Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 251-300 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới
------------------------------------
Năm A:
Phúc Âm: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng:
"Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.
Năm B:
Năm C:
-------------------------------------
MC 2-ABC251: CHÚA NHẬT II MÙA CHAY.. 2
MC 2-ABC252: LÊN NÚI 4
MC 2-ABC253: Giây Phút Tột Đỉnh. 7
MC 2-ABC254: Được Biến Đổi Hình Dạng. 8
MC 2-ABC255: SỐNG LỜI CHÚA- TRÊN ĐỈNH TABORÊ.. 11
MC 2-ABC256: PV/140- TABOR VỚI ĐỨC GIÊSU.. 13
MC 2-ABC257: PV/142-ABC SỰ HY SINH CỦA ISAAC.. 14
MC 2-ABC258: PV/145- THIÊN CHÚA VỀ PHÍA …... 16
MC 2-ABC259: CSTM/81- ĐỨC TIN VÀ ĐAU KHỔ.. 17
MC 2-ABC260: Người Con Một yêu dấu. 19
MC 2-ABC261: Đệ Tam Nhãn. 21
MC 2-ABC262: "HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI". 24
MC 2-ABC263: Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR. 28
MC 2-ABC264: MUỐN HẠNH PHÚC PHẢI VÂNG LỜI NGƯỜI 29
MC 2-ABC265: Suy Niệm của Lm. Trọng Hương. 31
MC 2-ABC266: BIẾN HÌNH.. 33
MC 2-ABC267: LÊN NÚI XUỐNG ĐỒI 35
MC 2-ABC268: CŨNG VÌ THƯƠNG, THIÊN CHÚA BAN ĐỨC GIÊSU.. 38
MC 2-ABC269: CHIẾC ÁO TRẮNG - Gm. Arthur Tonne. 46
MC 2-ABC270: ÁNH SÁNG CHIẾU TỚI TƯƠNG LAI. 47
MC 2-ABC271: CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI 48
MC 2-ABC272: Chúa Giêsu hiển dung. 50
MC 2-ABC273: Ba ngọn núi 54
MC 2-ABC274: GIỮ ĐẠO NHƯ TRONG MƠ.. 57
MC 2-ABC275: CHÚA VẪN ĐANG HIỂN DUNG QUANH TA.. 58
MC 2-ABC276: Đây là Con Ta yêu dấu - Huyền Đồng. 61
MC 2-ABC277: Hãy vâng nghe Lời Người 64
MC 2-ABC278: Thiên Chúa là thần linh cao cả mang đầy tình thương. 72
MC 2-ABC279: Chúa biến hình. 73
MC 2-ABC280: CSTM/87 - Thân mật 74
MC 2-ABC281: SNLC/146 - Sống với Chúa. 76
MC 2-ABC282: CSTM/76 - Biến hình. 77
MC 2-ABC283: LẠY CHÚA, DẠ CON ĐÂY! 79
MC 2-ABC284: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. 83
MC 2-ABC285: Đây là con Ta yêu dấu. 86
MC 2-ABC286: ĐMA - Một Giáo Dân. 88
MC 2-ABC287: Người đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy. 90
MC 2-ABC288: Ánh sáng của Đức Tin - Lm. Hà Ngọc Đoài 92
MC 2-ABC289: Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên một ngọn núi 93
MC 2-ABC290: Biến đổi hình dạng như Đức Giêsu. 95
MC 2-ABC291: Chúa biến hình, vừa là một vinh quang vừa là một thách đố! 99
MC 2-ABC292: Hãy vâng nghe lời Người! 102
MC 2-ABC293: Tin yêu là hoàn toàn tín thác không từ chối Chúa điều gì 104
MC 2-ABC294: TRÁI ĐẤY NÀY LÀ CỦA CHÚNG MÌNH...”. 106
MC 2-ABC295: ĐƯỢC BIẾN HÌNH TRONG CHÚA.. 109
MC 2-ABC296: CHÚA GIÊ-SU BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG.. 112
MC 2-ABC297: Vinh quang thập giá. 115
MC 2-ABC298: Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu. 116
MC 2-ABC299: Chú giải của William Barclay. 118
MC 2-ABC300: Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux. 120
--------------------------
Biến cố Hiển Dung và lời gọi ra đi thi hành sứ mệnh
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (St 12;1-4a; 2 Tm 1:8b-10; Mt 17:1-9)
Phụng vụ Chúa Nhật trước đã trình bày cám dỗ như thử thách lòng trung thành với Thiên Chúa, từ nguyên tổ nhân loại cho đến Chúa Giê-su và chúng ta hết thảy đều phải trải qua những thử thách ấy. Nếu Chúa Giê-su đã trở thành gương mẫu chiến thắng cám dỗ, thì qua biến cố Hiển Dung, Người cũng nêu gương vâng lời Chúa Cha để thi hành sứ mệnh Đấng Ki-tô. Sau cuộc đàm đạo với ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a về cuộc Thương khó, Chúa Giê-su đã được củng cố niềm tín thác nơi Chúa Cha và sẵn sàng đi lên Giê-ru-sa-lem chấp nhận thập giá. Điều ấy làm Chúa Cha hài lòng và Người phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Bài đọc Cựu Ước và bài Tin Mừng hôm nay dường như muốn đem sự kiện ông Áp-ram đáp lời Thiên Chúa kêu gọi để so sánh với việc Chúa Giê-su vâng lời Chúa Cha và lên Giê-ru-sa-lem chịu chết. Trước hết, Thiên Chúa muốn ông Áp-ram phải bỏ hết mọi sự, “xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi”, để “đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Giống như ông Áp-ram đã bỏ mọi sự, Chúa Giê-su cũng đã “không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa”, nhưng Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” để xuống trần gian. Như Thiên Chúa đã đặt ông Áp-ram làm cha của một dân lớn, thì Thiên Chúa cũng đặt Chúa Giê-su làm “trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8:29). Đáp lời Thiên Chúa kêu gọi, ông Áp-ram đã “ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông”; ông ra đi trong niềm tín thác vào những điều Thiên Chúa đã hứa với ông. Cũng thế, Chúa Giê-su đã để Chúa Cha sai Người đến trần gian; Người đã “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Dĩ nhiên chúng ta chỉ có thể so sánh sự kiện, chứ không thể so sánh tầm quan trọng cũng như kết quả của hai sứ mệnh ấy, sứ mệnh của ông Áp-ra-ham và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su, vì như thánh Phao-lô nói, nó khác nhau một trời một vực.
Giờ đây chúng ta đi vào bài Tin Mừng để xem Chúa Giê-su đã làm gì mà Chúa Cha gọi Người là Con Yêu Dấu. Sáu ngày trước cuộc Hiển Dung, lần thứ nhất Chúa Giê-su đã tiên báo cuộc Thương Khó của Người. Đây quả là tin sét đánh khiến các tông đồ cảm thấy chới với. Mỗi tông đồ theo Chúa đều có ý định tốt, tuy họ chưa hoàn toàn hiểu Chúa là ai và sứ mệnh đích thực của Người là gì. Hầu như ai cũng mang niềm hy vọng Người là đấng mê-si-a sẽ thiết lập một vương quốc trần gian. Khi tiên báo cuộc Thương khó và cái chết của Người, Chúa Giê-su mong họ chấp nhận đó là sứ mệnh của Đấng Ki-tô. Nhưng điều này quả thực khó vì đi ngược lại mong ước trần tục của họ. Dầu sao Chúa Giê-su không thể chiều theo cám dỗ do những mong đợi của các môn đệ, nhưng Người cần phải trung thành với thánh ý Thiên Chúa. Do đó, cuộc Hiển Dung chính là lời “xin vâng” Chúa Giê-su muốn thưa lên với Chúa Cha, đồng thời cũng giúp các môn đệ hiểu rõ và xác tín Người là Đấng Ki-tô sẽ chịu chết chuộc tội nhân loại. Để chấp nhận lời “xin vâng” của Con Một Người, chính Chúa Cha đã lên tiếng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”, rồi Chúa Cha truyền cho các tông đồ phải nhìn nhận Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúa Giê-su đã thi hành thánh ý Chúa Cha và hoàn tất sứ mệnh cứu độ chúng ta. Đó là “Tin Mừng” các tông đồ và thánh Phao-lô loan báo. Thánh Phao-lô giải thích Tin Mừng này: “Thiên Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su”. Vậy đứng trước kế hoạch và ân sủng này, chúng ta tự hỏi phải làm gì trong mùa Chay này? Tạ ơn Chúa vì tình yêu và lòng thương xót của Người, đó là điều trước hết và luôn luôn chúng ta phải làm. Rồi Chúa Cha lại ban cho chúng ta Con Yêu Dấu của Người và Người cũng muốn gọi chúng ta là những người con yêu dấu của Người nữa. Thật hãnh diện và sung sướng được làm con yêu dấu của Chúa! Chúa Giê-su đã sống như Con Yêu Dấu nhờ vâng phục và chu toàn sứ mệnh. Vậy mùa Chay này chúng ta cũng xin Chúa giúp chúng ta nhận ra sứ mệnh của mình và cố gắng đáp lại lòng Chúa tin tưởng nơi chúng ta bằng cách sống xứng đáng là con yêu dấu của Người.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
--------------------------
Núi Thabor là một núi của Israel ở vùng Galilea Hạ, nằm ở đầu phía Đông của thung lũng Jezreel, A132 MC 2-ABC252
Núi Thabor là một núi của Israel ở vùng Galilea Hạ, nằm ở đầu phía Đông của thung lũng Jezreel, cách biển Hồ Galilee 17km về phía Tây. Xe buýt sẽ đưa người hành hương đến chân núi, sau đó chuyển lên xe chuyên dụng, để bắt đầu hành trình lên núi. Đó là một chặng đường rất đẹp, đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn cam xanh ngút mắt, rồi những đoạn dốc cao, cheo leo, ngoằn ngoèo, theo vòng xoáy trôn ốc.
Từ đỉnh núi ( 3.178m ), nhìn về hướng Nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ả Rập sinh sống, nơi Chúa cho con trai bà góa sống lại; hướng Tây là một thị trấn sầm uất; phía Đông là mênh mang biển hồ Galilê. Tabor, như một ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Và cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời của Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung.
Theo Phúc Âm Nhất Lãm, lúc Chúa đem ba môn đệ lên đây, và Chúa biến hình trước các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê, không gian rất im ắng, chỉ có gió vi vu và mây trắng, với rừng cây thắm màu xanh hùng vĩ.
Người Kitô hữu luôn tin rằng, biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một sự kiện đặc biệt. Tựa như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối đầy gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức các môn đệ. Còn là một điểm tựa, trợ lực cho Đức Tin các ngài trong suốt hành trình theo Chúa Giêsu.
Trên đỉnh núi Thabor, Nhà Thờ Chúa biến hình, được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi tiếng Antonio Barluzzi. Trong Nhà Thờ, một bức tranh huy hoàng mô tả việc Chúa Giêsu biến hình. Và đặc biệt trong ngày Lễ Chúa biến hình ( còn gọi là lễ Hiển Dung ) bắt đầu ngày 6 tháng 8, thì bức tranh được chiếu sáng rạng rỡ bởi tia nắng phản chiếu từ một tấm gương đặt ở sàn Nhà Thờ. ( TST Tourist ).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay tường thuật Đức Giêsu hiển dung trước ba môn đệ thân tín Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Lên núi thoát tục
Sáu ngày sau khi Đức Giêsu loan báo lần đầu cuộc khổ nạn, ông Phêrô đã phản ứng theo bản năng, vô tình vấp phạm nặng nề. Dẫu vậy, Người nhân từ tha thứ và sửa dạy, còn dẫn các ông lên núi, củng cố lòng tin vững chãi, niềm hy vọng thánh thiện.
Lên núi yên tịnh, vắng vẻ, xa chốn phồn hoa ảo ảnh, thoát khỏi thế gian dối trá, bịp bợm, tham sân si, xa rời người thân yêu, bạn hữu, tách khỏi cái bả chức tước danh vọng. Lên núi, cảm thấy mình chỉ là sinh vật nhỏ nhoi, yếu đuối, đơn côi giữa trời đất bao la, cũng như nhìn thấy công trình con người dù lớn lao, đều trở nên bé nhỏ giữa tuyệt tác thiên nhiên hùng vĩ, kỳ diệu do Thiên Chúa tạo nên. Nhờ ý thức thế, con người dễ từ bỏ, tránh xa hấp lực thế gian.
Lên núi theo Chúa là thay đổi, sám hối, lột xác, canh tân, như Thánh Phaolô đã hết sức khẩn khoản mời gọi tín hữu: “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc.” ( Ep 4, 22 ). Từ bỏ con người cũ là tránh xa, dứt bỏ lối sống theo xác thịt tội lỗi xấu xa: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống vậy.” ( Gl 5, 19-21 ).
Lên núi được biến đổi
Lên núi được nghe Lời Chúa phán dạy, cảm hoá và thánh hoá, thì tâm hồn tín hữu cũng được biến đổi, trở nên rạng ngời từ trong ra đến ngoài, như Đức Giêsu đã hiển thị thiên tính của Người, “mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết.”
Dẫu phàm nhân luôn thiếu sót, lầm lỗi, vấp phạm, nhưng tình yêu Chúa luôn có thể hoán cải, canh tân, đổi mới tâm hồn những ai trung kiên lên núi với Người, như Phaolô chân thành xác nhận tình yêu Chúa đối với nhân loại: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” ( Pl 3, 21 ).
Lên núi còn có nghĩa hoàn toàn rũ bỏ những ảo ảnh thế gian thấp hèn, để Đức Chúa Thánh Thần khai sáng, canh tân toàn diện. “Hãy để Thần khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật.” ( Ep 4, 23-24 ).
Một khi ăn năn, sám hối, đổi mới, dấn thân theo Chúa lên núi, thì “tất cả chúng ta, mặt không che màn ( tội lỗi ), chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí" ( 2Cr 3, 16.18 ).
Lên núi hạnh ngộ
"Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia." Luca còn cẩn thận ghi tâm trạng: “Ông Phêrô không biết mình đang nói gì.” Làm sao có thể giữ kín nổi niềm vui tràn trề, niềm hạnh phúc trọn vẹn, niềm sung mãn chứa chan, khi được sống bên Chúa toàn năng ? Ông Phêrô không bao giờ quên được giây phút đại phúc, chiêm ngưỡng vinh quang tột cùng của Đức Giêsu.
Chỉ có bên Chúa, mới có bình an, niềm vui, hạnh phúc vững bền. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.” ( Tv 62, 2-ABC3 ).
Trong thư gửi “những khách lữ hành”, Tông Đồ Phêrô ân cần nhắc lại niềm hạnh phúc vô biên, một đặc ân. “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người... Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người.” ( 2Pr 1, 16-18 ).
“Con đừng lấy làm lạ, lúc theo Chúa, con nghe tiếng gọi của khoái lạc, của danh vọng, của cả bản thân, cha mẹ, quyến rũ con bỏ đường Chúa. Cứ tiến lên, Chúa đã nói trước: "Ai cầm cày còn ngoảnh mặt lui, không đáng làm môn đệ Ta." ( Đường Hy Vọng số 71 ).
Lạy Chúa Giêsu, sau khi hiển dung sáng láng rạng ngời, Chúa dẫn các môn đệ xuống núi. Xin Chúa thương dẵn dắt chúng con xuống núi, cùng đồng hành vác thánh giá, chịu khổ nạn với Người, hầu chúng con xứng đáng được ơn cứu rỗi.
Kính xin Mẹ Maria cầu bầu chúng con luôn đi theo Chúa cho trọn, đừng dở dang, sa chước cám dỗ, mà lìa xa Chúa. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
--------------------------
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: "Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói được."
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một câu hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay? Tại sao nó không được đặt giữa những bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm trong ý nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên: "Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó sẽ không xảy ra cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói với Phêrô: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và Gioan cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay. Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính tinh thần này trước khi xoay sự chú ý của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Giáo Hội muốn cho chúng ta một sự gì đó để nhìn vào trong những giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người chúng ta, cũng có một phần của Adong và một phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa chiếu sáng qua chúng ta gần như làm cho ta bị loà luôn. Trong những giây phút này, chúng ta cảm thấy thật là gần gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta cảm thấy chúng ta có thể với tay chạm đến Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút lo buồn, khi phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không.
Trong những giây phút ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển chọn." Những lúc lo buồn, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
--------------------------
Suy Niệm
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình. Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày. Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
--------------------------
Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi:
- Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín nhất.
Tôi xin trả lời:
- Đó là để soi sáng và củng cố đức tin cho các ông.
Đúng thế, các tông đồ, những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã không muốn hiểu và không muốn chấp nhận những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa Giêsu cũng đã nói với các ông:
- Con Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó sẽ bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời:
- Hãy cút đi hỡi Satan, ngươi chẳng hiểu gì về những việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói xa nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của các ông bị chao đảo và mối cậy trông của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng đứng trước nỗi thống khổ của thập giá, các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản, không còn hy vọng, không còn can đảm, không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp các ông chiến thắng trong những giờ phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn sàng đón nhận những bắt bớ, những cấm cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc tiếp Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó trong cuộc tử nạn các ông, người thì chối bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn gian nguy thử thách và sẽ hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã tạo được một tiếng vang cho đến tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại cho chúng ta một bài học, một niềm an ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải những khổ cực đớn đau, những đắng cay chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi sống ngàn thu. Vinh quang ấy không phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian, chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi đất khách quê người, chúng ta không bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như trên một tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô cũng bảo:
- Những đau khổ đời này thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần thưởng bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta. Lúc bấy giờ, thân xác của chúng ta, người bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ được dự phần vinh quang, cũng sẽ được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
--------------------------
Bộ phim Một Người Chết Đang Bước Đi kể lại câu chuyện của một nữ tu (Sơ Helen Prejean), trong nhiều tháng, bà hộ tống một người đàn ông (Robert) đến chỗ bị hành hình ở Lousiana. Chúng ta hãy ghi chú cách Robert cố gắng thu phục được lòng tin của một trong những người giám sát, đó là một hình ảnh tử tế và nhân hậu của người cha, sơ Helen đã phản ánh lại hình ảnh này như sau:
Không bao giờ Robert thực sự có một người cha. (Trong số 53 năm tuổi đời của anh, cha anh đã sống 27 năm tại một nhà tù). Điều này làm cho tôi nghĩ đến cha tôi. Thật là một trong những cảm giác quí giá nhất trong cuộc đời, khi biết rằng cha bạn tự hào về bạn. Tôi là một môn sinh của cha tôi, là người lưu giữ cho ông cuốn nhật ký cuộc hành trình nghỉ mát của gia đình. Ông luôn luôn có một giọng nói đặc biệt, mỗi khi giới thiệu tôi với các bạn bè và đồng nghiệp của ông: “Đây là Helen, con gái nhỏ của tôi”. Trước sự hiện diện của những người xa lạ, tôi cứ im lặng, nép sát vào người ông, nắm chặt bàn tay ông. Sau đó, tôi sẽ siết chặt bàn tay của ông hơn bao giờ hết, và một lần nữa, có đầy rẫy những câu hỏi và ríu rít nói chuyện với ông. Một đứa trẻ có thể ngây ngất cảm giác an toàn bên một người cha.
Câu chuyện này có thể giúp chúng ta hiểu được một số nét nào đó về cảm nghiệm núi Tabor đối với Đức Giêsu. Trong cuộc đời của Người, có một thời điểm rất khó khăn, một thời điểm không biết chắc chắn và lo sợ về tương lai. Người đã tiến về Giêrusalem, tại đó, Người cảm nhận được rằng cùng một số phận giống như tất cả các ngôn sứ đang chờ đợi Người – một cái chết khủng khiếp. Tự nhiên, Người muốn thoái lui khỏi số phận đó. Để suy niệm và cầu nguyện, Người đã lên núi Tabor.
Chúng ta không biết chính xác điều gì xảy ra trên núi. Nhưng dường như Người có một cảm nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nghe được những lời nói tuyệt vời “Đây là Con Cha yêu dấu”. Trên núi Tabor, Đức Giêsu đã được an ủi và xác nhận. Người biết rằng Cha Người hài lòng về Người, và sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với một tương lai tối tăm và đầy đe dọa. Với Thiên Chúa đứng về phía mình, Người có thể đương đầu với tất cả mọi sự.
Đôi khi, cuộc sống có thể trở nên tối tăm với tất cả chúng ta. Có rất nhiều tiếng nói đối với chúng ta “Chỉ khi nào thành công, hoặc nổi tiếng, thì bạn mới là một người tốt”. Nhưng vẫn có một giọng nói thì thầm trong tâm hồn chúng ta “Con là đứa con trai / con gái yêu dấu của Cha”. Chúng ta cần phải chú ý đến giọng nói này. Chúng ta phải nhận ra rằng mình là những người con yêu dấu của Thiên Chúa, và cố gắng sống cuộc đời của mình nhờ ánh sáng chân lý của Người.
Jean Vanier đã thiết lập nhiều cộng đoàn dành cho người bị bệnh tâm lý. Ông kể lại rằng ở một trong những cộng đoàn đó, có một người đàn ông tên là Pierre, bị mắc bệnh tâm lý. Ngày kia, có người hỏi Pierre “Anh có thích cầu nguyện không?”
Anh trả lời “Có chứ”.
Người kia hỏi “Anh làm gì mỗi khi anh cầu nguyện?”
Pierre trả lời “Tôi lắng nghe”.
“Và Thiên Chúa nói gì với anh?”
Người nói “Hỡi Pierre, con là con trai yêu dấu của Ta”.
--------------------------
Câu chuyện Thiên Chúa yêu cầu Abraham hy sinh người con trai Isaac của ông là một câu chuyện lạ. Trên thực tế, đây là một câu chuyện gây sốc. Điều làm cho chúng ta cảm thấy rắc rối nhất là hình ảnh Thiên Chúa tình cờ bắt gặp.
Tuy nhiên, chúng ta phải cố gắng hiểu được ý nghĩa mà câu chuyện muốn chuyển tải. Câu chuyện này dạy cho chúng ta một điều gì đó rất quan trọng, và là một câu chuyện rất hay, đưa ra một hướng trái ngược với điều mà nó hy vọng để lại cho người nghe, bắt đầu bằng cách dường như muốn nói rằng Thiên Chúa chấp nhận sự hy sinh của con người, và thậm chí có khi Người còn đòi hỏi sự hy sinh đó nữa. Nhưng đối tượng của câu chuyện là nhằm chỉ ra một điều trái ngược hẳn lại. Đó là cố gắng chỉ ra cho chúng ta rằng trên thực tế, sự hy sinh của con người trái với ý muốn của Thiên Chúa.
Và câu chuyện đã kể lại về điều này một cách rất thú vị. Dường như yêu cầu của Thiên Chúa đối với Abraham là quá tàn bạo và bất công, đến nỗi làm cho chúng ta muốn kêu lên “Hãy ngưng lại đi ! Điều này sai trái. Điều này khủng khiếp !”. Chúng ta phải suy xét lại ý tưởng ông già Abraham bị Thiên Chúa đòi hỏi phải hy sinh người con trai Isaac của ông. Cảm giác khiếp sợ của chúng ta được nâng lên, nhờ gánh nặng của niềm hy vọng đặc biệt mà Isaac đã được mang trên vai – làm trọn lời hứa rằng Abraham sẽ có vô số con cháu.
Mục đích của câu chuyện là khơi gợi lên nỗi khiếp sợ về ý tưởng rằng Thiên Chúa đòi hỏi con người phải hy sinh. Sống giữa những người Canaan vốn là những người thực hành hy tế theo kiểu nhân loại, nên bằng cách này hoặc cách khác, Abraham đã có ý nghĩ rằng Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi ông hành động hy sinh này. Nhưng Thiên Chúa đã chỉ ra cho ông cách thế khác. Câu chuyện này có ý muốn đặt dấu chấm hết cho sự hy sinh của con người đối với Thiên Chúa.
Tại sao Thiên Chúa lại muốn thử Abraham ? Để cho cả thế giới biết rằng nếu có người nào đó nói với chúng ta “ Nhân danh Thiên Chúa, tôi phạm tội giết người”, thì chúng ta sẽ biết rằng người đó nói dối. Đó là ý kiến nhất trí của truyền thống Do thái Chính thống. Thật đáng buồn, việc giết người nhân danh Thiên Chúa đã được thực hiện một cách phổ biến qua nhiều thời đại. Ngay cả trong thời đại của chúng ta, vẫn có những kẻ giết người vì niềm tin tôn giáo, và họ nghĩ rằng làm như thế là họ đang tôn vinh Thiên Chúa. Tháng 10 năm 1995, Yigal Amir, một tín đồ Do thái Chính thống, đã bắn chết Yitzhak Rabin. Thỉnh thoảng, những người Palestine mang bom tự sát đánh lại người Israel, giết chết đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô tội, đều là những tín đồ Hồi giáo chính thống. Năm 1994, Paul Hill, kẻ đã giết chết một bác sĩ và người cận vệ của ông bên ngoài một dưỡng đường phụ sản, là một cựu linh mục thuộc Giáo hội Trưởng lão ở Scotland. Đây chỉ là một ví dụ. Thiên Chúa không muốn lấy điều ác đáp trả lại điều ác, lấy đau khổ đáp trả lại đau khổ, lấy mạng đền mạng. Các trang lịch sử nhuộm tràn đầy máu do những người tự cho mình là “kẻ báo thù của Thiên Chúa”. Những vua chúa và nguyên thủ các quốc gia đã giết chết người, đòi hỏi uy quyền và ân sủng của Thiên Chúa cho những hành động đen tối của họ.
Câu chuyện trên chứng tỏ rõ ràng về chiều sâu nơi lòng tin của Abraham.. Ông được chuẩn bị để hy sinh điều quí giá nhất của ông. Lòng tin ngoại hạng của ông đã được trọng thưởng một cách đặc biệt. Không có gì đáng thắc mắc, khi chúng ta gọi ông là “cha của những kẻ tin”.
Câu chuyện trên lên án tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách cướp đi một mạng sống. Nhưng Đức Giêsu đề cập đến một điều gì đó mang tính cách thách đố hơn nhiều: đó là tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tự cống hiến chính cuộc đời của mình, để phục vụ Thiên Chúa và người khác. Người đã đưa ra một gương mẫu nơi chính bản thân Người. Thiên Chúa không hề đòi hỏi nơi Đức Giêsu mạng sống của Người. Nhưng Đức Giêsu đã tự hiến thân mình một cách tự do, trong việc phục vụ Thiên Chúa và người khác. “Cống hiến chính cuộc đời của mình” không nhất thiết là phải chịu chết. Điều này có nghĩa là sống vì người khác.
--------------------------
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đứng về phía chúng ta. Do đó, gian truân, đau khổ, và cả sự chết cũng không thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta nhận thấy nơi Đức Kitô.
Maya Angelu, một thi sĩ và tác giả người Mỹ, là một người phụ nữ khôn ngoan và cũng có đời sống thiêng liêng. Chị kể là vào một ngày kia, chị đã được thức tỉnh về mặt tôn giáo. Điều này xảy ra theo một cách thức rất đơn giản. Chị ngoài 20 tuổi, và vừa mới di chuyển đến San Francisco. Chị nói rằng lúc đó, chị là một người tích cực theo thuyết bất khả tri. Điều này không có nghĩa là chị không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa, mà chỉ là dường như Thiên Chúa không còn ở nơi những người sống chung quanh mà chị thường hay giao du với. Thế rồi có một giáo viên giới thiệu với chị một cuốn sách tựa đề là Những Bài Học về Chân Lý. Chị kể rằng vào một ngày kia, người giáo viên đó yêu cầu chị đọc cuốn sách đó cho ông ấy. Tôi lên 24 tuổi có học thức và cũng rất trần tục. Thầy giáo của tôi yêu cầu tôi đọc một phần trang sách chấm dứt bằng câu “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Tôi đã đọc đến đây rồi gấp sách lại, nhưng thầy giáo bảo tôi “Cứ đọc lại đi”. Tôi mở sách ra, và đọc một cách mỉa mai “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Ông bảo “Đọc nữa đi”. Sau đến 7 lần đọc đi đọc lại tôi bắt đầu cảm thấy rằng câu nói đó có thật, và có thể Thiên Chúa đã thực sự yêu thương tôi. Vâng, Người yêu thương tôi, Maya Angelu.
Đột nhiên, tôi bắt đầu khóc to. Tôi biết rằng nếu Thiên Chúa yêu thương tôi, thì tôi có thể làm được những điều kỳ diệu, tôi có thể làm được những điều vĩ đại, học hỏi, hoàn tất được bất cứ thứ gì. Bởi vì cái gì có thể chống lại tôi, nếu Thiên Chúa ở với tôi, bởi vì bất cứ người nào ở với Thiên Chúa, thì đều tạo được ưu thế.
Đối với Maya Angelu, mặc dù chị vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa, nhưng dường như Người quá xa vời và không có thật. Chỉ đến khi chị tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương mình, thì Thiên Chúa mới có thật đối với chị. Thế rồi niềm tin đó đem lại năng lực cho chị. Đột nhiên, chị cảm thấy rằng mình có thể làm được tất cả mọi sự, đương đầu với bất cứ thứ gì, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chị và ở với chị. Đức Giêsu vừa mới bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem của Người. Cho đến thời điểm này, chủ yếu Người làm việc ở Galilê. Ngay cả ở đó, khu vực mà Người lớn lên. Người đã gặp nhiều sự chống đối từ phía các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng khi lên Giêrusalem, Người cảm nhận được rằng một cái chết khủng khiếp chờ đợi Người tại đó. Tự nhiên, Người thoái lui trước số phận. Dường như Người phải suy niệm và cầu nguyện về điều này, và phải đi lên đỉnh núi Tabor.
Đức Giêsu có một kinh nghiệm tuyệt hảo trên ngọn núi đó. Người lắng nghe những lời nói tuyệt vời này “Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về Con”. Nói cách khác, Người biết rằng Thiên Chúa yêu thương Người. Lời xác nhận này sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với tương lai, bất kể nó tiếp diễn ra sao. Vấn đề của chúng ta là ngay khi gặp rắc rối, lòng tin của chúng ta bị lung lay. Chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa bỏ rơi mình. Nhưng nếu cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi chúng ta, nhưng Người hằng ở với chúng ta trong khi chúng ta gặp gian khổ.
Trong tất cả mọi lúc, đặc biệt trong những lúc khó khăn, chúng ta nên ghi nhớ lời thánh Phaolô “Thiên Chúa đứng về phía chúng ta”. Và khi Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, chúng ta có thể đương đầu với bất cứ điều gì.
Cách nhận biết rằng không gì có thể chia cách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, đó là sức mạnh trong những lúc yếu đuối, và niềm hy vọng của chúng ta những khi gặp nghịch cảnh. Khi gặp đau khổ, tất cả điều chúng ta phải làm là phó thác thân mình cho sự chăm sóc của Người. Giống như Đức Giêsu trên núi Tabor, chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được những giây phút hiếm hoi của ánh sáng và niềm vui. Chúng ta được thoáng nhìn thấy đất hứa mà chúng ta đang tiến tới trong lòng tin. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, ngay trên trái đất này. Thiên Chúa cho phép chúng ta nếm được những niềm vui của thế giới sắp đến.
--------------------------
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc 1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Abraham và Sara, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Abraham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của một người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị gì không ? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
--------------------------
– Lm. Nguyễn hưng Lợi
Tin Mừng hôm nay ghi lại khi biến hình trên núi Taborê cho các môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan, Thiên Chúa đã long trọng giới thiệu với ba tông đồ:" Đây là người Con rất yêu dấu". Phụng vụ chúa nhật II mùa chay còn đi xa hơn nữa và đây là điểm chính: Thiên Chúa Cha rất chạnh lòng thương nhân loại tội lỗi, đã hy sinh Người Con Một yêu dấu của mình là Đức Giêsu Kitô đến đền thay tội lỗi nhân loại.
Lòng tin rất cần thiết để nhận ra lòng xót thương của Thiên Chúa:
Abraham là mẫu gương chói ngời về lòng tin( bài đọc I). Abraham tin vào lời Chúa, hai ông bà hạ sinh được người con trai duy nhất là Isáac trong lúc hai ông bà đã đi vào tuổi xế chiều, không thể nào sinh nở. Lòng tin ấy lại tăng cao khi Thiên Chúa bảo Ông Abraham hãy bỏ quê cha đất tổ mà tới một xứ, ông chưa bao giờ biết. Abraham đã tin, đã bỏ quê hương xứ sở của mình mà tiến về đất xa xôi như lời Thiên Chúa phán. Đức tin của ông lại còn sắt đá hơn khi Thiên Chúa truyền lệnh hạ sát người con duy nhất mà ông đã khó nhọc có được trong lúc tuổi già, lúc mà Thiên Chúa hứavới ông sẽ cho dòng dõi đông như sao trên trời như cát ngoài bãi biển. Abraham đã tin, nhưng Thiên Chúa hiểu rõ ông. Điều tối ư quan trọng là Thiên Chúa Cha sẽ thực hiện việc tế sát con Ngài là Đức Giêsu Kitô trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Thiên Chúa chính là người Cha: " không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta "( bài đọc 2 ).Đức tin là điều kiện tiên quyết để con người đạt được nước trời, chiếm lĩnh được Chúa. Abraham đã tin, nên Ông đã được Chúa ban cho lời hứa và lời hứa được thực hiện...
Biến cố Chúa Giêsu biến hình
Sau lời tuyên tín của Phêrô đại diện các tông đồ nói với Chúa Giêsu: "Thầy là Đức Kitô". Đức Kitô có nghĩa là từ Thiên Chúa mà đến, là Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu khen ngợi Phêrô về lời tuyên tín phát xuất từ Chúa Cha mạc khải. Liền đó, Phêrô lại cản ngăn đường Chúa đi, con đường thập giá tuân theo ý Cha. "Lạy Thầy, không thể được ! Chuyện ấy không thể xẩy ra cho Thầy được ! ". Chúa Giêsu bèn nói với Phêrô: " Hỡi Satan, hãy xéo khỏi mặt ta ! Con chỉ làm cản trở con đường của Thầy thôi ! Vì những tư tưởng ấy của con không phải phát xuất từ Thiên Chúa mà là từ con người "( Mt 16, 22-ABC23 ). Chúa Giêsu biến hình trên núi để chứng tỏ vinh quang của Người, vinh quang ấy các tông đồ cũng sẽ được hưởng nếm. Chúa biến hình và từ trời Thiên Chúa Cha giới thiệu với các môn đệ:" Đây là người con rất yêu dấu ".
Biến hình cùng với sự chiếu sáng của y phục Ngài là triệu báo cho sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Tiếng Thiên Chúa Cha và tiếng Chúa Giêsu là sự kiện cần thiết để củng cố lòng tin của các môn đệ và dẫn đưa các tông đồ vào giai đoạn chót của công trình cứu chuộc. Tin Mừng thánh Marcô cho thấy việc Chúa Giêsu biến hình xẩy ra sau lời loan báo của Chúa Giêsu lần thứ nhất là Ngài sẽ phải đau khổ nhiều, chịu chết và sống lại. Lời loan báo này chắc chắn đã làm cho các tông đồ hết sức bỡ ngỡ, hoang mang, lo lắng. Chết sống lại đã được một số người Do Thái lúc đó tin theo, nhưng ở đây các môn đệ sẽ rất khó hiểu và khó chấp nhận khi Chúa Giêsu nói Ngài phải ngang qua cái chết thập giá. Chúa Giêsu đã không tự đi tìm cái chết, nhưng đây là một sự chọn lựa, một cách thế làm theo ý Chúa Cha. " Ta đến để thi hành thánh ý Cha " hoặc "Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha ".
Chúa thi hành ý định của Thiên Chúa Cha là cứu độ nhân loại, yêu thương loài người:" Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu "( Ga 15, 13 ). Đức tin của Phêrô, Giacôbê và Gioan có lúc rất mạnh, nhưng sau đó sẽ leo lét như trong biến cố vườn Giếtsêmani: " Tâm hồn Thầy buồn rầu đến chết" ( Mt 26, 38 ). Phêrô chối Chúa, các môn đệ bỏ trốn v.v...Khi gặp những lúc khủng hoảng về đức tin, ta hãy nhớ tới Abraham vì Abraham luôn tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. " Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hức cho những ai yêu mến Ngài "( Gc 1, 12 ).
Đời sống có thể vụt sáng như ba môn đệ trên núi Taborê, nhưng nó sẽ bị chìm khi bị thử thách như các môn đệ trong biến cố Chúa Giêsu bị án chết. Trong mọi hoàn cảnh cứ phó thác, tin tưởng, cậy trông Thiên Chúa sẽ thưởng, sẽ gia ân, giáng phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được muốn vinh quang phải trải qua thập giá.
Gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao Chúa Giêsu lại biến hình trên núi ?
2. Lòng tin của bạn ra sao ?
--------------------------
- Lm. Vincent Travers OP.
Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabôrê (Luca 9). Phêrô la lên: "Lạy Chúa, chúng ta ở đây thú vị biết bao!"Thật thế, các ông thấy được một khía cạnh nơi Chúa Giêsu mà các ông chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Điều nầy lưu lại một ấn tượng sâu xa giúp các ông đứng vững trong những ngày đen tối đầy thử thách đang trải dài trước mắt các ông. Từ đây trở đi, Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là một rabbi, con ông thợ mộc ở Nagiarét. Giờ đây Ngài là Đức Kitô, con yêu dấu của Thiên Chúa.
Đã thấy vinh quang
Dòng chữ đầy ý nghĩa nhất ở trong phần mở đầu của đoạn Phúc Âm nầy là: "Chúa Giêsu đã đem ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện." Chúng ta cũng có thể nhớ lại một dịp về sau khi Ngài đem riêng bộ ba đó theo Ngài. Đó là khi ở trong vườn Giếtsêmani. Ở trên núi Tabôrê họ đã thấy vinh quang của Chúa. Ở trong vườn cây dầu, họ đã chứng kiến cảnh hấp hối của Chúa. Đó là lúc trèo lên núi cao. Đó là lúc tụt xuống đất thấp. Ở trên cao họ đã được hỗ trợ cho khi phải xuống đất thấp. Kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay đã ghi lại như sau: "Ngài đã mạc khải vinh quang của Ngài để tăng sức cho họ khi phải đối diện với sự nhục nhã của thập giá." Thật đúng như vậy, nhưng một câu hỏi đã được đặt ra: "Còn đối với chúng ta thì sao?".
Chúng ta có thể đối đầu với nhiều chống đối và bách hại, thử thách và áp lực, nếu chúng ta có được một dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa cho thấy rồi ra cuối cùng mọi sự sẽ được êm xuôi, đâu vào đấy. Chúng ta có điều gì để bám víu vào, có mạc khải nào cho thấy chúng ta sẽ trải qua cơn khủng hoảng khi mất đi một người thân yêu, khi bị sa thải mất việc hoặc bị chối bỏ trong một sự tương giao... mà những điều đó xem ra là cả một vũ trụ đối với chúng ta? Câu trả lời là "có". Trong thực tế, chúng ta đã có những lúc được thấy Chúa biến hình khi Ngài tự mạc khải cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta thấy - thấy và nhận thấy điều gì đang xảy ra đó. Sự nghịch lý lớn lao ở trong Thánh kinh là: "ai có đôi mắt thì bị mù, còn ai mù thì có thể thấy".
Thiên Chúa vô hình
Những nhà thần bí học đã đề cập đến đệ tam nhãn - con mắt thứ ba. Họ nói tới việc nhìn thấy với con mắt của tâm hồn. Họ nói cho chúng ta rằng nếu chúng ta nhìn xem bề ngoài thì chúng ta đánh mất điều cơ bản, cái thực tại ở bên trong. Có một câu đầy ý nghĩa trong sách "The Little Prince"(Vị Tiểu Hoàng Tử). Câu đó là:
"Điều gì cơ bản thì con mắt không thể thấy được."
Một quyển sách khác - quyển "Reaching For The Invisible God"(Đạt Tới Thiên Chúa Vô Hình) - đã đặt câu hỏi: "Ở đâu chúng ta có thể trông mong gặp được Thiên Chúa Vô Hình?" .Joseph Mary Plunket, thi sĩ người Ái-Nhĩ-Lan là với khả năng con người, đã nhìn thấy Thiên Chúa vô hình ở trong thiên nhiên. Ông đã cảm hứng viết ra bài thơ sau đây:
"Tôi đã thấy huyết Ngài trên đóa hoa hồng,
Và vẻ đẹp của đôi mắt Ngài trên những vì sao.
Thân thể Ngài chiếu sáng giữa màn tuyết trắng muôn thuở,
Những giọt lệ Ngài rơi lã chã từ bầu trời cao."
Thiên Nhiên đã cung ứng cho thi sĩ Plunket những dịp biến hình và ngạc nhiên thay, ông đã chiêm ngắm vinh quang Thượng Đế trong một đóa hoa tươi, một hạt mưa rơi và một cụm tuyết trắng.
Chúng ta cũng thế, chúng ta được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa vô hình với khả năng con người chúng ta. Phải chăng đôi khi chúng ta đã không hỏi một người thân yêu hãy "nhận ra chúng ta" trong đám quần chúng đông đảo sao? Sự thật họ đã nhận ra và chúng ta vui sướng biết bao khi thấy họ nhận ra chúng ta trong đám đông đó. Chúng ta hãy nhận ra Thiên Chúa với con mắt của tâm hồn. Ngài đến với chúng ta không phải theo cung cách chúng ta nhưng theo cung cách của Ngài. Có thể chúng ta không nhận chân sự hiện diện của Ngài trừ khi chúng ta cố nhìn ra Ngài.
Thiên Chúa trong tô cháo gà
J.D. Salinger đã viết quyển sách "Fanny and Zooey" khiến người đọc phải choáng váng. Một cảnh gây nên ấn tượng lớn là khi Fanny từ trường cao đẳng về nhà, thần kinh bại hoại thê thảm. Cô đang nghiên cứu tỉ mỉ nền thần bí học về đạo giáo và cố gắng đó đã khiến cô căng thẳng tột độ. Thêm vào đó, mẹ cô cảm thấy lo lắng bồn chồn và để biểu lộ điều đó, bà đã dọn cho cô một tô cháo gà. Fanny rõ biết mẹ cô đang ra sức vỗ về cô nhưng sự trao tặng đó chọc giận cô khiến cô văng tục.
Em trai Fanny đang ngồi bàn ăn, nhảy nhổm lên và đối đầu với cô. Cậu thẳng thừng bảo cô là toàn bộ lối tiếp cận của cô đối với tôn giáo đều sai lầm hết: "Nếu tôn giáo là điều chị truy tầm, thì đây là lúc có người nói cho chị biết là chị đang đánh mất mỗi một tác động về tôn giáo đang xảy ra trong căn nhà nầy. Chị không có chút nhận thức khi thưởng thức một tô xúp đã được thánh hóa và đó là loại xúp duy nhất mà mẹ dọn ra trên bàn ăn nầy."
Cậu em đã thấy điều mà cô chị không thấy. Cậu đã nhìn thấy với đệ tam nhãn, sự mạc khải của tình yêu Thiên Chúa ở trong tô cháo gà của mẹ cậu. Fanny mù mắt. Cô có đôi mắt nhưng cô đã không thể thấy. Cô đã không thể thấy Đức Kitô ở trong cuộc sống tầm thường. Cô không thể thấy Ân sũng Thiên Chúa trong một tô cháo gà. Có thể cô đã ganh tị với Phêrô, Giacôbê và Gioan ở trên núi Tabôrê, nhưng cô cũng có một kinh nghiệm về biến hình và giả như cô đã quan sát , có thể cô đã được biến đổi và cô sẽ la lên: "Lạy Chúa, Con tạ ơn Chúa, thật thích thú được ở nơi đây, tại bàn ăn nầy."
Sự mạc khải có thể đã nuôi dưỡng cô, nâng đỡ cô khi xuống tinh thần và giúp đỡ cô qua cơn khủng hoảng.
Thiên Chúa ở đây
Đối với chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể chứng kiến những cuộc biến hình trong đời sống chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều đó nhưng thường khi đôi mắt chúng ta mất cơ hội thấy Ngài trong cuộc sống thường nhật, khi chúng ta thưởng thức một tô xúp nóng, khi ngắm xem một buổi chiều tà hay một đóa hoa xinh, khi được trao tặng một nụ cười tươi, khi đón tiếp những người anh chị em bất hạnh nhất của chúng ta. Thánh kinh cho chúng ta rõ hoặc là chúng ta thấy Chúa khắp mọi nơi hoặc là chúng ta không thấy Ngài ở đâu hết. Mỗi một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa vô hình là một lúc đầy ân sũng khiến chúng ta phải la lên: "Lạy Chúa, chúng con ở đây thật thích thú biết bao!"
Thích thú cho đến đỗi Phêrô, Giacôbê và Gioan đã muốn ở lại mãi trên đỉnh núi Tabôrê. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn dắt họ xuống núi. Không ai sống mãi trên một đỉnh núi. Thỉnh thoảng lên đó một lúc và rồi sau đó phải đi xuống thật xa để có những hoài vọng và cảm hứng mới. Chúng ta phải xuống núi. Sống là sống trong những thung lũng, làng mạc và thị thành. Chính ở đó có nhà cửa, trường ốc, bệnh xá, nhà tù, công sở, hảng xưởng và dinh thự...Đó là nơi người ta sinh hoạt, nơi có sự yêu thương và tha thứ, nơi có được miếng cơm manh áo, nơi vác thánh giá hằng ngày, nơi pha lẫn tiếng khóc và tiếng cười, đàn hát nhảy múa kể cả sinh hoạt cho phần rỗi linh hồn. Đó là nơi làm cho những mảnh đời chúng ta có ý nghĩa. Đó là nơi chúng ta đem thi thố những hoài bão và ước vọng. Chúng ta nên làm chiếu tỏa ánh sáng của núi Tabôrê trong đời sống chúng ta, ánh sáng mà qua đó bộ mặt nhân loại của chính Thiên Chúa được mạc khải.
--------------------------
- Gier. Nguyễn Văn Nội.
Trọng tâm của Phụng vụ Chúa Nhật II Mùa Chay Năm B là việc Thiên Chúa Cha giới thiệu Đức Giêsu, Con yêu dấu của Người, cho chúng ta và mời chúng ta hãy nghe lời Người Con ấy. Đó cũng là điều cốt yếu nhất của đời sống Kitô hữu. Chúng ta hãy đón nhận sứ điệp và tìm cách đáp lại lòng mong đợi của Thiên Chúa như tổ phụ Apraham đã hết lòng tin tưởng phó thác và vâng phục Thiên Chúa.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1: St 22,1-2.9A.10-13.15-18. Là câu chuyện Apraham dâng đứa con duy nhất của mình là Isaác làm lễ tế cho Thiên Chúa theo lệnh truyền của Người. Thật ra Thiên Chúa chỉ thử lòng tổ phụ xem ông có hết lòng với Người không thôi. Và một khi Thiên Chúa đã thấy Ápraham hết lòng với Người rồi thì Người long trọng thề hứa với ông: "Bởi vì ngươi đã không tiếc con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sai trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta"
2. Bài đọc 2: Rm 8,31b-34. Để thuyết phục tín hữu Roma (và tín hữu ở khắp mọi nơi mọi thời) tin vào Tình Thương vô bờ bến của Thiên Chúa, Thánh Phaolô lý luận một cách chắc nịch: "Một khi đã ban Con Một của Người cho chúng ta, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không ban tất cả cho chúng ta?"
3. Bài Tin Mừng: MC 9,2-ABC10. Là câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi, trước mặt ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Ba môn đệ này chẳng những thấy Thầy mình thay hình đổi dạng sáng láng rạng ngời, mà các ông còn thấy cả Elia và Môsê là hai nhân vật nổi tiếng của Cựu ước xuất hiện và đàm đạo với Đức Giêsu. Êlia tượng trưng cho hàng ngũ các Ngôn sứ, còn Môsê tiêu biểu cho Lề Luật. Elia và Môsê tượng trưng cho Cựu Ước, cho truyền thống ngàn đời của Giao Ước Sinai. Trong khung cảnh "thần tiên" ấy ba môn đệ còn nghe được lời của Thiên Chúa Cha vang lên từ trong đám mây: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Đó chính là sứ điệp của Lời Chúa dành cho ba môn đệ thân tín của Đức Giêsu xưa và cho tất cả mọi Kitô hữu ngày nay.
Sứ điệp của Lời Chúa: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người"
1. Sứ điệp dành cho ba môn đệ thân tín của Đức Giêsu xưa: Trước hết, lời "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người" là sứ điệp Thiên Chúa Cha gửi trực tiếp cho ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Sau này ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê còn được hưởng một ưu ái khác của Đức Giêsu là được vào Vườn Cây Dầu với Thầy.
Nghe lời Đức Giêsu không có nghĩa là nghe tiếng Người nói mà là nghe theo lời Người dạy, tức làm theo lời Người dạy. Phúc âm cho chúng ta thấy ba môn đệ này (cũng như các môn đệ khác) không hề dễ dàng hiểu được đường lối của Thầy. Sau hai lần loan báo về Cuộc Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu lên đường tiến về Giê-rusalem, thì hai ông Gioan và Giacôbê còn ‘vận động ngoại giao’ để được giao hai ghế quan trọng nhất trong chính phủ mà các ông tưởng là Thầy mình sẽ thành lập: một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả: tức một người là cánh tay mặt, một người là cánh tay trái của Đức Giêsu! Còn Phêrô thì đã chối Thầy ba lần khi bị một người đầy tớ gái hạch hỏi. Các sự kiện trên cho chúng ta thấy đón nhận sứ điệp lời Chúa thật không đơn giản, ngay với các môn đệ thân tín của Đức Giêsu. Chỉ sau khi nhận được Thánh Thần, thì các ông mới hiểu và mới có sức mạnh để sống theo sứ điệp ấy một cách trọn vẹn.
2. Sứ điệp cho tất cả các Kitô hữu ngày nay: Nhưng lời "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người" cũng là sứ điệp mà Thiên Chúa Cha dành cho mọi Kitô hữu thuộc mọi thời, ở mọi nơi. Vì mọi Kitô hữu đều đã nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa và của chính Đức Giêsu để trở thành môn đệ của Người. Môn đệ thì phải nghe Thầy, phải sống theo Thầy là lẽ đương nhiên.
3. Chúng ta phải làm gì để đón nhận và sống sứ điệp của Thiên Chúa?
Muốn nghe lời Đức Giêsu thì chúng ta phải yêu mến Người hết lòng, hết sức, hết trí khôn và hết linh hồn. Chúng ta chỉ có thể yêu mến Đức Giêsu như thế khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương vô bờ bến của Chúa Cha và của chính Đức Giêsu dành riêng cho chúng ta. Chúa Cha đã không tiếc gì với chúng ta, đến Con Một yêu dấu của Người, Người còn ban "nhưng không" cho chúng ta. Chúa Giêsu Kitô đã chịu mọi cực hình, đã chịu chết trên thập giá và đã đổ hết máu mình vì chúng ta. "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của kẻ đã hiến mình vì người mình yêu" Đức Giêsu đã tuyên bố như thế và đã thực hiện lời tuyên bố ấy một cách trọn vẹn. Đáp lại tình yêu trời biển của Thiên Chúa Cha, của Thiên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, người Kitô hữu không có cách nào khác ngoài cách yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn. Chỉ có lòng yêu mến với cường độ cao như thế mới thúc đẩy người Kitô hữu nên giống Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người. Muốn yêu mến, nên giống Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người thì người Kitô hữu phải biết Người (vô tri bất mộ). Không phải biết cách hời hợt, qua loa như đại đa số giáo dân Việt Nam, mà biết cách sâu sắc như những người bạn tâm giao, như những cặp vợ chồng biết nhau. Muốn biết Chúa Giêsu sâu sắc như thế thì người Kitô hữu phải thường xuyên gặp gỡ, gần gũi, trò chuyện, tâm tình với Người, tức phải đi vào lòng Người. Đó chính là đời sống cầu nguyện, đời sống nội tâm. Đó chính là cách sống đạo lấy Lời Chúa làm trung tâm, làm động lực và làm khởi điểm mọi suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu. Vì thế mà việc siêng năng đọc, suy niệm, học hỏi và cầu nguyện với Lời Chúa trong Thánh Kinh, nhất là trong Tân Ước, cách riêng trong 4 Phúc Am phải là một thực hành thường xuyên nhất, tức ‘thường nhật’ của người Kitô hữu. Cũng vì thế mà mọi hoạt động của Thừa Tác Vụ Lời Chúa của Giáo hội (giáo lý, bài giảng, sách báo…) phải tập trung vào việc giúp người Kitô hữu biết cách tiếp cận với Lời Chúa một cách hiệu quả và phong phú.
Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy nhiều giáo xứ chưa quan tâm đủ đến công việc quan trọng này. Giáo lý trẻ em và tân tòng, thay vì ép các em học thuộc lòng những câu, những ý của bài học giáo lý, việc quan trọng hơn là chúng ta giúp các em biết sống thân mật, riêng tư với Chúa, biết cách nói với Chúa và nhất là biết nghe Chúa nói với mình; là chúng ta tập cho các em thói quen đọc Phúc Am mỗi ngày và tích cực học hỏi Thánh Kinh. Do cách giáo dục đức tin nặng tính lý thuyết kể trên, nên ngày nay nhiều giáo dân Việt Nam vẫn không hiểu Lời Chúa có tầm quan trọng như thế nào, và trong cách hành đạo họ chỉ dừng lại ở việc đọc kinh và tham dự thánh lễ một cách chiếu lệ, hình thức. Thiết tưởng công việc hết sức quan trọng và cấp bách mà Giáo hội Việt Nam phải thực hiện lúc này và từ nay trở đi là tập cho mọi giáo dân có thói quen đọc Phúc Am mỗi ngày, biết lắng nghe, đón nhận và thực thi Lời Chúa một cách tự nguyện tự giác, biết cách cầu nguyện tự phát với Lời Chúa trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của họ.
SỐNG LỜI CHÚA
Mỗi ngày tôi sẽ dành tối thiểu 15 phút để đọc, suy niệm Lời Chúa và trao đổi tâm tình với Chúa Giêsu Kitô, để đón nhận và thực thi Lời Người.
CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
* Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã cho chúng con biết Đức Giêsu là Con Yêu Dấu của Cha và đã nhắn nhủ chúng con hãy nghe lời Người. Xin Cha ban cho chúng con lòng yêu mến Đức Giêsu Kitô Con Yêu Dấu của Cha và biết chăm chú lắng nghe Lời Người.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con rất muốn thực hiện điều Chúa Cha đã căn dặn chúng con "Này là Con Ta yêu dấu hãy nghe lời Người". Chúng con muốn nghe lời của Chúa. Chúng con muốn thực hành lời của Chúa. Nhưng chúng con yếu đuối, không đủ sức mạnh, không đủ can đảm, không đủ tin tưởng phó thác để sống theo lời Chúa dạy. Xin Chúa ban ánh sáng, sức mạnh, lòng tin tưởng cho chúng con để chúng con thực hiện được điều Chúa ước muốn và chờ đợi ở chúng con.
* Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con biết rằng: chúng con chỉ có thể thực hiện được lời căn dặn của Thiên Chúa Cha "hãy nghe lời Người" khi chúng con được Chúa Thánh Thần tác động. Xin Chúa hãy đổi mới tâm hồn chúng con một cách mạnh mẽ để chúng con biết đón nhận và thực thi sứ điệp Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
--------------------------
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thì thật là vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng, như cái chết của người thân yêu làm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín thác vào Lời Chúa. Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không phải bằng đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói và Chúa làm, không phải vì chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị 'hớp hồn' khi được nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là ai: "Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe Lời Người."
Biến cố hồng phúc hôm nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp "đâu vào đấy" thì rất hiếm hoi và họa hoằn "năm thì mười họa". Không ai có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình, nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi vào trong vinh quang phục sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương tích của chúng ta và làm cho chúng ta rập khuông với thân xác vinh hiển của Người, thì con đường chúng ta đi chính là con đường thương khó của riêng Chúa thôi.
Biến cố Biến Hình hôm nay nói với chúng ta không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình với những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt xét lại thì không đáng sống. Để cho Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống của thế gian bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ không ai trong chúng ta sẽ được kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham xưakia, nhưng phần đông chúng ta được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của mình và tránh xa những lời nói việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc cuộc sống cộng đồng. Để thắng vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người trưởng thành chín chắn, chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì không có gì đáng giá mà lại đơn giản và dễ chiếm đoạt.
--------------------------
- Lm. VIKINI
“Lạy Thầy, chúng con ở đây sướng quá, chúng con xin dựng ba nhà, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia”. Đây là tâm sự của Phêrô lúc được hưởng hạnh phúc Chúa biến hình rực rỡ vinh quang, một hạnh phúc thiên đàng vừa hé mở. Phêrô đã thuật lại rất sống động tâm sự này cho các tín hữu đang chịu thử thách cam go vì đạo, và được Marcô, con tinh thần của Phêrô viết lại.
Thánh Phêrô đã quả quyết có hạnh phúc đời đời để cho mọi người tin tưởng vững vàng sống theo lời Chúa, sẵn sàng hy sinh vì đức tin, họ sẽ được vinh quang nước trời. Một thứ hạnh phúc làm ngây ngất mãi mãi. Một thứ hạnh phúc sáng láng rực rỡ toát ra từ chính con người của Đức Giêsu, chứ không phải thứ ánh sáng bên ngoài bao phủ Người. Ánh sáng đó là chính ánh sáng Ngôi Lời Thiên Chúa. Gioan đã được cùng với Phêrô hưởng ánh sáng rực rỡ này nên khi mở đầu sách Tin mừng thứ bốn, Gioan đã viết: “Ngôi Lời là sự sáng đích thực, sáng soi cho mọi người” (Ga. 1, 9).
Trong lễ dâng Đức Giêsu vào đền thờ, tiên tri Simêon đã nhìn thấy “Người là ánh sáng muôn dân, là vinh quang của dân Chúa” (Lc. 2, 32). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai tin Tôi sẽ không ở trong tăm tối” (Ga. 12, 46). Nhất là khi “Người sống lại sáng chói rực rỡ khiến quân dữ ngã lăn bất tỉnh” (Mt. 28, 3-4). Do đó, trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng”. Và trong kinh cầu chúng ta tung hô: “Chúa Giêsu là mặt trời soi đường công chính”.
Ánh sáng đó làm cho những người công chính như Môisen, Êlia được vinh phúc tràn ngập đời đời, còn người phàm đã biết theo Chúa như Phêrô, Giacôbê, Gioan cũng được ngây ngất chút đỉnh rồi lịm đi vì chưa đủ sức chứa đựng ánh sáng huy hoàng của nước trời, còn kẻ dữ phải khiếp sợ chết xỉu đi.
Từ hạnh phúc biến hình núi Tabor, Đức Giêsu dẫn đưa các môn đệ vượt qua đau khổ núi Sọ để đến hạnh phúc vinh quang phục sinh muôn đời.
Hôm nay Giáo hội là mẹ nhân lành theo gương Chúa Giêsu, cũng muốn dẫn đưa con cái mình là chúng ta từ hạnh phúc núi Tabor vượt qua biển khổ trần gian đến hạnh phúc vinh quang phục sinh bất diệt.
Không một thứ hạnh phúc thế gian nào sánh được. Hạnh phúc thế gian luôn luôn chất chứa đắng cay, đau khổ như ma túy, rượu chè, cờ bạc, trai gái. Khi chưa được thì thèm khát, khi mắc vào thì chán ngán, thất vọng, càng sa bẫy, càng bị kìm kẹp trong đau khổ tuyệt vọng.
Thí dụ: Tôi biết có anh chị đậu cao học (Master), quen nhau, yêu nhau nồng nàn suốt hai năm trời. Lễ cưới chi phí đến 20.000 đô. Họ hàng bạn bè, ai cũng mừng cho đôi uyên ương hạnh phúc. Nhưng chỉ được một tuần, giận nhau, bỏ nhau, đoạn tuyệt. Cha mẹ khuyên can cực lòng đến sinh bệnh, con cũng chẳng nghe.
Đấy là những hạnh phúc của thế gian.
Còn hạnh phúc của Thiên Chúa ban thì chưa thấy một đấng thánh nào chán cả. Phêrô được hưởng rồi, đã ra sức cố gắng nghe lời Con Yêu Dấu đến nỗi phải hy sinh chịu đóng đanh chết trên thập giá, vẫn luôn luôn “sướng quá”. Phaolô khi té ngựa được thấy ánh sáng rực rỡ của Đức Giêsu, dù mắt mù đi, ông đã bỏ đạo Biệt phái, đạo tổ tiên mà ông đã hăng say học hỏi từ nhỏ và cuồng nhiệt chống đối, bắt bớ kẻ phản đạo đó, để trở về với ánh sáng Đức Kitô, làm tông đồ của Đức Giêsu, một tông đồ vĩ đại nhất, nhiệt thành truyền đạo Ánh sáng nhất, chịu nhiều cực hình đau khổ nhất. Biết bao nhiêu các thánh tử đạo chỉ được thấy ánh sáng đức tin, đã coi cực hình thân xác nhẹ như lông hồng.
Muốn được hạnh phúc như các ngài, ta phải đến với ánh sáng Đức Kitô, nghe lời Con yêu dấu Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Abraham đã triệt để nghe lời Người, đến nỗi sẵn sàng sát tế con mình để tỏ lòng trung thành kính mến Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hài lòng về tinh thần nghe lời Người của Abraham hơn là của lễ sát tế con ông. Vì: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần tế lễ” (Mt. 9, 13). Và nhờ đó “mọi dân trên mặt đất sẽ được chúc phúc, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Môisen đã nghe lời Người, dù kinh hoàng run sợ nghĩ đến phải trở về đối diện với vua Pharaon đang lùng bắt ông. Dù phải cực khổ vào sinh ra tử suốt bốn mươi năm trong sa mạc để dẫn đưa dân về đất Hứa.
Êlia đã nghe lời Người dù biết mình phải lao vào lưỡi gươm trả thù của hoàng hậu Giêzabel, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tà thần. Và hàng triệu, hàng tỷ người đã nghe lời Con yêu dấu của Chúa Cha, vì biết rằng: “Thiên Chúa bênh đỡ ta, ban tất cả cho chúng ta, chí như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc cho Con mình phải chết vì hết thảy chúng ta”, để “Con Người từ cõi chết sống lại” “sẽ cho chúng ta được sống lại vinh phúc với Người” (Rm. 8, 31-34).
Lạy Chúa, xin cho con lắng nghe lời Con yêu dấu Ngài, dù phải nhục nhã ê chề. Xin cho con trung kiên giữ trọn lời Người, dù phải chịu sát tế với Người, con vẫn một lòng thưa như tổ phụ Abraham: “Dạ con đây”.
--------------------------
A. Hạt giống...
Tường thuật Chúa Giêsu biến hình nằm trong phần thứ 3 của quyển Tin Mừng Marcô, phần được các nhà nghiên cứu Thánh Kinh đề tựa là “Mầu nhiệm Con Người”. Tường thuật này lại đi liền sau lời Chúa Giêsu loan báo cuộc chịu nạn sắp tới (MC 8,31-38). Như thế Chúa Giêsu biến hình nhằm cho các tông đồ biết về mầu nhiệm của Ngài: Ngài là Đấng vinh quang sáng láng ; nhưng Ngài chỉ sẽ hiển hiện sự vinh quang sáng láng đó sau khi chịu nạn chịu chết và sống lại.
B. ... nẩy mầm.
1. Phêrô muốn dựng lều cho Môsê, Êlia và Chúa Giêsu, nghĩa là ông thích hưởng cảnh vinh quang sáng láng. Nhưng cảnh đó chỉ diễn ra trong thoáng mắt, sau đó mọi sự trở lại như trước, Chúa Giêsu dẫn các ông xuống núi. Ai mà không thích thiên đàng, nhưng muốn lên thiên đàng thì trước đó phải vác thập giá theo Chúa.
2. Chúa Giêsu biến hình để trở lại hình ảnh vinh quang vốn có của Ngài trước đây. Chúng ta cũng thường biến hình, nhưng biến từ hình ảnh Thiên Chúa lúc mới được tạo dựng thành hình ảnh méo mó xấu xí vì tội lỗi. Mùa Chay là thời gian chúng ta phải cố gắng biến trở lại hình ảnh ban đầu.
2. Ba đồng tiền vàng: Thời trung cổ, có một vụ hành quyết tội phạm tại một thị trấn kia. Theo phép nước, chỉ có mỗi một lối thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số vàng 700 đồng mang theo. Hoàng hậu theo gương tặng 200 đồng. Các quan cũng dốc túi... Người ta đếm được tất cả 997 đồng, còn thiếu 3 đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành án lệnh. Toán hành quyết tròng giây thừng vào cổ tử tội, sửa soạn rút giây. Bỗng một tiếng kêu lớn "Khoan đã, lục soát người nó đi. Biết đâu đấy". Tên đao phủ lần giây lưng tội nhân, móc ra được 3 đồng tiền vàng hắn giấu kỹ từ trước...
Bài học rất dễ hiểu: Vua là Chúa cứu thế, hoàng hậu là Đức Maria, các quan là các thánh và các kitô hữu chân chính... Tất cả đã quyên góp thành một kho báu cứu độ. Dẫu sao vẫn thiếu một ít. Mỗi người chúng ta phải đóng góp bằng thiện chí của mình dù là một chút, để chắc tâm thực hiện được cuộc "vượt qua" từ đời sống tội lỗi lên đời sống thánh thiện. (Trích "Phúc")
3. “Từ trong đám mây có tiếng phán rằng: Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (MC 9,7b)
Tối hôm đó, sau khi đã từ giã bà con thân thuộc và những ân nhân, bạn hữu đến thăm, chỉ còn lại hai mẹ con trong nhà, bà Magarita âu yếm nhìn con và nói “Gioan của mẹ, hôm nay con đã là Linh mục của Chúa và con được diễm phúc cử hành Thánh lễ. Từ nay con đừng lo gì cho mẹ hết, nhưng hãy lo một điều duy nhất là cứu rỗi các linh hồn”. Những lời của mẹ, Gioan Boscô đã ghi lòng tạc dạ và đã nên thánh. Lời của một người mẹ còn có sức mạnh như thế, huống hồ là lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh ngàn lần. Vậy mà tôi lại xem thường, không để tâm thực hành trong cuộc sống.
Lạy Cha, xin giúp con làm những gì Chúa Giêsu đã làm, là hướng về Cha trong tâm tình cầu nguyện. Ước gì con cũng được nghe Cha nói với con “Con là con yêu dấu của Cha” (Epphata).
--------------------------
Chúa Nhật 2 MC –B
Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giê-su biến hình.
Đức Giê-su đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ.
Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái, núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái.
Đức Giê-su chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng.
Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giê-su gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng.
Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Mô-sê. Sau khi ở trên núi Si-nai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông.
Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phê-rô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giê-su đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giê-su phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phê-rô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn ?
2-ABC Cầu nguyện có thể làm con người Ềbiến hìnhỂ. Bạn có tin điều đó không ? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không ?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa ?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn Ềbiến hìnhỂ không ? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó ?
--------------------------
Chủ đề: Đức tin có những cao điểm và hạ điểm của nó. Nếu chúng ta luôn trung thành với niềm tin, Thiên Chúa sẽ chúc phúc và ban cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu.
John Updike có viết một truyện ngắn nhan đề “Những chiếc lông chim câu” (Pigeon Feathers). Câu chuyện nói về một cậu bé tên là Đavid, cậu bắt đầu biết nghi ngờ về niềm tin của mình. Một buổi tối nằm trên giường, Đavid đang suy tư về vấn đề của mình, thì đột nhiên cậu quyết định làm một thí nghiệm táo bạo. Cậu để hai bàn tay ở trên khăn trải giường, rồi nâng hai tay lên khỏi đầu, và xin Đức Giêsu đụng tới chúng. Trong khi Đavid nín thở chờ đợi, thì cậu nghĩ rằng cậu đang cảm thấy có một cái gì đó đụng vào bàn tay cậu, nhưng cậu không chắc lắm. Một lúc sau, cậu đưa tay trở về chỗ cũ mà không dám chắc chắn là có ai đụng vào tay cậu hay không. Tất cả chúng ta đều có thể có những Kinh nghiệm tương tự như David trong câu chuyện trên. Chúng ta cũng Kinh nghiệm được những lần chúng ta dường như bị mất niềm tin hay niềm tin bị ẩn khuất sau một đám mây. Lúc đó chúng ta trông đợi một cách thất vọng có một dấu hiệu nào đó chứng tỏ Thiên Chúa có thực và Đức Giêsu chính là con Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chúng ta nóng lòng được thấy một dấu hiệu vinh quang của Đức Giêsu giống như dấu hiệu mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được thấy như trong bài Tin Mừng hôm nay. ***
Điều đó khiến chúng ta tự hỏi: Tại sao Phêrô, Giacôbê và Gioan lại nhận được một dấu hiệu đặc biệt về vinh quang của Đức Giêsu như thế? Có thể là do những gì đã xảy ra trước đó một vài ngày lúc Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng Ngài sắp phải chịu đau khổ và chết tại Giêrusalem. Matthêu nói rằng khi Phêrô nghe những lời ấy, ông kêu lên: “Lạy Thầy, không thể được! chuyện ấy không thể xảy ra cho Thầy được!”. Chúa Giêsu bèn nói với Phêrô: “Hỡi Satan, hãy xéo khỏi mắt Ta! Con chỉ làm cản trở con đường của Thầy thôi: vì những tư tưởng ấy của con không phải xuất phát từ Thiên Chúa mà là từ con người” (Mt 16: 22-ABC25) Sau cái Kinh nghiệm khó chấp nhận ấy, chắc hẳn Phêrô, Giacôbê và Gioan cần làm liều thuốc bổ tinh thần. Có lẽ đó cũng là lý do khiến Giáo hội đem bài Tin Mừng hôm nay vào số bài đọc trong các Chúa Nhật mùa chay. Giáo hội muốn cho chúng ta một liều thuốc bổ tinh thần trước khi hướng toàn bộ chú tâm của chúng ta vào cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu tại Giêrusalem hôm Thứ Sáu Tuần Thánh. Điều này đưa chúng ta đến một điểm quan trọng về đức tin. Đức tin của chúng ta giống như một chiếc thuyền đi trên sóng. Có lúc được nâng cao lên, có lúc bị hạ thấp xuống. Nó có những điểm cao và điểm thấp của nó. Có lúc nó lên núi có lúc xuống đồi. Nói cách khác, có những lúc đức tin chúng ta cháy sáng rực. Nhưng cũng có những lúc leo lét dường như muốn tắt hẳn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, đức tin của Phêrô, Giacôbê và Gioan sáng rực mạnh mẽ. Nhưng chỉ một vài tháng nữa, đức tin của các ông leo lét hầu như muốn tắt luôn. Điều đó sẽ xẩy ra trong một vườn gọi là Giệtsêmani, trên một ngọn núi khác, núi Cây Dầu Matthêu đã mô tả sự việc đó như sau: “Đức Giêsu cùng với các môn đệ đến một chỗ kia gọi là Giệtsêmani, rồi Ngài nói với họ: “Hãy ngồi đây trong khi Thầy lại đằng kia cầu nguyện”. Ngài đem theo Phêrô và hai người con của Giêbêđê,(tức Gioan và Giacôbê). Ngài trở nên buồn phiền và căng thẳng, nên Ngài nói với họ:
“Tâm hồn Thầy buồn sầu đến chết được” (Mt 26, 36-38). Chẳng mấy chốc “một đám rất đông đem gíao mác gậy gộc” tới tìm Đức Giêsu. Ba môn đệ có đức tin thật mạnh mẽ trong bài Tin Mừng hôm nay thấy thế bèn hoảng sợ chạy thoát thân. Tệ hơn nữa, Phêrô còn chối không nhận mình biết Ngài. Đức tin của chúng ta cũng có lúc cao có lúc thấp như thế đấy; khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và sáng lạn như đức tin của các tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi với Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ trong vườn Giêtsêmani. Suốt thời gian đức tin ở điểm thấp như thế, chúng ta cảm thấy Đức Giêsu dường như không còn ban sức mạnh cho ta để chiến đấu với Satan nữa, Thiên Chúa Cha dường như đã bỏ chúng ta mồ côi. Còn Chúa Thánh Linh thì xa xôi như ở đâu đâu. Tác giả còn so sánh những điểm cao và thấp của đức tin với chính cuộc sống ở những điểm cao, đời sống thật là tươi đẹp. Chúng ta yêu thương hết mọi người.
Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được tại sao chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả “chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi. Đó là lúc chúng ta thấy mình có nhiều kẻ thù hơn là thực tế, và thấy người bạn nào của mình cũng đều có lỗi với mình cả. Vào những ngày như vậy, chúng ta khó mà biết được tại sao có những lúc chúng ta lại nghĩ rằng cuộc đời này là dễ dàng vui tươi” (Anthony Padovano) Đức tin cũng giống như thế, cũng theo nhịp điệu lên xuống, vui buồn, sáng tối, mạnh yếu& Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay.
Niềm tin của Abraham yếu ớt và dường như phai mờ khi ông nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaac. Điều đó làm tâm hồn ông đau khổ và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông. Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta tương tự như thế, khi bị thử thách tâm hồn chúng ta đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước. Thánh Giacôbê tông đồ đã nói về vấn đề đó: “Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài” (Gc 1: 12) Đó là Tin Mừng từ những bài đọc hôm nay. Nó cho ta thấy đức tin cũng giống hết như đời sống, cũng có những lúc lên núi, có những lúc xuống đồi. Khi lên núi chúng ta dễ dàng tin và yêu Chúa. Nhưng khi xuống đồi, chúng ta cảm thấy khó mà tin và yêu Ngài được. Nếu chúng ta vẫn trung thành trong những thử thách ấy. Thiên Chúa sẽ thưởng chúng ta ban cho chúng ta đời sống mà Ngài hứa cho những ai yêu mến Ngài.
--------------------------
CHO LOÀI NGƯỜI
Minh họa
- Mille images 68 B
- "Đ ây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng nghe lời Người" (MC 9,7)
Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (St 22,1-2.9a.10-13.15-18): Ngày xưa, Abraham đã tế sát đứa con duy nhất là Isaac. Câu chuyện này chỉ là hình bóng của việc sau này Thiên Chúa ban Con Một Ngài là Đ ức Giêsu cho loài người.
- Bài Tin Mừng (MC 9,2-ABC10): Đ ức Giêsu chính là Isaac. Trong cuộc biến hình Ngài được Thiên Chúa gọi là "Con yêu dấu" như Abraham đã gọi Isaac.
- Bài đọc II (Rm 8,31-34): Đ ức Giêsu là ơn ban cho loài người. Ngài chịu nạn chịu chết là để cứu loài người ; Ngài sống lại ngự bên hữu Chúa Cha là để biện hộ cho loài người.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trong Mùa Chay, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua, Giáo Hội nhắc ta nhớ đến những ơn ban của Chúa. Hôm nay Giáo Hội nhắc ta nhớ đến một ơn quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là Đ ức Giêsu, Người Con Một yêu quý của Ngài.
Thiên Chúa ban Đ ức Giêsu cho chúng ta để Đ ức Giêsu sống với chúng ta và chúng ta sống với Ngài, sống theo Ngài và sống như Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chú ý lắng nghe Lời Đ ức Giêsu và kết hợp thân thiết với Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI - Chúa nhật vừa qua, Đ ức Giêsu đã kêu gọi chúng ta sám hối, nghĩa là bỏ con được cũ lầm lạc để quay về với Chúa. Chúng ta đã thực sự quay về chưa ?
- Đ ức Giêsu còn kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đã làm việc này chưa ?
- Đ ã qua một tuần Mùa Chay rồi, mỗi người chúng ta có dự định cụ thể nào chưa ?
III. LỜI CHÚA 1. Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18
Tường thuật chuyện Abraham tế sát Isaac.
Tế sát Isaac là một hy sinh rất lớn của Abraham, vì: a/ Isaac là đứa con duy nhất mà vợ chồng ông sinh được trong lúc tuổi già ; b/ đứa con ấy lại là tất cả niềm hy vọng của ông về lới Chúa hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc ; b/ bởi thế, Isaac là "đứa con một yêu dấu" của Abraham. Vậy mà ông đành giết nó để dâng cho Chúa.
Tuy nhiên tấm lòng của Abraham đối với Thiên Chúa còn to lớn hơn: a/ Chúa vừa gọi "Abraham" thì ông đáp lại ngay "Dạ, tôi đây" ; b/ Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, vừa xem ra cũng ngược với lời Ngài đã hứa (cho ông một dòng dõi đông đúc), ông cũng sẵn sàng làm.
Thiên Chúa coi trọng tấm lòng hơn lễ vật, coi trọng sự hy sinh trong tâm hồn Abraham hơn đứa con mà ông sắp dâng. Cho nên Chúa bảo ông dừng tay. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Ngài.
2. Đ áp ca: Tv 115
Tác giả đang ở trong một hoàn cảnh bi đát "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực", hơn nữa đang chứng kiến "cái chết của những bậc thánh nhân", thế mà tác giả vẫn tin vào Thiên Chúa.
Đ áp lại đức tin kiên vững ấy, Thiên Chúa đã "bẻ gãy xiềng xích" và cứu thoát tác giả. Ông vui mừng ca tụng Chúa và dâng lễ vật tạ ơn.
Những tâm tình này rất đúng với Abraham.
3. Tin Mừng: MC 9,2-ABC10
Bài tường thuật Đ ức Giêsu biến hình. Đ iểm đáng chúng ta lưu ý nhất là tiếng từ trời "Đ ây là con yêu dấu của Ta". Câu này là vang vọng của lời Thiên Chúa nói với Abraham về Isaac "Hãy đem Isaac đứa con rất yêu dấu của ngươi& dâng nó làm lễ toàn thiêu" (Bài đọc I)
Như thế, Isaac là hình bóng của Đ ức Giêsu. Cũng như Abraham đã hy sinh đứa con một yêu dấu của mình, thì Thiên Chúa cũng không tiếc khi ban Đ ức Giêsu, Người Con Một yêu dấu của Ngài, cho nhân loại để chịu chết cứu chuộc nhân loại.
4. Bài đọc II: Rm 8,31-34
Thánh Phaolô suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời Đ ức Giêsu và hiểu rằng tất cả đều vì lợi ích cho loài người chúng ta: Khi Đ ức Giêsu chịu chết là chịu chết "vì tất cả chúng ta" ; và khi Ngài sống lại lên ngự bên hữu Chúa Cha thì cũng là để "biện hộ cho chúng ta".
Đ ức Giêsu chính là ơn ban tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người.
IV. GỢI Ý GIẢNG * 1. Món quà ngoài sức tưởng tượng
Các bài đọc hôm nay nói về những món quà vượt sức tưởng tượng.
Abraham là một người sẵn lòng với Thiên Chúa. Ngài bảo ông bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi vô định. Ông mau mắn làm theo. Thiên Chúa thấy lòng quảng đại của ông, Ngài bảo ông dâng Isaac cho Ngài. Món quà này chắc chắn Abraham không ngờ tới, vì đó không phải là một đồ vật hoặc một con vật mà là một con người. Con người ấy lại là đứa con duy nhất của ông. Hơn nữa nó còn là tất cả hy vọng của ông vì ông sinh ra nó trong lúc tuổi đã già, và ông nghĩ chỉ có nó mới thực hiện được mong ước của ông là có một dòng dõi. Dâng nó đi là dâng tất cả. Thế mà Abraham đã dâng. Một món quà ngoài sức tưởng tượng (bài đọc I).
Nhưng món quà mà Thiên Chúa ban cho loài người còn ngoài sức tưởng tượng hơn nữa. Đ ó là ban Đ ức Giêsu, Người Con độc nhất, Người Con thân yêu vô cùng. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Người Con ấy để Người Con ấy chịu chết vì tội lỗi loài người, chết thay cho loài người (bài Tin Mừng). Thật chẳng có tấm lòng nào bằng như thế. Chẳng có tình yêu nào cao cả như thế (bài đọc II).
* 2. "Hãy vâng nghe lời Người"
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
- Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu ?
- Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
- Ông hãy đẫp vỡ nó ra !
- Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:
- Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu ?
- Bằng nửa vương quốc.
- Hãy đập vỡ nó ra !
- Đ ập vỡ viên ngọc này ư ? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:
- Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không ?
- Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
- Hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi:
- Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ ?
Abdul bình tỉnh đáp:
- Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đ ức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: "Đ ây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài".
* 3. Con yêu dấu
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay về việc Đ ức Giêsu biến hình, tôi chẳng có chút cảm xúc nào cả. Đ ọc thêm bài đọc I về chuyện Abraham tế sát Isaac, tôi khám phá rằng Isaac là hình bóng của Đ ức Giêsu, và người cha già Abraham là hình bóng của Thiên Chúa. Và tôi rất xúc động vì tiếng gọi "Con yêu dấu".
Abraham yêu dấu Isaac biết chừng nào vì đó là đứa con duy nhất ông sinh ra được trong lúc tuổi đã già. Chúa Cha cũng yêu dấu Đ ức Giêsu biết chừng nào vì đó chẳng những là Người Con duy nhất mà còn là Người Con tuyệt hảo của Ngài.
Có người cha nào không tan nát cõi lòng khi đứa con yêu dấu duy nhất của mình phải chết ? Chúa Cha hiểu được tâm trạng này nên Ngài chỉ thử lòng Abraham thôi chứ không nỡ để Isaac phải chết. Thế mà Chúa Cha lại cho Đ ức Giêsu Con Yếu Dấu của Ngài phải chết thật ! Ôi tình Chúa Cha thương loài người chúng ta bao la và vĩ đại biết chừng nào !
Chúa Cha chỉ mong nơi loài người chúng ta một điều duy nhất là "Hãy vâng nghe Lời Đ ức Giêsu" thôi. Nếu điều duy nhất ấy mà chúng ta cũng không đáp ứng thì thật là phụ bạc biết chừng nào !
4. Thử thách và biến hình
Bài đọc I nói về thử thách (Thiên Chúa bảo Abraham tế sát Isaac), còn bài Tin Mừng nói về biến hình. Hai khía cạnh này liên kết với nhau và bổ sung cho nhau như hai mặt của một đồng tiền.
- Khi Thiên Chúa mới gọi Abraham, Ngài đã thử thách ông: Ông phải từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi vô định. Vì Abraham trung thành trong thử thách nên Thiên Chúa đã cho ông có con. Trước khi dẫn đời ông sang một biến đổi nữa, Thiên Chúa lại thử thách ông: đứa con duy nhất ấy, Ngài muốn ông giết đi để làm lễ tế cho Ngài. Một lần nữa Abraham đã vâng lời và một lần nữa ông được biến đổi: Isaac vẫn sống và sinh con cháu, nhờ đó Abraham thực sự có một dòng dõi.
- Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Đ ức Giêsu chịu thử thách trong sa mạc. Hôm nay chúng ta chứng kiến Ngài biến hình trên núi.
- Học sinh cũng phải thường xuyên trải qua thử thách là các kỳ thi. Nhưng có như thế thì học sinh mới được chuyển cấp, càng ngày càng cao hơn, giỏi hơn&
5. Biến đổi là Quy luật
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn ; nhiều chiếc lá mới mọc ra ; và nhiều chiếc lá hiện nay tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Một triết gia đã nói "Không ai tắm hai lần trong một dòng sông".
Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết, cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào cũ của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đ ối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đ ối với cuộc sống thiêng liêng cũng như thế.
Bởi thế trong Mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ có nghĩa là chết.
6. Từ Tabor đến Golgotha
Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đ úng là một cặp "trai tài gái sắc". Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh !
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa ?
Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay "người đẹp" là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay "nàng già" là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
*
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đ ức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia" (MC .9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi. Chúa chỉ mặc "tấm áo trắng như tuyết" trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp. Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng thủy chung, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đ ức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đ ức Kitô rong ruỗi trên các đường phố Palestina rao giảng chữa bệnh và làm các phép lạ.
Đ ức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đ ức Kitô thấm đẫm mồ hôi trong vườn Giêtsêmani.
Đ ức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đ ức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đ ường tình yêu. Theo Thánh Têrêxa thành Lisieux: "Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê". Thánh Bernadette cầu nguyện: "Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau".
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục sinh sẽ bừng sáng. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI Chủ tế:
Anh chị em thân mến, Đ ức Giêsu đã biến hình cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, để củng cố đức tin cho các ông, và chuẩn bị các ông đón nhận cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Trung thành với Đ ức Giêsu trong mọi hoàn cảnh là nguồn thách đố cho Hội thánh / chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng bước theo đường lối Đ ức Giêsu / dù khi được vinh quang hay khi phải trải qua gian nan tử nạn.
2. Trung thành để phục vụ công lý và công ích cho xã hội là nguồn thách đố cho các nhà cầm quyền / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo trên thế giới luôn can đảm cương quyết / không nhượng bộ những gì vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền của người dân.
3. Nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, chậm tiến... là những thách đố cho người Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người Việt Nam biết can đảm kiên nhẫn / để đoàn kết với nhau và từng bước vượt qua mọi khó khăn.
4. Những khó khăn bên ngoài và bên trong mà Hội thánh ở Việt Nam đang trải qua cũng là những thách đố cho mỗi Kitô hữu Việt Nam /. Chúng ta hãy cầu xin cho các Kitô hữu Việt Nam luôn vững lòng tin cậy / và luôn tích cực phục vụ đồng bào nhất là những người nghèo khổ.
Chủ tế : Lạy Đ ức Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì cũng chắc chắn được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa mai sau. Chúa là Đ ấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Đ ức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Đ ức Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
- Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự ; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. GIẢI TÁN Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Người Con Yêu Dấu duy nhất của Ngài là Đ ức Giêsu cho chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Chúa Cha chỉ mong mỏi mỗi một điều là chúng ta vâng nghe Lời Đ ức Giêsu thôi. Trong tuần này, chúng ta hãy luôn tâm niệm lời Chúa Cha nói: "Đ ây là Con Yêu Dấu của Ta. Hãy vâng nghe lời Người".
--------------------------
Nơi hầm trú ở Budapect, nước Hungary, trong thời thế chiến thứ hai. Những thiếu phụ trẻ may những chiếc áo trông giống như những áo khoác trắng. Đây là câu chuyện. ở ngoài hầm hầu như lúc nào cũng có đụng độ giữa lính Russian và dân Budapect. Một linh mục can đảm đã liều mạng đến làm lễ và cho rước lễ một nhóm người, những thiếu phụ trẻ này không sợ chết. Điều họ sợ nhất là sợ bị lính Russian say rượu cưỡng hiếp. Vào khuya đêm 29 tháng giêng 1945, khi các cô gái đang lần chuỗi môi khôi, một người lính Russian đột nhập vô phòng. Anh chú ý nhìn cây thập giá trên tường, anh nắm tay một thiếu phụ lớn tuổi đang trực; với giọng run run anh nói nhỏ: “Mẹ ơi, con đã hứa với cha sở con rằng con đến đâu, con cũng sẽ cố gắng giúp cứu các phụ nữ khỏi sự tàn bạo của lính. Rồi anh nói với cả nhóm: xin tất cả các cô bắt đầu may đi, vì khi lính đến, các cô cứ nói thẳng với chúng: “chúng tôi may, vì đại uý ra lệnh cho chúng tôi may áo khoác trắng cho binh sĩ Russian, để họ đi trong tuyết sẽ không ai thấy”. Các cô may và cầu nguyện. Nhiều lính Russian vào trong hầm; uống rượu, tán tỉnh.
Nhưng mỗi anh nhận được một áo trắng, không anh nào dám tấn công các cô gái trẻ nữa. Chợt nhớ câu chuyện này khi chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu biến hình áo Người lóng lánh, trắng như tuyết. Đức Giêsu đã cho các tông đồ tuyển chọn; Phêrô Yacôbê và Yoan chút ý niệm về Người trong vinh quang trên trời như thế nào. Cũng như thân xác Người trong vinh quang phục sinh. Ở đây, chúng ta cũng thấy một lý do - vị linh mục mặc chiếc áo dài trắng khắp thân thể từ vai tới mắt cá chân. Nó nhắc nhở chúng ta sự biến hình của Chúa, một biến cố trong Tin Mừng hôm nay. Nó nhắc chúng ta về vinh quang, cái vinh quang của Đức Kitô. Vinh quang chúng ta sẽ chia sẻ với Chúa ở trên trời, khi chúng ta nhập đoàn với số người đông đáo.
Thánh Yoan đã thấy trước ngai toà Đấng toàn năng, mặc áo dài trắng. Theo lịch sử, áo dài trắng có từ thời Đức Kitô và các tông đồ, các Ngài mặc loại áo này như một thường phục. Kiểu áo thay đổi theo thời, nhưng Giáo hội Chúa lập, giữ chiếc áo này như một trong phẩm phục của Linh mục. Nó cho thấy Thánh lễ rất xa xưa. Áo dài trắng là biểu tượng chiếc áo trắng như tuyết của ơn thánh hoá chúng ta nhận được trong Bí tích thánh tẩy, nó được phục hồi hoặc trong sáng nhờ các bí tích khác. Áo dài trắng nhắc nhớ chúng ta về Đức Kitô, vị linh mục tối cao của Tân Ước, về niềm vui, vinh quang của Chúa, về chiếc áo trắng vua Hêrôđê mặc cho Chúa để cười nhạo Người. Về tấm khăn trắng liệm xác của Đấng chịu đóng đinh trên thập giá. Về sự vô tội và trong trắng của tâm hồn và thể xác. Vị linh mục phải cố để dâng hy tế đáng kính của Thánh Lễ. Những chiếc áo trắng của cô gái trong câu chuyện may cho các lính Russian để ngăn ngừa họ tấn công các cô. Ước gì hình ảnh vị linh mục trong bộ áo dài trắng thúc dục chúng ta cố gắng nên giống hình ảnh Chúa Kitô.
Xin Chúa chúc lành bạn.
-------------------------------
“Áo Ngài trở nên trắng tinh”
Nếu chúng ta được Chúa đưa lên núi và hiện nguyên hình trước mắt, chắc chúng ta cũng vui mừng, bối rối, phấn khởi như thánh Phêrô. Người trần mắt thịt mà được xem thấy Đấng ngàn trùng chí thánh, thì sẽ sung sướng biết chừng nào. Việc Chúa biến hình mà sách Tin Mừng kể lại hôm nay là sự thay hình đổi dạng, như Trang sinh hoa bướm ( métamorphose ): một ánh sáng tự bên trong biến đổi một người, làm sáng lên sự thật thâm sâu bấy lâu ẩn giấu, tiết lộ tương lai rạng ngời và nhân tính thần linh của người ấy. Có nhiều vị thánh được phúc trải qua kinh nghiệm biến hình, được trực tiếp gặp gỡ Đấng Siêu Việt trong một sứ sở xa lạ, bên kia bờ triết lý và khoa học, nơi " mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe" những sự kỳ diệu về Thiên Chúa. Đó là kinh nghiệm thần bí mà những vị thánh như Têrêsa Avila, Thánh Gioan thánh gía đã có diễm phúc được trải nghiệm. Sự biến hình của Đức Giêsu là một trong những tia sáng chiếu về tương lai, xuyên thủng màn đêm tối tăm của lịch sử loài người.
Tiếng nói vọng từ trời: "Đây là con chí ái của Ta" được trích dẫn từ người tôi tớ đau khổ, Đức Giavê, miêu tả một nhân vật hiền lành, hiếu hòa, đã trải qua vô vàn gian khổ để mở một con đường mới cho dân tộc. Đức Giêsu là nhân vật ấy. Ngài đã đứng lên chống lại tất cả những gì đè bẹp con người, hạ giá con người, chia rẽ con người với nhau. Chúa đã trải qua những tàn nhẫn từ phía chính quyền, họ không tha thứ cho Ngài, vì Ngài đã chất vấn tất cả trật tự xã hội đương thời, nhân danh Thiên Chúa là Cha của mọi người. Việc Chúa biến hình vinh quang chỉ xẩy ra trong chốc lát. Cuộc tử nạn tiếp theo ngay sau đó. Tin Mừng thánh Marcô viết rằng, khi xuống núi để lên đường đi Giêrusalem, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ về sự phục sinh của Ngài. Nhưng các môn đệ không hiểu " từ cõi chết sống lại " nghĩa là gì. Chúng ta cũng vậy, đứng trước những xác chết, trong bóng mờ đục của hiện tại trần thế, chúng ta cũng không hiểu rõ lắm "sống lại từ cõi chết" là như thế nào. Cho tới khi Chúa lại đến. Hiện nay, những người hoạt động cho hòa bình, cho công lý, với sự trợ giúp của Chúa, đang nỗ lực làm sống dậy từ cõi chết những người anh em bị áp bức, bị loại trừ, bị bầm dập vì bất công xã hội .
-------------------------------
– Quesson
“Đừng kể lại cho ai nghe.. cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Giám mục Cớctis (Curtis) một lần tới thăm Đức Hồng Y Niu-man (Newman), hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức Hồng Y Newman cho Giám mục Cớctis biết: Toà Thánh đã cho Ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Giám mục Cớctis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức Hồng y mời Giám mục Cớctis ở lại ban đêm, ông đã trả lời; “Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”. Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhở tới sự hiện diên đó, thì thừơng làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa Thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Thánh Kinh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao& và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu. Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ.
Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba ông là những người gần gũi Chúa đi theo. Khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (MC 14, 33), Chúa cũng cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các Ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em. Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây là lần thứ hai có tiếng từ Trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là Môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Thánh Kinh, trong tìm tòi suy luận. Nhưng nhất là trong kinh nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mạc khải cho. Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui thoả tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai “cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái chết và phục sinh của Chúa, các Ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực của Chúa cứu thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
-------------------------------
MC 9, 2-ABC10
Thưa quý vị.
Khi nghe tác giả Tin mừng kể: "Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ" như thánh Marcô làm hôm nay, chúng ta liền liên tưởng đến một điều mặc khải đặc biệt dành cho các ông. Những lần khác thánh Marcô nhắc tới là đoạn 4 câu 34, đoạn 13 câu 3. Tuy nhiên, chúng ta không hiểu chính xác Chúa đã mặc khải điều gì trong ngày hôm nay, bởi lẽ cứ như mạch văn thì chẳng biết câu truyện biến hình xảy ra ở đâu và lúc nào.
"Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình... tới một ngọn núi cao".
Một vài nhà chú giải cho là câu truyện xảy ra sau khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết. Thánh Marcô đặt lên sớm hơn để giúp đỡ độc giả nhận ra ý nghĩa thâm sâu những điều Chúa dậy và thực hiện trong sứ vụ rao giảng của Ngài. Lý do, cụm từ "sáu ngày sau" thường được hiểu là sau cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Câu truyện biến đổi hình dạng cũng có nhiệm vụ giúp đỡ độc giả định giá lại cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu trong ánh sáng phục sinh, bởi lẽ chính Chúa Giêsu cũng đã nói đến biến cố đó khi các ngài từ trên núi đi xuống, trở về với cuộc sống bận rộn thường nhật. "Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại".
Phúc âm nhấn mạnh sự xuất hiện của Êlia và Môsê. Nhưng tại sao lại hai ông mà không phải các nhân vật Thánh kinh khác? Ví dụ như Abraham và Sara, hai tổ phụ vĩ đại của đức tin? Họ chẳng thích hợp cho bối cảnh hay sao? Còn vua Đavit? Ông vua danh tiếng của đạo Do thái, đứng làm biểu tượng cho rất nhiều giá trị đạo, đời? Ông vua dũng mãnh nhất trong lịch sử, đứng đối lập với vai trò người tôi tớ đau khổ của Giavê, tức Đức Giêsu, không thích hợp lắm sao? Thực tế thì chúng ta chỉ có Êlia và Môsê với ý nghĩa thần học vững vàng. Theo quan niệm Do thái, Êlia phải đến trước dọn đường cho Đấng Messia, tức Đấng Thiên Sai. Êlia là một ngôn sứ lớn. Như vậy, sự hiện diện của ông gợi lên ước vọng thiên sai của dân tộc Do thái, đồng thời giữ vai trò người tôi tớ trung tín của sách Isaia. Chúa Giêsu vừa là Đấng Thiên Sai, vừa là tôi trung của Giavê Thiên Chúa. Nhân vật Môsê đã đưa Israel thoát khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai-cập, Chúa Giêsu cũng sẽ thực hiện công việc như thế, nhưng rộng lớn hơn, không phải cho một dân tộc, mà là toàn thể loài người khỏi vòng kìm kẹp của tội lỗi. Điều quan trọng là cả hai Môsê và Êlia đều phai mờ vào trong đám mây, còn lại một mình Chúa Giêsu trước mặt các tông đồ. Bây giờ họ chẳng còn phải nhìn vào ai nữa ngoài Chúa Giêsu. Đây là bài học cho các tín hữu. Chúng ta nhìn vào đâu để tìm ra tiếng nói ngôn sứ và sự cứu thoát khỏi tội lỗi? Chính là vào Chúa Giêsu biến hình !
Một ý tưởng khác về Đấng Thiên Sai nằm ở ước vọng của thánh Phêrô làm ba lều tưởng niệm giây phút hiển dung. Khi tôi còn là một đứa trẻ sống ở Brooklyn, New York, Mỹ, gần những người bạn Do thái láng giềng. Để cử hành lễ Sukkoth (lễ lều trại), họ làm những chiếc lều bằng gỗ trên các cổng ra vào hay trong các sân sau nhà. Đây là dịp lễ truyền thống để tạ ơn Thiên Chúa sau mùa gặt hái. Chuyển ý sang cho chúng ta là Bí tích Thánh thể, Hội thánh cũng gọi là "tạ ơn", tiếng Latinh là Eucharistia. Chúa Giêsu là mùa màng bội thu của mọi tín hữu. Bánh rượu là những hoa màu ruộng đất, cộng với lao động của con người thành lễ vật chúng ta dâng tiến Thiên Chúa làm lễ tạ ơn. Như thế, trong Đức Ki-tô chúng ta nhận ra được đầy đủ những ơn huệ thượng đế ban cho loài người. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolô quả quyết: "Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta sao? ". Vậy, ơn cứu độ là ơn nhưng không thượng đế ban qua Chúa Giêsu, và chúng ta được tự do vào thiên đàng miễn là theo đúng con đường Đức Ki-tô đã chỉ vẽ.
Ba "lều" thánh Phêrô đề nghị còn gợi nhớ lại con đường gập ghềnh dân Do thái phải trải qua trong sa mạc để đến đất hứa. Con đường này chính Thiên Chúa đã chọn và dẫn đưa họ đến bến bờ tự do. Bao nhiêu gian khổ, nhọc nhằn đến nỗi Thiên Chúa đã tự mạc khải mình để củng cố Đức tin cho họ. Dầu vậy, họ vẫn phản bội, thất bại trong nếp sống đạo đức của cả một dân tộc, kêu ca, bái lạy tà thần, nhát đảm, nhiều lần nổi dậy chống lại Moisen, chống lại Đức Chúa của mình. Đó cũng là hình ảnh của chúng ta, của Hội thánh hữu hình hôm nay. Chúng ta cũng cần dừng lại trong "lều" nội tâm để nhìn lại tư cách sống trước Thánh thể, lễ tạ ơn của mỗi người. Một mặt để cử hành, tưởng niệm lòng trung tín của Đức Chúa Trời, mặt khác để chúng ta đủ can đảm bỏ ngọn núi diễm phúc, trở về với đời sống thánh hiến như của Chúa Giêsu, hoạt động giữa đồng bào, đồng loại, thi thố từ bi bác ái, giúp đỡ tha nhân, làm chứng cho một Thiên Chúa tốt lành, rộng lượng. Chẳng phải tiền bạc là thứ duy nhất chúng ta buộc cho đi, còn nhiều cái khác nữa như lòng nhân ái, thông cảm, tính hoà đồng, hy vọng, tha thứ... và nhất là sự thật. Bởi sự thật sẽ giải phóng và cứu rỗi nhân loại.
Sở dĩ còn chiến tranh, thiếu vắng hoà bình là bởi vì nhân loại chưa có sự thật, còn nghi ngờ lẫn nhau, cho nên còn hận thù, ghen ghét. Sự đe doạ nổ ra chiến cuộc ở Iraq là một bằng chứng rất cụ thể. Đối với người tín hữu, không có lâu đài vĩnh viễn, không có "hồng lâu mộng" trên đỉnh núi Tabor. Họ phải dựng "lều" khắp thế gian để rao truyền lòng Chúa xót thương. Phêrô đã lầm, bởi ông ích kỷ, muốn "định chế hoá" những gì ông được xem thấy trên ngọn núi cao. Nhưng Chúa Giêsu dẫn ông xuống núi và không cho tiết lộ hạnh phúc tương lai, phải trở về với những khó khăn, nhọc nhằn thường nhật giữa các môn đệ khác, anh em, đồng bào của mình. Đây là điểm hết sức quan trọng chúng ta phải ghi nhớ: Chia sẻ hạnh phúc với người khác trong gian khổ, bất hạnh và gian truân. Không đứng trên nơi cao nhìn xuống đồng loại đang quằn quại trong đau thương. Khuynh hướng chung hiện thời là giống ký lục, biệt phái thuở xưa, "đĐnh chế hoá" đức tin bằng những ngôi nhà thờ kiên cố, huy hoàng, rồi ngày ngày lui tới tận hưởng an toàn, ấm cúng. Trong khi đáng lý phải quan tâm đến những nơi khác cần thiết hơn. Tôi biết ở một giáo xứ kia, người ta tối thiểu hoá ngân sách giúp đỡ người nghèo để có tiền tân trang ngôi nhà nguyện Thánh thể. Đúng không thưa quí vị? Câu trả lời hợp lý là không đúng. Tuy nhiên, đại loại là vẫn như thế cả, vì danh dự cá nhân.
Sở dĩ Chúa cấm các môn đệ không được tiết lộ biến cố huy hoàng mà họ vừa được mục kích, là vì họ chưa hiểu hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa cuộc đời của Ngài. Ngài còn phải trải qua chống đối, đau khổ, nhục nhã và cái chết. Chỉ khi nào họ chứng kiến Ngài sống lại và lên trời, lúc ấy mới thấy được toàn bộ ý nghĩa sự hiện diện của Ngài giữa họ, giữa dân tộc Do thái và loài người.
Đến đây tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm mà tôi vừa trải qua trong gia đình. Sớm muộn quí vị cũng có dịp tiếp cận với nó. Được tin cấp báo, tôi trở về Brooklyn. Cha tôi 96 tuổi đang hấp hối. Khi còn khoẻ mạnh cụ luôn có thái độ lạc quan, yêu đời. Cụ làm nghề đưa thơ, là nguồn vui hàng ngày cho gia đình và hàng xóm láng giềng. Bất cứ cái gì cụ cũng là niềm vui cả. Ngày lễ, Chúa nhật, thức ăn, đồ uống, quần áo, chó mèo, gà vịt, những cuộc đi dã ngoại xa gần... Chúng tôi cứ nhìn cụ mà vui đùa. Bỗng nhiên cụ bị bạo bệnh, nằm liệt, bất động trên giường, vật lộn để thở và thiếp ngủ suốt ngày. Bây giờ cụ gầy ốm trông thấy, hình hài cụ đang phai mờ dần. Trông thấy cụ tôi lại được yên ủi bởi nhớ đến câu truyện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng. Hôm qua chúng tôi đã xức dầu bệnh nhân cho cụ. Cụ vui vẻ hẳn, cứ gọi con cháu đến mà khoe, khoe cái cuộc đời theo Chúa của cụ. Ngày mai cụ sẽ được biến hình với Chúa, tôi hy vọng như vậy, không phải nhất thời mà vĩnh viễn. Một ngày nào đó chúng ta sẽ được chia sẻ biến cố đó với cụ, vui như cụ. Câu truyện gia đình tôi là vậy, tôi tin chắc nó cũng là câu truyện của mọi gia đình trong xứ đạo.
Chính xác thì biến cố hiển dung giữ vai trò nào trong cuộc sống của Chúa Giêsu? Chắc chắn Ngài không thường xuyên biến đổi hình dạng. Điệu bộ Ngài vẫn là một bác thợ mộc nghèo khổ làng Nazareth, bỏ nghề đi lang thang với một nhóm người hiếu kỳ theo sau. Quần áo Ngài vẫn chẳng khi nào nên "trắng như tuyết ". Nhưng sự biến hình của Ngài liên tục xảy ra trong lời giảng dạy và công việc Ngài làm. Nó biến đổi thiên hạ nên tốt, nên bạn hữu với Đức Chúa Trời: Kẻ có tội ăn năn thống hối, người nghèo khổ, quân vô lại được mời vào bàn tiệc hoàng gia. Người tứ thế cô thân được trao quyền bính nước trời. Đàn bà, con nít (thời đó bị khinh bỉ) được tôn lên hàng khanh tướng. Hạng khố rách áo ôm được phong làm vua chúa, mặc cẩm bào rực rỡ. Người quyền thế, kẻ giàu sang bán hết gia tài phân phát cho người nghèo hèn, trở thành những môn đệ nhân từ, đạo hạnh. Người ốm đau được ban sức khỏe, què quặt đi được, người câm nói được, người mù xem thấy ánh sáng Chúa phục sinh, nhảy nhót như nai rừng.
Ngày nay, ơn hiển dung của Chúa Giêsu vẫn còn chiếu toả trên Giáo hội và thế giới. Chúng ta không thể chối cãi chân lý này. Nó là một điều lương tâm phải tin nhận. Nhưng nó biến đổi chúng ta ra sao? Liệu nó có đủ sức mạnh tẩy não chúng ta từ những tư tưởng bè phái, khép kín, giai cấp, đặc quyền, đặc lợi, loại trừ, xa lạ thành những con người yêu thương, nhân ái, cởi mở, chấp nhận người khác như anh chị em mình? Liệu nó có khả năng thúc giục chúng ta nhìn Giáo hội như những dân cư “lều trại” cùng đồng hành với nhau vượt sa mạc hơn là các công nhân xây dựng đền đài? Liệu chúng ta có đủ can đảm luôn đeo băng "WWJD" và nhìn thấy nhu cầu chung quanh để hy sinh cứu giúp? (WWJD = what would Jesus do? = Chúa Giêsu làm gì trong hoàn cảnh này?). Chúng ta thành thật kêu xin Chúa Thánh thể hôm nay để ơn hiển dung của Ngài thực sự biến đổi chúng ta, toàn giáo xứ, thành những con người tốt, bạn của Thiên Chúa. Xin thánh nhan Ngài chiếu toả hơn nữa trên tâm hồn các tín hữu, để qua họ, thiên hạ nhận ra lòng Thiên Chúa tốt lành. Tội lỗi đến mấy đi nữa thì cũng được vào sống trong Nước Ngài.
Chúa Kitô đã phục sinh và chúng ta đã được nghe toàn thể câu truyện. Ơn hiển dung của Ngài không phải là "tia chớp từ đáy chảo", "thỏi vàng của đứa điên rồ, phỉnh gạt". Tuy nó không luôn luôn sáng chói, dễ nhận ra. Nhưng mãi mãi là chân thật. Nếu chúng ta cất công nhìn kỹ hơn vào muôn vàn hình thức nguỵ trang của nó, trên những mảnh đời bất hạnh, chúng ta sẽ ngạc nhiên nhận ra nó có mặt ở đấy từ lâu. Ngài cũng hiện diện và biến đổi chúng ta khi vâng lời Ngài, chúng ta tha thứ cho nhau, ôm hôn nhau trong bình an và nhất là rước lễ sốt sắng. Giống như các tông đồ, Ngài cũng dẫn đưa chúng ta đi riêng ra một chỗ, chỉ mình Ngài với chúng ta, khi cử hành Phụng vụ Thánh lễ. Rồi trở lại đời sống thường nhật, chúng ta sẽ cũng lại thấy Ngài tàng hình khéo léo trong muôn ngàn trạng thái thần linh. Amen.
Lm. Jude Siciliano, OP.
-------------------------------
Bài đọc 1: St 22, 1-2.9a.10-13.15-18 Bài đọc 2: Rm 8, 31-34 Tin Mừng: MC 9, 2-ABC10
Kính thưa...
Lời Chúa hôm nay, có thể nói, xoay quanh các ngọn núi. Đó là ngọn núi của niềm tin, nơi tổ phụ Abraham đã sẵn sàng hiến tế người con duy nhất cho Thiên Chúa. Ngọn núi thứ hai là ngọn núi của tình yêu, nơi Thiên Chúa trao ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu làm của lễ đền tội chúng ta. Và cuối cùng là ngọn núi vinh quang, nơi Con Thiên Chúa tỏ lộ vẻ rực rỡ của Ngài cho các môn đệ. Không chỉ chiêm ngưỡng, lời Chúa còn mời gọi từng người chúng ta hãy làm một cuộc hành trình lên núi. Ở nơi đó, chỉ còn riêng ta với Chúa, ngõ hầu, chúng ta có thể gặp gỡ và lắng nghe lời Thiên Chúa, Lời đem lại cho chúng ta sự sống đời đời.
1. Núi của niềm tin:
Trước hết, chúng ta cùng đi lên núi Moria, ngọn núi đầu tiên, núi của niềm tin. Tôi nói đây là ngọn núi của niềm tin, vì từ nơi đây chúng ta sẽ được chứng kiến một đức tin không chỉ thuần tuý trên môi miệng với những lời tuyên xưng: "Tôi tin hay chúng tôi tin ", nhưng là một đức tin được chứng minh cách tuyệt vời qua một hành động phi thường. Đó là ngọn núi Moria, nơi tổ phụ Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa.
Để thấy rõ hơn đức tin của tổ phụ Abraham, chúng ta cần nhìn lại một vài nét về cuộc đời của ông. Tổ phụ Abraham là một người quê hương ở miền Lưỡng Hà, được Chúa kêu gọi tại Haran, miền Bắc đất nước Do thái bây giờ, vào lúc 75 tuổi, cùng với lời kêu gọi, ông còn được Thiên Chúa hứa cho một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (x. St 12, 1-5). Thế nhưng, đằng đẵng mãi 25 năm sau, vợ ông mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Thế là trong lúc gần 100 tuổi lời hứa của Thiên Chúa vào ngày nào đã được thực hiện. Có lẽ không niềm vui nào trong cuộc đời của ông lớn hơn niềm vui ngày con trẻ chào đời (x. St 21, 1-7). Nhìn vào đứa trẻ, ông như thấy cả tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh mà Thiên Chúa đã hứa cho ông. Mặt khác, đối với Abraham, Isaac không chỉ là một đứa con của lời hứa, nhưng còn là cây gậy để ông nương tựa trong lúc tuổi già. Ông nghĩ rằng, với đứa con này, ông có thể yên tâm để an hưởng những ngày còn lại trên trần thế.
Thế nhưng, vào một ngày kia, ông như bị sét đánh ngang tai, khi nghe tiếng Chúa phán: "Abraham, Abraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi ". Lệnh truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thật là vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có người con Isaac này? Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Nhưng ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại. Ngài phán: "Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta ".
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, lên một ngọn núi hy sinh. Nhất là khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng, như làm ăn thất bại, con cái khó dạy, bệnh tật nơi bản thân hay người thânlàm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín thác vào Lời Chúa.
Đây là không phải là một niềm tin mù quáng, nhưng là một niềm tin dựa trên tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa.
2. Ngọn núi của tình yêu:
Đến đây, xin mời quý ông bà anh chị em cùng tôi bước lên Núi Sọ, để chiêm ngưỡng ngọn núi thứ hai, ngọn núi của tình yêu. Đây không phải là thứ tình yêu "có qua, có lại", hay chỉ cho đi những gì dư thừa theo cách làm thường ngày của chúng ta, nhưng là một tình yêu dám trao ban cho người mình yêu những gì mình yêu quý nhất.
Đó là tình yêu của Chúa Cha đã sẵn lòng ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu, như một món quà vô giá cho chúng ta, như lời thánh Phaolô: "Người không dung tha chính Con mình, nhưn glại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? ". Chính Đức Giêsu cũng đã khẳng định điều này khi Ngài nói với Nicôđêmô: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người" (Ga 3, 16). Tình yêu này, càng có giá trị tuyệt vời hơn nữa, bởi khi Ngài trao cho chúng ta Người Con yêu dấu này không phải là do chúng ta làm nên công trạng gì hay là chúng ta xứng đáng, nhưng ngay khi chúng ta đang còn là tội nhân.
Đó còn là tình yêu của Đức Giêsu, Đấng sẵn sàng chết cho từng người chúng ta như lời Ngài đã nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15,13).
Chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa một tình yêu lớn hơn cả tình cha mẹ yêu con như lời Ngài nói qua miệng ngôn sứ Isaia: "Mẹ nào lại quên con đẻ của mình... Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi. Ta đã khắc ngươi trên bàn tay Ta" (Is 49, 15-16), mời gọi chúng ta cũng sống một tình yêu vị tha như thế trong cuộc sống thường ngày. Đó là một tình yêu vô vị lợi và sẵn sàng tha thứ cho mọi người, kể cả làm hại mình. Đó là một tình yêu quên mình để luôn nghĩ đến lợi ích của người khác, của cộng đoàn trước khi nghĩ đến bản thân.
Nhưng cũng như niềm tin, tình yêu này cũng được thể hiện trên một ngọn núi. Do đó, để sống được điều đó, đòi hỏi mỗi người chúng ta có một sự can đảm và cố gắng liên tục. Để leo núi, trước hết, chúng ta phải làm nhẹ bớt con người của chúng ta bằng cách loại bỏ các đam mê lạc thú bất chính và các thói hư tật xấu. Rồi xin Ơn Chúa trợ lực thêm sức mạnh bằng việc: năng cầu nguyện với Thiên Chúa, tham dự Thánh lễ và Rước lễ, tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dành thời giờ đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày... cùng với các việc hãm mình, khổ chế đền tội như: bớt hút vài ba điếu thuốc, nhịn uống vài ly cà-phê hay rượu bia, không chơi điện tử, không ăn quà vặt... để dành tiền làm việc bác ái giúp các bệnh nhân đau liệt và nghèo khổ vượt qua hoàn cảnh khó khăn..., và sẵn sàng tham gia các việc chung trong khu xóm. Tất cả những cái đó sẽ là dụng cụ cần thiết để chúng ta đến được ngọn núi thứ ba, ngọn núi của vinh quang Thiên Chúa.
Thật vậy, nếu vượt qua được hai ngọn núi đức tin và tình yêu đó một cách trọn vẹn, tôi tin chắc rằng từng người chúng ta cũng sẽ được diễm phúc chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa trên núi biến hình như các tông đồ hôm nay. Và lúc đó, không chỉ từng người, mà là từng gia đình và cả xứ đạo chúng ta sẽ được dựng lều tại ngọn núi vinh quang này, để ở lại với Chúa mãi mãi. Amen.
Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
-------------------------------
MC 9, 2-ABC10
“Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”.
Kính thưa ông bà anh chị em,
Hôm nay Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ mà Ngài yêu quý cách đặc biệt lên một ngọn núi và tỏ cho các ông thấy được vinh quang rạng ngời của Ngài: mặt Ngài sáng như ánh mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Đúng là một quang cảnh mà nằm mơ cũng không thấy được, nhưng các ông đã thấy và ngây ngất sung sướng không nói nên lời, chỉ có Phêrô lên tiếng: “Thưa thầy, chúng con ở đây thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều...” Và Phêrô không muốn trở lại với cuộc sống đời thường, ông đã quên mất thực tế đang chờ trước mắt của ông: cuộc sống nay đây mai đó không chổ gối đầu với thầy của mình, và với những tranh biện ghen ghét của những người Pharisiêu và các kinh sư, kí lục.
Cuộc sống có rất nhiều điều để cho con người chúng ta ước mơ, có người ước mơ được có công ăn việc làm đang khi thất nghiệp ; có người ước mơ có cơm ngày ba bữa trong khi gia đình nghèo đói ; có người mơ được ở trong căn nhà khang trang so với mái nhà ổ chuột đang ở ; có người mơ được vợ đẹp con ngoan. Tất cả cuộc sống đều là ước mơ, và ước mơ này cắm mốc hi vọng cho con người.
Có những lúc chúng ta giữ đạo như trong mơ, chúng ta mơ đến một thiên đàng vĩnh cửu bất diệt và hạnh phúc, nhưng cái vĩnh cửu bất diệt và hạnh phúc ấy đang tuỳ thuộc vào thực tại mà chúng ta đang sống, đó là chấp nhận một cuộc sống gian nan với thân phận của người có niềm tin vào Thiên Chúa. Chúng ta mơ đến ngày Thiên Chúa xuất hiện và sẽ nhốt satan muôn đời trong hoả ngục không cho nó tung hoành trên địa cầu, nhưng cái thực tại trước mắt là satan đang thống trị địa cầu: sự dữ, chết chóc và tội lỗi đang tăng dần trong thế giới ngày nay, cái thực tại này đòi hỏi chúng ta phải thực tế hoá đời sống tín ngưỡng của chúng ta , thực tế hoá tín ngưỡng là nhìn thấy và chấp nhận một sự tồn tại của sự dữ để vươn lên đến sự trọn lành mà Chúa Giêsu -trong thân phận con người- cũng đã thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén đắng này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39b). Chén đắng là sự dữ, là tội lỗi của nhân loại, của chúng ta.
“Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”.
Kính thưa anh chị em, Ba tông đồ không còn thấy ai nữa, hai ông Êlia và Môi-Sê biến đâu mất tiêu, chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu, và như thế cũng đã đủ cho các ông rồi. Bởi vì các ông đi theo là đi theo Chúa Giêsu, theo Đấng mà họ chỉ biết có tin tưởng và phó thác, mặc dù không biết ngày mai sẽ ra sao...
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta cầu nguyện rất nhiều, chúng ta làm việc hi sinh rất nhiều, chúng ta đọc kinh rất nhiều với hi vọng được ơn lành của Thiên Chúa ban cho, để bù lại những việc làm mà chúng ta đã làm vì Chúa, vì anh em, vì tha nhân. Nhưng thực tế trước mắt thì chúng ta không nhận được gì cả, thậm chí, có lúc những việc ngoài ý muốn xảy đến cho chúng ta, cho gia đình chúng ta: con bệnh, vợ ốm, chồng thất nghiệp...
Đức tin mời gọi chúng ta sống tốt đẹp giây phút hiện tại, phó dâng giây phút hiện tại cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa ; đức tin mời gọi và giúp chúng ta chấp nhận hiện tại, vượt qua mọi khó khăn để vươn tới một đích điểm cao hơn: Phục Sinh với Chúa Kitô.
Anh chị em thân mến, người có đức tin trưởng thành là người sống thiên đàng mai sau ngay tại cuộc sống ở trần gian này.
Xin Mẹ Maria, Đấng luôn đồng hành với Chúa Giêsu trên đường khổ nạn cầu bàu cho chúng ta. Amen
Bài giảng chủ nhật 2 mùa chay tại nhà thờ Chúa Thánh Thần - Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-------------------------------
TRONG CUỘC SỐNG
1. BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG
Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể... bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như Tây Phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng ( khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da ), khả năng ( trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ ), tính nết ( quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng ), sở hữu ( sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa ), v.v…
– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.
2. KHI ĐỨC GIÊ-SU HIỂN DUNG, CÁC TÔNG ĐỒ THẤY ĐƯỢC BẢN CHẤT CỦA NGÀI
Khi sống với Đức Giê-su, các Tông Đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v... Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỷ... Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.
Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Mô-sê và Ê-li-a, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các Ngôn Sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do-thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
3. CHÚNG TA CẦN THẤY ĐƯỢC BẢN CHẤT CỦA MÌNH VÀ THA NHÂN
Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực... Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa... Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ... Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. BẢN CHẤT ĐÍCH THỰC CỦA CON NGƯỜI: LÀ HÌNH ẢNH VÀ LÀ CON CÁI CỦA THIÊN CHÚA, ĐƯỢC DỰNG NÊN GIỐNG NHƯ NGÀI
Sự hiển dung của Đức Giê-su cho các Tông Đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay Đức Tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh của Ngài” ( St 1, 27; 9, 6; Ep 4, 24 ), “giống như Ngài” ( St 1, 26; 5, 1 ), để trở thành “con cái Ngài” ( Lc 20, 36; Ga 11, 52; Rm 8, 14.16.21; Gl 3, 26; 1 Ga 3, 1.2.10 ). Họ và ta đã được Thiên Chúa “ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại” là “được thông phần bản tính của Ngài” ( 2 Pr 1, 4 ). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi “được thông phần bản tính của Ngài”, một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình ( x. Tv 82, 6; Ga 10, 35 ).
Đức Tin Ki-tô Giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt Đức Tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì Đức Tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao !
Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quý của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quý của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh... Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quý của con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Ki-tô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều “hiển dung” trước con mắt Đức Tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quý của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta.
Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gio-an nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” ( 1 Ga 4, 20 ).
Lạy Cha, việc Đức Giê-su hiển dung trước mắt các Tông Đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt Đức Tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con “hiển dung” trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quý mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.
Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT
-------------------------------
Chúa Nhật 2 Mùa chay Bò-ót = 2nd Sunday of Lent
Lời Chúa cho hôm nay: Đây là con Ta yêu dấu
* This is My beloved Son *
BÀI ĐỌC 1: Sáng thế 22, 1- 2, 9, 10- 13, 15- 18= Sự thử thách của Abraham: Chúa gọi Abraham và thử đức Tin của ông bằng cách hiến tế con một của ông, là cha đức Tin của chúng ta
Testing of Abraham: God calls Abraham and tests his faith by asking him to sacrifice his only son, our father in faith.
BÀI ĐỌC 2: Rom. 8, 31- 34= Chúa giúp chúng ta: Thiên Chúa đã đổ lòng thương xót của Ngài trên chúng ta, Ngài thương ta vô cùng qua cái chết của Đức Giêsu.
God is for us, He shower His mercy on us. He love us so much...
TIN MỪNG (GOSPEL): Mac-cô 9, 2-ABC 10= Chúa biến hình đổi dang: Thiên Chúa người Cha làm chứng cho ta khi Ngài công bố Đức Giêsu là con yêu dấu.
Jesus transfigured, God the Father gives witness to Jesus when He proclaims to be His beloved son.
A. Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Bài Tin Mừng hôm nay nói: "Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình...tới ngọn núi cao rồi Người biến hình đổi dạng trước mặt các ông". Sự việc này diễn tả sự biền đổi của Đức Kitô, Đấng Mê-si-a ẩn mình, tỏ bày ra trước kỳ hạn vinh quang Phục sinh của Người. Mỗi tín hữu đang được mời gọi trở nên giống hình ảnh Chúa. Bằng cách nào tôi đang thay đổi để phục sinh với Ngài?
Jesus took Peter, James and John and led them up a high mountain apart ...He was transfigured before them. (MC . 9, 2 )
2/ Sau khi Chúa biến hình rực rỡ: "Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: Đây là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người". Đức Giêsu là hình ảnh người tôi trung của Thiên Chúa đã được giới thiệu với bạn hôm nay. Bạn đã yêu Ngài bằng đọc và thực hành những điều gì?
"Then cloud came, casting a shadow over them; ... the cloud came a voice. This is my beloved Son. Listen to Him. (MC . 9, 7)
3/ Trong bài đọc 1, nói lên lòng tin và vâng lời của Abraham, Đức Chúa nói: "Ta lấy chính danh Ta mà thề bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi." Lòng tin mạnh mẽ của Abraham là tấm gương chói lọi cho các tín hữu. Hãy xét lại niềm tin của tôi trong đời sống như thế nào?
I swear by myself, declares the Lord, that beacuse you acted as you did ...withholding from Me your beloved son. (St.9, 16)
4/ Thánh Phaolô ca tụng tình yêu của Thiên Chúa như sau: "Đến như chính con Một Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta".Ông đã nhắc lại chuyện ông Abraham không ngần ngại hiến con một của ông là I-xa-ác. Điều gì đã giúp bạn sống trung thành với Chúa và gia đình ?
He who did not spare His own Son but handed him over for us all.( Rom. 8, 32 )
B. Câu Kinh Thánh đánh động tôi Sống đáp lại tình Chúa tuần này: ( The Best God's Word )
"ĐÂY LÀ CON TA YÊU DẤU. HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI" ( MC . 9, 7 )
This is My beloved Son. Listen to Him
C. Ngay bây giờ tôi cần làm gì để nghe Lời Chúa: ( So what am I doing / For Action )
1/ Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành vào đời sống.
2/ Bạn quyềt theo đuổi ơn Chúa đang gọi một cách tin tưởng tuyệt đối và phó thác bằng hành động.
D. Tôi cầu nguyện như hơi thở và Sống lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
a/ Lạy Cha, Cha đã yêu con bằng cách sẵn sàng để Đức Giêsu chịu chết vì con, để cho nhân loại được sống. Xin dạy cho con biết cảm nhận tình yêu của Cha và đem chia sẻ cho các anh em khó nghèo.
b/ Ông Abraham là tổ phụ của chúng con, đã thực hành Lời của Cha là hiến dâng con trai là I-xa-ác cho Chúa. Xin cha mẹ con biết suy niệm Lời Chúa hằng ngày để sống gương mẫu cho các con cháu noi theo.
Lời hay ý đẹp: HÃY ĐỂ CHÚA KÉO BẠN THEO PHƯƠNG HƯỚNG CỦA NGÀI
Allow God to draw you in His direction
Huyền Đồng
-------------------------------
- Lm. Đan Vinh
MC 9,2-ABC10
I.Tìm hiểu Lời Chúa
1) Ý chính: Hãy vâng nghe Lời Người (MC 9,7):
Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giêrusalem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giêsu muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động bằng cách đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha từ trong đám mây phán để xác nhận Người là con yêu dấu. Ngoài ra còn có Môsê và Elia hiện ra đàm đạo với Người về cuộc khổ nạn mà Người sắp chịu tại Giêrusalem. Như vậy, việc biến hình nhằm chứng minh cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đã được Thiên Chúa công khai xác nhận và sự kiện này cũng động viên tinh thần của các môn đệ , giúp các ông giữ vững đức tin khi cuộc khổ nạn của Đức Giêsu bắt đầu trở thành hiện thực tại vườn cây dầu.
2) Chú thích:
- Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Elia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu (MC 9,2-ABC4):
+ Sáu ngày sau: sáu ngày tính từ khi Phêrô tuyên xưng đức tin (x. MC 8,29).
+ Các ông Phêrô , Giacôbê và Gioan: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi chứng kiến giờ phút Người lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. MC 14,33).
+ Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Môsê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để nhận thập giới khắc trên hai bia đá (x. Xh 24,12-ABC18), Elia chạy trốn hoàng hậu I-de-ven lên "núi Thiên Chúa" (x. 1 V 19,2.8). Ở đây ba môn đệ được đưa lên núi cao là để được Đức Giêsu mặc khải cho thấy Thiên Tính của Người.
+ Người biến đổi hình dạng:Đức Giêsu tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân , để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới . Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giêsu, Đấng Mêsia đang ẩn mình, người tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây tỏ bày ra trước kỳ hạn vinh quang phục sinh của Người sau này.
+ Ông Êlia và ông Môsê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị này đều là nhân vật của Thời Cánh Chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Môsê đã chết ở miền đất Mô-áp, nhưng không ai biết được mộ phần ông ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Êlia thì leo lên chiếc xe ngựa đỏ như lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2 v 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của ông Môsê tượng trưng cho Lề Luật, và của Êlia tượng trưng cho các ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và cứu độ đã khởi đầu.
+ Hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Luca thì viết: "Và nói về cuộc xuất hành - (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giêsu) - mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem" (Lc 9,29).
- Bấy giờ, Ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Môsê một cái, và ông Elia một cái". Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng:"Đây là Con Ta yêu dấu hãy vâng nghe lời Người". Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi (MC 9,5-8)
+ Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều. Trong 7 ngày mừng lễ này, ngày thứ nhất và ngày thứ tám là hai ngày nghỉ việc. Người ta phải kiêng làm việc nặng , và tiến dâng lễ vật toàn thiêu (hỏa tế) lên Đức Chúa. Trong vòng 7 ngày, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để nhắc họ nhớ công ơn Đức Chúa đã cứu họ khỏi cảnh làm nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng ở các lều trại trong sa mạc (x. Lv 23,34. 42-ABC43). Ở đây, Phêrô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông đang chứng kiến.
+ Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng: Phêrô ở trong tâm trạng hoảng loạn vừa sợ hãi lại vừa vui mừng. Ong không biết nên làm hay nên nói điều gì cho phù hợp, khi ông chứng kiến cảnh biến hình này.
+ Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ xuất hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38).
+ Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha tuyên bố công nhận Đức Giêsu là "Con"(x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép Rửa tại sông Giô-đan (x. MC 1,11). Đức Giêsu cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải vâng nghe lời Người dạy bảo (x. Mt 16,14; Cv 3,22-ABC23).
+ Các ông chợt nhìn quanh , thì không thấy ai nữa: Hiện tượng biến hình của Đức Giêsu đã kết thúc mau chóng đột ngột, và mọi sự lại trở về tình trạng bình thường như cũ.
- Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "Từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì (MC 9,9-10):
+ Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giêsu thường bắt người được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết chính Đức Giêsu đã làm phép lạ ấy. Điều này được gọi là "Bí Mật Đấng Thiên Sai". Sở dĩ Đức Giêsu không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai, vì Người cần có một thời gian giảng dạy cho dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai theo ý Thiên Chúa. Nếu nói ra ngay sẽ làm cho họ đang bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong một Vua Thiên Sai trần tục, sẽ hiểu lầm sứ mệnh Thiên sai của Đức Giêsu và gây ra bạo loạn, làm cho đế quốc Rôma hùng mạnh, có cớ đem quân đến tiêu diệt nước Do Thái nhỏ bé. Như vậy sẽ bất lợi cho sứ mệnh của Đức Giêsu. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên Tính của Đức Giêsu sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh, nghĩa là khi Người từ cõi chết sống lại.
+ Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giêsu. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, mãi đến khi Người trải qua mầu nhiệm chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy.
+ Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì ?: Cũng như Phêrô đã can trách Đức Giêsu đã chấp nhận con đường cứu thế mà Chúa Cha đã ấn định, các môn đệ khác đều không hiểu hay đúng hơn, không muốn hiểu con đường "Từ trong cõi chết sống lại" hoặc "Qua đau khổ vào vinh quang" đã được Đức Giêsu công bố trước cuộc biến hình này như sau: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại" (MC 8,31).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) " Ai theo Thần khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần khí là sự sống đời đời" (Gl 6,8):
- Câu chuyện: Thiên thần biến thành ác quỉ:
+Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc quẹo, ông chợt nhìn thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ong nói với cậu bé rằng: "Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không ?" Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ. Mấy giờ sau, cậu ta rất phấn khởi khi thấy khuôn mặt của mình thật rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: "tuổi thơ trong trắng". Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình tĩnh. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù đang gặp khó khăn, họa sĩ vẫn nhất định không bán.
+ Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ tiếp tục đi dạo để tìm hứng sáng tác . Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần bẩn thỉu và có bộ mặt chai lì gian ác, giống như một tên quỉ sứ ! Ông suy nghĩ: "Sao trên đời này lại có một bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ ? Phải chi ta vẽ được bộ mặt quỉ sứ này để so sánh với bộ mặt thiên thần trong bức "Tuổi thơ trong trắng" thì hay biết mấy !
+ Bấy giờ gã ăn mày chìa tay ra xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá . Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi tới phòng khách, trông thấy bức tranh "Tuổi thơ trong trắng" đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc lâu, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: "Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ là đã do chính tay ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!". Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau: "Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ tôi rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi đã bị hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt theo nhau qua đời, tôi bán tất cả gia sản và lao vào các thú vui trác táng... Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền của và phải theo lũ bạn đi trộm cắp. Rồi sau đó tôi bị bắt và phải thụ án trong nhà tù mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua nhiều khó khăn gian khổ: Bị đánh đập, ức hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần và cuối cùng chính tôi trở thành kẻ hành hạ bóc lột tù nhân mới hay các bạn tù yếu thế hơn tôi. Bây giờ sau khi mãn hạn tù, tôi được thả ra trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại mang thêm bệnh lao phổi thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là phải đi ăn xin !".
+ Trước tâm sự của một người đã trót phung phí cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã hãy cố gắng ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức trang "Ác quỉ" mà ông mới vẽ bên cạnh bức "Tuổi thơ trong trắng". Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: " Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một người ! Giữa thiên thần và ác quỉ, chỉ cách nhau 20 năm sống phóng đãng mà thôi !"
( Trích GIAO LƯU HIỆP SỐNG trang 164).
- Câu hỏi thảo luận:
1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng của thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ ?
2) Hãy đọc đoạn thư Thánh Phaolô sau đây: "Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời . Khi làm điều thiện chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa, chúng ta sẽ được gặt , nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin" (Gl 6,7-10).
3) Bạn có đồng ý với lời dạy của thánh Phaolô nói trên không ? Tại sao ? Trong Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì cụ thể để biến đổi khuôn mặt hiện tại của bạn trở nên tốt đẹp thánh thiện và đáng mến, giống như bộ mặt thiên thần của nhân vật chính trong câu chuyện trên đây ?
2) "Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông " (MC 9,2):
- Suy niệm: Hai cuộc biến hình của người tín hữu:
+ Theo Thánh Phaolô thì đến ngày Tận Thế, mọi người đều được biến hình: "Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt, và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (1 Cr 15,51.53). - "Đức Giêsu Kitô sẽ dùng quyền năng mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người" (Pl 3,21). Tuy nhiên việc Đức Giêsu biến hình còn dạy rằng: chúng ta còn có một cuộc biến hình khác, được thực hiện ngay từ bây giờ, trong nếp sống, cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta.
+ Sự biến hình trong ngày Tận Thế có liên quan mật thiết với sự biến hình hiện tại . Sự biến hình ngày sau là công việc của Thiên Chúa, còn sự biến hình ngay bây giờ lại là công việc của chúng ta. Thế nhưng sự biến hình ngày sau lại căn cứ trên sự biến hình bây giờ như Đức Giêsu đã dạy: "Bấy giờ, ai đã làm lành thì sẽ sống lại để được sống . Còn ai đã làm dữ thì sẽ sống lại để bị kết án" (Ga 5,29). Nếu muốn sau này ta cũng được Chúa biến hình nên sáng láng tốt lành như Đức Giêsu hôm nay, thì ngay từ bây giờ ta phải thực hiện việc thay hình đổi dạng để mỗi ngày nên giống Đức Giêsu hơn.
- Câu hỏi thảo luận:
1) Phải chăng khi lập ra Mùa Chay, Hội Thánh chỉ nhầm mục đích giúp các tín hữu giữ luật xưng tội trong một năm ít là một lần và chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh ?
2) Trong Mùa Chay này, chúng ta phải làm gì cụ thể để được biến hình, nghĩa là hoán cải đời sống, thay hình đổi dạng nên giống Đức Giêsu, trở nên Con Yêu Dấu hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa ?
Đáp:
2) Phải nhìn nhận tội lỗi, các đam mê lạc thú bất chính và các thói hư tật xấu khác...Rồi xin Ơn Chúa giúp để mỗi ngày quyết tâm loại trừ và biến đổi trở nên giống Chúa Giêsu hơn, bằng việc: năng cầu nguyện với Thiên Chúa, tham dự Thánh lễ và Rước lễ, tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, danh thời giờ đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày...Hãm mình khổ chế đền tội như: bớt hút vài ba điếu thuốc, nhịn uống vài ly cà-phê hay rượu bia, tình nguyện tham gia công tác vệ sinh đường phố, làm sạch khu xóm hay khai thông cống rãnh...Quyết tâm đổi mới đời sống bằng các việc tốt, phù hợp với nhân đức đối nghịch với thói xấu muốn chừa cải .Cuối cùng cố gắng ăn chay để dành tiền làm việc bác ái như: Đóng góp với địa phương trong các công trình phúc lợi công cộng, giúp các bệnh nhân đau liệt và nghèo khổ vượt qua hoàn cảnh khó khăn...
3) "Đây là Con Ta yêu dấu,hãy vâng nghe Lời Người" (MC 9,7):
- Câu chuyện: Nên thánh nhờ vâng lời mẹ:
Tối hôm đó, sau khi từ giã bà con thân thuộc và bạn bè đến dự liên hoan chúc mừng ,bà Magarita mới có thời giờ nói chuyện riêng với tân linh mục Gioan Boscô. Bà âu yếm nhìn con và nói: " Hỡi Gioan con yêu của mẹ. Hôm nay con đã trở thành linh mục của Chúa, và đã được diễm phúc dâng Thánh lễ đầu đời. Con đã thuộc trọn về Chúa và đã là người của Chúa rồi. Vậy bắt đầu từ bây giờ, con không cần phải lo gì cho mẹ nữa . Nhưng hãy chú tâm thực hiện điều này là: Tìm làm vinh Danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn"... Gioan đã ghi lòng tạc dạ những lời bà mẹ đạo đức của mình vừa khuyên nhủ, và đã làm theo lời khuyên dạy ấy. Ngài đã dành tất cả thời giờ và sức lực cho công việc tông đồ là giáo dục các thanh thiếu niên. Cuối cùng Ngài đã được Giáo Hội tôn phong làm thánh để nên gương sáng cho các tín hữu chúng ta.
- Câu hỏi thảo luận: Lời khuyên của một bà mẹ nhà quê mà còn có sức biến đổi một người bình thường trở thành một vị thánh lớn như vậy, phương chi Lời Chúa trong Thánh Kinh còn có sức mạnh lớn lao biết bao ! Vậy để cho Lời Chúa phát huy tác dụng là biến đổi chúng ta trở nên tốt lành thánh thiện , chúng ta cần phải làm gì ?
Đáp:
+ Phải ý thức giá trị Lời Chúa: Mở rộng tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa, rồi suy niệm để tìm hiểu ý Chúa muốn và xin ơn Chúa giúp thực thi ý Chúa (x. Lc 8,15).
+ Phải noi gương Đức Giêsu: Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa, đã nhập thể làm người (x. Ga 1,1.14) ; Ai thấy Người là thấy Chúa Cha (Ga 14,9-10). Ai thực hành Lời Chúa giống như xây nhà đức Tin trên nền đá (x. Mt 7,24). Muốn vào Nước Trời thì phải làm theo ý Chúa Cha (x. Mt 7,21). Bổn phận của ta là phải tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa (x. Mt 16,16; Ga 6,68-69), rồi lắng nghe lời Người và quyết tâm noi gương Người (x. 1 Cr 11,1, vì Người là hình ảnh của Chúa Cha (x. Cl 1,15).
+ Phải đổi mới đời sống: đổi mới cách suy nghĩ, nói năng và hành động theo gương Chúa làm, theo lời Chúa dạy. Nhất là tập sống bác ái yêu thương (x. Ga 13,34-35). Cụ thể là khiêm nhường phục vụ tha nhân (x. Ga 13,15).
+ Phải sống Lời Chúa dạy: Mỗi lần dự lễ, cần lắng nghe Lời Chúa phán qua các bài đọc Cựu Ước và Tân Ước, nhất là nghe bài giảng của vị chủ tế để áp dụng Lời Chúa vào đời sống. Lời Chúa sẽ tỉa sạch các thói hư tật xấu của ta (x. Is 18,5; Ga 15,2). Lời Chúa là ngọn đèn và là ánh sáng chỉ đường cho ta (x. Tv 119, 105). Lời Chúa sẽ làm phát sinh hoa trái bác ái (x. Ga 15,5). Nhờ Lời Chúa, ta sẽ sống bác ái như kinh "thương người" đã đề ra.
III. Hiệp sống nguyện cầu
1) Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ mình ra trước mặt ba môn đệ thân tín trên ngọn núi cao để củng cố đức tin của các ông khi gặp thử thách sau này. Hôm nay con cũng sắp mình như các môn đệ Chúa xưa, để tôn vinh Thiên Tính của Chúa, để cảm tạ Chúa đã cho con nếm trước hạnh phúc đời sau. Xin Chúa cho con một chút niềm tin chói sáng, một chút lý tưởng rạng ngời, một chút tình yêu tha thiết, để con cảm nghiệm thấy ở bên Chúa thực là hạnh phúc như các môn đệ Chúa xưa. Lạy Chúa, hiện giờ chưa tới lúc chúng con được biến hình vinh quang, nhưng đang là lúc chúng con cần được biến đổi để nên giống Chúa nhờ sự ăn năn sám hối tội lỗi. Nhờ đó, chúng con sẽ sống đẹp lòng Chúa Cha vì đã vâng nghe lời Chúa Con. Xin Chúa cho mọi người biết lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn vâng theo Ý Chúa, để trở nên tốt hơn trong Mùa Chay này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con .
2) Lạy Thánh Mẫu Maria. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Cha đã giới thiệu Đức Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người". Lạy Mẹ, Lời Chúa có sức mạnh biến đổi con người. Xin Mẹ giúp con ý thức được sức mạnh và hiệu quả của Lời Chúa. Xin cho con biết noi gương Mẹ: luôn lắng nghe, tìm hiểu và xin vâng Ý Chúa. Con biết rằng: Khi xin vâng, con sẽ phải hy sinh ý riêng, hy sinh các đam mê bất chính, hy sinh sở thích... Những hy sinh này thật khó thực hiện, vì nó trái với bản tính tự nhiên của con. Vậy trong Mùa Chay này, Xin Mẹ giúp con thực thi bác ái yêu thương, cho con trở thành con ngoan của Chúa, cho con năng đến gặp Chúa khi dự lễ và rước lễ mỗi ngày, cho con kiên trì giữ các giới răn của Chúa. Lạy Mẹ, một khi được Lời Chúa soi dẫn và được ơn thánh Chúa trợ giúp, con hy vọng sẽ tỉa sạch tội lỗi và các thói hư tật xấu, nhờ đó, con sẽ tích cực góp phần xây dựng Hội Thánh và sau này con sẽ được vui sống trong Nhà Chúa muôn đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Lm. Đan Vinh
-------------------------------
“Không những Ngài đã chết vì ta, xong Ngài đã phục sinh từ cõi chết, hằng ngự bên hữu Thiên Chúa để chuyển cầu cho ta. (Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Roma 8:34) Thiên Chúa là thần linh cao cả mang đầy tình thương nên Ngài luôn bận rộn với đời sống con người. Từ ngày tạo dựng nên con người được giống hình ảnh Thiên Chúa, Ngài đã phải tất bật liên tục với công cuộc cứu vớt loài người hư hỏng. Một khi nguyên tổ loài người sa ngã vì nghe lời quyến dụ ngon ngọt của Satan, Thiên Chúa đã lập ra một chương trình cứu chuộc loài người thoát khỏi cảnh lầm lạc của họ. Ngài phải kiên nhẫn chuẩn bị và chờ đợi cho đến thời gian thích hợp để thực thi công cuộc khó khăn và quan trọng ấy. Bằng biến cố nhập thể làm người, đời sống, cái chết trên thập giá và cuộc phục sinh khải hoàn của đức Kitô, Thiên Chúa đã chiến thắng Satan quỷ dữ một lần quyết định dứt khoát đến muôn đời. Ngài mở rộng một con đường mới dẩn đưa con người tới sự sống sung mãn trong Chúa. Và giờ đây đức Kitô vẫn túc trực bên hữu Chúa Cha để bầu cử cho từng linh hồn một, nhận được cơ hội hưởng nhờ ơn cứu độ Ngài đã sắm sẳn cho hết cả loài người.
Nếu không phải vì phẩm giá cao quí độc đáo của con người, và nếu không phải vì giá trị tuyệt đối không thể thay thế được của linh hồn người ta, thì thử hỏi còn có gì khiến Thiên Chúa toàn năng cao cả phải tất bật khổ sở đến như thế?!!! “Không có gì trổi vượt hơn tính cao quí hay phẩm giá của một con người.” (Đức Gioan Phaolô II)
Thiên Chúa chí nhân chí ái không thể ngồi yên nhìn con cái đáng thương của Ngài bị ma quỷ đày đọa mãi, Ngài đã chuẩn bị và dọn sẳn hết mọi điều kiện cần thiết, con người chỉ còn một việc quyết định đơn giản là tin vào quyền năng Thiên Chúa, hay tin theo phù phép dối trá của ma quỷ. Chính sự tự do quyết định này con người phải tự làm lấy, và bước quyết định quan trọng này chứng tỏ con người có bản lãnh thực sự đáng làm con cái đời đời của Thiên Chúa.
Lm. Phêrô Trần Văn Trợ SJ
-------------------------------
Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày trước đây khi Ngài loan báo về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy, không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước của Thầy, vì những tư tưởng của con không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất phát từ con người.
Sau lời quở trách ấy, thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta có thể xác quyết: hành trình của đức tin giống như hành trình của một chiếc tàu đi biển. Có lúc được nâng lên cao, có lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những điểm cao và những điểm thấp của nó. Có lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống đồi. Có những lúc bùng sáng, thì cũng có lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin của các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc trong đêm tối, nhưng có những lúc ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ một vài tháng sau, tại vườn cây dầu tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê, các ông người thì chối Chúa, kẻ thì bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta cũng vậy, có những lúc lên cao và có những lúc xuống thấp… Khi lên cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không còn đón nhận những lời chúng ta kêu xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị xuống thấp như thế chúng ta phải làm gì ?
Tôi xin thưa, hãy noi gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa con duy nhất là Isaac, đem nó lên núi mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm cho ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc và ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử thách đức tin của chúng ta. Tâm hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay, bản thân chúng ta thì khổ đau buồn phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Ngài.
-------------------------------
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rời Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở uống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Andrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo…? Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta”.
Sau khi cho ta hiểu biết Người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.
-------------------------------
Có những lúc chúng ta phải đương đầu với một tình huống mà khi ấy chúng ta không thể thốt lên lời được. Có lẽ không phải tất cả chúng ta đều đã trải qua kinh nghiệm về những khoảnh khắc như vậy một cách có ý thức. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu chúng ta thường xuyên phản tỉnh về cuộc sống của mình, chúng ta sẽ nhận ra có rất nhiều khoảnh khắc như thế trong cuộc đời của mình. Khả năng nhận ra những khoảnh khắc kinh ngạc và đáng sợ ấy phù thuộc vào tình trạng thanh tĩnh và thinh lặng của tâm hồn chúng ta.
Có những lúc trong cuộc đời, chúng ta sống và làm việc như cái máy, không có chút phản tỉnh nào về cuộc sống của mình. Chúng ta có quá nhiều việc phải làm. Vì thế, sự bận rộn liên lạc này dễ bị Satan lợi dụng để lôi kéo chúng ta ra xa ơn gọi căn bản của mình, là ơn gọi sống trong mối liên hệ gắn bó với Thiên Chúa. Hầu có thể sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, chúng ta cần dành thời giờ để phản tỉnh trong sự bình an và thinh lặng của tâm hồn. Sự bận rộn thái quá ngăn cản chúng ta thực hiện việc này.
Chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng để nhận ra và xác tín chúng ta cần có những khoảng thời gian thoát ra khỏi sự bận rộn của đời sống thường ngày, và can đảm đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy nghĩ. Các sách Tin Mừng cho chúng ta biết chính Chúa Giêsu cũng thường xuyên làm như vậy. Chúa Giêsu biết rõ việc cầu nguyện giúp mình giữ được sự sáng suốt và gắn bó với Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta sống trong thinh lặng với Thiên Chúa và phản tỉnh về ý nghĩa sâu xa của cuộc đời mình, lúc đó những việc chúng ta làm trong thế giới này mới có giá trị. Nếu hành động của chúng ta không dựa trên việc chúng ta sống gắn bó với Thiên Chúa thì rồi cuộc đời của chúng ta có lẽ cũng chỉ như “Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.
Xã hội ngày hôm nay làm cho con người có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại để sống trong thinh lặng và suy nghĩ phản tỉnh. Đó là một nguy cơ làm cho sự liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta, bị buông lỏng và dần dần bị cắt đứt hoàn toàn.
-------------------------------
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào ? Có phải là một chuyện thần thoại không ? Cách đây ít lâu, trên đài truyền hình thành phố, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa ? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh.
Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà.
Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
-------------------------------
“LẠY CHÚA, DẠ CON ĐÂY!”
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY NĂM B (12.03.2006)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Mùa Chay là thời gian mà người Ki-tô hữu phải điều chỉnh tư tưởng, lời nói và hành động của mình cho phù hợp với tinh thần và đường lối của Thiên Chúa. Sở dĩ phải điều chỉnh vì chúng ta thường đi lạc đường và thường sống ngược với mệnh lệnh & ý muốn của Thiên Chúa. Cũng có nghĩa là chúng ta không sống với tâm tình, thái độ và cung cách của những người con thảo đối với Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Trong tuần lễ II Mùa Chay này, Hội Thánh mời gọi chúng ta nhìn vào gương tổ phủ Áp-ra-ham và nhất là gương của Chúa Giê-su mà thưa với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, dạ con đây!” và hăm hở thực thi Thánh Ý Người.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18: Ông Áp-ra-ham dâng I-xa-ác làm lễ tế.
(1) Hồi đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông: "Áp-ra-ham!" Ông thưa: "Dạ, con đây !" (2) Người phán: "Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho." (9) Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. (10) Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. (13) Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. (15) Sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa (16) và nói: "Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, (17) nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. (18) Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."
(2) Bài đọc 2: Rm 8,31b-34: Ca tụng tình yêu của Thiên Chúa.
(31) Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? (32) Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ? (33) Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? (34) Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
(3) Bài Tin Mừng: MC 9,2-ABC10: Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Mt 17,1-8; Lc 9,28-36).
(2) Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. (3) Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. (4) Và ba môn đệ thấy ông E-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. (5) Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông E-li-a." (6) Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. (7) Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người." (8) Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ có Đức Giê-su với các ông mà thôi.
(9) Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. (10) Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Trong bài đọc 1 (St 22,1-2.9A.10-13.15-18) chúng ta thấy Thiên Chúa thử thách lòng tin cậy, phó thác và vâng phục của tổ phụ Áp-ra-ham khi truyền lệnh cho ông hiến dâng I-xa-ác, người con trai độc nhất và cũng là con thừa tự, làm lễ tế cho Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy tổ phụ Áp-ra-ham đã thể hiện lòng tin cậy, phó thác và vâng phục Thiên Chúa như thế nào. “Dạ con đây!” là lời đáp thật vắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa của ông Áp-ra-ham, người được mệnh danh là cha các kẻ tin! Nhờ lòng tin cậy, phó thác và vâng phục tuyệt vời ấy mà bao người được Thiên Chúa chúc phúc.
(2) Trong bài đọc 2 (Rm 8,31b-34) Thánh Phao-lô Tông đồ lý luận một cách đầy sức thuyết phục: một khi chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương đến độ đã ban Con Một Yêu Dấu của Người cho chúng ta thì chúng ta chẳng còn gì phải sợ sệt và cũng chẳng thiếu thốn chi nữa. Chính Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng bênh vực, chở che và ban mọi ơn lành cho chúng ta.
(3) Trong bài Tin Mừng (MC 9,2-ABC10) Thánh Mác-cô tường thuật lại một sự kiện ‘phi thường’ đã xẩy ra trong đời của Chúa Giê-su Na-da-rét: Chúa Giê-su cho ba môn đệ thân tín nhất của Người chứng kiến ánh hoàng quang chói ngời ở nơi Người và hé mở cho các ông nhận ra chân tướng đích thực của Người. Thánh Mác-cô miêu tả quang cảnh Núi Hiển Dung y hệt như quang cảnh “Thần Hiện” (Epiphania) trong Cựu Ước. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật của Lể Luật và Ngôn Sứ mà xuất hiện bên Chúa Giê-su và đàm đạo với Người thì các môn đệ phải hiểu rằng Thày mình phải là Đấng đến từ thế giới riêng của Thiên Chúa và vượt trội hơn hai vị kia bội phần. Tuy Phúc âm không nói ra, nhưng chúng ta hiểu ngay rằng chính vì Chúa Giê-su luôn sẵn sàng thi hành Thánh Ý Chúa Cha mà Thiên Chúa mới có lời phán dạy từ trên đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!”
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay nằm trong tiếng nói từ trong đám mây tức tiếng nói của Thiên Chúa Cha: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người." Sứ điệp gồm hai phần: hãy tin & đón nhận và hãy vâng nghe lời Chúa Giê-su.
(*) Hãy tin & đón nhận Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu, là Con Một của Cha, là Đấng được Cha sai đến trần gian, từ nơi Cha để nói lời của Cha cho nhân loại được sống.
(*) Hãy vâng nghe lời Chúa Giê-su: vì Lời Người là Lời của Cha, là lời chân thật và cứu độ, đem ơn giải thoát cho những ai biết tuân giữ lời ấy.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống Lời Chúa hôm nay là điều chỉnh đời sống cho phù hợp với sứ điệp của Lời Chúa. Hai câu hỏi giúp chúng ta trong việc hệ trọng này:
* Tôi có thật sự tin & đón nhận Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu, là Con Một của Thiên Chúa không?
* Tôi có thật sự vâng nghe Lời Người không?
Hãy chứng minh cho chính bản thân mình trước khi muốn chứng minh cho người xung quanh lòng tin và sự vâng nghe lời Chúa của chúng ta!
IV. CẦU NGUYỆN
"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con biết rằng: đáp lại lời chỉ bảo của Cha là chúng con phải tin Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Yêu Dấu của Cha. Xin Cha ban ơn tin / cậy / mến cho chúng con để chúng con tin vào Con Cha, trông cậy ở Người và mến yêu Người.
"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con biết rằng: nếu chúng con tin Chúa là Con Một Yêu Dấu của Cha thì chúng con phải vâng nghe Lời Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con ơn biết lắng nghe và thi hành Thánh Ý của Chúa như Chúa Cha đã chỉ thị cho chúng con hôm nay.
“Dạ con đây”
Lạy Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, chúng con biết rằng: vâng nghe Lời Chúa Giê-su, Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa, thì chúng con phải nói năng và hành động giống y tổ phụ Áp-ra-ham và Chúa Giê-su Ki-tô. Chúng con không chỉ biết thưa: “Lạy Chúa, dạ con đây!” mà chúng con còn phải biết mau mắn thực thi Thánh Ý của Chúa Cha để chúng con thể hiện tấm lòng thảo hiếu chân thành và sâu sắc của chúng con đối với Chúa Cha là Đấng đã mời gọi và đang chờ đợi chúng con. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn phù giúp và hướng dẫn chúng con. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Sàigòn ngày 05.02.2006
-------------------------------
- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
VietCatholic News (01/02/2005)
Chúa Nhật 2 Mùa Chay B
Bài đọc 1: St 22, 1-2.9a.10-13.15-18
Bài đọc 2: Rm 8, 31-34
Tin Mừng: MC 9, 2-ABC10
Kính thưa...
Lời Chúa tuần 1 Mùa Chay, với trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ cho thấy Đức Giêsu đích thực là một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4, 15). Ngài đã đến để giao hoà chúng ta lại với Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay cho thấy: chàng thanh niên có tên là Giêsu đó, chính thực là Con Thiên Chúa với sự kiện Ngài biến hình trên núi, nhất là lời xác nhận của Chúa Cha: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Tuy nhiên, sau những giây phút vinh quang đó, Đức Giêsu lại hiện diện bên cạnh các tông đồ một cách bình thường, hơn nữa, chính Ngài lại còn đi con đường khổ nạn với cái chết nhục nhã trên thập giá. Vì thế, đón nhận sứ điệp này không phải là điều dễ dàng. Nó đòi hỏi những người đón nhận một lòng tin vững mạnh, dám phó thác hoàn toàn cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa và luôn làm theo lời Chúa.
1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa:
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, đây là một chân lý thật rõ ràng. Tất cả những lời Ngài rao giảng, những việc Ngài làm như: chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ, cho kẻ chết sống lại.. ., đều chứng minh điều đó. Thế nhưng, dân Do thái lúc bấy giờ đã không nhận ra bản chất đích thực của Ngài. Đối với họ, Đức Giêsu chỉ là một trong các ngôn sứ như Gioan Tẩy Giả, hay Êlia mà thôi. Ngay cả các tông đồ mặc dù được sống gần gũi với Chúa, được Chúa hướng dẫn trực tiếp, cùng ăn, cùng ngủ với Ngài và Phêrô cũng đã có lần thay mặt các ông mà tuyên xưng rằng: "Thầy là Đức Kitô". Nhưng ngay khi nghe Chúa loan báo về cuộc khổ nạn, về con đường thập giá Ngài phải đi, thì chính Phêrô đã lên tiếng cản ngăn Ngài, đến nỗi Ngài phải nặng lời với ông: "Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! (x. MC 8, 27-33).
Chính vì thế vào thời điểm của bài Tin Mừng này, Thiên Chúa muốn ba môn đệ thân tín nhất được nhìn thấy rõ ràng bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Tin mừng thuật lại: "Khi ấy, Đức Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng với Người lên núi cao và Người biến hình trước mặt các ông, áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môisen hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu". Đức Giêsu đứng giữa Môisen và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, hay nói cách khác, hai người này đã đại diện cho toàn bộ Cựu ước (x. Lc 24, 27. 44). Còn Chúa Giêsu thì với y phục rực rỡ, có đám mây bao phủ - biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Ngoài ra, còn câu nói từ trong đám mây phán xuống: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Tất cả những điều đó khẳng định cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Đức Giêsu. Những điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay mới đúng là bản chất đích thực của Ngài. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, liền sau đó, khi thầy trò xuống núi, Đức Giêsu đã căn dặn các ông "đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại", thì các ông lại không hiểu, nên đã tự hỏi nhau: "Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?". Các ông không hiểu làm sao Con Thiên Chúa lại phải đi qua cái chết!!! Như thế, sứ điệp Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và con đường thập giá của Ngài không dễ đón nhận với lý trí bình thường của con người. Để đón nhận được sứ điệp này đòi hỏi người nghe phải có một đức tin thật mãnh liệt.
2. Sứ điệp của niềm tin:
Đây không phải là một đức tin chỉ tuyên xưng ngoài môi miệng, nhưng là một đức tin đòi chúng ta phải chứng tỏ bằng những hành động thật cụ thể như tổ phụ Abraham khi xưa. Lúc đó, vào lúc gần trăm tuổi, Abraham sinh được một đứa con là Isaac. Đây là đứa con của lời hứa, là cậy gậy cho ông trong lúc tuổi già. Thế nhưng, ngay khi vừa nghe Chúa nói: "Người hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi". Abraham đã vâng lệnh ngay. Ông không chần chờ, cũng không đòi lời giải thích. Hành vi này chứng tỏ một đức tin mãnh liệt của ông vào tình thương của Thiên Chúa. Chắc hẳn ông rất đau lòng khi phải đem con đi sát tế để dâng cho Thiên Chúa. Nhất là trên đường đi, lúc nghe con hỏi: "Thưa Cha! Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?". Nhưng Abraham đã trả lời rằng: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ." (x. St 22, 8). Một câu trả lời bộc lộ một sự tin tưởng và phó thác hoàn toàn cuộc sống mình cho tình yêu của Thiên Chúa.
Và lòng tin của ông đã được đáp trả xứng đáng. Ngay lúc ông cầm dao định sát tế con, ông đã nghe tiếng Chúa phán: "Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta...nên Ta chúc phúc cho ngươi". Và chẳng những ông nhận lại được con, ông còn nhận được lời hứa: "Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển... và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".
Đó là niềm tin của tổ phụ Abraham, một người chưa biết Đức Kitô. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Mỗi người chúng ta đã nhận được thật nhiều hồng ân của Thiên Chúa. Đặc biệt, là ơn công chính hoá nhờ cái chết của chính Con Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô: "Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao?". Vì thế, thánh nhân mời gọi chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, bởi vì: "Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?".
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, rồi nhìn lại cuộc sống mình, có lẽ chúng ta phải công nhận rằng: chúng ta vẫn chưa xác tín đủ sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta. Chúng ta còn mãi băn khoăn, lo lắng về cuộc sống như một kẻ không tin. Chúng ta cũng chưa nhận ra khuôn mặt của Đức Kitô nơi người chồng, người vợ, nơi cha mẹ, con cái của chúng ta, nên chúng ta còn làm khổ họ bằng những lời nói cộc cằn, thô lỗ, có khi còn hận thù, ghen ghét, và bằng cả lối sống ích kỷ của chúng ta.
Chúng ta cũng chưa đủ niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa, nên chúng ta còn nhiều ngần ngại khi phải sống những đòi hỏi của Thiên Chúa. Chúng ta còn do dự khi phải đi con đường thập giá của Chúa. Chúng ta còn tính toán khi làm việc bác ái hay chia sẻ với anh chị em thật đúng như lời chia sẻ của các bạn giới trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh, được trích đăng trong tập "Abba", số 115:
- Ăn Chay bằng cách nhịn đói cả một bữa xem ra nhiều khi lại dễ hơn là nhịn bớt một miếng ăn ngon âm thầm trong bữa (ăn hàng ngày).
- Bố thí 500đ cho một hành khất vô danh xem ra nhiều lúc khó hơn cho đi cả 500.000đ với tên được đăng trên báo.
- Sự lịch thiệp nơi cơ quan hay trước công chúng lắm lúc được trau chuốt hơn là sự tế nhị, dịu dàng trong gia đình (đối với vợ, chồng, con cái, cha mẹ).
Lạy Chúa là Đấng yêu thương và thấu suốt mọi bí ẩn, xin giúp chúng con nhận ra khuôn mặt và tình yêu của Chúa nơi những người đang sống chung quanh con, và xin Chúa giúp chúng con luôn chu toàn tất cả mọi việc, dù lớn dù nhỏ, chỉ vì lòng yêu mến mà thôi. Amen.
-------------------------------
Huyền Đồng
VietCatholic News (01/02/2005)
Chúa Nhật 2 Mùa chay B
2nd Sunday of Lent
Lời Chúa cho hôm nay: Đây là con Ta yêu dấu
* This is My beloved Son *
• BÀI ĐỌC 1: Sáng thế 22, 1- 2, 9, 10- 13, 15- 18= Sự thử thách của Abraham: Chúa gọi Abraham và thử đức Tin của ông bằng cách hiến tế con một của ông, là cha đức Tin của chúng ta
Testing of Abraham: God calls Abraham and tests his faith by asking him to sacrifice his only son, our father in faith.
• BÀI ĐỌC 2: Rom. 8, 31- 34= Chúa giúp chúng ta: Thiên Chúa đã đổ lòng thương xót của Ngài trên chúng ta, Ngài thương ta vô cùng qua cái chết của Đức Giêsu.
God is for us, He shower His mercy on us. He love us so much...
• TIN MỪNG (GOSPEL): Mac-cô 9, 2-ABC 10= Chúa biến hình đổi dang: Thiên Chúa người Cha làm chứng cho ta khi Ngài công bố Đức Giêsu là con yêu dấu.
Jesus transfigured, God the Father gives witness to Jesus when He proclaims to be His beloved son.
A. Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Bài Tin Mừng hôm nay nói: "Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình...tới ngọn núi cao rồi Người biến hình đổi dạng trước mặt các ông". Sự việc này diễn tả sự biền đổi của Đức Kitô, Đấng Mê-si-a ẩn mình, tỏ bày ra trước kỳ hạn vinh quang Phục sinh của Người. Mỗi tín hữu đang được mời gọi trở nên giống hình ảnh Chúa. Bằng cách nào tôi đang thay đổi để phục sinh với Ngài?
Jesus took Peter, James and John and led them up a high mountain apart.. .He was transfigured before them. (MC . 9, 2 )
2/ Sau khi Chúa biến hình rực rỡ: "Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: Đây là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người". Đức Giêsu là hình ảnh người tôi trung của Thiên Chúa đã được giới thiệu với bạn hôm nay. Bạn đã yêu Ngài bằng đọc và thực hành những điều gì?
"Then cloud came, casting a shadow over them;.. . the cloud came a voice. This is my beloved Son. Listen to Him. (MC . 9, 7)
3/ Trong bài đọc 1, nói lên lòng tin và vâng lời của Abraham, Đức Chúa nói: "Ta lấy chính danh Ta mà thề bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi." Lòng tin mạnh mẽ của Abraham là tấm gương chói lọi cho các tín hữu. Hãy xét lại niềm tin của tôi trong đời sống như thế nào?
I swear by myself, declares the Lord, that beacuse you acted as you did.. .withholding from Me your beloved son. (St.9, 16)
4/ Thánh Phaolô ca tụng tình yêu của Thiên Chúa như sau: "Đến như chính con Một Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta".Ông đã nhắc lại chuyện ông Abraham không ngần ngại hiến con một của ông là I-xa-ác. Điều gì đã giúp bạn sống trung thành với Chúa và gia đình ?
He who did not spare His own Son but handed him over for us all.( Rom. 8, 32 )
B. Câu Kinh Thánh đánh động tôi Sống đáp lại tình Chúa tuần này: ( The Best God's Word )
"ĐÂY LÀ CON TA YÊU DẤU. HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI" ( MC . 9, 7 )
This is My beloved Son. Listen to Him
C. Ngay bây giờ tôi cần làm gì để nghe Lời Chúa: ( So what am I doing / For Action )
1/ Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành vào đời sống.
2/ Bạn quyềt theo đuổi ơn Chúa đang gọi một cách tin tưởng tuyệt đối và phó thác bằng hành động.
D. Tôi cầu nguyện như hơi thở và Sống lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
a/ Lạy Cha, Cha đã yêu con bằng cách sẵn sàng để Đức Giêsu chịu chết vì con, để cho nhân loại được sống. Xin dạy cho con biết cảm nhận tình yêu của Cha và đem chia sẻ cho các anh em khó nghèo.
b/ Ông Abraham là tổ phụ của chúng con, đã thực hành Lời của Cha là hiến dâng con trai là I-xa-ác cho Chúa. Xin cha mẹ con biết suy niệm Lời Chúa hằng ngày để sống gương mẫu cho các con cháu noi theo.
Lời hay ý đẹp: HÃY ĐỂ CHÚA KÉO BẠN THEO PHƯƠNG HƯỚNG CỦA NGÀI
Allow God to draw you in His direction
-------------------------------
VietCatholic News (01/02/2005)
Phúc Âm Thánh Marcô (MC . 9:1-9)
Trong kinh cầu chịu nạn, chúng ta đọc có câu: "Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông yên ủi các thánh." Điều này có nghĩa sau khi Đức Giêsu chịu nạn tắt thở, thần khí của Ngài xuống ngục tổ tông giải thoát các thánh. Nếu tôi không lầm, ngày xưa chúng ta cũng được dạy rằng trước khi Đức Giêsu chuộc tội, không ai được lên thiên đàng do sự ràng buộc bởi tội tổ tông như kết quả bất tuân lệnh mà ăn trái cấm của bà Evà. Tuy nhiên, bài Phúc Âm nói đến sự biến hình của Đức Giêsu và tiên tri Êlia cùng với Maisen hiện ra đàm đạo với Ngài. Sách các vua quyển II đoạn 2, câu 11 chép rằng khi tiên tri Êlia đang cùng với Êlisa nói chuyện bên bờ sông Jordan thì có một xe bằng lửa và những ngựa lửa tách giữa hai người và tiên tri Êlia lên trời trong cơn gió lốc. Điều này rõ ràng Kinh Thánh nói trái ngược với điều chúng ta được dạy. Chúng ta thường được dạy rằng không ai được vào nước thiên đàng trước khi Chúa chuộc tội. Đàng khác, Maisen cũng chết trước thời Đức Giêsu không biết bao nhiêu năm. Trong khi Đức Giêsu còn tại thế, nghĩa là chưa chịu nạn, thì cách nào Mai sen có thể hiện đến để đàm đạo với Đức Giêsu? Nếu ai đã suy gẫm về bài Phúc Âm hôm nay, tất nhiên sẽ phải đối diện với vấn nạn này.
Suy luận như thế chúng ta thấy, bài Phúc Âm hôm nay khuyến khích chúng ta để ý hai điểm rõ ràng. Điểm đầu tiên đó là tiên tri Êlia và Maisen đã qua đi trước Đức Giêsu bao nhiêu năm nhưng đã hiện ra để đàm luận với Ngài. Điều này muốn nói lên rằng con người còn có cuộc sống khác sau khi thân xác lìa cõi trần. Điểm thứ hai đó là Phêrô, Giacôbê, và Gioan tiếp tục nghi vấn để cố tìm hiểu ý nghĩa "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?" Điểm này chứng tỏ cho chúng ta thấy vào thời điểm của Đức Giêsu người ta không nghĩ rằng có sự sống lại từ cõi chết bởi thế Phêrô, Giacôbê, và Gioan cũng không hiểu Đức Giêsu muốn nói gì.
Chúng ta biết rõ ràng mỗi người gồm có hai thực thể hữu hình và vô hình. Thành phần hữu hình chính là thân xác, những sinh hoạt trong cuộc sống, và tất cả những gì chúng ta có thể nhận biết được qua ngũ quan. Thành phần vô hình chính là linh hồn, thực thể tâm linh nơi mỗi người. Thực thể tâm linh này được thể hiện qua ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ, cảm tình, những sự hiểu biết v.v... Thực thể tâm linh là chủ động của bất cứ hoạt động nào của con người, từ ý nghĩ, ý định đến hành động ăn ngủ hoặc sinh hoạt hàng ngày. Phúc Âm thánh Gioan viết rõ ràng về thực thể tâm linh hay linh hồn của chúng ta nơi đoạn 6 câu 63, "Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì." Suy niệm chín chắn câu Phúc Âm này chúng ta sẽ nghiệm chứng được thân xác chỉ là dụng cụ cho linh hồn hoạt động. Thế nên, tất cả những sinh hoạt tâm linh hay thế tục nơi một người đều được phát xuất từ linh hồn. Đã bao lần chúng ta nghe hoặc đọc những câu Phúc Âm nói về sự thể này nhưng có lẽ đã quá quen thói nghe cho qua hoặc khinh thường không cần để ý nên lời Phúc Âm coi chừng đã không giúp ích gì được cho chúng ta. Có thể tôi đã lầm, nhưng thực ra, phải nói rằng Thánh Thần Thiên Chúa luôn luôn sẵn sàng soi sáng mà chúng ta đã không cho Ngài cơ hội. Đây chính là kết quả của lối nhìn hoặc lối suy luận Phúc Âm theo ý nghĩ thế tục, luân lý. Thế nên, Phúc Âm Gioan đã đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, "Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong các ngươi có những kẻ không tin" (6:63b-64a). Như vậy, không tin có nghĩa không chịu để ý, tìm hiểu hoặc suy luận, suy niệm.
Linh hồn chúng ta, thực thể tâm linh nơi mỗi người không thể chết. Nơi cuộc sống hữu hình, thân xác chúng ta chính là công cụ cho linh hồn hoạt động nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh. Mục đích của hành trình này là đạt đến trạng thái nhận thực Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình. Và như vậy, linh hồn mỗi người còn được gọi là Thiên Chúa nội tại. Bởi vậy, thân xác chúng ta chỉ được coi như chiếc đò chở hồn nơi giòng đời và những biến chuyển nơi giòng cuộc sống đều là phương tiện hay cơ may cho linh hồn học những bài học mới. Nói cách khác, những sự việc nơi cuộc sống là những cơ hội cho linh hồn phát triển, thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh, hành trình nhận chân thực thể chính mình.
Tóm lại, cuộc đời chúng ta không phải là hết sau khi thân xác chết mà chúng ta còn có cuộc sống vô hình tiếp theo. Cuộc sống chúng ta biến đổi chứ không mất đi. Và những gì chúng ta thực hiện nơi cuộc đời, linh hồn chúng ta chịu trách nhiệm nơi cuộc sống tiếp nối. Nhận thực như thế, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em dùng những ngày tháng của mùa chay này tự suy gẫm để nhận thực mình là gì đối với cuộc đời vĩnh cửu.
-------------------------------
- Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
VietCatholic News (01/02/2005)
Người đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy - Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
Buổi sáng tinh sương hôm đó, trên con đường dẫn tới vùng đất Moriyah (theo truyền thuyết, chính là ngọn đồi sau này đền thánh Giêrusalem sẽ được xây trên đó), cụ già Abraham tay "cầm lửa và dao phay", Isaac, đứa con duy nhất của cụ vác củi. Cả hai đang mải miết trèo núi để làm lễ tế kính tiến Thiên Chúa Giavê.
Câu chuyện xảy ra vượt sức tưởng tượng của con người! Khởi đầu là lệnh truyền của Thiên Chúa Giavê: "Ngươi hãy lấy con ngươi, con một ngươi, ngươi yêu dấu tức là Isaac mà đi tới đất Moriyah, và ở đó hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến trên một quả núi ta sẽ tỏ cho ngươi" (St 22,2). Tiếp đó là việc thi hành thượng lệnh không sai một ly: "Abraham xây tế đàn rồi sắp củi, và trói Isaac con ông mà đặt lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham giơ tay cầm lấy dao phay để tế sát con mình" (St 22,9-10).
Hành động của Abraham là tột đỉnh của lòng tin: quả thực Abraham đã không từ chối Chúa một điều gì, ngay cả người con duy nhất của ông. Đức tin của Abraham đã trở nên khuôn vàng thước ngọc cho mọi lòng tin, không phải một đức tin mù quáng, phi lý, nhưng một đức tin dựa trên chính Thiên Chúa, Đấng hằng trung tín. Cuộc thử thách đức tin của Abraham thật khủng khiếp, nhưng "lòng kính sợ Thiên Chúa" là thành trì kiên cố bảo vệ đức tin kiên vững của ông trong cơn bão táp. Chính vì thế, Thiên Chúa Giavê đã ân thưởng ông bội hậu: "Vì ngươi đã không từ chối với ta con một ngươi thì ta sẽ ban phúc chúc lành cho ngươi, ta sẽ làm cho dòng giống ngươi thêm đông, nên nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển... Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta". (St 22,17-18). Dòng giống đông như "sao trời cát biển" đó chính là những cõi lòng tin Thiên Chúa, đó chính là hội thánh tại thế, đó chính là mỗi người chúng ta.
"Ngài là con chí ái Ta, các ngươi hãy nghe Ngài" (MC 9,7)
Hiến tế của Abraham dâng hiến Isaac mới chính là hình bóng của một Hy lễ toàn hảo của chính Đức Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã quả quyết: "Người đã không tha cho chính con của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy" (Rm 8,32). Lòng mến của Thiên Chúa đối với con người thật khôn lường khôn tả. Chính tình yêu vô bờ bến ấy, thể hiện qua việc Đức Kitô chịu nạn chịu chết trên bàn thờ thập giá, đã khơi nguồn ân cứu độ, hoàn thành giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và con người.
Mùa chay thánh, mùa dọn lòng người tín hữu đón nhận tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng với ba môn đệ Phêrô, Giacobê và Gioan chiêm ngưỡng bản tính và vinh quang Thiên Chúa hiện tỏ nơi Đức Kitô con yêu dấu của Ngài. "Hãy nghe Ngài" vì Ngài là "Đường là sự thật và sự sống" dẫn đưa con người về với Thiên Chúa. Thái độ của người tín hữu trong mùa chay thánh là hãy lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, và đem ra thực hành Lời Chúa trong đời sống.
Hãy luôn ghi nhớ rằng, con đường đức tin Abraham xưa đã đi cũng như cuộc hành trình đức tin của chúng ta trong thế giới hôm nay, cả hai chỉ là một, sẽ đầy thử thách chông gai, và chóp đỉnh vẫn là: Vâng Phục và Kính Sợ Thiên Chúa.
-------------------------------
VietCatholic News (01/02/2005)
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY (19/3/00)
Lời Chúa: Gen. 22:1-2,9-13,15-18; Rom. 8:31-34; Mk 9:2-ABC10
Chủ Đề: Ánh sáng của Đức Tin - Lm. Hà Ngọc Đoài
Suy Niệm: "Người biến hình trước mặt các ông.. . và từ đám mây có tiếng phán rằng:” Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” (Mk 9:1,7)
Có một vị đạo sĩ cao niên bị mù. Ai nhìn thấy ông đều tỏ ra thương tâm và tìm cách cứu chữa ông. Có người mời được một y sĩ lừng danh đến chữa trị cho đạo sĩ. Y sĩ rất tự tín, đến gặp đạo sĩ và khuyên rằng: “Ngài hãy an tâm và tin vào bài thuốc của tôi có thể giúp cho đôi mắt được sáng như xưa.” Mọi người đứng chung quanh đều vui mừng và chờ đợi. Riêng đạo sĩ bình tĩnh trả lời: “Không dám phiền ông phải bận tâm cho sự mù lòa về phần xác của tôi. Hơn lúc nào hết, tâm hồn tôi thấy những gì mà trước đây tôi không thấy, và bây giờ tôi được thấy rõ hơn” Nhờ con mắt Đức Tin mà đạo sĩ có thể nhìn tới thế giới siêu linh. Đôi mắt phần xác bị mù lòa vì tuổi đời làm giới hạn bao nhiêu, thì con mắt tinh thần lại vượt không gian và thời gian để vươn tới sự gần gũi Thiên Chúa bấy nhiêu. Nhờ con mắt của Đức Tin mà linh hồn có thể nhìn thấy được mạc khải của thế giới linh thiêng. Nhờ vậy vị đạo sĩ có niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Giêsu báo tin cho các tông đồ biết là cuộc hành trình giảng đạo của Ngài đang đi về Giêrusalem. Tại đó, vì trung tín với Thiên Chúa Cha trong việc rao giảng mà Ngài phải chịu khổ hình cho đến chết. Rồi Ngài sẽ sống lại. Khi nghe tin đó thì các tông đồ lo sợ và khuyên can. Để giúp các tông đồ được siêu thoát, Đức Giêsu đem họ lên núi cao và tỏ bày vinh quang của Ngài qua sự biến hình. Trên đỉnh núi cao này Ngài chuẩn bị cho cuộc khổ nạn trên đỉnh núi Calvê. Khi bị treo trên thÿnh giá, người ngoại giáo binh sĩ Rôma, và tội nhân sẽ nhận ra Ngài là ai. Chính họ tuyên xưng ‘Ngài là Con Thiên Chúa.“
Thực Hành:
“ Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. ” (TV 114:9) Chúng ta đang sống giữa một thế giới đa văn hóa, và nhiều tôn giáo. Những phép thuật của khoa học làm cho một số bị lung lạc đức tin ! Là Kitô hữu, chúng ta nhìn vào Chúa Kitô là Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho chúng ta vào cõi sống trường sinh.
-------------------------------
CHỦ NHẬT II MÙA CHAY
Tin Mừng: MC 9, 2-ABC10
“Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”.
Anh chị em thân mến,
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ mà Ngài yêu quý cách đặc biệt lên một ngọn núi và tỏ cho các ông thấy được vinh quang rạng ngời của Ngài: mặt Ngài sáng như ánh mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Đúng là một quang cảnh mà nằm mơ cũng không thấy được, nhưng các ông đã thấy và ngây ngất sung sướng không nói nên lời, chỉ có Phêrô lên tiếng: “Thưa thầy, chúng con ở đây thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều...” Và Phêrô không muốn trở lại với cuộc sống đời thường, ông đã quên mất thực tế đang chờ trước mắt của ông: cuộc sống nay đây mai đó không chổ gối đầu với thầy của mình, và với những tranh biện ghen ghét của những người Pharisiêu và các kinh sư, kí lục.
Cuộc sống có rất nhiều điều để cho con người chúng ta ước mơ, có người ước mơ được có công ăn việc làm đang khi thất nghiệp; có người ước mơ có cóm ngày ba bữa trong khi gia đình nghèo đói; có người mơ được ở trong căn nhà khang trang so với mái nhà ổ chuột đang ở; có người mơ được vợ đẹp con ngoan. Tất cả cuộc sống đều là ước mơ, và ước mơ này cắm mốc hi vọng cho con người.
Có những lúc chúng ta giữ đạo như trong mơ, chúng ta mơ đến một thiên đàng vĩnh cửu bất diệt và hạnh phúc, nhưng cái vĩnh cửu bất diệt và hạnh phúc ấy đang tuỳ thuộc vào thực tại mà chúng ta đang sống, đó là chấp nhận một cuộc sống gian nan với thân phận của người có niềm tin vào Thiên Chúa. Chúng ta mơ đến ngày Thiên Chúa xuất hiện và sẽ nhốt sa-tan muôn đời trong hoả ngục không cho nó tung hoành trên địa cầu, nhưng cái thực tại trước mắt là sa-tan đang thống trị địa cầu: sự dữ, chết chóc và tội lỗi đang tăng dần trong thế giới ngày nay, cái thực tại này đòi hỏi chúng ta phải thực tế hoá đời sống tín ngưỡng của chúng ta, thực tế hoá tín ngưỡng là nhìn thấy và chấp nhận một sự tồn tại của sự dữ để vươn lên đến sự trọn lành mà Chúa Giêsu –trong thân phận con người- cũng đã thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén đắng này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” . Chén đắng là sự dữ, là tội lỗi của nhân loại, của chúng ta.
“Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”.
Anh chị em thân mến,
Ba tông đồ không còn thấy ai nữa, hai ông Ê-li-a và Môi-Sê biến đâu mất tiêu, chỉ còn lại một mình Chúa Giê-su, và như thế cũng đã đủ cho các ông rồi. Bởi vì các ông đi theo là đi theo Chúa Giê-su, theo Đấng mà họ chỉ biết có tin tưởng và phó thác, mặc dù không biết ngày mai sẽ ra sao...
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta cầu nguyện rất nhiều, chúng ta làm việc hi sinh rất nhiều, chúng ta đọc kinh rất nhiều với hi vọng được ơn lành của Thiên Chúa ban cho, để bù lại những việc làm mà chúng ta đã làm vì Chúa, vì anh em, vì tha nhân. Nhưng thực tế trước mắt thì chúng ta không nhận được gì cả, thậm chí, có lúc những việc ngoài ý muốn xảy đến cho chúng ta, cho gia đình chúng ta: con bệnh, vợ ốm, chồng thất nghiệp...
Đức tin mời gọi chúng ta sống tốt đẹp giây phút hiện tại, phó dâng giây phút hiện tại cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa; đức tin mời gọi và giúp chúng ta chấp nhận hiện tại, vượt qua mọi khó khăn để vươn tới một đích điểm cao hơn: Phục Sinh với Chúa Kitô.
Người có đức tin trưởng thành là người sống thiên đàng mai sau ngay tại cuộc sống ở trần gian này.
Xin Mẹ Maria, Đấng luôn đồng hành với Chúa Giêsu trên đường khổ nạn cầu bàu cho chúng ta. Amen
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-------------------------------
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY
MC 9, 2-10
Thưa quí vị.
Mùa chay kêu gọi mọi người ý thức về tội lỗi riêng, tội lỗi xã hội, tôi lỗi thế giới, trong các tổ chức chính trị, tôn giáo, thương mại, văn hoá, ý thức hệ. Những tổ chức mang nặng màu trần tục, tham lam, ích kỷ. Ảnh hưởng của bàn tay Satan và sự hư hỏng của bản tính loài người. Làm thế nào thoát khỏi những ảnh hưởng xấu xa ấy? Biến đổi hình dạng như Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay, là câu trả lời chính xác nhất. Nhưng chúng ta gượm bàn đến vấn đề này. Trước mắt xin nhìn lại tư cách làm môn đệ Chúa của mỗi tín hữu ra sao? Ngõ hầu đưa đến những biện pháp thích hợp. Nói chung hành vi của chúng ta không phù hợp với lòng Chúa mong ước. Nếp sống hằng ngày còn nhiều thiếu sót, không tích cực vác thánh giá theo Chúa như Ngài mời gọi, không can đảm từ bỏ những tiện nghi dư thừa mà Ngài đòi hỏi hy sinh. Ngược lại, ưa nếp sống nhung lụa, dễ dãi. Khổ chế chỉ là sáo ngữ, giả dối. Ngày nay Giáo hội cần một hàng giáo sĩ, tu sĩ chất lượng hơn, không những về trí tuệ mà còn về đời sống thiêng liêng. Nhìn rộng ra chúng ta có trách nhiệm vì tham dự hoặc cộng tác vào các sa đoạ xã hội hoặc thế giới mà chúng ta đang sống, có mặt và làm việc. Môi trường luân lý có lẽ khá hơn nếu chức vụ làm môn đệ Chúa được thi hành đúng đắn nơi các tín hữu.
Từ mùa chay năm ngoái đến nay, quang cảnh sống của chúng ta không mấy đổi thay. Các thói quen cố hữu làm cản trở Lời Chúa không được nhận diện và sửa chữa. Thí dụ, ích kỷ, kiêu căng, hà hiếp. Chúng vẫn là những sinh hoạt an toàn, dễ dãi và được ưa thích. Cầu nguyện chỉ có tính thời điểm và qua lần, chưa thấm nhập vào bản chất và con tim các tu sĩ nam nữ, các giáo dân, vẫn còn nhiều cảm tính loại trừ nhau, chưa có lòng bác ái đích thật, chưa tha thứ cho nhau theo gương Chúa. Cho nên, mùa chay này câu hỏi đặt ra là: Liệu chúng ta có nới lỏng đức tin, biến nó thành một thứ thoả hiệp với thế gian để nuôi dưỡng, đam mê xác thịt theo “văn hoá đương đại”? Mùa chay kêu gọi mọi người đi theo con đường hẹp, con đường Chúa Giê-su đã vạch ra từ hơn hai ngàn năm trước. Xin giảm bớt huyênh hoang mà đi vào thực chất đời sống người Kitô hữu. Có lẽ ngày nay, người ta sợ suy tư cô tịch, sợ khám phá những thói xấu của mình, không nhìn lại hướng đi căn bản. Hội hè, đình đám nhiều, và coi đó là bổn phận xã hội, là nổi tiếng. Trong khi con đường hẹp là cắt đứt những hoạt động đó để quay về với nội tâm.
Theo thói tục thánh thiêng cổ truyền, Mùa chay mang tính hãm mình, chết đi dần dần (Morti-ficatio). Chết đi cho con người cũ, tội lỗi, tính hư thói xấu, ngõ hầu có thể nẩy sinh con người mới, thánh thiện và trong lành. Dĩ nhiên, chết luôn là hành động đau xót, mọi người cố gắng trốn thoát. Nhưng đó là con đường Chúa kêu gọi mọi tín hữu hôm nay. Nhất định chúng ta phải chết để có khả năng đi theo con đường Chúa đã chọn cho mỗi người. Từ chối hy sinh không phải là môn đệ Chúa. Hội thánh lập ra Mùa chay để các tín hữu tập tành các nhân đức, mở ra tương lai cho nhân loại. Phục sinh không chỉ ở đời sau mà ngay ở đời này với mùa chay thánh thiện. Xin đừng để thời gian trôi qua vô ích với những hô hào suông. Người rao giảng phải thực hành khổ chế gương mẫu, kẻo chỉ là những diễn viên kịch nghệ rỗng tuếch. Tôi có quen một vị tu sĩ thông thái. Sau bài giảng hùng hồn của ông về mùa chay, hy sinh, hãm mình, khổ chế, ông đòi một con gà quay, nửa lít rượu mùi ngoại quốc. Bài giảng của ông trống rỗng. Đa phần chúng ta hành xử tương tự. Chúng ta “bồi dưỡng” nhiều quá đến độ nhiều vị thừa cân, dư chất. Nên chăng suy nghĩ lại lối sống của mình cho phù hợp với lời giảng dậy.
Mùa chay là mùa sáng mắt, sáng lòng theo ý nghĩa đích thực của ngôn ngữ, chứ không phải khẩu hiệu suông, rỗng tuếch, chúng ta đi qua con đường này như một cộng đoàn thánh hiến cho Chúa Giê-su bằng những con mắt đức tin. Mỗi thành viên phải là niềm hy vọng cho các thành viên khác, chứ không phải là gương mù che khuất. Mùa chay chúng ta dựa vào nhau, khích lệ nhau tiến bước theo gương sáng Đức Kitô. Liệu có ai không cần đến người khác trên con đường chết đi cho chính mình mà Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ Ngài? Chúng ta bước đi trong mùa chay cùng nhau chứ không phải riêng lẻ như những khách lạ? Xin hãy nhìn cộng đoàn chung quanh bàn tiệc thánh hôm nay, tức khắc chúng ta nhận ra Bí tích thánh tẩy đã tụ họp nhân loại thành cộng đoàn tin kính và nhắc nhở mỗi người không đơn lẻ. Chúng ta cùng nhau cử hành mùa chay, phục sinh và như vậy mãi trong suốt cuộc đời.
Bí tích rửa tội còn nhiều ý nghĩa hơn nữa. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 cam đoan rằng: “Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?”. Đó là một thực tại quan trọng mà Bí tích mang lại. Khi chúng ta thực hành khổ chế như Bí tích đòi hỏi thì chính Thiên Chúa về phe với mỗi người trong tiến trình hy sinh hãm mình của họ. Thần Khí Đức Kitô thúc đẩy mỗi người đi vào sa mạc để lột bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới, thì chính Thiên Chúa ban ơn trợ giúp. Chúng ta không hành động một mình. Nhưng có Chúa cùng hoạt động bên cạnh và trong mỗi người. Tôi đã không chú ý đến tầm quan trọng của bài đọc này trong một thời gian khá dài. Bây giờ là lúc xin sửa chữa.
Có lẽ thánh Phaolô trong trích đoạn hôm nay hoặc cả lá thơ Rôma giúp đỡ chúng ta đối mặt với thánh giá và hy sinh trong mùa chay, khi chúng ta nhìn lên Thiên Chúa như nguồn trợ lực chính yếu. “Nếu Thiên Chúa về phe với chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” Thánh Phaolô hoan hỷ nhắc đến tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người và lưu ý những đau khổ, hy sinh của mỗi người được Thiên Chúa gánh lấy và biến đổi. Thực tế thánh nhân rất cao hứng trong trích đoạn này. Ca khen Thiên Chúa vì những việc Người làm cho loài người trong Đức Giêsu Kitô. Cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá là bằng chứng cụ thể Thiên Chúa yêu nhân loại. Tình yêu ấy không có chi sánh bằng và cũng không mô tả nổi. “Một khi đã trao người con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” Nghĩa là không còn gì để ban nữa, Chúa Giê-su đã tự nguyện trải qua khổ hình và cái chết để nên dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Như vậy không ai còn có thể nghi ngờ lòng yêu của Thiên Chúa đối với mình, dù có phải trải qua gian nan thử thách. Mùa chay là mùa chúng ta nên suy nghĩ về tình yêu này và thực hành những cải tổ cần thiết trong nếp sống giữ đạo của mình. Chúng ta còn nhiều sai lầm lắm mà cứ nghĩ mình hoàn hảo, thánh thiện.
Sở dĩ Chúa Giê-su phải chết là để hoàn thành sứ vụ Thiên Chúa trao: Công bố và thiết lập triều đại Đức Chúa Trời giữa nhân loại: Tình yêu, công lý, hoà bình, tha thứ. Điều này chỉ có thể được nếu chúng ta nghiêm chỉnh thực hiện tinh thần mùa chay. Dĩ nhiên lúc ấy các thẩm quyền đền thờ và thế gian coi Ngài như một đe doạ về quyên lợi và thói tục. Họ đang êm ấm trong những cổ truyền cha ông. Chúa mang đến những thay đổi và xáo trộn cho am hợp với thánh ý Chúa Cha và triều đại nước Đức Chúa Trời. Nhưng vô tình họ đã loại bỏ Đấng là quyền phép và hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là tình yêu và lòng thương cảm của nhân loại. Xin đừng đi theo con đường sai lầm đó nữa, Chúa biến hình chứng tỏ chúng ta phải mặc lấy con người mới và đi theo đường lối Chúa đã đi. Chỉ lúc ấy chúng ta mới có khả năng nói được với thánh Phaolô; “Dù sự sống hay sự chết, thiên thần hay ma vương quỉ lực, chiều sâu hay chiều cao, không có gì tách chúng ta ra khỏi lòng mến Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô.” Thánh Phaolô đã thực hiện nội dung này cho sát nghĩa đen, bởi chức vụ tông đồ của ngài đã là nguồn mạch đau khổ, phỉ báng và ngay cả cái chết. Liệu chúng ta có sẵn sàng chấp nhận cái giá phải trả cho việc theo Chúa của chúng ta không? Hay hèn hạ tháo lui với một vài bất tiện nhỏ nhất? Chẳng có chi bảo đảm, trừ phi chúng ta thực sự thi hành Lời Chúa. Thánh Phaolô nhắc nhở mọi tín hữu tình yêu của Thiên Chúa nắm giữ chúng ta và không bao giờ lìa bỏ nữa.
Thánh nhân dùng hình ảnh toà án để giải thích ý tưởng này. Trong toà án nhất định phải có hai phe: Công tố và bị cáo. Công tố buộc tội và bị cáo chịu án phạt. Kinh nghiệm hằng ngày cho hay, vai trò luật sự biện hộ rất quan trong. Ông ta có khả năng bênh vực cho bị cáo trắng án và ngược lại, có thể đưa phạm nhân đến tù tội. Biết bao lần tôi gặp các nạn nhân, tội lỗi của họ có thể là nhẹ hơn hoặc vô tội, nếu thuê được một luật sư tài giỏi. Nhưng bất hạnh cho họ, các cáo buộc nặng nhẹ đều đổ lên đầu họ, mà luật sư không biết đường tháo gỡ. Thánh Phaolô tưởng tượng chúng ta ở trong hoàn cảnh này, nhưng các cáo buộc không chống lại chúng ta mà ủng hộ chúng ta: “Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai nào dám chống lại chúng ta được?” Câu hỏi chẳng qua có tính văn chương. Hỏi để trả lời rõ nét hơn: chẳng có ai cả. Như vậy chúng ta được tha bổng vì Thiên Chúa về phe với nhân loại. Bằng chứng nào? Bằng chứng Ngài đã phó nộp con Ngài chịu chết và sống lại vì nhân loại. Tình yêu của Ngài thật mãnh liệt. Nhân loại vô tội nhờ Đấng đã chết và sống lại cứu chuộc. Cái án phải trả đã được Đức Kitô đền xong: “Tạ ơn Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (7, 25).
Thiên Chúa không mù và cũng chẳng điếc. Ngài biết rõ tội lỗi chúng ta nhưng con đường Ngài đối phó với nó khác xa ý nghĩ của nhân loại. Ngài là tình yêu nên tha thứ và hoà giải tất cả trên căn bản lòng thống hối. Chúa Giê-su đã kể nhiều dụ ngôn về vấn đề này trong các Phúc âm, trừ có một tội là cứng lòng, khước từ ơn tha thứ, khước từ tình yêu. Phúc âm gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần. “Vì thế tôi nói cho các ông hay. Mọi tội lỗi kể cả tội nói phạm thượng đều được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha. Nó mắc tội đến muôn đời.” (MC 3, 28). Đó là đường lối Thiên Chúa đối xử với tội lỗi nhân loại. Dấu chỉ là Đức Kitô thể hiện lòng thương xót trong một thân thể loài người, phiên toà khép lại. Chúng ta chạy đến Chúa Giê-su để được tha thứ và bản án là tha bổng.
Nếu như cái chết của Chúa mà thôi chẳng chứng minh được chi. Điều chứng minh hùng hồn là Ngài đã sống lại và chúng ta được liên kết với Ngài qua bí tích thanh tẩy. Bí tích này cho phép tham dự vào đời sống thần linh. Nó là bằng cớ Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta đời sống mới, thay vì phải trầm luân muôn đời. Nhờ thần khí Đức Kitô, qua chay tịnh thánh thiện chúng ta được bảo đảm đạt đến hạnh phúc đó. Ngay cả khi còn ở đời này. Chứng cớ của thánh Phaolô thật mạnh mẽ, có sức thuyết phục cao: “Ta còn phải làm chi hơn nữa, để chứng tỏ Ta yêu mến chúng con? Ta đã trao ban con yêu dấu của Ta để minh chứng tình yêu ấy.”
Đến đây chúng ta có thể chuyển sang nội dung của bài Tin mừng. Cả ba Phúc âm đều tường thuật biến cố này trong ba cái nhìn khác nhau. Chứng tỏ ba truyền thống trong các cộng đoàn tiên khởi. Thánh Marcô mô tả “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh, không có thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” Thánh nhân không nói chi về diện mạo Chúa. Thánh Mattheo viết: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, y phục trở nên như ánh sáng.” Luca ghi rõ: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo người bỗng đổi khác, y phục Người bỗng trở nên trắng tinh chói loà.” Yếu tố chung là Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài. Chúng ta có thể rút ra bài học trong ba truyền thống này. Mỗi tín hữu cũng được Thiên Chúa đưa lên đỉnh núi cao, chịu các cám dỗ của cuộc đời. Các thánh sử không cho biết tên của ngọn núi Chúa biến hình, cũng là để chúng ta nhận ra rằng cuộc đời có những cao điểm của ơn thánh và thử thách. Vậy thì phải có những giây phút biến hình trong cầu nguyện để biểu lộ chức vị làm con Thiên Chúa của mỗi người. Nếu Chúa ủng hộ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Cho nên không phải sợ hãi những khó khăn của cuộc đời.
Hạnh phúc của các tín hữu nằm ở biến cố này, nó báo trước con đường theo Chúa Kitô sẽ dẫn đến phục sinh vinh hiển. Chúng ta yên tâm đi trên con đường Chúa. Chỉ những tâm hồn chọn lối đi khác mới phải chịu cảnh nghi ngờ, bấp bênh. Khổ chế là con đường chắc chắn đưa tới ơn cứu độ và vinh hiển. Nó biến đổi hình dạng của mỗi linh hồn theo chân dung Chúa Kitô. Sự biến đổi thiêng liêng là tiến trình lâu dài: “Chúng ta được biến đổi theo hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, do tác động của thần khí Chúa (2 Cr 3, 18). Và sau khi được chết trong thân xác với Chúa Giê-su, chúng ta sẽ hưởng vinh quang với Ngài. Vinh quang chúng ta chia sẻ với Ngài nơi trần thế. Sự phục sinh của Ngài chắc chắn sẽ kéo theo sự phục sinh của mỗi linh hồn. Lúc ấy sự biến hình của chúng ta là hoàn toàn. “Nếu Thiên Chúa bênh vực chúng ta, ai dám chống lại chúng ta đặng?” Amen.
Lm. Jude Sicilianô, OP.
-------------------------------
(MC 9,2-ABC10)
Nếu hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành Thánh Lễ ngày Chúa Nhật II Mùa Chay và có người hỏi chúng ta mong đợi những gì nơi Thánh Lễ này, hay chúng ta hy vọng những gì nơi việc cử hành bí tích Thánh Thể, v.v… thì chúng ta sẽ trả lời ra sao ?
Rất có thể là chúng ta đi xem lễ, vì cảm thấy cần phải tiếp xúc thường xuyên với các Kitô hữu khác, cần phải cùng với họ bày tỏ và sống Ðức Tin của mình ngay giữa lòng Giáo xứ. Nhưng cũng rất có thể là chúng ta đi xem lễ, vì đó là một điều đương nhiên, tức trong ngày Chúa Nhật tự bản thân cũng như cùng với cả gia đình cần phải đi nhà thờ. Vâng, chính nơi đây chúng ta muốn củng cố và đồng thời sưởi ấm lại niềm tin của mình, chính nơi đây chúng ta muốn múc lấy cho mình nghị lực để sống niềm tin Kitô giáo của mình trong suốt cả tuần lễ sắp tới. Và sau cùng, có lẽ chúng ta đi xem lễ là để tìm kiếm sự an bình, sự rảnh rỗi, sự thư giãn và sự yên tĩnh cho cuộc sống.
Tất cả những chờ đợi và mong ước đó nơi Thánh Lễ, nơi bàn tiệc Thánh Thể, đều chính đáng. Tuy nhiên theo thiển ý tôi, một vài mong đợi đó cũng mang màu sắc tương tự như sự hiểu lầm của Phêrô mà bài Phúc Âm hôm nay tường thuật lại, khi ông muốn cắm lều và ở lại luôn trên núi Tabor, nơi ông được chứng kiến sự vinh quang của Ðức Giêsu, khi Người biến hình.
Thật ra, người ta không được phép dừng lại nơi cái hé nhìn về một viễn tượng tương lai tốt đẹp; người ta không được phép ở lại trên « núi biến hình » được. Thánh Lễ ngày Chúa Nhật phải được gắn liền với cuộc sống hằng ngày, với cuộc sống trong những ngày đã qua cũng như những ngày sắp tới trong tương lai, với mọi thử thách và mọi gian khổ của chúng.
Nếu chúng ta không muốn để mình rơi vào sự hiểu lầm của Phêrô, thì chúng ta đừng để cho mình bị thu hút bởi những an ủi tạm thời trước mắt để vẽ vời cho mình một tương lai quá sáng lạn. Bởi thế, đối với Phêrô cũng như đối với tất cả chúng ta, lời cảnh tỉnh của Chúa Cha luôn cần thiết: « Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy vâng nghe lời Người ! »
Vâng, cũng như Phêrô, chúng ta thường dễ bị rơi vào một ảo vọng nguy hiểm: Là bị lóa mắt và đắm chìm vào một tương lai quá huy hoàng do niềm tin của chúng ta hứa hẹn mà bỏ quên việc cần phải sống tốt, thật tốt giây phút hiện tại; Là bị thu hút bởi những niềm hoan lạc trên Nước Trời từng được khát khao mong đợi mà lãng quên cuộc chiến đầy căm go với những đau khổ và thử thách trần thế hiện tại. Những kiểu chạy trốn thế gian cách tiêu cực và thiếu thực tế như vậy, chắc chắn không phải là quan điểm của Ðức Kitô, nếu không, Người đã không bị treo trên thập giá !
Biến cố nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, sự xuất hiện của Ðức Giêsu Kitô trong cuộc đời trần thế loan báo thời giờ cứu độ đã điểm, Nước Thiên Chúa đã đến gần và tương lai của Thiên Chúa đã bắt đầu khơi mào. Tuy nhiên, để thấu hiểu được trọn vẹn điều mới mẽ đó, không phải là chuyện dễ dàng đối với các môn đệ xưa kia và đối với các Kitô hữu ngày nay, nghĩa là: Hạnh phúc và sự cứu rỗi của chúng ta đã được Thiên Chúa hứa ban, giờ đây đã trở thành hiện thực, mặc dầu chưa đạt tới sự trọn vẹn sau cùng. Biến cố Chúa biến hình được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay muốn nói lên tình trạng « giờ đây đã trở thành hiện thực » và đồng thời « chưa đạt tới sự trọn vẹn sau cùng » của sự cứu rỗi của chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô.
Do đó, cũng như Ðức Giêsu Kitô, qua cuộc sống con người, cả đến ngày hôm nay vẫn còn bị kết thúc trên thập giá bằng hàng triệu cách thức khác nhau, thì ánh sáng phục sinh cũng đã chiếu tỏa ngay bây giờ rồi cũng bằng cả hàng triệu cách thức khác nhau. Vâng, chính vì tin tưởng chắc chắn vào sự hoàn tất sung mãn của cuộc sống chúng ta và cuộc sống thế giới trong niềm vui phục sinh khải hoàn, chúng ta càng được tăng thêm nghị lực để can đảm bước đi trên những con đường thập giá, trên những con đường đầy gian nan thử thách dưới muôn mặt của chúng ta. Chúng ta có thể cam chịu được những « ngày thứ sáu chịu nạn » của đời chúng ta, bởi vì chúng ta là Kitô hữu, biết sống trong sự hy vọng vào buổi sáng Phục Sinh huy hoàng.
Dĩ nhiên, niềm hy vọng phục sinh của chúng ta không phải là lớp sơn đạo đức giả tạo tương tự như một sự « biến hình » qua thời. Trái lại, niềm hy vọng phục sinh của chúng ta là một sự thôi thúc nội tâm hết sức mạnh mẽ, khiến chúng ta vẫn còn hy vọng tất cả những gì không còn hy vọng được nữa. Bởi vì « đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được » (Lc 1,37).
Nói tóm lại, chúng ta rất cần đến sự cố Biến Hình của Ðức Giêsu Kitô trên núi Tabor. Vì khi được nhìn ngắm sự hoàn tất vẽ vang và sự vinh quang cả sáng của Người, chúng ta được thêm nghị lực để kiên trì trong suốt cuộc hành trình đầy thử thách gian nan tiến về sự cứu rỗi. Sự nhìn ngắm một thế giới được biến đổi sáng láng, càng nung đốt chúng ta nhân danh Thiên Chúa đem hết mọi nghị lực để biến đổi một thế giới chưa được biến đổi, và điều đó không chỉ vì sự hoàn tất sung mãn của thế giới, nhưng còn của cả chính chúng ta nữa. Tuy nhiên, bao lâu còn sống trên trần thế, chúng ta phải kiên trì chiến đấu trên « chiến trường », chứ chưa được rui về « hậu phương » để nghĩ ngơi hưởng thụ. Những an ủi và những động viên trong cuộc sống đức tin ở đời này là một phương tiện giup chúng ta thêm hăng hái và can đảm trong cuộc chiến đấu dằng co của cuộc sống, chứ không phải là mục đích để chúng ta dừng lại nếm hưởng. Trong nghĩa đó, biến cố Biến Hình của Ðức Giêsu vừa là một vinh quang vừa là một thách đố đối với chúng ta tất cả !
Niềm tin tưởng trọn vẹn vào quyền năng phục sinh cả sáng của Thiên Chúa ban cho chúng ta khả năng bước theo tiếng của Chúa Cha phán ra từ đám mây và khả năng biết lắng nghe và sống theo lời giáo huấn của Ðức Kitô. Ðể giúp chúng ta thực hiện được điều đó, bữa tiệc Thánh Thể hôm nay bổ sức và củng cố cho chúng ta, dĩ nhiên hoàn toàn không vì sự biến hình chóng qua, nhưng là sự hướng nhìn lên một Ðức Kitô đã được biến hình sáng láng.
LM Nguyễn Hữu Thy
-------------------------------
ROME (Zenit,org).- Bài giải thích của Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchine, người giảng Phủ Giáo hoàng, về đoạn Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay
* * *
(St 22:1-2,9a,10-13,15-18; Rm 8:31b-34; MC 9:2-ABC10)
Hãy vâng nghe lời Người!
"Đây là Con Ta yêu dấu, Hãy vâng nghe lời Người," Với những lời này, Thiên Chúa Cha ban Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại như là Thầy duy nhất và cuối cùng, cao trọng hơn các lề luật và các tiên tri.
Ngày nay Chúa Giêsu nói ở đâu, để chúng ta có thể nghe Người? Hơn bao giờ hết Người nói qua lương tâm chúng ta. Đó là một thứ "repeater-kẻ lập lại," nằm trong chúng ta, lập lại mọi lời nói của Thiên Chúa. Nhưng lương tâm tự nó không đủ. Dễ làm cho nó nói điều chúng ta thích nghe.
Cho nên lương tâm cần được soi sáng và nâng đỡ bởi Tin Mừng và huấn giáo của Giáo Hội. Tin Mừng là chỗ tuyệt hảo nơi Chúa Giêsu nói với chúng ta ngày nay. Nhưng chúng ta biết, do kinh nghiệm, những lời Tin Mừng cũng có thể được giải thích trong nhiều cách khác nhau.
Chính Giáo Hội, được Chúa Kitô thiết lập vì mục đích này, bảo đảm chúng ta về một sự giải thích đích thực: "Ai nghe anh em là nghe Thầy." Vì lẽ này điều quan trọng là chúng ta ra sức học biết giáo lý của Giáo Hội, biết trực tiếp giáo lý ấy, như chính Giáo Hội hiểu và đề nghị, chớ không theo sự giải thích -thường méo mó và thêm bớt- của các phương tiện.
Điều hầu như cũng quan trọng như biết Chúa Giêsu nói ở đâu, đó là biết nơi nào Người không nói.
Không cần phải nói là Chúa không nói qua các thầy phù thủy, thầy bói, thầy đồng gọi hồn, thầy tướng số, những sứ điệp cho là ngoài trái đất; Chúa không nói trong những khóa họp duy linh, trong thuyết huyền bí.
Trong Kinh Thánh, chúng ta đọc lời cảnh cáo này về vấn đề đó: "Giũa anh em không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thủy, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đúc Chúa " (Dnl 18: 10-12)
Đó là những cách điển hình của dân ngoại để qui chiếu về thần linh, họ đọc tương lai bằng cách chiêm tinh, hay là ruột thú vật, hay là cách bay của những loài chim. Với câu này của Thiên Chúa -"Hãy vâng nghe lời Người!"- thì tất cả sự này đã đến đường cùng. Chỉ có một đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài nguời, chúng ta không còn bị bắt buộc nữa phải hành động "cách mù quáng" để biết ý Chúa, hay là để tham khảo nguồn mạch này nọ. Trong Chúa Kitô chúng ta có tất cả những câu giải đáp.
Đáng tiếc, ngày nay những nghi thức ngoại giáo trở lại hợp thời trang. Như luôn xảy ra là khi đức tin chân chính sa sút, thì mê tín gia tăng. Chúng ta hãy lấy một sự không độc hại nhất trong tất cả là lá số tử vi.
Có thể nói rằng không có báo chí nào hoặc đài phát thanh nào mà hằng ngày không cho các độc giả hay thính giả của mình lá số tử vi. Đối với những người trưởng thành, có một khả năng tối thiểu về sự phê phán và mỉa mai, điều đó không hơn là một trò chơi vô tội nữa, một thứ trò chơi hay tiêu khiển qua giờ
Tuy nhiên, trong lúc đó, chúng ta hãy quan sát những hậu quả lâu dài. Tâm trạng nào được hình thành, cách riêng nơi trẻ em và người lớn? Một tâm trạng theo đó sự thành công trong sự sống không tùy thuộc vào cố gắng, siêng năng học hành và chuyên cần làm việc, nhưng bởi những yếu tố bên ngoài không ước lượng được, vì có khả năng đạt được một số quyền năng -của chính mình hay của những kẻ khác-cho lợi lộc của chính mình.
Còn xấu hơn: tất cả sự đó khi làm người ta suy nghĩ rằng, trong sự tốt và sự xấu, trách nhiệm không phải bởi chúng ta, nhưng bởi những "ngôi sao," như Don Ferrante đã nghĩ, theo ký ức Manzonian.
Tuy nhiên tôi phải ám chỉ tới một lãnh vực khác trong đó Chúa Giêsu không nói và nơi đó bắt Người phải nói luôn: lãnh vực mặc khải tư, những sứ điệp từ trời, những sư hiện ra và những tiếng nói thuộc những loại khác nhau.
Tôi không nói rằng Chúa Giêsu hay là Đức Trinh Nữ cũng không thể nói qua những phương tiện này, Các ngài đã làm vậy trong quá khứ và có thể làm vậy, dĩ nhiên cho ngày nay.
Cần thiết phải được bảo đảm chỉ khi cho rằng chính Chúa Giêsu hay là Đức trinh Nữ, chớ không phải do óc tương tượng bệnh hoạn của một người nào, hay tồi tệ hơn nữa là của những kẻ lừa bịp lợi dụng lòng tốt của con người.
Tron g lãnh vực này, cần chờ phán đoán của Giáo Hội, chớ không đi trước. Những lời nói của Dante vẫn con hợp thời: "Hỡi những Kitô hữu, hãy vững hơn khi các anh hành động: đừng có như những lông chim trước gió."
Thánh Gioan Thánh Giá đã nói từ khi Chúa Cha nói về Chúa Giêsu trên núi Tabor: "Hãy vâng nghe lời Người!" Có thể nói được Thiên Chúa giữ thinh lặng. Người đã nói hết rồi; Người không còn gì mới để mạc khải.
Những kẻ xin những mạc khải hay những giải đáp mới, xúc phạm đến Người, như thể là Người còn phải giải thích mình cách rõ ràng hơn nữa. Thiên Chúa tiếp tục nói với mọi người cũng lời này: "Hãy vâng nghe lời Người, hãy đọc Tin Mừng: Không hơn không kém con sẽ gặp ở đó tất cả những gì con tìm kiếm."
Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
-------------------------------
(St 22, 1-2.9a.10-13.15-18 - CHÚA NHẬT II MC - B 2006)
Trích sách Sáng Thế: Trong những ngày ấy, Thiên Chúa thử lòng ông Abraham và nói với ông rằng: ”Abraham! Abraham!” Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Chúa phán: ”Ngươi hãy đem Igiaác, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moriya, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham dựng một bàn thờ và chất củi lên trên, rồi trói Igiaác lại, đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông: ”Abraham, Abraham!”. Ông thưa lại: ”Dạ, tôi đây”. Người nói: ”Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Thiên Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta”. Abraham ngước mắt lên nhìn thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình (St 22, 1-2.9a.11-13).
Ngày nay nếu có dịp hành hương Thánh Địa chúng ta có thể thăm đền thờ hồi giáo xây trên một tảng đá đen rất lớn hồi đầu thế kỷ thứ VII, mà truyền thuyết coi là nơi tổ phụ Abraham đã sát tế Igiaác xưa kia. Đây cũng là nơi xưa kia có đền Thánh Giêrusalem do vua Salômông xây.
Trên bình diện nhân chủng và trong dòng lịch sử nhiều dân tộc trên thế giới, việc sát tế người, đặc biệt là sát tế con cái cho các thần linh là một tập tục, đồng thời cũng là một cám dỗ. Người ta tin rằng: khi dâng cho các thần linh những gì qúy báu nhất, ở đây là con cái, đặc biệt là con đầu lòng, thì sẽ được các thần minh chúc phúc. Trước khi nghe tiếng Thiên Chúa mời gọi và tin nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất, Abraham đã là người đa thần. Cám dỗ sát tế có thể đã theo ông, cả sau khi ông tin nhận Thiên Chúa duy nhất. Tuy nhiên, ở đây soạn giả Kinh Thánh nói rõ ràng là Giavê Thiên Chúa muốn thử thách lòng tin của tổ phụ Abraham. Abraham tuyệt nhiên không hay biết điều đó. Vì muốn cho Abraham trở thành cha của một dân tộc tuyển chọn, từ đó nảy sinh ra Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa muốn thử thách và thanh luyện lòng tin của vị tổ dân tộc ấy, xem nó tinh tuyền và mạnh mẽ đến mức nào. Vì lòng tin sẽ là gốc rễ của dân được tuyển chọn và nền tảng cuộc sống của nó.
Để rèn luyện cho tổ phụ Abraham có được lòng tin ấy, Thiên Chúa có cung cách hành xử, mà tâm thức tính toán thường tình của con người trần gian không thể nào hiểu được. Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển, nhưng ông và vợ là bà Sara mòn mỏi đợi chờ mãi đến lúc đã già trên 90 tuổi rồi mà vẫn chưa có con. Khi được 100 tuổi mới sinh được người con trai duy nhất là Igiaác, thì giờ đây Thiên Chúa lại sai ông đem con đi sát tế cho Ngài. Còn có gì khổ đau và mâu thuẫn hơn! Nhưng Abraham tín thác vâng lời, thưa vâng với Chúa, mà không thắc mắc đặt vấn đề và tranh luận với Ngài. Ông chỉ biết là mình sẽ sát tế con làm của lễ toàn thiêu dâng lên Chúa, còn tương lai sẽ ra sao ông để cho Chúa hoàn toàn định liệu. Có điều ông tin chắc rằng vì Thiên Chúa là Chúa tể của sự sống và của sự chết, nên cho dù có phải sát tế Igiaác là con một đi nữa, Chúa sẽ cho Igiaác sống lại để trở về với ông. Xác tín đó tổ phụ Abraham đã nói lên với hai người đầy tớ, khi để họ ở lại dưới chân núi: ”Các chú đợi ở đây với con lừa, ta và con trẻ chúng ta sẽ đi lên tận đàng kia; chúng ta làm việc thờ phượng rồi sẽ trở lại với các chú” (St 22,5). Khi Igiaác hỏi: ”Cha ơi, có củi và lửa đây, còn chiên con làm lễ vật ở đâu?”, thì Abraham trả lời: ”Chính Thiên Chúa sẽ liệu con ạ!”.
”Chính Thiên Chúa sẽ định liệu”: đó là khẩu hiệu sống của tổ phụ Abraham, và khẩu hiệu đó diễn tả thái độ của ông lúc nào cũng hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, tín thác nơi sự quan phòng, nơi tình yêu thương ấp ủ, nơi lòng từ bi thương xót và quyền năng của Thiên Chúa. Chính thái độ hoàn toàn tín thác này đã khiến cho tổ phụ Abraham trở thành cha của những kẻ có lòng tin. Và Giavê Thiên Chúa chỉ cần có thế để khởi đầu lịch sử dân riêng của Ngài.
Thực ra, Thiên Chúa không muốn cái chết của Igiaác, là người con mà Ngài đã ban cho hai ông bà già đã qúa tuổi có con. Trong nghĩa này, trình thuật sát tế Igiaác muốn chứng minh cho thấy Giavê, Thiên Chúa của Israel, không phải là một vị thần khát máu, muốn các lễ vật sát tế người. Điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi tổ phụ Abraham là cái chết của ý muốn riêng của ông: Abraham phải sát tế ý riêng trên bàn thờ lòng tin, phải giết chết và thiêu rụi tất cả những gì theo tâm thức con người trần gian, để bước vào cái luận lý của Thiên Chúa, để có được cái nhìn của Chúa và các tâm tình của Chúa. Nói cách khác để trở thành cha của dân riêng Chúa chọn, ông phải có một lòng tin tinh tuyền, vững mạnh, không so đo tính toán hơn thiệt, nhưng luôn luôn sẵn sàng và hoàn toàn tín thác nơi Chúa, nắm lấy tay Chúa để cho Chúa tự do hoạt động, hướng dẫn và xếp đặt như Ngài muốn. Thái độ tin yêu phó thác ấy, Thiên Chúa cũng muốn thấy nơi từng kitô hữu.
(Radio Vatican)
Linh Tiến Khải
-------------------------------
Đúng vào ngày dân Việt đang vui vẻ ăn Tết Quý Mùi 2003, thì một tin dù chẳng mấy liên quan, nhưng tự nhiên nhuốm buồn mấy ngày xuân: tàu vũ trụ Columbia của Hoa Kỳ trên đường trở về trái đất sau chuyến du hành tốt đẹp, bị nổ tan tành và 7 phi hành gia, trong đó có một anh Do Thái, đã hy sinh ! Tổng thống Bush đã không lầm khi gọi họ là những “heros – anh hùng”, nhưng công bằng mà nói: với các phi hành gia ấy, cuộc đời đã cho họ quá nhiều và quá đầy đủ, vì được chiêm ngắm từ trên cao xanh hành tinh thân yêu và hưởng một bầu trời bao la choáng ngợp, trong khi mấy tay tỉ phú điên điên muốn lên cao ngó xuống một tí, phải bỏ ra cả mấy chục triệu đô-la.
Một phi hành gia Columbia, David Brown, không chỉ tưởng tượng, mà yêu say mê trái đất nhìn từ không gian. Trong bức thư điện tử cuối cùng gửi về cha mẹ, Brown viết: “Mẹ ơi, quang cảnh trái đất thật đẹp... nếu con là người sinh ra trên không gian, con sẽ thèm khát được viếng thăm trái đất mãnh liệt hơn là đã từng thèm khát được từ đất bay lên không gian. đúng là một hành tinh kỳ diệu”.
Các ông Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê trong bài Tin Mừng của chúng ta thì ngược lại: lên cao được một tí, ngắm cảnh Chúa Hiển Dung, mấy Ngài đâm ra “chê” trái đất “dưới kia” và chỉ thích nấn ná mãi ở chốn thanh nhàn vui vẻ này.
Tabor, ngọn núi chỉ khoảng 360 mét, xấp xỉ chiều cao của tháp Eiffel, thua xa Twin Towers ở New York ( đã sập trong vụ khủng bố ) hoặc tháp đôi Petronas ở Malaysia, nhưng đối với mấy anh ngư phủ, cả đời chỉ thấy một màu xanh nước biển, thì núi Tabor quả là rất ư hùng vĩ. Thế nhưng đỉnh Mont Blanc hay chóp Everest hoặc cả ngọn đồi Tabor, thì cũng chẳng phải là nhà, mà chỉ là một chóp nhọn nhô lên của trái đất này, nơi ta sống, nơi ta yêu, nơi ta ghét, đang buồn và đang vui, nơi ta quần quật với mọi vất vả, mệt mỏi đắng cay, nơi nụ cười đong đầy một bát, mà nước mắt thì tràn lan tính bằng đơn vị “sông”, ”biển”. Ta phải xuống núi, phải ở lại mặt đất, xây dựng đời đời của ta bằng chính những thứ hư vô, chóng qua.
Và đó là điều mà lắm triết gia như Sartre, Nietzche, Kafka, Camus và cả cái ông Paul Ricoeur, cũng bi quan cho là “phi lý”, là cái “cercle vicieux” ( vòng luẩn quẩn ), là đáng “nôn mửa” và đâm ra bất mãn, chán đời. Trái đất chẳng phải trò đùa, vì chính nơi ấy Chúa Giê-su đã chọn để lập thân, lập nghiệp và một cách nào đó, có thể nói là nơi ấy Chúa Giê-su công thành danh toại, dù rằng đã phảiđanh đổi với cái giá quá đắt, bằng bao khổ đau và bằng cả giá máu, bằng cả cái chết tủi nhục trên thập tự giá. Trái đất ấy hẳn là đẹp lắm, không chỉ vì núi sông hoa lá, không chỉ vì bao kỳ quan thắng cảnh, đền đài tráng lệ, mà vì nơi ấy – và chỉ có nơi ấy – hội đủ yếu tố làm nên một con người và một con cái Chúa.
Người miền Trung có câu hát: ”Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh...”. Làm gì rồi cũng phải cố tâm xây dựng trái đất này, làm cho trái đất đầy tình người hơn, đầy Tình Chúa hơn, ”catholic” hơn. Tóm lại: truyền giáo, để sao cho không chỉ có Chúa Giê-su, mà cả chúng ta và cả thế gian này đều cùng hiển dung.
Trong các hoá chất thuốc Tây, chất B2 hay còn gọi là Riboflavine thật là hay: một chấm đầu mũi kim đã có thể hoà tan và làm cho cả thùng nước khổng lồ ra... vàng chóe ! Quả bom nguyên tử trông rất gọn gàng, không kềnh càng và nặng chịch như loại bom tấn, thế nhưng mức sát thương và gây nhiễm xạ thì thật hãi hùng. Niềm tin nơi Chúa Ki-tô, tình yêu thương phát sinh từ Chúa Ki-tô, cũng mạnh mẽ, dễ ”lây nhiễm” và cải hoá trần thế như vậy.
“Nemo dat quod non habet”: về tinh thần, chúng ta không thể đem niềm tin đi gieo vãi, cải hoá, khi mà chính niềm tin của chúng ta nhạt nhoà èo uột, ”lạt như nước ốc, bạc như vôi” ! Khi ấy, theo định luật tự nhiên, cái xấu mạnh hơn sẽ thẩm thấu và che lấp cả niềm tin phai mờ của ta. Nhưng về vật chất thì ngược lại, có khi chúng ta không chia sẻ cái chúng ta có với đồng loại. Chúng ta quá gắn bó với những của cải trần gian, mà đúng ra chỉ là phương tiện giúp không chỉ dừng lại ở trần thế, không chỉ thoả mãn với ngọn đồi lúp xúp Tabor, mà bay cao mãi tới thiên đàng.
Súng ống, vũ khí rất quan trọng, giúp chiến đấu, chiến thắng và đạt huân huy chương, nhưng chẳng có viên tướng hay sĩ quan nào lại ôm khư khư vũ khí và xem nó như là tất cả cuộc đời. Cái thang máy giúp đưa con người lên cao, song chẳng ai lại cứ bám vào cái thang, chẳng chịu dời ra. Của cải là phương tiện giúp ta sống xứng đáng hơn, giúp ta làm việc lành phúc đức và việc tông đồ hiệu quả hơn. Nhưng nếu ôm khư khư như anh chàng Harpagon keo kiệt, hoặc chỉ biết vinh thân phì gia, chỉ biết lo cho thân mình, thì hoá ra chúng ta đang bám chặt vào những cái phù du và tự biến thành nô lệ cho đô-la, vàng bạc đấy ư ? Định lúc nhắm mắt rồi, sẽ nhờ vợ con, thân hữu đốt mã hoá vàng cho vài cái xe hơi và vài chục xấp đô-la âm phủ để tiêu pha, ăn chơi bên kia thế giới ư ? Hay là để có tiền xin nhiều... Lễ, cho chóng lên thiên đàng ?
Hãy nghe lại lời Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô: ”Nếu thế, làm sao chúng ta lại không thấy Mùa Chay là một cơ hội quan phòng để đưa ra những quyết định do chủ nghĩa vị tha và lòng quảng đại gợi hứng ? Mùa Chay ban cho chúng ta những khí giới thiết thực và hữu hiệu là ăn chay và bố thí như một phương thế chiến đấu chống lại một sự gắn bó quá đáng với tiền bạc. Việc trao ban không chỉ từ sự giàu có của chúng ta, nhưng bằng cách hy sinh điều gì đó hơn nữa nhằm ban tặng cho người thiếu thốn, đẩy mạnh sự tự hủy vốn là cơ bản đối với đời sống Ki-tô hữu đích thực” ( Sứ Điệp Mùa Chay, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, ngày 7.1.2003 ).
Và đây nữa, những lời tâm huyết của Đức Cố Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê: ”Đừng để thiên hạ xây dựng thế giới này mỗi ngày, mà con không hay biết, không khám phá, không thao thức, không nhúng tay vào. Chúa đã cứu chuộc con, trao sứ mạng cho con và đặt con vào thế gian, trong thế kỷ này, trong thập niên này, trong môi trường này. Đặt con, chứ không phải cục đá ! Khác nhau lắm. Đừng làm “Công Giáo bù nhìn” ! Và Ngài tiếp: ”Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở Nhà Thờ và ngoài xã hội, là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta” ( Đường Hy Vọng ).
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 143
-------------------------------
Như chúng ta vừa nghe, bài Tin Mừng thuật rằng sau khi đưa các môn đệ lên núi, thì Chúa biến hình đổi dạng trước mắt các ông. Dung nhan Chúa chói lọi như mặt trời và y phục trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các môn đệ nhận ra một Chúa Giê-su vinh quang và huy hoàng. Các môn đệ nhận ra dung nhan chân thực của Chúa Giê-su, nhận ra tư cách làm Con Thiên Chúa của Ngài. Đó là một Chúa Giê-su khác hẳn một vị thầy vốn vẫn hằng ngày lang thang đây đó để rao giảng và cứu giúp. Các môn đệ cảm thấy sung sướng và hạnh phúc ngất ngây.
Trước nhất, như các môn đệ, tôi tin rằng để được hạnh phúc cần thiết chúng ta phải nhận ra bản chất tốt đẹp của những người xung quanh. Khi còn là học sinh phổ thông, tôi có được học truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Chí Phèo là con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Truyện lại cũng có một Thị Nở. Đó là một người con gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, làm cho Chí Phèo ra khỏi cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.
Đấy, chúng ta xem, thực tế trong đời có nhiều người thân phận chẳng ra gì giống như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không mất đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người chúng ta vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, con người là tinh hoa của trời đất là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng.
Tôi thường cảm thấy xấu hổ và giận dữ khi nghe thấy một ai bị gọi là Chí Phèo hay Thị Nở. Nhưng tôi nghĩ nếu được như Thị Nở và Chí Phèo biết nhận ra những cái tốt đẹp nơi những người bị ruồng bỏ xung quanh, thì đấy là những người đang sống đạo chân thật, thì đấy là người đang biết sống mầu nhiệm Chúa biến hình trong đời mình.
Điều thứ hai tôi thấy Chúa muốn nói với tôi qua bài Tin Mừng hôm nay, đó là cần phải cùng Chúa sống đời thường và chiếu toả sự tốt đẹp của mình ngang qua thập giá của đời thường.
Bài Tin Mừng cho biết khi nhận ra sự vinh quang và vẻ rực rỡ của Chúa biến hình trên núi, thì các môn đệ cảm thấy sung sướng và mãn nguyện. Các ông muốn sống mãi với tình trạng vinh quang của Chúa, các ông muốn sống mãi với kinh nghiệm hạnh phúc của mình. Các ông không muốn xuống núi. Các ông đã muốn dựng lều ở đó. Một thoáng thiên đàng xuất hiện trước mắt các ông và các ông muốn sống mãi trong cảnh thiên đàng ấy.
Đây cũng là kinh nghiệm rất con con người, một kinh nghiệm thường thấy nơi con người. Ông Xuân Diệu trong một bài thơ đã viết rằng:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mãi.
Tôi muốn gói gió lại
Cho hương đừng bay đi...”
Ông muốn sống mãi với cái hương sắc hạnh phúc của mình. Lúc nãy chúng ta có nói tới Chí Phèo. Chí Phèo cũng vậy nữa. Chí Phèo cũng biết ước mong cái mong muốn của Thánh Phê-rô vậy. Sau khi gặp gỡ Thị Nở, được Thị Nở cho ăn cháo hành, sau khi hồi sinh ước muốn làm người lương thiện, Chí Phèo nói với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ ?” Câu nói ấy có khác gì câu nói của Thánh Phê-rô nói với Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thưa thầy, chúng con ở đây hay quá ! Chúng con xin dựng tại đây 3 lều”.
Chúng ta cũng vậy thôi. Chúng ta vừa trải qua một cái Tết. Những ngày Tết đã khép lại rồi. Nhưng chúng ta dường như ai cũng muốn niềm vui của ngày Tết được tiếp tục kéo dài. Ước mong sống mãi trong cảnh hạnh phúc, ước mong kéo dài sự huy hoàng là ước mong của mọi người. Tuy nhiên, ý các môn đệ không phải là ý Chúa. Ý của chúng ta cũng không phải là lẽ đương nhiên.
Phải sớm hết Tết và trở về với đời thường như thế mới là tốt và cuộc sống mới tồn tại và phát triển. Phải xuống núi để đi trọn kiếp người và cuộc đời cùng Chúa. Phải thế thôi, vì Chúa cũng phải xuống núi để đi trọn con đường thập giá của mình. Nếu chưa đi trọn đường đời, chưa qua cái chết làm sao có thể chiến thắng khải hoàn trọn vẹn ? Nếu chưa sống trọn cuộc đời này làm sao có thể hưởng trọn thiên đàng ? “Đây là con yêu dấu của Ta(... ) Các ngưoi hãy vâng nghe lời người”. Một thoáng thiên đàng giờ đây đã biến mất, một thoáng thiên đàng giờ đây đã kết thúc. Chỉ còn vang vọng lời phát ra từ đám mây: “Hãy vâng nghe lời người”. Đấy là điều cần phải lắng đọng trong tâm tư con người theo Chúa.
Hạnh phúc của người tin là ở chỗ ấy. Dám lên núi và cũng dám xuống núi cùng Chúa. Cùng Chúa Dám sống với những giây phút thăng hoa và dám sống với những ngày dài đơn điệu. Dám cùng Chúa đi trọn con đường thập giá của mình. Khi ấy chúng ta sẽ được biến hình. Khi ấy chúng ta sẽ được sống trong hạnh phúc thiên đàng. Khi ấy chúng ta sẽ chiếu toả vinh quang của Thiên Chúa cho những người xung quanh.
Tôi nhớ đến bộ phim tài liệu đoạt giải nhất của Liên Hoan Phim Toàn Quốc năm 1995. Đó là bộ phim “Chuyện từ một góc công viên” của đạo diễn Trần Văn Thuỷ. Bộ phim mở đầu bằng cảnh chụp hình ở công viên Lê-nin và kết thúc bằng một cảnh cầu nguyện đọc Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng trước hang đá Đức Mẹ ở Nhà Thờ Hàm Long, Hà Nội. Nội dung bộ phim nói về cuộc sống của gia đình anh Sơn, thuộc Giáo Xứ Hàm Long. Anh Sơn vốn là bộ đội Trường Sơn. Do bị ảnh hưởng của chất độc màu vàng da cam, hai người con anh sinh ra đã bị tật nguyền. Người con gái lớn sống như một sinh vật. Mọi sinh hoạt duy trì sự sống đều phải cậy nhờ người khác. Người con trai còn lại bị mù loà. Để đảm bảo cuộc sống của cả gia đình, anh làm thợ chụp ảnh dạo ở công viên Lê-nin, Hà Nội. Vợ anh làm nghề may tại nhà. Bố anh đưa cháu trai mù loà đi học. Mẹ anh bán nước chè trên vỉa hè.
Gia cảnh như thế bình thường người ta tưởng không có gì là lạ khi hạnh phúc vắng bóng. Một gia đình như thế người ta tưởng sẽ khó mà có sự bình an. Thế nhưng không phải vậy. Gia đình anh rất hạnh phúc. Hạnh phúc trong tình yêu thương đùm bọc, chung thuỷ và hy sinh phục vụ nhau. Gia đình anh rất bình an. Người ta có thể thấy sự bình an tràn ngập ngôi nhà nhỏ bé của anh. Người ta có thể thấy sự bình an chiếu toả trên khuôn mặt mỗi con người trong gia đình ấy. Nhất là trên khuôn mặt người vợ của anh Sơn.
Đạo diễn Trần Văn Thuỷ trong một dịp trò chuyện với chúng tôi về bộ phim tại Tu Viện DCCT Sài-gòn đã chia sẻ rằng: chính sự bình an toả rạng trên khuôn mặt và trong giọng nói của các thành viên trong gia đình này đã hấp dẫn ông, khiến ông hay tìm đến với gia đình này và cuối cùng đã quyết định làm một bộ phim tài liệu về những con người tuyệt vời ấy.
Tôi thấy rằng, gia đình anh Sơn cho đến nay tiếp tục vẫn tiếp tục phải đương đầu với những khó khăn và thử thách của đời thường muôn mặt. Mỗi người vẫn tiếp tục phải vác thập giá của mình. Nhưng tôi tin rằng gia đình anh đang được “biến hình trong Chúa” khi can đảm và quảng đại vác thập giá cùng Chúa và bằng cuộc sống đời thường của mình, gia đình anh đang chiếu toả vẻ huy hoàng tốt đẹp của Chúa cho những người xung quanh.
Ai trong chúng ta cũng muốn đổi đời và hạnh phúc. Cầu xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa biến hình trong tha nhân và quan trọng hơn biết góp phần vào cuộc biến hình của Ngài bằng cách can đảm cùng Ngài đón nhận những thập giá của đời thường.
Lm. Phê-rô NGUYỄN VĂN KHẢI, DCCT
-------------------------------
Theo Tin Mừng Nhất Lãm, sau khi Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa và Chúa Giê-su loan báo Người sẽ chịu đau khổ nhiều, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại để rồi vì lời loan báo ấy mà các môn đệ vấp phạm thì Chúa Giê-su đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao để củng cố thêm lòng tin cho các ông. Chúa Giê-su mà các môn đệ tuyên xưng trước đó chính là Đấng phải vượt qua khổ nạn để tiến vào vinh quang. Cuộc khổ nạn và vinh quang là những chặng đường trên hành trình của Chúa mà người Ki-tô hữu, ai muốn đi theo Chúa phải vui lòng chấp nhận tất cả.
Phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay vừa qua, chúng ta thấy Chúa Giê-su bị cám dỗ ( MC 1, 12 – 15 ); và sau chiến thắng trên Xa-tan, Chúa được tôn vinh: Cả hai – cám dỗ và tôn vinh – đều là những khía cạnh, những chặng đường góp phần vào việc phục sinh của Đấng Cứu Thế. Tác giả Tin Mừng Mác-cô như muốn nhắc người Ki-tô hữu lời mời gọi đi theo Chúa Giê-su trong cuộc đời Ngài qua cuộc đời mình, biết đón nhận tất cả mà không dừng lại ở một góc cạnh, một khúc đường nào. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu vài chi tiết trong trình thuật Chúa biến hình sẽ được Giáo Hội công bố vào Chúa Nhật II Mùa Chay sắp tới đây để nhờ đó, ánh sáng chói lọi chiếu rọi vào tâm hồn chúng ta hầu thanh tẩy và hấp dẫn chúng ta sống theo Chúa, sống như Chúa: Bị thử thách, đau khổ và phục sinh.
“Sáu ngày sau” – trình thuật bắt đầu với cụm từ chỉ thời gian – Nghĩa là sáu ngày sau khi Phê-rô tuyên tín về tư cách Mê-si-a của Chúa Giê-su ở vùng Xê-da-rê Phi-lip-phê và sau khi Chúa Giê-su loan báo lần thứ nhất cuộc khổ nạn của Người thì biến cố Chúa Giê-su biến hình mới xảy ra. Chúa đã đem theo ba môn đệ thân tín là các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Ba vị này thường được Chúa Giê-su cho đi riêng theo Người. Ở đây như chuẩn bị cho các vị khỏi vấp ngã trong vườn Cây Dầu khi Chúa chịu hấp hối thảm sầu ( MC 14, 33 ). Chúa Giê-su đã dẫn ba môn đệ lên trên một ngọn núi cao. Theo truyền thống từ Cựu-Ước thì các biến cố, các lệnh truyền quan trọng đều được phát đi từ trên núi cao. Vả lại, Chúa Giê-su cũng thường thích tĩnh tâm, cầu nguyện một mình trên núi cao với Chúa Cha.
“Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” ( MC 9, 2 – 3 ).
Sự biến đổi nói ở đây có ý nghĩa Chúa Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của con người để mặc lấy một hình dạng khác. Hình dạng mới này diễn tả cách cụ thể một bản tính vô hình. Theo Mt 17, 2 và Lc 9, 29, dung nhan Chúa Giê-su có biến đổi; cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đề cập đến y phục của Người: y phục sáng chói chiếu tỏa vinh quang của thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Chúa Giê-su, Đấng Mê-si-a ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, tỏ bày trước kỳ hạn vinh quang phục sinh của Người.
“Có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” ( MC 9, 7 ).
Đám mây là tấm phông trên đó, Chúa Giê-su biến đổi hình dạng; từ đó, ông Ê-li-a và ông Mô-sê đi ra để nói chuyện với Chúa Giê-su, và từ đó, tiếng Chúa Cha phán ra; ông Ê-li-a và ông Mô-sê lại biến mất vào đó, và cùng với đám mây, cũng biến mất vinh quang của Chúa Giê-su. Như trong cuộc Xuất Hành, đám mây tượng trưng sự hiện diện gần kề của Thiên Chúa. Đám mây là tấm màn ngăn cách một thời gian nữa những thực tại trần thế với những thực tại thiên giới. Đám mây này đã xé ra khi Chúa Giê-su đến thế gian và nhận phép rửa. Đám mây là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào hôm sau ngày sống lại. Và theo lời sấm Đaniel, trên đám mây này, Chúa Giê-su sẽ tái hiện vào thời tận thế để quy tụ những kẻ được tuyển chọn.
So với tiếng từ trời phán tại phép rửa dưới sông Gio-đan ( MC 1, 11 ), lời công bố trên của Chúa Cha không thêm gì mới về Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa – Đấng Mê-si-a. Nhưng lời này đưa ra một điều chỉnh quan trọng cho lời tuyên xưng Đức Tin của Phê-rô ( 8, 29 ). Vị tông đồ chỉ tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a; Còn Chúa Cha chứng thực Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nếu cuộc biến hình của Chúa Giê-su giới thiệu trước vinh quang của Người vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm thì Tiếng Nói từ trời lại chứng thực Chúa Giê-su là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và gợi ý rằng, Người đã có từ muôn thuở muôn đời. Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy cuộc chuyện trò của ông Ê-li-a và ông Mô-sê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Chúa Giê-su là Đấng duy nhất mà mỗi Ki-tô hữu phải lắng nghe; Người là Đấng Trung Gian duy nhất của Giao Ước Mới trong đó, ông Ê-li-a, ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ được tham dự vào.
“Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại” ( MC 9, 9 ).
Ngoài những ai Người cho biết, Chúa Giê-su không muốn cho các môn đệ tiết lộ về thiên tính của Người cho ai khác mà trước giờ Người muốn tỏ ra. Đây là bí mật về Đấng Thiên Sai vì lúc đó, dân chúng chỉ lăm le tôn Người lên làm lãnh tụ chính trị.
“Từ cõi chết sống lại”: Đây là mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giê-su mà vào lúc đó, các môn đệ của Chúa chưa thể hiểu được.
Tóm lại, sự kiện Chúa Giê-su biến hình vừa để củng cố niềm tin nơi các môn đệ thân tín vào địa vị Thiên Sai của Người, vừa cho các ông được chiêm ngưỡng trước trong giây lát vinh quang của Người. Chỉ có điều các ông cần thể hiện là vâng nghe lời Chúa. Các môn đệ sẽ ghi nhớ những lời Chúa Giê-su nói về những đau khổ đưa đến vinh quang ( MC 8, 31 – 9, 1 ) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của Ơn Cứu Độ mà Người đã mặc khải cho các ông ( MC 9, 9 – 13 ). Dân tộc Do Thái, toàn thể nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta ắt hẳn vẫn mong chờ ơn cứu độ nơi Chúa Giê-su – cùng đích vận mệnh của mỗi người chúng ta, của nhân loại này. Vậy, trong mùa chay thánh này, để dọn lòng đón nhận tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, thái độ của người Ki-tô hữu chúng ta là hãy lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa trong đời sống mỗi ngày.
Lạy Chúa Giê-su uy nghi sáng ngời, chúng con sấp mình thờ lạy Chúa như ba môn đệ xưa để tôn vinh thiên tính cao vời của Chúa, để cảm tạ Chúa đã cho tham dự trước thế giới vinh phúc mà Chúa đang xây dựng và mời gọi nhân loại bước vào.
Lạy Chúa Giê-su uy nghi sáng ngời, chưa tới lúc chúng con phải “biến hình”, nhưng đã đến lúc chúng con phải đổi mới tâm hồn để qua ăn chay, cầu nguyện và làm việc bố thí, chúng con nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa Giê-su uy nghi sáng ngời, ngày hôm nay, việc Chúa biến hình vẫn còn đang tiếp diễn trên bàn thờ trong bí tích thánh thể và trên khuôn mặt của những người nghèo đói, bệnh tật, tù đày, bơ vơ, đau khổ, bất hạnh trên hành trình chúng con đi. Xin cho chúng con một lòng yêu mến Chúa, yêu mến thánh thể, yêu mến những người cùng khổ, bất hạnh ấy như lòng Chúa mong muốn.
Gio-a-kim PHẠM VĂN LƯỢNG,
Nhóm Tông Đồ Thánh Kinh
-------------------------------
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái ngược hẳn với những gì đã xảy ra trong sa mạc khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của bốn thày trò hôm nay thật là thú vị, đến nỗi Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thày, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thày, một cho Maisen và một cho Êlia. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Ngài mà không được, thì hôm nay chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ, đó là vinh quang của Con Thiên Chúa. VInh quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử của Cựu ước: Maisen và Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng lại bật mí cho các môn đệ.
Tôi xin thưa, chìa khóa của vấn đề được tìm thấy trong chỉ thị của Ngài ngăn cấm các môn đệ không được tiết lộ điều mắt thấy tai nghe cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã từ chối, để rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành bánh hay nhảy từ trên cao xuống một cách an toàn thì rồi con người cũng có thể làm được. Nhưng sống lại từ cõi chết thì chỉ mình Thiên Chúa mới thực hiện được mà thôi. Bởi vì cho đến ngày hôm nay chưa một ai đã thoát khỏi cái chết, thế nhưng chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết và đó mới là cuộc biểu dương đích thật quyền năng tuyệt đối của Con Thiên Chúa.
Đức Kitô không những đã chẳng màng đến của cải, danh vọng thậm chí cả đến quyền năng có sẵn Ngài cũng chẳng sử dụng và hơn thế nữa Ngài lại còn chấp nhận cho thiên hạ cười chê: là bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi, là kẻ phạm thượng, điên khùng. Do đó mà Ngài đã bị kết án và chết như một phạm nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ nhờ hạ mình thẳm sâu như thế và quên mình tới mức thánh Phaolô đã coi như là một sự tự hủy, mà Ngài đã đạt được danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu, đó là Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm thập giá thì hôm nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được thấy với mục đích là để các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là ước mơ rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được chia nhau mỗi người một địa vị.
Đồng thời Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản và tuyệt vọng khi thấy Ngài bị bắt bị kết án và bị giết chết trên thập giá. Vì thế, biến cố Taborê gắn liền với biến cố Canvê. Sự biến hình gắn liền với thập giá. Cùng với cuộc khổ nạn và Phục sinh, thì sự biến hình hôm nay sẽ là một điềm báo trước cho vinh quang của Ngài, một khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng vậy, nếu hôm nay chúng ta dám chấp nhận khổ đau, dám vác thập giá mà bước theo Ngài thì trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được tham dự vào vinh quang Phục sinh với Ngài.
-------------------------------
Để có thể minh định vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn Phúc Âm về sự Biến hình này của Chúa, chúng ta hãy nhớ lại, những tâm tư nào có thể có nơi các môn đệ là các Tông đồ tương lai khi Chúa Giêsu loan báo cho họ lần đầu cuộc khổ nạn của Người. Là người dân Do Thái tốt như họ, các môn đệ Chúa cũng chia sẻ niềm hy vọng chung của dân Israel. Họ hy vọng một Đấng Cứu Thế toàn thắng và vinh quang. Nhưng đến một lúc mà Chúa thách đố họ hãy có một hành động đức tin. Nhân danh họ, Phêrô nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Nhưng sự tuyên xưng ấy chưa bao trùm được hết tất cả số mệnh của Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng đức tin vào CON NGƯỜI của Chúa Giêsu, song Phêrô không tưởng tượng nổi là Thiên Chúa lại có thể trải qua thảm kịch cuộc Khổ nạn. Thành thử cần phải gợi lên dần dần trong trí óc các môn đệ sự mạc khải điều mà dưới con mắt họ, sẽ là một gương xấu khủng khiếp, một sự thử thách rất lớn lao cho đức tin của họ. Cũng cần phải củng cố đức tin họ trước. Giai thoại Biến hình tượng trưng một thời kỳ quan trọng trong việc giáo dục các môn đệ. Đây là những con người đang chờ đợi một Đấng Cứu Thế vinh quang. Vậy mà Chúa Giêsu lại mạc khải cho họ biết rằng Chúa Cứu Thế là người Tôi tớ đau khổ và bị hạ nhục. Làm cách nào giúp họ vượt lên được khỏi sự trái ý họ cảm thấy? Chúa Giêu muốn giúp họ điều này bằng cách cho họ thấy là Con Thiên Chúa, mặc dầu chịu đau khổ, sẽ được vinh quang. Và đó là việc Chúa Biến hình hôm nay.
Chúng ta ghi nhận rằng cho đến cùng các môn đệ vẫn còn vấp phải gương xấu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Cần phải có sự Sống lại và ngày lễ Ngũ tuần họ mới thực hiện được những gì mà Thiên Chúa muốn nơi Con Chí Ái của Người.
Chúng ta hãy lưu ý điều này:
1) Đây là Con Chí Ái của Ta. Điều quan trọng là vào một lúc trang nghiêm Chúa Cha lên tiếng quả quyết rằng Chúa Giêsu là con người mà các môn đệ bắt đầu đi theo quả thật là Con của Ngài. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng: vào giây phút đó, các môn đệ quan niệm tiếng ‘Con’ như chúng ta quan niệm ngày nay, vì ngày nay chúng ta đã được biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Họ nhận ra là qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra và hành động. Họ linh cảm thấy Chúa Giêsu có một nguồn gốc và số mệnh vượt xa các giới hạn loài người. Tiếng từ Trời phán: này là Con Ta yêu dấu, điều đó cũng có nghĩa là Con duy nhất. Họ nhận ra cách sâu sắc giữa Thiên Chúa và Chúa Giêsu có mối tương quan phụ tử thật là độc đáo. Họ ý thức rằng Chúa Giêsu tuỳ thuộc vào Thiên Chúa, đặc mệnh như một người Con. Tiếng lại phán thêm: Hãy nghe lời Người. Trong trí óc các môn đệ là những người đang mong đợi Đấng Cứu thế, mấy tiếng đó có nghĩa là: Hãy nghe lời Người như lời đáp lại sự chờ mong của các ngươi vào Đấng Cứu Thế, ở cả những ngày mà Người trải qua thảm kịch Khổ nạn.
2) Hãy nghe Lời Người. Lời huấn dụ đó (hay mệnh lệnh đó) từ trời cao cũng ngỏ cùng chúng ta ngày hôm nay. Nhưng hiện giờ mỗi người trong chúng ta đều đã biết những phản kháng của bản tính con người chống lại lời mời gọi hãy theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta đều biết rằng, qua Chúa Giêsu, số phận chúng ta là một số phận quang vinh, nhưng Thiên Chúa buộc phải giáo dục chúng ta như những người môn đệ và đưa chúng ta dần dần vượt qua chướng ngại vật của sự đau khổ và sự chết. Thỉnh thoảng Người trợ lực chúng ta trong công cuộc này, bằng cách ban cho chúng ta những giây phút hoan lạc nội tâm, nó có tác dụng biến đổi đức tin của chúng ta. Nói chung thì những giây phút ấy khá hoạ hiếm. Điều quan trọng là chúng ta biết ‘nghe’ Chúa Giêsu. Chúng ta có thực hiện được điều mà Người trả lời cho tất cả những thắc mắc, chờ mong, ước muốn sâu xa nhất của chúng ta không?
Sự Biến hình của Chúa được các Phúc âm trình bày như một giai đoạn trong tiến trình của Chúa tới Giêrusalem, nơi mà Chúa sẽ phải chết và sẽ Phục Sinh. Trong nhịp độ cuộc Khổ nạn và Vinh quang đánh dấu cho những bước đi của Chúa tiến tới đích, sự Biến hình là một âm điệu khải hoàn. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Người tiếp tục đến cùng con đường của Người. Trên đường đời mà dần dà mỗi ngày chúng ta một đi sâu vào, chúng ta cũng ý thức được cho chính chúng ta, nhịp điệu khổ nạn và vinh quang, thử thách và hy vọng. Gương mẫu nào, sức mạnh nào sẽ giúp chúng ta đi đến cùng? Chúng ta hãy “NGHE” Chúa Giêsu; Đấng đi trước chúng ta, dìu dắt chúng ta đến sự biến hình bất diệt của chúng ta.
-------------------------------
VINH QUANG TRÊN ĐỈNH NÚI
Ở đây chúng ta đang đối diện với một biến cố trong đời sống Chúa Giêsu vốn được phủ bằng một tấm màn bí mật. Chúng ta chỉ cố tìm xem đã có chuyện gì xảy ra. Maccô bảo rằng việc này xảy ra sáu ngày sau biến cố gần Xêdarê Philípphê, Luca thì nói tám ngày sau. Tuy nhiên, ở đây không hề có sự bất nhất. Cả hai vị đều muốn nói như ngày nay chúng ta nói là “độ chừng một tuần lễ sau”. Cả hai Giáo Hội Đông lẫn Tây phương đều kỷ niệm ngày Chúa Giêsu biến hình vào ngày 06 tháng 08 dương lịch. Vấn đề quan trọng không phải ngày đó đúng hay không, nhưng đó là thời điểm mà chúng ta nên tìm cách ghi nhớ. Truyền khẩu nói đến sự biến hình xảy ra trên đỉnh núi Tabor. Giáo Hội phương đông gọi lễ Chúa Biến Hình là lễ Taborion, có lẽ việc chọn núi Tabor được căn cứ vào câu đề cập đến núi Tabor trong Tv 89,12, nhưng đó là một lựa chọn đáng tiếc. Núi Tabor nằm về phía Nam xứ Galilê, còn Xêdarê Philípphê thì ở mãi tận phía bắc. Núi Tabor cao không hơn 300 mét và vào thời Chúa Giêsu có một đồn binh trên đó. Điều có lý hơn là sự việc đã xảy ra trên sườn núi Hermôn một ngọn núi phủ tuyết quanh năm, cao gần 3000 mét, gần Xêdarê Philípphê hơn và khung cảnh cũng yên tĩnh hơn nhiều.
Chúng ta không thể xác quyết đã có chuyện gì xảy ra. Chúng ta chỉ biết cúi đầu cung kính khi cố gắng tìm hiểu. Maccô bảo áo của Chúa Giêsu trở nên sáng rực. Từ ông dùng là chữ stibein, chữ được dùng chỉ sự sáng chói của đồng hoặc của vàng được nung chảy, hoặc của thép được đánh bóng hay ánh sáng chói chang vàng rực của mặt trời. Lúc biến cố ấy kết thúc, có một áng mây che phủ họ. Trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện diện Thiên Chúa luôn luôn được kết hợp với đám mây. Trong ngày khánh thành đền thờ sau khi được Salômôn xây cất, một đám mây đã bao trùm đền thờ. Dân Do Thái mơ ước khi Đấng Mêsia đến, đám mây hiện diện của Thiên Chúa cũng sẽ trở lại với đền thờ (Xh 16,10; 19,9; 33,9; 1V 8,10; 2MC b 2,8). Việc đám mây kéo xuống là một cách nói rằng Đấng Mêsia đã đến, và bất kỳ người Do Thái nào cũng hiểu như vậy.
Sự biến hình có hai ý nghĩa:
1/ Đó là một điều thật quý báu cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cần quyết định một số sự việc, Ngài đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là đối diện và chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi, Ngài đã nhận được sự chấp thuận quyết định của Ngài.
(a) Êlia và Môsê đã đến gặp Ngài. Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố luật cho dân Israel. Cả hai dân tộc đã chịu ơn ông về luật của Chúa. Êlia là vị ngôn sứ đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Mọi người luôn luôn nhìn lại ông như một ngôn sứ mang chính lời Chúa đến cho con người. Khi hai nhân vật lỗi lạc nhất đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên!”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng đường, và cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
(b) Thiên Chúa Cha phán với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ hành động theo ý riêng. Ngài luôn luôn đến với Thiên Chúa Cha và thưa rằng “Cha muốn con phải làm gì đây?” Ngài đặt mọi kế hoạch và dự kiến trước mặt Chúa Cha và Chúa Cha phán với Ngài “Con đang làm đúng điều chính Con yêu dấu Ta phải làm. Hãy tiếp tục đi”. Trên núi Biến Hình, Chúa Giêsu được bảo đảm Ngài không lầm đường. Ngài đã thấy thập giá không những là việc không tránh được và còn là điều vô cùng chính đáng.
2/ Đó là điều quý báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa.
(a) Họ đang bị tan nát khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Ngài sắp lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như tiêu hủy, phủ nhận tất cả những gì họ đã được hiểu về Đấng Mêsia. Họ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng. Những gì đã thấy trên núi Biến Hình cho họ một cơ hội để bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Ngài.
(b) Nó khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Kitô theo một ý nghĩa đặc biệt. Theo định nghĩa chứng nhân là người thấy, sau đó tỏ bày ra. Lần ấy, trên núi, họ đã được cho thấy vinh hiển của Chúa Kitô. Do đó, khi có cơ hội, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng để lại kể cho mọi người nghe.
-------------------------------
CUỘC BIẾN HÌNH
Quang cảnh rực rỡ đang diễn ra đã tỏa lan trên bầu khí nặng nề ngự trị trong Phúc âm kể từ khi Chúa Giêsu loan báo về cái chết không thể nào tránh được của Ngài (8,31 và tiếp theo). Đây giống như một giai đoạn tạm nghỉ được dành cho Thầy trò trên bước đường dấn thân vào cái chết. Chúa Giêsu mang theo Ngài ba môn đệ được Ngài yêu chuộng nhất (c. 2). Chỉ ba người này được theo Ngài vào căn phòng em bé gái được Chúa Giêsu làm cho sống lại (5,37-43). Và cũng chỉ ba người này là những nhân chứng đặc biệt trước cơn hấp hối của Thầy (14,33-34). Sở dĩ Chúa Giêsu cho họ tham dự vào những cuộc mạc khải then chốt là vì họ được kêu gọi để trở nên cột trụ cho Giáo Hội Ngài. Việc tách các môn đệ này riêng ra để đến một chốn rất xa cho chúng ta đoán được ý định của Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho họ một điều bí mật sâu xa nào đó. Truyền thống cho rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ này đã leo lên ngọn núi Taborê, một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê, không xa Nadaret bao nhiêu. Tuy nhiên cách xác định vị trí này mãi đến thế kỷ thứ ba mới thấy. Ngoài ra địa danh này không phù hợp với chuyến du hành mạn bắc vào ngay vùng dân ngoại (8,27). Chính vì thế theo các nhà chuyên môn, đúng hơn đây là núi Hermon, ngọn núi đồ sộ cao tới 2760 mét phủ đầy tuyết rất gần vùng Cêsarê Philipphê là nơi Chúa Giêsu được coi như đang có mặt.
Dù sao thì ở đây, Maccô cũng ít quan trọng đến địa lý hơn là thần học. Như người ta sẽ thấy, đối với Maccô, “ngọn núi cao” này nhắc nhở đến ngọn núi Sinai thời xuất hành là nơi Thiên Chúa đã gặp gỡ Môsê cách rất đỗi thân mật (x. Xh 24,12-ABC18). Quả thực, trình thuật này đang dẫn chúng ta đến cuộc hiển linh của Chúa Giêsu (c. 2c). Trong một giây phút chói lòa, vị Sư Phụ đã biến hình trước mắt các đệ tử mình. Người ta chợt nghĩ ngay đến hiện tượng liên quan đến Môsê: “Da mặt ông tỏa sáng” sau khi được trực kiến Thiên Chúa trên núi Sinai (Xh 34,29-35).
Hoàn toàn tự nhiên khi Maccô nhờ đến các hình ảnh Thánh Kinh để mô tả biến cố xảy đến cho Chúa Giêsu (c. 3). Như chúng ta đã biết, nơi người Sêmit, y phục một người tượng trưng chính bản thân người đó. Y phục Ngài tỏa ra rõ nét trắng toát mà loài người không thể có. Y phục màu trắng báo hiệu ánh sáng quang vinh thần thánh nơi các thiên sứ (16,5) hay nơi những kẻ được chọn (x. Kh 3,5).
Đối với các môn đệ này, cuộc thị kiến đầy kinh ngạc về tình trạng “quang vinh” của Chúa Giêsu lại còn được bổ sung thêm bằng việc xuất hiện của Êlia và Môsê (c.4). Hai nhân vật lẫy lừng này đến đây làm gì? Môsê là cha đẻ của Lề Luật Do Thái. Chính trong sự hiện diện đầy uy nghi của Thiên Chúa trên núi Sinai mà Môsê đã tiếp nhận Lề Luật (x. Xh 19 và 20). Và bốn thế kỷ sau, Êlia cũng đã hành hương lên chính ngay núi thánh Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống (x. IV 19,1-13). Những nhà lãnh đạo của dân riêng Chúa được truyền thống Do Thái xem như vẫn hiện đang sống trong VINH QUANG: Môsê thì với tư cách nhà làm luật vĩ đại của Israel, còn Êlia là khuôn mặt dẫn đầu trong số các tiên tri. Ở đây, cả hai hội tụ lại, họ tượng trưng cho Lề Luật và các tiên tri, điều này bao hàm ý nghĩ toàn bộ Kinh Thánh đều ủng hộ Chúa Giêsu. Đàm đạo với hai vị này, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng nơi bản thân Ngài đã hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia.
Mãi đến lúc này, bị quang cảnh khác thường đột nhiên xảy đến, các môn đệ đều ngậm câm. Giờ đây, nhân danh họ, Phêrô mới dám ngỏ lời với Chúa Giêsu (c.5). Ông gọi Chúa bằng “Thầy” (Rabbi) nghĩa là vị Thầy mà ông phải tuân theo mọi lời giáo huấn. Phêrô muốn nói cho Thầy mình niềm hạnh phúc mà ông và các bạn đang cảm nhận khi được tham dự vào lễ hội thiên quốc này. Tuy nhiên phải chăng phản xạ của Phêrô quá ư trần tục? Không phải là ông muốn lôi kéo dài giây phút hạnh phúc khôn lường này sao? Ở đây việc Phêrô đề nghị dựng lên ba lều cho Chúa Giêsu và hai vị khách thiên quốc có lẽ nhằm mục đích ám chỉ đến “lễ lều” của Do Thái. Vào mùa thu, tức mùa hái nho, người ta thường dùng các cành cây dựng lên trong vườn nho những chiếc chòi nhỏ với niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được đón tiếp Đấng Mêsia ở đây (x. Lv 23,33-36). Tuy nhiên như thường thấy xảy ra trong các Phúc âm, ở đây Phêrô bị lầm. Ông ta không nắm bắt được ý nghĩa sâu xa của biến cố ông được trải qua. Vả lại bản văn cho thấy Phêrô hoàn toàn không ý thức gì về lời đề nghị của mình (c. 6). Maccô ghi nhận nỗi kinh hoàng của các môn đệ trong trường hợp quá khác thường này. Có vẻ như Phêrô đã thử “làm quen” với một hiện tượng thần linh vượt quá tầm hiểu biết của mình…
Chính lúc này một thị kiến bổ túc mới có thể hướng dẫn độc giả hiểu được toàn bộ sự cố (c. 7a). “Đám mây” được mượn trực tiếp từ sách Xuất hành (được Maccô cố ý khai thác trong toàn bộ đoạn này). Trong bước đường gian khổ nơi vùng hoang mạc, dân Chúa chọn đã được một cụm mây sáng lòa hướng dẫn (x. Xh 13,21 và tiếp theo). Đám mây thần thánh này được người xưa mượn từ hiện tượng phong nhiêu của bão tố để ám chỉ việc Thiên Chúa kề cận dân Ngài. Đây là một hình ảnh tuyệt hảo nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với loài người, vừa ẩn khuất mà lại vừa hiển lộ. Đây là trường hợp Thiên Chúa trao ban một sứ điệp quan trọng: “Chính Ngài là con yêu quý của Ta” (c.7b). Thật thú vị khi ghi nhận rằng những lời này được Thiên Chúa ngỏ với các môn đệ. Với vài thay đổi nhỏ nhặt, những lời này lặp lại những lời đánh dấu cuộc tấn phong Chúa Giêsu vào lúc Ngài chịu phép rửa (x. 1,11). Vào lúc đó, Thiên Chúa Cha đã để cho Chúa Giêsu đăng quang trong sứ mệnh làm Đấng Mêsia. Giờ đây, sau khi đón nhận ra thân thế Mêsia của Thầy mình (8,29), Phêrô và các môn đệ còn phải đón nhận mầu nhiệm sâu thẳm hơn nữa về thân thế Ngài. Bởi vì Ngài là Đấng Mêsia nhưng đồng thời còn là “Người Con rất yêu dấu” của Chúa Cha nữa.
Như thế giọng nói từ trời khích lệ các môn đệ tiếp tục bước theo con đường họ đi trong đức tin để khám phá được trọn vẹn thân thế Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa sâu xa của biến cố mà họ vừa trải qua. Tuy nhiên phải thêm rằng trọng điểm của trình thuật này xem ra hệ tại nơi các từ ngữ sau: “Hãy nghe lời Ngài” (c.7c). Lời mời gọi ngắn gọn này nhắm tới điều mà Chúa Giêsu mới nói với các môn đệ Ngài (8,31-33). Như người ta đã thấy: Phêrô đã chống lại như một con quỷ dễ thương trước những viễn cảnh bi đát mà Thầy vừa mới hé lộ. Chắc chắn các môn đệ rất phiền não khi phải “nghe” Chúa Giêsu xác định điều này. Giờ đây một khi vừa được trông thấy –như một ánh chớp lòa- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đồng thời cuối cùng Ngài sẽ lãnh nhận được số phận quang vinh bên kia cái chết thì liệu họ có giữ được niềm hy vọng và tiếp tục bước theo Thầy mình trên con đường thập giá không?
Câu cuối cùng diễn tả tình trạng trở lại bình thường khá tê tái (c.8). Maccô cố ý nhấn mạnh: đối với những kẻ theo Ngài, cuộc biến hình của Chúa Giêsu sẽ chỉ là một phút hồng ân “ngắn ngủi” để nâng đỡ đức tin của họ trên bước đường gian truân. Rõ ràng biến cố trên đây đã được Maccô đọc lại dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh và của Kinh Thánh. Ông nhằm nâng đỡ lòng trông cậy của các Kitô hữu Rôma đang chịu khổ đau và chết chóc vì cơn bách hại.
---------------------------