứu độ trần gian. Từ câu chuyện trên, chúng ta đi tới một kết luận, đó là một khi đã đón nhận Đức Kitô và Tin mừng của Ngài, chúng ta có bổn phận phải loan truyền cho người khác. Ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc sống, Ngài đã dành cho mỗi người chúng ta một tình thương trìu mến: Ngài đã kêu gọi chúng ta gia nhập Hội thánh bằng Bí tích Rửa tội và ơn sủng của Ngài đã sưởi ấm cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta có bổn phận chia sẻ tin mừng để mọi người được nhận biết Chúa. Bằng một nụ cười cảm thông, bằng một lời nói an ủi, bằng một hành động giúp đỡ, chúng ta có thể lôi kéo nhiều người đến cùng Chúa.
Nếu theo dõi chương trình thời sự của đài truyền hình Việt Nam vào mỗi buổi tối, chúng ta sẽ có được cái nhìn bao quát về sinh hoạt của con người trên toàn thế giới. Những hội nghị khoa học về mọi lãnh vực, những cuộc đàm phán, những hợp đồng kinh tế, những cuộc viếng thăm nhau của các vị lãnh đạo các quốc gia, những dự án, những kế hoạch của mỗi địa phương cũng như của toàn cầu… Nhưng nhũng sự việc đó nói lên điều gì? Thưa, chúng diễn tả những khát vọng thâm sâu ở trong lòng con người. Khát vọng một cuộc sống ấm no, an bình và hạnh phúc. Và những sự việc đó chính là những nỗ lực để làm cho những khát vọng trở thành hiện thực. Ngay cả đến những điều tiêu cực như chiến tranh và các tệ nạn, một cách nào đó cũng nhằm để thỏa mãn những khát vọng sâu thẳm trong lòng con người.
Nhưng thực tế cho thấy rằng: sẽ chẳng bao giờ con người hoàn toàn thỏa mãn được mọi khát vọng của lòng mình. Bởi khát vọng thì vô cùng, mà bàn tay con người thì quá ngắn, trí tuệ con người cũng giới hạn. Ngay cả khi người ta tưởng đã đạt được, đã nắm trong bàn tay những điều họ mơ ước, thì chúng vẫn không đủ khả năng để làm cho người ta hết khát vọng. Chẳng hạn, lúc nghèo khổ ta mơ ước mình được trúng số. Chỉ cần trúng một tấm thôi cũng mãn nguyện rồi. Nhưng khi trúng được một tấm vé số ta lại tiếc rẻ giá mình mua 2 tấm, 3 tấm, 4 tấm thì đỡ biết mấy. Giống như người đàn bà Samaria trong bài Tin mừng, bà đã có 5 đời chồng và bà đang sống với người chồng thứ 6, vậy mà bà vẫn chưa thấy đủ.
Chính vì những kinh nghiệm cụ thể trong cuộc đời như thế mà chúng ta sẽ nhận ra câu chuyện Tin mừng hôm nay như một sự dọi sáng cho những bước đi của chúng ta và mở ra hướng giải quyết cho những cơn khát trong cuộc đời. Mọi khát vọng trong cuộc đời ta chỉ là những diễn tả cho một khát vọng khác quan trọng và thâm sâu hơn, đó là khát vọng vô biên. Mà khát vọng vô biên thì chỉ có Đấng vô biên mới có thể lấp đầy, mới có thể thỏa mãn. Đấng vô biên ấy đã hiện thân nơi một con người cụ thể là Đức Giêsu. Đức Giêsu đã khẳng định điều đó với người phụ nữ Samaria: “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát. Ai uống nước Tôi cho thì không bao giờ còn khát nữa. Và nước Tôi cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời”. Quả thật, không riêng gì người phụ nữ Samaria, mà tất cả những người dân trong thành, sau khi đến gặp Chúa Giêsu, họ đã nhận ra Người chính là Đấng có thể lấp đầy những khát vọng của họ. Họ nói với người phụ nữ đã dẫn họ đến gặp Chúa Giêsu: “Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian. Kinh nghiệm này cũng đã được thánh Augustinô phát biểu một cách thật xác tín: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa. Bởi đó. Tâm hồn con luôn băn khoăn khắc khoải cho đến khi con được nghỉ an trong Chúa”.
Nếu Đức Kitô là đấng làm thỏa mãn mọi khát vọng đời ta, tại sao ta không tìm kiếm Người? Nếu Đức Kitô chính là Đấng vô biên mà ta khao khát, tại sao ta cứ mãi dừng lại ở những khát vọng trần tục? Nếu chúng ta thực sự khao khát Đấng vô biên thì những khát vọng trần tục kia sẽ chẳng có ý nghĩa gì nữa. Chúng sẽ không đáng để chúng ta đầu tư cuộc đời để thỏa mãn chúng. Khi khao khát điều gì thì chính những điều ta khao khát sẽ chi phối mọi suy nghĩ, mọi lời nói và mọi hành động của ta. Nếu ta khao khát Đấng vô biên thì hãy để Đấng vô biên dẫn dắt đời ta. Sống theo sự dẫn dắt của Đấng vô biên ta sẽ thấy lòng mình thanh thản, sẽ thấy đời mình được nâng cao và bay bổng trên bầu trời bao la, chứ không còn bị trói buộc bởi những khát vọng tầm thường, những tính toán nhỏ nhen, những mơ ước hẹp hòi trong cõi đời tục lụy này.
Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, nhọc mệt, bây giờ gặp giếng và người kín nước, nên dừng chân xin nước uống đối với chúng ta là chuyện bình thường chẳng có gì đáng chú ý. Nhưng đối với Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria lại là một chuyện khác thường, rất đáng chú ý. Tại sao ? Bởi vì Chúa Giêsu là người Do thái, phụ nữ này là người Samaria. Hai dân tộc khác nhau, và hai dân tộc này có một mối thù truyền kiếp. Mặc dầu xưa kia họ cùng một dòng tộc Giacob, nhưng họ đã chia rẽ nhau từ năm 935 khi vua Salomon băng hà. Người miền bắc là Samari, xây đền thờ riêng tại núi Garidin. Còn miền Nam là Giuđa, vẫn chọn Giêrusalem làm chính. Hai bên kình địch nhau. Cuộc bất hòa kéo dài đã hơn bốn trăm năm nhưng họ vẫn hoặc công khai hoặc ngấm ngầm thù ghét nhau, và tìm cách hại nhau. Cho nên, người phụ nữ Samari ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu là một người Do thái, lại nói chuyện với mình. Đó là một điều khác thường.
Điều khác thường thứ hai, người Do thái còn có luật cấm không được nói chuyện với phụ nữ ở ngoài đường phố, dù đó là người bà con thân thuộc, thậm chí còn cấm ngay cả ngỏ lời với vợ, với con gái hay chị em của mình ở nơi công cộng. Một đạo sĩ bị bắt gặp nói chuyện công khai với phụ nữ thì kể như tiếng tăm sự nghiệp sẽ bị tiêu tan. Thế mà Chúa Giêsu lại trò chuyện với người đàn bà này, chẳng những đây là phụ nữ, nhưng còn là một phụ nữ chẳng ra gì, chị đã thay đổi năm đời chồng rồi, và người chồng thứ sáu bây giờ cũng bất chính. Việc đó lại càng tăng thêm lý do càng phải tránh xa hơn nữa. Chính vì thế chúng ta hiểu tại sao các môn đệ khi đi mua thức ăn về đã tỏ ra khó chịu, bất bình thấy thầy mình nói chuyện với người phụ nữ này.
Nhưng ở đây, chúng ta thấy Chúa Giêsu thản nhiên bỏ qua một thái độ đã trở thành một tập tục, một truyền thống, là phân biệt đối xử bất bình đẳng của người Do thái. Trước mặt Chúa, đó là người nào, là ai, không quan trọng, không cần thiết, nhưng là một linh hồn cần được cứu giúp và có quyền bước vào nước trời. Chúa yêu thương hết mọi người và Chúa tìm cách gặp gỡ họ hay để họ được gặp Chúa. Như người phụ nữ này, chị chưa biết Chúa là ai, nhưng Chúa vẫn dành tình yêu thương cho chị, và tạo điều kiện để chị đón nhận tình yêu đó. Chúa đến với người đạo đức cũng như với tội nhân, vì đối với Ngài, họ là những linh hồn như nhau, cần đến ơn cứu độ như nhau. Và đối với Chúa, mọi người cần được thanh tẩy và tái sinh trong ơn thánh.
Vì thế, để hoán cải và lôi kéo người phụ nữ này về với Chúa, Chúa đã đi từ thực tại hữu hình là nước uống để đưa chị đến thực tại vô hình là nước hằng sống, một thứ nước uống vào không bao giờ còn khát nữa. Chúa đã dùng nước tự nhiên để nói về nước siêu nhiên; Chúa đã đưa phụ nữ Samari này đi từ giếng nước Giacob đến nguồn nước hằng sống, đó là các ân huệ của Chúa, nhất là ơn cứu độ.
Nếu câu chuyện chỉ có thế thì chưa đủ sức làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ này. Muốn cho con tim biến đổi, cải hóa, thì phải đi vào tận chiều sâu của tâm hồn, phải đối diện, phải giáp mặt, phải chạm trán với chính cõi lòng mình. Vì thế, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã đi sâu vào tâm hồn người phụ nữ này khi Chúa nói: “Về gọi chồng chị và trở lại đây”. Chúa đã đánh trúng tim đen của chị, và chính ở điểm này đã làm cho chị cảm động, tràn ngập niềm vui và tin yêu vào Chúa. Nghĩa là khi Chúa Giêsu nói về cuộc đời riêng tư của chị, chị đã nhận ra Chúa là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều mà Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Chị đã nhận ra Ngài không phải chỉ là một ngôn sứ, mà là Đấng Mêsia, Đấng thiên sai mọi người đang mong đợi.
Đến đây Tin mừng không cho chúng ta biết người phụ nữ đó đã có quyết định thế nào, đã tổ chức lại cuộc sống của chị ra sao. Nhưng chúng ta có quyền tưởng tượng rằng: khi về nhà, chị không còn có thể sống như trước khi xảy ra cuộc kỳ ngộ này. Chị không thể tiếp tục sống như trước mà cần phải đổi thay: chị sẽ sống đàng hoàng hơn, ít ích kỷ hơn, có thể yêu thương sâu xa hơn vì tim chị đã đổi thay.
Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samari là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong mùa chay này. Chúng ta cần đến gặp Chúa Giêsu và thống hối để được tha tội và đổi mới cuộc đời. Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình thương, là đại dương tình thương, nên dù chúng ta là ai, dù chúng ta sống trong tình trạng nào, dù cuộc đời chúng ta có xấu xa, bê bối thế nào đi nữa, thậm chí tội lỗi chúng ta có nhiều và nặng nề đến đâu, vẫn không sao cả. Chúa sẽ tẩy xóa hết, Chúa sẽ tha thứ hết, để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thương trong đại dương yêu thương bao la của Chúa. Nhưng với điều kiện là chính chúng ta phải khai tử con người tội lỗi hôm qua, để sống cho Chúa ngày hôm nay. Cần dứt bỏ cuộc sống cũ để tiến sang cuộc sống mới, bằng sự sám hối chân thành.
Một vị thầy của người Do thái không bao giờ nói chuyện với người đàn bà nơi công cộng, nhưng Chúa Giêsu đã vượt qua hai định kiến xấu này và khơi dậy thiện cảm của người đàn bà khi mở miệng xin nước uống: “Xin bà cho tôi nước uống”. Chúa tạo dịp cho người đàn bà làm một việc thiện, làm một điều tốt do một người mà mình không thích để từ đó nâng dậy người đàn bà sa ngã.
Hành động và lời nói của Chúa Giêsu đã phá tan thành kiến nơi người đàn bả: “Sao ông là người Do thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samaria ?”. Hành động và những lời nói của Chúa làm cho người đàn bà có một thái độ kính trọng hơn, bà đã đổi cách xưng hô giờ đây biến thành : “Thưa Ngài, xin hãy cho tôi nước uống”. Một lời thưa nói lên thái độ kính trọng, bà đã sẵn sàng lắng nghe Chúa nói với bà.
Chúa dùng hình ảnh nước uống để mặc khải mầu nhiệm ân sủng Thần linh từ Thiên Chúa muốn ban cho con người. Chúa không có thái độ khinh thị, Chúa sử dụng ngôn ngữ người đàn bà dễ hiểu và cuối cùng dẫn bà đến thực tại sâu xa nhất trong tâm hồn của bà. Đó là Chúa cho bà biết là bà đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải nước uống vật chất, không phải tình thương nhục dục, nhưng khao khát ơn cứu rỗi, khao khát gặp được Đấng Thiên Sai, trong lúc đó Chúa Giêsu đã mặc khải rõ ràng hơn cho bà Đấng Thiên Sai đó chính là Thiên Chúa, là người đang nói với bà đây. Con đường đức tin của bà đã bắt đầu, bà đón nhận và trở thành người chứng đầu tiên cho Chúa, bà chạy về làng kêu mời những người khác đến gặp Chúa Giêsu. Tin và làm chứng cho Chúa luôn đi đôi với nhau.
Tác giả Phúc âm thánh Gioan không kể thêm chi tiết khác nữa, vì đó có thể là những chi tiết để thỏa mãn tính tò mò của mỗi người chúng ta hôm nay khi đọc đoạn Phúc âm này, nhưng ngài muốn nói đầy đủ trong đoạn Phúc âm những chi tiết khác thuộc phạm vi riêng tư giữa Chúa và người đàn bà, giữa Chúa và mỗi người chúng ta, giữa Chúa và mỗi người mà chúng ta không cần biết đến.
Những gì đã được kể ra trong đoạn Phúc âm hôm nay là để giúp cho mỗi người chúng ta nhìn lại con đường đức tin của mình: Tôi đã gặp được Chúa như thế nào ? Tôi đã gặp Chúa hay chưa ? Để mỗi người chúng ta biết trở về nhìn nahn giây phút ân sủng mà Chúa đến thăm mỗi người chúng ta, Chúa thực hiện một dấu lạ, một điều gì đó kể cả Chúa dùng tội lỗi cảu chúng ta như Chúa dùng trường hợp tội lỗi của người đàn bả để mặc khải một thực tại cao siêu hơn, để kêu gọi người đàn bà trở về, bà đã có năm đời chồng, bà nói đúng sự thật về người mà bà đang sống, bà biết người đang sống với bà không pahỉ là chồng của mình. Chúa có thể dùng những tật xấu, những tội lỗi của chúng ta để thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta trở về với Chúa.
Ngày xưa có một người ăn mày ngồi bên vệ đường để ăn xin, bên cạnh ông là một túi vải đựng vỏn vẹn vài hạt lúa. Bỗng ông thấy chiếc xe chở Nhà Vua đang đi tới. Ông mừng lắm, tự nhủ rằng thế nào Nhà Vua cũng bố thí nhiều tiền cho ông. Ông chạy ra đón đường
- Muôn tâu bệ hạ, xin đủ lòng thương xót bố thí cho kẻ thần dân nghèo khổ này một ít tiền để sống qua ngày.
Nhà vua xuống xe, đến gần người ăn mày, và nói một câu khiến ông hết sức ngạc nhiên và thất vọng:
- Ông có thể dâng cho hoàng thượng của ông một món quà gì không ?
không nào từ chối được, ngăn ăn mày lục lọi trong túi vải một hạt lúa nhỏ nhất đưa cho nhà vua.
Khi nhà vua đi rồi, người ăn mày tiếc rẻ mở túi vải ra đếm lại số lúa của mình. Lạ thay, thay vào chỗ hạt lúa đã cho đi là một hạt vàng sáng lóng lánh, cũng bằng y hạt lúa ấy. Lúc đó người ăn mày vô cùng tiếc rả: phải chi mình cho hết những hạt lúa đi thì bây giờ mình đã có một túi đầy những hạt vàng !
Ý nghĩa chuyện này:
- Người xin trở thành người cho và người cho trở thành người nhận, như Đức Giêsu và người phụ nữ Samaria vậy.
Thực vậy, chúng ta đi vào đoạn tin mừng hôm nay: Mệt mỏi và đàng xa vả nóng bức, Chúa Giêsu ngồi nghỉ bên bờ giếng. Thấy một người đàn bà đi kín nước, Ngài bèn lên tiếng xin một chút nước để uống. Một chút nước nào có đáng giá bao nhiêu, thế nhưng chính nhờ chút nước ấy, Chúa Giêsu đã trao ban cho chị một dòng nước thiêng liêng dạt dào. Ngài đã tha thứ và cảm hóa chị, để chị từ bỏ dĩ vãng đen tối của mình mà bước vào con đường ngập tràn ánh sáng. Từ đó, chúng ta nhận thấy tình thương vô biên của Chúa và chúng ta có thể kết luận: Chính lúc cho đi là lúc nhận lãnh, chính khi chia sẽ là khi được trở nên giàu có.
Đức Giêsu mỏi mệt vì đi bộ dưới ánh nắng hè oi bức gần ba chục cây số, từ bờ sông Gióc đan tới giếng Gia cóp. Người còn mỏi mệt hơn dưới những hận thù của các dân, các nước, cụ thể là sự hận thù giữa dân Do thái và Samari: “Trước khi lập quốc, hai dân là một quốc gia, một tôn giáo, một dòng giống Giacóp. Họ chia rẽ nhau từ năm 935 lúc Salômôn tạ thế. Do thái tách thành một nước riêng, Samari thành một nước hận thù. Từ chia rẽ chính trị đến chia rẽ tôn giáo” (Văn Qui: CN. năm A tr. 60). Hai dân đã trở thành thù địch nhau ghê gớm.
Đức Giêsu đến Samari, ngồi trên bờ giếng Gia cóp, để qui tụ Do thái và Samari về xum họp với nhau dưới mái nhà Thiên Chúa là Cha chung của hai dân tộc. Người đã mở đầu cuộc đối thoại hòa giải bằng một cử chỉ thật khiêm tốn trước mặt một người phụ nữ nghèo hèn tội lỗi nhất, đại diện cho dân Samari: “Chị cho tôi xin chút nước uống !”, như một lời xin lỗi, một lời nài van tình người xóa bỏ hận thù để hòa giải, thương yêu và tương trợ nhau.
Đức Giêsu xin chút nước giải khát tạm thời, để ban cho chị mạch nước trường sinh. Người xin chút vất vả múc nước, Người ban cho chị nguồn vui hạnh phúc Tin mừng bất tận. Người xin chút tấm lòng cởi mở thưa đáp, Người cho chị tấm lòng bao dung tha thứ vô biên. Người xin chút niềm tin hẹp hòi địa phương của chị, Người ban nguồn chân lí cho muôn dân biết tôn thờ Thiên Chúa là Cha chung mọi người. Người xin một chỗ ngồi nhỏ bên bờ giếng, Người ban cho Samari nước Trời vinh quang. Họ đã vui mừng thưa: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Tinh trần gian.
Đức Giêsu đến trần gian như đến với Samari để qui tụ muôn dân xum họp nhau lại dưới mái nhà Thiên Chúa là Cha chung loài người. Người đã bắt đầu cuộc hòa giải ngay từ giây phút sinh ra nơi thấp hèn nhất là hang bò lừa để đem lại ơn bình an cần thiết nhất xuống cho nhân loại. Người đã kéo dài cuộc hòa giải suốt 30 năm cho tới bàn hận thù ghê gớm nhất trên đỉnh núi Sọ để xin ơn tha thứ cho mọi người: “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ lầm chẳng biết”. Họ lầm chẳng biết Thiên Chúa, nên họ cũng lầm chẳng biết nhau. Đức Giêsu đã thương yêu họ để họ biết thương yêu nhau trong tình thương chí thiện, chí mỹ của Thiên Chúa.
Cuộc hành trình hòa giải của Đức Giêsu phải được con cái Người nối tiếp để phá đổ những bức tường hận thù ngăn cách loài người với Thiên Chúa và khai mở cho mọi dân tộc, mọi gia đình, mọi cá nhân một con đường mới, con đường khiêm tốn, đối thoại hiệp thông chan hòa ơn phúc bình an và thương mến nhau.
Lạy Chúa, cuộc hành trình gian khổ của Chúa đến Samari để thực hiện hiệp nhất giữa hai dân tộc hận thù, Chúa còn bỏ trời cao vinh sáng xuống trần gian thấp hèn đen tối, để nối kết loài người với Thiên Chúa. Xin cho con được phúc tiếp tục cuộc hành trình cao cả đó, cho con biết hiệp nhất với mọi người trong khiêm tốn, bình an và chân lý để tin mến tôn thờ Thiên Chúa trọn đời con. Amen.
Bài thuyết giảng của Minh Sư chỉ thu gọn lại trong một câu đầy bí ẩn. Ngài nói với một giọng cười gượng gạo: "Tất cả những gì thầy đang làm là ngồi bên bờ sông để bán nước sông."
Sự kiện có thể là: Tôi đã quá bận rộn mua nước sông cho đến nỗi không để ý thấy dòng sông!
Phúc Am kể rằng ngày kia Chúa Giêsu đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa. Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước.
- Đức Giê-su nói với thiếu phụ đó là: "Chị cho tôi xin chút nước uống !"
- Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri-a, cho ông nước uống sao?
- Đức Giê-su trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: `Cho tôi chút nước uống', thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống."
- Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?
Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy."
- Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy, một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."
- Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước."
Bài phúc âm này được tuyên giảng trong Chúa Nhật thứ Ba mùa Chay (vào tuần tới) khi mà các dự tòng đang tiến gần về dòng nước để được ban phép Thánh Tẩy, hầu nhập đoàn làm con cái Thiên Chúa.
Câu truyện này cũng cho thấy: tiến trình đến được với Chúa trong đức tin đôi khi rất khó và phải lướt thắng biết bao nhiêu cản trở. Những định kiến đã sẵn có, và những thành kiến đã cản trở không cho phép ta tự đi làm một cuộc khám phá cá nhân. Giống như cái cảm tưởng đầu tiên của người phụ nữ Samaritan là không thích người Do thái, mà đức Kitô là người Do thái... Trên con đường tìm kiến đức tin, phản ứng trước tiên của ta có thể là: "Thôi cần gì nữa, cố gắng thêm chi cho mất giờ!".
Đối với các bạn trẻ, câu trả lời của các bạn thế nào, khi được mời gia nhập vào Phong trào Thanh Thiếu Niên Công giáo? Còn quí ông quí bà sẽ trả lời ra sao khi được mời tham gia vào các Hội Đoàn Công Giáo Tiến Hành trong giáo xứ?
Chúa Giêsu đã diễn giải cho thiếu phụ Samaria rằng Ngài muốn nói về thứ nước mà sẽ phát sinh sự sống đời đời, nước của phép rửa tội, thứ nước siêu nhiên sẽ làm cho không còn khát bao giờ nữa. Ban đầu người thiếu phụ chỉ bị lôi cuốn vào việc đối thoại với Chúa Giêsu, chỉ trên bình diện lợi lộc thực tiễn là như vậy sẽ không cần phải đến giếng nước này mỗi ngày nữa.
Thế rồi người thiếu phụ đổi đề tài; nàng đặt vấn đề về việc phải thờ phương Thiên Chúa tại Đền Thánh Jerusalem hay là tại núi Samaria, và khi nào thì Đấng Thiên Sai sẽ đến. Đức Giêsu, không để người thiếu phụ thay đổi đề tài. Đức Giêsu đã trả lời ngay "Ta là Đấng đó", Ngài trực diện với nàng và đòi hỏi một giải pháp đức tin "ngay bây giờ".
Thánh sữ Gioan dùng mẫu truyện người thiếu phụ này cốt ý cho mỗi người chúng ta đặt lại vấn đề đức tin của cá nhân mình. Mỗi người chúng ta, dù nam hay nữ, dù trong trạng thái nào của cuộc sống, cũng có thể là một Samaritan, chúng ta cần gặp và trực diện với Đức.
Có một câu nói trong sách cùa Hồi giáo như sau: "khát thì tìm nước, nhưng nguồn nước cũng đi tìm người khát". Chúa Giêsu là nguồn nước sự sống người tìm đền với mỗi người chúng ta. Để tiến sau vào con đường khám phá đức tin, chúng ta phải vượt qua được hiện cảnh của mình; như người thiếu phụ, đào sâu vào quá khứ tội lỗi, nhận thực ra mình là ai. Và đó là giây phút được giải thoát, được thứ tha, được yêu thương, được nhận ra nguồn sống mới. Muốn bắt đầu cuộc hành trình đức tin thực sự, chúng ta phải cất bước đi tới.
Nhắc lại câu nói của vị minh sư ngồi bán nước của dòng sông, Điều quá hiển nhiên là: có khi chúng ta vẫn mãi miệt mãi đi mua nước, mà không hề biết là dòng sông đầy nước đâu cần phải mua gì nữa.
Chúng ta có nhận ra rằng: chính Chúa Giêsu là suối nguồn tình yêu của đời chúng ta không?
Sự hiện diện của Chúa trong lịch sử cứu độ và trong đời sống của mỗi người, đó là chủ đề chung của phụng vụ ngày Chúa Nhật hôm nay. Dân Ítraen trong cuộc hành trình qua sa mạc tiến về đất hứa, đang chết khát. Chúa can thiệp qua trung gian của Môsê. Và nước tràn đầy vọt ra từ tảng đá núi Horéb (Bài 1). Trong cuộc đàm thoại với người thiếu phụ Samaria, Đức Giêsu tỏ mình như là hiện thân của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Ngài là dòng nước làm thỏa cơn khát tâm hồn. Ngài là Lời của Thiên Chúa Đấng biến đổi từ nội tâm những ai biết nhìn lên Ngài và lắng nghe lời Ngài (Tin mừng). “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần”. Thiên Chúa hiện diện trong con người nhờ Thánh Thần, ban chính mình Ngài vào trong lòng con người. (Bài 2)
Sứ Điệp Niềm Tin
Lịch sử cứu độ, trong đó chúng ta đang sống, là một biểu ngữ thần học về ý định và sự hiện diện của Thiên Chúa trong nhân loại. Thiên Chúa Đấng đã dựng nên dân Ítraen, Ngài không bỏ rơi họ trong cảnh túng bấn. Ngài làm họ no thỏa bằng lời hứa trung tín và cùng đồng hành với họ với quyền lực của Ngài. Sự hiện diện của Thiên Chúa không luôn nhìn thấy được. Quả thực, điều ngược lại xem ra thực hơn: đó là Thiên Chúa đã lãng quên dân Ngài, và dân đã kêu rêu vì đói khát, nhớ lại quá khứ ở Ai cập. Thiên Chúa động lòng thương và can thiệp để ban cho họ Manna, nước tràn trề, thịt chim cút, niềm hy vọng một “miền đất chảy sữa và mật”. Và rồi dân hiểu ra rằng Thiên Chúa luôn trung thành và họ tin tưởng vào Ngài và vào người được Ngài chọn: Môsê, Giôsuê…
Thiếu phụ Samaria, và những người đồng hương của nàng hình như đã bỏ Thiên Chúa, vì nhiều thế kỷ qua, họ đã bỏ việc tôn thờ Giavê mà chạy theo các thần dân ngoại (x. 2V 17,28-31). Họ là những người có lòng đạo, nhưng họ đã để mình đi theo ngẫu thần.. Họ không còn biết Thiên Chúa thật cũng chẳng biết phải thờ Thiên Chúa ở đâu và cách nào nữa. Tuy nhiên, Thiên Chúa, đã tỏ mình qua Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu tự tỏ mình là Đấng Messia thật, Đấng được xức dầu của Giavê, đến cứu thoát dân Ngài. Ngài chỉ cho biết cách thờ phượng Thiên Chúa đích thực, không lệ thuộc vào nơi chốn, nhưng dựa vào lòng thành, sự phụng thờ trong thần khí và chân lý. Các kitô hữu gốc Hy Lạp ở Giêrusalem, không lâu sau đó, sẽ đi giảng đạo khắp cả vùng Samaria này. Thiên Chúa trung thành với dân của Ngài và kế hoạch cứu độ của Ngài. Sự trung tín của Ngài, sự hiện diện hữu hiệu của Ngài trong chúng ta và giữa chúng ta, cảm nghiệm được nhờ Chúa Thánh Thần. Ngài là nước hằng sống tuôn đổ trong lòng chúng ta, là quà tặng Chúa Cha ban cho để nhắc nhở ta về tình yêu của Ngài. Tác động của Thánh Thần cho ta tin chắc sẽ được cứu độ nhờ công cuộc của Đức Giêsu Kitô, Đấng chết vì chúng ta. Ngài khai mở cho chúng ta niềm hy vọng vững chắc.
Gợi Ý Mục Vụ
Chúa hiện diện thật rõ ràng trong thế giới của chúng ta. Tuy vậy, ngày nay, sự hiện diện của sự dữ càng ngày càng rõ nét và hoành hành trong đời sống chúng ta. Đầy phấn khởi, người giáo dân chúng ta phải thuộc loại người lạc quan. Nghĩa là: những người thoát khỏi sự dữ và đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng, không còn nghi ngờ gì nữa, cũng có những người chú tâm vào sự chết và sự tiêu diệt và vì thế, cũng đã đầu hàng, bi quan và thất vọng trước hiện trạng chung. Người mục tử phải biết động viên mọi người cách thức thế nào để nhận ra điều tốt xấu, trong thế gian, và chỉ cho họ thấy rằng chỉ điều tốt mới đáng cho ta quan tâm.
Đức Thánh Cha hiện nay là mẫu gương tốt về việc này. Ngài đã nói trong những buổi triều yết từ ngày 18 đến ngày 25 tháng 11, 1998, để nêu rõ trước mặt thế giới và Hội Thánh về niềm hy vọng trước mắt.
Ta có thể hy vọng vào khoa học hiện đại, kỹ thuật và y học như chúng đang được khám phá để phục vụ nhân loại. Các chính phủ ngày nay càng ngày càng tìm cách để thiết lập công lý và hòa bình trên thế giới. Khát vọng cả thế giới cùng liên đới và hiệp nhất mỗi ngày càng mãnh liệt hơn. Tất cả những dấu chỉ của tình huynh đệ và bác ái trên thế giới là niềm hy vọng lớn đối với kitô hữu. Ta có thể nhận ra những bước tiến vĩ đại của Hội Thánh tìm đến đại kết. Ta cũng có thể thấy sự triển nở lớn lao của tinh thần và đặc sủng của Hội thánh ngày nay nơi mọi người, già cũng như trẻ. Người giáo dân, phụ nữ và giới trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc mở mang nước của Đức Kitô. Tuy nhiên, thay vì thất vọng và mất niềm tin vào thế giới ngày nay, ta cần cảm nhận và thấy rõ thách đố và nhu cầu, và biết rằng ta cũng có khả năng thực hiện đôi điều trong những việc đó.
Cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp là một đỉnh cao của Tin Mừng Gio-an. Chúng ta đừng để cho tâm trí bị cuốn hút bởi một chi tiết nhỏ nhặt ( người phụ nữ có 7 đời chồng ) mà không chú tâm vào nội dung và giáo huấn của tường thuật. Đây không phải là một cuộc gặp gỡ và trao đổi bình thường như nhiều người lầm tưởng, mà là một cuộc gặp gỡ và trao đổi về thần học như nhiều nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay muốn nhấn mạnh.
Quả vậy, Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri đã trao đổi với nhau về việc thờ phượng Thiên Chúa, về vai trò và nhiệm vụ của Đấng Mê-si-a, về Nước Hằng Sống là những đề tài rất cao siêu và quan trọng đối với đời sống tôn giáo của mọi thời, mọi người. Cuộc trao đổi này cũng mang tầm quan trọng như cuộc trao đổi giữa Đức Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô ( Ga 3, 1 - 21 ) về việc cần phải tái sinh để vào được Nước Trời !
Và Đức Giê-su đã vén bức màn cho người phụ nữ thấy những thực tại cao cả: chính Người là Đấng Mê-si-a, là Nước Hằng Sống làm thỏa nguyện những ai đang khát, là Đấng cho thấy Chúa Cha và chỉ dẫn cách thờ phượng Thiên Chúa cách chân chính và đẹp lòng Cha nhất là thợ phượng trong thần khí và sự thật.
2. Để đón nhận và áp dụng giáo huấn ấy vào cuộc sống:
Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy Đức Giê-su mặc khải ( bộc lộ ) những bí nhiệm cao siêu của Đạo, không phải cho các thày tư tế, kinh sư và luật sĩ của It-ra-en mà là cho một phụ nữ ngoại đạo có những bẩy đời chồng. Trước mặt Thiên Chúa dường như không có chuyện "ai xứng ai không" ( vì thật ra chẳng có ai là xứng cả ) mà chỉ có chuyện "ai được ai không" thôi.
Ơn soi sáng là ơn 'nhưng-không'. Ơn thông hiệp với mầu nhiệm Thiên Chúa cũng là ơn 'nhưng-không' ! Các ơn ấy, Thiên Chúa muốn ban cho ai thì ban. Nhưng có thể nói các ơn ấy thường được ban cho các tâm hồn khao khát, tìm kiếm, cởi mở và trống rỗng như tâm hồn của người phụ nữ Sa-ma-ri.
Chúng ta hãy tập cho mình có một tâm hồn như thế: vì, nếu chúng ta thật sự khát khao, thì chúng ta sẽ được thỏa lòng; nếu chúng ta chịu tìm kiếm, thì chúng ta sẽ thấy, sẽ gặp; nếu chúng ta cởi mở tấm lòng thì ơn huệ Thiên Chúa sẽ tuôn tràn vào lòng ta và nếu tâm hồn ta trống rỗng thì sẽ được Thiên Chúa đổ đầy...
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Mê-si-a, xin Chúa hãy cứu chúng con.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Nước Hằng Sống của Thiên Chúa, xin Chúa làm cho tâm hồn chúng con được no thỏa.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng mặc khải về Chúa Cha và về cách thờ phượng Người, xin Chúa ban ơn cho chúng con nhận biết Cha và ơn biết thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng gần gũi, yêu thương, tôn trọng những hạng người hèn mọn, thấp cố bé miệng, xin Chúa giúp chúng con biết sống gần gũi, chan hòa và thông cảm với mọi người.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng lấy việc thực thi Thánh Ý Cha làm lương thực hàng ngày, xin cho chúng con biết noi gương Chúa mà tìm kiếm và thực thi Thánh Ý Cha trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống !
Khát nước, đó là tình trạng thiếu thốn mà ai cũng đều kinh nghiệm hằng ngày. Khát nước đòi người ta phải uống nước để thỏa mãn cơn khát. Nếu không thỏa mãn, con người sẽ bị cơn khát dằn vặt rất đau khổ. Uống rồi thì hết khát, nhưng chỉ một thời gian ( một tiếng hay hai tiếng sau ) cơn khát lại trở lại, và cứ thế mãi. Đói cũng tương tự như khát. Ngoài nước uống và thức ăn, con người còn đói khát nhiều chuyện khác: tình cảm, tình yêu, tình dục, tiếng khen, tiền bạc, địa vị, quyền lực, hiểu biết, trở nên hoàn hảo...
Nhưng tất cả những thứ ấy, dù đạt được như lòng mong ước, thì con người cũng chỉ thỏa mãn một thời gian rất ngắn, để rồi lại tiếp tục cảm thấy thiếu thốn. Nếu không tiếp tục thỏa mãn, con người cảm thấy đau khổ. Khi không có chiếc xe đạp, ta cảm thấy thiếu và mong có được chiếc xe đạp. Khi đã có chiếc xe đạp, ta lại thấy thiếu và mong có chiếc gắn máy... Cứ thế, chẳng bao giờ ta hết thiếu thốn, hết đói khát, hay hết khát vọng cả. Hạnh phúc của con người vì thế chỉ luôn luôn tạm thời: được no đủ trong giây lát để rồi lại đói khát triền miên.
Như vậy, con người cứ phải nô lệ cho những cơn khát đủ loại của mình, cứ phải vất vả để tìm đủ cách thỏa mãn chúng. Trong khi tìm cách thỏa mãn chúng, nhiều khi con người phải hy sinh cả gì mình quí nhất: mạng sống, lương tâm, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em... Vì thế, cơn khát này chưa được thỏa mãn thì mình lại gây nên những cơn khát loại khác. Cứ thế mà con người lâm vào vô số những vòng luẩn quẩn trói chặt con người vào đau khổ.
2. Làm sao để hết khát vọng ? để khỏi đau khổ ?
Đức Giê-su nói: "Ai uống nước này, sẽ lại khát". Thật vậy, những cách thỏa mãn khát vọng của con người đều chỉ là tạm thời. Được thỏa mãn rồi lại tiếp tục khát vọng. Khát vọng siêu đẳng nhất của con người là muốn có một giải pháp để thỏa mãn vĩnh viễn mọi khát vọng, và không còn phải khát vọng nữa.
Làm sao có được giải pháp đó trên đời ? Đức Giê-su đã cho ta biết Ngài có giải pháp đó: "Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời". Ngài cho biết giải pháp của Ngài sẽ trở thành "một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" nơi người dùng giải pháp ấy. Có sẵn trong người một mạch nước thì ta sẽ không bao giờ khát nữa, mà trái lại còn có thể làm thỏa mãn cơn khát của người khác. Mạch nước ấy "đem lại sự sống đời đời".
Mạch nước ấy là gì ? Là chính Thiên Chúa, được hiện thân thành Đức Ki-tô. Chỉ cần thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô, ta sẽ có được mạch nước đem lại sự sống ấy ở trong ta. Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhờ thật sự gặp được Thiên Chúa, các vị thánh đã được biến đổi hoàn toàn, các ngài cảm thấy hạnh phúc vô biên bất chấp nghịch cảnh, đã yêu thương và có một sức mạnh tinh thần rất lớn để dấn thân và hy sinh cho Thiên Chúa và đồng loại không mệt mỏi. Vậy vấn đề mấu chốt là thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô.
3. Làm sao để thật sự gặp gỡ Thiên Chúa ?
Nhiều khi ta đến để gặp Chúa – trong nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh lễ, v.v... – nhưng ta lại không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo thói quen, theo giờ giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối diện với Chúa trước nhà tạm, ta rước Chúa vào tận trong lòng mình, nhưng ta vẫn không thật sự gặp Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do-thái xưa, họ nói chuyện với Chúa, ở bên cạnh Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa.
Cổ nhân có câu: "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng" ( Có duyên với nhau thì dù xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với nhau thì dù có mặt đối mặt cũng không gặp nhau ). Như thế, sự gặp gỡ thật sự đòi hỏi phải có "duyên" với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau nào đó. Cổ nhân còn nói: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" ( Cùng âm thanh thì phụ họa nhau, cùng tính tình, khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp nhau ).
Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, nên chỉ những ai biết yêu thương - nghĩa là giống Thiên Chúa - mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: "Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa" ( 1 Ga 4, 7a – 8 ). Chữ "biết" ở đây có nghĩa là cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người không biết yêu thương thì không thể gặp được Thiên Chúa.
Đức Giê-su nói: "Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem". Như vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian - tức chỗ này chỗ kia - không phải là chuyện quan trọng: "Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra" ( Cv 7, 48 ). Đức Giê-su cũng nói: "Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật". Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, ta cũng phải gặp gỡ Ngài trong thần khí và sự thật.
4. Gặp gỡ Thiên Chúa trong thần khí và sự thật
Để giải thích điều này, Đức Giê-su nói: "Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật". Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình - tức tâm hồn mình – để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình.
Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì "con người là hình ảnh của Thiên Chúa" ( St 1, 26 – 27; 9, 6; Kn 2, 23 ). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em" ( 1 Cr 3, 17; x. 6, 19 ).
Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, mình mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong Thánh Thể, trong Nhà Thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Âu-tinh đã từng than thở: "Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con" ( Confession, cuốn VI, chương 1 ).
Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật sự gặp được Thiên Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân chất, "có nói có, không nói không" ( Mt 5, 36 ), không quanh co, uẩn khúc. Không thể gặp được Thiên Chúa những người nghĩ một đằng nói một ngả, hay nói một đằng làm một nẻo.
Tôi nghe thấy tiếng Chúa: "Đã đến lúc trình độ tâm linh con người phải tiến cao hơn một bậc nữa. Con người không nên thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu vụ hình thức, vụ không gian, vụ thời gian, vụ vật chất nữa. Con người cần thờ phượng và gặp gỡ Thiên Chúa bằng thần khí chứ không phải qua vật chất, qua hình thức nữa. Con người cần gặp gỡ Thiên Chúa ngay trong bản thân mình hơn là ở một nơi nào bên ngoài. Con người cần hiểu biết Thiên Chúa theo sự thật, bằng chính bản chất của Ngài hơn là bằng những hiện tượng, danh từ, ngôn ngữ hay cách diễn tả đặc thù của mỗi tôn giáo, mỗi nền văn hóa. Có gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, con người mới được biến đổi để trở nên hoàn hảo và hạnh phúc hơn".
Nước là nhu cầu không thể thiếu được trong sinh hoạt hằng ngày. Nếu biển, sông, hồ, suối mà cạn nước, cá và các vi sinh vật sẽ chết khô. Nước tự nhiên rất cần thiết cho con người.
Chúa Giê-su trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay năm A lại nói đến một thứ nước trường sinh, một loại nước vĩnh hằng, ai uống vào sẽ không bao giờ khát nữa. Chúa đã nói gì với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ thành giếng Gia-cóp ? Qua lời của Chúa Giê-su, người phụ nữ Sa-ma-ri đã nhận ra Đức Tin đang tàng ẩn trong bà và chính Chúa Giê-su đã lấp đầy khát vọng sâu xa của bà.
I. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA CHÚA GIÊ-SU và NGƯỜI PHỤ NỮ SA-MA-RI
Câu chuyện xẩy ra bên bờ thành giếng Gia-cóp, miền Sa-ma-ri của dân ngoại. Chúa Giê-su đi ngang qua vùng này để nói lên sự hòa giải của Người với dân ngoại. Giếng, giữa một sa mạc khô cằn, hạn hán là nơi gặp gỡ, trao đổi, nơi lãnh nhận sự sống do nguồn nước cung cấp. Giếng cũng gợi nhớ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với Dân của Người trong thời Xuất Hành. Trong câu chuyện hôm nay, thánh Gio-an trình thuật lại một cách rất phong phú về phương diện Giáo Lý. Nhưng chúng ta hãy chú ý tới cuộc đối thoại đầy hứng thú giữa Chúa Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri.
Ở đây ta có cảm tưởng, người phụ nữ rất ngạc nhiên khi Chúa Giê-su đi bước trước, xin người phụ nữ ngoại giáo cho mình uống nước, vì đối với dân Do-thái lúc đó, điều tối kỵ nhất là một người có đạo trò chuyện với người ngoại giáo. Ở đây lại còn là giữa một người đàn ông và một người đàn bà. ”Chị cho tôi xin chút nước”, lời thỉnh cầu này của Chúa Giê-su làm cho người phụ nữ Sa-ma-ri rất khó hiểu và kinh ngạc vì chị hiểu rất rõ mối thù hận lâu đời giữa hai bên.
Tuy nhiên, người phụ nữ đã chấp nhận đi vào cuộc: ”Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông uống nước sao ?” ( Ga 4, 9 ). Người phụ nữ Sa-ma-ri vô tình đang đi vào một cuộc gặp gỡ nhiệm mầu mà bà không bao giờ ngờ trước ! Chúng ta vẫn không khỏi khâm phục Chúa Giê-su đã rất tài tình khéo léo, đặt hết câu hỏi này tới câu thắc mắc khác hầu có thể kéo người phụ nữ đi vào con đường nhận ra Đấng đang nói với bà. Câu chuyện làm cho người nghe có lúc hiểu rằng Chúa Giê-su nói một chuyện, người phụ nữ nói một chuyện. Hai bên khó lòng hiểu nổi nhau. Người phụ nữ nói chuyện dưới đất, Chúa nói chuyện trời cao.
Nhưng cuối cùng, việc Chúa xin nước tự nhiên ở giếng Gia-cóp đã kích thích tính tò mò của người phụ nữ Sa-ma-ri khi Người xoay chiều nói về một thứ nước vĩnh cửu, thứ Nước Hằng Sống mà chỉ có Người mới có quyền ban cho con người. Nước tự nhiên làm cho con người vẫn mãi mãi khát. Còn thứ nước Người cho sẽ làm cho con người không bao giờ còn khát nữa và được sống đời đời. Tin Mừng cho hay: Dù người phụ nữ chưa hiểu ất giáp gì, nhưng bà đã quyết định xin thứ nước lạ lùng vô tiền khoáng hậu ấy.
Tin Mừng trong trích đoạn này càng làm ta ngạc nhiên khi thấy Chúa Giê-su chuyển đổi đề tài. Chúa Giê-su chiếu cố ngay tới đời tư của người đàn bà Sa-ma-ri. Người đã nói trắng ra tất cả đời tư của người đàn bà Sa-ma-ri. Bà ta đã ấp úng xưng Chúa Giê-su là một vị tiên tri, và ý thức tôn giáo đã trỗi dậy trong bà. Đức Giê-su là Đền Thờ Mới ( Ga 2, 19 – 22 ). Vì thế, khi người phụ nữ Sa-ma-ri đề cập tới việc Đấng Mê-si-a mà người ta gọi là Ki-tô, thì chính lúc đó Chúa Giê-su đã có thể tự mạc khải mình cho người phụ nữ: “Đấng ấy, chính là Tôi, đang nói với chị đây” (Ga 4, 26 ).
Tuy lòng tin chưa sâu đậm bao nhiêu, nhưng người phụ nữ đã bỏ vò nước lại, chạy mau vào thành và loan báo với mọi người về một người đàn ông Do-thái đã biết tất cả dĩ vãng, cuộc đời không mấy tốt đẹp của bà, bà đã thuật lại cuộc gặp gỡ diệu kỳ này, rồi bà kết luận: “Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?” Lời nói của bà lúc này đã dẫn bà tới gần chân lý lắm rồi !
Qua lời chứng của người phụ nữ, nhiều người Sa-ma-ri đã tới và gặp Đức Ki-tô. Bài tường thuật đạt tới đỉnh tuyệt vời với lời tuyên xưng của nhiều người: “...Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu Tinh của trần gian” ( Ga 4, 42 ). Rõ ràng Chúa không phân biệt người có đạo và không có đạo, nhưng Ơn Cứu Độ của Người vẫn luôn được trao ban cho tất cả mọi người.
II. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA CHÚA GIÊ-SU và NGƯỜI PHỤ NỮ SA-MA-RI NÓI GÌ CHO TA ?
Qua cuộc đối thoại đầy hứng thú này, lồng trong khung cảnh Mùa Chay năm 2002, chúng ta hãy duyệt xét lại tiến trình Đức Tin của mỗi người chúng ta. Đức Tin chúng ta có cần được củng cố hay tự nó có đó mà không cần phải cố gắng phấn đấu, hy sinh và canh tân vươn lên không ngừng ? Và như thế, chúng ta có biết mở rộng tâm hồn để đón nhận mặc khải của Chúa Giê-su như người nữ Sa-ma-ri hay không, có biết khao khát thứ Nước Hằng Sống của Người hay không ?
Linh Mục Frank Roof, cựu tuyên úy của Nhà Cải Huấn thuộc tiểu bang Kentucky, kể lại một chuyện cảm động về một tù nhân tên là Paul Kordenbrock.
Paul lớn lên trong một môi trường dễ dãi của thập niên 1960. Triết lý phổ thông thời đó là "Hãy làm, nếu cảm thấy thích."
Chính triết lý này đã lôi cuốn cậu Paul trẻ tuổi này lâm vào hết tình trạng tệ hại này đến tệ hại khác. Cho đến một ngày nọ Paul đã bị hoảng hồn khi nhận được tin là mình sẽ bị xử tử.
Bây giờ, cậu đang bị giam giữ trong nhà tù và chiếc ghế điện đang chờ cho sự công lý phân xử cậu.
Vào năm 1982, Paul xin cha Roof ban phép giải tội, và xin được rước Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ này đã đưa đến nhiều cuộc gặp gỡ khác. Dần dà, Paul được giới thiệu đến các tử tội Công Giáo khác. Paul đã viết đơn xin phép ban quản trị nhà tù để cho cha Roof cử hành Thánh Lễ cho đám tù tội Công Giáo nhỏ bé đang từ từ chờ đón án tử của mình.
Nhà tù đã cho phép điều đó, và như thế cha Roof đã cử hành Thánh Lễ hằng tuần trong một cái phòng tù bằng thép cho các tử nhân.
Tất cả sự kiện này không phải xảy ra một cách bất ngờ. Cha Roof đã tìm hiểu và biết rằng Paul còn theo học các khoá giáo lý hàm thụ: lớp Cựu Ước, Tân Ước, lịch sử Giáo Hội, giáo huấn Giáo Hội, luân lý Công Giáo.
Paul còn đã trở thành một giáo lý viên có bằng cấp thuộc một giáo phận và đã thi hành chương trình RCIA - chương trình dài một năm để khai tâm cho những người lớn- cho các tử tội nhận đức tin Công Giáo. Mỗi năm, Paul đã đưa ít là một người tử tội về với Đức Kitô.
Câu truyện của Paul Kordenbrock cũng giống câu truyện của người đàn bà tại giếng nước.
Phúc Âm ghi lại: "Bà để gầu nước lại và đi về làng và nói với mọi người, 'Hãy đến mà xem Người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.' "
Phúc Âm thêm rằng mọi người đã rời làng và đến gặp Chúa Giêsu.
Và như thế, người đàn bà, từng là người tội lỗi nhất, đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Kitô Giáo. Sau khi bà khám phá ra Chúa Giêsu, bà đã ra đi chia sẻ sự khám phá của bà với bạn bè và tha nhân.
Và đấy thực sự chính là những gì Paul Kordenbrock đã làm. Sau khi khám phá ra Chúa Giêsu, anh đã ra đi chia sẻ sự khám phá của mình với những bạn tử tù. Anh nói cho họ, "Hãy đến và gặp người đã làm những sự vĩ đại cho tôi." Và như thế, anh chàng tội lỗi nhất đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của những tử tù trong trại Cải Tạo Tiểu Bang Kentucky.
Khi chúng ta để Chúa Giêsu Kitô vào trong đời sống của chúng ta, thì những điều phi thường mới có thể xảy ra. Chúa Giêsu có thể biến đổi đời sống chúng ta triệt để, y như Ngài đã biến đổi cuộc sống của người đàn bà và cuộc sống của Paul.
Qua chúng ta, Chúa Giêsu có thể với tới và biến đổi đời sống của những người khác, giống như Ngài đã chạm tới và biến đổi đời sống của những người khác qua người đàn bà xứ Samaria và qua Paul.
Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con biết khám phá ra Chúa trong Mùa Chay này. Và qua sự khám phá của chúng con, xin hãy giúp chúng con trở nên những nhà truyền giáo trong gia đình và cộng đoàn của chúng con.
A-lịch-sơn đại đế nước Macédoine, là một vị vua rất nổi tiếng, đã làm rung động cả vùng Tiểu Á Tế Á từ năm 356 đến 323 trước Chúa giáng sinh. Kỳ ấy A-lich-sơn cùng với quân đội vượt những bãi sa mạc Sô-Đăng. Cảnh bát ngát bao la của những vùng cát trắng, không hề có bóng người, Không hề có một giòng nước, làm cho anh em binh sĩ chán ngán thất vọng. Mặt khác, trời lại nóng, cháy da, phỏng thịt, bụi cát bay mù, không khí bực tức, làm cho người ta nghẹt thở. Bởi vậy, binh sĩ của A-lịch-sơn đã nhược cả người ra, bước đi không nổi. Đã thế, lại còn bị khát, khát không thể nào chịu được, ráo cả ruột cả gan. Khát đến nỗi có người đã lăn ra chết. Vừa lúc đó, có hai người xứ Macédoine đi lập trại về, có mang theo mấy bình nước trên lưng lừa. Một người đã đổ nước vào trong mũ, dâng lên Vua dùng. A-lich-sơn liền hỏi họ mang nước về cho ai. Họ nói là mang nước về cho con họ, cũng đang phục vụ trong quân ngũ. Nhà vua liền đỡ lấy mũ đựng nước, rồi nhìn chung quanh, thấy người nào người nấy mặt mày cháy nắng, giơ cổ ra thở hổn hển, mà mắt cứ nhìn chàng chòng chọc vào mũ nước.
Thấy vậy nhà vua lại trả mũ nước lại cho người Macédoine mà bảo: “ta không thể nào uống nổi nước này, trong khi thấy những người khác đang phải chịu khát, và có người đã phải chết vì khát. Hai người hãy đem nước này về cho con đi, vì các người có ý đem nước này về cho chúng dùng. Thấy nhà vua có tinh thần hy sinh, và biết chịu khổ với người khác, anh em binh sĩ đã hăng hái tiến bước, để có thể mau chóng gặp một suối nước đã cung cấp cho tất cả mọi người (... Tay trg 164).
Thưa anh chị em, ở đây tôi không có ý đề cập tới sự hy sinh của A-lich-sơn đại đế, mà chỉ có ý nói đến vấn đề cần thiết của nước uống. Ngay như loài cây, rễ nó đã ăn đất, nếu mỗi ngày ta cho nó uống thêm một vài gáo nước, nó sẽ sống mạnh và sinh bông trái nhiều. Phương chi đối với con người. Con người muốn sống và sống mạnh, không những phải có thức ăn mà phải có đồ uống nữa. Bởi đó ông trời không những đã dựng nên gạo cho ta ăn, mà còn dựng nên nước cho ta uống. Và như vậy, nước uống cũng rất cần cho chúng ta sống và sống mạnh về thể xác.
1. Hơn nữa, Chúa còn muốn dùng nước như một phương tiện để cho chúng ta được sống đời đời. Đây là vấn đề Chúa phán với người phụ nữ xứ Samaria trong bài phúc âm hôm nay: “Nếu chị biết người đang xin chị nước uống là ai, thì người sẽ cho chị thứ nước vọt tới sự sống đời đời”. Nghĩa là Chúa có ý nói về “nước rửa tội”. Chắc anh chị em còn nhớ câu chuyện trong “Xuất hành thư” của Cựu ước. Khi dân Do thái bị lưu đày làm tôi bên nước Ai cập, Vua Pharaon sợ dân Do thái thêm đông, thêm mạnh mà làm loạn, nên đã truyền lệnh cho toàn dân: “bất cứ trẻ nam Do thái nào mới sinh ra, đều phải quăng xuống sông cho chết. Vậy có một gia đình kia thuộc họ Lêvi, sinh được một con trai khôi ngô tuấn tú, nên tiếc, không muốn vất xuống sông, mà đã giấu kín trong nhà ba tháng. Nhưng khi thấy không thể giấu kín được nữa, nên đã lấy chiếc thúng, trét trám và nhựa thông, đặt đứa nhỏ vào trong, rồi đem thả trong đám cây sậy mọc ở bờ sông. Hôm ấy, có công chúa Vua Pharaon đi tắm, nghe thấy tiếng đứa trẻ khóc trong thúng, đến mở ra, liền thương hại, nên đã rước đứa trẻ về nuôi.
Thế là đứa trẻ đã được cứu sống, rồi còn được nhận làm dưỡng tử của hoàng đế Pharaon, được tự do ra vào đền vua, và được đặt tên là Moysen, nghĩa là “người đã được vớt dưới nước lên”. Cũng vậy, sau khi chúng ta được đưa từ giếng nước Rửa tội lên, nghĩa là sau khi chúng ta chịu phép rửa tội, chúng ta được cứu khỏi cảnh nô lệ của ma quỉ, được trở nên con cái của Thiên Chúa, gọi Thiên Chúa là Cha, được trở nên hoàng tử, công chúa của thượng đế, vua trên hết các vua. Lúc ấy chúng ta được sống một đời sống vĩnh cửu của nước trời. Như vậy, nước Rửa tội là thứ nước vọt tới sự sống đời đời, mà Chúa đã phán với người phụ nữ xứ Samaria trong bài phúc âm hôm nay. Nhiều lần anh chị em đã được nghe người ta kể chuyện về cha Charles de Foucald. Cha Charles de Foucald trước đây là một kỵ mã. Vì mê cô đào Mimi mà sống một đời tôi lỗi, và hầu như mất đức tin. Nhưng nhờ phép giải tội của cha Huvelin, Charles de Foucald đã lấy lại được đời sống mới khi chịu phép rửa tội, “đời sống mới này đã làm cho Charles de Foucald trở nên một “thần tiên” của Chúa, tức là trở nên một linh mục đạo đức thánh thiện, đã sáng lập dòng Tiểu đệ và Tiểu muội, giúp ích cho các linh hồn trong giáo hội rất nhiều. Sau khi trở lại rồi, Cha Charles de Foucald đã ghi lại mấy tư tưởng sau đây:
- Phép giải tội là thứ nước Tiên, Chúa dựng nên ở khắp mọi miền, Để rửa hồn, cho xinh đẹp tốt, Lại điểm tô, nên giống thần tiên. - Vậy hãy luôn dùng thứ Nước Tiên, Hỡi những ai, đang sống mọi miền, Phép giải tội, mau năng chịu lấy, Làm cho mình, nên giống Thần Tiên.”
Vậy theo lời Chúa đã phán với người phụ nữ xứ Samaria, phép rửa tội là thứ nước vọt tới sự sống đời đời, Chúa đã dành cho những con người ngoại giáo chưa nhận biết Chúa, thì cũng theo giáo lý của giáo hội, phép giải tội cũng là thứ nước vọt tới sự sống đời đời, mà Chúa đã dành cho người công giáo chúng ta, những người tội nhân yếu đuối.
Kết
Hôm ấy có một người tân tòng đã lớn tuổi đến thăm cha Arami. Sau khi đã nghe biết những lý do làm cho người đàn ông này trở về nhận biết Chúa, cha Arami mới hỏi thêm: “Năm nay ông bao nhiêu tuổi rồi ? Người đàn ông trả lời: “Thưa cha, năm nay con mới lên hai tuổi”. Thấy Cha Amari bỡ ngỡ tỏ dấu không hiểu, người tân tòng phải cắt nghĩa thêm: Thưa cha, thực ra con đã sống trên mặt đất này tám mươi hai năm rồi. Mà 80 năm về trước đây, con chỉ sống bằng một đời sống của con người phàm. Và con cho những người....... là không đáng kể. Chỉ mới hai năm về sau này, con đã sống của người công giáo, của người con Chúa. Và như vậy con đã sống đời sống của chính Chúa. Đời sống này mới là đời sống có giá trị trước mặt Chúa. Đời sống này mới là đời sống đáng kể. Bởi vậy, con mới thưa cha, là năm nay con mới lên hai tuổi.
Thưa anh chị em, người đàn ông tân tòng trên đây đã nói tới sự sống đời đời, sự sống có giá trị trước mặt Chúa, sự sống đáng kể trước mặt Chúa. Đó là sự sống mà phép rửa tội và phép giải tội đã ban cho chúng ta. Vậy nếu vì sự yếu đuối, vì tội lỗi chúng ta đã mất sự sống đời đời đó, thì trong mùa chay này, giáo hội khuyên dạy chúng ta phải dùng phép giải tội để lấy lại sự sống đời đời chúng ta đã làm mất. Sự sống đời đời này, Chúa đã nhắc khéo cho chúng ta khi Chúa phán với người phụ nữ xứ Samaria: “Nếu chị biết người xin chị nước uống là ai, thì người sẽ cho chị thứ nước vọt tới sự sống đời đời. Amen.
Lời nguyện giáo dân
Anh chị em thân mến, theo bài phúc âm hôm nay, Chúa đã phán với người phụ nữ xứ Samaria “Nếu chị biết người xin chị nước uống là ai, thì người sẽ cho chị thứ nước vọt tới sự sống đời đời”, có ý nhắc cho chúng ta nhớ phép rửa tội và phép giải tội là “thứ nước vọt tới sự sống đời đời”, mà Chúa ban cho người công giáo chúng ta. 1. Vậy xin Chúa cho chúng ta biết cảm tạ Chúa đã....
,...
được sống và sống mạnh về thể xác.
2. Xin Chúa cho chúng ta biết cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta được chịu phép rửa tội, một thứ nước vọt tới sự sống đời đời.
3. Xin Chúa cho chúng ta cũng biết cảm tạ Chúa đã lập nên phép giải tội, một thứ nước vọt tới sự sống đời đời, cho con người công giáo yếu đuối chúng ta.
4. Xin Chúa cho chúng ta biết dọn mình chịu phép giải tội trong mùa phục sinh này, để lấy lại sự sống đời đời ta đã làm mất vì tội lỗi.
5. Xin Chúa cho tất cả mọi người trong giáo xứ chúng ta biết lo lắng lấy lại sự sống đời đời, bằng cách sốt sắng chịu phép giải tội trong mùa phục sinh này.
Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Chúa, xưa Chúa đã ban cho người phụ nữ xứ Samaria thứ nước vọt tới sự sống đời đời là nhân đức tin, và ơn trở nên con cái Chúa. Xin Chúa cũng cho tất cả mọi người trong giáo xứ chúng con được biết sốt sắng dọn mình chịu phép giải tội trong mùa phục sinh này, tức là chúng con lãnh được thứ nước vọt tới sự sống đời đời mà Chúa đã phán với người phụ nữ Samaria trong bài phúc âm hôm nay. Nhờ Đức Kitô...
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri, xét bên ngoài có lẽ là một cuộc gặp gỡ bình thường không chờ đợi được kết quả gì, ngay cả đó cũng là cuộc gặp gỡ khó xảy ra vì sự đố kỵ giữa người Do Thái và người Sa-ma-ri. Thế nhưng, đây là một cuộc gặp gỡ rất kỳ diệu, một cuộc gặp gỡ nảy sinh Đức Tin. Chúng ta thấy nơi cuộc gặp gỡ này là cả một tiến trình gặp gỡ và nhận ra Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a.
Từ một người xa lạ, thậm chí là một người Do Thái, người phụ nữ được Chúa mạc khải cho biết Người là người còn lớn hơn Tổ Phụ Gia-cóp, rồi vị Ngôn Sứ cuối cùng là Đấng Mê-si-a và những người Sa-ma-ri cùng với người phụ nữđ đã tuyên xưng Người là Đấng Cứu Độ trần gian. Từ một người đang khát nước xin nước uống, người ta đã nhận ra một Đấng có thể ban thứ nước uống vào không còn khát nữa; từ một người đàn ông Do Thái xa lạ, người ta đã nhận ra Đấng Mê-si-a; từ một một người bình thường; người ta đã nhận ra Đấng Cứu Độ thế gian. Một tiến trình nhận ra Chúa Giê-su khởi đi từng những sự kiện hằng ngày.
Chúa Giê-su vâng lời Chúa Cha đến làm người ở giữa nhân loại, một con người với vẻ ngoài tầm thường dung dị như bao người. Con đường Người dùng để mạc khải về Người cũng là một con đường bình thường với những sự kiện của đời thường. Cho nên, muốn khám phá về Chúa Giê-su, muốn nhận ra Người phải khởi đi từ cuộc sống nhân trần này. Cho dù có muốn khám phá hiểu biết về Người trong Kinh Thánh thì cũng phải là loại Kinh Thánh đã được áp dụng trong cuộc sống.
2. Câu chuyện bên bờ giếng Gia-cóp, từ chuyện đời thường đến chân lý Đức Tin:
Trong trình thuật hấp dẫn này chúng ta thấy Chúa Giê-su đã dẫn dắt người đối thoại với mình đi từ những sự kiện thực tế tiến tới chân lý Đức Tin. Từ giếng nước đến mạch nước Hằng Sống; từ nơi chốn thờ phượng đến việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý; từ của ăn thể xác đến lương thực là thi hành ý Chúa Cha; từ chuyện mùa màng đến sứ mạng trên cánh đồng truyền giáo. Tất cả như đã được Chúa Giê-su sắp xếp để dẫn dắt người ta đến việc chân nhận các chân lý Đức Tin. Đây thiết tưởng là điểm làm nên sự hấp dẫn của câu chuyện và từ đây chúng ta cũng nhận ra một phương thế để tìm hiểu, khám phá và áp dụng các chân lý Đức Tin trong cuộc sống hằng ngày.
Chúa Giê-su đến để chia sẻ kiếp người với mọi người qua đó Người mạc khải các mầu nhiệm Đức Tin và ban Ơn Cứu Độ cho những ai tin Người. Người ban Ơn Cứu Độ ngay từ trong lòng nhân loại; Người sống và thực thi công trình cứu độ của Người qua chính đời sống của kiếp người. Cho nên, tiến tới Chúa, đón nhận Ơn Cứu Độ phải từ trong cuộc sống với tất cả sự hiện sinh của nó, chứ không phải bằng những gì phi thực tế, bằng những điều diễn giải cao siêu huyền hoặc. Đó cũng chính là ý nghĩa của Mầu Nhiệm Nhập Thể.
Với người Ki-tô hữu hôm nay, luôn bị cám dỗ bởi óc tò mò tri thức nên dễ đi tìm kiếm và giải thích các Mầu Nhiệm Đức Tin theo nhãn giới của khoa học, của lý trí con người. Tất nhiên những giải thích đó có giá trị của nó, nhưng quan trọng hơn hết phải hiểu và cảm nghiệm Mầu Nhiệm Đức Tin trong cuộc sống của mình. Vì tin để sống; để gặp gỡ Chúa và đón nhận sự sống, tình yêu và hạnh phúc của Người; và để biến đổi mình nên giống Chúa Giê-su.
Câu chuyện về cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri đưa tới kết quả là Chúa mạc khải về chính Người là Đấng Cứu Độ, Đấng ban phát Nước Hằng Sống. Mạc khải này đã được mọi người tin nhận. Ngày hôm nay chúng ta đón nhận được Ơn Cứu Độ của Người, đón nhận được nguồn lương thực ban sự sống vĩnh hằng từ chính Bàn Tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời gọi tham dự.
Lời Chúa trong Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng: để có thể hưởng vinh quang Phục Sinh của Đức Giê-su, mỗi người chúng ta cần bước theo Ngài trên “Con đường thập giá”, con đường của sự từ bỏ kèm theo một lòng tin thật sắt đá. Lời Chúa hôm nay lại cho chúng ta thấy rằng, đức tin đó có thể được Thiên Chúa khơi dậy bằng một cuộc gặp gỡ rất bình thường trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta.
1. Từ một cuộc gặp gỡ bên đường...:
Thánh Gio-an kể lại, khi ấy, Đức Giê-su vừa rời khỏi miền Giu-đê để trở lại miền Ga-li-lê. Trên đường trở về, Ngài phải băng qua miền Sa-ma-ri, một miền đất của dân ngoại theo cái nhìn của những người Do Thái. Bước đi dưới bầu trời nắng cháy của miền đất Pa-lét-tin, cho đến trưa, thì Đức Giê-su đã mỏi mệt, nên Ngài ngồi nghỉ tại bờ giếng Gia-cóp, còn các môn đệ thì đi vào thành để mua thức ăn.
Vừa lúc đó, có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến giếng để xách nước. Vừa mệt mỏi vì đường xa, vừa khát nước bởi cái nắng như nung, như đốt của miền sa mạc, Đức Giê-su liền ngỏ lời với bà ta: “Xin bà cho Tôi uống nước”. Một lữ khách qua đường dừng lại nơi bờ giếng để xin nước uống. Một việc có vẻ rất bình thường, nhưng thực ra lại không bình thường chút nào, nó đã làm cho người đàn bà xứ Sa-ma-ri phải ngạc nhiên: “Sao thế ! Ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Sa-ma-ri ?” Bà ta ngạc nhiên, bởi vì nhiều lý do trong lịch sử, người Do Thái đã coi những người Sa-ma-ri như là những người dân ngoại, những người ô uế theo luật pháp, thậm chí, người Do Thái có khi còn coi những người Sa-ma-ri như là kẻ thù không đội trời chung. Vậy mà giờ đây, Đức Giê-su, một người đàn ông Do Thái lại bắt chuyện với bà, một người phụ nữ xứ Sa-ma-ri.
Và rồi Đức Giê-su lại tiếp tục làm cho bà ta ngạc nhiên hơn nữa khi nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban, và ai là người đang nói với bà: xin cho tôi uống nước, thì chắc bà sẽ xin Người và Người sẽ cho bà nước hằng sống”. Quả là bất ngờ, một người lữ khách qua đường không có gì để múc nước mà lại nói rằng có thể ban cho bà ta “nước hằng sống”. Và rồi cứ thế, khởi từ nguồn nước giếng trước mắt, Đức Giê-su dần dần dẫn đưa bà ta đến lòng khao khát một nguồn nước Hằng sống phát sinh từ nơi Ngài, mà ai uống nước đó sẽ không còn khát nữa.
2....đến niềm tin vào Đức Giê-su:
Trong bài đọc một kể lại cuộc hành trình của người Do thái trong hoang địa từ Ai Cập về Đất Hứa. Dọc đường họ đã kêu trách, phàn nàn với Mô-sê: “Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai Cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy ?” Thậm chí, họ còn muốn ném đá cả Mô-sê, vì nghĩ rằng: vì Mô-sê mà họ sắp phải chết khát trong sa mạc. Trước lời kêu xin của họ, Thiên Chúa đã cho nước từ tảng đá vọt ra cho họ uống. Dân Do Thái chỉ vì khát nước mà quên mất biết bao ân huệ của Thiên Chúa, và công lao của Mô-sê đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Họ chỉ nhìn thấy cái trước mắt mà quên mất điều quan trọng hơn là họ đã được tự do, được Thiên Chúa chọn làm dân riêng của Ngài.
Tương tự như vậy, người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay, đã chạy theo dục vọng xác thịt để mong được thoả mãn, nhưng cho dù đã có 5 đời chồng, và hiện đang chung sống với một người đàn ông khác nữa, lòng chị vẫn trống vắng. Một sự trống vắng về mặt tâm linh mà không một người đàn ông nào có thể lấp đầy. Và không chỉ người đàn bà này, nếu nhìn lại, mỗi người chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng: Từ trong sâu thẳm của tâm hồn, mỗi người chúng ta vẫn luôn cảm thấy thiếu một cái gì đó, một nỗi thiếu thốn mà không có cái gì có thể lấp đầy và làm cho no thoả.
Như thế, lời của Đức Giê-su nói với người đàn bà: “Ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa”, đúng là một tin vui không chỉ của chị, nhưng là tin vui cho tất cả chúng ta. Chỉ có Đức Giê-su mới có thể làm thoả mãn cơn khát trong mỗi người chúng ta. Đức Giê-su chính là Nguồn nước hằng sống, nguồn phát sinh tình yêu cứu độ. Đức Giê-su đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là Ngài đã hy sinh cho chúng ta ngay cả khi chúng ta đang phản nghịch, đang quay lưng và chống lại Ngài. Từ nơi Đức Giê-su, mỗi người chúng ta nhận được hồng ân Thánh Thần tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta để mỗi người chúng ta được trở nên công chính, được vinh dự gọi Thiên Chúa là Cha. Từ đây, mối liên hệ giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa không còn lệ thuộc vào nơi chốn, hay các nghi lễ bên ngoài, nhưng là một mối quan hệ dựa trên tình yêu, “trong tinh thần và chân lý”.
Tuy nhiên, một tình yêu thật không thể dấu kín trong lòng, nhưng chắc chắn sẽ bộc lộ ra bên ngoài nơi ánh mắt, và cả cuộc sống của người đang yêu. Một lòng yêu mến Thiên Chúa chân thành, chắc chắn sẽ thúc đẩy chúng ta đến với Chúa nhiều hơn, sốt sắng hơn. Lòng mến đó sẽ mở lòng chúng ta với anh chị em mình. Nó sẽ giúp chúng ta dễ dàng tha thứ và chia sẻ cho anh chị em mình hơn. Có thể việc chúng ta tham dự thánh lễ, ăn chay, bố thí, đọc kinh không hẳn là dấu chỉ chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể nói rằng lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà bên ngoài chúng ta lại khô khan, nguội lạnh, đến nhà thờ thì ngồi xa xa, vừa dâng lễ vừa hút thuốc rồi biện minh rằng: Thiên Chúa ở khắp nơi; hoặc là tôi yêu mến Chúa trong lòng tôi.
3. Và lời loan báo niềm tin:
Người đàn bà Sa-ma-ri hôm nay, sau khi đã được gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa, bà đã không thể giữ lại riêng ở trong lòng niềm vui của cuộc gặp gỡ. Niềm vui đó đã thúc đẩy bước chân bà chạy trở về để loan báo cho mọi người về phát hiện của bà về con người của Đức Ki-tô, bà đã vội vã báo cho mọi người biết về niềm tin mà bà vừa được lãnh nhận: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Đấng Ki-tô ?” Thế rồi “dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài”. Họ đến để được trực tiếp nhìn ngắm, lắng nghe Ngài nói và cuối cùng họ đã tin vào Ngài. Họ nói với người đàn bà: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi đã tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết thật Người là Đấng Cứu Thế”. Và họ đã “xin Người ở lại với họ”.
Thế đó, niềm tin đích thực và có giá trị là niềm tin có tính cá nhân riêng tư giữa chúng ta với Thiên Chúa. Niềm tin đó có thể khởi đầu nhờ một sự giúp đỡ của tha nhân, nhưng cuối cùng chúng ta phải làm sao để có thể trực tiếp gặp gỡ Thiên Chúa như người đàn bà và cả dân thành Sa-ma-ri. Hơn nữa, cũng giống như tình yêu, một niềm tin sâu xa chắc chắn sẽ thúc đẩy bước chân Tông Đồ của mỗi người chúng ta. Hay nói một cách khác, lòng nhiệt tâm trong công tác Tông Đồ, và thao thức truyền giáo cũng là một dấu chỉ cho thấy mức độ của lòng tin nơi mỗi người chúng ta.
Ngày hôm nay, mỗi khi cử hành Thánh lễ, và nhất là khi hiệp lễ là mỗi lần chúng ta lại được lãnh nhận lấy Nguồn Sự Sống Thần Linh. Theo gương của người phụ nữa Sa-ma-ri trong bài Tin Mừng, chớ gì từng người chúng ta cũng mau mắn dùng chính cuộc sống yêu thương của mình để loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Amen.
"Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời". (Ga 4, 13-14)
Lời Thánh Kinh trên là của Giêsu. Ngài đã nói với một phụ nữ người Samari tại bờ giếng Giacóp. Nhưng câu chuyện thế nào vậy? Với Gioan Thánh Sử, chúng ta cùng mường tượng và ngắm suy cuộc đối thoại của Giêsu với người phụ nữ này nhé.
Chuyện kể rằng, Giêsu với các môn đệ rảo bước từ Nam đến Bắc, đường Ngài phải qua là miền Samaria đầy nắng và khô cằn. Đường sá xa xôi và cái khô của Sa mạc làm cho Giêsu không chỉ mệt đừ người, mà còn khát khô cả cổ. Vì thế, không còn chỗ nào dừng chân tốt hơn là cạnh bờ giếng với nguồn nước trong lành. Vâng, Giêsu mệt và khát. Giờ đây Ngài cần nước.
Và kìa một phụ nữ với gầu trên tay bước đến, Chị tới để kín nước cho mình và gia đình mình.
May mắn quá! Gặp được chị ta, thì Giêsu có thể xin „ké“ một chút nước cho đỡ cơn khát kia. Vì vậy, Giêsu đã mở lời với Chị: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" Oh! lạ quá đi thôi. Đâu có người Do-thái nào cả gan phá luật đi giao thiệp với người Samari. Phải chăng Giêsu vì mệt và khát quá nên quên mất luật này? Hay dù biết luật đó, nhưng Ngài vẫn cố ý phá luật?
Chẳng màng chi đến thắc mắc của người phụ nữ, Giêsu đã tiếp lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống".Cái gì? Giêsu vừa mới đóng vai người xin nước, giờ đây lại là nói như vậy sao? Ngài đã chuyển hưởng đến 360 độ. Ngài đã hết khát thật sao? Mà nước hằng sống Giêsu vừa nói kia, Ngài sẽ múc từ đâu? Hơn nữa Giêsu đâu có gầu và giếng lại sâu nữa. Không biết nước của Giêsu có làm cho con người đỡ cơn khát, làm cho sức người mệt mỏi mau khỏe lại, làm sạch đi những gì giơ bẩn của bụi đường, như nước của giếng này không, nước mà từ hồi xa xưa, chính tổ phụ Gia-cóp đã uống,và sau ông là con cháu của bao thời đại nối tiếp kín múc? Trước thắc mắc của người phụ nữ, thật bình thản Giêsu lại trả lời:"Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".
Vâng, khi đọc kỹ lời của Giêsu ở trên, chúng ta nhận ra rằng, lời ấy diễn tả một nỗi khao khát yêu thương muôn người. Giêsu chỉ ước ao sao con người uống được dòng nước hằng sống này, để nước đó trở thành nơi con người một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời. Trong tâm tình này, chúng ta thấy dù Giêsu đã thay đổi vai là người ban phát nước, nhưng nhìn kỹ thì chúng ta nhận ra rằng, Giêsu vẫn đang khát thật sự. Ngài vẫn là người đi xin nước. Vâng, Ngài xin nước, không chỉ vì cái khát tự nhiên trong một buổi trưa hè thật nóng, nhưng ở Giêsu còn có cái khát „những linh hồn“, cái khát khao đi tìm những con chiên lạc, cái khát khao đem lại cho con người tù một tin vui giải thoát, cho người mù một ánh sáng chiếu soi, cho người gù một sự chỗi dậy thẳng đứng để đi vào lại cuộc đời, cho người đang bị thế lực cuộc đời đè nặng một gánh nhẹ nhàng của tình yêu che chở. Giêsu đó chính là Đức Kitô, là Đấng Mêsia mà người phụ nữ kia và bao người đang mong chờ. Đức Kitô đó ngày xưa đến tại bờ giếng của cuộc đời người phụ nữ Samaria xưa kia, và hôm nay Ngài cũng gặp gỡ mỗi người trong chúng ta tại bờ giếng trước nhà. Ngài đang khát và Ngài cũng mở lời hỏi chúng ta rằng: "Anh / Chị cho tôi xin chút nước uống!"
Chúng ta sẽ phản ứng ra sao khi nghe Giêsu xin nước?
Và chúng ta sẽ có tâm tình gì, khi nhìn thấy cơn khát của Giêsu? Cơn khát của tình yêu mong muốn cứu rỗi các tâm hồn, trong đó có Bạn và có tôi. Vậy, chúng ta sẽ có tâm tình gì, khi lắng nghe lại lời của Giêsu? "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".
Kính thưa ông bà anh chị em, cộng đoàn chúng ta đang tiến vào trung tâm điểm của Mùa Chay và các anh chị em Dự Tòng trên khắp thế giới đang có những ngày chuẩn bị gấp rút để tiến về Đại Lễ Phục Sinh, tiến vào cuộc Tái Sinh thiêng liêng vĩ đại trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Trong ý nghĩa ấy, phụng vụ Chúa Nhật III Mùa Chay, với sứ điệp Lời Chúa mang trọng tâm “Nước Hằng Sống” đang khơi gợi chúng ta hãy biến cuộc hành trình đức tin thành một cuộc “hội ngộ” với chính Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, thành một cuộc “gặp gỡ Đức kitô” là Sự sống đích thật. Thánh lễ hôm nay vừa là một gọi mời vừa là một cơ hội để chúng ta một lần nữa đặt niềm tin vào Thiên Chúa, quay trở về với Thiên Chúa và tiến đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng đang hiện diện trong Thánh lễ nầy để ban chính sự sống thần linh cho ta.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi để xứng dáng cử hành Thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
Thế giới ngày hôm nay đang có những lo lắng thật sự về sự kiện trái đất đang nóng dần lên và sự khô hạn đang gia tăng cường độ trên nhiều vùng của thế giới. Ở nhiều nơi tại Đất nước Việt Nam chúng ta cũng đang đối diện với một cuộc khô hạn kéo dài, có nguy cơ de dọa sự thiếu nước trầm trọng, ảnh hưởng đến sự an toàn của cuộc sống nhiều người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay, qua biến cố “cơn khát nước điên cuồng” của Ít-ra-en trong hoang mạc, và cuộc đàm thoại về Nước Hằng sống giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, đã đưa chúng ta và các anh chị dự tòng đi vào các chiều kích sâu xa của cuộc hành trình đức tin mà bí tích Rửa tội chính là cửa ngỏ đầu tiên. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi lòng mở trí chúng ta.
1. Cơn khát ngày xưa và cơn khát hôm nay:
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “nước” được nhiều lần nhắc đến: Ngay từ buổi khai thiên lập địa, nước đã có mặt trong công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Nước chảy nơi vườn Eden để biến nơi đây thành địa đàng trần gian. Nước dâng cao thành Hồng thủy để thanh tẩy địa cầu. Nước Biển Đỏ và sông Gio-đan dựng đững như tường thành để dân Ít-ra-en đi bộ tiến vào Hứa đại. Nước làm cho muôn vật sinh sôi nẩy nở. Và người công chính được ví như cây dừa mọc bên bờ suối nước, trổ sinh hoa trái tốt lành. Trong khi đó, sứ ngôn Ê-dê-ki-en đã loan báo, vào thời Cứu Thế, nước sẽ chảy ra từ bên phải đền thờ để chữa lành và cứu sống muôn người.
Tuy nhiên, dụng ý của trích đoạn sách Xuất Hành được công bố nơi bài đọc 1 hôm nay, khi nhắc đến biến cố “khát nước” của dân Ít-ra-en trong hoang địa là muốn nhắc nhở chúng ta về những “cơn khát của thời đại hôm nay” và thái độ ứng xử của đức tin trước những cơn khát nầy.
Thật vậy, ngày hôm nay nhân loại cũng đang bị dày vò bởi nhiều cơn khát cháy bỏng: khát tiền, khát tình, khát hưởng thụ, khát tự do, khát cơm no áo ấm, khát danh vọng chức quyền. Và để thỏa mãn những cơn khát đó, đã có không biết bao nhiêu những “mời chào, những giải pháp, những đề nghị”. Cách đây không lâu, đã có bao nhiêu người Việt nam bỏ mạng trên Biển Đông khi khao khát đi tìm một “chân trời đất hứa”; thì hôm nay cũng có không ít cô gái Việt nam vì khát khao một thiên đàng hạnh phúc nên chấp nhận xa quê lấy chồng Đài Loan hay Hàn Quốc, để cuối cùng ôm phận bạc lỡ làng…Ngày xưa, dân Ít-ra-en khi phải đối diện với cơn khát nước điên cuồng nơi hoang mạc, đã liều quay lưng chống đối Mô-sê, nghi ngờ sự hiện diện và đồng hành của Thiên Chúa, quên hết bao nhiêu ơn lành và kỳ công Chúa đã thực hiện trong biến cố Vượt Qua khai mạc cuộc Xuất Hành. Họ quên cả “chiếc gậy của Mô-sê” đã từng dương ra trên biển Đỏ để họ tiến bước ráo chân giữa hai bờ tường nước dựng. Quên cả manna, quên luôn chim cút, quên cột mây che mát, cột lửa dẫn đường, quên hết Thập điều trên núi Sinai…Ngày nay, trước những cơn khát của thời đại, chúng ta cũng đã bao lần dẹp Thiên Chúa sang một bên, hay chí ít, cũng hồ nghi về sự hiện hữu của Ngài, quên mình là Kitô hữu, quên dòng nước rửa tội, quên Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, quên các giới răn và các thực hành luân lý Kitô giáo, quên hết những lời dạy của tin mừng…
2.Thiên Chúa lại một lần can thiệp:
Nhưng Thiên Chúa lại chứng tỏ quyền năng bằng lòng tha thứ; và Ngài lại một lần nữa ra tay. Chiếc gậy của Mô-sê có dịp được dương ra để đập vào tảng đá cho mạch nước tuôn trào. Ngày hôm nay cũng thế. Thiên Chúa nào chịu thua sự cứng lòng và yếu đuối của loài người ! Kể từ những giọt máu và nước từ trái tim của Con một tuôn ra trên đồi Sọ, chiếc gậy Thánh thần đã dương ra trên khắp địa cầu để đập vào muôn vạn trái tim chai cứng hầu tuôn đổ ơn sủng tái sinh mà người trộm bên hữu là kẻ tiên phong đón nhận. Rồi tiếp nối: Phaolô ngã ngựa trên đường Đamát để trở thành Đại Tông đồ dân ngoại, đến Augustinô chơi bời trác táng đổi đời hoán cải thành Giám mục chăn dắt đàn chiên… Cứ thế, suốt hai ngàn năm nay, hàng hàng lớp lớp con người đã được chiếc gậy Thánh Thần chạm đến để tuôn đổ hồng ân, để nhận được dòng nước hằng sống tái sinh qua bí tích Rửa tội và được nuôi dưỡng lớn lên nhờThánh Thể. Đúng như lời Đức Kitô đã nới với người thiếu phụ Samari trong Tin mừng hôm nay: “và nước tôi cho sẽ sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”.
3. Hãy mở lòng ra, hãy đến và hãy gặp “
Như vậy điều quan trọng còn lại hôm nay chính là hãy mở lòng ra, hãy đến và hãy gặp. Chính người thiếu phụ Samaria hôm nay đã chịu mở lòng ra đối thoại với Chúa, đã chấp nhận để chúa truy vấn và đã để Lời Chúa xuyên thấu cõi lòng. Và từ đó lại một mạch nước hằng sống đã tuôn trào nơi trái tim tưởng đâu đã cằn khô nơi chị, biến chị trở thành chứng nhân, thành tông đồ để rao giảng đơn sơ chỉ một tin Mừng: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?”. Quả thật, đức tin luôn là một cuộc khao khát vươn tới, là một sự khó nghèo để được lấp đầy. Bởi vì Đức Kitô không bao giờ khước từ những ai đến cùng Ngài; lại càng không phải là kẻ dồn ta vào bước đường cùng để xô ta xuống vực thẳm. Hãy tự nhiên và bộc trực như người thiếu phụ Samaria hôm nay, hay cứ huyên náo lăng xăng tiếp Chúa như cô Matta Bêtania, yên lặng nghe Chúa như cô Maria, tò mò trèo lên cây để được thấy Chúa như Giakê, đứng ngay lên bỏ tất cả theo Chúa như Matthêô, cả khi bất đắc dĩ vác đỡ thập giá như Simêon…Điều quan trọng là hãy đến, hãy tiếp cận, hãy gặp gỡ. Chúa nào có xa đâu.
Như vậy Mùa Chay phải chăng là Mùa để chúng ta mở rộng cõi lòng tập luyện sống niềm tin tích cực, sống cuộc gặp gỡ Đức Kitô, sống đối diện với cái tôi đích thực của mình để tìm gặp một sức sống mới, một nguồn nước mới. Chúng ta hãy bước ra khỏi cái ảo tưởng cho rằng: mình sống đạo như thế đủ rồi, đức tin như thế là tạm ổn. Hãy tỉnh táo. Coi chừng chúng ta đang trong “cơn thiếu nước trầm trọng”, đang trong thế “quay lưng lại với Thiên Chúa”. Hãy mạnh dạn qauy lại ngõ lời với Đức Kitô: “Xin ban cho con thứ nước ấy’, và hãy để chiếc gậy Thánh Thần đập vào cõi lòng, vào tim óc và cuộc sống. Đó là chiếc gậy của tòa Giải tội, của Thánh Lễ, của việc cầu nguyện, của Tin mừng, của ăn chay và làm phúc, của tha thứ hòa giải với anh chị em xung quanh, của việc thực hành liêm khiết, thủy chung trong đời sống gia đình, trong sáng, trách nhiệm nơi công sở…Phải sống làm sao để “dòng nước rửa tội” sẽ không là một cuộc hồng thủy đẩy ta vào vực thẳm hỏa ngục, nhưng là “dòng nước hằng sống” dẫn ta vào bến trường sinh.
Và nhất là giờ nầy, Đức Kitô đang có ở đây. Hãy hướng về Ngài. Hãy gặp gỡ Ngài
Ðể hiểu rõ cuộc đấu lý của người phụ nữ xứ Samaria với Chúa Giêsu, cũng như đường lối Chúa dùng để đưa dẫn chị đến việc trao ban cho chị nước hằng sống, ta cần tìm hiểu sơ qua bối cảnh địa dư, lịch sử, chính trị và tôn giáo của dân Do thái thời bấy giờ. Nước Do thái thời Chúa Giêsu được chia thành ba miền giống như ba miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Từ thế kỷ thứ tám trước kỷ nguyên, miền trung của họ là đất Samaria, bị ngoại bang là người Átxiria chiếm đóng và đô hộ. Luật pháp Do thái cấm người Do thái kết hôn với người khác đạo, cũng như người ngoại bang. Tuy nhiên người Do thái ở Samaria cuối cùng đã chấp nhận dân đô hộ, lập gia đình với thực dân, rồi tiêm nhiễm những phong tục tập quán ngoại bang. Ðiều đó khiến người Do thái ở miền nam là Giuđê phẫn nộ, coi rẻ người Samari, cho họ là dân lai căng, không còn thuần tuý Do thái nữa.
Sau này miền Giuđê cũng bị đô hộ. Tuy nhiên người Do thái ở đây nhất định không chịu đồng hoá với dân ngoại bang. Khi người Do thái xây lại đền thờ Giêrusalem, người Samari ngỏ ý muốn giúp đỡ, nhưng người Do thái từ chối. Rồi một việc khác xẩy ra là một vị đại giáo trưởng Do thái còn âm mưu cho đốt đền thờ của người Samari. Những thái độ và hành động đó làm cho người Samari căm phẫn, khiến cho hai dân tộc, trước kia thuộc cùng dòng giống, càng ngày càng xa cách. Do đó mà người Do thái từ miền bắc là Galilê muốn xuống miền nam, và ngược lại người Do thái ở miền nam muốn lên miền bắc, không thèm đi qua đất Samaria, nhưng lại đi vòng xa hơn để đạt tới đích. Ðể giúp cho dễ hình dung, ta có thể tưởng tượng ra người Bắc Việt muốn vào Nam Việt, hay người Nam Việt ra Bắc Việt, không thèm đi qua Trung Việt, nhưng vòng qua đất Lào để tới đích. Vì thế mà hai dân Do thái và Samari thường không giao thiệp với nhau vì mang mối thù truyền kiếp này. Tuy nhiên người Samari vẫn nhận biết Thiên Chúa của người Do thái và họ tin theo bộ sách Ngũ kinh của người Do thái. Họ cũng trông đợi Ðấng Cứu thế đến như người Do thái.
Phúc Âm hôm nay kể lại chuyến hành trình của Chúa Giêsu đến thành Xikha thuộc xứ Samaria. Chúa đã không đi vòng để tránh đặt chân lên đất Samaria như những người Do thái khác quen làm, nhưng đi thẳng vào đất Samaria. Và khi dừng chân nghỉ mệt bên bờ giếng Giacóp, Chúa đụng độ người phụ nữ xứ Samaria đi kéo nước. Nước mang hai ý nghĩa và công hiệu quan trọng. Người ta cần nước để rửa sạch. Loài người, loài vật và cả thực vật cần nước uống để sống. Người Do thái trong sa mạc khát nước nên kêu trách Môisê đã đem con đi bỏ chợ như bài trích sách Xuất hành hôm nay kể lại. Môisê xin Chúa can thiệp. Chúa bảo Môisê cầm gậy đập trên tảng đá đê nước chảy ra cho dân uống.
Ðối diện với người phụ nữ có vẻ nghi kị và ác cảm, Chúa đành cố gắng phá tan bức tường vô hình ngăn cách bằng cách đặt mình vào thế yếu để xin chị cho nước uống. Phong tục Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng nhất là hàng giáo sĩ và những người có địa vị như Chúa Giêsu. Vì thế mà người phụ nữ bèn mỉa mai nói Chúa là người Do thái mà lại xin chị là người Samari cho nước uống sao? Ðể trả lời Chúa bảo nếu chị nhận ra ơn Chúa và người nói với chị là ai, chị sẽ xin người cho uống nước hằng sống. Chị liền bắt bẻ, nói Chúa không có gầu mà giếng lại sâu, sao lấy đâu ra nước hằng sống.
Chúa phán bảo chị: Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa (Ga 4:14). Chộp lấy cơ hội, người phụ nữ liền xin cho được nước hằng sống - mặc dù chị chưa hiểu là nước gì - để từ nay không phải đi xa múc nước nữa. Lúc này chị đã nhận ra Chúa Giêsu có gì để ban tặng cho chị. Ðến đây Chúa đánh động một niềm thức tỉnh nơi chị bằng cách đưa ra ánh sáng cái thực tại của đời sống cá nhân chị, khi chị nói chị không có chồng. Chúa bảo chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Lúc này người phụ nữ nhận ra nơi Chúa có cái tri giác luân lý, nên nói: Tôi thấy ông thật là một ngôn sứ (Ga 4:19).
Toan đổi đề tài, người phụ nữ hỏi Chúa xem người ta phải phụng thờ Thiên Chúa ở đâu? Chúa bảo chị không nên quan tâm đến việc tranh chấp về nơi thờ phượng vì sẽ đến giờ khi người ta không hẳn chỉ thờ phượng Chúa ở Giêrusalem hay ở Samaria, nhưng là thờ phượng Chúa ở khắp mọi nơi trên khắp mặt địa cầu. Chị cũng hiểu biết khi Ðức Kitô đến, Người sẽ loan báo cho người ta mọi sự. Câu chuyện tiếp diễn đến đây, thì người phụ nữ vội vã trở về kể cho người làng xóm về những gì mà tai và mắt chị đã nghe và thấy và cảm nghiệm được. Người làng tuốn ra gặp Chúa. Cùng với chị, họ đặt tin tưởng vào Chúa Giêsu là Ðấng cứu thế.
Cuộc đối chất giữa người phụ nữ với Chúa Giêsu cho thấy không những chị ta có vẻ lý sự, mà còn đanh đá là khác - đanh đá dễ sợ. Tuy nhiên xét cho cùng thì chị ta cũng không đến nỗi đáng sợ mấy vì chị biết phục thiện và biết mở lòng. Nếu thực sự đanh đá và cứng lòng, chị ta đã có thể nói với Chúa đừng có tò mò mà xía vô chuyện riêng tư của đời chị. Ðứng trước một người nào đó có cái tri giác luân lý, người ta thường nể nang, không muốn chống đối. Ðối diện với Ðức Giêsu là người mà người phụ nữ nhận ra có tri giác luân lý, chị ta phải nhận cái thực tại về đời sống cá nhân của mình và để cho lòng mềm ra.
Từ câu chuyện xin nước uống, Chúa đưa chị đến việc dần dà mở tâm hồn chị. Chị ta đã nhận ra ơn cứu độ từ việc coi Chúa Giêsu chỉ là một người Do thái thường, qua việc xưng Chúa là ngài, đến việc nhận ra Chúa là một ngôn sứ và cuối cùng tin Chúa là Ðấng Cứu thế: Ông ấy không phải là Ðấng Kitô sao (Ga 4:29)? Như vậy câu chuyện Phúc Âm cho thấy Chúa đến mang ơn cứu độ không những chỉ riêng cho người Do thái, nhưng còn cho dân ngoại qua việc ban tặng nước hằng sống cho người phụ nữ Samari. Nước hằng sống theo thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma chính là tìn yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng ta, nhờ Thánh thần của Người (Rm 5:5).
Lạy Chúa, xưa kia một thời tổ tiên chúng con cũng là dân ngoại.
Nhờ các nhà truyền giáo, mà tổ tiên con đã được ơn nhận lãnh đức tin.
Do đó con cũng được thừa hưởng ơn được uống nước hằng sống.
Nếu con đi lầm đường lạc lối về phương diện nào đó trong đời sống,
xin cho con được ơn biết thức tỉnh tâm hồn như người phụ nữ Samari,
để con được tiếp tục uống nước hằng sống. Amen.
Xh 17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4,5-15.19b-26.39a.40-42
Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay hôm nay có thể tóm gọn trong 4 điểm chính sau:
Một cuộc gặp gỡ lạ lùng: giữa người phụ nữ Samari và Đức Giêsu, bên bờ giếng tổ phụ Giacóp đào. Một cuộc đối thoại lạ lùng giữa một người đàn bà tội lỗi và Đấng Cứu Thế.
Một cuộc mạc khải lạ lùng: Đấng Thiên Sai đã đến và Nước Thiên Chúa đã khai mở.
Một cuộc biến đổi lạ lùng: người phụ nữ tội lỗi xưa, nay trở nên người loan báo Tin Mừng Cứu Độ.
Một cuộc gặp gỡ lạ lùng:
Khi ấy Đức Giêsu rời bỏ xứ Giuđê ở miền Nam, lên Galilê theo hướng Bắc. Người đi xuyên qua xứ Samari và vì mệt nhọc, Người ngồi nghỉ cạnh giếng nước do tổ phụ Giacóp đào. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa. Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. (c. 5-7). Một cuộc gặp gỡ thật lạ lùng: giữa Đức Giêsu là người Do Thái với một người phụ nữ Samari; giữa Đấng Cứu Thế và người đàn bà tội lỗi.
Một cuộc đối thoại lạ lùng giữa một người đàn bà tội lỗi và Đấng Cứu Thế.
Đức Giê-su đã khởi sự trước, Ngài gợi truyện với người phụ nữ, vượt qua hàng rào ngăn cản giữa hai dân tộc, giữa đàn ông và đàn bà, và nhất là giữa Thiên Chúa và tội nhân. Qua những khát vọng vật chất bình thường của thân xác như khát nước, Đức Giêsu đã khơi động được lòng khao khát chân thiện mỹ vốn nằm ở tận đáy cuộc đời tội lỗi của chị, mời gọi người phụ nữ đi xa hơn để khám phá ra những khát vọng tâm linh sâu thẳm của tâm hồn. Qua cuộc đối thoại, Ngài dần dần dẫn đưa người phụ nữ tội lỗi gặp gỡ Thiên Chúa là nguồn nước hằng sống.
Kết thúc cuộc đối thoại thật lạ lùng: người xin nước uống trở thành người ban nước hằng sống. Đức Giêsu cho biết chính Người mang lại suối nước vọt tới sự sống đời đời, vượt hẳn thứ nước từ giếng Giacóp:
“Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".
Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. (c. 13-15)
Một cuộc mạc khải lạ lùng: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”
Kế đó, Đức Giêsu cho phụ nữ ấy nhận ra Người biết tất cả quá khứ tội lỗi của chị (c. 16-18), Người nói trúng tim đen cuộc đời quá khứ của chị, khiến chị bắt đầu nhận ra cuộc đời tội lỗi của mình, những giả dối, những đam mê, những cách giữ đạo vụ hình thức, những hố ngăn cách giữa con người… bị lột mặt lạ. Niềm tin vào Đức Giêsu là ngôn sứ của Thiên Chúa bắt đầu hé mở trong tâm hồn của chị: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là ngôn sứ. Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". (c.25).
Dù bị chìm ngập trong cuộc đời bê tha tội lỗi, người phụ nữ Samari vẫn khát vọng và vẫn “biết” rằng “Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến”. Ngài là Ngôn Sứ của sự thật, Ngài loan báo nước của Sự Thật và là con đường dẫn đưa con người tới nguồn Chân Thiện My.
Cao điểm của cuộc đối thoại, chính là Lời mạc khải của Đức Giê-su trước mặt người phụ nữ tội lỗi, đang bắt đầu tuyên xưng lòng tin và bầy tỏ khát vọng được gặp gỡ Đấng Mê-si-a, Đấng Cứu Thế được loan báo trong Thánh Kinh, Đấng Cứu Thế mà không những dân Do Thái mong đợi, mà cả dân Samari, tức là lương dân cũng chờ mong: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây". (Ga 4, 25-26)
Quả thực là một cuộc gặp gỡ lạ lùng: Đấng Cứu Thế đến gặp gỡ tội nhân. Thiên Chúa đến gặp gỡ nhân loại. Đức Kitô quả thực là ngôn sứ loan báo năm hồng ân, loan báo ơn cứu độ, mạc khải cho con người biết Thiên Chúa thật và cách thờ phượng đích thực trong “thần khí và trong sự thật”. Ngài cũng hé mở mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nền tảng của đức tin và của dân tộc tin vào Thiên Chúa: “Giờ đã đến... những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (c.23).
Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài và cũng không thể thờ phượng Ngài cách đích thực.
Một cuộc biến đổi lạ lùng: người phụ nữ tội lỗi xưa, nay trở nên người loan báo Tin Mừng Cứu Độ.
Nhờ cuộc gặp gỡ và đối thoại lạ lùng với Đấng Cứu Thế, người phụ nữ Samari đã hoàn toàn biến đổi. Thánh Gioan, người chứng kiến và đã ghi lại kết cục câu chuyện: “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “đến mà xem, có một người đã nói cho tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (c 29).
Thánh Gioan còn kể tiếp: “Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su. Dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian". (c. 39-42).
Trong mọi thời và mọi nơi: Thiên Chúa vẫn là Đấng Cứu Độ đến gặp gỡ, đối thoại và hướng dẫn con người, dù tội lỗi, miễn là biết hối cải và biết mở lòng đón nhận Ngài. Sâu xa hơn nữa, qua ơn thánh, tội nhân hối cải, sẽ trở thành người loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho người khác.
Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã làm một việc mà trong thời Ngài người Do Thái chưa ai làm được, đó là tiếp xúc, trò chuyện thân tình với một người phụ nữ Samari, và quan trọng hơn, qua việc tiếp xúc này, đã có nhiều người Samari trong thành ấy tin vào Ngài.
Noi gương Chúa Giêsu trong việc đối thoại để đem Tin Mừng đến cho mọi người, tôi xin chia sẻ với anh chị em hai điểm sau đây:
1. Đi trước một bước để bắt cầu.
Ai cũng biết người Do Thái và người Samari thì không hòa hợp với nhau, cho nên mới có chuyện tôi thờ lạy Thiên Chúa ở trên núi Garazim, còn anh thì bái lạy Thiên Chúa ở Giêrusalem, từ chổ khác biệt ấy và những khác biệt khác nên họ đã không cùng đi lại với nhau và trở thành đối địch nhau.
Chúa Giêsu đã đi trước một bước: Ngài chủ động trò chuyện với người phụ nữ Samari và xin bà ta nước uống, và thế là Chúa Giêsu đã phá tan tảng băng đóng kín giữa hai người, giữa người Do Thái và người Samari, hơn thế nữa, chính Ngài đã mạc khải cho người phụ nữ biết Ngài chính là Đấng Messia, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo, chính Ngài đã đi trước một bước để bắt cầu cảm thông giữa những tâm hồn có thành kiến với nhau.
Chung quanh chúng ta có những tình cảm bị đóng băng vì thiếu đi sự khiêm tốn của chúng ta, chỉ cần một lời thăm hỏi chân tình khi gặp mặt là chúng ta đã làm cho tảng băng ấy tan rả và tạo được tình thân; chỉ cần một thái độ ân cần là chúng ta đã bắt được chiếc cầu hữu nghị giữa chúng ta với người hàng xóm bên cạnh nhà không phải là công giáo... đó là bí quyết truyền giáo của Chúa Giêsu khi Ngài trò chuyện với người phụ nữ Samari...
2. Quên mình để tha nhân thấy được Thiên Chúa.
Chúa Giêsu khi trò chuyện với người phụ nữ Samari đã không chỉ trích bà là người ngoại đạo, đã không nói bà là người lăng loàn trắc nết đã có bảy đời chồng, dù Ngài biết rất rõ, Ngài cũng không nói dân thành Samari kém lòng tin vào Ngài. Nhưng chính Chúa Giêsu đã quên mình đi để cho người phụ nữ Samari được cảm thấy gần gủi hơn, để dễ dàng bày tỏ tâm tình của mình hơn, và như thế, chính Ngài đã làm cho bà và dân thành Samari nhận ra Ngài là ai, và tin vào Ngài.
Quên mình đi để người khác tìm thấy Thiên Chúa qua mình, không những là thái độ của người khiêm tốn mà còn là hành vi của người truyền giáo, bởi vì khi chúng ta quên đi chức vụ, thân phận, học vấn của mình, thì chúng ta dễ dàng đối thoại với tha nhân hơn.
Có nhiều người thích tự giới thiệu về mình cách khoe khoang khi đối diện chuyện trò với người khác, nên người ta không tìm được Thiên Chúa trong họ; lại có nhiều người trong chúng ta thích chỉ trích người khác hơn là nói lời khuyến khích, và thích nói những khuyết điểm của người khác ra hơn là cầu nguyện cho họ, nên tha nhân chưa nhận ra được Thiên Chúa trong vũ trụ này...
Anh chị em thân mến,
Chỉ cần noi gương Chúa Giêsu đi trước một bước với thái độ chân thành là chúng ta đã làm cho khoảng cách thành kiến giữa chúng ta với người khác; chỉ cần chúng ta đưa tay ra trước là chúng ta đã nắm được bàn tay của người bên cạnh và làm cho cách nhìn của họ thay đổi, cách nhìn ấy chính là hằng ngày họ vẫn cho chúng ta là những Kitô hữu giả hình, vì chúng ta không sống như lời của Chúa Giêsu dạy.
Mỗi ngày, bất cứ nơi đâu người Kitô hữu chúng ta cũng đều có thể đi trước một bước để hàn gắn những vết thương lòng, có khi vì hiểu lầm, đó chính là Chúa Giêsu -qua chúng ta- đã mạc khải Ngài cho mọi người biết Ngài là Đấng Messia mà mọi người trông đợi, và đó cũng là tinh thần truyền giáo của Chúa Giêsu vậy !
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 3 mùa chay tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.