Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 3-A Bài 51-100: Chúa Giêsu - Nguồn Nước Hằng Sống ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 4, 5-42 (bài dài): "Mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
Trước khi bị thất thủ vào năm 721 BC, Samari là miền đất thuộc về dân Giavê Thiên Chúa- nơi ở dưới chân núi Gơridim, còn lưu lại dấu tích một cái giếng rất cổ xưa được xem là giếng của tổ phụ Giacóp. Sau khi bị năm dân ngoại xâm lăng, áp đặt niềm tin tôn giáo cũng như việc đối xử khắc khe của những người Dothái hồi hương, dẫn đến việc ly giáo Samari. Từ đó giữa Dothái và Samari trở nên thù địch không đội trời chung. Trình thuật Tin mừng hôm nay là một áng văn tuyệt tác ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ tại chính miền đất đặc biệt này.
Mệt mỏi vì đường xa, Chúa Giêsu đến nghỉ bên bờ giếng tổ phụ Giacóp đúng vào lúc một phụ nữ đến đây múc nước. Cứ theo sự thù nghịch, trong trường hợp này, một trong hai người sẽ tự động rút lui hoặc chọn giải pháp im lặng. Nếu chọn giải pháp đầu thì người rút lui trước chính là Chúa Giêsu bởi Người là dân Dothái không được phép tiếp xúc với phụ nữ nơi công cộng và giếng nước thuộc quyền sở hữu của người Samari. Chúng ta thấy Chúa Giêsu và cả chị Samari đã không rút lui cũng chẳng im lặng. Chính Chúa Giêsu lên tiếng trước khai mở cho một quá trình huyền nhiệm của ơn gọi.
Chúng ta gặp trong trình thuật này cách sử dụng từ ngữ của thánh sử Gioan mà theo các nhà ngôn ngữ chính là kỹ thuật gây hiểu nhầm (Technique of misunderstanding) khi đối thoại với chị Samari cũng như với các môn đệ (x. 4, 7-9.31-33). Khi Chúa Giêsu đến giếng Giacóp và xin nước uống, chị Samari hiểu nước theo nghĩa đen, còn Chúa Giêsu hiểu theo nghĩa bóng, đó là nước hằng sống.
Thông qua nguồn nước này, Chúa Giêsu muốn giới thiệu với chị về đức khôn ngoan- điều mà trước đây ngôn sứ Isaia đã loan báo và nay chính Người đang rao giảng (x. Is 55,1). Vâng, chính Chúa Giêsu là Lời Khôn ngoan của Thiên Chúa và hết những ai khao khát Lời chân lý ấy sẽ ở mãi trong tình yêu của Người. Ngày hôm nay, chính Chúa Giêsu vượt qua mọi cấm cách, mọi thù nghịch để đến nói chuyện với chị- vốn thuộc chủng tộc ngoại lai lạc đạo, hầu mang đến cho chị nguồn hạnh phúc đích thực.
Được gặp gỡ Chúa, người phụ nữ Samari bắt đầu một hành trình đến với niềm tin. Chị dần dần nhận ra, dù chưa trọn vẹn, Chúa Giêsu chính là Đấng Kytô. Sở dĩ chị nhận ra điều này bởi người đang nói với chị “đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. Đề cập đến đời sống hôn nhân của chị, Chúa Giêsu không chỉ nói đến tình trạng sống phi pháp của chị mà còn gián tiếp nói đến tình trạng sống của dân Samari. Thật thế, năm ông chồng tượng trưng cho năm vị thần (thần Xúccốt Bơnốt, thần Nécgan, thần Asima, thần Nípkhát và Táctắc, thần Atrammeléc và Anammeléc) (2V 17, 30.31) của năm sắc dân ngoại xâm du nhập vào Samari khi miền đất này thất thủ. Ở đây chúng ta thấy, nếu Giavê Thiên Chúa được xem là chồng chính thức của dân Israel thì năm vị thần mà người Samari tôn thờ là những ông chồng không chính thức. Vị thần thứ sáu người Samari đang tôn thờ tuy là Giavê Thiên Chúa đấy nhưng không phải là Giavê theo niềm tin truyền thống và thuần tuý.
Được gặp gỡ và được Chúa biến đổi, chị Samari giờ đây trở thành nhân chứng và là người giới thiệu Chúa cho những người thân quen trong thôn xóm của mình. Chị vội vã ra đi, thuật lại cho mọi người tất cả những gì Chúa Giêsu nói với chị đồng thời mời gọi mọi người đến gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ và biến đổi. Giờ đây chị hiểu rằng tin vào Đấng Kytô, chị sẽ không còn phải khát cho đời sống tâm linh; việc thờ phượng Giavê Thiên Chúa không phải tại Gơridim hay tại Giêrusalem mà là thờ phượng theo Thần khí và sự thật, nghĩa là tuân theo Thần khí hướng dẫn để hiểu thế nào là chân lý đích thực trong việc phụng thờ Thiên Chúa. Những người thân quen của chị sau khi đến gặp Chúa chắc chắn cũng sẽ hiểu như thế. Chính họ đã nói lên điều đó. “Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Chính họ là những cánh tay nối dài đem ánh sáng Tin mừng đến cho miền đất vốn được xem là dân ngoại này.
Hành trình tìm đến đức tin của người Samari nói chung và chị Samari nói riêng giúp mỗi người chúng ta nhìn lại tiến trình sống niềm tin của mình. Chị Samari và những người thân quen của chị đến gặp Chúa, để Chúa hướng dẫn và chính họ ra đi, giới thiệu cho người khác những gì họ cảm nhận khi sống những phút giây thân mật với Người. Còn chúng ta thì sao…?
Lời Chúa cho hôm nay: CHO TÔI XIN NƯỚC UỐNG * Give Me a Drink *
* Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước. (Gioan 4, 15)
BÀI ĐỌC 1: Xuất hành 17, 3-7= Dân trách Môsê: Có phải là để cho chúng tôi, con cái và súc vật chúng tôi bị chết khát hay không?/ People grumbled against Moses: Was it just to have us die here of thirst with our children,..?
BÀI ĐỌC 2: Rô-ma: 5, 1-2; 5-8= Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà người ban cho chúng ta./ Because the love of God has been poured out in our hearts through the Holy Spirit…
TIN MỪNG (Gospel): Gioan 4, 5-42= Lúc này đây -giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật./ The hour is coming, is now here, when true worshipers will worship the Father in Spirit…
A- Bạn và tôi cùng tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Some points of Reflection, live out…)
1- Ban Nước hằng Sống: Cậu chuyện Tin mừng thật hay hôm nay, khi Đức Giêsu ngôì bên bờ giếng Gia-cóp xin người phụ nữ Sa-ma-ri chút nước uống; nhưng chị không cho nên Ngài nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị Nước hằng Sống.”(Ga 4, 10) Chính tôi đã tạo ngăn cách giữa người với người, giành giật nhau nước vật chất chóng qua mà quên nước sự Sống là ân huệ tâm linh Chúa ban, và cách thờ phượng Ngài. Chia sẻ những hoa quả Thánh Thần trong tôi.
2- Cách thờ phượng Thiên Chúa: Sau khi nghe Chúa nói, người phụ nữ đã hăm hở xin cho được thứ nước kể trên và hết lòng khâm phục Đức Giêsu là một Ngôn sứ, nên Ngài phán: “Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật...” (Ga 4, 23) Đây là sự thờ phượng mới mà bạn đã lãnh nhận Thần Khí từ khi chịu phép Rửa tội, Thêm sức. Bạn được làm chủ xác thịt, được làm con Thiên Chúa, gọi Chúa là Cha. Nước Hằng Sống đây là bạn thực hiện Giáo huấn Ngài là thờ Ngài trong Thần Khí và Lẽ Thật, (vì Thiên Chúa là Thần Khí thì không có phương hướng, cố định ở một điểm nào, mà ở khắp mọi nơi=Thần vô phương). Sự thờ phượng này đúng với ý của Đức Giêsu. Cách thờ phượng Chúa của bạn hôm nay.
3: Chúa đang hiện diện: Đi trong sa-mạc bốn mươi đêm ngày, dân chúng đã kêu trách Chúa vì không cho họ uống nước để con cháu họ và súc vật của họ phải chết khát hay sao? Ông Mô-sê đã cầu nguyện và Chúa đã nhậm lời: cho nước từ tảng đá để dân uống. Ông Mô-sê đã đặt tên cho nơi này là: Thử thách và Gây sự: Vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử thách Đức Chúa mà rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không? (Xh 17,7) Tôi thường vẫn lẩm bẩm kêu trách Chúa chẳng khác gì dân chúng xưa, chỉ đòi hỏi thỏa mãn những tham vọng chóng qua của mình trong các lơị lộc xã hội một cách bất công, mà không nghĩ tới Nước sự Sống. Sự kiên nhẫn và tin tưởng khi tôi gặp thử thách.
4- Tất cả nhờ Thánh Thần: Thánh Phaolô đã nói với bạn trong bài đọc 2 là cái bạn đang có hiện nay là nhờ ân sủng của Ngài trong niềm tin nơi Đức Kitô, và còn tự hào trong Chúa nữa, nên bạn không thất vọng: “vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà người ban cho chúng ta.”(Rom 5,5) Như vậy, bạn cần sống hòa hợp, vui mừng, bình an. Khi bạn mở lòng khiêm tốn cầu nguyện thì Thánh Thần sẽ ban sức mạnh cho bạn trong mọi lúc nói năng, xử trí, hành động (vì: no pray no power) Cho biết cách nói chuyện và gặp gở Chúa mọi lúc.
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: (The Best of God’s Word) NHỮNG NGƯỜI THỜ PHƯỢNG ĐÍCH THỰC SẼ THỜ PHƯỢNG CHÚA CHA TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT (Ga 4, 23)
The true worshipers will worship the Father in Spirit and truth
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì: (So what am I doing/For Action)
1/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và Chia sẻ ở phần A, để áp dụng thực hành vào đời sống hàng ngày.
2/ Tôi nhớ: THIÊN CHÚA LÀ THẦN KHÍ VÀ NHỮNG KẺ THỜ NGƯỜI PHẢI THỜ TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT(c.24) Để nhận thấy Chúa hiện diện và đồng hành với tôi trong mọi lúc vui buồn của cuộc sống; không cố định ở nơi nào.
D- Bạn và tôi cùng Cầu nguyện với Lời Chúa: Lạy Cha, Đức Kitô đã nói với người phụ nữ: lúc này đây - Giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật. Xin cho con biết khao khát Nước Sự Sống là chính Thần Khí Cha trong đời sống phụng thờ của con, để đem những điều ấy thi hành ý Cha trong đời sống. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Hoa thơm cỏ lạ: HỎA HOẠN CỦA ĐỜI SẼ KHÔNG THIÊU HỦY BẠN, NẾU BẠN ĐƯỢC TƯỚI BẰNG NƯỚC SỰ SỐNG
The fires of life will not destroy you, if you’re watered by the Living Water (The River of life)
1/ Đức Giêsu đi đường mỏi mệt, nên ngồi bên bờ giếng, lúc đó có người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước, nên Chúa hỏi: "Chị cho tôi xin chút nước uống!". Tôi nhận thấy nước dùng hàng ngày có cần thiết không? Tại sao? Trong đời sống tâm linh và trường cửu, tôi cần Chúa ban cho loại nứơc nào?
When a Samaritans woman came to draw water, Jesus said to her: "Give Me a drink" ( Ga. 4, 6-7 )
2/ Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: theo cha tôi ông truyền lại là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này, các ông lại bảo tại Giêrusalem …Đức Giêsu đáp: "Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật." Trong mọi lúc, bạn thấy Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Ngòai giờ dâng lễ,cầu nguyện chung với cộng đòan, bạn tôn thờ trong cuộc sống như thế naò ?
…Authentic worshopers will worship the Father in Spirit and Truth. ( Ga. 4,20-23 )
3/ Sau khi được nghe Đức Giêsu nói, người phụ nữ đã chạy vội vào thành thông báo cho mọi người biết để họ đến gặp Ngài. Tôi đã làm chứng về Chúa bằng những phương cách nào? Các tiện nghi từ trong gia đình đến xã hội tôi đang hưởng, tôi có làm thành nhiều nén bạc và sinh nhiều hoa trái chưa?
The women then left her water jar and went off into the town. She said: "Come and see…" ( Ga. 4, 28-29)
4/ Trong sách xuất hành, dân Ít-ra-en khát nước gần chết đã đòi ném đá ông Mô-sê. Trong thư gởi cộng đòan Rôma, thánh Phaolô đã nói đến Chúa Thánh Thần là mạch nứớc sự sống. Bạn có thấy được nước sự sống cho tâm hồn cần thiết không? Ai là sức mạnh cho bạn để có nước không phải khát nữa? Was it just to die here of thirst…they will stone me…The Holy Spirit…given to us. ( Xh.17, 3-4; Rom.5, 5 )
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi nhiều nhất hôm nay: ( The Best God"s Words )
1- AI UỐNG NƯỚC TÔI CHO SẼ KHÔNG BAO GIỜ KHÁT NỮA. (Ga. 4, 14 )
2- Những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật. ( Ga.4, 24 )
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống theo Lời Chúa dạy: ( So what am I doing? For action)
*Tôi chọn 1 trong 4 Cảm nghiệm Sống và và chia sẻ ở phần A để thi hành. Việc làm cụ thể trong gia đình, trường học, sở làm, thăm bệnh nhân, giúp người nghèo.v..v…
D- Tôi cầu nguyện và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice/ Prayer in action )
1- Lạy Chúa, Chúa đã nói với người phụ nữ Samari: Chị cho tôi xin chút nước uống. Xin cho con biết nhận ra những ân huệ Chúa ban qua mọi người, để con xin nước cho sự sống đời đời.
2- Đức Giêsu đã nói với người phụ nữ: Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. Xin dạy con biết thờ kính Chúa trong mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống.
Lời hay ý đẹp: ĐỨC TÍNH KHIÊM TỐN GÍUP BẠN LUÔN ĐƯỢC MỌI NGƯỜI KÍNH NỂ, YÊU MẾN VÀ BẠN THÀNH CÔNG TRONG MỌI HÒAN CẢNH.
Theo tinh thần của phụng vụ Mùa Chay, qua việc Giáo Hội sắp xếp biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ ở Chúa Nhật tuần thứ nhất Mùa Chay ngay trước biến cố Chúa Giêsu biến hình ở Chúa Nhật tuần thứ hai Mùa Chay, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa trong việc Ngài muốn tỏ mình ra nơi Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại là để họ có thể tin vào Ngài mà được sự sống đời đời. Mà tuyệt đỉnh mạc khải của Thiên Chúa là ở Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, một biến cố vô cùng mầu nhiệm được Giáo Hội long trọng cử hành trong Tuần Thánh và Đại Lễ Phục Sinh, Biến Cố Khổ Nạn, Tử Giá và Phục Sinh của Người. Đúng thế, chỉ qua Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, tuyệt đỉnh của "tất cả sự thật" (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người, con người mới có thể được "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Chúa Giêsu Kitô" (Jn 17:3).
Thế nhưng, theo Lịch Sử Cứu Độ và Đường Lối Cứu Độ, Thiên Chúa không mạc khải cho con người "tất cả sự thật" ngay từ ban đầu hay cùng một lúc, mà là từ từ cho tới khi "thời gian viên trọn" (Gal 4:4), lúc "Thiên Chúa nói với chúng ta qua Con của Ngài" (Heb 1:2), Đấng "là đường lối, là sự thật và là sự sống" (Jn 14:6). Nếu "không ai đến được với Cha mà không qua Thày" (Jn 14:6), thì quả thực Thiên Chúa đã từ từ tỏ mình ra cho con người nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài theo tiến trình tam đoạn: "đường lối", "sự thật" và "sự sống". Nhóm 12 Vị là một trường hợp điển hình: đầu tiên các vị được kêu gọi "hãy theo Thày" (Mt 4:19; 9:9), như đi vào một "đường lối" chật hẹp khó bước lại ít người đi (x Mt 7:14); sau đó các vị mới được từ từ tỏ cho biết "sự thật" về "Thày là ai?" (Mt 16:15); và sau cùng các vị đã được hoàn toàn "thông phần với Thày" (Jn 13:8), khi Người sống lại từ trong cõi chết để làm cho các vị được "sự sống" khi "Người thở hơi trên các vị mà nói: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh"" (Jn 20:22).
Ba tuần (III, IV và V) giữa của Mùa Chay Năm A, Phúc Âm theo Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc, cũng cho chúng ta thấy tiến trình tam đoạn mạc khải này: Trước hết, ở tuần thứ ba, Chúa Giêsu "là đường lối" tỏ mình ra qua việc làm cho người đàn bà ngoại lai Samaritanô thấy rằng Người quả thực "là Đấng Thiên Sai" (Jn 4:26,29); thứ đến, ở tuần thứ bốn, Chúa Giêsu "là sự thật" tỏ mình ra qua việc làm sáng mắt người mù từ lúc mới sinh, để anh ta có thể thấy Người "là ánh sáng thế gian" (Jn 8:12); sau hết, ở tuần thứ năm, Chúa Giêsu "là sự sống" tỏ mình ra qua việc làm cho Lazarô hồi sinh để anh ta có thể tự động bước ra khỏi mồ, đúng như lời quyền năng của Đấng tự xưng mình trước khi ra tay "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Jn 11:25).
Nơi tiến trình tam đoạn mạc khải này, ngoại trừ ý nghĩa của việc mạc khải liên quan đến tiến trình "đường lối", "sự thật" và "sự sống" như thế, chúng ta còn thấy một điều đáng chú ý nữa, đó là đối tượng được mạc khải, những đối tượng từ xa tới gần và bao giờ cũng là đối tượng kép: đối tượng mạc khải thứ nhất là một con người ngoại lai tội lỗi ở Samaria vùng đất hoang đàng, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân làng của chị; đối tượng mạc khải thứ hai là một con người Do Thái thuần túy ở Giuđêa vùng đất chính giáo, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân chúng, nhất là nhóm Pharisiêu; đối tượng mạc khải thứ ba là một con người thân thiết chí tình ở Bêthania gần Giêrusalem thành thánh, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân chúng lẫn Hội Đồng Do Thái (x Jn 12:9-11).
Chưa hết, về tính cách của tam đoạn mạc khải theo Phúc Âm Thánh Gioan này, chúng ta thấy việc mạc khải hình như đi ngược với đường lối nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu, lời loan báo cho thấy yếu tố nhân sinh ("hãy cải thiện đời sống") đi trước yếu tố thần linh ("Nước Thiên Chúa đã đến"). Bởi vì, qua tiến trình mạc khải tam đoạn này, Chúa Giêsu, là tất cả "Mạc Khải Thần Linh" hay "Nước Thiên Chúa", lại tự động tỏ mình ra trước, tự ý đến với con người trước, nhất là ở trường hợp thứ nhất và thứ hai, để nhờ đó, nhờ việc Người tỏ mình ra đó, con người có thể tin Người. Tuy nhiên, nếu để ý kỹ, chúng ta thấy đường lối nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu vẫn còn hiện tỏ qua cả ba trường hợp. Bởi vì, ở vào chính giây phút quyết liệt nhất và tột đỉnh nhất của mạc khải, nghĩa là giây phút con người sửa soạn để thấy được Nước Thiên Chúa, để đi sâu vào Thực Tại Giêsu, họ cần phải "cải thiện đời sống", như Moisen cần phải bỏ dép ra trước khi tiến gần đến bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi vậy (xem Ex 3:5). Giờ đây chúng ta cùng nhau khảo sát từng mạc khải một.
Mạc Khải "Thày Là Đường Lối" cho người đàn bà ngoại lai Samaritanô.
Ở đoạn mạc khải thứ nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này:
Chúa Giêsu quả thực đã tự động đến gặp người đàn bà ngoại lai ấy với chủ đích tỏ mình ra cho chị. Người biết được hằng ngày vào giờ nào chị vốn ra kín nước, và giờ kín nước của chí ấy lại là giờ vắng vẻ không có ai, (chắc có thể vì chị mặc cảm bởi đời sống bê tha tội lỗi của mình nên muốn tránh mặt mọi người chăng?). Và chị phụ nữ ngoại lai tội lỗi diễm phúc ấy, dù có ý trốn lánh mọi người ấy, vẫn không thoát được ánh mắt của "Thiên Chúa là thần linh" (Jn 4:24), do đó, chị đã không biết được Vị Thần Linh này vẫn đang theo dõi chị từng giây từng phút, cho đến lúc Ngài thực sự tỏ mình ra cho chị, vào chính ngày giờ (buổi trưa), địa điểm (bờ giếng), hoàn cảnh (kín nước) và cách thức (xin nước), chị không thể nào ngờ được.
Giây phút quan trọng nhất, quyết liệt nhất, trong đoạn mạc khải thứ nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này là lúc Chúa Giêsu, sau khi đã khơi động được lòng khao khát chân thiện mỹ vốn nằm ở tận đáy cuộc đời tội lỗi của chị, như chị lên tiếng xin Người ban nước của Người cho chị, Người bảo chị "hãy về gọi chồng chị". Phải, ở đây, ngay tại chỗ này, vẫn chưa phải là tuyệt đỉnh của mạc khải thần linh, một tuyệt đỉnh chỉ xuất hiện khi nào yếu tố nhân sinh "cải thiện đời sống" nơi con người được tỏ ra, như trường hợp chị phụ nữ Samaritanô này đã tỏ ra, ở chỗ, chị đã thú thật là "tôi không có chồng".
Chính nhờ yếu tố nhân sinh vừa khao khát chân thiện mỹ, dù chưa biết rõ thực tại này ra sao, vừa thành thật không giấu diếm như thế, chị phụ nữ này đã thấy được sự thật về mình, khi nghe Người nói trúng tim đen cuộc đời quá khứ của chị. Nhờ đó, sau cùng chị đã lờ mờ được thấy sự thật về Người "Tôi biết có Đấng Thiên Sai sẽ đến. Khi Người đến Người sẽ nói cho chúng tôi biết hết mọi sự".
Nhất là sau khi Người tỏ mình ra cho chị: "Chính Tôi là Đấng đang nói với chị đây", nghĩa là sau khi mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh, chị đã chẳng những hoàn toàn nhận biết Người mà còn loan báo về Người nữa: "Hãy ra mà xem có người đã nói cho tôi biết mọi sự tôi đã làm! Người này không phải là Đấng Thiên Sai hay sao?".
Nội dung của đoạn nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này là vai trò Chúa Kitô "là đường lối" mà con người phải theo để có thể đến cùng Thiên Chúa chân thật duy nhất, bằng không sẽ dễ bị rơi vào tình trạng ngẫu tượng (tin tưởng giả tạo), để rồi hậu quả là sẽ đi đến chỗ ngoại tình (tôn thờ ngẫu tượng, hiến thân phụng sự ngẫu tượng). Như trường hợp của dân Samaria bấy giờ, điển hình là trường hợp của chị phụ nữ tội lỗi ngoại tình này. Do đó, ngay sau giây phút quyết liệt của mạc khải, và trước khi mạc khải tiến đến chỗ tuyệt đỉnh, Chúa Giêsu liền kêu gọi chị "Chị hãy tin Tôi đi", nghĩa là Người kêu gọi chị ta hãy đi theo Người, vì, như Người khẳng định với chị rằng: "Các người tôn thờ những gì các người chẳng hiểu gì cả, còn chúng tôi biết những gì chúng tôi tôn thờ".
Vấn đề thực hành sống đạo: Bài Phúc Âm Chúa Giêsu tỏ mình cho người ohụ nữ Samaritanô hôm nay cho thấy, tự mình, con người vốn "chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Jn 3:19) không thể nào biết "Thiên Chúa là thần linh" (Jn 4:24), nếu Ngài không tự tỏ mình ra cho họ nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài. Vì "Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý"(1Tim 2:4), nên Ngài luôn tỏ mình ra cho mọi người và từng người tùy theo hoàn cảnh của họ. Thậm chí cuộc đời tội lỗi của họ càng là cớ mạnh để Ngài đặc biệt đi tìm họ như mục tử đi tìm con chiên lạc duy nhất vậy. Thế nhưng, con người chỉ nghe thấy tiếng chủ chiên của mình, chỉ nhận ra Người "là Đấng đang nói với" mỗi người chúng ta (Jn 4:26; 9:37), khi nào chúng ta, ít là còn khao khát chân thiện mỹ, còn thành tâm nhìn nhận con người mê lầm tội lỗi của mình mà thôi. Ý nghĩa căn bản nhất của thống hối trong Mùa Chay chính là ở chổ này và bắt đầu từ chỗ này, nhờ đó chúng ta mới có thể tham dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.
"Người phải băng qua Samari". Lộ trình ngắn nhất và dễ nhận từ Giuđê đến Galilê chạy ngang qua miền Samari. Edei, "Người phải", diễn tả một sự bắt buộc hay một sự tiện lợi về địa dư? 'Động từ dei, trong Tin Mừng Gioan (3, 7.14.30; 4, 20. 24; 9, 4; 10, 16; 12, 34...) cũng như trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 8, 31; 9,11) thường có nghĩa một sự bắt buộc phát xuất từ ý định cứu rỗi của Thiên Chúa. Có thể bảo ‘edei’ vừa xác định thêm chi tiết địa dư, vừa đặc biệt ám chỉ rằng Thiên Chúa muốn có câu chuyện này xảy ra ở Samari để mặc khải tính cách phổ quát của ơn cứu độ do Con Ngài mang đến.
"Lúc ấy chừng giờ thứ sáu". Những lối xác định thời gian loại đó ta còn gặp thấy trong 1, 39; 4, 52 và 19, 14. Trong 19, 14, cũng một thành ngữ như ở đây tái hiện trong bối cảnh vụ xử án Chúa Giêsu: có thể Gioan đã muốn dùng cùng một cách nói như vậy để ngụ ý là tính cách phổ quát của ơn cứu rỗi, được tỏ lộ trong câu chuyện hôm nay, tùy thuộc vào cái chết cứu chuộc của Chúa Kitô.
"Cho tôi uống với": Như trong mọi trình thuật của Gioan, chính Chúa Giêsu là người khởi xướng. Lời xin của Người có vẻ tự nhiên, vì lúc đó là buổi trưa, sau khi đi đường xa mệt mỏi. Nhưng đối với độc giả của Gioan, thì một lời xin như thế có vẻ lạ thường, vì người xin uống nước là chính người phải ban cho nước sống dư tràn.
"Trong Thần khí và sự thật". Một lối chú giải rất được phổ biến cho đây là lời ám chỉ việc phụng tự thiêng liêng, nội tâm, loại bỏ mọi hy tế và mọi nơi thờ phượng. Việc phụng tự hoàn toàn nội tâm này được khơi nguồn do sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa và do lòng sùng kính thành thật đối với chân lý. Song một lối giải thích như vậy vẫn còn thiếu sót, vì không lưu ý tới tính cách mới mẻ của việc phụng tự do Chúa Kitô thiết lập. Thật vậy, các ngôn sứ đã đòi hỏi việc phụng tự nội tâm nhiều lần rồi (Am 5, 20-26; Is 1, 11-20; 29, 13; Tv 50, 7-23; 51, 18tt). Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cũng như dân ngoại đều biết rằng phụng tự nội tâm trồi vượt phụng tự bên ngoài. Việc phụng tự mới được Chúa Kitô trình bày ở đây không thể chỉ là lặp lại lý tưởng các ngôn sứ rao giảng; nó phải được đặt vào trong bối cảnh chung của khởi điểm mới trong Chúa Kitô. Việc phụng tự Chúa Cha đích thực phải đáp ứng với địa vị mới của người tín hữu là được trở thành con Thiên Chúa: "Những kẻ thờ phượng đích thật" là những kẻ "sinh bởi Thiên Chúa" (1,13) bằng nước và Thần khí (3,5) và được hiến thánh nhờ sự thật (17, 17.19). Thành ra việc phụng tự mới là việc phụng tự khơi nguồn bởi nguyên lý sự sống của các Kitô hữu. Đây là phụng tự trong sự thật", vì được thành hình do mặc khải vẹn toàn của Chúa Giêsu.
"Thiên Chúa là Thần khí". Xác quyết này là một trong ba xác quyết quan trọng của Gioan về Thiên Chúa ("Thiên Chúa là ánh sáng" 1Ga 1,5; "Thiên Chúa là Tình yêu" 1Ga 4, 8-16). Nó có vẻ như là một định nghĩa về Ngài. Nó gần giống như phản ứng của các người Do thái hy hóa và các triết gia ngoại giáo chống lại những lối trình bày nhân hình về Thiên Chúa. Với lại ta không thấy một giáo huấn nào tương tự trong Cựu ước cả. Vì vậy có kẻ nghĩ rằng lời xác quyết của Gioan ở đây mang nguồn gốc Hy lạp. Tuy nhiên, không nên giả thiết một sự vay mượn như thề vì giáo thuyết của Gioan về Thần khí nối dài giáo thuyết của Cựu ước, theo đó thì Thần khí không phải là cách hiện hữu đối nghịch với vật chất, nhưng là hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa nhằm phát sinh sự sống. Đó cũng là ý nghĩa cơ bản mà ta thường gặp nơi Gioan (3, 5-8; 6, 63; 7,38; 14, 17-19). Thành ra phải kết luận rằng ớ đây Gioan không có ý chống lại những cái nhìn vật chất, như nhìn về Thiên Chúa, song chỉ muốn xác nhận quyền năng đáng tạo sự sống của Ngài.
KẾT LUẬN
Qua việc dùng các tước hiệu khác nhau, những tước hiệu mời gọi niềm tin dần dần, trang sách này của thánh Gioan đã mặc khải một khía cạnh cơ bản trong mầu nhiệm Chúa Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là một lữ khách vô danh. Sau đó, thiếu phụ Samari khám phá ra Người là một người Do thái (c. 9). Khi nghe lời hứa kỳ lạ về một thứ nước sống, bà hỏi Người: "Dễ chừng Ngài lại lớn hơn Giacóp cha chúng tôi sao?" (c. 12). Lúc nhìn thấy là Người đã thấu rõ bí mật đời tư của mình, bà mới nhận ra Người là một ngôn sứ (c. 19). Sau cùng, khi Chúa Giêsu đã mặc khải cách hoàn toàn rồi, bà phỏng đoán Người có lẽ là Đấng Kitô (c.29). Nhưng chính dân thành Samari, hoa quả đầu mùa của các dân tộc, mới tuyên xưng đức tin của họ vào Chúa Giêsu "Đấng Cứu Thế" (c.42). Từ đầu đến cuối, việc mặc khải vẫn nằm trong viễn ảnh lịch sử cứu độ. Các chương Tin Mừng khác mặc khải Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến và là Con Chúa Cha. "Kitô" và "Con Thiên Chúa" là hai tước hiệu căn bản của bản tuyên tín theo thánh Gioan (20,31). Còn “Đấng Cứu Thế" là tước hiệu tổng hợp: Kẻ đã đến như ánh sáng trần gian (8,12; 12,46), như Người mặc khải, như Đấng Kitô, là chính Con Một được Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi thế gian và cho mọi người có sự sống vĩnh cửu trong mình (3, 16-18).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu khai mào câu chuyện với thiếu phụ Samari bằng cách khêu gợi tính tò mò của bà. Người tự đặt mình vào thực tế tầm thường của đời sống thường nhật, vào hoàn cảnh của kẻ phải mệt mỏi kín nước đều đều, để rồi làm cho bà cảm thấy không phải chỉ cần có thứ nước ấy mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất là đáng kể trong đời sống. Hôm nay đây, Chúa còn hiện diện trong cuộc sống thường ngày của ta. Ta có biết nhận ra Người chăng? Có chấp nhận đối thoại với Người? Có đồng ý là không phải chỉ những thực tại vật chất mới đáng kể trong đời sống của ta Có cố gắng để đừng bị vật chất chi phối chăng? Vì không chỉ có thứ nước tự nhiên mà thôi, song còn thứ nước siêu nhiên vọt đến sự sống vĩnh cửu. Cuộc đời của ta còn phải được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện và tôn thờ Thiên Chúa.
2) “Ai uống nước giiếng này, sẽ còn khát lại" (c.13). Nước này không giải khát thật sự, nó vừa tạm thời xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai lại không biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ nó thỏa; ai mà không cảm thấy các nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát, lại càng uống, càng uống lại càng khát! Và luôn luôn theo lối lý luận ích kỷ ấy mà người thiếu phụ Samari đón nghe những lại của Chúa Giêsu về nước sống và tìm cách lợi dụng cơ hội: xin Ngài ban cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi đến cây múc nước" (c.15). Một ngộ nhận như thế cũng gặp thấy nơi người Do thái trong diễn từ Bánh sự sống: thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy" (6,34). Theo bản năng tự nhiên, ta có khuynh hướng muốn chụp lấy ơn Thiên Chúa như một thứ bảo hiểm sinh mạng khả dĩ miễn cho mình lăn lộn với đời, như một số vốn mang lại nhiều lợi giúp mình mãi mãi an cư, muốn thứ bánh, thứ nước Ngài ban cho ấy trở thành kho vô tận, dùng mãi không bao giờ cạn. Nhưng ơn Thiên Chúa đâu có muốn giản lược ta vào trong sự thỏa mãn cái tính cách dinh dưỡng đó: “Ai uống nước Ta sẽ ban, thì đời đời sẽ không khát nữa" Chúa Giêsu bảo vậy (c.14). người không giữ nước ấy trong một bình đóng kín, bưng bít một cách ích kỷ. Trái lại, nước Ta sẽ ban cho nó sẽ trở nên trong nó một suối nước vọt đến sự sống đời đời" (c.14). Nước sống ấy có sức giải khát vì, vượt ra ngoài-bản năng bảo tồn, nó làm phát sinh trong ta chính nguồn sống, và dạy chúng ta rằng sống chính là trao ban, là chia sẻ không tính toán, là phun trào ra mà không giữ lại.
3) Cuộc đối thoại chuyển qua hướng mới với mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đi gọi chồng bà...". Để cho thiếu phụ Samari hiểu và đón nhận ơn Thiên Chúa, Chúa Giêsu đột ngột đề cập đến bí mật đời tư của bà. Trong lãnh vực này, cơn khát của người đàn bà, cơn khát tình yêu, cũng chẳng được thỏa mãn; thiếu phụ đã có năm đời chồng và người đang sống với bà hiện giờ không phải là chồng đích thực (c.18). Giống như nước mà bà phải đến múc uống luôn song chẳng đã khát, những nỗ lực tình yêu liên tiếp của bà đã làm bà thất vọng và đẩy bà vào nỗi cô đơn. Mục đích của Chúa Giêsu không phải là đem người thiếu phụ trở về thái độ sám hối song là cho bà thấy, như đã cho Nathanael thấy (1, 47-50). Người thông suốt lạ lùng, là khiến bà cúi đầu trước uy nhan của vị Ngôn sứ và từ đó chuẩn bị cho bà lãnh hội mặc khải của Thần khí.
Thực vậy, không một tiếng quở trách, không một lời khuyến khích nào trên môi miệng Chúa Giêsu; không một tâm trạng tội lỗi, không một giọng thống hối nơi người đàn bà; nhưng chỉ có một lời khen ngợi đầy vẻ ngạc nhiên: thưa Ngài, tôi thấy Ngài là một ngôn sứ (c.19), và sau đó, trong câu nói với dân làng: một người đã bảo cho tôi biết mọi sự tôi đã làm (c.9). Nếu có chuyện tội chăng nữa, thì vấn đề không phải chỗ đó, hoặc hình như bị gác ngay qua một bên. Với ánh mắt nhân từ và sáng suốt, Chúa Giêsu cũng mời gọi ta hãy nhìn thăng mình không chút tự mãn song cũng chẳng chút xấu hổ, cay đắng và thất vọng. Đặc biệt Người muốn dẫn đưa ta đến chỗ nhìn nhận Người là vị "Ngôn sứ Thiên Chúa sai đến, là Đấng mặc khải về bản tính nhân loại đích thực của ta, là Đấng giúp ta khám phá ý nghĩa và không chiều kích của cơn đói khát trong ta, là Đấng tố cáo những mưu kế mà ta dùng để đánh lừa hoặc thỏa mãn cơn khát ấy một cách rẻ tiền. là Đấng dạy cho ta biết sống và trào dâng nước sống của ơn Chúa.
Ngày nọ lúc ông đang ngồi trên một bờ giếng, thì một phụ nữ Ả Rập, vai mang một cái thùng, tay cầm một cuộn dây quấn lại tròn như một quả cầu, với một chiếc gàu nhỏ bằng da. Đến nơi, chị cột dây vào gàu và thả xuống giếng, rồi kéo lên và đổ nước vào thùng. Khi đã đầy thùng, chị liền rời khỏi giếng và trở về nhà.
Lúc sau, một người đàn ông xuất hiện. Anh chẳng có gì để múc. Và thế là vì quá khát, anh bèn bò xuống đất, liếm những giọt nước, mà người phụ nữ đã đổ trào ra.
Câu chuyện đơn giản trên sẽ giúp chúng ta hiểu điều mà người phụ nữ Samaria đề cập đến qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Chị ta nói với Chúa Giêsu:
- Thưa ông, ông không có gàu để múc, mà giếng thì lại sâu, thế thì ông kiếm đâu ra nước hằng sống.
Và Chúa Giêsu đã cắt nghĩa cho chị ta hiểu rằng Ngài không định nói đến thứ nước vật chất, làm dịu đi cơn khát thông thường, mà là thứ nước thiêng liêng, làm dịu đi cơn khát tâm linh. Ngài nói:
- Ai uống nước này vẫn còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ chẳng khát bao giờ nữa.
Như thế Chúa muốn nói: Về mặt thể xác, tất cả chúng ta đều bị khát thế nào, thì về mặt tâm linh, tất cả chúng ta cũng bị khát như vậy.
Tuy nhiên, sự khát tâm linh này là gì? Đâu là sự trống rỗng bên trong mà chúng ta đã từng cảm nghiệm…
Các tác giả Cựu Ước đã nói về điều này như là một cơn “khát Chúa”. Chẳng hạn thánh vịnh 42 thì nói:
- Như nai khát mong tìm suối mát, hồn con cũng mong đợi Ngài như thế.
Tiên tri Isaia thuật lại lời Chúa:
- Tất cả mọi kẻ khát hãy đến cùng ta.
Còn tiên tri Giêrêmia thì sánh ví Chúa như giòng suối trong. Cơn khát mà tất cả chúng ta đều cảm thấy là cơn khát Chúa. Đây là một cơn khát nội tâm mà mọi người đều có thể cảm nghiệm được như lời thánh Augustinô:
- Tâm hồn chúng con được tạo nên cho Chúa và nó sẽ còn khắc khoải cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa.
Thế nhưng, nhiều người thời nay đang cố gắng tìm cách thỏa mãn cơn khát tâm linh này bằng những thứ khác không phải là Chúa. Chẳng hạn như tiền bạc, danh vọng, lạc thú. Họ hành động như cho đứa bé đang khóc một cục kẹo để nó nín. Tuy nhiên kinh nghiệm cho hay dùng vật chất để làm thỏa mãn cơn khát thiêng liêng chẳng khác nào dùng muối để giải tỏa cơn khát thể xác. Càng uống lại càng khát thêm. Nơi trái tim mỗi người đều ẩn dấu một con khát mà không giòng nước nào có thể thỏa mãn nổi, một nỗi khắc khoải mà không sự thành công nào có thể giập tắt được, một sự trống rỗng mà không của cải vật chất nào có thể lấp đầy được. Điều đó dẫn chúng ta tới kết luận của đoạn Tin Mừng hôm nay:
Chỉ có Chúa mới thỏa mãn được cơn khát trong tâm hồn chúng ta. Và chỉ một mình Ngài mới lấp đầy khoảng trống trong cuộc đời chúng ta, bởi vì như lời Ngài đã xác quyết: Ai uống nước Ta ban thì sẽ chẳng khát bao giờ.
Có một người Á Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn ông ta uống từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả. Ong múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.
Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ cách để được tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Á Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.
Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối… Chờ cho người Á Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên bẩn và hôi thối. Quan nghĩ rằng nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt người Á Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương.
Người Á Rập cứ tưởng mình trao tặng cho quan đầu tỉnh món quà diệu kỳ. Hóa ra là chính quan đầu tỉnh mới là người tặng cho anh món quà vô giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm đậm tình người.
Người phụ nữ Samari cứ tưởng mình làm ơn cho Đức Giêsu khi cho người uống nước từ giếng Giacóp. Hóa ra Người mới chính là vị ân nhân sẽ ban cho bà một thứ nước diệu kỳ, uống vào “sẽ không bao giờ khát nữa”.
Nước ấy chính là Nước hằng sống, nước đó chính là Lời Đức Giêsu, lời bày tỏ con người kín nhiệm của Người, là Đấng Mêsia sẽ đến. Để cuối cùng, Người đã tự tỏ mình ra không phải cho người Do Thái đồng hương, cũng không phải cho các môn đệ thân yêu, mà là cho chính chị, người phụ nữ ngoại giáo Samari: “Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây” (Jn 4,26). Niềm vui vỡ òa trong tim, chị vội vã đi loan báo cho dân làng, để họ cũng được uống thứ nước tuyệt diệu của Đức Giêsu, Nước hằng sống, nước uống vào sẽ không còn khát nữa.
“Đấng ấy” chính là Mêsia, vị cứu tinh của nhân loại. Chỉ những ai tin vào Người, mới đáng lãnh nhận ơn cứu độ.
“Đấng ấy” chính là Nước hằng sống. Chỉ những ai thật lòng khao khát mới được ban cho thỏa thuê dư đầy.
“Đấng ấy” chính là Lời hằng sống. Chỉ những ai đón nhận Lời và thực thi trong cuộc sống, mới được sống đời đời.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã không ăn cũng chẳng uống. Vì Người dùng một thứ lương thực mà chính các Tông đồ cũng không hề biết. Thánh Gioan đã không để chúng ta phải chờ đợi lâu. Vâng, lương thực của Người chính là “đồng lúa đã chín vàng đang chờ gặt hái” (c.35), là “nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Người” (c.39). Cơn đói của Người là mong cho mọi người nhận biết và yêu mến Cha, cơn khát của Người là ước cho muôn người được no thỏa “nước uống vào sẽ không còn khát nữa”.
Chúng ta sẽ làm thỏa cơn đói của Đức Giêsu, khi chúng ta làm theo người phụ nữ Samari mau mắn đi loan báo cho dân làng biết Người chính là Đấng Mêsia.
Chúng ta sẽ làm thỏa cơn khát của Đức Giêsu, khi chúng ta cùng với dân làng Samari tin Người là “Đấng cứu độ trần gian” (c. 42).
Với vẻ tò mò, người phụ nữ Samaria tiến tới phía người đàn ông đang ngồi trên thành giếng. Bởi vì Chúa Giêsu đang sống, bởi vì mỗi bài suy niệm này là một cuộc gặp gỡ tình yêu với Chúa Giêsu hằng sống, tại sao không nghĩ rằng Ngài đang chờ tôi? Chính Ngài nói với tôi: “Hãy cho Ta uống nước”
Nhưng Ngài khẳng định ngay: “Nếu ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban: chính ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban; chính ngươi sẽ xin và ngươi sẽ được uống nước hằng sống”.
Hai nỗi khát khao làm hoang mang. Chúa Giêsu nói: “Hãy cho Ta”, rồi: “Hãy xin Ta”. Và xa hơn một chút: “Chúa Cha đang cần những người tôn thờ Ngài thực sự”. Chúng ta đang ở trên đỉnh cao của sự mạc khải. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta hết khát, nhưng không có bài Phúc Âm này thì ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa khao khát chúng ta?
Cách duy nhất để có thể xứng đáng với sự khao khát này chính là khao khát Ngài. Sự ước muốn và tình yêu có qua có lại: tình yêu vì tình yêu. Chính là phải xin nước của Ngài là nước sẽ làm cho chúng ta ước ao Chúa: “Hãy xin Ta nước hằng sống và nơi ngươi sẽ phát sinh nguồn mạch tình yêu. Ngươi có thể là một trong những người tôn thờ mà Cha tìm kiếm”.
Người tôn thờ sao? Những hình ảnh phiền nhiễu nổi lên, những người sấp mình trước một ngẫu tượng. Cho nên Thiên Chúa của chúng ta là gì nếu Ngài muốn người ta sấp mình trước mặt Ngài?
Ngài là Thiên Chúa. Không có gì có thể thay đổi được cứ liệu này trong quan hệ của chúng ta: Ngài là Thiên Chúa. Ngài không tìm kiếm những kẻ thờ lạy, Ngài tìm kiếm những kẻ thờ lạy thực sự. Sự chính xác có một tầm quan trọng lớn lao. Chỉ những kẻ tôn thờ thực sự mới đáp lại tình yêu của Ngài, không ngừng xem Ngài là Thiên Chúa. Nếu không, mối quan hệ bị sai lệch, tình yêu của chúng ta không đạt tới Thiên Chuá, chúng ta hoàn toàn ở trong sự ảo tưởng.
Tôi vừa đặt tình yêu vào chỗ tôn thờ, bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta yêu thương Ngài. Nhưng để không lầm lẫn về mối tình kỳ lạ có thể nối kết con người với Thiên Chúa này, phải đào sâu ý tưởng thờ lạy. Đây hoàn toàn không phải thờ lay một ngẫu tượng nhưng là biết yêu mến Chúa mà vẫn luôn luôn cảm nhận sự uy nghiêm của Ngài. Tôi ngần ngại trước khi viết “sự uy nghiêm”, và sự ngần ngại này chứng tỏ cho tôi thấy rằng không dễ gì tìm được ngôn từ đúng đắn cho tình yêu tôn thờ này. Do đó ngày nay có một cách nói của Phúc Âm trở nên nổi tiếng bởi vì nó xác định đầy đủ sự tôn thờ thực sự: “Phải thờ lạy Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”.
Khi thánh Gioan nối kết hai từ tinh thần với chân lý bằng từ và, từ quan trọng nhất thường là từ thứ hai (chẳng hạn “Ông ta thấy và ông ta tin”). Do đó, ở đây phải chú trọng đến chân lý. Vẫn đối với Gioan, chân lý làm ta nghĩ ngay đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ta là chân lý”. Trong khi mạc khải chân lý về Chúa Cha, về chính mình và về quan hệ giữa Ngài với Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thờ lạy “trong chân lý”. Điều đó có nghĩa là: yêu Cha như Chúa Giêsu yêu thương Ngài.
Nhưng chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban cho chúng ta những tâm tình như Chúa Giêsu. Thờ lạy “trong tinh thần” có nghĩa là được Thánh Thần linh ứng khi chúng ta muốn yêu thương Cha theo cách của Chúa Giêsu.
Bạn chắc chắn cảm thấy tôn thờ thực sự tức là tôn thờ Ba Ngôi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu ở giếng Giacob mang lại cho chúng ta ba màu sắc của sự tôn thờ: Sự tôn thờ này hướng đến Chúa Cha, trong khi, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, sự tôn thờ này được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu.
Chúng ta đang chứng kiến Chúa Giêsu khởi đầu đời sống công khai. Người rời xứ Giuđêa, vì ở đó sự thành công của Người làm cho nhóm Biệt phái tức giận. Trong giai đoạn này, Chúa không muốn đi vào cuộc tranh chấp mà bọn họ sửa soạn cho Người, nên Người đi qua Samaria để lên Galilêa. Tại Samaria xảy ra một cuộc gặp gỡ mở màn cho việc rao giảng cho dân ngoại toàn thế giới. Chúa Giêsu dừng chân ở núi Garidim. Từ 400 năm, đó là Núi Thánh của dân bản xứ. Vì kình địch với người Do Thái, họ đã biến ngọn núi này thành một nơi cạnh tranh với Giêrusalem. Đi đường xa mệt mỏi, Chúa Giêsu ngồi xuống bên bờ giếng Giacóp, trong lúc môn đệ đi vào làng mua thức ăn. Trong cuộc đối thoại với người đàn bà ra giếng múc nước, ta thấy ngay ý Người muốn dùng nước làm biểu tượng để mặc khải sứ mệnh và danh tính Người. Câu chuyện người đàn bà xứ Samaria thường được dẫn ra làm tỉ dụ về khoa sư phạm tuyệt vời của Chúa đối với con người. Chúa thâm nhập vào trong tâm trí con người, để làm nổ tung các giới hạn của nó, mở nó ra đón nhận chân lý cao cả hơn bắt nguồn từ Thiên Chúa, chớ không phải từ con người.
Đầu hết, Chúa Giêsu gợi óc tò mò tìm hiểu của người phụ nữ. Muốn thế, người đặt mình vào mức tầm thường của đời sống hằng ngày, vào mức của công việc múc nước vất vả. Người làm cho linh cảm rằng không phải chỉ cần có thứ nước đó để sống mà thôi, không phải chỉ có những thực tại vật chất mới là quan trọng trong đời sống. Do đó phản ứng đầu tiên của người đàn bà Samaria là: xin ông cho tôi thứ nước ban sự sống. Phản ứng lẫn lộn vừa ước muốn thoát khỏi sự vất vả thường ngày vừa lòng khao khát biết Chúa Giêsu muốn nói gì.
Chúa làm cho bà thắc mắc hoàn toàn khi thấy rằng Người nhìn tận đáy lòng bà. Bà hãy về gọi chồng lại đây. Hoàn cảnh bây giờ trở nên nan giải cho người phụ nữ, và bà lái câu chuyện sang hướng khác. Phản ứng rất tự nhiên.
Về việc thờ phượng tại Giêrusalem thì sao? Chúa Giêsu theo bà ‘đi vòng quanh’, lợi dụng cơ hội để nói thế nào là tôn thờ thật sự. Càng lúc càng thắc mắc thêm, bà nghĩ còn có cách nói tới việc Đấng Cứu Thế sẽ đến để thoát khỏi cuộc đàm luận này. Đó là lúc Chúa Giêsu chọn để tự mặc khải mình ra. Chính Ta đang nói với ngươi đây, Ta là Đấng ấy. Bấy giờ bà tin vào Chúa Giêsu và thuật lại điều đã xảy tới, đó là Tin Mừng rồi.
Chúa hiện diện gần gũi với đời sống cụ thể thường nhật của ta. Ta có biết nhận ra Người không? Có chấp nhận đối thoại với Người không? Có chấp nhận rằng không phải chỉ có những của cải vật chất mới là quan trọng chăng? Ta có cố gắng không để cho mình bị vật chất hóa chăng? Không phải chỉ có nước uống nuôi xác, còn có nước chảy vọt ra thành sự sống đời đời. Đời sống ta có được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện và thờ lạy không?
Ý nghĩa của nội dung phụng vụ Lời Chúa ba Chúa nhật đầu mùa Chay có một mối liên hệ mật thiết. Chúa nhật I nói tới cám dỗ, gồm bốn cuộc cám dỗ cho ba con người. Nhưng chỉ với một cuộc cám dỗ đầu tiên, Ađam, Evà đã ngã nhào, vì bất tuân lời Thiên Chúa, vì ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình. Ba cuộc cám dỗ còn lại xảy ra với chính Chúa Giêsu. Chúa đã chiến thắng ngoan cường nhờ không ngừng sống Lời Thiên Chúa, và không ngừng hiến thân cho Thiên Chúa, cho trần gian. Như vậy, có đến hai tấm gương phạm tội của Ađam, Evà, và chỉ có một tấm gương chiến thắng của Chúa Giêsu. Dù là tấm gương chiến thắng hay chiến bại trong cám dỗ, tất cả trở thành bài học kinh nghiệm dạy ta biết ra khỏi chính mình, sống cho Thiên Chúa, cho anh em và luôn trung thành tuân giữ Lời Thiên Chúa.
Chúa nhật II: đức tin bị thử thách. Ông Abraham vâng lệnh Thiên Chúa, bỏ nhà, bỏ quê hương ra đi, từ đó bắt đầu cho một chuỗi xin vâng trong nhiều biến cố đau đớn diễn ra suốt đời ông. Còn các thánh tông đồ, dù được kiến cuộc hiển dung vinh quang của Chúa Giêsu, nhưng đó chỉ là một giấc mơ thoáng qua. Các ông phải xuống núi, phải trở về đời thực, và sẽ nếm trải nhiều thử thách lớn, đau đớn khi cùng Chúa Giêsu chấp nhận Thánh giá, không phải một thoáng qua, không là một ngày một buổi, nhưng phải liên tục xin vâng trong suốt quảng đời còn lại của mình. Qua mẫu gương sống đức tin của tổ phụ Abraham, của các thánh tông đồ, Giáo Hội muốn ta vững vàng trong thử thách bằng sự cậy trông vào Chúa, dám để Chúa dẫn dắt đời mình.
Hôm nay, Chúa nhật III, qua câu chuyện gặp gỡ, đối thoại với người phụ nữ xứ Samari ở giếng Giacob, Chúa Giêsu mạc khải, Chúa là sự sống và là sự sống trường sinh. Sự sống trường sinh Chúa ban cho chị phụ nữ khi thức tỉnh tâm hồn chị, giúp chị nhận ra tình trạng tội lỗi của mình, thì Chúa cũng ban cho chúng ta chính sự sống ấy. Như tất cả anh chị em của mình, cũng là con người, người Kitô hữu dù bước theo Chúa Kitô, Đấng là chính sự sống và trao ban sự sống, vẫn không thoát khỏi những cám dỗ làm chao đảo đức tin. Có lúc vì yếu đuối, nông nổi, họ đã sa ngã thật. Sa ngã cách đớn đau như Ađam, Evà chẳng hạn.
Người Kitô hữu cũng không hề được đặt bên ngoài những thử thách của đời sống. Như Abraham, như các tông đồ, dù chân thành theo Chúa, đức tin của người Kitô hữu cần được trui rèn, cần được giáo dục qua những thử thách ấy. Tuy nhiên, họ có một lý tưởng cao cả vượt lên trên mọi thứ có thể cảm nhận, nhìn ngắm hay cầm nắm, dù những thứ ấy quý giá đến đâu. Lý tưởng cao cả ấy là sự sống trường sinh do đức tin mách bảo. Sự sống trường sinh chính là mong ước tương lai, là hy vọng vĩnh cửu, là lẽ sống của những ai tin vào Chúa và sống đức tin của mình.
Chỉ có Chúa Kitô, Nguồng Sống thật mà họ trao gởi hết tình yêu, hết niềm tin, trọn bản thân, trọn cuộc đời, mới là sự thỏa mãn niềm thao thức trường sinh. Vì thế họ nỗ lực từng ngày vượt qua mọi cám dỗ, đạp trên mọi thử thách để đoạt bằng được chính Người, sự sống trường sinh của họ. Chính Chúa Kitô cũng ban mọi ơn cần thiết để họ mạnh mẽ và can đảm sống niềm khát khao vĩnh cửu bằng tất cả lương tâm lương thiện và thánh thiện của mình.
Câu chuyện về sự gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samari trên bờ giếng Giacop có một chi tiết nghịch lý thú vị, rất quan trọng đáng chúng ta lưu ý nhằm đánh thức ý thức hướng thiện của mình. Chi tiết quan trọng đó là: Người xin nước uống trở thành người trao ban; còn người cho nước trở thành người lãnh nhận. Chị phụ nữ, người đã được Chúa xin nước, lại là người lãnh nhận cả một kho tàng không thể có bất cứ điều gì có thể so sánh. Kho tàng ấy là chính Chúa Giêsu, mạch suối trao ban nguồn nước trường sinh, đó là được sống chính sự sống của Chúa, sống vĩnh cửu.
Giống như ta, đi đường xa, Chúa Giêsu khát nước và đã xin người phụ nữ đang múc nước cho mình chút nước giải khát. Bằng hành động xin nước, Chúa giúp chị, cũng là giúp chúng ta khám phá cơn khát của mình: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: xin cho tôi uống nước, thì chắc bà sẽ xin Người và Người sẽ cho bà nước hằng sống”. Chúa tiếp tục dẫn dắt chúng ta đi vào chiếm hữu sự sống trường sinh ấy: “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát: nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”.
Vẫn chưa đến lúc chấm hết. Càng đi xa hơn với Chúa, con người càng được phát triển đức tin của mình. Chị phụ nữ đã thật thà bật thốt với tất cả lòng thành: “Tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Chỉ chờ một lời tuyên xưng quả cảm như thế, Chúa Giêsu đã tỏ lộ trọn vẹn bản thân Người: “Đấng ấy chính là Ta, người đang nói với bà đây”. Phúc lớn lao cho chị phụ nữ vì đã vui lòng chấp nhận để Chúa dẫn lối. Và cũng sẽ phúc cho chúng ta, nếu biết mở rộng lòng đón nhận Chúa, đón nhận lời mạc khải của Người, nhờ đó Chúa đưa chúng ta vào sự thật muôn đời bất tử là chính Chúa.
Hóa ra cần đến nước nhưng không phải là nước. Trong hoàng cảnh này, nước chỉ là biểu tượng của sự sống trường sinh. Và Chúa Giêsu, người đến xin nước không phải để uống nước, nhưng để trao ban chính mình. Khai mở bằng một cơn khát nước của Đấng Cứu Chuộc, nhưng kết thúc không phải là một cơn, mà là cả một niềm khao khát mãnh liệt vươn tới tình yêu vĩnh cửu, vươn tới sự sống thường hằng và bình an đích thực của người đã có thể ý thức mình tội lỗi. Bằng một cơn khát thể lý của Đấng Cứu Chuộc, đã có thể tạo đà cho nhân loại đi tới một cơn đói khát tâm linh, cần thiết để chuẩn bị nhân loại mở lòng đón nhận ơn cứu chuộc là chính Đấng Cứu Chuộc.
Hóa ra từ sự khát nước, Chúa dẫn ta đến một chân lý không hề sai chạy, đó là: tìm cách bù trừ khát vọng tâm linh bằng bất cứ sự thỏa mãn trần gian, thỏa mãn dục tính, thỏa mãn đam mê nào ngoài Thiên Chúa, người ta sẽ chới với, sẽ hụt hẫng, sẽ trống vắng, sẽ càng lúc càng đói khát hơn. Bởi cơn khát tâm linh, chỉ có Đấng thuộc về tâm linh mới có thể lấp đầy. Cơn khát nước thể lý không làm người ta chết, nhưng để mình bị đói khát, thiếu thốn Thiên Chúa, người ta sẽ chết đời đời. Cuộc trao đổi xoay quanh chủ đề nước, nhưng mục đích cuối cùng không dẫn đến việc uống nước, lại dẫn đến việc nhìn lại cả một quá khứ tội lỗi còn đang kéo dài đến hiện tại của một con người, giúp con người ấy ý thức mình để mà vươn lên, để mà lãnh nhận ơn bình an.
Như vậy, kết thúc cho cả một chủ đề liên tục trong ba Chúa nhật đầu mùa Chay: vượt thắng cám dỗ, vượt thắng thử thách để tiến đến chính Chúa Giêsu là nguồn hy vọng trường sinh của chúng ta, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy sống mùa Chay một cách thiết thực bằng cách gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa và để cho Lời ấy thấm vào con tim khối óc của mình. Vì chỉ có như thế, ta mới có thể đạt được điều mà chị phụ nữ xứ Samari đã đạt được, đó là hoán cải đời mình để tiến đến cùng Thiên Chúa, Đấng trao ban sự sống trường sinh cho chúng ta.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay là một đọan văn đa nghĩa, người ta đọc ra ở đấy nhiều ý nghĩa khác nhau: Có người tìm thấy ở đấy một ý nghĩa mục vụ và tâm lý giúp cho chúng ta cách phải nói với tội nhân để đưa họ đến chỗ hóan cải. Có người lại thấy đọan Tin Mừng này có ý nghĩa Bí Tích, đó là nước trường sinh ám chỉ nước trong phép Thánh Tẩy, còn bánh hẳn là liên hệ với phép Thánh Thể. Có người lại giải thích theo một ý nghĩa Kitô học, Gioan giới thiệu một đề tài nền tảng: “Đức Giêsu là ai để tin vào Ngài ?”.
Điều này phù hợp với mục đích của tòan tác phẩm Tin Mừng thư tư, vì Jn.20,31 Gioan trả lời rất rõ: Các điều đã viết đây là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô con Thiên Chúa, và bởi tin thì anh em có sự sống nhờ Danh Ngài. Như thế tác giả muốn chúng ta hiểu rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô Con Thiên Chúa và nhờ tin như vậy thì được sống. Hay nói đúng hơn đọan văn nhằm trình bầy hành trình đức tin của người ly khai Do Thái Giáo.
1/ Hành trình đức tin của người phụ nữ Samaria:
Cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu và thiếu phụ đã dân đưa chị qua ba chặng:Trước hết chị đã được dẫn đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác: Chúa Giêsu không như những người Do Thái khác, khinh thị người Samari nhất là phụ nữ Samari, trái lại Ngài còn kính trọng chị, hạ mình xuống xin nước uống (c.9). Nhưng ngay sau đó Chúa Giêsu đã xoay tình thế “ Nếu chị…người ấy ban cho chị nước hằng sống”(c.10) và chị vội vàng xin nước Ngài (x.c.15).
Nước là nguồn mạch và tiềm năng của sự sống, nước để thanh tẩy, nước ban sự sống đời đời. Chúa Thánh Thần là nguồn nước sự sống. Đức Giêsu đã làm cho chị nhận ra mình không phải là người cho nước mà trái lại là người xin nước.Chặng hai: Chúa Giêsu làm cho chị nhận ra mình được Ngài biết rõ và từ đó nhận ra Đức Giêsu là một ngôn sứ. Người thiếu phụ ngạc nhiên “ ông ấy nói với tôi mọi sự tôi đã làm” (c.29-31). Chị ngạc nhiên vì thấy Đức Giêsu đã biết rõ mình (x.c.18). Trong khi mạc khải cho thiếu phụ Samaria biết rõ đời tư của chị, Đức Giêsu đã tự mạc khải chính mình. Cách làm này cũng tương tự cách làm đối với Nathanael (Jn.1,47-49).
Sau cùng Đức Giêsu tăng cường niềm chờ mong Đức Kitô và mạc khải mình chính là Đức Kitô. Thật vậy, người phụ nữ nhận thấy người đối thọai vừa cởi mở vừa sáng suốt, nên người thiếu phụ liền nêu ra vấn đề lâu đời chia rẽ người Do Thái với người Samaria. Phải thờ phượng Thiên Chúa ở núi này hay tại đền thờ Giêrusalem ? Thắc mắc này cho thấy thiếu phụ đang khao khát ngóng đợi Đấng Messia và Ngài tỏ cho chị thấy Ngài chính là điều mà chị đang chờ mong “Ai uống nước Ta ban sẽ không còn khát…”(c.14) và người chị mong đợi“Đấng ấy chính là tôi”(c.26). Sự phân rẽ giữa nơi thờ phượng thì Chúa Giêsu xóa bỏ, điều mà họ mong mỏi là “ lúc này không còn là ở Giêrusalem hay Garazim mà là trong tinh thần và chân lý”(c.23-24).
2/Chúa Giêsu làm cách nào để người phụ nữ có những chuyển biến ?
Trước hết Chúa Giêsu đã làm cho bà thay đổi tương quan với Ngài: Trước đây là một sự kỳ thị, người Do Thái liệt kê người Samaria là người ly khai, còn người DoThái là người trung thành với luật, tự đặt mình lên trên họ. Còn Chúa Giêsu lại tự hạ ngỏ lời xin bà nước, việc tự hạ ấy có thể làm tổn thương danh dự của Chúa Giêsu và cả dân tộc mình, nên chính các môn đệ cũng ngạc nhiên (x.c.27). Nhưng sau khi xin nước, người thiếu phụ cảm thấy mình được tôn trọng và thương mến. Cho nên sự hạ mình của Chúa Giêsu chính là cốt lõi để biến đổi tương quan giữa Chúa Giêsu và phụ nữ. Rồi Ngài gây ngạc nhiên cho chị, Ngài chuyển từ nước tự nhiên sang nước tái sinh và đã giúp chị chuyển biến từ người cho sang người xin và tư người xin sang người cho.
Người thiếu phụ đang khát tình thương, nên chi mới sống với nhiều người đàn ông như thế, khát tình thương mà Chúa ban tình thương thì điều đó quan trọng như thế nào đối với chị ! chị đã nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là Ngôn Sứ (x.c.19) mà còn yêu thương chị nữa, dù đời tư chị qúa khứ cũng như hiện tại chả ra gì, nhưng Chúa Giêsu vẫn tôn trọng nên chị nhận ra mình được yêu và biến đổi là lẽ đương nhiên.
3/ Loan báo:
Khi nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messia(x.c.26) thì chị đã vội vàng loan báo cho dân chúng “Mau mau hãy đến mà xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Đấng Kitô”(c.29). Và những người Samaria đã qua trung gian người thiếu phụ mà có được niềm tin (x.c.39), nhưng sau đó họ trực tiếp gặp gỡ Ngài. Các môn đệ đầu tiên cũng vậy, khi được Gioan Tẩy Gỉa giới thiệu và nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai thì đã đi loan báo, giới thiệu cho những người thân quen. Chẳng hạn Andrê nói với Phêrô: chúng tôi đã gặp đấng Messia và giới thiệu em mình cho Chúa Giêsu, rồi Philipphê gặp Nathanael cũng nói: Đấng mà sách luât Moisen và các ngôn sứ nói tới chúng ta đã gặp(x.Jn.1,35-46). Và tiến trình niềm tin của các môn đệ tiên khởi cũng tương tự như thế khi Phêrô được anh loan báo thì ông được dẫn đến để trực tiếp gặp Chúa Giêsu và Nathael được bạn loan báo thì cũng diện kiến Chúa Giêsu và đối thọai với Ngài rồi chính ông thốt lên “ chính thầy là Con Thiên Chúa, là vua Israel”(Jn.1,49).
4/ Sứ điệp Tin Mừng:
Có thể sống điều mình tin mà không loan báo không ?Chúng ta có thể thực sự tin vào Chúa Giêsu mà chỉ qua trung gian không ? Phải có sự gặp gỡ Chúa Giêsu thực sự qua việc cầu nguyện.Muốn loan báo, muốn giúp người khác tin vào Đức Giêsu chúng ta phải làm thế nào ?Thiếu phụ Samaria đi kín nước, đâu ngờ mình gặp được Đấng Thiên Sai, còn bạn, khi lao động, đi buôn bán, đi làm, đi học…bạn có thể tìm gặp Chúa được không ? Chúa Kitô đã vượt ra ngòai hàng rào nghi kỵ, thành kiến để gặp gỡ và chinh phục người thiếu phục Samaria bằng tình yêu, để chị trở thành con cái Chúa và làm chứng tá Tin Mừng. Xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, xích lại gần nhau để đối thọai và lắng nghe nhau trong tinh thần cởi mở chân thành. Nhờ đó, Mùa Chay thánh này sẽ sinh hoa trái cho chúng con.
Từ “di dân” (immigrant) ngày nay quen thuộc với hết mọi người, mọi quốc gia. Nhưng cách đây không lâu thị còn là ngôn ngữ lạ tại vì những người mới đến thường được ta gọi bằng từ khác: dân ngoại cư (alien). Phong trào di dân bây giờ cũng là chuyện thường tình. Lý do thì vô số: kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc…
Ông tổ tôi là người miền nam nước Ý đại lợi. Tên họ chúng tôi chứng minh điều ấy. Cư dân nước Mỹ bây giờ đều như thế cả: Anh, Pháp, Đức, Ái nhĩ lan, Phi châu, Á châu. Ngay cả dân da đỏ, tự nhận mình là dân bản địa (native). Nhưng thực ra thì cũng từ nơi khác đến. Có thể là 20, 30 ngàn năm về trước. Chẳng cần khảo cổ, cứ tra cứu tên gốc của họ, tự khắc biết. Thời còn trẻ, dưới con mắt của tôi, ông bà cha mẹ tôi là những old folks (dân kỳ cựu) họ bỏ quê hương tìm đến “đất hứa”. Họ đã chịu đựng nhiều thiệt thòi, gian khổ, rét mướt, khinh dễ, thành kiến, ghét ghen, kỳ thị… và họ cam chịu để con cháu được hưởng phúc lộc hôm nay. Ông bà tôi kể, lúc mới đến người ta ghê tởm họ vì lầm tưởng họ là những kẻ ăn giun (trùng). Thực ra họ ăn spaghetti một đặc sản của nước Ý, nổi tiếng bây giờ, nhưng lúc ấy còn rất nghèo, nên spaghetti có màu xám. Ngoài ra họ thường bị hiểu lầm về nhiều chuyện khác do ngôn ngữ bất đồng. Về phần ông bà tôi thì cũng nhớ quê hương da diết bởi phải gánh chịu những nặng nhọc, khó khăn mới.
Vậy thì chúng ta hiểu tâm lý của dân tộc Israel trong bài đọc 1 hôm nay trích từ sách Xuất hành:”Trong sa mạc, dân chúng khát nước đã kêu trách ông Môsê rằng: ông đưa chúng tôi khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay sao?” Tuyển dân cũng đang trên đường di cư. Họ rời bỏ kiếp nô lệ ở Ai Cập, nơi mà tổ tiên họ đã cư ngụ 400 năm, để về đất hứa. 400 năm là thời gian dài, họ đã cắm rễ sâu vào mảnh đất ấy, quen thuộc với phong tục, tập quán, nếp sống củ hành củ tỏi Ai Cập. Lúc này phải bỏ lại tất cả để ra đi, thì thật là khó, rồi phải đương đầu với những gian nan nhọc nhằn mới ở đất lạ quê người, chiến đấu với thiên nhiên, thú dữ, thổ dân. Cho nên tâm lý bất an, chao đảo là điều không thể tránh được. Như xuất hành thuật lại: Tác giả dùng hai từ cụ thể làm bằng cớ: Massah: thử thách và Meriba: chịu đựng. Cuộc hành trình thật dài, thật gian khổ, thất bại và thất vọng triền miên. Sách kể tiếp: Họ nghi ngờ kêu lên: Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?
Chúng ta có thể đồng hóa với tuyển dân trong mùa chay này, khi mà hằng ngày cũng gặp những giây phút tương tự, hoàn cảnh tương tự, trên con đường thiêng liêng, với bao cám dỗ của đồng đạo, đồng bào và thế giới chung quanh. Chúng ta than: Ích chi những khổ chế trong khi thiên hạ ngày ngày yến tiệc linh đình, ích chi khó nghèo, khiêm nhường, vâng phục; trong khi nhung lụa ê hề, kiêu căng tự khẳng định khắp hang cùng ngõ hẻm: Ti vi, báo chí, xã hội, kinh tế, chính trị, giáo hội, nhà tu? Liệu tôi chịu đựng được bao lâu? Liệu Chúa còn ở với tôi không? Kết thúc rồi thế nào? Điều chi ở phía trước? Từ chối mình để làm chi? Tốt nhất là người ta sao mình vậy? Thử xem ai đã hơn ai? Trăm nghìn cám dỗ ở chân núi Horeb như tuyển dân vậy.
Hiểu thế để chúng ta thấy rằng muốn trung thành với ơn gọi chúng ta phải khao khát Chúa. Chúng ta cần đến Ngài từng giây từng phút. Chúng ta phải thay đổi não trạng thế tục để có thể tiếp tục đi tiếp con đường đã “trót chọn” theo tiếng Chúa gọi. Chúng ta luôn cảm nghiệm sa mạc trong cõi lòng mình, cho nên luôn cần nước trong lành của Ngài để giải khát, chứ đừng thắc mắc: Tôi vào nhà dòng để làm gì? Để rồi cố gắng thu tích sung sướng cho riêng mình.
Bởi lẽ, cứ như câu truyện hôm nay Chúa sai Môsê đập đá tảng cho chúng ta có nước uống. Chính từ những gian khổ hàng ngày, những vật lộn với các cám dỗ mà ơn thánh sẽ vọt ra làm đỡ cơn khát cho các môn đệ trung thành. Điều này không phải là khuyên nhủ ăn bánh vẽ. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaritana ở giếng Giacóp là bằng chứng chân lý. Câu truyện dài và quá quen thuộc. Nhưng hoàn cảnh hơi khác thường. Cứ theo thói tục. Thì phân biệt giới tính thời Chúa Giêsu rất nặng nể trong các xã hội Palestine. Đàn bà, con gái, trẻ em lúc ấy chẳng có chút địa vị và nhân phẩm nào. Họ thuộc “sở hữu” của đàn ông. Luật lệ do đàn ông ban hành. Phụ nữ chỉ có bổn phận vâng theo mù quáng và tuyệt đối. Chỗ của họ là ở nhà, bếp núc, con cái. Chỗ của đàn ông là đồng ruộng, nơi công cộng, chợ búa và cổng làng. Giếng nước là chung nhưng khác thời gian: Buổi sáng và chiều, đàn bà con gái. Đàn ông, các lúc còn lại. Nhưng người phụ nữ hôm nay ở giữa trưa vắng vẻ. Các chú giải bảo rằng vì chị ta nổi tiếng xấu, nên tránh đàm tiếu của dân làng. Không hiểu thực hư thế nào. Nhưng rõ ràng câu chuyện chỉ xẩy ra giữa hai người: Một, đàn ông Do thái, kẻ thù của dân tộc Samaritanô. Hai, phụ nữ trắc nết, thuộc cư dân rối đạo.
Chắc quí vị đoán ra ngụ ý của Gioan: Ông muốn đưa vào Tin mừng một cuộc cách mạng: xã hội, tôn giáo và chủng tộc. Một con đường tinh thần hoàn toàn mới: Xóa bỏ mọi ranh giới ngăn cách. Khơi dây trong lòng người ta nội lực vô tận. Xin đọc kỹ Phúc âm. Tác giả John P. Pilch đếm được 7 lần Đức Giêsu cất tiếng nói và 7 lần người phụ nữ ngỏ lời. Đó là điều mới lạ trong cộng đồng Gioan, nơi chỉ có đàn ông được phép nói. Người ta miệt thị phụ nữ, coi họ như nô lệ. Ngày nay cũng vẫn vậy, mặc dù lý thuyết có đổi khác.
Chính các tông đồ đi chợ về chứng kiến quang cảnh cũng lấy làm gương mù. Rồi thì chị ta lại dám đi vào thành loan tin cuộc trò truyện của mình với một đàn ông lạ mặt. Đúng là Đức Kitô đang thực hiện một cuộc “tạo dựng” mới. Tạo dựng bình đẳng giữa người và người tại một nơi rất tầm thường “giếng nước”. Nhưng ý nghĩa thật là sâu sắc. Giống như Thiên Chúa ngày thứ nhất dựng nên ánh sáng. Đức Giêsu cũng kéo người phụ nữ ra khỏi tối tăm của tâm hồn, khỏi nếp sống sa đọa của chị, ban cho chị dần dần ý thức được tình trạng nô lệ của mình và căn cước của người nói chuyện với chị. Thoạt đầu, chị gọi Ngài là dân Do thái, sau đó tiến lên Đấng tiên tri, rồi Đấng thiên sai, cuối cùng Cứu Chúa của thế gian. Thì ra chị đã hiểu Đức Giêsu hơn ai hết trong giai đoạn này.
Phần Đức Kitô lại còn sâu sắc hơn. Ngài tế nhị xin nước của chị, rồi dần dần dẫn chị đến lòng khao khát “nước” Ngài ban cho chị, nước ấy vọt ra từ tâm hồn chị vươn đến sự sống muôn đời. Đó là nội lực của mỗi linh hồn. Ngôn ngữ võ nghệ gọi là thế công. Chúng ta nên suy nghĩ sâu xa hơn về biến cố này và áp dụng cho linh hồn mình. Kẻo cứ vô tâm chạy theo thế gian mãi.
Riêng đối với những ai làm việc truyền giáo, cũng nên học nơi bài đọc 3 hôm nay nghệ thuật thu hút linh hồn người ta. Không bằng tiền tài, danh vọng hoặc cưỡng chế thuyết phục, học thức hào nhoáng. Nhưng bằng kỹ thuật của Đức Kitô. Kỹ thuật đó cũng là “nội lực” của linh hồn Ngài, rồi tiếp đến xin người ta cho nước ưống, tức tài năng trí tuệ hiện trạng mà họ đang có, rồi dẫn đến sự thiếu thốn trong con người họ. Từ đấy nảy sinh lòng khao khát sự thật. Đức Kitô không dùng áp lực để tiến vào tâm hồn chị phụ nữ. Nếu như Ngài làm như vậy chị sẽ lập tức đóng cửa linh hồn chị lại, chứ không mở toang ra cho Ngài. Đây là sự khác biệt to lớn giữa những người tự nhận là thông thái, là độc quyền chân lý và Đức Giêsu, nhà truyền giáo thật sự và vĩ đại. Ngài khơi đầu câu chuyện bằng cách bày tỏ “nhu cầu” của mình: Ngài đang khát khao linh hồn người đối diện. Chị liền mở lòng ra ban tặng “nước” cho Ngài. Câu truyện tiến hành hết sức tự nhiên. Người đàn bà từ từ nhận ra “nhu cầu” của mình và tình nguyện xin “nước hằng sống”. Xin tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng lạ lùng thay Chúa bảo chị “nước” đó đang nằm sẵn trong trái tim chị. Chị chỉ cần khơi dậy và được uống thỏa thuê.
Than ôi, xưa nay chúng ta kiêu căng và ngu tối biết bao! Cho nên chẳng lạ gì thế giới vẫn đi trong đêm tối âm u. Bao nhiêu lần chúng ta rao giảng về Chúa, khoe mình là thông thạo về Ngài. Nhưng kỳ thực chưa bao giờ được gặp Ngài. Vì nếu gặp thì đã nên giống chị đàn bà Samaritana hôm nay. Vội vàng chạy vào thành báo tin và cả thành ùa ra đón Chúa và mời Chúa ở lại với chúng ta. Phúc âm kể rằng Ngài đã ở lại đó hai ngày. Sau cùng họ nói với chị: không phải vì lời chị mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người là Đấng cứu độ trần gian.
Chúng ta dâng cho Chúa phần nhỏ nhất mình có, phần còn lại dành cho vinh quang mình. Ăn chay, đánh tội, khổ chế cũng vậy thôi, chứ chưa nói đến việc dung dưỡng xác thịt. Chúng ta quên rằng hy sinh cho Chúa, sẽ nhận lại gấp trăm. Ở Cana, Chúa xin mấy người phục vụ đổ nước lã đầy các chum và kết quả là 6,7 trăm lít rượu ngon. Trên núi, em bé cho Ngài năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, vậy mà hàng vạn người ăn no nê. Hôm nay chị đàn bà cho Ngài uống chút nước và chị được nguồn suối tình yêu vọt lên đến sự sống muôn đời. Chúng ta nghĩ sao về mùa chay này, hy sinh cho Chúa hay tiếp tục gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Cái đó tùy lòng đạo đức mỗi người. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại của Đức Giê-su với một phụ nữ Sa-ma-ri. Người đã từng bước đưa chị ta đón nhận mặc khải quan trọng: Người chính là Đấng Thiên Sai, ban Nước Hằng Sống cho những ai tin vào Người và họ sẽ biến thành mạch nước giúp người khác đón nhận sự sống đời đời.
3. CHÚ THÍCH:
- C 5-9:
+ Đến một thành xứ Sa-ma-ri: Từ Giê-ru-sa-lem về Ga-li-lê ngang qua xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã tới giếng Gia-cóp gần thành Sy-kha (hay Si-khem) tại đất Ca-na-an (x. St 33,18; 48,22). Đây là đất mà tổ phụ Gia-cóp đã cho Giu-se và con cháu làm gia nghiệp (x. Gs 24,32).
+ Khoảng giờ thứ sáu: Tức khoảng mười hai giờ trưa. Người Do thái tính thời gian như sau: ban ngày có 12 giờ và ban đêm có 4 canh giờ. Ngày bắt đầu từ giờ Thứ Nhất (6g sáng) lúc mặt trời mọc, và kết thúc vào giờ Thứ Mười Hai (18g00) lúc mặt trời lặn.
+ “Chị cho tôi xin chút nước uống !”: Đức Giê-su chủ động xin nước uống để có cơ hội bắt chuyện, giúp người phụ nữ dần dần nhận ra Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, đem lại ơn cứu độ cho loài người.
+ “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?”: Từ sau khi đi lưu đày trở về, dân Do thái xây dựng lại Đền Thờ mà không cho người Sa-ma-ri cộng tác, nên họ đã xúi vua Ba-tư cản trở công cuộc tái thiết này (x. Er 4,1-16). Từ đó hai dòng giống Do thái và Sa-ma-ri tuy cùng một tổ tiên, sống sát bên nhau, nhưng lại có ác cảm và không giao tiếp với nhau. Ở đây, người phụ nữ này nhận ra Đức Giê-su là người Do thái qua giọng nói và cách ăn mặc nên đã tỏ ra ngạc nhiên và từ chối như vậy.
- C 10-15:
+ “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”…: Nhân dịp này, Đức Giê-su cho người phụ nữ kia biết Người là Đấng ban Nước Hằng Sống.
+ “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống ?...: Người phụ nữ này chỉ hiểu lời nói của Đức Giê-su theo nghĩa thông thường là nước giếng tự nhiên, đang khi Đức Giê-su lại có ý nói đến Nước Hằng Sống là Ơn Cứu Độ.
+ Đấng ấy chính là tôi: Bình thường, Đức Giê-su không muốn tỏ ra là Đấng Thiên Sai vì sợ dân Do thái hiểu vai trò Thiên Sai theo nghĩa chính trị. Còn ở đây nói với người phụ nữ Sa-ma-ri, Người không sợ bị hiểu lầm nên đã tỏ mình chính là Đấng Thiên Sai.
+ Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ: Phong tục Do thái không cho phép đàn ông nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Làm như vậy, Đức Giê-su đã bãi bỏ tục lệ này vì sứ mệnh rao giảng Tin Mừng quan trọng hơn thói tục của người đời. Người đến với tha nhân, bất kể họ là ai hay thuộc phái tính, dân tộc nào, để đem Tin Mừng cứu rỗi cho họ.
+ Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm: Thực ra Đức Giê-su mới chỉ nói về những người chồng của người phụ nữ này chứ chưa nói về tất cả những gì chị đã làm. Nhưng khi nói với dân chúng, chị ta đã phóng đại lên để cho người ta dễ tin theo mà thôi.
- C 30-38:
+ “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”: Đức Giê-su muốn dựa vào của ăn phần xác mà các môn đệ mời Người để nói về của ăn thiêng liêng mà các ông chưa biết.
+ Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy: Đức Giê-su coi việc làm theo thánh ý Chúa Cha chính là lương thực của Người.
+ Đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !: Đức Giê-su dựa vào câu tục ngữ người nông dân hay nói: “Bốn tháng có qua, mùa gặt có tới”. Qua đó Người nói đến mùa gặt thiêng thiêng là cánh đồng truyền giáo đã chín vàng, vì dân Sa-ma-ri sắp kéo tới để gặp Người. Đây là hoa trái đầu mùa của mùa gặt Thiên Sai.
+ Đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!: Trong Cựu Ước, mùa gặt tượng trưng sự phán xét của Thiên Chúa, hoặc niềm vui ơn cứu độ (x. Is 9,2; Am 9,13, Tv 126,5). Trong Tân Ước, mùa gặt tượng trưng cho hoa quả của việc truyền giáo (x. Mt 9,37). Đức Giê-su gợi lên niềm vui và phần thưởng của thợ gặt là các tông đồ, khi các ông giúp nhiều người tin để được hưởng hạnh phúc Nước Trời.
+ Câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng !: Câu tục ngữ này được hiểu như sau: Người gieo chính là Đức Giê-su và hạt giống là Tin Mừng (x. Lc 8,11); Thợ gặt là các môn đệ. Mặc dù các ông chưa được sai đi, nhưng Đức Giê-su đã thấy trước viễn ảnh tốt đẹp là hoa quả do việc truyền giáo mang lại. Việc Người sắp chịu chết trên thập giá giống như hạt giống, phải chết đi mới sinh ra nhiều hoa trái (x. Ga 12,24). Công việc truyền giáo là một việc tập thể mỗi người một nhiệm vụ: “Người gieo kẻ gặt”. Do đó khi việc tông đồ mang lại nhiều kết quả thì đừng nghĩ rằng đó là thành quả do công sức của riêng mình.
- C 39-42:
+ Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm: Lời chứng của người phụ nữ được coi là dấu chỉ, là giai đoạn đầu dẫn dân thành đến niềm tin vào Đức Giê-su.
+ Dân Sa-ma-ri xin người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa: Đức tin sẽ được tiếp tục triển nở nhờ lời giảng dạy của Đức Giê-su.
+ “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”: Qua lời của dân thành Sa-ma-ri, chúng ta thấy đức tin trưởng thành không những dựa vào người khác như cha mẹ, vợ chồng, người thân hay theo số đông, mà do sự lắng nghe và thực hành lời Chúa.
3. CÂU HỎI:
1) Cách tính giờ của người Do thái thế nào ? 2) Đức Giê-su chủ động xin nước uống với người phụ nữ Sa-ma-ri nhằm mục đích gì ? 3) Nước Hằng Sống mà Đức Giê-su hứa ban là thứ nước gì ? 4) Lời Đức Giê-su dạy thờ Thiên Chúa vô hình trong Thần Khí và Sự Thật phải chăng là Người bãi bỏ tất cả các lễ nghi thờ phương bề ngoài ? 5) Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay dạy ta bài học gì về sứ mệnh loan báo Tin Mừng ? 6) Câu nói của dân làng cho thấy hiệu quả của Lời Chúa tác động thế nào nơi những người tin? II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,13-14a).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC GIÊ-SU - “NƯỚC HẰNG SỐNG” MANG LẠI HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI:
Cách đây ít lâu, một số chị em người Bỉ khi suy niệm đoạn Tin mừng này, đã cùng nhau lập một tu hội tên là “Ô Vi” (Eau Vive) dịch là “Nước Hằng Sống”. Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa Thánh Thần mỗi ngày, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm ngôn của tu hội là “Phục vụ Chúa trong các thực khách”. Mỗi buổi tối vào giờ đóng cửa, chị em biến quán ăn trở thành nhà nguyện. Các thực khách được mời ở lại tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người sẽ được nghe Lời Mặc Khải là Nước Hằng Sống như Đức Giê-su đã ban cho người phụ nữ Sa-ma-ri xưa.
2) SỨC MẠNH LÔI CUỐN CỦA LÒNG BÁC ÁI ĐÍCH THỰC:
Có một người đàn ông nọ mới xin theo đạo. Một hôm có người muốn thử đức tin của ông ta liền lên tiếng hỏi: “Ông theo đạo Công giáo, nhưng ông có biết Đức Giê-su là ai không?” Người tân tòng trả lời: “Dĩ nhiên là tôi biết chứ”. Người kia hỏi tiếp: “Thế Đức Giê-su sinh ra tại đâu ?” Người tân tòng im lặng không trả lời được. Người kia hỏi tiếp: “Đức Giê-su chết năm bao nhiêu tuổi ?” Một lần nữa, người tân tòng lại không thể trả lời. Người kia liền kết luận: “Ông chẳng hiểu biết gì về đạo. Vậy tại sao ông lại theo đạo ?” Bấy giờ người tân tòng mới nói: “Thú thật với ông: tôi biết rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi biết rất rõ là: Cách đây hai năm, do nợ ngân hàng không thanh toán được đúng hạn, nên gia đình tôi bị đuổi ra khỏi nhà phải lang thang nay đây mai đó. Trong thời gian ấy, tôi trở nên nghiện rượu và hay la mắng vợ con. Vợ tôi lúc nào cũng buồn sầu khóc lóc. Các con tôi thì luôn sợ phải gặp thấy bộ mặt ba của chúng. Nhưng sau đó một năm, tôi may mắn đã gặp được một linh mục tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ gia đình tôi vượt qua khó khăn: Ông giúp tôi có được việc làm ổn định, và giúp gia đình tôi trở nên con cái Chúa, còn giúp tôi sống tiết độ hơn. Hiện nay tôi đã lấy lại được căn nhà cũ. Vợ chồng tôi sống rất hòa hợp hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học hành tiến bộ và ngoan ngoãn hiếu thảo. Tôi xác tín rằng: Chính Đức Giê-su đã biến đổi gia đình tôi từ khi tôi gặp được Người qua con người của một vị linh mục !”
Quả thật, đúng như lời Đức Giê-su đã phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).
3) LÒNG MẾN CHÚA PHẢI THỂ HIỆN QUA SỰ YÊU NGƯỜI:
Vào một đêm trăng sáng, khi nhìn qua cửa sổ, vị tu sĩ già nhìn thấy một thiên thần đang ngồi trên một tảng đá trong khu vườn phía sau tu viện. Thiên thần cầm bút viết vào quyển sổ vàng để trước mặt. Lòng tràn ngập niềm vui, vị tu sĩ tiến lại gần thiên thần và lên tiếng hỏi: “Ngài đang viết gì vào sổ vàng thế ?” Thiên thần trả lời: “Ta đang ghi tên những tín hữu đủ điều kiện để được lên thiên đàng”. Vừa hồi hộp và lo lắng, vị tu sĩ liền hỏi thiên thần xem trong sổ vàng có ghi tên của mình chưa? Thiên thần liền lần giở từng trang sách ra dò, nhưng tìm mãi mà vẫn không thấy tên của vị tu sĩ. Thiên thần cho biết sở dĩ ông chưa được ghi tên vào sổ vàng, vì ông còn thiếu lòng mến Chúa. Bấy giờ vị tu sĩ lên tiếng hỏi thiên thần: “Tuy tôi chưa mến Chúa đủ, nhưng nếu tôi có tình thương tha nhân thì tôi có được ghi tên trong sổ vàng không?”. Nghe vậy, thiên thần đã đồng ý. Thế là từ hôm đó, vị tu sĩ đã nhiệt tình thực hành bác ái bằng việc hăng say phục vụ những người bệnh tật, đui mù và nghèo khổ bất hạnh.
Sau khi vị tu sĩ qua đời, anh em trong dòng đã tìm thấy cuốn nhật ký của vị tu sĩ. Tronh đó, ông đã viết ở trang đầu tiên như sau: ”Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy” (1 Ga 4,20). Tiếp theo là lời tâm tình của vị tu sĩ: ”Lúc đầu tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng tôi chẳng thể gặp được vì Ngài là Đấng thiêng liêng; tiếp đến, tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm được, vì linh hồn có đặc tính vô hình; Rồi sau cùng, khi tôi quyết tâm tìm kiếm tha nhân và yêu thương họ, bằng việc chia sẻ và âm thầm phục vụ họ như phục vụ Chúa, thì tôi đã gặp cả Thiên Chúa và linh hồn mình” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
4) LÒNG THAM SẼ DẪN NGƯỜI TA LẠC XA CHÚA LÀ HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC:
Có một anh thợ đào vàng mới chết và đến cổng Thiên Đàng xin thánh Phê-rô mở cửa cho vào. Thánh nhân hỏi: “Ở trần gian anh làm nghề gì?” Anh thưa: “Con làm thợ đào vàng”.
Thánh Phê-rô liền nói: “Trên thiên đàng hiện đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi”. Nhưng anh ta vẫn nài nỉ: “Xin ngài cứ cho con vô, để con sẽ cầm đầu bọn nó, không để chúng do lòng tham mà tranh giành nhau làm mất an toàn trật tự trên thiên đàng”.
Sau đó anh chàng đã được thánh Phê-rô cho vào thiên đàng. Trước tiên anh ta đi tham quan một vòng quanh thiên đàng và đã gặp nhiều bạn bè đào vàng trước kia. Bấy giờ anh liền rỉ tai một người bạn và nói như sau: “Tớ nghe đồn là dưới hoả ngục có một mỏ vàng cực lớn. Chú mày hãy mau đi rủ bạn bè xuống dưới đó mà đào”. Thế là chỉ sau một thời gian ngắn, các tay thợ đào vàng liền bỏ thiên đàng, mang theo cuốc xẻng nhảy xuống hoả ngục đi tìm vàng.
Còn lại một mình, anh thợ đào vàng đứng ngồi không yên. Anh liền xin thánh Phêrô cho xuống hoả ngục để xem tình hình ra sao. Biết đâu ở đó đã thực sự có mỏ vàng thì sao? Vì anh thấy bọn bạn cũ của anh đã đi lâu rồi mà vẫn không thấy quay lại” Thánh Phê-rô liền khuyên anh: “Con đừng ảo tưởng! Dưới hỏa ngục làm sao có mỏ vàng được, trái lại, chỉ có đau khổ nước mắt và thói ganh ghét xấu xa mà thôi. Nhưng anh chàng kia không nghe lời khuyên, cứ quyết định leo rào ra ngoài để tìm đường đi xuống hỏa ngục.
Than ôi! Thế là chính vì lòng tham không đáy mà cả bọn thợ đào vàng đều bị mất hạnh phúc thiên đàng. Ngày nay trên trần gian, do lòng tham không đáy, mà nhiều người cũng hứa sẽ sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng mình để chạy theo lòng tham vàng bạc vật chất, nhắm mắt phạm các tội ác nghiêm trọng như: cướp của, giết người… để rồi phải vào tù chịu hình phạt đau khổ ở đời này và còn chịu bất hạnh trong hỏa ngục đời sau.
3. SUY NIỆM:
1) NHU CẦU NƯỚC SẠCH CỦA NHÂN LOẠI:
Ngày 22 tháng 3 hàng năm đã được Liên Hiệp Quốc chọn làm Ngày Nước Thế Giới – ngày để con người nhìn lại tầm quan trọng của tài nguyên quý giá bậc nhất trên Trái đất. Nước là tài nguyên chiếm 3/4 diện tích Địa cầu nhưng chỉ có khoảng 2,5% trong tổng số đó là nước có thể sử dụng được. Tổ chức Y tế Thế giới luôn cảnh báo về tình trạng thiếu nước sạch trên toàn thế giới. Hiện nay mỗi năm có khoảng 1,2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì thiếu nước sạch.
Riêng tại Việt Nam, nhiều người vẫn chưa được sử dụng nước sạch, kể cả tại những thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu nước là do việc khai thác bừa bãi sông ngòi, sử dụng nước sạch cách phí phạm. Nguyên nhân trầm trọng hơn, đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây ra. Các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất và các gia đình đã xả thẳng ra môi trường chất thải, hóa chất chưa được xử lý, khiến cho nguồn nước ngầm bị nhiễm độc do hóa chất và các kim loại nguy hiểm. Theo Bộ Y tế, tại Việt Nam, hàng năm có tới 10 ngàn người chết vì các chứng bệnh liên quan đến sử dụng nước ô nhiễm. Một trong các bệnh dễ thấy đó là ung thư và các bệnh liên quan đến hệ tiêu hóa như đường ruột.
Ngoài cơn khát về nguồn nước cho thân xác, con người còn có sự khao khát về tâm linh cần được thỏa mãn. Đó là khát vọng hướng tới vô biên, mong tìm hạnh phúc… như lời Sách Thánh: “Như nai rừng mong mỏi, tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong, tìm đến Ngài, lạy Chúa” (Tv 42). Thánh Au-gút-ti-nô cũng mang tâm trạng khát mong đi tìm thỏa mãn các đam mê lạc thú nơi loài thụ tạo nhưng đã không được như ý. Cuối cùng Au-gút-ti-nô đã tìm thấy hạnh phúc nơi một mình Thiên Chúa như ngài đã cầu nguyện: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, linh hồn con vẫn còn khắc khỏai mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”. Và tác giả Sách Thánh Vịnh cũng đống quan điểm khi viết: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).
2) ĐỨC GIÊ-SU LÀ “NƯỚC HẰNG SỐNG” THỎA MÃN CƠN KHÁT CỦA NHÂN LOẠI:
Tin Mừng CN hôm nay tường thuật cuộc đối thoại tại bờ giếng Gia-cóp, giữa Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri tượng trưng cho dân ngoại. Qua đó, Người đã từng bước mặc khải cho chị ta về ơn cứu độ. Đức Giê-su đã chủ động xin chị ta nước uống vật chất, để sau đó hứa ban cho chị “Nước Hằng Sống”. Tiến trình đức tin nơi chị phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng như sau:
- Đầu tiên Đức Giê-su đi bước trước mở lời: “Cho tôi chút nước uống” (c. 7). Xin nước không phải thực sự cần nước uống, nhưng nhằm bắc một nhịp cầu vượt qua hố ngăn cách giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri. Tuy cùng là con cháu của tổ phụ Gia-cóp, nhưng do hoàn cảnh lịch sử đã phân thành hai dân tộc nghi kỵ nhau và không giao tiếp với nhau, như lời chị phụ nữ Sa-ma-ri nói với Đức Giê-su: “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri cho ông nước uống hay sao ?” (c. 9). Sau đó, từ nước giếng vật chất, Đức Giê-su đã từng bước mặc khải cho chị ta về “Nước Hằng Sống” (c. 10).
- Chính do hiểu lầm hiềm khích mà hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri đã chia rẽ nhau về đức tin: Người Do thái chỉ thờ Đức Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, đang khi người Sa-ma-ri lại muốn phải thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim! Còn theo Đức Giê-su: Người ta không được giới hạn Thiên Chúa tại đền thờ vật chất tại Giê-ru-sa-lem hay trên núi Ga-ri-dim. Thiên Chúa là Đấng vô hình như “Gió” và “Thần Khí”, sự thờ phượng đúng đắn nhất là phải thờ Thiên Chúa trong “Thần Khí” và “Sự Thật” (c. 20-24).
3) PHẢI THỜ CHÚA TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT:
Đức Giê-su nói về sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa: “Nhưng giờ đã đến, và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).
- Phải thờ Thiên Chúa trong Thần Khí:
Ðức Giê-su nói: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”. Ngày nay nhiều người cũng đồng quan điểm khi chủ trương: “Đạo tại tâm”. Thánh Phao-lô cũng nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1 Cr 3,17). Mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay cũng cần xin ơn Chúa Thánh Thần giúp ta thực thi đức tin bằng đức cậy tức là cầu nguyện dâng lễ; và bằng đức mến là phục vụ tha nhân.
- Phải thờ Thiên Chúa trong Sự Thật:
Sự thật là chính Đức Giê-su như Người đã tuyên bố: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ma quỷ là cha của sự dối trá và các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh dối trá như các đầu mục dân Do thái đã bị Đức Giê-su quở trách: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Còn Thiên Chúa của chúng ta thờ là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, những kẻ gian dối, sẽ không thể gặp được Ngài là Sự Thật. Do đó mỗi người chúng ta cần có một lương tâm ngay thẳng: “có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,36), không quanh co, lươn lẹo, gian dối, nói một đàng làm một nẻo… thì mới có thể gặp gỡ Ngài.
4) TRỞ THÀNH MẠCH “NƯỚC HẰNG SỐNG” VỌT ĐẾN HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI:
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su nói về sứ vụ của người tín hữu như sau: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”? (Ga 4,13-14).
Thực vậy, tông đồ Phi-lip-phê sau khi đã gặp và tin Đức Giê-su, liền đi tìm bạn mình là Na-tha-na-en để chia sẻ niềm tin (x. Ga 1,45); Ma-ri-a Mađalêna sau khi gặp Chúa Phục Sinh cũng vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo Tin vui đã gặp Chúa Phục Sinh (x. Ga 20,18); Người phụ nữ Samaria trong Tin Mừng hôm nay sau khi gặp gỡ và tin Đức Giê-su, cũng chạy vội về làng loan báo cho mọi người: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Mọi người nghe lời chị kéo nhau đến gặp Đức Giê-su và mời Người vào ở trọ trong làng của họ. Sau khi nghe Người giảng và đã tin Người là Đấng Thiên Sai, họ đã khẳng định niềm tin trưởng thành với chị phụ nữ như sau: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42).
Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta đã gặp gỡ Đức Giê-su bằng việc nghe lời Chúa trong thánh lễ và các buổi tĩnh tâm… Chúng ta một khi gặp được Đức Giê-su là nguồn suối Nước Hằng Sống,và được thỏa mãn cơn khát của tâm hồn, chúng ta cần làm gì để giúp bạn bè và người thân gặp gỡ tin yêu Chúa để cùng chia sẻ niềm vui cứu độ?
4. THẢO LUẬN:
1) Chúng ta thường mong ước những điều gì và cảm thấy thế nào khi chiếm hữu được chúng ?
2) Bạn có cảm nghĩ gì về Lời Chúa hứa sẽ ban Nước Hằng Sống cho những ai tin và uống nước ân sủng của Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy biến đổi chúng con trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con được gặp Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm, qua những người nghèo khó cần được sự chăm sóc giúp đỡ… Nhờ đó, chúng con biết rõ con người thật của mình hơn. Xin cho chúng con được uống Nước Hằng Sống là những Lời Chúa phán. Nhờ đó, cuộc đời của chúng con sẽ nên vui tươi hạnh phúc hơn. Xin cho chúng con sẵn sàng bỏ đi cái nhìn hẹp hòi thành kiến về tha nhân, để nên giống Chúa: Quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã mở lời nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng hôm nay.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: chúng con được Thiên Chúa tạo dựng để qui hướng về Người, nên chúng con vẫn còn khắc khoải mãi, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa. Xin Chúa giúp chúng con năng chạy đến với Chúa và vâng nghe Lời Chúa dạy như Mẹ Ma-ri-a đã nói với các người giúp việc tại tiệc cưới Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5b). Nhờ đó chúng con sẽ trở thành mạch nước đem Chúa đến với mọi người.
Trong gần một tháng nay, bà con trong xóm của tôi rất đỗi vui mừng vì dòng chảy đời sống nội tâm cũng như môi trường đời sống xã hội của họ trở nên thanh khiết và trong sáng hơn.
Số là trước đây, trong gia đình vừa mới bán nhà để di chuyển đi nơi khác, có một phụ nữ sống rất buông thả. Chị đã sống với 4 người đàn ông khác nhau theo từng giai đoạn. Hai người đàn ông đã đến với chị trước tiên đều để lại cho chị mỗi người một đứa con trai. Rồi sau đó họ chia tay trong hậm hực với nhiều những lần cãi vả kịch liệt và căng thẳng giằng co. Và rồi, 2 người con đành phải để lại cho chị nuôi nấng. Thế nhưng chị nào có thiết tha gì đến việc nuôi dưỡng con cái khi chị lại tiếp tục bước đi như hai lần trước để tìm thỏa mãn cơn khát dục vọng.
Người đàn ông thứ ba từ miền quê lên thành phố làm nghề xây dựng đã gặp chị trong một quán bia ôm và đã trở thành người chồng hờ thứ ba của chị. Người này được chị dẫn về sống dưới mái nhà của người mẹ đẻ ra mình. Cứ thế, cho đến khi sanh đứa con gái lần thứ ba này, cuộc sống của 2 người lại cứ thế đổ vỡ vì rất nhiều mâu thuẫn nảy sinh do tiền bạc vừa thiếu, vừa thốn lại vừa phải đùm bọc 2 đứa con riêng của chị. Anh chồng hờ không còn cách nào khác, khi đã tận mắt chứng kiến cảnh thê thảm của 2 người con trước đều thất học, đều sống vất vưởng và nương tựa nơi bà ngoại, cùng những thói hư tật xấu khác, nên anh đã quyết định tìm cách bắt cô con gái 3 tuổi của mình về quê chăm bẵm để thoát ra khỏi lối sống tha hóa và vô trách nhiệm nơi mẹ của cháu. Sau khi bất đắc dĩ phải chia tay người chồng thứ ba và đứa con gái bé bỏng, chị lại vẫn chắp nối với người thứ 4 chỉ sau đó vài tháng.
Với lối sống đầy khát vọng được buông thả của người phụ nữ trên, không mấy khi bà con trong xóm không phải chứng kiến những đụng độ bằng tay chân mà cả bằng lời nói tinh ranh cùng những lời nói tục tĩu. Hơn nữa, đứa con trai đầu của chị thì, ôi thôi, đã dính đến những tệ nạn xã hội như ăn cắp vặt, như kết băng kết đảng để gây rối trật tự trong khu phố. Chính vì thoát được những cảnh hỗn độn, những gương mù gương xấu như trên mà toàn thể bà con trong xóm đã tỏ ra vui mừng khi dòng chảy cuộc sống nhiều mặt của họ nay được im ắng, được thanh khiết và trong lành trở lại là thế!
Nhìn vào hình ảnh của người phụ nữ đã sống buông thả theo khát vọng trần tục như trên, mà tôi dễ dàng cảm nghiệm được ý nghĩa lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari một mình lặng lẽ đi kín nước vào giữa trưa nóng bức:
“Ai uống nước này, sẽ lại khát.
Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.
Và nước tôi cho, sẽ trở thành nơi người ấy
một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14)
Quả thật, trong thực tại trần gian này, con người vẫn luôn khao khát thứ nước không thể thỏa mãn cơn khát của mình, mà càng uống càng khát, vì dục vọng của con người thì không bao giờ cạn kiệt. Và một khi dấn sâu vào cơn khát trần gian đó, con người tạo ra cho mình một sự thỏa mãn giả tạo về tinh thần, những tưởng hạnh phúc và bình an sẽ có được thông qua vật chất, đam mê, danh vọng. Nhưng quả thực, tận sâu trong sâu thẳm của tâm hồn, con người vẫn cảm thấy một sự trống rỗng không thể lấp đầy, bởi khát vọng này sẽ còn nảy sinh ra biết bao những hậu quả từ khát vọng ấy.
Từ đây, khi nhìn vào cuộc sống hiện thực, tôi mới cảm nếm những gì mà thánh Augustinô đã suy tư, chiêm niệm sau khi đã trải qua một đời sống phóng túng lăn lội, bám đuổi theo những danh và dục vọng. Chính kinh nghiệm sống với “nước này sẽ khát” mà ngài đã thốt vang lên:
“ Thiên Chúa đã tạo dựng nên các cái đẹp của trần gian. Thế mà con đã say mê chạy theo các vẻ đẹp của thọ tạo mà quên bỏ Đấng đã tạo dựng nên chúng”.
Và rồi, Ngài để lại một câu vô cùng sâu sắc đã thành châm ngôn sống động cho ngàn đời sau. Ngài đã thấu hiểu tận sâu lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari về “nước đem lại sự sống đời đời” là:
“Thiên Chúa đã tạo dựng chúng con cho Người, cho nên lòng chúng con không thể tìm được an nghỉ nơi nào, cho đến khi được an nghỉ nơi Chúa”.
Chiêm ngắm đời sống chiêm niệm cũng như đới sống chứng tá của thánh Augustinô, sau khi Ngài đã gặp gỡ Thiên Chúa qua Đức Giêsu, tôi càng tin rằng, từ nơi mỗi Kitô hữu đích thực, những người khác sẽ thấy được niềm an ủi, niềm tin cậy và bình an trong tâm hồn. Thánh nhân đã hăng say phục vụ Tin Mừng Cứu Độ, một khi đã đón nhận nguồn nước trường sinh là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, bằng chính đời sống hiến thân của mình. Nhờ đó, Ngài đã làm vọt lên biết bao hoa quả, qua đời sống tận hiến của mình.
Thánh Phaolô đã để lại cho tôi một niềm khích lệ ủi an, khi tôi đang ra sức biến đổi lời khuyên dậy của Ngài thành hiện thực. Lời giáo huấn đó rất thâm sâu mà tôi cố kiên trì sống trong Mùa Chay Thánh này là:
“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hòan hảo.” (Rm 12, 1-2)
Trong Thông Điệp Mùa Chay 2008, ĐTC Bênêđictô XVI đã đưa ra chủ đề suy niệm và sống “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” là:
“Đức Kitô làm cho Mình trở nên nghèo khó vì anh em.” (2Cr 8, 9)
Lời nguyện cầu chân thành đơn sơ của chúng con là xin được thấm nhuần lới Thánh Vịnh 94:
“Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” Amen.
“Ai uống nước này sẽ còn khát. Nhưng ai uống nước Ta ban cho sẽ không bao giờ bị khát nữa. Và nước Ta ban sẽ làm vọt lên mạch nước trong người ấy, dẫn đến sự sống đời đời”(Gioan 4:13-14).
Người thiếu phụ Samaritanô vừa nghe Chúa Giêsu nói về một thứ nước mà uống vào sẽ không khát nữa, nàng liền chớp lấy cơ hội xin với Ngài: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây kín nước nữa” (Gioan 4:15).
Một chi tiết rất nhỏ mọn, nhưng đã trở thành yếu tố hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh, có liên quan đến sự cứu độ của Kitô hữu chúng ta, đó là: Chúa Giêsu đề nghị, và người thiếu phụ đã chấp nhận lời đề nghị ấy ngay.
- Xin Ngài cho tôi thứ nước ấy:
Trong Thánh Kinh không ghi lại thái độ chần chừ, hoặc do dự, nghi ngờ của nàng. Thái độ mà chúng ta đã đọc thấy lúc hai người mới gặp nhau trên bờ giếng Giacóp. Lúc đó Chúa Giêsu là người xin nước uống, còn người thiếu phụ là kẻ cho: “Cho ta uống với” (Gioan 4:7), Chúa nói với chị. Và chị đã đỏng đảnh trả lời: “Ông là người Do Thái, còn tôi là người đàn bà Samaritanô, sao lại xin tôi nước uống” (Gioan 4:9).
Thế mới biết, khi Chúa xin ta thì ta do dự, so đo, tính toán, và tìm mọi cách để từ chối. Ngược lại, khi ta xin với Chúa thì Ngài cho ngay lập tức. Đặc biệt, khi ta xin những gì cho phần rỗi và hạnh phúc đời đời của mình. Trong trường hợp người thiếu phụ trên, nàng đã xin cho được nước hằng sống, thứ nước vọt lên trong lòng con người và dẫn con người đến sự sống đời đời.
Chi tiết trên đem lại cho chúng ta một ý nghĩa rất thực tế đi vào đời sống tâm linh của mỗi người, đó là nếu chúng ta thật sự muốn chiếm hữu được sự sống đời đời. Muốn có mạch nước ban sự sống tuôn chảy trong linh hồn mình, thì điều ắt có và đủ, là chúng ta phải lên tiếng xin với Chúa như thiếu phụ Samaritanô đã làm: “Lậy Ngài, xin cho tôi thứ nước đó”. Tức là chúng ta phải thường ngày xin với Chúa ban cho chúng ta sự sống đời đời, đặc biệt, khi chúng ta đến với Ngài qua Phép Thánh Thể.
Cũng như thiếu phụ Samaritanô, trong đời sống thường ngày, chúng ta cần phải biết nhận ra Chúa, biết khám phá ra Ngài nơi những anh chị em chung quanh chúng ta, kể cả những người thiếu thốn, những kẻ bần cùng, những kẻ bị xã hội duồng bỏ, coi là vô tích sự. Những kẻ mà thường ngày ngửa tay xin chúng ta một xu để sống, một ly nước để dãn khát, hay một lời an ủi, một nụ cười để can đảm vượt qua những nỗi khổ của kiếp người. Qua những người ấy, chúng ta phải khám phá ra khuôn mặt của Chúa, khuôn mặt của một lữ khách, ngồi xin một phụ nữ gáo nước trong một buổi trưa hè trên bờ giếng Giacóp.
- Hãy về gọi chồng chị ra đây:
Nhưng cũng lại một yếu tố rất nhỏ nữa, mà nếu không để ý, chúng ta sẽ lạc mất mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ ấy, và có lẽ, cũng là điều mà Ngài muốn thấy có nơi mỗi người chúng ta mỗi khi chúng ta đến với Ngài. Đó là Ngài đã bảo chị ta: “Hãy về gọi chồng chị ra đây” (Gioan 4:16).
Chúa Giêsu không biết chị không có chồng hay sao? Hoặc là Ngài muốn làm mất mặt chị khi bắt bí chị khai ra sự thật về đời của chị, đó là chị không có chồng mà chỉ dan díu với các đàn ông mà thôi. Thật vậy, chị đã không chối bỏ sự thật: “Tôi không có chồng” (Gioan 4:17).
Đọc kỹ trích đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh ký đã không ghi lại bằng cách nào hay lúc nào người thiếu phụ kia đã cho Chúa uống nước, nhưng có lẽ cái mà Chúa Giêsu muốn thấy nơi người ấy là việc chị đối diện với sự thật về đời mình. Cũng như việc Ngài xin chị gáo nước, việc Ngài đòi chị mang chồng ra gặp Ngài cũng chỉ là cái cớ, mà qua đó, Ngài muốn nhìn thấy phản ứng tích cực nơi chị. Ngài đã đòi hỏi chị phải ra khỏi con người cũ của mình, phải đối diện và phải thành thật với Ngài và với chính mình.
- Nước Hằng Sống:
Đối với người thiếu phụ Samaritanô để được nước hằng sống thì phải gọi chồng chị ra. Nhưng đối với chúng ta, có thể Chúa đòi phải đem người cha, người mẹ, người anh, người chị, người em, người con, người cháu của chúng ta ra gặp Ngài. Những người mà lúc này đây chúng ta đang giận hờn, đang thù oán, đang tìm cách tránh mặt.
Hoặc cũng có thể Chúa bảo chúng ta phải về nhà đem ra cho Ngài số tiền mà chúng ta gian lận, cướp giật, chiếm đọat của người khác một cách bất chính. Những đồng tiền mồ hôi, nước mắt của người khác mà chúng ta biển thủ, dành lấy làm của riêng mình.
Hay chính người bồ, người bạn trai, bạn gái mà chúng ta đang dan díu một cách bất chính như thiếu phụ Samaritanô.
Tóm lại, nếu chúng ta không can đảm nói được và làm được như thiếu phụ Samaritanô, thì dù chúng ta có xin Chúa nước hằng sống, và dù Ngài có sẵn lòng ban nước ấy cho chúng ta, thì chúng ta cũng không thể nào tiếp nhận và uống nước ấy được. Và nước ấy cũng không thể nào trở thành một suối nước trường sinh vọt lên trong tâm hồn mình, dẫn chúng ta đến sự sống đời đời được.
“Cho Ta uống với”, và “hãy về gọi chồng chị ra đây”. Chúa Giêsu không bảo thiếu phụ ấy phải từ bỏ chồng hay bạn trai của chị. Ngài cũng không đòi hỏi gì nhiều nơi chị. Điều mà Ngài muốn nơi chị là thái độ sống thật với lòng mình. Sống thật với lương tâm mình. Đây là điều kiện cần thiết để mạch nước hằng sống vọt lên trong linh hồn chị. Và từ đó dẫn chị đến sự sống đời đời. Thánh ký ghi nhận, chính chị đã nói với dân làng sau khi gặp Chúa: “Ra mà xem người đã nói cho tôi biết mọi việc tôi đã làm” (Gioan 4:29). Chị đã đón nhận sự thật, và sự thật đã giải thoát chị. Mạch nước hằng sống đã vọt lên trong tâm hồn chị.
Một khi tâm hồn và ý nghĩ còn phải lo lắng, bận rộn với trăm công ngàn thứ. Bị trói buộc bởi những đam mê vật chất. Và nhất là bị trói buộc bởi cơn khát trần gian thì không thể nào chúng ta có thể nhìn nhận và khám phá ra Chúa trong cuộc đời mình, qua anh chị em mình, và nơi những biến cố hằng ngày xẩy đến cho mình.
Chúa Giêsu tự hạ làm một kẻ xin nước uống. Nhưng việc Ngài tự hạ ấy chính là cái lý do để chúng ta có thể dễ dàng nhận ra Ngài, và đến được gần Ngài. Cũng như để chúng ta có thể tạo được một công phúc nhỏ để nhờ đó, mạch nước hằng sống được vọt lên trong linh hồn mình.
“Lậy Ngài, xin cho tôi nước ấy”. Chúng ta hãy cầu xin điều này với Ngài mọi ngày trong đời sống. Và nếu như Chúa có xin chúng ta qua những người anh chị em thiếu thốn, hoặc nghèo nàn, bệnh tật: “Hãy cho Ta uống với”, thì chúng ta phải mau mắn mở rộng bàn tay và trái tim mình. Hoặc như Ngài bảo chúng ta “Hãy về gọi chồng chị ra đây”, thì cũng như người thiếu phụ ấy, chúng ta phải nhanh nhẩu đáp lại: “Tôi không có chồng”. Tức là ta không bị lệ thuộc vào trần gian, vào những đam mê vật dục. Tức là tâm hồn ta luôn luôn sẵn sàng để cho Chúa làm vọt lên trong ta niềm khao khát sự sống đời đời.
Như chúng ta biết mục đích đầu tiên của 40 ngày chay thánh được đặt ra là vì lý do mục vụ. Đó là thời gian cần thiết để chuẩn bị tâm hồn cho những người sẽ lãnh bí tích rửa tội vào lễ Vọng Phục sinh. Điều này thể hiện rất rõ trong phụng vụ Lời Chúa các Chúa nhật cuối Mùa chay, cụ thể là các Chúa nhật III, IV và V. Trong các Chúa nhật này, Giáo hội chọn những bài Phúc Am rất tiêu biểu và phù hợp với đề tài bí tích rửa tội. Chúa nhật III được gọi là Chúa nhật Nước vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am kể lại sự kiện Chúa Giêsu gặp phụ nữ Samaria tại giếng Giacob. Chúa nhật IV được gọi là Chúa nhật Anh Sáng vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am kể lại sự kiện Chúa chữa người mù từ khi mới sinh. Chúa nhật V được gọi là Chúa nhật Sự Sống vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am ghi lại sự kiện Chúa cho ông Ladarô sống lại (các bài Phúc Am của Chúa nhật năm A luôn được ưu tiên và có thể sử dụng cho tất cả các năm khác).
Trong Chúa nhật III mùa chay này, Nước là chủ đề chính. Bởi thế ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện trong Phúc Am bên cạnh một giếng nước có tên là Giacob. Một nhân vật nữa cũng xuất hiện bên cạnh giếng, đó là một thiếu phụ. Nhưng dường như thiếu phụ bên cạnh giếng nước chỉ để chúng ta hiểu rằng: cuộc đời của thiếu phụ gắn liền với giếng nước này, chị kéo dài cuộc sống là nhờ ở giếng vì ngày nào chị cũng phải đến giếng này để lấy nước. Chị với giếng như trở thành một, lòng giếng và tâm hồn của chị giống nhau. Nước giếng xoa dịu cơn khát nhưng chỉ xoa dịu trong chốc lát. Chị vẫn phải ngày ngày đến với giếng để cơn khát được xoa dịu và cuộc sống được kéo dài dù biết rằng nó chỉ có thể kéo dài trong chốc lát. Con người đói khát những nhu cầu vật chất mà dường như chẳng bao giờ thấy đủ. Hơn thế nữa, con người còn cảm thấy trong chính mình một cái đói khát khác, đó là đói khát hạnh phúc tinh thần. Người thiếu phụ kia, dù đã năm sáu đời chồng mà vẫn chưa hiểu hạnh phúc gia đình, hạnh phúc của hôn nhân là gì. Đói khát những nhu cầu vật chất, đói khát hạnh phúc tinh thần dường như chỉ có thể xoa dịu trong chốc lát mà thôi, vì con người mang trong mình cái đói khát khác thẳm sâu hơn, đó là đói khát tâm linh. Bên cạnh giếng nước của đời mình, người có thời gian để tâm suy nghĩ nhận ra rằng: chẳng gì có thể lấp đầy giếng nước của lòng mình. Chính vì thế, khuôn mặt hiền từ của Chúa Giêsu xuất hiện ngay bên giếng nước như một lời giải đáp hết sức diệu kỳ. Chỉ có niềm tin vào Ngài và yêu mến Ngài mới có thể lấp đầy những khát vọng đang cháy bỏng tận đáy giếng của lòng người. Ngài mới là Nước thật, Nước Hằng Sống, Nước Vĩnh Cửu.
Chúa Giêsu ngồi bên cạnh giếng nước tức là bên cạnh tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta sẽ dễ nhận ra sự thật này: chúng ta sẽ chẳng bao giờ no thỏa nếu chỉ cậy vào nguồn tài nguyên có trong giếng nước của đời mình, trong thân phận kiếp người của mình. Nhưng chỉ bao giờ chúng ta đặt niềm tin vào Ngài, mến Yêu Ngài thì lúc ấy chúng ta sẽ thấy ngay tại lòng chúng ta, Nước Trường Sinh bỗng vọt lên và đem lại cho ta hạnh phúc muôn đời. Đó mới là hạnh phúc thật.
Cuộc đời luôn có những khao khát, ước mong. Khát khao điều công chính rất cần cho sự sống, giúp con người phát triển, vươn lên và sinh ích cho cuộc sống tâm linh. Bên cạnh đó có những khao khát bất chính không cần thiết, đã không sinh ích cho sự sống trái lại còn làm khổ tâm linh, hao mòn thân xác, gây đau khổ cho mình, người thân và làm hại xã hội.
KHAO KHÁT
Bản chất của khao khát là tốt lành, chính đáng. Cơ thể mạnh khỏe cần thực phẩm nuôi thân, phát triển lớn mạnh. Tâm hồn mạnh khỏe cần nuôi dưỡng bằng nguồn sinh lực Sách Thánh, thi hành đức ái, tăng ơn thánh, tiến vững trên đàng nhân đức hầu phát triển tài năng Chúa ban, sinh ích cho nhân loại. Một cơ thể khoẻ mạnh biết đòi hỏi thực phẩm khi đói, nước khi khát, nghỉ khi mệt, xả hơi khi lo lắng, thơ, phú, âm nhạc khi thanh thản.
Khi đau bệnh cơ thể không màng chi đến nhu cầu ăn uống. Tâm linh cũng thế, một tâm hồn bệnh hoạn từ chối điều công chính nhưng khao khát điều bất chính. Hậu quả của bất chính dày vò tâm hồn, mất bình an nội tâm, dẫn đến cuộc sống trụy lạc. Đánh mất ý nghĩa trong sáng, tốt đẹp cuộc đời Thiên Chúa ban và tạo nên đau khổ không cần thiết gây nên bởi khao khát bất chính.
MƯU SINH
Cần cố gắng lao nhọc kiếm cơm ăn, áo mặc. Mong có công ăn việc làm vững chắc là điều tốt. Tuy nhiên tình nguyện làm nô lệ cho vật chất là một khao khát bất chính vì của cải dùng để phục vụ con người, nâng cao phẩm giá. Cần tránh xa khi vật chất, nhục dục là nguyên cớ gây vấp phạm về công bình, lẽ phải, làm giảm giá trị nhân bản. Của cải kiếm được bằng cách bất chính. Gian tham của công, gian lận trốn thuế, lừa gạt người thân quen, dù với mục đích tốt, giúp kẻ đui mù, nghèo khó, bần cùng cũng đều là bất chính vì tự căn bản của sự việc đã là bất chính. Bản chất việc bất chính không mang lại kết quả công chính. Ý ngay lành bị hai điều xấu bẻ cong. Gian tham là thiếu ngay thẳng. Lắt léo tiền của người để bố thí.
LAO TÁC
Chức tước, địa vị dù lớn nhỏ đều có chung mục đích giúp tha nhân, phục vụ công ích xã hội, tạo công ăn việc làm mang cơm no áo ấm cho đại chúng, gầy dựng một xã hội bác ái, yêu thương, hạnh phúc, công bình, trật tự, tình người được đề cao, phẩm giá con người được tôn trọng và cổ võ một đời sống hướng về tâm linh hơn là thiên về vật chất.
Đạo cũng như đời lạm dụng quyền hành, làm điều sai trái từ thanh quan dẫn đến tham quan. Tham quan lúc đầu cắt chỗ này, xén chỗ kia, đút cấp trên lót cấp dưới. Khi chỗ đứng an toàn tham quan biến thành cẩu quan lừa trên, gạt dưới, hãnh diện làm điều bất chính. Cẩu quan một đời khao khát chức tước, bổng lộc. Sống đời tầm gửi, tin kẻ nịnh bợ. Gần người giảo hoạt đầu môi, chóp lưỡi.
Chủ thuyết giải thích khác nhau về tình người, sự sống, công bình và bác ái. Vì thế xảy ra tình trạng nhóm này nhân danh tự do, nhân quyền bôi lọ, bỏ tù nhóm kia. Vì có giải thích khác nhau về tự do, nhân quyền nên phải khôn ngoan chọn định nghĩa đúng nhất. Tự do của phe mạnh đúng; phe yếu sai. Phe khéo tuyên truyền nhiều ủng hộ. Dở tuyên truyền thất thế. Chủ thuyết nào cũng tự nhận tự cho phe mình đúng; nhân quyền phe mình hay. Tự do và nhân quyền là nguyên cớ đấu lí. Vững lí thắng, đuối lí thua.
Phe thắng tự kiêu, tự đắc nên lí của phe mạnh bao giờ cũng sai vì thiếu khiêm nhường. Dùng tự do để đánh mất tự do. Vin vào nhân quyền để chà đạp nhân quyền. Vì thế phe thắng thường áp đặt, đàn áp, chèn ép phe thua.
Linh hồn của tự do là tâm đạo. Thiếu tâm đạo tất cả là bánh vẽ.
TÂM ĐẠO
Đạo nào cũng là đạo. Có đúng chăng? Về tu đức các tôn giáo có điểm tương đồng như dậy tín hữu ăn ngay ở lành, làm lành, lánh dữ, cứu nhân độ thế. Tu đức là thế. Niềm tin khác biệt. Niềm tin hướng dẫn cuộc sống, đưa đến cách hành xử khác biệt trong việc sống đạo. Chọn tôn giáo để tin theo là chọn sống cho niềm tin, không chọn sống cho tu đức. Chính niềm tin dẫn đến khác biệt về tôn giáo. Hiểu lầm giữa tu đức và niềm tin đưa đến lập luận đạo nào cũng là đạo. Nhận xét như thế là nhận xét về vỏ mà bỏ lòng. Tương tự như câu nước nào cũng là nước. Nước sông nước suối cũng là nước nhưng phẩm chất của mỗi loại nước khác nhau. Tại bờ giếng Đức Kitô giúp người phụ nữ thành Samarita phân biệt sự khác biệt giữa nước giếng và nước hằng sống.
NƯỚC HẰNG SỐNG
Nước hằng sống không chảy ra từ lòng đất mà đến từ lòng người. Nước đó không phải lấy gầu để múc mà trở thành suối mát tắm gội lòng người. Lòng thanh thản đời vui tươi. Đời vui là đời hạnh phúc. Ai nhận nước đó sẽ không còn khát. Ai uống nước đó sẽ được sống trường sinh. Ai thành tâm van xin Đức Kitô sẽ ban cho. Nước Hằng Sống có thể hiểu là nước uống bổ sức tâm hồn, cũng có thể hiểu là nơi chốn, nơi đó có sự sống muôn đời. Tự do nhân quyền trong Nước Hằng Sống là tự do đích thực vì đặt căn bản trên tâm linh, đến từ lòng người, tình yêu và lòng nhân ái.
Đấng sáng tạo và làm chủ Nước Hằng Sống là Đấng ban con tim của Ngài cho những ai chấp nhận nước đó. Ai sống bằng tình yêu thì gia nhập nước này vì Đấng Sáng Lập đã hy sinh mạng sống Ngài cho đạo hữu. Ngài làm thế vì yêu. Không có tình yêu nào cao quí hơn là chết cho người mình yêu. Có đấng sáng lập tôn giáo nào làm được điều đó. Thưa chỉ có một. Đức Kitô Đấng muôn đời khát khao cứu vớt các linh hồn.
Trong những ngày đầu năm 2008, giá dầu thô tăng vọt xấp xỉ ở ngưỡng cao ngất 100 USD mỗi thùng, so với chỉ hơn 10 USD cách nay mấy năm. Người ta lo ngại giá dầu sẽ kéo theo sự tăng giá của mọi hoạt động sản xuất liên quan tới dầu hoả, như giao thông chuyên chở, nhiệt điện, sản xuất hàng hoá, vì thế mà có nguy cơ kinh tế toàn cầu bị suy thoái. Nhưng không ai chết khát vì dầu hoả, đó là điều có thể khẳng định, cho dù chiến tranh “nóng” lẫn “lạnh” đang diễn ra khắp nơi để tranh giành những giếng dầu và mỏ khí. Con người có thể thay thế dần dầu khí bằng các chế phẩm khác tương đương, để không chịu áp lực về chất đốt.
Thế nhưng con người ngày càng thiếu nước uống, nước sạch cho sinh hoạt. Thật khó tin khi bao quanh các châu lục là những đại dương bao la sâu thẳm, khi lũ lụt triền miên xảy đến với những dòng nước hung dữ cướp đi mạng sống của hàng bao con người, mà con người lại thiếu nước. Những con số về nước trên thế giới cho thấy: đại dương bao phủ 71% bề mặt trái đất và tích chứa 97,2% khối lượng nước (1,3 tỷ km3 ) của địa cầu. Song, ấy là nước…mặn ! Chỉ có 2,8% nước ngọt ( 4 triệu km3 ) và điều xảy ra là đã và đang có những căng thẳng liên quan đến nước và người ta cho rằng “các chiến tranh ở thế kỷ XXI sẽ là vì nước”. Thế giới khát ! Con người chết khát vì thiếu nước thì ít, mà vì s ự ích kỷ, dã tâm và độc quyền mới là chủ yếu. Từng đoàn người rồng rắn mất rất nhiều công sức thời giờ, để đi kiếm nước hoặc hứng nước. Thêm vào đó, việc chặt phá rừng bừa bãi để làm giàu cá nhân, mặc cho môi trường bị hủy hoại, đã khiến cho ngày càng khô hạn, sa mạc hoá.
Ơn Chúa vẫn tuôn chảy tràn lan, nhưng nhân loại số đông đang chết khát vì sự ươn ái, ỷ lại, ích kỷ và vô tâm của các Ki-tô hữu đối với sứ mệnh được Chúa Giê-su trao phó: đem Nước Hằng Sống đến cho mọi dân tộc ! Vì thế, Chúa Giê-su vẫn khát, không phải chỉ khát hôm nay, mà khát đến cháy cổ cả trong cơn hấp hối, khát các linh hồn mà Ơn Cứu Chuộc của Người sẽ ra hoài công vô ích, không chỉ do bản thân những người đó, mà còn vì các Ki-tô hữu chưa hành động đủ để đem Chúa đến cho họ. Trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, giữa đau đớn, ê chề, điều Người tha thiết nhất, vẫn muốn thực hiện nhất, Chúa Giê-su tóm lại trong hai chữ: “Ta khát” ( Ga 19, 28 b )
Tất nhiên có vô số lý do khách quan để Ki-tô hữu vin vào đó, mà biện minh cho cuộc sống tông đồ mờ nhạt của mình: nào là những tổ chức, phong trào, giáo phái, nhóm hội có tầm cỡ quốc gia và quốc tế đi ngược với giáo huấn của Giáo Hội về mọi vấn đề xã hội và đạo đức, như hợp pháp hoá nạo phá thai, an tử, hôn phối đồng tính...
Bên cạnh đó, nhiều con cái Giáo Hội cũng “té nước theo mưa” với những suy nghĩ lệch lạc, sai lầm về các Bí Tích, không vâng phục Hội Thánh và Vị Cha Chung và chung sức thi nhau xé nát Giáo Hội, với những nụ cười ngạo nghễ, ngốc nghếch vì thấy Mẹ Hội Thánh của mình oằn người vì những đòn roi vọt chí tử của những đứa con bất nhân bất nghĩa và vô đạo. Sự chia rẽ này càng làm cho những thế lực thù nghịch ngoi lên và công phá mạnh mẽ, gieo rắc biết bao sai lạc trong Đức Tin và đạo đức cho nhân loại và không ít những Ki-tô hữu đã tin theo chúng ( vì các lý lẽ tinh vi, hợp tình của những “bậc thầy” đã kích Giáo Hội ). Thế giới đang bị hoang hoá về mặt đạo đức. Cơn khát của nhân loại được giải bằng những thứ nước chứa đầy độc tố, nhưng là những độc tố hấp dẫn, khiến con người ngày càng mê muội.
Thi hào Nguyễn Du đã viết trong truyện Kiều: ”Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Phải biết khát, phải kinh nghiệm một lần thiếu nước, thì mới biết thương đến những người, những vùng sống trong cảnh thiếu nước. Trong số ra Chúa Nhật 17.2.2008, báo Tuổi Trẻ ghi lại lời ông Masakazu Ichimura, giám đốc Uỷ Ban Kinh Tế Xã Hội Châu Á – Thái Bình Dương của Liên Hiệp Quốc: “Đừng để vòi nước chảy lãng phí khi bạn đang đánh răng” !
Không có ý thức những chuyện nhỏ bé, thì mong gì vận động được những chuyện lớn lao ! Là Ki-tô hữu, những người mang trong mình “cơn khát” của Chúa Ki-tô, mang trong mình sứ mạng “giải khát” cho mọi người, chúng ta sẽ trả lời thế nào với Chúa Giê-su, khi mà mãi cho đến ngày tận thế, Chúa vẫn đeo bám chúng ta, vẫn gào lên thống thiết: “Ta khát” ? Bao giờ thì chúng ta mới cho Chúa một giọt nước để bớt cơn khát linh hồn, dù chỉ là chút mật đắng dấm chua thấm ở đầu cây sậy ? Bao giờ thì Ki-tô hữu cũng nóng lòng kêu lên: ”Ta khát” ?
Ki-tô hữu sẽ khát hoặc cảm nhận được cơn khát của Chúa Ki-tô và của cả chính mình, nếu biết dành thời giờ để nghe tiếng Chúa, đặc biệt trong mỗi Mùa Chay Thánh, thời gian để chúng ta nhìn lại mình sâu xa hơn, kỹ càng hơn, để cảm nhận va chia sẻ cơn khát của Chúa, với Chúa và cũng từ đó, bằng cách đó, làm hạ cơn khát của chúng ta.Sự xuất hiện của Chúa Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng hôm nay, tiếp theo đó là cuộc trao đổi khi gay gắt, lúc khoan hoà và cuối cùng là sự lắng nghe và bị thuyết phục của người phụ nữ, cho ta hình ảnh và nội dung một cuộc tĩnh tâm: cuộc linh thao mà chúng ta cũng cần đến, như chính người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay.
Chúa Giê-su là người gợi ý đề tài trao đổi và hướng dẫn suy tư, cầu nguyện, trong khi người phụ nữ lắng nghe, đưa ra những thắc mắc để xin được soi sáng. Khi cuộc tĩnh tâm kết thúc, Chị thực hiện sứ mạnh mà Chị cảm thấy bị thúc đẩy hành động: đó là chạy đi, thuật lại và rủ nhiều người đến với Chúa Giê-su. Một cuộc tĩnh tâm chỉ đựợc coi là hoàn tất và có kết quả, khi những vấn đề thiết thực trong đời sống – cả về tâm linh lẫn tinh thần và vật chất – đã được trình bày cặn kẽ và nhận được lời dạy dỗ hướng dẫn của Chúa. Và quan trọng hơn, ấy là hân hoan, nhiệt thành và mau mắn truyền ngọn lửa tin – cậy – mến vừa lãnh nhận ấy cho mọi người.
Sau mỗi Mùa Chay, mà tâm hồn con vẫn trơ như đá, vẫn không cảm nhận cơn khát “chí tử” của Chúa, vẫn không cảm nhận cơn khát của một Ki-tô thuộc: hoán cải đời mình và đem lời Chúa mời gọi yêu thương, nhân hậu cho mọi ngưới đến nhận Nước Hằng Sống nơi Người, thì không biết phải dùng phương pháp nào nữa để làm mềm lại những chỗ bị xơ hoá trong tâm hồn chúng con ?
Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên,
Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng.
Ca những điệu ngọc vàng cao sao sáng,
Lời văng xa truyền nhiễm đến vô song.
( dẫn nhập lời thơ Hàn Mặc Tử )
Tình thơm tho của nhà thơ, như đã ngấn lệ, khi giáp mặt Đấng Thiên Sai. Đấng Thiên Sai Đức Chúa, Ngài thấy rõ nguyên hình nguyên trạng, như trình thuật truyện kể hôm nay.
Trình thuật Lời Chúa hôm nay, gồm chuyện xoay quanh chủ đề, những nước và nước. Nước, là nguồn mạch của sự sống, nhưng cũng là sức mạnh chuyên tàn sát, phá hoại và bức bách. Nơi truyện Hồng Thuỷ, nước mang ơn cứu rỗi đến với gia đình ông No-ê và con cháu. Đồng thời, lại đem sự chết chóc đến với những người có lỗi. Cũng thế, ở truyện Biển Đỏ, nước đã chôn vùi đoàn quân tinh nhuệ của Pha-ra-ô, nhưng lại cứu sống toàn thể dân tộc Ít-ra-en khỏi chốn bụi đời, nơi sa mạc.
Trình thuật Phúc Âm hôm nay, nói đến Đức Giê-su đứng cạnh người đàn bà tội lỗi, bên giếng nước Gia-cóp. Người phụ nữ trong trình thuật, đại diện cho 3 nhóm người bị bức bách mà Đức Giê-su và Phúc Âm nhắm đến: đàn bà – gái làng chơi – những người bất trung, bất tinh tuyền, người ở ngoài.
Trình thuật bắt đầu bằng cảnh tình của Đức Chúa với thân phận người mệt mỏi, rất đói và rất khát. Ngài mon men đến với người đàn bà đầy lỗi phạm mà ai cũng né. Chính vì thế, chị lâu nay bị né tránh, mới tỏ bày sự ngạc nhiên khi Đức Giê-su đến gần mình. Càng ngạc nhiên hơn, khi Đức Giê-su đảo ngược lề luật, hứa đem cho chị “nước hằng sống”. Khiến chị càng ngạc nhiên, hơn bao giờ.
Nước hằng sống Đức Giê-su nói, là Thần Khí Chúa ta lĩnh nhận vào dịp thanh tẩy. Bởi, thanh tẩy không chỉ là nghi thức đơn thuần mang lại hiệu năng thần thánh cho muôn dân, nhưng là dấu hiệu bên ngoài của thực tại sâu sắc. Tức, Đức Chúa quang lâm bằng sức mạnh xuyên suốt mọi khía cạnh của cuộc đời con người. Và, việc này luôn xảy đến nếu ta đặt mình vào tình huống sẵn sàng đón tiếp Đức Giê-su. Đón tiếp thị kiến Tin Mừng về sự sống. Và, việc mở lòng đón tiếp sẽ giúp ta chuyển đổi toàn bộ cuộc sống.
Ở bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô đã quả quyết với giáo đoàn Rô-ma, khi thánh nhân nói: “Thiên Chúa đã đổ tràn tình yêu Người nơi chúng ta ngang qua Thần Khí của Người.” ( Rm 5: 5 ). Đổ như thế, không chỉ là nghi thức tắm gội kèm theo dăm ba câu thần chú, nhưng đích thực là uống “nước hằng sống” từ Chúa Thánh Thần. Vì, chính Thần Khí Chúa sẽ giúp ta tiếp tục ao ước được Chúa đến gần.
Khi bảo người phụ nữ hãy gọi chồng mình tới, Đức Giê-su hàm ngụ sứ vụ của con dân Đạo Chúa là ra đi đến với gia đình. Bởi, gia đình là mái ấm thu hút ơn lành của Đức Chúa. Gia đình, là chốn Chúa ban Nước Hằng Sống. Là, nơi khuyên dắt con cháu hồi hướng trở về. Về với đường ngay nẻo chính. Ở nơi đó, có thứ tha mọi sơ xuất, lỡ lầm mà người trong gia đình của Chúa, vẫn lỗi phạm.
Nhắc đến lỗi phạm, người phụ nữ bất chợt xử sự như nhiều người thời nay. Xử sự, theo cách thế chuyển đổi đề tài rất nhanh chóng. Chuyển đổi, khi Đức Chúa nhắc đến chồng của chị, điều mà chị lỗi phạm, như chúng ta thường làm khi bị nhắc nhở đến lỗi phạm của mình. Chị chẳng muốn nói đến sự an lành – đạo đức ngòai những nơi như đền thờ Giê-ru-sa-lem. Hay, như núi Gue-ri-dim mà người Sa-ma-ri luôn coi là chốn thánh. Chính nhờ tình huống này, người phụ nữ đã tạo cho Đức Chúa cơ hội thuận tiện để nhắc nhớ mọi người, rằng: “Nay là lúc, kẻ tôn thờ đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Chính đó là sự tôn thờ mà Chúa Cha muốn.” ( Ga 4: 23 ).
Trình thuật tiếp tục với đề tài về Đấng Thiên Sai. Đây là lúc Đức Giê-su mặc khải Thiên Tính của Ngài. Mặc khải rằng, chính Ngài là Đấng Thiên Sai, đang tiếp chuyện người phụ nữ lạ. Lạ lùng hơn, là chuyện người ngoài Đạo – một phụ nữ lầm lỡ – lại là người đầu tiên trong Tin Mừng được nghe biết về mặc khải. Mặc khải ân huệ Chúa ban cho dân ngoại. Những người đang biết và cần ơn cứu độ, hơn cả.
Chính lúc Ngài mặc khải về Thiên Tính Đấng Mê-si-a Thiên Sai với người phụ nữ xa lạ, thì các Tông Đồ kịp về tới. Họ cũng ngạc nhiên khi thấy Thầy Chí Thánh tiếp chuyện với đàn bà, lại là người ngoài Đạo. Ngạc nhiên, khi các ông chính tai nghe Thầy nói: “Thầy vốn có thức ăn mà các con không biết” ( Ga 4, 32 ). Và khi ấy, Đức Giê-su thêm một lần nữa lại bày tỏ: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” ( Ga 4, 34)
Cuối cùng, thì Đức Giê-su liên kết với ý tưởng về bánh và của ăn nuôi dưỡng mọi người. Ngài nói về “đồng lúa chín vàng, chờ gặt hái” ( Ga 4, 35 ). Lúa chín vàng hôm nay, bao gồm cả những người ngoài Đạo, như người Sa-ma-ri, những người đàn bà phạm lỗi, những người chưa tin hoặc không tin tưởng, tất cả những ai không cùng một ràn chiên Hội Thánh…
Mùa lúa chín vàng, nay chờ gặt hái. Hái và gặt, để thưởng công lao khó nhọc của mọi người. Mọi dân nước. Đó cũng là lúc số đông người Sa-ma-ri đã chứng kiến tình huống xảy ra. Và, họ đã tin.
Trình thuật thời xưa, người người thảy đều đã nghe: “Cũng chẳng phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian. ( Ga 4, 42 ) Ngày nay nghe lại truyện kể về người phụ nữ bên bờ giếng, hẳn là các kẻ tin vào Đức Chúa sẽ phải nói như Thánh Phao-lô khi trước: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa sống trong tôi.”
Điều đáng nhớ là mọi kẻ tin hôm ấy, đã ngỏ lời mời Ngài nán lại ở với họ. Nếu không, Ngài lại đã tiếp tục hành trình rong ruổi, chốn cao xa.
Đọc trình thuật người xưa, hẳn chúng ta, các kẻ tin thời nay, cũng nên mở lòng mời Đức Giê-su nán lại. Mời Ngài nán lại, để ở với con dân, cả trong lẫn ngoài. Nếu không mời, Ngài có lẽ sẽ cứ đứng ở bên ngoài, mà gõ cửa. Ngài vẫn đứng đó từ xưa, trừ phi người ở trong ra mở cửa mời mọc, rất trân quý.
Tham dự tiệc Lời Chúa hôm nay, ta cứ cầu mong sao người người sẽ ngỏ lời mời Ngài nán lại. Mời Ngài thực sự, chứ không phải bằng môi miếng. Bởi, có mời thực sự như hai đấng Thánh Tông Đồ trên đường Em-mau thuở trước, Ngài mới nán lại mà bảo ban.
Trong nghênh đón mời mọc Ngài bảo ban, ta hiên ngang mừng đón tình huống rất vui, mà hát:
Vì đường xa ướt mưa, đừng bắt anh đưa em về Anh xin em đừng về… đường quá xa xôi Xin mưa triền miên mãi không lắng đọng Cho đôi tình nhân đuối trong giấc mộng Trong cơn ngủ quên trốn câu giã từ, vì đường xa ướt mưa. ( Đức Huy – Đường xa ướt mưa )
Con đường tin – yêu hôm nay, đôi lúc cũng ướt mưa. Có ướt và có mưa, vẫn không làm anh và em, những người tin yêu Đức Chúa, chùn lòng. Không chùn lòng, để sẽ ở lại mãi mãi bên nhau, trong yêu thương. Yêu bằng tình yêu của người con, người em hằng tin Lời của Chúa. Tin vào “tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyên”.
Cũng vào một buổi trưa hè, trời đã đứng bóng, tôi đến thành Sa-ma-ri, nơi có địa danh là Sykhar, bên bờ giếng Giacóp, tôi cũng đang khát và tôi mong đợi một người đến kín nước. Hương lúa thơm từ cánh đồng toả lan trong không gian làm tôi thích thú, thi thoảng cũng có ngọn gió lướt qua, làm cho người bộ hành dễ chịu tí chút, tiếng sột soạt của những bông lúa va chạm nhau nghe vui tai và cũng rất gần gũi thân thương, như những cánh đồng lúa vàng Việt nam, quê hương tôi.
Tôi cũng đến ngồi nghỉ chân ở bờ giếng có tiếng là nước tốt, trong lành nầy và tâm trí nhớ lại câu chuyện đã xãy ra ở đây... Và cái duyên ấy đã ưu đãi tôi, tôi đang vui chờ bước chân của một thiếu phụ cũng vừa đến, trên vai đang đội cái vò nhẹ vì chưa có nước.
Tôi lên tiếng trước:
-Ồ người chị em Sa-ma-ri. xin chào chị, chị có phải là người đã gặp Giêsu khi Ngài đi ngang qua quê hương của chị ? À, xin lỗi quí danh chị là gì?
- Tên tôi là Thamar
- Hân hạnh được gặp chị! Chị có thể vui lòng kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và chị cho em nghe với không? Kể tóm tắt cũng được! Cuộc gặp gỡ ấy chắc là một kỷ niệm tuyệt vời đối với chị ? và không thể nào phai mờ trong tâm trí chị ?
- Vâng, em rất hân hạnh để kể lại (nhìn xa xôi). Trưa hôm ấy, một trưa hè nóng bức, trong lòng em như có một sự thôi thúc đi kín nước ở giếng Giacóp, Nhà em cách đây chừng 15 phút đi bộ.
-Và chị cùng thường ra đây vào ban trưa để kín nước phải không ? -Vâng - Tại sao vậy? Người thiếu phụ nhìn xuống một chút khuôn mặt ửng hồng do trời nóng và với vẻ e thẹn.
-Vì em đi ra giữa đám đông người ta hay xầm xì, lời ra tiếng vào... người ta nhìn em bằng nửa con mắt, cho em là người đàn bà cướp chồng kẻ khác...
- Chị thật là cởi mở và chân thành, vâng xin chị kể tiếp
- Khi em ra đó, em đã thấy ngồi nơi bờ giếng một anh chàng đẹp trai, tuổi trạc độ 30-35, chiếc áo khoác ngoài thấm mồ hôi, đôi dép dính đầy bụi đường... nhìn ông ta có vẻ đã thấm mệt, có lẽ là đã đi rất nhiều dưới trời nắng chang chang nầy, nhưng nơi ông âý toát lên nét nhân hậu và cũng có vẻ lãng tử lắm!
- Rồi chị có định chinh phục ông ta không? chị vẫn còn đẹp mà!
- Ông ta chào em trước và nói với em: " Chị làm ơn cho tôi uống nước với ".
Mặc dầu lời xin ông ta rất lịch sự, nhưng em đã cự nự, chanh chua, khó chịu nữa là khác ! Em trả lời cứng cỏi:
- Ông mà xin tôi nước à. Ông là người Do Thái, tôi là đàn bà Sa-ma-ri hai quốc gia thù địch... Làm sao lại có thể xảy ra chuyện động trời, chuyện "không có thể" này được chứ !
Ông ấy nói: - Nếu chị biết ơn Thiên Chúa, và biết người đang nói với chị là ai... thì chắc chị sẽ không giận dỗi như thế! Và trái lại, chị sẽ xin người ấy Nước Hằng sống. Thứ Nước uống vào sẽ không bao giờ khát nữa !
- Làm sao tôi tin được chứ ? Gàu ông đâu ? mà giếng thì sâu thế nầy ? Thế ông đã không xin tôi nước đấy ư ?
Câu chuyện giữa em với ông ấy như không chấm dứt... Em chẳng hiểu gì, nhưng em cũng háo hức xin thứ Nước ấy để khỏi nhọc công đến đây kín nước... Rồi bất ngờ, ông ấy bảo em đi gọi chồng đến.
-Tôi không có chồng. Em cộc lốc. Chắc lúc đó mặt em biến sắc vì xấu hổ...
- Ông ấy nói: Chị đã nói đúng. Chị không có chồng; và người chị đang ở với cũng không phải chồng chị...
- Chị ơi ! Làm sao mà ông đã biết rõ về em như thế ! Ông ấy biết tất cả quá khứ tội lỗi của em nữa... trước mặt ông ấy đời em trải ra như một cuốn phim... Em đã tránh né, và đánh trống lãng mấy lần; nhưng ông ta đã khôn khéo dẫn em đi vào Chân lý. Em nói và đưa tay chỉ về ngọn núi phía trước:
- Cha ông tổ tiên chúng tôi thờ phượng Thiên Chúa trên núi nầy...
-Ông ấy nói: đã đến lúc, những kẻ thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong Thần khí và Sự Thật.
- Tâm trí em còn mê muội, em có hiểu gì đâu !. Nhưng cách của Ông Giêsu nói chuyện, lắng nghe và giải thích cho em, em cảm nhận được là Ông ấy yêu mến và trân trọng em... Ông ấy đã đối xử với em không như những người đàn ông mà em đã gặp. Em nhận biết ông ấy là một Vị Tiên Tri.
- Chị như thoát được nổi ưu tư khắc khoải đè nặng tâm linh chị trong nhiều năm, phải không chị Thamar ?
- Vâng em quá đỗi hạnh phúc, hạnh phúc không thể diễn tả được. Em đã bỏ vò nước lại ở bờ giếng mà chạy trở về làng.
- Chị về làng để làm gì ? Chị định đi theo ông Giêsu ư ?
- Đấy! chị còn vẫn cho em là người thiếu đứng đắn, lẵng lơ, hư thân chứ gì! Phần em, em đã nhận biết Giêsu, Ngài là Đấng Messia và em hăm hở chạy đi loan báo cho dân Sa-ma-ri là em đã gặp một người, em đã gặp Ngài, đã được tiếp xúc trò chuyện với Ngài, " Ngài đã nói với tôi về tất cả mọi sự tôi đã làm... Hãy đến xem. Phải chăng Ngài là Đức Kitô ?"
- Câu chuyện chị kể rất hay, lý thú và hấp dẫn quá! Cám ơn chị Thamar. Vậy chị có mời Ông Giêsu uống nước không ?
- Ồ chị ơi, hình như Ngài chẳng còn khát nữa... Em cũng quá sung sướng khi được Ngài bảo ban dạy dỗ cho. Phải chăng Ngài đã đem em về lại cho Thiên Chúa, Cha của Ngài, nguồn mạch của Chân Thiện Mỹ.
-Tại sao bây giờ chị vẫn còn đi kín nước giữa ban trưa nắng nôi như lần đó Chị ạ, bây giờ em đến đây, mỗi ngày, cũng vào giờ nầy với tất cả niềm hạnh phúc và biết ơn... kỷ niệm cuộc gặp gỡ ấy biến đổi cả đời em, gia đình em và cả dân làng Sa-ma-ri. Ngài còn ở lại đây hai ngày, thật sung sướng và vinh dự. Họ đã nghe biết và đã tin: Ngài thật là Đấng Cứu Thế. Họ tin không còn phải là câu chuyẹn của em nữa, mà họ đã tận mắt nhìn thấy, tạn tai nghe Ngài!Tôi nói với người phụ nữ xinh đẹp và quyến rũ kia:- Bây giờ thì chị cho tôi uống nước với, đừng bỏ chạy nữa, tôi sẽ về nhà với chị để nghe chị kể tiếp về lời mời gọi để chị dấn thân vào cuộc sống đầy Niềm tin mà chị đã lãnh nhận... Chắc chị đã được giãn khát trong thứ Nước Hàng sống Ngài ban cho chị
- Vâng, phải thứ Nước Hằng Sống, như Ngài đã nói: Những kẻ nào một lần đã uống nước Ta ban, thì đời đời sẽ không khát nữa; nhưng nước Ta sẽ ban trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.
Hôm nay, tôi đang được người thiếu phụ Sa-ma-ri kể cho nghe về những gì đã diễn ra ở bờ giếng Giacóp nầy, cách đây 2000 năm; và tôi thật cảm phục về một con người biết phục thiện và biết sản sàng để cho Đức Kitô biến đổi đời mình... Liệu tôi có thật sự biết ơn Thiên Chúa và để cho Nước Hằng sống của Ngài tẩy sạch tội lỗi và tuôn đổ chan chứa trên cuộc đời tôi không ?
Người thiếu phụ lấy nước đầy bình, đặt vò lên vai, lanh chân trở về nhà. Con đường ngập nắng. Xa xa nơi cánh đồng, có một vài giọng lanh lãnh vọng tới cách vui vẻ và thân tình: - Chị Thamar, chị Thamar, chị đưa nước tới đây cho chúng em uống với ! Chị ấy cười với tôi. Rạng rỡ. Cánh đồng rực vàng và lòng chúng tôi đang hân hoan reo vui cho mùa lúa bội thu.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau chia sẻ hai ý tưởng:
Ý tưởng thứ nhất đó là nước
Mỗi khi đi làm thuỷ lợi giữa đồng không mông quạnh với cái nắng như thiêu như đốt, chúng ta mới thấy quý những giọt nước hiếm hoi.
Dân Do Thái trong Cựu Ước cũng đã trải qua kinh nghiệm ấy. Khi băng qua sa mạc cát nóng để trở về miền đất Hứa, họ đã hiểu được nước gắn liền với sự sống của họ như thế nào. Đồng thời qua dòng nước vọt lên từ tảng đá Horeb dưới cây gậy của Maisen, Chúa đã chứng tỏ Ngài là Đấng đem lại sự sống cho họ.
Với Chúa Giêsu thì khác, từ thứ nước bình thường dưới lòng giếng, Ngài đã giới thiệu với người phụ nữ Samaria một thứ nước đem lại sự sống vĩnh cửu. Thực vậy, đã từ lâu người Do Thái và người Samaria coi nhau như những kẻ thù truyền kiếp. Dưới mắt dân Do Thái thì người Samaria bị coi như một thứ ngoại đạo và uế tạp cần phải xa tránh, thế mà qua đoạn Tin Mừng vừa nghe Chúa Giêsu đã vượt qua ranh giới thù hận như một dòng nước tràn bờ đem lại sự xanh tươi cho những mảnh đất khô cằn. Ngài đã xin người phụ nữ Samaria chút nước uống. Hành động của Ngài đã gây nên sửng sốt và từ sự sửng sốt ấy, Ngài đã làm trổi dậy một sự sống mới.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của mình là được sai đến với những con chiên lạc. Cuộc đối thoại của Chúa Giêsu đã giúp người phụ nữ nhận ra tình trạng bất chính của mình, để rồi cuối cùng nàng đã xác tín Ngài chính là Đấng cứu thế. Chúa Giêsu đã khởi đầu bằng cách xin nàng cho Người uống nước, nhưng rồi cuối cùng chính nàng lại là người được lãnh nhận nước ban sự sống.
Ý tưởng thứ hai đó là nơi thờ phượng Chúa.
Người Samaria có đền thờ của mình tại núi Sichem. Trong khi đó người Do Thái lại khẳng định đền thờ của họ tại Giêrusalem mới là nơi thờ phượng Thiên Chúa đích thật, bởi vì đó mới chính là nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài. Vậy ai đúng. Người Samaria hay người Do Thái? Cuộc tranh luận có lẽ đã kéo dài nhiều tháng và nhiều năm, nhưng vẫn không có kết luận. Họ không phải chỉ tranh luận suông, mà hơn thế nữa, người Do Thái còn khích bác dân Samaria là đã theo đuổi một thứ tôn giáo lai căng. Còn người Samaria thì có lần đã chơi khăm bằng cách rắc xương người chết vào nơi thờ kính của dân Do Thái, để làm cho nơi đó ra uế tạp, không còn thích hợp cho công việc tế tự.
Người phụ nữ Samari hẳn muốn nhờ Chúa Giêsu đứng ra làm trọng tài giải quyết vì nàng nhìn nhận Ngài là người của Thiên Chúa, đã biết được những chuyện thầm kín của đời nàng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nhân dịp này, mạc khải cho nàng biết phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý, bằng cách nhận biết Thiên Chúa là Cha. Chính sự thờ phượng Thiên Chúa là Cha và việc đặt mình vào trong mối quan hệ cha con với Thiên Chúa mới là việc thờ phượng mà Thiên Chúa hằng mong mỏi.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã thực sự yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim và tâm hồn của mình, hay chúng ta đang còn mải mê chạy theo những nghi thức và những biểu dương bên ngoài?
Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…
Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.
Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán chạy nhất (best-seller)…
Anh chị em thân mến,
Dù cho chúng ta có chối bỏ Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn luôn chờ đợi chúng ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó, Ngài đang chờ đợi chúng ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi chúng ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm, bao lâu chúng ta còn phấn đấu, bao lâu chúng ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta…
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng của Tổ phục Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước uống, Chúa Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một người lữ hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ Samari vốn thù nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ – như Tổ phụ Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho dân thành đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng sống”. Bao lâu chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.
Cuộc hẹn bất ngờ đã làm đảo ngược tình huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa Giêsu nữa mà chính là người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng xin Chúa cho nước uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ khát trong chốc lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời, như Ngài nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.
Thưa anh chị em,
Con người sinh ra trong giới hạn, nhưng lại mang một khát vọng vô hạn. Và để thỏa mãn cơn khát đó, kẻ thì đánh lừa mình bằng cách tạo ra những thần tượng để tôn thờ và họ sẽ thất vọng… Kẻ thì lấp đầy khao khát đó bằng cách lăn xả vào những khoái lạc vật chất. Họ cũng sẽ thấy chán chường, không bao giờ thấy thỏa mãn. Chúa Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “Ai uống nước giếng nầy, sẽ vẫn còn khát…”, thứ nước này không giải khát hoàn toàn, nó vừa xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai mà chẳng biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ no thỏa. Ai lại không cảm thấy nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát lại càng uống, càng uống lại càng khát…
Chỉ có Chúa Kitô, phát xuất từ Thiên Chúa vô biên có thể dạy chúng ta ý nghĩa khao khát đó. Ngài dạy chúng ta sống với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy khát vọng vô biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng chúng ta cái khát vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy đó. Chỉ khi nào gặp được Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được thỏa mãn mà thôi.
Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá rồi!”.
Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tối đã làm. Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”.
Và cũng như Andre Frossard, một đảng viên cộng sản đầy xác tín đã phải thốt lên: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Không phải chỉ thốt lên bằng một lời nói mà bằng cả một tác phẩm ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ thiêng liêng ấy, một tác phẩm thuộc loại sách bán chạy nhất.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu là niềm khát vọng thầm kín, sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát vọng cơm nước tầm thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không phải chỉ cần có thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất ấy là đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và hạnh phúc, độc lập và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn còn có khát vọng sự sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.
Chúng ta phải làm sao để cảm thấy Chúa cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống chúng ta như ánh nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai uống nước Tôi ban cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.
Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, một trong những trang đẹp đẽ nhất của Phúc âm thánh Gioan, thuộc trong số những bài đọc quan trọng của vị thánh sử thường được Hội Thánh, ngay từ những thế kỷ đầu, dùng trong nghi thức khai tâm các dự tòng.
+ Sự việc xảy ra tại Samari. Miền đất này ngày xưa đã từng là đất thánh của các tổ phụ nhưng kể từ cuộc phân ly của người Samari, đã biếrl nên vùng đất bị thù ghét, tránh lai vãng.
Đức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại miền Galilê. Người có hai lối dể đi: một "nên đi", khó khăn vất vả hơn vì nắng nóng; một "không nên đi", không tốt cho những người Do Thái phải thường xuyên giữ mình sạch sẽ theo luật tế tự, thì lại qua ngã Samari.
Đức Giêsu cố tình chọn lối đi thứ hai này: "Người phải băng qua Samaria. Theo X. Dufour, có lẽ để chứng tỏ Người đến "để hoà giải các dân tộc, nối kết những anh em đã phân ly" (xem "Bài đọc Phúc âm theo thánh Gioan”, tập I, trang 342).
+ Sự việc diễn ra bên bờ giếng Giacob. Trong tất cả các nền văn minh Sêmít, giữa một thiên nhiên khắc nghiệt do hạn hán và sa mạc nóng cháy, giếng là chỗ duy nhất cung cấp nước, đã trở thành nơi có tính chất biểu tượng: nơi của sự sống, nơi để gặp gỡ, đối với những ai thông thạo Kinh Thánh, thì giếng nước còn là khung cảnh cho nhiều cuộc Giao ước, và là cái gợi nhớ lại ơn Thiên Chúa đã ban cho Dân Người trong thời xuất hành qua sa mạc.
2. Tiến trình nhận ra Đức Kitô.
Qua bài tường thuật Phúc âm, thánh sử Gioan muốn đưa chúng ta vào hành trình nhặn biết Đức Kitô.
+ Những xê dịch đi lại trong không gian là hình ảnh biểu trưng cho những chuyến trở về nội tâm.
+ Những thay đổi trong danh xưng Đức Giêsu đánh dấu từng bước của sự nhận biết: lúc đầu chỉ là "người Do Thái", rồi được tuyên bố là "lớn hơn tổ phụ Giacob là người đã cho chúng tôi giếng này, sau đó được gọi là "vị Tiên tri" trước khi xưng mình là "Đấng Messia" và được những người Samaria nhận là "Đấng cứu độ trần gian".
+ Những ngộ nhận giữa đôi bên đối thoại chỉ cho chúng ta thấy những chặng đường phải vượt qua: Từ nước giếng đến nước Hằng Sống.
Từ nơi chân thờ phụng đến việc tôn thờ Thiên Chúa trong tình thần và chân lý.
Từ của ăn nuôi thân xác đến lương thực là thi hành ý Cha.
Từ chuyện mùa màng đến sứ mạng trên cánh đồng truyền giáo. Từ nước giếng đến Nước Hằng sống:
"Có một người phụ nữ Samaria đến lấy nước”. Chị cho tôi xin chút nước uống, Đức Giêsu xin với người phụ nữ ấy, như ngày xưa dân Israel cũng đã xin cho có nước uống trong sa mạc (Bài đọc I). Người phụ nữ bỡ ngỡ trước lời đề nghi khó hiểu của người đàn ông Do Thái qua đường này, bởi trải qua nhiều thế ky đã có quá nhiều hiểu lầm và thù ghét giữa người Do Thái và người Samari. Chị không ngại chấp nhận cuộc trao đổi: "Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”. Vô tình chị đang từng bước đi vào một cuộc mặc khải nhiệm mầu chưa từng có.
Đức Giêsu "xin người phụ nữ nước uống". Vẫn theo X. Dufour, "Người ta có cảm tưởng là điều mà Người thực sự đang khát chính là cái khát, là nỗi ước ao của người phụ nữ làm sao có được thứ Nước Hằng Sống mà chỉ một mình Người có thể ban cho" (Sđd trang 354). Và quả thực, sau đó Đức Giêsu đã trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống? Là kẻ "không có thùng để múc nước", giờ đây Người lại xưng mình sẽ ban Nước Hằng Sống, thứ nước sẽ làm thoả mọi cơn khát, thứ nước "sẽ trở thành nơi người uống ‘một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời’.
Câu chuyện chuyển dần theo nhận định của Alain Marchadour - từ cái giếng nước vật chất sang người đàn ông, một người Do Thái đã mệt lả và đói khát. Con người ấy, ngay trong tình thế thiếu thốn của mình, lại tự giới thiệu như một Đấng có quyền ban phát. Mà ân ban ở đây lại không có liên can gì tới thứ nước trong giếng cả, vòi từ nơi con người ấy, nó trở thành một nguồn suối mới ngàn trùng vượt xa cái giếng nước ban đầu Đức Giêsu đã đưa vào trong cuộc đối thoại một chiều kích mầu nhiệm từ chuyện một cái giếng nước vật chất mà Người ghé vào để xin nước uống, người đã huớng đến chính bản thân Người, là ân ban của Thiên Chúa, Đấng có quyền năng ban cho loài người Nước Hằng Sống" ("Phúc âm thánh Gioan”, Centurion, 1992, trang 76-77).
Từ nơi chốn thờ phượng đến việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý:
Đức Giêsu lúc này đặt người phụ nữ trở về đối diện trước chuyện đời tư của mình: một cuộc sống thiếu chung thuỷ chẳng khác gì biểu tượng về sự bất trung tôn giáo nơi những người dân Samari. Chúa nói với người phụ nừ: "Chị hãy gọi chồng chị rồi trở lại đây”. "Tôi không có chồng, chị ta đáp. Chúa không nhượng bộ: "Chị nói tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi (con số có thể khiến liên tưởng tới năm vị thần mà người Samari thờ), và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng. "Thưa ông tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, người phụ nữ nói tiếp, thêm một bước khám phá về chân tính của người khách lạ. Sau đó chị lái câu chuyện sang một vấn đề đã từng là nguyên cớ gây chia rẽ giữa người Do Thái và người Samari: nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. "Trên núi này (núi Garizim)?” hay "ở Giêrusalem?”. Đức Giêsu báo cho chị ta hay rằng từ nay, với Người, một thời cũ đã qua, một thời mới bắt đầu: không còn chỗ cho thứ thờ phượng gắn liền với một ngọn núi; đã hết thời cho những cái đã là đền thờ này hay đền thờ kia (D. Mollat). Kể từ bây giờ sự hiện diện của Thiên Chúa không còn lệ thuộc vào một nơi chốn hay một đền đài nào nữa, nhưng vào một con người: Đức Giêsu Kitô. Người loan báo: "Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật". Họ sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Người, Đức Giêsu, Đấng là đền thờ mới (Ga 2,19-22), và nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho họ để trở nên con cái Thiên Chúa trong Người Con.
Và khi người phụ nữ đề cập tới việc “Đấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, Đức Giêsu trả lời: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.
Để vò nước lại, bởi nó chẳng còn dùng vào việc gì nữa, người phụ nữ chạy đi chia sẻ với bà con của mình niềm vui của cuộc gặp gỡ: người phụ nữ từng thèm khát được uống, được tồn tại, nay đã tìm ra được con người đã làm vọt lên trong chị một nguồn sống mới: "Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”
3. Dẫn tới việc tuyên xưng đức tin:
Đang lúc đó thì các môn đệ trở về, mang theo đồ ăn thức uống. Người phụ nữ đã đi khỏi, các ông mời Chúa: “Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa". Lại một ngộ nhận nữa liền xảy ra về chuyện "lương thực". Điều Đức Glêsu hằng tìm kiếm, cái là lương thực là sự sống của người chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và họàn tất công trình của Người”.
Rồi từ đề tài lương thực và sứ mạng dẫn tới đề tài “mùa gặt”. Thêm một ngộ nhận mới: các môn đệ chỉ nhìn thấy cánh đồng còn phải chờ bốn tháng nữa mới tới mùa gặt, còn Đức Giêsu lại mời gọi các ông "hãy ngước mắt lên mà xem" thấy những người Samari đang lại gần kia, họ chính là những hoa trái đầu tiên của mùa gặt truyền giáo. Bài tường thuật đạt tới đỉnh cao với lời tuyên xưng đức tin của những người Samari: chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Đấng cứu độ trần gian. Lời tuyên xưng không trực tiếp nói với Đức Giêsu, nhưng với người phụ nữ. X. Dufour nhận xét: Ngay những kẻ đã được nghe Tin Mừng người phụ nữ loan báo, nay lại loan báo cho chị ta biết Đức Giêsu kia thực sự là ai: đúng là một trao đổi lạ lùng!, và kết luận: Qua phong cách và lời nói của người đàn ông Do Thái tên Giêsu đã đến ở giữa họ này, những người Samari đã được mở ra tới một chân trời mới vượt xa ranh giới mảnh đất của họ. Họ đã nhận ra con người này không chỉ là Đấng Messia cho một dân tộc mà họ mong đợi, nhưng là Đấng Cứu độ trần gian. (Sđđ, trang 39S và 395).
Đức Giêsu đã sẵn lòng ở lại với họ hai ngày, điều này làm sáng tỏ rằng đối với Người, không còn đâu là "miền đất được ưu tiên", không còn đâu là "miến đất bị ghét bỏ" nữa, nhưng tất cả mọi người không phân biệt đều được mời gọi đến với ơn cứu độ.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Theo kiểu của họ, các anh chị tân tòng nói với chúng ta về tính chất muôn đời mới mẻ của Đức tin”.
"Người phụ nữ Samari". Đối với nhiều người đó là tên một cửa tiệm lớn ở Paris mà người ta đôi lúc còn nhắc đến thời còn bán đồ cũ. Nếu từ này còn có thể khiến ai đó chú ý đến chương IV của Phúc âm thánh Gioan này, thì chúng ta tin chắc rằng phải có một cái gì đó đặc biệt có sức thu hút, “nói là thu hút", nhưng trong câu chuyện Phúc âm không hề có vấn đề thu hút gì cả. Đúng hơn đây là một sự tiếp cận. Một sự khám phá và là một lời mời gọi không thể chối từ. Người phụ nữ Samari ở đây đúng là mẫu mực, là điển hình của người tân tòng đang dấn thân tìm gặp Đức Giêsu.
Chị ta lại chịu hai mặt bất lợi: là phụ nữ và là thành phần của một sắc dân bị người Do Thái miệt thị (bằng chứng về sự xuất hiện và có mặt của những cộng đoàn Kitô hữu tại Samari ngay vào thời Tin Mừng IV đang được biên soạn). Nhưng đó không thành vấn đề, Đức Giêsu vẫn tìm cách lôi kéo người phụ nữ này, nhưng một sức hấp dẫn vô hình. Cách tiếp cận thật lạ lùng: người khách lạ đã mỏi mệt dừng chân bên bờ giếng xin người phụ nữ chút nước uống. Đấng có quyền năng ban phát mọi sự, nay lại làm kẻ ngửa tay xin. Thiên Chúa luôn rộng ban ơn của Người cho tất cả những ai biết sẵn sàng cho đi chút của cải mình có. Người tân tòng sẽ tìm thấy không phải là một vị Thiên Chúa thích huỷ diệt để rồi lại ban phước, nhưng một Thiên Chúa nghèo, dường như phải cần đến loài người. Thế rồi câu chuyện bỗng đổi chiều, giờ đây cái nhìn của Đức Giêsu soi thấu vào ngõ ngách đời tư của người phụ nữ. Cái nhìn của loài người chỉ dừng lại ở bề ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn sâu vào cõi lòng. Người tân tòng phải chăng là kẻ mà Đức Giêsu đã trở nên thiết thân hơn chính bản thân họ?
Đến đây, người phụ nữ ngỡ ngàng nhận ra vị ngôn sứ Chị biết rằng giòng Nước Hằng Sống kia có thể rửa sạch mọi bất trung tội tình của chị. Kẻ sắp lãnh nhận phép Thánh Tẩy cũng thế, họ khát khao giòng nước rồi đây sẽ cho phép họ thầm thì kêu tên Thiên Chúa là Cha. Chưa hết, người phụ nữ còn bỏ lại tất cả, cả cái vò nước, cả những người tình, cả cuộc đời chị, để loan báo cho mọi người về cuộc gặp gỡ có tính chất quyết định cho chị. Chúng ta có khả năng để lắng nghe tiếng của những anh chị em tân tòng nói với chúng ta, theo cách của họ, sau khi đã giã từ cuộc đời dĩ vãng, về cái mới mẻ muôn thuở của Đức Tin?".
2. “Người phụ nữ bỏ quên vò nước bên bờ giếng”
"Bên bờ giếng, có một khánh bộ hành mỏi mệt dừng chân, chân lý đã vọt lên từ những lời ông ta nói. Cũng bên bờ giếng đó, người phụ nữ nọ đã để lại cái vò nước của mình, bởi từ nay nó những giúp gì cho chị đón nhận hồng ân Thiên chúa ban. Cái vò nước bỏ quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận từng bị giam hãm trong đủ thứ công việc hằng ngày, trong những quan hệ không tới đâu với một loạt đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, qua những trao đổi với Người. Cũng thế đối với những người Samari kia, những kẻ đã biết đón nhận người khách đường xa không hẹn mà đến này. Như thế, chính qua những chuyện của đời thường như ăn, uống, cuộc sống chung, cố gắng quay về với Thiên Chúa... mà con người nghe tiếng nói của Thánh Thần. Nhưng ở đây và lúc này, lại đến như một ân ban qua những bất trắc khôn lường của lời nói, qua thái độ chân thành của các bên đối thoại qua những khoảnh khắc thinh lặng để cho chân lý nói.
"Người phải băng qua Samari". Lộ trình ngắn nhất và dễ nhận từ Giuđê đến Galilê chạy ngang qua miền Samari. Edei, "Người phải", diễn tả một sự bắt buộc hay một sự tiện lợi về địa dư? 'Động từ dei, trong Tin Mừng Gioan (3, 7.14.30; 4, 20. 24; 9, 4; 10, 16; 12, 34...) cũng như trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 8, 31; 9,11) thường có nghĩa một sự bắt buộc phát xuất từ ý định cứu rỗi của Thiên Chúa. Có thể bảo ‘edei’ vừa xác định thêm chi tiết địa dư, vừa đặc biệt ám chỉ rằng Thiên Chúa muốn có câu chuyện này xảy ra ở Samari để mặc khải tính cách phổ quát của ơn cứu độ do Con Ngài mang đến.
"Lúc ấy chừng giờ thứ sáu". Những lối xác định thời gian loại đó ta còn gặp thấy trong 1, 39; 4, 52 và 19, 14. Trong 19, 14, cũng một thành ngữ như ở đây tái hiện trong bối cảnh vụ xử án Chúa Giêsu: có thể Gioan đã muốn dùng cùng một cách nói như vậy để ngụ ý là tính cách phổ quát của ơn cứu rỗi, được tỏ lộ trong câu chuyện hôm nay, tùy thuộc vào cái chết cứu chuộc của Chúa Kitô.
"Cho tôi uống với": Như trong mọi trình thuật của Gioan, chính Chúa Giêsu là người khởi xướng. Lời xin của Người có vẻ tự nhiên, vì lúc đó là buổi trưa, sau khi đi đường xa mệt mỏi. Nhưng đối với độc giả của Gioan, thì một lời xin như thế có vẻ lạ thường, vì người xin uống nước là chính người phải ban cho nước sống dư tràn.
"Trong Thần khí và sự thật". Một lối chú giải rất được phổ biến cho đây là lời ám chỉ việc phụng tự thiêng liêng, nội tâm, loại bỏ mọi hy tế và mọi nơi thờ phượng. Việc phụng tự hoàn toàn nội tâm này được khơi nguồn do sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa và do lòng sùng kính thành thật đối với chân lý. Song một lối giải thích như vậy vẫn còn thiếu sót, vì không lưu ý tới tính cách mới mẻ của việc phụng tự do Chúa Kitô thiết lập. Thật vậy, các ngôn sứ đã đòi hỏi việc phụng tự nội tâm nhiều lần rồi (Am 5, 20-26; Is 1, 11-20; 29, 13; Tv 50, 7-23; 51, 18tt). Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cũng như dân ngoại đều biết rằng phụng tự nội tâm trồi vượt phụng tự bên ngoài. Việc phụng tự mới được Chúa Kitô trình bày ở đây không thể chỉ là lặp lại lý tưởng các ngôn sứ rao giảng; nó phải được đặt vào trong bối cảnh chung của khởi điểm mới trong Chúa Kitô. Việc phụng tự Chúa Cha đích thực phải đáp ứng với địa vị mới của người tín hữu là được trở thành con Thiên Chúa: "Những kẻ thờ phượng đích thật" là những kẻ "sinh bởi Thiên Chúa" (1,13) bằng nước và Thần khí (3,5) và được hiến thánh nhờ sự thật (17, 17.19). Thành ra việc phụng tự mới là việc phụng tự khơi nguồn bởi nguyên lý sự sống của các Kitô hữu. Đây là phụng tự trong sự thật", vì được thành hình do mặc khải vẹn toàn của Chúa Giêsu.
"Thiên Chúa là Thần khí". Xác quyết này là một trong ba xác quyết quan trọng của Gioan về Thiên Chúa ("Thiên Chúa là ánh sáng" 1Ga 1,5; "Thiên Chúa là Tình yêu" 1Ga 4, 8-16). Nó có vẻ như là một định nghĩa về Ngài. Nó gần giống như phản ứng của các người Do thái hy hóa và các triết gia ngoại giáo chống lại những lối trình bày nhân hình về Thiên Chúa. Với lại ta không thấy một giáo huấn nào tương tự trong Cựu ước cả. Vì vậy có kẻ nghĩ rằng lời xác quyết của Gioan ở đây mang nguồn gốc Hy lạp. Tuy nhiên, không nên giả thiết một sự vay mượn như thề vì giáo thuyết của Gioan về Thần khí nối dài giáo thuyết của Cựu ước, theo đó thì Thần khí không phải là cách hiện hữu đối nghịch với vật chất, nhưng là hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa nhằm phát sinh sự sống. Đó cũng là ý nghĩa cơ bản mà ta thường gặp nơi Gioan (3, 5-8; 6, 63; 7,38; 14, 17-19). Thành ra phải kết luận rằng ớ đây Gioan không có ý chống lại những cái nhìn vật chất, như nhìn về Thiên Chúa, song chỉ muốn xác nhận quyền năng đáng tạo sự sống của Ngài.
KẾT LUẬN
Qua việc dùng các tước hiệu khác nhau, những tước hiệu mời gọi niềm tin dần dần, trang sách này của thánh Gioan đã mặc khải một khía cạnh cơ bản trong mầu nhiệm Chúa Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là một lữ khách vô danh. Sau đó, thiếu phụ Samari khám phá ra Người là một người Do thái (c. 9). Khi nghe lời hứa kỳ lạ về một thứ nước sống, bà hỏi Người: "Dễ chừng Ngài lại lớn hơn Giacóp cha chúng tôi sao?" (c. 12). Lúc nhìn thấy là Người đã thấu rõ bí mật đời tư của mình, bà mới nhận ra Người là một ngôn sứ (c. 19). Sau cùng, khi Chúa Giêsu đã mặc khải cách hoàn toàn rồi, bà phỏng đoán Người có lẽ là Đấng Kitô (c.29). Nhưng chính dân thành Samari, hoa quả đầu mùa của các dân tộc, mới tuyên xưng đức tin của họ vào Chúa Giêsu "Đấng Cứu Thế" (c.42). Từ đầu đến cuối, việc mặc khải vẫn nằm trong viễn ảnh lịch sử cứu độ. Các chương Tin Mừng khác mặc khải Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến và là Con Chúa Cha. "Kitô" và "Con Thiên Chúa" là hai tước hiệu căn bản của bản tuyên tín theo thánh Gioan (20,31). Còn “Đấng Cứu Thế" là tước hiệu tổng hợp: Kẻ đã đến như ánh sáng trần gian (8,12; 12,46), như Người mặc khải, như Đấng Kitô, là chính Con Một được Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi thế gian và cho mọi người có sự sống vĩnh cửu trong mình (3, 16-18).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu khai mào câu chuyện với thiếu phụ Samari bằng cách khêu gợi tính tò mò của bà. Người tự đặt mình vào thực tế tầm thường của đời sống thường nhật, vào hoàn cảnh của kẻ phải mệt mỏi kín nước đều đều, để rồi làm cho bà cảm thấy không phải chỉ cần có thứ nước ấy mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất là đáng kể trong đời sống. Hôm nay đây, Chúa còn hiện diện trong cuộc sống thường ngày của ta. Ta có biết nhận ra Người chăng? Có chấp nhận đối thoại với Người? Có đồng ý là không phải chỉ những thực tại vật chất mới đáng kể trong đời sống của ta Có cố gắng để đừng bị vật chất chi phối chăng? Vì không chỉ có thứ nước tự nhiên mà thôi, song còn thứ nước siêu nhiên vọt đến sự sống vĩnh cửu. Cuộc đời của ta còn phải được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện và tôn thờ Thiên Chúa.
2) “Ai uống nước giiếng này, sẽ còn khát lại" (c.13). Nước này không giải khát thật sự, nó vừa tạm thời xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai lại không biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ nó thỏa; ai mà không cảm thấy các nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát, lại càng uống, càng uống lại càng khát! Và luôn luôn theo lối lý luận ích kỷ ấy mà người thiếu phụ Samari đón nghe những lại của Chúa Giêsu về nước sống và tìm cách lợi dụng cơ hội: xin Ngài ban cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi đến cây múc nước" (c.15). Một ngộ nhận như thế cũng gặp thấy nơi người Do thái trong diễn từ Bánh sự sống: thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy" (6,34). Theo bản năng tự nhiên, ta có khuynh hướng muốn chụp lấy ơn Thiên Chúa như một thứ bảo hiểm sinh mạng khả dĩ miễn cho mình lăn lộn với đời, như một số vốn mang lại nhiều lợi giúp mình mãi mãi an cư, muốn thứ bánh, thứ nước Ngài ban cho ấy trở thành kho vô tận, dùng mãi không bao giờ cạn. Nhưng ơn Thiên Chúa đâu có muốn giản lược ta vào trong sự thỏa mãn cái tính cách dinh dưỡng đó: “Ai uống nước Ta sẽ ban, thì đời đời sẽ không khát nữa" Chúa Giêsu bảo vậy (c.14). người không giữ nước ấy trong một bình đóng kín, bưng bít một cách ích kỷ. Trái lại, nước Ta sẽ ban cho nó sẽ trở nên trong nó một suối nước vọt đến sự sống đời đời" (c.14). Nước sống ấy có sức giải khát vì, vượt ra ngoài-bản năng bảo tồn, nó làm phát sinh trong ta chính nguồn sống, và dạy chúng ta rằng sống chính là trao ban, là chia sẻ không tính toán, là phun trào ra mà không giữ lại.
3) Cuộc đối thoại chuyển qua hướng mới với mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đi gọi chồng bà...". Để cho thiếu phụ Samari hiểu và đón nhận ơn Thiên Chúa, Chúa Giêsu đột ngột đề cập đến bí mật đời tư của bà. Trong lãnh vực này, cơn khát của người đàn bà, cơn khát tình yêu, cũng chẳng được thỏa mãn; thiếu phụ đã có năm đời chồng và người đang sống với bà hiện giờ không phải là chồng đích thực (c.18). Giống như nước mà bà phải đến múc uống luôn song chẳng đã khát, những nỗ lực tình yêu liên tiếp của bà đã làm bà thất vọng và đẩy bà vào nỗi cô đơn. Mục đích của Chúa Giêsu không phải là đem người thiếu phụ trở về thái độ sám hối song là cho bà thấy, như đã cho Nathanael thấy (1, 47-50). Người thông suốt lạ lùng, là khiến bà cúi đầu trước uy nhan của vị Ngôn sứ và từ đó chuẩn bị cho bà lãnh hội mặc khải của Thần khí.
Thực vậy, không một tiếng quở trách, không một lời khuyến khích nào trên môi miệng Chúa Giêsu; không một tâm trạng tội lỗi, không một giọng thống hối nơi người đàn bà; nhưng chỉ có một lời khen ngợi đầy vẻ ngạc nhiên: thưa Ngài, tôi thấy Ngài là một ngôn sứ (c.19), và sau đó, trong câu nói với dân làng: một người đã bảo cho tôi biết mọi sự tôi đã làm (c.9). Nếu có chuyện tội chăng nữa, thì vấn đề không phải chỗ đó, hoặc hình như bị gác ngay qua một bên. Với ánh mắt nhân từ và sáng suốt, Chúa Giêsu cũng mời gọi ta hãy nhìn thăng mình không chút tự mãn song cũng chẳng chút xấu hổ, cay đắng và thất vọng. Đặc biệt Người muốn dẫn đưa ta đến chỗ nhìn nhận Người là vị "Ngôn sứ Thiên Chúa sai đến, là Đấng mặc khải về bản tính nhân loại đích thực của ta, là Đấng giúp ta khám phá ý nghĩa và không chiều kích của cơn đói khát trong ta, là Đấng tố cáo những mưu kế mà ta dùng để đánh lừa hoặc thỏa mãn cơn khát ấy một cách rẻ tiền. là Đấng dạy cho ta biết sống và trào dâng nước sống của ơn Chúa.
Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu viết "Cùng với các kitô hữu, chúng ta tin rằng cuộc sống cá biệt của Đức Giêsu....đã đưa nước Thiên Chúa vào lịch sử nhân lọai và "đem sức mạnh của Nước ấy vào mọi khía cạnh của đời sống con người và xã hội, vốn bị vây bọc bởi tội lỗi và sự chết". Điều ấy có thể nhờ Lời Chúa hôm nay minh giải:
Khác với những người Do Thái đạo hạnh đương thời, Đức Giêsu không ngần ngại tiếp xúc với người nữ Samaria, vượt qua mọi ranh giới chủng tộc và giới tính. Cuộc sống của Đức Giêsu còn rất nhiều cá biệt như thế. Sự cá biệt phát xuất từ nguồn gốc Thiên Sai của Ngài với sứ mạng loan báo và chu tòan "theo ý Đấng đã sai. và chu tòan công việc của Ngài".
Bài Tin Mừng hôm nay phác họa một cách linh họat và sâu sắc tòan cảnh việc thi hành sứ mạng của Đức Giêsu: trước hết đây là công việc thật cấp bách. Cho dù mệt nhọc vì một hành trình dài, nhưng Đức Giêsu đã không bỏ lỡ cơ hội để thi hành sứ vụ. Cơ hội không phải là điều gì khác thường, mà chính là MỖI CON NGƯỜI ngay trong chính cuộc sống của họ. Một cuộc sống chất chứa những thù hận truyền kiếp"Sao thế! Ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi, một người Samaria ư?". Cuộc sống bị vây bọc bởi cái nhìn khép kín trong thế giới vật chất "Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu: vậy Ngài lấy đâu ra nước?". Cuộc sống trong đó, ngay cả tương quan nguồn cội, cũng chỉ còn là một bóng hình mờ nhạt với năm tháng: "Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này.". Cuộc sống trơ trẽn và thác lọan vì tội lỗi "Bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà.". Cơ hội không phải là một qùa tặng được dâng hiến, nhưng là của một ĐỐI THỌAI chân thực. Đối với Đức Giêsu, sứ vụ cũng là thiết lập cuộc đối thọai cứu độ với MỖI CON NGƯỜI, DÙ HỌ LÀ AI. Cuộc đối thọai đem sức mạnh của Nước Thiên Chúa chiếu soi mọi ngõ ngách cuộc đời, không cưỡng chế, mà như một mời mọc đáp trả "Nếu bà nhận biết ơn Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà.hẳn bà sẽ xin Người." Cuộc đối thọai "trong tinh thần và trong chân lý". Cuộc đối thọai tôn trọng sự khác biệt nhưng vẫn giữ được bản sắc thiêng liêng siêu việt của mình "Người sẽ cho bà nước hằng sống".
Cũng thế, thánh Phaolô hiểu rất rõ đời sống con người và xã hội mà tín hữu Roma đang phải đối diện. Đó là một cuộc sống và một xã hội đối nghịch với niềm tin Kitô Giáo, nơi mà tội lỗi và sự chết bủa vây con người. Nhưng cũng như Phaolô, mỗi kitô hữu được mời gọi tiến vào thành đô ấy với niềm tin "Đấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó, và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa." Chính sự xác tín vào sự sống ân sủng nhờ Thánh Thần, mà người Kitô hữu đảm nhận cuộc sống trần thế này. Cách sống ấy theo thánh Phaolô trở thành niềm hy vọng cho muôn lòai thọ tạo "Qủa thế, muôn lòai đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thóat, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang." Người kitô chúng ta không thể quên đấy là ơn gọi của mình, ơn gọi mà chính Thiên Chúa cũng đã mời gọi Dân Israel của Người: phải đi trong sa mạc trần gian, chia sẻ mọi nỗi khốn cùng với mọi người, chịu đói, chịu khát và muôn vàn thử thách hiểm nguy. nhưng cùng đi với họ có Tảng Đá chảy tràn trề nước sự sống. Tảng Đá của lòng tin đối chứng với sự cứng lòng của "Thử Thách".
Cuộc sống hôm nay về nhiều mặt đối với đại đa số người dân Á Châu vẫn ngập tràn thách đố: nghèo đói, bệnh tật, chậm tiến, cùng với những tệ nạn đang giết chết từng thế hệ,dẫu thế, cuộc sống này vẫn là nơi người Kitô Hữu được mời gọi để chia sẻ, để đối thọai. Nhưng người Kitô sẽ không được tiếp nhận, nếu họ đánh mất bản sắc SỰ SỐNG ÂN SỦNG của mình.
- "Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con" - "Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia kia mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rép. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống." Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en.
* Bài đọc 2: Rm 5,1-2.5-8:
Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta còn tự hào về niềm hi vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.
* Bài Tin Mừng: Ga 4,5-42: Đức Giê-su tại Sa-ma-ri
(5) Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. (6) Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
(7) Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước!" (8) Lúc đó, các môn đệ của Người vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: "Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?" Quả thế, Người Do thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. (10) Đức Giê-su trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống." (11) Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy." (13) Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. (14) Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời. (15) Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước." (16) Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây." (17) Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng." Đức Giê-su bảo: "Chị nói: tôi không có chồng là phải, (18) vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng." (19) Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. (20) Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa." (21) Đức Giê-su phán: " Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. (22) Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi, chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. (23) Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật." (25) Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng ta mọi sự. (26) Đức Giê-su nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."
(27) Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy?" hoặc "Thầy nói gì với chị ấy?" (28) Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: (29) "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?" (30) Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
(31) Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa." (32) Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết." (33) Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chẳng?" (34) Đức Giê-su nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. (35) Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới tới mùa gặt? Nhưng này Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! (36) Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để đưộc sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. (37) Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng! (38) Thày sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã khôngh phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được hưởng kết quả công lao của họ."
(39) Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. (40) Vậy khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41) Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người là Đấng cứu độ trần gian"
1. Trọng tâm giáo huấn của bài Tin Mừng hôm nay là gì?
2. Làm thế nào để đón nhận và áp dụng giáo huấn ấy vào cuộc sống?
* Suy tư gợi ý
1.Trọng tâm giáo huấn của bài Tin Mừng hôm nay: Cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia- cóp là một đỉnh cao của Tin Mừng Gio-an. Chúng ta đừng để cho tâm trí bị cuốn hút bởi một chi tiết nhỏ nhặt (người phụ nữ có 7 đời chồng) mà không chú tâm vào nội dung và giáo huấn của tường thuật. Đây không phải là một cuộc gặp gỡ và trao đổi bình thường như nhiều người lầm tưởng, mà là một cuộc gặp gỡ và trao đổi về thần học như nhiều nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay muốn nhấn mạnh. Quả vậy, Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri đã trao đổi với nhau về việc thờ phượng Thiên Chúa, về vai trò và nhiệm vụ của Đấng Mê-si-a, về Nước Hằng Sống là những đề tài rất cao siêu và quan trọng đối với đời sống tôn giáo của mọi thời, mọi người. Cuộc trao đổi này cũng mang tầm quan trọng như cuộc trao đổi giữa Đức Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô (Ga 3,1-21) về việc cần phải tái sinh để vào được Nước Trời! Và Đức Giê-su đã vén bức màn cho người phụ nữ thấy những thực tại cao cả: chính Người là Đấng Mê-si-a, là Nước Hằng Sống làm thỏa nguyện những ai đang khát, là Đấng cho thấy Chúa Cha và chỉ dẫn cách thờ phượng Thiên Chúa cách chân chính và đẹp lòng Cha nhất là thợ phượng trong thần khí và sự thật.
2. Để đón nhận và áp dụng giáo huấn ấy vào cuộc sống: Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy Đức Giê-su mạc khải (bộc lộ) những bí nhiệm cao siêu của Đạo, không phải cho các thày tư tế, kinh sư và luật sĩ của It-ra-en mà là cho một phụ nữ ngoại đạo có những bẩy đời chồng. Trước mặt Thiên Chúa dường như không có chuyện "ai xứng ai không" (vì thật ra chẳng có ai là xứng cả) mà chỉ có chuyện "ai được ai không" thôi. Ơn soi sáng là ơn nhưng không. Ơn thông hiệp với mầu nhiệm Thiên Chúa cũng là ơn nhưng không! Các ơn ấy, Thiên Chúa muốn ban cho ai thì ban. Nhưng có thể nói các ơn ấy thường được ban cho các tâm hồn khao khát, tìm kiếm, cởi mở và trống rỗng như tâm hồn của người phụ nữ Sa-ma-ri. Chúng ta hãy tập cho mình có một tâm hồn như thế: vì, nếu chúng ta thật sự khát khao, thì chúng ta sẽ được thỏa lòng; nếu chúng ta chịu tìm kiếm, thì chúng ta sẽ thấy, sẽ gặp; nếu chúng ta cởi mở tấm lòng thì ơn huệ Thiên Chúa sẽ tuôn tràn vào lòng ta và nếu tâm hồn ta trống rỗng thì sẽ được Thiên Chúa đổ đầy.
NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Mê-si-a, xin Chúa hãy cứu chúng con. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Nước Hằng Sống của Thiên Chúa, xin Chúa làm cho tâm hồn chúng con được no thỏa.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng mạc khải về Chúa Cha và về cách thờ phượng Người, xin Chúa ban ơn cho chúng con nhận biết Cha và ơn biết thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng gần gũi, yêu thương, tôn trọng những hạng người hèn mọn, thấp cố bé miệng, xin Chúa giúp chúng con biết sống gần gũi, chan hòa và thông cảm với mọi người.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng lấy việc thực thi Thánh Ý Cha làm lương thực hàng ngày, xin cho chúng con biết noi gương Chúa mà tìm kiếm và thực thi Thánh Ý Cha trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống!
Trong sinh hoạt của con người, Nước là một vật hết sức quan trọng và rất cần thiết. Thể xác con người cần có nước mới sống được. Người ta có thể nhịn ăn cả tháng trời, nhưng không thể nhịn uống... Mức độ nhịn uống chỉ vài ngày mà thôi. Trên trái đất, nước chiếm 2/3 diện tích và Nước rất cần cho sự tưới tiêu. Ngay cả cây cỏ cũng như súc vật, không có nước, sẽ chết hết... Trái đất này nếu không có nước, cũng chỉ là một hành tinh chết mà thôi, vì từ con người, đến súc vật, đến cây cỏ, nếu không có nước, số phận chắc chắn là phải chết.... Câu chuyện đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria hôm nay xoay quanh một chủ đề: Nước (nước hằng sống). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Trước hết xin tìm hiểu một vài từ:
Samaria: Nước Do thái từ Bắc xuống Nam dài khoảng 300 km, chia làm 3 miền rõ rệt. Miền Bắc: Galiêa - miền Nam: Giuđêa - miền Trung: Samaria. Mỗi miền có lối phát âm cách riêng biệt như người Việt Nam chúng ta. Riêng miền Trung (Samaria), miền này bị kể là dân ngoại. Người Do thái kỳ thị và khinh thường họ, cho dân Samaria là dân hợp chủng. Một người Do thái đàng hoàng không được phép nói chuyện và cả xin nước uống từ bất cứ chiếc bình nào của người phụ nữ Samaria.
Thờ Chúa trên núi này: vì người Do thái khinh thị và cắt đứt quan hệ với người Samaria, nên họ đã trả đũa bằng cách cho xây một đền thờ khác trên núi Garizim, cao 881m, mạn Nam thành Sikem. Có thể đứng bên giếng Giacop nhìn thấy núi này.
Thờ Chúa trong Thánh Thần và sự thật: Chúa muốn nhấn mạnh đã đến lúc không phải thờ Chúa trên núi này hay tại Giêrusalem, vì phải thờ phượng Chúa bằng thái độ nội tâm hơn là hình thức bên ngoài...
b/. Qua câu chuyện bên giếng Giacóp, chính Chúa Giêsu là người đi bước trước để gặp gỡ và cảm hóa người phụ nữ tội lỗi này. Chúa khởi sự từ việc Người khát nước và xin nước uống. Từ đó, Chúa hướng sự quan tâm của người phụ nữ sang thế giới khác, thế giới của tâm hồn. Dần dà, Chúa giải thoát khỏi những thiên kiến về sắc tộc, chính trị và tôn giáo. Phần chị ta, nhờ sự khéo léo của Chúa, lần hồi, chị ta khám phá ra người Do thái đang nói chuyện với mình là một tiên tri, là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi.
Điều kỳ lạ và bất ngờ là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria , bình thường khó mà xảy ra. Ít nữa chúng ta thấy có bốn trường hợp ngăn cách hai người này không thể gặp nhau: thứ nhất là vì sắc tộc: vì kỳ thị nên người Do thái không gặp gỡ tiếp xúc với dân Samaria , vì họ bị coi là tạp chủng, ngoại lai. Thứ hai là sự phân biệt nam nữ; vào thời đó gặp gỡ giữa một người đàn ông và một người phụ nữ xa lạ là điều cấm, huống chi Chúa Giêsu lại gặp gỡ và nói chuyện với một người phụ nữ Samaria. Thứ ba: dù cả hai xứ, đều thờ chung một Giavê Thiên Chúa, nhưng dân Samaria bị khinh miệt như là dân ngoại, chung chạ với tà thần. Người Do thái liên hệ với họ sẽ bị ô uế. Thứ tư: một vị thánh như Chúa Giêsu mà lại nói chuyện với một người đàn bà tội lỗi, đang sống bất hợp pháp với 6 người đàn ông; rõ ràng dưới mắt người Do thái là một chuyện không thể được...
Qua câu chuyện bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã khéo dẫn đưa người phụ nữ Samaria đến nguồn nước hằng sống, thứ nước không chỉ để giải khát bên ngoài, nhưng có khả năng giải khát tâm hồn con người. Sau đó, người phụ nữ khi đã đón nhận nước hằng sống, đã trở thành chứng nhân, chạy đi báo tin cho người trong làng cùng biết và cùng đến với nước hằng sống là Đức Giêsu Kitô. Một câu chuyện thật nên thơ, nhưng cũng đầy ý nghĩa, cũng là bài học lớn cho mỗi người kitô hữu chúng ta.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Ta có tin Chúa Kitô là nước hằng sống không? Khi đã tin, ta có sẵn sàng đem chia sẽ niềm tin đó cho người khác không?
Nếu có dịp đi qua bến phà hay những nơi công cộng, anh chị em nhìn thấy những cảnh hết sức thương tâm của người dân Việt Nam , đó là cảnh người nghèo đói còn quá nhiều. Những người ăn xin hiện diện khắp nơi, với những kiểu dáng hết sức phong phú, làm động lòng trắc ẩn khách đi đường. Họ cố gắng dùng mọi cách để làm sao kiếm được những đồng tiền để sinh sống. Nhiều vị khách đã động lòng mở rộng vòng tay nhân ái để giúp cho họ. Nhưng có phải vì túng thiếu không có phương tiện cần thiết để sống, nên họ mới chọn phương cách này không? Có người là như thế. Nhưng cũng có người không phải thế. Họ chọn việc ăn xin như là một nghề nghiệp của mình và không muốn từ bỏ nó, chứ không phải vì túng thiếu nên họ mới rơi vào tình trạng như thế, nên họ không muốn thay đ ổ i cuộc sống của mình, họ muốn ở mãi trong tình trạng đó, vì nó đem lại cho họ nguồn lợi. Họ vẫn biết việc làm của mình không hay lắm, nhưng vì đồng tiền mà quên đi danh dự.
Chúng ta vừa chứng kiến một phong cảnh đẹp của Phúc Âm. Nơi bờ giếng Chúa Giêsu hoán cải được một thiếu phụ, cũng từ đó Ngài làm cho cả dân làng có được một niềm tin và một sức sống mới. Ngài không bắt ép họ, nhưng gợi ý và để họ tự do hành động. Họ đã biết lựa chọn và hành động đúng.
Nếu người thiếu phụ đó cứ giữ mãi sự hiềm khích trong lòng cùng với sự căm hờn, nếu bà ta ích kỷ nhỏ nhen mà không nán lại một chút, chỉ biết lo trốn chạy vì sợ mất thời gian của mình trong một việc vô ích, thì làm sao bà ta nhận ra được hồng ân Thiên Chúa ban cho mình. Nếu chị ta nóng nải bỏ đi ngay tức khắc thì dân làng làm sao có thể nhận ra Đấng Cứu Độ đang đến với mọi người. Chúa Giêsu đến với mọi người, nhưng Ngài cũng chờ đợi mọi người biết đứng lên để đến với Ngài. Dân làng đã làm được điều đó, họ đứng lên và chạy đến với Ngài, nên họ nhận ra được hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho họ. Chính vì sự hy sinh nhẫn nại của một người mà cả dân làng mới có cơ hội tiếp nhận được hồng ân quý báu, và cũng nhờ họ có một tâm hồn quảng đại, biết lắng nghe nên họ đ ược hơn điều mình mơ tưởng.
Cơ hội không bao giờ thiếu cho con người, chỉ có con người không biết đón nhận và không biết tận dụng mà thôi.
Cơ hội cũng đến với chúng ta thật nhiều lần trong cuộc sống, cũng nhiều lần chúng ta bỏ qua một cách vô tình, có khi còn cố ý để cho cơ hội qua đi để tránh sự phiền phức.
Biết bao nhiêu lần vì ích kỷ sợ mất thời giờ quý báu của mình, chúng ta không chịu lắng nghe, nên không thể nghe được những điều hữu ích cho cuộc sống. Nhiều lần vì sự hiềm khích, vì nóng giận, vì sự tự ái trong người chúng ta quá lớn, nên chúng ta không có kiên nhẫn chấp nhận người khác, những lúc đó chúng ta cũng bỏ qua cơ hội ngàn vàng để biết đứng lên và quay trở về với Chúa. Cũng nhiều lần vì sợ mất đi những gì mình đang có như: thời giờ, tiền của, danh vọng, hay những thú vui trong cuộc sống, nên chúng ta cũng không thể lắng nghe để làm cho đời sống mình trở nên tốt hơn, đồng thời giúp cho những người chung quanh được lợi ích nhiều hơn. Chính những lần như thế, không phải là chúng ta không có phương tiện để sống tốt, nhưng vì mình không muốn. Như thế chúng ta không phải như những người ăn xin không phải vì hoàn cảnh, nhưng vì muốn làm nghề ăn xin và không muốn vươn lên. Không lẻ đời sống con người của chúng ta không thể đỗi mới được mà cứ phải lầm lủi trong bóng đêm mãi sao.
Nếu chúng biết mở rộng vòng tay ban phát những gì mình có cho những người cần đến, nếu chúng ta biết nhắt bước chân của mình để mang niềm vui đến cho người khác như người đàn bà bên bờ giếng, nếu chúng ta biết mang con tim yêu thương đến cho mọi người bằng hành động trong cuộc sống, khi đó chúng ta cũng dám nói như những người trong làng: bây giờ không cần chị nói, nhưng chính chúng tôi đã nghe và đã biết Người thật là Đấng cứu độ trần gian.
Xin Chúa soi sáng và hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta biết sống theo thánh ý Chúa.
Một trong những nhu cầu cần thiết và quan trọng cho sự sống của mọi sinh vật trên mặt đất này là nước. Những người nông dân nào có nhiều kinh nghiệm chắc hẳn sẽ thuộc nằm lòng câu tục ngữ: "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Để cây trái có thể sống và phát triển xanh tốt người dân phải siêng năng cung cấp đủ nuớc cho chúng. Có lẽ hình ảnh người dân trên tay cầm thùng, gàu hay ống nước là một trong những hình ảnh đẹp nhất ở vùng nông thôn. Cũng vậy một trong những nỗi khổ nhất của con người là mỗi khi thiếu nước sinh hoạt. Trong cái nhìn đó Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết có một nguồn nước cần thiết và quan trọng hơn. Đó là Nước Hằng Sống do Chúa Giêsu mang đến.
Bài đọc 1 cho thấy dân Do thái trong sa mạc đã kêu trách ông Môisen vì họ đang khát nước. Ông cầu cứu với Chúa. Người kêu ông cầm gậy đập vào tảng đá tức thì nước từ tảng đá ấy chảy ra cho dân uống (Xh 17, 3 - 7). Nhờ có n ước đó mà dân Do thái được sống. Sang bài Tin mừng Chúa Giêsu đã gặp một phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp. Sau khi trao đổi với chị về nước uống hiện tại, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chị: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời". (Ga 4, 13 -14). Nghe lời ấy chị ta vội vàng xin Chúa Giêsu: "Th ưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước" (Ga 4, 15b). Chắc chắn đây cũng là ao ước của mỗi người chúng ta.
Ai trong chúng ta cũng muốn được sống. Sống thì phải dồi dào, phải sung túc chứ không èo ọt hay suy dinh dưỡng. Nước là yếu tố cần thiết và quan trọng để duy trì và phát triển sự sống. Đối với sự sống tạm bợ nay còn mai mất còn cần đến nước, huống chi là với sự sống đời đời. Người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp đã được Chúa Giêsu ban cho nguồn nước hằng sống. Chị đã biết đón nhận với tất cả niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.
Mùa Chay là mùa mà chúng ta được kêu gọi để nhìn lại chính mình trước Chúa. Nhìn lại để thấy mình mỏng dòn và yếu đuối như thế nào. Càng thấy mình yếu đuối bao nhiêu thì chúng ta mới thấy mình cần Chúa bấy nhiêu. Một cây héo lá mới cần nước, một người cảm thấy khát nước thật sự mới thấy mình cần phải uống nước.
Tác giả Thánh vịnh 42 đã thưa lên cùng Chúa:
"Như nai rừng mong mỏi Tìm về suối nước trong
Hồn con cũng trông mông
Tìm đến Ngài, lạy Chúa ".
Xin Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta biết tin vào Người, biết khao khát sự sống từ nơi Người mang đến. Để rồi chúng ta biết siêng năng đến và gắn bó với Người nhiều hơn.
Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Đức Giêsu là suối nước hằng sống. Chính Ngài mang lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai đón nhận Ngài. Đó chính là điểm chính yếu của Bài Tin mừng. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn có một điểm chính yếu quan trọng nữa. Đó là việc Đức Giêsu chỉ cho chúng ta thấy thế nào là việc tôn thờ Thiên Chúa cách đúng đắn và đích thực: "Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những ngườI thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phương NgườI như thế. Thiên Chúa là thần khí và những kẻ thờ phương NgườiphảI thờ phương trong thần khí và sự thật.'
1. THỜ PHƯỢNG THIÊN CHÚA TRONG THẦN KHÍ:
Dân Do thái quan niệm rằng: Thiên Chúa là của riêng họ, đứng về phía họ để chiến đấu chống lạI các dân tộc khác. Họ cũng cho rằng: Thiên Chúa chỉ cư ngụ tại một nơi nào đó cụ thể, chẳng hạn như trong lều trạI chứa Hòm Bia giao ước, hay trong Đền Thờ Giêrusalem. VớI quan niệm như thế, Thiên Chúa của chúng ta mang đầy giớI hạn. Ngài cũng giống như một con ngườI biết yêu, giận, ghét, hữu hạn trong không gian và thờI gian.Thiên Chúa đã chấp nhận tất cả những gì con ngườI gán ghép cho Ngài như thế vì lòng yêu mến họ và Ngài muốn dẫn họ từng bước tiến đến chân lý đích thực qua thời gian.
Giờ đây, Đức Giêsu bắt đầu nâng tầm hiểu biết của họ về Thiên Chúa lên một tầm vóc mới.. Họ phảI tập nhìn và hiểu biết Thiên Chúa cách đúng đắn. Thiên Chúa chính là Đấng toàn năng, là Đấng sáng tạo muôn loài và là Cha chung của hết mọI người. Ngài là Thiên Chúa toàn năng tuyệt đốI nhưng Ngài cũng rất gần gũI vớI con ngườI và hết lòng yêu thương con người.
Chúng ta phảI tôn thờ Thiên Chúa trong thần khí. Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần tự do hoạt động trong chúng ta, để Ngài giúp chúng ta hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa đúng như Ngài trong bản tính đích thực của Ngài... Một Thiên Chúa đích thực không thể bị giớI hạn bất kỳ điều gì trong không gian hay thờI gian; không thiên vị ai, nhưng yêu thương hết mọI ngườI, muốn cho mọI ngườI được sống và được cứu độ. Chúng ta không thể hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa nếu chúng ta không để cho Chúa Thánh thần hướng dẫn chúng ta. Chúng ta hãy phá tan những bức tường và rào cản nơi cõi lòng ta để Thần khí Chúa có thể đi vào và biến đổI lòng ta thành nơi tôn thờ Thiên Chúa đích thực.
2. TÔN THỜ THIÊN CHÚA TRONG SỰ THẬT
Có thể nói, tấ cả những hiểu biết tốt nhất của con ngườI về Thiên Chúa cũng chỉ đúng một phần nhỏ về Ngài mà thôi. Thái độ khôn ngoan ngoan nhất của con ngườI khi dùng ngôn ngữ của mình để nói về Thiên Chúa là phảI chốI ngay cách nói của mình sau khi nói về Ngài. Vì ngôn ngữ của con ngườI vô cùng giớI hạn. May ra có thể có thứ ngôn ngữ của con tim sâu kín và thinh lặng mớI có thể diễn tả được nhiều điều về Thiên Chúa mà thôi. Một con tim không thiên vị, không thành kiến, không ích kỷ sẽ làm cho con ngườI hiểu biết cách đúng đắn về Thiên Chúa.
Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏI là chúng ta đang tôn thờ Vị Thiên Chúa nào không. Vì rất có thể chúng ta đang tôn thờ một vị thiên chúa là sản phẩm do tay con ngườI làm ra. Hãy nhớ lạI trong lịch sử dân Do thái: Khi Môsê ở trên Núi thánh vớI Thiên Chúa, thì dân chúng bảo Aharon đúc cho họ một Con Bê để họ tôn thờ như vi thần minh của họ. Hay chúng ta hãy nhìn lãi xem trong lịch sử: nhân danh Thiên Chúa nào để dân Do thái đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá? Nhân danh Thiên Chúa nào để Giáo hộI có một thờI đã lập giàn hoả thiêu, thiêu sống những ngườI bộI giáo và ly giáo?... Khi chúng ta tôn thờ Thiên Chúa mà lòng chúng ta đầy dẫy những điều xấu, ích kỷ, tham lam, dâm ô... là chúng ta đang tôn thờ và chạy theo một vị thiên chúa do sản phẩm của con ngườI làm ra; một vị thiên chúa giả tạo.
Vị Thiên Chúa đích thực phảI là Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, một vị Thiên Chúa yêu thương hết thảI mọI ngườI và sẵn sang mở rộng vòng tay đón nhận tất cả mọI ngườI khi họ tìm đến vớI Ngài. Vị Thiên Chúa ấy là Cha của tất cả chúng ta, một ngườI cha tuyệt hảo và quảng đạI vô cùng. Vị Thiên Chúa đích thực được hoạ lạI cách trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Nói cách khác, Đức Giêsu Kitô chính là hình ảnh trung thực nhất về Thiên Chúa Cha. Hãy tôn thờ Vị Thiên Chúa chân thật - Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.
Nước là yếu một trong những thứ cần thiết cho sự sống. Mọi nơi và mọi thời đều cần nước. Cỏ cây, sinh vật đều cần nước. Con người thì càng cần nước hơn. Sau không khí, nước là yếu tố quan trọng của đời sống. Có nước mới có rau cỏ, mới có sự sống. Đối với Ả Rập hay Tây Tạng, đối với khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là một giọt máu trong thân thể. Trái lại, khi chúng ta sống ở ruộng đồng hay miền sông nước, chúng ta không thấy quý nước như những người ở trên vùng cao hay đi trong samạc. Có nhiều khi còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt. Chúng ta là những người giàu có nước uống, nước giếng, nước sông, nước hồ, nước ao, nước mưa, nước trái cây và mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít nước để ăn uống, tắm giặt, tha hồ thoải mái.
Nước là tác phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Nước tạo nên sự tươi mát. Bất cứ nơi đâu, dù là sa mạc mà có nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của cây cối. Đứng trước một dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình được tươi mới. Những ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm nước sông hay gặp nước mưa thì quả thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho đến lòng người,tất cả đều được đổi mới. Tiếp đến nước tinh luyện và tẩy sạch. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý nghĩa thanh tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội để xóa bỏ mọi dấu vết của tội lỗi. Nếu như nước thường do Thiên Chúa dựng nên còn có ích cho việc dinh dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một thứ nước trường sinh như chính Ngài đã quả quyết với ông Nicôđêmô và người thiếu phụ Samaria. Nước hằng sống của Chúa là nước cứu độ, ai uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ ước một thứ gì trên trần gian này nữa. Nước hằng sống này xuất phát từ trái tim ngập tràn yêu thương của Ngài, đã hoán cải được biết bao nhiêu người, không lẽ lại chẳng níu kéo được chúng ta ra khỏi vũng lầy tội lỗi.
Trong bài Phúc âm hôm nay khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu là những nhịp cầu nối liền những dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xóa đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu đưa vào đời sống thần linh. Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một người Do Thái đáng xa lánh. Còn tệ hại hơn nữa, anh chàng Do Thái này nghèo nàn, đang đói khát, mệt mỏi, chỉ chờ xin chút nước uống. Chị hơn Ngài vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước là nơi ấy có sự sống. Vì nhờ nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có. Không những người phụ nữ có giếng nước mà còn có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình, còn có Đền Thờ vững chắc xây dựng trên núi Garizim.
Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng ấy không cho nước Hằng Sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì Đền Thờ chỉ là gạch đá vô hồn không có Chúa ngự trong đó.
Trong phút chốc chị trở nên nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả, nay chị chợt thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng là mình giàu có, nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo. Lấy đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy, một niềm tin nhen nhúm, một mạch sối trào dâng... Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành luỹ che chở cuộc đời, hóa ra chỉ là những tảng ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi mạch suối dào dạt trào tuôn.
Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ái hóa ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hóa bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn. Thì ra của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức, là những tấm màn che mắt chị, không cho chị nhận ra Chúa Giêsu Đấng Cứu thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Chúa Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc ấy bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái: "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư?". Nhưng lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thư nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống chị nhìn ra người đối diện: "Cao cả hơn tổ phụ Giacóp". Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống, chị nhận ra Người là "một tiên tri". Một nhát gươm nữa vun lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và chị tin vào Người.
Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả bình múc nước, quên cả múc nước chạy về làng báo loan tin vui. Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi Đền Thờ trống rỗng.
Lời Chúa như lưỡi gương sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc. Lời Chúa là ngọn đèn soi đường, nên chị bước đi những bước lẹ làng vững chắc hướng về sự sống mới. Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu cái bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước Trường Sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã gặp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao vời những đường bay rất đẹp.
Người phụ nữ đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút trên trời cao. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ảo tưởng, những thứ đạo đức vụ hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình, và vì thế, ta không bao giờ gặp được Chúa. Xin Lời Chúa như lưỡi gươm tách rõ trắng đen để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin Lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta, và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con nhận ra Chúa để chúng con luôn làm theo điều Chúa muốn. Amen.
------------------------------------
MC 3-A82. Chỉ Có Chúa Mới Lấp Đầy Khao Khát Của Con Người
Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân Do-Thái ngày xưa trong hoang địa mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta đến độ nào và nhu cầu được uống cho đã khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát dày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (bài đọc I, sách xuất hành 17. 3-7)
Thế nhưng ngoài cơn khát tự nhiên là khát nước, con người luôn có những khao khát mà không có gì trên thế gian có thể làm cho no thoả. Người ta gọi đây là khát vọng vô biên. Đây là cơn khát về mặt tâm linh nên chẳng có thứ nước nào trên đời có thể làm dịu bớt.
Người phụ nữ xứ Samari trong Tin Mừng hôm nay (Gioan 4, 5-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải lần lượt chia tay với cả năm người đó, để tìm hạnh phúc với người thứ sáu. Rốt cuộc chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi lấy nước. Ngày nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp.
Chính vì thế nên Chúa Giê-su khẳng định với người phụ nữ Samari: "Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại." Qua đó, Chúa Giê-su muốn nói không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con người.
Ông Arthur Schopenhauer (1788-1860), một triết gia người Đức cho rằng "những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói."
Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: "Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao - thoả mãn, thoả mãn - khát khao... cứ tiếp diễn mãi không cùng", càng về sau lại càng tăng "đô" hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì ngọn lửa khao khát trong lòng mình.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ cho người phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối mang lại hạnh phúc: "Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Gioan 4, 13-14). Chúa Giê-su chính là Mạch Nước đó.
* * *
Xưa kia, Augustinô là người mải mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt nhiều năm trường nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy trái tim khao khát của ngài. Mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mô-ni-ca, Augustinô mới khám phá Thiên Chúa là Nguồn Suối đáp ứng khát vọng của ngài và đem lại niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ lòng đầy hoan lạc, Augustinô thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài".
Chỉ trong Thiên Chúa, khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giê-su nói: "Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Gioan 4, 13-14)
Lạy Chúa Giê-su, còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa là Nguồn Nước mang lại hoan lạc và no thỏa cho tâm hồn. Xin cho họ được nhận biết Chúa chính là Nguồn Suối mà họ hằng khát khao.
Xin cho chúng con, như người phụ nữ Samari xưa, sau khi gặp được Chúa là Nguồn Nước trường sinh, thì cũng mau mắn giới thiệu cho mọi người đến gặp Chúa, để họ cũng được no thoả nơi Chúa là Mạch Suối mang lại sự sống đời đời.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
------------------------------------
MC 3-A83. Ai là Người Đàn Bà Samaria, Ai là Chúa Giêsu Đối Với Tôi?
1. Bờ giếng Gacóp là môi-trường sống riêng biệt của mỗi cá nhân.
Môi trường nầy có thể là gia đình, là một Phong trào tôi đang sinh hoạt, một Hội đoàn Công giáo tiến hành tôi đang tham dự, là môi trường giáo xứ, môi trường công tư sở mà tôi đang là một thành viên trực thuộc. Bờ giếng Giacóp như một quán nước bên đường, một Rest Area bên xa lộ cuộc đời cho người lữ khách đường xa dừng lại, nghỉ ngơi, bồi đưỡng để lên đường đi tiếp đích điểm cuối cùng của cuộc hành trình.
Tôi là một người đàn bà Samaria đang làm chủ hay đang tiếp xúc, tiếp cận với môi trường riêng tư hay công cộng mỗi ngày hay mỗi tuần khi có dịp.
Chúa Giêsu có thể hiện thân là một trong những thành viên của gia đình tôi, một người bạn đồng sở làm với tôi, một hội viên, một đoàn viên, một thành viên cùng giáo xứ với tôi.
2. Người đàn bà Samaria đã cho Chúa Giêsu nước uống khi Ngài xin.
Muốn tặng nước cho Chúa Giêsu uống, người đàn bà Samaria phải có nước hay phải có gàu để múc nước từ dưới giếng Giacóp lên mà biếu tặng Chúa Giêsu. Muốn cho, muốn tặng thì phải có cái để tặng, để cho. Không ai cho cái mình không có bao giờ cả. Cái nguyên lý căn bản nầy ai cũng biết hết.
Tôi là một người Samaria mới trong vai trò làm vợ tại môi trường gia đình. Chồng tôi là một Giêsu đang tiến lại gần, tiếp cận với tôi và thành khẩn xin tôi thứ nước cảm thông, tha thứ để giúp anh bắt đầu làm tốt lại từ đầu vai trò của một người chồng, người cha mà cả hơn một năm nay đã bỏ bê không ngó ngàng tới. Anh rất ân hận, lúng túng. Anh muốn sửa lại mọi sự trong ngoài. Thứ nước cảm thông, tha thứ từ chị bên bờ giếng Giacóp là môi trường gia đình. Chị có sẵn sàng như người đàn bà Samaria làm cho Chúa Giêsu không?
Tôi là một người chồng trong một hoàn cảnh tương tự như trên đây, tôi có sẳn sàng ban tặng người số một của tôi thứ nước hòa giải để nối lại tình xưa nghĩa cũ đã một thời gián đoạn vì hiểu lầm, để vợ chồng, con cái cùng đoàn tụ trong một môi trường gia đình đấm ấm, hạnh phúc như xưa, được không?
Tôi là một đứa con trong một gia đình. Bố mẹ tôi đã luống tuổi, lại chịu ảnh hưởng của nền văn hoá lâu đời của Việt-Nam. Tôi sinh ra và lớn lên ở Mỹ, chịu ảnh hưởng một nên văn hóa và giáo dục sâu đậm của Hoa-Kỳ. Giữa tôi và bố có sự xung khắc, vì bố tôi chỉ nói tiếng Việt, còn tôi chỉ biết nói tiếng Anh. Hai bố con không gặp nhau trong quan niệm sống và không hoà hợp nhau trong đời sống gia đình. Tôi nghe cha sở của tôi giải thích rằng giưã bố mẹ và con cái có thể không hiểu và không thông cảm nhau vì khả năng ngôn ngữ. Cho nên bố mẹ cần cập nhật-hoá tiếng Anh và con cái cần trau dối thêm tiếng Việt để dễ dàng thông cảm với nhau, nhưng về tình yêu thương bố mẹ Việt-Nam dành cho con cái thì không cần "ấp đết". Tôi đang ngồi bên giếng Giacóp của gia đình trong Mùa Chay như một cơ-hội. Chiếc gầu cảm thông tôi đang cầm trong tay. Tôi chỉ cần thả xuống... kéo lên nuớc "I'm sorry" và đổ vào thùng yêu thương của bố tôi có sẵn thì tôi sẽ trở thành một người Samaria thứ thiệt, bắt đầu từ Mùa Chay thánh năm nay
Tôi là một thành viên có hạng trong Phong Trào. Tôi đang ở trong Ban điều hành cuả Phong Trào. Nhưng tôi ghét cay ghét đắng những người không ủng hộ tôi trong những kế hoạch tôi đề nghị. Tôi muốn loại bỏ và khai trừ hết những người chống đối. Cha Sở của tôi và cũng là linh hướng của Phong Trào nói với tôi rằng ngày xưa tại Nam Việt-Nam, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương có nói mọt câu chua cay nhưng để đời: "Trong hoàn cảnh của xã hội Miền Nam hôm nay, nếu sa thải hết những người hối lộ thì lấy ai làm việc công". Cha sở khuyên tôi hãy chấp nhận hợp nhất trong khác biệt và ngài thêm: Biết đâu nhờ những chống đối ấy mà người trong cuộc sẽ cẩn trọng hơn trong các phương án. Âu đó cũng là một điều hay. Bây giờ Mùa Chay là một cơ-hội. Hội Họp của Phong Trào như quán nước Giacóp bên đường. Giếng đây, gàu đây tôi có vui lòng cúi xuống... kéo lên để biến tôi thành một người Samaria mới ở dây và bây giờ không?
Tôi là một thành viên năng nổ của cộng đồng xứ đạo của tôi. Tôi đang giữ một vai trò tương đối có ảnh hưởng. Một ngày kia, có thể là Cha Sở, có thể là một thành viên khác vì thiếu tế nhị cũng có hay vô tình cũng có, đã nói một lời hay tỏ một thái độ... đụng chạm đến tôi. Thế là tôi buồn, tôi giận, tôi bỏ xứ và bỏ luôn cả việc đi lễ tại nhà thờ giáo xứ trong một thời gian dài. Mùa Chay là một cơ hội. Giếng Giacóp là quán nước bên đường mời tôi là một lữ khách dừng lại. Tự nhiên tôi suy nghĩ. Tôi giận người khác, tôi giận luôn cả Chúa được sao? Thiệt là vô lý. Tôi chỉ cần tra tay vào chiếc gầu cảm thông và thả xuống giếng rồi múc lên nước tha thứ là tôi có thể trở thành một người Samaria mới bên bờ giếng Giacóp của giáo xứ.
Người phụ nữ Samaria đã múc nước cho Chúa Giêsu uống khi Người ngồi bên bờ giếng Giacóp ngày xưa. Chúa Giêsu đang ngồi đấy bên bờ giếng Giacóp của cuộc đời. Ngài đang hiện thân trong những người khác đang có nhiều liên hệ đến cuộc đời bạn và tôi... và Ngài đang nói với mỗi chúng ta: "Cho tôi uống nước với". Liệu chúng ta có sẵn sàng không?
Cuộc sống con người có nhiều mối tương quan liên đới với nhau, và có nhiều cuộc gặp gỡ khác nhau. Có những cuộc gặp gỡ như gió thoảng, như mây trôi… gặp đó rồi tan biến đi không để lại một dấu tích nào trong cuộc đời. Nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cả một đời người. Đó là cuộc gặp gỡ kỳ diệu của tôi, người con gái dân làng Samaria, với Đức Giêsu bên bờ giếng.
Hơn hai ngàn năm trước, giữa trưa hè oi bức, trong lúc mọi người đang nghỉ trưa, nhìn trước nhìn sau không thấy bóng người, tôi một mình lén lút mang bình ra giếng để múc nước với hy vọng không phải gặp mặt những người thân quen. Tôi muốn chạy trốn vì gốc gác thấp hèn không trong sạch của mình, nên những người hàng xóm láng giềng luôn xa lánh tôi. Tôi muốn trốn chạy vì trót mang thân phận hồng nhan đa truân, tình duyên lỡ làng với 5 đời chồng, nên những người họ hàng bà con luôn nhìn tôi bằng con mắt khinh bỉ. Tôi muốn chạy trốn vì xã hội này đã quay lưng với tôi, đã không có chỗ dành cho tôi, đã âm thầm kết án tôi là phường đàng điếm tội lỗi …
Một mình tôi bước đi trong cuộc đời, và hôm nay, một mình tôi bước ra bờ giếng với hy vọng không phải gặp mặt người nào cả. Nhưng kìa…một người đàn ông Do Thái đang ngồi nghỉ trưa bên bờ giếng. Ông ngước mắt nhìn tôi, tôi không còn cách nào chạy trốn nên đành phải cúi đầu bước đi trong thinh lặng. Tôi bước đi nhưng lòng tôi lại có ý nghĩ khinh miệt người đàn ông này. Hắn chỉ là một gã Do Thái đói rách bẩn thỉu, nhưng có lẽ hắn cũng tham lam và coi trọng lề luật như bao gã Do Thái khác. Nhìn quần áo của hắn thì biết rõ hắn còn là một gã Do Thái nghèo. Cuối cùng bước chân nặng nề cũng mang tôi đến bên bờ giếng. Tôi mong muốn múc nước đổ đầy bình cho thật nhanh để ra về ngay, tránh cái nhìn soi mói của gã đàn ông Do Thái này. Hơn nữa, theo luật Do Thái, Samari và Do Thái là hai thế giới riêng biệt, không bao giờ được phép chung đụng, vì người Samari bị coi là phường ngoại đạo.
Bỗng dưng người đàn ông lên tiếng gợi chuyện với tôi: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (Ga.4:8). Tôi bâng khuâng ngỡ ngàng về giọng nói trầm ấm đó. Tôi ngạc nhiên về lời xin nước để uống. Tôi ngước mắt nhìn ông, nhìn vào vầng trán cao với khuôn mặt nhân hậu … nhìn vào cặp mắt sáng ngời với nụ cười hiền hoà tươi vui … Tôi nhủ thầm trong lòng: “Chắc hẳn ông này không phải là người tầm thường”. Tôi lên tiếng nói với ông ” Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?” (Ga.4:9). Nghe tôi nói, ông nở nụ cười thật tươi, thật hiền hòa như trả lời với tôi rằng ông chẳng nặng lề luật, nhưng trọng tình người.
Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, tôi mới hiểu ra rằng ông chỉ giả vờ xin nước để gợi chuyện với tôi mà thôi. Ông không khát nước, nhưng từng bước rồi từng bước, ông tế nhị chỉ bảo cho tôi biết chính tôi mới là người khát, khát Nước Hằng Sống. Ông hé mở cho tôi biết ông là ai, và ông sẽ làm gì để tôi hết khát: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Ga.4:13-14). Sự xa lạ và nghi ngờ đối với ông trước đây đã dần dần tan biến trong tôi, nhường chỗ cho sự yêu thương kính trọng.
Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, ông nhìn thấu suốt con người của tôi: những cuộc tình vụng trộm chóng qua, những thù hận và trốn chạy trong cuộc đời, những vết thương lòng nhói đau … tất cả ông đều biết rõ, cái biết của ông không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông. Tôi giật mình sấu hổ khi thấy ông biết rõ những bí ẩn của đời tôi: “Chị nói: tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị “ (Ga.4:18). Nghe lời nói của ông, trong tôi từ chỗ yêu thương kính trọng trước đây, bây giờ tôi cúi đầu tôn kính ông là ngôn sứ của đời mình
Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, ông chỉ vẽ cho tôi biết về Thiên Chúa:” Thiên Chúa là thần khí, và những ai thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật." (Ga.4:24). Và cũng trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, khi nghe tôi nhắc đến Đấng Mêsia, còn gọi là Đức Kitô. Ông đã lên tiếng: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây" (Ga.4:26).
Tôi đứng dậy, để lại vò nước bên bờ giếng, chạy như bay về nhà, thông báo với bà con họ hàng, với hàng xóm láng giềng, với mọi người tôi gặp gỡ… những người mà chỉ vài giờ trước đây tôi còn chạy trốn không muốn gặp mặt, nay tôi mạnh dạn lớn tiếng nói với họ: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4:29).
Giêsu ơi! Cuộc gặp gỡ kỳ diệu bên bờ giếng đã biến đổi đời con, giúp con trở thành con người mới, với trái tim mới, trái tim của yêu thương và hy sinh phục vụ... Xin cho con được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong suốt cuộc đời của con. Amen
Trang sách Xuất Hành hôm nay nhắc lại cơn khát nước của Dân Chúa trong sa mạc. Họ kêu trách ông Môsê. Ông Môsê phải khẩn cầu Thiên Chúa và Ngài đã ban cho họ nước từ Tảng Đá vọt ra làm thỏa cơn khát. ( x. Xh. 17, 3 – 7 )
Tảng Đá ấy là hình ảnh được báo trước về Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trường Sinh cho nhân loại vọt ra từ cạnh sườn của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay, đã ứng nghiệm điều tiên báo ấy.
Người Giuđê và Galilê, Nam và Bắc Do Thái, xem người miền Trung – Samari, là dân tứ chiếng, ngoại đạo, nên khinh miệt họ, và tuyệt giao.
Vậy mà hôm nay, một mình Chúa Giêsu đến gặp một phụ nữ Samari đang kín nước bên giếng Giacop, và xin nước uống. Thật là bất ngờ !
Cái bất ngờ thứ nhất đối với chị người Samari, là đã có một người vượt qua cái kỳ thị lâu đời về địa phương, cái khoảng cách về phái tính, để “xin nước uống”.
Chị chưa khám phá ra người ấy thế nào, nhưng hẳn phải là một người đặc biệt.
Bất ngờ thứ hai: Chúa Giêsu cho chị biết chính chị phải là người xin nước, và Chúa Giêsu, người xin nước, lại là người sẽ cho chị Nước Trường Sinh. “Đức Giêsu trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" ( Ga 4, 13 – 14 ).
Và từ lòng chân thành đơn sơ, chị thưa: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” ( Ga 4, 15 ).
Bất ngờ thứ ba, Chúa Giêsu cảm thông với chị khi hỏi đến đời tư của chị. Chị đã nói thật rằng chị không có chồng. Hiểu tốt cho chị là nói thật, Chúa Giêsu nói: "Chị nói: "Tôi không có chồng" là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng."
Chị Samari đã xác nhận Chúa Giêsu là ngôn sứ. Từ chuyện đời tư đến chuyện tâm linh, chị sẻ chia với Chúa về việc bất đồng trong cách thờ phượng Thiên Chúa của người Samari và của người Do Thái. “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa” ( Ga 4, 20 )
Bất ngờ thứ tư là Chúa Giêsu đã không dài hơi bênh ai bỏ ai, nhưng qua cuộc gặp gỡ nầy, Ngài đã nhắn gửi tới người Samari một cái nhìn tâm linh mới: “Hãy thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật”: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật." ( Ga 4, 21 – 24 )
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay còn tiếp với bất ngờ thứ năm là người phụ nữ Samari đã trở thành nhân chứng Đức Kitô, cho Nước Chúa, đúng như lời Chúa phán: “Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”.
"Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?" ( Ga 4, 29 )
Bất ngờ tiếp theo, một mùa gặt bội thu trên cánh đồng Samari, và còn hứa hẹn nhiều bất ngờ nữa… “Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” ( Ga 4, 39 – 40 )
Nhìn bước bứt phá ngoạn mục của Chúa Giêsu băng qua khung cửa vào nội thành rồi vào tận pháo đài lô cốt tâm hồn của người Samari, các Tông Đồ sẽ hiểu ra điều Chúa Giêsu nói: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”.
Biết ý muốn của Chúa Cha là cứu độ, biết cơn khát của Chúa Cha là khát các linh hồn yêu mến, phụng thờ Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã vượt lằn ranh cục bộ kỳ thị Bắc Trung Nam, là vượt qua mức hạn phân biệt phái tính, tuổi tác, vượt cái định kiến về tôn giáo, vượt cái đề tài không đội trời chung: thánh nhân và tội lỗi, Ngài đem Tin Mừng cho người đang khao khát Tin Mừng, Tin Bình An.
Chắc chắn không có ai dám nghĩ tới người chồng thứ bảy hay tám chín mười của người phụ nữ Samari kia. Nhưng ngược lại, tin rằng chị đã được Chúa Giêsu là tất cả bình an và hạnh phúc cho đời chị. Không còn cơn khát nào hơn nữa. Vì như Thánh Phaolô dạy: “một khi đã được nên công chính nhờ Đức Tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” ( Rm 5, 1 – 2 ).
Có những cơn khát trong đời người. Và có thể có nhiều cơn khát trong chỉ một con người. Có những cơn khát tầm thường, nhưng cũng có những cơn khát thật ý nghĩa.
Những cơn khát tình thật rực lửa. Có cơn khát tình vì muốn giải thoát nỗi cô đơn của phận người. Nỗi cô đơn không chỉ ám ảnh, mà còn bao trùm cả tâm hồn con người ta trong bóng tối, trong cái túi của một số phận nào đó thật nghiệt ngã. Cơn khát tình như những nỗi u uất trong trái tim ngục tù đòi chia sẻ, đòi nổ tung vòng giam hãm để mà ra với đời, ra với người.
Phổ biến hơn – có thể nói như vậy – có những cơn khát tình nhưng không phải là khát tình, mà là khát dục, như một thói quen hướng hạ thấp hèn, hay do một nhu cầu vô độ của một tình trạng tâm lý bệnh hoạn. Không kể phái tính. Không xếp thứ hạng phái tính nào mạnh hơn hay yếu hơn, nhưng kể từ ngày phụ nữ được giải phóng, nam nữ bình đẳng về mọi chuyện, trong đó cũng bình đẳng về chuyện khát dục cách vô độ.
Những cơn khát, vẫn thường âm ỉ trong cõi lòng, tưởng thành vô vọng, tưởng hóa đá ngàn thu, nhưng chỉ cần một cơ hội như đá chạm vào nhau thì phát hỏa rồi bùng lên thành đám cháy to, cháy nhà mình, cháy cả xóm làng, cháy cả một đất nước, một xã hội… không giập tắt nổi. Ngoài cơn khát nhục dục, còn những cơn khát khủng khiếp hơn: cơn khát quyền lực, cơn khát của hận thù, cơn khát của lòng tham nhũng, cơn khát của thống trị, xâm lăng, bá chủ…
Quả thực, người ta đã và đang có thể làm mọi sự để thỏa cơn thèm khát quyền lực, kinh tế, cơn khát dầu lửa, cơn thèm khát bờ cõi, cơn thèm khát muôn năm, hoặc ít là, cơn thèm khát chỉ được một lần ngồi vào chiếc ngai vàng Bí Thư, Tổng Thống, ngồi vào chiếc xe sang trọng của tỷ phú thế giới, một lần có tên trong danh bạ những ông vua, hoặc còn tệ hơn một chút: khát có tên trong danh sách những đảng viên, nhạc sĩ, thi sĩ miệt vườn !
Không kể là thành phần nào, thượng lưu, trí thức hay dân quèn mù chữ, cũng đều có những cơn khát nghiệt ngã trong đời thường.
Ông B, bán vé số, ngủ ở vỉa hè, hay bị tổ dân phố đuổi. “Tui giận thằng tổ trưởng dân phố quá lẽ. Tui chưa chết đâu ông à. Tui phải làm tổ trưởng dân phố đã, rồi chết cũng bằng lòng”.
Đến chuyện đạo đức, tâm linh, cũng chỉ là một cơn khát cái vỏ: Trên xe, ngồi bên một ông đứng… tuổi. Nhận ra tiếng nói của ông, có người hỏi: “Ông ở BN ?” Ông trả lời một hơi: “Vâng, chị à, tôi ở BN, làm chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ 4 nhiệm kỳ rồi. Sắp bầu cử, thế nào tôi cũng trúng nữa. Họ chẳng chịu tha cho tôi đâu. Năm nay có mấy ông ra… ứng cử, nhưng chẳng ông nào ra… gì !”
Cháu dâu, sang nhà cậu hỏi ý kiến: “Cậu à, có người ở Long An muốn dạm hỏi con gái lớn nhà con. Họ nói tiền bạc họ không cần. Họ chỉ cần làm sui với nhà có đạo đức thôi. Nghe vậy, con mừng ghê. Nhà mình không có tiền, nhưng ai cũng biết là đạo đức thì dư rồi ! Cho họ tới, cậu hỉ ?”
Rõ ràng, là những cơn khát rất tầm thường trong đời người vẫn chiếm đa số.
Nhưng cũng không thiếu những cơn khát thật ý nghĩa, thật cảm động: cơn khát của những người hết lòng vì dân vì nước, cơn khát của trái tim mục tử, cơn khát của người làm cha làm mẹ, cơn khát của nỗi lòng dâng hiến, cơn khát khao nên hoàn thiện.
Về đến Qui Nhơn, có thể nói là Địa phận Mẹ của các Địa Phận mẹ, thăm lại những Giáo Xứ ngày xưa, có Nhà Thờ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, Giáo Dân di tản rồi định cư ở các Giáo Phận phía Nam, hoặc xuất ngoại. Một số ít còn lại, họ khát Linh Mục, khát Thánh Lễ, khát Bí Tích. Các Linh Mục thì khát tìm lại được những con chiên, khát tái truyền giáo, khát xây lại Nhà Nguyện, Nhà Thờ…
Trong lòng những người làm cha mẹ, biết bao nỗi khát cho con cái, khát cái ăn, khát cái mặc, khát cái học hành, khát cái nên người con cái Chúa cho đàng hoàng trước hiểm họa tục hóa, đười ươi hóa, vô thần hóa cả một thế hệ trẻ…
Trong số những người lâm lụy vào cuộc kiếm sống bằng cách bán rẻ con người và nhân phẩm của mình, có biết bao người đang khát trở về, khát nên hoàn thiện, khát nỗi bình an thật, bình an mà thế gian, lạc thú, tiền bạc không mang lại được.
Những ngày nầy, còn phải kể đến cơn khát của cậu bé Toshihito Aisawa, 9 tuổi, đi hết từ khu tạm trú này đến khu tạm trú khác để tìm kiếm gia đình của mình, cơn khát của bao người dân Nhật khát hạnh phúc trường sinh cho những người biền biệt hình dung trong cơn sóng kinh hoàng.
……
Lời Chúa Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay đang mời gọi tôi, mời gọi bạn kiểm tra lại những cơn khát trong lòng mình, để loại trừ ngay những cơn khát thấp hèn, để khởi đầu ngay hoặc tiếp tục những khát khao nên hoàn thiện. Cả việc loại trừ, khởi đầu hay tiếp tục, đều phải nhờ đến Chúa Giêsu qua các Bí Tích ban Nước Trường Sinh cho tâm hồn. Hãy hân hoan múc nước nơi suối Đấng Cứu Độ: Hãy hưởng nguồn ơn Bí Tích từ cạnh sườn Chúa Kitô. Và khi gặp gỡ, khi chạm đến Chúa Kitô, chắc hẳn, chúng ta sẽ chấp nhận đinh, sắt, mão gai và cả cái chết cùng với Ngài, để được cùng Ngài hoàn thiện, bình an, và hạnh phúc thật.
Như đã tìm đến người phụ nữ Samari, bất chấp mọi cách ngăn, Chúa Giêsu vẫn đang kiên trì tìm đến tôi, tìm đến bạn, bất chấp chúng ta tội lỗi đến mức nào, để chúng ta gặp được Ngài và xin Ngài ban nước trường sinh là bình an, hạnh phúc.
Xin chia sẻ chút tâm sự của một tác giả, trong nỗi cô đơn, đã ngộ ra sự hiện diện của Chúa Giêsu, vị Thượng Khách:
“Một mình ở mãi một mình Vui thay có khách thương tình đến chơi Sáng, trưa, chiều, tối… khuya rồi Mời về chẳng chịu. Thì thôi, bằng lòng. Thế là xong, quyết là xong Một đời nặng nợ long đong với Ngài
...
Tưởng là đinh, sắt, mão gai… Nào ngờ, hạnh phúc trần ai không bằng” ( Tuyết Mai Texas )
Lạy Chúa, nếu chúng con không trải qua năm đời chồng như người phụ nữ Samari, thì chúng con cũng đã trải qua năm bảy mươi lần thèm khát những thực tại thấp hèn, mà không có thực tại nào có thể làm thỏa cơn khát của chúng con. Xin cho chúng con chọn Chúa Giêsu, chọn và sống theo Lời Ngài, chọn sự thương khó và đi theo con đường tử nạn của Ngài, với niềm tin tưởng rằng: chúng con sẽ thỏa cơn khát hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho quyết định của chúng con. Amen.
Nhân loại có nhiều thứ để khát, không chỉ khát nước mà còn khát tiền tài danh vọng, địa vị, tình yêu… Trong muôn vàn cái khát, hiếm thấy khát chân lý, tình thương. Có lẽ vì khát mãi mà không thấy, không gặp, không thỏa mãn cho nên nhân loại buông xuôi.
Văn minh ngày càng phát triển, nhu cầu khao khát của con người hầu như đáp ứng đầy đủ. Chỉ cần có tiền, người ta có thể mua được tất cả. Thế nhưng, điểm mấu chốt là thế giới khát mãi không ngừng. Có tiền mà mua cho hết khát cũng tạm đi, nhưng trớ trêu, khát vọng con người vô đáy, không bao giờ đủ, không bao giờ dừng lại. Cứ vậy, thế giới ngày càng trượt dài trong bánh xe tham vọng, khát vọng này nối tiếp khát vọng kia đến vô tận.
Có một thứ nước làm cho người ta không còn khát nữa, đó là dòng nước trường sinh, dòng nước cứu độ, nó lấp đầy mọi hố sâu tham vọng. Càng khát nhân loại càng cuống cuồng đi tìm, lôi kéo, chiếm hữu. Họ không chỉ xin cho được cơm ăn áo mặc mà mọi tiện nghi nhanh gọn hiệu quả đều được thế giới quan tâm đẩy mạnh. Càng uống tham vọng vật chất, nhân loại càng thêm khát. Chỉ những ai biết uống nguồn lương thực bất diệt mới no thỏa được thôi.
Đối diện với văn minh tiến bộ, con người đặt ra muôn vàn câu hỏi thỏa đáp nhu cầu bảo tồn cuộc sống. Nhưng thử hỏi giàu có bạc tiền cũng có mấy ai dừng lại với những gì mình có. Tại sao vậy, tại sao cơn khát của nhân loại lại vô tận ? Phải chăng thực tại trần thế không thể thỏa đáp khát vọng của họ ? Có lẽ khi cơn lốc tham vọng dậm chân tại chỗ, thế giới sẽ có hòa bình, yêu thương.
Quả vậy, cũng chỉ vì tham vọng mà con người vẫn hoài lây lất trong tranh chấp và nước mắt chia ly. Mãi vẫn không thấy hòa bình thịnh vượng, trong khi con người ai cũng muốn được thịnh vượng hòa bình. Nhân loại khát tham vọng, Đức Giêsu lại khát tình yêu. Ngài khao khát cho con người nhận biết, yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa để được sống. Ngài thao thức mong mỏi con người tin vào dòng nước trường sinh bất tử chỉ vì muốn họ no thỏa không thôi, và không còn phải khát nữa.
Cứ hỏi tại sao nhân loại mãi khóc, vì chưa no thỏa nên phải khóc. Người nghèo khóc cái ăn cái mặc, kẻ giàu khóc sao cho được giàu có thêm. Cứ bấu víu vào thế lực vật chất thì làm sao no thỏa được ? Có gì trong vũ trụ thỏa đáp khát vọng nhân loại đâu. Thế giới sống như không cần Thiên Chúa, việc tôn thờ thần linh trở thành dịch vụ thỏa đáp tham vọng con người. Cầu khấn để cho được quyền lực vật chất chứ không để tôn thờ. Thiên Chúa không phải là Đấng ngồi trong đền thánh chờ đợi con người đến tôn sùng khấn vái nhưng Ngài hiện diện trong chính tâm lòng họ, khi nhân loại biết tin yêu và phụng thờ với cả lòng thành.
Phải chăng hoạt động của Thiên Chúa chìm sâu trong thinh lặng nên nhân loại khó tin. Hay chỉ vì cái nhu cầu về cơm ăn áo mặc lớn hơn khát vọng chân lý để mà nhân loại bao đời vẫn chìm trong lầm than đói khổ. Tìm được lý tưởng sống là điều không dễ. Người ta khó khăn thế nào mới tìm được nghiệp, sẽ càng khó hơn để mà tìm lẽ giữa đời.
Đến trần gian là để thế giới hiểu rằng chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy khát vọng sâu thẳm của nhân loại, nhưng con người đã phủ nhận điều đó, chỉ vì tin thờ Thiên Chúa là đi trên bánh xe trần thế, tự bảo mình phải vượt thoát khỏi tham vọng ở đời. Sống siêu thoát đâu phải là việc dễ dàng. Càng bám vào con người, nhân loại càng khát nhưng đi theo Thiên Chúa càng phải từ bỏ mình. Cuộc sống luôn đòi hỏi chọn lựa. Thế nào là chọn lựa khôn ngoan để được sống mãi, là dấu hỏi ngàn đời nhân loại phải giải mã.
Niềm tin vào thế giới thần linh ngày nay đã trở thành một thứ dịch vụ “xin – cho”. Họ tung tiền cầu khấn để xin được như ý. Họ cúng vái, làm phước đức đền này thành nọ để được ban ơn, mà quên đi cái đền thờ Thiên Chúa ở ngay trong chính tâm hồn. Đền thờ nhất thiết phải biết trân trọng tôn kính chính là bản thân mình, vì đã được Thiên Chúa cứu chuộc bằng chính giá máu Ngài. Thiên Chúa đâu phải ở đền đài cao sang hay trên núi cao mà Ngài hiện diện trong mỗi cá vị kìa. Người ta có biết coi trọng Thiên Chúa là ai, ở đâu, cho nên không cảm thấy ngần ngại khi tổn thương, xúc phạm tha nhân cách vô tâm, không cần biết đến Thiên Chúa của họ.
Trình thuật Đức Giêsu với người phụ nữ Samari hôm nay cũng chính là thao thức của Giáo Hội, làm thế nào để có thể giới thiệu hình ảnh Đấng cứu độ duy nhất cho nhân loại. Con người càng uống sự cậy dựa vào của cải vật chất họ càng thêm khát, phải làm sao cho thế giới tin nhận Ngài là Đấng giải thoát họ khỏi mọi khát vọng. Có Thiên Chúa là có tất cả, chiếm hữu được Ngài nhân loại sẽ không còn thèm khát bất cứ điều gì. Thế nhưng, thế giới chả mấy người muốn được Thiên Chúa chiếm hữu. Ai cũng biết vạn vật rồi sẽ qua đi, không thọ tạo nào có thể khiến con người no thỏa, ngoài Thiên Chúa, nhưng vẫn không thiếu kẻ điềm nhiên chối từ, kẻ thì ngại bỏ mình, người ngại hy sinh… tựu trung cũng là ích kỉ hưởng thụ cá nhân lôi kéo.
Lạy Chúa, diễm phúc hơn trong nhân loại, con sớm được mời, được chọn, được tách riêng để uống dòng nước cứu độ. Tìm được lẽ sống đời mình, thay vì ngủ yên trong ân sủng, để được lấp đầy mọi khát vọng, con lại từ khước, bước lại đường mòn trần gian tìm đến nguồn trường sinh bất diệt. Trần gian có khi nào khiến con người no thỏa, nhân loại có ai không khát, sao có thể giúp người bớt khát ?
Con xin lỗi vì không tìm được sự no thỏa nơi Ngài trên con đường ân thánh, phải chăng con chỉ là thụ tạo, muốn được trở về sự thật đời mình ? Cảm ơn Thiên Chúa, tình yêu Ngài cho con niềm tin, sức mạnh. Con không khát danh vọng, bạc tiền nhưng khát yêu thương. Được sinh ra từ tình yêu, con không thể sống trong bầu khí quyển gian dối. Tha thứ cho con, không phải vì ham muốn bất chính mà chỉ vì con khát… Chúa ơi !
Bốn phương trời, tình theo bước khách, phải chăng là bước chân âm thầm của Đấng Nhân Hiền hằng đưa dẫn mọi người về lại với Cha như trình thuật Tin Mừng đã ghi chép ?
Trình thuật theo Thánh Gioan hôm nay ghi, là ghi về một đối thoại hãn hữu giữa Đức Giêsu và nữ phụ xứ Samari. Đây là biến cố ít khi thấy nơi người Do Thái, mọi thời đại. Do thái xưa, vẫn coi nữ phụ xứ Samari là kẻ vô dụng, về nhiều thứ. Phụ nữ muốn múc nước về dùng, đều phải ra giếng. Thông thường, muốn ra giếng Giacóp, phụ nữ phải đi thành đoàn. Trình thuật hôm nay, kể về nữ phụ hôm ấy, không chỉ một thân một mình đến múc nước giếng mà thôi, nhưng còn dám tiếp chuyện với Đấng lạ mặt, một nam nhân Do thái. Đó là điều tối kỵ. Đó chính là vấn đề.
Vấn đề nặng nề hơn, khi người tiếp chuyện với nữ phụ ngoài luồng giữa “thanh thiên bạch nhật”, lại là Đấng Nhân Hiền từng hành xử nghiêm minh, nhất mực. Thật hiếm khi thấy Đức Giêsu đối thoại cả với nữ phụ về nhiều vấn đề, ngay cạnh giếng Giacóp, tức chốn thánh thiêng truyền thống, rất gắt gao.
Cũng vì tính cách gắt gao nghiêm túc ấy, nên cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và nữ phụ Samari đầy những chuyện ngoại lệ. Vì ngoại lệ, nên nữ phụ Samari cứ phân tâm nói chuyện khác, khiến Chúa cứ phải gạt sang một bên những chuyện không cần thiết. Vì Ngài có một số điều quan trọng muốn nói và tặng ban để chị lưu tâm. Cuối cùng, Ngài đành chấp nhận ở vào cảnh huống có ngoại lệ.
Trình thuật hôm nay đưa ra một số điều ngoại lệ không mang ý nghĩa gì, như câu:“còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt”, “đồng lúa chín vàng chờ ngày gặt hái”, “kẻ này gieo, người kia gặt", càng làm cho cuộc đối thoại giữa Chúa và người nữ phụ trở nên “ngoại lệ” hơn. Câu chuyện ngoại lệ còn thấy ở nhiều điểm khác rất tinh tế.
Trước hết là giới tính. Ngày nay, nam nhân được phép nói chuyện thẳng thắn, công khai với phụ nữ ở chốn đông người, đâu thành vấn đề. Khi xưa thì không dễ. Và đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như ngầm bảo: ta hiện diện nơi đây, cũng là chuyện bình thường, rất mọi ngày ?
Và, một ngoại lệ khác về sắc tộc. Cũng không hẳn là chuyện kỳ thị, nhưng hỏi rằng: người Do thái xưa có được nói chuyện dễ dàng với người Samari “ngoài luồng” không ? Hoặc vì luật cấm, nên đôi bên cứ phải tránh né nhau ? Đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như ngầm chứng tỏ một luận cứ: nói chuyện với nữ phụ, không là vấn đề! Chúng ta đều là con người!
Rồi, ngoại lệ khác, về giáo dục. Chắc hẳn có người hỏi: các thày tư tế có được nói chuyện với người ít học không ? Cuộc đối thoại với nữ phụ Samari, ra như Chúa muốn ngầm tỏ bày một nhận xét, là: xem ra chị cũng là người thông minh, dù chưa từng đến trường lớp để được học!
Ngoại lệ kế tiếp, là về lịch sử. Ngày nay, ta có nên suy tư về hiện tại và về con người ở đây, ngay thời này không ? Hỏi là hỏi thế, chứ dường như Sách Thánh chỉ kể về quá khứ với chuyện lão phu hay lão phụ đáng kính, mà thôi. Đối thoại được kể lại hôm nay, chừng như Đức Giêsu muốn ngầm nhắn với người đọc, rằng: bản thân TA cũng đâu muốn đem Kinh với Sách ra mà bàn. Thật sự, điều TA muốn đề cập chỉ là về chị, thôi.
Và, thêm một ngoại lệ nữa, về chốn phụng thờ. Có câu hỏi, rằng: thờ phượng Chúa nơi nào là thích hợp hơn cả ? Với người Do thái, câu trả lời sẽ là: đền Giêrusalem. Với người Samari, đương nhiên là núi thánh Gerizim, gần Sechem. Đối thoại với nữ phụ ngoài Đạo, dường như Đức Giêsu muốn ngầm bảo rằng: một ngày kia, TA đâu cần đền thờ nào nữa. Tất cả chỉ cần yêu kính Chúa, thế là đủ.
Cuối cùng, là ngoại lệ thật rõ nét về bí nhiệm của cuộc sống trong quá khứ mà người người cứ tưởng rằng chẳng ai biết đến, dù là Chúa. Bí nhiệm cuộc sống riêng tư, như nữ phụ Samari được biết có đến năm bảy đời chồng. Và thêm nữa, ta có nên cho đó chuyện quan trọng bậc nhất, trong cuộc sống không ? Đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như muốn nói: Tốt. TA biết tất cả mọi sự về con. Bởi thế nên, cũng đừng lo lắng gì về Ta, hết.
Đức Giêsu thật kiên nhẫn. Dù nghe đủ thứ chuyện, nhưng Ngài lại không mấy quan tâm thích thú. Ngài chỉ muốn đem đến cho nữ phụ Samari, cũng như mọi người, thông điệp thật sự quí giá, đó là: sự sống là quà tặng. Và khi nhận được quà, mọi người cũng nên cảm kích biết ơn, thế mới phải.
“Nếu chị nhận ra đó là quà tặng Chúa ban”, “Nếu chị biết rằng Chúa đang ban ơn cho chị”… chính là khẳng định rất chắc nịch. Khẳng định rằng: Tất cả là quà tặng, từ Chúa. Quà Ngài ban, vẫn đổ tràn xuống với mọi người. Quà ấy, là tình thương yêu trìu mến xuất từ Thiên Chúa. Tất cả những gì mà mọi người cho là mình sở hữu, tất cả những gì mình làm hoặc suy nghĩ, nhất nhất đều là quà tặng. Chính đó là điều mà mọi người lâu nay vẫn tuyên tín. Vẫn tin vào một Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Đấng ban cho ta hết mọi thứ, như quà tặng không, biếu không. Và hiểu rằng, ý nghĩa quà tặng sự sống Chúa trao ban, làm cho cuộc sống của ta nên đáng sống. Nhưng oái oăm thay, đôi lúc ta cứ muốn độc lập hẳn với Chúa. Cứ suy nghĩ và hành động như thể mọi sự là của ta, do ta kiếm ra. Chứ chẳng phải của ai cho hết.
Bởi thế nên, lắm lúc ta cứ hành xử như mình là chủ-nhân-ông đích thật mọi sự vật. Chủ mọi sự vật cũng như tài sản mình đang nắm giữ. Rồi từ đó, lại có cảm giác cứ trách móc cho rằng Thiên Chúa không tạo dựng nên mọi sự cho ta sử dụng, ngay từ đầu. Sau các cơn địa chấn với sóng thần gây kinh hoàng ở đây đó, nhiều người xem ra mới mở mắt, biết rằng: những gì mình lâu nay sở hữu, thật sự không phải là của mình, do mình kiếm ra. Mà là, do Chúa tặng để mình tạm thời sử dụng, thôi. Sử dụng, theo cung cách rất độ lượng ngõ hầu mình có thể giùm giúp người khác, đang cần thiết hơn.
Quà tặng lớn nhất trong đời mọi người, chính là sự sống. Tựa hồ như giòng chảy ở trên sông. Như mạch suối ngầm trồi lên từ lòng đất. Như Chúa từng quả quyết: “Nước Ta ban, sẽ nên mạch suối trong đó có nước vọt, đem lại sự sống đời đời." ( Ga 4, 14 )
Bởi thế nên, hãy dừng lại ! Đừng hành xử như người ai oán, sầu thảm, chẳng biết ơn. Hãy ngưng trách móc người đời không còn nhớ đến mình. Không nhớ, để giúp tôi sung sướng, hạnh phúc. Trái lại, hãy trở thành động lực sinh động, trong thiên nhiên. Giống thiên nhiên. Và, hãy làm chút gì đó cho cuộc sống. Như, rao truyền niềm vui cho mọi người. Ở mọi nơi. Chứ không chỉ tập trung vào chính mình. Hoặc, chỉ gia đình mình, mà thôi.
Sống, và cảm nhận rằng sự sống là quà tặng, tức: sống biết ơn. Sống như thế, không cần đến đền thờ, nguyện đường hay chùa chiền cho nhiều mà làm gì. Điều chính yếu, là biết nói lời cảm tạ, với mọi người. Ngừng suy nghĩ, nhưng đừng ngưng cảm tạ. Trái lại, hãy cùng nhau cảm nhận. Cùng biết ơn nhau. Đó, là điều cần suy tư, chiêm niệm. Đừng nên coi mọi chuyện như của cho-không/biếu-không, hoặc từ trời rơi xuống. Nhưng, cứ nhận quà tặng/ân huệ với lòng cảm kích, biết ơn. Và, tự hỏi: đã lâu chưa ngày mình nói lời “cảm tạ” người nào đó ? Lâu rồi chứ, giây phút mà ai đó vẫn cảm ơn mình mãi.
Đã lâu chưa, ngày mình thưa: “Tạ ơn Chúa’, bên ngoài Thánh Lễ ? Và khi nói “Tạ ơn Chúa” như thế, thực sự thì điều đó có nghĩa gì ? Bởi Lời Chúa hôm nay ghi rõ: “Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật, vì Cha chỉ tìm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần khí, và kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật." ( Ga 4, 23 – 24 )
Đức Giêsu ra như vẫn ngầm nói với nữ phụ Samari và mọi người rằng: Ta ở đây, nơi này, là để loan tin vui về sự cảm kích biết ơn. Biết ơn, vì đã nhận được quà tặng sự sống gửi đến cho mỗi người. Nếu mọi người đồng ý, thì vai trò của mọi người hôm nay, là thực hiện điều đó, và chứng tỏ cho mọi người thấy, rằng: ta đây cũng có thể làm được nhiều điều khác biệt. Tựa như nữ phụ Samari xưa, biết nhận lĩnh vai trò Chúa uỷ thác, sẽ hành xử theo cung cách riêng: “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với mọi người…” rằng: vẫn có cung cách khác để sống. Là sống cảm kích, biết ơn.
Hội thánh chọn trình thuật này, giữa Mùa Chay, là để con dân mình biết mà đón mừng Phục Sinh. Bởi, Phục Sinh là quà tặng Chúa sống lại gửi đến cho ta. Để rồi, lời Chúa mời mọi người nói lời cảm kích biết ơn về quà tặng sống lại mà cái chết không tài nào lấy đi được khỏi tay ta.
Trong tinh thần cảm kích biết ơn quà tặng Chúa ban, cũng nên về với lời thơ trên mà ngâm tiếp:
“Mây nước vô tình, lãnh đạm trôi, Tình không giống nước, tình không xuôi; bao lần lá thắm xuôi theo nước, nước chảy, tình duyên ở với người.” ( Hổ Dzếnh – Nước Chảy Chân Cầu )
Nước là giòng chảy sự sống. Vô tình là bản tính của nước, nhưng tình không giống nước, vì tình vẫn ở với nước, với đời, để cùng đời cảm tạ Đấng Tạo Thành nước, tạo ra đời, rất khôn nguôi.
Lm. NGUYỄN ĐỨC VINH SANH, bản lược dịch của MAI TÁ
Một người sắp chết khát trong sa mạc nhưng vẫn cố lết về phía trước, mong tìm thấy được một giọt nước. Mắt anh sáng lên khi thấy từ đằng xa có một cái túi da. Một túi nước chăng? Ở sa mạc, nước là sự sống. Hai tay run rẩy, anh chụp lấy cái túi, mở ra … và thấy một nắm vàng bạc, châu báu. Hoàn toàn thất vọng, anh ngã gục xuống, buông xuôi. Trong sa mạc anh mới thấy được là một giọt nước còn quí hơn vàng bạc.
Trước khi đưa Dân Chúa vào Đất Hứa, Chúa để cho họ đi qua sa mạc. Trong sa mạc, họ bị lột trần trụi hết mọi ảo tưởng để trở về với con người thật của mình, và phải đứng trước một chọn lựa mang tính sống còn của đời người: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3). Cái khát của thân xác cho thấy phần nào cái đói từ đáy sâu tâm hồn: Mang thân phận yếu hèn phải sống giữa cuộc đời có nhiều đổi thay, họ cần một chỗ nương tựa, cần một nguồn sống. Vì thế, khi ban nước cho họ trong sa mạc, Chúa muốn họ biết Ngài là nguồn sống của họ giữa lòng đời; và khi đặt vấn nạn: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta không?” (Xh 17,7) họ được thấy ngay bàn tay yêu thương của Chúa.
Phải chịu khát trong sa mạc là một thử thách cho đức tin. Thử thách được Chúa gửi đến không phải vì ghét mà vì yêu họ, bởi đức tin cần được lớn lên trong thử thách. Càng thấy sự túng cực của mình người ta càng nghiệm rõ tình yêu bao la của Chúa: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, nhưng Chúa hằng nghĩ tới” (Tv 39,18). Sự túng đói, bệnh tật, tai nạn, … nhất là cái chết mới dạy cho người ta biết phải tìm kiếm cái thành đạt đời đời, vì mọi thành đạt đời này thực chỉ là một thất bại lớn cho ai không tin vào Chúa: “Ngày ngươi trồng, ngươi trông thấy chúng lớn; ngay buổi sáng, hạt giống ngươi gieo đã trổ bông. Nhưng trong ngày thu hoạch, chẳng gặt hái được gì, và tai hoạ thật vô phương cứu chữa” (Is 17,11).
Đúng thế, cái túng cực nhất của con người không phải là thiếu ăn thiếu uống, mà là thiếu vắng Chúa. Tuy được dựng nên theo hình ảnh Chúa, nhưng tội lỗi đã làm họ xa Chúa, nguồn sống của họ. Từ đó, cuộc sống trần gian của mỗi người như là sống giữa sa mạc với cái khát không bao giờ hết là khát Chúa, sự sống của họ. Chỉ có tình yêu Chúa mới cứu được họ: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Nhưng cũng có những người bị ảo giác đánh lừa, không gặp được Chúa nhưng vẫn thấy no đủ. Họ như một người đi tìm nước trong sa mạc, giữa trời nắng nóng, ảo giác làm cho họ thấy xa xa có một hồ nước trong veo. Họ hăm hở bước tới. Hồ nước nằm ngay đấy. chỉ cần bước vài bước nữa thôi, chỉ mấy bước nữa thôi. Mà sao đi hoài không tới? Đường đời cũng có nhiều ảo tưởng làm cho người ta lạc hướng, cứ đi mãi, đi mãi, mà chẳng tìm được hạnh phúc thật vì không có Chúa. Người phụ nữ Samaria dù đã thay đổi năm đời chồng mà vẫn chưa thoả dạ: “vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4,18).
Những nỗi khao khát làm nên sức sống của một đời người. Trên mọi nỗi khao khát đó, hơn cả khát nước trong sa mạc, là khát Chúa, sự sống đích thực được in sâu trong lòng mà mọi người tìm kiếm.
Đức Kitô là câu trả lời cho cái khát muôn đời đó, như Chúa đã nói: “Ai uống nước này sẽ lại khát, còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa!” (Ga 4,14). Đức Kitô mang hạnh phúc Nước Trời đến, nhưng hạnh phúc còn tuỳ ở lời đáp trả riêng của mỗi người: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42). Thầy Léon là một tu sĩ dòng Phanxicô được bề trên phân công may áo cho các tu sĩ, và thầy tận tụy với công việc đến hơi thở cuối cùng. Khi sắp lìa trần, thầy nói với anh em đang đứng xung quanh: “Xin anh em đem cho tôi chiếc chìa khoá mở cửa thiên đàng”. Nghe thế, anh em đem đến cho thầy cuốn sách “Chìa khoá mở cửa thiên đàng”. Nhưng thầy lắc đầu. Thế rồi anh em thay nhau đưa đến các vật dụng đạo đức, các sách tu đức, v.v… thầy vẫn lắc đầu. Cuối cùng, có một tu sĩ hiểu được ý của Léon nên chạy đi tìm cây kim khâu thầy vẫn dùng từ nhiều năm qua.
Mắt Léon sáng lên, thầy nở một nụ cười khi trông thấy cây kim và nói: “Đây chính là chìa khóa mở cửa thiên càng của tôi”, rồi thầy tắt thở.
Thầy Léon được no thoả ngay từ cuộc sống thường ngày, giữa những công việc bổn phận âm thầm, vì lương thực thầy dùng là lương thực của Đức Kitô: “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34), và đã nắm chặt trong tay hạnh phúc Nước Trời.
Ôi lạy Chúa, con thấy mình đói lả. Chỉ có Ngài làm no thoả được thôi.
Chàng Arthur nổi tiếng đạo đức làm bạn với Thibaud. Anh này đã kể cho Arthur một câu chuyện thương tâm: Người hát rong tên là Guillaume Cabestaing yêu cô Margueritte, vợ của nam tước Raimond de Roussillon. Người chồng khám phá được bí mật đó đã giết Cabestaing, móc tim làm một món đồ ăn dọn ra cho vợ mình. Sau khi bà vợ đã ăn hết món ăn ghê tởm ấy ông chồng mới tiết lộ bí mật rùng rợn đó cho vợ hay. Bà vợ nghe xong đã lạnh lùng nói món ăn này ngon quá đến nỗi từ nay về sau tôi sẽ không còn ăn một món nào khác nữa. Bà ta khăng khăng dốc quyết như thế cho đến chết đói. Biết được chuyện động trời này, tất cả những tình nhân và các hiệp sĩ của nước Pháp đều đồng lòng với nhau đến tấn công lâu đài của nam tước Raimond de Roussillon, bao vây phá tan thành lũy và làm cho người chồng độc ác ấy chết cách tủi nhục.
Kể xong thấy anh Thibaud có vẻ thương xót cho số phận của hai tình nhân tội nghiệp và lên án nặng nề người chồng độc ác, Arthur nghiêm khắc chỉnh ngay: Này anh Thibaud đừng ca cho tôi nghe những lơì than khóc gượng gạo như thế nữa. Vì không có gì làm hư hỏng tâm hồn người kitô hữu cho bằng việc dành cho tính hư nết xấu lòng thương xót và lời ca tụng đáng lẽ dành cho nhân đức mà thôi. Nam tước Raimond de Roussillon của anh là một người hung tợn quái ác, nhưng đôi tình nhân bất hạnh của anh không phải là không có tội. Gán những thứ tốt đẹp cho những hành động xấu xa tức là làm cớ cho những ai biết kinh hãi khi thấy tội ác phô bày, đâm ra bắt chước khi thấy tội ác ấy được che đậy dưới mặt nạ của nhân đức.
Đó là một sự ngộ nhận trầm trọng do thiên kiến, do nặng tình cảm hoặc do ảnh hưởng của dư luận đầu độc. Sự sai lạc này thường thường được khơi mào do một cá nhân hay vài người hiếu động rồi lan đến tập thể và dần dần khiến nhiều người bị lôi cuốn cũng đâm ra nhận định một cách lệch lạc mà cứ tưởng cho là đúng là phải. Nguy hiểm hơn cả do sự hiểu lầm lây nhiễm này nên người ta có thể cho một việc xấu không còn xấu hay tội lỗi nữa.
Chính vì thế trong cuộc đối thoại với Chúa Giêsu trên bờ giếng Giacóp, người đàn bàn Samarita hoặc hiểu lầm về những điều Chúa nói hoặc là sai lạc về cuộc sống đạo cũng như đời mà bà ta cứ tưởng mình đúng. Chẳng hạn khi Chúa nói đến thứ nước hằng sống là ân sủng ai uống sẽ không còn khát nữa thì bà ta nghĩ đó là nước tự nhiên đặc biệt và xin Chúa ban để khỏi nhọc công đến giếng múc.
Có lẽ qua hình ảnh người đàn bà Samarita, Chúa muốn nhắn gởi đến mỗi người chúng ta phải suy nghĩ lại về cuộc sống, về bản thân đối với những gì Chúa dạy để có thể nhận ra những sai sót, lầm lẫn mà xưa nay vì thành kiến cố chấp, vì bảo thủ vô lối, vì lười biếng vô học ta vẫn cho mình nghĩ đúng làm đúng.
Trước hết đối với vật chất, chắc chắn không ai chối cãi ảnh hưởng to lớn của nó trên toàn bộ đời sống con người. Nhưng sự nhầm lẫn đối với của cải vật chất ở đây muốn đề cập không thuộc mặt nổi bên ngoài như gian tham, bất công, mê đắm trái luật lương tâm, mà là mặt chìm tức là sự nhận thức, quan niệm về của cải vật chất. Nói khác đi, vì sự cần thiết cho đời sống nên chúng ta có bổn phận ra sức tìm kiếm của cải và nghĩ rằng vật chất có thể thỏa mãn mọi khát vọng của con người. Từ đó chúng ta yên tâm cố ăn ngon mặc đẹp, hưởng thụ mọi tiện nghi để rồi quên hoặc coi thường vấn đề đạo đức thiêng liêng, không còn ước muốn vươn tới những sự cao cả, vĩnh cửu nữa.
Thứ đến là tình yêu. Cũng như của cải, tình yêu là một vấn đề quan yếu của đời sống con người, nên ngươì ta dành phần lớn của cải, sức lực để xây dựng và bảo vệ nó. Điều đó hợp tình hợp lý, nhưng tình yêu trần thế dù có đẹp đẻ và thơ mộng đến đâu cũng không vẹn toàn mãi được và không thể đáp ứng nổi khát vọng sâu xa của con người. Biết tình yêu là bất toàn, nhưng hình như con người cứ mãi theo đuổi, cứ mãi tìm kiếm dù phải hy sinh cả tính mạng đến nỗi quên cả Chúa là chính Tình yêu hoàn hảo nhất vì chỉ có Ngài mới có khả năng thỏa mãn sự khát vọng thâm sâu nhất cuả con người.
Cuối cùng là vấn đề tôn giáo. Có lẽ khi biết rằng của cải hay tình yêu không thể đáp ứng được nổi khát vọng sống vĩnh cửu thì người ta chạy đến tín ngưỡng như một chiếc phao cấp cứu cuối cùng. Nhưng khốn nỗi khi con người coi tôn giáo như một thứ bùa phép, xem Chúa như một ông bụt để cầu xin lợi dụng nên trong cuộc sống đạo, người ta chỉ chú trọng đến hình thức giữ luật chiếu lệ.
Nếu con người cứ sống trong những sự ngộ nhận như thế thì mãi mãi họ không thể gặp được Chúa trong cuộc sống thường ngày. Khi đã không gặp được Ngài trong cuộc sống thì họ cũng chẳng bao giờ gặp Ngài trong Nước Trời.
(Trích Quê Ngọc, Đừng Chế giễu Chúa, tập một. Việtnam) (trích Đừng Chế giễu Chúa, tập một, của Quê Ngọc)
Một anh thanh niên Việt Nam tuy rất nghèo, nhưng anh lại rất đạo đức, anh đã dành dụm được 1,500 dollars, ghi tên gia nhập phái đoàn đi hành hương Âu Châu. Khi phái đoàn trở về, người thì mua đồng hồ, người thì mua máy ảnh hoặc những vật kỷ niệm độc đáo của Âu Châu. Anh chàng thanh niên nghèo này chỉ mang về duy một món quà kỷ niệm mà anh tin tưởng là quí nhất, đó là bình nước suối. Khi bạn hữu tới thăm, anh vui vẻ nói: "Đây là nước suối Đức Mẹ Lộ Đức". Trong cuộc hành hương Âu Châu vừa qua, mục đích của tôi là tới Lộ Đức tạ ơn Đức Mẹ và lấy về bình nước này làm đồ kỷ niệm tặng các bạn. Nước phép lạ Đức Mẹ Lộ Đức sẽ chữa khỏi mọi bệnh tật cho các bạn".
I. MẠCH NƯỚC HẰNG SỐNG LÀ ĐỨC KITÔ
Trên đường từ bỏ Ai Cập tiến về Đất Hứa, dân Do Thái phải băng qua sa mạc nóng bức và thiếu nước uống. Họ lẩm bẩm kêu trách Maisen và suýt nữa là ông bị bọn họ ném đá chết. Maisen đã vội cầu cứu xin Chúa cứu giúp. Chúa đã truyền Maisen dùng cây gậy của ông đập vào tảng đá trước mặt toàn dân, thế là từ tảng đá chảy vọt ra một dòng nước trong mát, cứu dân khỏi chết khát (xem Ex 17:3-7).
Mạch nước trong mát từ tảng đá chảy ra cứu dân Do Thái khỏi chết khát, chính là biểu tượng tiên báo mạch nước trường sinh phát xuất từ phiến đá cứu độ là Chúa Kitô. Đấng đã đến để hy sinh chịu chết, làm lễ vật đền tạ phép công bình Thiên Chúa, ban phát cho nhân loại nguồn Ơn Cứu Độ như mạch nước hằng sống tuôn trào dư dật để cứu sống nhân loại tội lỗi.
II. CHÚA KITÔ ĐẤNG BAN ƠN CỨU ĐỘ
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa và các môn đệ trở về xứ Galilêa, lúc ấy đang là mùa hạ nóng bức. Nhân lúc đi đường nhọc mệt, Chúa ngồi nghỉ bên bờ giếng Giacob, trong khi các môn đệ vào thành mua đồ ăn. Lúc đó, có một phụ nữ người Samaria tới kín nước, chị ta rất bỡ ngỡ vì ông Do Thái này lại xin chị ta cho hớp nước, vì mối nghi kỵ giữa người Do Thái và dân Samaria đã trở thành bước tường thành ngăn cách sự giao thiệp của hai dân tộc, như một mối hiềm khích truyền kiếp không đội trời chung. Chị ta sửng sốt hỏi: "Sao Ngài lại xin tôi nước uống?"
Quả thực, Chúa đâu có cần nước uống, Chúa chỉ lợi dụng cơ hội để phá bước tường ngăn cách, giải tỏa mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc và mạc khải Ơn Cứu Độ của Chúa cho mọi người, không phân biệt nòi giống chủng tộc, với chủ đích đưa mọi người trở về với Thiên Chúa, để họ được hưởng ơn làm con cái Chúa, nên Ngài mới phán với chị ta: "Nếu chị biết ơn Thiên Chúa và biết Người đang xin chị nước uống là ai, thì chắc hẳn chị sẽ xin Ngài ban cho chị Nước Hằng Sống". Để giúp người phụ nữ này được dần dần hiểu biết và dễ chấp nhận chân lý, nên Chúa phán với chị: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban cho, thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta ban cho ai thì từ lòng người ấy sẽ phát sinh mạch nước vọt tới sự sống muôn đời". Chị ta sung sướng đáp lại: "Xin Ngài ban cho tôi nước đó". Sau khi nghe Chúa phơi bày tường tận đời tư của chị, khiến chị ta rất đỗi thán phục và tôn nhận Ngài là một vị tiên tri cao cả, mà tổ tiên chị tôn thờ trên núi này. Chúa thấy tấm lòng sùng mộ của chị, nên đã kêu gọi chị: "Hãy tin vào Ta". Ngay lúc đó chị ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa là Đấng Cứu Thế thiên hạ đợi trông, nên Chúa đã xác quyết với chị: "Đấng ấy chính là Ta, là người đang nói với chị đây" (xem Jn 4:5-42).
III. ĐỂ LÃNH NHẬN NƯỚC HẰNG SỐNG
Để chúng ta được dễ dàng lãnh nhận Nước Hằng Sống do nguồn Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô, Người đòi chúng ta phải có một Đức Tin vững mạnh để không một quyền lực nào có thể lay chuyển được, chính Đức Tin đó làm nên phép lạ, làm cho sức yếu đuối trở nên mạnh mẽ, cho kẻ què được đi, người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại... Đức Tin làm nên phép lạ đó, cần thiết phải có một tình yêu mến Chúa thiết tha, đến nỗi chúng ta không thể từ chối Chúa điều gì, nhưng là luôn làm hài lòng Chúa, để Chúa cũng không thể từ chối chúng ta điều gì, vì chúng ta luôn được Ngài sủng ái yêu thương.
Bảy nguồn Nước Hằng Sống Chúa thông ban cho chúng ta là bảy Nhiệm Tích Thánh: Nhiệm Tích Thánh Tẩy tái sinh chúng ta trong Ơn Thánh, để chúng ta được phục hồi ơn làm con Chúa. Nhiệm Tích Thêm Sức tăng thêm sức mạnh bằng các ơn Chúa Thánh Linh, để chúng ta được can đảm hiên ngang làm chứng nhân cho Chúa. Nhiệm Tích Xá Giải, giao hòa chúng ta với Chúa, với Giáo Hội và với anh chị em đồng loại, sau khi chúng ta đã lỡ phản bội. Nhiệm Tích Thánh Thể ban cho chúng ta chính Đấng là nguồn mọi Ơn Thánh, Chúa đến kết hợp nên một với chúng ta và ngự trong chúng ta như Ngai Tòa, như Đền Thờ và Thiên Đàng của Người. Nhiệm Tích Xức Dầu Thánh chuẩn bị chúng ta được xứng đáng trở về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, Chúa đã hứa ban cho những con cái trung thành. Nhiệm Tích Truyền Chức Thánh ban cho chúng ta những Thừa Tác Viên làm Tư Tế để tế lễ Chúa, như đại diện chính thức của nhân loại, làm thầy dạy và tiên tri, để thông đạt những huấn lệnh của Chúa và là quản lý các kho tàng Ơn Thánh Chúa, để phân phát cho các linh hồn. Nhiệm Tích Hôn Phối ban cho đôi bạn Ơn Thánh giúp họ sống xứng đáng ơn gọi là cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc tạo dựng con người, giúp đôi bạn chu toàn nghĩa vụ yêu thương và trung tín với nhau trọn đời, để cùng giúp nhau tiến đến cứu cánh của cuộc sống là hạnh phúc vĩnh củu, chu toàn nhiệm vụ là đại diện Thiên Chúa dưỡng dục con cái Chúa trao ban.
Bảy Nhiệm Tích Thánh là những dấu chỉ hữu hình Chúa dùng, để thông ban cho chúng ta Ơn Thánh thiêng liêng, do nguồn Ơn Cứu Độ sung mãn dư tràn của lòng Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta cần lãnh nhận các Nhiệm Tích Thánh với niềm tin vững mạnh và tình yêu mến tha thiết. Chính niềm tin đó giúp chúng ta xứng đáng được Chúa đoái thương, trào đổ thác nguồn Ơn Cứu Độ xuống trên chúng ta và ban cho chúng ta được trung thành sống Ơn Gọi làm con cái Chúa.
Kết Luận
Tất cả các phép lạ Chúa thực hiện được tường thuật trong Kinh Thánh Cựu Ước hay Tân Ước, cũng như tất cả các phép lạ Chúa làm tại các trung tâm hành hương như Lộ Đức, Fatima, La Vang hay bất cứ nơi nào trên thế giới, đều đòi chúng ta phải có niềm tin, mặc dầu những phương tiện Chúa dùng lại rất đơn sơ, như một chút nước suối của hang đá Lộ Đức hay một ly nước thông thường ở chân đài Đức Mẹ bên cạnh Đền Thánh Khiết Tâm Đức Mẹ ở Carthage, một vài nhánh cây ở trung tâm hành hương Đức Mẹ La Vang... Chính niềm tin tưởng vững mạnh đó, chứng minh một lòng chúng ta yêu mến Chúa thiết tha, đã khiến Chúa không nỡ từ chối chúng ta ơn gì.
Xin Mẹ chia sẻ lòng tin yêu của Mẹ cho chúng con, để Chúa được hài lòng với chúng con, như Chúa đã rất hài lòng với Mẹ và đã ban cho Mẹ chính Con Một yêu dấu của Người là Nguồn Nước Trường Sinh, ban Ơn Cứu Độ cho mọi người.
• Xh 17,3-7: (3) Ở sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Môsê. Đức Chúa chỉ dạy ông: (6) «Ngươi hãy dùng gậy đập vào tảng đá kia. Từ tảng đá ấy, nước sẽ chảy ra cho dân uống». Ông Môsê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ítraen.
• Rm 5,1-2.5-8: (1) Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô. (5) Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.
• TIN MỪNG: Ga 4,5-42 (hay Ga 4,5-15.19b-26.39a.40-42)
Đức Giêsu tại Samari
(5) Vậy, Người đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. (6) Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
(7) Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy: «Chị cho tôi xin chút nước uống!» (8) Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Samari liền nói: «Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?» Quả thế, người Dothái không được giao thiệp với người Samari. (10) Đức Giêsu trả lời: «Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: «Cho tôi chút nước uống», thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống». (11) Chị ấy nói: «Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy». (13) Đức Giêsu trả lời: «Ai uống nước này, sẽ lại khát. (14) Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời».
(15) Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: «Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước. (19b) Tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… (20) Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa». (21) Đức Giêsu phán: «Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. (22) Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Dothái. (23) Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. (24) Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật». (25) Người phụ nữ thưa: «Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự». (26) Đức Giêsu nói: «Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây».
(39) Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu. (40) Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41) Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo người phụ nữ: «Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian».
1. Phụ nữ Samari này là một người không đàng hoàng về luân lý, thế mà Đức Giêsu lại dùng chị để loan báo Tin Mừng cho người Samari, và làm chứng cho Ngài ở nơi họ. Và kết quả rất tốt đẹp. Từ sự kiện này bạn có thể rút ra bài học gì?
2. Thứ «nước uống rồi lại khát» và thứ «nước uống vào là không bao giờ khát nữa» ám chỉ điều gì?
3. Hạnh phúc do trần gian đem lại thì thế nào? Có làm con người hạnh phúc lâu bền không? Có phát sinh những «phản tác dụng» không? Muốn có được hạnh phúc lâu bền, đích thực thì phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
Bài Tin Mừng hôm nay dài và gồm nhiều chủ đề quan trọng khác nhau. Nhưng khi liên kết với bài đọc 1, ta nhận ra ngay Giáo Hội muốn nói đến chủ đề: Đức Giêsu, nguồn mạch nước hằng sống.
1. Bối cảnh của bài Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đến xin nước một phụ nữ Samari. Đây là một điều cấm kỵ đối với người Do Thái: «Người Do Thái không được giao thiệp với người Samari» (Ga 4,9). Vì thế, việc tiếp xúc và xin nước của Ngài khiến cho phụ nữ này ngạc nhiên: «Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?». Cả các tông đồ cũng ngạc nhiên không kém: «Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ Samari» (Ga 4,27). Không phải chỉ một lần mà khá nhiều lần Đức Giêsu đã vượt ra khỏi những quy định của tập tục xã hội, của tôn giáo, khi mà những quy định này đi ngược lại lương tri hay tình yêu tha nhân. Chính trong bối cảnh đặc biệt này, Đức Giêsu đã mặc khải một chân lý quan trọng: Ngài chính là nguồn mạch nước hằng sống.
Lúc Ngài xin chị Samari nước uống là «vào khoảng mười hai giờ trưa», khi các môn đệ Ngài đi mua thức ăn. Chỉ có một mình Ngài với chị. Bình thường các phụ nữ ra giếng chung của làng để múc nước vào ban sáng hoặc ban chiều cho đỡ nắng, riêng chị lại múc vào ban trưa. Đọc tiếp đoạn Tin Mừng ta sẽ biết lý do: chị không phải là một phụ nữ đàng hoàng về mặt luân lý; chị đã có 5 đời chồng và hiện đang sống với một người không phải là chồng mình (x. Ga 4,16-18). Chắc hẳn chị không muốn chường mặt ra vào lúc đông người, sợ phải nghe những lời dị nghị không hay về mình. Thế mà Đức Giêsu lại chọn chị để mặc khải những chân lý quan trọng: việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật, nước hằng sống, đồng thời tỏ cho chị biết Ngài chính là Đấng Cứu Thế… Và chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho cả làng của chị, khiến cho «có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng» (Ga 4,39). Thật là lạ lùng cách làm việc của Ngài. Ngài không chọn người đàng hoàng, đạo đức để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ngài, mà lại chọn một phụ nữ bị mọi người khinh bỉ và coi là tội lỗi. Mà lại hữu hiệu! thế mới tài tình!
2. Đức Giêsu là mạch nước hằng sống
Nhân việc xin nước, Đức Giêsu đã dùng ý niệm nước để vào đề một cách thật tài tình để mặc khải về nước hằng sống. Nước là một yếu tố tối cần thiết cho sự sống, đến nỗi có thể nói: chỗ nào không có nước thì không thể phát sinh sự sống, và sự sống không thể tồn tại được. Ai cũng phải uống nước mới sống được. Trong cơ thể con người, nước chiếm tới 72% trọng lượng. Nhưng thứ nước vật chất này cứ phải uống hoài, vì «ai uống nước này, sẽ lại khát». Đức Giêsu đã dựa vào tính chất này của nước vật chất để giới thiệu một thứ nước khác: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời». Chị Samari tưởng rằng Ngài muốn nói đến một thứ nước vật chất khác, uống vào thì không còn khát nữa, nhưng không phải. Ngay cả thứ nước trong câu «ai uống nước này, sẽ lại khát» cũng là một thứ nước theo nghĩa bóng.
Con người ai cũng khao khát hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và lâu bền. Và người trần, ai cũng đi tìm những phương tiện giúp mình hạnh phúc. Người thì tìm hạnh phúc trong tiền bạc, kẻ tìm trong quyền lực, người khác tìm trong vui thú xác thịt, v.v… Nhưng hạnh phúc tìm được nơi những thứ ấy rất chóng qua, và thường để lại hậu quả là đau khổ. Người nghèo cảm thấy khổ vì thiếu tiền, nên nghĩ rằng phải có nhiều tiền mới hạnh phúc. Nhưng người có tiền lại khổ vì tiền như người ta vẫn nói: «Người giàu cũng khóc», «tiền không đem lại hạnh phúc». Người không con cái thì lấy đấy làm khổ và cho rằng phải có con mới hạnh phúc được; đến khi có con thì lại khổ vì con, do nó bất hiếu, hư đốn, bệnh tật, hoặc nó không theo ý mình. Vì thế, chẳng mấy ai trên đời được hạnh phúc. Thứ hạnh phúc mà trần gian này cung cấp toàn là như vậy: hạnh phúc đấy, mà đau khổ cũng đấy! Nhiều điều của trần gian hôm trước đem lại hạnh phúc thì ngay hôm sau đã đem lại đau khổ!
Trần gian chỉ có thể cung cấp cho ta thứ hạnh phúc ấy: thứ hạnh phúc không thể thỏa mãn được lòng khao khát vô tận của con người, thứ hạnh phúc kiểu «uống rồi lại khát». Nhưng Đức Giêsu giới thiệu một thứ hạnh phúc mà Ngài có thể cung cấp là thứ hạnh phúc theo kiểu «uống vào sẽ không bao giờ khát nữa». Đó không phải là một cái gì vật chất có thể trao được, mà là một lối sống, một con đường sống, một tinh thần sống phải đem ra thực hành. Đó chính là sứ điệp Tin Mừng mà Ngài đã rao giảng và sống trọn vẹn suốt đời Ngài. Rất nhiều người thật sự sống theo sứ điệp này đã cảm thấy hạnh phúc thật sự, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được, cho dẫu họ có phải sống trong nghèo đói, túng thiếu, tù tội, tra tấn, hay bị gạt ra ngoài lề xã hội. Và người nào đã có được thứ hạnh phúc ấy, thì một cách tất yếu người ấy sẽ trở thành «một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời».
Chúng ta đã theo Đức Giêsu bao năm rồi? Nhưng chúng ta đã thật sự hạnh phúc chưa? Nếu chưa, thiết tưởng chúng ta cần phải xét lại và thay đổi cách theo Ngài của chúng ta. Có thể ta chưa hiểu được đúng đường lối của Ngài, hay chưa có được tinh thần của Ngài, hay chưa thật sự sống đúng đường lối của Ngài. Biết bao người đã theo Ngài và đã cảm thấy thật sự hạnh phúc suốt cuộc đời trần gian đầy biến động này. Vậy tại sao ta chưa hạnh phúc?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, để sống được, con người cần có không khí để thở, có ánh sáng để nhìn thấy, có nước để uống, có lương thực để ăn… Đức Giêsu đã cung cấp tất cả những thứ đó cho chúng con để đời sống tâm linh của chúng con tồn tại và phát triển. Ngài đã cho chúng khí để thở là Thánh Thần, và chính Ngài là ánh sáng, là mạch nước và là lương thực cho sự sống của chúng con. Ngài cũng chính là đường đi dẫn chúng con đến với Cha, và cũng chính là sự sống của chúng con (x. Ga 14,6). Xin cho chúng con biết sống bằng chính Đức Giêsu như Cha hằng mong muốn và cung cấp cho chúng con. (JK)
Giữa mênh mông đồi núi nóng bỏng của vùng sa mạc Negev ở miền nam Israel, chốc chốc lại hiện ra MC 3-A92
Giữa mênh mông đồi núi nóng bỏng của vùng sa mạc Negev ở miền nam Israel, chốc chốc lại hiện ra những ốc đảo, những nhà kính trồng rau tươi tốt, những cánh đồng mầu xanh mát mắt của cây trái trĩu cành.
Nguồn nước tự nhiên như biển hồ nước ngọt Galilê và nước ngầm đang ngày càng cạn kiệt; lượng mưa giảm và không bù được lượng nước bốc hơi. Người Israel đã bù đắp sự thiếu hụt này chủ yếu bằng các nhà máy lọc nước biển; tái chế nước thải; quản lý, xử dụng nước hiệu quả; phát triển các công nghệ về nước và nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề nước.
Nằm cách Tel Aviv 50km về phía bắc, bên bờ Địa Trung hải là nhà máy khử mặn nước biển Hadera có công suất 127 triệu m3 nước ngọt chất lượng cao mỗi năm. Đây là tổ hợp lớn nhất trong bốn nhà máy sản xuất nước sinh hoạt từ nước biển ở Israel.
Ông Abraham Tenne, phụ trách khâu khử mặn nước biển thuộc Cơ Quan Quản Lý Nước ( Water Authority ) của chính phủ Israel, cho biết nhà máy Hadera xử dụng điện để xử lý nước biển theo hai chu trình, trong đó áp dụng công nghệ màng lọc nhiều lớp thẩm thấu nước ngọt, thải muối trở lại biển. Nước lọc từ các nhà máy khử mặn này còn được bổ sung nhiều khoáng chất có lợi cho sức khỏe, sau đó được cung cấp làm nước sinh hoạt cho cả nước theo mạng lưới đường ống nước quốc gia.
Tuy giá thành nước khử mặn của Israel vào hàng thấp nhất thế giới, chỉ 0,55 USD (hơn 11.000 VND )/m3, nhưng chi phí như vậy cũng rất lớn, không thể ào ạt xây thêm các nhà máy khử mặn. Do vậy biện pháp hiệu quả tiếp theo là tái chế nước sinh hoạt.
Với công suất mỗi ngày làm sạch 370.000m3 nước thải, Shafdan là nhà máy lớn nhất trong hơn 100 tổ hợp tái chế nước thải sinh hoạt ở Israel. Nước và chất thải của 2,3 triệu dân ở 23 thành phố, khu dân cư vùng Gush Dan được dẫn về nhà máy Shafdan qua mạng lưới đường ống lớn. Ngoài nước, mỗi ngày còn có hơn 40 tấn cặn được chuyển thành phân bón cung cấp miễn phí cho nông dân. Các kỹ sư ở tổ hợp Shafdan đã không đùa khi nói rằng mỗi giọt nước ở Israel được xử dụng hai lần.
Chính người Israel đã sáng tạo ra công nghệ tưới nước nhỏ giọt, áp dụng vào nông nghiệp trong nước từ giữa thập kỷ 1970. Ngày nay, 100% mùa màng ở Israel được tưới nước, trong đó 75% được tưới theo phương pháp nhỏ giọt. Hệ thống nhỏ giọt không chỉ tưới nước, mà còn dẫn phân bón, thuốc trừ sâu, trừ cỏ đến tận rễ cây, như lời một nông dân vùng sa mạc Negev nói: “Đưa vào tận miệng; tưới cây chứ không tưới đất.” Nhờ phương pháp tưới tiên tiến này, từ năm 1975 đến 2010, sản lượng nông nghiệp ở Israel đã tăng 12 lần, nhưng lượng nước tưới không tăng. Áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, năng suất cây trồng ở Israel tăng gấp đôi và hơn 80% các nông phẩm từ phương pháp này được xuất khẩu. ( Mai Hương, Israel: Những giải pháp cho một đất nước khô cằn ).
Nước là tài nguyên sống còn của Israel giữa vùng cận sa mạc cháy bỏng. Nên rất có ý nghĩa khi Đức Giêsu muốn dùng nước để ám chỉ phương tiện cứu vãn cuộc sống viên mãn, trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay. Từ xưa, Cựu Ước từng tôn xưng Thiên Chúa là suối nguồn sống ( Tv 36, 9 ) và là mạch nước trường sinh ( Gr 17, 13 ). Qua câu chuyện với một phụ nữ Samari, Đức Giêsu đã dẫn dắt chị và tất cả mọi người đến với Nước Trường Sinh.
Ban cho ai thành khẩn, khiêm tốn
“Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.” Chi tiết tường thuật rất chính xác về trạng thái, không gian và thời gian, cho biết Đức Giêsu đến giếng trước, chờ đợi người nào đến kín, để xin nước giải khát. Người luôn chủ động chờ đợi và chủ động gần gũi, cũng như luôn ân cần chờ đợi bên ngoài cánh cửa tấm lòng mỗi con người. "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” ( Mt 7, 7-8 ).
Hoá giải sự mâu thuẫn dân tộc, bước qua sự lãnh đạm, Đức Giêsu gây thiện cảm, khéo léo hoán chuyển vai trò, từ người đi xin thành người cho đi, dịu dàng dẫn dắt người phụ nữ vào chủ đề: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống." Ban đầu, người phụ nữ còn lầm lẫn hai thứ nước, sau hiểu ra, liền mau mắn van xin: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy,…”
Ban dồi dào nhưng-không
"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban.” Đức Giêsu đã khơi mào ơn Chúa luôn sẵn sàng trao ban. Chỉ cần nhận ra hồng ân Chúa ban nhưng không, để xứng đáng lãnh nhận. "Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống !" Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống. ( Ga 7, 37-38 ).
Dân Do Thái trong sa mạc đã yêu cầu ông Môsê: "Xin cho chúng tôi nước để chúng tôi uống" ( Xh 17, 2 ). Chúa phán ông lấy gậy đập vào một tảng đá, sẽ vọt nước ra cho dân. Nay phụ nữ Samari cũng xin như vậy, Đức Giêsu liền rộng lượng dào dạt trao ban. Khiến chị hân hoan, bỏ lại vò nước, bỏ lại những gì vướng víu cõi trần, những cám dỗ, dục vọng, chạy về báo tin vui cho dân làng.
Nước trường sinh dồi dào, mãnh liệt, tâm hồn thanh thoát, Kitô hữu không còn khao khát sự đời hư vong. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” ( Rm 5, 5 ).
Ban sự sống vĩnh cửu
Nước trường sinh còn là nguồn mạch sự sống đời. Nhờ vậy, không quyền lực đen tối nào có thể chia lìa người Kitô hữu ra khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” ( Rm 8, 38-39 ).
Tâm hồn thấm đẫm nước trường sinh, chị Samari công khai tuyên xưng Đức Tin: "Tôi biết Ðấng Mêsia, gọi là Ðức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự." Rồi sau đó, chị trở nên chứng nhân Tin Mừng cho cả dân làng. Họ được mời gọi đến đón rước Đức Giêsu. “Số người tin vì lời Ðức Giêsu nói còn đông hơn nữa.” Người dừng chân lưu lại giảng dạy hai ngày liền.
“Xin nước bà Samari, mượn lừa cỡi vào thành Giêrusalem, mượn thuyền ngồi giảng, mượn phòng lập phép Thánh Thể, nhìn đồng tiền bà góa bỏ vào hòm cúng; chủ nhân đâu ngờ việc không đâu mà mình được hân hạnh đến thế !” ( Đường Hy Vọng, số 825 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát chúng con khỏi những cơn khát của cải, danh vọng, thèm muốn những thứ phù vân, mà không bao giờ cảm thấy thoả mãn. Xin Chúa thương ban chúng con nước trường sinh, để được tỉnh ngộ, buông bỏ mọi sự, vinh hạnh rước Chúa vào tâm hồn.
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng con sáng suốt phân biệt đâu là sự thật, đâu là chân lý trong đời, để chúng con biết chọn Chúa, đón nhận nguồn nước trường sinh, trở nên chứng nhân của Tin Mừng giữa thế gian. Amen.
Kinh nghiệm mỗi người đều thấy rõ là bước vào một tiệm bán quần áo hay chỉ đi bộ ở hành lang siêu thị, nhiều khi mình không cưỡng lại được những "cám dỗ" do những mặt hàng hấp dẫn bày biện ra kia. Trước khi đi thì chả thấy cần gì bao nhiêu, mà sao bây giờ lại thấy thích thú muốn "tậu" món nọ món kia đưa về cho đời thêm tươi mát, vì cái màu bắt mắt quá, kiểu thật mới mà giá lại vừa phải, không mua ngay sợ tuần tới sẽ mắc vì hết "sale" hoặc có người mua mất!
Sở dĩ có tình trạng này là vì mình đang bị thôi thúc lên cơn thèm khát. Người lớn còn thế, phương chi là trẻ con. Các lái buôn đang giữ quyền lực tạo ra được sở thích, đặt mức giá trị, và thôi thúc người ta phải chọn lựa. Joseph Kincheloe và Shirley Steinberg trong khảo cứu về Mức Ảnh Hưởng Tới Lớp Trẻ đã cho biết rằng hiện nay hai công ty Disney và McDonald's có mãnh lực đào tạo cách suy nghĩ và hành động của trẻ mạnh hơn cả hệ thống trường tiểu học.
CHIẾN THUẬT KHÊU GỢI LÒNG HAM MUỐN
Trung bình mỗi ngày một đứa trẻ có thể chạm tới ba chục ngàn cách quảng cáo khác nhau, từ truyền hình, truyền thanh, đến những tờ in kèm vào báo, các bảng quảng cáo trên đường, và ngay cả trên những trang sách học. Những hình ảnh và những lời thôi miên này từng giây từng phút ấn sâu vào óc, lọt tận vào mạch máu thành ám ảnh, thành phản ứng "không người lái", không kịp suy nghĩ. Thế là trẻ cứ tự nhiên thích Barney, Power Rangers, Pokemon, giầy Nike, và không muốn cho những đứa khác thấy mình theo cha mẹ vào tiệm rẻ tiền như K Mart, Wal Mart... Sở dĩ các lái buôn thành công trong việc xỏ mũi thiên hạ mà lôi đi, vì họ đã áp dụng đúng chiến thuật gồm bốn điểm:
1. Tạo ra niềm tin rằng cứ mua mấy thứ sản phẩm đó là thế nào cũng ngon lành hạnh phúc. Trong quảng cáo, ai cầm lon nước Coca uống cũng vui vẻ yêu đời quá sức; ai dùng loại xà bông gội đầu đó thì tóc cũng óng mượt bay bay như mây trời. Đâu có ngờ là người mẫu này có thể chả dùng loại xà bông đó, nhưng vẫn phải cười tươi, nhe răng đúng độ bài bản, đứng trong phòng studio cho những tay lấy ảnh chuyên nghiệp vẽ vời: năm sáu loại đèn chiếu khác nhau từ nhiều góc cạnh cho nét mặt nổi lên như ba chiều vậy, cho tóc long lanh mầu nắng thủy tinh; rồi để quạt máy thổi từ góc phòng cho tóc bay bay. Thế là ăn ảnh đứt đi chứ. Rồi bảo rằng đẹp như vậy là do xà bông gội đầu loại đó. Thế là người ta cứ răm rắp tuân lệnh mà mua về. Vẫn có nhiều kẻ tin hơn kinh Tin Kính!
2. Tạo cảm tưởng tin rằng mọi người đang dùng sản phẩm đó cả, hợp thời và văn minh quá sức. Vậy là nếu không mua thì tự cảm thấy lạc hậu chẳng giống ai. Thôi đành cũng phải gồng mình chứ biết sao.
3. Cứ ám ảnh bằng ấn rất nhiều hình ảnh qua mọi hình thức, để thành phản ứng tự động mà không cần suy nghĩ đúng sai. Chẳng hạn như những hình ảnh của công ty Disney xuất hiện trong bất cứ gì liên hệ tới đời sống hằng ngày của trẻ, từ sách học đến những chương trình hoạt họa và các đồ chơi. Đây là một khám phá của khoa tâm lý thời mới: đa số các phản ứng và hành động của con người đều do những hình ảnh trong đầu, chứ không phải là những suy tư lý luận. Vì nhiều hình ảnh chả hợp lý tý nào mà nhiều người vẫn theo. Vậy là người ta cứ "nhất trí" suy nghĩ bằng những hình ảnh đó, hành động theo kiểu những hình ảnh đó.
4. Tạo ấn tượng cứ phải leo thang thêm cho hợp thời. Bất cứ một sản phẩn nào vừa ra lò thì ngay ngày sau đã thấy giới thiệu một thứ mới nâng cấp "up-grade". Vừa mua xong cái máy này chưa kịp xử dụng đã thấy bị lỗi thời, vì kìa một mặt hàng mới cùng loại hấp dẫn hơn nhiều đa xuất hiện. Cứ thế mà sinh bất mãn kinh niên. Lại phải lo nâng cấp hay thay thế cái mới. Và chả bao giờ thỏa, vì các tay làm ăn luôn tìm ra cái mới hơn nữa để chiêu dụ thôi thúc lên cơn thèm khát nhức nhối không cùng!
THỜI ĐIỂM BỊ THÔI MIÊN
Chỉ nguyên ba hãng Gatorade, Hanes, và MCI WorldCom đã phải trả từ 42 tới 47 triệu Mỹ kim một năm cho thần tượng thể thao môn bóng rổ là Michael Jordan để thuê anh chàng này tươi cười cầm chai nước ngọt Gatorade, xử dụng điện thoại hay mặc đồ Hanes. Chưa kể một điều khác khủng khiếp hơn: đó là tiền trả của hãng Nike cho một mình Michael Jordan quảng cáo trong vòng mấy chục giây cho giầy Nike nhiều hơn là tổng số tiền lương của tất cả nhân công làm cho hãng Nike. Thế mới biết ai mua giầy Nike là đã phải trả tiền cho Michael Jordan nhiều hơn là giá trị thật của đôi giầy. Vì chiến thuật của hãng nhằm làm sao tạo ra được ấn tượng là đi giầy đó thì sẽ đầy hoạt lực và hiệu năng như Mike Jordan như lời thôi miên: Hãy như Mike (Be like Mike). Mặc đồ có dấu Nike là theo được đà tiến bộ, vì kìa tất cả mọi cầu thủ chơi giải Túc Cầu Thế Giới bên Pháp hay giải Super Bowl đều mặc đồ Nike.
Và ban cầm đầu hãng Nike mỗi tháng hay cuối năm ngồi lại tính sổ sẽ vỗ tay cười chiến thắng vì chiến thuật của mình thành công trông thấy, vì đã xỏ mũi sai khiến được bao người ngoan ngoãn nghe lệnh mình, ít người có thể cưỡng lại được. Nguyên một mình Michael Jordan qua quảng cáo đã làm cho hãng Nike thu lợi thêm được trên 5 tỷ tiền Mỹ.
Đấy là mới chỉ nhìn qua mấy mặt hàng mà mình đã thấy rợn người lên rồi. Huống hồ là nhiều thứ khêu gợi lòng dục khác cứ tấn công tới tấp ngày đêm trên phim ảnh, báo chí, qua những giao tiếp hằng ngày. Riết rồi mình trở thành con mồi ngon không còn làm chủ nổi mình nữa như bị ám lên cơn. Từ cơn thèm khát biến thành cơn nghiện nặng. Khổ một điều là càng mua càng thiếu, càng ăn càng nghiện, càng uống càng khát. Biết làm sao bây giờ?!
TIN VUI GỬI NGƯỜI ĐANG LÊN CƠN THÈM KHÁT
Câu truyện lên cơn thèm khát của thời đại cũng là câu truyện Kinh Thánh tuần này giữa Chúa Giêsu và người đàn bà vùng Samaria bên bờ giếng Gia-cóp. Người đàn bà này bị cơn khát bên trong hành hạ khổ sở hơn cơn khát nước của vùng miền Trung Do Thái khô chồi đầy cát bỏng và nắng cháy. Vì chị ta đã thèm khát và đã lạng quạng kiếm chác tới năm anh chồng rồi mà vẫn không thỏa, vẫn khắc khoải quằn quại lên cơn, và càng ngày càng nghiện mê thêm. Cái vòng quẩn trói buộc hành khổ không sao thoát ra được! Đúng là chị ta bị ám, bị tới năm tên chặn vít mạch làm sao nước từ nguồn có thể chảy ra được.
Nhìn rõ được tâm trạng của người đàn bà, Chúa Giêsu nói ngay: "Ai uống nước này sẽ còn khát; chứ những ai uống nước ta sắp cấp cho, sẽ không bao giờ khát nữa: thứ nước ta cho, vào mình người ấy sẽ hóa ra một ngọn suối, cuồn cuộn phát ra sức trường sinh." Người đàn bà đáp: "Thưa ông, xin cho tôi loại nước đó, để tôi hết còn khát và hết phải trở lại kín nước" (Gioan 4:13-15).
Câu truyện thánh sử Gioan kể lại thật tài tình. Chúa Giêsu cứ từ từ gợi ý cho người đàn bà khởi đi từ những rung động đời mình và muốn tìm câu trả lời thực sự cho những khắc khoải đó. Ngài cần đợi đến lúc người đàn bà nghiệm thấy không gì trên đời này có thể làm mình vui thỏa, mà phải đi tới được một khát vọng sâu thẳm hơn, đó là "Tôi biết rằng Đức Mét-sia, tức là Đức Kitô đương tới; và khi tới rồi, Người sẽ dạy bảo chúng tôi mọi điều." Chính lúc này, Chúa Giêsu mới "bật mí": "Chính ta, kẻ đương nói chuyện với chị đây là Vị ấy." (Gioan 4:25-26)
PHÚT XẢ TRỐNG
Truyền thống đạo Chúa để ra một thời gian 40 ngày gọi là Mùa Chay, là cơ hội thuận tiện để mỗi người nhận diện chính mình đang bị cơn khát thèm nào ám ảnh điều khiển sai khiến mình, làm mình mất đi cái tự do sống thảnh thơi. Ngay cả trong việc mua sắm, mình cũng dễ bị rơi vào cái bẫy ham hố vơ vét, càng có thêm lại càng bất mãn bồn chồn. Và bao nhiêu cơn thèm khát khác đang hành hạ đời mình, nhiều thứ tham sân si đang vít mạch khiến không sao mà sống tươi mát được, nhiều tên thứ dữ đang ám mình khiến càng ngày càng lên cơn nghiện mê thêm mà không bao giờ thỏa!
Mình muốn tìm cho mình một phút giây lắng đọng tâm hồn, để dứt khoát muốn làm một cái gì thay đổi hướng đi đời mình, như cảm nghiệm của thánh Âu Cơ Tinh: "Tâm hồn tôi khắc khoải quằn quại mãi cho tới khi tìm gặp được Chúa."
(từ tác phẩm Khúc Sáo Ân Tình, Thời Điểm xuất bản) Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
cộng đoàn chúng ta đang tiến vào trung tâm điểm của Mùa Chay và các anh chị em Dự Tòng trên khắp thế giới đang có những ngày chuẩn bị gấp rút để tiến về Giếng Rửa Tội, tiến vào cuộc Tái Sinh thiêng liêng quan trọng nhất của cuộc đời sẽ được thực hiện trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Trong ý nghĩa ấy, phụng vụ Chúa Nhật III Mùa Chay, với sứ điệp Lời Chúa mang trọng tâm "Nước Hằng Sống" đang gọi mời dân Chúa khắp nơi hãy biến đức tin thành một cuộc "hội ngộ" với chính Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, biến việc sống đạo của mỗi người thành cuộc "gặp gỡ Đức Kitô" là "Đường, Chân lý và Sự sống" đích thật. Thánh lễ hôm nay cũng là một cơ hội để chúng ta một lần nữa đặt niềm tin vào Thiên Chúa, quay trở về với Thiên Chúa và tiến đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng đang hiện diện trong Thánh lễ nầy để ban chính sự sống thần linh cho ta.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi để xứng dáng cử hành Thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
Sống trên đời ai mà đã không một lần vật lộn với những cơn khát: khát nước, khát tình, khát tiền, khát thành công, khát hạnh phúc, khát bình an, khát yên lặng, khát cảm thông, khát gần gũi, khát sống, khát yêu, khát thù khát hận...Chính vì thế, nhà thơ Đình bảng đã nói lên nổi khát đó qua những câu thơ:
Hồn tôi một cánh đồng không
Lạy trời mưa xuống thành sông, thành ngòi...
Lạy trời mưa suốt đêm nay
Hồn tôi là những luống cày khô khan...
(Lời buồn thánh.Lê Đình bảng, Hành Hương, thơ. 2006)
Hay:
Tôi khô khát tựa trẻ thơ đòi sửa
Chiều đăm đăm trông khói núi lên trời
Nên van Ngài làm mưa móc tuôn rơi
Và phủ sóng lên đời tôi nhật thực...
(Xin trời mưa xuống. Lê Đình bảng, Hành Hương, thơ. 2006)
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng muốn nói với chúng ta về những cơn khát. Đặc biệt, qua biến cố "cơn khát nước điên cuồng" của Ít-ra-en trong hoang mạc, và cuộc đàm thoại về Nước Hằng sống giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Lời Chúa đã đưa chúng ta và các anh chị dự tòng đi vào các chiều kích sâu xa của cuộc hành trình đức tin mà bí tích Rửa tội chính là cửa ngỏ đầu tiên. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi lòng mở trí chúng ta.
1. Cuộc đời và những cơn khát:
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, "nước" được nhiều lần nhắc đến: Ngay từ buổi khai thiên lập địa, nước đã có mặt trong công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Nước chảy nơi vườn Eden để biến nơi đây thành địa đàng trần gian. Nước dâng cao thành Hồng thủy để thanh tẩy địa cầu. Nước Biển Đỏ và sông Gio-đan dựng đứng như tường thành để dân Ít-ra-en đi bộ tiến vào Hứa đại. Nước làm cho muôn vật sinh sôi nẩy nở. Và người công chính được ví như cây dừa mọc bên bờ suối nước, trổ sinh hoa trái tốt lành. Trong khi đó, sứ ngôn Ê-dê-ki-en đã loan báo, vào thời Cứu Thế, nước sẽ chảy ra từ bên phải đền thờ để chữa lành và cứu sống muôn người...
Tuy nhiên, dụng ý của trích đoạn sách Xuất Hành được công bố nơi bài đọc 1 hôm nay, khi nhắc đến biến cố "khát nước" của dân Ít-ra-en trong hoang địa là muốn nhắc nhở chúng ta về những "cơn khát của thời đại hôm nay" và thái độ ứng xử của đức tin trước những cơn khát nầy.
Thật vậy, ngày hôm nay nhân loại cũng đang bị dày vò bởi nhiều cơn khát cháy bỏng: khát tiền, khát tình, khát hưởng thụ, khát tự do, khát cơm no áo ấm, khát danh vọng chức quyền, khát thành công, khát quyền lực, cũng không loại trừ những cơn khát hận thù, khát đam mê và dục vọng... Và để thỏa mãn những cơn khát đó, đã có không biết bao nhiêu những "mời chào, những giải pháp, những đề nghị". Biết bao nhiêu người bỏ mạng trên Biển Đông khi khao khát đi tìm một "chân trời đất hứa tự do"; cũng không ít người chôn thây nơi rừng thiêng núi thẳm vì khao khát tìm vàng hay tìm trầm. Các phương tiện truyền thông hôm nay cũng đã báo động khi có không ít cô gái Việt nam vì khát khao một thiên đàng hạnh phúc nên chấp nhận xa quê lấy chồng Đài Loan hay Hàn Quốc, để cuối cùng ôm phận bạc lỡ làng...Ngày xưa, dân Ít-ra-en khi phải đối diện với cơn khát nước điên cuồng nơi hoang mạc, đã liều quay lưng chống đối Mô-sê, nghi ngờ sự hiện diện và đồng hành của Thiên Chúa, quên hết bao nhiêu ơn lành và kỳ công Chúa đã thực hiện trong biến cố Vượt Qua khai mạc cuộc Xuất Hành. Họ quên cả "chiếc gậy của Mô-sê" đã từng dương ra trên biển Đỏ để họ tiến bước ráo chân giữa hai bờ tường nước dựng. Quên cả manna, quên luôn chim cút, quên cột mây che mát, cột lửa dẫn đường, quên hết Thập điều trên núi Sinai...Ngày nay, trước những cơn khát của cuộc đời, chúng ta cũng đã bao lần dẹp Thiên Chúa sang một bên, hay chí ít, cũng hồ nghi về sự hiện hữu của Ngài, quên mình là Kitô hữu, quên dòng nước rửa tội, quên Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, quên các giới răn và các thực hành luân lý Kitô giáo, quên hết những lời dạy của tin mừng...
2.Khi "chiếc gậyThánh Thần" can thiệp:
Nhưng Thiên Chúa lại chứng tỏ quyền năng bằng lòng tha thứ; và Ngài lại một lần nữa ra tay. Chiếc gậy của Mô-sê có dịp được dương ra để đập vào tảng đá cho mạch nước tuôn trào. Trên "từng cây số của chiều dài lịch sử nhân loại", Thiên Chúa nào chịu thua sự cứng lòng và yếu đuối của loài người ! Kể từ những giọt máu và nước từ trái tim của Con một tuôn ra trên đồi Sọ, chiếc gậy Thánh thần đã dương ra trên khắp địa cầu để đập vào muôn vạn trái tim chai cứng, khô khan làm vọt lên dòng nước của ơn cứu độ, của tái tạo, của phục sinh. Ngay trong hoang mạc của tối tăm và sự chết trên đỉnh đồi Can-vê chiều thứ Sáu, dòng nước đó đó đã chạm đén trái tim của người trộm bên hữu để trong anh bừng lên niềm hy vọng đi vào hạnh phúc vĩnh hằng. Người phụ nữ Samari trong Tin mừng hôm nay đang khát tình với năm người đàn ông không chính thức, đang khao khát một niềm tin đúng nghĩa để thờ phượng Thiên Chúa, một khi được gặp gỡ Đấng là Đường, là Sự thật và Sự sống đã hân hoan trở nên một con người mới. Rồi tiếp nối những Maria Bêtania ngồi bên chân Chúa, Giakê cố nhìn Chúa trên cành cây sung hay Lê-vi nghe tiếng Chúa ngay nơi bàn thu thuế, người thiếu phụ ngoại tình đứng nhìn Chúa im lặng vẽ hình trên cát...tất cả đã đứng lên và làm lại cuộc đời trong niềm vui của một cuộc phục sinh, của một đời sống mới... Cứ thế, suốt hai ngàn năm nay, hàng hàng lớp lớp con người đã được chiếc gậy Thánh Thần chạm đến để tuôn đổ hồng ân, để nhận được dòng nước hằng sống tái sinh qua bí tích Rửa tội và được nuôi dưỡng lớn lên nhờThánh Thể. Đúng như lời Đức Kitô đã nới với người thiếu phụ Samari trong Tin mừng hôm nay: "và nước tôi cho sẽ sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".
3. Tắm gội trong dòng nước hằng sống
Như vậy điều quan trọng còn lại hôm nay chính là hãy mở lòng ra, hãy đến và hãy gặp. Chính người thiếu phụ Samari hôm nay đã chịu mở lòng ra đối thoại với Chúa, đã chấp nhận để Chúa truy vấn và đã để Lời Chúa xuyên thấu cõi lòng. Và từ đó lại một mạch nước hằng sống đã tuôn trào nơi trái tim tưởng đâu đã cằn khô nơi chị, biến chị trở thành chứng nhân, thành tông đồ để rao giảng đơn sơ chỉ một tin Mừng: "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?". Quả thật, đức tin luôn là một cuộc khao khát vươn tới, là một sự khó nghèo để được lấp đầy, một niềm trông cậy để được đáp trả. Bởi vì Đức Kitô không bao giờ khước từ những ai đến cùng Ngài; lại càng không phải là kẻ dồn ta vào bước đường cùng để xô ta xuống vực thẳm. Hãy tự nhiên và bộc trực như người thiếu phụ Samari hôm nay, hay cứ huyên náo lăng xăng tiếp Chúa như cô Matta Bêtania, yên lặng nghe Chúa như cô Maria, tò mò trèo lên cây để được thấy Chúa như Giakê, đứng ngay lên bỏ tất cả theo Chúa như Matthêô, cả khi bất đắc dĩ vác đỡ thập giá như Simêon...Điều quan trọng là hãy đến, hãy tiếp cận, hãy gặp gỡ. Chúa nào có xa đâu.
Như vậy Mùa Chay phải chăng là Mùa để chúng ta mở rộng cõi lòng tập luyện sống niềm tin tích cực, sống cuộc gặp gỡ Đức Kitô, sống đối diện với cái tôi đích thực của mình để tìm gặp một sức sống mới, một nguồn nước mới. Chúng ta hãy bước ra khỏi cái ảo tưởng cho rằng: mình sống đạo như thế đủ rồi, đức tin như thế là tạm ổn. Hãy tỉnh táo. Coi chừng chúng ta đang trong "cơn thiếu nước trầm trọng", đang trong thế "quay lưng lại với Thiên Chúa". Hãy mạnh dạn quay lại ngõ lời với Đức Kitô như người thiéu phụ Samari: "Xin ban cho con thứ nước ấy", và hãy để chiếc gậy Thánh Thần đập vào cõi lòng, vào tim óc và cuộc sống. Đó là chiếc gậy của tòa Giải tội, của Thánh Lễ, của việc cầu nguyện, của Tin mừng, của ăn chay và làm phúc, của tha thứ hòa giải với anh chị em xung quanh, của việc thực hành liêm khiết, thủy chung trong đời sống gia đình, trong sáng, trách nhiệm nơi công sở...Hãy để dòng nước của nhiệm tích Rửa tội vọt lên trong cuộc đời, hãy để dòng nước của Thánh Linh tuôn trào trong tim óc. Chắc chắn, chúng ta sẽ lớn dần lên trong tin yêu và niềm vui hạnh phúc thánh thiêng như cảm nghiệm của nhà thơ Đình bảng:
Cảm ơn Chúa đã cho tôi tắm gội
Lớn dần lên trong hương sắc của Người
Này lại ngày hoa trái cứ sinh sôi
Mỗi gieo vãi là một lần đẫy hạt..
(Giữa bao la đất trời. Lê Đình bảng, Hành Hương, thơ. 2006)
Dòng nước đó chính là Đức Kitô đang có ở đây. Hãy hướng về Ngài. Hãy gặp gỡ Ngài.
Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.
Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao "Nước Hằng Sống". Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.
1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.
Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình. Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.
Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc... Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" (Ga 4,9). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: 'Cho tôi chút nước uống', thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống" (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước" (Ga 4, 15).
Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.
2. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống
Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc..., nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.
Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là "ta và địch", trong truyền thống để đến với anh chị em của mình.
Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng nhằm cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biễn tiệm tiến trong ân sủng và đức tin.
Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một "tên Dothái". Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã "thưa ông". Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị "ngôn sứ" là Đấng "Mêsia". Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian.
Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:
Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" (Ga 4, 13-14). Như vậy, Đức Giêsu chính là "Nước Hằng Sống".
Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Nhưng giờ đã đến - và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Ga 4, 23).
Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất... Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà...
Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:
Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ...người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui...
Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục... nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm tâm hồn của mình. Tình trạng của người Phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục... thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: "Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn" (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa".
Thật vậy, theo bản năng của con người, ai trong đời mà lại không mong muốn đạt được chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng không khác gì Dân Itrael khi xưa. Luôn đi tìm những thứ nhất thời, mau qua. Họ được Chúa cứu và giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập, nhưng không bao lâu, người ta lên tiếng trách mọc Chúa và nhớ những củ hành củ tỏi bên Aicập. Họ đã lầm! Đang có Chúa ở bên, nhưng vẫn không nhận ra.
Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau... Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.
Cách đây ít lâu, một số chị em người Bỉ khi suy niệm đoạn Tin mừng này, đã cùng nhau lập một tu hội tên là "Ô Vi" (Eau Vive) dịch là "Nước Hằng Sống". Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa Thánh Thần mỗi ngày, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm ngôn của tu hội là "Phục vụ Chúa trong các thực khách". Mỗi buổi tối vào giờ đóng cửa, chị em biến quán ăn trở thành nhà nguyện. Các thực khách được mời ở lại tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người sẽ được nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh là Nước Hằng Sống mà Đức Giê-su đã ban cho người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp xưa.
2) PHẢI TÌM GẶP CHÚA NƠI THA NHÂN:
Vào một đêm trăng, khi nhìn qua cửa sổ, vị tu sĩ già thấy một thiên thần đang ngồi viết vào một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ liền rón rén đến gần hỏi thiên thần:
- Ngài đang viết gì vào quyển sách vàng này thế ?
- Ta đang ghi tên những người có lòng yêu mến Thiên Chúa thực sự.
Trong tâm trạng vừa lo lắng lại vừa hồi hộp, vị tu sĩ đã yêu cầu thiên thần tìm trong cuốn sách xem đã có tên mình hay chưa. Thiên thần liền chiều ý để lần giở từng trang sách ra tìm, nhưng tìm từ đầu đến cuối cuốn sách vàng mà không thấy có tên ông ta. Vị tu sĩ vẫn không thất vọng, ông tiếp tục yêu cầu thiên thần:
- Vậy xin ngài hãy ghi tên tôi là kẻ luôn yêu mến phục vụ tha nhân.
Thiên thần liền ghi tên ông vào sổ vàng những người yêu mến Chúa.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, người ta đã tìm thấy quyển nhật ký hằng ngày của ông. Trong đó ngay trên trang đầu tiên ông dã ghi Lời Chúa phán: "Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu mến người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1 Ga 4,20). Tiếp theo lời Chúa này, vị tu sĩ còn giải thích thêm: "Tôi đã đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm thấy vì linh hồn có đặc tính thiêng liêng; Tiếp đến tôi đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng tôi cũng không tìm thấy vì Ngài vô cùng siêu việt; Mãi đến khi tôi quyết định đi tìm tha nhân thì tôi lại gặp được cả Thiên Chúa và linh hồn mình nơi những người này" (Trích «Mỗi ngày một tin vui»).
3. SUY NIỆM:
Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để giúp chúng ta tìm gặp Đức Giê-su là nguồn nước đem lại sự sống đời đời. Qua Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp. Người đã từng bước mặc khải Sự Thật về Người cho chị ta: Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, là một Ngôn Sứ, là Đấng Mê-si-a đến ban ơn cứu độ mọi người.
1) HỌC TẬP ĐỨC GIÊ-SU TRONG VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG:
Đức Giê-su đã hướng dẫn người phụ nữ theo một tiến trình đức Tin như sau:
- Người đi bước trước để ngỏ lời xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước giếng tự nhiên:
Đức Giê-su chủ động đi bước trước làm quen, vượt qua rào cản giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri để ngỏ lời xin một người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước như sau: "Chị cho tôi xin chút nước uống !" (Ga 4,7). Đây là phương pháp loan báo Tin Mừng hữu hiệu giúp các tín hữu chúng ta tiếp cận anh em lương dân để nói chuyện về tôn giáo với họ.
- Người đòi người phụ nữ phải tin vào Người để được Người ban cho Nước Hằng Sống là ơn cứu độ:
Từ việc xin nước uống tự nhiên, Đức Giê-su đề cập đến thứ Nước Hắng Sống là đức tin siêu nhiên đem lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy sẽ ban cho chị Nước Hằng Sống" (Ga 4,10). Phải biết bắt đầu từ những điều vật chất cụ thể để sẽ đề cập đến mầu nhiêm đức tin siêu vật chất. Đức Giê-su cũng nhiều lần đã dung các hình ảnh cụ thể vật chất đời thường trong các dụ ngôn để trình bày về Nước Trời.
- Người đòi người ta phải thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật:
Đức Giê-su cho chị phụ nữ kia biết chính thái độ ich kỷ tự mãn và khinh thường lẫn nhau đã tạo ra bức tường ngăn cách về đức tin giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri: Người Do thái đòi phải thờ Thiên Chúa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, còn người Sa-ma-ri lại đòi phải thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ri-dim! Đức Giê-su đã giải đáp về sự thờ phượng đích thực như sau: "Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần Khí và Sự Thật" (Ga 4,24). Cần tập cầu nguyện với Chúa mọi lúc và mọi nơi chứ không nhất thiết phải có nhà thờ hay bàn thờ mới cầu nguyền được.
- Người mặc khải về sứ mạng Thiên Sai của Người:
Người phụ nữ Sa-ma-ri cho biết quan niệm về Đấng Thiên Sai của người Sa-ma-ri như sau: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Đức Giê-su liền mặc khải cho chị ta biết về vai trò Thiên Sai của Người như sau: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây" (Ga 4,26). Tất cả sự thờ phượng Thiên Chúa đều qui vè Chúa Giê-su, để nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
- Người phụ nữ thể hiện đức tin bằng việc nhiệt thành làm chứng cho Người:
Sau khi đã tin Đức Giê-su là Ngôn Sứ và là Đấng Thiên Sai, người phụ nữ đã phấn khởi vào trong thành báo tin như sau: "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?" (Ga 4,29). Nhờ lòng tin yêu Chúa mà người phụ nữ này đã nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho đồng bào của mình. Thực như lời thánh Phao-lô đã nói: "Tinh yêu Chúa Ki-tô thôi thúc tôi" (2 Cr 5,14).
- Nhờ gặp gỡ và nghe lời Chúa mà dân làng Sa-ma-ri đã đạt đến một đức tin trưởng thành:
Lúc đầu dân làng Sa-ma-ri đã ra gặp Đức Giê-su theo lời người phụ nữ kêu gọi. Rồi họ đã mời Đức Giê-su ở lại để được nghe loan báo Tin Mừng. Nhờ đó họ đã có đức tin vào Đức Giê-su chính là "Đấng Cứu Độ trần gian". Cuối cùng họ đã khẳng định với người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian" (Ga 4,42). Đây cũng là tấm gương cho những anh chị em tân tòng theo đạo để lập gia đình với người bạn công giáo. Họ phải làm thế nào để đạt tới đức tin trưởng thành như dân làng Sa-ma-ri nói trên.
2) PHẢI GẶP GỠ CHÚA LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ CÓ ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH?:
Ngày nay chúng ta có thể gặp gỡ Chúa bằng nhiều hình thức như sau:
- Gặp Chúa trong tình yêu tha nhân: "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8), nên chỉ những ai có tình yêu thương tha nhân mới gặp được Thiên Chúa. Còn những kẻ ganh ghét, để lòng thù ghét anh em thì thuộc về ma quỷ và sẽ không gặp được Thiên Chúa đời này và đời sau như thánh Gio-an đã viết: "Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân" (1 Ga 3,15).
- Gặp Chúa trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần: Ðức Giê-su nói: Ðã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật" (Ga 4,23). Vì "Ðấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra" (Cv 7,48). Do đó muốn gặp gỡ Thiên Chúa thực sự, ta cũng phải gặp Ngài trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần.
- Gặp Chúa trong tín thác vào Chúa Giê-su "là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6): Nhờ đức Tin, chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa qua Lời Chúa và Thánh Thể tại nhà thờ; Gặp Chúa khi đọc Lời Chúa giờ kinh tối gia đình hằng ngày hay các buổi sinh hoạt Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần: "Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đất, giữa họ" (Mt 18,20)
- Gặp Chúa trong những người đang sống chung trong một mái nhà hay đang ẩn mình nơi những người đau khổ, nghèo khó, bệnh tật và bị bỏ rơi... Ngoài ra để gặp được Chúa, chúng ta cần phải ăn ở thành thật "có nói có, không nói không" (Mt 5,36). Tránh ăn nói quanh co, lừa đảo, vì đó là hành vi của ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (x. Ga 8,44).
3) LÀM GÌ ĐỂ SỐNG VÀ TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY ?:
- Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cần dành nhiều thời gian để đến gặp gỡ Chúa Giê-su trong thánh lễ, qua các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, các giờ kinh tối gia đình... Nhờ đó chúng ta sẽ có một nguồn suối làm thỏa mãn cơn khát nội tâm, và làm cho lòng chúng ta trở thành một mạch nước mới dẫn đến ơn cứu độ như lời Chúa dạy hôm nay: "Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa" (Ga 4,14a).
- Cần hãm mình ăn chay để có điều kiện làm nhiều việc bác ái yêu thương như phương thế truyền giáo hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội hôm nay: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định: "Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân". Câu chuyện sau đây chứng minh điều này: "Có một người đàn ông nọ mới theo đạo. Một hôm có người muốn thử đức tin của ông liền hỏi: "Anh theo đạo nhưng có biết Đức Giê-su là ai không ?" Người tân tòng trả lời: "Dĩ nhiên là biết chứ". Người kia hỏi tiếp: "Thế Đức Giê-su sinh ra tại đâu ?" Người tân tòng im lặng không trả lời được. Người kia hỏi tiếp: "Thế Đức Giê-su chết khi được bao nhiêu tuổi ?" Một lần nữa, người tân tòng lại không biết. Người kia liền nói: "Anh chẳng biết gì về đạo.
Vậy tại sao anh lại theo đạo ?" Bấy giờ người tân tòng mới nói: "Thú thật với anh: tôi biết rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi biết rất rõ là: Cách đây hai năm, do nợ ngân hàng mất khả năng chi trả, nên gia đình tôi lâm vào hoàn cảnh khốn cùng bị đuổi ra khỏi nhà để sống lang thang nay đây mai đó. Trong thời gian ấy, tôi buồn chán đi uống rượu và trở thành một kẻ luôn say xỉn và khi về đến nhà là lại la mắng vợ con. Vợ tôi lúc nào cũng buồn rầu khóc lóc. Các con tôi thì luôn sợ phải nhìn thấy mặt ba của chúng. Nhưng sau đó. tôi rất may đã gặp được một linh mục tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ gia đình tôi vượt qua cơn khó khăn: Ông giúp tôi có được một công việc thu nhập ổn định, và giúp gia đình tôi trở thành con Thiên Chúa. Ông còn giúp bản thân tôi trở thành một con người sống tiết độ và có trách nhiệm hơn đối với gia đình của mình. Hiện nay tôi đã đòi lại được căn nhà cũ trước kia. Vợ chồng tôi sống với nhau rất hòa hợp hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học hành tiến bộ và luôn ngoan ngoãn hiếu thảo. Tôi xác tín rằng: "Chính Đức Giê-su đã biến đổi gia đình tôi từ khi tôi gặp được Người qua trung gian một vị linh mục !" Quả thật đúng như lời Đức Giê-su đã phán trong Tin Mừng hôm nay: "Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời" (Ga 4,14b).
4. THẢO LUẬN:
1) Chúng ta thường mong ước những điều gì và cảm thấy thế nào khi chiếm hữu được chúng?
2) Bạn có cảm nghĩ gì về Lời Chúa hứa sẽ ban Nước Hằng Sống cho những ai tin và uống nước ân sủng của Người?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy biến đổi chúng con trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con gặp Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm sám hối... để biết rõ con người thật của mình. Xin cho chúng con năng uống Nước Hằng Sống là Lời Chúa dạy và Thánh Thể Chúa, nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ tươi vui hơn. Xin cho chúng con sẵn sàng loại trừ những thành kiến với tha nhân, để quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã nêu gương trong Tin Mừng hôm nay. Xin cho chúng con luôn cầu nguyện như thánh Au-gút-ti-nô: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, và tâm hồn con vẫn còn xao xuyến mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa"; Xin giúp chúng con luôn thực hành Lời Chúa như Mẹ Ma-ri-a đã căn dặn các người giúp việc yại tiệc cưới Ca-na xưa: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5b).- AMEN.
Nước là nguồn sống. Mọi loài thụ tạo đều cần có nước để bào tồn sự sống. Thiên Chúa ban dư tràn các nguồn nước từ trên cao mây trời, từ sông suối biển hồ và từ các nguồn mạch dưới đất. Nơi nào có nước, nơi đó có hiện hữu của sự sống và sự phú túc. Câu truyện dân Do-thái lữ hành trong sa mạc bị đói khát là lẽ thường vì sa mạc khô cằn và nắng cháy. Dân chúng kêu trách Môisen vì sự khổ sở thiếu thốn đủ thứ trên đường đi về miền Đất Hứa: Trong những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng:"Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy". (Xh 17, 3). Trong cuộc lữ hành, dân chúng hoàn toàn tùy thuộc vào nguồn nước tự nhiên của mưa sương và sông suối. Họ đã trải nghiệm sự đói, sự khát và sự thèm thuồng của ăn của uống. Cho nên họ đã phàn nàn kêu trách.
Chúa Giêsu đã cho quyền ông Môisen thực hiện một sự lạ lùng là dùng gậy đập vào tảng đá và nguồn nước sẽ vọt chảy cho dân uống. Sách Xuất Hành diễn tả biến cố có một không hai này: Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống". Môsê làm các điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel (Xh 17, 6). Môisen đã dùng cây gậy để thực hiện nhiều phép lạ trên hành trình đi về Đất Hứa. Hôm nay, trước mặt các bậc kỳ lão và dân chúng, ông Môisen đã lo sợ và niềm tin bị chao đảo. Ông đã dùng gậy và đập vào tảng đá hai lần. Nước từ tảng đá đã chảy tràn lan lai láng. Nhưng Thiên Chúa thấu rõ sự kém lòng tin của ông, nên ông chỉ được phép lữ hành tới biên giới ngắm nhìn miền Đất Hứa mà không được vào. Ông đã chết trước khi đoàn dân tiến chiếm miền Đất Hứa.
Tôi có dịp hành hương Đất Thánh và đi thăm viếng một số nơi mà Chúa Giêsu đã có dấu chân của hai ngàn năm trước đây. Phúc âm kể rằng vào một buổi trưa hè nóng bức, Chúa Giêsu đã ngồi nghỉ bên bờ giếng Giacób. Ngày xưa, các tổ phụ đã biết đào giếng để kiếm tìm nguồn nước dưới sâu trong lòng đất. Giếng nước nay thuộc quyền sở hữu của giáo hội Chính Thống Giáo. Hiện nay giếng nằm trong khu vực (West Bank) thuộc Samaria của người Palestine. Theo truyền thuyết từ lâu đời, giếng vẫn còn cung cấp nước sạch và chúng ta có thể uống thử nước từ nguồn. Chính nơi đây, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và đối thoại với người đàn bà Samaria. Chúa đã nhìn thấu rõ tâm hồn người đàn bà lầm lạc và đã mở lối giải thoát bà khỏi ràng buộc của tội lỗi. Chúa Giêsu đã giúp bà tìm đến ý nghĩa sự thật của cuộc đời. Bà đã đem chia sẻ kinh nghiệm đổi đời này với dân chúng trong thành. Giếng Giacób trở thành Giếng của sự thật (Well of Truth).
Trong cuộc đàm thoại với người đàn bà, Chúa Giêsu đã mạc khải cho bà về nguồn ân sủng, đó là nguồn nước trường sinh sẽ không bao giờ cạn: Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời" (Ga 4, 13). Từ câu chuyện đời thường, Chúa Giêsu đã khéo dẫn bà đi vào đời sống nội tâm và nhìn biết được chính mình. Biết phận mình, bà ra giếng giữa lúc trưa nắng để tránh gặp những người hàng xóm quen thuộc. Bà đã gặp được Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ cạnh giếng. Chúa Giêsu không ngần ngại khởi đầu câu chuyện xin người đàn bà cho nước uống. Thời đó, chúng ta biết giữa người Do-thái và người Samaria phân biệt không liên đới và không dùng chung các dụng cụ tại giếng. Ngay cả các tông đồ cũng ngạc nhiên về cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà tội lỗi nơi công cộng. Nhờ cơ hội này, Chúa đã đi vào sâu thẳm trong tâm hồn khao khát sự thật của bà. Chúa đã giải thoát cho bà.
Người đàn bà đã thắc mắc với Chúa về sự thờ phượng nơi đâu cho đúng. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã đánh tan mọi giới hạn ngăn cản. Chúa Giêsu không đứng về phe phái nào cả và sự thờ phượng Thiên Chúa không tùy thuộc vào nơi này hay nơi kia, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Đây là một câu trả lời cách mạng của sự thật: Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem (Ga 4, 21). Con người chúng ta thường câu nệ vào những hình thức bên ngoài và xây lên những bức tường chia rẽ để ngăn cách nhau trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phá đổ những khuôn mẫu mà con người vì ghen tương đã dựng xây. Chúa dẫn con người đi vào tận thâm tâm sâu thẳm của trái tim chân thật.
Đến thăm viếng thành thánh Giêrusalem hiện nay, chúng ta thấy các tường thành được xây dựng khắp nơi. Các khu vực tôn thờ bị chia cắt và tranh dành quyền sở hữu. Địa sở thành Giêrusalem trở nên nơi tranh chấp và bị chiếm hữu thế tục. Nơi đây là tấc đất tấc vàng. Mỗi nhóm tôn giáo cố gắng sở hữu một khu vực để gọi là thờ phượng và lưu giữ truyền thống. Vùng đất Chúa Giêsu đã đi qua, nhưng Ngài đã không để lại một dấu vết cụ thể nào. Vì Chúa muốn xây dựng đền thờ trong tâm hồn con người. Chúa phán: Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn (Ga 4, 23). Chúa Giêsu muốn chúng ta tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý, chứ không hệ ở đền thờ vật chất hoành tráng hay bằng môi miệng trống rỗng hoặc những hình thức hiến dâng lễ tế chiên bò. Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở rằng Chúa muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ.
Chúa Giêsu đã mở lòng người đàn bà Samaria. Bà đã đón nhận nguồn nước sự sống trường sinh. Bà đã tìm ra sự thật của việc tôn thờ Thiên Chúa trong thần trí. Bà đã thấy và đã tin vào Chúa Giêsu. Bà trở thành nhân chứng của nước trời mang tin vui cho những người chung quanh. Dù bị xem là người dân ngoại, bà đã có lòng tin trở lại. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho dân thành Rôma đã công bố: Đấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa (Rm 5, 2). Đức tin dẫn đến ân sủng. Tin vào Chúa Giêsu là cửa ngõ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ. Niềm tin là sự phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta rằng tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người và mọi sự sẽ được ban cho.
Cậy trông vào Chúa là chìa khóa mở cửa dẫn chúng ta vào quê thật. Chúa Giêsu mở lòng người đàn bà đến với sự thật tinh tuyền. Sự thật được gột rửa bởi sự đơn sơ thanh sạch trước nhan Chúa. Sự thật được phơi bầy xóa nhòa mảnh hồn tội lỗi chất chồng của người đàn bà Samaria. Chúa Giêsu đã tưới gội tâm hồn của bà bằng dòng nước trường sinh. Nguồn ân sủng của Chúa Thánh Thần như nguồn nước thấm nhập vào đời sống đức tin, đức cậy và đức mến. Các nhân đức hòa trộn dẫn dắt chúng ta đến Chúa Giêsu là nguồn ơn cứu độ. Thánh Phaolô dạy: Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng đã được ban cho chúng ta (Rm 5, 5). Chúa Thánh Thần sẽ tác động làm đổi mới tâm can và canh tân mọi sự.
Lạy Chúa, xin cho nguồn nước hằng sống tuôn đổ vào tâm hồn, để chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa. Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi vết nhơ tội lỗi và ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương chân thành.
Mùa chay giúp chúng ta nhìn lại cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Chúa nhật I Mùa chay, Chúa Giêsu đã vượt thắng tội lỗi, chiến thắng ma quỷ. Chúa nhật II Mùa chay, ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu Phêrô, Giacôbê và Gioan được chiêm ngưỡng sự biến hình của Chúa Giêsu. Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đem lại nguồn nước mới, nguồn sức sống cho bất kỳ ai, không phân biệt bất cứ ai, tin nhận Ngài là Đấng Cứu thế.
Câu chuyện người phụ nữ bên bờ thành giếng Giacop xưa là một áng văn quá tuyệt vời của thánh Gioan. Nó thi vị không phải người phụ nữ bên bờ thành giếng hằng ngày tới múc nước. Nhưng nó thật gợi cảm và thi vị khi người phụ nữ gặp được chính Chúa Giêsu, và Ngài đã làm cho người phụ nữ này tin và đón nhận Chúa. Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay tuy hơi dài nhưng quả thực câu chuyện và áng văn quá hấp dẫn đến nỗi đoạn Tin Mừng này làm cho chúng ta không hề chán. Chúa Giêsu đi đến một thành Samari, một thành của người ngoại. Câu chuyện được bắt đầu với việc một người phụ nữ Samari mang gầu đến giếng múc nước. Trông thấy chị, Chúa nói: " Chị cho tôi xin chút nước uống ! "... Người phụ nữ Samari rất ngạc nhiên vì người Do Thái không được liên lạc với người ngoại giáo. Tuy nhiên, Thiên Chúa có đường lối của Chúa, Ngài dẫn con người từ chỗ này tới chỗ nọ, từ đường này tới đường khác...Từ việc xin nước, Chúa Giêsu đã chỉ cho người phụ nữ Samari khao khát nước hằng sống: " Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt, mang lại sự sống đời đời " ( Ga 4, 14 ). Chị đã bị khuất phục và nằng nặc xin Chúa thứ nước hằng sống. Chúa Giêsu đã đưa chị từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Từ việc Ngài bảo chị gọi chồng chị đến cho tới việc Ngài nói với chị: " Chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị " ( Ga 4, 18 ). Sự ngạc nhiên đến thán phục, người phụ nữ Samari đã nhận ra Chúa và tin vào Ngài khi Đức Kitô xác nhận: " Đấng Messia, Đấng ấy chính là ta, người đang nói với chị đây " ( Ga 4, 26 )
.
Câu chuyện có hồi kết thật có hậu... Chị về kể lại cho mọi người trong làng nghe...mọi người đều thán phục Đức Kitô, tuy nhiên dân chúng không chỉ nghe người phụ nữ này kể lại sự việc Đức Kitô đã nói về mình rồi họ tin, nhưng chính họ lại làm chúng ta ngạc nhiên hơn khi xác định: " Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin.Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Vị Cứu Tinh của trần gian " ( Ga 4, 42 ).
Chúa Giêsu đã có mặt mọi nơi, mọi chỗ để tỏ lộ lòng thương xót của Ngài đối với con người, đối với mọi người. Xưa Chúa đến với người phụ nữ Samari để làm cho chị và nhiều người tin và nhận ra Người. Và như thế, khi đọc Tin Mừng của Đức Kitô, chúng ta bắt gặp Con Người thật: Đức Kitô đang mạc khải tình thương của Ngài cho nhiều người, đặc biệt Ngài đến với những con người tội lỗi, đến với những con người nghèo hèn, khốn khổ, thấp cổ bé họng... Chúa đến làm cho người mù được thấy, kẻ quẻ được đi, kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được, người chết sống lại. Lòng thương xót của Chúa thật bao la, vô biên...
Do đó, chắc chắn Ngài vẫn tiếp tục đến với chúng ta để đem lại cho chúng ta tin vui cứu độ và giáo lý tình thương, để mọi người được chứa chan tình thương, được dòng suối ân sủng tưới gội, được lương thực thiêng liêng làm no thỏa tâm hồn... Nên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari thúc bách chúng ta mau mắn tìm gặp Chúa, đặc biệt trong Mùa Chay. Chúng ta đừng chần chừ đi tìm gặp Người. Những thái độ nản chán, ích kỷ, ươn hèn là những thái độ không xứng đáng để con người có thể gặp Chúa. Khôn ngoan, chóng vánh, tỉnh thức là những thái độ cần thiết và thích hợp để đi tìm gặp Chúa. Hình ảnh năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại dạy chúng ta nhiều điều. Việc năm cô khôn mang đèn và mang dầu theo là thái độ chúng ta phải có. Chúa đã đi bước trước để gặp gỡ người phụ nữ Samari...Chúng ta có mắn đến với tha nhân hay chỉ ngồi chờ đợi người ta đến với chúng ta trước ? Chúa sẵn sàng ban phát ơn lành, còn chúng ta có biết cho đi hay chỉ biết đón nhận ? Chúa đã đi bước trước đến với người phụ nữ ngoại đạo và là một phụ nữ tội lỗi. Chúng ta có dám vượt qua những rào cản ích kỷ để đến với anh chị em đang cần sự giúp đỡ, chỉ bảo của chúng ta không ?
Lạy Chúa, Chúa đã đến với người phụ nữ Samari để giúp chị nhận ra và tin vào Chúa, đồng thời nhận ra chính chị, nhận ra con người thật của chị. Chị đã được ơn sám hối và được biến đổi hoàn toàn. Xin Chúa hãy đến với chúng con trong mùa chay này để chúng con hiểu Chúa rõ hơn, và để chúng con hiểu chúng con hơn. Xin Chúa dùng lời Chúa để dạy dỗ chúng con, làm tươi lại cuộc đời xem ra khô cằn của chúng con. Xin Chúa biến đổi đời sống chúng con. Amen.
Chúa nhật thứ 3 mùa chay có thể nói gợi lên cho tất cả những ai theo Chúa về một cuộc gặp gỡ diệu kỳ giữa Đức Kitô và người phụ nữ ngoại giáo Samari. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu này làm cho mọi người chúng ta hiểu hơn về Đức Kitô, Đấng luôn tạo cho chúng ta cơ hội gặp gỡ Ngài...
Người phụ nữ Samari được gặp một Đấng mà chị không bao giờ ngờ tới. Bởi vì, Đấng ấy ngồi nghỉ bên bờ giếng và người nữ Samari đi kín nước bình thường như mọi ngày, chị không hề hay biết Đấng ngồi nghỉ bên chân giếng và chị cũng chẳng có ý định gặp Chúa Giêsu. Việc tình cờ của người phụ nữ Samari gặp Chúa Giêsu hôm nay làm cho chị hết sức ngạc nhiên. Chúa Giêsu không phải vì khát nước mà xin chị cho Ngài uống nước giếng tổ phụ Giacóp đã để lại, nhưng Chúa tạo cơ hội xin nước để gợi ý, trò chuyện và giới thiệu cho chị Samari một vấn đề hết sức quan trọng, một việc cao cả mà chị chưa bao giờ được nghe ai nói tới. Ngài muốn nói với người phụ nữ rằng chị là người đang khát và tỏ cho chị hay Ngài là ai, là Người sẽ làm cho chị hết khát, khỏi phải hằng ngày đi kín nước: " Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa ".
Nước Chúa sẽ cho là nước hằng sống. Nước ấy chính là Lời của Chúa. Lời bầy tỏ sự kín nhiệm của Người và Lời ấy sẽ vạch rõ quá khứ, hiện tại và tương lai của con người. Chúa đã nói về quá khứ người phụ nữ Samari đã có năm đời chồng rưỡi. Do đó, chị đã nhận ra Ngài là một tiên tri. Và cuối cùng, chị đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia. Đây là một sự hết sức kỳ diệu, một phép lạ đã được tỏ lộ cho người phụ nữ Samari chứ không phải cho người Do Thái đồng hương, hay cho các môn đệ thân yêu của Ngài: " Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây " ( Ga 4, 26 ). Chị nữ Samari đã có một niềm vui to lớn, một hạnh phúc lớn lao, chị nong nả, vội vã đi loan báo cho dân làng về một Đấng Mêsia mà chị vừa gặp gỡ. Đấng đã thấu suốt quá khứ và hiện tại của chị, Đấng hứa cho chị uống thứ nước không hề khát. Chị muốn uống thứ nước đó và đồng thời cũng muốn cho dân làng của mình được uống thứ nước tuyệt vời, diệu kỳ ấy. Đấng ấy chính là Đấng Mêsia đến cứu độ nhân loại và ban cho nhân loại hạnh phúc tuyệt vời nếu nhân loại tín thác vào Ngài. Đấng sẽ ban cho nhân loại nước hằng sống nếu nhân loại thật lòng khao khát muốn uống thứ nước ấy. Đấng sẽ ban Lời, nếu nhân loại sẵn sàng đón nhận Lời và thực thi Lời trong đời sống thì Chúa sẽ cho họ được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).
Chúa Giêsu đã không uống nước giếng, cũng chẳng vào ăn cơm với gia đình của người phụ nữ Samari. Nhưng điều các môn đệ của Người sẽ rất ngạc nhiên và thán phục đó là: " Người luôn làm theo thánh ý Chúa Cha...và các linh hồn phải được cứu rỗi, là qua việc người nữ Samari kể lại với dân làng, là việc dân làng thấy Chúa và nghe Chúa nói, nhiều người đã tin vào Người " ( Ga 4, 35 ).
Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samari thúc bách chúng ta cũng mau mắn gặp gỡ Người...Gặp gỡ Đức Kitô không chỉ là may mắn tình cờ, nhưng mọi người đều có thể, có cơ hội đi tìm gặp gỡ Chúa, đặc biệt trong mùa chay. Chúng ta hãy bắt chước năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn và mang theo dầu...Đức Kitô sẽ đến và chúng ta sẽ gặp được Người. Lời Chúa nói: " Này Ta đang đứng ngoài cửa mà gõ, ai nghe tiếng ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy ". Chúa có thể đã nhiều lần đến gõ cửa tâm hồn của chúng ta, nhưng nhiều khi chúng ta say ngủ, hay quên mang dầu để mở cửa đón Chúa. Nên, gặp gỡ Chúa có thể nói là hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta, vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. " Hãy tỉnh thức và cầu nguyện " để đón Chúa và gặp gỡ Chúa.
Chúng ta hãy bắt chước người phụ Samari mau mắn loan báo cho dân làng, cho muôn người biết Đấng Mêsia, như thế chúng ta đã làm thỏa cơn đói của Chúa: " Lúa chín đầy đồng...".
Chúng ta hãy cùng với dân làng Samari và cùng với nhiều người loan báo Chúa Giêsu là Đấng cứu độ trần gian như thế là chúng ta làm thỏa cơn khát của Chúa.
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người nữ Samari đã làm thay đổi cả cuộc đời của chị như bài ca của Linh mục Giuse Tiến Lộc đã viết: " Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình...".
Vâng, chỉ có Đức Kitô mới giải đáp được những ưu tư, băn khoăn, lo âu, những khúc mắc của mỗi người chúng ta. Chỉ mình Chúa mới ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta phấn khởi mà sống giữa cuộc đời đầy gian nan, thử thách.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con thứ nước chúng con uống vào sẽ không còn khát và thứ nước đem lại cho chúng con ơn cứu độ, đó là Nước Hằng Sống. Amen.
Trong cuộc chuyện trò với Nicôđêmô, tác giả Gioan đã mô tả cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với một đại diện của giai cấp cầm quyền Do Thái. Hoạt cảnh tiếp theo có nội dung là cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với một người phụ nữ Samari. Người Do Thái và người Samari sống những tương quan căng thẳng. Người Samari coi mình là hậu duệ của các tổ phụ (x. Ga 4,12.20) và là số sót của Israel, vì Bắc quốc đã bị người Átsua tiêu diệt vào năm 722 tCN. Thiên Chúa của họ là Đức Chúa (Yhwh), là Thiên Chúa của Israel. Họ chỉ chấp nhận năm cuốn sách của Môsê (= Ngũ Thư). Người Do Thái Giêrusalem coi họ như là một dân tộc hỗn hợp bán ngoại giáo (x. 2 V 17,24-41), nên đã cấm họ không được tham gia vào việc tái thiết Đền Thờ sau Lưu đày (x. Er 4,1-24), và lại còn ghét họ thậm tệ mà coi họ như là dân ngu ngốc sống tại Sikhem (Hc 50,26).
Đức Giêsu không để mình bị ảnh hưởng bởi những kiểu đánh giá như thế. Người đã đón tiếp vị đại diện của Thượng Hội Đồng đã lén đến gặp Người ban đêm như đi gặp một vị tôn sư. Bây giờ Người ngỏ lời với một phụ nữ Samari, có lối sống dường như nước đôi (x. 4,17-18), mà Người tình cờ gặp lúc giữa trưa. Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều ý thức Người chu toàn nhiệm vụ Chúa Cha giao phó (x. 4,34); trong cả hai trường hợp, Người đều muốn chỉ cho thấy con đường đưa tới sự sống.
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành ba phần:
1) Mở (4,1-3);
2) Cuộc gặp gỡ với người phụ nữ (4,4-38):
a) Khung cảnh và các nhân vật (cc. 4-6), b) Cuộc đối thoại với người phụ nữ (cc. 7-26):
- Lời xin nước và ân ban nước hằng sống (cc. 7-15), - Mạc khải về phụng tự chân thật (cc. 16-26), + Các người chồng (cc. 16-18),
+ “Nếu ông là một ngôn sứ” (c. 19), + Nền phụng tự mới (cc. 20-26: 20-24; 25-26),
c) Đối thoại với các môn đệ (cc. 27-38),
3) Gặp gỡ với dân Samari (4,39-42).
3.- Vài điểm chú giải
- Người phải băng qua (4): Edei (thì vị hoàn của dei), “phải”, diễn tả một điều nằm trong ý muốn hoặc chương trình của Thiên Chúa.
- Xykha … Giacóp (5): Đa số các thủ bản chép là “Xykha” (Sychar). Trong thực tế, trong miền Samari, không có thành Xykha, mà chỉ có Sêkhem (Shechem) thôi. Có lẽ chữ Shechem đã bị đọc lầm thành Sychar do vần ar trong Samari. Về liên hệ giữa Giacóp và Shechem, xin đọc St 33,18; 48,22; Gs 24,32.
- Người Do Thái... người Samari (9): Người Samari là con cháu của hai nhóm:
1) Những người Israel không phải đi lưu đày khi Vương quốc phía Bắc sụp đổ vào năm 722 tCN.
2) Những người thực dân xứ Babylon và Mêđia do các đoàn quân xâm lăng Átsua đưa vào (x. 2 V 17,24tt).
Có một sự đối lập về thần học giữa những người Do Thái phía Bắc này và người Do Thái phía Nam, bởi vì người Samari không chịu thờ phượng Thiên Chúa tại Giêrusalem. Tình trạng này thêm trầm trọng vì người Samari đã gây khó khăn cho người Do Thái hồi hương trong việc tái thiết Đền Thờ Giêrusalem, rồi đến thế kỷ ii tCN, người Samari lại giúp các vua Syri trong các cuộc chiến chống người Do Thái. Vào năm 128 tCN, thượng tế Do Thái đã đốt Đền Thờ Samari trên núi Garidim. Đối với người Do Thái, dân Samari là dân ô uế.
- Người ấy ban cho chị nước hằng sống... Vậy Người lấy đâu ra nước hằng sống (10-11): Trong Ga, chúng ta thường gặp tình trạng các người đối thoại với Đức Giêsu hiểu lầm những công thức Người dùng, ví dụ ở đây, hai công thức “nước hằng sống” trên môi Đức Giêsu và trên môi người phụ nữ không cùng một ý nghĩa. Tác giả dùng kiểu viết đó để trình bày mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người.
- Giếng (cc. 6.11): Trong c. 6, “cái giếng” là pêgê (HL), trong c. 11, “cái giếng” là phrear (HL). Trong bản Cựu Ước Hy Lạp (= Bản LXX), pêgê và phrear có nghĩa gần như nhau, nhưng phrear thì gần với nghĩa là “giếng nước”, còn pêgê thì gần với nghĩa là “mạch/suối nước”. Ý nghĩa là: Lúc đầu, khi nói về nước tự nhiên của giếng Giacóp, tác giả chưa phân biệt; bây giờ, khi câu chuyện chuyển sang đề tài nước hằng sống của Đức Giêsu, tác giả mới phân biệt: Đức Giêsu bây giờ là mạch nước (pêgê; Người sẽ chính thức tuyên bố như thế ở c. 14), còn giếng Giacóp chỉ là một “cái giếng” thôi (phrear).
- Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp (12): Đây là một ví dụ về nét hài hước trong Ga: các nhân vật vô tình nói ra sự thật về Đức Giêsu.
- Thưa Ngài (cc. 11.15.19): Ba lần, bản văn Hy Lạp cho thấy người phụ nữ gọi Đức Giêsu là Kyrios (sir, lord; seigneur). Cùng một kiểu xưng hô, nhưng chúng ta hiểu là có một sự chuyển biến về ý nghĩa vì người phụ nữ thưa với thái độ càng lúc càng tôn kính hơn.
- Núi này (21): x. Đnl 27,4. Đây là núi Garidim. Trong Bản Ngũ Thư Samari, ở Đnl 27,4, chúng ta đọc được huấn thị ban cho Giôsuê là dựng một thánh điện trên núi Garidim, núi thánh của người Samari, chứ không phải trên núi Êvan. Cụm từ “Núi Êvan” rất có thể đã được sửa lại trong bản văn Híp-ri do chủ trương chống Samari.
- Thần khí và sự thật (24): tức là Thánh Thần và Đức Giêsu (là sự thật).
- Đấng ấy chính là tôi (26): Đây là công thức bằng tiếng Hy Lạp egô eimi (I am; Je suis). Công thức này là chính danh xưng Thiên Chúa tỏ cho Môsê. Tác giả muốn ngầm giới thiệu thần tính của Đức Giêsu.
4.- Ýnghĩa của bản văn
Bản văn được bố cục thành những “xen” qua đó Đức Giêsu đối thoại với người phụ nữ và các môn đệ để đưa họ đến chỗ đón nhận những mạc khải chính yếu về bản thân Người.
* Mở (1-3)
Chương 4 của TM Ga mở đầu bằng một đoạn văn tóm tắt có vai trò “làm cầu” nối [vì liên kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42. Đoạn Ga 4,1-4 này thông tin cho chúng ta về Đức Giêsu và các môn đệ Người, và về phép rửa mà Người đã làm. Hoạt động này của Đức Giêsu và nhóm của Người dường như diễn tiến song song với hoạt động của Gioan và các môn đệ ông.
Các câu 1-2 nói với chúng ta một lần nữa rằng Đức Giêsu đã làm phép rửa cùng với các môn đệ Người (x. Ga 3,22), rồi nhờ một mệnh đề xen vào giữa, chúng ta biết rằng chính các môn đệ đã làm phép rửa, đồng thời, bản văn cho biết là Đức Giêsu cũng biết việc ấy.
Sang c. 3, bản văn xác định rằng Đức Giêsu bỏ miền Giuđê, mà trở lại miền Galilê.
* Cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samari (4-42)
a) Khung cảnh và các nhân vật (cc. 4-6),
Để trở lại miền Galilê, Đức Giêsu phải băng qua miền Samari. Không phải là Đức Giêsu và các môn đệ không còn cách nào khác ngoài cách băng qua Samari, một miền đất nổi tiếng là không hiếu khách (x. Lc 9,51-56). Sự bó buộc này (“phải”, edei) mang tính thần học và thiêng liêng, vì thuộc về chương trình của Thiên Chúa, sẽ tạo cơ hội cho cuộc gặp gỡ.
Đến đây chúng ta được giới thiệu khung cảnh của cuộc gặp gỡ: bên cạnh giếng Giacóp, trong thửa đất mà Giacóp đã cho con là Giuse. Với chi tiết này, tác giả đưa ta trở lại với bài anh hùng ca là lịch sử các tổ phụ và đặc biệt của tổ phụ Giacóp. Tác giả TM IV đã đối chiếu Đức Giêsu với Giacóp trong giai thoại Nathanaen, khi ngài nói đến các thiên thần lên xuống trên Con Người, tức là gợi đến thị kiến của Giacóp. Thế rồi truyện Giacóp lại được đặt liên kết với truyện Giuse, từ nơi ông mọi phúc lành đến với nhà Israel. Cả câu “Người nói gì, các anh cứ việc làm theo” được Đức Maria nói ở Cana (Ga 2,5b) cũng liên kết với truyện Giuse. Vậy tác giả muốn liên kết Đức Giêsu cả với cuộc đời Giacóp lẫn cuộc đời Giuse và với những gì làm nên ý nghĩa của vai trò Giuse trong lịch sử Israel. Đức Giêsu là Đấng ban lương thực, Đấng cho người đói ăn no, và vì đói luôn đi với khát, Người cũng là Đấng giải khát, như đã xảy ra trước đây với Giacóp rồi với Giuse. Phải chăng ở đây chúng ta còn gặp lại đề tài những cuộc hôn nhân phát sinh từ bên một bờ giếng?
Và hai nhân vật chính là Đức Giêsu và người phụ nữ Samari xuất hiện, trong khi các môn đệ đã đi vào thành mua thức ăn.
Đức Giêsu đến ngồi ngay xuống bờ giếng, vì mệt mỏi. TM IV nhắc đến sự mệt mỏi của Đức Giêsu (khác với quan niệm của ảo thân thuyết hay của phái ngộ đạo). Người không phải chỉ là Thiên Chúa, mà cũng còn là một người thật, và vì thế, đôi lúc Người cảm thấy mệt nhọc. Xa hơn một chút, nhân tính Người còn được nêu bật thêm một lần nữa khi tác giả viết rằng Người cảm thấy sức nóng nực của lúc giữa trưa và cần uống nước (x. cc. 6 và 7). Nhu cầu này khiến Người xin nước với người nào xuất hiện đầu tiên, và đây là một phụ nữ Samari (Ga 4,7-15), bà này có lẽ vẫn quen đi kín nước tại giếng này.
b) Cuộc đối thoại với người phụ nữ (cc. 7-26)
Người phụ nữ vừa đến nơi, liền xảy ra cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và bà ấy, Trong mẩu đối thoại, sẽ xuất hiện chuyển động này: các nhân vật đi từ nhu cầu thể lý (của Đức Giêsu), để đi tới cơn khát thiêng liêng (của người phụ nữ), cơn khát duy nhất có thể giải tỏa tình trạng khao khát của thân phận con người. Nhu cầu hoặc các nhu cầu tự nhiên luôn luôn có đó để ta phải tìm thỏa mãn, nhưng không đến độ bóp nghẹt ước vọng sâu xa của con người.
- Lời xin nước và ân ban nước hằng sống (cc. 7-15). Trong phân đoạn cc. 7-15, chúng ta gặp được một mạc khải về nước hằng sống. Khi thấy người phụ nữ, Đức Giêsu liền xin uống. Người đang ở một mình, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn (c. 8), nên Người không thể xin các ông đáp ứng nhu cầu.
Có lẽ do nghe giọng nói của Đức Giêsu, người phụ nữ biết rằng Người không phải là dân địa phương, nên đã cao giọng đưa ra mấy nhận xét tiêu cực. Làm sao Người lại dám xin điều gì với một người Samari? Chẳng lẽ Người lại không biết tập tục cấm một người đàn ông nói chuyện một mình với một người đàn bà lạ mặt? Các kinh sư thường dạy rằng nếu ai cần xin một phụ nữ điều gì, thì phải nói thật ít. Do đó, chúng ta hiểu nỗi ngạc nhiên của các môn đệ, khi trở về, thấy Đức Giêsu đang trò chuyện với một người phụ nữ và lại là một phụ nữ Samari.
Cũng như trong truyện Nicôđêmô, ở đây cơn khát của Đức Giêsu tạo dịp cho Người đối thoại, nhưng hoàn cảnh đầy những dị nghĩa khiến cuộc đối thoại có thể bị phá vỡ. Quả thế, câu nói của người phụ nữ: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (c. 9) lẽ ra đã bắt Đức Giêsu phải thinh lặng. Nhưng Đức Giêsu lại có sáng kiến bỏ qua cuộc tranh luận về các quy luật xã hội tôn giáo dựa trên những đối lập hỗ tương có từ bao đời. Các đối lập ấy không bao giờ là tiếng nói cuối cùng cho các tương quan giữa con người với nhau.
Thoạt tiên, câu trả lời của Đức Giêsu: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (c. 10), dường như muốn nhắc bà nhớ đến truyền thống hiếu khách của dân Địa Trung Hải: giúp đỡ tận tình bất cứ người lữ khách nào. Thế nhưng Đức Giêsu còn nhắm một đề tài lớn hơn. Từ c. 10 đến c. 15, có một mẩu đối thoại nhỏ xoay quanh đề tài “nước/ân ban”. Bằng cách đó, Người muốn lôi kéo sự chú ý của người phụ nữ vào điểm mà lẽ ra bà phải hiểu, nghĩa là lẽ ra bà không được lẫn lộn hai yếu tố: một bên là nước cụ thể và vật chất, và bên kia là nước hằng sống, ân ban hoàn toàn đặc biệt bây giờ được trao tặng.
Từ c. 10, nổi rõ là “nước” mà Đức Giêsu nói đến thì cao trọng hơn là nước thiên nhiên, nước kín từ giếng lên. Còn phải hiểu ngầm một điều song song khác, đó là nước mà Đức Giêsu hứa ban thì cao trọng hơn nước các tổ phụ đã ban; như vậy, mạc khải của Đức Giêsu về phẩm chất, thì cao trọng hơn mạc khải của các tổ phụ (như pêgê so với phrear). Ta thấy rõ trên bình diện biểu tượng, trọn con đường mà người phụ nữ phải trải qua: khởi đi từ cái giếng Giacóp (x. St 24), bà phải đi lên tới tận nguồn nước hằng sống, là chính Đức Giêsu. Đây hầu như là lời loan báo chương trình mà bài tường thuật sẽ phải rảo qua. Bởi vì người đàn bà có thể thực hiện bước ấy, Đức Giêsu mới đề nghị cho bà nước hằng sống (Ga 4,10).
Đã mơ hồ linh cảm người đang đối thoại với mình là một người khác thường, người phụ nữ không quay về điều được nói đến nữa, nhưng quay về người đã xin bà cho uống, và bây giờ lại tỏ ra sẵn sàng ban cho bà nước hằng sống. Bà hỏi (c. 11), y như thể muốn nói với giọng mỉa mai rằng: “Ông tưởng ông là ai chứ? Ông không có gầu để kín nước mà giếng lại sâu, thế mà ông lại đề nghị như thế?” Rồi bà tiếp: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu...”.
Một lần nữa, cuộc gặp gỡ có thể bị phá hỏng, bởi vì đề nghị của Đức Giêsu đã không được đón nhận. Nhưng Đức Giêsu kiên nhẫn tiếp tục. Người tìm cách gợi lên nơi bà khát vọng chân thật sẽ đưa bà đến chỗ quay hướng về Người, như quay về với Đấng duy nhất có thể thỏa mãn điều bà đang đi tìm. Vậy điều đầu tiên là làm cho bà hiểu rằng có hai loại nước: loại thứ nhất là nước tự nhiên của giếng, không thể làm cho hết khát, và loại thứ hai, nước mà Người sẽ ban, sẽ giải khát hoàn toàn. Hơn nữa, loại nước thứ hai còn biến kẻ uống thành một mạch nước trào dâng. Đàng khác, Đức Giêsu muốn đưa bà chuyển đi từ ân ban đơn giản hoặc ân ban của Thiên Chúa đến Đấng ban ơn, là chính Người. Ở c. 15, người phụ nữ đã đưa một bước chân về phía Đức Giêsu, nhưng đồng thời lại kéo mọi sự về bình diện của bà, về các nhu cầu trực tiếp của bà, điều đó chứng tỏ bà chưa hiểu gì cả. Thứ nước bà ấy mong có không phải là thứ mà Đức Giêsu muốn ban cho bà.
Mặc dù lại gặp một thất bại thứ hai, Đức Giêsu không nản lòng, không dừng lại, Người vẫn tiếp tục bằng cách dựa trên sự mở lòng nửa vời của người đàn bà.
- Mạc khải về nền phụng tự chân thật (cc. 16-26). Cuộc đối thoại lại chuyển sang một hướng khác hẳn. Không úp mở, Đức Giêsu bảo bà đi gọi chồng lại đây. Qua câu nói này, Đức Giêsu nắm lại phần chủ động trong đối thoại. Bà đã thú nhận không mập mờ rằng bà không có chồng. Đức Giêsu trân trọng sự chân thành đó. Nhưng Người cho bà thấy khả năng hiểu biết đặc biệt của Người khi nói rằng rằng bà đã có năm đời chồng. Đã thế, Người còn nói: “Hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Nếu nói Đức Giêsu đã cư xử thiếu tế nhị và lịch sự, là chúng ta phán đoán với các tiêu chí của chúng ta hôm nay. Thật ra, khi nói như thế, Đức Giêsu đã cư xử như các ngôn sứ Cựu Ước, có khả năng đọc trong tim người đối thoại (x. Êlisa).
Người phụ nữ không mất tinh thần. Bà nhận ra chiều kích ngôn sứ này. Đây không phải là một cuộc xưng thú tội lỗi ép buộc, nhưng là một bước đi tới sự thật, nhờ đó người phụ nữ cảm thấy được giải thoát khỏi quá khứ của bà. Sự thật và sự rõ ràng của cuộc gặp gỡ đòi hỏi sự trong suốt này. Bây giờ bà hướng về hiện tại và tương lai một cách mới mẻ, và hậu quả là bà tuyên xưng Đức Giêsu là một ngôn sứ. Ở đây có hai chuyển động đồng thời: một đàng, người phụ nữ xưng thú tình cảnh thực tế của mình; đàng khác, việc xưng thú này giúp bà nhận biết chân tính của Đức Giêsu. Như vậy, bà đã thực sự chuyển sang một bình diện khác và bắt đầu nhìn các sự việc dưới một góc độ mới. Một mẩu đối thoại về nền phụng tự chân thật đã sẵn sàng được mở ra.
Cuộc đối thoại tiến sang một giai đoạn mới nữa. Người phụ nữ đi tới một bình diện hiểu biết mới: đã linh cảm Đức Giêsu là ngôn sứ, bà hỏi Người rằng đâu là nơi hợp pháp để thờ phượng Thiên Chúa, núi Garidim hay Giêrusalem, và bà dùng lời lẽ nghèo nàn để trình bày thế lưỡng nan truyền thống giữa người Do Thái và người Samari. Mặc nhiên bà nhìn nhận uy tín của Người nên xin Người giải quyết vấn đề. Đây là dịp tốt để Đức Giêsu đưa bà vào việc phụng tự chân thật (Ga 4,21-24), Người đã nói thẳng thắn và đơn giản về ý nghĩa của phụng tự trong thần khí và sự thật, mà không bận tâm xem là bà có hiểu chăng. Người không đi vào các tranh cãi “truyền thống”, cứ để cuộc xung đột trong tình trạng mở, chỉ nêu bật ý nghĩa đích thực của việc thờ phượng.
Đối với Đức Giêsu, điểm chính của vấn đề không chỉ nằm tại việc “thờ phượng”, mà là “thờ phượng Chúa Cha”. Để nói về thực tại này, Người dùng các đại từ “các người” và “chúng tôi”. Có những tác giả cho rằng “chúng tôi” là Đức Giêsu, hoặc là cộng đoàn Kitô hữu, còn “các người” là những người đối thoại không phải là Kitô hữu; nhưng đọc như thế là không tôn trọng mặt chữ và thời điểm của bản văn. Chắc chắn nhất, trên bình diện lịch sử, và theo ngữ cảnh cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, là coi “các người” là dân Samari, còn “chúng tôi” là người Do Thái, và Đức Giêsu cũng thuộc về nhóm đó.
Sau khi đã nêu bật các yếu tố chính của tranh luận tôn giáo, trước khi đi tiếp, Đức Giêsu không ngần ngại khẳng định rõ ràng rằng ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái (c. 22). Ý nghĩa đầu tiên của câu này là Đức Giêsu không đặt lập trường của người Do Thái và người Samari trên cùng một bình diện (như chúng ta nói: có những người là “chính thống” và có những người là “lạc giáo”). Không thể dễ dàng loại trừ những khác biệt thuộc quá khứ; chúng đã có đó, chúng có ý nghĩa của chúng. Nhưng còn có ý nghĩa khác nữa: Đức Giêsu muốn nhắc nhớ đến lịch sử cứu độ như đã có và như Thiên Chúa đã muốn có. Và như vậy, đây không phải là một câu thêm vào (glose) như Bultmann và một vài tác giả đã chủ trương. Khởi đi từ công thức này, phải nhìn nhận Đức Giêsu đã nhập thể trong dân Do Thái. Điều này lại làm nổi rõ hơn tầm quan trọng của Cựu Ước, liên hệ đến lịch sử cứu độ. Bây giờ, cho cả hai nhóm, không còn có một quyền ưu tiên nào cả, họ cần phải đi đến một kiểu phụng tự mới, “trong thần khí và sự thật”.
Dọc theo lịch sử, người ta đã thờ phượng Thiên Chúa, bây giờ cần tiếp tục. Việc thờ phượng của người Israel không sai; vào thời đó, kiểu thờ phượng như thế là tốt và đúng. Nhưng tính từ “đích thực” (alêthinoi) cho thấy rằng trong kiểu thờ phượng trước đây còn có nhiều thiếu sót, và chỉ kiểu thờ phượng mới này mới đạt sự hoàn hảo, do có giá trị phổ quát. Kiểu thờ phượng sau không phải là một ngẫu hứng của loài người, nhưng là do mạc khải của Thiên Chúa như là Cha trong Con, Đức Giêsu Kitô. Mạc khải này được đưa đến chỗ thành toàn nhờ chính Đức Giêsu. Việc thờ phượng này là chân thật bởi vì do Thần Khí, do Thiên Chúa, do từ trên cao, gợi lên. Kiểu thờ phượng này chuẩn nhận sự thật của những gì Đức Giêsu nói. Từ nay, bất cứ người nào thờ phượng đích thực đều phải quan tâm thờ phượng Thiên Chúa như Ngài muốn được thờ phượng, chứ không như họ thấy là tốt.
Người phụ nữ lại nêu ra một nhận định tổng hợp (Do Thái và Samari) liên quan đến Đấng Mêsia sẽ đến, mà người Samari cũng đang chờ đợi (Samari: Ta’eb). Đã nhìn nhận Đức Giêsu là ngôn sứ, lúc này bà còn linh cảm mạnh mẽ tầm quan trọng của con người Đức Giêsu. Thế là bà đã đủ chín muồi để có thể đón nhận lời công bố long trọng của Đức Giêsu trong tư cách Đấng Mêsia. Đây là đỉnh cao của cuộc đối thoại.
Hướng đi cứ thay đổi liên tục. Và Đức Giêsu, chỉ sau tất cả những chặng này, mới tự mạc khải cho bà như là Đấng Mêsia, Người nói đơn giản: “Chính là tôi (egô eimi)”. Công thức egô eimi đưa chúng ta trở lại với tên của Đức Chúa (Yhwh), khiến chúng ta có thể nói Đức Giêsu là chính là Đức Chúa đến viếng thăm dân Samari. Đến cuối cuộc thăm viếng, người Samari đã nhận biết Người như là “Đấng cứu độ trần gian” (c. 42); Người đã đến để ban sự sống đời đời (c. 14) và dạy cho biết nền phụng tự chân thật (cc. 23-24).
- Đối thoại với các môn đệ (cc. 27-38). Trong khi các hiệu quả của cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari còn đang triển nở như thế, Đức Giêsu lại đi vào một cuộc đối thoại khác bên bờ giếng (Ga 4,31-38). Sau những lời nói với Nathanaen, đây là lần đầu tiên Người quan tâm rõ ràng đến các môn đệ Người. Các ông này đã cùng đi đường với Người và liên tục được Người nhắc nhở, nhưng rất hiếm khi Người ngỏ lời riêng với các ông. Chỉ các diễn từ cáo biệt mới trọn vẹn được ngỏ với các ông thôi. Với người phụ nữ đã đến kín nước, Đức Giêsu nói về ân huệ của Người, nước vô song; với các môn đệ vừa về tới nơi sau khi đã mua thực phẩm, Người nói về lương thực mà chính Người nhờ đó mà sống. Cuộc đối thoại có hai đề tài: Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết công việc của Người có những nét tiêu biểu nào (c. 34) và lần đầu tiên Người khẳng định rằng họ được tham dự vào sứ mạng của Người và cách thức tham dự (c. 38). Chính Người cũng không đến nhân danh chính mình, cũng không làm việc theo ý riêng, nhưng đến như là sứ giả của Chúa Cha và tất cả cuộc đời Người nhắm thi hành ý muốn của Chúa Cha. Tất cả những gì Người loan báo và cống hiến đều góp phần vào công trình mà Chúa Cha đã khởi sự (x. 3,16) và nay Đức Giêsu là Chúa Con đưa đến chỗ hoàn tất. Điều này cũng đúng cho công việc Đức Giêsu đang làm nơi người Samari, mà bây giờ người ta đã thấy kết quả. Đến lượt Người, Đức Giêsu lại sai phái các môn đệ, để họ tham dự vào công việc của Người và tiếp tục công việc đó. Nhưng nỗi mệt nhọc thật là của Đức Giêsu. Những gì các môn đệ làm hoàn toàn lệ thuộc vào những gì Đức Giêsu đã làm trước đây.
* Kết luận: Gặp gỡ với dân Samari (39-42)
Sau khi đối thoại với Đức Giêsu, các môn đệ lại bị bỏ rơi trong bóng tối một lần nữa. Được đánh động bởi lời chứng của người phụ nữ, dân Samari đã đến gặp Đức Giêsu. Bây giờ họ muốn trực tiếp nghe Người. Thế là các môn đệ đầu tiên đã ở lại với Đức Giêsu (Ga 1,39), còn những người Samari này đã xin Người ở lại với họ. Nhưng dù thế nào, chỉ nhờ tiếp tục mở ra hiệp thông với Người, người ta mới có thể có kinh nghiệm về Người là ai và Người ban tặng điều gì. Được Đức Giêsu nhận cho ở lại với Người, các môn đệ đầu tiên đã khám phá ra Người là “Đấng Mêsia” (1,41); được Đức Giêsu chấp nhận ở lại với họ, người Samari đã nhìn nhận Người như là “Đấng Cứu độ trần gian” (4,42), như là Đấng đã được Chúa Cha ban vì lòng yêu thương và được sai phái đến để cứu độ trần gian (3,16-17). Nay họ tin là nhờ chính tương quan trực tiếp với Đức Giêsu chứ không dựa vào lời chứng của người phụ nữ nữa. Lời chứng ấy đưa họ đến chỗ nghe Đức Giêsu để đào sâu đức tin, và bây giờ đức tin đó có thể thực sự bắt đầu triển nở.
+ Kết luận
Bằng cách dùng nhiều danh hiệu cách tiệm tiến, mỗi danh hiệu lại như một lời mời gọi tin vào Đức Giêsu, bản văn này vén mở cho thấy mầu nhiệm Đức Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là một người lữ khách vô danh. Sau đó, Người đã được coi là một người Do Thái (c. 9). Dần dần Người xuất hiện ra như nhân vật còn cao trọng hơn tổ phụ Giacóp (c. 12). Thêm một bước nữa, Người được được gọi là ngôn sứ (c. 19). Và cuối cùng, người phụ nữ linh cảm Người là Đấng Mêsia (c. 29). Nhưng lại chính là những người Samari, hoa trái đầu mùa của Dân ngoại, mới tuyên xưng niềm tin của họ vào Đức Giêsu, “Đấng Cứu độ trần gian” (c. 42). Quả thật, Đức Giêsu chính là ánh sáng thế gian (Ga 8,12; 12,46), Đấng mạc khải và Đấng Mêsia, là Con Một Thiên Chúa được Ngài cử đến cứu trần gian. Bất cứ người nào tin vào Người thì được sống đời đời (3,16-18). Người là Ngôi Lời đang thực hiện điều mà Lời Tựa đã nói: “Những ai đón nhận (Người), tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (1,12).
Ngoài ra, có một ý nghĩa khác của bản văn, ý nghĩa biểu tượng, cũng có thể nêu ra. Trong truyền thống Kinh Thánh, cái giếng đã là nơi khởi đầu của nhiều cuộc tình duyên. Vậy “cái giếng Xykha” này gợi nhớ đến cuộc “tình duyên” nào? Trong Cựu Ước, Israel thường được giới thiệu là hôn thê của Đức Chúa (Yhwh). Israel-hôn thê thường thất trung, ngoại tình với các thần Ai Cập, Átsua, Babylon, Ba Tư, Rôma. Câu truyện người phụ nữ Samari hẳn là câu truyện của dân Israel mà Đức Giêsu đến gặp và muốn dẫn về với Đức Chúa. Hơn nữa, TM IV còn giới thiệu Đức Giêsu như chàng rể và nhân loại như một hôn thê tội lỗi, mà Người đến để đưa về sống trung thành.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, chúng ta nhận ra cả một khoa sư phạm Đức Giêsu đã vận dụng để đưa bà đến đức tin. Trước tiên, Người khơi lên sự tò mò để bà tìm hiểu, qua việc nhắc đến một công việc tầm thường làm mỗi ngày, là đến giếng kín nước để giải tỏa cơn khát thể lý. Từ đó, Người gợi đến một thực tại khác, nước hằng sống. Thế rồi câu chuyện lại chuyển sang một hướng khác khi Đức Giêsu đề cập đến đời sống riêng tư nhất của bà, cơn khát tình yêu dường như vẫn chưa được đáp ứng thỏa đáng. Mục tiêu của Đức Giêsu không phải là đưa bà đến chỗ nhìn vào mình, nhưng là nhìn vào Người để nhận biết Người là ai.
2. Là con người, với sức riêng, chúng ta không thể đạt tới Thiên Chúa và nhận biết Ngài trong thực tại của Ngài. Chúng ta là “xác thịt”, những hữu thể yếu đuối, mỏng manh, tạm bợ; ngược lại, Thiên Chúa là “Thần Khí”, đầy sức mạnh ban sự sống vô biên và bất khả kháng. Bằng sức riêng, chúng ta không thể đạt đến bất cứ sự hiểu biết chân thật nào về Thiên Chúa, hoặc một tương quan đúng đắn nào với Ngài. Chỉ Đức Giêsu mới chỉ cho chúng ta và giúp chúng ta thờ phượng Thiên Chúa đúng đắn, bởi vì Người ban Thần Khí và Chân Lý cho chúng ta, Người là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ trần gian (Ga 6,42).
3. Đức Giêsu là Đấng có khả năng giúp chúng ta khám phá ra mọi chiều kích và ý nghĩa đích thực của cơn khát đang dày vò lòng dạ chúng ta. Người là Đấng duy nhất có thể tố giác những phương tiện tạm bợ chúng ta vẫn đang vận dụng để đánh lừa cơn khát ấy hoặc thỏa mãn nó cách rẻ tiền. Người sẽ dạy chúng ta biết cách sống và làm cho từ lòng chúng ta trào vọt ra dòng suối ân huệ của Thiên Chúa.
4. Các môn đệ được Đức Giêsu sai đi, tiếp nối công việc của Người (là công việc Chúa Cha giao phó). Họ được thu hoạch hoa trái là công việc mệt nhọc của Đức Giêsu; những gì các môn đệ làm tùy thuộc hoàn toàn vào những gì Đức Giêsu đã làm trước. Đến lượt họ, họ cũng phải tận tình gieo vãi, để những người đến sau họ được gặt hái hoa trái. Người này gieo, người kia gặt. Đó chính là sự hiệp thông liên đới trong sứ mạng chung mà Đức Giêsu đã để lại cho các môn đệ Người cho đến tận thế. Khi làm như thế, họ cũng luôn cần ý thức họ làm ý muốn của Chúa Cha.