Suy Niệm Tin Mừng Lễ Giáng Sinh 25/12 ABC Bài 51-100 Đấng Cứu thế đã sinh ra cho chúng ta -------------------------- Lễ Vọng 24/12 Phúc Âm: Mt 1,1-25 (bài dài) "Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa; Phares sinh (bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít. Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon. Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Nửa Ðêm
Phúc Âm: Lc 2,1-14 "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán. Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm". - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Rạng Ðông Phúc Âm: Lc 2,15-20 "Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Ban Ngày (Bài dài) Phúc Âm: Ga 1,1-18 {hoặc 1-5.9-14} "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta. - Ðó là Lời Chúa.
Đại Lê Mừng Chúa Giáng Sinh, Lễ Nửa Đêm Is 9,1-3.5-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14
Thánh vịnh gia thánh thót hát: "Trời ơi, hãy vui, và đất hỡi hãy mừng, để ra chào đón Thiên Chúa: GS-51
Thánh vịnh gia thánh thót hát: "Trời ơi, hãy vui, và đất hỡi hãy mừng, để ra chào đón Thiên Chúa đang đến" (Tv 95). Những lời của thánh ca trên đã được hoàn thành khi thiên thần báo tin Chúa Cứu Thế đến trong cả sáng của Đêm Sinh Nhật. Lễ Sinh Nhật rất quan hệ vì nó mở đầu một giai đoạn vinh hiển. Ta hãy nhìn Chúa Hài Nhi trong Đêm Thánh này. Hài Nhi nằm trong máng cỏ không phải nằm một cách thụ động. Người bắt đầu chặng đường dài đưa đến núi Calvariô và cái mồ sẽ chôn xác Người, và hy vọng của chúng ta nằm trong cuộc hành trình đó. Chúa đến vì chúng ta.
Chúng ta tung hô trong kinh Tin Kính: "Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế." Nếu khi đọc tín điều trên mà ta không thấy mình phấn khởi, có lẽ tại ta đọc đi đọc lại nhiều lần quá mà không để ý tới, và vấn đề "Sự Rỗi" là cái gì xa xăm trong đời sống chúng ta. Chúng ta sống phất phơ ở bên ngoài hình bóng hơn là trong sự chân thật. Cây Noel và Hang đá, Máng cỏ chỉ là hình bóng biểu hiệu lễ Sinh Nhật. Bản chất thật của Lễ Sinh Nhật là sự Cứu Rỗi của chúng ta. Được cứu rỗi bởi Chúa Kitô là được sống sự sống của Chúa Kitô.
Sự sống Chúa Kitô không phải một ngoại lực đè nén trên ta, không phải cái gì ta có thể đẩy đi được, nó là một chất nhựa sống đã được thấu triệt vào tận thâm tâm bản chất của ta, làm ta biến đổi từ bên trong ra bên ngoài. Sự Chúa cứu chuộc ta không phải một biến cố hai ngàn năm lịch sử, hay hai ba ngàn dặm xa xăm. Chúa đang cứu ta hôm nay, và ở chính nơi đây. Và nếu Chúa Hài Nhi đòi ta phải tận hiến cho Chúa trong Đêm Thánh này là vì không có sự tận hiến đó, không có sự đầu hàng cho Chúa như thế, chúng ta không thể sống sự sống Chúa đem đến cho ta trong đêm nay.
Chúng ta phải chào Chúa với hai cánh tay yêu đương. Trông thấy hình ảnh, hay có một vài cảm giác lờ mờ khi ta chào nhau: "Mừng Sinh Nhật - Merry Christmas! " Không có gì khó lắm. Gặp Chúa như Chúa thật, gặp Chúa như Đấng đến cứu ta, để cho ta sự sống thật mới là cái khó. Chúa Kitô trong Phúc Âm đang hiện diện trong chúng ta, đang có mặt trong thế giới mà Chúa đã cứu chuộc. Chỉ có ai có đức tin, đức cậy và lòng yêu mến mới có thể nhận ra được.
Chúng ta không cần đi tìm Chúa ở nơi nào khác ngoài ra trong Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Chúa, trong thánh lễ, trong các phép bí tích, trong anh chị em chúng ta và trong tất cả những hoàn cảnh khó dễ của đời ta. Nhưng ta nên để ý: sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội có thể là một sự đòi hỏi làm rầy rà cho ta; sự hiện diện của Chúa trong một người láng giềng có thể là một người mà ta muốn tránh mặt. Bạn muốn tránh sự rầy rà vì sự đòi hỏi của Giáo Hội? Bạn muốn tránh người bà con vì bà con đó không có gì lôi cuốn bạn? Nhưng làm thế tức là tránh mặt Chúa.
Chúa Kitô đến với tôi trong Đêm Thánh này đòi tôi sống hợp với sự cao cả của ơn Chúa gởi tới: đời tôi trung thành với chức linh mục của tôi, với bổn phận vợ chồng của tôi, với nhiệm vụ con cái của tôi... Chúa đòi tất cả chúng ta trở nên trọn lành y như Cha trên trời là Đấng trọn lành, nghĩa là Đấng thương yêu hết mọi người, người lành cũng như người dữ.
Lễ Sinh Nhật sẽ là một sự vui lớn của ta, nếu ta biết học để sinh sống một cách vui vẻ. Suy niệm mấy dòng tôi viết trên có thể làm bạn nghĩ ngợi và hơi lo âu. Nhưng ta hãy bình an và hạnh phúc khi ta nhìn Hài Nhi trong máng cỏ, vì Chúa đến để đem sự sống, để tha thứ, để yêu thương ta. Ánh sáng đã giải ra trên thế gian. Đấng muôn nước chờ đợi đang ở giữa chúng ta. Và dù không được mời, Chúa cũng đã đến với ta.
Chúa mời ta từng giây từng phút của đời ta. Ta hãy vui mừng trong Đêm Sinh Nhật, Đêm Thánh của ta. Chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa, Chúa của Sinh Nhật đang ở đây với con. Lễ Sinh Nhật là lễ của con. Con thuộc về Chúa Hài Nhi, Con mừng Chúa: Mừng Lễ Sinh Nhật Chúa! Và chúng con chào nhau: Merry Christmas!"
Đối với đa số người công giáo cũng như người không công giáo, thì Giáng sinh là mùa hân hoan vui: GS-52
Đối với đa số người công giáo cũng như người không công giáo, thì Giáng sinh là mùa hân hoan vui mừng, với những khung cảnh trang hoàng lộng lẫy trong nhà, cũng như bên ngoài: Những hang đá máng cỏ, những cây sinh nhật trông đẹp mắt, cũng như nhạc Giáng sinh vui làm rộn lòng người. Tới mùa Giáng sinh, các tiệm đua nhau trang hoàng để mong thu hút khách hàng. Người ta nô nức gửi thiệp Giáng sinh, quả Giáng sinh và chúc mừng nhau bằng những lời lẽ tốt đẹp. Trong những nước có chiến tranh, thì mỗi mùa Giáng sinh đến, các phe nhóm giao chiến thường đồng ý buông súng để mừng Giáng sinh.
Tuy nhiên cái bối cảnh xung quanh việc Chúa sinh ra, cái cách thế của việc Chúa giáng trần, là những mâu thuẫn và nghịch lý. Tại sao Chúa lại chọn sinh ra bởi một cô gái quê vô danh tiểu tốt thay vì chọn sinh ra bởi một công chúa thuộc hoàng tộc giàu sang phú quí? Tại sao người được chọn làm cha nuôi Đấng cứu thế chỉ là một bác thợ mộc tầm thường? Tại sao Chúa lại không chọn sinh ra ở cung điện nhà vua, mà lại chọn sinh ra ở hang bò lừa? Tại sao Chúa lại không chọn sinh ra ở thủ đô Giêrusalem huy hoàng tráng lệ, mà lại chọn sinh ra ở làng Bê-lem nhỏ bé? Còn nhiều mâu thuẫn khác trong đời sống công khai của Đấng cứu thế. Thực tế thì cả đời sống của Chúa cứu thế là những mâu thuẫn.
Ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại chọn những nhân vật tầm thường như vậy? Vào cái thời ngay trước Đấng cứu thế giáng sinh, nhiều phụ nữ Do thái mơ ước địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Trong khi đó một cô gái quê đã đính hôn nhưng khấn hứa giữ mình đồng trinh, thì lại được chọn làm mẹ Đấng cứu thế.
Và như vậy thì việc chọn trinh nữ Maria để làm mẹ Đấng cứu thế là để làm trọn lời tiên tri Isaiah đã loan báo: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, và sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ được gọi là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng chúng ta (Is 7,14)
Còn cha nuôi của Chúa tuy là bác thợ mộc tầm thường, nhưng thuộc dòng dõi Đa-vít. Thánh Giuse còn là một người công chính, đầy lòng tin và có tinh thần trách nhiệm, biết lo săn sóc cho gia đình Thánh gia.
Lý do Chúa chọn sinh ra ở Bê-lem, một làng nhỏ bé thay vì sinh ra tại thủ đô Giê-ru-sa-lem cũng là để ứng nghiệm lời tiên tri: Hỡi Bê-lem, ngươi nhỏ bé nhất trong trăm ngàn phần đất Giu-đa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, Đấng cứu tinh nhân loại (Mk 5,11). Ngày nay vẫn nhỏ bé, nhưng đã trở thành nơi thánh địa và thân yêu của hàng triệu người Ki-tô giáo. Nếu có dịp đi thăm viếng Bê-lem, nhóm của bạn có thể tụ họp để hát lên bài Giáng sinh hầu gợi lên bầu khí sinh nhật.Chắc không ai thắc mắc khó chịu vì họ và bạn cùng đang ở trong nơi thánh. Người ta còn có thể hiệp ý với bạn trong tinh thần và trong lời cầu nguyện, nhất là nếu bạn hát bài mà người ta quen điệu nhạc như Đêm Thánh Vô Cùng chẳng hạn. Một sự tầm thường khác là những người đến mừng sinh nhật đầu tiên của Đấng cứu thế là các mục đồng tầm thường và chất phác. Chính trong những cái tầm thường tại Bê-lêm lại chứa đựng một mầu nhiệm cao siêu: Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người để cứu nhân độ thế. Chính vì thế mà thiên thần Chúa đã loan báo: Hôm nay, Chúa Ki-tô, Đấng Cứu thế đã sinh ra cho các ngươi trong thành David, và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các người sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt trong máng cỏ (Lc 2,11-12). Còn nơi lập nghiệp của Chúa cũng chỉ là phố nhỏ Nazareth để ứng nghiệm lời Thánh Kinh: Người sẽ được gọi là người Nazareth.
Như vậy, ta thấy đường lối của Chúa là đường lối tầm thường, bé nhỏ. Chúa chọn một cô gái tầm thường để làm mẹ, bác thợ mộc tầm thường để làm cha nuôi. Chúa chọn sinh ra nơi hang bò lừa tại làng nhỏ bé, sinh sống tại Nazareth nhỏ bé....
Như vậy là để người ta dễ tìm đến với Chúa. Như vậy để đi tìm Chúa, ta cũng phải tìm sống đường lối bé nhỏ hèn mọn của Chúa. Nếu không ta sẽ không tìm thấy Chúa. Chính chúa đã xác định cái đường lối của Người cho các môn đệ: ẪLạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã biểu lộ nhưng mầu nhiệm Nước trời cho những người khiêm tốn và hèn mọnỮ. (Mt 11,25)
lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ...- Lễ Đêm - Lm. Trọng Hương (Việt Nam) Lc 2:1-14
Đêm nay là "đêm thánh vô cùng". Cả hoàn vũ, từ đông sang tây, long trọng mừng biến cố lịch sử: GS-53
Đêm nay là "đêm thánh vô cùng". Cả hoàn vũ, từ đông sang tây, long trọng mừng biến cố lịch sử: Chúa Cứu Thế giáng sinh vào lúc mười hai giờ khuya.
Với tất cả cảm hứng thiêng liêng, Vị Cha Chung đã viết suy niệm dưới đây:
"Hãy hát khen Gia-vê một bài ca mới, lời ngợi ca Người từ mút cùng dương gian" (Is 42:10). Hãy hát lên, hỡi địa cầu! Hãy hát lên, vì ngươi đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tuyển chọn từ khắp cả vũ trụ! Và toàn thể vũ trụ đã được chung tuyển với ngươi. Hãy hát lên, hỡi địa cầu! "Trời hãy hoan vui, đất hãy nhảy mừng. Biển và muôn vật dư đầy, hãy gầm vang. Đồng ruộng và muôn vật trong đồng, hãy hân hoan. Cùng một trật hãy reo vui, hỡi tất cả cây rừng" (Tv 96:11-12).
Cả trái đất hãy qui tụ lại quanh nửa đêm độc nhất này. Uy quyền của muôn vật được tạo dựng hãy lên tiếng! Uy quyền hãy lên tiếng bằng ngôn ngữ loài người!
Đây, một người đã lên tiếng. Tên ông là Luca, thánh sử. Ông nói: "Khi hai người đang ở đó, bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ" (Lc 2:6-7). Đó là cách thức Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian thế nào.
Maria là hôn thê của Giuse, một thợ mộc ở Nazarét, thuộc nhà Đavít. Hài Nhi Kitô đã ra đời tại Bê-lem vì Maria và Giuse phải hành trình xuống đó để khai tên tuổi trong cuộc kiểm tra dân số do Hoàng đế Augustô truyền lệnh. Đó là những gì con người nói về sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế.
Cùng với loài người, sứ thần Thiên Chúa cũng lên tiếng. Sứ thần nói với các mục đồng trong đêm thâu Bê-lem, khi "vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng" (c. 9).
Sứ thần nói: "Anh em đừng sợ. Này ta báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ." (cc. 10-12)
Loài người và sứ thần Thiên Chúa lên tiếng về cùng một thực tại và chỉ về cùng một địa điểm: Chúa hạ sinh tại Bê-lem. (ĐGH Gioan-Phaolô II; Lift up Your Heart, trg. 319-320)
Ôi đêm mầu nhiệm vô cùng Giêsu Con Chúa thiên cung giáng trần Cứu người tội lỗi lầm than Ban hồng ân thánh bình an diệu vời.
Mỗi một Mùa Noel tới thì trên thị trường và trong cuộc sống người ta lại có thêm sáng kiến về: GS-54
Mỗi một Mùa Noel tới thì trên thị trường và trong cuộc sống người ta lại có thêm sáng kiến về hàng hóa, trò chơi, yến tiệc để (gọi là) mừng Lễ Giáng Sinh. Mừng Lễ càng lớn, người ta càng cần nhiều tiếng động, nhiều ánh sáng và mầu sắc, nhiều quần áo thời trang, nhiều rượu bia và lạc thú (cả lành mạnh lẫn không lành mạnh). Mừng Lễ Giáng Sinh như thế có phù hợp với ý nghĩa tôn giáo của Biến Cố và cũng là Mầu Nhiệm Thiên Chúa đã nhập thể làm người và giáng sinh làm một trẻ thơ không? Đáng lẽ câu hỏi này phải được tất cả các Ki-tô hữu đặt ra, nhưng có lẽ chỉ có một ít người quan tâm mà thôi. Thật đáng tiếc!
Ý NGHĨA TÔN GIÁO CỦA LỄ GIÁNG SINH
Ý nghĩa tôn giáo của Lễ Giáng Sinh rất sâu sắc và phong phú. Muốn hiểu được ý nghĩa ấy, thì trước khi khám phá nguồn Mặc Khải Ki-tô giáo, chúng ta nên nhìn vào chiều sâu của các tôn giáo lớn của nhân loại.
1. Điểm chung của các tôn giáo lớn của nhân loại:
Các tôn giáo có tính siêu hình đều mang nặng dấu ấn của loài người khát khao được đến gần và gặp gỡ Thần Linh, thậm chí được trở nên Thần Linh. Đồng thời các tôn giáo ấy đều cùng có một cảm nghiệm rõ rệt về tính siêu việt, cao vời, "không thể với tới được" (in-accessible) của Thần Linh. Nói một cách đơn giản là cùng một lúc, người có tín ngưỡng đều cảm nghiệm rằng Thần Linh vừa xa cách vừa gần gũi với con người. Vì thế mà mọi tôn giáo đều đặt ra vấn đề: "Làm sao Thần linh và con người có thể gặp nhau mà Thần linh vẫn là Thần Linh và con người vẫn là con người"?
2. Mặc khải Ki-tô giáo:
2.1. Thiên Chúa làm người và làm một trẻ thơ:
Mặc khải Ki-tô giáo đã có lời đáp tuyệt vời cho vấn đề trên. Thiên Chúa của Ki-tô giáo là một Đấng Thiên Chúa siêu việt, thượng trí vô song, quyền năng vô hạn. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa đầy yêu thương và gần gũi với con người. Ngài là chính Tình Yêu . Ngài đã đi vào lịch sử của loài người, không chỉ qua công trình Tạo Dựng, mà còn qua công trình Cứu Độ. Ngài là Em-ma-nu-el nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi". Chẳng những Ngài đã đáp lại khát vọng thâm sâu nhất của con người là khao khát tiếp cận, gặp gỡ Ngài, mà Ngài còn đến "cư ngụ" giữa loài người, thậm chí trở nên một người trong loài người. Người ta có thể biết rất nhiều điều về Ngài, chẳng hạn Ngài là con cái của ai, sinh ra và lớn lên ở đâu, nhận thức về chính bản thân mình như thế nào, biết trước các sự kiện sắp xẩy ra cho mình và cho tương lai của dân tộc mình. Tất cả những yếu tố ấy làm nên Sự Kiện (có tính lịch sử ) và Mầu Nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người tức là Sự Kiện và Mầu Nhiệm "Lời-đã-thành-xác-phàm" nơi Đức Giê-su Na-gia-rét. Sự kiện Thiên Chúa nhập thể làm người ấy mãi mãi vẫn là một Mầu Nhiệm đối với trí tuệ giới hạn của chúng ta. Chúng ta có quyền và có trách nhiệm phải tìm cách hiểu Mầu Nhiệm ấy.
2.2 Tại sao Thiên Chúa làm người và làm một trẻ thơ?
Khi đem Sự Kiện và Mầu Nhiệm Đức Giê-su chết trên Thập Gía ra nghiên cứu trong cuốn sách "Thiên Chúa bị đóng đinh thập gía" (Dieu Cruxifié), nhà thần học Tin lành người Đức nổi tiếng, J. Moltmann, đã đặt câu hỏi này: "Thập Giá của Đức Giê-su có ý nghĩa gì đối với Thiên Chúa và đối với con người"? Ở đây chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi tương tự : "Tại sao Thiên Chúa lại nhập thể làm người? Tại sao Thiên Chúa lại làm một trẻ thơ? Thiên Chúa có cần phải hành động như vậy không? Việc Thiên Chúa nhập thể làm người và làm một trẻ thơ có ý nghĩa gì đối với chính Thiên Chúa và đối với loài người chúng ta"? Tìm cách giải đáp các câu hỏi trên là chúng ta tìm cách tiếp cận Mầu Nhiệm Nhập Thể và Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Thiên Chúa!
2.2.1Thiên Chúa làm người và làm một trẻ thơ vì Thiên Chúa.
Trước khi mang ý nghĩa Cứu Độ đối với nhân loại, thì cây Thập Giá của Đức Giê-su đã mang nặng ý nghĩa là một mặc khải về chính Thiên Chúa Cha. Thật vậy Thiên Chúa muốn chứng tỏ với loài người là Ngài yêu thương họ như thế nào? Ngài yêu thương họ đến mức nào? Nhưng không chỉ có thế, vì nơi Thập Gía của Đức Giê-su, Thiên Chúa Cha quyền năng, hùng mạnh đã tự mặc khải mình là một Thiên Chúa yếu ớt, bất lực! Cũng thế nơi Đức Giêsu Na-gia-rét và nhất là nơi Hài Nhi Giê-su ở Bê-lem, Thiên Chúa toàn trí, toàn năng cũng muốn tự bộc lộ mình là một Thiên Chúa yếu ớt, bé nhỏ, mỏng manh, không quyền lực, không sức mạnh trong tay, cần được che chở, bảo vệ cũng như cần được chăm sóc nuôi dưỡng. Ngài đã làm người và làm một trẻ thơ là để yêu thương, để hoà đồng, đề đồng hóa với những kẻ bé mọn nhất.
2.2.2 Thiên Chúa làm người và làm một trẻ thơ vì loài người chúng ta...
Khi suy niệm về Chúa Giê-su sinh ra trong hang bò lừa tại Bê-lem và sinh sống tại Na-gia-rét như một người thợ nề kiêm thợ mộc (charpentier), cha Charles de Foucauld đã cho rằng: Sở dĩ Thiên Chúa chọn nếp sống tự hạ, chôn vùi, ẩn dật như vậy là vì Thiên Chúa muốn không ai phải mặc cảm với Ngài. Ai cũng có thể thấy rằng hoàn cảnh ra đời và sinh sống của mình rất gần với hoàn cảnh ra đời và sinh sống của Ngài, thậm chí rất nhiều người thấy rằng hoàn cảnh ra đời và sinh sống của mình còn "khá hơn, tốt hơn" hoàn cảnh của Ngài. Nếu Ngài sinh ra trong hàng tư tế, luật sĩ, và chào đời trong lầu đài vua chúa quan quyền, thì rất nhiều người trong nhân loại sẽ thấy có khoảng cách lớn lao giữa Ngài và họ. Họ sẽ không thoải mái khi nghĩ về Ngài và khi đến với Ngài. Cha Foucauld kết luận: Thiên Chúa nhập thể làm người và làm một trẻ thơ như thế là Ngài đã chọn một kiếp sống mà không ai có thể tranh được với Ngài, vì kiếp sống ấy tự nhiên chẳng ai muốn có.
Thánh Phao-lô cũng suy nghĩ rất nhiều về Mầu Nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài kết luận rằng Thiên Chúa muốn trở nên "hoàn toàn giống như chúng ta, trừ tội lỗi" nghĩa là trừ việc Ngài không có tội, không thể phạm tội (vì Ngài là Đấng Cực Thánh).... Còn trong Phúc Am (xem Mt 25) thì chính Đức Giê-su đồng hóa mình với những người bé mọn nhất để mọi người có thể gặp gỡ, tiếp xúc, phục vụ Ngài. Bằng ngôn ngữ đương đại, chúng ta có thể nói rằng:
Thiên Chúa làm người vì trong thế giới loài người vẫn còn nhiều người không được sống cho ra người:
Thật vậy trong các xã hội con người ngày hôm nay, vẫn còn không biết bao triệu người sống không ra sống: không nhà ở, không việc làm, không được học hành, không được tôn trọng phẩm giá làm người, không có những điều kiện sơ đẳng và tối thiểu để sống kiếp người. Tệ hơn nữa họ còn bị bóc lột sức lao động, bóc lột phẩm giá làm người.
Thiên Chúa làm một trẻ thơ vì trong thế giới loài người vẫn còn biết bao trẻ thơ không có tuổi thơ:
Chiến tranh, giặc gĩa, thiên tai, đói nghèo triền miên khiến bao trẻ thơ không hề được hưởng niềm vui tuổi thơ của mình: không có miếng cơm manh áo, không có nhà trường nhà thương, không được yêu thương chăm sóc tôn trọng. Tệ hơn nữa là "nền kỹ nghệ khai thác lạc thú tính dục" đã biến không biết bao nhiêu trẻ thơ và thanh, thiếu niên thành "đồ chơi", thành "dụng cụ giải trí" đáp ứng nhu cầu thấp hèn của một số người.
Trong bối cảnh ấy, Mầu Nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người và làm một trẻ thơ mang một ý nghĩa rất hiện sinh và sâu sắc: Thiên Chúa đã trở nên một người nghèo, một đứa trẻ và đứng về phía người nghèo (nghèo về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị, phẩm giá, tiếng nói, chỗ đứng trong xã hội, quyền sống). Do đó Lễ Giáng Sinh là lời tuyên dương giá trị linh thánh và bất khả xâm phạm của con người trong tư cách là con người. Đồng thời Lễ Giáng Sinh là bản cáo trạng buộc tội những kẻ chỉ biết sống ích kỷ, không biết chia sẻ, giúp đỡ tha nhân. Lễ Giáng Sinh là bản án dành cho những kẻ đối xử bất công, theo đuổi chính sách đàn áp, chủ trương bóc lột anh em mình, dù dưới bất cứ hình thức nào. Cuối cùng, Lễ Giáng Sinh là lời mời gọi và là tiếng đòi hỏi mỗi người chúng ta "chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo (Option préférentielle pour les pauvres)" mà Hội Thánh hôm nay - nhất là Hội Thánh tại Mỹ châu La Tinh và Á châu - đang quyết tâm thực hiện.
Thiên Chúa làm người và làm một trẻ thơ vì loài người cần sống như trẻ thơ, cần đi vào con đường thơ ấu thiêng liêng để gặp được Thiên Chúa.
Đức Giê-su đã hơn một lần tuyên bố "Nước Trời thuộc về các trẻ thơ và những người giống như chúng' (xem Mc 10, 14; Lc 18, 16; Mt 18, 3). Thế có nghĩa là muốn vào Nước Thiên Chúa, muốn thừa hưởng Nước ấy thì chúng ta phải có tinh thần trẻ thơ, phải đi vào con đường thơ ấu thiêng liêng. Sống như trẻ thơ hay đi vào con đường thơ ấu thiêng liêng là sống đơn sơ, hiền lành, khiêm nhường, trắng trong; là sống tin yêu, phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã bắc sẵn cho chúng ta một cái cầu: là Đấng cao sang, siêu việt con người không thể với tới được, nay Thiên Chúa đã làm người và thành một trẻ thơ để chúng ta có thể dễ dàng gặp Ngài. Muốn gặp Ngài, chúng ta chỉ còn việc đi tới đầu cầu bên này tức là đi vào con đường tự hạ, tự nghèo hóa, tự trẻ thơ hóa.
CÁCH MỪNG LỄ GIÁNG SINH ĐÚNG Ý & ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA NHẤT
Hài Nhi Giê-su đã sinh ra trong hang bò lừa ngoài cánh đồng, chứ không phải trong nhà trọ của thị trấn Bê-Lem nhỏ bé, càng không phải trong cung điện của vua chúa quan quyền! Những người đầu tiên được diễm phúc gặp Chúa Hài Nhi cũng không phải là các thượng tế hay các kinh sư, luật sĩ mà là những người chăn chiên chăn bò, sống ngoài lề xã hội và bị tôn giáo Do Thái thời bấy giờ khinh miệt. Ba nhà chiêm tinh Phương Đông được ngôi sao báo hiệu đi tìm "Vua dân Do Thái mới sinh ra" cũng không phải là thuộc dòng giống Is-ra-en, càng không thuộc chi tộc Lê-vi hay hàng ngũ các kinh sư, luật sĩ của Đền Thờ! Thiên Chúa đã đến trần gian để đưa những người ở xa, ở ngoài vào gần, vào trong và cảnh tỉnh những người đang ở gần, ở trong coi chừng sẽ bị đẩy ra xa, ra ngoài thế giới của Thiên Chúa!
Vì thế mà chúng ta phải nhìn lại cách chúng ta và người chung quanh vẫn quen mừng Lễ Giáng Sinh xem có phù hợp với ý nghĩa của Lễ ấy không: An chơi phung phí hay trác táng chắc chắn không thể có chỗ trong chương trình mừng Noel rồi ! Tiệc tùng linh đình và mua sắm sang trọng cũng không hợp tí nào với ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh. Ngay cả lễ nghi long trọng, đèn hoa rực rỡ cũng chưa phải là những điều cốt yếu.
Mừng lễ Giáng Sinh đúng ý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất là chúng ta thể hiện lòng yêu thương, kính trọng, đề cao, bênh vực con người, nhất là những con người bé mọn, những người bị thiệt thòi, bị kỳ thị khinh miệt, bị đàn áp bóc lột, bị khai trừ và gạt ra ngoài lề xã hội, bị xóa sổ khỏi cuộc sống. Và một cách cụ thể, chúng ta có những dấn thân nhằm thay đổi và thăng tiến cuộc sống của những con người ấy trong mọi lãnh vực kinh tế xã hội văn hóa chính trị tôn giáo của họ.
- Lm Trọng Hương (Việt Nam)- Lễ Ban Ngày Ga 1:1-18
Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian, và chiếu soi mọi người.
Phúc Âm Gioan không nói gì cụ thể về việc Đức Giêsu mở mắt chào đời, nhưng lời tựa huy hoàng lộng: GS-55
Phúc Âm Gioan không nói gì cụ thể về việc Đức Giêsu mở mắt chào đời, nhưng lời tựa huy hoàng lộng lẫy cho tác phẩm thứ tư đã nói rất nhiều về biến cố trọng đại ấy. Ở đó, chúng ta đọc thấy rằng "ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng" (c. 5).
Không có ánh sáng Đức Kitô, chúng ta phải phấn đấu trong bóng tối thế gian. Không có ánh sáng ấy, chúng ta phải hoặc là bỏ cuộc trong tuyệt vọng, hoặc là né tránh không ngừng nghỉ và vô ích, sự phù phiếm tối thượng của cuộc đời. Chúng ta sợ hãi bóng tối, nhưng chúng ta bất lực tiêu diệt nó. Nay ánh sáng đã tới, và chúng ta có thể thấy đường lối mình đi.
Gioan tuyên bố điểm cốt tủy: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người ... đầy tràn ân sủng và sự thật" (c. 14). Đức Kitô là ân sủng Thiên Chúa cho chúng ta. Đức Kitô tự do hiến tặng tình thương Thiên Chúa, tình thương mà chúng ta không bao giờ có thể xứng đáng lãnh nhận do sức riêng mình, và tình thương kéo chúng ta ra khỏi nỗi tuyệt vọng của mình. Đức Kitô có thể là ân sủng Thiên Chúa cho chúng ta, vì Đức Kitô cũng là sự thật về Thiên Chúa. Đức Kitô chính là Thiên Chúa đích thật là ai và là gì (Christ is who and what God really is). Bây giờ chúng ta được biết. Bây giờ bóng tối sự dốt nát và sợ hãi của chúng ta đã bị bẻ gẫy.
Sự thật cốt lõi về sự sống phải xuất hiện trong hình thể con người hầu đụng chạm chúng ta. Thiên Chúa không thể ở nơi xa xăm hay trong lý thuyết để thâm nhập vào cõi lòng sâu thẳm chúng ta. Ý nghĩa chủ yếu về Thiên Chúa, Lời (Logos), cách nào đó phải hiện diện trong xác phàm, bằng không chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được Người. Vào dịp Giáng Sinh, chúng ta cử hành sự hiện diện thật sự của Thiên Chúa cho chúng ta trong Đức Kitô. (J. Philip Wogaman; 1998, The Upper Room Disciplines)
Ngôi Lời mặc lấy xác phàm Hạ mình cư ngụ âm thầm trong con Con tri ân Chúa hết lòng Nô-en thắm đượm trinh trong Tình Ngài.
1. Tình yêu Thiên Chúa có một hình thù cụ thể là Đức Kitô
Thiên Chúa là Cha là Mẹ chúng ta, yêu thương chúng ta đến độ đã sai Đức Giêsu Kitô, người con yêu: GS-56
Thiên Chúa là Cha là Mẹ chúng ta, yêu thương chúng ta đến độ đã sai Đức Giêsu Kitô, người con yêu duy nhất của Ngài xuống thế làm người (xx Ga 3, 16), chung sống với loài người, để cứu độ loài người.
Trong mùa Giáng sinh, chúng ta mừng mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống làm người. Tin Mừng hôm nay (Ga 1, 1-5. 9-14) gọi Đức Kitô là Ngôi Lời. Đó là một khái niệm trừu tượng, khó hiểu, làm hao tốn biết bao giấy mực của các nhà chuyên môn. Nhưng tôi, tôi hiểu một cách rất đơn giản như sau: Thiên Chúa là Cha Mẹ. Loài người là con cái. Ngài yêu thương loài người. Và khi yêu, người ta có NHU CẦU phải nói cho người mình yêu biết rằng là mình đang yêu họ. Đôi khi rất thầm kín, và đôi khi cũng rất công khai. (Chính vì thế mà đôi khi chúng ta thấy trên các tường vách của thành phố, hoặc trên những thành cầu của xa lộ một hàng chữ viết run run, như "Valentine, je t'aime". Những câu tuyên ngôn ngắn gọn mang nội dung như thế đã có từ thời ông Ađam bà Evà, và sẽ còn mãi mãi cho đến ngày tận thế).
Cũng tương tự như thế, để diễn tả tình yêu dành cho loài người một cách công khai, Thiên Chúa đã sai Đức Kitô hạ sinh xuống làm người. Tôi hiểu, trong ý nghiã đó mà Tin Mừng theo Thánh Gioan đã gọi Đức Kitô là Ngôi Lời. Nghiã là: Đức Kitô là lời nói mà Thiên Chúa đã dùng để nói với loài người. Lời nói yêu thương. Kể từ khi Đức Kitô xuống thế làm người, lời nói yêu thương đó không còn là một lời nói suông, nhưng đã được cụ thể hóa trong hình thù của Đức Kitô. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người - từ đó - có một hình thù rất cụ thể là Đức Kitô. Lễ Giáng sinh của Đức Kitô vì thế được gọi là lễ của tình yêu.
2. Tình yêu của chúng ta cũng cần có một hình hài cụ thể
Cách thức Thiên Chúa dùng để biểu lộ tình yêu của Ngài dành cho chúng ta như trên phải trở thành mẫu mực của tình yêu mà chúng ta dành cho Chúa và dành cho nhau. Nghiã là tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và dành cho nhau cũng cần có một hình thù cụ thể nào đó.
Chúng ta không thể nói yêu Chúa, mà không có gì cụ thể đi kèm. Chúng ta cũng không thể nói yêu ai, mà không có gì cụ thể hơn nữa. Đức Kitô có lần đã đặt một câu hỏi với những kẻ theo Ngài như sau: "Tại sao các con cứ NÓI 'Lạy Chúa, lạy Chúa' với Thầy, mà không chịu LÀM theo những điều Thầy dạy?" (xx 6, 46). Ngài cho biết thêm: "Không phải bất cứ ai NÓI 'Lạy Chúa, Lạy Chúa' là vào được Nước Trời" (xx Mt 7, 21). Rồi Ngài khẳng định: "Chỉ những ai LÀM theo ý muốn Thiên Chúa, mới vào được nước đó thôi" (xx Mt 7, 22).
Cho nên yếu tố quyết định không phải là ở lời nói, nhưng là ở việc làm. Đọc kinh, đi lễ, xưng tội, rước lễ... là việc tốt, nhưng chưa đủ để Đức Kitô xếp chúng ta vào hạng người đạo đức. Đạo đức còn hệ tại ở việc làm: làm theo thánh ý Thiên Chúa. Chúa muốn gì, chúng ta làm đó. Chúa dạy gì, chúng ta theo đó. Giữ đạo mà thôi chưa đủ, cần phải SỐNG đạo nữa. Sau khi đi nhà thờ về, chúng ta còn cần phải tiếp tục sống đạo ngoài nhà thờ nữa, từng ngày và trong mọi hoàn của đời sống chúng ta. Đó là điều chúng ta cần làm, để biểu lộ tình yêu cụ thể của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Đó là đối với Chúa. Còn đối với nhau, tình yêu của chúng ta dành cho nhau cũng cần có một hình thù cụ thể nào đó. Thư của Thánh Giacôbê Tông đồ quả quyết rằng: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (xx 2, 17). Lá thư đó đã đưa ra một thí dụ dễ hiểu như sau: "Nếu có người nào đó thiếu ăn, thiếu mặc đến xin anh chị em, mà anh chị em chỉ nói với họ rằng 'hãy đi bình an, hãy ăn cho no, hãy mặc cho ấm', rồi không cho họ một thứ gì, thử hỏi lời chúc ấy có ích lợi gì?" (xx 2, 15-16).
Trong mùa Giáng sinh, chúng ta cũng thường chúc nhau. Những lời cầu chúc tốt đẹp nhất và thánh thiện nhất. Nhưng nếu chúc người một Giáng sinh vui, mà chúng ta không làm một cái gì cụ thể cho họ vui, thì lời chúc ấy có ích lợi gì. Nếu chúc người một Giáng sinh an bình, mà chúng ta vẫn tiếp tục xích mích với họ, không làm một cái gì cụ thể để tái lập hòa bình với họ, thì lời chúc ấy có ích lợi gì. Nếu chúc người một Giáng sinh yêu thương, hợp nhất, mà chúng ta vẫn tiếp tục giận hờn, chia rẽ, không làm một cái gì cụ thể để giao hòa, kết hợp với họ, thì lời chúc ấy có ích lợi gì, v. v.
Từ những lời chúc chúng ta bước sang đời sống thực tế. Thí dụ, nếu có ai đó nói rằng họ dư thiện chí trong việc xây dựng cộng đoàn - xây dựng Nước Chúa ở trần gian - mà luôn tìm cách tránh mặt, hoặc không hề cộng tác làm một bất cứ một việc gì cụ thể, thì thiện chí ấy có ích lợi gì.
Rồi từ đời sống cộng đoàn, chúng ta bước sang đời sống riêng tư hoặc gia đình. Thí dụ, nếu có ai đó nói rằng họ yêu vợ (yêu chồng) mình, mà không làm thêm cái gì, thì tình yêu ấy chưa có hình thù cụ thể. Nếu có ai đó nói rằng họ hiếu thảo với cha mẹ mình, mà không làm thêm cái gì, thì sự hiếu thảo ấy chưa có hình thù cụ thể. Nếu có ai nói rằng họ yêu con yêu cháu, mà không làm thêm cái gì, thì tình yêu đó chưa có hình thù cụ thể...
Tôi biết, có một mẹ già bị cô con gái lớn của mình trách rằng bà đã không thương cô. Bà hỏi lại: tại sao con biết mẹ không thương con? Cô trả lời: vì cả đời, mẹ chưa hôn con được một cái nào! (...)
Lời trách móc ấy kể cũng quá đáng, đối với một bà mẹ Việt Nam, ảnh hưởng một nền văn hóa không quen biểu lộ tình cảm ra ngoài. Nhưng tôi thấy quả thực người con ấy cũng cần cảm được một cái gì cụ thể, cá biệt nơi tình thương của mẹ, hơn là những hy sinh không tên không tuổi, rất chung chung như nấu cơm, giặt giũ, dọn giường, v.v... mà hằng ngày mẹ cô vẫn làm cho cô. Tình cảm kín đáo quá cũng là một thiếu sót. Và tình yêu không hình thù cụ thể là một tình yêu vô tình, vô vị.
Anh Chị Em thân mến!
Trong Thánh lễ này và trong mùa Giáng sinh năm nay, chúng ta hãy cầu nguyện lẫn cho nhau, để tình yêu chúng ta dành cho Chúa và dành cho nhau, luôn có được một hình thù cụ thể nào đó. Thiên Chúa là Đấng đã mặc cho tình yêu của Ngài một hình thù cụ thể là Đức Kitô, Ngài cũng có thể mặc cho tình yêu của chúng ta dành cho Ngài và dành cho nhau - chiều nay và suốt đời - một hình thù cụ thể tương xứng. Vì Ngài là Cha là Mẹ chúng ta, còn chúng ta là con cái của Ngài. Amen.
Đoạn Tin Mừng Luca mô tả hoàn cảnh, thời gian Con Thiên Chúa giáng trần : Sinh ra trong cảnh nghèo: GS-57
Đoạn Tin Mừng Luca mô tả hoàn cảnh, thời gian Con Thiên Chúa giáng trần : Sinh ra trong cảnh nghèo hèn... Nhưng lại là Thiên Chúa quyền năng vẫn có từ trước muôn đời. Cảnh người đời hất hủi Đấng Cứu Thế trái ngược với cảnh thiên quốc vui mừng hân hoan : "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
Tuy Đấng Cứu Thế sinh ra trong khiêm hạ, sẵn sàng vâng lệnh của một ông vua Augustô ngoại đạo kiêu hãnh, nhưng vương quốc Nước Trời khiêm hạ của Ngài thiết lập sẽ ngày một lớn lên bao phủ khắp hoàn cầu, trong khi vương quốc của các ông vua kiêu căng sẽ bị rơi vào quên lãng. Chúa đã đến ở giữa những kẻ nghèo hèn khổ cực để chia sẻ tình thương an ủi và ban niềm vui ơn cứu độ cho họ.
CHÚ THÍCH :
-Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi (Lc 2,1-3) :
+ Au-gút-tô : Làm hoàng đế Rô-ma từ năm 29 trước Công Nguyên (CN), đến năm 14 sau CN.
+ Cuộc kiểm tra dân số đầu tiên thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a : Có lẽ chi tiết này chỉ có tính cách gỉa định của tác giả Luca, nhằm mục đích chứng minh Đức Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử, chứ không chỉ là một nhân vật huyền thoại.
-Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem miền Giu-dê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ong lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông, là bà Ma-ri-a lúc ấy đang có thai (Lc 2,4-5) :
+ Lên thành Bê-lem miền Giu-đê là "hành vua Đa-vít" : Trong Cựu Ước, "Thành Vua Đa-vít" thường ám chỉ thành Giê-ru-sa-lem (x. 2 Sm 5,7.9; Is 22,9-10). Nhưng ở đây , khi gán tước hiệu "Thành Vua Đa-vít" cho Bê-lem, ba tác giả Tin Mừng (x. Mt 2,6; Ga 7,42) đã dựa vào lời tuyên sấm của Mi-kha về quê hương của Đấng Cứu Thế là Bêlem Ep-ra-tha (x.Mk 5,1).
+ "Người đã đính hôn" với ông là bà Ma-ri-a đang có thai : Câu này nhắc lại việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho trinh nữ Maria (x. Lc 1,27).
-Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ (Lc 2,6-7) :
+ Bà sinh con trai đầu lòng : Thực ra, sinh "Con đầu lòng" chỉ có nghĩa là "đứa con thứ nhất, con đầu tiên", không nhất thiết sẽ có thêm các người con thứ kế tiếp. Sở dĩ Luca đề cập đến "con trai đầu lòng" ở đây là chỉ muốn nhắc lại điều luật Môi-sê qui định phải dâng "các con đầu lòng" vì chúng thuộc về Đức Chúa (x. Xh 13,2), và cách thức cha mẹ phải làm để chuộc lại con , sắp được hai ông bà Giu-se Ma-ri-a thực hiện đối với hài nhi Giê-su (x. Lc 2,23; Xh 13,12-13).
+ Máng cỏ : Loại máng ăn dành riêng cho bò chiên trong chuồng ăn cỏ. Sau khi sinh con, bà Ma-ri-a đã dùng tã là một loại khăn bằng vải sô để quấn bọc và đặt con nằm trong chiếc nôi hôi hám là máng ăn của súc vật. Mấy chi tiết này được mô tả để diễn tả cảnh cơ cực của hài nhi Cứu Thế.
+ Không tìm được chỗ trong nhà trọ : Các chủ quán từ chối không cho trọ phần vì dáng vẻ nghèo khó quê mùa của hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, phần vì họ sợ phụ nữ mang bầu sẽ mang lại sự xui xẻo cho công việc làm ăn kinh doanh của họ !
THẮC MẮC : Phải chăng bà Maria chỉ đồng trinh trước khi thụ thai Đấng Cứu Thế (x. Is 7,14), rồi sau khi đã sinh "con trai đầu lòng" (x. Lc 2,6) thì sống đời vợ chồng bình thường với ông Giu-se, và từ đó đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác (x. Mt 13,55-56) ?
TRẢ LỜI :
+ Thực ra, Tin Mừng Mát-thêu có đề cập đến một số chi tiết khiến có người hiểu lầm về sự đồng trinh của Đức Maria : Chẳng hạn : trong câu chuyện truyền tin cho Giuse, Mát-thêu viết : "Khi tỉnh giấc mộng, ông Giu-se đã làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ong không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su" (Mt 1,24-25) ; Khi Chúa Giê-su ra giảng đạo , có lần Ngài trở về thăm quê nhà Na-da-rét và giảng ở trong hội đường, dân làng tuy thán phục về những lời từ miệng Ngài thốt ra, nhưng họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, bởi họ nghĩ rằng họ đã biết rõ nguồn gốc của Ngài : cha mẹ Ngài là hai ông bà Giu-se và Ma-ri- là người lao động chân tay bình thường, anh em của Ngài là các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Simon, Giu-đa và chị em Ngài hiện vẫn đang ở cùng làng với họ (x. Mt 13,55-56). Rồi mat-thêu cũng ghi sự kiện có "Mẹ và anh em của Chúa" đến thăm viếng và muốn gặp Ngài khi Ngài đang giảng đạo (x.Mt 12,46-47).
+ "Cho đến khi " : câu Mt 1,24-25 nên được diễn giải như sau : Khi tỉnh giấc, ông Giu-se đã thi hành 3 lệnh truyền của sứ thần trong giấc mộng : Một là ông đã tổ chức lễ cưới chính thức để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ; Hai là ông không ăn ở với Maria như vợ chồng vì Maria đã được thánh hiến cho Chúa qua việc thụ thai đặc biệt bởi quyền năng Thánh Thần; Ba là cho đến khi Maria sinh con thì ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su để công nhận trẻ Giê-su làm con chính thức của mình (x. Lc 3,23). Tin Mừng không viết : hai ông bà đã không ăn ở vợ chồng cho đến khi Maria sinh con thì lại ăn ở với nhau như có người lầm tưởng!
+ Còn về "anh em và chị em của Chúa Giê-su" : Trong Tin Mừng Mát-thêu , các từ "<B>anh em ông, chị em ôngỂ (x. Mt 13,55-56) hay "mẹ và anh em của Người " (x. Mt 12,46-47) chỉ là các anh chị em bà con mà thôi . Vì Chúa Giêsu là "con trai đầu lòng", là người con thứ nhất, nên nếu Đức Maria có thêm các người con khác thì họ phải được gọi là "các em trai " và "các em gái " thay vì được gọi chung chung là "anh em" và "chị em" như ở đây. Hơn nữa bằng chứng quan trọng nhất cho thấy Đức Maria chỉ có một con trai duy nhất là : Khi Chúa Giêsu sắp chết trên thập giá, đã trối Đức Mẹ làm mẹ của môn đệ Gio-an và trối Gio-an làm con của Đức Mẹ. Sau đó Tin Mừng viết : "Kể từ giờ đó, người môn đệ kia đã rước bà về nhà mình" (Ga 19,26-27). Nếu Đức Maria còn có thêm nhiều con khác ngoài Chúa Giêsu, thì không bao giờ họ lại đồng ý cho Gioan chỉ là người dưng được quyền đón Mẹ của họ về nhà phụng dưỡng !
-Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đoàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng (Lc 2,8-9) :
+ Người chăn chiên : Là những người bị người Do thái coi thường vì sống nay đây mai đó, không thể chu toàn luật pháp Môi-sê. Họ tượng trưng cho những người nghèo hèn bé nhỏ được Thiên Chúa đoái thương và hứa ban Ơn Cứu Độ.
+ Vinh quang của Chúa : một kiểu nói trong Kinh Thánh để chỉ sự oai phong của mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu độ. Chúa Giêsu sẽ chiếu tỏa ánh vinh quang đó khi biến hình trên núi cao (x. Lc 9,32), sau khi sống lại (x. Lc 24,26), và trong ngày Tận Thế (x. Lc 9,26; 21,27).
-Nhưng sứ thần bảo họ : "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân ; Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ." (Lc 2,10-12) :
+ Đấng Cứu Độ : Là một danh hiệu của Thiên Chúa (x. Lc 1,47). Ở đây danh hiệu này được áp dụng cho Chúa Giêsu.
+ Đấng Ki-tô Đức Chúa : Khi gán cho Chúa Giêsu danh hiệu Đấng Ki-tô Đức Chúa, Lu-ca có ý nói Ngài là Đấng Mêsi-a. Quyền Chúa Tể và Vương Đế của Ngài được chính Thiên Chúa trao ban (x. Cv 2,36).
- Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng : "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2,13-14) :
+ Bình an dưới thế : Lời của các sứ thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa cho thấy sứ mệnh của Hài Nhi Cứu Thế là làm vinh danh cho Thiên Chúa và thiết lập một nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9,5-6); Mk 5,4).
+ "Cho loài người Chúa thương" : Am chỉ những người được Chúa ưu đãi cách riêng, hay dân riêng của Chúa. Nhưng đúng hơn ám chỉ hết mọi người, vì mọi người đều là con Chúa và đều được Chúa yêu thương.
II.HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) DẤU CHỈ CỦA ĐẤNG THIÊN SAI LÀ : "MỘT TRẺ SƠ SINH BỌC TÃ, NẰM TRONG MÁNG CỎ" (x. Lc 2,12)
-Người đời thường quý trọng sự giàu sang phú quý. Còn Con Thiên Chúa lại chọn sinh ra trong máng cỏ bò lừa ! Những người được Chúa mời gọi đón nhận Tin Mừng đầu tiên là những kẻ chăn chiên, những kẻ bị xã hội Do Thái khinh thường vì sống bên lề xã hội, không chu toàn các điều khoản chi tiết của luật Môi-sê. Ngài trở thành bạn của những kẻ bị người đời khinh chê ruồng bỏ như : phường đĩ điếm, bọn thu thuế, người tội lỗi, kẻ trộm cướp Ẩ và mời gọi : "<I>Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt11,28)
-Chồn cáo có >hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 8,20) : Chúa Giêsu đã chọn cuộc sống nghèo khó, đã chúc phúc cho những kẻ có tinh thần nghèo khó, đã trở thành người nghèo nhất để dễ tiếp cận, chia sẻ tình thương và ban ơn Cứu Độ cho họ. Còn chúng ta thì sao ? Trong mùa Giáng Sinh này, noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta sẽ làm gì để thực hành tinh thần nghèo khó của tám mối phúc trong cách ăn mặc, mua sắm đồ dùng, tổ chức đình đám và trang hoàng nhà cửa ? Ta phải làm gì để giới thiệu "Chúa chính là tình thương" cho những người nghèo đang sống gần bên chúng ta và chưa nhận biết Chúa ?
2) MÓN QUÀ GIÁNG SINH QUÝ NHẤT :
- Người ta tìm thấy trên bàn làm việc của một ông giám đốc xí nghiệp vừa từ trần một bức thư với nội dung như sau : "Thưa ông giám đốc, chiều nay tôi và cả gia đình tôi mới nhận được một tin vui là ông giám đốc đã nhận tôi vào làm công nhân trong nhà máy của ông. Tôi coi tin này là một món quà to lớn trong mùa Giáng Sinh năm nay. Vì từ hôm nay, vợ con tôi lại có cơm ăn áo mặc hàng ngày và có tiền để trang trải các khoản chi phí mà chúng tôi đang thiếu hụt. Tôi xin chân thành cám ơn ông giám đốc ". Bên dưới bức thư này có mấy dòng chữ của ông giám đốc mới qua đời như sau : "Đây quả là một món quà quý giá nhất mà tôi nhận được trong lễ Giáng Sinh năm nay. Tôi chắc sẽ không bao giờ quên được niềm vui lớn lao khi tôi nhận được món quà tinh thần này".
- Vào dịp lễ Giáng sinh, người ta thường thể hiện tình cảm quý mến đối với bạn bè và những người thân quen, bằng việc gửi đi những cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh. Buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh, các bậc cha mẹ thì thay cho ông già No-en để tặng thưởng quà cho những đứa con chăm ngoan của mình. Các người lãnh đạo thường tặng quà cho nhân viên, chủ nhà tặng quà cho các gia nhân giúp việc nhà... Còn chúng ta thì sao ? Trong mùa Giáng Sinh này, tôi sẽ tặng gì cho những người thân quen của tôi, nhất là những người già cả neo đơn, các bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị, các trẻ em mồ côi hay khuyết tật và những người đang lang thang đầu đường xó chợ ... ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu,
Cách đây 2000 năm, vào một đên đông lạnh giá, Chúa đã từ trời xuống trần gian trong sự âm thầm lặng lẽ, khi người người vẫn đang ngủ say. Chúa đến để trời đất được giao hoà, để nhân loại tội lỗi gặp được Thiên Chúa và được ơn tha tội. Chúa đến để mở ra cho nhân loại chúng con một con đường sống là con đường duy nhất dẫn đưa chúng con lên trời. Con đường đó là đạo Công Giáo. Chúa đến để mọi dân tộc và các quốc gia không còn thù nghịch và chém giết lẫn nhau, nhưng nhận ra mọi người đều là anh em, đều có một Cha chung là Thiên Chúa và phải thương mến nhau.
Chúa đến để nâng đỡ những "bàn tay mỏi mệt" , "những đầu gối rã rời", để ủi an những người buồn sầu thất vọng, những người đau khổ thể xác cũng như tâm hồn. Từ đây, nhờ quyền năng Chúa mà " Người mù sẽ được sáng mắt, kẻ què đi được, người phong cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại, và người nghèo được nghe rao giảng Tin Mừng" (Mt 11,5).
Tóm lại, Chúa đến để thiết lập một Nước Trời vĩnh cửu, một Trời Mới Đất Mới... " Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẵng còn tang tóc kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,1-4) - Xin cho chúng con được thêm lòng tin vào Chúa. Xin cho mỗi người chúng con sẵn sàng mở rộng cánh của tâm hồn để đón rước Chúa ngự vào lòng chúng con trong đêm Giáng Sinh này cũng như trong suốt cuộc đời chúng con. Vì, có Chúa là có bình an, niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
2) Lạy Mẹ Maria ,
Trong đêm Giáng Sinh, Mẹ cùng với thánh Giu-se đã lâm vào hoàn cảnh bơ vơ lạc lõng khi phải sinh con trong cảnh bần hàn cùng cực trong một chuồng chiên ở giữa cánh đồng Bê-lem lạnh giá. Tin Mừng ghi lại như sau : "Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ" (Lc 2,7).
Ôi ! Thật là trớ trêu : Ngôi Lời Thiên Chúa là "Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Người ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1,5.10-11).
- Lạy Mẹ Maria, hôm nay Giáng Sinh lại về. Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người quên ngủ, vui vẻ liên hoan ... Kìa, người lữ hành đã từng lỡ bước đêm xưa vẫn đang còn lỡ bước đêm nay, vì các chủ quán trọ năm xưa vẫn đang còn đo ! Giàu, chủ đón rước vào nhà hàng khách sạn. Nghèo, hãy theo gót Giuse Maria ra nằm vỉa hè công viên hoặc ở nơi đầu đường xó chợ !.
- Xin Mẹ giúp mỗi hội viên Thánh Mẫu chúng con biết nhìn thấy Hài Nhi Cứu Thế trong những người nghèo hèn, những bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang, những trẻ em lang thang bụi đời, những người già cô đơn không người chăm sóc...để chúng con thể hiện tình thương Chúa dạy đối với họ bằng những việc cụ thể như : thăm viếng và chia sẻ tình người, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ cho chính Chúa. Nhờ đó, chúng con xứng đáng trở thành những môn đệ đích thực của Chúa Giê-su và xứng đáng làm con cái của Mẹ.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Hôm nay mọi chú ý của chúng ta đều tập trung vào Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ thấp hèn nơi hang: GS-58
Hôm nay, mọi chú ý của chúng ta đều tập trung vào Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ thấp hèn nơi hang đá Bêlem. Chúng ta cũng không khỏi ngỡ ngàng kinh ngạc khi thấy Thiên Chúa đến với chúng ta trong hình hài một trẻ thơ yếu đuối, cha mẹ lại nghèo hèn bơ vơ chốn quê người, nay mai lại phải bôn tẩu kiếp tha hương nơi đất Ai cập. Phải chăng khi chọn sinh ra nơi cô liêu tă,m tối, xa cách chốn cung điện giầu sang quyền quí, Con Thiên Chúa muốn đảo ngược mọi thước đo tất cả những chuẩn mực danh vọng thành công của trần gian? Người trao cho chúng ta một sứ điệp rõ ràng dứt khoát, đó là từ nay chúng ta cần nhìn ra những vẻ đẹp của ân sủng và thiện hảo nơi những con người nghèo hèn nhất.
Những người đầu tiên đến chia sẻ niềm vui với Mẹ Maria và thánh Giuse ở vùng đất khiêm tốn ấy lại là những dân quê mộc mạc, những kẻ bên lề xã hội, những người mục đồng đang bảo vệ đàn vật qua đêm. Sự hiện diện của họ bên máng cỏ thực sự là một đảm bảo rằng Đức Kitô sinh ra là để dành cho những con người bình thường trong những công việc đời thường. Hơn nữa, người sẽ còn đứng bên những người đau yếu và tật nguyền, những kẻ sa cơ lỡ vận... bên lề xã hội.
Đón mừng lễ Giáng Sinh năm nay không phải chỉ là tưởng nhớ lại những biến cố đã xảy ra ở Bêlem vào một đêm ánh sao lung linh cách đây 2000 năm. Đây cũng còn là dịp nhắc nhở mỗi một người rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài đã sai Con Một của Ngài đến sống giữa chúng ta để cứu thoát chúng ta, tha thứ mọi tội lụy, và chỉ cho chúng ta con đường về quê trời.
Cùng chung cảnh ngộ thân phận làm người, Đức Chúa Giêsu phá bỏ mọi rào cản thần thiêng giữa thụ tạo và Đấng Tạo Hóa. Đến với chúng ta là một trẻ thơ, Người muốn gợi lên trong chúng ta tình yêu hơn là nỗi sợ hãi. Kể từ đây, Hài Nhi mới sinh sẽ là gạch nối sống động giữa chúng ta và Thiên Chúa; Thiên Chúa sẽ gần gũi với những ai rộng mở tâm hồn chào đón Ngài. Thiên Đàng nay hạ cố xuống trần gian, đem theo mọi phúc lành vô biên làm mềm lòng những trái tim cứng cõi nhất. Mọi đắng cay chua chát sẽ tan hoà trong tình cảm chúng ta dành cho Hài nhi Giêsu, Đấng sẽ đưa chúng ta tới một cuộc sống mới vượt xa mọi mong ước của con người.
Giáng Sinh không chỉ lôi cuốn chúng ta chú ý vào những việc Đức Chúa Giêsu đã làm khi Người cắm lều cư ngụ giữa chúng ta mà còn khiến chúng ta để ý tới những gì chúng ta phải làm một khi biết mình trở nên một thành viên trong gia đình của Thiên Chúa. Những hệ quả dẫn đến cuộc sống thường nhật của chúng ta thì thật là bao la bát ngát mênh mông trời biển. Từ chối kẻ già cả, khinh bỉ người nghèo khó, không mảy may nghĩ đến những người neo đơn thất nghiệp, tức là ngơ không nhận ra họ là những người mà Đức Kitô đã đồng hoá chính Ngài với họ.
Tất cả chúng ta đều cần xét mình lại trước ngưỡng cửa gặp gỡ Đức Kitô. Những cánh cửa đóng sập lại ở Bêlem cũng chẳng có gì đáng mủi lòng nếu như giờ đây trong trái tim chúng ta cũng chẳng có chỗ nào cho những người cần giúp đỡ.
Hạnh phúc và bình an của Mùa Giáng Sinh sẽ đến với chúng ta ngày tự bên trong, nếu Thiên Chúa được sinh ra trong máng cỏ tâm hồn chúng ta.
Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một: GS-59
1. Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giê-su, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
2. Đặt mình vào địa vị của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Na-da-rét vào Bê-lem, không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
3. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giê-su phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên người Do Thái thời Đức Giê-su đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giê-su đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giu-se và Ma-ri-a phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên ChúaẨ thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giu-se và Ma-ri-a đang sống yên lành tại Na-da-rét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Na-da-rét vùng Ga-li-lê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và nàng phải vượt qua vùng Sa-ma-ri đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Ma-ri-a mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia đình gồm 3 người Giu-se, Ma-ri-a và Giê-su là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những ỡngười của Ngàiữ phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho ỡngười của Ngàiữ vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư?
Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức Giê-su, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giê-su trở thành người hạnh phúc và vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì việc Đức Giê-su phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương đã dành cho ta, vì ỡnhững đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!ữ (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Ki-tô hữu, người mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang danh là ỡngười của Ngàiữ, mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phao-lô đã phiền trách: ỡTôi không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Ki-tô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịtữ (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giê-su sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau khổ, nhục nhã, trái ýẨ con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giê-su và bao vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói ỡcon được đau khổữ chứ không phải ỡcon bị đau khổữ! JKN
Đêm giáng sinh với bầu khí linh thiêng,với hoa đèn sáng rực giờ đây như nhường chỗ cho sự suy tư: GS-60
Đêm giáng sinh với bầu khí linh thiêng,với hoa đèn sáng rực giờ đây như nhường chỗ cho sự suy tư hơn là ngắm vẻ bề ngoài.Thiên Chúa quả thực đã đưa nhân loại vào ý nghĩa của việc con Ngài làm người hơn là sống cái tâm tình hời hợt,nông cạn của tình cảm mà thôi. Phụng vụ vẫn dẫn ta vào chiêm ngắm Hài Đồng Giêsu, nhưng các bài sách thánh muốn nhắc nhớ ta tới ý nghĩa thâm sâu của việc con Chúa đản sinh làm người.
VẪN PHẢI TÌM GẶP HÀI NHI GIÊSU
Bài tiên tri Isaia và bài thư thánh Phaolô gửi tín hữu Hipri như vén lên cho nhân loại thấy rõ ràng: ơn cứu độ đã đến, nhân loại phải mở mắt ngắm nhìn và ơn ấy được lộ ra nơi con người của trẻ thơ Giêsu. Nên, ơn cứu độ là hành động cuối cùng đã được thực hiện nơi chính Chúa Giêsu. Ngoài Ngài ra không có ơn cứu độ nào khác nữa. Chính các thiên thần trên trời cũng hát lên, ca ngợi, thờ lạy Con-Thiên- Chúa-làm-người. Chúa Giêsu trở thành trung tâm của nhân loại,của vạn vật và của toàn thể vũ trụ. Muốn hiểu Chúa, nhân loại phải đi tìm gặp Chúa. Mà tìm gặp Chúa không chỉ hời hợt, vội vã, ngạc nhiên vì sự lạ lùng Con Thiên Chúa giáng trần. Tìm gặp Chúa là phải cung chiêm, suy tưởng và giữ lấy để mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi lúc suy đi nghĩ lại trong lòng như Mẹ Maria.Tìm gặp Giêsu để hiểu được rằng món quà quí giá nhất Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, cho mỗi người sẽ không bao giờ tàn phai. Thiên Chúa trao tặng Con của Ngài cho nhân loại là tặng ban chính thân mình Ngài cho nhân loại, cho mỗi người. Tìm gặp Hài Đồng Giêsu để cảm nghiệm sự trao ban của Thiên Chúa Cha là cao quí, một món quà nhưng không,vô giá không ai có thể cho ta,ngoại trừ Thiên Chúa. Tìm gặp trẻ thơ Giêsu, nhân loại sẽ cảm nhận lời Thiên Chúa Cha: "Con là con Ta, hôm nay Cha sinh ra Con" và để rồi:" Các con hết thảy hãy nghe Lời của Người ". Đây là mầu nhiệm lớn lao. Mầu nhiệm tình thương.
MẦU NHIỆM GIÁNG SINH: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU
Thánh Gioan trong đoạn Tin Mừng sáng nay không dừng lại ở việc mô tả Chúa sinh ra. Thánh sử nhìn vào hang đá, máng cỏ, chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu như một tạo thành mới,một sáng tạo và một thế giới mới. Đây là mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người. Mầu nhiệm ấy là mầu nhiệm của lòng tin. Thánh Gioan đã bắt đầu đoạn Tin Mừng của Người bằng câu: "lúc khởi đầu". Hình ảnh ấy cho nhân loại thấy, cho con người liên tưởng đến tạo thành lúc ban sơ, lúc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, sáng tạo mọi vật, mọi loài trong lúc ban đầu. Thánh Gioan làm cho con người liên tưởng đến việc sinh ra của Chúa Giêsu là sáng tạo mới, là thế giới mới và là lịch sử mới. Việc Chúa sinh ra không có ý thay thế sáng tạo cũ, lịch sử cũ mà làm cho nó trở nên mới mẻ, trở nên hoàn toàn và viên mãn. Thánh sử Gioan đã dùng tới nhiều ngôn từ như ánh sáng, sự sống, sung mãn, vinh quang. Tất cả những nhân tố ấy như làm bừng lên một mầu nhiệm: " Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật " ( Ga 1,14 ).
NHÂN LOẠI PHẢI ĐÓN NHẬN NGÀI
Đón nhận Hài Nhi Giêsu như quà tặng cao quí,duy nhất và vĩnh cửu là mở lòng để thực thi thánh ý Chúa như Hài Nhi Giêsu sau này trong cuộc đời sẽ nhắc nhở với nhân loại: " Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta ". Thiên Chúa Cha đã sai Con của Ngài là Chúa Giêsu đến trần gian, để ban ơn cứu độ cho loài người. Quả thực,Thiên Chúa Cha đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian để tất cả những ai tin con của Ngài sẽ được cứu độ. Tuy nhiên, Chúa đã đến nhà của Người, nhưng người nhà đã không tiếp nhận Ngài. Chúa nói tới Dân Do Thái, nhưng đồng thời cũng nói tới mọi người không đón nhận Chúa. Mầu nhiệm giáng sinh là đón nhận một sự sống mới, đón nhận một mầu nhiệm cao quí là thế giới mới, thế giới linh thiêng, thế giới không có hận thù, và ô uế. Đón nhận Chúa là đón nhận anh em với thắm nghĩa tình của con người,của loài người vì Chúa đã đồng hoá mình với những người đau khổ, những người thấp cổ bé họng, những người rách nát, đói khát, trần truồng( Mt 25,1tt...). Mầu nhiệm Giáng sinh là như thế và để đón nhận ơn ấy, nhân loại phải có tâm hồn trong sạch, con tim nhạy cảm,con mắt của Chúa, con người lúc ấy mới nghiệm ra rằng: " Ơn cứu độ nơi Ngài chan chứa".
Lạy Chúa Hài Đồng Giêsu,xin ban cho chúng con ánh sáng để chúng con nhận ra Con Thiên Chúa giáng sinh làm người.
Khi Chúa sinh ra vào một đêm đông giá lạnh, nơi hang bò lừa, hiu quạnh và lẻ loi. Tiếng hát Thiên: GS-61
Khi Chúa sinh ra vào một đêm đông giá lạnh, nơi hang bò lừa, hiu quạnh và lẻ loi. Tiếng hát Thiên Thần trên không trung như vang rền, kêu mời mọi người đi gặp con Thiên Chúa Giáng sinh làm người. Cái diệu kỳ của đêm giáng sinh được đánh dấu bằng muôn vàn lời ca,âm vang xa xa,vẳng lặng,cao vút: "...Bình an dưới thế cho người có lòng ngay thẳng". Tiếng hát ấy cứ trổi cao và cao vút để mời gọi các mục đồng, những kẻ chăn chiên, chăn cừu,đang canh súc vật trong đêm thâu.Và rồi, các mục đồng đã nhanh chân đi gặp Hài Đồng Giêsu, dõi theo bước chân của họ, nhân loại cũng hãy mau đi tìm Con Thiên Chúa làm người để hân hoan, ca tụng, thờ lạy những gì mắt thấy,tai nghe về Con Thiên chúa.
THEO CHÂN CÁC MỤC ĐỒNG
Tin Mừng Luca 2,15 viết: " Nào chúng ta sang Bêlem,để xem sự việc đã xẩy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết". Trong đoạn này, Tin Mừng của thánh sử Luca gợi lại cho ta nhớ đoạn Phúc Am trinh nữ Maria được Thiên chúa yêu thương cho Mẹ mang thai khi khấn giữ mình đồng trinh và khi sứ thần ra đi, Mẹ đã vội vã, nhanh chân đi thăm bà chị họ của mình là bà Elisabét cũng đang được hạnh phúc Thiên Chúa chúc lành, cho mang thai trong lúc tuổi đã già. Hai thái độ của mục đồng và của Mẹ Maria đều nhanh nhẹn, vội vã. Nhanh lẹ, vội vã lên đường nói lên niềm vui, sự hân hoan chấp hành ý Thiên Chúa. Đây là thái độ của những con người đơn thành, những con người chân chất, mộc mạc, tin thật sự vào Lời của Thiên Chúa. Đây là lòng tin chỉ có được nơi những con người nghèo của Thiên Chúa Giavê. Tuy nhiên,giữa Mẹ Maria và các mục đồng,cũng như nhiều người nhỏ bé khác, tin, nhưng thái độ tin ấy có điều hết sức khác biệt. Các mục đồng và những con người khác khi đứng trước phép lạ hoặc những sự kiện lạ lùng chỉ ngạc nhiên, bỡ ngỡ và ca ngợi những kỳ công, những sự huyền nhiệm của Đấng tạo hóa. Còn Mẹ Maria thì giữ những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng. Việc giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng chứng tỏ Mẹ Maria đã tin thật sự dù rằng kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa còn ẩn tàng. Chỉ có thái độ đích thực tin của Maria mới cho thấy Mẹ Maria là Người đã được Thiên Chúa cho biết nhiệm cục cứu rỗi của Ngài và như thế, Chúa cũng mời gọi nhân loại phải suy nghĩ sâu xa về ơn giáng sinh của Con Thiên Chúa làm người vì nếu chỉ mới vội vã, ngạc nhiên,bỡ ngỡ thì chưa nói lên được gì mà mới là thái độ hời hợt chóng qua. Theo chân các mục đồng tới Bêlem tìm gặp Chúa để đọc cho ra lòng thương xót của Chúa đối với nhân loại và như thế, nhân loại sẽ học được bài học yêu thương của Chúa Cứu Thế.
ƠN THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI
Các mục đồng ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ ( Lc 2,20 ). Các mục đồng quả thực hạnh phúc vì được nhìn thấy Hài Nhi Giêsu bằng xương bằng thịt. Họ chỉ nhìn thấy Chúa khi lòng dạ họ đơn thành, tâm hồn họ thơ thới an bình. Nhân loại xưa mất ơn Chúa, Adong và Evà đã phản bội lại Chúa. Ơn bình an bị đánh mất. Tội lỗi lại ngập tràn trần gian. Nhưng, Thiên Chúa vẫn yêu thương nhân loại, yêu thương con người, Ngài đã sai Con Một của Người là Chúa Giêsu đến trong đêm giáng sinh. Thánh Phaolô nói rằng Chúa Giêsu đến, rửa sạch tội lỗi của nhân loại, xóa đi màn đêm u tối bao phủ bầu trời, xóa đi cái màng làm tối tăm con mắt loài người, Ngài đến để đổ tràn Thánh Thần cho nhân loại và làm cho nhân loại có đầy sự sống.
Ơn Thiên Chúa làm người mang lại cho nhân loại sự sống vì thế nhân loại không được thờ ơ, hờ hững mà phải như Đức Trinh Nữ Maria có thái độ suy đi nghĩ lại trong lòng để thấy Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đổi mới cuộc đời,thay đổi nhân loại như thế nào. Ơn ấy,giờ đây đang tiếp tục đổ tràn cho mọi người trong thánh lễ.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng xin ban bình an và ơn đức tin cho mỗi người chúng con để chúng con luôn có thái độ như Mẹ Maria là giữ những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Đêm nay khắp vũ trụ, khắp nơi như nghe tiếng thì thầm của muôn loài muôn vật, của muôn tinh tú: GS-62
Đêm nay, khắp vũ trụ, khắp nơi như nghe tiếng thì thầm của muôn loài muôn vật, của muôn tinh tú. Đêm nay,nhân loại lại đi về Bêlem không phải trong trí óc tưởng tượng, hay trong suy nghĩ, suy tư, mà trở về nơi Chúa Giêsu sinh ra với đức tin của những con người theo Chúa, của những con người đặt trọn niềm tin nơi Chúa Cứu Thế Giêsu."Vinh danh Thiên Chúa trên trời,bình an dưới thế cho người thiện tâm".Tiếng hát ấy vẫn như lắng đọng, xôn xao, làm lay động, thức tỉnh lòng con người để đời đời và muôn đời con người nhận ra sự bình an là cần thiết, không có an bình, con người sẽ lao xao, dậy sóng,sẽ tròng trành, lo âu, sợ hãi như các môn đệ trên thuyền bị gió to, sóng lớn làm họ hết hồn, hết vía.
VẪN CÁI XÔN XAO CỦA MUÔN VÀN TINH TÚ BẦU TRỜI
Có để tâm hồn trầm lắng, đọng lại trong cõi cô tịch, con người mới nghe thấy tiếng tí tách của muôn vàn sự vật chung quanh. Con người như Đức Hồng y Etchegaray đã nói:"Người ta dễ nghe tiếng cây đổ,nhưng còn triệu triệu hạt giống đang tí tách ngoi đầu lên khỏi mặt đất thì con người khó nghe thấy". Nhìn bầu trời trong một ngày đẹp, người ta sẽ thấy muôn muôn vàn tinh tú đang nhấp nháy như trò chuyện to nhỏ. Cái xôn xao của bầu trời quyện lấy con người, làm cho con người cũng hồi hộp, mênh mông, im lặng và mông lung.
Người ta vẫn nhớ tới câu chuyện của đôi vợ chồng Giuse và Maria khi trở về quê quán để khai sổ hộ tịch theo lệnh của Hoàng Đế Augustô. Câu chuyện của cặp vợ chồng thánh trong đêm giáng sinh như vẫn luôn hiện nguyên hình mỗi đêm giáng sinh về. Cái xôn xao lắng đọng của muôn vàn tinh tú bầu trời dậy lên khi Maria không hề được các quán trọ đón tiếp vì khách đã đầy hay vì sự lo lắng của các ông chủ quán vì Maria đang mang thai và sắp đến giờ lâm bồn, nở nhụy khai hoa. Thánh Giuse thì tất bật, lo lắng cho Mẹ Maria, người bạn đời, đang cần nơi nghỉ ngơi, yên tĩnh sau ngày đàng mệt mỏi, chùn chân.
Về Bêlem thật bằng chính lòng tin để thấy sự huyền nhiệm của Con Thiên chúa giáng sinh làm người. Bêlem với hang súc vật đã trở nên linh thiêng vì chính nơi ấy Chúa Giêsu đã được Mẹ Maria hạ sinh một cách kỳ diệu và vô cùng ấn tượng. Lũ bò lừa thở hơi ấm cho Hài Nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, một cách nào đó gợi cho con người về sự khó nghèo mà Con-Thiên-Chúa-làm-người đã chấp nhận để làm gương cho nhân loại. Hình hài của trẻ thơ Giêsu trong hang Bêlem, nhắc nhớ cho nhân loại hiểu Đấng cứu Thế: "...đến để phục vụ,chứ không để được hầu hạ" và như thế cái xôn xao của muôn vàn tinh tú bầu trời trở nên niềm vui, sự an bình cho mọi người ước ao, khao khát ơn cứu đô.
XÔN XAO TRỞ THÀNH BÌNH AN CHO MUÔN NGƯỜI
Trẻ thơ Giêsu nằm trong máng cỏ với lũ bò lừa chung quanh, với muôn vàn tiếng hát thiên thần, với các mục đồng tất bật, chạy nhanh đi tìm gặp Giêsu trong đêm giáng sinh, cho nhân loại thấy trước tình yêu của một con người có tên Giêsu: "Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì yêu"( Ga 15,13 ). Giáng sinh như thế là trở về với một sự kiện vẫn thời sự, vẫn hiện thực: một trẻ Giêsu bằng xương bằng thịt đã được sinh ra trong một nơi, một thời điểm, một quê hương, một lịch sử nhất định. Xôn xao sẽ không dậy lên, sóng to gió lớn sẽ im lặng, khi nhân loại chấp nhận trở về Bêlem với đức tin để thấy,để tìm gặp Maria và Giuse vừa đản sinh một người tên là Giêsu với tất cả lòng cung kính đón nhận.
Trẻ thơ Giêsu trong đêm giáng sinh phải được mọi người đón nhận với đức tin sâu sắc vì trong đêm giáng sinh có biết bao con trẻ cũng được sinh ra, nhưng phải đón nhận Hài Đồng Giêsu như vị cứu tinh làm người mà muôn dân hằng mong đợi.Câu vấn nạn: "người ta bảo Con Người là ai ?" luôn phải là câu trả lời mau mắn của mỗi người chúng ta. Chiêm ngắm Hài Đồng Giêsu là nhân loại thờ kính thân xác phục sinh của Chúa Giêsu khi Ngài chấp nhận ý định Chúa Cha cứu chuộc nhân loại. Vâng, nhân loại chỉ có trở làm cho cuộc đời mình bớt xôn xao giao động khi con người tin vào một Giêsu đã sinh ra,đã chết và đã phục sinh. Nhân loại luôn mừng lễ giáng sinh, nếu họ biết mở tâm hồn để nghe lời Chúa và năng chịu bí tích Thánh Thể, để giáng sinh luôn trở thành niềm vui, bình an, trở thành lễ của nhân loại, của mỗi người và của mỗi ngày, của đời người, của lịch sử :
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,bình an dưới thế cho người thiện tâm".
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Bạn cảm nghiệm gì về lễ giáng sinh ? 2.Đối với bạn Chúa Giêsu là ai ?
Những mùa Giáng Sinh trước, khoảng đầu tháng 12 mỗi năm, những câu chuyện đầu môi chóp lưỡi của: GS-63
Những mùa Giáng Sinh trước, khoảng đầu tháng 12 mỗi năm, những câu chuyện đầu môi chóp lưỡi của các em bé thơ ngây, cũng như những lăng xăng design máng cỏ của các trưởng lớp, đội trưởng, v.v... tạo một bầu khí vui nhộn, hớn hở, an vui hạnh phúc trong khuôn viên nhỏ bé và ấm cúng của trường LaSan Mossard.
Nhưng kể từ "ngày ấy", tiếng vui cười nô đùa của đám trẻ bỗng tiêu tán đâu mất... Thế là "đổi đời" đã được 8 tháng. Mùa Giáng Sinh lại đến.
-"Năm nay, mình có lễ No-en không Frère?", câu hỏi của một em bé làm tôi giựt mình.
- mmmm... thì năm nào mà không có No-en?!
Tôi đem câu hỏi của em bé ra cộng đoàn.
+ Nhưng tổ chức lễ ở đâu?
- hội trường thì "3 Tấn gì gì đó..." đã yêu cầu dành riêng cho "Đoàn (?)" trưng dụng từ ngay sau biến cố 75;
- nhà nguyện Đệ Tử Viện thì... mmm ... có nguy hiểm không?
+ Tụ họp Anh Chị Em như vậy có... bất hợp pháp không?
+ Mừng No-en dưới dạng thức nào? = chỉ có Thánh Lễ ? - Nếu vậy thì các bài hát có phải... trình nộp cho chính quyền kiểm duyệt không? - Nếu không thì có bị cho là... "truyền bá tư tưởng mê tín dị đoan, hát nhạc... vàng" không ? = thiệt là hậu quả khôn lường - nên cẩn thận!!!
+ Linh mục nào "dám" đến làm lễ không?
+ vân vân và vân vân...
Cuối cùng, Anh Em đồng ý sẽ mời Anh Chị Em và Thân Hữu LaSan vùng Thủ Đức và lân cận đến mừng lễ No-en "đầu tiên" = tới đâu thì tới! "Bình An dưới thế cho người Chúa thương" mà sợ gì???
Ngót 300 Anh Chị Em và Thân Hữu LaSan đến dâng lễ mừng Chúa Giáng Sinh đêm 24-12-75, tại nhà ngủ tiểu học - ngay trên hội trường. Tuy bầu khí không được như những năm trước, nhưng thấy số đông Anh Chị Em bất chấp mọi sự trói buộc... trần thế, đến cùng nhau vì những thực tại cao đẹp và thiêng liêng hơn để "Vinh Danh Thiên Chúa trên trời", và để cùng nhau tận hưởng "Bình An dưới thế cho người Chúa thương", nên buổi lễ hôm đó ấm cúng làm sao ! chan chứa tình anh chị em, tình đồng bào, tình đồng loại làm sao !!!
* No-en 1976
Lại một... No-en nữa!...
Cuộc đổi đời với đà "tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN"... quá nhanh, quá mạnh... nên chẳng những chỉ hội trường bị trưng dụng ngay sau 75, mà cả trường ốc - nghĩa là kể luôn nhà ngủ tiểu học, cũng tiêu tán theo cơn lốc... Vì thế mà dư âm của mùa Giáng Sinh năm ngoái không thể "lại một No-en nữa!"
Tuy nhiên, "đã đến lúc người ta không còn phải tôn thờ Thiên Chúa nơi đền thờ này hay tại núi nọ..." (Jn. 4:21).
"Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, Bình An dưới thế cho người Chúa thương"
vẫn còn ngân vang trong mỗi tâm hồn, mọi nơi mọi lúc.
* No-en 1977 = No-en cuối cùng(?) của Anh Em LaSan tại khuôn viên Mossard - Thủ Đức.
... Mấy mùa Giáng Sinh rồi? ...
Có lẽ sau gần hai năm, kể từ "ngày ấy", sự vui mừng hớn hở thấm nhuần niềm hy vọng vào sự "Bình An dưới thế cho người Chúa thương" ngày càng phai lạt lu mờ - không chừng sẽ tắt nghẽn - nếu bầu khí vui nhộn nhưng ấm cúng, rộn ràng nhưng yêu thương... không được sưởi ấm, nếu không khêu sáng thêm cho tim đèn sắp bị chụp tắt. Anh Em cộng đoàn Mossard đồng tâm tổ chức lễ No-en tại nhà nguyện Đệ Tử Viện.
Có vài biến cố có vẻ như để "cảnh cáo" đã xảy ra trước ngày vui mừng trọng đại [sẽ có dịp đi vào chi tiết của những biến cố này], nhưng Anh Chị Em và Thân Hữu LaSan quyết tâm tụ họp để, một lần nữa, "Vinh Danh Thiên Chúa trên trời", và nhờ đó mà chia sẻ sự hân hoan đón nhận "Bình An dưới thế cho người Chúa thương": ngót 200 người đã vang vang ca hát
- Đêm Đông... lạnh lẽo Chúa sinh ra đời... - Đêm Thánh vô cùng... - Trời hân hoan, đất tưng bừng vui ca...
Tôi vẫn còn nhớ mãi cho đến bây giờ 2 điều xảy ra trong Thánh Lễ hôm đó:
1. lúc chúc Bình An cho nhau, trong khi ban nhạc chơi bài Jingle Bells... tươi vui ngót 5 phút, anh chị em tay bắt mặt mừng, đôi mắt rạng rỡ cười tươi, miệng mĩm cười êm ái thì thào: "chúc anh/chị/em Bình An của Chúa Giáng Trần", và ai cũng đi đi lại lại gặp nhau, bất kể già trẻ, trai gái, quen biết hay không quen biết = ôi! cảm động làm sao!
2. Sau Thánh Lễ, hai em nữ sinh người Tàu đến chúc mừng No-en cho tôi, và với giọng tuy xúc động nhưng rạng rỡ vinh hạnh nói với tôi:
- em xúc động và sung sướng quá Frère à! Frère biết không? Em thấy nhiều người vui tươi sung sướng tiến đến gần linh mục, rồi nhận miếng bánh gì nho nhỏ, rồi hân hoan nuốt lấy có vẽ rất hạnh phúc và hãnh diện. Em không có đạo nên không biết là gì. Bỗng dưng, hết người đến nhận bánh rồi, vị linh mục nhìn qua nhìn lại, xong tiến đến hàng ghế đầu, và tuần tự phát cho người này đến người kia chiếc bánh đó. Ai cũng đứng dậy giơ hai tay trịnh trọng đón nhận. Đến trước mặt em, em vẫn ngồi, vì không biết làm sao? Vị linh mục đưa cho em một chiếc bánh trắng, em lúng túng, nhưng trong phút chốc, tự nhiên em đứng bật dậy và giơ hai tay đón nhận chiếc bánh. Em run run, bỏ vào miệng, nuốt... Em cảm thấy hết run, nhưng vui thỏa thế nào đó... Bây giờ em còn cảm thấy niềm vui kỳ lạ = em không còn sợ, trái lại rất an tâm, sung sướng...
Tôi nắm lấy tay hai em, miệng lắp bắp : "Bình An cho hai em. Chúa thương hai em nhiều..."
***
Ôi Vinh-Dự làm sao! Vinh-dự được làm tạo vật của Đấng Tạo Hóa hằng yêu thương tạo vật của Mình!
Người yêu thương tất cả các tạo vật - không phân biệt "biết Người" hay không/chưa "biết Người". Yêu thương đến độ đích thân mặc lấy thân phận tạo vật để đến ở với, ở trong, ở cho, ở vì... tạo vật Mình và đem lại "Bình An dưới thế cho người Chúa thương".
Mời Anh Chị Em cùng tôi ngâm nga mọi nơi mọi lúc :
Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời Bình An Dưới Thế Cho Người Chúa Thương Chúa Giêsu ngự trị lòng ta! - Luôn luôn!
* lễ nửa đêm = thánh Luca nêu rõ "thời điểm thực hiện ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa" từ khi tổ tông loài người tự ý tách rời khỏi tình yêu của Đấng tạo thành (Lc. 2:1-14);
* lễ sáng = thánh Luca diễn tả niềm vui mừng và sung sướng "hối hả" đón nhận ơn cứu độ của loài người (Lc. 2:15-20);
* và lễ ban ngày = thánh Gioan, chứng nhân lịch sử, xác định "Ngôi Lời đã trở thành xác-thịt... và chúng tôi đã thấy vinh quang Người" (Gioan 1:1-18).
Chúng ta đã cùng hiệp thông với Đức Maria và thánh cả Giuse LẮNG NGHE tiếng Thần Khí Thiên Chúa thì thầm trong suốt mùa vọng, hôm nay chúng ta thực sự NGHE toàn thể vũ trụ trên trời dưới đất vui mừng rạng rỡ cất tiếng reo hò : NGÔI LỜI ĐÃ NHẬP THỂ LÀM NGƯỜI VÀ Ở VỚI CHÚNG TA (Gioan 1:13).
"Vinh Danh Thiên Chúa trên trời"
- Cảm tạ tôn vinh Ngôi Lời "ngay từ nguyên thùy, từ hư không đã tạo dựng một cách lạ lùng thành có" : vũ trụ, cây cối, sinh động vật, muôn loài trên trời dưới đất và trong lòng biển khơi... "Và Thiên Chúa thấy mọi vật được tạo dựng đều tốt đẹp" (KN 1:21).
- Cảm tạ tôn vinh Ngôi Lời "từ bụi đất đã tạo dựng cách tuyệt diệu con người giống hình ảnh Đấng Tạo Dựng" để coi sóc và hưởng dùng tất cả các tạo vật. "Và Thiên Chúa thấy công trình tạo dựng rất tốt đẹp" (KN 1:31).
- Cảm tạ tôn vinh Ngôi Lời đã, không vì loài người xúc phạm từ khước tình yêu tạo dựng, mà từ bỏ và luận phạt đời đời, trái lại đã hứa đến ở-với-loài-người để đem loài người về hưởng lại tất cả những đặc ân nguyên thủy.
- Cảm tạ tôn vinh Ngôi Lời đã giữ lời hứa ban ơn cứu độ, "đã trở thành xác-thịt và ở cùng chúng tôi" (Gioan 1:14)
Các Thiên Thần hân hoan chiêm ngưỡng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, đã chúc mừng và thúc dục toàn thể nhân loại lớn tiếng tung hô cảm tạ :
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI
"Bình An dưới thế cho người Chúa thương"
Sau khi hoàn tất công trình tạo dựng "rất tốt đẹp", Đấng Tạo Hóa và loài người có một mối giao hảo hài hòa yêu thương, biểu hiện một cách cụ thể trong sự giao hòa an vui giữa loài người với tất cả các tạo vật khác, kể cả thú rừng (KN. 2:19-20).Nhưng khi Adong-Eva vấp phải "trái cấm" đầu tiên, tâm tình "khiếp sợ" (KN. 3:10) Đấng Tạo Hóa xuất hiện. "Khiếp sợ" là biểu hiện của sự bất an, lo lắng. Là điều trái ngược với "tự nhiên", với "chân-thiện-mỹ", với "hình ảnh của Đấng Tạo Hóa". Là sự cách biệt, xa rời trạng thái Bình An nguyên thủy. Nói thẳng ra là loài người đã đánh mất sự Bình An trong mối tương giao với Đấng Tạo Hóa, và vì vậy mà đánh mất luôn Bình An trong mối tương giao giữa loài người với nhau (như Ca-en và Abel, KN. 4:8) và giữa loài người với tất cả các tạo vật khác : "... những gai cúng góc sẽ mọc lên cho ngươi..." (KN. 3:18)
Chắc hẳn Ngôi Lời khi tạo dựng con người trong tình trạng "rất tốt đẹp", tình trạng Bình An hòa hợp và yêu thương, đã phải lấy làm "rất tiếc" vì con người đã đơn phương từ khước sự Bình An hòa hợp yêu thương đó với Đấng Tạo Hóa. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn còn yêu thương loài người, những muốn nối lại với loài người bằng mối dây Bình An hòa hợp yêu thương để đem loài người về lại với tình trạng nguyên thủy, muốn "tái tạo" loài người và muôn vật bằng cách chính bản thể Ngài đến-ở-với-chúng-ta, để liên kết loài người với nhau, loài người với tất cả tạo vật, và muôn loài trên trời dưới đất. Chính "Ngôi Lời đã trở thành xác-thịt" là sự Bình An hòa hợp yêu thương được ban tặng cho loài người đêm Giáng Sinh. Các Thiên Thần sung sướng hát ca nhắc nhở cho loài người :
BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI CHÚA THƯƠNG
Trong cuộc sống thực tế, ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần "tự trấn an" sau một việc làm hoặc một tư tưởng ước mơ "ám muội" nào đó. Nhưng xét cho cùng "tự trấn an" là gì nếu không phải "muốn làm hòa" với chính bản thân mình, với lương tâm mình ? Hay muốn làm hòa với đối tượng đã gây nên sự bất an cho mình? Lắm lúc chúng ta ĐÃ làm hòa, ĐÃ tái lập được sự bình an cho chính bản thân mình, hoặc cho "thù địch" của mình - nghĩa là tha thứ cho nhau, nhưng vẫn còn điều gì lấn cấn đeo đuổi tâm trí mình: "tha thứ được - quên không được", nghĩa là chưa hoàn toàn bình an.
Chính Ngôi Lời Thiên Chúa chỉ vẽ cho chúng ta con đường tận hưởng sự bình an tuyệt đối, đón nhận ơn tái tạo của Thiên Chúa, và đạt đến sự giao hòa tuyệt diệu giữa Đấng Tạo Hóa và con người, giữa con người với con người, và giữa con người với tất cả tạo vật khác : "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời... và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa" (Gioan 1:1) thế mà Người không nề hà "từ khước mọi tước hiệu và uy quyền" để mặc lấy xác phàm đến ở-với-chúng-ta. Người mang trong "xác phàm y hệt chúng ta" sự viên mãn của tình yêu và bình an tuyệt đối của chính Thiên Chúa và đem đến "dưới thế cho người Chúa thương". Chúng ta biết Ngôi Lời mặc xác phàm đến với chúng ta trong hoàn cảnh vật chất nào : nghèo hèn, trống rỗng.
Chính trong tâm trạng và hoàn cảnh vật chất nghèo hèn, trống rỗng đó mà Đức Maria xin vâng và thánh cả Giuse lắng nghe và thi hành đã để cho quyền năng tái tạo của Thiên Chúa thực hiện chương trình yêu thương cứu độ, và đã tận hưởng Tình Yêu và Bình An tuyệt đối mà Ngôi Lời đem đến trần gian.
Trong bài suy niệm về lễ Giáng Sinh, thánh LaSan nêu rõ : "Con Thiên Chúa mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta trong hoàn cảnh nghèo hèn, trống rỗng, là vì Người muốn chúng ta cảm nghiệm và đón nhận tâm trạng đó để Người có thể hoàn toàn ngự trị trong tâm trí chúng ta... Chúng ta là những Frères nghèo hèn, bị quên lãng và ít được người đời coi trọng. Chỉ có những người nghèo mới đến tìm chúng ta; họ không có gì để dâng hiến cho chúng ta ngoài trái tim của họ sẵn sàng đón nhận sự giáo huấn của chúng ta. Chúng ta hãy vui sướng trong sứ mạng khiêm tốn của chúng ta, vì có thể chia sẻ một cách nào đó sự khiêm nhu tự hạ của Con Thiên Chúa khi Người đến trần gian." (Suy niệm 86)
Suy nghĩ về sự tuân giữ luật đời của Thánh Giu-se. - "…nằm trong máng cỏ" muốn nói lên điều gì?: GS-65
1. Suy nghĩ về sự tuân giữ luật đời của Thánh Giu-se. 2. "…nằm trong máng cỏ" muốn nói lên điều gì? 3. Làm thế nào để được hưởng bình an?
* Suy tư gợi ý:
1. Mọi hành động của ta hiện giờ đều có giá trị đời đời.
Từ xưa đến giờ, khi đọc đoạn Tin Mừng này, thường chúng ta chỉ chú ý đến việc Chúa Giê-su sinh ra trong máng cỏ, với dàn hợp xướng của các Thiên Thần:"Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.", mà quên để ý tới sự kiện đời thường bao trùm những biến cố đó: việc Thánh Giu-se vâng lời chiếu chỉ hoàng đế Au-gút-tô để về Bê-lem khai tên tuổi mình và vợ mình. Thường, chúng ta nghĩ đó là việc đời chẳng có giá trị gì mấy. Việc săn sóc Chúa Giê-su sinh ra mới là việc đạo, việc thiêng thánh và có giá trị thiêng liêng. Thế tại sao Thánh Giu-se đã vâng lời chiếu chỉ hoàng đế đến như thế? Ngài có thể nại lý do là vợ mình đang có thai gần ngày sinh nở để khỏi phải di chuyển trên một đọan đường dài từ Bắc (miền Ga-li-lê) chí nam (miền Giu-đê).
Thực ra, mọi hành động của ta hiện giờ đều có giá trị vĩnh cữu. Giá trị của nó nằm ở chỗ là kiến tạo nguồn sống hay tiếp tay cho sự chết. Mọi hành động của ta đều phải làm cho chiên được sống và sống dồi dào (x Ga 10,10). Do đó, nếu việc tuân thủ luật pháp của ta (dĩ nhiên luật pháp đó phải hợp đức tin và luân lý) dẫn đến hậu quả là xã hội an ninh phát triển, cuộc sống đâm chồi nẩy hoa, thì ta đã góp phần tích cực vào việc tạo nguồn sống dồi dào cho chiên. Và hành động đó đã có giá trị vĩnh cữu theo nghĩa tích cực. Ngược lại, nếu ta vô tình hay hữu ý vi phạm pháp luật, như không tuân thủ luật giao thông chẳng hạn, là ta đã tiếp tay cho sự chết. Hành động đó cũng có giá trị đời đời, nhưng là một giá trị tiêu cực. Linh mục Gérard Rolland, một giáo sư Thánh Kinh được nhiều người biết, mới đây dã phát biểu: " Mỗi người chúng ta là một sinh linh duy nhất và đời đời, và cũng chỉ có một lịch sử duy nhất phải thực hiện. Đó là những việc ta phải làm trong hiện tại. Khi Chúa Giê-su quang lâm, Ngài chỉ hỏi chúng ta về những điều mà lẽ ra ta cần phải làm trong giây phút này. Chỉ có thế." Mới nghe qua, ta nghĩ đó là một tư tưởng mới lạ. Nhưng nếu ta nhớ lại lúc khởi thuỷ, đâu có phân biệt thiêng liêng hay trần tục giữa sự việc Adam và Eva trò chuyện với Thiên Chúa và việc hưởng dùng những vui thú trong vườn địa đàng. Tất cả đều có giá trị đời đời và tích cực. Giá trị tiêu cực chỉ xuất hiện khi ông bà nguyên tổ phạm tội.
Đến đây, ta có thể bình tâm để sống một cuộc sống hạnh phúc, đầy tính nhân bản, không nhất thiết lúc nào cũng nặng trí phân biệt đâu là việc thiêng liêng, đâu là việc trần thế. Tất cả chỉ là một. Thiêng liêng hay trần thế đều là một, đều có giá trị đời đời, chỉ có một điểu là nó tích cực hay tiêu cực mà thôi. Bổn phận ta là phải chọn lấy giá trị tích cực.
2. Một dấu hiệu duy nhất .
Để nhận ra Hài nhi Giê-su, Đấng Cứu Độ, thiên thần đã chỉ cho các mục đồng: "Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ." Nếu chỉ căn cứ ở vế thứ nhất, không ai có thể nhận ra người mà các sứ thần muốn giới thiệu, vì tất cả các trẻ sơ sinh đều bọc tã lót. Vậy chỉ còn lại vế thứ hai: "Nằm trong máng cỏ". Chính vế này có tính cách đặc thù, là thẻ căn cước của đứa trẻ, là dấu chỉ duy nhất để nhận ra Đấng Cứu Thế vừa sinh. Nó nói lên điều gì? Sự khó nghèo. Ngoài ra, nó còn nói lên sự loại trừ nữa. Chắc chắn, Thánh Giu-se và Đức Mẹ đã cố công tìm cho được một chỗ thích hợp trong nhà trọ. Đã tìm thì chắc chắn phải biết gía cả và túi tiền của mình. Ta cũng có thể suy diễn rằng Thánh Giu-se là một thợ mộc lành nghề và uy tín. Hẵn Ngài đã làm ra tiền và tích tụ đủ cho cuộc sinh nở của vợ mình. Ở đây chỉ còn một cách duy nhất để giải thích, đó là sự tăng giá và bắt chẹt khách hàng. Tăng giá để loại trừ những người nghèo hơn, dù người nghèo đó có nhu cầu cấp thiết hơn (Đức Mẹ đang có thai). Ở đây chỉ có tiền lắp đầy những hố tham, không còn chỗ trống cho tình người.
Chính ở giây phút đầu tiên trong cuộc đời, Thiên Chúa đã chọn máng cỏ, nơi không có những đồng tiền rũng rĩnh nhưng đầy ắp tình Chúa tình Người: Thiên (ngôi sao lạ dẫn đường), Thần (các sứ thần hớp tấu), Người giàu có quyền thế (Ba Nhà bác học), Người nghèo khổ bần hàn (các mục đồng) đều có thể đến chúc mừng.
3. Làm thế nào để được hưởng bình an?
"Bình an dưới thế cho người Chúa thương." (Lc 2, 14b). Muốn được bình an, chúng ta cần phải để cho Chúa thương. Làm thế nào để biết chắc ta là "Người Chúa thương?". Theo Giáo Hội, người Chúa thương là người THIỆN TÂM (Kinh Vinh Danh). Người thiện tâm là người luôn lấy Đức Chính trực công minh làm nền tảng cho mọi hành vi của mình. Và đó cũng là nền tảng cho Vương quốc Đấng cứu Thế ( x Is 9.6). Một mẫu gương thiện tâm tuyệt vời là Thánh Giu-se mà Tin Mừng gọi là Người Công Chính. Người thiện tâm là người luôn cộng tác vào việc phát triển sự sống và làm cho sự sống trở nên dồi dào hơn.
NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã ban cho con sự sống, một sự sống duy nhất và đời đời, với chiều kích lịch sử độc nhất vô nhị của nó. Xin cho con ý thức được ý nghĩa cứu rỗi của các hành vi con đang làm, để mọi việc làm của con đều đẹp Ý Cha.
Lạy Chúa Giê-su, con cũng muốn được chọn một chỗ sinh ra như Chúa, một nơi vô sản nhưng đầy ắp tình Người, vì con đã từng mục kích biết bao kết cuộc bi thảm của những con người chỉ biết lấy đồng tiền làm lẽ sống.
Con cũng xin Thần Linh thánh hoá tâm hồn con, biến con người ác tâm hận thù của con thành một con người thiện tâm, xứng đáng với Tình Yêu thương vô bờ của Thiên Chúa qua việc Ngôi Hai giáng trần. Amen.
Với Đức Tin, chúng ta qùi trước máng cỏ, thờ lạy sự uy nghi vô biên của Thiên Chúa trong con trẻ. Từ: GS-66
Với Đức Tin, chúng ta qùi trước máng cỏ, thờ lạy sự uy nghi vô biên của Thiên Chúa trong con trẻ. từ máng cỏ hèn mọn, nơi đặt Hài Nhi, Người Con thực của Thiên Chúa đã tỏ mình ra, trở thành nhục thể để cứu chuộc nhân loại. Con trẻ chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, Lời không tả xiết, trong Người, Thiên Chúa đã tỏ mình ra, Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc xác phàm nhân loại trong cung lòng đồng trinh Mẹ Maria.
Lễ Giáng Sinh thật ra được gọi là Lễ của Sự Sáng, vì Chúa Giêsu là Chân Lý được sinh ra ở Belem để nên Ánh Sáng cho trần thế. Thánh Phaolo đã gọi Người là "Đấng đã cứu ta thoát khỏi uy quyền của tối tăm"( Col 1: 13-15 ). Công Đồng Vaticano II nhấn mạnh rằng. "Mỗi con người vẫn còn là một câu hỏi chưa giải đáp cho chính mình, một câu hỏi chỉ thấy lờ mờ.... Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể .... Chúa Kitô trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ" (Gaudium et Spes, số 21 ,22). Thế nên, sứ điệp Giáng Sinh đã giãi sáng trên thời gian cách rất xa.
Trước hết, tư tưởng về thời gian được nảy sinh, qua sự di chuyển từ năm này tới năm khác, đã là điều không thể tránh được của thời gian: Ngày qua ngày, tuần lễ này qua tuần lễ kia, tháng này kế tiếp tháng nọ... làm cho chúng ta hầu như không thể thấy. Cuộc sống chúng ta bị hao mòn. những năm tháng của chúng ta đi về đâu? Thời gian trôi về đâu? bỏ đi những lịch sử của nhân loại và sự hiện hữu của con người một cách không tiếc nuối.
Đây là nơi mà lễ Giáng Sinh chiếu giãi ánh sáng lạ lùng đầu tiên: lịch sử nhân loại không phải là một mê lộ vô lý,và sự hiện hữu của chúng ta không dẫn đến sự chết và hư vô. Chúa Giêsu, với lời thần linh và không thể sai lầm, đã nói cho chúng ta biết là Thiên Chúa tạo dựng con người để yêu mến, và người mong đợi con người đáp trả lại bằng tình yêu đang khi còn sống tại thế, để con người được chia sẻ tình yêu vĩnh cửu của người mai sau.
Những năm qua đi, năm này qua năm khác; năm hiện tại rồi đây cũng sẽ đến hồi kết thúc. Từ trong Thánh kinh, chúng ta biết rằng: "Ở trần thế, chúng ta không có một quê hương vĩnh cửu, nhưng chúng ta kiếm tìm một thành trì ở đời sau" ( Dt 13 : 14 ). "Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi chúng ta sẽ gặp Đấng cứu chuộc chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,Người sẽ biến đổi thân xác hền hạ chúng ta nên thân xác vinh hiển Người. Vì Người có quyền bắt muôn vật phải qùi phục Người"( Phil 3: 20, 21). Chắc chắn mọi người phải tích cực xây dựng thành trì trần thế như làm việc và xử dụng các tài năng. Nhưng chúng ta còn phải luôn nhớ rằng: "Nếu nhà ở của chúng ta nơi trần gian này có ngày sẽ hư nát, lúc ấy ta sẽ có nhà khác vĩnh viễn ở trên trời, do Chúa xây dựng chứ không phải do tay người phàm tạo nên" ( 2 Cor 5: 1 ). Thế nên ta có thể nói rằng dù tốt hay xấu, dù vui hay buồn sầu, mọi sự xẩy ra để ta có thể mong ước Thiên Chúa, sự thiện tuyệt đối, và chúng ta cảm thấy nhớ quê hương thiên đàng mà chúng ta đã được tạo dựng để về đó.
Ngày xưa có một hoàng tử đẹp trai và dễ thương. Vị hoàng tử này là người con một duy nhất của: GS-67
Ngày xưa, có một hoàng tử đẹp trai và dễ thương. Vị hoàng tử này là người con một duy nhất của một vị vua rất giàu có và nhân từ. Khi hoàng tử được chừng tám tuổi, cậu rất thông minh nhưng cũng rất nghịch ngợm. Một hôm, đang chơi ở cửa hoàng cung, trông thấy một cậu bé nghèo khổ, ăn mặc rách rưới nhưng giống mình như đúc, cậu bèn này ra ý định cải trang thành cậu bé nghèo khổ đó để được đi chơi cho thoả thích. Thời gian 10 năm thắm thoát cái qua đi, hoàng tử đã đến tuổi 18, số tuổi mà người ta định là hoàng tử đã đủ khôn ngoan để nhận chức Thái tử, rồi sau này nối ngôi vua cha. Vị hoàng tử nghịch ngợm kia đã phải khổ công hết sức mới có thể trở về địa vị cũ của mình. Khi đã làm vua rồi, người đã lấy kinh nghiệm sống nghèo khó khi xưa của mình làm bài học nên ăn ở rất bác ái nhân từ với dân chúng. Ông nổi tiếng là một vị vua nhân hậu và được hết mọi người thương mến.
Câu chuyện vị hoàng tử trên đây cũng gần giống như chuyện Hoàng Tử Giêsu, Con Một của Vua Trời. Tuy là thân phận Thiên Chúa, nhưng Người đã khứng hạ mình mặc lấy thân xác phàm nhân. Không những thế, Người đã chọn sinh ra trong cảnh cùng cực nghèo hèn, không nhà cửa, trong hang bò lừa, giữa đêm đông lạnh giá. Có điểm khác với câu chuyện của vị hoàng tử nghịch ngợm, đó là người bạn nghèo của hoàng tử không được làm vua như hoàng tử, còn Hoàng Tử Giêsu của chúng ta đã chia sẻ vương quyền của Người cho chúng ta, là các bạn nghèo của Người. Người còn nhận chúng ta là anh em của Người nữa.
Vương quyền của Chúa Giêsu thì quá sáng tỏ rồi, vì tất cả các bài đọc I và II, cũng như bài Phúc Âm trong mọi buổi lễ nói về Hài Nhi Giêsu, đã xưng tụng Người là "Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thưở, Ông Vua Thái Bình." Còn Thánh Phaolô đã trích dẫn lời Chúa Cha phán khi ban Chúa Con cho thế gian rằng: "Con là Thái Tử của Cha. Hôm nay Cha đã hạ sinh Con." Là Thái Tử để rồi sẽ làm Vua, nghĩa là Chúa Giêsu đã nhận vương quyền từ tay Vua Cha - Chúa Trời Đất - như các Phúc Âm loan báo về sự giáng sinh lạ lùng của Người.
Còn chúng ta, chúng ta đã được Chúa Giêsu chia sẻ cho vương quyền đó như thế nào? Trước hết, chúng ta đã được Chúa dựng nên trong Chúa Con và được giống hình ảnh của Người (Col 1:12-20) Rồi khi chúng ta phạm tội, đáng lẽ ta bị mất quyền thừa tự, nhưng chúng ta lại được Chúa Con cứu chuộc, nên vương quyền đó đã được hoàn trả lại cho ta. (Eph 1:3-8) Đồng thời Chúa Giêsu cũng đã hứa cho ta được đồng hiển trị trong nước của Người: "Thầy bảo thật anh em, tới thời kỳ mới, khi Con Người lên ngự ngôi báu của Ngài, lúc đó tất cả anh em, những người đã theo Thầy, cũng sẽ được ngồi trên 12 tòa mà cai trị 12 chi họ Israel." (Mt 19:28)
Ngày hôm nay, mừng Chúa giáng trần, mừng sinh nhật của Hoàng Tử Hòa Bình, chúng ta cũng mừng cho chính chúng ta ngày khởi đầu cho niềm hy vọng được chia sẻ quyền cai trị trời đất mới cùng với Chúa Giêsu. Và để chuẩn bị cho ngày đăng quang hiển trị ấy, chúng ta cùng nhau học lấy cách thức sử dụng vương quyền của chúng ta. Nhìn ngắm Người ngây thơ ngủ yên trong lòng Mẹ, ta noi lấy bài học phó thác nơi Mẹ mọi nỗi vui buồn trong đời sống. Nhìn Người vui cười giơ tay chào đón các mục đồng cũng như ba nhà đạo sĩ, ta cũng hãy nhủ lòng biết thương yêu, chăm sóc, ít ra là tươi cười niềm nở đón tiếp những người đến với ta, không kể giầu nghèo hay sang hèn. Ngắm Vua trời đất nằm chịu đựng trên máng cỏ giữa bầy súc vật trong hang đá lạnh, ta học lấy cách ăn ở khiêm nhượng, vui chịu mọi sự khinh chê. Rồi khi chúng ta thờ lạy Người là Hoàng Tử Hòa Bình, hãy nhớ xin Nguời ban cho thế giới và cho mỗi tâm hồn chúng ta sự bình an chân thật của chính Người.
Alleluia! Vạn tuế Hoàng Tử Hòa Bình! Alleluia! Cầu chúc Người hiển trị đến muôn đời! Alleluia! Vương quyền Người tồn tại muôn năm. Amen.
và Người đã cư ngụ giữa chúng ta- Sr. M. Catherine Lê Trang, O.P.
Ngụ ngôn người Ấn Độ có kể một câu chuyện như sau: Một hôm Thiên Chúa có ý muốn tạo dựng: GS-68
Ngụ ngôn người Ấn Độ có kể một câu chuyện như sau: Một hôm Thiên Chúa có ý muốn tạo dựng nên một tạo vật đẹp nhất trong các loài tạo vật, Ngài quyết định dựng nên con người. Khi Thiên Chúa công bố quyết định ấy cho cả triều thần thì các thiên thần tỏ ra không mấy hứng khởi vì không thể chấp nhận một lý tưởng xem ra kỳ cục quá như thế. Làm sao tưởng tượng được một thụ tạo vừa thuộc về hạ giới lại vừa tham dự vào đời sống thần linh? Làm sao có thể có được một bản thể vừa là của thời gian lại vừa mang tính vĩnh cửu? Làm sao chấp nhận được sự kết hợp giữa vật chất và tinh thần? Để ngăn cản Thiên Chúa trong ý định của Ngài, các thiên thần mới bầu ra một ủy ban. Sau nhiều ngày ráo riết làm việc, ủy ban này đã soạn xong một kiến nghị để trình lên Thiên Chúa như sau: Tinh thần không kết hợp với vật chất; bản tính thiên thần không thể giao kết với bản tính thụ tạo; cái có cùng không hòa hợp với cái không cùng; cái chóng qua không thể đi đôi với cái vĩnh cửu.
Do đó, yêu cầu Thiên Chúa hãy hủy bó ý định ngông cuồng của Ngài đi. Sau khi đọc bản kiến nghị, Thiên Chúa đưa ra phán quyết sau đây: Tất cả những góp ý của các ngươi đều hợp lý. Nhưng điều Ta sắp thực hiện không phải là vấn đề triết học. Các thiên thần đều nhao nhao hỏi: Vậy vấn đề đó là gì? Sau một hồi thinh lặng, Thiên Chúa chậm rãi đáp: Con người là vấn đề của lòng tin. Ngài thinh lặng rồi lại phán quyết: Con người là vấn đề của niềm tin!
Chân lý nền tảng trong đạo chúng ta đó là: Thiên Chúa yêu thương con người. Tình thương ấy vượt xa mọi tính toán và cân lường. Dầu rằng con người bao lần lỗi phạm. Thiên Chúa vẫn không giới hạn tình thương cho con người; Ngài cũng chẳng đối xử với chúng ta theo lối có vây có trả hoặc có qua có lại như cách con người thường làm. Vì thế mà Ngài đã không đành làm ngơ để mặc con người trầm luân trong hủy diệt. Cho nên "Ngôi lời đã hóa thành nhục thể" để chia sẻ, để cảm thông cuộc sống với con người, và nhất là để qua "Người Con, Thiên Chúa phán dạy và quét sạch tội lỗi chúng ta" (Heb. 1:2,3). Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Ngài tiếp tục tin tưởng nơi chúng ta phải sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, và làm sao cho cuộc sống của mỗi người chúng ta được trở nên dấu chỉ tin mừng; chúng ta sẽ là những "người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta" (Is. 52:7,10).
Xã hội chúng ta đang sống ngày nay không thiếu gì những sự lừa lọc, gian trá, tranh giành và hận thù. Thế giới ngày nay vẫn chưa có thái bình thật sự và tin mừng cứu độ của Thiên Chúa vẫn chưa được loan truyền đến hết mọi nơi. Ngôi Lời đã làm. "Người vẫn ở trong thế gian và thế gian đã không nhận biết Người". Vì sao thế? Phải chăng tại vì chúng ta, những sứ giả rao giảng tin mừng cứu độ vẫn còn tự giam mình trong những đố kỵ, những khép kín và chưa ra khỏi chính mình để đến với tha nhân? Phải chăng vì những cách xử sự thiếu bác ái, những lời nói thiếu yêu thương của chúng ta đã làm cho tha nhân chưa có niềm tin vào Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài?
Nguyện xin cho tình yêu và bình an Giáng Sinh ngự đến trong cuộc sống mỗi người chúng ta và biến đổi chúng ta trở nên những máng chuyển ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho mọi người.
(Truyện do ông Marvin J. Wolf, người Mỹ kể lại) - Gương Chứng Nhân - Minh Nguyệt
Vào năm 1951, tôi lên 9 tuổi. Vì gia đình quá nghèo, tôi đến xin bác Miceli, nhận tôi vào việc phát: GS-69 FB
Vào năm 1951, tôi lên 9 tuổi. Vì gia đình quá nghèo, tôi đến xin bác Miceli, nhận tôi vào việc phát báo - sau giờ học - cho một số gia đình ở vùng phụ cận thành phố Chicago. Bác Miceli là chủ thầu phát tờ nhật báo American's Herald. Bác đồng ý với điều kiện là tôi phải có chiếc xe đạp.
Ba tôi làm đến bốn nghề:
- Ban ngày, Ba làm việc ở công xưởng. - Ban chiều, Ba đi bỏ hoa cho các tiệm bán hoa. - Ban tối, Ba lái taxi cho đến nửa đêm. - Vào ngày thứ Bảy, Ba đi từng nhà để quảng cáo các bảo hiểm.
Ba mua cho tôi một chiếc xe đạp cũ. Nhưng vừa mua xong, người ngã bệnh nặng phải vào nhà thương, nên chưa kịp tập cho tôi đi xe đạp.
Thật ra bác Miceli không hỏi tôi có biết đi xe đạp không, bác chỉ hỏi tôi có xe đạp không. Do đó tôi mang xe đạp đến cho bác xem và bác nhận tôi vào số những đưá trẻ phát báo cho bác.
Tôi mang chiếc bị sau lưng và đặt các tờ báo trên ghi-đông xe đạp, rồi tôi dắt xe đi trên lề đường. Nhưng dắt chiếc xe đạp chất đầy báo như thế, quá cực! Do đó , sau vài ngày, tôi đổi chiến thuật. Tôi bỏ xe đạp ở nhà và mượn cái giỏ đi chợ có bánh xe lăn của Mẹ. Tôi bó báo vào giỏ rồi kéo giỏ đi phát báo cho từng nhà.
Nếu trời mưa hay có tuyết rơi, tôi cẩn thận lấy áo mưa của Ba phủ lên giỏ, để báo khỏi bị ướt. Tôi mất rất nhiều giờ để phát báo với chiếc giỏ đi chợ của Mẹ. Trong khi đó, nếu tôi biết đi xe đạp, chắc hẳn là sẽ nhanh chóng hơn. Nhờ việc đi đến từng nhà bỏ báo, tôi bắt đều gặp gỡ và quen biết hầu hết các khách hàng của tôi. Phần đông họ những người di dân thuộc nhiều sắc tộc khác nhau như Ý, Đức, và Ba Lan. Có điều đặc biệt là ai ai cũng dễ thương và cư xử rất tốt với tôi. Khi rời nhà thương về nhà, Ba tôi bắt đầu đi làm trở lại. Nhưng vì còn yếu nên người chỉ làm được một công việc ban ngày mà thôi. Trong khi đó, gia đình chúng tôi ngày càng lâm cảnh túng thiếu. Sau cùng, Ba Mẹ tôi quyết định bán chiếc xe đạp cũ của tôi. Tôi chưa biết đi xe đạp nên không ngăn cản cũng chẳng than trách gì!
Trong vòng 8 tháng phát báo, tôi đã nâng con số khách hàng từ 36 lên 59. Những khách hàng mới thường là do khách hàng cũ giới thiệu, hoặc đôi lúc gặp tôi trên đường đi, họ xin tôi ghi tên vào danh sách các khách hàng của tôi. Từ thứ Hai cho đến thứ Bảy, cứ mỗi tờ báo phát đi, tôi lãnh được 5 xu. Tôi thu tiền báo vào mỗi chiều thứ Năm và giao tiền cho bác Miceli vào ngày thứ Sáu. Nhưng cứ mỗi lần thu tiền báo, tôi thường nhận được tiền hoa hồng từ 5 đến 10 xu. Do đó, đôi khi tiền hoa hồng của tôi cũng cao bằng tiền bán báo của bác Miceli. Thật là điều may mắn, vì Ba tôi còn yếu chưa làm được nhiều việc nên chưa kiểm được nhiều tiền. Tôi giao tất cả tiền lãnh được cho Mẹ.
Ngày thứ Năm Vọng lễ Giáng Sinh, 24 tháng 12 năm 1951, như thường lệ, tôi đi phát báo và thu tiền nơi từng nhà. Nơi căn nhà đầu tiên, tôi bấm chuông cửa, nhưng không ai trả lời. Tôi sang căn nhà thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư… Cũng chẳng thấy một ai. Tôi đi gần hết các nhà khách hàng của tôi, nhưng không ai trả lời cho tôi. Tôi bắt đầu lo lắng thực sự. Tôi tự nhủ: Lạ thật, ngày mai là lễ Giáng Sinh, vậy mà không một người nào ở nhà cả! Chẳng lẽ mọi người đều đi phố mua sắm vào buổi chiều Vọng Lễ Giáng Sinh sao? Do đó, khi đến căn nhà của bác Gordon, và nghe tiếng nói cùng tiếng nhạc từ trong nhà phát ra, tôi vui mừng vô kể. Tôi bấm chuông. Tức khắc cánh cửa rộng mở, bác Gordon tươi cười xuất hiện và kéo tôi vào phòng khách. Nơi đây, tất cả 59 vị khách hàng của tôi đều có mặt. Ở giữa phòng khách là chiếc xe đạp mới tinh, màu đỏ tươi như trái táo bằng đường! Trước ghi-đông xe, lửng lẳng cái bị đầy ứ các phong bì.
Còn đang bỡ ngỡ thì bác gái Gordon vừa chỉ chiếc xe đạp vừa nói với tôi: Đây là món quà Giáng Sinh cho cháu. Tất cả các bác đã chung tiền mua cho cháu. Trong các phong bì có thiệp Giáng Sinh, tiền báo và tiền hoa hồng cho cháu. Tôi ngạc nhiên đến độ không thốt lên được lời nào. Tôi đứng im không nhúc nhích. Sau cùng, một bác gái khác ra hiệu xin mọi người im lặng. Bác dẫn tôi vào đứng giữa phòng khách và nói: Cháu là đứa trẻ phát báo tuyệt hảo nhất của các bác. Không một ngày nào báo thiếu hoặc đến trễ hay báo bị rách, bị ướt! Tất cả các bác đều trông thấy cảnh cháu đi trong mưa, đi dưới tuyết, còng lưng kéo cái giỏ đi chợ đầy báo! Do đó các bác đều nghĩ rằng, cháu cần phải có chiếc xe đạp để đi phát báo…
Tôi vô cùng xúc động và chỉ biết ấp úng hai tiếng Cám Ơn. Rồi tôi nói đi nói lại, nhưng cũng chỉ nói được hai tiếng Cám Ơn mà thôi! Khi về nhà, tôi cẩn thận mở các phong bì Tôi đếm được tất cả 100 Mỹ kim tiền hoa hồng! Ngày Lễ Giáng Sinh năm đó, gia đình tôi đã mừng một Lễ Giáng Sinh với trọn ý nghĩa của nó, trong vui tươi và no ấm!! Riêng tôi, tôi không bao giờ quên món quà Giáng Sinh và bài học mà các bác khách hàng trao tặng tôi vào ngày Vọng Lễ Giáng Sinh năm ấy. Đó là: Bạn hãy ngẩng cao đầu, đem hết tâm lực làm việc, dù cho việc làm của bạn là một công việc hết sức khiêm tốn như nghề bỏ báo chẳng hạn…
Giáng sinh là một mầu nhiệm của một Thiên Chúa uy linh cao cả, đã sinh xuống thế gian làm một con: GS-70
Giáng sinh là một mầu nhiệm của một Thiên Chúa uy linh cao cả, đã sinh xuống thế gian làm một con người phàm hèn để cứu độ nhân loại tội lỗi. Bài học đầu tiên của Lễ Giáng sinh dạy chúng ta là bài học khiêm tốn. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện là có sấm chớp, mây, gió làm cho dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa giáng sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay nơi xóm làng bé nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ để trú thân, phải ra ngoài cánh đồng để tạm nhờ trong một hang đá. Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nm trong máng cỏ.
Từ ngàn xưa, Tổ tông loài người chúng ta đã phạm tội kiêu ngạo cùng Thiên Chúa. Khi phạm tội, con người đã ra hư đốn. Thay đổi các trật tự Chúa đã định, trí khôn con người ra tối tăm mê muội, đau khổ hồn xác, mọi sự đều bị đổ vỡ. Niềm vui chốc lát trong khi phạm tội, nhưng sau đó nó đã để lại hậu quả thật đáng tiếc không thể ngờ được: mất ơn nghĩa Chúa, mất phúc Thiên đàng đời đời. Tuy nhiên, do lòng yêu thương vô bờ bến, Thiên Chúa đã hứa sai Đấng Cứu Chuộc đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi ách thống trị của ma quỉ, khỏi lửa hoả ngục đời đời.
Sự khiêm hạ là một trong những tinh thần quí báu mà Chúa Kitô khi xuống thế gian có ý dạy cho chúng ta, vì Người biết sự kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn đã lôi kéo con người vào nơi tối tăm. Vì thế, Chúa Kitô đã nhập thể làm người để phá đổ sự kiêu căng đã ăn rễ sâu vào trong con người chúng ta. Đồng thời Ngài nâng con người chúng ta lên ngang hàng với Thiên Chúa.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng nghĩ tới một Thiên Chúa quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như một em bé, hèn yếu chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa bao giờ cũng bí nhiệm, xem ra như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo hạnh cũng khó mà nhận ra.
Một con trẻ được sinh ra nằm trong máng cỏ nơi hang bò lừa hôi thối, con trẻ đó là Thiên Chúa, Con Đức Chúa Cha, Ngôi Lời vĩnh cửu. Đấng toàn năng đã dựng nên muôn loài muôn vật, điều hành vũ trụ và mọi vật trong vũ trụ với một sự khôn ngoan tuyệt đối. Đấng đó giờ đây xuất hiện là một con trẻ nghèo hèn, yếu đuối, xa lạ và bị bỏ rơi.
Tuy nhiên, Người có thể sinh ra trong một cung điện sang trọng lộng lẫy, nm trong chiếc nôi bằng vàng có trải nhung lụa gấm vóc. Nhưng không, Người đã chọn một chuồng bò lừa, một máng cỏ, gần gũi với đàn súc vật. Người đã tự hạ mình xuống thấp hèn vì yêu thương chúng ta, vì muốn chữa tính kiêu ngạo đã làm cho các thiên thần trở thành ma quỉ. Chính tội kiêu ngạo đã đuổi Tổ tông loài người ra khỏi vườn địa đường.
Sách Khôn ngoan dạy rằng: "kiêu ngạo là khởi điểm của mọi tội ác". Biết bao người vì kiêu ngạo nên đã sinh ra tự ái rồi sinh ra hận thù ghen ghét, nói hành nói xấu, hờn giận, ghen tương... Tất cả những điều trên đều là kết quả của tính kiêu ngạo.
Nếu tính kiêu ngạo làm cho chúng ta ra hư mất thì đức khiêm nhường có thể cứu vớt chúng ta. Con Đức Chúa Trời đã hạ mình chừng nào? Người đã hạ mình xuống và vâng lời cho tới nỗi đã vui lòng sinh ra trong cảnh nghèo hèn, vui lòng chịu chết và chết nhục nhã như một tên trộm cướp. Đó là bài học rất sống động mà Chúa dạy chúng ta về sự khiêm nhường.
Chẳng những sự khiêm hạ của Chúa chỉ thể hiện nơi máng cỏ mà còn thể hiện trong nếp sống gia đình Nazareth. Chúa Giêsu luôn luôn vâng lời Thánh Giuse và Đức Mẹ. Mặc dầu Ngài là Con Thiên Chúa quyền phép cao trọng vô cùng nhưng Ngài vẫn luôn sẵn sàng vâng lời Thánh Giuse và Đức Mẹ. Ba mươi năm dài của cuộc sống ẩn dật trong gia đình Nazareth đã được thâu gọn trong một câu ngắn của Tin Mừng thánh Luca "Người hằng vâng phục hai ông bà" (Lc 2:51).
Tại sao Chúa Kitô là Con Thiên Chúa, là Vua trời đất mà lại vâng phục loài thọ tạo? Vì Ngài đã tự hạ mình thẳm sâu để làm gương cho nhân loại chúng ta. Trong cuộc sống hàng ngày Ngài luôn giúp đỡ Đức Mẹ và Cha Thánh Giuse. Người giúp Cha Thánh trong nghề mộc như xẻ ván, bào cây đục gỗ... giúp Đức Mẹ trong việc nội trợ... không một việc gì mà Ngài lại không làm. Vậy thì tại sao chúa lại không làm phép lạ để khỏi phải làm? Ngài chỉ phán một lời thì liền có trời có đất còn ba cái việc nhỏ mọn này thì ăn nhm gì? Nhưng không, ở đây Ngài có ý nhập thể để đồng hoá với con người, để làm gương cho chúng ta về mọi phương diện nhất là tập tành các nhân đức: khiêm nhường, vâng phục và khó nghèo.
Ôi! Làm sao mà kể hết được những cử chỉ khiêm hạ của Chúa Kitô. Hàng ngày với Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã sinh ra và còn sinh ra trên Bàn Thờ qua tay các Linh Mục cho đến tận thế. Với Bí TíchThánh Thể Chúa Giêsu ngự đến viếng thăm tâm hồn mỗi người chúng ta, Ngài đến một cách tuyệt diệu lạ lùng, xứng đáng với quyền phép, sự khôn ngoan, nhân từ và khiêm hạ của Thiên Chúa. Khi xuống thế Ngài đã hạ mình ngang hàng với con người. Khi lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa nâng ta lên tới Chúa và Ngài thần hoá chúng ta.
Mặc dầu loài người luôn vô tình tệ bạc nhưng Thiên Chúa Ngài vẫn yêu thương ta, bằng cách giam mình trong các Nhà chầu trên khắp thế giới để ở lại với chúng ta. Ngài nuôi dưỡng ta bng chính Thịt và Máu của Ngài. Ai đến lãnh nhận Ngài cũng trao ban hết, không trừ thành phần nào: kẻ giàu người nghèo, kẻ thánh thiện người tội lỗi. Khi vị Linh Mục truyền một lời là Chúa phải ngự vào tấm bánh và ly rượu liền, không trù trừ, bất kể vị Linh Mục ấy là ai, thánh thiện hay tội lỗi hoặc tấm bánh tròn hay méo, dầy hay mỏng. Vậy thì tại sao mà Thiên Chúa lại có những thái độ khiêm hạ tột độ như vậy? Trong chúng ta ai ai cũng đã được Chúa thương ngự vào linh hồn, cũng đã cảm nghiệm được sự hiện diện khiêm hạ của Ngài rồi, đó cũng chỉ vì yêu thương chúng ta thôi. Ngài chỉ muốn dậy cho chúng ta luôn phải biết khiêm tốn nhìn nhận mình là ai và Chúa là ai? "Ta là Thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho các con. Vậy các con cũng hãy rửa chân cho nhau" (Ga 13:12).
Lễ Giáng sinh vẫn là một lời mời gọi Giáo Hội trở về với cái nghèo của máng cỏ và sự khiêm hạ của một Thiên Chúa. Vì thế, Tin Mừng của Đức Kitô đem đến "đã và đang" ảnh hưởng đến nhân loại như thế nào? Không những giáo huấn mà chính Ngài vẫn đang hiện diện thật sống động và đầy quyền năng giữa toàn thể nhân loại, với từng người Kitô hữu chúng ta. Ôi! Có điều gì kỳ diệu và vĩ đại hơn chăng? Thế mà hiện nay vẫn còn biết bao người vẫn chưa nhận ra sứ điệp của Chúa Cứu Thế, sứ điệp yêu thương và tha thứ, sứ điệp bình an và hoà bình. Bài học mà Ngài đem đến cho những ai muốn đón nhận, đó là sự nghèo khó và khiêm hạ. Nhừ vậy, những người được biết Đấng Cứu Tinh trước hết là những người nghèo, những người bé nhỏ, thấp mũi bé miệng. Vì những kẻ quyền thế giàu có kiêu căng hoặc đầy đam mê và vui thú thì còn tâm hồn và thời giờ đâu nữa để khát mong, để đón chờ Vị Cứu Tinh, đúng không thưa bạn?
Ngôi Lời đã hạ mình xuống đáy vực sâu hư vô, đã hạ mình tận tuyệt làm bào thai, làm con trẻ sơ sinh, lệ thuộc vào mẹ mình hoàn toàn như các trẻ sơ sinh khác. Ngài làm con và tuỳ thuộc Đức Mẹ trong cả cuộc sống nghèo hèn, khốn khó; chết tan nát trần trụi trên Thập giá giữa các người trộm cướp giết người, rồi sau cùng đã trở nên vô tri vô giác trong Thánh Thể để chịu nhiều người dày xéo như đồ dơ bẩn. Vậy chúng ta hãy noi gương bắt chước Thầy Chí Thánh của mình ăn ở "hiền lành và khiêm nhường" như Ngài đã kêu mời chúng ta. Dể thực thi những điều Chúa truyền một cách dễ dàng chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, nhờ Mẹ giúp chúng ta vì Mẹ là trường đào tạo các nhân đức.
Lậy Mẹ, xin Mẹ khẩn cầu cùng Chúa ban cho chúng con được ơn khiêm nhượng thực sự như Chúa Hài Nhi, để trong cuộc sống thường ngày chúng con bớt được những tính kiêu căng, tự tín, tự phụ, tự mãn để chúng con làm chứng nhân sống động giữa thế giới đầy văn minh này.
Giữa đêm tăm tối bao trùm vạn vật, ánh sáng Chúa Kito đã bừng lên, mang lại một bầu khí mới cho: GS-71
Giữa đêm tăm tối bao trùm vạn vật, ánh sáng Chúa Kito đã bừng lên, mang lại một bầu khí mới cho nhân loại. Giáo Hội trong lời ca nhập lễ của thánh lễ rạng đông đã hân hoan tuyên xưng: Hôm nay Sự Sáng chiếu giãi trên chúng ta, vì Chúa đã sinh ra cho chúng ta.Bài phúc âm của thánh Gioan ngày hôm nay cũng đã nhắc lại cho chúng ta sự xuất hiện của nguồn sáng đó: "Ở nơi Người vẫn có Sự Sống, và Sự Sống là Sự Sáng của nhân loại".
Đã gần hai ngàn năm nay, Ánh sáng Chúa Kito đã chiếu soi trần gian, nhưng vẫn còn bao người chưa được hưởng nhờ, hoặc chưa muốn nhận ánh sáng đó. Lời Thánh Gioan: "Sự Sáng chiếu soi trong u tối , và u tối đã không tiếp nhận Sự Sáng" . Thật vậy, chỉ một cái thoáng nhìn vào thực trạng của thế giới ngày nay, chúng ta phải chân nhận rất thật rằng: quyền lực của sự tối tăm đang hành động cách mãnh liệt trong thế giới. nhiều mãnh lực đang làm suy giảm nền luân lý của quốc gia, các thành phố, và các gia đình. Bao người đang mất đi ý thức về tội lỗi: coi phá thai, ly dị như những chuyện thường tình; đồng tính luyến ái đã công khai chấp nhận; giết người, thanh toán lẫn nhau những chuyện xảy ra hằng ngày. Không những thế, quyền lực của tối tăm cuộc sống vật chất đang muốn lẫn át đi những con người đang được Ánh Sáng Chúa Kitô chiếu soi.
Sau một cuộc tai nạn tại Pháp, một bác nông phu nghèo nọ đã bị mù hai con mắt. Vì quá nghèo, nên bác không có tiền chữa chạy. Một người bạn của bác đã sẵn sàng để đưa bác đi Balê chữa trị, nhưng với điều kiện, bác không được cho con của bác đi trường công giáo để học, nhưng phải đi trường công. Khi nghe điều kiện đó, bác đã không ngần ngại chối từ và trả lời: "Cám ơn ông. Tôi thà chịu mù, còn hơn để con tôi bị mất ánh sáng đức tin". Bác nông phu này vì đã hiểu được sự bình an hạnh phúc Chúa hứa ban cho những ai được Ánh Sáng Chúa soi dẫn, nên bác đã nhất quyết sẵn sàng chịu đau khổ, chịu tối tăm về phần xác, chứ không chịu mất đi ánh sáng siêu nhiên của tâm hồn.
Chúa đã đem ánh sáng bình an và hy vọng của Người đén trần gian, để giải thoát con người khỏi những sầu khổ, thất vọng, nhưng thế gian đã chối từ Ánh sáng của Chúa. Chúa đã đem ánh sáng tình thương đến, nhưng thế gian lại muốn sống trong hận thù. Chúa đã đem ánh sáng ơn cứu rỗi đến, nhưng thế gian đã chối từ giá máu của Chúa. Vì thế, đối với Thánh sử Gioan, sự tối tăm là tội lỗi, là chối từ Chúa Kito. Đấng là Ánh Sáng. Do đó, sống ngoài tinh thần của Chúa Kito, là sống trong sự tối tăm. Trái lại, bước đi trong Ánh sáng của Chúa là thực hành và sống các giáo huấn Chúa đã truyền dạy.
Là những Kito hữu, chắc chắn chúng ta phải là những con cái của sự sáng, chúng ta đã được Ánh sáng Chúa chiếu soi, chúng ta cũng cần phải tự vấn mình: Ánh sáng của Chúa đã có ảnh hưởng gì trên đời sống của tôi chưa? trong khi có điều khó chịu với anh chị em, chúng ta có biết lấy tình thương của Chúa để tha thứ, và cầu nguyện cho người anh chị em đó không? Khi Chúa gửi đến những thánh giá đau khổ, chúng ta có biết dùng ánh sáng đức tin để nhìn ra Chúa qua những thánh giá đó chăng? Thực ra, Chúa không hứa sự dễ chịu cho những người tin theo Chúa. Cũng như bác nông phu, những người tin theo Chúa cũng bị đòi hỏi phải trả một giá, có khi là một giá thật đắt. Nhưng chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa, vì Ngài là "Ánh Sáng thế gian" ( Gn 8:12 )
Lạy Chúa, xin ánh sáng Chúa hãy chiếu soi trên chúng con trong mọi nơi mọi lúc, để tinh thần của Chúa luôn hướng dẫn cuộc sống của chúng con, và cũng xin ánh sáng của Chúa được chiếu tổ khắp nơi, để những ai chưa được chiếu soi, sẽ được nhận lãnh ánh sáng của Chúa.
Phàm bất cứ những gì thường xảy ra và chúng ta năng gặp phải, thì sẽ trở nên nhàm chán. Một cuốn: GS-72
Phàm bất cứ những gì thường xảy ra và chúng ta năng gặp phải, thì sẽ trở nên nhàm chán. Một cuốn băng, nghe đi nghe lại nhiều lần, chúng ta cảm thấy nó quá quen thuộc. Một cuốn truyện đã đọc xong, thì ít khi chúng ta coi lại lần thứ hai. Một ý kiến được nói tới nói lui, khiến người ta nghe phát ngấy đến nỗi phải chép miệng mà bảo :
- Biết rồi, khổ lắm nói mãi.
Tuy nhiên, mỗi dịp Giáng sinh trở về, dù bên ngoài rất giống nhau, cũng bằng ấy những bài hát, cũng bằng ấy những hang đá, cũng bằng ấy những nghi lễ, thế mà từ bên trong, chúng ta vẫn ghi nhận được những cảm xúc mới lạ. Và Giáng sinh đã trở nên một cái gì không thể quên đi trong cuộc sống chúng ta.
Là người Kitô hữu, chúng ta đã xác tín rằng : Điều chính yếu của mầu nhiệm Giáng sinh, đó là việc Ngôi Lời xuống thế làm người và ở giữa chúng ta, để yêu thương và cứu chuộc chúng ta. Tuy nhiên làm sao chúng ta diễn tả được về biến cố trọng đại này? Tôi xin mượn hình ảnh của ánh sáng để so sánh và giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm cao cả này. Đêm Giáng sinh, đêm chan hòa ánh sáng.
Trước hết, chúng ta hãy nhắm mắt và tưởng tượng mình đang đi ngược dòng thời gian trở về một thời đại xa xưa nhất, cách đây hàng triệu, hàng tỷ năm. Lúc bấy giờ chưa có sự sống. Một sự yên lặng ghê sợ bao trùm cái khối hỗn mang của vũ trụ này. Không một bông hoa. Không một cánh chim. Không một con người. Việc thiếu vắng sự sống còn đáng sợ hơn cả cái chết. Và thời gian ấy kéo dài bao lâu? Có lẽ một tỷ năm chăng?
Rồi đến một ngày kia, sau hàng triệu thế kỷ bất động và tăm tối, thì sự sống bắt đầu xuất hiện. Cái tế bào sống đầu tiên được hình thành và phát triển dưới lòng đại dương. Sự sống ấy sinh sôi nảy nở và tràn lan trên mặt đất này với biết bao nhiêu thứ loại của cây cối, của loài vật và của con người. Nhìn vào đó, chúng ta thấy giây phút ấy có một tầm mức thật quan trọng. Trước đó, không hề có sự sống trong thiên nhiên. Nhưng rồi sau đó, tất cả đều đã đổi thay.
Tiếp theo, chúng ta hãy mường tượng ra cái diễn tiến từ đêm qua ngày. Nếu như có một lần nào đó, chúng ta đi cắm trại, mà được ngủ đêm trên một đỉnh núi cao, chúng ta sẽ chứng kiến cảnh tượng hùng vĩ của mặt trời mọc vào lúc ban sáng. Vậy thì đêm là gì? Là một hình thức của hư vô? Trong đêm, tất cả đều là tăm tối. Mặt đất tăm tối. Thiên nhiên tăm tối. Không có một phần tử nào của ngày được trộn lẫn với đêm. Tất cả chỉ là một sự tăm tối dày đặc.
Nhưng rồi giây phút trọng đại phải đến : Một vật sáng xuất hiện ở chân trời, tỏa lan trên mặt đất và một giờ sau, không còn gì là đêm và tăm tối nữa, nhưng tất cả đều là ngày. Bầu trời, mặt đất, cây cối, chim chóc… tất cả đều chìm ngập trong ánh sáng huy hoàng của ban ngày. Làm sao có thể xác định được sự kiện đó, cái diễn tiến từ đêm qua ngày. Ban đêm, tất cả đều là đêm với bóng tối của nó. Bước sang ngày, thì tất cả đều là ngày với ánh sáng của nó. Đó là một hình ảnh giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của lễ Giáng sinh.
Bình thường đêm của chúng ta kéo dài khoảng bảy đến mười giờ, sau đó mặt trời xuất hiện cho ngày mới bừng sáng. Nhưng chúng ta hãy nghĩ tới một bóng đêm dài hơn một tuần, dài hơn một tháng, dài hơn một năm. Và có lẽ dài hơn cả trăm ngàn năm. Đó là tình trạng của nhân loại trước biến cố Giáng sinh. Màn đêm bao la đã phủ xuống trên mặt đất kể từ khi Adong Eva phản bội. Hàng trăm ngàn năm tăm tối. Trái đất này, lúc bấy giờ, là như một ngọn tháp Babel khổng lồ, trong đó chỉ có con người với con người. Một thế giới khép kín.
Nhưng rồi một ngày kia, mặt trời đã mọc lên. Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Trước biến cố Giáng sinh, trước cái đêm Bêlem tuyệt vời, thì chỉ có con người ở trên mặt đất này. Nhưng kể từ biến cố Giáng sinh, kể từ cái đêm Belem tuyệt vời ấy, Thiên Chúa đã xuống trong ngọn tháp Babel của nhân loại và tất cả đã đổi mới.
Anh sáng đã bừng lên trên mặt đất, hay như thánh Gioan đã diễn tả : Ngài là ánh sáng đã đến trong thế gian. Ngài xuống thế, không phải bằng một cách thức huy hoàng và lộng lẫy, nhưng âm thầm và đơn sơ như một loài rong biển nảy sinh giữa lòng đại dương. Đức Kitô, mặc dù là trung tâm của lịch sử, là vị cứu tinh của nhân loại, nhưng Ngài đã đặt mình vào dòng thời gian, sinh ra làm một trẻ nhỏ, dần dần lớn lên, dần dần phát triển và trở nên một con người trưởng thành. Thiên Chúa đã làm người. Ngài muốn mang lấy thân phận của con người. Ngài muốn tham dự cuộc chơi của nhân loại. Và tất cả đã đổi thay. Nhờ đó Ngài chứng tỏ mình không thờ ơ lãnh đạm, nhưng hăng hái nhập cuộc với chúng ta… Ngài đem lại cho chúng ta một ý nghĩa, cũng như xác định cho chúng ta những qui luật của cuộc chơi. Ngài sẽ nói cho chúng ta hay phải chơi như thế nào để có thể chiến thắng. Nhờ Ngài, chúng ta sẽ được cứu chuộc. Nhờ Ngài, chúng ta không bị thua lỗ trong cuộc đời trần gian.
Nói đến đây, tôi nhớ tới lời ông Giacaria :
- Tự trời cao đã xuất hiện vừng đông, viếng thăm ta và rạng ngời chiếu sáng, những ai ngồi trong bóng tối tử thần, dẫn bước ta vào thẳng lối bình an.
Đức Kitô là ánh sáng. Hãy bước đi theo sự soi dẫn của Ngài để chúng ta đạt tới quê trời hạnh phúc.
Hằng năm cứ vào dịp trước lễ Giáng sinh, chúng ta thường gửi các thiệp chúc mừng cho những người: GS-73
Hằng năm, cứ vào dịp trước lễ Giáng sinh, chúng ta thường gửi các thiệp chúc mừng cho những người thân quen hay chúng ta thường nhận được các thiệp chúc mừng của những người khác. Dù là những lời cầu chúc nào thì nội dung vẫn là : “Chúc mừng một lễ Noel, một lễ Giáng sinh tràn đầy niềm vui”. Lời chúc mừng mà chúng ta cầu chúc cho nhau như thế, không phải là một câu khách sáo, xã giao hay chỉ là một sự biểu lộ tình cảm rất thông thường, nhưng là một lời cầu chúc đầy ý nghĩa và đáng cho chúng ta suy nghĩ.
Long trọng mừng lễ Giáng sinh là chúng ta nhắc lại một biến cố trọng đại : Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc chúng ta . Sự kiện Giáng sinh của Ngài đã chia lịch sử nhân loại ra làm hai phần. Ngày sinh ra của Ngài đã thành mục tiêu để tính thời gian và mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Năm nay là năm 2002 tức là Chúa Giêsu đã Giáng sinh được 2002 năm. Và kỷ nguyên chúng ta đang sống là kỷ nguyên được sống, được hưởng ơn cứu độ của Ngài.
Quả thực, một đứa trẻ sinh ra vào một đêm đông giá rét, trong thôn xóm nhỏ bé Bêlem, thuộc một nước ở vùng cận đông, dưới con mắt người đương thời, không những bình thường mà còn tầm thường hơn những hài nhi khác. Nhưng sự chào đời của Hài nhi này lại là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui là khởi điểm của tất cả các niềm vui và vượt lên trên hết các niềm vui. Bởi vì đây chính là Đấng Cứu Thế, chính ơn cứu độ mà nhân loại đã mòn mỏi chờ mong, trông đợi từ bao nhiêu thế kỷ, nay đã đến, Ngài đã Giáng sinh.
Chúa Kitô đã giáng sinh. Đó là niềm vui to lớn, vĩ đại nhất, như lời sứ thần nói với các mục đồng : “Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân : Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”. Quả thực, đó là tin vui mừng nhất mà thế giới có thể nhận được, đó là khởi điểm của mọi tin mừng, và các biến cố xảy ra sau tin vui này, không có biến cố nào quan trọng hơn.
Khoảng 30 năm sau, người ta lại thấy một thanh niên rảo khắp các nẻo đường nước Palestine, rao giảng Tin Mừng và cuối cùng chết nhục nhã trên thập giá. Đó không phải là một con người bình thường nhưng là một nhân vật khác thường của thế giới và làm thay đổi cả thế giới.
Từ đó đến nay, không ai đã để lại dấu tích sâu đậm trong lịch sử bằng Ngài. Không vị cứu tinh nào đã được nhân loại mong chờ hằng bao đời như Ngài. Không có tên ai năng được nhắc đến như tên Ngài. Không vua chúa nào có thể tự hào được thần dân tùng phục cách trung tín như Ngài. Không có vị ân nhân nào dám tưởng mình được người ta yêu mến, say mê cuồng nhiệt như Ngài. Cho nên, Chúa Giêsu không phải chỉ là một nhà cách mạng, một nhà hiền triết, một vị thủ lãnh hay bất cứ một thứ người quan trọng nào, nhưng Ngài là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người để cứu chuộc loài người.
Thực ra, muốn cứu chúng ta, Chúa Giêsu đâu có cần phải xuống thế, phải nghèo, phải khổ, phải nhục, phải chết. Nhưng tất cả những sự ấy, Ngài đã lãnh nhận chỉ vì Ngài yêu chúng ta, yêu đến tận cùng, yêu không bờ bến. Vì thế, trong các nhà thờ cũng như trong tất cả những gia đình tin kính Ngài, luôn có ảnh tượng Thánh giá, để nhắc nhở mọi người nhớ đến tình yêu cao cả và trọn vẹn của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lễ Giáng sinh là đại lễ, là ngày hội vui của tình thân ái. Thiên Chúa là Đấng đã bắc lên nhịp cầu thứ nhất, nối kết trời với đất, Thiên Chúa với con người khi Con Một xuống thế làm người. Rồi chính Ngài cũng bắc một nhịp cầu thứ hai, nối kết những ai đến với Ngài lại với nhau. Nói rõ hơn, Chúa yêu thương mọi người, Chúa muốn mọi người đáp lại tình thương của Ngài bằng việc yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng nói lên, ca hát lên : “Emmanuen : Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã làm người. Ngài đã đến để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và xin Chúa hãy dùng chúng ta như những cánh cửa nhỏ luôn luôn mở rộng, để Chúa có thể bước qua gặp gỡ mọi người, để mọi người có thể kết thân, quen biết Chúa, quen biết nhau, yêu mến Chúa và yêu mến nhau.
Có thể đây là một điều đáng ngạc nhiên đối với một số người, khi nghe nói rằng ngày sinh thực sự: GS-74
Có thể đây là một điều đáng ngạc nhiên đối với một số người, khi nghe nói rằng ngày sinh thực sự của Đức Kitô không được biết rõ. Vào khoảng năm 300 sau Công Nguyên, người Rôma đã chọn ngày 25 tháng 12 là ngày sinh của Đức Giêsu. Tại sao họ lại chọn ngày đặc biệt này ?
Thời xưa, trước khi chế tạo ra ánh sáng nhân tạo, mùa đông là một mùa kéo dài, tối tăm và ảm đạm. Và tất cả điều này đều do sự kiện vắng bóng mặt trời. Tuy nhiên, dân chúng vẫn biết rằng tới một thời điểm nào đó, mặt trời bắt đầu trở lại, và mọi sự đều được thay đổi tốt đẹp hơn. Do đó, họ có một ngày lễ để cử hành sự kiện này. Người ta gọi đó là ngày lễ của Mặt Trời Không Thể Bị Khuất Phục (Sol Invictus).
Để phản đối lại ngày lễ trần tục này, Giáo Hội chọn ngày 25 tháng 12, đó là một ngày gần với ngày đông chí, để cử hành sinh nhật Đức Kitô. Thay vì tôn thờ Thần Mặt Trời, dân chúng được khích lệ tôn thờ Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Giáo Hội coi ngày đến của Đức Giêsu như là cách làm cho trọn vẹn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia “Dân sống trong tối tăm đã được nhìn thấy ánh sáng vĩ đại”. Đức Giêsu đã sử dụng cùng những thuật ngữ đó, để miêu tả về sứ mạng của Người “Ta là ánh sáng thế gian”.
Tháng 12 là tháng tối tăm nhất trong năm (ở bắc bán cầu). Đó là thế giới mà chúng ta đánh giá được giá trị của ánh sáng. Giáng sinh có nghĩa là ánh sáng của Thiên Chúa đi vào trong cảnh tối tăm của thế giới chúng ta. Anh sáng của Đức Kitô đã làm cho đêm này được rạng ngời lên. Phụng vụ có đầy rẫy những lời ám chỉ về ánh sáng và vinh quang của Thiên Chúa. Một số người đã mô tả ngày lễ Giáng sinh như là một vùng đầy ánh sáng trong cảnh tối đen như mực của mùa đông.
Nếu ánh sáng của Đức Kitô không bao giờ chiếu tỏa ra, thì thế giới sẽ tối tăm biết bao. Dostoevsky, một văn sĩ người Nga, đã mô tả như sau : “Trong khi còn ở trên trái đất này, chúng ta mò mẫm trong bóng tối, ngoại trừ khi có hình ảnh quí giá của Đức Kitô trước mặt chúng ta, nếu không, chúng ta sẽ hoàn toàn lạc lối và bị diệt vong”.
Lời giảng dạy của Đức Kitô thực sự là nguồn ánh sáng cho tất cả những ai biết đón nhận Người. Nhưng vượt lên trên tất cả những hành động và những cuộc gặp gỡ của Người đối với dân chúng, lòng từ ái tỏa sáng của Người đã tự biểu hiện ra. Vô số người vốn sống trong cảnh tối tăm đã đến với Người, và được ra đi sau khi được tắm trong ánh sáng của Người.
Anh sáng của Đức Kitô không chiếu tỏa một lần ở Bêlem, để rồi tắt ngúm. Không giống như mặt trời, ánh sáng Đức Kitô không mọc lên, để rồi lại lặn xuống, mà ánh sáng đó vẫn tiếp tục chiếu tỏa ra trên tất cả những ai tin tưởng và đi theo Người. Anh sáng Đức Kitô là thứ ánh sáng bền bỉ, và có sức mạnh lôi kéo con người đến với ánh rạng ngời của nó. Đây không phải là niềm an ủi hão huyền, hoặc một cách trấn an giả tạo rằng tất cả mọi sự đều tốt đẹp, nhưng thật ra, không phải là như thế. Anh sáng Đức Kitô chiếu tỏa ra ngay giữa cảnh tàn phá, hủy hoại và biến động. Tin Mừng là một ánh sáng bền bỉ và đầy thách thức, mà không một sự tối tăm nào có thể chế ngự được.
Anh sáng Đức Kitô đến như một người bạn. Anh sáng này mang lại sự lành mạnh, nhưng không gây đau đớn, mang lại tự do chứ không phải áp bức, mang lại sự sống chứ không phải cái chết. Những ai đi theo Người sẽ luôn luôn có ánh sáng ban sự sống. Người giảng dạy cho chúng ta biết mình là ai, và vận mệnh của chúng ta ra sao. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được tiền định sự sống đời đời. Trong lòng từ ái của Người, xin Chúa cho chúng ta nếm được niềm vui mà các mục đồng đã cảm nghiệm được, khi ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa ra chung quanh họ, trong đêm Giáng sinh đầu tiên đó.
Mặc dù ý thức hoặc không ý thức, thì cuộc sống của chúng ta vẫn liên kết với nhau. Với tư cách là: GS-75
Mặc dù ý thức hoặc không ý thức, thì cuộc sống của chúng ta vẫn liên kết với nhau. Với tư cách là một thi sĩ. John Donne đã nói “Không ai là một hòn đảo; mỗi người đều là một phần của lục địa”. Tuy nhiên, thế giới lại đầy rẫy cảnh chia rẽ. Chúng ta bị chia rẽ do tầng lớp, chủng tộc, niềm tin, quốc tịch.
Đôi khi, khi có một thảm cảnh xảy ra trong cộng đồng, thì tất cả mọi hàng rào đều đột nhiên sụp đổ. Trong một giây lát, không còn người xa lạ, không còn kẻ giàu người nghèo, không còn Kitô hữu, không còn người Hồi giáo, không còn người Do thái giáo nữa, mà chỉ có anh chị em với nhau trong cùng một con thuyền, cùng giúp đỡ nhau để vượt qua khó khăn.
Dostoyevsky, một văn sĩ người Nga, đã bị cầm tù 4 năm trong trại giam Siberia. Đây là một kinh nghiệm ảm đạm, giúp ông có tương quan với một số người thực sự bị tuyệt vọng. Tuy nhiên, trong cuốn sách của mình, “Những Ký Ức về ngôi nhà của sự chết”, ông đưa ra một bản tường trình sống động về ý nghĩa của ngày Giáng sinh đối với những người đó ra sao.
Ông kể lại rằng trong ngày Giáng sinh, tâm trạng của các tù nhân rất xúc động. Họ cảm thấy mình không còn là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ, bị mất linh hồn, chỉ là những mảnh đời trôi giạt nữa, mà cảm thấy mình được trở nên giống như mọi người, được kết hợp với nhau và với tất cả thế giới. Ngày Giáng sinh đưa họ ra khỏi chính bản thân mình. Ngay cả người nào trong số họ có tính tiết kiệm nhất, cũng nghĩ rằng bổn phận của họ là phải hào phóng trong một ngày như vậy.
Lễ Giáng sinh cũng ảnh hưởng cả trên chúng ta nữa. Ngày lễ này đạt được một sự bình đẳng lớn lao. Trong ngày này, không ai có thể cảm thấy mình ở bên trên người khác. Cũng không có bất cứ người nào cho rằng mình thuộc tầng lớp dưới. Ngày lễ này đặt dấu chấm hết cho tất cả lối phân chia tầng lớp trong xã hội.
Không phải ngày lễ Giáng sinh đẩy lùi chúng ta khỏi tất cả mẫu thức thông thường giống nhau, chẳng hạn như khi người ta cùng chia sẻ một khu vực bệnh viện hoặc một xà lim trại giam. Không phải vậy, ngày lễ Giáng sinh đạt được sự bình đẳng này, không phải bằng cách hạ thấp tất cả chúng ta xuống, nhưng bằng cách nâng tất cả chúng ta lên. Giống như một ngọn sóng nhô lên, nâng cao tất cả những con tàu trên bến cảng, cũng vậy, ngày lễ Giáng sinh nâng tất cả chúng ta lên. Dường như thể chúng ta được đặt lên trên một vùng đất cao vậy.
Nhân danh Đức Kitô, lễ Giáng sinh tụ họp tất cả chúng ta lại với nhau trong cùng một con tàu đồng hành quốc tế vĩ đại. Trong ngày này, chúng ta được sống tình anh em trong tất cả gia đình nhân loại. Đức Kitô đã biến đổi người nước ngoài thành người lân cận, kẻ xa lạ thành người anh em. Đây là một phép lạ của lễ Giáng sinh.
Trong ngày lễ Giáng sinh chúng ta cảm thấy nên một với tất cả mọi người. Chúng ta cảm thấy một niềm ao ước tiếp cận với người khác. Ngày lễ Giáng sinh đưa chúng ta ra khỏi thế giới hẹp hòi, và bẻ gãy những thói quen ích kỷ của chúng ta. Ngày lễ này cho chúng ta khả năng nhìn thấy sự ích kỷ và thành kiến ra sao. Chúng ta được đặt vào quan hệ với loài người nói chung, với nỗi e ngại bị chia sẻ và niềm hy vọng của chúng ta.
Bằng cách này, lễ Giáng sinh đưa đến một niềm hạnh phúc tuyệt vời. Nhưng đó là một niềm hạnh phúc gây náo động, bởi vì nó làm đảo lộn nhiều ưu thế mà chúng ta đã từng sống theo. Bình thường, chúng ta tìm kiếm hạnh phúc bằng cách nhìn vào bản thân mình, và bằng cách tích lũy những của cải vật chất. Nhưng lễ Giáng sinh chỉ ra cho chúng ta thấy rằng chính bằng cách đến với nhau, cởi mở tâm hồn mình ra cho nhau, mà chúng ta tìm thấy hạnh phúc. Chúng ta phải tìm kiếm hạnh phúc từ trong cộng đồng, và chia sẻ với nhau, hơn là theo chủ nghĩa cá nhân và bằng cách tích trữ.
Chúng ta vui mừng mỗi khi được khen ngợi hoặc giành được một giải thưởng. Niềm vui này phát xuất từ sự kiện chúng ta cảm thấy rằng mình tài giỏi hoặc khôn ngoan hơn người khác. Nhưng niềm vui đó chỉ là tạm thời. Niềm vui đích thực xuất phát từ cảm giác mình cũng giống như người khác – yếu đuối, mỏng giòn và hay chết. Đó là niềm vui được thuộc về dòng dõi nhân loại, là niềm vui được sống với người khác, với tư cách là một người bạn, một người đồng hành, một lữ khách đồng chí hướng trên con đường đời.
Đây chính là niềm vui của ngày lễ Giáng sinh : Thiên Chúa trở nên giống như chúng ta. Thiên Chúa trở nên một người đồng hành với chúng ta. Đức Giêsu trở nên Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Người đã tự biến mình thành bạn hữu của chúng ta, người anh, người đồng hành của chúng ta trên đường tiến về Nước Trời. Bằng cách trở nên một với chúng ta, Người đã lấy đi khoảng cách giữa nhân loại và thần thánh. Người làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa.
Trong ngày này, thế giới trở thành một nơi thân thiện với nhau hơn. Thế giới được chiếu tỏa ý nghĩa và niềm hy vọng. Trong ngày này, chúng ta được trao cho một ý nghĩa về sự liên kết sống động với một thế giới khác. Và tất cả điều này chính là nhờ ở “tin vui lớn lao” đã được loan báo cho các mục đồng : “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô, là Đức Chúa”. ---------------------------
Có thể chúng ta bị cám dỗ ghen tị với các mục đồng, bởi vì họ được nhìn thấy Đức Kitô bằng mắt trần: GS-76
Có thể chúng ta bị cám dỗ ghen tị với các mục đồng, bởi vì họ được nhìn thấy Đức Kitô bằng mắt trần, và được đụng chạm vào Người bằng đôi tay. Đối với họ, thật dễ dàng có được lòng tin. Và chúng ta được thuyết phục rằng mọi sự cũng sẽ dễ dàng đối với chúng ta, chỉ với điều kiện chúng ta có thể được nhìn thấy Đức Kitô bằng xương bằng thịt giống như họ.
Vâng, các mục đồng có lợi thế được nhìn thấy Đức Kitô bằng mắt trần. Nhưng phải chăng điều đó làm cho lòng tin trở nên dễ dàng hơn đối với họ ? Tôi không nghĩ như vậy. Nếu họ tin tưởng vào đôi mắt của mình, thì họ sẽ bị thất vọng, bởi vì con người không thể ngay tức khắc nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể nhận ra Đức Kitô là Con Thiên Chúa bằng đôi mắt đức tin, và đức tin là một ân sủng của Thiên Chúa.
Chắc chắn những người thực sự nhìn thấy Đức Kitô nhận thấy rằng họ càng khó mà tin được. Bởi vì họ đã nhìn thấy cái gì? Họ không nhìn thấy, và không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Họ chỉ nhìn thấy một con người bề ngoài có vẻ giống như họ. Điều đó có nghĩa là họ cũng phải làm một động tác của đức tin.
Tuy nhiên, nếu phải tin tưởng vào Đức Kitô, thì chúng ta phải nhìn vào Người theo một cách nào đó. Nhưng làm thế nào mà những con người giống như chúng ta lại có thể nhìn thấy Đức Kitô ? Chúng ta phải làm gì để có được lòng tin ? Cách tốt nhất, chúng ta phải là những môn đệ gián tiếp. Đối với người môn đệ gián tiếp, mọi sự khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn trong những trường hợp khác.
Mọi sự khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu đi vào trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị lu mờ. Nhưng xét về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa đến trên trái đất này đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và do đó, trở nên dễ tin hơn. Trên thực tế, tất cả các môn đệ đều như nhau về cơ bản – tất cả đều phải thực hiện một bước nhảy vọt của đức tin.
Các mục đồng đã nói với nhau “Nào, chúng ta hãy đến Bêlem, để xem sự việc xảy ra, như Chúa đã tỏ cho chúng ta biết”. Tại Bêlem, họ “gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tuy nhiên, họ trở về với đàn chiên của mình “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe”. Bạn có thể nói rằng lúc đi, họ đi bộ, và được trở về bằng đôi cánh. Đó là điều mà lòng tin thực hiện. Lòng tin soi sáng và đem lại sự dịu ngọt cho con người chúng ta trong thế giới này.
Niềm vui là một dấu hiệu chính yếu về chân lý Kitô giáo. Niềm vui này xuất phát trước hết từ chính lòng từ ái nơi Thiên Chúa. Sau đó, từ lòng từ ái nơi những cách cư xử của Người đối với chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa, chúng ta không thể nào hiểu được và không thể nào chịu đựng nổi cuộc sống. Khi người ta cho phép mình tách khỏi quan hệ với Thiên Chúa, hậu quả là họ sẽ bị mất mát khủng khiếp. Một khoảng trống khổng lồ sẽ xảy ra.
Phúc cho những ai nếm được niềm vui của sự tin tưởng, của niềm phấn khích từ lòng tin nơi Thiên Chúa, của trạng thái ngây ngất nhờ chú tâm vào lời mời gọi thần thánh, và được nắm chặt vào đôi tay đang mở rộng của Thiên Chúa. Trong ngày lễ Giáng sinh, lòng chúng ta tràn đầy thắc mắc về sự gần gũi của Thiên Chúa. Có người nào đó đang nhìn vào chúng ta. Có người nào đó đang canh giữ chúng ta. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể chống lại chúng ta ? Bằng sự hiện diện của chúng ta ở đây, về mặt ý nghĩa, chúng ta có thể thực hiện một cuộc hành trình đến Bêlem. Chúng ta đang nghe được thông điệp mà các sứ thần gửi tới những mục đồng.
Xin Chúa giúp chúng ta thực hiện được một bước nhảy vọt của lòng tin, để chúng ta có thể cảm nghiệm được một vài nét của tin vui lớn lao đã được loan báo cho các mục đồng. Điều này sẽ đem đến cho chúng ta một tâm hồn mới, trong khi chúng ta đang trên cuộc hành trình tiến tới Bêlem trên trời, là nơi chúng ta được nhìn thấy Người diện đối diện, không phải trong tư cách là một hài nhi, mà là trong vinh quang của Người.
Lần kia có một nhóm người trẻ tuổi đang tranh luận với nhau về ý nghĩa của ngày lễ Giáng sinh. Trong: GS-77
Lần kia, có một nhóm người trẻ tuổi đang tranh luận với nhau về ý nghĩa của ngày lễ Giáng sinh. Trong nhóm đó, có một phụ nữ lớn tuổi hơn, mà họ không quen biết. Tuy nhiên, cuối cùng, khi chị có dịp phát biểu ý kiến, thì họ đều xúc động sâu xa về những lời chị nói.
Những lời chị phát biểu phát xuất từ chính tâm hồn của chị. Chị nói với họ rằng chị đã từng sợ hãi mỗi khi đến lễ Giáng sinh. Chị là một người con độc nhất. Cha mẹ của chị đều đã qua đời. Chị không có chú bác cô dì, không hề có ai là họ hàng thân thiết. Chị là người cuối cùng trong gia đình của chị. Vào dịp lễ Giáng sinh, chị đã từng gửi thiếp chúc mừng và những món quà tặng đến các bạn bè, nhưng không một người nào trong số họ nghĩ đến việc mời chị đến nhà họ trong ngày lễ Giáng sinh.
Chị đã trải qua ngày lễ Giáng sinh như thế nào ? Chị chỉ có một mình, mặc dù chị không có cách nào sống ẩn dật. Sau thánh lễ sáng sớm, chị đi ra ngoài làm một số công tác tình nguyện. Sau đó, chị trở về nhà, nấu bữa tối, và ăn một mình. Chị mở tivi, nhưng tivi không thay thế được sự hiện diện của một con người nào đó bên cạnh.
Chị khóc rất nhiều. Chị không thể nào chịu đựng được. Buổi tối, chị hay đi dạo. Nhưng trong đêm lễ Giáng sinh, khung cảnh bên ngoài cũng để lại cho chị cảm giác cô độc. Hầu như các đường phố và công viên đều vắng lặng. Tất cả các cửa đều đóng kín. Chị cố gắng gọi cửa một ngôi nhà thờ địa phương, nhưng cánh cửa cũng bị khóa chặt. Dường như không hề có một căn phòng nào trong bất cứ ngôi nhà nào dành cho chị. Vì thế, chị không có một chọn lựa nào khác, ngoài việc quay đầu trở lại nhà. Khi về đến nhà, nỗi cô đơn lại đến với chị.
Nhưng rồi đến phần hay nhất trong câu chuyện của chị. Chị đã kể lại làm thế nào mà, ngay chính giữa nỗi cô đơn và đầy nước mắt đó, chị lại cảm thấy thật gần gũi với Đức Kitô ra sao. Chị cảm thấy mình gần gũi với nỗi khổ đau của Người. Chị nhận ra theo một ý nghĩa rất có thật, rằng chính Người cũng là một kẻ bị gạt ra bên ngoài trong ngày Giáng sinh đầu tiên – không hề có một căn phòng nào dành cho Người trong quán trọ. Và mặc dù thế, những giòng nước mắt của chị vẫn tiếp tục tuôn chảy, chị cảm nhận một niềm hạnh phúc nội tâm không thể nào diễn tả ra hoặc giải thích được. Tại sao vậy ? Bởi vì Đức Kitô đem đến một ý nghĩa cho nỗi cô đơn và đau khổ của chị. Người đến chia sẻ cuộc sống của chúng ta, để giúp chúng ta mang lấy những gánh nặng của mình, và để cùng bước đi trên con đường đời với chúng ta. Đó chính là ý nghĩa của ngày lễ Giáng sinh.
Đối với người phụ nữ này, chị thiếu mất thứ trang trí cho ngày lễ Giáng sinh. Nhưng chị đã có được điều chính yếu : Đức Kitô ở cùng chị.
Đức Kitô cũng hiện diện cả với chúng ta nữa. Người hiện diện không phải là với tư cách của một ký ức mơ hồ về một người đã sống từ trước đây rất lâu, mà là một sự hiện diện đích thực, ban sự sống mới để thay đổi chúng ta và cách chúng ta nhìn vào cuộc sống của mình. Người không ban cho chúng ta khả năng trốn thoát khỏi điều kiện sống của nhân loại. Người không chia sẻ với chúng ta tất cả những tranh chấp, tất cả sự hay thay đổi, tất cả nỗi đau khổ, tất cả tình trạng nghi ngờ. Người không ban cho chúng ta một tôn giáo mà không có thánh giá. Đức Kitô đến để bày tỏ tình liên đới với chúng ta. Người đến để chỉ ra cho chúng ta đích đến của hành trình cuộc đời, và cùng đồng hành với chúng ta trên con đường đó. Người ban cho chúng ta niềm hy vọng, ý nghĩa, tình yêu thương, sự nâng đỡ, nhưng chúng ta vẫn phải mang lấy những gánh nặng đó, vẫn phải chịu đựng những mất mát và đau yếu. Nhưng mọi sự không còn như trước nữa, bởi vì Người đã đến ở giữa chúng ta, và chia sẻ những gánh nặng đó với chúng ta.
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành: GS-78
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc sáng trong tay, chạy đi thắp từng chiếc đèn này qua chiếc đèn khác dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đằng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sưc thâm thúy : “Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết : “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người”.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng chí tôn. Vậy mà, con người tội lỗi chưa kịp lên tận trời cao để xin tạ tội, thì Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, để cứu chuộc và yêu thương họ hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết : “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia : “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết : “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.
Anh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán : “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống”.
Mừng lễ Giáng sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho ánh sáng : là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách”.
Giáng sinh là một biến cố Nhập thể. Nhập thể có nghĩa là Con Thiên Chúa xuống thế, mang lấy thân: GS-79
Giáng sinh là một biến cố Nhập thể. Nhập thể có nghĩa là Con Thiên Chúa xuống thế, mang lấy thân phận con người chúng ta, để ban cho chúng ta tư cách làm con cái Thiên Chúa. Mầu nhiệm Nhập thể là một mầu nhiệm của tình yêu. Ngày lễ đó xây dựng nơi tâm hồn của mỗi Kitô hữu một đức tin. Như thế, chắc chắn Giáng sinh là một ngày lễ quan trọng.
Có một câu chuyện kể về một người ngay chính tốt lành, đã thắc mắc về biến cố Nhập thể. Ông không thể tin được rằng Con Thiên Chúa lại trở nên một người trong chúng ta, và Người còn là một con người quá tốt lành, không hề giả tạo. Vì thế, cứ mỗi đêm lễ vọng Giáng sinh, khi vợ con ông đi lễ, thì ông ở nhà không đi.
Một lát sau, khi cả nhà đi khỏi rồi, trời bắt đầu đổ tuyết. Ông đến bên cửa sổ nhìn cảnh tuyết rơi. Ông suy nghĩ “Nếu chúng ta phải có ngày lễ Giáng sinh, thì hãy cứ để cho đó là một ngày lễ trắng toát”. Sau giây lát, ông nghe thấy có tiếng đập cửa. Và cứ liên tục như thế, hết tiếng này đến tiếng khác. Dường như thể có ai đó đang ném những quả bóng bằng tuyết vào cánh cửa sổ phòng khách.
Ông đi ra cửa trước để xem cho rõ. Tại đó, ông nhìn thấy một bày chim thật tội nghiệp cứ xúm xít lại với nhau trong tuyết. Chúng bị bão đánh, và đang tuyệt vọng mong được có nơi nương tựa. Chúng đã nhìn thấy ánh sáng và đang bay vào cửa sổ.
Ông nghĩ “Mình không thể để cho những sinh vật nhỏ bé này nằm đó mà chết rét được. Nhưng mình có thể làm gì được đây ?”.
Rồi ông nhớ ra cái nhà kho, chỗ đó sẽ cung cấp cho bày chim một nơi che chở ấm áp. Ông khoác áo vào, lội qua quyết để xuống nhà kho, rồi bật đèn lên. Nhưng bầy chim lại không muốn bay vào .
Ông suy nghĩ “Hay mình mang thức ăn ra cho chúng”. Thế rồi ông rải lúa mì ra khắp lối đi vào nhà kho. Nhưng bầy chim vẫn không chịu bay vào. Sau đó, ông cố gắng lùa chúng vào kho, bằng cách vẫy tay đi quanh chúng. Nhưng chúng thấy động, nên đã bay tản mác tứ phía.
Ông tự nhủ “Chắc chúng thấy mình là vật lạ, một sinh vật đáng sợ chăng ? Thế thì chỉ có một cách là làm cho chúng tin vào mình mà thôi”.
Vừa lúc đó, chuông nhà thờ đổ hồi. Ông cứ đứng đó thinh lặng, khi tiếng chuông vang lên mừng lễ Giáng sinh. “Lời đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta”.
Ông quì xuống trên tuyết, rồi nói “Lạy Chúa, bây giờ con mới hiểu được vì sao Người phải trở nên một người trong chúng con”.
Nếu bạn muốn thực sự am hiểu và tiếp xúc với những người bình thường, thì bạn phải đến một nơi mà không ai nhận ra bạn. Bạn phải thấy những gì họ thấy, nghe những gì họ nghe, sống những gì họ sống. Thấu hiểu được điều đó một cách trừu tượng, thì khác với cảm nghiệm về điều đó bằng toàn thể sự hiện diện của bạn.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến gần chúng ta trong thân phận con người. Người đã trở nên một người trong chúng ta. Người sống giữa chúng ta. Đức Giêsu là một món quà Giáng sinh mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta. Đây không phải là một tình yêu ngăn cách, mà là một tình yêu rất gần gũi.
Thiên Chúa gặp gỡ chúng ta ngay tại nơi chúng ta ở. Người mang lấy nhân tính trên mình Người. Điều này có nghĩa là chúng ta không được khước từ hoặc từ bỏ nhân tính của mình, để được nhận biết về Thiên Chúa. Người đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng phải sống đầy đủ nhân tính của chúng ta như thế nào. Tôn giáo và sự thánh thiện đã trở nên rất thực tế. Người ta không còn nhận ra những yếu tố này bằng tinh thần và bằng nước Thiên Đàng nữa, nhưng là bằng chính thân xác và thế gian này.
Bằng cách trở nên một con trẻ, chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào điều kiện sống của con người. Thiên Chúa đã cất đi khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người. Chúng ta không còn e ngại một đứa trẻ nhỏ bé nữa.
Đức Giêsu đã trở nên một người anh em với chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì, nếu không có Người ? Một câu nói trừu tượng về Thiên Chúa có thể để lại nơi chúng ta một cảm giác trống rỗng. Chúng ta cần có Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, một con người giống như chúng ta, cũng đi giày lội bộ xuống phố, để dạy dỗ cho chúng ta đường lối của Thiên Chúa. Và đó đúng là điều mà chúng ta dâng thánh lễ đêm nay.
Con Thiên Chúa đã đến với chúng ta không như một vị quan tòa, nhưng là một Đấng Cứu Độ. Người đến để mặc khải cho chúng ta nhân phẩm thần thánh của chúng ta, với tư cách là con cái Thiên Chúa, và vinh quang của định mệnh đời đời của chúng ta trên thiên đàng. Đây là Tin mừng. Đây là sự vui mừng lớn lao mà sứ thần đã loan báo cho các mục đồng, và cũng là được loan báo cho chúng ta đêm nay. Chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận Tin mừng đó.
Đôi khi có người nói rằng tôn giáo là sự trốn thoát khỏi những thực tế đau xót của cuộc sống. Đây là: GS-80
Đôi khi, có người nói rằng tôn giáo là sự trốn thoát khỏi những thực tế đau xót của cuộc sống. Đây là một điều hoàn hoàn hiểu lầm. Không gì có thể làm ta rời xa sự thật được.
Chúng ta hãy xem chuyện kể về các mục đồng. Vào thời Đức Giêsu, địa vị xã hội của các mục đồng thật thấp kém. Tình trạng này hiện vẫn còn có ở nhiều quốc gia. Mặc dù họ có một nhiệm vụ không kém phần quan trọng, nhưng kiến thức của họ mù mờ, không nhận thức rõ gì cả. Chẳng ai để ý đến họ, mặc dù Tin mừng về ngày sinh của Đức Giêsu đã được loan báo cho họ, và chỉ có những người này đón nhận tin tức về ngày sinh đó mà thôi.
Chúng ta có thể hình dung họ đang sống trong một miền quê yên tĩnh, chăn dắt đàn cừu. Đời sống của họ nghèo nàn và tăm tối. Nhưng điều này chỉ có nghĩa là họ sẵn sàng đón nhận Tin mừng. Thiên Chúa đến cách đặc biệt với những người nghèo khổ, và họ là những người không sợ đón nhận điều đó. Nghèo nàn về vật chất là loại nghèo rõ rệt nhất, nhưng còn có một loại nghèo khác xấu xa hơn, đó là nghèo nàn về tinh thần.
Trong khi các mục đồng bị xếp vào giai cấp thấp hèn, thì Tin Mừng lại đến với họ. “Hôm nay, tại thành Bêlem, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho các ngươi. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”. Thiên Chúa đến với họ ngay bên trong cuộc đời của họ, khi họ đang chăn dắt bầy chiên. Tôn giáo không nhắm đến việc tìm kiếm Thiên Chúa ở bên ngoài cuộc sống, nhưng là ở ngay bên trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta hãy tìm kiếm Thiên Chúa ở ngay nơi chúng ta sinh sống, giữa những công việc hàng ngày – trong gia đình, nơi buôn bán, khi làm việc trong văn phòng…
Sau khi được đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa, các mục đồng đã không ngồi lại. Sứ điệp đó đòi hỏi họ phải hành động, phải ra đi và tìm kiếm con trẻ. Vì thế, họ đã làm một hành trình đi đến Bêlem, và đã được nhìn thấy đúng như lời loan báo của các sứ thần. Bằng con mắt hướng ra bên ngoài, tất cả các mục đồng đã nhìn thấy một con trẻ “quấn khăn nằm trong máng cỏ”. Nhưng với con mắt hướng vào bên trong – con mắt đức tin – họ đã nhận ra con trẻ này là Đấng Cứu Độ, đã được Thiên Chúa sai đến.
Rồi khi niềm phấn khởi lắng xuống, và ánh sáng đã mờ nhạt, thì họ vẫn phải đương đầu với bóng tối và giá lạnh. Nhưng Tin Mừng kể cho chúng ta “Họ trở về, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa, vì tất cả những điều họ đã được nghe và được thấy”. Họ trở về với bầy súc vật, trở lại với công việc thấp hèn, trở lại với cuộc sống mịt mù của họ. Không có gì thay đổi cả, mặc dù mọi sự đều đã được thay đổi. Cuộc sống vẫn tiếp diễn như trước, nhưngbằng một sự khác biệt lớn lao : bây giờ, tâm hồn họ đầy sự vui mừng đáng kinh ngạc.
Các mục đồng đã có một cái nhìn mới, một hy vọng mới, một ý nghĩa mới về tình yêu của Thiên Chúa, và về sự hiện diện của Người với họ. Cách đây không lâu, cuộc sống của họ tối tăm vô nghĩa, giờ đây, được tràn đầy ý nghĩa. Thế giới cũ đã trở nên giống như một quê hương mới, trong đó, mọi sự đều lạ lùng.
Mặc dù không nhìn thấy các sứ thần, nhưng chúng ta cũng đã được nghe sứ điệp của các ngài. Đêm nay, chúng ta đã đến viếng con trẻ. Giống như các mục đồng, chúng ta phải nỗ lực để nhìn xem Người với con mắt đức tin. Bằng cách này, chúng ta sẽ không chỉ nhìn thấy một hài nhi dễ thương, mà chúng ta còn nhìn thấy Đấng Cứu Độ của chúng ta nữa – Đó là Đức Kitô, Đức Chúa – Chúng ta được nhìn thấy quà tặng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta được nhìn thấy Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở với chúng ta.
Rồi giống như các mục đồng, chúng ta cũng phải trở về nhà, và tiếp tục cuộc sống đời thường của mình. Nhưng chúng ta hãy hy vọng rằng chúng ta sẽ ra về trong tâm trạng vinh danh và chúc tụng Thiên Chúa, vì lòng từ tâm của Người đối với con người bình thường, và đôi khi, với cả những công việc chán nản, tạo nên đời sống hằng ngày của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng được nhìn thấy bằng một cách thế khác hẳn. Bởi vì chúng ta đã nhận thấy sự khác biệt. Nơi Chúa Hài Đồng, chúng ta được nhận ra thiên tính của chính chúng ta.
Tôn giáo không phải là cách trốn thoát khỏi cuộc sống. Hơn thế nữa, tôn giáo còn hướng dẫn con người đến một giao kết sâu xa hơn với cuộc sống. Chúng ta phải học hỏi cách thức để đến gần Thiên Chúa, và Thiên Chúa có thể gần gũi với chúng ta như thế nào, giữa trường đời đầy đau khổ và vui mừng lẫn lộn. Trong sự ra đời của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã tự nhận chìm vào trong thế giới hỗn độn, với những lối sống lộn xộn của chúng ta.
Tôn giáo không trốn thoát cuộc sống. Tôn giáo nói lên niềm khao khát sâu xa nhất của con người. Tôn giáo trải rộng ra khắp cuộc sống con người, bổ sung thêm một chiều kích giúp chúng ta sống đời sống nội tâm, đó là một cuộc đời chóng qua và không ổn định, mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống, và sống dồi dào.
Nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta cảm nghiệm được niềm vui mừng lớn lao, đã được loan báo cho các mục đồng. Niềm vui này phát xuất từ sự hiện diện của Thiên Chúa ở với chúng ta, yêu mến chúng ta. Sự vui mừng là một trong những dấu chỉ lớn lao nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Có ai đó đang bảo vệ chúng ta, có ai đó đang săn sóc chúng ta, và có ai đó đang ở với chúng ta. Thiên Chúa ở với chúng ta trong chính Con của Người – Đức Giêsu. Và nếu Thiên Chúa ở với chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta ?
Trong cuốn tự thuật Một hài nhi duy nhất, Frank O’Connor, một tác giả người Ai Nhĩ Lan đã kể cho chúng: GS-81
Trong cuốn tự thuật Một hài nhi duy nhất, Frank O’Connor, một tác giả người Ai Nhĩ Lan đã kể cho chúng ta nghe câu chuyện về ông già Noel đã mang đến cho ông một đồ chơi bằng máy. Vào buổi chiều ngày lễ Giáng sinh, ông được mẹ đưa đi thăm một nhà dòng nữ tại địa phương. Khi đi, ông mang theo món đồ chơi bằng máy đó, rồi khoe với các nữ tu, vì đó là một quà tặng duy nhất mà ông có được.
Khi còn đang ở trong tu viện, các nữ tu đã dẫn ông đi viếng máng cỏ nhà nguyện. Nhìn vào máng cỏ, ông nhận thấy có một điều làm cho ông cảm thấy rất khó chịu. Đó là ông thấy Chúa Hài Đồng không hề có một món quà nào cả. Ông biết chắc chắn cảm giác của Chúa Hài Đồng như thế nào rồi : Đó là một cảm giác hoàn toàn thất vọng, vì bị quên lãng, bởi vì không có ai mang gì đến tặng cho Chúa Hài Đồng. Rồi ông quay sang hỏi người nữ tu là tại sao Chúa Hài Đồng không có quà, người nữ tu đó trả lời ngay “Bởi vì Mẹ của Người quá nghèo, nên không thể mua quà cho Người được”.
Mẹ ông cũng nghèo, nhưng vào ngày lễ Giáng sinh, bà đã luôn luôn quan tâm mua cho con trai một thứ gì đó, mặc dù chỉ là một hộp bút chì màu thôi. Đột nhiên, bằng một cách thế quảng đại không hề tính toán, ông đã leo vào máng cỏ, rồi đặt món đồ chơi bằng máy của mình vào giữa hai cánh tay đang giang rộng của Chúa Hài Đồng. Và ông còn chỉ cho Hài Nhi cách vặn dây cót ra sao cho tốt nữa, bởi vì e rằng Hài Nhi chưa đủ thông minh để hiểu được điều đó.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy được sức mạnh của ngày lễ Giáng sinh. Qua dịp lễ Giáng sinh, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một cơ hội, để chỉ cho chúng ta thấy chúng ta có khả năng làm điều gì. Tất nhiên là Người đã lấy chính Người làm ví dụ. Người bắt đầu bằng cách làm cho chúng ta một món quà mà Người yêu quí nhất – Đó là Con Một của Người.
Con Thiên Chúa có thể đến trong quyền lực và giàu sang. Nếu Người đến trong quyền lực, chúng ta sẽ cúi mình trước Người vì sợ hãi. Do đó, Người sẽ làm cho chúng ta cảm thấy mình quá nhỏ bé, yếu đuối và không đáng kể. Nếu Người đến trong giàu sang, Người sẽ làm cho chúng ta ý thức về sự nghèo nàn của mình. Do đó, Người sẽ khơi gợi một cảm giác thèm khát nơi chúng ta, và làm cho tâm hồn chúng ta bị hủy hoại nghiêm trọng.
Nhưng Người đã không đến trong quyền lực và giàu sang, mà đến trong cảnh yếu đuối và nghèo nàn. Bằng cách đến trong sự yếu đuối, Người sẽ làm cho chúng ta ý thức về quyền lực của mình. Bằng cách đến trong sự nghèo nàn, Người sẽ làm cho chúng ta ý thức về sự giàu có của mình. Sự nghèo nàn của Người gây ra nơi chúng ta cảm giác cảm thương, bằng cách đó, Người đưa tâm hồn chúng ta đến với cuộc sống.
Sự nghèo nàn của Con Trẻ Giêsu đã khơi gợi một hành động quảng đại không hề tính toán trong thời thơ ấu của Frank O’Connor. Sự nghèo nàn của Đức Giêsu đã khiến cho các nhà đạo sĩ mở kho tàng của họ ra, và đặt tất cả dưới chân Người. Sự nghèo nàn của Đức Giêsu là một thách đố cho cả chúng ta nữa. Điều đó đem đến cho chúng ta một cơ hội để mở tâm hồn của mình ra. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta. Nhưng những người khác có thể cần. Người muốn chính chúng ta phải biết chia sẻ cho người khác.
Giáng sinh là một ngày lễ của tâm hồn. Ngày lễ đó mạc khải cho chúng ta về tâm hồn của Thiên Chúa. Đồng thời, cũng mạc khải cho chúng ta những gì mà tâm hồn con người có khả năng làm được. Lễ Giáng sinh khiến cho chúng ta mở tâm hồn ra. Và mở rộng tâm hồn là phải biết bắt đầu sống. Điều làm cho chúng ta sống kiếp người không hệ tại quá nhiều ở khả năng suy nghĩ, cho bằng ở khả năng yêu thương. Khi mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta sẽ cảm nhận được “sự vui mừng lớn lao” mà sứ thần đã loan báo cho các mục đồng. Niềm vui là hoa quả của tình yêu. Niềm vui là một tâm hồn trào dâng. Mến chúc anh chị em có được niềm vui lớn lao đó trong đêm nay.
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau: GS-82
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ : một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì, khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên : - Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. “Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta “. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia : “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa : Thánh Gioan viết : “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa”.
Giáng sinh là mùa tặng quà : “ Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa : “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức: GS-83
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như lời nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là diễn tả ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại trên thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh mà tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội sống xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov, cũng vào mùa Giáng sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người chúng ta.
* Đối với xã hội: Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy quang cảnh:
Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ dân, bao cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh Thiên Chúa trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo một xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.
* Đối với gia đình:
Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh nặng, chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức Mẹ đã tới ngày "mãn nguyệt khai hoa", vẫn sẵng sàng lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất, ra đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui sống trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ, đưa lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
* Đối với cá nhân:
Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa thật là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng của Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà vô giá ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.
Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba, chúng ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ mà khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả, nhưng chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng con xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em chung quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh phúc. Ước chi niềm vui Giáng sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.
Nhớ lại những năm trước 1975, mỗi mùa Giáng sinh về là mọi người cầu mong cho có hoà bình, nhất: GS-84
Nhớ lại những năm trước 1975, mỗi mùa Giáng sinh về là mọi người cầu mong cho có hoà bình, nhất là các chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Đêm Giáng sinh quả thật là đêm tuyệt vời, hạnh phúc, vì hai bên quân sĩ được lệnh ngưng bắn để mừng lễ. Những trái hoả châu được bắn lên trời không phải chiếu sáng soi trong đêm tối. Thánh lễ nữa đêm được cử hành hầu hết tại các doanh trại đóng quân, những ngọn nến không đủ áng sáng chiếu rõ những khuôn mặt sạm nắng, nhưng đấy là niềm tin, hân hoan cùng nhân loại, đón mừng Đấng Cứu Thế, và cùng cầu xin bình an mau đến, cho mọi người được sống yên lành như đêm Giáng sinh này.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người lòng ngay. Tiếng hát đã được các Thiên thần hát mừng Chúa ngày xưa, nay lại được vang lên nơi miệng các tín hữu. Vậy, ai là người lòng ngay để được hưởng sự bình an của Chúa?
Khi Chúa sửa soạn chào đời, loài người đã xua đuổi không nơi trú ẩn, phải tới nơi hang bò tạm trú như kẻ không nhà, khi vừa mới chào đời đã phải chạy trốn như kẻ phản loạn vì Herode ra lệnh tìm giết. Khi đi giảng đạo thì bị nhiều người chế nhạo, phỉ báng, sau cùng bị giết chết nhục nhã giữa những người tội lỗi.
Chúa Giêsu, Người mang Tin Mừng đến cho nhân loại, Đấng mang bình an đến cho muôn dân, đã bị xua đuổi và bị giết như thế thì bình an làm sao đến được. Con người đã và đang từ chối sự có mặt của Thiên Chúa nơi trần gian. Cho đến ngày nay đã hơn hai ngàn năm rồi, có bao nhiêu người đón nhận Chúa? Còn bao nhiêu người chưa nhận biết Chúa? Bình an sao được khi các nước giầu có đang gieo rắc chiến tranh nơi các nước nghèo, chỉ vì muốn củng cố nền kinh tế cho nước mình. Khi những người lãnh đạo các quốc gia chỉ biết củng cố địa vị, bất chấp luân thường đạo lý, lo lắng cho danh vọng của mình hơn là lo lợi ích chung cho toàn dân. Khi vợ chồng còn ghi kỵ, cấu xé, làm khổ cho nhau hơn là yêu thương nhau hết lòng. Khi cha mẹ không dạy dỗ, làm gương sáng cho con cái, lo mưu kế sinh nhai hơn là việc giáo dục đoàn con. Khi các thanh thiếu niên sống phóng túng , tự cho mình là giỏi, coi thường cha mẹ và luật pháp, sống theo sự đòi hỏi của xác thịt, mất niềm tin vào Thiên Chúa. Bình an sao được khi mỗi cá nhân còn đầy dẫy lòng tham, làm những điều bất chính, lỗi đức cồng bình, bác ái. Khi tâm hồn còn chứa chất những căm hờn, ganh tị, những tham vọng về danh lợi, và còn biết bao nhiêu những lo âu, phiền muộn phải đương đầu trong cuộc sống hằng ngày làm cho tâm hồn bấn loạn, giờ đâu mà nghĩ tới Chúa. Lạy Chúa, con yêu Chúa, mỗi tuần con cố tới nhà thờ một lần là đủ rồi vì con bận rộn quá!
Trần gian này làm sao có thể có bình an được khi con người chưa sống hết lòng cho Chúa và những sự kiện trên còn tiếp diễn mỗi ngày. Chúng ta hãy nghĩ lại chính thân mình, trong những năm tháng qua và tự hỏi mình đã sống cho Chúa được bao nhiêu? Có khi nào mình nhận biết sự tốt lành của Chúa qua mỗi hơi thở, miếng ăn, giấc ngủ, và đầy đủ các tiện nghi mình đang được hưởng chăng? Tất cả mọi sự đã được tạo dựng nên cho ta và vì ta, có khi nào ta cảm tạ ơn Chúa cho đủ?
Món quà quý trọng nhật mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là Đức Giêsu Kitô, chúng ta đã đón nhận Ngài như thế nào? Ngài đang hiện diện giữa chúng ta và trong bản thân chúng ta. Bình an của Chúa sẽ đến với ai biết nhận ra Chúa Giêsu trong con người của mình, nơi anh em, bà con lối xóm mình, để không còn tranh chấp, lừa đảo, ghen ghét, hận thù. Bình an sẽ đến với ai biết sống công bình, bác ái, coi của cải thế gian chỉ là dụng củ bổ túc cho cuộc sống con người. Biết đem tình thương vào nơi oán thù, đem chân lý vào chốn lỗi lẫm như lời Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh năm nay, gợi lại con chúng con sự Bình an mà Chúng con mong đợi. Xin Hướng dẫn chúng con có đầy sự khôn ngoan, hiểu biết những mầu nhiệm trong đạo, để yêu mến Chúa hơn là yêu mến những sự thuộc về thế gian. Xin cho chúng con biết chia sẻ tinh thần cũng như vật chất với anh em, bà con. Xin cho chúng con được đặt hết tin tưởng và hy vọng vào Chúa, để tâm hồn chúng con được Chúa ngự, vì chính Chúa là sự Bình An cho chúng con.
“Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra con” (Do thái 1:5).
Đêm Bethlehem giờ đây đã qua đi, Người Con đã được sinh hạ bởi Đức Trinh nữ thành Narazeth! Ngài: GS-85
Đêm Bethlehem giờ đây đã qua đi, Người Con đã được sinh hạ bởi Đức Trinh nữ thành Narazeth! Ngài được sinh ra trong máng cỏ, một máng cỏ được tìm thấy bên đường, “vì không có chỗ cho các Ngài trong quán trọ” (Lc 2:7)... “Ngôi lời là Thiên Chúa” (Gn 1:1): được sinh ra đêm này ở Bethlehem là Người Con, đồng bản tính với Chúa Cha, đã trở thành con người. “Và Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Gn 1:14).
Trong Ngôi Lời là sức mạnh của ân sủng và sự thật, được Ngài ban cho tất cả những ai đón nhận Ngài và trở nên con Thiên Chúa (Xem Gn 1:12): nên con cái trong Người Con. Một tặng ân khôn tả! Một tặng ân thăng hoá tất cả tạo vật. Nó biến đổi con người sinh bởi xác thịt và máu huyết (Xem Gn 1:13). Đây cũng là lúc tặng ân đem con người trở lại tình trạng hoàn hảo, làm cho họ giống như tình trạng ban đầu, đem họ trở lại tình trạng hoàn toàn đồng hình dạng với Thiên Chúa.
“Bất cứ ai hành động theo ơn Thần Linh Thiên Chúa, đều là con cái Thiên Chúa” (Rom 8:14). Họ lành nhận tinh thần con cái, nhờ đó, họ có thể kêu lên như Chúa con: “Abba! lạy Cha!” (Rom 8:15)
Thế giới tràn ngập khổ đau, khổ đau muôn hình vạn trạng. Dường như không có thể chữa lành hoàn toàn điều làm cho con người đau khổ trong các cơ cấu hiện hữu của họ. Đây là những cơ cấu ghi dấu tội lỗi. Luôn luôn là tội của mọi người, tội lớn lên và thấm nhập vào nhiều lãnh vực của đời sống nhân loại. Vì vậy, tội trở lại với con người như sự đau khổ. Mặc dầu có nhiều cố gắng khai trừ sự thật này, nhưng sự thật vẫn còn đó. Từ đó, Thánh Tông đồ tuyên bố: “Mọi vật thụ sinh mãi tới nay vẫn còn rên xiết và quằn quại” (Rm 8:22). Điều đó có phải muốn nói rằng đời sống tự nó là điều xấu không? Đời sống đó có phải tự nó là một hình thức khổ đau không?
Ồ đêm Bethlehem! Đây là các bạn trả lời: “Tất cả tạo vật nao nức mong đợi sự mặc khải con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19). Tất cả thụ sinh chờ mong... Trần gian hy vọng... “Thánh Thần nâng đợ sự yếu hèn của chúng ta” (Rm 8:26): Trần gian được cuộc Giáng Sinh thấn nhập qua, biến cố đã có nguồn gốc vĩnh cửu trong Thiên Chúa Cha và tụ điểm của nó trên trần gian ở đêm Bethlehem này, để Giáo hội của Ngôi Lời nhập thể hằng năm có thế quay về đó và luôn sinh động bở đó. Những đau khổ hiện tại có thể so sánh với vinh quang đã được mạc khải cho chúng ta không? (Rm 8:18)
Xin Ngôi Lời Nhập thể mạc khải cho thế giới chúng con, được ghi dấu những thử thách lịch sử, sự vinh quang và hạnh phúc sẽ đến. Xin nâng đỡ sự can đảm, gìn giữ vững mạnh sự dấn thân của giới trẻ hôm nay, thuộc mọi chủng tộc, mọi quốc gia: Họ cần ánh sáng trước ngưỡng thềm của đệ tam thiên niên kỷ, đế chấp nhận những đòi hỏi của Tin mừng, Tin mừng giải thoát và cứu độ.
Chúa Giêsu là con người trong muôn vàn con người trên trần gian, ước mong gặp gỡ mọi người trong chân lý. Chỉ có Ngài, lạy Ngôi Lời Nhập thể, sinh bởi Đức Maria, có thể làm cho chúng ta, nên anh chị em, nên con cái trong Người Con, những con cái trong hình ảnh của Người Con. Từ Ngài, Người Con của Đức Maria, Con người, xin mạc khải sự vinh quang cho chúng con, để trong Ngài chúng con có thể kêu lên “Abba! Cha!” Nhờ Ngài .... Amen
John Paul II (Vi Ti Chuyển ngữ từ lời chúc mừng Giáng Sinh cho thành Rôma và thế giới 12/1991)
Khi đặt vòng hoa tại nghĩa trang lính Đức, tổng thống Reagan (1984-1992) kể lại câu truyện xẩy: GS-86
1. Khi đặt vòng hoa tại nghĩa trang lính Đức, tổng thống Reagan (1984-1992) kể lại câu truyện xẩy ra ngày lễ Noel 1944 như sau:
Một cuộc chiến ác liệt diễn ra giữa quân đội Hoa Kỳ và Đức gần một khu rừng. Ba người lính Mỹ, có một bị thương, đã chạy lạc vào khu rừng tối một căn nhà hẻo lánh của một bà góa có một đức con trai. Họ vào nhà xin ăn. Bà chủ chỉ còn đủ ăn một bữa, nhưng cũng nhường cho ba người lính Mỹ ăn. Họ vừa ngồi xuống, bên ngoài có tiếng gõ cửa. Bà chủ biết là lính Đức, bà can đảm la lớn: Xin các người đừng chém giết trong nhà tôi trong ngày lễ Noel. Rồi bà mở cửa. Bốn lính Đức để súng ngoài cửa, vào cùng ngồi ăn với ba lính Mỹ. Một anh lính Đức là sinh viên y khoa đã băng bó cho anh thương binh Mỹ. Họ đã quyết định sống hòa bình trong ngày lễ Noel và lính Đức đã chỉ đường cho lính Mỹ về doanh trại quân đội Mỹ. Câu truyện này được người con trai bà chủ kể lại khi anh lớn lên.
Noel đã biến đổi hận thù nên bạn hữu, chém giết thành cứu sống, chiến tranh thành hòa bình. Đó là Tin Mừng cho toàn thế giới. Tin Mừng này được diển tả qua 3 bài đọc Lời Chúa hôm nay. Mỗi bài nói lên một quang cảnh, một thực tai kỳ diệu.
Bài Phúc Âm đưa Tin mừng cho khắp thiên hạ đang lao đao cực khổ trong cảnh kiểm tra dân số. Dù nghèo khổ và ở tận cùng miền Bắc đất nước như Giuse cũng phải về quê quán tận cùng miền Nam. Dù thân liễu yếu mang nặng đẻ đau như Maria cũng phải bỏ nhà ra đi hàng trăm cây số. Dù trẻ sơ sinh còn nằm trong máng cỏ cũng phải bế bồng đi trình diện khai tên ghi sổ! Con Thiên Chúa đến đem tiếng hát Thiên Thần an ủi toàn dân. Người đến chia sẻ bao nỗi nhọc nhằn đắng cay của toàn dân, làm ấm áp bao cõi lòng tê tái giá buốt, và xoa dịu những tâm hồn thương đau (Lc 2,1-14).
Bài Sứ ngôn Isaia báo Tin Mừng cho toàn dân được thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đến như một cố vấn kỳ diệu soi sáng muôn dân thấy sự sống vinh quang, giải thoát họ khỏi kiếp sống dưới ách đè lên cổ, cái gậy đập xuống họ, cái roi của kẻ hà hiếp. Tất cả chế độ nô lệ tăm tối đều bị bẻ gẫy.
Ánh sáng đó soi cho muôn dân chiêm ngắm một Thượng Đế oai phong lẫm liệt, ban cho họ chứa chan hồng phúc. Thiên hạ sẽ vui mừng hoan hỉ trong cảnh trời mới đất mới.
Ánh sáng đó dẫn họ trở về Người Cha muôn thuở yêu thương nồng nhiệt, ban tặng Người Con chí ái đến cứu độ ta, cho ta được làm con cái Thiên Chúa. Ánh sáng đó cho họ thấy hoàng tử Bình An đến đốt sạch những chiếc giầy lính lộp cộp, những chiến bào đẫm máu, nhưng vương trượng của kẻ áp bức, để thiết lập một nền hòa bình vô tận công minh chính trực từ nay cho đến muôn đời (Is. 9,2-7).
Tất cả những cảnh huy hoàng của Tin Mừng Giáng Sinh xưa kia cho chúng ta và tất cả thế giới hôm nay một nguồn vui vô tận trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác. Bên ngoài, bao nhiêu cuộc vui Giáng Sinh như những cửa hàng chồng chất quà Giáng Sinh, những thiệp mừng chúc Noel mỹ thuật, những hang đá rực rỡ ánh đèn mầu, những cây thông phơi mầu xanh mát dịu, những bài thánh ca trong điệu nhạc du dương, những buổi lễ long trọng giữa rừng người vui tươi, những đoàn người trang phục thanh nhã đủ mầu nối đuôi nhau trên đường phố, những bữa tiệc thơm ngon, ấm cúng trong các gia đình v.v.. Tất cả đều biểu lộ niềm vui của ngày lễ Giáng Sinh. Bên trong nguồn vui vòn lớn lao vô cùng như thánh Phaolô đã nhấn mạnh cho chúng ta phải biết khắc sâu ân sủng của Thiên Chúa.
Ân sủng đó là gì? Thưa: “Chính là Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa vĩ đại, và là Cứu Chúa vinh hiển của chúng ta” (Tt 2,11-14)
2. Vừa là Con Thiên Chúa, vừa là loài người, Đức Giêsu Kitô đã đến nối kết trời và đất. Người là Đấng Trung Hòa. Trong Người trời và đất không còn xa nhau, không còn khoảng cách. Tất cả đều nên một cho nên phải nói: Người thực sự là Đấng “Chí Trung Hòa”, là Đấng “Thái Hòa” thực hiện đúng lý tưởng của văn hoá Đông Phương hằng mong ước. Người là Con Thiên Chúa. Người nên một với Thiên Chúa: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga10,30). Một tình yêu: “Chúa Cha yêu Con, và tỏ cho Co n biết mọi điều Người làm. Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều Chúa Cha làm, thì Con cũng làm”. “Chúa Cha làm cho kẻ chết sống lại, thì Con cũng ban sự sống cho họ như vậy” (Ga 5,19-21)
Đó là một sự hòa hợp “Cha Con” trong một tình yêu, một sự sống, một hành động, một tri thức để “trong Chúa Con mà vạn vật được tạo thành và cứu chuộc” (Ga 1,3;3,17).
Hoà đồng nên một với Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô còn đồng hóa mình với loài người. Nhận mình là những người khốn khổ như Người nói: “Ta đói, Ta khát, Ta là khách lạ, Ta trần truồng, Ta đau yếu, Ta ở trọ...” “Mỗi lần các ngươi làm cho anh chị em bé mọn nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,35).
Sao Người đã đồng hoá với mọi người đến cùng cực như thế? Thánh Phaolô đã giải thích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần gian. Người lại còn hạ mình vâng lời bằng lòng chịu chết trên thập giá” (Phil. 2,1-8). Người đồng hóa như vậy đó: “cho loài người tham dự với Người vào các mầu nhiệm Thiên Chúa. Biến đổi loài người nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Cầu bầu cho nhân loại, và cứu rỗi họ bằng sự chết của mình”(Thân văn Tường: Kitô Học tr. 136). Chính Đức Kitô còn nói rõ Người đồng hóa với ta như thế: “Ta là cây nho, anh em là cành nho” (Ga 15,5). Sự đồng hóa đó hoàn toàn nên một: “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha... Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 7,21-23).
Đây mới là Tin Mừng thật sự cho loài người.
Theo Đông Phương, Đức Giêsu Kitô là Đấng “Chí Trung Hòa”. Chữ Trung: O gồm nét sổ thẳng chính giữa tâm hình tròn. Hình tròn biểu tượng thái cực là Trời, là Thiên Chúa. Hình tròn viết thành chữ thì biến thành hình vuông, vuông chỉ đất là người. Nét sổ thẳng chính trung tâm vuông tròn không xê dịch, đó là Chí Trung, dấu chỉ Đức Giêsu Kitô là trung tâm trời đất. Còn Chí Hòa, chữ Hoà gồm chữ Hoà là lúa và chữ Khẫu là miệng : *P* cơm bánh là thực phẩm hợp khẩu vị nhất, là đồ ăn hoà đến cùng cực để trở nên sự sống của loài người. Đức Kitô đã biến bánh miến và rượu nho trở nên Thịt Máu mình để trở nên của ăn của uống ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Một sự hoà đồng cùng cực: “Chí Hoà”. Thật Người là Đấng Chí Trung Hòa để cho tất cả nên một. Thiên Chúa và con người không còn xa cách, không còn khoảng không gian nào phân ly được nữa...”.
Đức Giêsu Kitô sinh là Đấng Chí Trung Hòa đem niềm vui trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho nhân loại trong tình yêu hợp nhất, một sự sống vô tận. Không còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa.
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, vì thương yêu đã xuống thế làm người, ở giữa chúng con, ở trong chúng con, nên một với chúng con, để thăng tiến chúng con, thánh hiến chúng con, làm cho chúng con nên một trong nguồn sống vinh phúc của Thiên Chúa là Tình Yêu. Lạy Chúa! thật là tuyệt vời khi chúng con cảm nghiệm được tình yêu chan hòa vô tận đó. Amen.
Gần lễ Giáng sinh ta thường nghe nói : “Chúng ta không còn những lễ Giáng sinh ngày xưa: GS-87
Gần lễ Giáng sinh ta thường nghe nói : “Chúng ta không còn những lễ Giáng sinh ngày xưa nữa, không còn bầu không khí của ngày ấy nữa”. Thậm chí một số người còn nói : Lễ Giáng sinh càng qua mau càng tốt. Đối với tôi chẳng làm gì có lễ Giáng sinh… Và như thế cũng chẳng sao cả. Vậy những lễ Giáng sinh của chúng ta về sau này đã bị thay đổi nhiều ; chúng đã già đi nhiều, đã hao mòn, tàn héo đi.
Dĩ nhiên những lễ Giáng sinh ấy là lễ Giáng sinh những năm xưa, nhưng nếu chúng ta đã thay đổi như thế thì không phải do Thiên Chúa ; vì các ngày lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không hề thay đổi, không già đi, không bạc màu. Trái lại, lòng chúng ta có thể già cỗi, tàn phai, hao mòn và chán chường. Và nếu những ngày lễ Giáng sinh đã thay đổi đến như thế, chắc hẳn là vì lòng chúng ta đã thay đổi. Những ngày lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không thay đổi, ta phải xác tín như vậy. Chúng không thay đổi vì Thiên Chúa không thay đổi, vì tình yêu của Ngài muôn thuở và luôn luôn hiện đại, vì lòng âu yếm của Ngài đối với nhân loại không hề thay đổi. Mỗi lễ Giáng sinh, khi Thiên Chúa đến sống với chúng ta, ở giữa chúng ta và ban cho chúng ta Con Một Ngài, đều mang đến Tin Mừng, niềm vui và sự bình an đã được ban cho nhân loại ngày lễ Giáng sinh đầu tiên tại Belem. Cùng một sứ điệp – cùng một sức mạnh và tính năng động – được lặp lại từ lễ Giáng sinh này đến lễ Giáng sinh khác.
Sứ điệp ấy chính là Thiên Chúa đến ở với loài người để cho loài người được ở với Ngài ; chính Thiên Chúa đi vào trong thế giới của chúng ta để chúng ta đi vào thế giới của Ngài , chính Con Một của Thiên Chúa đến hiệp thông với cuộc sống chúng ta để cho sự sống chúng ta được hiệp thông với sự sống của Ngài và sự sống của Thiên Chúa, thân phụ Ngài. Sứ điệp ấy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, mang lấy nhân tính của chúng ta để chúng ta mang lấy thiên tính của Ngài. Đó là sứ điệp bao giờ cũng mới mẻ, cũng đẹp đẽ, cũng phấn khởi, cũng tuyệt vời, từ năm này qua năm khác.
Sứ điệp Giáng sinh không già cỗi, không hao mòn, ta hãy xác tín như vậy ! Hãy xác tín rằng lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không tàn phai ! Vậy nếu lễ Giáng sinh của ta bây giờ không còn như trước kia nưã có lẽ bởi vì chúng ta không còn muốn… hoặc không dám nghe sứ điệp chân chính của Giáng sinh… Giáng sinh mà Thiên Chúa đã thực hiện, và sẽ kéo dài đến tận thế. Nếu những lễ Giáng sinh của chúng ta không còn như trước kia nữa, cũng có lẽ bởi chúng ta không có hoặc không còn can đảm đón nhận Đấng ban ý nghĩa cho lễ Giáng sinh : Hài nhi mang tên Giêsu, Con Thiên Chúa và Con Đức Maria. Đón nhận một trẻ nhỏ không phải bao giờ cũng là chuyện dễ dàng. Một trẻ thơ, nó quấy rầy. Nó bắt thay đổi những thói quen, bỏ một số thói quen và có những thói quen mới.
Tôi nghĩ rằng nơi đây chúng ta đụng đến lý do sâu xa của sự nhàm chán và già nua nơi những lễ Giáng sinh của chúng ta. Quả thật làm sao sống niềm vui Giáng sinh khi mình gắn bó với tiền bạc, trong lúc Giáng sinh là mầu nhiệm khó nghèo ? Làm sao đón nhận lòng nhân từ và trìu mến của Giáng sinh khi nuôi dưỡng thù hận trong lòng, khi từ chối yêu thương, tha thứ, khi chỉ chia sẻ cách dè sẻn những gì mình sở hữu?... Trong lúc Giáng sinh loan báo tình thương, lòng nhân hậu và mang món quà lớn nhất : Con Thiên Chúa được ban cho loài người !
Làm sao có được niềm hân hoan của Giáng sinh… khi người ta vẫn khép kín nơi mình, nơi những tiện nghi, danh tiếng của mình, mà không quan tâm đến bao người đàn ông, đàn bà, những trẻ em đang đau khổ, khóc than, đói khát ? Tóm lại, làm sao chúng ta có thể sống một lễ Giáng sinh an bình và vui vẻ sâu xa mà lại không chấp nhận sự quấy rầy của Hài nhi yêu cầu được sinh ra nơi chúng ta, và cứ thờ ơ lãnh đạm trước sứ điệp của Ngài ?
Phẩm chất của lòng chúng ta sẽ tạo nên phẩm chất lễ Giáng sinh của chúng ta : Có lẽ chúng ta hay quên điều này. Vậy thì chỉ có một lời chúc cho nhau thôi : Xin cho lòng chúng ta ấm lại một chút, xin cho lòng chúng ta thành thật hướng về Thiên Chúa và về Đấng mà Ngài sai đến với chúng ta… Xin cho lòng chúng ta biết xúc động một chút trước tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta… lúc đó chúng ta sẽ sống một cách khác lễ Giáng sinh năm nay. Và những lễ Giáng sinh mà Thiên Chúa đã thực hiện… những Giáng sinh mang bình an và niềm vui sẽ lại trở thành của chúng ta bởi vì chúng ta cho phép Con Thiên Chúa nhập thể nơi chúng ta.
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thực thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch: GS-88
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thực thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào về âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh. Đã có vô số những bài ca bất hủ về Giáng sinh và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về Giáng sinh nữa.
Kỳ thực, Lễ Giáng sinh cũng là một bản nhạc bất hủ của Thiên Chúa dành cho con người. Nếu âm nhạc là sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc. Thánh Gioan tông đồ đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống hòa hợp trong mầu nhiệm ấy và đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau : “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể”.
Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể nghĩa là Ngài đã trở thành một người như chúng ta. Ngài đã nói ngôn ngữ của xứ sở và thời đại của Ngài, lời Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá trên khắp thế giới từ hơn 2000 năm. Lời ấy đã được dịch ra trên 5000 thứ ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và thức ăn cho tất cả nhân loại. Thế nhưng, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng trong hang đá Belem và nhất là thinh lặng trong suốt 30 năm tại Nagiarét.
Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế ? Thưa là bởi vì Ngài không chỉ nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả sự thinh lặng. Hơn nữa, Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài nữa.
Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở nên thiết thân với mọi người và mỗi một người được sinh ra. Ngài muốn nói với chúng ta rằng : sự sống của con người là một thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng, mỗi một người sinh trong thế gian này dù có xấu xa, thấp hèn mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2000 năm, sự hiện hữu của Ngài là một sự hiện hữu giới hạn, giới hạn trong không gian, giới hạn trong cách sống, trong thời đại. Chúa Giêsu đã không hề làm một người chồng, Chúa Giêsu đã không hề làm một người cha trong gia đình, thế nhưng cuộc sống nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tái diễn trong dòng lịch sử của nhân loại. Và lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành hằng năm không chỉ đến mỗi năm có một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Lời Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh là khi chúng ta tiếp tục nhận ra ý nghĩa của cuộc đời này, cho dù chúng ta phải trải qua không biết bao nhiêu đắng cay chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quí của Thiên Chúa trong mỗi người anh em, và có lễ Giáng sinh khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Như vậy, bài thánh ca mừng Chúa Giáng sinh không chỉ được hát lên mỗi năm có một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong tâm tư suy nghĩ, hành động và trong cư xử của chúng ta, để mỗi người chúng ta bằng lời nói hay bằng chứng tích thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
Mỗi năm khi đến lúc gửi đi những tấm thiệp Giáng Sinh, chúng ta lại lấy ra cuốn sổ ghi địa: GS-89
Mỗi năm, khi đến lúc gửi đi những tấm thiệp Giáng Sinh, chúng ta lại lấy ra cuốn sổ ghi địa chỉ. Trong đó, chúng ta có thể tình cờ bắt gặp một cái tên, và thốt ra “Trời ơi ! Mình không hề nghe tin gì về anh ta cả bao nhiêu năm nay”. Chúng ta không thể nhớ được mình đã gửi tấm thiệp nào cho người đó vào dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái hay không. Thế là chúng ta đang phải có một quyết định : Liệu chúng ta sẽ gửi hoặc không gửi một tấm thiệp cho anh ta ?
Trong cuộc sống, hầu hết chúng ta đều có một người bạn nào đó như thế, một người mà có lẽ chúng ta chỉ có quan hệ mỗi năm một lần mà thôi. Có thể chúng ta đã từng rất thân thiết với người đó trong một thời gian. Nhưng hiện nay, vì lý do này hoặc lý do khác, có một khoảng cách giữa chúng ta và người đó. Chúng ta đã bị mất liên lạc. Và bây giờ, đến lúc đáng tiếc là chúng ta chỉ liên lạc với nhau qua một tấm thiệp Giáng Sinh. Điều này cho thấy rằng mối quan hệ không được chăm sóc, thì sẽ bị ảnh hưởng không tốt, giống như một khu vườn bị bỏ bê, vì mối quan hệ như vậy hầu như không được nuôi dưỡng. Trên thực tế, điều này không thực sự ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta cũng có thể bị mất quan hệ với Thiên Chúa. Điều này không hẳn là chúng ta không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa, mà chỉ là chúng ta không còn giữ quan hệ với Người nữa. Khi còn nhỏ, có thể chúng ta đã từng rất gần gũi với Thiên Chúa, nhưng theo thời gian, chúng ta mất đi mối quan hệ này. Khi người ta tự cho phép mình mất quan hệ với Thiên Chúa, thì xảy ra một sự mất mát to lớn, hậu quả là một sự trống rỗng mênh mông. Không thể hiểu được và không thể nào chịu đựng nổi một cuộc sống, mà không có Thiên Chúa.
“Khi đến ngày chúng ta không còn tin tưởng nơi một thần tượng của cá nhân mình, thì chúng ta không bị chết đâu ; nhưng khi đến ngày mà cuộc sống của chúng ta không còn được soi sáng bởi ánh hào quang đều đều, được đổi mới mỗi ngày, của một điều tuyệt vời, mà nguồn gốc của điều tuyệt vời đó vượt ra ngoài tất cả mọi lý lẽ”.
Ngày kia, một đứa trẻ lên 6 tuổi, cha mẹ cháu không có lòng tin, xin người giáo viên của cháu dẫn cháu đến viếng một nhà thờ gần đó. Trong suốt cuộc thăm viếng đó, cháu nói với người giáo viên : “Bà của con nói rằng đây là ngôi nhà của Thiên Chúa. Bà nói rằng Thiên Chúa là tình yêu. Bà nói rằng khi bà cầu nguyện với Chúa, có nghĩa là bà nói chuyện với Chúa. Con chưa bao giờ cầu nguyện. Nhưng con thích được nói chuyện với Chúa. Con muốn được nghe Chúa nói. Trong lớp, có một bạn tin vào Chúa. Bạn ấy là người Công giáo. Nhưng bố mẹ con đều là những người không tin vào Thiên Chúa, vì thế, con cũng vậy. Vì không biết Chúa, nên con cảm thấy cô độc”.
“Vì không biết Chúa, nên con cảm thấy cô độc” – đây là câu nói của một đứa trẻ lên 6 tuổi. Quả thật con người rất cô đơn, khi không được biết Chúa. Nếu chúng ta trải qua nỗi cô đơn này, thì chúng ta không nên hốt hoảng. Có thể đây là một cơ hội và là một ân sủng. Trái tim của chúng ta luôn luôn khát khao một điều gì đó nhiều hơn nữa, hoặc nói đúng hơn, chúng ta khát khao một Đấng khác. Nơi mỗi tâm hồn con người, đều có một chỗ trống, chờ đợi một vị khách. Vị khách đó chính là Thiên Chúa.
Người ta dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn trong ngày lễ Giáng Sinh, so với bất cứ thời gian nào khác, bởi vì trong lúc này, chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Đây là một quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta không cô độc trong vũ trụ. Nếu chúng ta cảm thấy mình bị mất quan hệ với Thiên Chúa, thì ngày lễ này đem đến cho chúng ta một cơ hội, để tự mình lấy lại quan hệ với Người, trong niềm tin tưởng rằng chúng ta sẽ không đón nhận bất cứ điều gì khác, ngoại trừ tình yêu. Nếu biết cởi mở tâm hồn của mình ra, chúng ta sẽ cảm nhận được rằng mình được sự hiện diện thần thánh tác động vào.
Quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, đem đến sự an bình nội tâm. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai con gái yêu quí của Thiên Chúa, là những người được thừa kế vương quốc nước trời. Lễ Giáng Sinh cũng cung cấp cho chúng ta một cơ hội để tự liên lạc với người khác, đặc biệt là với gia đình của chúng ta, nếu chúng ta bị mất quan hệ với họ. Điều đó cũng mang lại cho chúng ta sự an bình và niềm vui.
Các mục đồng trở lại với đàn gia súc của họ, “vừa đi vừa ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe”. Không có gì thay đổi cả, tuy nhiên, tất cả mọi sự đều đã thay đổi. Bây giờ, tâm hồn của họ tràn ngập sự kinh ngạc. Họ đã có được một tầm nhìn mới, một niềm hy vọng mới, một sự hiểu biết mới, về tình yêu của Thiên Chúa đối với họ, và về sự hiện diện của Người. Cuộc sống của họ được sáng rực ý nghĩa. Thế giới cũ đã trở nên một thế giới mới, trong đó tất cả mọi sự đều long lanh đều kỳ diệu. Sự phát hiện về Thiên Chúa đem lại kết quả là một thế giới đầy niềm vui.
Một trong những điều mà chúng ta luôn liên kết với lễ Giáng sinh, đó là sự bình an. Khi Đức: GS-90
Một trong những điều mà chúng ta luôn liên kết với lễ Giáng sinh, đó là sự bình an. Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn có thể nói rằng những lời nói này tóm tắt cả Tin Mừng.
Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích : “Anh em hãy lắng nghe đi !”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì bắt đầu có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng, và họ ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt tất cả mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Trong đêm lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến bắt đầu trở lại.
Nếu điều này không chứng tỏ một điều khác, thì nó chứng tỏ được sức mạnh của lễ Giáng Sinh. Nhưng bình an không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh hoặc chia rẽ. Đây còn là một điều sâu xa hơn và phong phú hơn. So với peace của tiếng Anh tiếng Do thái chỉ sự bình an – shalom – chuyển tải một ý nghĩa phong phú hơn. Từ này chuyển tải một ý nghĩa về sự trọn vẹn, một tình trạng hoàn toàn hạnh phúc.
Thành phần chủ yếu của bình an là sự công chính. Như vậy, ở đây có sự công chính, thì tại đó có bình an đích thực. Do đó, không thể có bình an đối với kẻ quỷ quyệt. Bình an không đơn giản chỉ là sự hài hòa. Đây là sự hạnh phúc trọn vẹn. Bình an vẫn có thể tồn tại trong một thế giới rối loạn, và thậm chí ngay cả giữa những vấn đề không giải quyết được. Đây là một điều gì đó quá sâu xa, đến nỗi nó không lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài.
Bình an là trạng thái yên tĩnh nội tâm, và cho thấy rõ mối tương quan thực sự với Thiên Chúa và với người khác. Theo ý nghĩa đầy đủ này, nếu chỉ bằng nỗ lực của con người, thì không thể tạo ra được sự bình an. Đây là một ân sủng của Thiên Chúa. Đây là một món quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Thiên Chúa đến với chúng ta trong sự bình an, và Người mong muốn chúng ta tiếp cận với nhau. Bình an là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta ; quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa chính là đem bình an đến cho nhau.
Bình an là sự kết hợp với Thiên Chúa. Trong ngày lễ Giáng Sinh, dường như Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Xin Người giúp chúng ta cảm mến được sự bình an, vượt quá tất cả sự hiểu biết, mà chỉ một mình Người có thể ban, và thế giới này không thể đem đến được. Đó là sự bình an mà không ai có thể tước đoạt khỏi chúng ta.
Thông thường trong cuộc sống, ngày mà chúng ta mong đợi nhất, lại hay bị chuyển thành ngày: GS-91
Thông thường trong cuộc sống, ngày mà chúng ta mong đợi nhất, lại hay bị chuyển thành ngày thất vọng nhất. Điều này cũng có thể xảy ra đối với cả ngày lễ Giáng Sinh nữa.
Đôi khi, chúng ta có thể có những ước mong không thực tế về ngày lễ Giáng Sinh. Dường như thể chúng ta mong đợi một điều gì đó kỳ lạ xảy ra, một điều gì đó sẽ mãi mãi thay đổi cuộc sống nhàm chán của chúng ta. Nhờ vào sự xây dựng kéo dài mãi mãi, khi gần đến ngày trọng đại, niềm hy vọng của chúng ta bay lên cao vút. Tuy nhiên, bản chất của những niềm hy vọng này thường bị thị trường ức chế – một sự tràn ngập những đồ ăn thức uống, tràn ngập những chương trình Tivi để chúng ta giải trí.
Nhưng khi bắt đầu đến lễ Giáng Sinh, thì điều đầu tiên mà chúng ta ghi nhận được là gì ? Ngày đó chỉ giống như bất cứ một ngày nào khác. Không ai nhìn thấy các thiên thần, không ai nghe được những giọng hát từ trên trời vang vọng xuống. Tất cả mọi sự đều diễn tiến y như bình thường. Và khi mặt trời của ngày này lặn xuống, thì nhiều người lại cảm thấy trống rỗng và trầm cảm, và họ nói một cách cay đắng “Lễ Giáng Sinh chỉ dành cho trẻ con mà thôi”.
Nhưng ngày này có thể khác hẳn. Mặc dù không hề có dấu hiệu nào trên bầu trời, nhưng ít nhất đối với những người biết cách nhìn, thì vẫn có những dấu hiệu về ngày này. Trong ngày lễ Giáng Sinh, trên thế giới, có nhiều ánh sáng hơn, ấm áp hơn, hy vọng hơn. Người ta trở nên thân thiện với nhau hơn trong ngày lễ này. Không ai đi qua mặt nhau, mà không chào nhau. Trong ngày này, chúng ta cảm thấy mình là một thành phần của gia đình nhân loại, hoặc ít nhất, chúng ta mong muốn được trở nên một phần của gia đình đó. Nếu phải đi một mình đơn độc trong buổi sáng hôm nay, thì dường như đó là một điều kỳ lạ, thậm chí còn sai trái nữa.
Thật vậy, trong ngày lễ Giáng Sinh, Nước Thiên Chúa trở nên rõ rệt. Trong ngày này, nếu biết cởi mở tâm hồn của mình ra, chúng ta sẽ cảm thấy mình được sự hiện diện thần thánh đụng chạm vào. Hugh Leonard một nhà viết kịch người Ailen, đã nói “Có lẽ tôi không biết Thiên Chúa là ai, nhưng tôi biết được nơi Người sinh sống. Người ở chung quanh tôi trong suốt cả năm, nhưng trong ngày lễ Giáng Sinh, Người tiến tới và thọc sâu vào cạnh sườn của tôi”. Đó không chỉ là một cảm giác.
Trong ngày lễ Giáng Sinh, chúng ta có được một cảm giác về sự gần gũi, ấm áp, và về lòng từ ái của Thiên Chúa. Chúng ta cảm nhận được rằng mình không cô độc, rằng cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa, rằng có một ai đó đang săn sóc và hướng dẫn đường lối cho chúng ta. Đó là ý nghĩa cốt lõi của ngày lễ Giáng Sinh. Chúng ta không nên e ngại trong việc sưởi mình nhờ hơi ấm này, giống như chúng ta vẫn vui mừng tắm mình trong ánh nắng ấm áp vào một ngày lạnh lẽo.
Chúng ta cũng có được một cảm giác về sự thành tâm thiện chí của bản thân mình và của những người khác. Chúng ta cảm nhận được rằng cuộc sống thật tươi đẹp và có một ý nghĩa. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Thiên Chúa. Chúng ta có một nhân phẩm thần thánh và một vận mệnh vinh quang. Một sự bình an nội tâm xuất phát từ mối quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu.
Nếu ngày lễ Giáng Sinh để lại cho chúng ta sự thất vọng, thì có nghĩa là chúng ta đã gắn bó niềm hy vọng của mình vào những điều sai trái. Kẻ nào gắn bó niềm hy vọng của mình vào những thứ do dân buôn bán đưa ra, thì sẽ luôn luôn bị thất vọng, không phải vì họ hứa hẹn quá ít, mà là vì họ hứa hẹn quá nhiều, mà hứa hẹn về những điều sai trái. Tâm hồn chúng ta khát khao nếm được “niềm vui” mà các thiên sứ đã loan báo cho các mục đồng. Đó là niềm hy vọng của ngày lễ Giáng Sinh.
Chúng ta phải cầu xin điều gì đây ? Chỉ cần một điều duy nhất : hãy cởi mở tâm hồn mình ra để đón nhận niềm hy vọng này. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho chúng ta ; Người là Đức Kitô, là Đức Chúa.
Chúng ta cử hành lễ Giáng Sinh vào thời gian tối tăm nhất trong năm (ở bắc bán cầu). Đó là: GS-92
Chúng ta cử hành lễ Giáng Sinh vào thời gian tối tăm nhất trong năm (ở bắc bán cầu). Đó là thế gian chúng ta đánh giá được giá trị của ánh sáng. Phụng vụ lễ Giáng Sinh đầy rẫy những câu ám chỉ về ánh sáng. Đức Giêsu đến làm trọn lời tiên báo của ngôn sứ Isaia : “Dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng ; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Mẹ Têrêxa đã kể lại một ngày kia, tại Melbourne, Uc, mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, tại một căn phòng ở trong tình trạng bê bối khủng khiếp. Căn phòng này không hề có ánh sáng, và hiếm khi ông ta vén bức rèm ra. Dường như ông không hề có một người bạn nào trên thế giới này.
Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt “Bà cứ để mọi sự như cũ đi. Tôi quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế, mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Trong khi dọn dẹp, mẹ nói chuyện với ông ta. Dưới một đống rác, mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy là nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta “Ở đây, ông có một cây đèn rất
đẹp. Làm thế nào mà không bao giờ ông thắp sáng nó lên vậy ?”.
Người đàn ông này đáp “Tại sao tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó lên ư ? Có ai đến thăm tôi đâu” !
Ông ta trả lời “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Hai trong số các nữ tu của mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm viếng ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi có thể tự xoay xở được rồi. Nhưng xin nói giùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi, rằng ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Bạn có thể nói rằng ngọn đèn đã giải thoát ông ta. Nhưng tất nhiên không phải là bản thân ngọn đèn, nhưng là lòng tử tế và nhân ái mà ngọn đèn này tượng trưng, trước hết, nơi mẹ Têrêxa, sau đó, là nơi các nữ tu của mẹ.
Chúng ta sống trong một thế giới bị tối tăm do chiến tranh, bạo lực và đủ mọi loại đau khổ. Và tất cả chúng ta đều đã từng trải qua cảnh tối tăm trong cuộc sống cá nhân và cuộc sống gia đình của chúng ta – buồn phiền, thất vọng, yếu đuối, đau đớn, lỗi lầm, tội ác, cô đơn v,v…
May mắn thay, ánh sáng mà Đức Kitô đã thắp lên trong thế giới của chúng ta vẫn còn tiếp tục cháy sáng. Không phải là ánh sáng của Người đã được thắp lên tại Bêlem một lần, và rồi tắt ngúm đi. Anh sáng đó vẫn chiếu tỏa ra giữa cảnh tàn phá, đổ vỡ và biến động. Anh sáng đó chiếu tỏa ra tất cả những ai tin tưởng và đi theo Người.
Lịch sử có đầy rẫy những câu chuyện về bao con người mang lại cảnh tối tăm cho thế giới. Không giống như Đức Giêsu. Từ hơn 2000 năm nay, giáo lý của Đức Giêsu đã để lại một ảnh hưởng trên mọi người, theo một cách thức không giống như bất cứ người nào khác. Nhưng tự thân lòng từ ái rạng rời của Người biểu hiện ra, qua tất cả những hành động và những cuộc gặp gỡ của Người với dân chúng. Vô số người đã đến với Người trong tâm trạng tối tăm, và khi ra đi, họ được tắm mình trong ánh sáng.
Lòng từ ái rạng ngời của Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục soi chiếu trên thế giới. Nơi Đức Giêsu và nơi Tin Mừng của Người, chắc chắn chúng ta có được một suối nguồn ánh sáng, mà từ 2000 năm nay, đã chiếu tỏa trên nhân loại. Anh sáng soi chiếu cho các mục đồng đi đến Bêlem trong đêm Giáng Sinh đầu tiên, vẫn soi chiếu trên chúng ta trong đêm Giáng Sinh này.
Anh sáng của Đức Giêsu không đến để phán xét chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta. Anh sáng đó đến để chỉ ra cho chúng ta cách thế sống như thế nào, và hướng dẫn chúng ta hướng về vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có thể trở nên nguồn sáng cho thế giới tối tăm. Nhưng trừ phi ngọn đèn của bản thân chúng ta còn đang chiếu sáng, nếu không, chúng ta sẽ không có khả năng soi sáng được cho bất cứ ai. Được sống trong ánh sáng là một niềm vui lớn. Nhưng có một niềm vui thậm chí còn vĩ đại hơn, đó là được trở nên một nguồn sáng cho người khác.
Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta bước ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng tuyệt diệu nơi Con của Người. Chúng ta phải cố gắng sống đúng tư cách là con cái của ánh sáng. Người ta nhận thấy những hiệu quả của ánh sáng qua tấm lòng tốt, lối sống đúng đắn và theo lẽ phải.
Xin cho trong lòng từ ái của Người, Chúa cho chúng ta nếm được niềm vui, mà các mục đồng đã cảm nghiệm được, khi ánh sáng của vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa chung quanh họ, trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó. Và xin cho chúng ta nghe được những tiếng nói êm dịu vang vọng trong tâm hồn chúng ta “Bất cứ ai đi theo Ta, sẽ không bao giờ phải đi trong tối tăm, nhưng sẽ luôn luôn có được ánh sáng ban sự sống”.
Bối cảnh : một thành phố tồi tàn trong một thế giới thứ ba. Mặc dù có ánh sáng mặt trời, bóng: GS-93
Bối cảnh : một thành phố tồi tàn trong một thế giới thứ ba. Mặc dù có ánh sáng mặt trời, bóng tối vẫn bao trùm lên những dãy lán trại lụp xụp. Nhưng lễ Giáng Sinh đang đến, mọi sự sẽ khác hẳn đi, ít nhất là trong một chốc lát.
Tuy nhiên, vào ngày trước lễ Giáng Sinh, có một sự kiện xảy ra càng đào sâu thêm cảnh tối tăm của những túp lều tồi tàn. Một người cha của ba đứa con nhỏ đã phạm tội giết người. Không ai biết được đầy đủ câu chuyện phía sau hành động của anh ta. Nhưng anh ta để cho người khác nhìn thấy sự tối tăm đã xâm nhập vào tâm hồn anh. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, anh ta nói với bạn bè rằng anh rất khổ tâm, vì không có món quà tặng nào cho con cái của anh trong ngày lễ Giáng Sinh.
Tặng quà là một phần quan trọng trong việc cử hành lễ Giáng Sinh. Charles Dickens kết luận : “Lễ Giáng Sinh là thời điểm trong tấm lịch dài của cả năm trong đó người ta cởi mở ra với nhau cánh cửa tâm hồn vốn đã khép kín”.
Có thể nói rằng Giáng Sinh là mùa của việc trao tặng quà, mặc dù quà tặng của chúng ta có thể tầm thường và chỉ theo thủ tục. Một món quà tự nó là một cách thế, để nói lên với người được tặng quà rằng chúng ta quí mến họ. Món quà tặng ít liên quan đến lẽ phải, mà liên quan đến tình yêu.
Việc Thiên Chúa ban ân sủng mang chúng ta trở lại với bản thân ngày lễ. Ngày lễ Giáng Sinh được tạo ra bởi một ân sủng. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con duy nhất của Người, hầu cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người đều không bị hư đi, nhưng có được sự sống đời đời”.
Trong khi trao tặng quà cho nhau, chúng ta hãy đảm bảo rằng chúng ta cũng trao tặng cho nhau chính bản thân mình nữa. Lễ Giáng Sinh không chỉ là dịp để trao tặng quà, nhưng ngày lễ này nói nhiều hơn về sự hiện diện – nghĩa là trao tặng chính bản thân mình. Và phẩm chất sự hiện diện của chúng ta là tất cả mọi sự.
Có sự hiện diện mang tính cách xa vắng, nhạt nhẽo, lãnh đạm – giống như mặt trời vào một ngày mùa đông, đã mọc lên và lặn đi, mà thậm chí không hề làm tan giá cho mặt đất. Và có sự hiện diện gần gũi, ấm áp, quả quyết – giống như mặt trời vào một ngày mùa hè, mang lại sự sống cho tất cả mọi loài.
Việc trao tặng quà quan trọng, nhưng việc tiếp nhận quà cũng quan trọng tương tự như vậy. Lễ Giáng Sinh cũng là một thời gian để tiếp nhận – tiếp nhận những món quà mà người khác trao tặng, và đặc biệt là những món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta. Thiên Chúa không trao tặng cho chúng ta món quà là một đồ vật, mà là một con người. Đức Giêsu chính là một quà tặng đối với những người nghèo khổ và thấp kém, để đảm bảo với họ rằng tình yêu mến không bỏ qua họ.
Khi trao tặng quà, chúng ta gói món quà đó trong một lớp bọc có trang trí, mặc dù chúng ta biết rằng giấy gói không gia tăng gì thêm cho món quà, và sẽ bị xé ra và quẳng vào sọt rác. Khi Thiên Chúa làm cho chúng ta một món quà là chính Con của Người, thì món quà đó của Người không hề đến trong một lớp bọc được trang trí. Nhưng Người đã đến trong thân phận con người yếu đuối, mỏng giòn và hay chết. Chính nơi điểm này, mà chúng ta càng nhận thấy được mức độ sâu xa nơi tình yêu của Người.
Mặc dù Đức Kitô đã đến giữa chúng ta với đôi bàn tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang lại cho chúng ta những món quà vô giá và kéo dài muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Vậy chúng ta cần có loại khuynh hướng gì, để có thể đón nhận những ân sủng của Thiên Chúa ? Chúng ta cần ý thức về sự nghèo nàn của bản thân chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Sau đó, điều mà chúng ta phải làm, là cởi mở tâm hồn chúng ta ra, để đón nhận ân sủng Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, sẽ luôn luôn có được điều gì đó, để chia sẻ với những người khác.
“Có một quà tặng không thể nào đánh giá được đã trao tặng từ 2000 năm trước.
Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa không ban tặng như vậy, thì Người vẫn là một kẻ xa lạ ở nơi xa xôi, và không phải là một hài nhi nằm trong máng cỏ”.
Tháng 7 năm 1969, Neil Amstrong cùng với hai phi hành gia đồng đội, đã bắt đầu đi vào một: GS-94
Tháng 7 năm 1969, Neil Amstrong cùng với hai phi hành gia đồng đội, đã bắt đầu đi vào một cuộc hành trình lâu dài nhất, chưa từng được con người thực hiện. Mục tiêu của họ là một nơi ở cách xa hàng triệu dặm. Cả thế giới hướng đôi mắt về phía họ, trong khi bay tới một hành tinh trong không gian ở gần chúng ta nhất – mặt trăng. Họ đã đáp xuống tại một nơi trên mặt trăng, được biết đến như là Biển của Yên Tĩnh. Họ khám phá ra rằng nơi đây không có sự sống và cằn cỗi, và đã mang về một nắm đất và bụi. Tuy nhiên, Amstrong mô tả sứ mạng của họ là “một bước nhảy vọt đối với nhân loại”.
Lúc đó, đây là một tin vĩ đại. Bây giờ, dường như cuộc hành trình này mang tính cách khá mơ hồ. Hầu như chúng ta đã quên lãng điều đã từng xảy ra. Người ta đang hỏi nhau không hiểu cuộc hành trình đó đã đạt được gì, bất cứ điều gì ? Và những con người mà danh tính của họ đã từng ở trên môi miệng của tất cả mọi người, thì nay hiếm khi được nhắc nhở đến.
Hôm nay, người Kitô hữu chúng ta cử hành mầu nhiệm Nhập thể – việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đi vào thế giới của chúng ta. Người đã được một người trinh nữ thấp kém sinh ra, vào một thời điểm mà nền thông tin còn chậm chạp, và tại một đất nước nhỏ bé, không hề có biển yên tĩnh, mà chỉ có bối cảnh là những cuộc xung đột triền miên. Chỉ có một nhúm người biết về việc Người đã đến mà thôi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nói về mầu nhiệm này và cử hành ngày lễ này. Sự nhập thể là giây phút vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Kết quả là mọi việc không bao giờ còn giống như trước nữa. Qua bao thời đại, các nghệ sĩ, nhà thơ, tác giả đã nhận ra tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể.
Trong biến cố nhập Thể, chúng ta nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Mặc dù Đức Kitô đến giữa chúng ta trong đôi tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang đến cho chúng ta những ân sủng vô giá và tồn tại muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta rằng chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Có một người giáo viên rất muốn đưa ra những lời giảng dạy, hướng dẫn, phê bình và sửa sai. Ngay sau khi kết hôn, ông liền dạy cho vợ ông biết cách rửa bát đĩa, bởi vì ông cho rằng nàng làm việc này không đúng cách. Và với cách thức chỉ dạy của ông, nàng phải rửa lại từng cái đĩa, mà nàng đã rửa xong rồi, dưới sự giám sát của ông. Thay vì cho nàng nhìn thấy ví dụ cụ thể, bằng cách tự tay rửa bát, thì ông lại chỉ đưa ra những lời khuyên bảo và hướng dẫn. Đức Giêsu đã không làm như vậy.
Với tư cách Con Thiên Chúa, Đức Giêsu được chia sẻ cùng một bản chất thần thánh, giống như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng trong sự Nhập Thể, Người đã tự mang lấy trên thân mình Người chính thân phận của chúng ta, đó là một thân phận yếu đuối, mỏng giòn, lệ thuộc vào tội lỗi và sự chết. Bởi vì cuộc đấu tranh và chiến thắng ở ngay trong bản chất của chúng ta, nên chúng ta cũng có thể được ích lợi từ bản chất đó. Và Đức Giêsu không hề đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, mà Người lại không tự mình thực hiện.
Từ đó, bạn có được mầu nhiệm Nhập Thể. Đó là mẫu thức của sự cứu độ. Thiên Chúa đã đi vào thế giới của chúng ta, cùng với những điều kiện sống của chúng ta. Người muốn cảm nhận được nỗi đau khổ của kiếp người, và chỉ ra cho chúng ta tính cách vĩ đại của con người. Bây giờ, chúng ta có được một Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu chúng ta, mỗi khi chúng ta nói với Người về nỗi đau đớn của chúng ta. Nhưng Người cũng là một Thiên Chúa, Đấng sẽ không cho phép chúng ta được đắm mình trong nỗi đau khổ đó. Người sẽ không thỏa lòng, cho đến khi Người đòi hỏi được điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta.
Con Thiên Chúa đến trên trái đất này, để chia sẻ thân phận của chúng ta, sao cho chúng ta có thể được chia sẻ trong sự thần thánh của Người. “Hai ông bà lấy tã bọc con trẻ, và đặt hài nhi trong một máng cỏ”. Đức Giêsu đã lớn lên chính từ nguồn gốc thấp kém này, để chỉ ra cho chúng ta thấy sự vĩ đại của nhân loại chúng ta.
Niềm vui của ngày này tràn đầy trong tâm hồn chúng ta và trên toàn thế giới. Đức Giêsu hướng dẫn chúng ta trên một cuộc hành trình còn táo bạo hơn của cuộc hành trình của các phi hành gia – cuộc hành trình đi đến vương quốc của sự sống đời đời.
Vào chiều Chúa Nhật ngày 1 tháng Sáu, năm 1975, Darrel Dore đang ở trên một giàn khoan: GS-95
Vào chiều Chúa Nhật ngày 1 tháng Sáu, năm 1975, Darrel Dore đang ở trên một giàn khoan dầu tại vịnh Mexico. Bất chợt, cái giàn lắc lư và ngả nghiêng qua một bên. Sau đó, nó đổ nhào xuống biển.
Trong khi xảy ra tai nạn đó thì Darrel đã bị kẹt trong một cái phòng ở trên giàn khoan dầu. Khi cái giàn chìm sâu xuống đáy biển thì ánh sáng trong phòng mà Darrel đang ở cũng dần dần tắt lịm, rồi nước dần dần trào vô ngập căn phòng.
Vùng vẫy trong bóng tối, Darrel bắt chợt bắt gặp một cái bong bóng lớn ở một góc phòng. Anh liền nhanh chân chạy đến và bỏ đầu anh vào cái bong bóng đó.
Sau đó, một ý tưởng rùng rợn "tôi sẽ bị chôn sống" đã xâm chiếm anh. Anh bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng. Khi anh làm như thế, một sự kỳ diệu đã xảy ra. Anh phát biểu cảm tưởng đó như sau: "Tôi cảm thấy như mình đang nói chuyện với một ai đó. Chúa Giêsu đã ở với tôi. Tôi nhìn thấy ánh hào quang hoặc hình bóng của Ngài. Tôi cảm nghiệm được sự an ủi của Ngài đang hiện diện bên tôi. Ngài thật là sống động. Ngài đã ở đó."
Trong vòng hai mươi hai tiếng đồng hồ sau đó, sự hiện diện của Thiên Chúa tiếp tục an ủi Darrel. Tuy nhiên, sau đó, khí oxygen trong cái bong bóng bắt đầu hết. Darrel không thể thoát chết, chỉ là chờ thời gian.
Sau đó, một điều kỳ diệu thứ hai đã xảy ra. Darrel nhìn thấy một ánh sao sáng lung linh trong khối nước đen như mực. Ánh sáng đó có thật không, hay đó chỉ là ảo tưởng sau hai mươi hai tiếng đồng hồ của Darrel? Darrel nhắm mắt lại và mở ra. Ánh sáng từ cái ngôi sao đó hình như là càng sáng rõ hơn. Darrel lại tiếp tục nhắm mắt và mở ra.
Anh không phải đang gặp ảo tưởng, ánh sáng đó là ánh sáng thật. Ánh sáng đó phát ra từ cái mũ của người lặn nước. Đoàn cấp cứu đã lặn xuống và tìm thấy anh. Hai mươi hai tiếng đồng hồ hoảng sợ đã chấm dứt. Anh đã được cứu thoát! Câu truyện có thật này là một minh họa diệu kỳ để diễn tả ý nghĩa ngày Lễ Giáng Sinh.
Tội lỗi đã làm lắc lư thế giới, và làm cho nó nghiêng ngả, rồi làm cho nó sụp đổ vào sự chết. Bóng tối đã tràn ngập tất cả, và loài người đã bị mắc kẹt trong thất vọng. Con người đang sống trong cảnh sụp đổ không thể tránh được.
Sau đó, trong cảnh trời u tối, một điều huyền diệu đã xảy ra. Một ánh sao lấp lánh trong khung trời tối. Thiên thần Chúa bỗng hiện đến bên họ và vinh quang Chúa rạng ngời bao quanh họ, làm họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng thiên thần nói với họ: "Đừng sợ! Này ta đêm tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vị Cứu Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành Đavít" (Lc 2:9-11).
Và như thế cơn ác mộng đêm tối đã chấm dứt. Sự cứu giúp đã đến. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã xuống từ trời đến để cứu độ loài người, như là người nhái lặn biển đến cứu Darrel.
Nếu chúng ta có chọn một dấu hiệu gì để tượng trưng cho ý nghĩa của Giáng Sinh, thì chúng ta có thể chọn hình ảnh ánh sáng. Chúng ta chọn ánh sáng vì hai lý do sau:
Thứ nhất, Chúa Giêsu chính Ngài đã chọn ánh sáng để diễn tả tại sao Ngài đến trong thế gian. Ngài nói: "Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tăm tối, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống" (Ga 8:12).
Trước khi Chúa Giêsu đến trong Giáng Sinh, con người đã đi lạc và lảo đảo trong bóng tối. Qua Giáng Sinh, Chúa Giêsu đã biến đổi tất cả những điều đó. Ngài cứu giúp chúng ta từ trong bóng tối và chỉ cho chúng ta con đường đến với Chúa Cha.
Lý do thứ hai, ánh sáng là một biểu tượng hoàn hảo của Mùa Giáng Sinh, bởi vì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài: "Các ngươi là ánh sáng thế gian... Ánh sáng của các ngươi phải chói lọi trước mặt người ta, ngõ hầu họ thấy việc lành các ngươi làm mà tôn vinh Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời" (Mt 5:14, 16).
Nói một cách khác, cũng như Chúa Giêsu là ánh sáng cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải là ánh sáng cho kẻ khác. Chúng ta phải cho người khác biết con đường đi ra khỏi bóng tối, như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Đó là ý nghĩa của Mùa Giáng Sinh. Chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của ánh sáng dập tan bóng tối. Mùa Giáng Sinh chúng ta cử hành là một sự thật, Chúa Giêsu đã đến như là một ánh sáng trong đêm tăm tối để cứu độ chúng ta và chỉ cho chúng con con đường đến với Chúa Cha. Mùa Giáng Sinh chúng ta cử hành là một sự thật mà Chúa Giêsu đã gọi chúng ta trở nên ánh sáng trong thế gian, như Ngài đã từng là ánh sáng.
Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin: GS-96
“Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi.”
Lời loan báo Tin mừng của sứ thần cho các mục đồng tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm, cũng là lời mà Giáo Hội muốn gởi đến từng người chúng ta hôm nay.
Thật vậy, sau bao ngày chờ đợi và chuẩn bị, đêm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau nơi đây để mừng đại lễ Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một ngày lễ của Kitô giáo, nhưng còn là ngày lễ hội của tất cả mọi người trên thế giới. Với việc Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, lịch sử con người đã bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn của niềm vui và hân hoan khôn tả. Chúng ta vui mừng vì Con Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường như chúng ta chỉ trừ tội lỗi (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Chúng ta vui mừng vì với việc Nhập Thể của Ngôi Lời, lời hứa cứu độ từ nguyên thuỷ nay đã trở thành hiện thực. Chúng ta còn vui mừng, vì từ nay, chúng ta đã có Con Thiên Chúa cùng đồng hành trong cuộc sống. Chúng ta không còn cô đơn, vất vả một mình trong kiếp sống con người.
1. Tin mừng được giải thoát
Tin mừng này đối với dân Do Thái, trước hết, đó là tin mừng của ngày được giải thoát khỏi ách nô lệ. Để thấy hết được niềm vui này của dân Chúa, chúng ta cần chú ý đến tâm trạng hoàn cảnh của họ lúc bấy giờ. Lúc đó, dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày, kiếp sống của người nô lệ. Có lẽ, giờ này ngồi đây, chúng ta không cảm nghiệm được hết nỗi buồn khổ, tủi nhục của kẻ bị lưu đày. Để hiểu rõ tâm trạng này của họ, có lẽ chúng ta cần đặt mình trong hoàn cảnh của họ. Đó là tâm trạng của những người bị đày biệt xứ, không biết lúc nào mới được về lại nơi quê cha đất tổ. Cảm nghiệm nỗi buồn mất nước này, tác giả Thánh vịnh đã phải thốt lên: “Châu lệ là cơm bánh đêm ngày, khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi: “Này Thiên Chúa ngươi đâu?” (Tv 42 (41), 4), “Bờ sông Babilon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên… Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người?” (Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Chính giữa nỗi buồn day dứt đó, chúng ta mới thấy hết được niềm hy vọng và vui mừng của dân khi nghe lời loan báo của vị ngôn sứ : “Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. .. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Madian. Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm đẫm máu đào, sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa”. Không vui sao được khi họ sắp được trở về quê hương, được giải thoát khỏi ách nô lệ, đựơc trở lại thành một con người tự do. Niềm vui này thật to lớn, không thể nói hết được.
Không chỉ loan báo ngày giải thoát, ngôn sứ còn hé mở cho thấy khuôn mặt của Đấng thực hiện lời hứa giải thoát này: “Bởi lẽ một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một người con đã được ban tặng cho chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai,…Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít”. Đây thực sự là một vị vua uy quyền nhưng cũng đầy tình nhân ái: “Thiên hạ sẽ gọi Nguời là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận”.
Lời hứa này đã được thực hiện. Dân Chúa đã được hồi hương vào năm -587. Thế nhưng, thực tế, họ cũng chưa hoàn toàn được tự do. Vì thế, dân Chúa vẫn luôn thao thức trông chờ ngày của Đấng Messia đến để thực hiện trọn vẹn lời hứa này. Và với việc Giáng Sinh của Đức Giêsu, niềm vui này đã trở nên hiện thực như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh bởi người nữ,… ngõ hầu chúng ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4, 4-5).
2. Tin mừng được cứu độ
Như thế, với việc Giáng Sinh của Ngôi Lời, niềm vui được giải thoát giờ đây được trở nên trọn vẹn, thánh sử Luca thuật lại: “Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ và đặt nằm trong máng cỏ”. Chính Hài Nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ đơn sơ đó sẽ là Đấng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, như lời các sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho các ngươi trong thành của Đavít”. Tin mừng giải thoát này cũng được thánh Phaolô chia sẻ với môn đệ Titô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta đã xuất hiện cho mọi người.... Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người”.
Đức Giêsu sẽ “luyện sạch chúng ta”, nghĩa là khi Đức Giêsu đến, Ngài không chỉ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thân xác, mà quan trọng hơn, Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì như lời Ngài đã nói: “Phàm ai phạm tội, thì là nô lệ” (Ga 8, 34). Dân Do thái và chúng ta hôm nay, tuy không còn bị lưu đày về thân xác, nhưng tâm hồn chúng ta vẫn chưa được bình an. Chúng ta vẫn còn bị những dục vọng, cám dỗ của tội lỗi chi phối. Chắc từng người chúng ta cũng từng có cảm nghiệm của sự bình an và nhẹ nhõm trong tâm hồn sau khi làm hoà với anh chị em hay sau khi lãnh bí tích Hoà giải. Chính sự giải thoát này mới thực là niềm vui lớn nhất, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã cất tiếng ca mừng về điều đó: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”. Sự sáng mà ngôn sứ đã loan báo giờ đây đã trở nên hiện thực với việc Giáng Sinh của Đức Kitô: “Bấy giờ trong miền đó có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật của mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ”. Ánh sáng của Ngài xóa tan bóng tối của tội lỗi, của sự chết. Với ánh sáng của Thiên Chúa, các mục đồng, những người bị coi là hèn hạ nhất trở thành những chứng nhân đầu tiên cho sự kiện có một không hai trong lịch sử. Sự kiện Con Thiên Chúa làm người.
3. Nhiệm vụ loan báo Tin mừng
Hôm nay, nhận được Tin mừng của Chúa, từng người chúng ta có bổn phận phải rao truyền Tin mừng đó cho mọi người như lời mời gọi của tác giả thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ngày qua ngày hãy loan truyền ơn cứu độ của Người, hãy loan truyền vinh hiển Người giữa mọi nước, và những việc lạ lùng Người giữa các dân”. Chúng ta không thể loan truyền Tin mừng Giáng Sinh bằng những lễ nghi long trọng, đèn hoa rực rỡ tốn kém, hay những bữa tiệc linh đình, vì Chúa chúng ta chỉ chọn một máng cỏ hôi tanh của súc vật để làm nôi khi Ngài sinh ra. Có lẽ cách loan truyền Tin mừng Chúa Giáng Sinh đúng ý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất là chúng ta biết sống yêu thương, kính trọng, đề cao, bênh vực con người, nhất là những con người bé mọn, những người bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề xã hội, đặc biệt là các thai nhi còn nằm trong bụng mẹ. Chúng ta hãy cho các em một cơ hội sống.
Giờ đây, noi gương Đấng đã tự hiến mình làm tấm bánh bẻ ra cho chúng ta được sống. Sau thánh lễ này, khi trở về nhà, chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ, để bất cứ ai tiếp xúc với chúng ta đều nhận ra được tình yêu của Chúa đang đến với họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hưởng được niềm vui trọn vẹn của ngày lễ Giáng Sinh hôm nay. Amen.
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi: GS-97
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu “thiện tâm” là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến Palextina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palextin lại chìm trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Và một khi bức tường ngăn cách được dựng lên, sự xích mích vốn không thể làm hòa từ bấy lâu nay, lại càng đào sâu thêm chia rẻ, giết chóc và thù hận. Khúc hát thiên thần: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất Giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái ra khỏi nhà để vui đêm hội Giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá trị mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người.
Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa. Xin kính chúc mọi người một đêm an bình, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Chủ đề: Đức Giêsu đã trở nên người như chúng ta: cùng chịu đau khổ như chúng ta. Như vậy đau khổ ắt phải có giá trị tích cực của nó.
Câu hỏi gợi ý :
Đức Giêsu có gặp nhiều nghịch cảnh như chúng ta không? Giữa Ngài và ta, ai nhiều nghịch: GS-98
1. Đức Giêsu có gặp nhiều nghịch cảnh như chúng ta không? Giữa Ngài và ta, ai nhiều nghịch cảnh hơn ai? Ta có thể rút ra kết luận gì về điều này?
2. Có cha mẹ nào yêu thương con mà lại bắt con phải chịu đau khổ một cách vô ích hoặc không cần thiết không? Nếu các ngài cứ bắt ép con mình phải chịu đau khổ, thì người con phải hiểu đau khổ ấy thế nào? có cần thiết hay không?
3. Vì yêu con người, Thiên Chúa muốn chia sẻ đau khổ với con người. Nếu ta yêu tha nhân, ta sẽ phải làm gì khi thấy họ phải đau khổ?
CHIA SẺ
1. Đức Giêsu cũng gặp bao nghịch cảnh như chúng ta
Đức Giêsu chính là Thiên Chúa nhập thể, mặc lấy thân phận con người y hệt như chúng ta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ không có tội lỗi mà thôi. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài cũng gặp biết bao nghịch cảnh như chúng ta, thậm chí ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ và khi vừa mới sinh ra.
Gần tới ngày Ngài chào đời thì cha mẹ Ngài phải lên đường đến một nơi cách nhà mình trên 120 cây số vì lệnh kiểm tra dân số của chính quyền. Tại nơi xa lạ này, gia đình Ngài đã không kiếm được một chỗ trọ để Ngài chào đời một cách xứng với phẩm giá một con người. Vì thế, hai ông bà đã phải chấp nhận cảnh sống bụi đời là tìm một chuồng chiên bò nào đó ở ngoài đồng để sinh con và tạm trú qua ngày. Và Đức Giêsu đã sinh ra trong một chuồng chiên bò. Ôi, thật là nhục nhã! Nghịch cảnh đâu đã hết, nó còn theo Ngài suốt cuộc đời: nào là phải trốn sang Ai Cập, rồi trở về Nadarét, nào là cảnh nghèo khổ, nào là tình trạng bị giới lãnh đạo tôn giáo ghen ghét và bách hại, bị dân chúng và cả môn đệ mình phản bội, bị đánh đòn, bị xỉ vả nhục nhã, bị chết thảm thương, v.v… Xét về hoàn cảnh, chúng ta may mắn hơn Ngài rất nhiều. Ngài vốn là Thiên Chúa, giầu sang quyền quí vô cùng, thế mà phải chịu như vậy. Chúng ta là ai mà lại mong muốn được ưu đãi hơn Ngài? Suy nghĩ điều ấy sẽ phát sinh một niềm an ủi rất lớn cho chúng ta.
2. Đau khổ và nghèo khó có giá trị của nó
Thân phận con người là một thân phận đau khổ và nghèo khó như một hậu quả tất yếu của tội nguyên tổ. Nếu đau khổ hoàn toàn không có ích lợi gì cho chúng ta, chắc chắn vì yêu thương chúng ta vô hạn, Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng vô biên để giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi mọi đau khổ. Nhưng nếu Thiên Chúa vẫn để chúng ta phải đau khổ, và chính Ngài cũng sẵn sàng đau khổ cùng với chúng ta, tất nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi rất lớn cho chúng ta. Nếu không như thế, thì phải kết luận rằng: một là Ngài là người tàn ác, không yêu thương gì chúng ta, hai là Ngài không toàn năng, nghĩa là không đủ khả năng để giải phóng chúng ta khỏi đau khổ. Nếu Ngài yêu thương ta vô cùng lại toàn năng, mà lại để chúng ta đau khổ, ắt nhiên đau khổ ấy phải rất cần thiết và rất ích lợi cho chúng ta.
Một minh họa tuy què quặt nhưng giúp ta dễ hiểu điều ấy: Cha mẹ yêu thương con không bao giờ muốn con phải khổ, dù chỉ là khổ một chút xíu. Nhưng nếu cha mẹ bắt con cái mình phải uống một thứ thuốc rất đắng, hay phải chịu roi vọt rất đau đớn, và chính cha mẹ cũng phải vất vả vô cùng mới kiếm được thứ thuốc đắng ấy, hay phải quặn ruột nhìn con khóc thét dưới lằn roi, tất nhiên thuốc đắng hay roi vọt ấy phải là cần thiết hoặc ích lợi cho đứa con. Thật vậy, thà bắt con khổ vì uống thuốc, đau vì roi vọt, còn hơn để con phải bệnh hoạn tật nguyền suốt đời, hay trở nên người hư hỏng hoặc vô giá trị sau này.
3. Đau khổ rất cần thiết và ích lợi để nên thánh, để hạnh phúc
Kinh nghiệm cho ta thấy đau khổ nhiều khi rất cần thiết để đạt được những ích lợi lớn hoặc để tránh những tổn thất nặng nề, chẳng hạn như: «quân trường thấm mồ hôi, chiến trường ít đổ máu», «gieo trong nước mắt thì gặt giữa vui mừng» (Tv 126,5-6). Kinh điển Phật giáo cũng nói: «Tất cả các phiền não đau khổ đều là hạt giống Như Lai. Tương tự như nếu mình chẳng lặn xuống biển sâu thì không thể tìm thấy châu báu vô giá. Cũng vậy, nếu mình chẳng chịu ngụp lặn trong bể cả phiền não, ắt mình không thể tìm được của báu là cái trí tuệ biết hết tất ca» (Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8: Phật Đạo). Theo Phật giáo, phiền não đau khổ là hạt giống Như Lai, sinh ra trí tuệ giải thoát.
Ta thấy: trên đời, những người có bản lãnh đều là những người phải kinh qua rất nhiều đau khổ, đều được đào luyện trong đau khổ. Đau khổ dạy cho chúng ta - thậm chí cả Đức Giêsu - nhiều bài học quí giá: «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8). Ngay cả đối với Đức Giêsu, thì đau khổ cũng rất cần thiết để Ngài trở nên vị lãnh đạo hoàn hảo: «Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ để trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ» (Dt 2,10). Muốn sử dụng ai, Thiên Chúa thường dùng đau khổ để sửa dạy, để thánh hóa, để huấn luyện người ấy nên hoàn hảo: «Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt» (Dt 12,6). Gương của các thánh chứng minh điều ấy.
Như vậy, đau khổ có giá trị của nó, và chịu đựng đau khổ không phải là một chuyện vô ích. Nếu đau khổ và nghèo khó cần thiết và ích lợi cho chúng ta, mà Thiên Chúa lại không bắt chúng ta đau khổ và nghèo khó, thì chắc chắn Ngài chưa phải là người yêu thương chúng ta đích thực: vì «yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi». Hoặc Ngài chỉ yêu chúng ta một cách thuần túy tình cảm và điều ấy sẽ làm chúng ta hư hỏng: «con hư tại mẹ, cháu hư tại bà».
4. Thiên Chúa cùng chịu đau khổ và nghèo khó với con người
Dù đau khổ và nghèo túng là cần thiết cho chúng ta chứ không phải cho Thiên Chúa, nhưng nếu Ngài để chúng ta phải quằn quại trong đau khổ một mình, còn Ngài chẳng biết một chút gì về đau khổ, thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng cô đơn trong đau khổ, và chúng ta khó có thể tin được rằng Ngài yêu thương chúng ta. Nhưng nếu Ngài đã cùng muốn chịu đau khổ với chúng ta, và còn muốn chịu đau khổ hơn cả chúng ta nữa, thì điều đó chứng tỏ rằng Ngài đã yêu thương chúng ta đích thực.
Qua cuộc giáng sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân xuống thế làm người để cùng chịu đau khổ và nghèo nàn với chúng ta. Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của con người, đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của con người (xem lPr 2,24b). Điều ấy làm chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài đối với chúng ta là vô bờ bến, đồng thời cũng nhận ra giá trị của đau khổ và sự nghèo khó.
5. Hãy bắt chước Ngài chia sẻ đau khổ với những người chung quanh ta, nhất là những người nghèo túng, bị áp bức bất công
Nếu tình yêu đích thực đã thúc đẩy Thiên Chúa phải chia sẻ thân phận đau khổ và nghèo nàn của chúng ta, thì ta có thể rút ra một kết luận cho việc thể hiện tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Nếu chúng ta nói mình yêu ai, mà khi người ấy gặp đau khổ, chúng ta không hề cảm thấy phải làm điều gì để giảm bớt đau khổ cho người ấy, hoặc không tìm cách cùng chia sẻ đau khổ với người ấy, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối, tình yêu ấy chỉ là tình yêu ngoài môi miệng. Hễ yêu ai, thì khi thấy người ấy đau khổ, ta không thể khoanh tay đứng nhìn mà không làm gì. Nếu không làm giảm được đau khổ với người ấy, thì cũng có thể làm một việc gì để tỏ ra thông cảm. Chúng ta nghèo, Thiên Chúa cũng đã trở nên nghèo cùng với chúng ta. Vậy, làm sao chúng ta có thể nói rằng mình yêu thương người nghèo, khi chúng ta vẫn vui vẻ sống trên nhung lụa, và không hề quan tâm làm một điều gì cho người nghèo bớt nghèo. Làm sao ta có thể nói rằng mình yêu quê hương, trong khi mà quê hương đang đau khổ, đang tuột dốc xuống bờ vực thẳm, với bao nhiêu người bị bắt bớ, bị đàn áp một cách bất công, ta vẫn thản nhiên như người ngoài cuộc, chỉ biết hưởng thụ cuộc sống an vui mà may mắn đã dành cho ta?
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã cho Đức Giêsu nhập thể thành người để chia sẻ thân phận làm người với chúng con: cũng đau khổ, cũng nghèo khó, cũng đói cũng khát như chúng con. Qua sự nhập thể ấy, xin cho con nhận ra tình thương vô biên của Cha và sự cần thiết của những đau khổ trong đời sống của con. Con tin rằng Cha yêu thương con vô cùng và khôn ngoan vô biên, không bao giờ để con phải chịu đựng đau khổ một cách vô lý và không cần thiết. Con biết rằng hễ Cha để đau khổ xảy đến với con, ắt nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi cho con, dù con không hiểu được ích lợi thế nào. Xin cho con biết chấp nhận đau khổ như Đức Giêsu, đồng thời biết yêu thương và cảm thông với đau khổ của mọi người chung quanh con. Amen.
Có một chuyện ngắn, mang tựa đề là “Người khách cuối cùng”, tôi xin được tóm tắt như sau: GS-99
Có một chuyện ngắn, mang tựa đề là “Người khách cuối cùng”, tôi xin được tóm tắt như sau :
Thôn ấp Bêlem còn chìn trong bóng tối. Hài nhi Giêsu còn thiếp ngủ trong máng cỏ. Bỗng cửa chuồng bò mở ra. Một bà lão xuất hiện. Thân hình gầy guộc. Nước da nhăn nheo. Áo quần rách rưới. Maria nhìn bà lão bằng cặp mắt canh chừng, lo âu và thoáng một chút sợ hãi.
Bà lão tiến lên, tiến lên nữa, đến tận máng cỏ. Rất may là Hài nhi Giêsu vẫn còn ngủ yên. Nhưng rồi bất ngờ, đôi mắt Hài nhi Giêsu khẽ mở và nhìn bà lão. Maria càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy cặp mắt của bà lão giống hệt cặp mắt của Hài nhi Giêsu, vì cả hai cùng sáng lên một tia hy vọng. Bà lão nghiêng mình trên máng cỏ. Bàn tay thọc sâu vào trong túi. Dường như bà lão lấy ra một vật gì đó, rồi đặt xuống bên cạnh Hài nhi Giêsu. Maria thắc mắc không hiểu là vật gì.
Yên lặng một lúc, bà lão đứng lên và cất bước. Như có một sức mạnh thần bí thúc đảy, bà lão bước đi nhanh nhẹn. Lưng không còn còng xuống và nét mặt lấy lại được vẻ tươi trẻ. Bà lão mất hút trên khoảng đồi xa xa. Bấy giờ, ngọn gió không còn lạnh cóng vì hừng đông đã ló dạng. Maria lại gần bên máng cỏ xem bà lão đã để lại vật gì. Maria vô cùng ngạc nhiên và kêu lên :
- Ôi, một quả táo vàng.
Bà lão ấy là hình ảnh tượng trưng cho Evà, đã trao lại cho Hài nhi Giêsu quả táo của tội lỗi đầu tiên. Và giờ đây, Hài nhi Giêsu đang cầm trên tay như cầm một trái cầu nhỏ, cho một thế giới mới xuất hiện.
Bà lão ấy còn là hình ảnh tượng trưng cho toàn thể nhân loại chúng ta. Thực vậy, tội nguyên tổ đã ảnh hưởng trên chúng ta, khiến chúng ta phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Tội nguyên tổ là như chiếc móc xích đầu tiên, kéo theo tội lỗi của toàn thể nhân loại : Từ tội của Cain, tội của ngọn tháp Babel cho đến tội của mỗi người chúng ta, đã làm cho sợi dây xích ấy kéo dài ra tưởng như vô tận, biến con người trở thành thù địch với Thiên Chúa và với nhau. Tội nguyên tổ là như một trái phá, đã giật sập cây cầu cảm thông, nối liền trời với đất, nối liền Thiên Chúa với nhân loại.
Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là vực thẳm ngăn cách, tự sức riêng, con người không thể nào vượt qua để tìm về gặp gỡ. Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là giông tố và xáo trộn, tự sức riêng, con người không thể đem lại một nền hòa bình và ổn định. Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là thất vọng và đắng cay, tự sức riêng, con người không thể thắp lên cho mình niềm hy vọng giải thoát và cứu độ. Con người sinh ra là để kéo lê một kiếp sống đọa đày và sẽ kết thúc bằng cái chết.
Thế nhưng, Thiên Chúa đã lên đường tìm kiếm. Và đêm hôm nay, bàn tay Ngài đã nắm chặt lấy bàn tay nhân loại, cho tình yêu mở hội đâm bông và kéo chúng ta khỏi hố sâu tội lỗi, khỏi vực thẳm diệt vong. Ngôi Lời đã nhập thể. Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta.
Hài nhi Giêsu đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa, đã nối lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đã thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng. Hài nhi Giêsu là Adong mới, đã gánh lấy tội lỗi chúng ta, nhờ đó chúng ta được tha thứ, được thoát khỏi bản án của tử thần. Hài nhi Giêsu đã chiến thắng sự chết, để con người phải chết của chúng ta được sống muôn đời. Hài nhi Giêsu đã đem lại cho chúng ta nguồn sống mới, khiến chúng ta lấy lại được vẻ đẹp nguyên thủy, chưa từng bị hoen ố bởi tội lỗi, để từ nay chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Hài nhi Giêsu đã mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của vui mừng và hy vọng, kỷ nguyên của ơn sủng và tình thương. Hài nhi Giêsu là một nhà cách mạng chuyên chính nhất, bởi vì Ngài đã xóa sạch mọi dấu vết của tội lỗi, đã khai sinh một triều đại mới trong công bằng và tự do, cũng như đã xây dựng một con người mới trong yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Mặt đất này không còn là hoang mạc cằn cỗi, nhưng đã trở thành thửa vườn xanh tươi của Thiên Chúa. Xã hội này không còn là một địa ngục, trong đó người với người là như chó sói của nhau, nhưng đã thực sự trở nên một thiên đàng vì có Thiên Chúa ở cùng.
Hãy cảm tạ tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, đồng thời hãy cộng tác với Ngài trong việc biến đổi bộ mặt thế giới, để mỗi ngày một trở nên tốt đẹp hơn.
Con người đầu tiên Ađam trở nên hữu thể có sự sống, còn Ađam cuối cùng trở nên Thánh: GS-100
Con người đầu tiên Ađam trở nên hữu thể có sự sống, còn Ađam cuối cùng trở nên Thánh Thần ban sự sống. Đức Thánh Cha trích lại lời thơ Côrintô, đó là những lời của thánh Phaolô tông đồ tổng kết mầu nhiệm nhân loại được Chúa Kitô cứu chuộc, một mầu nhiệm được giấu ẩn trong chương trình đời đời của Thiên Chúa; một mầu nhiệm theo một nghĩa nào đó đã trở thành lịch sử với sự nhập thể của Ngôi Lời hằng hữu của Thiên Chúa Cha; một mầu nhiệm mà Giáo Hội đang sống một lần nữa với niềm xúc động sâu xa trong lễ Giáng sinh.
Ađam là con người đầu tiên, Chúa Kitô là thần khí ban sự sống. Những lời của thánh tông đồ Phaolô giúp chúng ta nhìn sâu xa hơn, giúp chúng ta nhìn nhận nơi con trẻ Giáng sinh tại Belem là Con Chiên đã bị hiến tế và là Đấng mạc khải ý nghĩa của lịch sử. Lúc Người Giáng sinh, thời gian và vĩnh cửu gặp nhau, Thiên Chúa sống trong con người và con người trong Thiên Chúa.
Con người đầu tiên Ađam trở thành hữu thể có sự sống, thiên tài bất tử Michel-Ange đã vẽ ra trên trần nhà nguyện Sixtin giây phút Thiên Chúa Cha trao ban hồng ân sự sống cho con người đầu tiên và làm cho nó trở thành hữu thể có sự sống. Giữa ngón tay của Thiên Chúa và ngón tay của con người đưa ra hướng về nhau và gần như là chạm vào nhau nơi mà cách đó xem ra như có một lằn lửa vô hình. Thiên Chúa thông truyền cho con người sức mạnh của chính Ngài khi tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài và giống như Ngài.
Thần khí này là phẩm vị duy nhất của mọi hữu thể con người, của khát vọng vô cùng của nhân tính hướng về cái vô cùng. Tâm tư chúng ta ngày hôm nay hướng về chính lúc đầu tiên của mầu nhiệm không thể hiểu thấu được, giây phút của khởi đầu sự sống con người trên mặt đất. Khi chúng ta chiêm ngắm Con Một của Thiên Chúa Cha trở thành con người, dung mạo đời đời của Thiên Chúa được phản chiếu trong dung mạo của con trẻ. Con người đầu tiên Ađam trở thành hữu thể có sự sống do bởi lằn lửa Thần đặt vào bên trong con người, mà con người là một hữu thể có trí khôn và sự tự do, và như thế có khả năng chịu trách nhiệm quyết định đối với chính mình và vận riêng của mình.
Bức họa nổi tiếng của nhà nguyện Sixtin được tiếp tục với cảnh về tội nguyên tổ, con rắn cuốn tròn theo thân cây thuyết phục đầu tiên của nguyên tổ chúng ta ăn trái cây đã bị cấm. Thiên tài của nghệ thuật và chiều sâu của biểu tượng của Kinh Thánh được hòa nhập tuyệt vời với nhau để gợi lên giây phút bi thảm đó, khởi đầu của một lịch sử phản loạn, tội lỗi và đau buồn từ phía nhân loại. Nhưng thử hỏi, Thiên Chúa có thể bỏ quên công việc do tay Ngài tạo nên tuyệt tác của tạo vật hay không ? Chúng ta biết được câu trả lời của đức tin như sau : “Khi thời giờ đã nên trọn, Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống sinh ra bởi người nữ, sinh ra trong lề luật để cứu chuộc những ai sống dưới lề luật, ngõ hầu chúng ta có thể trở nên dưỡng tử của Ngài”.
Những lời của thánh tông đồ Phaolô vang lên với sự hùng hồn đích thực khi chúng ta chiêm ngắm biến cố Giáng sinh. Nơi con trẻ mới sinh nằm trong máng cỏ, chúng ta chúc mừng Ađam mới trở thành Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trọn cả lịch sử của thế giới hướng về Người, Đấng được sinh ra tại Belem, ngõ hầu thiết lập lại niềm hy vọng cho từng người nam, nữ trên mặt đất này.
Từ máng cỏ, đôi mắt của chúng ta hôm nay nhìn về toàn thể nhân loại, một nhân loại được mời gọi lãnh nhận hồng ân của Ađam thứ hai, dù còn lãnh nhận phần gia tài tội lỗi của Ađam thứ nhất. Thử hỏi, có phải lời thưa không đầu tiên với Thiên Chúa được lặp lại trong mỗi tội con người phạm ? Thử hỏi, có phải lời thưa không đầu tiên đó tiếp tục làm méo mó dung mạo của nhân loại hay không ? Những trẻ thơ phải gánh chịu bạo lực, bị hạ nhục và bỏ rơi. Những người nữ bị hãm hiếp và bị lạm dụng khai thác. Những người trẻ, những người lớn và những vị cao niên bị loại ra ngoài lề xã hội. Những lớp người khốn cùng bị đi đày và đi tỵ nạn, bạo lực và xung đột tại biết bao nơi trên thế giới.
Tôi lo âu nghĩ đến thánh địa, nơi mà bạo lực tiếp tục làm cho con đường khó khăn dẫn đến hòa bình bị nhuỗm máu. Và có thể nói gì về những quốc gia mà giờ đây tôi đặc biệt nghĩ đến Indonesia. Có thể nói gì về những quốc gia nơi mà những anh chị em chúng ta trong đức tin đang phải trải qua những giây phút khó khăn của thử thách và đau khổ. Chúng ta không thể không gợi lại hôm nay rằng, những bóng tối của sự chết chóc đang hăm dọa mạng sống con người ở mọi hạng tuổi và đặc biệt đang hăm dọa mạng sống con người vào ngay lúc khởi đầu và lúc kết thúc tự nhiên của nó. Càng trở nên mạnh mẽ hơn nữa, cám dỗ muốn làm chủ sự chết bằng cách làm cho nó đến sớm hơn dường như thể chúng ta là người chủ của mạng sống mình và mạng sống của những kẻ khác. Chúng ta đang đối diện với những dấu chỉ báo nguy của một nền văn hóa sự chết đang hăm dọa nghiêm trọng tương lai.
Tuy nhiên, cho dù bóng tối xem ra dày đặc đến mấy đi nữa, niềm hy vọng của chúng ta vào sự chiến thắng của ánh sáng đã xuất hiện trong đêm thánh tại Belem còn mạnh mẽ hơn. Quả thật, có biết bao điều tốt đã được thực hiện một cách âm thầm bởi những con người nam, nữ hằng ngày sống đức tin, chu toàn công việc và dấn thân phục vụ gia đình của họ và phục vụ điều thiện hảo của xã hội. Cũng thật là khích lệ vào những cố gắng của những ai, kể cả những con người nam, nữ trong đời sống công cộng, đang cố gắng cổ võ cho sự tôn trọng nhân quyền của mỗi một người và cổ võ sự gia tăng tình liên đới của các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau, ngõ hầu món nợ của những quốc gia nghèo nhất được giải tha, ngõ hầu hiệp ước hòa bình trong danh dự được đạt đến giữa các quốc gia đang xung đột với nhau thật bi thảm.
Với các dân tộc khắp nơi trên thế giới đang can đảm tiến đến các giá trị dân chủ, sự tự do, sự tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Với tất cả mọi người thiện chí bất luận thuộc về nền văn hóa nào, sứ điệp vui mừng của mùa lễ Giáng sinh hôm nay được gởi đến cho họ là : “Hòa bình dưới thế cho con người được Thiên Chúa yêu thương”.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã Giáng sinh tại Belem vì chúng con, Chúa đã yêu cầu nơi nhân loại đang bước vào ngàn năm mới hãy tôn trọng từng người, nhất là những kẻ bé mọn và những người yếu đuối. Chúa yêu cầu chấm dứt mọi hình thức của bạo lực, chấm dứt chiến tranh, đàn áp và mọi tấn công vào sự sống.
Lạy Chúa Kitô mà chúng con hôm nay chiêm ngắm nằm trong vòng tay của Mẹ Maria, Chúa là lý do cho niềm hy vọng của chúng con, thánh Phaolô đã nói với chúng con rằng, điều cũ đã qua rồi và đây điều mới đã đến. Trong Chúa và chỉ trong Chúa mà thôi nhân loại được ban cho cơ may để trở thành tạo vật mới.
Lạy Con Trẻ Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì món quà này, nguyện chúc tất cả lễ Giáng sinh đầy hạnh phúc.