Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC: Bài 501-522 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới

Thứ bảy - 24/02/2024 07:36
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC: Bài 501-522 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC: Bài 501-522 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC: Bài 501-522 Chúa biến hình cho thấy 2một thoáng vinh quang Thiên Giới

----------------------------------
Mục Lục:

Phúc Âm Năm A: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời". 1
Phúc Âm Năm B: Mc 9, 1-9: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu”. 2
Phúc Âm Năm C: Luca. 2

MC 2-ABC501: THƯA THẦY! CHÚNG CON Ở ĐÂY THẬT LÀ HAY.. 2
MC 2-ABC502: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B.. 4
MC 2-ABC503: THỬ THÁCH TRONG CUỘC SỐNG TỪ TABOR ĐẾN GOLGOTHA   6
MC 2-ABC504: ĐÂY LÀ CON TA YÊU DẤU, HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI 10
MC 2-ABC505: VÔ ĐIỀU KIỆN.. 13
MC 2-ABC506: SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CHÚA.. 18
MC 2-ABC507: TIÊN BÁO MẦU NHIỆM PHỤC SINH.. 21
MC 2-ABC508: HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI 23
MC 2-ABC509: SUY NIỆM VÀ CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B.. 25
MC 2-ABC510: TỪ CÕI CHẾT SỐNG LẠI NGHĨA LÀ GÌ?. 33
MC 2-ABC511: ĐẸP XÁC HỒN.. 35
MC 2-ABC512: BIẾN ĐỔI ĐỜI MÌNH.. 37
MC 2-ABC513: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY. NĂM B.. 40
MC 2-ABC514: HY LỄ.. 42
MC 2-ABC515: CÓ THẬP GIÁ, NHƯNG SẼ CÓ PHỤC SINH.. 44
MC 2-ABC516: THIÊN TÍNH HIỂN VINH CỦA CHÚA GIÊSU.. 46
MC 2-ABC517: CHẾT ĐỂ SỐNG.. 50
MC 2-ABC518: SỐNG VỚI THIÊN CHÚA - NGHE LỜI ĐỨC KI-TÔ.. 52
MC 2-ABC519: LÊN CAO.. 55
MC 2-ABC520: TẠI SAO CHỈ CÓ PHÊRÔ, GIOAN VÀ GIACÔBÊ?. 59
MC 2-ABC521: ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA.. 62
MC 2-ABC522: HIỂN DUNG: KINH NGHIÊM CHO HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN.. 63

----------------------------------
 

Phúc Âm Năm A: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng:
"Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.

----------------------------------
 

Phúc Âm Năm B: Mc 9, 1-9: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu”.


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?” - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------
 

Phúc Âm Năm C: Luca


-------------------------------------

-----------------------------------
 

MC 2-ABC501: THƯA THẦY! CHÚNG CON Ở ĐÂY THẬT LÀ HAY


Fx Đỗ Công Minh
 

Bài Tin Mừng Chúa nhật Thứ II Mùa Chay Thánh Maccô thuật lại một chuyến đi của thầy trò MC 2-ABC501


Bài Tin Mừng Chúa nhật Thứ II Mùa Chay Thánh Maccô thuật lại một chuyến đi của thầy trò trên đường rao giảng. Đã không ít lần Đức Giêsu dẫn các Tông đồ đi qua hết làng mạc này đến kinh thành khác. Có lúc bên bãi biển, bờ hồ, lúc lại vào hoang mạc, lúc giữa biển khơi. Lần này Người cùng các ông lên núi. Được đi với Thầy, học cùng Thầy, chiêm ngưỡng Thầy khi được nghe mọi người tung hô, thật là hãnh diện. Được Thầy chọn đi cùng lên núi, không phải cả nhóm 12 mà vỏn vẹn ba học trò thân tín lại càng là một niềm hạnh phúc với Phêrô, Gioan và GiacôBê.

       Lên núi thư giãn? lên núi để nghe lời Thầy tâm sự, giãi bày? lên núi để được Thầy dặn dò riêng điều gì chăng ? Mừng lắm, vui lắm!Tâm trạng của ba vị Tông đồ cũng chính là tâm trạng của từng người chúng con, khi được sống trong bầu khí thân mật Thầy trò, huynh đệ với nhau . Và còn hơn thế nữa, các ông được chứng kiến vinh quang của Thầy mình: chứng kiến Đức Giêsu đàm đạo với hai vị Tiên tri MôiSen và Êlia, những bậc ngôn sứ tiên tổ lỗi lạc trong dân Israen, những Đấng cao trọng của dân Chúa.Thì ra Thầy mình quả thật là Đấng phải đến như Kinh Thánh đã truyền. Lòng trí các ông mở ra. Các ông kinh sợ nhưng cũng hạnh phúc vì được kề bên các Ngài, đến nỗi quên đi rằng mình đang trên khỏanh đất núi Tabor, khiến Phêrô phải thốt lên:”Lạy Thầy! chúng con  ở đây thật là hay . . .”. Các ông càng trở nên xác tín hơn khi từ trong đám mây bao quanh các Ngài có tiếng phán :”Đây là con ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người “. Thầy Giêsu chí thánh, nay thật là con Thiên Chúa Cha. Điều mà các ông theo Chúa dù đã lâu, đã từng chứng kiến việc Chúa làm, từng nghe lời Thầy giảng dạy nhưng vẫn nửa tin, nửa ngờ.

      Chúa tỏ mình ra cho các ông nhận biết vinh quang của Người, để củng cố niềm tin cho các tông đồ, hầu giúp các ông sẽ không thất vọng hay ngã lòng, khi gặp các biến cố xảy ra trong cuộc đời theo Chúa. Không ngỡ ngàng khi nghe Chúa loan báo cuộc khổ nạn của Người.

     Ngày hôm nay, đọc trên báo chí, theo dõi các phương tiện truyền thông , biết bao tin tức về tội ác, về tệ nạn trong xã hội, về thiên tai, dịch bệnh . Mới đây nhất, tin về những cơn cháy rừng, về bão tuyết, lụt lội. . . xảy ra ở nhiều nơi khiến chúng con chao đảo, lo lắng. Trong Giáo hội, tin tức về những vụ nhà thờ bị đốt, bị hủy hoại; tín hữu bị hành hung. Rồi những vụ lạm dụng, những bê bối xảy ra nơi này nơi khác của giáo sĩ, tu sĩ khiến cho niềm tin chúng con gặp nhiều thử thách, ngờ vực. Chúa ở đâu ? Vinh quang của Người ở đâu ?

      Lạy Chúa,

      Nếu chỉ nhìn vào những hiện tượng ấy mà ngã lòng thì con thật đáng trách. Con đã không nhận ra được mình luôn có Chúa ở cùng. Người đã tỏ hiện vinh quang cho ba môn đệ cũng chính là tỏ hiện cho con, sao

     Xin cho con luôn nhìn lên Thập giá, vì “ Vinh quang của ta là Thánh giá Đức Kitô, Nơi Người ơn cứu độ của ta, sức sống của ta,  Phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được ơn cứu độ. Nhờ Chúa ta được giải thóat  “.

     Xin Chúa củng cố Đức tin cho con !

-----------------------------------
 

MC 2-ABC502: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
 

Biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi đã được Tin mừng Nhất Lãm Matthew, Marco và Luca MC 2-ABC502


Biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi đã được Tin mừng Nhất Lãm Matthew, Marco và Luca ghi lại chi tiết. Biến cố biến hình mạc khải cho các tông đồ để biết Đức Giêsu là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế “Đây là Con ta yêu dấu” và đồng thời củng cố niềm tin của các ông, chuẩn bị để các ông đón nhận việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết để cứu độ muôn người: “Trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”.

Theo Thánh kinh thì Chúa biến hình ở trên ngọn núi miền Galilê và theo truyền thống thì đó là núi Tabor: “Người lên núi cao”. Núi cao là biểu tượng nơi Thiên Chúa ngự. Lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa, Như Môsê trên núi Sinai, Tiên tri Êlia trên núi Horeb, 3 tông đồ thân tín được đưa lên núi cao là để được tiếp xúc với vinh quang của Chúa Giêsu, tiếp xúc với thần linh của Người. Người biến hình trước mặt các ông để biểu lộ Thiên tính của mình để các ông nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Đức Giêsu “Áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết”.

Sự hiện diện của Êlia và Môsê nói lên sứ mạng của Đức Giêsu. Môsê tượng trưng cho lề luật. Êlia tượng trưng cho tiên tri. Đức Giêsu chính là Môsê mới, Êlia mới nghĩa là Người là thủ lãnh, là ngôn sứ của Thiên Chúa đến để giải phóng nhân loại và cứu chộc nhận loại. Như thế sự có mặt của hai ông trong biến cố Chúa biến hình nói lên rằng thời đại cánh chung đã tới, đó là thời đại cứu chuộc, thời đại của Đấng Thiên sai đưa lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.

Quang cảnh vinh quang của việc Chúa biến hình trên núi đã làm cho các tông đồ sung sướng và vô cùng hạnh phúc. Thánh Phêrô đã thốt lên cảm nghiệm của mình: “Ở đây thì tốt lắm”. Đối với Phêrô, lúc này là lúc hạnh phúc vô cùng không thể nào có. Vì thế ông muốn kéo dài hạnh phúc này, muốn ở lại trên núi luôn bằng cách xin Thầy làm 3 lều. Phêrô muốn kéo dài ước mơ hạnh phúc mãi mãi. “Lều” biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 26, 7).

Thời Chúa Giêsu, lều là tượng trưng nơi Thiên quốc, vì thế, Phêrô có cảm tưởng rằng là thời cuối cùng, là thời Thiên quốc đã đến, nên ông muốn ở lại đây mãi mãi để hưởng hạnh phúc.

Tại sao Phụng vụ mùa Chay lại đọc bài Tin mừng Chúa biến hình? Hình như có sự mâu thuẫn? Người tín hữu đang sống bầu khí đau thương của cuộc tử nạn. Nhưng thực sự không có gì mâu thuẫn cả, ta thấy cuộc khổ nạn đau thương và vinh quang phục sinh chỉ là hai mặt không thể tách rời của một thực trạng “Qua thập giá đến vih quang”. Làm như vậy Phụng vị đã đặt đúng ý nghĩa mà các tác giả Nhất Lãm mong muốn. Khổ nhục và vinh quang Thiên quốc là hai dữ kiện xuất hiện trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu.

Tóm lại, theo Papias, việc biến hình trên núi là trụ chốt, trung tâm của Tin mừng Marco, Marco đặt yếu tố này quan trọng vì nó là tiền ảnh của biến cố phục sinh và báo trước những gì xảy ra ngày quang lâm. Marco đã đặt trọng tâm vào giữa sách Tin mừng biến cố Chúa biến hình, vì ngay từ đầu Marco muốn nhấn mạnh cho cộng đoàn Giáo hội biết ý nghĩa hiện thực của cuộc đời: cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.

Qua lời Chúa hôm nay nhắc nhở và đề nghị những thực hành cho người Kitô hữu:

– Khi biến hình, Chúa Giêsu đã được Chúa Cha xác nhận: “Này là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Muốn trở nên con yêu dấu của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải biến hình bằng cách cởi bỏ con người cũ, mắc lấy tinh thần mới của Chúa, thay đổi cuộc sống cũ với những tiêu cực… để sống cuộc sống mới, thánh thiện, đạo đức hơn.

– Các tông đồ gặp Chúa vinh quang trên núi Tabor, các ngài cảm thấy hạnh phúc và muốn ở luôn trên núi. Nhưng rồi Chúa bảo phải xuống núi; lên núi cao để gặp gỡ Chúa; rồi phải xuống núi để chấp nhận đau khổ của bổn phận hằng ngày và làm chứng nhân cho Chúa. Đời người đan kết bằng những vui buồn và sướng khổ, hạnh phúc và bất hạnh, sự sống và sự chết, thành công và thất bại, vinh quang và ô nhục… Nói cách khác đời là con đường thập giá đưa tới vinh quang muôn đời.

– “Các con hãy nghe lời Người”. Sống đạo là nghe lời Chúa và đem ra thực hành, đưa lời Chúa vào cuộc sống sẽ đem lại niềm vui, an bình, hạnh phúc cho mình và cho mọi người.

“Lời Ngài là sức sống của con.
Lời Ngài là ánh sáng đời con,
Lời Ngài làm chứa chan hy vọng,
Là đường để con hằng tiến bước.
Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui,
Trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi.
Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời.
Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai”.
Phúc cho bạn, người đã biết nghe lời Chúa và sống lời Chúa trong cuộc sống hôm nay.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC503: THỬ THÁCH TRONG CUỘC SỐNG TỪ TABOR ĐẾN GOLGOTHA


Lm. Đinh Lập Liễm
 

Thánh Marcô cho biết: Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu quí là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi MC 2-ABC503


Thánh Marcô cho biết: Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu quí là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy.” Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây: ”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Mk 9:2-7). Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.

Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên.” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.

Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem (Lc 18:31), và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài (Mk 9:7).

Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe (II Pet 1:16-18).

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa. Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy; bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).

Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải cởi bỏ tội lỗi để nên tốt lành thánh thiện hơn: ”Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em”” (Ep 4,23). Thánh Tông Đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết: ”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).

Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình (Gen 22:1-19). Việc này cho chúng ta thấy đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.

Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng. Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi: ”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy?”

Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói: “Có cứng mới đứng đầu gió” (Tục ngữ)

Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng: “Có gió lung, mới biết tùng bá cứng. Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao” (Tục ngữ).

Thánh Giacôbê Tông Đồ nói về vấn đề này: ”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài” (Gc 1,12).

Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn? Hãy noi gương Chúa Kitô! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở: ”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha” (lC 22:42). Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài: ”Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha.”

Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có giá trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa: ”Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen” (Mc 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?

Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và xán lạn như đức tin của các Tông Đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vườn Cây Dầu (Mark Link).

Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đó chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi” (Anthony Padovano).

Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như Thánh Phaolô đã nói: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).

Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa: ”Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.” Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới (I Cor 10:13).

Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis. Phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quì trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.

Người ta kể rằng tượng cẩm thạch trên thánh giá này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, tác giả lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn. Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.

Lúc này, người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào (Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159).

Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông (Hr 11:17-19).

Khi bị thử thách, nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.

Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một (Hr 13:8); Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC504: ĐÂY LÀ CON TA YÊU DẤU, HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI


Lm. Nguyễn Thái
 

Khách du lịch viếng quần đảo Aram Islands của Ái-Nhĩ-Lan đều kinh ngạc và sửng sốt vì có MC 2-ABC504


Khách du lịch viếng quần đảo Aram Islands của Ái-Nhĩ-Lan đều kinh ngạc và sửng sốt vì có quá nhiều cầu vồng bắt hình vòng cung khắp bầu trời xung quanh những hòn đảo. Ngay khi một cầu vồng này vừa mờ nhạt thì cái khác đã lén lút xuất hiện trên biển khơi ở một phương hướng khác. Có những cái chỉ có một nửa hình vòng cung, những cái khác thì đầy đủ. Có cái mang màu xanh nhạt hòa hợp với màu nước biển. Có những cái xuất hiện với vẻ rực rỡ làm sáng chói cả một vùng trời. Khi có những điều kiện thuận lợi, có rất nhiều cầu vồng cùng xuất hiện một lúc, rực rỡ vô cùng. Không thể nào đếm nổi có bao nhiêu cầu vồng đã xuất hiện trong một ngày. Trong sự kinh ngạc trước vẻ đẹp của những cảnh tượng trước mắt, một người khách du lịch đã hỏi người phụ nữ cư ngụ tại Aram Island nghĩ gì về sự xuất hiện thường xuyên của những cầu vồng như vậy. Người phụ nữ chỉ nhún vai trả lời, “Ôi, chúng tôi không để ý đến chúng.” Đối với người dân cư ngụ tại đây, những cầu vồng đó đã trở nên quá tầm thường rồi!

Mùa Chay là thời gian kêu gọi chúng ta ý thức về tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện trong thế giới chúng ta đang sống. Sự hiện diện rực rỡ của Ngài giữa những khổ đau trần thế. Vẻ đẹp của nhân phẩm con người và giá trị của đời sống tinh thần. Sự rạng rỡ của “sự sống lại từ trong cõi chết.” Giáo hội kêu gọi chúng ta hãy là những du khách chiêm ngắm vẻ đẹp của những cầu vồng này trong cuộc sống với thái độ kinh ngạc và thán phục, đừng có thái độ ỷ lại là Kitô hữu, giống như người dân bản xứ, mà cố ý phớt lờ, không thèm để ý.

Trong Cựu Ước, đỉnh núi cao thường được dùng để diễn tả những cuộc gặp gỡ của Thiên Chúa với con người và mạc khải những điều siêu nhiên. Mô-sê đã đón nhận Mười Điều Răn trên núi Sinai (Ex 19:3-20). Êlia cũng đã trèo lên đỉnh núi Các-men để đón nhận sức mạnh chiến thắng sự dữ (I king 18:20-40). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mác-cô 9:1-9, Chúa Giêsu cũng dẫn ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi cao. Ngài biến hình trước mặt họ. Họ cũng kinh ngạc và thán phục trước vẻ đẹp “từ cõi chết sống lại” của Chúa Giêsu, nhưng trong chiều hướng khác với điều Chúa Giêsu muốn dạy họ. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, trước khi Chúa Giêsu biến hình trước mặt họ, Ngài đã loan báo cho họ biết rằng Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng Đấng Thiên Sai có nghĩa là phải chịu đau khổ, bị giết chết, và sống lại ngày thứ ba (Mc 9:31). Còn các môn đệ thì cứ nghĩ rằng Đấng Thiên Sai có nghĩa là Đấng sẽ làm vua bá chủ thiên hạ, cai trị muôn dân muôn nước, ngay bây giờ nơi trần thế này, theo như ước nguyện của dân chúng và của họ (Act 1:6; Lc 24:21).

Theo William Barclay, trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện diện của Thiên Chúa cũng thường được liên kết với đám mây nữa (GLCG # 555). Trong đám mây Mô-sê đã gặp gỡ Thiên Chúa, Êlia đón nhận sức mạnh của Thiên Chúa. Và người Do Thái cũng mơ ước khi Đấng Thiên Sai đến, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa sẽ trở lại với Đền Thờ (Xh 16:10; Xh 19:9; Xh 33:9; 1V 8:10; 2Mcb 2:8). Sự ngự xuống của đám mây là một cách nói rằng Đấng Thiên Sai đã đến, và bất cứ người Do Thái nào cũng hiểu như vậy: “Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: ‘Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.’”

Với một chút tưởng tượng chúng ta hãy tạm ví Chúa Giêsu như một cha sở họ đạo với ba ông trùm Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bốn thầy trò đưa nhau lên núi để cầu nguyện. Ông trùm Phêrô vốn là người chài lưới đánh cá nhà quê, tính tình bộc trực, chất phác. “Có sao nói vậy, không giấu giếm”. Chuyện gì cũng phải lẹ làng, cấp tốc, làm ngay, ăn liền. Vừa thấy cảnh Chúa Giêsu biến hình sáng láng đẹp đẽ, ông trùm Phêrô xin ngay: “Lạy Thầy, nếu được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môi-sen, và một cho Êlia.”

Ông trùm muốn ở lại đây luôn để hưởng ngay cái vinh quang rực rỡ này. Xuống núi làm gì? Khổ lắm! Lên Giêrusalem làm gì? Bị bắt bớ, bị đóng đinh, chịu đau khổ và chết nhục nhã! Tâm thức của ông trùm Phêrô phản ảnh cái tâm trạng của con người ở mọi thời đại. Khoái lạc thì muốn hưởng thụ ngay. Đau khổ thì tìm cách trốn tránh. Muốn hưởng khoái lạc vinh quang ngay trên đỉnh núi, mà e ngại con đường khổ giá dưới chân (GLCG # 555).

Ở Bangkok có một ngôi chùa rất nổi tiếng, tên là Chùa Tượng Phật bằng vàng. Ngôi chùa nhỏ bé với chiều rộng và ngang khoảng 8 mét. Nhưng khi vào bên trong, người ta sẽ rất ngạc nhiên vì một tượng Phật bằng vàng ròng cao khoảng 2m50, cân nặng 2 tấn rưỡi và trị giá khoảng 196 triệu đô la. Ở bên cạnh tượng, có ghi lịch sử của tượng Phật vĩ đại này: Vào năm 1957, thành phố Bangkok được sửa đổi, mở rộng thành phố, nhiều nhà bị giải tỏa để làm siêu xa lộ. Tu viện của các thầy sư cũng bị giải tỏa và tượng Phật vĩ đại bằng đất sét cũng phải bị dời đi chỗ khác. Vào một buổi chiều, khi chiếc cần cẩu cố gắng nâng bức tượng khổng lồ lên, thì bức tượng đã bị nứt ra vì nặng quá. Đồng thời trời cũng bắt đầu đổ mưa, nên các thầy quyết định lấy vải phủ lên bức tượng tránh mưa. Khi trời tối hẳn, mưa ngừng rơi, vị sư trưởng cầm đèn pin ra kiểm soát xem có hư hại gì không. Thầy rọi đèn vào để quan sát. Khi ánh đèn chiếu vào chỗ nứt, thì một luồng sáng phản chiếu. Tò mò vì ánh sáng lạ, thầy đến gần hơn để xem và phát hiện ra có một lớp kim loại ở dưới lớp đất sét. Thầy đi tìm cái đục và cái búa, rồi bắt đầu đục đẽo. Lớp đất sét càng bị rớt dần xuống, thì tia sáng càng sáng dần và lớn hơn. Sau nhiều giờ đục đẽo, cuối cùng, một tượng Phật bằng vàng ròng sáng chói đã xuất hiện trước mặt thầy sư.

Các nhà lịch sử đã tin rằng vài trăm năm trước đây, quân đội Miến Điện xâm lăng Thái Lan. Các nhà sư biết rằng xứ sở của họ sẽ bị tấn công và xâm chiếm, nên đã dùng một lớp đất sét dầy phủ lên bức tượng để che giấu và bảo vệ tài sản của họ tránh khỏi sự cướp bóc của quân đội Miến Điện. Không may, các nhà sư đã bị giết chết hết, cho nên bí mật về bức tượng cũng bị quên lãng cho đến năm 1957 mới tình cờ được khám phá.

Mỗi người chúng ta là một con người được Thiên Chúa dựng nên có linh hồn và thể xác. Thân xác bề ngoài mang thân phận yếu hèn, tội lỗi, và hư nát (1 Cr 15: 42-49). Còn linh hồn thiêng liêng bất tử, được Chúa mời gọi chia sẻ sự sống đời đời. Nhưng qua cái chết của thân xác, con người sẽ sống lại sáng láng và vinh quang giống như Chúa Giêsu đã biến hình. Hình ảnh tượng bằng vàng bị bao phủ bởi lớp đất sét bên ngoài giúp ta ý thức về con người đích thực của mình. Con người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1: 27).

Bởi tội lỗi bao trùm, con người đã bị che lấp hình ảnh đẹp đẽ của Thiên Chúa nơi bản thân, rồi dần dần lại ngủ quên trong tình trạng xấu xa bẩn thỉu ấy (Ep 4:17-20; 1Tx 5:6). Giống như những con trâu đen đủi trầm mình nơi vũng bùn sình êm ái, con người cũng muốn tự dìm mình trong hoàn cảnh ngủ yên của tội lỗi. Tuy dơ bẩn nhưng nó lại tạo ra cảm giác mát mẻ nhất thời, vì thế những con trâu thường không muốn đứng dậy bước ra khỏi vũng sình lầy lội. Con người cũng vậy! (Ga 15:22).

Muốn có một sự biến đổi từ bẩn thỉu sang sạch sẽ, từ đất sét sang vàng, từ tội lỗi yếu đuối sang thánh thiện vinh quang, phải có thời gian khám phá, tu luyện và đục đẽo (Rm 8:18). Phải tốn nhiều công sức. Phải có hy sinh, thử thách để nhân phẩm và giá trị thiêng liêng được tỏ lộ sáng ngời (Ep 5:8). “Chúng ta phải qua nhiều nỗi gian truân mới vào được Nước Thiên Chúa” (Cv 14:22; GLCG # 556).

Mùa Chay là mùa Giáo Hội kêu gọi chúng ta phải trở về với hình ảnh vinh quang và thánh thiện đích thực của mình như Chúa đã tạo dựng con người lúc ban đầu (Cl 3:10). Mùa Chay là mùa lắng nghe tiếng Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy hoàn hảo như Cha trên trời của các con là Đấng hoàn hảo” (Mt 5:48).

-----------------------------------
 

MC 2-ABC505: VÔ ĐIỀU KIỆN


Trầm Thiên Thu
 

Trong đời sống hàng ngày, vâng lời là điều không dễ thực hiện, nói thẳng ra là rất khó. Tại sao MC 2-ABC505


Trong đời sống hàng ngày, vâng lời là điều không dễ thực hiện, nói thẳng ra là rất khó. Tại sao vậy? Bởi vì “cái tôi” luôn to lớn khiến người ta tự ái, cảm thấy vâng lời người khác là yếu thế, bị lép vế.

Khó vâng lời không có nghĩa là không thể vâng lời, khó mà làm được mới đáng khen, thế nên vâng lời là một nhân đức quan trọng, nhất là đối với các Kitô hữu. Đức vâng lời liên quan đức khiêm nhu. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26:42).

Dẹp được “cái tôi” là vượt qua chính mình để sẵn sàng vâng lời – vô điều kiện chứ không có điều kiện, thì dễ nên thánh. Ngày xưa, ông Samuel đã đặt vấn đề với vua Sa-un: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15:22; x. Tv 50:8-9). Đức vâng lời rất quan trọng! Thật vậy, vâng lời là một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy dòng) lời khấn của các tu sĩ: Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Trong đời sống gia đình và xã hội, con cái phải biết vâng lời cha mẹ, người nhỏ phải biết vâng lời người lớn, nhân viên phải biết vâng lời giám đốc,… Nếu không vâng lời thì mọi thứ mất trật tự.

Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên – chỉ ba người thôi cũng có người có thể làm thầy, tức là người đó có thể hướng dẫn người khác, và chắc hẳn hai người kia phải nghe theo lời hay lẽ phải của họ. Tất nhiên vâng lời phải theo nghĩa tích cực, không thể vâng lời khi người trên dạy làm sai do độc đoán, áp chế.

ĐỪNG ĐẮN ĐO !

Đức vâng lời của tổ phụ Ápraham thật là tuyệt vời, không so đo, không nghi ngờ, không thắc mắc. Trình thuật St 22:1-2, 9-13, 15-18 cho biết về đức tin tuyệt đối của ông.

Sau một thời gian, hết chuyện nọ tới chuyện kia, Thiên Chúa tiếp tục thử lòng ông Ápraham. Nghe Đức Chúa gọi đúng tên và ông liền thưa: “Dạ, con đây!”. Ngài truyền lệnh: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”.

Ông Ápraham chỉ có một đứa con cầu con khẩn, một con trai rất yêu dấu, mà theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất quan trọng vì là con thừa tự và có quyền trưởng nam, thế mà Thiên Chúa lại bảo dâng chính đứa con đó làm lễ toàn thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông Ápraham vẫn không hề đắn đo, không hề thắc mắc, không hề nghi ngờ, không hề tiếc nuối, mà ông lại sẵn sàng tuân phục lệnh truyền của Thiên Chúa một cách mau mắn, dứt khoát, không chút ngần ngại hoặc chần chừ.

Quyết định và làm ngay. Ông chuẩn bị mọi thứ và dẫn con trai theo. Khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên đống củi trên bàn thờ. Rồi ông Ápraham lấy dao để sát tế con mình. Gay cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi đích danh ông, và ông cũng lại liền thưa: “Dạ, con đây!”. Ông nghe tiếng Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ôi, một niềm tin trong ngần như pha lê và hoàn toàn tuyệt đối. Nhờ niềm tin như vậy mà ông được kể là người công chính.

Thật là trên cả tuyệt vời! Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì ngươi đã vâng lời Ta”. Thiên Chúa hứa bất cứ điều gì thì đều ứng nghiệm và nên trọn.

Cũng dễ hiểu rằng người ta càng tin tưởng thì càng dễ dàng dứt khoát và mau mắn vâng lời. Thánh vịnh gia đã bộc bạch: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà còn tin được sao? Thật khó quá! Đúng vậy, thường thì chúng ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp ý mình”, còn nếu “trái ý mình” thì chắc hẳn chúng ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy là “phi lý”, thậm chí có người còn có thể trách Chúa.

Tuy nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả đều là Hồng ân Thiên Chúa, bởi vì như Thánh Vịnh gia xác định: “Thân này là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm hãnh diện và hạnh phúc của mỗi chúng ta – những “hạt bụi” nhỏ bé nhưng vẫn đáng giá vì được Thiên Chúa tạo nên.

Quả thật, hạt bụi phàm nhân trở nên hạt ngọc của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm! Trong trình thuật Rm 8:31-34, Thánh Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”.

Và chính những câu hỏi đó cũng chính là những câu trả lời rạch ròi và chính xác về thân phận của chúng ta. Đúng là không phải nói gì thêm nữa! Vô tri bất mộ – không biết chẳng yêu, nhưng một khi biết rồi thì không thể không yêu mến, không cậy tin, và không ngần ngại xác định: “Giờ đây con biết đợi trông gì, lạy Chúa, hy vọng của con đặt ở nơi Ngài” (Tv 39:8).

CON CỦA CHÚA

Trình thuật Mc 9:2-10 (tương đương Mt 17:1-8; Lc 9:28-36) kể lại cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Hôm đó, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài mặc trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Các ông còn thấy có ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Các ông được thấy “hiện tượng lạ” không chỉ là người “may mắn” mà còn là người có trọng trách nặng nề hơn, đó là sự công bằng. Thật vậy, bất cứ tặng phẩm nào cũng gắn liền với trách nhiệm nào đó, như tục ngữ Việt Nam nói: “Cây càng cao, gió càng lay”. Biết vậy để khiêm nhường chứ không để ỷ lại mà kiêu sa.

Được tận mắt chứng kiến sự lạ lùng đó, ông Phêrô rất phấn khởi, đến nỗi ông phải thưa ngay với Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Chắc chắn không ai có thể trì hoãn sự sung sướng, nhất lạ khi hưng phấn cao độ. Vừa kinh hoàng vừa hạnh phúc tột đỉnh bởi vì được “nếm thử” vinh quang Thiên Đàng, ông Phêrô không còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh và quên luôn cả chính mình, chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu, cho ông Môsê và ông Êlia mà thôi.

Sự lạ nối tiếp, sự ngạc nhiên cũng nối tiếp. Bất chợt có đám mây bao phủ các ông, và có tiếng nói vọng ra: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng ta phải vâng lời Đức Kitô – Đấng vừa là “Con Cưng” của Chúa Cha vừa là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng vẫn thực hiện đức vâng lời tuyệt đối. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa rất quý trọng đức vâng lời, và chính Ngài cũng “đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Không hề đơn giản, và cũng không thể cứ tà tà hoặc cứ khơi khơi mà “thuộc lòng” bài học vâng phục để có thể thành nhân!

Niềm vui sướng trào dâng, niềm hạnh phúc đang lâng lâng khó tả, tuyệt vời biết bao! Nhưng bất chợt các ông nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Hẳn là các ông còn dư âm niềm hạnh phúc ấy và chắc là tiếc những giây phút kia lắm. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nên giữ bí mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con người thật yếu đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ lòng tin!

Hạnh phúc không thể dừng lại ở đó – trên đỉnh Tabor, mà hạnh phúc còn phải trải qua nhiều đau khổ cho tới đỉnh Can-vê – nơi tang thương và chết chóc: chết cho chính mình, chết cho tha nhân và chết vì Chúa. Tình yêu nào không tiết ra chất hy sinh thì không là tình yêu đích thực, và cũng không thể có hạnh phúc thật. Chắc chắn như vậy!

Trình thuật Lv 19:11-18 nói về luật luân lý, cũng có thể coi như Luật Chay, bởi vì giữ chay là sống đúng các nguyên tắc về luân lý. Luật đó được ấn định qua 13 mệnh lệnh phủ định với chữ KHÔNG và 2 mệnh lệnh xác định với chữ PHẢI. Kinh Thánh ghi rõ:

“Các ngươi KHÔNG được trộm cắp, không được nói dối, KHÔNG được lừa gạt đồng bào mình. Các ngươi KHÔNG được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là các ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của các ngươi. Ta là Đức Chúa. Ngươi KHÔNG được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi KHÔNG được giữ lại qua đêm cho đến sáng. Ngươi KHÔNG được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi, Ta là Đức Chúa. Các ngươi KHÔNG được làm điều bất công khi xét xử: KHÔNG được thiên vị người yếu thế, cũng KHÔNG được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi KHÔNG được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là Đức Chúa. Ngươi KHÔNG được để lòng ghét người anh em, nhưng PHẢI mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi KHÔNG được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi PHẢI yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa”.

Thực thi Luật Chay nhưng phải đúng cách, không thể theo kiểu đại khái hoặc cho qua lần, chiếu lệ. Thiên Chúa cảnh báo qua ngôn sứ Isaia: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách” (Is 58:3b-4).

Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho chúng ta vô điều kiện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Như vậy, chúng ta cũng PHẢI ăn chay, đền tội, và tha thứ cho tha nhân vô điều kiện: “Anh em đã ĐƯỢC CHO KHÔNG thì cũng PHẢI CHO KHÔNG như vậy” (Mt 10:8). Đó là cách chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tuyệt vời khiến Ngài vui lòng chúc lành cho chúng ta – hôm nay và mãi mãi.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết sống khiêm nhường và vâng lời, đồng thời xin ban cho con thêm đức Tin, đức Cậy và đức Mến, để con có thể làm đẹp lòng Ngài và làm vui lòng tha nhân. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu Dấu của Cha, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC506: SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CHÚA


Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
 

Trong dịp tết vừa qua chúng tôi đến thăm các gia đình, gặp gỡ truyện trò với các bậc cha mẹ MC 2-ABC506


Trong dịp tết vừa qua chúng tôi đến thăm các gia đình, gặp gỡ truyện trò với các bậc cha mẹ, một trong câu chuyện đầu tiên các bậc cha mẹ nói đến, đó là chuyện con cái. Có những cha mẹ rất vui và hạnh phúc, khoe với các cha: “Nhà con năm nay các cháu về đông đủ, đầy nhà, ăn uống, vui lắm! Bây giờ giải tản về các nhà để đi chúc tết rồi”. Có người buồn bã kể: “Con có đứa con trai, năm nay cả hai vợ chồng nó không đứa nào về, cũng không cho con nó về”. Có gia đình kể: “Ông bà con còn ở quê, năm nay mừng thượng thọ. Con mua vé máy bay cho cả nhà về ăn tết với ông bà và mừng thượng thọ ông bà luôn. Chẳng biết các cụ còn sống được bao lâu nữa! Có tốn kém một chút nhưng làm cho các cụ vui với con cháu là được”. Ngày tết là ngày của gia đình, ngày của tình thân, ngày con cái bày tỏ lòng thảo hiếu với mẹ cha. Có những cha mẹ biết rằng con không về, nhưng vẫn chờ vẫn mong. Cha mẹ chờ mong không phải vì đồng quà, tấm bánh, mà chỉ vì muốn gặp lại con cháu trong những ngày quan trọng linh thiêng này. Có những người con biết nghĩ đến cha mẹ, hy sinh gác lại công việc, chấp nhận tốn kém để về với ông bà cha mẹ.

Thiên Chúa là người cha nhân hậu, hết lòng yêu thương con cái. Ngài cũng chờ đợi chúng ta trở về với Ngài. Ngài muốn chúng ta sống sao cho trọn đạo làm con đối với Ngài. Lời Chúa Chúa nhật II mùa chay hôm nay nói cho chúng ta về một Thiên Chúa là cha yêu thương và cũng giới thiệu cho chúng ta gương mẫu những người con hiếu thảo.

Bài đọc hai hôm nay là những lời tán tụng thật xúc động về tình thương của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cho ta thấy hình ảnh Thiên Chúa là cha, Ngài như lá chắn che chở cho con cái, luôn bênh vực con của mình: Có Thiên Chúa bênh vực chúng ta, nào ai chống lại được chúng ta? Hơn thế nữa, Thiên Chúa không hề tiếc chúng ta điều gì: Đến như chính con ruột của Ngài, Ngài còn chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp Người Con ấy vì chúng ta. Như vậy chắc chắn Thiên Chúa sẽ không tiếc gì với chúng ta nữa. Tác giả cũng cho thấy, Thiên Chúa còn rộng lượng để tha thứ cho chúng ta tất cả, cho dù chúng ta có phản nghịch chống lại Chúa. Chúa Giêsu cũng không kết án chúng ta, vì chính Ngài đã chết và sống lại là để cứu chuộc chúng ta và Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu bầu cho chúng ta.

Vì Thiên Chúa hết mực yêu thương như vậy, Ngài không được lợi gì khi yêu thương chúng ta, Ngài chỉ mong muốn một điều duy nhất là chúng ta cũng yêu mến Ngài và sống xứng đáng là những người con của Chúa.

Bài đọc một cho chúng ta hình ảnh thảo hiếu của tổ phụ Apbraham. Ông sống với Chúa chân thành như con cái đối với cha mẹ và thân thiết với Thiên Chúa như bạn hữu. Ông hết lòng tin tưởng vào tình thương và lời hứa của Thiên Chúa không hề từ chối Chúa một điều nào. Cuộc sống của ông đang yên ổn, giàu có tại thành Ur, Thiên Chúa đã gọi ông và muốn ông rời bỏ quê cha đất tổ, để đi đến một vùng đất mới, cùng với lời hứa: Ta sẽ ban cho ngươi một vùng đất, sẽ cho ngươi con cháu đông như sao trên trời và ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi. Tất cả lời hứa còn ở phía trước và cũng không biết đến bao giờ Chúa sẽ thực hiện, nhưng Apbraham vẫn tin và bước đi theo lời gọi của Chúa.

Câu chuyện hôm nay cho thấy, Thiên Chúa đã tự mình ký kết giao ước với Apbraham để củng cố thêm lòng tin của ông. Tự ký kết giao ước với Apbraham, có nghĩa là Thiên Chúa tự trói muộc mình vào với ông. Kể từ khi đáp lại lời Chúa để ra đi, Apbraham đã trở thành người bạn thân với Chúa. Có những lúc ông bị thử thách nặng nề, như khi ông đã già mà vẫn chưa có con. Khi ông có được một người con, Thiên Chúa lại muốn ông sát tế con cho Chúa. Apbraham đã không từ chối, không hồ nghi cũng không hề tiếc với Chúa điều gì. Ông sẵn sàng làm tất cả những gì Chúa muốn, vì ông tin Chúa luôn có phương án tốt nhất cho ông.

Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy sự thảo hiếu của Người Con Một của Thiên Chúa đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không từ chối Chúa Cha điều gì, Ngài luôn hết lòng yêu mến và vâng phục Chúa Cha kể cả chấp nhận cái chết. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Chúa tỏ vinh quang cho các môn đệ trên núi cao trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Các môn đệ thân tín đã được Chúa cho xem thấy giây phút vinh quang rự rỡ: Mặt Người sáng như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết, có ông Mose và Elia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cho các tông đồ xem thấy trước vinh quang Thiên Chúa nơi Ngài để cũng cố đức tin cho các ông, trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn thập giá. Hai vị ngôn sứ là Mose và Elia xuất hiện như đại diện cho truyền thống Lề luật và Ngôn sứ, tức là đại diện cho toàn bộ Cựu Ước để làm chứng về Chúa Giêsu trước mặt các môn đệ.

Có lẽ mục tiêu chính của cuộc biến hình này, là dịp để Thiên Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ và cũng là dịp Thiên Chúa bày tò “sự hài lòng” của Ngài đối với Chúa Giêsu. Trong lúc các tông đồ đang kinh hoàng, sợ hãi, thì có tiếng Chúa Cha từ trời phán: Đây là Con Ta yêu dấu! Hãy vâng nghe lời Người. Đây là lần thứ hai, Thiên Chúa Cha đã công khai giới thiệu Con của Ngài cho nhân loại và nói lên sự hài lòng về Người Con của mình.
Thiên Chúa Cha hài lòng về Người Con là Chúa Giêsu và gọi Chúa Giêsu là Con rất yêu dấu, vì Chúa Giêsu luôn sống hiếu thảo với Cha và luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu thể hiện sự hiếu thảo bằng việc hoàn toàn vâng lời, vâng lời cho đến nỗi chịu chết, chết trên cây thập giá. Chúa Giêsu sống hiếu thảo bằng cách thường xuyên “thăm hỏi, truyện trò” với Cha qua cầu nguyện. Người nhận ra ý Chúa Cha và sẵn sàng thi hành trong suốt cuộc đời. Thiên Chúa Cha hài lòng và hoàn toàn trao phó chương trình cứu độ, phục hồi nhân loại cho Chúa Giêsu, đồng thời căn dăn các tông đồ: Hãy vâng nghe Lời Người.

Thiên Chúa Cha muốn các tông đồ và mỗi chúng ta vâng nghe lời Chúa Giêsu, tức là nghe trong sự vâng phục, tin tưởng và phó thác cho Chúa Giêsu, như Chúa Giêsu vâng nghe và tin tưởng phó thác cho Chúa Cha. Trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Ngài nói về việc Con Người từ cõi chết sống lại. Đây là điều rất khó chấp nhận đối với các tông đồ. Vì các tông đồ theo Chúa, cho đến lúc này, vẫn tìm kiếm địa vị danh vọng theo kiểu trần gian. Các ông chưa dễ dàng chấp nhận Thầy Giêsu sẽ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết một cách đau đớn nhục nhã. Các tông đồ càng khó chấp nhận việc các ông cũng sẽ phải vâng nghe để bước vào cùng một con đường với Thầy Giêsu

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một Thiên Chúa là Cha gần gũi, yêu thương con người và mời gọi chúng ta sống tình thảo hiếu với Thiên Chúa như con cái với cha mẹ. Mùa chay chính là dịp để chúng ta làm mới lại tương quan của chúng ta với Chúa, và rà sóat lại bổn phận của ta đối với Ngài. Có thể chúng ta đã mải mê với công việc và cuộc sống, bị lối kéo bởi những thú vui và lo tìm kiếm của cải vật chất, đến độ bỏ quên bổn phân đối với Chúa. Mặc dù chúng ta lười biếng, cố tình xa tránh Thiên Chúa, để mình lấm lem trong tội, nhưng Thiên Chúa vẫn không thể quên và không thể bỏ chúng ta. Thiên Chúa vẫn luôn nhớ đến và ban ơn trợ giúp cho ta mỗi ngày và vẫn chờ đợi chúng ta quay về với ngài. Mùa chay là cơ hội tốt nhất để trở về với lòng Chúa xót thương, bằng việc lãnh nhận Bí tich Giải tội và Thánh Thể Chúa.

Giống như con cái thu xếp công việc để về với ông bà cha mẹ ngày tết thế nào, chúng ta cũng được mời gọi để sắp xếp, đều chỉnh lại nếp sống của cá nhân và gia đình để mọi thành viên để trở về gặp gỡ Thiên Chúa qua các giờ lễ mỗi ngày. Cần sắp xếp để gia đình có giờ kinh cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa; sắp xếp để gia đình có những bữa cơm tối xum họp với nhau trong tình thân và hãy sắp xếp để cha mẹ con cái có nhiều giờ hơn ở bên nhau, đi chơi, nói chuyện, vui đùa với nhau.

Xin Chúa giúp mỗi người biết để tâm lắng nghe và sẵn sàng vâng theo lời Chúa truyền dạy, dù lúc vui cũng như lúc buồn, để nhờ biết vâng nghe và thực hành, chúng ta trở nên những người con hiếu thảo của Chúa. Amen.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC507: TIÊN BÁO MẦU NHIỆM PHỤC SINH


P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn,
 

Phục Sinh hoặc sống lại từ cõi chết là một “lĩnh vực siêu nhiên “ thuộc về Thần Linh Duy Nhất MC 2-ABC507


Phục Sinh hoặc sống lại từ cõi chết là một “lĩnh vực siêu nhiên “ thuộc về Thần Linh Duy Nhất  và Vĩnh Cửu là Thiên Chúa. Theo đó, cụm từ nầy không thuộc về “ ngôn ngữ” của loài người. Nên chi, cum từ khó hiểu nhất trong Đoan Tin Mừng hôm nay (Mc 9, 2 -10) là cụm từ “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì ?

Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Nhật thứ II MC ( Mc 9, 2 -10) thánh Marco trình thuật cho chúng ta một biến cố biểu lộ sự vinh quang rực rỡ, hay nói cách khác Chúa Giêsu tiên báo về Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.

Tin Mừng hôm nay có thể chia ra bốn ý chính :

Một là : Ngọn núi cao
Hai là : Người biến hình trước mặt các tông đồ
Ba là :  Có các ngôn sứ Cựu Ứơc  hiện diện cùng Người.
Bốn là : Lời tuyên bố của Chúa Cha về Chúa Giêsu.
Vâng , bốn ý chính trên nói lên việc Tiên Báo Mầu Nhiệm Sống lại từ cõi chết của Đức Giêsu.

Lên núi nói lên việc kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, Thiên Chúa ngự nơi cao thẳm, việc lên nui theo nghĩa đen cho chúng ta thấy điều đó, vị trí địa lý nghĩa đen cho chúng ta một  nơi siêu thoát, một nơi dễ cầu nguyện, một nơi bình an, xa lánh thế gian  ồn ào. Nghĩa thiêng liêng cho thấy để đến với Thiên Chúa , con người cần phải thoát tục, từ bỏ tất cả , tìm đến địa chỉ trên cao, đó là “ Núi Chúa”.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay, chúng ta thấy ( St 22, 1- 2. 9a ; 10 –13 . 15 -18) cho thấy Thiên Chúa đã thử thách tổ phụ Ápraham, và ông đã trung tín với Thiên Chúa, phần thưởng của ông là “ Tổ phụ của lòng tin”, vì nhờ ông mà Thiên Chúa chúc phúc cho những ai tin vào Ngài.

Qua đó, chúng ta thấy , Thiên Chúa chính là nguồn hằng hữu, vì không gì quý giá hơn “ Nguồn Hằng Hữu”, vì thể chế nào rồi cũng qua đi, sự giàu sang nào cũng kết thúc, quyền lực nào cũng tiêu vong, đau khổ nào mà tồn tại.

Lên núi cao cho thấy chỉ có Thiên Chúa là Đấng cao cả , vững bền duy nhất, tìm đến với Thiên Chúa là chúng ta “ lên núi cao” để kết hợp với Ngài là Đấng muôn thuở.

Lên núi cao , Chúa Giêsu biểu lộ Thần Tính siêu nhiên của Người và củng cố đức tin cho các môn đệ, một đức tin cần củng cố, xây dựng là một đức tin có cơ sở, nền tảng.

Chúa Giêsu yêu thương nhân loại cách cụ thể, không chung chung, chi tiết chứ không “ my dân”, biểu lộ vinh quang Thần Tính cho các môn đệ, là biểu lộ sự chân tính từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu Biến Hình trên Núi Tabore cũng giống như Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Gio-Đanh, nhưng là Lễ Trọng. Điều nầy biểu hiện Mầu Nhiệm Vinh Quang Sống lại từ cõi chết của Người.

Điều thứ ba, có các ngôn sứ lớn của Cựu Ứớc làm chứng về Người, cho thấy Chúa Giêsu không tự nhiên xuất hiện, Bốn Thầy trò Tân Ứơc cùng với Hai ngôn sứ lớn của Cựu Ứơc là Môisen và Êlia, chúng ta thấy sự hiện diện lớn lao , sự làm chứng vĩ đại chưa từng có, đến độ môn đệ Phê-rô không biết  mình nói gì.

Điều thứ tư, là điều quan trọng nhất, cũng như khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan, có tiếng phán từ Chúa Cha “ Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe Lời Người “. Như vậy, từ Cựu Ứơc đến Tân Ứơc chúng ta thấy, có ai được Chúa Cha phán trực tiếp như vậy, trừ các ngôn sứ lớn như tổ phụ Ápraham, Môisen, Êlia, Isaia, Samuel. Vì thế, Lời phán của Chúa Cha trong Mầu Nhiệm Biến Hình của Chúa Giêsu là một biến cố vĩ đại trong Tân Ứơc hầu tiên báo Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.

Vâng, bốn ý nghĩa chính trên nói lên điều quan trọng của cụm từ “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì?

Mầu nhiệm Cứu Độ là Mầu Nhiệp Nhập Thể và Nhập Thế, không phải chỉ là hình hời hợt ngoại hình, mà là một sự biến đổi từ tâm can, một hành trình làm Người của một Ngôi Vị Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến độ chết vì nhân loại, hầu mang vinh quang phục sinh từ Thiên Chúa đến cho nhân loại .

Bài đọc II hôm nay, thánh Phaolo cho chúng at biết ( Rm 8 , 31 b – 34) …” Thiên Chúa bênh vực chúng ta, thì còn ai dám chống lại chúng ta. Vì, đến chính Con Một Ngài cũng không tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (c 31 -32)

Thánh Vịnh 115 hôm nay cho chúng ta biết “… Trước nhan Thiên Chúa tôi sẽ đi trong miền đất của nhân sinh…”

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ Thần Tính trên núi Thánh, hầu biểu lộ vinh quang Nước Trời qua Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, xin củng cố niềm tin cho chúng con như hình ảnh xưa trên núi Thánh. Người là Thiên Chúa hằng Sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC508: HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI


Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
 

Lễ Tro, đầu Mùa Chay, tiên tri Gioel nhân danh Giavê Thiên Chúa đã mời gọi ta: “Hãy xé lòng MC 2-ABC508


Lễ Tro, đầu Mùa Chay, tiên tri Gioel nhân danh Giavê Thiên Chúa đã mời gọi ta: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Còn Đức Giêsu thì mời gọi ta thực hành ba việc: “Ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái,” một cách âm thầm kín đáo, không phô trương “tay trái không cho tay phải biết”.

Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đi vào hoang địa và sống ở đó 40 ngày, để mời gọi ta sống tinh thần mùa chay với sứ điệp: “Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Hôm nay, trong biến cố Đức Giêsu biến hình trên núi, qua tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, từ trong đám mây sáng chói, Đức Chúa Cha mời gọi ta: “Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu.”

Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu vì Người là Con chí ái của Chúa Cha, đẹp lòng Cha mọi đàng.

Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu vì Người là Ngôi Lời nhập thể, là mạc khải trọn vẹn và đầy đủ nhất của Đức Chúa Cha.

Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu vì Người là hiện thân của tình yêu thương xót và là hình ảnh của Đức Chúa Cha vô hình trên trần gian. Ai thấy Người là thấy Đức Chúa Cha.

Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu vì Người là vị Ngôn Sứ vĩ đại của Đức Chúa Cha, Môsê và các ngôn sứ chỉ nói về Người.

Thế nhưng, ta phải vâng nghe lời Đức Giêsu như thế nào? Ta vâng nghe lời Đức Giêsu như Người đã từng vâng nghe lời Đức Chúa Cha.

Đức Giêsu vâng nghe lời Đức Chúa Cha như thế nào? Thánh Phaolô nói rằng: “Đức Giêsu vâng lời Đức Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Đức Chúa Cha đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ…” (x. Pl 2,6-11).

Quả thật, Đức Giêsu có vâng phục Đức Chúa Cha trọn đời, có trải qua đau khổ mới bước vào vinh quang.

Tổ phụ Abraham có sẵn sàng hiến dâng người con một là Isaac cho Giavê Thiên Chúa mới được chúc phúc và trở thành cha một dân tộc đông đảo như cát biển sao trời.

Tông đồ Phêrô và các bạn đồng nghiệp có “vâng lời Thày mà thả lưới” mới bắt được mẻ cá lạ lùng.

Nếu ta vâng phục Đức Giêsu trọn đời, ta cũng sẽ được thông phần vinh quang với Người. Vinh quang mà thánh Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thày, chúng con được ở đây thì tốt lắm!”

Nhưng vâng lời Chúa là gì? Là chết đi cho tội lỗi, cho ý riêng, để sống theo ý Chúa.

Chết đi cho tội lỗi như dân thành Ninivê mặc áo nhặm, ăn năn sám hối bỏ tro lên đầu.

Chết đi cho ý riêng như Đức Giêsu trước biến cố tử nạn: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cất chén này đi khỏi con, nhưng đừng theo ý con một vâng theo ý Cha.”

Thế nhưng đâu là ý Chúa để ta vâng phục? Ý Chúa được chứa đựng trong Thánh Kinh, Thánh Truyền và Giáo Huấn của Hội Thánh.

Thánh Kinh là lời Chúa nói, được ghi chép dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.

Thánh Truyền là lời Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần uỷ thác cho các Tông Đồ, được những kẻ kế vị các ngài lưu lại toàn vẹn trong Giáo Hội.

Giáo Huấn của Giáo Hội là những giải thích, cắt nghĩa, trình bày kho tàng mạc khải lời Chúa cách trung thực hay là những truyền dạy về chân lý đức tin và phong hoá mà ta phải tin nhận và thực hành trong đời sống.

Ngoài ra, ta cũng còn có thể tìm thấy ý Chúa qua những dấu chỉ thăng trầm của thời đại, qua những biến cố vui buồn của đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.

Muốn nhận ra được ý Chúa giữa dòng đời ngược xuôi, ta cần phải biết thinh lặng và cầu nguyện.

Mùa Chay là thời gian rất thích hợp cho những ai yêu mến sự thinh lặng và cầu nguyện, ăn chay và làm việc lành phúc đức.

Nếu Mùa Chay năm nay, ta cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái theo tinh thần của Đức Giêsu đã dạy trong ngày lễ Tro và theo Sứ điệp Mùa Chay của Đức Giáo Hoàng cũng như theo Thư chung Mùa Chay của Bề Trên giáo phận, Bề Trên cộng đoàn là ta đang thực hành lời Đức Chúa Cha giới thiệu và mời gọi: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.

Ta vâng nghe lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội như thế! Chắc chắn Mùa Chay sẽ làm biến đổi cuộc đời ta, gia đình ta, xứ đạo ta, và quê hương ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết vâng nghe lời Chúa và Giáo Hội trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Amen.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC509: SUY NIỆM VÀ CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B


Lm. Inhaxio Hồ Thông
 

Tước hiệu “Con Một” cho phép nhấn mạnh một chủ đề duy nhất xuyên suốt ba bài đọc trong Phụng MC 2-ABC509


Tước hiệu “Con Một” cho phép nhấn mạnh một chủ đề duy nhất xuyên suốt ba bài đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B này.

St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18

Bài Đọc I kể cho chúng ta chuyện tích về cuộc hiến tế I-sa-ác, “con một” mà tổ phụ Áp-ra-ham yêu mến.

Rm 8: 31b-34

Bài Đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn đến mức “ngay chính Con Một của mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã để cho phải chết vì hết thảy chúng ta”.

Mc 9: 2-10

Tin Mừng Mác-cô kể cho chúng ta cuộc Biến Hình, trong đó Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ấy vậy, cuộc Biến Hình xảy ra chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, nghĩa là “Con Một” chịu chết vì hết thảy chúng ta để chúng ta được sống.

BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)

Trong khuôn khổ hạn định của Phụng Vụ, chuyện tích nổi tiếng này không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích này nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn vì cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng yêu thương lại có thể đòi hỏi ở nơi một con người ngay chính một sự thử thách tận mức đến như vậy. Cho dù ngay từ đầu chuyện, người kể chuyện nói trước “đây chỉ là một cuộc thử thách”, nghĩa là không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang.

Lịch sử hình thành chuyện tích hiện nay
Tuy nhiên, giá trị ngôn sứ của bản văn thì rõ ràng. Mặt khác, lịch sử hình thành câu chuyện soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của câu chuyện và xua tan đi những xao xuyến của chúng ta. Các nhà chú giải mời gọi chúng ta phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau ở nơi chuyện tích này:

– Chuyện tích nguyên tác đã bị thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của người Do thái và tôn giáo của người Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.

– Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau này, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong truyện dài nhiều tập của vị tổ phụ để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện nguyên thủy: câu chuyện sau này là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-sa-ác, ẩn hiện “dân Chúa chọn”, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Phương Bắc). Chính trong bối cảnh bi thảm đó mà sứ điệp vang lên: phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Đức Chúa, Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn dân của lời hứa, dân mà Ngài gọi “con đầu lòng của Ngài” phải bị họa diệt vong (Xh 4: 22-23).

Tôn giáo của dân Ca-na-an
Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me: ông là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như việc dân Ca-na-an thực hành việc hiến tế gia súc cũng như con cái cho các thần linh mà dân Su-me lại không hề biết đến.

Các văn sĩ xưa làm chứng về phong tục tập quán này. Như Diodore, văn sĩ Hy lạp thuộc thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên kể lại rằng dân Ca-tha dâng hiến cho thần Kronos hai trăm con trẻ “thuộc những gia đình danh giá nhất” khi gặp tai họa (Bibl. Hist. 20: 14) và Philon de Byblos, được Eusède trích dẫn, viết: “Đây là một phong tục tập quán cổ xưa của dân Phê-nê-xi là dâng hiến những đứa con thân yêu nhất của mình một cách rất huyền bí khi quốc gia gặp cơn  nguy biến”.

Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt như thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, và vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong trường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắt giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, “liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu” (2V 3: 27). Vua A-khát cai trị miền Giu-đa, mất niềm tin vào Đức Chúa, trước hoàn cảnh tuyệt vọng vì bị quân thù công hãm Giê-ru-sa-lem, “làm lễ thiêu con trai mình” (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: “Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa” (1V 16: 34).

Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?

Tôn giáo của dân Ít-ra-en
Tuy nhiên, dù việc hiến tế các con trai đầu lòng của mình mang phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành vi như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: “Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa… Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại” (Xh 13: 11-13).

Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ lâu, chuyện tích hiến tế I-sa-ác xác minh quyết định của luật Mô-sê. Trong câu chuyện này, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người có tấm lòng quảng đại và một con người có niềm tin kiên vững.

Một con người có tấm lòng quảng đại

Ông Áp-ra-ham thường hằng bày tỏ tấm lòng quảng đại. Ông Áp-ra-ham để ông Lót, cháu của mình, chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: “Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy” (St 14: 23). Ông Áp-ra-ham cũng hành xử với Thiên Chúa cùng một cách như vậy. Khi chấp nhận hiến tế đứa con một của mình, ông Áp-ra-ham dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của mình.

Một con người có niềm tin kiên vững

Việc hiến tế I-sa-ác được định vị ở cuối một loạt những thử thách trong đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó mà tin được. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông và vợ mình càng ngày càng già yếu đi mà không có một người con nối dõi tông đường. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt; ấy vậy, ông chỉ là một khách kiều cư, lang thang phiêu bạt rày đây mai đó. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn đứa con trai duy nhất của mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền này nhưng ông vẫn tin là Thiên Chúa có một giải pháp, vì Ngài không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham đưa ra một khuôn mẫu đức tin, một đức tin dựa trên “lời Thiên Chúa” chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được cả ba tôn giáo: Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, gọi là “Cha của những kẻ tin”.

Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại. Trong khi đó, ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn vàn thế hệ.

Đáp lại niềm tin và sự vâng phục anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: “Ta lấy chính danh Ta mà thề”. Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn thân của Thiên Chúa, chứng nhân về lời thề của Thiên Chúa, vì lời thề thì chắc chắn hơn một lời hứa.

Thần học về sự thử thách
Tác giả sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc này bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).

Để soi sáng cho những biến cố mà ông đã sống, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-sa-ác một dấu chỉ cho thấy cách thức Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bên ngoài xem ra thất bại. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng này nền tảng của việc mình được tuyển chọn và họ cũng phải thấy ở nơi việc Đức Chúa can thiệp để cứu I-sa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những người con của Lời Hứa.

Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-sa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.

Khía cạnh ngôn sứ
Hình ảnh người cha hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình, và hình ảnh người con mang trên vai mình bó củi sẽ được dùng để hiến tế chính mình, thật sự gợi lên một tấm thảm kịch khác, trong đó chính Thiên Chúa trao phó Người Con Một của mình để cứu độ nhân loại.

Thánh Gioan sẽ ám chỉ đến hy tế của I-sa-ác khi áp dụng tước hiệu “Con Một” vào Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16). Ẩn hiện phía sau chuyện tích này, chúng ta đọc thấy cái vẻ thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31b-34)

Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma vào mùa đông những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa trước những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng này). Cũng chính ở nơi đây mà ngài viết thư gởi cho các Ki tô hữu Rô-ma mà ngài dự định sẽ viếng thăm họ. Như vậy, bức thư này chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.

Bối cảnh
Bài Đọc II được trích từ chương 8 thư gởi các tín hữu Rô-ma, chương dâng trào cảm xúc bao la đến độ chúng ta như cảm thấy tâm tình tôn giáo nồng nàn của vị Tông Đồ. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, được gọi là con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang bất diệt, được công chính hóa nhờ đức tin, Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu lớn lao đến như thế, nên chúng ta không có gì phải sợ ngoài một niềm hy vọng chan chứa niềm vui.

Người Ki-tô hữu chẳng có gì phải sợ cả
Chương 8 này được kết thúc bởi một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa bằng một cung giọng đắc thắng. Bài Đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi này. Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: “Đến như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã để cho phải chết vì hết thảy chúng ta”. Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta và những ân huệ mà Ngài ban tặng cho chúng ta!

Thánh Phao-lô hình dung một tòa án ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến. Ai dám buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa vừa buộc tội họ vừa tuyên bố họ công chính? Hay chẳng lẽ Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha lại buộc tội chúng ta? Ấy vậy, Đức Ki-tô là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.

TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)

Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.

Biến cố này được xác định vào thời điểm rất có ý nghĩa: “Sáu ngày sau”. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài:“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8: 29). Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo này liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh này biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.

Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố này có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su? và biến cố này có ý nghĩa như thế nào đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan?

Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su
Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su nhập thể đang hướng về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, thì Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc này đây Ngài được nhận lại trong chóc lát.

“Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Trên núi cao rực rỡ ánh vinh quang gợi lên núi Xi-nai, việc ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng này đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật rõ nét nhất tước vị Mê-si-a: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng này, họ là “dấu chỉ”. Quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Mê-si-a. Ông Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi ông Ê-li-a được truyền tụng là sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.

“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Chúa Cha công bố cùng những lời vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11). Lời tuyên bố này một lần nữa khẳng định tử hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời này đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, lời tuyên bố vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Mình, trong khi lời tuyên bố vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: “Hãy vâng nghe lời Người”, bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.

Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ
Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình này: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến việc Chúa Giê-su cho con gái ông Gia-ia được sống lại (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ này Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng qua biến cố Biến Hình này Ngài an ủi họ trước.

Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố này đã củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời ánh vinh quang thần linh. Vị thủ lãnh của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau này sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật danh tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.

Như vậy, đây là nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành từ đầu cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Trong Tựa Ngôn ẩn chứa biến cố Biến Hình. Còn thánh Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chịu chết vì niềm tin của mình.

Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Trong tận cõi lòng mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.

“Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá”. Đức Giê-su đột nhiên xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi một sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.

“Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông”. Trong Cựu Ước, “đám mây” tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, vào trong sự bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” như Đức Giê-su đòi hỏi họ.

Vào lúc này đây, các Tông Đồ không hiểu được “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Sau này, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc phục sinh của con gái của ông Gia-ia và biến cố Biến Hình của Ngài.

Sau này, các ông sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình này. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, sẽ diễn tả rõ ràng điều này: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3: 21).

-----------------------------------
 

MC 2-ABC510: TỪ CÕI CHẾT SỐNG LẠI NGHĨA LÀ GÌ?


Lm Trần Bình Trọng
 

Khi tiên báo về cuộc khổ hình và thập giá mà Người sắp phải chịu bởi các kì mục, thượng tế và MC 2-ABC510


Khi tiên báo về cuộc khổ hình và thập giá mà Người sắp phải chịu bởi các kì mục, thượng tế và kinh sư, Ðức Giêsu nhận thức được rằng các tông đồ khó khỏi cảm thấy buồn nản và lo sợ. Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thầy mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Ðức Giêsu đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá.

Vì thế ông Phêrô đại diện cho nhóm Mười Hai mời riêng Thầy ra một bên mà can ngăn Người (Mc 8:32). Rồi khi biến cố thập giá xẩy ra vào ngày Thứ Sáu Chịu nạn, thì kinh nghiệm đau thương lại càng đè nặng tâm trí các tông đồ, nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người được chứng kiến cảnh Thầy mình sầu khổ trong vườn cây dầu.

Ðể giúp các tông đồ đối phó với viễn tượng khổ nạn và thập giá, Ðức Giêsu đưa ba tông đồ thân tín lên đỉnh núi, biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Ðức Giêsu biến hình có mục đích để củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong viễn tượng của cuộc khổ hình và thập giá. Giáo hội coi việc tổ phụ Ápraham sẵn sàng hiến tế con mình làm lễ vật hi sinh là hình bóng của lễ vật hi sinh của Ðức Giêsu làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ðể thử thách đức tin của Áp-ra-ham, Thiên Chúa muốn ông dâng con mình làm lễ vật toàn thiêu. Ixaác là người con thừa tự mà Chúa đã hứa cho ông bà, khi bà xã ông là Sara sinh con lúc bà đã cằn cỗi (St 18:12), còn ông được xấp xỉ một trăm tuổi xuân (St 21:5). Nhờ đức tin, Ápraham sẵn sàng chấp nhận hi sinh hiến tế con mình mặc dù đã nhận được lời hứa là nhờ I-xa-ác mà ông sẽ có được một dòng dõi (St 21:12). Kết cục, đã có sứ thần Thiên Chúa bảo ông dừng tay, và còn hứa cho dòng dõi ông trỏ nên đông đúc như sao trời và cát biển (St 22:17).

Từ trên núi đi xuống, Ðức Giêsu ra lệnh cho bộ ba tông đồ không được thuật lại cho ai nghe những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Quả nhiên sau đó các tông đồ quan sát mà ngạc nhiên những cảnh chống đối và lăng nhục xẩy ra choThầy mình: bị bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thập giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bị bắt giữ và nhục mạ trong vườn mà Thẩy mình phải chịu, khiến các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thầy mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì chính các ông sẽ bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được tin là Thầy mình đã sống lại, họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư.

Chỉ sau khi chứng kiến Chúa phục sinh, họ mới hiểu được ý nghĩa của lời Chúa: Cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại. Từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Các ông được chia sẻ niềm vui phục sinh của Thầy chí thánh, nhưng đồng thời lại phải trải qua những bách hại, chịu tù đầy và chịu khổ hình trên thập giá. Ðúng như lời Chúa phán: Ðầy tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thầy, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy ý niệm thần học tín lí: sống lại từ cõi chết cũng đã được áp dụng cho các tông đồ. Các vị anh hùng tử đạo – trong đó có 118 liệt sĩ bỏ mình tại Việt Nam – cũng đã phải hiểu đuợc ý niệm từ cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử, chứ không phải cứ khơi khơi mà dám xông ra pháp trường đâu.

Còn đối với người tín hữu, từ cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống người tín hũu, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta được sống lại từ cõi chết. Tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hằng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại không quyết liệt như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo, mà chỉ là những thua thiệt mất mát ở đời này. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu.., ta sẽ được thăng tiến về đời sống thiêng liêng.

Khi đó ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: thế nào là sống lại từ cõi chết. Như vậy thì ta cầu xin để khi nằm xuống vĩnh viễn rồi, ta lại được sống lại về phần linh hồn.

Lời cầu nguyện xin ơn sống lại từ cõi chết:

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã đến
chịu nạn chịu chết cho tội lỗi loài người,
gồm tội riêng con.
Xin cho con biết sẵn sàng chết đi cho tội lỗi
và các thứ tính mê nết xấu
để con được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa
và được chiêm ngưỡng vinh quang của nước Chúa
trong đời sống mai hậu. Amen.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC511: ĐẸP XÁC HỒN


Lm. Jos. DĐH.
 

Cuộc tình đẹp có phải là cuộc tình được xây dựng bằng nước mắt, khổ đau, bằng trái tim rộng MC 2-ABC511


Cuộc tình đẹp có phải là cuộc tình được xây dựng bằng nước mắt, khổ đau, bằng trái tim rộng mở, bằng đôi tai biết lắng nghe, bằng cả đời sống nghiêm túc, với môi miệng luôn mỉm cười không mỏi mệt ? “Tình” như thế có phải là tình trong mơ, “đẹp” như thế có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng quá phong phú trước một xã hội phức tạp hôm nay không ? Tình yêu đôi lứa, tình yêu giữa cha mẹ và con cháu, hay tình yêu quê hương đất nước, cuộc tình nào cũng cần đẹp, tương quan nào cũng cần tính bền vững, dù là nét đẹp vật chất hay tinh thần, dù là sự chặt chẽ trong lời nói, việc làm.

Cha ông chúng ta có câu: đứng núi này, trông núi kia, hoặc bỏ mồi, bắt bóng, có thể chúng ta từng sai lầm vì mắt không tinh thông, tâm trí không đủ sáng suốt, do đó mà bỏ lỡ dịp may, hay để vụt mất cơ hội tạo nên nét đẹp cho cuộc sống mình. Hành trình theo Đức Giêsu lên núi cao, các môn đệ hôm đó được chứng kiến chuyện tình đẹp nơi Thầy Giêsu kết hiệp cầu nguyện với Chúa Cha, dung mạo Thầy xinh đẹp lộng lẫy khác thường khi “đàm đạo” với hai chứng nhân cựu ước. Tai các ông được nghe rõ về lời tuyên phán từ trời: “đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Đẹp về hình thức, đẹp về nội dung, hai nét đẹp căn bản hằng thu hút tâm tính chúng ta. Đức Giêsu hôm nay, Ngài lưu ý các học trò về một sứ vụ đẹp và quan trọng: “đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”.

Cùng Thầy Giêsu xuống núi, trở về với nhịp sống thường ngày, các môn đệ còn “lâng lâng” cảm xúc về nét đẹp được thấy được nghe, tuy các ông chưa thể hiểu hết về lời căn dặn của Thầy, nhưng khao khát được trở nên xinh đẹp nơi các ông, thật là cần thiết. Ngày hôm nay, chúng ta có khao khát việc lên núi và xuống núi với Thầy Giêsu không ? Có thích được mắt thấy tai nghe lời tuyên phán: này là Con Ta yêu dấu không ? Biến cố biến hình vẫn lập đi lập lại hàng ngày, nếu chúng ta mạnh dạn theo Đức Giêsu lên núi để được biến đổi, được thêm sức mạnh và thêm ơn khôn ngoan, và khi trở về cuộc sống thực tế, chúng ta sẽ biết chu toàn bổn phận và ơn gọi của mình.

Cũng như các học trò Đức Giêsu, nhìn được vẻ đẹp bên ngoài, nghe đọc được tiếng phán từ trời, từ thánh kinh, còn để hiểu và thấm nhuần nét đẹp siêu nhiên, chúng ta chỉ cảm nhận lờ mờ thôi. Mang sẵn thao thức được chứng kiến dung mạo xinh đẹp của Đức Kitô, chúng ta còn mơ ước cả người thân của mình cũng được biến đổi, được trở nên đẹp xinh cả thân xác linh hồn như Đấng chúng ta tin thờ. “Hãy vâng nghe lời Người”, vừa tha thiết như một mệnh lệnh, vừa nói lên tính cao đẹp tự do, nơi mỗi người muốn sống tinh thần môn đệ theo Đức Kitô. Ba môn đệ thân tín không thể diễn tả hết niềm vui được đồng hành với Thầy lên núi, các ông cũng không khỏi bàng hoàng theo Thầy xuống núi với một chuỗi dài tâm tư khó hiểu: “từ trong cõi chết nghĩa là gì” ?

Không lên núi cao, sao biết cái lo nghiêng ngả, không xuống vực sâu, sao biết cái lo đắm đuối, không ra bể lớn sao biết cái lo sóng gió. (Mạnh Tử). Cuộc đời người kitô hữu, nếu hàng ngày không theo Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, không vượt ra khỏi tâm tính ích kỷ nơi bản thân, tự chúng ta làm mất đi cơ hội thấy và không thể hiểu vẻ đẹp phong phú của tình yêu Thiên Chúa nơi anh chị em mình. Tai mắt tâm hồn chúng ta chỉ thấy và cảm nhận được vẻ đẹp sâu thẳm của tình yêu, một khi chúng ta vượt ra khỏi tiếng ồn ào của tiền tài danh vọng. Các môn đệ cùng hiệp thông với Thầy Giêsu ở trên núi cao, các ông chưa hiểu hết cuộc đàm đạo của Thầy, ngôn ngữ từ đám mây cũng không phải là dễ hiểu, tuy nhiên tâm hồn các ông rất vui, như thế quả là các ông đã và đang được biến đổi tâm hồn rồi.

Ngày hôm nay, mơ ước được biến đổi khuôn mặt xinh đẹp, dễ thương, mơ ước xoá đi được tính nóng giận, được khôn ngoan trong cách cư xử, rõ ràng là khao khát đúng. Khi bày tỏ tình yêu cứu độ, Thiên Chúa không cần của lễ chiên bò của con người, “đúng và chuẩn” hơn, Thiên Chúa mạc khải tình yêu nơi Đức Giêsu làm người, làm Đấng cứu độ. Thiên Chúa ghi nhận vẻ đẹp hoàn hảo, vẻ đẹp toàn diện nơi mỗi người chúng ta là cần thiết để được cứu độ. Ngài tha thiết muốn chúng ta hãy vâng nghe Đức Kitô, Con của Ngài, để giúp ta hiểu để ta sống.

Thiên Chúa cần chúng ta hãy bày tỏ niềm vui và sự khôn ngoan biết liên kết với Đức Kitô để chúng ta được tẩy trắng tâm hồn, tẩy sạch tội lỗi, hầu được hạnh phúc đời đời. Muốn thành công trên đời, ai cũng phải biết làm chủ lấy cuộc sống của mình, muốn có khả năng giao tiếp đúng, đẹp, ai cũng phải trau dồi kiến thức, phải có tình yêu thương của Đấng là Thầy là Chúa của chúng ta. Ngắm nhìn người đẹp, tiếp xúc và làm việc với người tài giỏi đức độ, bao giờ cũng hạnh phúc, Chúa Giêsu hẳn Ngài sẽ tha thiết mong chúng ta nhìn thấy, nghe được, hiểu được giáo huấn của hành trình lên núi và xuống núi hàng ngày. Thay đổi tâm hồn sạch đẹp, làm mới tương với Chúa với tha nhân, bao giờ cũng khó, và phức tạp, Chúa Cha đã soi dọi cho các môn đệ, hẳn Chúa rất muốn chúng ta hãy khôn ngoan cậy trông vào tình yêu của Đức Kitô, hầu tâm hồn chúng ta luôn được xinh đẹp và tươi mới, đáng hưởng gia nghiệp đời đời Chúa hứa ban. Amen.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC512: BIẾN ĐỔI ĐỜI MÌNH


 Lm. Gioakim Nguyễn Quang Minh
 

Mùa chay là thời kỳ sám hối, cầu nguyện: Hội Thánh mời gọi mọi người quay về với Chúa, thanh MC 2-ABC512


Mùa chay là thời kỳ sám hối, cầu nguyện: Hội Thánh mời gọi mọi người quay về với Chúa, thanh tẩy tâm hồn, từ bỏ các tật xấu, hy sinh hãm mình và làm việc bác ái.

Hôm nay Chúa Nhật thứ hai mùa chay, trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy, qua việc Biến Hình của Chúa để cho các môn đệ say xưa chiêm ngắm vinh quang của Người.

Tôi nhớ lại một chuyến thăm mục vụ các gia đình, trong đó có một gia đình, người chồng sau một thời gian đi tù về. khi bước vào gia đình, thấy người chồng đang đùa chơi với 3 đứa con, người vợ thì đang lo dọn dẹp phía sau, khi thấy chúng tôi vào, chị chạy ra đón và mời chúng tôi vào nhà. Khi nói chuyện chị vui vẻ kể chuyện về người chồng mình, lúc nầy anh biết lo làm ăn, sau khi đi làm về anh ở nhà lo chăm sóc con cái, coi bài vở …. Chị ta rất vui mừng và hạnh phúc trong cuộc đời chị vì người chồng chị biến đổi một cách lạ thường, ngày trước nguội lạnh việc đạo đức bao nhiêu bây giờ sốt sắng bấy nhiêu, ngày trước ăn chơi bao nhiêu, bây giờ lo lắng cho gia đình bấy nhiêu…

Quang cảnh gia đình của chị hoàn toàn biến đổi cuộc sống ý nghĩa về hôn nhân gia đình, giúp cho chị cảm nghiệm trân quí giá trị về gia đình, sự liên hệ và lời cam kết cuộc sống của mình với chồng, và ý thức cuộc sống gia đình hơn, đưa gia đình chị đi sâu vào ý nghĩa tình yêu vợ chồng, và niềm vui sướng tuyệt đỉnh của chức vụ, bổn phận làm vợ và làm mẹ, mà chị chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong cuộc đời. Cảm nghiệm tột đỉnh này đã biến đổi hoàn toàn đời sống gia đình trẻ.

Những cảm nghiệm tột đỉnh này xảy ra trong đời sống bình thường và cũng có thể đến với chúng ta trong đời sống tinh thần. Thí dụ như sau một cuộc tĩnh tâm, hoặc sau một biến cố cuộc mình, ai đó cũng cảm nghiệm được ơn Chúa ban cho cách đặc biệt, biến đổi cuộc sống hay thái độ, trở nên tốt lành, đạo đức hơn, đức tin trở nên sống động và mạnh mẽ hơn, cam kết vào những việc hy sinh phục vụ, có cuộc sống bác ái và quảng đại hơn, và trở thành một chứng nhân can đảm cho Chúa. Đó là một cơ hội, một kinh nghiệm hồng ân giúp chúng ta có một cái nhìn vượt qua sự việc đang xảy ra ở hiện tại, để nhận ra những giá trị cao quí hơn, tốt lành hơn và thiêng liêng hơn.

Việc Chúa biến hình trên núi Tabor cũng là giây phút tuyệt đỉnh mà ba tông đồ của Chúa Giêsu, là Phêrô, Giacôbê và Gioan, cảm nhận được Chúa biến hình trong bài Tin mừng hôm nay. Trong một giây phút hồng ân, ba tông đồ thân cận của Chúa đã được nhìn vào một thế giới vượt qua thế giới hiện tại. Trong một giây phút, họ nhìn nhận ra được sự vinh quang sáng chói bên trong con người của Chúa Giêsu chiếu tỏa ra bên ngoài. Và cũng trong môt giây phút, ba tông đồ nhìn thấy Chúa Giêsu, Thầy của mình, trong một hình thái hoàn toàn khác biệt. Họ nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa chiếu tỏa trên và bao phủ lấy con người của Chúa Giêsu, và có tiếng từ trên đám mây quả quyết với họ: “Đây là Con ta yêu dấu. Các ngươi hãy nghe lời Người.”

Phụng vụ Giáo Hội hôm nay cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa Biến Hình vào Chúa Nhật thứ hai mùa Chay và có ý nghĩa gì? Chúng ta tìm được câu trả lời trong trình thuật trước câu chuyện này, về việc Chúa báo cho các môn đệ biết Người sẽ phải lên Giêrusalem và phải chịu đau khổ bởi các kỳ lão và sẽ chịu chết. Khi thánh Phêrô nghe Chúa nói điều đó thì ông đã phiền trách, can gián Chúa “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những gì thuộc về loài người”. Các tông đồ cần một niềm hy vọng, cần một sự thúc đẩy tinh thần sau khi Chúa mạc khải cho các ông biết về con đường mà Người sẽ phải đi. Các tông đồ cần một sự can đảm mạnh mẽ và ghi nhớ hình ảnh vinh quang, để đối diện với sự việc sắp xảy ra cho Thầy mình và cho chính mình.

Chúng ta cũng cần một sự can đảm, mạnh mẽ để thông phần với cuộc khổ nạn và thương khó của Chúa trong suốt mùa chay, nhất là trong Tuần Thánh. Qua sự biến hình, Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận biết và tin Người là Con Thiên Chúa và sẽ phục sinh vinh quang từ cõi chết. Chúng ta cần ơn và sức mạnh của Lời Chúa, để hy sinh thời giờ cầu nguyện, ăn chay hãm mình, cũng như từ bỏ những thói hư, tật xấu và cuộc sống lầm lạc, để thành tâm cải thiện đời sống, và ăn năn sám hối để có đời sống thánh thiện và tốt lành hơn. Chúng ta cần được nghe câu chuyện Chúa Biến Hình để chúng ta có sức mạnh đối diện với những khó khăn, thử thách và cám dỗ trong đời sống hiện tại. Và hơn hết, trong thế giới ngày hôm nay bị tổn thương, làm khủng hoảng đời sống đức tin, khủng hoảng trong gia đình, chúng ta cần được nghe câu chuyện Chúa Biến Hình để chúng ta nhận ra được ý nghĩa và ân sủng của Chúa, qua sự hy sinh thời giờ, khó nhọc, không màng thiệt thòi và chịu đựng thời tiết xấu, khắc nghiệt này, để hy sinh phục vụ xây dựng giáo xứ, cũng như có tấm lòng bác ái và quảng đại để làm sáng danh Chúa. Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa và Đấng Cứu Thế, vì yêu thương và muốn củng cố lòng tin của chúng ta, để chúng ta can đảm đón nhận và có sức mạnh sống thánh ý Chúa, cho nên Chúa cho chúng ta thấy sự vinh quang của Người.

Nói tóm lại, nếu chúng ta muốn đi đến vinh quang của Chúa, chúng ta phải trải qua những khó khăn và thử thách, phải qua những sự hy sinh và bác ái, qua sự trung thành, và tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa như Abraham trong bài đọc 1 hôm nay. Thiên Chúa muốn thử đức tin của ông bằng cách ra lệnh cho ông phải giết Isaac, người con một duy nhất chính Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già. Với một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, ông đã giơ dao sẵn sàng giết con theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn Abraham, đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa muốn thử ông, nên khi thấy ông đã chứng tỏ niềm tin, Thiên Chúa không cần ông phải đòi thêm điều gì nữa.

Nếu chúng ta đặt trọn niềm tin vào Chúa, chúng ta sẽ đi qua một cuộc biến đổi trong hồng ân của Chúa, giống như gia đình trẻ trong câu truyện trên, chúng ta sẽ nhận ra được ý nghĩa và giá trị sâu sa của đời sống Kitô hữu, cảm nhận được sự an bình hạnh phúc trong tình yêu của Chúa, để đến vinh quang Chúa. Trong những khó khăn, thử thách, đau khổ và thập giá vì đức tin, vì Lời Chúa, và vì Chúa, chúng ta nhìn lên cây Thánh Giá Chúa Giêsu và nhớ lại câu chuyện biến hình của Chúa hôm nay, để nhận ra sức mạnh và lòng yêu thương và sự quan phòng của Thiên Chúa, và nhất là tìm được ánh sáng hy vọng, hạnh phúc và vinh quang của Chúa trong cuộc đời của chúng ta.

-----------------------------------
 

MC 2-ABC513: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY. NĂM B


Lm. Antôn
 

Lời Chúa trong Chúa nhật thứ 2 mùa chay hôm nay rất phong phú và có nhiều ý nghĩa, nhưng tôi MC 2-ABC513


Lời Chúa trong Chúa nhật thứ 2 mùa chay hôm nay rất phong phú và có nhiều ý nghĩa, nhưng tôi xin chia sẻ với ông bà anh chị em 2 điểm thôi.  Điểm thứ nhất là cho chúng ta biết bản tính và chân dung thật của Chúa Giê-su, và điểm thứ hai là con đường sứ mệnh của Người, qua đau khổ thì mới tới vinh quang.

Có một câu chuyện về người họa sĩ nổi tiếng.  Một buổi sáng khi mặt trời vừa lố dạng, ông đi bộ để tìm nguồn cảm hứng sáng tác. Khi đến một khúc quẹo, ông chợt nhìn thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Ông muốn vẽ lại khuôn mặt của em và nói với cậu bé rằng: “Này em, tôi muốn vẽ chân dung của em có được không ?” Cậu bé gật đầu đồng ý. Sau khi hoàn thành, họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng.” Ông treo nó ở phòng khách và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại được bình tĩnh. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng họa sĩ nhất định không bán.
Hai mươi năm sau, một hôm tình cờ họa sĩ nhìn thấy một người ăn xin ngồi bên vệ đường áo quần bẩn thỉu và có bộ mặt lì lợm nhưng đau buồn!  Họa sĩ xin người ăn xin làm người mẫu để ông vẽ một bức tranh và hứa sẽ cho ông một số tiền.  Người ăn xin lập tức đồng ý.  Khi bức tranh đã vẽ xong, người họa sĩ mời người ăn xin về nhà mình.  Khi vào phòng khách, người ăn xin nhìn bức tranh  “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, ông liền dừng lại im lặng nhìn vào bức tranh một lúc lâu, và hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Người ăn xin chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn nhỏ mà tôi nhớ là đã do chính tay ông vẽ. Hôm nay khuôn mặt của tôi đã biến dạng!” 

Sau đó, người ăn xin kể lại cuộc đời bất hạnh của mình.  Lúc còn nhỏ, vì cha mẹ quá chiều chuộc và bận bịu làm ăn không chú ý đến cho nên ham chơi bỏ học.  Lớn lên rơi vào tình trạng nghiện ngập, trộn cắp phạm pháp và sau đó vào tù.  Cha mẹ li dị, gia đình tan nát.  Bây giờ trong tình trạng bơ vơ ăn xin lại mang thêm bệnh lao phổi thời kỳ thứ ba.

Người họa sĩ rất xúc động khi nghe tâm sự của một người đã trót phung phí cả tuổi thanh xuân của mình, chỉ biết khuyên bảo hãy cố gắng ăn ở lương thiện và tặng cho người ăn xin một số tiền.  Ít lâu sau, người họa sĩ được tin người ăn xin đã chết cô đơn hẩm hiu tại một góc phố. 

Họa sĩ đã đặt tên bức tranh vẽ người ăn xin là “Hối tiếc đau buồn” và treo bên cạnh bức tranh “Tuổi thơ trong trắng.”  Ông thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là của một người. 

Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết chân dung thật của Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa vinh quang, và kêu gọi chúng ta hãy nghe lời Người dạy bảo.  Đó là chủ đích đời sống Kitô hữu của chúng ta.  Chúng ta phải xác tín vào Chúa Giê-su là nguồn ơn cứu chuộc và là sự sống lại của chúng ta.  Lời Chúa dạy đem lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc đời này và đời sau.  Vì thế, trong mùa chay thánh này, chúng ta phải chân thành lắng nghe và sống lời Chúa dạy như tổ phụ Abraham trong bài đọc 1 đã hết lòng xác tín, phó thác và vâng phục Thiên Chúa.  Bài đọc 2 kêu gọi chúng ta hãy tin vào tình thương vô bờ bến của Chúa, như lời thánh Phaolô khẳng định một cách chắc chắn rằng: “Một khi Thiên Chúa đã ban Con Một của Người cho chúng ta, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không ban tất cả cho chúng ta?”

Bài Tin mừng kể cho chúng ta câu truyện Chúa Giê-su hiển dung trước sự chứng kiến của 3 môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan.  Trong khi Chúa hiển dung, có hai nhân vật nổi tiếng của thời Cựu ước là Mô-sê và Ê-li-a, để làm chứng cho các môn đệ biết: Chúa Giê-su chính là Đấng Mô-sê đã đề cập đến trong sách Luật và các ngôn sứ đã dọn đường cho Người.  Trong lúc Chúa hiển dung, có tiếng Chúa Cha phán và xác nhận Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, và truyền cho các môn đệ hãy nghe lời Người, như lời phán tại sông Gio-đan khi Chúa chịu phép rửa.   Chúa hiển dung nghĩa là thế nào?  Có nghĩa là Chúa thay đổi hình dạng, tỏ lộ chân dung đích thực của Người cho các môn đệ biết Người là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.  Vì vậy mục đích của sự hiển dung là củng cố niềm tin của các môn đệ, và khích lệ các ông vững tâm đón nhận biến cố khổ nạn và phục sinh vinh quang của Người.   Và đây cũng là điểm thứ hai, qua đau khổ thì mới tới vinh quang.  Chúng ta thấy khi Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết về cuộc khổ nạn của Người thì các môn đệ không chấp nhận, vì thế qua sự kiện hiển dung này, Chúa cho các ông biết sau cuộc khổ nạn đau thương Người sẽ vinh quang như thế nào.  Nói tóm lại là muốn đến vinh quang thì phải trải qua một cuộc biến đổi trong thử thách đau khổ.

Đây cũng là bài học quan trọng và cần thiết trong cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta.  Chúa đã chọn con đường thập giá để đi đến vinh quang, Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta đi theo con đường Người đã đi như Chúa từng nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.”  Trong cuộc sống Ki-tô hữu, chúng ta sẽ phải đối diện và trải qua thập giá, những khó khăn, khổ cực và thiệt thòi khi cố gắng sống lời Chúa dạy và sống đức tin.  Hay khi chúng ta phải hy sinh, bác ái, quảng đại trong việc phục vụ xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa.

Giáo hội cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa biến hình trong vinh quang, để củng cố niềm tin của chúng ta vào Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa một cách vững vàng và sâu sắc hơn, và để cho chúng ta biết những việc lành phúc đức, những sự hy sinh phục vụ, cũng như lòng quảng đại và bác ái chúng ta làm sẽ là những của lễ làm sáng danh Chúa, và cũng sẽ nhận được vinh quanh của Chúa Giê-su nơi Quê Hương đích thực.  Xin Chúa củng cố đức tin để chúng ta đón nhận và vui mừng sống thánh ý Chúa trở thành những Ki-tô hữu đích thực.

-----------------------------------

-----------------------------------
 

MC 2-ABC514: HY LỄ

 

Trong nguyên ngữ, “Hy lễ” được giải thích là “Phẩm vật của con người dâng lên thần thánh để MC 2-ABC514


Trong nguyên ngữ, “Hy lễ” được giải thích là “Phẩm vật của con người dâng lên thần thánh để biểu lộ lòng tôn kính, cảm tạ, xin ơn và đền tội”. Trong Cựu ước, “Hy lễ” là những phẩm vật được dâng lên Thiên Chúa. Ví dụ: A-ben dâng lên Thiên Chúa của đầu mùa trong sách Sáng thế chương 4, câu 4 (Trích dẫn Từ điển Công giáo, Tr 449).

Khi nói đến “Hy lễ”, là nói đến sự chết. Khi dâng con cừu, con chiên, là người ta giết các con vật đó để dâng tiến thần linh, hay dâng tiến Thiên Chúa trong Cựu ước. Nói cách khác, qua hy lễ, con người dâng chính sự sống mình cho thần linh, nhưng vì con người không thể dâng chính mạng sống mình, nên người ta “mượn” sự sống của động vật được coi là tinh sạch để dâng thay.

Trong trình thuật về việc ông Áp-ra-ham dâng tiến I-sa-ac là con trai duy nhất (Bài đọc I), ông đã làm theo lệnh truyền của Chúa. Đức Chúa muốn thử thách sự vâng lời của ông. Ông đã hoàn toàn vâng theo ý Chúa, chấp nhận sát tế con trai duy nhất làm hy tế dâng kính Ngài.

Mùa Chay cũng được gọi là Mùa Thương khó. Giáo Hội kính nhớ cuộc khổ nạn của Đức Giê-su. Các hình thức đạo đức bình dân như ngắm sự thương khó Chúa Giê-su và ngắm đàng thánh giá giúp chúng ta sống lại những ngày cuối cùng của Chúa trên trần gian. Ngay từ thế kỷ đầu, Ki-tô giáo đã nhận ra và khẳng định tính hy lễ trong cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá. Vì thế, Hy lễ đích thực và duy nhất chính là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã hiến mình trên Thánh giá để xóa tội trần gian (x. Dt 10,11-14). Hy lễ này hoàn thiện và thay thế mọi hy lễ xưa, và vẫn còn tái diễn mỗi ngày nơi Thánh lễ (Trích Từ điển Công giáo, Tr 499).

Việc ông Áp-ra-ham đưa con mình lên núi với ý định sát tế dâng lên Thiên Chúa, dưới lăng kính Ki-tô giáo, được suy tư như hình bóng về việc Đức Giê-su chịu chết trên đồi Can-vê. Như cậu bé I-sa-ac âm thầm vác bó củi lên núi, Chúa Giê-su mang thập giá trên vai từng bước leo lên Núi Sọ. Trên cây thập giá, Chúa Giê-su vừa là Tư tế, vừa là Của lễ. Với hy tế thập giá, của lễ dâng lên Thiên Chúa không còn là máu bò máu chiên hay những vật phẩm trần tục khác, mà là chính Con Thiên Chúa. Thánh Phao-lô sau này suy tư: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Bài đọc II).

Đức Giê-su dâng cuộc đời mình làm hy tế vì yêu mến và vì trung thành với Chúa Cha. Cái chết trên thập giá là đỉnh cao của Hy tế này. Tuy vậy, trọn vẹn cuộc sống trần gian của Đức Giê-su đều mang giá trị hy tế. Bởi lẽ Người làm mọi sự đều tuân theo ý Chúa Cha, mà hy lễ cao cả nhất là vâng phục và thi hành ý của Chúa Cha. Tác giả thư gửi giáo dân Híp-ri đã viết: “Đức Ki-tô đã nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó là chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: ‘Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài’. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới” (Dt 10,8-9). Trình thuật Chúa biến đổi hình dạng trên núi cao, vừa báo trước cuộc khổ nạn của Người, vừa khẳng định với ba môn đệ về sứ mạng Thiên sai mà Chúa Cha trao phó cho Đức Giê-su. Chúng ta chú ý chi tiết “trên núi”. Chi tiết này giúp ta liên tưởng đến việc ông Áp-ra-ham đưa con mình lên núi với ý định sát tế hiến dâng cho Thiên Chúa.

Nhiều người đặt câu hỏi: vậy ngày nay có còn hy lễ dâng lên Thiên Chúa không? Thưa, ngày nay, không còn hy lễ theo cách thức thời Cựu ước, tức là không dâng lên Thiên Chúa chiên bò hay các phẩm vật trần gian. Hy lễ của Đức Giê-su được gọi là “Hy lễ mới”. Trên cây thập giá năm xưa, Chúa Giê-su đã dâng hiến chính bản thân Người, làm hy lễ xá tội cho toàn thể nhân loại. Tác giả thư Híp-ri viết: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10,10). Trong Thánh thi chầu Mình Thánh (Tantum ergo), chúng ta hát: “Phụng vụ xưa phải được thay, này đây nghi lễ mới…”

Mùa Chay là mùa canh tân đổi mới cuộc đời. Những thực hành truyền thống của Mùa Chay là cầu nguyện, chay tịnh, chia sẻ giúp chúng ta góp phần mình vào hy tế của Đức Giê-su. Hơn nữa, hy lễ mà Ki-tô hữu hôm nay cũng như ở mọi thời đại dâng lên Thiên Chúa chính là con người và đời sống của mình, kết hợp với hy lễ duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô. Thánh Phao-lô đã mời gọi tín hữu Rô-ma: “Tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12,1). Nhờ Bí tích Thanh tẩy, mỗi chúng ta đều có chức Tư tế (chức Tư tế cộng đồng), để dâng lên Chúa chính bản thân mình cùng với những thành công, thất bại trong cuộc đời.

Ngày hôm nay, đối với Ki-tô hữu, lễ toàn thiêu cũng như các hy lễ của Cựu ước không tồn tại nữa. Tuy vậy, mỗi lần dâng thánh lễ, là hy lễ của Đức Giê-su năm xưa lại trở thành hiện tại với chúng ta. Đức Giê-su tự hiến trên bàn thờ, qua tay của vị linh mục chủ lễ, cũng một thể thức như xưa Người đã dâng mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay giúp chúng ta góp phần vào hy lễ của Chúa, đem lại sự an bình nội tâm cho bản thân và góp phần mang lại niềm vui cho đồng loại.

+ ĐTGM Giu-se Vũ Văn Thiên

--------------------------------
 

MC 2-ABC515: CÓ THẬP GIÁ, NHƯNG SẼ CÓ PHỤC SINH

 

Câu chuyện Chúa hiển dung trên núi, để trọn vẹn ý nghĩa, cần suy niệm trong bối cảnh của những MC 2-ABC515


Câu chuyện Chúa hiển dung trên núi, để trọn vẹn ý nghĩa, cần suy niệm trong bối cảnh của những gì xảy ra trước đó.

Đó là thời điểm của sáu ngày trước, khi Chúa Giêsu loan báo cho môn đệ, tại Giêrusalem, Chúa sẽ "chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ lão, các trưởng tế và các luật sĩ hành hạ, bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại" (Mc 8,31).

Loan báo này khiến môn đệ, trong đó có thánh Phêrô chao đảo, lo âu, hoảng sợ. Thánh nhân từng can ngăn Chúa đừng nộp mình để đến nỗi Chúa phải nặng lời: "Satan, lui ra phía sau Thầy" (Mc 8, 33). Thánh Phêrô nói riêng, đoàn môn đệ nói chung, phủ nhận việc Chúa bị bắt bớ, bị giết hại.

Các môn đệ không tưởng tượng nổi, Đấng Messia lại nếm trải đau khổ, thất bại, chết chóc. Họ trông đợi Đấng Messia quyền năng, mạnh mẽ, thống trị, trong khi Chúa trình bày cho họ về chính Chúa, Đấng Messia đích thực chỉ là đầy tớ, luôn phục tùng mệnh lệnh Chúa Cha, hy sinh bản thân, hy sinh mạng sống, phải bị sĩ nhục, bị ruồng bỏ, bị đánh đập, bị giết chết, bị đổ máu thảm khốc...

Làm sao có thể tưởng tượng nổi, người Thầy của mình lại rơi vào hoàn cảnh khủng khiếp đến như vậy? Làm sao có thể chấp nhận được hình ảnh người Thầy đầy quyền phép trong hành động (bao nhiêu phép lạ, bao nhiêu sự chữa lành mà chính các ông chứng kiến), đầy uy nghi của một Bậc Thầy trong giảng dạy, lại có thể chịu những bi đát đến tột cùng như vậy?

Các môn đệ cần một lời giải thích, một câu trả lời về lòng tin và cho lòng tin của chính họ. Vì thế, qua cuộc hiển dung, Chúa củng cố lại cái nhìn về Chúa, củng cố hình ảnh của Đấng Cứu Thế là chính Chúa nơi tâm hồn và suy nghĩ của các môn đệ.

Cuộc hiển dung hôm nay bao hàm tất cả những ý nghĩa ấy. Nhờ câu trả lời đến từ cuộc hiển dung, Chúa Giêsu dạy môn đệ đoàn hiểu rằng:

- Theo Chúa không phải là theo vị lãnh đạo trần thế, như là theo Đấng đến từ trời cao.

- Theo Chúa không nhằm thỏa ước mơ bá quyền, chính trị, "ăn trên ngồi trốc", nhưng là theo Đấng mà cuộc sống của Đấng ấy đầy bấp bênh, "con chồn có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu".

- Theo Chúa không bao giờ là theo một người chỉ biết hưởng thụ, chỉ biết chăm cho cuộc sống riêng của bản thân, nhưng là theo Đấng "đến chỉ để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người".

- Theo Chúa, các môn đệ phải hiểu rằng, Chúa là Con Thiên Chúa nhưng trở thành Tôi Tớ, được Cha sai đến thực hiện công cuộc cứu độ nhờ Thập giá, hoàn toàn theo ý Cha định. Chính trong sự hoàn toàn gắn bó, sống chết cho thánh ý Cha, thân xác của Chúa hôm nay, và thân xác phục sinh trong nay mai mới được bù đắp, mới vinh quang, tỏa rạng, sáng ngời.

Chính vì thế, cuộc hiển dung hôm nay là lời dạy về niềm xác tín sẽ có thập giá và cũng sẽ có phục sinh. Đúng hơn, đây là cuộc thần hiện phục sinh diễn ra trước ngày phục sinh.

Vậy, làm sao ta có thể cùng Chúa Giêsu tham dự vào vẻ đẹp hiển dung? Đó là thực hành lời Chúa Cha dạy: “Hãy vâng nghe lời Người”. Vâng nghe lời Chúa Kitô bằng cách học gương vâng phục và theo sát Chúa Kitô của Đức Mẹ.

Chúng ta hãy thực hiện điều mà Đức Cố Giáo hoàng Bênêđictô đã từng dạy: Đây cũng là điều quyết tâm của chúng ta trong mùa Chay: "Lắng nghe Chúa Kitô, theo gương Mẹ Maria. Chúng ta hãy lắng nghe Chúa, qua Lời được ghi lại trong Sách thánh. Chúng ta hãy lắng nghe Chúa qua những diễn biến của cuộc đời, bằng cách đọc thấy qua đó những sứ điệp của Đấng quan phòng. Sau cùng, chúng ta hãy lắng nghe Chúa nơi các anh chị em, cách riêng những người bé nhỏ và nghèo khổ: qua họ Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta thực hiện những hành động yêu thương cụ thể. Lắng nghe Chúa Kitô và tuân theo tiếng của Ngài, đó là quan lộ, con đường duy nhất dẫn đến niềm vui và tình thương dạt dào".

Học lắng nghe Lời Chúa trong suốt hành trình đời sống như Đức Mẹ, là từng ngày, từng ngày, chúng ta tham dự và nên một với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm hiển dung vinh hiển của Chúa. Đó cũng là cách ta sống và từng bước hòa vào cuộc phục sinh vinh thắng của Chúa Giêsu, khởi đi từ chính cuộc sống hàng ngày của ta nơi dương thế cho đến ngày ta toàn thắng với Chúa trong hồng ân của đời vĩnh cửu.

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

-----------------------------------
 

MC 2-ABC516: THIÊN TÍNH HIỂN VINH CỦA CHÚA GIÊSU

 

Trong khi bài Tin Mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay tuần trước nói về việc Chúa Giêsu vào trong MC 2-ABC516


Trong khi bài Tin Mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay tuần trước nói về việc Chúa Giêsu vào trong sa mạc và chịu Satan cám dỗ, thì bài Tin Mừng Chúa nhật thứ hai Mùa Chay hôm nay đưa chúng ta lên núi với Chúa Giêsu để chiêm ngắm vinh quang của Ngài. Câu chuyện được Thánh Máccô kể lại. Sách Tin Mừng của Thánh Máccô là cuốn ngắn nhất trong ba sách Tin Mừng nhất lãm, các trình thuật thường ngắn gọn, thậm chí bất ngờ khi chuyển từ cảnh này sang cảnh khác. Trình thuật cuộc Biến Hình của Chúa Giêsu cũng ngắn gọn, bất ngờ như vậy. Thánh Máccô cho chúng ta thoáng thấy Chúa Giêsu trong vinh quang của Thiên Chúa.

1. Thoáng thấy Chúa Giêsu trong vinh quang của Thiên Chúa.

Trong trình thuật cuộc biến hình này, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Ba vị tông đồ này không biết điều gì sắp xảy ra. Rất có thể, trên đường đi các ông đã than phiền âm thầm trong lòng và thắc mắc tại sao lại phải leo lên núi như thế. Đang vất vả leo núi bỗng đột nhiên ba vị tông đồ đứng sững lại, không thể bước tiếp, một cảnh tượng phi thường xảy ra khiến họ chấn động và kinh hãi tận cùng. Trước mặt họ là vẫn là Chúa Giêsu, nhưng “Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9:2). Ngài đã biến đổi thật lạ lùng, tràn ngập vinh quang.

Thánh sử Máccô đưa vào một chi tiết nhỏ mà hai Tin Mừng Nhất Lãm khác - Mátthêu và Luca - không nói đến. Mặc dù nội dung của câu chuyện đều giống nhau trong cả ba sách Tin Mừng, nhưng Thánh Máccô thuật lại rằng y phục của Chúa Giêsu “trở nên rực rỡ, trắng tinh” và nói thêm rằng “không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9:3). Máccô có lẽ đang cố gắng truyền tải bản chất phi thường của khung cảnh, nghĩa là nằm ngoài kinh nghiệm bình thường, vượt xa những gì con người chúng ta có thể tưởng tượng.

Leo lên Núi Chúa là biểu tượng cho cuộc hành trình của chúng ta hướng về Thiên đàng. Để đến được Thiên đàng, vốn là một cõi cao vời, người ta cần phải tập trung nỗ lực, cam kết quyết tâm tránh xa và buông bỏ những lối nghĩ thực dụng, những cách ăn nói vô bổ, những thói tật thường ngày trong cuộc sống. Thị kiến này là một lời hứa về những gì sẽ đến; một thị kiến nâng đỡ chúng ta trải qua Mùa Chay cuộc đời và hướng chúng ta đến Vinh Quang của Thiên Chúa trong sự Phục Sinh huy hoàng của Chúa Kitô.

2. Chúa Giêsu là Đấng hoàn tất lề luật và các lời tiên tri.

“Ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu” (Mc 9:4). Hai nhân vật trong Cựu Ước này đại diện cho Lề luật và các Ngôn sứ mà người Do Thái thường viện dẫn từ Sách Thánh của họ. Môsê, vị lãnh đạo vĩ đại đã đem Lề luật của Thiên Chúa  từ đỉnh núi Sinai xuống cho dân, và Êlia, vị Đại tiên tri, xuất hiện ở đó ngay trước mặt các ông, đàm đạo với Chúa Giêsu. Qua cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với Môsê và Êlia, thánh sử có ý nói Chúa Giêsu là Đấng hoàn tất lề luật và các lời tiên tri, là Đấng Mêsia mà dân Israel trông đợi.

Linh mục David Neuhaus, SJ, bề trên Dòng Tên tại Thánh địa và là giáo sư tại Học viện Giáo hoàng về Kinh thánh ở Giêrusalem viết: “Kitô hữu chúng ta nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia bởi vì Ngài tập hợp tất cả niềm hy vọng về một vị vua mới, một vị tư tế mới, một vị tiên tri mới, nơi con người của Ngài và là hiện thân của lòng trung thành của Thiên Chúa với những lời hứa của Ngài. Chính bằng ngôn ngữ của những lời hứa này mà người ta viết về Chúa Giêsu và vì thế không có gì ngạc nhiên khi chúng ta có thể nhận ra Ngài giữa những hàng chữ của Cựu Ước và trong các dòng chữ của Tân Ước.” (https://www.vaticannews.va)

Phêrô, thay mặt cho hai môn đệ kia: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!” (Mc 9:5). Đây là một ví dụ khác về những khác biệt nho nhỏ giữa ba sách Tin Mừng Nhất Lãm, cho chúng ta biết điều gì đó về cách các tác giả Tin Mừng nhìn nhận Chúa Giêsu như thế nào. Trong Mátthêu, Phêrô xưng hô với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!” (Mt 17:4), cũng là từ ngữ mà hai người mù ngồi ở vệ đường sử dụng khi kêu lên: “Lạy Ngài, lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương chúng tôi” (Mt 20:30). Trong Thánh Luca là “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!” (Lc 9:33). Như thế, cách thưa của Phêrô với Chúa Giêsu bộc lộ sự tôn kính dành cho một nhân vật đáng kính. Trong khi đó, Máccô và Luca muốn coi Chúa Giêsu là một Rábbi, Thầy dạy vĩ đại, một nhà Lãnh đạo tôn giáo.

Tôi có như Thánh Phêrô dành cho Chúa Giêsu một sự tôn kính hết mực không,  hoặc như kẻ mù lòa kêu cầu vị lương y Giêsu thần linh chữa lành đôi mắt tâm hồn tăm tối không? Tôi có nhận Chúa Giêsu là Thầy dạy, là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6) dẫn đưa vào ánh sáng rực rỡ của chân lý không?

3. Niềm vui phấn khởi được chứng kiến cuộc biến hình.

Điều gì diễn ra trong đầu Phêrô? Ông đang cảm nhận điều gì? Ông thoáng cảm nhận được vinh quang và sự huy hoàng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu, cho đến lúc này vẫn che giấu thiên tính của mình, đã vén bức màn lên một cách nhẹ nhàng, và bản tính Thiên Chúa của Ngài chiếu sáng hơn bất cứ điều gì mà thế giới này có thể có. Phêrô, Giacôbê và Gioan không biết phải nghĩ thế nào, nói năng ra sao. Thế là Phêrô buột miệng thốt lên rằng: “Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9:5). Ông muốn ở lại trong cảm nghiệm đó mãi mãi.

Vậy tại sao Chúa Giêsu lại ban cho các Tông đồ kinh nghiệm thoáng qua này về vinh quang của Ngài? Bởi vì các ông cần phải nhớ mãi cảm nghiệm siêu nhiên này, nhớ mãi số mệnh cuối cùng của mình, cần phải giữ chặt kinh nghiệm này để có thể đi tiếp con đường sứ mệnh có rất nhiều thập giá và đau khổ phía trước. Và các ông sẽ sử dụng kinh nghiệm này để nhắc nhở bản thân rằng bất cứ điều gì họ phải chịu đựng trên hành trình theo Chúa Kitô đều đáng giá. Bởi vì trên đỉnh núi sẽ là vinh quang lớn lao đến mức không có khó khăn nào các ông phải chịu đựng có thể được coi là quá lớn. Chúa Giêsu cũng muốn gửi thông điệp đó cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta tin tưởng và suy ngẫm kinh nghiệm các Tông đồ đã có để chúng ta cũng có thể sẵn lòng tiếp tục cuộc hành trình theo Ngài, vốn không thiếu những gian nan.

Trong Mùa Chay, chúng ta suy ngẫm Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, nhưng không dừng lại ở đó, vì chính vinh quang của Thiên Chúa, được tỏ lộ qua sự Hiển Dung của Chúa Giêsu, mới khiến cho những thập giá mà chúng ta chịu đựng trở nên đáng giá. Chúa Giêsu muốn khích lệ chúng ta đừng bao giờ quên rằng vinh quang đó đã được Ngài hứa ban cho tất cả những ai sẵn lòng bước theo Ngài.

4. Tham dự vào thiên tính của Đấng đã thông phần nhân tính của chúng ta.

Một chi tiết khác của Máccô khi thánh sử giải thích về Phêrô và các môn đệ: “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Các ông vừa mới được thoáng nhìn thấy và cảm nhận được vinh quang và vẻ huy hoàng của Chúa Giêsu. Thiên tính của Chúa Giêsu tỏ lộ, chiếu sáng hơn bất cứ điều gì mà thế giới này có thể có. Chính vì thế, các ông kinh hoàng, bị choáng ngợp và thất thần đến độ không biết phải nói gì, có lẽ hơn bất cứ sự sửng sốt nào mà các ông từng trải qua trước đây: “Khi các ông thấy Ngài đi trên mặt biển... “Các ông cảm thấy bàng hoàng sửng sốt” (Mc 6:49-51). Điều này mang lại cho chúng ta cảm giác gần gũi với các môn đệ khi các ông bộc lộ tính người của các ông. Trong Cựu Ước, khi Môsê xin với Chúa “Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài” (Xh 33:18) thì chính Thiên Chúa trả lời cho ông: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33:20). Ở đây, Phêrô và các môn đệ vẫn sống, nhưng không thể không kinh hoàng. Chắc hẳn Chúa Giêsu, dù tỏ lộ Thiên tính uy nghi của Ngài, vẫn cho thấy Ngài đầy lòng xót thương đối với các môn đệ phàm nhân mà Ngài kêu gọi theo Ngài, vẫn giữ cho các ông được sống.

Còn tôi thì sao? Đã bao lần tôi tham dự Thánh lễ, thậm chí tiến lên rước chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trên miệng lưỡi của mình, với tâm hồn chưa chuẩn bị chu đáo, tôi có nghĩ tới Lời Thiên Chúa nói với Môsê không: con người không thể thấy Ta mà vẫn sống? Tôi vẫn còn sống và sống dồi dào hơn nữa, nhưng tôi có biết cúi mình thẳm sâu và kêu lên: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Ngài” (Tv 130: 3-5).

Còn hơn thế nữa, điều này khiến người ta liên tưởng đến những khoảnh khắc chỉ diễn ra trong vài phút nhưng dường như kéo dài vô tận khi thời gian dường như ngừng lại. Biến hình là một trải nghiệm cá nhân độc đáo khi chúng ta được sự hiện diện của Thiên Chúa chạm đến, ban tràn ngập ân sủng. Đó là một khoảnh khắc biến đổi sâu sắc và giải phóng người lãnh nhận khỏi mọi thứ phàm trần. Cuộc Biến Hình trên Núi Tabor cực kỳ đặc biệt bởi nó cho thấy trước “ngày của sự Phục sinh, “ngày thứ nhất” của cuộc sáng tạo mới, mà hoa trái đầu tiên là nhân tính được phục sinh của Chúa, bảo chứng cho việc biến hình cuối cùng của tất cả thực tại thụ tạo” (Laudato Si’, số 237). Những khoảnh khắc thiêng liêng được cho không như thế có thể được chuẩn bị bằng cuộc sống vâng theo Lời Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài” (Mc 9:7). Chúng ta vâng nghe Lời Chúa Giêsu mỗi khi chúng ta tuân theo Lề Luật và Giao ước của Thiên Chúa và lắng nghe lời của các chủ chăn trong Giáo Hội mà Ngài gửi đến cho chúng ta. Khi ấy chúng ta sẽ cảm nghiệm được ánh sáng chiếu soi trong tâm trí và linh hồn, dù thoáng qua, biểu lộ quyền năng uy nghi cao vời của Thiên Chúa. Những khoảnh khắc biến đổi này vẫn được cảm thấy trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta: một “khoảnh khắc vỡ òa” khi ngạc nhiên khám phá ra một điều gì đó đẹp đẽ tinh tế nơi thiên nhiên; một cái chạm nhẹ nhàng của bàn tay cảm thông trong lúc đau đớn, buồn phiền; cảm xúc sốt sắng thiêng liêng sau một cuộc tĩnh tâm hoặc sau một lần xưng tội thành tâm. Vào những khoảnh khắc như vậy, khuôn mặt của chúng ta như ngời sáng, như được bước vào cõi thánh thiêng. Nếu cuộc tiếp xúc với điều thánh thiêng đã ngời sáng như vậy thì việc chiêm ngắm Dung Nhan Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13:12) còn phải huy hoàng hơn biết bao nhiêu?

Mùa Chay mời gọi chúng ta cùng Chúa Giêsu bước vào cuộc chiến đấu thiêng liêng gian khổ, nhưng cũng mời gọi chúng ta nâng tâm trí và linh hồn lên tới Chúa Giêsu để nhận ra Thiên tính rực rỡ vinh quang của Ngài. Nhờ đó chúng ta được củng cố trong cuộc hành trình trần gian nhiều bóng tối, luôn biết hướng về cùng đích hiển vinh trong sự Phục Sinh của Chúa Kitô.

Phêrô Phạm Văn Trung

-----------------------------------
 

MC 2-ABC517: CHẾT ĐỂ SỐNG

 

Bước vào Chúa nhật thứ hai mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội trình bày cho đức tin và lòng vâng phục MC 2-ABC517


Bước vào Chúa nhật thứ hai mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội trình bày cho đức tin và lòng vâng phục tuyệt đối vào Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham. Nhờ vâng lời và tin vào Chúa, ông sẵn sàng sát tế con duy nhất của mình là I-sa-ác Thiên Chúa đã ban cho ông, nên ông được Chúa chúc phúc và thưởng công.

Thánh Phao-lô tin rằng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta, vì Ngài thương chúng ta, đến nỗi ban Con Một chịu chết và sống lại, để cho chúng ta là những kẻ phải chết vị tội được sống.

Tin Mừng mô tả cho chúng ta cảnh đẹp lộng lẫy biến hình của Chúa Giê-su, có Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an làm chứng: “Chúa Giê-su đã biến hình trước mặt các ông và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết” (Mc 9,2-3).

Sát tế con duy nhất lại có được dòng dõi trường tồn

Được Thiên Chúa gọi mời, Áp-ra-ham đã đáp lại tiếng Chúa từ bỏ quê hương xứ sở lên đường theo Chúa. Tuy nhiên, không một thử thách nào nặng nề hơn thử thách Chúa lệnh cho ông: “Ngươi hãy đem I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Mô-ri-gia, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 22, 2). Chúa yêu cầu ông làm một việc quá sức và trí khôn ông. Bởi I-sa-ác là đứa con được Chúa hứa ban cho ông bà khi tuổi đã già.

I-sa-ác, kẻ nối dõi tông đường (x.St 21,12) nay Chúa lệnh sát tế. Lệnh Chúa truyền như phản ngược lại với Lời Chúa hứa. Phải chăng lưỡi dao oan nghiệt giáng xuống trên I-sa-ác sẽ có được dòng dõi trường tồn sao? Áp-ra-ham đã không thể nào nghĩ khác được. Nhưng ông không do dự, chần chừ. Và đây đã tới đỉnh cao, nơi cử hành hy lễ, ông giơ tay, cầm dao, sẵn sàng giết con, người con duy nhất mà hơn ai hết, ông biết rõ nếu chết đi là ông mất tất cả.

Thái độ dứt khoát và hành động quyết liệt của Áp-ra-ham, tự nó nói lên trọn vẹn niềm tin của ông vào Ðấng không muốn sự chết nhưng muốn sự sống. Việc Chúa đòi ông hy sinh con một chứng tỏ Chúa hoàn toàn làm chủ sự sống. Bởi Chúa là Sự Sống, Ngài có quyền trao ban sự sống và có quyền đòi lại. Thiên Chúa đã trao I-sa-ác cho Áp-ra-ham, bây giờ đòi lại sự sống đó, dù Chúa đã cam kết: I-sa-ác sẽ khởi đầu của một miêu duệ đông đảo. Sự đòi hỏi bất thường này chỉ nhằm nói lên khả năng của Thiên Chúa làm được những việc đối với ta xem là nghịch lý: khơi dậy sự sống từ cái chết.

Vâng lệnh Chúa sát tế con mình, Áp-ra-ham không thể không cảm thấy lòng mình bị xâu xé vì mối tình phụ tử. Nhưng ông đã tuân theo ý Chúa với niềm tín. Đức tin đã biến đổi đời ông. Từ việc sát tế con duy nhất, dân tộc thánh được phát sinh.

Chết để sống

Trước khi biến hình, Chúa Giê-su đã thăm dò ý kiến chung, liền sau đó loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giê-ru-sa-lem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Và Phê-rô đã muốn biến cái tạm thời thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.

Biến cố biến hình còn cho các môn đệ niềm hy vọng là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc, cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục sinh hân hoan.

Xin ơn biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần

Chúa biến hình, báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy Ánh Sáng nhiệm mầu của Chúa hiện diện trong lịch sử cứu độ. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giê-su biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Nếu như sau khi chịu phép rửa nơi sông Gio-đan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giê-su vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13), thì giờ đây chúng ta cũng phải xin Chúa Thánh Thần trợ giúp.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta biết biến đổi. Nhưng để biến đổi đâu có dễ, cần phải ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay, đặc biệt là xin Ngài biến đổi.

Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người khô khan biếng trễ xưng tội rước lễ, lười đi nhà thờ bỏ lễ Chúa nhật thành người đạo đức thánh thiện và siêng năng. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự mãn thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Chúa Thánh Thần đã biến đổi các giác quan của các tông đồ, họ mới có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa của Chúa Giê-su. Cặp mắt được đổi mới, các ông mới nhìn rõ hơn những gì tỏa sáng, tai được biến đổi để nghe rõ hơn tiếng nói tuyệt vời và có thật: là tiếng nói của Thiên Chúa Cha, Đấng hài lòng về Con yêu dấu của Ngài.

Chúng ta cũng thế, hãy để Chúa Thánh Thần tác động mới mong được biến đổi, giác quan của chúng ta mới có thể nhìn thấy và nghe được những điều kỳ diệu và vui mừng trong Thiên Chúa cùng với hàng ngũ các thánh đã được Chúa Giêsu phục sinh từ trong cõi chết. Để được biến đổi chúng ta hãy vâng nghe lời Chúa Áp-ra-ham và không ngừng cầu nguyện.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con. Xin biến đổi con mắt, môi miệng và lỗ tai con, để con biết thấy cái hay cái đẹp của tha nhân, biết nói lời hay lẽ phải, biết nghe Lời Chúa, và nhất là thực hành Lời Chúa dạy. Amen. mục lục

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

-----------------------------------
 

MC 2-ABC518: SỐNG VỚI THIÊN CHÚA - NGHE LỜI ĐỨC KI-TÔ

 

Thánh Mác-cô đã đặt trình thuật Hiển dung của Đức Giê-su trong tương quan với việc Người công MC 2-ABC518


bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn và giáo huấn cho các môn đệ là phải vác thánh giá theo Người (x. Mc 8,31-38). Việc này đã vấp phải sự không hiểu nơi các ông và khiến họ kinh hoảng. Thái độ ấy của các ông xuất phát từ một quan niệm mang màu sắc chính trị về Đấng Mê-si-a, cũng như từ những mơ ước quá ư trần tục của những kẻ đang mãi chôn chân trong cõi thế gian này. Để giúp họ chịu lắng nghe và chấp nhận những lời khó nuốt của Người cũng như để nâng lòng họ lên cao hơn, hướng về một thế giới siêu việt, Đức Giê-su đã thực hiện trước mắt ba chứng nhân cuộc Hiển dung (Biến hình) sáu ngày sau đó.

            1. Sống đời “âm thanh nổi”

            Cho tới nay, Tin Mừng vẫn dìm ta trong cuộc sống thông thường nhất. Ở đây trái lại, tất cả đều huyền hoặc. Một Đức Giê-su mặc áo vinh quang trắng tinh, sự tương nhập giữa các thời đại, đám mây thần linh tuyên phán : “Hãy vâng nghe Người”. Và cuối cùng là một chỉ thị của Đức Giê-su dìm các môn đệ vào cơn bối rối, nghĩa là lối nói “từ cõi chết sống lại.”  Mỗi lần câu chuyện này trở lại (Chúa nhật Thứ hai Mùa Chay cả ba năm A, B, C), chúng ta lại tự đặt câu hỏi : tất cả những cái đó muốn nói lên điều gì ? Chúng ta được đưa vào một thế giới khác. Nơi Mô-sê và Ê-li-a có thể trò chuyện với Đức Giê-su, nơi chúng ta tới gần Cha trên trời, nơi nhắc đến một thực tại diệu kỳ và mầu nhiệm : sự phục sinh.

            Cuộc Hiển dung phải chăng là một trang để mơ mộng ? Một phụ bản lộng lẫy nằm ngoài rìa thực tế ? Không, đó cũng là thực tế của chúng ta, chúng ta thuộc về hai thế giới có thực như nhau. Chúng ta là những kẻ xuyên tường.

            “Các anh, những Ki-tô hữu, một người lương từng nhận xét, các anh sống trong âm thanh nổi (stéréo)”. Gần như vậy. Lắng nghe cuộc sống dưới thế này, đôi lúc chúng ta cũng nối mình với những làn sóng khác : Kinh thánh, một sách tu đức, điều Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong một giờ cầu nguyện thinh lặng. Cái khó khăn là hòa hợp các thông tin ấy. Hôm nay chẳng hạn, người ta có thể nghe trình thuật Hiển dung cách khá lơ đãng : nếu thế thì đời ta thay đổi được gì ?

            Vậy nếu chúng ta có đức tin khá mạnh mẽ để sống mọi chân trời của đời mình, chúng ta sẽ chẳng bao giờ để mình bị khép kín trong cuộc sống trần gian đây. “Chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, để sự sống của Đức Ki-tô cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng ta. Chúng ta sống, nhưng không còn phải là chúng ta, mà là Đức Ki-tô sống trong chúng ta, một đời sống trong trắng, thanh tịnh, đơn sơ và đủ mọi nhân đức. Chúng ta đã sống lại với Đức Ki-tô, nên hãy sống trong Người, hãy tiến lên trong Người, để ở dưới đất này, con rắn không thể cắn vào gót chân chúng ta được nữa. Chúng ta hãy trốn khỏi nơi này. Tinh thần bạn có thể trốn xa, dù thân xác bạn bị cầm giữ. Bạn có thể vừa ở đây vừa ở trước mặt Thiên Chúa, nếu linh hồn bạn vẫn gắn bó cùng Người, nếu trong tâm tưởng, bạn vẫn tiếp bước sau Người, nếu nhờ đức tin, chứ không cần mắt thấy, bạn vẫn đi theo Người, và nếu bạn cứ ẩn thân nơi Người. Người quả là nơi nương náu, là sức mạnh như vua Đa-vít nói : Con ẩn náu nơi Ngài và con không phải thất vọng” (T hánh Ambrôsiô, Khảo luận “Xa tránh thế gian”). Chúng ta sẽ bỏ sự đơn điệu, các lo âu và thậm chí các niềm vui của cuộc sống đời này để lắng nghe tiếng nói của Mô-sê, của Chúa Cha và của Đức Giê-su.

            2. Lắng nghe “Đấng duy nhất”

            Nhưng dẫu là tiếng của Mô-sê, của Chúa Cha hay của Đức Giê-su, cả ba tiếng nói chỉ là một, cả ba hướng về, cô đọng, hội tụ và nên viên mãn nơi kẻ nhận được tự đám mây lời tuyên phán : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Ý tưởng “độc nhất vô nhị”, “một mình” này được Mác-cô diễn tả bằng nhiều cách ; trước hết nơi câu khai mở : “Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình... riêng ra một chỗ”, rồi nơi câu kết thúc trình thuật : “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi”… rồi trong nhiều chi tiết của trình thuật.

            Người ta có cảm tưởng đây là một cảnh khai tâm, kết nạp, chỉ dành riêng cho ba kẻ thân tín mà Đức Giê-su cũng sẽ đem theo với mình vào vườn Ghétsêmani. Chỉ thị “giữ im lặng” thường thấy nhưng nay lại nghiêm khắc hơn nữa càng làm tăng bầu khí bí mật này : “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy”. Phải bảo vệ nguyên tuyền một mầu nhiệm mà người ta chỉ có thể tiếp xúc sau một cuộc leo núi vất vả : “Người đem họ... tới một ngọn núi cao”.

            Mầu nhiệm được đích thân Thiên Chúa mạc khải : “Con người mà mà các ngươi sống với, nghe tiếng, cảm phục, song lại khiến các ngươi hết sức ngỡ ngàng, đó chính là Con của Ta !” Sự xuất hiện của Ê-li-a và Mô-sê nói lên một điều khác : con người ấy đúng là Đấng được đoan hứa, Đấng được đợi chờ, Điểm đến của tất cả lịch sử. Trước Người, nhiều kẻ đã nói, nhưng Người là Lời chung quyết, độc nhất vô nhị. Chính vì thế Người hoàn toàn nổi bật một mình, duy nhất trên đỉnh cao. Nhưng đồng thời nơi Người cũng có nhiều sự hiện diện. Hướng về Chúa Cha và được Thánh Thần cư ngụ, Người bày tỏ sự sống Ba Ngôi, thế giới của Thiên Chúa. Nơi Người cũng cư ngụ thế giới của Kinh Thánh nữa : “Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ” (Lc 24,27).

            Nơi Người rung lên các hy vọng và đau khổ của nhân loài : Người chuẩn bị đi vào biến cố sẽ cứu tất cả họ : cuộc tử nạn-phục sinh của Người. Và nếu nhìn xa hơn, cho đến tận thế, chúng ta sẽ thấy Đức Giê-su xuất hiện “đầy quyền năng” (Mc 9,1) như Lời Thiên Chúa, như Con Người, quy tụ hết thảy chúng sinh trước mặt các thiên thần, khai mạc trời mới và đất mới.

            Chiêm ngưỡng Đức Giê-su trong sự viên mãn độc nhất vô nhị như thế, chúng ta sẽ nhận được một mệnh lệnh-lời khuyên mà có lẽ chúng ta đã không thấy là hết sức mạnh mẽ : “Hãy vâng nghe lời Người !” Chỉ thị duy nhất của Chúa Cha mà ta hầu như nhận trực tiếp. Chỉ thị đó có thể quyết định vận mạng của chúng ta.

            Khi nghe Đức Giê-su thì chúng ta nghe nhân vật nào ? Hãy trở về với cuộc chiêm ngưỡng, hãy ở lại trong cuộc chiêm ngưỡng. Càng thấy Đấng chúng ta nghe, các buổi gặp gỡ của chúng ta càng trở thành niềm vui cũng như càng mở rộng cuộc sống chúng ta.

            Một trong những bức họa nổi tiếng nhất của Raphel là bức “Chúa biến hình” (1518-1520) trưng bày trong viện bảo tàng Vatican. Bức họa có ba cấp. Cấp trên cùng là Đức Ki-tô đứng trên cụm mây, có Mô-sê và Ê-li-a chầu hầu. Khuôn mặt và hình dáng Người sáng chói. Ở cấp thứ hai, chúng ta thấy Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đang ngã dụi. Họ thay mặt cho những kẻ trên đường đến với Chúa. Cấp dưới cùng, tô mầu sậm, một nhóm môn đệ và một gia đình vây quanh một thiếu niên bị động kinh (x. Mc 9,14-29). Một môn đệ chỉ tay vào cậu bé bệnh hoạn, một môn đệ khác chỉ thẳng lên Chúa. Thật tương phản giữa sự tối tăm của quang cảnh ảm đạm phía dưới với sự chói sáng của Chúa Giê-su ở trên. Raphel đã muốn qua đó trình bày ý nghĩa của bài Tin Mừng : Đức Ki-tô là Đấng thuộc về hai thế giới và muốn kéo chúng ta lên thế giới sáng láng trên cao ; Người cũng là hy vọng duy nhất, là Đấng chữa lành tất cả và muốn chúng ta hãy tin tưởng vào Người.

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

-----------------------------------
 

MC 2-ABC519: LÊN CAO

 

Quỷ Ma Ác Độc Kéo Xuống Thấp, Thiên Chúa Nhân Từ Đưa Lên Cao. Chí sĩ ái quốc Phan Bội MC 2-ABC519


Quỷ Ma Ác Độc Kéo Xuống Thấp
Thiên Chúa Nhân Từ Đưa Lên Cao.

Chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu nhận định: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai.” Trên đời này, mức độ “cao – thấp” rất đa dạng, cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Chẳng có gì để nói nếu mọi thứ đều ngang bằng nhau. Có cái này thấp mới biết cái kia cao, có cái này cao mới biết cái kia thấp. Lên dốc khó hơn xuống dốc. Về tinh thần cũng vậy.

Chúa Giêsu đã tiên báo lần thứ nhất về cuộc thương khó và phục sinh (Mt 16:21-23; Mc 8:31-33; Lc 9:22) và đưa ra điều kiện để theo Ngài: TỪ BỎ MÌNH và VÁC THẬP GIÁ. (Mt 16:24-28; Mc 8:34-38; Lc 9:23-27) Một tuần sau đó, Ngài đem theo ba môn đệ – Phêrô, Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông tới một ngọn núi cao, rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Họ thấy hai ông Êlia và Môsê đàm đạo với Sư Phụ của mình.

Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Mc 9:5) Theo Thánh Máccô, “ông [Phêrô] không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.” (Mc 9:6) Phải vậy thôi, phần thì chưa thấy bao giờ, phần thì quá kỳ lạ. Lạ thì lạ nhưng sướng cũng sướng, đến nỗi Phêrô quên mình và hai anh bạn, chỉ xin làm lều cho Sư Phụ và hai nhân vật quan trọng mà thôi. Nếu thực sự thấy “phép lạ” (chính hiệu chứ không là “sự lạ”) thì người ta sẽ quên hết mọi sự và thay đổi đời ngay!

Ôi, hạnh phúc khôn tả. Và rồi bỗng có đám mây bao phủ các ông. Từ đám mây phát ra tiếng nói: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9:7) Quá đỗi lạ lùng! Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Thật là tiếc!

Khi từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Thiên Chúa chí công, ai được nhiều sẽ bị đòi nhiều, ai được ít thì bị đòi ít. Đừng thấy mình được nhiều mà kiêu ngạo, cũng đừng thấy mình được ít mà buồn hoặc so đo với người được nhiều!

Ba môn đệ được “ưu tiên” thấy Chúa Giêsu biến hình vì Ngài muốn củng cố đức tin cho họ, và tất nhiên được ưu tiên thì cũng phải “trả giá” cân xứng. Đó là công bằng! Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, dù chúng ta chỉ là tội nhân, hoàn toàn bất xứng với Ngài, và không có quyền đòi hỏi. Thế mà Ngài đã bắt Con Yêu Dấu Giêsu chịu đau khổ tới tột cùng. Chúa Giêsu đã “cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình để chúng ta khỏi sờn lòng nản chí” (Dt 12:3) khi phải chịu gian khổ trong cuộc sống.

Cuộc đời luôn có sự đấu tranh, luôn phải chiến đấu với mọi thứ, thậm chí chiến đấu với cả chính mình. Cuộc chiến nào cũng cam go, càng cam go hơn khi đó là cuộc chiến tâm linh. Thánh Phaolô so sánh: “Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu.” (Dt 12:3-4) Cha mẹ yêu thương con cái, nhưng không thể chiều theo ý chúng. Có những thứ không cho hoặc cấm thì mới là yêu thương thật. Phàm nhân là kẻ xấu mà còn như vậy huống gì Thiên Chúa là Đấng tốt lành tuyệt đối. Ngài yêu thương chúng ta nên Ngài cũng muốn chúng ta sống “khác lạ” – nhưng tất cả phải NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài.

Tình yêu vô hình, trừu tượng, không ai nhìn thấy hoặc đụng chạm, nhưng ai cũng tin tình yêu có thật và có thể cảm nhận. Không phải cứ nói yêu là thương, mà phải biết cách yêu thương. Có những cái xuôi mà ngược, thuận mà nghịch – và ngược lại. Tục ngữ Việt Nam nói: “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi.” Nghe chừng “ngược đời” lắm, nhưng nghịch mà thuận, trái mà không ngược. Thánh Phaolô xác định: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt.” (Dt 12:6)

Phàm nhân bất toàn, bất trác, bất túc. Chỉ một mình Thiên Chúa hoàn hảo tuyệt đối. Quả thật, ngay cả người công chính mỗi ngày cũng phạm tội 7 lần. (Cn 24:16) Chắc chắn chúng ta không thể cầu toàn, nhưng cái khó là chấp nhận nhau. Yêu thương không phải vì TÌM ĐƯỢC người hoàn hảo, mà vì HỌC ĐƯỢC cách nhìn người-không-hoàn-hảo một cách hoàn hảo. Khó lắm, nhưng không phải không làm được. Khó mà làm được mới hay, dễ thì ai cũng làm được, chẳng gì đáng chú ý. Nếu không làm được thì chắc chắn Chúa Giêsu không bảo chúng ta “hoàn thiện như Cha trên trời.” (Mt 5:48) Đã có rất nhiều người làm được và họ đã nên thánh, lớn lên giữa đống xà bần của cuộc đời xấu xa này.

Mỗi Mùa Chay là một lời nhắc nhở, động viên. Mùa Thánh là Mùa Xé Lòng, mùa cố gắng sửa đổi, mùa sám hối, mùa thuận tiện để hoàn thiện, và hoàn thiện để nên thánh. Rất cần thiết, rất cấp bách, vì “không thánh thiện thì không được thấy Thiên Chúa.” (Dt 12:14) Chắc chắn như vậy. Sai thì phải chịu sửa, có tội thì phải bị phạt. Có “lầm” nhưng đừng “lạc,” đó là điều quan trọng.

Nhưng có khi không sai lầm và vô tội mà vẫn phải chịu đau khổ, thế mới… “lạ.” Thánh Gióp là trường hợp điển hình nhất. Ông là người “vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.” (G 1:1) Ông sống tốt lành, hiền lành, công chính, là thánh sống, nhưng ông phải chịu đau khổ tới tột cùng. Chúa “chiều” theo ý muốn của Satan để cho nó thấy rằng tình yêu mãnh liệt nơi người tôi trung của Thiên Chúa. Ngài không “chơi ép” hoặc triệt buộc ông Gióp, Ngài muốn ông là tấm gương sáng và muốn chúng ta chịu đau khổ để tôn vinh Ngài cách đặc biệt. Vả lại, chịu đau khổ là diễm phúc. (x. Mt 5:10-11)

Chính Thiên Chúa đã thử lòng ông Ápraham. Ngài gọi ông và ông thưa: “Dạ, con đây!” (St 22:1) Ngài bảo ông đem đứa con một yêu dấu Isaác đến xứ Môrigia để dâng làm lễ toàn thiêu ở trên một ngọn núi mà chính Ngài sẽ chỉ cho. Chúng ta gọi là “thử lòng,” nhưng không phải vậy. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, Ngài không cần thử thách ai, mà Ngài muốn “lập công” cho chính đương sự.

Khi tới nơi Thiên Chúa đã cho biết, ông Ápraham dựng bàn thờ, xếp củi lên, trói con trai Isaác, và đặt lên đống củi trên bàn thờ. Rồi ông đưa tay ra cầm con dao để sát tế chính con trai mình. Con trai yêu quý nhưng ông vẫn vâng lời Chúa mà sẵn sàng sát tế nó mà không hề thắc mắc hoặc đắn đo. Nếu là chúng ta, liệu có dám? Chắc là không, và chúng ta lý luận: “Thiên Chúa là Đấng tốt lành mà lại bảo làm điều ác? Ngài là Sự Sống (Ga 14:6) mà lại bảo giết người? Thiên Chúa mâu thuẫn, tôi không thể tuân lệnh.” Vậy mà ông Ápraham vẫn sẵn sàng làm theo mệnh lệnh “ngược đời” như vậy. Ông đã tin tuyệt đối, xứng đáng là Tổ Phụ đức tin. Bài học lớn quá!

Nhưng khi ông sắp hạ sát con mình, sứ thần Thiên Chúa từ trời gọi ông và ông thưa: “Dạ, con đây!” (St 22:11) Sứ thần nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” (St 22:12) Ông Ápraham ngước mắt lên thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây, ông bắt con cừu ấy làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.

Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và trao cho ông lời hứa: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã KHÔNG TIẾC con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã VÂNG LỜI Ta.” (St 22:16-18) Thiên Chúa coi trọng đức vâng lời hơn của lễ. (x. 1 Sm 15:22; Tv 50:8-9) Tổ phụ Ápraham đã vâng lời vô điều kiện, do đó ông được Thiên Chúa hứa ban những điều tốt lành. Có công thì đáng được thưởng.

Hạnh phúc và đau khổ luôn song song và tỷ lệ thuận với nhau. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng lớn. Thánh Vịnh gia xác nhận: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10) Cay đắng lắm, nhưng vẫn tin, thật đáng khâm phục! Cái gì cũng có lý do, có cái giá của nó: “Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Ngài. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi. Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa.” (Tv 116:15-17)

Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Lời khấn nguyện với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Ngài, tại khuôn viên đền Chúa, giữa lòng ngươi, hỡi Giêrusalem! Alleluia.” (Tv 116:18-19) Vâng lời và yêu thương có hệ lụy với nhau. Vâng lời vì yêu thương, yêu thương thì sẵn sàng vâng lời. Rất hợp lý. Vâng lời là chấp nhận thực hiện điều gì đó với sự vui vẻ và niềm tin. Không yêu thương thì không thể vâng lời như vậy. Chúng ta vẫn đinh ninh là tin Chúa nhưng đôi khi chúng ta lại “ngại” vâng lời. Tại sao? Bởi vì chúng ta chưa dám làm theo Ý Chúa, mà Ý Chúa có khi trái ngược với ý chúng ta. Chưa dám thực hiện là chưa thực sự tin tưởng. Có khi tín thác chỉ là nói suông!

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31b) và lý luận: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8:32-34) Theo nhân tính, Chúa Giêsu thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34; x. Tv 22:2) Nhưng Chúa Cha im lặng!

Không gì cao bằng trời, không gì thấp bằng đất. Khoảng cách trời – đất không thể đo lường. Vật chất còn vậy huống chi tinh thần, đặc biệt là giữa Thiên Chúa và phàm nhân. Thật vậy, Thiên Chúa xác định rạch ròi: “Tư tưởng của Ta KHÔNG phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi KHÔNG phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55:8-9)

Một lần nọ, khi ngăn cản Thầy Giêsu đi chịu chết, đệ tử Phêrô đã bị mắng nặng lời: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh KHÔNG phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8:3) Ngày nay chúng ta gọi kiểu “khôn” này là “trứng khôn hơn vịt” hoặc “cầm đèn chạy trước ô-tô.” Chúng ta cũng thường mắc “tật” này, không chỉ với tha nhân, mà với cả Thiên Chúa!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vươn lên chính mình và đứng thẳng người để đối diện với cái xấu. Xin nâng chúng con dậy và đưa chúng con lên Cõi Phúc với Ngài, xin cho chúng con biết Ngài và biết phận mình để sống xứng đáng với Ngài mỗi ngày một hơn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

-----------------------------------
 

MC 2-ABC520: TẠI SAO CHỈ CÓ PHÊRÔ, GIOAN VÀ GIACÔBÊ?

 

Đọc trình thuật Chúa Giê-su Hiển Dung trên Núi, tôi cứ thắc mắc là tại sao Đức Giê-su lên núi MC 2-ABC520


Đọc trình thuật Chúa Giê-su Hiển Dung trên Núi, tôi cứ thắc mắc là tại sao Đức Giê-su lên núi cầu nguyện [nhưng chỉ] đem theo ba ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê và [còn] cho các ông nhìn thấy vinh quang của Ngài như vậy? (Lc 9:32). Mà không phải chỉ có một lần mà là có tới ba lần, ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an được Chúa Giê-su cho đi theo chứng kiến những sự lạ cả thể có liên quan đến Ngài.

• Khi biến hình ở trên núi Tabor (Mc 9:2; Mt 17: 1; Lc 9:28).

• Khi cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia sống lại từ cõi chết (Mc 5:35-37).

• Khi Đức Giê-su và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni (Mc 14:32-34).

Bạn có biết tại sao vậy không? Tại sao chỉ có ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an được đi theo Chúa trong những sự kiện đặc biệt như vậy còn chín môn đệ khác thì không được?

Có người nói là tại vì ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những người có nhiều bằng cấp hơn, thông minh và tài giỏi hơn chín ông kia! Tôi không nghĩ như vậy bởi vì nếu nói về trình độ học vấn thì tôi nghĩ ba ông ngư phủ này không thể nào qua mặt được hai môn đệ Mát-thêu và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một vị là cựu nhân viên sở thuế và một vị là thủ quỹ của nhóm Mười Hai. Mát-thêu và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt ít ra cũng phải phải có bằng CPA (Certified Public Accountant) hoặc cũng phải theo học mấy lớp Accounting thì mới làm được nghề thu thuế và giữ tiền chứ! Như vậy thì trình độ của ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đâu thể nói là nhiều hơn hay cao nhất được?

Lại có người khác bảo rằng là bởi vì ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những người có những nhân đức nổi bật hơn chín môn đệ kia! Tôi nghĩ càng không đúng là bởi vì Kinh Thánh ghi rất rõ là lúc bấy giờ, cả ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đều là những người chả ra làm sao cả!

• Ông Phê-rô là người thuộc loại phổi bò, bạ đâu nói đó, nói liều, nói bừa, và tệ hơn nữa ông còn chối bỏ Chúa: "Tôi thề là không biết người các ông nói đó [là ai cả]!" (Mc 14:71).

• Ông Gia-cô-bê và Gio-an là những người tham quyền, hám chức, háo danh, ham lợi… "Thưa Thầy, xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37).

Như vậy thì tại sao? Bạn đoán thử xem! Tôi thì nghĩ rằng chỉ có một lý do khá hợp tình hợp lý, đó là vì Chúa Giêsu YÊU THƯƠNG họ mà thôi, chứ tự bản thân, các ông chẳng có gì xứng đáng hay đã làm gì nên công trạng chi cả!

Bạn thân mến, Đức Giêsu Kitô, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi cho đến muôn đời (Dt 13:8) Ngài vẫn tiếp tục gọi và chọn những người giống như ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, đó là các Đức Giáo Hoàng, các Đức giám mục, các linh mục, và các tu sĩ nam nữ… toàn là những con người có cùng một mẫu số chung là YẾU ĐUỐI & TỘI LỖI và Ngài đã ưu ái cũng như cho phép họ đi theo Ngài.

Nếu bạn đồng ý với tôi là mọi thành phần trong Giáo Hội, đặc biệt là những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn làm môn đệ đi theo Ngài đều là những con người bất toàn, yếu đuối và tội lỗi. Và nếu bạn cũng đồng ý với tôi là họ được tuyển chọn bởi vì Thiên Chúa yêu thương họ mà thôi thì bắt đầu từ ngày hôm nay, từ những ngày đầu mùa Chay thánh này, xin bạn giúp tôi hai việc này:

• Thứ nhất, trong những giờ đọc kinh, khi tham dự Thánh Lễ và nhất là khi tham dự Chầu Thánh Thể… xin bạn hãy cầu nguyện nhiều hơn nữa cho Đức Giáo hoàng, cho các Đức giám mục, cho các linh mục và các tu sĩ nam nữ… để họ biết khiêm tốn, trung thành và hăng say trong công việc bổn phận và khi phục vụ tha nhân.

• Thứ hai, khi bạn nghe người ta đồn thổi hay bàn tán nhỏ to, hay khi thấy có người nói với bạn về những gương mù gương xấu, hoặc những khiếm

khuyết hay những yếu đuối… của hàng Giáo Phẩm, hàng Giáo Sĩ và tu sĩ… thì xin bạn lên tiếng can ngăn và nói với họ rằng: “Tôi chẳng biết thực hư ra sao, nhưng chuyện đó để cho Thiên Chúa xét xử, chúng ta nên cầu nguyện cho các ngài thì tốt hơn là ngồi đây để bàn tán, chả có lợi gì cả.”

Ước gì bạn và tôi, chúng mình đừng bao giờ ngã lòng hay mất lòng tin vào Thiên Chúa khi thấy những gương mù, gương xấu do Giáo hoàng, các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ… một cách nào đó đã gây ra. Ngoài Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện và tốt lành ra, bạn và tôi đừng đi theo hay tin vào bất cứ ai ở trên đời này, bởi vì họ chỉ là những con người yếu đuối và thấp hèn trong mình vẫn còn đầy những khiếm khuyết giống như ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an vậy!

Hãy đi theo Chúa bởi vì chỉ có một mình Ngài là Đấng Thập Toàn mà thôi! Còn tất cả mọi người trên thế gian này, từ Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, Phó tế, Tu sĩ, giáo dân… chỉ là những con người yếu đuối và tội lỗi mà thôi!

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

-----------------------------------
 

MC 2-ABC521: ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA

 

Làm sao để nên giống Chúa?”. Câu hỏi của chị đã giúp ta nhìn lại mối tương quan của mình với MC 2-ABC521


“Làm sao để nên giống Chúa?”. Câu hỏi của chị đã giúp ta nhìn lại mối tương quan của mình với Thầy Giêsu. Là môn đệ của Thầy, ta ao ước được trở nên giống Thầy mỗi ngày một hơn. Chị đã nhắn nhủ ta hãy luôn lắng nghe và thi hành lời Chúa Giêsu: hãy nghe, hãy nhìn xem cách Thầy Giêsu đã sống, hãy làm như Thầy đã làm. Muốn trở nên giống ai, ta phải đem lòng yêu mến người đó. Muốn yêu mến ai, ta phải dành thời gian để ở lại với họ, cùng trò chuyện thân tình để hiểu biết về nhau, làm sao để mối tương quan giữa đôi bên ngày càng thêm đậm đà thắm thiết. Trong mối tình với Chúa, ta luôn được yêu rất nhiều. Ngài luôn là người đi bước trước.

Hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rapbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười ( Ga 1, 35-39). Mỗi ngày, trong Thánh lễ, ta cũng được giới thiệu về “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Người đã bày tỏ cho ta thấy tình yêu lớn lao mà Người dành cho ta, một tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa. Không phải vì ta đã yêu mến Thiên Chúa để được Người đáp lại nhưng chính Người đã tự hiến vì yêu ta. Đúng như lời Thánh Gioan đã khẳng định: “Tình yêu cốt ở điều này, không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10). Ta là ai để được Thiên Chúa yêu thương? Ta không phải là người xứng đáng để được yêu thương nhưng Thiên Chúa đã yêu thương ta với một tình yêu tròn đầy và duy nhất. Cảm nhận tình yêu của Chúa, ta hạnh phúc đón lấy tình yêu của Người, đón nhận chính Tình Yêu vào trong tâm hồn. Ta nghe được lời Người mời gọi: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4, 21). Muốn trở nên giống Chúa Giêsu, ta hãy yêu thương anh em mình như Chúa đã yêu thương ta.

Ông Anrê đã ở lại với Thầy Giêsu, đã đón nhận tình yêu của Thầy. Sau khi trở về, ông đã mau mắn giới thiệu Đấng Mêsia với em mình. Tin Mừng thuật lại: “Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu” (Ga 1, 41-42). Ông hạnh phúc khi được gặp Đấng Mêsia, ông cũng muốn chia sẻ cho em niềm hạnh phúc ấy, bởi vì ông rất yêu thương em. Sau khi gặp Chúa, ta có mang Chúa đến với người khác không? Được đón Chúa vào lòng, được ở với Chúa rồi, ta có làm cho người khác nhận ra Chúa nơi mình không? Chỉ khi yêu thương, ta mới có thể diễn tả khuôn mặt của Thiên Chúa- Đấng là Tình yêu đang hiện diện trong ta. Tình yêu làm cho ta có khả năng mở ra với người khác và đến với họ, chia sẻ với họ niềm hạnh phúc mà mình đang có.

Mỗi ngày, ta hãy nhìn sâu vào lòng mình để thấy được khát khao muốn ở lại với Chúa. Những giờ thờ thượng sẽ luôn là một điểm hẹn tuyệt vời mà ta luôn mong chờ. Ở lại với Thầy Giêsu, ta sẽ lắng nghe Lời Thầy dạy dỗ. Hãy đọc thật chậm rãi từng câu Tin Mừng, và hãy lắng nghe thật kỹ từng lời ấy. Đó là Lời mà Chúa đang nói với ta.

Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã yêu thương con trước. Tình yêu Ngài dành cho con thật lớn lao, cao vời. Cảm tạ Chúa đã ban cho con có một trái tim biết yêu thương và dạy con biết yêu người anh em. Con nhận ra tình yêu trong con có nhiều lúc còn mờ nhạt, chưa đủ mãnh liệt để vượt thắng sự ích kỷ của con người tự nhiên trong con. Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin đốt lòng con yêu mến Chúa! Để khi yêu Chúa, con cũng biết yêu thương anh em mình: yêu thương bằng trái tim, bằng đôi tay, ánh mắt, cử chỉ, lời nói… và trọn cả con người con. Amen.

Bông hồng nhỏ

-----------------------------------
 

MC 2-ABC522: HIỂN DUNG: KINH NGHIÊM CHO HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

 

Cuộc đời Đức Giê-su là một cuộc hành trình di động không ngừng nghỉ. Người là đường như Lời MC 2-ABC522


Cuộc đời Đức Giê-su là một cuộc hành trình di động không ngừng nghỉ. Người là đường như Lời Người đã phán: Thầy là đường. Người còn là con đường dẫn người ta đến với Cha. Con đường Người đi là cuộc sống Người. Đó không phải là con đường rộng thênh thang với nhiều cạm bẫy, mà là con đường hẹp, con đường hy sinh, con đường khổ nạn, con đường Thánh Giá. Vì thế, khi loan báo về con đường đó, các môn đệ của Người đã không tài nào có thể đón nhận được.

Trong tình huống đó, cảnh tượng được mô tả trong trình thuật Hiển Dung hôm nay đem đến cho các môn đệ nguồn sáng, sức mạnh để các ông có thể bước đi trên con đường mà Đức Giê-su, Thầy của các ông đã loan báo và tự nguyện đi vào. Đức Giêsu cho các môn đệ ‘nếm một chút’ ánh sáng vinh hiển của Người. Ánh sáng đích thật này chỉ đuợc tỏ bầy trọn vẹn qua biến cố Phục sinh. Nhưng trong phút giây này, trước mắt Người vẫn là hành trình khổ nạn chứ chưa phải là vinh quang.

Nhìn như thế, chúng ta mới nhận biết rằng Chúa yêu thuơng, săn sóc và lo lắng cho các môn đệ và chúng ta đến độ nào. Người hiểu các nỗi yếu đuối của họ, Người biết lòng trí không ngay thẳng của những ai đang theo Nguời, Người còn rõ ý định sai lạc muốn tìm kiếm địa vị như Gioan và Giacôbê, v.v... Nhưng Người lại không thất vọng về họ. Vì thế, Người chuẩn bị cho các môn đệ đủ sức để đối diện và đồng hành với cuộc khổ nạn của Nguời bằng cách cho họ ‘nếm một chút’ vinh quang của Con Thiên Chúa. Kinh nghiệm độc nhất vô nhị này vô cùng quí giá, nó sẽ nâng đỡ các môn đệ trên đường Thương Khó.

Thật vậy, kinh nghịệm ‘hiển dung’ đã giúp cho các môn đệ thế nào thì ngày nay cũng giúp cho chúng ta như thế, miễn là chúng ta hân hoan đón nhận đường Thương Khó và sau cùng là sự chết của Người. Vì chúng ta tin rằng tất cả không dừng lại ở đó, nhưng còn mở ra một chân trời hạnh phúc và vinh hiển trong ngày Phục Sinh.

Cho nên, trong hành trình đức tin, chúng ta rất cần những trải nghiệm ‘Chúa hiển dung’ hôm nay. Một cách cụ thể, xin thưa với anh chị em một vài chứng tích tuy rất bình thường nhưng lại đem đến những cảm nghiệm thật cần thiết cho hành trình sống của chúng ta.

Có những bà mẹ đã nhận ra ơn gọi thật cao quí mà Chúa đã trao ban cho bà qua những công việc thường nhật mà các bà thường làm trong công tác của một người nội trợ. Nhìn thấy cảnh chồng con ăn ngon, hạnh phúc đầm ấm bên bàn cơm do công sức của bà chuẩn bị, khiến cho cơn mệt nhọc duờng như biến mất, còn lại trong phần sâu thẳm của tâm hồn bà là niềm vui, một niềm vui không sao diễn tả được. Bà đã phải quay mặt đi để dấu những giọt lệ hạnh phúc đang sẵn sàng trào ra trong đôi mắt ngập tràn hạnh phúc của bà.

Bà hãnh diện và nhận ra rằng nhờ sự hy sinh của bà mà gia đình mới vui như thế. Rõ ràng đó là một việc làm bình thường như mọi ngày của cuộc sống, thế mà đến hôm đó bà mới nhận ra sự diệu kỳ và phi thường của nó. Một khoảnh khắc, một kinh nghiệm thật diệu kỳ đã đến với bà qua công việc rất bình thường.

Về đời sống thiêng liêng cũng thế, đã có thời điểm chúng ta trải qua những kinh nghiệm thật đặc biệt, nhận ra sự hiện diện và can thiệp của Thiên Chúa qua các việc rất bình thường. Trong những cuộc tĩnh tâm, nội dung các bài giảng, sự tận tâm phục vụ và huớng dẫn của các anh chị em giúp khóa; đều là các yếu tố giúp ta khám phá ra bàn tay và sự tác động của Thiên Chúa. Tác động của Chúa mạnh đến độ chúng ta không cầm được nuớc mắt. Trong nỗi vui suớng được thay đổi đó, chúng ta đã từng hứa như ý định của Phêrô, xin được ở luôn bên Chúa trên núi, trong bài Tin Mừng hôm nay.

Nhưng, chúng ta đuợc mời gọi đi xa hơn, không dừng lại ở các kinh nghiệm về những lần gặp gỡ mang nặng chất tình cảm đó. Việc chiêm ngưỡng dung nhan vinh hiển của Đức Giêsu không làm chúng ta bị chóa mắt, hay quáng gà rồi không còn nhìn thấy những thực tại ở trần gian nữa. Người mời chúng ta xuống núi.

Chúa không còn thường xuyên Thần Hiện để con người nhận ra sự hiện diện của Người như kinh nghiệm của Maisen và dân Israel xưa kia, Người cũng không biến hình đổi dạng cho các Tông đồ nhìn thấy vinh quang cuả Người như trong bài Tin Mừng hôm nay.

Người đã trở thành con người như chúng ta và cư ngụ giữa chúng ta. Người chính là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mọi nơi mọi lúc. Đó là một điều thật diệu kỳ mà chúng ta cần khám phá luôn mãi. Một sự đổi thay mà chỉ có ai ở trong Chúa mới nhận ra. Rồi từ đó, chúng ta nhận ra ai ai cũng là hình ảnh của Thiên Chúa, và mọi sự Người tác tạo đều tốt đẹp, rất dễ thương. Như thế thì cuộc đời đáng sống và đáng yêu hơn.

Vì thế, với những kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa - qua cầu nguyện, các biến cố xẩy đến trong đời - đều là hồng ân giúp chúng ta trở về với đời sống hàng ngày, đối diện với muôn ngàn thử thách, đắng cay bằng ánh sáng và con tim mới. Với sự hiện diên của Đức Giêsu, không chỉ ở trên núi (Thánh), nhưng ở mọi giây phút của cuộc đời; chúng ta sẽ chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, sẵn sàng chiến đấu mà không ngại gian khổ, chấp nhận những bất tòan của chính bản thân để có thể thông cảm các nỗi yếu đuối và không hòan hảo của nhau, rồi cùng đồng hành với nhau trên con đuờng mà Chúa đã đi qua.

Sau cùng, xin dung nhan của Chúa Hiển Dung hôm nay và nhất là Ánh Sáng Phục sinh của Đức Chúa luôn dẫn lối chỉ đuờng cho chúng ta, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn vẹn mọi giây, mọi phút trong cuộc sống và tiếp tục ‘buớc theo’ và ‘cùng buớc’ vào dấu chân của Đức Kitô đã bước qua. Amen.

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

-------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây