Suy niệm Tin Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam 24/11 Bài 101-150 Những chứng nhân anh dũng của Đức Tin ------------------------------------ Phúc Âm: Mt 10,17-22 "Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Hồi còn nhỏ, lúc học Tiểu học, được đọc truyện các thánh, nhất là các Thánh Tử đạo, biết gương can đảm của các ngài, dám liều mình chịu chết, hi sinh cả mạng sống, tôi rất kính phục. Từ sự kính phục đó, nhìn lại con người của mình, cảm thấy mình hèn kém quá, tôi có ý nghĩ này: Các thánh đáng phục, đáng kính đó, nhưng rõ ràng họ cao cả quá, chắc chắn là mình không làm sao theo nổi, không làm sao bắt chước các ngài được. Vậy là người có đạo, người tin Chúa, mình phải sống làm sao đây? Tôi đã chọn giải pháp trung dung, thôi thì cũng ráng sống tốt, cũng ráng nên thánh, nhưng vừa vừa thôi, để được lên thiên đàng là đủ rồi. Chắc ăn lắm! Đó là nên thánh nửa vời. Mải đến chừng đi chủng viện, qua học thần học, tín lý, tôi mới hiểu câu nói của một vị thánh: không có tình trạng nên thánh nửa vời. Đọc qua lịch sử của các thánh Tử đạo VN, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hôm nay mừng kính trọng thể các Thánh Tử đạo VN. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Những nhà truyền giáo đặt chân lên đất nuớc VN, lối đầu thế kỷ 17 (1638). Vậy mà trong khoảng non 300 năm đầu, lịch sử của Hội thánh VN là một cuộc Tử đạo liên miên kéo dài. Đây là lịch sử của trên 100.000 anh hùng tử đạo, tuy chỉ được tôn phong vẻ vang trên bàn thờ có 117 vị. Đây cũng chính là lịch sử Giáo hội VN được ghi bằng những trang sử oai hùng, được tô điểm những nét vàng son, chói lọi về những cái chết anh hùng của bậc tiền nhân. Chính lời của Chúa Giêsu là sức sống, là niềm tin của họ, nhờ đó họ mới có thể vượt qua được cái chết thường tình: "anh em đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn..." Họ đã lãnh triều thiên tử đạo vì các lẻ như sau:
cái chết của các vị tử đạo đã được nói trước: Chúa nói: "anh em sẽ bị nộp;bị đánh đập trong hội đường, vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người ghen ghét." (Mt 10,18+22 ). "Tôi tớ không hơn chủ; nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." (Gn 15, 20). Ở tại bến cảng Đà Nẳng có một cây thánh giá thật to, rất lâu đời. Không rõ thánh giá này đuợc dựng nên từ đời nào, nhưng rõ ràng nó chính là biểu tượng của người kitô hữu VN. Một vị thừa sai thời Pháp, nhìn cây thánh giá nói: "đất nước này rồi sẽ lắm đau thương." Đúng vậy! Hội thánh VN đã dựng tượng thánh giá, ở khắp mọi nơi, trước hết qua các thánh tử đạo, đã rải dài từ Bắc xuống Nam; nơi đâu có máu của các ngài đổ xuống là nơi đó thánh giá mọc lên; mọc lên hữu hình không chỉ trong các nhà thờ, tại tư gia, hay trên cổ trên áo, mà nhất là trong tâm hồn của mọi kitô hữu. Họ tôn thờ thánh giá không phải vì cuồng tín, mà vì chính Thầy của mình đã đi qua con đường đó và họ cũng phải đi qua như Thầy mình vậy. Vì thế cái chết của họ đã được báo trước; nhưng họ vẫn thanh thản vui lòng chấp nhận như Thầy mình.
Các ngài đã bền chí, trung kiên trong niềm tin, trong yêu mến: Đừng nói các thánh tử đạo muốn chết, mà không ham sống. Sự sống là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ vẫn ý thức rằng: được sống là một hồng ân cao cả, vì họ cũng là người VN, da vàng máu đỏ như ta. Tuy nhiên, điều hệ trọng của họ chính là phải sống thế nào cho ra kiếp người: câu trả lời của họ, đó chính là sống trong tin yêu và trong tự do. Các ngài đã chọn lựa sống tự do, trong tình yêu chung thủy với Thiên Chúa và anh em; nhưng vua quan lại muốn tách họ ra khỏi Thiên Chúa bằng vũ lực, bằng hình khổ và cả mạng sống của họ nữa. Dù vậy, họ vẫn ý thức Lời Thầy mình nói: "Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì.." Họ liều mạng sống đời này, không phải vì cuồng tín, nhưng vì tin vào Chúa Thiên Chúa, Đấng luôn tín trung, không hề lừa dối ai bao giờ....
Bà thánh Inê Đê , thánh nữ tử đạo duy nhất được tôn phong của Hội thánh VN, vì giúp đở, che giấu các vị truyền giáo trong nhà mình tại Phúc Nhạc, mà bà bị bắt, bị tra tấn đánh đập nhiều lần; bà bị kiệt sức và chết trong tù ngày 12. 07. 1841. Lúc trong tù, con cái vào thăm mẹ; chúng thấy áo quần bà đầy vết máu, chúng òa khóc lên. Bà Inê Đê cười, nói: "các con đừng khóc, mẹ đang mặc áo hoa hồng đây". Nói được câu này, đủ minh chứng bà thánh Đê, đầy ơn Chúa, nên mới can đảm, trung kiên tới cùng như thế...
Lấy máu mình để làm chứng: Khi ta bị đứt tay, trặc chân, lỗ đầu, sứt trán, ta còn cảm thấy đau; chưa kịp uống thuốc giảm đau, ta đã la inh ỏi. Vậy màThánh Tử đạo Marchand Du, bị xử bá đao, nghĩa là bị lóc thịt đủ một trăm miếng. Đầu tiên họ lóc da đầu của ngài kéo ra phía trước để che mặt, rồi tiếp tục chổ khác. Vậy mà nghe nói thánh nhân không rên la; tuy nhiên lóc chưa đủ số, thì ngài đã chết rồi.
Ông bà mình nói: máu chảy ruột mềm, có nghĩa là lúc bị hoạn nạn tâm trạng con người dễ xiêu lòng, thay đổi. Các thánh tử đạo VN cũng là người như ta, cũng da vàng máu đỏ, nhưng sở dĩ các ngài chịu được những tra tấn, chặt đầu, lóc thịt chính vì để minh chứng cho Một Con người: đó là Đức Kitô. Chính vì các ngài tin vào thế giá của Đức Kitô, tin rằng Ngài không bao giờ dối gạt họ, tin vào tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, tin rằng sau cái chết đời này còn một cuộc sống vĩnh cữu đáng quí hơn nhiều, đáng đổi lấy hơn sự sống đời này, tin rằng họ hoàn toàn không ảo tưởng, vì chính Đức Kitô cũng đã chết cho họ, để họ cũng được sống lại với Ngài. Rõ ràng họ không chết cho một lý tưởng, mà là chết cho một con người, đó là Đức Kitô, chết cho Hội thánh Chúa.
b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Hôm nay chúng con xin dâng lên các thánh TĐ.VN hai nén hương: một nén là để ca tụng, thán phục các ngài, những tấm guơng sáng chói đời đời cho hậu thế soi chung. Một nén khác: để khẩn cầu các ngài phù trợ chúng con nhiều ơn Chúa, trên đường trần gian hôm nay, đầy cạm bẩy, đầy trắc trở, giúp chúng con vượt qua mọi thử thách trên đời, hầu như không thể vượt qua. Amen.
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc chúng ta. Ngài là Chủ của chúng ta. Ngài không những cho chúng ta được hiện hữu nơi trần gian mà còn tiếp tục quan phòng, ban nhiều ơn ích cho cả xác hồn chúng ta và lo cho chúng ta cảm nếm được hạnh phúc thật bên Ngài. Những ơn Chúa ban cho chúng ta được Tin mừng hôm nay nhắc tới qua hình ảnh "nén bạc" Chúa trao cho mỗi người.
Trong cuộc đời này, có người được Chúa ban cho nhiều, có người ít hơn tuỳ theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta không nên so đo vì tất cả những ơn Chúa ban đều do lòng yêu thương bao la của Chúa đối với từng người chúng ta. Chúa chỉ đòi chúng ta làm lợi tương xứng với tài sức Chúa ban. Người ta nói rằng, đa số chúng ta sử dụng chưa tới 10% tài năng tiềm ẩn của mình. Chúa ban cho chúng ta rất nhiều nhưng chúng ta chưa khám phá hết khả năng của mình. Ông chủ trong Tin Mừng cho những người đầy tớ của mình ít nhất là 1 nén bạc. Nén bạc thời đó có giá trị rất lớn tương đương với giá 10. 000 ngày công của một người thợ trung bình. Đó là một số tiền khá lớn. Điều này cho thấy những gì Chúa giao phó cho mỗi người lớn lao lắm. Cho nên tâm tình trước tiên của người đầy tớ là cám ơn Chủ đã tín nhiệm mình, kế đến là lo làm việc hết mình cho Chủ để sinh lời xứng với lòng tin yêu của chủ. Chúng ta phải biết ơn Chúa và tận dụng ơn Chúa ban để không phụ tình thương của Chúa. Mỗi người hãy chu toàn trách nhiệm đã lãnh nhận cách hiệu quả nhất, với tâm tình kính mến Chúa và yêu thương tha nhân cách chân thành.
Chủ đi xa, giao phó tài sản cho các đầy tớ, chứng tỏ ông chủ tín nhiệm các đầy tớ. Cũng vậy, Chúa yêu thương chúng ta và đã trao cho nhiều ơn phần hồn phần xác để chúng ta sinh lời, làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho tha nhân và được Chúa thưởng trong ngày sau hết. Để nhận ta vào Thiên đàng, Chúa không xét là ta làm lợi nhiều ít so với người khác. Đối với vua trời, 10 nén bạc chẳng là bao, số nén bạc sinh lời gấp đôi tuy là lớn đối với giá trị ở đời này, nhưng lại là nhỏ so với giá trị ở đời sau. Việc làm ở đời này tuy có lớn lao đi nữa nhưng so với phần thưởng đời đời thì vẫn là nhỏ bé. việc lớn là: vào hưởng sự vui mừng với chủ, được nâng lên hàng con cái Chúa, được đồng bàn với chủ tức là tham dự vào sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Đó là phần thưởng cao trọng lớn lao vô cùng.
Người lãnh một nén phải bị phạt đời đời vì đã không làm theo ý chủ, không đáp trả sự tín nhiệm của chủ đồi với mình. Hắn không nên thân mà cứ luôn miệng trách ông chủ ! hắn không sống thân phận đầy tớ của mình là: lệ thuộc vào ông chủ và làm theo hảo ý của chủ. Án phạt của Chủ trên người đầy tớ biếng nhác này là lời cảnh tỉnh loài người. Chúng ta đã sinh lời cho Chúa chưa, hay chúng ta cũng đổ thừa cho hoàn cảnh, người thân...và không dùng khả năng Chúa ban để sinh lời. Để nắm chắc phần thưởng đời đời, chúng ta hãy lo phát triển những khả năng Chúa ban với tất cả lòng thành cho xứng đáng với tình thương của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã tín nhiệm chúng con, cho chúng con những khả năng lớn lao. Chúng con sẽ không so bì với khả năng của người khác nhưng biết phát triển hết mức tài năng của mình để sinh lợi cho Chúa và được Ngài thưởng ban hạnh phúc đời đời trên Thiên quốc.
Mở đầu cho bài chia sẻ linh đạo của Dòng Chúa Cứu Thế trong đợt thường huấn thường kỳ, Cha đặc trách văn phòng Linh Đạo kể một câu chuyện về người cha của mình cho anh em trong Dòng cùng nghe. Ngài là người gốc Ấn Độ, sau khi qua Rôma tu học được giữ lại phục vụ nhà dòng trong văn phòng Linh Đạo. Câu chuyện về người cha của Ngài ngắn gọn nhưng câu chuyện ấy để lại trong anh em nhiều điều đáng suy nghĩ. Chuyện là cha của Ngài từ ngày làm việc cho đến ngày nghỉ hưu thì ông cụ chỉ làm cho duy nhất 1 công ty. Khi công ty chuyển đến bang nào thì cụ cùng gia đình chuyển đến bang đó để làm việc tiếp tục.
Nghe qua câu chuyện của ông cố thì nhiều người cho rằng ông cố là người "dở hơi" thế nhưng thật sự những người nhận định ông cố là "dở hơi" thì chính họ mới là người dở hơi thật sự. Mỗi người đều có cái lý cái lẽ của riêng mình. Ông cố chọn làm trong 1 công ty chắc có lẽ có cái lý, cái lẽ riêng của ông cố. Ông cố đã coi công ty ấy như là gia đình mình vậy để coi như gần cả đời gắn bó với công ty ấy. Và chắc chắn rằng, khi ông cố gắn bó với công ty như vậy thì những người lãnh đạo, có trách nhiệm cũng sẽ gửi lại phần lương xứng đáng cho lòng trung tín, sự chân thành của ông cố với công ty.
Ngày hôm nay, thử hỏi các bạn trẻ ra trường bám trụ được công ty của mình được bao năm. Có vài người bạn còn liên lạc sau ngày ra trường tôi được biết rằng trong 5 năm mà họ đã đổi 4 công ty. Không cần hỏi thì ai ai cũng biết rằng họ sẽ không được công ty đối đãi hậu hỷ như những người trung thành, những người có thâm niên hoạt động lâu năm. Ngày nay, giới trẻ đã không còn trung tín và chân thành như ông cố xưa kia nữa.
Ngài kể câu chuyện ấy để gởi đến bài học về lòng trung tín.
Ngày hôm nay người ta không còn trung tín với lời khấn dòng nữa, người ta không còn trung tín với những gì người ta chọn lựa tự ban đầu nữa. Không chỉ trong đời tu mà đời thường cũng thế, người ta không còn trung tín với nhau nữa. Tưởng chừng là đơn giản nhưng mà ngày hôm nay tìm được người trung tín quả là điều khó.
Mới đây, được biết một doanh nhân nọ buồn lắm khi mà dưới trướng của mình bỏ đi mất 4 người. Đau đớn ở chỗ là 4 người ấy đến 4 cơ quan khác mà 4 cơ quan đó có ngành nghề kinh doanh với cơ quan mà họ đã ra đi. Những người này ít nhiều có thâm niên gắn bó với cơ quan cũ, được ông chủ tín mhiệm và ưu ái hơn những nhân viên khác nên sự ra đi của các nhân viên này đã để lại trong lòng ông chủ một khoảng trống, một sự mất mát nào đó.
Thật ra, đến một lúc nào đó, con người có quyền thay đổi vì họ có quyền tự do của họ và cũng bình thường nếu không có người này thì ông chủ thuê người khác thôi. Quy luật của cuộc sống đó là điều hết sức bình thường. Người ta vẫn thường nói với nhau "không mợ - chợ cũng đông. Đúng như vậy nhưng mà xét về khía cạnh, về mặt con người nó làm sao đó. Nó còn có cái gì đó cái tình, cái nghĩa, cái lòng trung tín, cái lòng chân thành của con người có với nhau.
Vì con người có cái tình, cái nghĩa, cái lòng trung tín, cái sự chân thành nên ngày hôm nay Chúa mượn cái lòng trung tín, sự chân thành của con người để gợi lên lòng trung tín và chân thành mà con người nên có hay nói đúng hơn là phải có với Thiên Chúa là Cha của mình.
Trang Tin mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe đã gợi lại cho chúng ta về lòng chân thành và trung tín đó. Phải nói là ông chủ này trên cả tuyệt vời. Ông tin tưởng và rất tinh tế khi giao tài sản cho các đầy tớ trước khi ông đi xa. Ông rất nhạy cảm, ông rất tế nhị trước khi giao. Ông biết khả năng, ông biết sức lực của từng đầy tớ và ông không bao giờ ép ai cả. Ông tin tưởng giao và ông vui vẻ lên đường đi công chuyện của mình.
Chúng ta thấy kết cục của câu chuyện thật là hay. Nó đã diễn ra không như bình thường, nó đã diễn ra không như mọi người nghĩ. Những người được trao trọng trách nặng nề tưởng chừng như không hoàn thành hay khó hoàn thành nhưng kết cục kết quả mỹ mãn hơn cả mong đợi. Những người được trao nhiệm vụ nhỏ bé, nhẹ nhàng nhưng cuối cùng lại không hoàn thành. Tại sao những người được trao nhiều mà họ lại hoàn thành một cách quá mỹ mãn. Phải chăng là họ có một lòng trung tín cao độ với ông chủ của mình, người đầy tớ trung tín đã sống trọn nghĩa vẹn tình với chủ của mình đến mức quá chân thành. Không bao giờ họ so đo tính toán với ông chủ của mình. Nếu như họ so đo, họ vun vén thiệt hơn thì ắt hẳn họ sẽ tính toán từng ly từng tý chứ không bao giờ mà họ làm ra số lợi ngoài sự mong đợi của ông chủ.
Phán quyết cuối cùng của ông chủ là lấy của những người làm biến, những người không trung tín, những người không trung thành để cho thêm những người trung tín và chân thành.
Phải nói rằng trang Tin mừng hôm nay, câu chuyện ông chủ đi xa hôm nay mà chúng ta vừa nghe sao mà nó quá hiện thực với đời thường của mỗi người chúng ta. Tất cả mọi người trong chúng ta, ai ai cũng thích sống sống trung tín và chân thành hết nhưng những cạm bẫy, những cám dỗ của cuộc đời nó làm cho chúng ta chùn bước.
Ngay như trong đời sống vợ chồng ngày nay. Phải đau lòng mà nói là khó tìm được những đôi vợ chồng trung tín. Không phải là kém may mắn để gặp phần đông là gia đình có chuyện hơn là gia đình không có chuyện chăng nhưng mà thật sự mà nói thì thấy vậy. Nhiều và rất nhiều đôi, khi mới cưới nhau về thì quấn quýt, lo lắng cho nhau nhưng rồi khi về ở với nhau được một thời gian bỗng dưng họ chán nhau, họ không còn giữ lòng trung tín với nhau nữa. Và khi đánh mất lòng trung tín thì làm gì mà còn có sự chân thành.
Thật ra mà nói, ngày hôm nay người ta thiếu sự trung tín với nhau và từ thiếu trung tín nó đã nảy sinh ra quá nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Vợ chồng không còn trung tín nữa, đánh mất đi tính chất thuỷ chung của tình nghĩa vợ chồng để rồi sống với nhau đôi khi chỉ là cái bề mặt. Sống với nhau những ngày còn lại cho có thôi chứ không còn cái chất, cái nghĩa vợ chồng bên dưới của đời sống gia đình nữa. Vợ chồng sống như thế, thiếu sự chân thành thì làm sao giấu được con cái. Con cái biết được cha mẹ chúng sống như thế thì cuối cùng chúng cũng sống như thế thôi. Chúng cũng sống nhưng mà sống hời hợt, sống thiếu sự chân thành với ông bà cha mẹ và đối với nhau nữa.
Đời sống cộng đoàn ngày nay cũng thế ! Người ta đánh mất sự trung tín để rồi cũng chẳng chân thành với nhau. Cuối cùng họ sống với nhau với cái bề ngoài vì họ đánh mất sự chân thành.
Nguyên nhân vì sao người ta đánh mất lòng trung tín, đánh mất sự chân thành ?
Con người ngày nay đã đánh mất đi lòng trung tín và lòng chân thành với Thiên Chúa là Chúa của mình để rồi hậu quả kéo theo là họ đánh mất lòng trung tính và sự chân thành với anh chị em đồng loại. Thử hỏi, trong cuộc sống này ai muốn mình phải thiếu thốn vật chất, thiếu thốn điều này điều nọ trong cuộc sống hay là phải gặp chuyện buồn này chuyện rủi kia. Thế nhưng, họ không nhận ra đó là những thử thách, những thập giá mà Chúa gửi đến để tôi luyện con người.
Có khá nhiều tâm trạng khi Chúa để xảy đến những chuyện thử thách đã bỏ Chúa, đã xem bói, đã bỏ Chúa để đi theo đạo khác để mà những vị thần thánh ở những đạo đó giúp cho họ thoát khỏi cái tai ương của họ. Thế nhưng làm gì mà có chuyện bỏ đạo này qua đạo khác để con người được như lòng sở tại. Nếu không khéo, cuối cùng họ quay quắt trong cái lòng tham, cái lòng ích kỷ của họ để rồi chẳng có Chúa, chẳng có thần nào để họ theo và mãi mãi họ sống trong tâm trạng thất tín, bất trung với Chúa là Chúa của mình.
Phần chúng ta, chúng ta dừng lại ít phút của cuộc đời. Chẳng ai muốn tôi phải rơi vào hoàn cảnh này hoàn cảnh kia cả nhưng rồi nhìn kỹ lại trong sâu lắng của cuộc đời, diện đối diện với Chúa. Chúng ta nhìn kỹ xem, Chúa thương chúng ta lắm. Chúa ban cho chúng ta không những 5 nén như người đầy tớ được giao nhiều nhất trong nhóm đầy tớ trong Tin mừng nhưng nhiều khi Chúa giao cho chúng ta 10, 20 nén đó. Chuyện quan trọng là chúng ta không chịu mở mắt ra để nhìn thấy ơn huệ, nhìn thấy phúc lành của Chúa tuôn đổ trên cuộc đời chúng ta đó thôi.
Trang tin mừng hôm nay là cơ hội để chúng ta đối diện với Chúa, đối diện với chính mình xem có đúng không rằng Chúa quá yêu chúng ta, Chúa quá thương chúng ta và Chúa ban cho chúng ta qúa nhiều nén bạc vậy mà bao năm qua chúng ta không nhận ra, bao năm qua chúng ta vô tâm vô tình chôn vùi chúng trong lòng đất.
Thời gian nó cứ trôi trôi đi mãi chẳng bao giờ nó chờ đợi ai đâu và rồi, mỗi người chúng ta sẽ phải đối diện với Thiên Chúa, chúng ta đối diện với ngày chung thẩm chung. Thế nhưng, trước khi đối diện vớ ngày chung thẩm chung đó chúng ta phải đối diện với ngày chung thẩm của cá nhân mỗi người chúng ta. Và như Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi tín hữu Thessalônia: "Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao! ", thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được. Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.
Thế đấy ! Ngày Thiên Chúa đến mời gọi mỗi người chúng ta về trình diện với Chúa y như kẻ trộm vậy, chẳng biết ngày nào và giờ nào cả. Tốt hơn hết, như lời thánh nhân mời gọi, mỗi người chúng ta hãy làm hết sức mình, hết lòng mình để tất cả những gì Ông Chủ đã tin tưởng giao phó cho chúng ta đều sinh lợi ngoài sự mong đợi của Ông Chủ, của mọi người để ngày kia chúng ta được Ông Chủ vui vẻ đón mừng vào dự Tiệc Vui Trên Trời. Amen.
Hằng năm đến dịp kính nhớ các Thánh Tử đạo Việt Nam, hẳn Kitô hữu Việt Nam không thể không hãnh diện về các bậc cha ông hiển thánh. Đây cũng là dịp để các đấng bậc trong Hội Thánh, cách riêng Hội Thánh Việt Nam nhắc nhủ đoàn con noi gương tiên tổ để rồi phát huy truyền thồng hào hùng chứng nhân. Can đảm, thanh thản trước cái chết vì chính đạo là một nghĩa cử đáng tuyên dương muôn đời. Có thể gọi các Ngài là những vị anh hùng. Tuy nhiên vẫn có đó nét khác biệt giữa các anh hùng tử đạo với các vị anh hùng dân tộc. Đồng thời cần minh định rõ để giới trẻ biết biện phân đâu là hành vi anh hùng quả cảm, đâu là hành vi điên khùng; đâu là hành vi can đảm và đâu là hành vi liều lĩnh.
Khi nói đến sự phân biệt là ta đã nhìn nhận có những điểm, những nét nào đó dường như tương đồng giữ hai điều cần phân biệt. Nếu không có sự tương đồng cách nào đó thì chẳng cần khổ công phân biệt vì sẽ khó mà nhầm lẫn khi người ta đã thấy rõ sự khác nhau. Nào chúng ta thử xem điểm nào tương đồng giữa một hành vi được gọi là can đảm và hành vi như là liều lĩnh.
Cả hai hành vi can đảm hay liều lĩnh đều biểu lộ sự "vượt khó". Đó là thực hiện được những việc, những điều khó khăn vượt quá khả năng bình thường của con người. Làm một sự gì đó mà sẵn sàng đón nhận các gian nguy, chấp nhận cả cái chết vốn là điều không mấy ai có thể dễ dàng thực hiện. Nếu chỉ dừng lại ở tiêu chí "vượt khó" thì không thể phân biệt được đâu là hành vi can đảm đâu là hành vi liều lĩnh, vì cả hai đều hội đủ tiêu chí này. Cần phải so sánh hai hành vi ấy dựa trên một vài tiêu chí khác. Xin đan cử một tiêu chí dễ nhận biết như sau:
Việc làm ấy tốt hay xấu ? Dĩ nhiên để được gọi là can đảm thì việc ta làm phải là một việc tốt hoặc ít ra là không xấu nhưng đáng làm và nên làm. Chẳng hạn dấn thân vào biển lửa để cứu người trong trận hỏa hoạn ( việc tốt ) hay nỗ lực tập một kỳ tích để có tên vào danh sách những chuyện lạ ( có thể là việc tốt, cũng có thể là một việc tự nó không xấu ). Còn một hành vi liều lĩnh thì dù nó có khó khăn đối với nhiều người nhưng đó là hành vi xấu hoặc có thể là không xấu nhưng không đáng làm không nên làm. Lái xe lạng lách, đánh võng là việc khó đấy nhưng là việc xấu, như thế, đích thị là sự liều lĩnh. Ngoài ra có những việc tuy không xấu nhưng không đáng làm, không nên làm theo khả năng của mình, trong hoàn cảnh này, ở đây, lúc này thì nếu cứ làm thì quả là liều lĩnh.
Vẫn có đó nhiều người lầm tưởng rằng mình là anh hùng nhưng thực ra là "điên khùng". Vì thế cần biết phân định để khỏi gây thiệt hại cho chính bản thân cũng như gây di hại cho tha nhân và xã hội cũng như Hội Thánh. Tuy nhiên vấn nạn xem ra nan giải tôi muốn gợi ý ở đây đó là nếu đã là việc tốt thì sao ? Có chăng có những việc tốt mà không đáng làm hoặc không nên làm ở đây và lúc này ? Nếu làm là liều lĩnh ? Vấn nạn này có thể dễ gây tranh luận lắm chứ, nhất là với những ai có hiểu biết luận lý và thích "luân lý". Tự nhận khả năng mình có giới hạn, tôi không dám mạn bàn. Là con cái Chúa, ngắm nhìn cung cách hành xử của Đức Giêsu mà Tin Mừng tường thuật, tôi xin mạo muội trình bày chút thiển ý.
Có thể quả quyết cách chắc chắn rằng Đức Giêsu nhiều lần cố tình chữa bệnh trong ngày Sabat cho dù gặp phải sự phản kháng của nhiều người biệt phái, luật sĩ hay tư tế thời bấy giờ. Ngài không chỉ chấp nhận sự phản kháng của họ mà còn sẵn sàng đón nhận sự hận thù, căm phẫn của họ đến độ họ muốn tìm cách hại Ngài. Và những lời Ngài đưa ra để tranh luận với họ thường với dạng dồn đối phương vào thế chân tường. "Những kẻ đạo đức giả kia ! Thế ngày Sabat, trong các ngươi lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước ? Còn bà này, con cháu Abraham, đã bị ma quỷ trói cột đã 18 năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sabat sao ?" ( Lc 13,15-16 ). Căn cứ trên cung cách hành xử và lời của Đức Giêsu thì ta có thể xác định rằng ngày Chúa nhật, ngày thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư... bất cứ ngày nào cũng phải làm điều tốt. Đã là điều tốt thì hình như không có các từ "để ngày mai". Ngài còn dùng lối nói song đối trái nghĩa: " Ngày Sabat được làm điều lành hay điều dữ, được cứu sống hay là giết chết ?" ( Mc 3,4 ). Qua lối nói song đối trái nghĩa này phải chăng Đức Giêsu muốn khẳng định rằng: không làm điều tốt hoặc bỏ qua một việc tốt trong khả năng, hoàn cảnh của mình là đã làm một điều xấu ? Không cứu người là đã giết người một cách nào đó chăng ? Tuy nhiên, có thể có người viện dẫn lý lẽ: tôi không có khả năng hay không đủ khả năng làm việc ấy; Tôi có khả năng nhưng hoàn cảnh chưa thích hợp, chưa thuận tiện. Chẳng có một quyết định, một thái độ sống nào mà không có lý do để bàu chữa.
Dẫu biết rằng, luôn có đó những người liều lĩnh những tưởng rằng mình là anh hùng. Nhưng cũng không thiếu nhiều vị can đảm, anh hùng thật sự mà đã hay đang bị gán nhãn mác là liều lĩnh, là khờ dại, hay bốc đồng... Có thể họ là những nguời mà ta có thể nói theo kiểu Nguyễn Bỉnh Khiêm: " Ta dại, ta làm ngay điều tốt phải làm; Người khôn, người chờ cho đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa ".
Xin phân định nét khác biệt giữa các vị anh hùng Tử đạo và các vị anh hùng dân tộc. Các vị ấy đều là những người can đảm, không chỉ dám mà đã thực sự làm được những sự khó "phi thường". Các vi đã hy sinh bản thân vì chính đạo. Chết vì đức tin như Thánh Anrê Dũng Lạc hay hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc như Lê Lai liều mình cứu chúa. Tất thảy đều vì chính đạo. Các Vị ấy đã làm những việc chính đáng và phải đạo, những việc tốt nên làm, đáng làm. Tuy nhiên vẫn có nét khác biệt giữa các Thánh Tử đạo và các anh hùng dân tộc. Khi chịu hy sinh vì chính đạo thì các Thánh Tử đạo thường an bình, vui vẻ đón nhận khổ hình và sẵn sàng tha thứ cũng như cầu nguyện cho những người đang làm hại mình. Trái lại, các vị anh hùng dân tộc khi chịu khổ hình thì lòng rất căm phẩn, kể cả hận thù những người làm hại mình. Các vị ấy có thể có những lời lẽ nguyền rủa đối với người làm hại mình kiểu như bảy anh em Do Thái chịu tử đạo mà sách Macabê kể lại.
Được làm anh hùng dân tộc quả là đáng quý, nhưng với Kitô hữu chúng ta thì sống như những "chứng nhân" vì chính đạo thì đáng quý hơn nhiều. Bởi vì đó cũng là một cách thế tử đạo dù không hay chưa được phong thánh. Dưới nhãn quan này thì đang có đó nhiều vị thánh tử đạo ẩn danh. Họ đã và đang làm việc tốt, việc phải làm, việc nên làm để cho Hội Thánh được ngày thêm tinh tuyền, để cho quê hương ngày thêm an bình, thịnh vượng. Cho dù gặp phải bao khó khăn, bao hiểu lầm, bao chống đối, chỉ trích lẫn sự bách hại cách này hay cách khác nhưng tấm lòng của họ luôn an bình, con tim của họ luôn mở ra với cả những người gây khó khăn, đau khổ cho họ.
Xin thành tâm kính phục và xin tri ân những vị anh hùng chưa được hiển danh ấy.
Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu phải chết.
Họ là ai?
Họ là những người cha người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là dân, là dì phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay. Họ là những người “dường như” không sợ chết. Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Họ là ai? Phải chăng họ là những người điên nên không sợ chết? Phải chăng họ là những người không còn biết trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu? Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ? Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ? Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu bỏ đạo để phải chết?
Không! Họ là những người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng. Họ là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu. Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc. Họ là những người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng “tình người” chứ không phải là những người “vô cảm”. Họ chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.
Tại sao họ kiên cường và anh dũng như vậy?
Họ là những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng manh.
Ai không sợ chết? Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích? Nhưng những bậc tử đạo “dường như” không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng không đánh đổi được. Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.
Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải “con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những “bức tường bằng sắt, như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không gì khuất phục được. Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ. Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.
Sống cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng
Chúng ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng. Phải sống sao để “con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”. Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.
Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để “tử đạo” như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan khác v.v..Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ máu “vô hình”, vẫn phải hy sinh, phải chết “chính con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Nên hát “Đây bài ca ngàn trùng” trước khi chia sẻ)
1. “Ngày nay tử đạo không đổ máu”, bạn hiểu sao về câu này? 2. Với bạn, đâu là khó khăn nhất của đời sống kitô-hữu (đòi bạn phải hy sinh)? 3. Bạn biết gì về các thánh hoặc chân phước tử đạo Việt Nam? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm nào đó mà bạn thán phục của một trong các vị mà bạn biết).
Hôm nay anh chị em di dân gốc Thuận Nghĩa sống trong miền thành phố Sàigòn họp nhau mừng lễ giỗ thứ 175 của Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa tử đạo ngày 24.11.1838. Thánh Vũ Đăng Khoa gốc làng Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 trong 117 vị Thánh Tử Đạo Việt Nam được Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mừng kính trọng thể ngày hôm nay. Ta hãy đặt câu hỏi: đâu là ý nghĩa của ngày lễ này đối với chúng ta.
Tử đạo hay chứng nhân
Suốt hơn ba thế kỷ đạo Chúa Kitô có mặt tại Việt Nam, đã có cả trăm ngàn tín hữu đã chết để làm chứng cho Chúa. Con số 117 vị được tôn phong Hiển Thánh năm 1988 mới chỉ là một con số tượng trưng trên tổng số những người đã chết vì Chúa Kitô. Các vị Thánh được gọi là “tử đạo” ( chết vì đạo ) trong tiếng Việt chúng ta, thì theo nguyên ngữ Hy Lạp cũng như Latinh có nghĩa là “chứng nhân”. Trước và trên hết mọi sự, các ngài là những người đã tin theo Chúa Kitô, đã trở thành chứng nhân của Ngài trong cuộc sống, cuối cùng là qua cái chết.
Chính vì tầm quan trọng của việc làm chứng mà chúng ta đã có những Thánh như Maria Gorétti hay Mắcximilianô Kônbê, các ngài vẫn được ghi vào danh bạ các Thánh Tử Đạo, cho dù không phải theo nghĩa thông thường. Maria Gorétti là một thiếu nữ bị anh bạn hàng xóm hãm hiếp rồi đâm chết; dù mới ở tuổi hoa niên, thiếu nữ đã chấp nhận thà chết chứ không phạm tội làm mất lòng Chúa, như Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc 2: “Cho dầu là sự chết hay sự sống… không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa” ( Rm 8, 38 – 39 ). Còn Mắcximilianô Kônbê là một Linh Mục Phanxicô, người tù trong một trại tập trung thời Đức Quốc Xã, chấp nhận chết thay cho đồng bạn bị kết án tử hình.
Tử đạo, chuyện lỗi thời ?
Lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có ý nghĩa gì với chúng ta hôm nay ? Phải chăng chúng đang tốn công nhắc lại chuyện tử đạo, một chuyện đã lùi xa vào quá khứ ? Nói cách khác, phải chăng tử đạo đã là chuyện lỗi thời ? Nhìn lại lịch sử truyền giáo, từ đầu thế kỷ XVII thời Chúa Nguyễn trong Nam và Chúa Trịnh ngoài Bắc, nhất là thời các vua triều Nguyễn, các cuộc bách hại có lúc hết sức tàn khốc đã dẫn đến cái chết của trên 100.000 Kitô hữu. Người có đạo nếu không công khai chối đạo bằng lời nói hay cử chỉ như giẫm đạp lên Thánh Giá thì phải chịu tù đày, chịu tra tấn dã man, cuối cùng bị treo cổ, bị chém rồi bêu đầu hoặc thả xác trôi sông, hay phải chịu một cực hình dã man khác. Đúng là những cách đối xử man rợ như thế với người có đạo ngày nay không còn nữa.
Từ biến cố 1975 đến đầu thập niên 90, tình hình tôn giáo còn rất khó khăn, nhưng sau đó, từ từ mọi chuyện đã trở nên dễ dàng, từ chuyện xây cất các cơ sở tôn giáo đến chuyện đào tạo Linh Mục, Tu Sĩ. Du khách đến Việt Nam, chứng kiến các cơ sở tôn giáo đồ sộ khang trang, có khi lộng lẫy, các cuộc lễ lúc nào cũng đầy ắp tín hữu, khó có thể nghi ngờ về sự tự do tôn giáo trong nước Việt Nam Cộng Sản hôm nay.
Nhưng cái giá phải trả để được các thứ “tự do” đó, là đạo chỉ được phép đóng khung trong khuôn viên Nhà Thờ, trong các nghi lễ tôn giáo. Trong khi đó, sứ mạng người Kitô hữu không đơn thuần chỉ là thực hành một số nghi thức, mà phải là men, là muối trong thúng bột nghĩa là trong xã hội, thì lại không có điều kiện thi hành sứ mạng thiêng liêng cao cả của mình, đặc biệt trong các lãnh vực giáo dục, y tế, xã hội. Chính quyền Cộng Sản tự nhận là vô thần nên chỉ chấp nhận thứ tôn giáo lễ hội, đó là việc của họ. Nhưng khi người có đạo hài lòng với thứ tôn giáo lễ hội đó, liệu có còn trung thành hay không với Chúa Kitô, Đấng đã ra điều kiện phải vác thập giá cho ai muốn theo Ngài.
Bây giờ để tiếp tục triển khai ý tưởng tử đạo là làm chứng hay trở thành chứng nhân, tôi xin đưa ra mấy ví dụ cụ thể mang tính thời sự.
Chứng nhân của lòng yêu nước:
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Năm nay tại Hoa Kỳ, tại Úc và nhiều nước Châu Âu, người Việt quốc gia tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày tổng thống Ngô Đình Diệm bị sát hại vì yêu nước, vì muốn giữ chủ quyền quốc gia, không chấp nhận cho quân đội Mỹ ồ ạt vào Việt Nam. Chính quyền Mỹ đã vịn cớ chống độc tài và gia đình trị, dùng bàn tay Phật Giáo để lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hoà và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Và như thế tổng thống Diệm đích thực là một anh hùng dân tộc, một người hy sinh vì tổ quốc, một chứng nhân của lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Ta hãy nghe Đức Cha Nguyễn Văn Long, một Tu Sĩ Phanxicô làm Giám Mục Phụ tá Melbourne, Úc Châu, nói về Tổng Thống Diệm, dịp lễ Các Thánh 2012 và cũng là giỗ thứ 49 của Tổng Thống Diệm như sau:
“Hôm nay cũng là ngày tưởng nhớ một vị mà cả cuộc đời, khi nhìn theo lăng kính Kitô Giáo, đã được định nghĩa bởi Tám Mối Phúc Thật, cũng như đã hiến mình cho quê hương dân tộc. Quả thế, tôi mạnh dạn dùng những lời này để nói về vị nguyên thủ quốc gia và người khai sinh ra nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, cụ Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm. Cuộc sống giản dị của cụ, ngay cả khi cụ có đủ điều kiện để hưởng thụ, đã phản ảnh đức tin được thấm nhuần và tôi luyện ngay từ thuở còn thiếu thời. Người ta có thể phác họa nhiều hình ảnh tiêu cực về cụ; thậm chí nhiều kẻ đã bóp méo lịch sử để triệt hạ cả danh dự của cụ. Nhưng ít ai còn chút lương tâm có thể phủ nhận một con người liêm khiết, đức độ, nhân ái, một tinh thần ái quốc, kiêu hãnh với chủ quyền đất nước và trung kiên với vận mệnh dân tộc.
Ở một góc cạnh nào đó, cụ là một con người thật bất hạnh… Nhưng nếu chúng ta nhìn bằng lăng kính Đức Tin, thì phải chăng cụ là người có phúc vì cụ đã “bị giết hại vì lẽ công chính” ? Phải chăng, cuộc đời và sự hy sinh của cụ phản ảnh một sự hiến thân hoàn toàn của Đức Kitô ? Phải chăng cụ – như Thầy Chí Thánh – là phiến đá mà người thợ xây loại bỏ, đã trở nên tảng đá góc tường ? Phải chăng tấm gương vị quốc vong thân, phải chăng ước mơ xây dựng một triều đại chính trực trên quê hương của cụ sẽ mãi mãi làm ngọn đuốc soi đường cho thế hệ mai sau ?”
Điều đáng nói là trong khi tại khắp nơi trên thế giới, tại những nơi có người Việt quốc gia, lễ tưởng niệm 50 năm biến cố đau thương 2.11.1963 được cử hành hết sức trọng thể, thì ngay tại Việt Nam, ngay trong các cộng đoàn Công Giáo, Tổng Thống Diệm vẫn không được nhắc tới, ít là một cách công khai. Người ta giả vờ quên biến cố đau thương là người công chính, người yêu nước bị sát hại, và cũng giả vờ không biết rằng biến cố đó đã dẫn đến thực tế phũ phàng là dân chủ, tự do đã mất, mà độc lập quốc gia cũng không còn.
Dù vậy, tại Sàigòn, sáng ngày 1 tháng 11 vừa qua, ban Truyền Thông DCCT đã dẫn đầu một nhóm bạn trẻ tới dâng Thánh Lễ và cầu nguyện trước mộ phần Tổng Thống. Trong số các hình ảnh được truyền đi trên mạng, nổi bật nhất là hình cô bé Phương Uyên ôm bó hoa huệ đứng bên mộ phần Tổng Thống, khiến ta nghĩ đến lời trăng trối của vị anh hùng dân tộc: “Tôi tiến, hãy theo tôi, tôi lùi, hãy giết tôi, tôi chết hãy nối chí tôi.” Phương Uyên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam đang đi theo con đường dấn thân cho chính nghĩa độc lập và chủ quyền quốc gia.
Như thế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thể hiện lời Chúa Giêsu: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình ( Ga 15, 13 ). Và đến đây, ta có thể khẳng định: Tổng Thống Ngô Đình Diệm đích thực là một chứng nhân của Chúa Kitô.
Chứng nhân của tình yêu đồng bào, yêu tổ quốc
Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu ( 1Ga 4, 16 ), nếu yêu tha nhân là dấu chỉ để nhận ra người môn đệ Chúa Giêsu ( x. Ga 13, 35 ) thì dưới cái nhìn của người Kitô hữu, những người yêu mến tha nhân, xả thân cho đồng loại, hy sinh cho dân tộc, cho đất nước, vẫn là chứng nhân của tình yêu, của Thiên Chúa, được Chúa Kitô nhìn nhận là môn đệ.
Trong hoàn cảnh bi thảm của đất nước hôm nay, trong cái xã hội tan nát vì độc tài, tham nhũng, vì áp bức, bất công, nền đạo đức hoàn toàn băng hoại, nền độc lập quốc gia đã mất, lãnh thổ hết còn toàn vẹn, thì những con người Việt Nam mạnh mẽ và kiên cường đấu tranh cho sự thật, cho tự do, công lý, cho chủ quyền quốc gia, bất chấp mọi gian khổ, chấp nhận bị sách nhiễu, bị bắt bớ, bị đày ải, những con người đó đích thực là nguyên khí quốc gia, là chứng nhân của tình yêu tổ quốc, yêu đồng bào.
Xin miễn kể ra đây những tên tuổi đã được công luận biết đến nhiều trong những năm qua, chỉ xin đưa ra một tấm gương bạn trẻ làm ví dụ, đó là cô Đỗ Thị Minh Hạnh, năm nay 28 tuổi.
Minh Hạnh là một sinh viên trường Cao Đẳng Kinh Tế, sinh năm 1985 trong một gia đình mà ông nội là lão thành cách mạng, bà nội là liệt sĩ. Lên 18 tuổi, cô đã tham gia công tác xã hội. Năm 2005, cô đến Hà Nội giúp đỡ dân oan khiếu kiện. Năm 2007, cô tổ chức cho công nhân người Việt bị áp bức tại các công ty nước ngoài biểu tình và đình công để được tăng lương và bảo đảm an toàn lao động.
Tết Canh Dần, cô cùng hai người bạn rải truyền đơn “Ngàn năm Thăng Long”, trả lời phỏng vấn các đài truyền thanh nước ngoài tố cáo nhà cầm quyền Cộng Sản, cảnh báo công luận về nguy cơ mất nước, về hiểm hoạ xâm lăng của giặc Tàu. Tháng 2 năm 2010, Minh Hạnh bị bắt vì bị cáo buộc “xúi giục” công nhân của một công ty giày da tỉnh Trà Vinh tổ chức đình công.
Ngày 27.10.2010, Minh Hạnh bị xử 7 năm tù giam với tội danh “phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân. Vào tù, Minh Hạnh tiếp tục đấu tranh phản kháng sự áp bức bóc lột sức lao động của các tù nhân từ các công an trại giam.
Ta hãy nghe lời Minh Hạnh nói với Mẹ: “Con rất là đau buồn, con không buồn cho thân thể con, ở tù bao nhiêu năm cũng được… Họ bảo con hãy nhận tội đi rồi sẽ được giảm xuống 4 năm, nhưng không, ở đời thì chết chỉ có một lần mà thôi… để cho họ thấy rằng, họ không được phép coi thường tinh thần bất khuất của dân tộc. Làm sao để cho mọi người hiểu rằng, trước hết là phải bảo vệ danh dự của dân tộc… họ đánh đập công nhân, lấy giầy ném vào mặt công nhân, làm sao con có thể chịu đựng được, rồi sỉ nhục dân tộc, nói phụ nữ Việt Nam đi làm đĩ, họ có quyền gì để nói lên điều đó, mà tại sao Nhà Nước không bảo vệ công nhân mà lại đi bảo vệ chủ ?”
Tháng 10 vừa qua, Minh Hạnh bị chuyển trại, trong xe thùng đặc chủng trên đường ra Bắc bị còng tay, xích chân, ngất xỉu. Chắc trong tình cảnh đó của cô mà từ Hoa Kỳ, thi sĩ Trần Trung Đạo viết tặng cô bài thơ mang tựa đề “Đất nước mình không có hôm nay” diễn tả lòng cảm phục của thi sĩ trước sự hy sinh cao cả của cô sinh viên 28 tuổi: Xin đọc những đoạn trích sau đây:
Em ra đời Mười năm sau cuộc chiến Bom đạn đã thôi rơi, sao tiếng khóc chưa ngừng, Câu hát hòa bình, sao nước mắt rưng rưng… Tuổi thơ em Được nuôi bằng những giọt tình thương Mẹ vắt ra từ bầu sữa cạn, Bằng giọt mồ hôi cha trong sớm chiều lận đận Cõng cuộc đời trên chiếc lưng cong. Những nỗi nhọc nhằn đã làm em khôn lớn thêm nhanh Để biết thương yêu đồng bào lao động… Đất nước mình không có hôm nay Nếu hai ngàn năm trước không có bà Trưng, bà Triệu Và sẽ tiếp tục sống trong độc tài nô lệ Nếu không có những người con gái như em. Dòng sông dài và phiến đá chông chênh Nhưng nếu tất cả đều co ro, sợ hãi Nếu tất cả đều đứng nhìn, e ngại Dân tộc này rồi sẽ ra sao ? Em bước vào tù khi tuổi mới hai mươi Tuổi đẹp nhất của thời con gái Bên ngoài trại giam, mùa xuân đang qua và không trở lại Nhưng trong trái tim em, xuân mãi mãi không tàn. Hạnh phúc của em là hạnh phúc của dân oan Của những con người không có quyền được nói. Niềm vui của em là niềm vui của đàn em thơ mới lớn Của những mái đầu bị xóa mất màu xanh. Đảng xô em vào vũng bùn đen lọc lừa, giả dối, gian manh Em lọc ra những giọt nước ngọt ngào, tinh khiết. Đảng trồng trong nhận thức em cây hận thù chém giết Em chăm sóc cây để trổ trái tình người. Đảng đốt cuộc đời em bằng ngọn lửa bạo tàn rực đỏ khắp nơi Em thổi tắt để thành nguồn sưởi ấm. Đảng biến em làm con sâu đo uốn mình quanh bốn vòng cửa cấm Em thoát thân thành cánh bướm vàng.
Hôm nay Lịch sử đang chờ em để bước sang trang Dân tộc vịn vai em để đi cùng nhân loại… Đừng gục xuống, đừng than thân trách phận Hãy mỉm cười như một chuyến đi xa. Mẹ sẽ chờ em dù năm tháng trôi qua Sông núi chờ em trong ngày hội lớn. Những uất hận ngày nào chảy theo dòng sông Hát Đang trở thành những lớp phù sa.
Tác giả Trần Trung Đạo cũng như bất cứ ai quan tâm đến vận mạng đất nước đều có thể thấy nơi Đỗ Minh Hạnh cũng như tất cả những ai đang chấp nhận bao gian truân khổ ải là những chứng nhân của lòng yêu nước, khiến ta dám tin rằng hoàn cảnh đất nước có bi thảm đến đâu, ta cũng không có quyền tuyệt vọng.
Kết luận
“Thiên Chúa không chấp nhận làm người thua cuộc”. Đó là lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong bài giảng ngày 7.11.2013 vừa qua tại Nhà Nguyện Thánh Mácta khi giải thích ý nghĩa dụ ngôn người nội trợ đốt đèn tìm đồng tiền đánh mất và người mục tử vượt suối băng ngàn đi tìm con chiên lạc. Đức Giáo Hoàng nói: để không làm người thua cuộc, Thiên Chúa đã cất công đi tìm.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của thời cấm đạo tại Việt Nam, các thánh Tử Đạo đã chấp nhận trả giá để đi tìm cho được tự do đích thực của người tin, tìm cho được sự sống muôn đời, và đã trở nên nhân chứng của Thiên Chúa Tình Yêu. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Đỗ Thị Minh Hạnh, cũng như tất cả những người đang chấp nhận bao oan khiên, bao đau khổ thể xác và tinh thần để đi tìm tự do dân chủ, để dành lại quê hương đã mất, đã trở thành nhân chứng của tình yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Dưới cặp mắt Đức Tin, chúng ta nhận ra những con người đó đã và đang thể hiện Lời Chúa Giêsu: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ).
Nay liệu chúng ta sẽ làm gì để xứng đáng là con cháu các Thánh Tử Đạo, là con dân nước Việt, là tín hữu Chúa Kitô ?
Lm. Pascal NGUYỄN NGỌC TỈNH, OFM, Thủ Đức, 17.11.2013
Mục tiêu là thành phố hải cảng và kỹ nghệ Hiroshima với 350 ngàn dân. Chiếc pháo đài bay B 29 mới được sơn lên cái tên mới: Enola Gay. Màu xám bạc của nó lấp lóa trong ánh mặt trời buổi sớm. Đại tá Tibbets ra lệnh cho phi hành đoàn: “Sắp đến mục tiêu, tất cả đeo kính an toàn. Chuẩn bị ném bom !”
Khi chiếc Enola Gay đã ở ngay trên trung tâm thành phố, lúc 8 giờ 15 phút 15 giây ngày 6.8.1945, chuyên viên thả bom nhấn nút, khoảng chứa bom mở ra, một quả bom khổng lồ với cây dù lớn xoè ra phía trên, rơi xuống !
Không đầy một phút nữa, bom sẽ nổ. Phải nhanh chóng thoát khỏi vùng nổ. Đại tá Tibbets chúi mũi chiếc Enola Gay xuống để tăng tốc độ. Bốn mươi ba giây sau đó, một vùng sáng chói gấp hàng chục lần mặt trời bùng lên. Tiếp theo đó, chiếc pháo đài bay rung chuyển dữ dội như một món đồ chơi trong cơn bão. Đại tá Tibbets cố gắng giữ vững đường bay. Khi những cơn chấn động đã giảm bớt cường độ, ông mới quay đầu nhìn lại: Thành phố Hiroshima đã chìm dưới một đám mây hình nấm, màu tím đen đang mỗi lúc mỗi bốc cao. Có ai ở trong phi hành đoàn đã thốt lên bằng một giọng run rẩy xúc động: “Chúng ta vừa làm chuyện gì vậy ?” Không có ai lên tiếng trả lời. Mọi người mặt mày xám ngắt trong cơn bàng hoàng cực độ.
Đó không phải là quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ. Trước đó đã có những trái bom thí nghiệm. Nhưng nó là quả bom nguyên tử đầu tiên được sử dụng vào mục đích tấn công, và không phải là quả cuối cùng. Kể từ buổi sáng hôm đó, nhân loại đã bắt đầu đem vào cuộc sống của mình một nỗi lo âu mới.
Năm chục ngàn người đã chết ngay tức khắc trong ánh chớp kinh hoàng lúc 8 giờ 16 phút ngày 6.8.1945. Hàng trăm ngàn người bị thương, nhiều chục ngàn người khác chết trong những ngày sau đó ( Nguyễn Thiếu Nhẫn, thongtinberlin ).
Trước những cái nhìn chiêm ngưỡng và thán phục đền thờ Giêrusalem lộng lẫy kì vỹ, Đức Giêsu mặc khải ngày thế mạt thật kinh hãi. Nhưng quan trọng hơn cả thiên hạ là còn giữ được niềm tin và hy vọng hay không, khi bị tam gian như vòng kim cô khống chế trọn đời.
Đó là thời gian đem đến già nua, cằn cỗi, hư hỏng. Không gian nổi giận đem đến thảm họa, động đất, sóng thần, núi lửa. Và nhân gian ích kỷ dối trá, lọc lừa, giả mạo, chia rẽ, bất hòa, bách hại, bạo lực, phản bội, chiến tranh. Tất cả sự dữ đồng loạt chế ngự, áp đặt, đày đọa con người.
Thời gian
Con người vốn là tạo vật hữu hạn, trong khi Đấng Tạo Hóa vô hạn. Ngài hiện hữu muôn đời, mãi mãi vĩnh cửu. Từ “thời gian” xuất hiện cả thảy 771 lần trong Kinh Thánh. Còn những chữ “vĩnh cửu, cõi đời đời, còn đến đời đời và cho đến đời đời” xuất hiện 548 lần. Ngài biết con người bị thời gian giới hạn. Ngài muốn con người biết Ngài vượt trên dòng thời gian. Luôn đồng hành cùng con người trong suốt cuộc đời hữu hạn.
Thời gian lẳng lặng tước đi tuổi xuân, sức khỏe, lạc quan, kín đáo đem đến tuổi già, bịnh hoạn, đau đớn, bi quan và thất vọng. Chẳng ai cưỡng lại nổi dòng thời gian lạnh lùng và vô tình. Thuốc men, dược phẩm, hay thẩm mỹ viện cũng chỉ vớt vát lại, cố tìm lại những gì thời gian đã tước đoạt lấy đi mất.
Vậy tôi có biết dùng vốn thời gian vài chục năm để sinh lợi phần hồn, để cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa, để mong được sống đời đời ? Hay chỉ ngu mê, dại dột, thiển cận, vị kỷ, chăm lo vun quén cho thân xác mỏng dòn, mau hư nát ? Tôi phải sử dụng thời gian như thế nào, để có thể lạc quan như Thánh Phaolô hoan hỷ trước cái chết đến gần: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” ( 2Tm 4, 6 – 7 ).
Không gian
Đức Giêsu nhập thể làm người, không chọn môi trường thân thiện, thuận lợi hay dễ chịu. Trái lại, Người chọn không gian nghiệt ngã, khó khăn như chốn lưu đầy. Người chấp nhận hòa mình vào môi trường tràn đầy bầu khí bất khoan nhượng, đố kỵ, chống đối, thù địch. Người can đảm vác thánh giá nặng nề khổ ải, nêu gương cho những ai muốn đi theo Người.
Còn không gian, môi trường bây giờ chẳng tốt lành hơn, mà còn bị thoái hóa, càng bất thân thiện hơn, khi mức độ ô nhiễm, hủy hoại môi trường tràn lan. Thời tiết thay đổi bất thường, hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ toàn cầu tăng cao, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh, luôn sẵn sàng đe dọa kiếp người mỏng manh. Không gian sống lành mạnh ngày càng thu hẹp dần. Bước chân ra đường là đối mặt biết bao nguy hiểm rình rập. Tai nạn giao thông, giật dọc, cướp bóc, ma túy, mại dâm, mãi lộ…
Nhưng tôi chưa can đảm phiêu lưu, dám xa rời tổ ấm, mái gia đình, như Đức Giêsu phiêu lưu vô tư: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” ( Mt 8, 20 ). Tôi còn bị môi trường sống ràng buộc, xiềng xích bởi tình thân, tình phu phụ, tình phụ tử, nghĩa họ hàng, bạn bè thân quen. Tôi nào dám dứt khoát theo Chúa ? Dám dứt khoát xả thân yêu tha nhân, kẻ lạ, hay thù địch ? Thế làm sao Người cứu rỗi tôi ?
Nhân gian
Nhưng sự đe dọa đáng sợ hơn cả chính là sự dữ phát xuất từ con người vị kỷ, tham lam, thù hận, đố kỵ, mâu thuẫn. Hai trái bom nguyên tử dội xuống Hiroshima và Nagasaki mở đầu cho mối lo sợ triền miên về chiến tranh hủy diệt toàn cầu. Võ khí càng tối tân, chiến thuật càng tinh vi, sự dữ càng lên ngôi. Cái chết nhanh gọn bất chợt như tia sáng. Tình người biến mất. Chỉ còn oan cừu, trả thù và ngồn ngộn sát khí.
Nhưng, có lẽ đau đớn hơn cả chính là hiềm khích, phản bội từ ngay thân nhân, vì tôi theo tuyên ngôn Bát Phúc, vì tôi chọn Chúa, hơn là khôn ngoan theo thế gian, chọn theo thân bằng quyến thuộc. “Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.”
Trước hai ngả đường, theo Chúa hay theo nhân gian, tôi luôn lúng túng, sợ hãi, lưỡng lự, muốn bắt cá hai tay. Như thế sao Chúa dủ lòng thương xót tôi được ? "Trước muôn ngàn thử thách đau khổ, con hãy sốt sắng, tin tưởng và đọc nhiều lần: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Bí quyết can đảm của người Kitô hữu" ( Đường Hy Vọng, số 674 ).
“Ðó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.” Qua sự dữ thử thách và tôi luyện, với hồng ân dào dạt, con người mới có thể chứng minh được niềm tin và hy vọng vào ơn Cứu Độ. “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.” Luôn tin cậy và phó thác vào Chúa Quan Phòng, luôn kết hợp mật thiết với Ngài, cầu nguyện và sám hối, ăn năn, nguyện xin Lòng Chúa Thương Xót, tôi mới dám hy vọng được vinh hạnh sống mãi với Người.
“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn” ( Đường Hy Vọng, số 670 ).
Nếu mỗi ngày, đều tâm niệm là ngày cuối cùng ở đời, ngày chung thẩm, liệu tôi còn dám đi hoang theo thế gian hay không ? Hay là luôn sẵn sàng là người đầy tớ trung thành, kiên nhẫn chờ đợi Người Chủ trở về ?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống bấp bênh giữa chốn ba đào, ba chìm bảy nổi. xin cho chúng con luôn nghe được tiếng Chúa nói: “Thầy đây, đừng sợ”, để chúng con biết trở về với Tình Yêu Chúa, biết yêu thương nhau, yêu thương tha nhân, tin cậy, phó thác và sống theo Lời Chúa, hầu chúng con được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con noi gương Mẹ, luôn sống gần gũi mật thiết với Chúa, để được chở che, giúp sức chống trả các cơn cám dỗ, đam mê xác thịt, để sẵn sàng chấp nhận bền bỉ, kiên trì, trung thành trước sự gian nan, khó khăn, đau khổ, để được phúc đời sau. Amen.
Không biết từ bao giờ trong xã hội loài người đã xuất hiện những bất công, bạo lực và tàn ác. Chả biết cái thuở ban đầu hạnh phúc ấy mất đi từ lúc nào. Cái thuở mà con người trên trái đất này chưa biết đến tội lỗi, chỉ biết sống no thỏa trong ân tình với Thiên Chúa. Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy đã vội vàng mất đi chỉ vì tội lỗi tràn vào thế gian. Và thế là sự ác ngự trị, bóng tối tràn ngập địa cầu, tội lỗi, bất công và sự ác ngày càng bành trướng. Đứng trước những thay đổi tàn nhẫn của thế giới, nhân loại ngày càng rơi vào cơn hoảng loạn của niềm tin. Những thách đố giữa sự thật phũ phàng của cuộc sống và niềm tin vào một thế giới của sự thiện càng làm cho nhân loại điên đảo.
Hiểu được thao thức của nhân loại, Đức Giêsu đã đến và mang lại cho con người niềm vui cứu độ, niềm hạnh phúc mà họ đã đánh mất từ thuở ban đầu ngày ấy, khi con người phạm tội lỗi nghịch cùng Thiên Chúa. Đức Giêsu đã xuất hiện để khai mở con đường cứu độ, nối đất với trời. Con đường ấy chính là con đường tử đạo, con đường thập giá, từ trong đau khổ bước tới vinh quang phục sinh.
Nói về loạn lạc, chiến tranh, bất công, bạo lực… của thế giới, có lẽ chẳng sách vở nào ghi cho hết. Thế nhưng, cho dù thế giới có bất công thế nào, thì Thiên Chúa vẫn là Đấng chí công, chỉ có Ngài là Đấng duy nhất có quyền xét xử con người, để đưa nhân loại tiến vào một thế giới khác, một thế giới chỉ có công bình và sự thiện.
Những thách đố của cuộc sống trần gian đầy biến động cùng với mọi bách hại đều đã được Đức Giêsu báo trước cùng với lời căn dặn rạch ròi: “Anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được… Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì anh em mới giữ được mạng sống của mình” ( Lc 19, 14 – 15, 17 – 19 ).
Lời lẽ thật là đáng tin cậy, đầy an ủi, chính là sức mạnh niềm tin cho những ai bước đi theo Người. Chỉ vì làm chứng cho niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng chí công mà con người phải hứng chịu những kết cục thảm khốc, nhưng cho dù có phải hy sinh tính mạng để làm chứng nhân cho sự thật công lý toàn vẹn ấy, chúng ta cũng phải can đảm và mạnh mẽ thể hiện.
Có rất nhiều cách biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa, nhưng không cách nào sống động và thiết thực hơn bằng chính hành động sống của mình. Có một điều cần phải xác tín, thế giới này không thể nào có công lý, mọi cán cân, mọi chuẩn mực xã hội chỉ nằm ở mức độ tương đối, vì đó là những định kiến con người đặt ra với nhau để cùng thực hiện và bảo vệ. Mọi người, không ai hoàn hảo, chẳng ai lại không bất toàn, pháp luật là cán cân để định mức thưởng phạt mỗi người. Thế nhưng, trên những chuẩn mực ấy, có một Đấng Chí Thánh, Chí Công, Đấng là Vua xét xử toàn cõi địa cầu, có quyền năng trên mọi loài mọi vật.
Cái cần của nhân loại là tin vào Đấng làm chủ cuộc đời mình và sống chứng nhân cho niềm tin ấy. Cuộc sống này cho dù có xoay vần đến đâu cũng không qua khỏi bàn tay quyền năng quan phòng của Thiên Chúa. Phải kiên trì, phải bền chí, phải vững tin, tin vào Thiên Chúa của một thế giới công bình, toàn thiện và hạnh phúc.
Lạy Chúa, có lẽ chẳng ai muốn mình trở thành kẻ tội lỗi, xấu xa và bất hạnh. Ai lại chẳng muốn làm người tốt, người lành, người thánh. Thế nhưng khổ nỗi cái bản thân, đã mang lấy kiếp con người bất toàn và yếu đuối, lại còn được đặt để vào một thế giới đầy bóng tối và sự ác. Phải tranh đấu, phải trà trộn, phải sống chung với sự ác đôi lúc khiến con chao đảo, mất phương hướng, mất niềm tin… đến khi xực tỉnh, cũng nhận ra mình trần truồng, tội lỗi, nhầy nhụa như ai.
Xin giúp con, cho dẫu có phải đối mặt với ba thù cũng một lòng trông cậy tín thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Chớ gì lời căn dặn năm xưa luôn in đậm trong linh hồn con, để không một ai có thể đánh cắp: Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất, cứ bền đỗ các con sẽ được linh hồn của mình ( x. Lc 21, 18 – 19 ).
Dân tộc nào cũng có những vị anh hùng và tôn giáo nào cũng có những vị anh hùng, được gọi những danh hiệu khác nhau. Kitô giáo có hàng ngũ các thánh, những tôi trung, con thảo của Chúa, những mẫu mực sống đạo của người công giáo. Là anh hùng trong đạo nhưng không có ai thắng. Có chăng là thắng chính mình, thắng những kẻ thù vô hình không mang quốc tịch nào như ma quỷ, xác thịt và thế gian.
Các vị tử đạo Việt Nam không cuồng tín liều lĩnh, không tự ý tìm đến cái chết: không ai tự thiêu, tự thắt cổ, tự cắn lưỡi, tự đập đầu mà chết để giữ chữ trung với đạo (không ai tự tử mà lại được phong thánh).
Trước khi tử đạo, các ngài là những người muốn sống để phục vụ gia đình, quê hương và Giáo Hội. Muốn sống mà không được sống, tránh không được thì chấp nhận, để rồi vui nhận. Cam lòng chịu chết mà không oán hận: đó là tính cách của các vị tử đạo Việt Nam. Kẻ nuôi lòng hận thù không thể làm thánh vì không xứng danh làm môn đệ của Đấng đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
Tôn vinh các vị thánh tử đạo Việt Nam là nêu lên một quan điểm tích cực: Lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Không khơi lên đống tro tàn để bùng cháy lòng căm thù, nhưng sáng lên một tinh thần bao dung hoà giải. Romeo và Juilette chết đi để hoà giải hai dòng họ thâm thù truyền kiếp. Cũng thế, dòng máu các vị tử đạo đổ ra không phải là vô ích. Các vị ấy về cõi trời nhưng gởi lại một thông điệp, đã có những người quyết tử để đất nước được hồi sinh, đã có những người chết vì niềm tin để con cháu được sống đức tin giữa lòng dân tộc, đã có những người bị đè bẹp vì thành kiến cố chấp để muôn người được thông cảm hoà đồng với nhau.
Đất nước Việt Nam sản sinh nhiều anh hùng: chiến sĩ anh hùng, bà mẹ anh hùng... nay có thêm những anh hùng đức tin làm cho kho tàng này được thêm phong phú.
Hướng về tương lai trong viễn cảnh thái hoà, người công giáo Việt Nam tiếp bước cha ông tiền bối của mình để sống đời chứng nhân, đem tin yêu đến cho mọi nhà. Còn biết bao nhiêu người đang phấn đấu sống theo chính đạo, chống lại bóng đen gian tà, chu toàn bổn phận của mình, làm việc với lương tâm chức nghiệp, sống lương thiện lành mạnh, chống lại các tệ nạn xã hội, tránh thoát ma lực của đồng tiền, quên đi lợi nhuận để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân, hy sinh tiết kiệm để cứu giúp những người bất hạnh. Quả là những anh hùng âm thầm trong bóng tối mênh mông.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng. * * * Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời"
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Ki-tô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
* * *
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như "hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo", bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."
Sự hiện diện của chúng ta trước bàn thờ các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay nói lên lòng hiếu kính của con cháu đối với tổ tiên, nén hương trầm chúng ta dâng lên biểu lộ lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân. Và đây cũng là lúc thuận tiện để chúng ta suy ngắm hình ảnh, đời sống và đức hy sinh của các ngài cho niềm tin.
Trước hết chúng ta thành khẩn cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa Cửu Trùng đã ghé mắt đến dân tộc Việt bé nhỏ mà ban cho được ơn đón nhận hạt giống Đức tin.
Chúng ta không quên tri ân các vị thừa sai, mà trong số đó có những vị đã được phong thánh. Họ là ai? Về thân nhân gốc gác? Là những người phương tây, chẳng phải dốt nát hay hám lợi, hay thất nghiệp thất tình để chọn đời truyền giáo mà cái chết đã được tuyên trước và bản án treo lơ lửng trên đầu họ. Một ông tây mắt xanh mũi lõ, ngôn ngữ bất đồng, thủy thổ không hợp, nơi lưu ngụ là một chiếc thuyền gỗ lênh đênh.
Đặc biệt chúng ta nhớ đến các vị tử đao tại Việt Nam. Tại quê hương, cơn bách hại đến sớm, nghĩ tưởng hạt giống đức tin bị chết ngạt dưới những áp bức và giết chóc; nhưng không, những con người Việt tuy bé nhỏ về thân xác, niềm tin còn mới mẻ nhưng đã kịp cắm sâu đức tin đời mình dưới chân thập giá, trái tim đã kịp nóng để đối diện cơn hồng thủy của sự khước từ và loại bỏ. Như vậy, từ các ngài, quê hương chúng ta có thể ví được như một mảnh đất màu mỡ chỉ đợi hạt giống đức tin chạm đến thì vươn vai lớn lên. Minh chứng lòng tin bằng máu tử đạo của các ngài chính là hoa quả sau hơn hai thế kỷ kể từ việc khởi đầu của giáo sĩ I-ni-khu năm 1533.
Thành phần tử đạo ngoài giám mục, linh mục là những người chuyên lo về tôn giáo, còn có các giáo dân như quan trường(T.Hy), quan án(T. Khảm), chính tổng, lý trưởng.
Những cám dỗ sống bình yên đã không thay thế được chọn lựa chịu bắt bớ, gông cùm vì đức tin của các ngài như thánh tử đạo Gioan Đạt, Annê Lê thị Thành…
Những cám dỗ sống trong ân huệ này khác đã không thể thay thế được chọn lựa chịu sống thiếu thốn khi bị giam cầm vì đức tin như thánh tử đạo Garelin Kính khi gửi thư về nhà người viết: những thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi dám khẳng định rằng: tôi được hạnh phúc trong túp lều tranh của tôi hơn vua nước Pháp trong hoàng cung của ngài; hay như thánh chủng sinh Tôma Trần văn Thiện được hứa tặng cho cả cô gái con quan huyện….
Những cám dỗ sống tự do không thể thay thế được chọn lựa chịu giam trong ngục thất vì đức tin như thánh Cuenot Thể viết: dù chỉ còn một giáo sĩ chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì nguyên sự hiện diện của vị đó cũng đủ nâng đỡ niềm tin và sinh hoạt cho các tín hữu rồi…
Và cám dỗ sự sống đời này không thể thay thế được chọn lựa chết vì niềm tin như thánh Hồ Đình Hy: Tôi cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Ky Tô; hay như thầy giảng Nguyễn Cầm, khi được nói nhắm mắt bước đại qua Thập giá thầy đáp: “thưa quan, mắt thì nhắm được chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”.
Vậy đó, mỗi cuộc đời tử đạo là một cuộc tự hiến. Cuộc đời các chứng nhân đức tin chịu đốt cháy trong lao khổ, trong nhục hình, và cả cái chết đều như một hiến tế dâng lên Thiên Chúa, sẽ trở nên hạt giống trổ sinh các Kytô hữu cho ngàn muôn thế hệ. Hơn nữa, việc chọn chết đi cho đức tin của các vị tử đạo không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết vì cái chết nguyên nó chẳng có giá trị gì hết, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Vì thế khi chọn lựa mãnh liệt và dứt khoát trong mầu nhiệm tự hủy và hiến tế chính là các ngài chọn lựa sự sống muôn đời bất diệt.
Hạt giống đức tin mà ngày nào các vị tử đạo chịu chôn vùi trong lòng đất quê hương, thì ngày nay chính chúng ta cũng đang được mời gọi chăm bón và vun tưới trong một cơn bão miên trường, ngày một khốc liệt. Có khác chăng là được khoác bằng những chiếc áo hình thức khác nhau mà thôi.
Ngày hôm nay, không gì có thể ngăn trở chúng ta hiến tế. Các thánh tử đạo tại Việt Nam được hồng phúc hiến tế sự sống một lần làm hy lễ. Còn chúng ta cứ phải hiến tế đời mình mỗi ngày và mọi ngày khi chúng ta sống đời nhân chứng đức tin. Khi mà chúng ta thiêu hủy đời mình như ngọn nến; đốt hết những nhát đảm, những yếu đuối, những toan tính thiệt hơn và những khô cằn nội tâm. Can đảm làm chứng cho chân lý và Tin Mừng.
Chúng ta nguyện xin các thánh tử đạo tại Việt Nam nguyện cầu cùng Chúa cho quê hương và con người Việt Nam để dòng máu các ngài đã đổ xuống, đã tưới gội, đã kiến tạo và đã đặt nền móng cho tòa nhà Giáo Hội tại quê hương tiếp tục lớn lên, trổ sinh ngàn vạn hoa trái mới để ánh sang đức tin sẽ là bình minh, một bình minh chiếu rọi rạng ngời trên đất Việt cho đến thời viên mãn, ngày chúng ta đoàn tụ với cha anh chúng ta trên cõi bất diệt.
Hôm nay chúng ta hân hoan mừng đại lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam. Giáo Hội chúng ta hãnh diện vì có các thánh, nhưng lễ này cũng là một dịp để chúng ta tự hỏi: chúng ta đã tôn sùng các thánh đúng mức chưa?
1. Chúng ta hãnh diện vì có các thánh
Người Việt Nam hãnh diện về các anh hùng dân tộc. Giáo Hội Việt Nam chúng ta cũng có đủ lý do để hãnh diện với Giáo Hội toàn cầu, vì tuy đức tin mới có mặt trên đất nước này được 500 năm (so với 2000 năm lịch sử Giáo Hội thì không có là bao), nhưng chúng ta đã đóng góp cho Giáo Hội được 117 vị thánh, một con số khá cao sánh với các giáo Hội kỳ cựu hơn. Nhưng chúng ta không phải chỉ có 117 vị đã được phong thánh, mà còn có hàng ngàn, hàng vạn tín hữu Việt Nam khác đã anh dũng hy sinh mạng sống vì đức tin, người thì bị chém đầu, bị phân thây, bị thắt cổ, bị voi giày, người thì bị thiêu sống, bị chết trong tù hay trong nơi đày ải chỗ rừng thiêng nước độc. Hiện nay chúng ta chỉ còn biết tên tuổi của chừng mấy ngàn vị có hồ sơ phong thánh tại Rôma. Nhưng tổng số là bao nhiêu, không ai biết. Có người đã ước lượng con số khoảng 100.000 người tín hữu Việt Nam đã chết vì đức tin.
Dù sao chúng ta có thể hãnh diện vì là con cháu các vị tử đạo, vì dòng máu anh hùng của các ngài vẫn chảy trong mạch máu chúng ta. Chúng ta vui mừng vì các ngài đã chấp nhận nên như hạt lúa phải mục nát đi, để trổ sinh mùa màng tươi tốt mà chúng ta đang đuợc hưởng. Vâng, chính nhờ công đức các ngài mà chúng ta có ngày nay.
2. Chúng ta đã tôn sùng các thánh đúng mức chưa?
Hãnh diện về các vị tử đạo, nhưng chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đã tôn sùng các vị cho đúng mức chưa? Hay chúng ta chỉ phấn khởi về việc phong thánh, rồi để đấy? Chúng ta chỉ mừng lễ Các Thánh Tử đạo một năm một lần, rồi chẳng nói gì đến nữa?
Muốn tôn sùng Các Thánh Tử Dạo Viêt Nam cho xứng đáng, chúng ta phải:
* học hỏi về các ngài; * năng cầu nguyện với các ngài; * nhất là noi gương các ngài.
a) Học hỏi về các ngài:
Các cụ ta xưa có câu: “Vô tri bất mộ”, không biết thì không mộ mến, muốn mộ mến thì phải biết đã. Ngày nay có lẽ chỉ có giáo dân ở những nơi là quê hương các thánh hoặc còn giữ hài cốt các ngài mới còn biết tên tuổi các thánh. Còn thì đại đa số những người khác hỏi rằng có thể kể ra tên được mấy vị? Mà có lẽ hầu hết chúng ta cũng không biết được đích xác những thánh tử đạo nào đã sinh ra, đã sống, đã làm việc hay đã chết trong giáo phận nhà. Thật là điều đáng tiếc!
Vì thế chúng ta cần phải học hỏi thêm về đời sống và cái chết anh dũng của các thánh tử đạo, nhất là của những vị gần với chúng ta hơn. Rồi chúng còn phải dạy cho con cháu biết nữa. Như vậy chúng ta sẽ mộ mến các ngài hơn, đồng thời sẽ lấy làm hạnh phúc vì được sống trên quê hương các thánh.
b) Cầu nguyện với các ngài: Giáo Hội dạy rằng: các thánh ở trên trời hằng cầu thay nguyện giúp chúng ta trước toà Chúa. Chúng ta hay cầu xin thánh Antôn, thánh Vincentê, thánh Martinô v.v…. nhưng chúng ta có nhớ cầu xin các thánh tử đạo của chúng ta không? Các ngài đẹp lòng Chúa, ở gần Chúa hơn, nên có thể nói là có thần thế trước mặt Chúa. Các ngài lại là đồng bào, đồng hương, thậm chí là bậc cha ông chúng ta, lẽ nào các ngài bỏ rơi chúng ta? chắc chắn các ngài sẵn sàng cầu cùng Chúa cho chúng ta.
Vì thế chúng ta nên nhớ đến Các thánh Tử Đạo Việt Nam và cầu nguyện với các ngài mỗi ngày. Nhất là khi gặp gian nan thử thách, chúng ta hảy chạy đến với các ngài, thì Chúa sẽ vì các ngài mà ban cho chúng ta được can đảm thắng vượt thử thách, được bền lòng giữ đức tin và sốn đức tin cho đến cùng.
c) Noi gương các thánh:
Sau cùng, lòng sùng kính các vị tử đạo phải thúc đẩy chúng ta noi gương các ngài. Các vị tử đạo ngày xưa, có một số là giám mục. Linh mục. Tu sĩ, thầy giảng, còn phần lớn là giáo dân bình thường, cũng có gia đình như ai khác. Các vị là thầy đồ, thầy lang, làm quan, làm lính, làm thợ, làm nội trợ, làm nghề buôn bán. Nghề nông v.v…
Mức hiểu biết về đạo chắc cũng không được sâu lắm, vì thời đó các linh mục phải trốn tránh, ít khi gặp, còn sách đạo cũng thiếu thốn, lại viết bằng chữ hán chữ nôm, ít người đọc được. Nhưng các vị có lòng thành, hiểu được bao nhiêu thì cố gằng thực hành hết điều mình hiểu. Cậy vào ơn Chúa giúp, các ngài đã chấp nhận môi thiệt thòi để trung thành với Chúa. Các ngài đã đặt Chúa lên trên tất cả, trên của cải, gia đình, danh giá, hạnh phúc trần gian, trên cả tự do và chính mạng sống nữa.
Đó là gương sáng các ngài để lại cho chúng ta. Chúng ta có noi theo thì mới xứng đáng là con cháu các ngài. Hay là chúng ta còn ngại vất vả, hy sinh vì Chúa, còn để cho cái gì khác (như của cải, danh giá, thú vui) lôi cuốn, mà sẵn sàng bỏ Chúa?
Hôm nay, khi mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban ơn cho các ngài được can đảm đến cùng, chúng ta hãnh diện vì là con cháu các ngài, và ý thức rằng, muốn sùng kính các ngài cho xứng đáng và thiết thực, chúng ta còn phải tìm hiểu thêm về các ngài để dạy cho con cháu biết, phải năng cầu nguyện với các ngài và nhất là phải ra sức noi gương các ngài mà chu toàn các bổn phận và trung thành với Chúa trọn đời.
Giờ đây chúng ta tiếp tục cử hành thánh lễ. Cùng với Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta cũng dâng lên Chúa Cha máu các thánh tử đạo đã đổ ra, hoà với những mồ hôi, nước mắt của chúng ta, và xin Chúa Cha chấp nhận tất cả làm của lễ đẹp lòng Người.
1. Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.
Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.
Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.
Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh. Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.
Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.
Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
2. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào. Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?
Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.
Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.
Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
3. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.
Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.
Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy... đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.
Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.
Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài làcô Anna Năm xác nhận:“Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: "Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho".Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: "Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ".”
Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.
Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: "Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện", nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.
Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.
Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.
Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.
Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳngghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quantrị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.
4. Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.
Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.
Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.
Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”
Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.
Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.
Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.
Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô hữu, đặc biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân Phước để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình đức Tin giữa dòng đời.
“Nếu hạt lúa miến không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ”. Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác, để phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ “trơ trọi một mình’’. “Trơ trọi một mình” là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến chỉ đạt được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi người.
“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt ”: Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát, phải thối rữa, phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số lượng. Đến lượt những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành tinh bột, hoà mình với nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử thách của lửa để trở thành tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con người. Đó là sự gia tăng về chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó, chết đi là tự hạ, tự huỷ ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu thăng bản chất của hiện hữu. Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho sự tự hạ, tự huỷ của Người như bước chuẩn bị cần thiết cho việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu tượng minh hoạ cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là một huyền nhiệm.
“Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ đó nẩy sinh nhiều tín hữu Kitô”.
Câu nói lừng danh này của Tertulianô có giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, khi chúng ta suy gẫm về các hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời Chúa.
Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm chứng, làm chứng bằng cách chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa,tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hoá với “của lễ toàn thiêu” như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”, và “của lễ thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, Linh mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của các Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.
Thánh Tử Đạo Carolô CORNAY Tân, một Linh mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan toà thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống nhà vua được?”[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh mục Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”[3].
Bài học thứ hai là thái độ kiên định trong sứ vụ làm chứng cho sự thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật này, là: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian, “để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời đời và vì thế Người là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc dẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là “tả đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết để làm chứng trước mặt mọi người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo gương Chúa Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.
Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ bến đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình (x. Mt 5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng trối với con trai của mình tại pháp trường: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé” [4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan bách hại các ngài, hay những lời các ngài tâm sự với người thân của mình, chúng ta mới thấy được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương: Tình thương mạnh hơn sự chết; Tình thương chiến thắng hận thù.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm truớc, tức vào ngày 24-11-1960, Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam. Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hồng ân này đã được rất đông các Vị Tử Đạo đón nhận cách quảng đại, sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa” [5].
Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của Năm Thánh hồng phúc này và dùng việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày của chúng ta [6].
Nguyên xin Đức Mẹ La Vang, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Con yêu dấu của Mẹ và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa Miến: chết đi mới sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống với đồng bào, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn hoá, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất cả các thứ bánh đó thì mới thực sự có sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi dân tộc; và có chia sẻ những tấm bánh đó cho mọi người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra lề xã hội, mới thực sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Bí Tích, nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó, “xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của SỨ VỤ” [8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN. ------------ [1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca 2. [2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca 1. [3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca của Thánh ca Tin Mừng. [4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội Dân Chúa, cước chú 109. [5] Xem Huấn từ ĐTC Beneđictô XVI ngỏ với HĐGMVN ngày 27-06-2009. [6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI gửi ĐC Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009. [7] Xem TLLV, chương II. [8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2010 của ĐTC Beneđictô XVI.
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa Giêsu đã phán: Môn đệ không trọng hơn Thầy. Nếu người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng bắt bớ các con. Lời tiên tri này đã được thực hiện một cách trọn vẹn.
Trước hết nơi Chúa Giêsu: từ khi bước vào cuộc sống công khai Ngài đã gặp phải sự chống đối của bọn biệt phái. Chúng tìm mọi sơ hở để bắt lỗi những lời Ngài giảng và những việc Ngài làm. Chúng tố cáo Ngài là phạm thượng lộng ngôn, dùng quyền quỷ mà trừ quỷ, lỗi ngày Sabat, xách động dân chúng chống lại chính quyền Lamã và sau cùng ý đồ đen tối của chúng đã được thực hiện, chúng đã bắt giữ và đóng đinh Ngài trên thập giá.
Tiếp đến là các tông đồ. Sau ngày lễ Hiện Xuống Phêrô và Gioan đã bị tống ngục. Trong số 12 tông đồ thì chỉ có mình Gioan chết già tại cộng đồng Êphêsô, còn tất cả đều đã hy sinh mạng sống cho Tin Mừng Phúc Âm.
Sau cùng là Giáo Hội. Giáo Hội thời sơ khai đã trải qua 300 năm cấm cách dưới thời các hoàng đế Lamã. Những tín hữu muốn sống sót và bảo toàn đức tin phải chui rúc trong những hang toại đạo. Vì thế các sử gia đã gọi thời kỳ này là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm.
Riêng tại Việt Nam, Tin Mừng được rao giảng vào thế kỷ 16, từ đó cho đến thế kỷ 19, từ đời hậu Lê cho tới thời Chúa Nguyễn, trải dài hơn 300 năm, cũng đã gặp phải bao cấm cách, nhất là dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Biết bao nhiêu người đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn và sản nghiệp trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc để bảo vệ đức tin. Trên 130.000 người đã hy sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, trong số đó có 117 vị đã được tôn phong lên bậc hiển thánh.
Qua những sự kiện lịch ấy chúng ta đi tới kết luật: Thân phận người Kitô hữu là thân phận bị bách hại. Sự bách hại có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc, khi thì khắc nghiệt và toàn phần như đã xảy ra trong dĩ vãng. Khi thì từ từ và từng phần như đang xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Khi thì như mơn trớn vuốt ve bằng tiền tài danh vọng và lạc thú như tại những nước tư bản. Nhưng tất cả đều dẫn tới một mẫu số chung là làm cho đời sống đức tin suy yếu và con số những người bước theo Chúa mỗi ngày một vơi giảm.
Con người càng tiến bộ thì phương cách bắt bớ càng tinh vi, có thể chúng ta không bị bắt bớ vì lý do tôn giáo nhưng người ta sẽ chụp mũ và bắt bớ chúng ta ở một tội trạng nào khác, nhưng theo tôi nghĩ sự bắt bớ quan trọng nhất đang diễn ra ngay tại cõi lòng chúng ta, vì ai trong chúng ta cũng cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, giữa sự tốt và sự xấu. Nhiều khi sự ác đã lấn át và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Có chiến thắng trong cuộc chiến nội tâm tuy âm thầm nhưng mãnh liệt này, chúng ta mới hy vọng chiến thắng được thế gian vì tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ.
Thân xác các thánh Tử đạo Việt Nam tuy đã chết nhưng tinh thần tử đạo của các ngài vẫn sống mãi. Hãy bước theo dấu chân của các Ngài. Thực vậy, mặc dù chúng ta không được diễm phúc tử đạo, nhưng cũng hãy dùng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để làm chứng cho Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Mỗi hy sinh chúng ta chịu sẽ là một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian các tín hữu công giáo Việt-nam bị bách hại ác liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ công khai bỏ đạo để được tha. Tín hữu nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ đạo.
Ngày nay, không còn áp lực bên ngoài bắt buộc các tín hữu dẫm lên thập giá, nhưng có nhiều áp lực bên trong như tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, oán thù… vẫn hằng thôi thúc các ki-tô hữu chà đạp lên nhân phẩm và tình người, biến họ trở thành những người chối bỏ Đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo Chúa là Đạo yêu thương
Đạo Thiên Chúa được gọi là Đạo yêu thương vì cốt tủy của Đạo là giới luật yêu thương và mục tiêu của Đạo là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trên khắp thế giới.
Khi có vị luật sĩ hỏi Chúa Giêsu, trong các điều răn, điều nào trọng nhất, Chúa đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22, 37-40)
Thánh Phao-lô cũng nhắc lại giáo lý nầy cho các tín hữu Rô-ma: “Các điều răn… đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13,9-10)
Tuyên ngôn yêu thương nầy đã được Chúa Giêsu nâng lên thành điều răn mới khi Ngài phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13, 34)
Chỉ có những ai yêu thương mới được xem là người môn đệ Chúa
Muốn ghi tên gia nhập vào một tổ chức, một đoàn thể hay một đảng phái nào đó, ứng viên phải chấp nhận một số nội quy của tổ chức đó.
Cũng thế, khi muốn gia nhập vào Đạo yêu thương để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, thì điều kiện đầu tiên phải có là lòng yêu mến tha nhân, như lời Chúa Giêsu dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, không phải hễ đã có tên trong sổ rửa tội, có tham gia sinh hoạt tôn giáo là có thể xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu nhưng là phải thật sự yêu mến tha nhân quanh mình.
Ai ghét bỏ tha nhân là từ bỏ Đạo yêu thương của Chúa
Vì Đạo Chúa là Đạo yêu thương nên ai ghét bỏ tha nhân, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giêsu nữa, như lời Chúa dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, khi ghét bỏ người khác hay cạn lòng yêu thương tha nhân, ki-tô hữu tự loại mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa.
Ngoài ra, những ai thiếu lòng yêu mến tha nhân thì trong ngày phán xét, sẽ bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa, như lời Chúa dạy trong dụ ngôn phán xét cuối cùng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 25, 34. 41)
Noi gương các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương.
Thách thức của các kitô-hữu bị bách hại ngày xưa là quyết không bước qua thập giá dù phải chịu máu đổ đầu rơi. Thách thức của kitô hữu hôm nay là quyết giữ lòng yêu mến tha nhân đến cùng dù phải đối mặt với hận thù, bạo lực và ghen ghét.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo Chúa Giêsu và kiên trì sống Đạo yêu thương đến cùng. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn không hề nao núng. Nhờ đó, các ngài được lãnh nhận triều thiên tử đạo. Nếu hôm nay chúng ta kiên quyết xoá bỏ oán ghét hận thù, để kiên trì giữ luật yêu thương, để sống chan hòa với mọi anh em trong tình huynh đệ (cho dù để đạt được điều nầy, chúng ta phải chịu khổ nạn trong tâm hồn), thì chúng ta cũng sẽ được đứng vào hàng ngũ các thánh tử đạo hiển vinh.
Một trong các bài Tin Mừng được chọn đọc trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo là phần đầu của bài giảng trên núi mà chúng ta quen gọi là ‘Tám Mối Phúc’. Mối phúc cuối cùng trong danh sách là: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ’. Trong sách Tin Mừng Lu-ca chương 06, dầu chỉ đề cập tới có 04 mối phúc, nhưng mối phúc sau chót cũng vẫn nói tới cùng một điều này là “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa. Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Lc 6,22) Phải chăng đó là lý do tại sao các Ki-tô hữu từ thời xa xưa đã dành cho các vị anh hùng tử đạo một sự mừng kính đặc biệt trân trọng. Họ gán cho các ngài danh hiệu cao quý là Chứng Nhân Tin Mừng (Martyr). Ngày nay trong tư cách con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo, chúng ta muốn thực sự tìm hiểu các vị tử đạo nói chung, và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nói riêng, đã là chứng nhân Tin Mừng như thế nào? Khi tiến ra pháp trường để bị trảm quyết, các ngài đã thật sự trung kiên bảo vệ điều gì? Và ở điểm nào các ngài thực sự liên quan tới người Công Giáo Việt Nam chúng ta đang sống trong xã hội hôm nay?
Trong tiếng Việt, chữ ‘đạo’ thường được chúng ta sử dụng để nói tới một đạo giáo, một tôn giáo, như Đạo Phật, Đạo Hồi, Đạo Lão, Đạo Ông Bà, Đạo Thiên Chúa… Thế nhưng theo nguyên ngữ hán-nôm, ‘đạo’ là con đường, là lẽ sống, là học thuyết… dẫn tới mục đích tối hậu của cuộc sống, chẳng hạn đạo Khổng, đạo hiếu, đạo làm người. Đức Giê-su đã tự giới thiếu mình “là đường, là sự thật và là sự sống”. Và nếu nói theo từ vựng hán nôm Ngài sẽ phải tuyên bố mình là ‘đạo, chân, sinh’. Vậy thì, trong cả phúc âm Mát-thêu lẫn Lu-ca, khi đề cập tới mối phúc chót này, Đức Giê-su chắc chắn không hề có ý muốn tuyên bố ‘phúc thay’ những ai dám chết cho một đạo giáo hay tôn giáo, nhất là hiểu dưới khía cạnh cơ cấu tổ chức của tôn giáo đó. Điều mà Đức Giê-su muốn biểu dương là tất cả mọi hình thức ‘bị bách hại’, ‘bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa…’ đều là ‘phúc’ vì một yếu tố duy nhất, đó là ‘vì sống công chính’, hay rõ hơn: ‘vì Con Người’.
Tới đây tôi gợi nhớ lại tư tưởng bài suy niệm về đoạn Tin Mừng Lc 18, 9-14 của Chúa Nhật XXX thường niên năm C: ‘Đối với Đức Giê-su, ai mới là công chính?’ Nếu đã có một nền công chính của Cựu Ước tóm gọn trong luật Mô-sê để bẩy anh em nhà Ma-ca-bê, vị bô lão Ê-lê-a-da, và Gio-an Tiền Hô, vì trung thành với nó, đã buộc phải gánh lấy cái chết… và ‘các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế’, thì riêng với Ki-tô hữu sẽ có một thứ công chính mới được chính Đức Giê-su công bố. Nói đúng ra chính Người là hiện thân của nền công chính đó, sự công chính của Thiên Chúa từ nhân, công chính của tình yêu tha thứ và cứu độ; ‘Vì Con Người’, Người đã khảng định. Ai đón nhận và sống Tin Mừng này để rồi ‘bị bách hại’, hay chịu thua thiệt dưới bất cứ hình thức nào, đều là những người được Đức Giê-su biểu dương. Còn nếu có ai đó bị giết chết vì nền công chính mới này thì phải được chính Đức Ki-tô và toàn Nhiệm Thể Ngài tuyên dương, phong thánh. Chính vì thế mà Giáo Hội, ngay từ thời sơ khai và qua mọi thời đại, đã có thói quen phong thánh cho các vị anh hùng ‘tử vì đạo’. Giáo Hội luôn muốn tuyên bố rằng các anh chị em tín hữu này là chứng nhân cho Tin Mừng tình yêu vì đã dám chấp nhận thua thiệt lớn hơn hết là mất cả mạng sống mình. Với việc phong thánh như thế Giáo Hội đồng thời cũng muốn khảng định bất cứ thua thiệt nào các Ki-tô hữu phải hứng chịu trong cuộc sống thường ngày vì ‘sống công chính mới’ đều có giá trị vô song.
Suy nghĩ như thế tôi mới thấy có một liên hệ mật thiết giữa các chứng nhân ‘tử vì đạo’ với mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Các ngài không phải là những trường hợp biệt lệ để các tín hữu có ‘may mắn’ được sống trong thời đại an bình nhìn vào mà thán phục mà ca ngợi, với mơ ước rằng: nếu chẳng may lâm vào cơn cấm cách, mình cũng sẽ trung thành. Đức Giê-su đã chẳng gọi tất cả mọi Ki-tô hữu là ‘ánh sáng’, là ‘muối men’ của trần gian, là chứng nhân Tin Mừng là gì? Chứng nhân tích cực rao giảng Tin Mừng thì ít, nhưng chứng nhân vì buộc phải chấp nhận các thua thiệt, khó khăn vì nền công chính Tin Mừng trong đời sống thường ngày thì nhiều. Vì thế thật là chí lý: các ‘Thánh Tử Đạo’ được coi như tấm gương, như cột sống của Ki-tô hữu qua mọi thời đại, thời buổi bị bắt bớ thử thách cũng như khi được sống an bình sung túc.
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì Giáo Hội Việt Nam đã có hàng trăm ngàn các chứng nhân Tin Mừng như thế, trong số đó 117 vị đã được toàn Nhiệm Thể Đức Ki-tô phong thánh. Vấn đề được đặt ra là: phải chăng các ngài đơn thuần chỉ tạo nên nơi chúng ta một niềm kiêu hãnh mang tính lịch sử, hay đã trở thành cột sống, thành cơ bắp thúc đẩy chúng ta sống công chính Tin Mừng cách cụ thể trong đời sống thường ngày? Thua thiệt vì Tin Mừng thì thời đại nào cũng có, kể cả trong các xã hội được coi là phồn vinh dễ dãi và tự do. Thế thì các ‘Thánh Tử Đạo Việt Nam’ đã đóng góp được gì cho người Công Giáo Việt Nam chúng ta trong xã hội được cho là ‘dễ dãi hơn’ hôm nay? Phải chăng chỉ là một khích lệ trung kiên nào đó sẵn sàng chiến đấu chống lại mọi thế lực thù nghịch khi cần, hay để kiên trì ‘sống công chính’ khi ‘bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa…’ ngay trong xã hội hôm nay? Ngày mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay sẽ không mấy ý nghĩa nếu mỗi người không tìm ra được câu trả lời cho vấn nạn này.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài đã chịu bách hại vì dám chấp nhận ‘sống công chính’ tới độ anh hùng. Nếu Hội Thánh đã tuyên phong cái chết của các ngài thì đồng thời cũng tuyên phong vô vàn những tủi hổ, thiệt thòi của biết bao tín hữu anh hùng vô danh khác. Tất cả các điều này không nằm ngoài mục đích thôi thúc mỗi người Công Giáo Việt Nam chúng con sẵn sàng hơn trong việc cùng với Đức Ki-tô thập giá tha thứ và yêu thương trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống đời thường, ngay trong lòng xã hội hôm nay. Xin các ngài tiếp tục trở nên chứng nhân Tin Mừng cho chúng con về một tình yêu tha thứ tuyệt đối. Amen.
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì? 2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam. 3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một số rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ, ông câu, ông chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều cực hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp nhận chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người làm khổ mình như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi sau một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát ra thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy, các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời. Thật là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước những may lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang, sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ, chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng có những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt cuồng. Trong một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng sống mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ ra cho người khác chém để làm chứng”.
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo, chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng quan tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người khác: những việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những người bệnh tật… chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
Thật là lạ lùng khi mà các bài đọc trong Thánh lễ mừng các Thánh Tử Đạo hôm nay lại chỉ toàn nói đến niềm vui. Đặc biệt là lời đáp trong Thánh Vịnh hôm nay: “Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan”. Vậy đâu là lý do để Giáo Hội chọn những bài đọc này?
Nếu cứ theo cách nghĩ của người đời thì làm sao có thể ca lên lời Thánh Vịnh nói trên, khi mà trong suốt gần 300 năm (261) bị bách hại, người Công Giáo Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu gian nan thử thách: nào là gông cùm, tù tội, nào là đòn vọt, xích xiềng... Với 6 triều vua cùng 53 sắc dụ cấm đạo đã cướp đi mạng sống của trên 130 ngàn người Công Giáo. Họ đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ niềm tin của mình.
Có lẽ, không chỉ giáo đoàn Việt Nam, mà trong suốt dọc dài của lịch sử Giáo Hội, người tín hữu Chúa Kitô dường như đều gắn liền với những cuộc bách hại. Trong thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu cũng bị bách hại dữ dội, thế nhưng các ngài vẫn không hề nao núng. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng, mặc dù bị đánh đập, hành hạ, nhưng khi các Tông đồ ra khỏi hội đường của người Dothái thì “lòng đầy hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu Kitô”.
Cũng vậy, các thánh TĐVN – cha ông chúng ta – đã cảm thấy hãnh diện vì được chịu khổ nhục vì đạo Chúa. Không những thế, các ngài còn đón nhận những hình khổ cũng như cái chết một cách vui mừng, mà không một chút nao núng, như trường hợp của Thánh Phêrô Đoàn Công Quý: "Dù trăng trói, gông cùm tù rạc, Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề. Miễn vui lòng cam chịu một bề. Cho trọn đạo trung thần hiếu tử."; hay trường hợp của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc: "Đông qua tiết lại thời xuân tới. Khổ tạm mai sau hưởng phúc an. Làm kẻ anh hùng chi quản khó. Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn."
***
Đã có một thời, thậm chí ngay cả ngày hôm nay, nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta vẫn còn tỏ ra dè dặt về danh xưng “Tử Đạo”. Có lẽ vì hai chữ “Tử Đạo” dễ khiến người ta liên tưởng đến những cuộc thánh chiến hay những cuộc đánh bom tự sát chăng?
Nhưng đối với trường hợp của các thánh TĐVN thì không như vậy. Mặc dù các ngài ở những bậc sống khác nhau, xuất thân từ những môi trường không giống nhau: có vị là Giám mục, có vị là linh mục, rồi thầy giảng, trùm trưởng, giáo dân; thậm chí có vị còn nắm giữ những trọng trách trong triều đình như Thánh Micae Hồ Đình Hy. Tuy nhiên, các ngài đều có một điểm chung đó là tình mến Chúa thiết tha và lòng yêu mến quê hương nồng nàn. Cái chết của các ngài không hề mang màu sắc của sự thù hận, nhưng phát xuất từ một niềm tin, như lời Thánh Micae Hồ Đình Hy: "Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Nguyên ngữ của chữ Tử Đạo (Martyr) có nghĩa là “Người làm chứng”. Ngày hôm nay, có lẽ không còn những cuộc bách hại đẫm máu, những tra tấn, gông cùm, tù tội…, hoặc ít ra là không gắt gao như thời của các Thánh Tử Đạo - cha ông chúng ta. Tuy nhiên, người tín hữu sống đạo hôm nay, vẫn phải đối mặt với muôn vàn thử thách.
Văn hóa thực dụng và lối sống hưởng thụ thời nay, một cách nào đó, đã và đang cản trở chúng ta thực thi các đòi hỏi của Tin Mừng. Giữa thế giới văn minh, tiện nghi, việc đạo được nhiều thuận lợi, biết đâu, có khi chúng ta lại dễ dàng chối bỏ niềm tin của mình? Đó là khi chúng ta sống ích kỷ, chỉ chăm lo đến ốc đảo của riêng mình; đó là khi chúng ta bỏ qua lời thề ước của hôn nhân để ngoại tình; đó là khi những người mẹ giết con bằng hành vi phá thai; đó là khi những người trẻ sống một cách buông thả; đó là khi chúng ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say sưa hơn là các giờ kinh lễ; đó là khi chúng ta chia rẽ, hận thù và phá vỡ mối giây hiệp nhất trong cộng đoàn...
Làm sao để chúng ta có thể vẫn ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, là điều không hề đơn giản. Chúa muốn chúng ta là nắm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Bởi vì nếu như thế, men sẽ trở nên vô ích. Cũng như muối mà mất đi chất mặn thì chỉ còn cách đổ ra đường để cho người ta chà đạp lên…
***
Sẽ khó có thể nói được rằng Tử đạo ở thời nào hay nơi nào khó hơn. Bởi vì, mỗi thời, mỗi nơi, đều có những khó khăn thử thách riêng. Các vị Tử đạo cha ông chúng ta, đã phải hứng chịu những bách hại, đặc biệt là những gian khổ về mặt thể lý, như đòn vọt, gông cùm, tù tội… còn chúng ta ngày hôm nay, mặc dù không chịu những thử thách tương tự, thế nhưng để giữ đạo và sống đạo cho đúng với ơn gọi làm người Kitô hữu của mình, chúng ta đã phải tử đạo mỗi ngày, mà người ta vẫn gọi là “những người tử đạo trắng”.
Người Kitô hữu sống đạo hôm nay được kể như người đang “lội ngược dòng đời”. Đang khi thế gian chạy theo tiền bạc và hưởng thụ, tìm mọi cách để vun vén cho bản thân, chúng ta lại được mời gọi sống cho tha nhân, và mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Đang khi cuộc sống hôm nay đầy dẫy những lọc lừa, gian dối, chúng ta lại được mời gọi sống ngay thẳng và làm chứng cho sự thật. Đang khi thế gian coi nhẹ phẩm giá con người, chúng ta được mời gọi tôn trọng sự sống và bảo vệ những mầm sống đó ngay từ những giây phút đầu tiên trong thai bào. Đang khi mối quan hệ gia đình, sự thủy chung trong đời sống vợ chồng ngày một trở nên lỏng lẻo, chúng ta lại được gọi mời sống trung thành với nhau cho đến chết… Và mỗi lần sống như thế, là mỗi lần chúng ta tử đạo.
Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi người chúng ta đều được mời gọi trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô qua đời sống yêu thương phục vụ. Nhờ đó, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô sẽ được lan tỏa đến tận cùng trái đất.
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời! Chúa đã hy sinh mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa Cha và yêu thương loài người chúng con. Xin hãy dạy chúng con biết đáp đền tình yêu lớn lao ấy bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng con. Xin cho chúng con giữ được vị mặn của muối, và độ nồng của men, để đem đến cho cuộc đời này một sức sống mới. Amen.
Ngày 19-6-1988 đã in một nét son trong lịch sử Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. 117 thánh tử đạo là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Đây là một biến cố quan trọng đối với Dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam vốn đã tự hào về một truyền thống kiên cường trong việc dựng nước và giữ nước, nay càng tự hào hơn vì có những bậc tiền nhân anh hùng kiên vững trong Đức tin. Quê hương Việt Nam đã xinh đẹp, nay còn xinh đẹp hơn nhờ được tô điểm bằng Đức tin Công giáo.
Tại Quảng trường Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma hôm đó, trước hàng triệu tín hữu, trong số đó có những tín hữu Việt Nam, Vị Cha chung của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ đã nhân danh Chúa Ba Ngôi long trọng tuyên bố: kể từ nay, 117 vị Tử đạo Việt Nam được kể vào hàng các thánh và được tôn kính trong toàn thể Giáo Hội. Để bày tỏ tình thương hiền phụ đối với các tín hữu Việt Nam, vị Thánh Giáo Hoàng đã ngỏ lời với con cháu các thánh Tử đạo bằng ngôn ngữ của họ. Đây là lần đầu tiên tiếng Việt thân thương của chúng ta được phát âm và xướng lên bởi một vị Giáo Hoàng: “Chào anh chị em Việt Nam thân mến. Cha gửi lời chào chúng con từ bốn phương trời tuốn về La Mã, vui vẻ hiên ngang mừng các thánh Tử đạo của Giáo Hội chúng con hôm nay. Xin Chúa chúc lành cho chúng con, và Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng”.
Đã 26 năm từ sự kiện phong thánh, những lời của vị Cha Chung ngỏ lời với con dân Việt vẫn còn vang vọng đâu đây trong tâm khảm của các tín hữu Việt Nam đang sống trong nước cũng như ở hải ngoại. Bởi lẽ, qua những lời đơn sơ ấy, vị Thánh Giáo Hoàng muốn mời gọi chúng ta tưởng nhớ về một quá khứ đau thương hào hùng của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, đồng thời khuyên chúng ta học nơi các ngài bài học sống Đức tin trong cuộc sống hiện tại hôm nay.
- Thứ nhất, hồi tưởng về quá khứ. Giáo Hội công giáo Việt Nam đã trải qua những thử thách đau thương khốc liệt, giống như cộng đoàn tín hữu tiên khởi tại Rôma ở thế ký thứ hai. Hơn một trăm ngàn người Việt Nam đã phải hy sinh mạng sống chỉ vì một lý do là họ tin vào Chúa. Họ phải chịu biết bao đau khổ và nhục hình: phân biệt đối xử, phát vãng lưu đày và tử hình. Có thể thế hệ hôm nay sẽ đặt câu hỏi: các Thánh Tử đạo Việt Nam là những ai? Thưa họ là những giám mục, linh mục, tu sĩ chủng sinh; họ là những người cha, người mẹ, những người con trong gia đình; họ là những người học hành uyên bác nhưng phần lớn trong số họ là những người bình dân; đa phần trong số họ là những người chân lấm tay bùn, vất vả quanh năm với con trâu, cái cày. Trong số họ cũng có 21 vị là người ngoại quốc. Các ngài đến từ những đất nước văn minh và đã chọn Việt Nam là quê hương thứ hai của mình. Các Thánh Tử đạo Việt Nam, không phân biệt Tây hay Ta, nam hay nữ, giàu hay nghèo, trí thức hay bình dân. Tất cả đều yêu mến Chúa, yêu quê hương Việt Nam và yêu Giáo Hội Việt Nam đến mức sẵn sàng đổ máu đào để làm chứng cho tình yêu ấy.
Vì thành kiến và thù ghét, người ta đã nghĩ ra biết bao hình khổ ghê rợn hầu làm họ chối bỏ Đức tin, nhưng các ngài vẫn can đảm kiên trung trước lời đe dọa của những nhà cầm quyền. Chủng sinh 18 tuổi, Tôma Trần Văn Thiện, đã nói với quan: “Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo“. Thấy Tôma Thiện là một chàng trai trẻ có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, quan muốn nhận làm con rể mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng ngài đã từ chối: “Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế”. Thánh Tôma đã thấu hiểu lời Đức Kitô trong Tin mừng Luca: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”. Sách viết về cuộc đời của các Thánh Tử đạo còn kể lại biết bao chứng tá anh hùng của các ngài. Các ngài không sợ hình phạt, chỉ sợ mất nghĩa cùng Chúa. Đi ra pháp trường mà các ngài vui vẻ như đi dự hội. Với các thánh Phạm Khắc Khoan, Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, các ngài lại hát bài ca “Alleluia” như trong đêm vọng Phục Sinh. Chỉ có một Đức tin kiên trung và lòng phó thác trọn vẹn mới có thể đem lại cho các ngài nghị lực và niềm vui như vậy.
Sống đạo đức thánh thiện và trung thành với Đức tin, các ngài còn là những người sống bác ái với mọi người. Lịch sử các Thánh Tử đạo còn ghi lại thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thánh Martinô Thọ, Ngài thường trồng vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo. Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.
- Ôn lại quá khứ, chúng ta là những tín hữu Công giáo Việt Nam học những bài học cụ thể cho cuộc sống hôm nay. Quả vậy, lòng tự hào về các bậc Tiền Nhân không phải chỉ được ghi lại trong những pho sách sử mà thôi. Chúng ta ôn lại truyền thống hào hùng được ghi dấu và thấm đẫm máu đào, không giống như chỉ ôn lại một sự kiện lịch sử xa vời, dù rất đẹp nhưng khô cứng và vô hồn. Chúng ta tự hào về các Thánh Tử Đạo cũng không giống như kiểu lấy công phúc của các ngài để làm vinh dự cho chúng ta. Việc ôn lại chứng tá của các Thánh Tử đạo nhắc nhớ mỗi người dân Việt, nhất là những tín hữu Công giáo Việt Nam, dù sống trên miền đất nào, cũng cố gắng noi theo lòng đạo đức của các ngài, gìn giữ Đức tin kiên trung vào Chúa, yêu mến Giáo Hội và sống Đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống và chứng từ của các anh hùng Tử đạo cần phải được kể lại cho mọi thế hệ người Công giáo Việt Nam. Cùng với lòng tự hào là tâm tình tri ân cảm mến và thiện chí noi gương các ngài để sống Đức tin.
Thời tử đạo dẫn đến máu chảy đầu rơi ngày nay không còn nữa, nhưng những ai muốn trung thành với Chúa thời nào cũng phải cân nhắc khôn ngoan để chọn lựa Chúa hay chọn lựa thế gian; chọn lựa hạnh phúc và niềm vui vĩnh cửu hay chọn lựa vinh quang nhất thời; chọn lựa đường đi trong ánh sáng hay cuộc sống trong bóng đêm. Môi trường nào cũng vậy, ta luôn phải chọn lựa. Hoàn cảnh nào cũng thế, ta phải sống khôn ngoan. Cuộc chọn lựa này nhiều khi làm chúng ta phải vượt lên những ràng buộc khắt khe và có khi phải vượt lên chính mình với trái tim rướm máu. Nếu những cuộc cấm cách tàn khốc đã lùi vào dĩ vãng thì người tín hữu hôm nay lại phải đối diện với những thử thách của thời hiện đại. Quả vậy, biết bao trào lưu và lối sống mượn chiêu bài tự do để đi ngược với giáo huấn của Tin Mừng, coi thường hoặc lãng quên những thực hành đạo đức, tôn vinh kỹ thuật một cách quá đáng và lãng quên Thiên Chúa là Cội nguồn mọi sự. Sáng suốt và khôn ngoan để trung thành với Chúa trong cuộc sống hôm nay, đó là một cuộc tử đạo trường kỳ, dai dẳng suốt cuộc đời.
Ơn gọi tử đạo gắn liền với những ai tin vào Chúa Giêsu và muốn làm môn đệ Người. Nếu chúng ta được sống trong một xã hội dân chủ, an bình, thì đó đây trên thế giới, vẫn còn những nhà truyền giáo bị hành hung và sát hại, vẫn có những ngôi thánh đường Công giáo bị tàn phá, vẫn còn những tín hữu không dám công khai tuyên xưng Đức tin, vẫn còn những người vì hai chữ Công giáo mà bị phân biệt đối xử. Đây cũng là những cuộc bách hại mang hình thức mới của thời đại và những tín hữu này đang sống từng ngày chứng tá của mình một cách anh hùng.
Kính thưa Cộng đoàn,
Ngày Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm tại Missouri đã trở thành điểm hẹn thân thương cho người Việt Nam đang sống tại Hoa Kỳ cũng như tại nhiều nước trên thế giới. Chúng ta về đây để gặp gỡ nhau, để chia sẻ những vui buồn và nâng đỡ nhau trong cuộc sống. Chính Đức Mẹ Maria đã quy tụ chúng ta nơi đây. Mẹ là điểm nối kết giữa những con Dân Việt đang sống xa quê. Về với Mẹ, chúng ta được Mẹ vỗ về ủi an. Về với Mẹ, chúng ta có dịp kể lể tâm sự với Mẹ những băn khoăn trăn trở của cuộc sống trần gian. Về với Mẹ, chúng ta cũng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Mẹ chiếu tỏa qua các nhân đức và sự trung thành can đảm của Mẹ. Trong Thánh lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhìn lên Mẹ và ca tụng Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo. Vâng, dưới chân thập giá, Mẹ đứng đó, trong suy niệm và thinh lặng, đau khổ kết hợp với của lễ của Con mình là Đức Giêsu chịu treo trên thập giá. Mẹ là Đấng Đồng Công cứu chuộc. Mẹ chia sẻ đau đớn và hiệp thông với Chúa Giêsu. Mẹ cũng dâng chính bản thân mình làm của lễ lên Chúa Cha. Mẹ xứng đáng được mang ngành thiên tuế của các vị Tử Đạo. Về bên Mẹ trong Ngày Thánh Mẫu này, chúng ta xin Mẹ cho chúng ta được lòng cậy trông, chí can đảm và lòng tín thác nơi Chúa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa, bài ca thắm nhuộm máu hồng. Nhìn Chúa đẫm máu trên đồi cao, từng đoàn người anh dũng tiến lên pháp trường. Một bài ca đẫm máu đào. Một bài ca hào hùng bất tận. Bài ca ấy, chính là cuộc đời của các thánh Tử đạo Việt Nam. Chúng ta, nhưng tín hữu Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đang là những người nối tiếp bài ca đã được các ngài xướng lên, để làm vang mãi lời ca tôn vinh Chúa, ca ngợi vẻ đẹp của Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam thân thương.
“Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng” - lời chúc thiêng liêng của vị Thánh Giáo Hoàng luôn luôn là một lời mời gọi và là một thông điệp được gửi đến cho mỗi người chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Xin Mẹ luôn gìn giữ che chở chúng con. Xin các Thánh Tử đạo Việt Nam cầu bầu cho chúng con. Amen.
Hôm nay tôi rất vui mừng được đến đây dâng đại lễ mừng các Thánh Tử Ðạo Việt Nam cùng với các linh mục tu sĩ và đông đảo cộng đoàn Dân Chúa tại Tổng Giáo Phận Sydney. Tôi thiết nghĩ rằng, không có Thánh Lễ nào trong phụng vụ hằng năm nói lên niềm tin của người Việt Nam Công Giáo cho bằng Thánh Lễ ngày hôm nay. Qủa thế, các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là biểu lộ những gì đặc thù nhất và tinh túy nhất của truyền thống đức tin Công Giáo của chúng ta. Hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì những gì Ngài đã thực hiện qua những con người yếu hèn; hôm nay chúng ta hãnh diện vì được tiếp nối truyền thống hào hùng và hôm nay chúng ta noi gương các ngài cùng quyết tâm trung thành với sứ mạng được trao phó.
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam của chúng ta cũng là bằng chứng hùng hồn của sức mạnh của Thiên Chúa qua sự yếu đuối của con người. Trải qua chiều dài nhiều thế kỷ, từ khi hạt giống đức tin được gieo vào lòng đất Việt, Giáo Hội đã trải qua bao gian nan thử thách. Nhưng gông cùm, bách bớ tù đầy và ngay cả sự chết đã không ngăn cản, không sờn lòng các vị tiền nhân anh dũng. Các Ngài đã không sợ những người chỉ làm hại thân xác mà không lay chuyển tâm hồn, như lời chúa phán trong bài Phúc Âm hôm nay. Các Ngài như vàng được thử trong lửa và như của lễ toàn thiêu được Chúa chấp nhận. Nơi các Ngài, tình yêu của Chúa Kitô đã chiến thắng tất cả những thế lực của sự dữ:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. không có gì tách đuợc chúng ta ra khỏi tình yêu củ#a Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Lòng anh dũng can trường của các Thánh Tử Ðạo Việt Nam đã và đang thôi thúc các thế hệ nối tiếp. Chúng ta có thể hãnh diện tuyên xưng không chỉ 117 vị đã được Giáo Hội hoàn vũ liệt kê vào danh sách chính thức. Thật thế, đã có hàng trăm ngàn các vị đã hy sinh mạng sống mình vì Phúc Âm và những hạt giống đức tin đó đang sinh hoa kết trái trong lòng đất Việt thân yêu, nơi các Ngài nằm xuống. Những trang sử oai hùng của chúng ta không chỉ được viết trong qúa khứ, khi bắt bớ, tù đày và gông cùm không làm cha ông chúng ta chùn bước.Trong tinh thần đức tin bất diệt, các thế hệ nối tiếp cũng đang viết lên một trang sử mới, trong muôn vàn thử thách đắng cay.
Trong suốt gần 70 năm dưới chế độ Cộng Sản, Giáo Hội Việt Nam đã không bị thuần phục và trở thành công cụ của một chế độ, bất chấp bạo lực mưu mô và sách lược của nhà cầm quyền vô thần. Hơn thế nữa, những biến cố gần đây tại Thái Hà, Toà khâm Sứ, Cồn Dầu, Con Cuông và nhiều nơi khác ở Việt Nam đã nói lên ý chí kiên cường cho công lý và trìều đại chính trực.
Trong một xã hội bị bóng đêm của độc tài, của bất công và của dối trá thống trị, ngọn lửa Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống được các bậc tiền nhân anh dũng và các thế hệ nối tiếp thắp lên và làm ánh sáng hy vọng, không chỉ cho nguời Công Giáo mà cho cả quê hương dân tộc.
Kính thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay cũng là ngày mà người Việt Nam Công Giáo ly hương xác tín lại sứ mạng của chúng ta trước gia tài thiêng liêng của các Thánh Tử Đạo. Tôi thâm tín rằng, sự kiện chúng ta hiện diện nơi đây cũng như trên khặp thế giới là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Mà sự an bài nhiệm mầu này không phải chỉ dành riêng cho chúng ta, mà còn cho cả giáo hội và cho quê hương chúng ta nữa. Như người dân Do Thái lưu đầy năm xưa, chúng ta được đến xứ lạ không phải để tha phương cầu thực mà để làm chứng nhân của tự do, sứ gỉa của tin mừng và là hạt nhân cho tiến trình công lý hóa và phục hưng cho quê hương và giáo hội quê mẹ.
Chúng ta cảm tạ Chúa là sau hơn 30 năm định cư, người Việt Công Giáo đã và đang có những đóng góp tích cực về mọi khía cạnh của giáo hội: về ơn gọi tu sĩ linh mục, về sinh hoạt đoàn thể, mục vụ giáo xứ và ngay cả về tài chánh. Nhưng chúng ta không thể dừng lại ở con số hay những tiêu chuẩn bề ngoài. Cách đây ít lâu tôi có đi kinh lý tại Brisbane vì những khó khăn cộng đòan trên đó gặp phải. Vì những vấn đề trong các cộng đòan tại Úc, tôi tự hỏi: Phải chăng chúng ta cần đề cao cảnh giác hơn về các khuynh hướng gây chia rẽ rạn nứt trong cộng đoàn? Phải chăng chúng ta cần sống đạo có chiều sâu hơn, nhất là sự tha thứ, bao dung, đại đồng? Phải chăng chúng ta cần áp dụng triệt để hơn tinh thần phục vụ trong khiêm tốn, quảng đại, hiến thân? Đây là những điều mà không phải giáo dân mà cả các anh em linh mục tu sĩ chúng tôi cần xét mình và hành động. Nếu chúng ta tự hào là con cháu của các Thánh Tử Đạo, chúng ta phải chứng tỏ bằng hoa trái của đời sống người tín hữu đích thực.
Hôm nay, mừng lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, chúng ta cùng cảm tạ Chúa vì gia tài đức tin cao qúi mà các Ngài đã để lại cho chúng ta. Xin Thiên Chúa qua sự bầu cử của các Ngài, giúp chúng ta làm chứng nhân sống động của đức tin và của các gía trị cao qúi mà chúng ta đã sẵn sàng trao đổi mạng sống trong hành trình tìm tự do năm xưa. Thời Cựu Ước, Người Do Thái lưu đày tại Babylon đã trở nên hạt nhân của công cuộc tái thiết đất nước của họ. Thời nay, người Việt ly hương chúng ta cũng không thể quên nguồn gốc và nhất là không thể vô cảm trước bao thống khổ của đồng bào trong nước. Chính tình yêu đối với Thiên Chúa và nhiệt tâm cho Vương Quốc của Ngài đòi hỏi thôi thúc chúng ta trong cuộc chiến cho công lý và sự thật, ánh sáng và sự sống – cuộc chiến mà chính Đức Kitô đã tranh đấu và khải hoàn qua sự chết và phục sinh của Ngài. Chúng ta cùng hiệp thông với giáo hội quê nhà và mọi người thiện tâm để hướng tới một tương lai tươi sáng, một hình ảnh của vương quốc Thiên Chúa trên đất Việt thân yêu.
Hôm nay cũng là ngày Lễ Vọng Chúa Kitô Vua, là ngày nhắc nhở chúng ta về Đấng là khởi điểm và là cùng đích của lịch sử. Mặc dù trong thế giới, trong xã hội, hay trong quê hương còn có qúa nhiều tàn dư của sự dữ, chúng ta tin tưởng vào sự tất thắng của vương quốc Thiên Chúa. Cùng Đức Kitô Đấng đã chế ngự tử thần và sự dữ, cùng với Mẹ Lavang, các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta hãy vững tiến về tương lai tươi sáng trong tin yêu hy vọng. Với các Ngài, chúng ta hát câu “người đi trong đau thương sẽ về giữa vui cười, người gieo trong lệ sầu sẽ gặt trong mùa xuân tươi”. Amen.
Hôm nay cùng với Giáo hội khắp nơi trên thế giới, giáo xứ chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam. Bổn mạng của Hội Thánh Việt Nam và cũng là lễ bổn mạng xứ đoàn Các Thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta.
Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, từ năm 1580 và kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, nghĩa là cách chúng ta một thế kỷ và kéo dài gần ba thế kỷ. Thời gian dài 300 năm bị bách hại đã có trên 130.000 người tử vì đạo. Trong đó, có 117 vị đã được tôn phong hiển thánh mà chúng ta cùng toàn thể Giáo hội hoàn vũ mừng kính hôm nay. Đoàn các thánh vinh hiển đó gồm mọi cấp bậc trong Giáo Hội: từ các Giám mục, linh mục đến các thầy giảng, nữ tu, giáo dân… Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội: từ những thương gia, nông dân, thợ thuyền, lý trưởng, cai tổng, binh lính..
Các thánh đã chịu những cực hình khủng khiếp mà chính quyền thời đó đã hành hạ và tiêu diệt những người tin theo Chúa bằng nhiều cách man rợ như:
– Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng. – Lăng trì: bị chặt chân tay trước khi bị chém đầu. – Thiêu sinh: bị thiêu sống. – Xử trảm: bị chém đầu. – Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. – Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Các con thương,
Các Thánh tử đạo Việt Nam là những chứng nhân anh dũng đã sống và làm chứng cho Tin mừng, để hạt giống Đức tin được nảy mầm và trổ sinh nhiều bông hạt. Giáo phụ Tertuliano đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống nẩy sinh các tín hữu”.
Lịch sử hai ngàn năm qua đã chứng minh sự chân thực của lời nói đó ở nhiều nơi, rõ ràng nhất là trên đất nước Việt Nam này; từ khi có số tín hữu khiêm tốn ban đầu, hiện nay đã lên tới 7 triệu người Công giáo.
Mảnh đất quê hương Mỹ Tho của chúng ta cũng tự hào vì đã được thấm gội dòng máu anh hùng của cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu. Cha đã anh dũng đổ máu đào để hôm nay chúng ta là con cháu cũng được đồng hành với Ngài trên hành trình về quê trời vĩnh cửu.
Các con thương mến!
Nhìn lại lịch sử cuộc bách đạo đã qua, vào năm 1860 dưới thời Tự Đức, nhà vua đã ban hành chiếu chỉ bắt bớ, giam cầm nhiều tín hữu Công giáo. Lúc bấy giờ, cha Phêrô Lựu đang coi sóc các giáo họ Ba Giồng, Mỹ Tho, Sa Đéc… Vì thương đoàn giáo dân, Ngài thường cải trang vào nhà giam thăm viếng, an ủi họ, ban cho họ lương thực Thánh thể và bình an của Chúa.
Một ngày kia, quan coi ngục phát hiện Ngài là linh mục và ra lệnh tống giam Cha. Tại nhà lao Mỹ Tho, Cha đã vui lòng chịu mọi cực hình để cùng chia sẻ với bổn đạo. Khi các quan buộc Cha xuất giáo, Ngài đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng câu nói nổi tiếng: “Đạo đã thấm nhập vào xương vào tủy của tôi rồi, tôi làm sao bỏ được, vả lại, một người giáo dân bình thường, một thầy giảng bình thường còn không có quyền bỏ đạo, huống gì tôi đây là linh mục…”.
Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn Cha ra khỏi thành phố Mỹ Tho khoảng chừng 1 cây số và chém đầu Cha ngay bên vệ đường, tại kinh Bảo Định ngày nay.
Là con dân đất Việt, chúng ta tự hào được mang trong mình dòng máu hào hùng của các chứng nhân niềm tin anh dũng này. Trong niềm tin của chúng ta hôm nay, có vết tích dòng máu thắm đỏ của các thánh tử đạo tưới gội và nuôi dưỡng.
Ước chi mỗi ngày sống, chúng con biết trở thành nhân chứng sống động về niềm tin ở mọi lúc mọi nơi: bằng chính những hành động tích cực, những tấm lòng nhân ái bao la và khát khao muốn phục vụ mọi người.
Các ngài là những mẫu gương sống động cho đời sống đức Tin, nhờ lời các thánh chuyển cầu, xin Chúa nâng đỡ con thuyền giáo hội Việt Nam vượt qua sóng gió, nhất là những khi gặp thử thách, gian truân.
Xin cho mọi thành phần trong xứ đoàn các Thánh tử đạo Việt Nam của giáo xứ chúng con luôn trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành, để một ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các Ngài ca tụng tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, Lạy Cha Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu! Xin cầu cho chúng con.
Thực hành:
1. Năng đọc lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam và hạnh các thánh tử đạo. 2. Cầu nguyện cho nhiều người biết giữ trọn niềm tin của mình.
Tâm niệm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau:
1. Giáo hội Việt Nam của chúng ta, ngoài 117 Thánh tử đạo còn có một Á thánh tên là gì? 2. Các thánh tử đạo đã để lại cho các con bài học nào? 3. Các con có nhớ tên 117 thánh tử đạo không? Hãy kể tiểu sử của một vị thánh tử đạo mà con biết?
"Tin đạo chứ không tin người có đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng "đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Ky-tô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Ky-tô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
Cách đây hơn 25 năm, tức Chúa nhật ngày 19/6/1988, Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nâng 117 vị chân phước lên hàng hiển thánh. Dịp khai mạc Năm Thánh 2010, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong sứ điệp của mình gửi các Giám mục Việt Nam, ngài viết: “Việc cử hành Năm Thánh trùng với ngày lễ kính 117 vị thánh Tử đạo hiển vinh của đất nước Đức Cha. Việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài sẽ giúp toàn thể dân Chúa tại Viêt Nam kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày.” (Trích Sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam dịp Năm Thánh 2010). Thư của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội, nguyên Chủ Tịch HĐGMVN gửi cộng đoàn Dân Chúa nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày tôn phong 117 Hiển Thánh Tử đạo Việt Nam có viết: “Đây là cơ hội giúp Dân Chúa Củng cố đức Tin qua đức Cậy nhờ đức Ái (số 1) ; Giúp cho Giáo hội Việt Nam sống chan hòa trong tình hiệp thông và hiệp nhất (số 2) ; Thúc đẩy chúng ta hăng say hơn trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (số 3) ; và là dịp để cháu con noi gương các Ngài để sống xứng đáng là những người con thảo của Cha trên Trời (số 4)”.
Những gợi ý sống trên làm chúng ta nhớ lại bài giảng của Chân phước Gioan Phaolô II, ngày 19/6/1988 như sau: “Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm thấy nhu cầu đứng chung quanh các vị Thánh, để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, mến thương...”.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sử liệu ghi lại sự đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. Ba trăm năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử Đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người vì tử đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: “Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”.
Hôm nay đây, chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các thánh tử đạo tại Việt nam, trong hân hoan vui sướng và hãnh diện. Chúng ta tôn vinh, tri ân các Ngài và cùng nhau hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng.”
Làm sao kể lại cho hết tất cả là 117 vị Tử Đạo, 1 vị á thánh, trong số đó có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ, Thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ sáu người con đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19/6/1988. Còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt nam mà chưa được tuyên phong, cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Các Ngài thuộc đủ mọi thành phần, tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. đã chết vì Đạo tại Việt Nam. Trong số đó, bao gồm cả một số những nhà truyền giáo “ngoại quốc” Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý... đã đến Việt nam truyền đạo và chết vì Đạo.
Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đaminh là người Việt Nam tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Cha thánh Anrê Trần An Dũng Lạc bị trảm quyết năm 1838. Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như: Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v. Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Bị xử lăng trì, phân thây ra từng mảnh hay là xử bá đao là những hình phạt man rợ và hiểm độc nhất. Tổng số 79 vị bị chặt đầu. 18 vị bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan: "Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài" ( Kn 3, 1 ). Quả quyết như trên có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử: thực ra đau khổ đã va chạm thân xác các Ngài, và va chạm ghê sợ như tùng xẻo, lăng trì, chặt đầu. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng: "Đối với mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thực ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các nài cũng không chết." ( Kn 3, 2 – 4 )
Đúng là: “Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời.” (Thánh Phêrô Truật) ; “Thân xác tôi ở trong tay quan... nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được” (Thánh Phaolô Tịnh)
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, các Ngài được nhiều ơn vĩ đại, vì Thiên Chúa đã luyện lọc các Ngài và thấy các Ngài xứng đáng, Chúa đã thử thách các Ngài như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận các Ngài như của lễ toàn thiêu. Trong Chúa Kitô các Ngài được Thiên Chúa cứu rỗi.
Chúng ta, dòng giống các vị Tử Đạo, dòng giống những người được kêu gọi. Ngày hôm nay, hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: Trong ngày phán xét, người công chính sẽ chói sáng và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau." (Kn 3, 7 ) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn Ngoan: "Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài đến muôn đời." (Kn 3, 17).
Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng con biết chân thành chọn lựa đi theo Chúa, trung thành làm
"Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên Trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng liêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ".
Qua ngày lễ Kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công Giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước Ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm ba mươi bảy linh mục, mười sáu thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em công giáo khắp năm châu Mừng Kính Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Amen.
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Ðạo Việt Nam vì 3 lý do: 24/11-129
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Ðạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người VN, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh VN. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội VN được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng qủa cảm.
Ðọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan AÙn Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Ðức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo VN. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài , có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ðể lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Ðó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Ðồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Ðồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người.
Ðứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Ðể trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúa Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
Càng nhìn lại biến cố phong thánh Việt nam, tâm tình ta càng dâng lên ngập tràn niềm tri ân cảm tạ.
Trước hết tạ ơn vì những ơn lành lớn lao Chúa ban. Nếu khi thưởng công các thánh Chúa thưởng công chính những ân huệ Chúa ban thì các thánh Việt nam chính là công trình của Chúa. Với người Việt nam thì công trình này quá lớn lao.
Lớn lao vì vượt quá sức loài người. Chúa đã ban cho các thánh ơn cao trọng vượt qua những tầm thường của con người. Thánh Hồ đình Hy dám bỏ cả công danh phú quí trong triều đình. Thánh Tôma Thiện dám bỏ tuổi xanh đầy tương lai hứa hẹn. Thánh nữ Lê thị Thành dám bỏ cả gia đình hạnh phúc. Thánh Ven dám bỏ quê hương xứ sở giầu sang xinh đẹp để đến nơi nghèo nàn khổ cực. Còn hơn nữa Chúa ban cho các ngài sức mạnh chịu được những cực hình ghê sợ. Thánh Marchand Du chịu xẻo 100 miếng thịt. Khi chết rồi còn bị thiêu xác ném tro xuống biển. Thánh Thọ và thánh Cỏn chịu đánh đòn tan nát rồi bị ném xuống hầm phân cho nước tiểu ngấm vào xót xa và phá hoại cơ thể. Thánh Đổng dám dùng sắt nung đỏ xóa chữ “Gia tô tả đạo” sửa lại thành “chính đạo” khắc trên má. Thánh nữ Lê thị Thành vẫn tươi cười khi chịu khổ hình. Bị đòn vọt đến tóe máu, thấm vào áo. Ngài nói với con rằng: Đây là mẹ mặc áo thêu hoa hồng đấy. Phải có ơn Chúa thật lớn lao mới có thể chịu những cực hình khủng khiếp mà vẫn vui tươi bình an như thế.
Lớn lao vì số lượng đông đảo các chứng nhân. Xưa nay trên đời anh hùng hiếm hoi như những vì sao băng. Thế mà tại Việt nam anh hùng tử đạo đông đảo như những đám mây che rợp cả bầu trời quê hương. Ước tính có đến hơn 100 ngàn vị tử đạo. Có những vị lừng danh tên tuổi. Có những vị vô danh như hàng trăm vị bị thiêu trong nhà thờ Bà Rịa. Hàng trăm người bị thiêu trong nhà thờ Tam Tòa. Bao nhiêu làng bị tàn sát. Thật lạ lùng. Cả một đoàn người anh hùng. Tại làng Bút Đông, quan bắt mọi người có đạo phải ra trình diện, mghĩ rằng họ sẽ sợ mà trốn hết. Không ngờ cả làng hơn 500 người ra tuyên xưng đức tin. Quả là những anh hùng vượt quá sức loài người. Quả là ơn Chúa ban dư tràn cho dân Chúa.
Lớn lao vì Giáo hội Việt nam được giống Giáo hội Mẹ. Khởi thủy, Giáo hội sơ khai bị đế quốc Rôma đã cấm cách bắt bớ trong 300 năm. Năm 313 hoàng đế Trajano mới ký sắc chỉ tha đạo. Tại Việt nam khi đạo mới truyền vào, các vua quan cũng đã bắt đạo suốt 3 thế kỷ 17, 18 và 19. Quả là một thời gian dài ngoài sức tưởng tượng. Nhưng nhờ đó ta được nên giống Giáo hội Mẹ. Thật vinh dự cho Việt nam. Thật lớn lao ân huệ của Chúa.
Tiếp đến tạ ơn vì các bậc tổ tiên khôn ngoan sáng suốt. Thời ấy các vị thừa sai chưa thông thạo tiếng Việt. Sao cha ông ta đã hiểu đạo mà tin đạo và theo đạo. Đó là ơn Chúa Thánh Thần. Như ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ nói tiếng Do thái, nhưng người các nước nghe đều hiểu. Các ngài chỉ được học giáo lý rất sơ sài. Cha Đắc lộ đã soạn quyển Phép giảng tám ngày. Sao chỉ học có 8 ngày mà các ngài có một đức tin vững mạnh như thế. Chắc chắn đó là ơn Chúa. Đạo được rao giảng trong thời kỳ cấm cách. Theo đạo đồng nghĩa với bị kết án tử hình. Thế mà sao các ngài vẫn hăng hái theo đạo và tuyên xưng đạo? Chắc chắn đó là ơn Chúa. Đúng là thời lễ Ngũ Tuần. Đúng là thời lễ Hiện Xuống. Đúng là ơn Chúa ban tràn lan đặc biệt cho dân tộc Việt nam.
Sau cùng tạ ơn vì hồng ân đức tin Chúa ban. Suy cho cùng ơn đức tin là ơn cao quí nhất. Ơn làm cho ta nhận biết Chúa. Ơn làm cho ta sống đạo vững mạnh. Ơn làm cho Giáo hội phát triển. Hãy nhìn lại lịch sử Giáo hội từ những ngày đầu. Thuở ban sơ ta không có gì hết. Không có nhà thờ. Không có nhà xứ. Không có tòa giám mục. Không có tài chính. Chỉ có sự ghen ghét của vua quan. Chỉ có sự bắt bớ. Chỉ có khổ hình. Thế mà sao đạo vẫn phát triển. Thưa vì ta có đức tin. Có đức tin là có tất cả. Ngày nay tại sao ta có đầy đủ phương tiện, con người, thời cơ thuận lợi, nhưng việc truyền giáo xem ra khựng lại. Tại sao? Vì ta thiếu đức tin. Có thể nói tất cả mọi khủng hoảng thời nay bắt nguồn từ khủng hoảng đức tin. Quả thật ơn đức tin là ơn cao quí Chúa ban cho dân tộc Việt nam.
Ta cùng tạ ơn Chúa vì trong ngày lễ Tuyên Thánh Tử Đạo Việt Nam, Giáo hội Việt nam được sống lại đức tin, tiếp tục cuộc tử đạo của các thánh. Khi được tin Tòa Thánh sẽ tuyên thánh Tử đạo Việt nam, cả một phong trào bắt bớ mới bùng lên trong đất nước Việt nam. Nhà Nước vận dụng mọi phương tiện tuyên truyền chống đối. Nào là hạch sách, o ép. Nào là kể tội, kể xấu các thánh. Nào là đe dọa sẽ có một cuộc trả thù, trừng trị đích đáng. Nhưng đức tin Giáo hội vẫn vững vàng dù phải chịu đau khổ. Xin kể hai trường hợp tiêu biểu. Trường hợp thứ nhất là Đức Cha Đaminh Nguyễn văn Lãng, Giám mục Xuân lộc. Khi thấy người ta nói những lời sai trái về các thánh tử đạo, về Giáo hội, Ngài không chịu được. Ngài bất ngờ qua đời đêm 22-02-1988. trong tay còn mở tờ báo Công giáo Dân tộc với bài viết chống việc phong thánh. Rõ ràng bài báo đọc đêm trước khiến ngài bức xúc, đau khổ rất nhiều trước khi chết. Trường hợp thứ hai là Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh văn Căn. Một lần, ông Mai chí Thọ, đứng đầu ngành công an triệu tập Hội đồng Giám mục để lên án việc phong thánh tử đạo. Ông nói nhiều lời xúc phạm đến các thánh. Từ hàng ghế đầu, Đức Hồng Y Căn đột ngột đứng dậy ra quì giữa hội trường và khóc lớn tiếng nói rằng: Các ông có thể nhục mạ chúng tôi, nhưng không được phép nhục mạ cha ông tổ tiên chúng tôi. Cả hội trường xôn xao. Rồi hội nghị bẽ bàng kết thúc không kèn không trống. Các ngài đã minh chứng một đức tin lớn lao. Đức tin đó khiến các ngài đồng cảm với Giáo hội. Đức tin đó khiến các ngài hiệp thông với khổ hình của các Thánh Tử Đạo, đến nỗi chịu nhục nhã vì các ngài. Và đau khổ đến chết vì các ngài. Chính nhờ thế việc Tuyên Thánh vẫn tiến hành. Chính nhờ thế Giáo hội Việt nam vẫn vững vàng phát triển qua những khó khăn thử thách.
Mừng 25 năm Tuyên Thánh Tử Đạo Việt Nam đúng vào năm Đức Tin, phải chăng Chúa muốn nhắc nhở ta biết ơn cao trọng nhất là ơn đức tin. Và điều quan trong nhất trong đời là thực hành đức tin. Và trong thời kỳ Tân Phúc âm hóa, ta càng phải sống đức tin. Tertuliano nói: Máu tử đạo là hạt giống sinh người tín hữu. Tôi xin nói cách khác. Đức tin chính là hạt giống sinh đức tin. Các thánh tử đạo là hạt giống đức tin gieo xuống, chịu mục nát đi, đã sinh hoa kết quả ban cho Giáo hội Việt nam mùa gặt đức tin dồi dào phong phú.
Trong tâm tình tạ ơn long trọng, ta hãy cùng vua Salômôn nài xin Thiên Chúa tiếp tục ở với chúng ta như đã ở với cha ông chúng ta. Ta hãy cùng thánh Phaolô tạ ơn vì Chúa không để ta thiếu một ân huệ nào. Và để đáp lại, ta hãy nghe lời Chúa dạy: “Hãy kể lại cho mọi người biết việc Chúa đã làm” cho dân tộc Việt Nam. Ta hãy loan truyền ơn lành của Chúa bằng chính đời sống đức tin trong thời đại mới. Đức tin bằng việc làm thật sự. Đức tin trong những hi sinh từ bỏ đau đớn vì không chiều theo những áp lực, dù ngọt ngào của thời đại hôm nay. Đức tin sẵn sàng chịu đau khổ, chịu thiệt thòi vì Chúa.
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa muôn đời. Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam xin cầu cho chúng con. Amen.
Đầu thế kỷ 16, các vị Thừa Sai đầu tiên đặt chân lên Đất Nước Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng cũng bắt đầu lan toả khắp nơi, và Giáo Hội được khai sinh từ đấy. Giáo Hội Việt Nam trải qua nhiều thế kỷ chìm ngập trong máu lửa đau thương thử thách đức tin. Từ năm 1630 – 1882: Bao giòng máu đã đổ ra để bảo vệ đức tin làm phát sinh Giáo Hội Việt Nam.
1/ Thời đại các Vua Chúa:
- Cuộc bắt bớ vào thời các Chúa: Trịnh Doanh, Trịnh Sâm.
- Cuộc bắt bớ vào thời các Vua: Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức.
- Suốt gần 300 năm với 130.000 kitô hữu chứng nhân hiên ngang hiến mạng sống mình trở nên hạt giống trổ sinh nhiều kitô hữu. Gương hy sinh qủa cảm của các ngài thật sáng ngời.
2/ Giáo Hội tuyên phong Chân Phước: Bốn đời Giáo Hoàng tuyên dương các ngài.
- Đức Lêô XII tôn phong 27.05.1900: 64 vị.
- Đức Piô X tôn phong ngày 20.05.1906: 8 vị.
- Đức Piô X tôn phong ngày 20.05.1906: 20 vị.
- Đức Piô XII tôn phong 29.04.1951: 25 vị -Đức Gioan Phaolô II tôn phong Chân phước 05.03.2000, đó là thầy giảng Anrê Phú Yên.
Tổng cộng 118 vị được tôn phong Chân Phước
3/ Giáo Hội tuyên phong Hiển Thánh:
- Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị lên bậc thánh vào ngày 19.06.1988:Trong đó có 8 Giám mục, 50 linh mục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh, 42 giáo dân.
II- Gương Thánh Tử Đạo Việt Nam:
1/ Can đảm chịu cực hình:
Các ngài đã chịu rất nhiều khổ hình:
- 71 vị trảm quyết ( chặt đầu )
- 16 vị xử giảo ( xiết cổ chết ),
- 8 vị chết rũ tù,
- 6 vị bị thiêu sống,
- 4 vị bị lăng trì ( chặt tay chân )
- 1 vị xử bá đao ( lóc 100 miếng thịt ),
- 1 vị bị đánh tử thương trong lúc đi đường.
2/ Sống mến Chúa yêu người.
Các ngài đã yêu mến Chúa thực thi đúng điều Chúa truyền dạy:
- “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ được cuộc sống đời sau“ ( Ga 12, 25 )
- “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập gía hằng ngày theo Ta” ( Lc 9, 23 )
- “Nếu được lời lãi cả thế gian mà phải thiệt và mất mạng sống mình thì ích gì ?“ ( Lc 9, 25 )
Các thánh Tử đạo việt Nam luôn hân hoan vui mừng đón nhận hồng ân tử đạo mà không hề căm thù oán giận, các ngài đã dùng cái chết của mình tỏ lòng trung nghĩa với Chúa, đồng thời loan báo cho hậu thế chúng ta: chỉ có một mình Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ và chỉ có Thiên Chúa yêu thương quan phòng mọi sự, để những ai tin vào Người thì được hạnh phúc đời đời.
Máu các thánh tử đạo Việt Nam là nguồn ân sủng cho chúng ta và nhờ đó chúng ta được thăng tiến không ngừng trong đức tin.
IV- Người kitô hữu Việt Nam luôn sống tâm tình biết ơn.
“Máu các Thánh Tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo”. Gương các Thánh tử Đạo Việt Nam, không chỉ là niềm hãnh diện của chúng ta, mà còn là công ơn cao cả của các tín hữu Việt Nam, mọi người phải có bổn phận biết ơn hiếu nghĩa với các ngài.
Chúng ta cảm phục các ngài đã vượt thắng những khó khăn gian khổ, chấp nhận từ bỏ mọi sự với lòng trung hiếu một lòng thờ phượng kính mến Chúa trên hết mọi sự.
Chúng ta cảm tạ tri ân các ngài đã nêu gương sáng cho chúng ta về đức tin, về tinh thần sống đạo và nhất là để lại cho chúng ta nguồn mạch ân sủng làm phát triển đức tin và mở rộng nước Chúa, làm tặng triển trong đức tin tinh thần truyên giáo và sống đạo của giáo dân Việt Nam.
Chúng ta cảm mến, ngưỡng mộ các ngài, để nhờ đó chúng ta kiên trì trong đức tin, vững bền trong đức Cậy bền đỗ trong đức mến ở mọi thời đại, mọi nơi trong mọi việc.
Mừng kính trong ngày lễ này khơi dậy cuộc đời anh hùng của các vị tử đạo đã được phong hiển thánh. Chúng ta kính nhớ ngày các ngài đã hiến thân vì đức tin. Hội đồng Giám Mục đã chọn các Thánh Tử Đạo việt Nam làm Bổn Mạng Giáo Hội Việt Nam, để nhờ các ngài bầu cử cùng Chúa cho đạo thánh mỗi ngày một phát triển trên quê hương xứ sở, và cho mọi tín hữu biết noi gương các ngài can đảm trung thành theo Chúa.
V- Ý nguyện:
Lạy Cha ! Giáo Hội Việt Nam chúng con Chúa ban có rất nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn sống can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên sống đức tin mãi đến cùng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
Ngày xưa, khi nhắc đến các Thánh tử đạo, nhất là các vị tử đạo Việt nam, chúng ta thường hình dung đến những cực hình ghê sợ mà người ta nghĩ ra để hành hạ các ngài. Các cực hình dã man ấy không những không làm lung lạc đức tin của các ngài, mà còn khiến các ngài càng mạnh mẽ hơn trong việc đón nhận và tuyên xưng đức tin. Ngày nay, những cái chết vì đức tin như vậy vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình thức tử đạo mới. Hằng năm trên thế giới vẫn có hàng ngàn người đang phải chịu khốn khổ, bị kỳ thị vì đức tin của mình. Nhiều người đã phải bỏ quê hương để đi tìm một chỗ nương thân an toàn, ví dụ như tại Irăc và Sirya trong năm vừa qua. Nhà nước IS đã tuyên bố bất cứ ai kêu tên Giêsu mà người khác nghe được thì bị xử bắn. Vì thế, trong năm qua, có đến hàng trăm Kitô hữu đã bị giết tại Sirya chỉ vì họ nhận mình là Kitô hữu. Cũng giống như thế, tại quốc gia Bắc Hàn, các Kitô hữu phải sống một cuộc sống hết sức khó khăn, bị o ép và khủng bố, có thể bị tù đày, bị giết chết bất cứ lúc nào. Tại quốc gia này, cuốn Kinh Thánh trở thành cuốn sách bị cấm. Ai đọc hoặc giữ cuốn Kinh Thánh trong người, có thể bị tử hình.
Tại Việt Nam, kể từ những ngày đầu tiên khi Tin Mừng được gieo vãi trên quê hương đất nước cho đến nay, người Kitô hữu dường như liên tục bị bách hại về niềm tin của mình. Tổ tiên của chúng ta, các vị tử đạo Việt Nam, đã đón nhận đức tin trong hoàn cảnh hết sức khó khăn như thế. Các ngài đã phải chọn lựa và quyết định cho mình một niềm tin, một nếp sống khác với những người đồng hương lúc đó. Trong khi những người khác hoàn toàn sống theo tâm tình tôn giáo dân gian, sống một cuộc sống thoải mái dễ dãi, thì tổ tiên chúng ta đã chấp nhận đi vào con đường của Tin Mừng. Các ngài đi theo con đường hẹp, chấp nhận tuân theo giới răn lề luật của Thiên Chúa, từ chối các thần linh của dân ngoại. Các ngài mặc dù có chọn lựa riêng cho mình, sống giới răn riêng của Tin Mừng, nhưng các Ngài không sống tách biệt khỏi các người đồng hương, trái lại, các ngài đã sống đến cùng giới răn yêu thương, bác ái đối với những người khác. Có những thời kỳ chính quyền đã coi các tín hữu như công dân hạng hai, họ khắc trên mặt người Công giáo chữ “tả đạo” để dễ dàng phân biệt đối xử. Cha ông của chúng ta vẫn không hề thù oán, không phản kháng, không báo thù, các ngài vẫn tận tình sống tình yêu thương chan hoà với hết mọi người, khiến những người dân ngoại đã gọi họ là “những người theo đạo yêu nhau”.
Các vị tử đạo đã sống đúng như lời sách Khôn Ngoan đã nói: Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa, không một cực hình nào có thể động tới được các ngài…Trước mắt người đời, chúng tưởng như các ngài đã chết, nhưng thực ra các ngài vẫn đang sống… Người đời nghĩ rằng các ngài bị trừng phạt, nhưng các ngài vẫn chứa chan hy vọng. Ba trăm năm đầu tiên là quãng thời gian hết sức khó khăn đối với các tín hữu, thế nhưng, dường như những cơn đàn áp càng khốc liệt, thì Tin Mừng lại càng được loan truyền và con số những người tin theo Chúa lại càng gia tăng. Các ngài bị hành hạ nhưng các ngài vẫn hy vọng vào phần thưởng Nước Trời mà Thiên Chúa đã hứa.
Bước sang thế kỷ 20 – 21, tình hình bắt bớ, giết hại những tín hữu có phần lắng xuống, nhưng không phải đã được tự do hoàn toàn. Người Kitô hữu Việt Nam lại trải qua một hình thức tử đạo khác. Họ vẫn phải cố gắng sống và thể hiện niềm tin của mình trong một môi trường xã hội mới. Nhiều nơi, các tín hữu vẫn bị o ép giới hạn cách này cách khác. Nhiều người đã bị tù tội chỉ vì mang danh là người Kitô hữu, vì nhiệt tâm phục vụ. Nhiều tín hữu đã chết trong tù hoặc nơi rừng sâu nước độc, chỉ vì muốn sống đến cùng đòi hỏi của Tin Mừng. Bên cạnh những người mạnh dạn tuyên xưng đức tin và hết mình bảo vệ quyền được sống và thể hiện đức tin của mình, thì cũng có những người đã chấp nhận thỏa hiệp với cơn bách hại của quyền lợi và danh vọng. Trong số đó, không thiếu những người vì quyền lợi, địa vị xã hội, sẵn sàng che giấu đức tin của mình, không dám nhận mình là người có đạo. Những người này còn muốn thể hiện ra bên ngoài như thể là mình chưa từng biết Chúa Giêsu. Họ công khai từ chối Chúa Giêsu và Tin Mừng, từ chối nếp sống của người tín hữu ; họ xấu hổ vì Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài.
Bước vào thời kỳ văn minh hiện đại hôm nay, ở một số nơi, các tín hữu Kitô vẫn đang bị bách hại bởi các nhóm khủng bố, các nhà cầm quyền; còn người Kitô hữu Việt Nam lại phải đương đầu với cơn bách hại khác. Cuộc bách hại này có lẽ không đến từ những áp lực bên ngoài, nhưng là một cuộc chiến liên tục bên trong mỗi người để chọn cho mình một cách sống. Ngày xưa, cha ông chúng ta đã chấp nhận cái chết đổ máu để giữ đạo; ngày nay, chúng ta cũng đang phải từng ngày rỉ máu vì chọn lựa sống đạo. Chúng ta chọn để sống theo Đức Kitô, có nghĩa là chọn sống giống như Ngài, sống nghèo khó và quảng đại phục vụ, sống yêu thương và tha thứ.
Ngày nay, trong khi con người đề cao tự do một cách thái quá thì người Kitô hữu lại chấp nhận khép mình vào trong khuôn thước của Tin Mừng. Chúng ta được mời gọi sống sự tự do của con cái Chúa, tức là thoát khỏi sự ràng buộc của vật chất, dục vọng để vươn lên sống đúng với tư cách là con Thiên Chúa, những người đã được cứu chuộc. Xã hội ngày nay tìm mọi cách để thoả mãn mọi nhu cầu của con người, thì người tín hữu lại chấp nhận một cuộc sống tiết chế, làm chủ bản thân, bắt mình phải quy hướng về Thiên Chúa và thần phục Ngài.
Giàu có, sung túc đang là mục tiêu của nhiều người, nó cũng biến con người trở nên tàn ác với nhau để giành được mục tiêu đó. Người Kitô hữu không thể đứng bên ngoài dòng chảy này. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi không thể để mình sống và đối xử với nhau theo bản năng của con thú, nhưng đối xử bằng tình bác ái và tình yêu thương. Con người khi đã đạt được sự giàu có thì dễ dẫn đến cuộc sống phô trương hưởng thụ, còn người tín hữu được mời gọi sống siêu thoát, tức là sống tinh thần nghèo khó khiêm nhường, phó thác cuộc đời, công viêc, tài sản cho Chúa và sử dụng của cải theo ý Chúa. Cuộc sống khi giàu có dễ biến căn nhà của chúng ta trở thành kín cổng cao tường, làm cho con người trở nên to bụng nhưng tay chân ngắn lại, trở nên khép kín và lạnh lùng đối với nhau. Người Kitô hữu được mời gọi mở rộng cửa nhà và mở rộng đôi tay để có thể bước đến với anh em, để chia sẻ và phục vụ họ.
Cuộc tử đạo của chúng ta hôm nay là liên tục sống tình yêu thương và tha thứ. Có lẽ vì vậy mà Giáo hội đang hoàn thiện hồ sơ để tôn phong Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fancis Nguyễn Văn Thuận, lên bậc Chân phước Tử đạo cho dù Ngài không trực tiếp chết vì đạo. Giáo hội đã nhìn thấy gương sống yêu thương và tha thứ của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận như cuộc tử đạo liên tục. Trong thánh lễ an táng ngài, Đức Thánh Giáo Hoàng JP II và cả giáo triều lúc đó đã mặc phẩm phục màu đỏ thay cho màu tím truyền thống. Trong quan tài của Đức Hồng Y, người ta đã đặt vào đó một tấm bia bằng đồng ghi tóm tắt lịch sử cuộc đời của ngài. Việc làm này cho thấy sự kính trọng mà giáo triều đã dành cho ngài như truyền thống Giáo hội vẫn làm cho các vị tử đạo.
Đức hồng Y Fancis đã tử đạo bằng đời sống yêu thương và tha thứ cho những kẻ bách hại ngài. Sau hàng chục năm tù tội bất công, bị biệt giam như một con chó, vậy mà không bao giờ ngài kêu than oán trách. Trái lại, ngài luôn cầu nguyện cho những kẻ giam giữ mình. Trong các tác phẩm để lại, cũng như các cuộc nói chuyện, ngài kể về những năm tháng tù đầy như là những năm tháng ngài được tĩnh tâm, được sống thân mật với Chúa và làm việc mục vụ bằng lời cầu nguyện. Ngài tuyệt đối không dùng một lời lẽ cay cú hay thù oán, nhưng thay vào đó là một tâm hồn bình an, thanh thản đón nhận ý Chúa.
Chúng ta đang sống trong thời hiện đại, chúng ta cũng sẽ phải trải qua những cuộc tử đạo hiện đại và trở thành những vị tử đạo hiện đại. Chúng ta sẽ không chết vì gươm giáo hoặc đạn bắn, nhưng chúng ta sẽ phải chấp nhận chết, chấp nhận thiệt thòi vì Tin Mừng, vì sống đến cùng của lời mời gọi của Chúa: Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Ta… Ai liều mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Chúng ta cũng sẽ phải hết mình để chu toàn vuông tròn giới răn lề luật của Chúa và Hội Thánh, không thoả hiệp cũng không giảm thiểu.
Chúng ta sẽ phải tử đạo bằng đổ mồ hôi và nước mắt trong gia đình để bảo vệ sự vĩnh viễn của hôn nhân và để xây dựng một gia đình Công Giáo đúng nghĩa. Trước sự tấn công của các trào lưu xã hội trên các gia đình, chúng ta sẽ phải là những chiến sĩ chấp nhận hy sinh, không ngại thương tích để bảo vệ hạnh phúc và phẩm giá cao quý của đời sống hôn nhân và gia đình. Trước sức ép của cuộc sống vật chất, chúng ta vừa phải lao vào cuộc sống để tìm kiếm cơm ăn áo mặc cho con cái, nhưng cũng phải chấp nhận rướm máu vì giữ giới luật công bằng, yêu thương và bác ái.
Các bạn trẻ cũng phải tử đạo liên tục để sống đúng với ơn gọi là một người trẻ Công Giáo trong xã hội biến chuyển này. Chúng ta sẽ phải đổ máu để bảo vệ sự tinh tuyền của linh hồn và thân xác khỏi cơn bão của hưởng thụ ích kỷ, phim ảnh sách báo và lối sống buông theo dục vọng. Chúng ta vẫn phải sống, phải bước đi với mọi người trong xã hội, nhưng vẫn phải chiến đấu để khỏi đánh mất mình và mục đích cuộc đời trong dòng chảy của xã hội hôm nay.
Như thế, cuộc tử đạo ngày nay xem ra không kém phần khốc liệt như cuộc tử đạo ngày xưa của các vị tiền nhân. Xin Chúa qua sự bầu cử của Đức Maria và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, giúp chúng ta là con cháu của các ngài, biết sống khí tiết anh hùng của các Tiền Nhân, dám sống cho tới cùng lý tưởng của Tin Mừng trong thời đại hôm nay. Amen.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?
Trước hết các ngài là những đấng đã làm chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách. Biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã chết dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa, trong đó 117 vị đã được tông phong lên hàng chân phước. Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành cho Chúa một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin một sự ưu tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng thà phản bội Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài không làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích chi.
Cùng với việc làm chứng niềm tin các ngài còn là những người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn là tình thương đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự gắn bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn hữu. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực mạnh mẽ, còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối với anh em, đặc biệt là những người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm. Với các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người đã làm cho mình phải đau khổ và chết chóc.
Sau cùng các thánh tử đạo Việt Nam là những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta.
Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và chịu chết.
Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.
Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35).
Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa"; ai không sống theo luật yêu thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Nói cụ thể:
Trong đời sống chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá người khác... là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung quanh... là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.
Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu thương của Chúa.
Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.
Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)
Thoạt nhìn, sự chết là một thực tại cay đắng của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự tính khôn ngoan của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi tiếng kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào nhoáng của thế gian, để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để nhận ra và sống tình yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự sống thực sự và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sự chết cho chúng ta thấy tình yêu Chúa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16)
Vâng, ai cũng kính phục một người sẵn lòng chết vì yêu, dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã dành cho chúng ta: Trên cây thập tự, Chúa nâng chúng ta lên cao khi gọi chúng ta là bạn hữu, và yêu thương chịu chết cho tội của chúng ta.
Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24).
Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên tất cả và không bao giờ bị mất.
Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến một giá trị không tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc đời khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc tự” hai bên má, một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu bị giam trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt ngày đêm, không cho ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở ngoài được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ dưới nền đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có một ông bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới tìm chạy được 30 quan tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định không chịu vì coi đó là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì Chúa.
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải rút đi. Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các tín hữu.
Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính canh ở ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho họ chạy, một cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.
Họ đã chết, nhưng chết trong niềm vui, chết trong hy vọng.
Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ là những gì không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở hoa niềm vui và hy vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-mình của Chúa dẫn đường và thúc đẩy: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương” (Tv 63,4)
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19.6.1988 tại Rôma, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại.
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo… Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!
Đọc lại hạnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi nhận thấy, các ngài can đảm phi thường, vì yêu mến Chúa Kitô nên coi nhẹ mọi cực hình đau đớn, một lòng trung thành giữ vững đức tin. Dòng máu tử đạo ấy đã trở thành những hạt giống Tin mừng, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam những mùa gặt bội thu.
1. Trung thành với đức tin
Đối với các Thánh Tử Đạo, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Các ngài đã trung thành giữ vững đức tin trước mọi thử thách gian lao. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Xin kể ra đây một vài chứng từ về lòng trung thành (x.Thiên Hùng Sử).
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 đứa con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng”. Lời sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giàu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng vẫn luôn bình tĩnh vui tươi. Ngài nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt ngài bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
2. Can đảm phi thường
Vì đức tin, các ngài đã phải chịu đủ mọi thứ cực hình dã man. Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
- Lòng lang dạ sói của con người nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác, thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích”.
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
- Sáng ngày 5.6.1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ngài cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ngài.
- Sau ba tháng tù tại Bình Định, ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
3. Coi thường sự đau đớn
Là con người, ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ai mà không tham sống sợ chết! Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt những khổ hình dã man. Lòng yêu mến Chúa đã giúp các ngài vượt thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình. Vì thế các ngài xem nhẹ khổ hình, vui mừng và hãnh diện vì được chết cho đức tin.
- Trước khi bị chém, Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay: “Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời”.
- Năm vị: Đaminh Nhi, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, còn bốn vị đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
- Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao: “Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”.
- Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835. Sáng hôm đó, ngài gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc mẹ mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết”. Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ của Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ bị xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù, con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con”. Khi được con cho biết là không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”. Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, bà nhận lấy kỷ vật đó và chưa cho là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con trai cho bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:“Ôi con trai yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”. Rồi bà đem về an táng trong nhà.
Các Thánh Tử Đạo coi thường đau đớn với lòng can đảm lạ lùng là vì các ngài trung thành với đức tin. Do đó, các ngài vui mừng được chết vì Chúa Kitô. Các ngài đã chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang vì đã đáng được chịu đau khổ cho Chúa Kitô. Các ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy chương, huân chương, chiến công. Các ngài chết tử đạo là chết vì Chúa Kitô, đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu (x.Thiên Hùng Sử, trang 4). Chết vì Chúa Kitô là niềm hạnh phúc “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; x.Lc 6,22). Chính trong ánh sáng của Chúa Kitô, Vị Tử Đạo tiên khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc âm: “Đầy tớ không lớn hơn chủ” (Ga 15,20); “Nếu chúng đã bách hại Thầy, chúng sẽ bách hại các con… Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng… Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các con đừng lo phải nói thế nào, vì không phải các con, nhưng Thánh Linh của Thầy sẽ nói trong các con… Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10,16-25). Các Thánh Tử Đạo không tìm đến cái chết mà chỉ trung thành với đức tin cho dù phải chịu muôn vàn gian truân đau đớn. Các ngài tìm cách nên giống đời sống của Thầy Giêsu, nhất là giống cử chỉ yêu thương tột cùng đã đưa Thầy đến cái chết.
Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng muôn ngàn vạn nét. Nét căn bản nhất chính là Niềm Tin Phục Sinh. Tin vào Chúa Kitô đã chết và đã sống lại nên các ngài đã chấp nhận tất cả mọi cực hình, vượt thắng mọi truân chuyên. Yêu mến Chúa Kitô và bước theo Người nên các ngài luôn sống niềm tín thác, lạc quan. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát thánh ca, thánh vịnh. Ra pháp trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Alleluia, luôn hướng về trời cao với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát mãi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin của những con người xác tín rằng: chết vì Đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh cửu; chết là cánh cửa im lìm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.
4. Kế thừa dòng máu hào hùng để tiếp nối sứ vụ loan Tin mừng
Hạt giống Tin Mừng Đức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.
Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Đạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.
Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái… khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó, những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.
Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người Kitô hữu sống giữa lòng đời và chia sẽ đời sống của anh chị em chung quanh mình. Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng. (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. (x. Ga 15,13).
Các Thánh Tử Đạo là những chứng nhân can trường dám chết cho niềm tin, sống cho tình yêu, và loan báo chân lý Tin Mừng. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin.
Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Làm chứng chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”… như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng. Sống đạo như thế, chúng ta góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã can đảm phi thường làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
Tử đạo, là từ ngữ dịch của chữ martuV, marturew (martus, martureô), có nghĩa là chứng nhân, làm chứng. Các vị tử đạo là những chứng nhân, những người đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho điều mình tin, điều mình biết và nói. Trong cuộc sống, người ta có thể chỉ trời chỉ đất để thề điều người ta nói là sự thật; nhưng lời chứng đáng tin nhất là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống của mình làm bảo đảm.
I. Hiện hữu một Thiên Chúa tình yêu
Các vị tử đạo làm chứng cho điều gì? Các vị tử đạo Việt Nam là những người bị buộc phải bỏ đạo nếu không họ sẽ bị tra tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo không có cùng niềm tin với các ngài; những người này không biết như các ngài đã biết. Không chắc rằng những người có quyền thế này không tin có một Đấng tối cao vượt trên tất cả mà tất cả mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những người có quyền thế này hiểu lầm, cho rằng các ngài là những người không tốt, cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc một tổ chức gây phương hại đến sự tồn vong của đất nước.
Khi trung thành với chính mình, trung thành với đức tin, trung thành với Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ, các vị tử đạo cho tất cả mọi người, kể cả những người bắt bớ các ngài thấy rằng, có một điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một thực tại nào đó mà các ngài sẵn sàng chết vì thực tại đó, có một Đấng nào đó mà các ngài đã cảm nghiệm, đã biết một cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì nếu không như vậy thì tại sao các ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình, bỏ tất cả kể cả những người thân yêu vì Đấng đó!
Đành rằng có nhiều người chết vì ý thức hệ, nhưng những người chết vì đạo là những người chết cho tình yêu, không thù hận những người giết hại mình, ngược lại, các ngài là những kẻ cầu nguyện và muốn điều tốt lành cho mọi người, ngay cả những kẻ hãm hại mình. Chính tương quan với Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có cách cư xử khác với những người chết vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các vị tử đạo làm chứng hiện hữu một Đấng Thiên Chúa yêu thương, và các ngài sẵn sàng đánh đổi tất cả để được chia sẻ sự sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi các ngài bước lên, chấp nhận tất cả vì tình yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa tình yêu.
II. Niềm vui và bình an của các chứng nhân anh dũng
Các chứng nhân đã dám hy sinh chính mạng sống để sống trung thực với chính mình, và qua đó cho con người của mọi thời đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và đặc biệt, đã làm các ngài dám hiến chính mạng sống mình. Đã là người, ai không sợ đau đớn và gian khổ, ai không sợ chết, ai không muốn được sống gần những người thân yêu của mình, nhưng các ngài đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó, các ngài đã chấp nhận bị hành hạ và ngay cả cái chết. Nơi các ngài, người ta còn nhận ra có một sự an bình nào đó mà những người ghét các ngài không thể làm mất được.
Đứng trước các ngài, những người quyền thế hành hạ các ngài vẫn như là những kẻ thua cuộc. Trước một phụ nữ chân yếu tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan quyền với những tra tấn vẫn không thể thắng được bà. Qua bà, người ta nhận thấy một sức mạnh siêu vời tiềm ẩn mà thế gian không thể thắng được. Người ta có thể lấy mạng sống của bà, nhưng người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết chết lại là những người bất khả bại. Dưới một khía cạnh nào đó, tra tấn hành hạ và ngay cả giết người, là dấu chỉ bất lực của sự dữ và những người theo sự dữ.
Giữa những đau đớn của thân xác mà con người không thể tránh được, người ta vẫn nhận ra nơi các chứng nhân tử đạo một niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình. Ngay lúc chết, các chứng nhân mục kích tường thuật, các ngài vẫn luôn kêu tên Yêsu, điều này cho thấy tình yêu của các ngài đối với một Đấng đặc biệt, Đấng mà vì Ngài mà các chứng nhân tử đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng mất tất cả vì Ngài. Niềm vui, bình an và khao khát siêu nhiên đã làm các ngài chiến thắng tất cả. Ngay cả giữa những đau khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy có niềm tin niềm vui và hy vọng tràn ngập lòng các ngài.
III. Cuộc chiến vẫn tồn tại mỗi ngày nơi mỗi người
Ngày nay không còn nhiều những cơ hội thách đố tín hữu phải chết vì đức tin, nhưng con người của mọi thời đại đều phải đối diện với những cám dỗ hướng về những thực tại trần thế, khuynh chiều chỉ muốn sống riêng cho mình bằng cách thỏa mãn quyền lợi và ham muốn thể xác. Con người phải chọn lựa sống tốt lành hay vi phạm quyền lợi và nhân phẩm của người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa mãn xu hướng ích kỷ của mình.
Ngày nay, thân xác và những khuynh chiều của thân xác vẫn luôn hiện diện với con người: bao nhiêu người đã chọn vật chất trần gian như tiền bạc danh vọng, bao nhiêu người đã chọn đề cao chính mình và những quyền lợi của họ cho dù chà đạp nhân phẩm. Ngày nay, con người vẫn được mời gọi để vươn lên từng ngày: con người được mời gọi tôn trọng phẩm giá của tha nhân cũng như của chính mình; con người được mời gọi tôn trọng quyền lợi của tha nhân được diễn tả qua việc tôn trọng công bình; con người được mời gọi sống ơn gọi làm người, ơn gọi yêu thương tha nhân như chính mình, và hơn nữa, yêu thương tha nhân như chính Đức Yêsu đã yêu thương.
Vượt qua chính mình với những khuynh chiều của thể xác, là một hành vi cao thượng. Con người phải chết mỗi ngày cho những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như vậy, con người cũng trở thành chứng nhân “tử đạo”: làm chứng có một đời sống mai hậu, hiện hữu một Tuyệt Đối đằng sau những thực tại hữu hình mau qua này. Con người được mời gọi làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng những hành vi yêu thương tha nhân đồng loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay được mời gọi sống sao cho xứng với các bậc cha anh, những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tự hào vì là người Việt Nam không? Tại sao có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh tại ngoại quốc có mặc cảm tự ti vì là người Việt Nam. Chỉ có một số thôi, không phải tất cả!).
2. Bạn có tự hào về các bậc cha anh tử đạo không? Bạn tự hào vì điểm gì?
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, những người anh hùng 24/11-138
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, những người anh hùng trong trái tim của mỗi tín hữu đất Việt.
Đây là một dịp để chúng ta cùng ôn lại truyền thống hào hùng của Giáo hội Việt Nam, và cũng là một cơ hội để chúng ta làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của các ngài. Có lẽ, chúng ta không bao giờ kín múc hết nguồn suối ân huệ mà các thánh tử đạo Việt nam để lại. Qua đời sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam lãnh nhận được một kho tàng vô giá.
Trước hết, đời sống và cái chết của các vị tử đạo là một lời chứng hùng hồn nhất cho đức tin của chúng ta. Trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội bị ảnh hưởng nặng nề bởi trào lưu tục hoá và chủ nghĩa vô thần, niềm tin của chúng ta không ngừng bị đặt lại, chúng ta phải minh chứng cho niềm tin của mình. Trong kho tàng của Giáo hội, chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho niềm tin của mình. Tuy nhiên, ngang qua đời sống và cái chết của các vị tử đạo, chúng ta có một lời chứng không thể hùng hồn hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử đạo, các ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng sống vốn là điều quý giá nhất của con người, vậy tại sao các vị lại chấp nhận từ bỏ nó? Ắt hẳn các vị ấy đã khám phá ra một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng để các vị dám từ bỏ chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn nữa, các ngài đã đón nhận cái chết trong tự do, vui tươi và bình an. Các vị tử đạo của chúng ta có tự do để chọn lựa. Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các ngài có thể chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử đạo tự bản chất có nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo đón nhận cái chết vì Đức Giê-su, đức tin của chúng ta được minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp chúng ta vững tin trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch nhất cho mọi chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.
Các Thánh tử đạo không chỉ làm chứng về đức tin, mà còn để lại cho chúng ta một mẫu gương sống động về đời sống đạo. Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu thương, yêu thương Thiên Chúa và yêu thương con người. Vì yêu thương Thiên Chúa nên các ngài đã chọn cái chết trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn. Các ngài không chỉ yêu thương những người thân yêu trong gia đình và bạn hữu mà còn yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh nhận cái chết vì các ngài hoàn toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực chính trị, trước đau khổ và thậm chí là cái chết. Vâng, các ngài đã trở nên tự do hoàn toàn để đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân phúc, nhưng để đón nhận ân phúc này, đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với mọi ràng buộc của thế gian. Tự do chính là yếu tố giúp các vị sống yêu thương, tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người.
Như hạt giống gieo vào lòng đất, chết đi và trổ sinh hoa trái, các vị anh hùng tử đạo đã chấp nhật chết đi, máu các ngài đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ sinh hoa trái. Hoa trái phát sinh từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn không chỉ dừng lại ở chính các vị mà còn được lan toả tới chúng ta là con cháu các ngài. Là những hậu duệ chúng ta chắn chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để lại. Nhờ máu các anh hùng tử đạo, Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dẫu phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo truyền thống đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được truyền thống đạo đức của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người, vẫn còn nhiều người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội Việt Nam đang được một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh niên nam nữ muốn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa. Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh hùng tử đạo đổ ra cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài, chính nhờ sự quảng đại của các ngài, chúng đã được lãnh nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm nay.
Chúa Giêsu tiếp tục hiến tế cho đến ngày tận thế để đền tội cho muôn người.
Cách đây hơn 2.000 năm, Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau thương trên thập giá để đền tội cho nhân loại.
Thế nhưng, trong những thế kỷ về sau và đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội lỗi nhân loại tiếp tục gia tăng khắp nơi trên thế giới với mức độ ngày càng khủng khiếp nên sẽ mang lại những hậu quả đau thương và cái chết đời đời cho vô vàn người gây ra tội lỗi.
Thiên Chúa không nỡ để cho bao người phải hư mất đời đời vì tội lỗi họ gây ra, nên Chúa Giêsu vẫn còn phải tiếp tục chịu khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế gian.
Như thế, cuộc khổ nạn hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu không chấm dứt sau khi Ngài tắt thở trên thập giá vào chiều thứ sáu trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm, mà còn được tiếp tục kéo dài cho đến tận thế để cứu độ muôn người qua suốt dòng lịch sử. Giáo lý công giáo số 1323 khẳng định điều nầy: “Hy Tế Thập Giá (của Chúa Giêsu) kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến.”
Chúa Giêsu mời các thánh tử đạo tham dự vào hiến tế của Ngài.
Chính vì công cuộc khổ nạn và hy tế của Chúa Giêsu cần phải được tiếp tục cho đến tận thế để đền tội cho nhiều người tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên Chúa Giêsu kêu gọi các tín hữu là những chi thể trong Thân Mình Ngài cùng vác thập giá, cùng chịu khổ nạn với Ngài. Ngài từng lên tiếng mời gọi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24)
Thế là hàng hàng lớp lớp ki-tô hữu chấp nhận đổ máu và hiến tế đời mình cùng với Chúa Giêsu, khởi đầu là máu của các hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh Gia-cô-bê tông đồ và của phó tế Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên khởi, của các tín hữu tại đế quốc Rô-ma trong suốt 250 năm bách hại dưới triều các hoàng đế Rô-ma cho đến máu của các thánh tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia, nhiều dân nước trên khắp thế giới trong suốt hơn 2.000 năm qua.
Trên quê hương Việt Nam, nếu tính từ năm 1644 là thời điểm Thầy An-rê Phú Yên bị trảm quyết cho đến khi vua Tự Đức băng hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải trải qua cơn bách hại ngót 240 năm. Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên ngang đáp lời mời gọi của Chúa cứu thế, chấp nhận vác thập giá và hiến tế đời mình với Chúa Giêsu, khốc liệt nhất là trong khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) và đảng Văn Thân (1885-1886) để hồng ân cứu độ được tuôn ban dồi dào cho dân tộc Việt Nam chúng ta.
Chúa Giêsu mời chúng ta tham dự vào hiến tế của Ngài.
Từ ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các tín hữu được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu (giáo lý công giáo số 1267) và được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của Ngài (sđd số 1268). Vì là “Thân Thể của Chúa Giêsu, chúng ta phải tham dự vào hiến tế của Chúa Giêsu là Đầu của toàn thân.” (sđd số 1368)
Thế nên mỗi ki-tô hữu, không trừ ai, đều có trách nhiệm và sứ mạng cao cả là tham dự vào hiến tế của Chúa Ki-tô là Đầu của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc tổ tiên của chúng ta.
Hôm nay, chúng ta không còn phải gánh chịu những cực hình, những đau thương và mất mát lớn lao như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được mời gọi tham dự vào hy tế thập giá của Chúa Giêsu bằng cách chấp nhận vác thập giá với Chúa Giêsu qua những việc bổn phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc… để phục vụ những anh chị em chung quanh đang cần đến bàn tay, con tim và khối óc của chúng ta.
Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con cháu của các anh hùng tử đạo Việt Nam.
Có như thế, chúng ta mới thật sự là chi thể trong Thân Mình Chúa Ki-tô là Đấng tiếp tục hiến tế đời mình cho đến ngày tận thế để đền tội muôn dân.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tự hào về Đức Tin kiên cường của Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất nước của các Thánh Tử Đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng ta cần noi gương các Ngài: Sống Đức Tin là Tử Đạo hằng ngày.
Nếu cha ông ta đã sống trong một thời kỳ bách đạo cách tàn bạo, từ việc cấm cản, khủng bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu sống, xử trảm, rũ tù…thì thời chúng ta, “những tên lý hình thời đại” với cách bức bách Đức Tin của ta còn kinh khủng hơn nữa: làm cho con người không còn yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài.
Những tên lý hình thời đại: Ngoài ta
Những người chủ trương không có Thiên Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất nước của các Thánh Tử đạo, đưa Giáo Hội Việt Nam vào một thách đố mới, vào cuộc tử đạo mới: Truyền giáo cho người không tin có Thiên Chúa hay là để cho người không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết của họ?
Tư tưởng “Tôn giáo là liều thuốc phiện” vẫn đã thấm trong máu thịt của họ và đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm, đến nỗi khi con người gần đất xa trời, chờ phút “qui tiên”, họ cũng chẳng chấp nhận một cõi nào linh thánh. Một cuộc đời bồng bềnh theo năm tháng lơ lững không định hướng, vì chỉ tin được cái hiện hữu của thân xác mà không tin có linh hồn bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn mực Chân, Thiện, Mỹ nào hơn là theo cái chuẩn mực mà mình tự đặt định. Đạo đức xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế nhiều nhất cho xã hội mà chính mình là trước tiên!
Thời đại này, họ không đặt Thánh Giá trước mặt chúng ta và yêu cầu chúng ta bước qua để chứng minh cho họ là chúng ta chối bỏ Đức Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những chủ thuyết vật chất, và như thế là cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu qua việc không đồng thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
- Các em học sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ, bài học không có Thiên Chúa nào. Không có Đấng Tạo Hóa tác sinh…như “Con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói”.
- Các em thanh niên nam nữ vào đời phải tử đạo khi không theo cách sống thử tự nhiên được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử – nhưng sinh con thật – giết người thật.
- Các gia đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn định phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương quyết không giảm sinh theo kế hoạch không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ trong trứng nước, và tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá trị hôn nhân thời nay đặt trên căn bản là kinh tế, là của cải vật chất, là hưởng thụ…tạo điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về đời sống các gia đình không đáng có: chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn độn…. Biết như thế, vì bảo vệ Đức Tin Công Giáo, các gia đình công giáo phải tử đạo khi dứt khoát không bị cuốn vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
- Khi có của ăn của để, thì việc hành đạo hầu như không cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
- Người ta muốn giam các tín hữu trong trại giam mới là chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm, khi các tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn sàng cho cuộc vượt qua của chính mình…
- Giữa những băng hoại, suy đồi có nguy cơ làm phai mờ Đức Tin Công Giáo, các tông đồ của Chúa không đành lòng bó tay, nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy đồi của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của các Thánh Tử Đạo, cùng với Đoàn Chiên Tử Đạo khắp nơi trên đất nước.
Chúng ta tin rằng các Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các tín hữu Việt Nam chiến đấu trong cuộc bức bách mới của những tên lý hình thời đại mới đầy mưu ma chước quỉ của Satan luôn chủ trương chống lại Thiên Chúa. Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
- Thưa cha khi chủng viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt cây cho nhà giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
- Không phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì?
“ … Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chiến đấu với những tên lý hình thời đại ngoài ta có thể không khó khăn lắm, nhưng chiến đấu và chiến thắng với tên lý hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào!
Phải khiêm tốn mà nhận ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có bạn, đã không bước qua thập giá của những tên lý hình thời đại
ngoài ta, nhưng ngược lại, vì cái tôi, mà ta đã chặt và quăng cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn đâu mà bước qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng, người ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô và khổ đau của Ngài một cách không thương tiếc, và cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ, thanh thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ… đã “lấn sân” tâm linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm dịu, không còn cảm giác khổ đau của cây thập giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp nhận sự khốn khó gian nan. Sướng quen rồi. Đây mới thực sự là trại giam mới, trại giam của của danh vọng, của quyền lực, của sự an thân, an vị, an nhàn, và … rồi an nghĩ trong trại giam ấy tới ngàn thu.
Bỗng dưng, chính ta, đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta và xử trảm mọi người khi cách sống “không Kitô”, “không Thập Giá” trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến nhiều người.
Vâng, không ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì ta bằng lòng để mất tự do. Không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
Yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá Chúa Giêsu
Thiết tưởng lòng yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt qua những cuộc bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ giúp chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng ngày, giúp chúng ta trung thành với Đức Tin Công Giáo.
Xin chia sẻ một phần câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị, Bình Định; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho.
“Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: “Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc”. Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về. Ông nhất quyết không tuân.
Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội”.
Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng vậy”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của Ngài, để được hồng phúc tử đạo với Chúa mỗi phút giây trong cuộc đời chúng con. Amen.
Lâm nguy mới rõ tôi trung, vào sinh ra tử anh hùng ghi tên. Đó là lòng dũng cảm của hơn một trăm ngàn nhân chứng đức tin mà Giáo Hội Việt Nam mừng kính ngày hôm nay. Từ ngày đạo Chúa được rao giảng, lúc nào cũng có những tấm gương anh dũng như vậy. Trong Cựu Ước, cụ già Eleazarô và bảy mẹ con Machbêo đã chết để làm vinh danh Chúa. Trong Tân Ước, khởi đầu bằng cuộc tàn sát các trẻ thơ vùng Belem, rồi đến việc chém đầu Gioan Tiền hô, tiếp đến là cuộc tử nạn của Chúa. Rồi từ Chúa, qua các tông đồ và mãi mãi về sau, ở mọi nơi và trong mọi lúc đều có những cuộc bách hại và cũng đều có những tấm gương anh dũng và bất khuất, mà hơn 100.000 các bậc tử đạo Việt Nam ngày hôm nay là một bằng chứng cụ thể.
Vậy các thánh tử đạo Việt Nam là những ai? Các ngài là những người như chúng ta, cũng biết đau khổ, cũng yêu mến sự sống, cũng sợ hãi trước cái chết. Và thực sự các ngài đã chết chỉ vì muốn trung thành với Chúa. Phần xác tuy chết nhưng tinh thần của các ngài vẫn bừng cháy trong dòng thời gian.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những Giám mục như Đức Cha Vinh, Đức cha Xuyên. Các ngài là những linh mục như cha Tịnh, cha Hưởng. Các ngài là những tu sĩ như thầy Khang, chú Bột. Các ngài là những viên chức phần đời như ông án Khảm, ông lý Mỹ. các ngài là những chức sắc phần đạo như ông trùm Đích, các ngài là những quân nhân như binh Thể, binh Huy, binh Đạt. Các ngài là những phụ nữ như bà Thành mà chúng ta quen gọi là thánh Đê. Các ngài đã ra đi với sự tự do tuyệt đối, với nụ cười tha thứ và với niềm tin kiên vững.
Trong suốt thời gian bị giam giữ, bị tra tấn và bị hành quyết, các ngài đã tỏ ra thái độ mến Chúa và yêu người ở một mức độ cao, khiến cho bọn lý hình cũng phải cảm phục và suy tư. Cha Triệu bị giam trong tù, ngài rất băn khoăn khi nghĩ đến mẹ già. Ngài xin được phép về quê thăm mẹ, và chú lính đi theo đã hỏi: Ngài yêu mẹ như thế, sao không chối đạo để về nuôi mẹ. Ngài trả lời: tôi yêu mẹ tôi lắm. Nhưng trên mẹ tôi còn có Thiên Chúa. Hôm nay gặp được mẹ tôi trước ngày ra đi chịu chết, tôi thấy đã giữ trọn giới luật của Chúa. Tại pháp trường Bảy Mẫu tỉnh Nam định, bọn lý hình được lệnh xử lăng trì Đức cha Tuyên, chúng chặt tay chặt chân rồi đút một miếng thịt vào miệng ngài, Đức cha ngạc nhiên và nói: Tôi không ngờ người Việt Nam mà lại có thể độ như thế hay sao? Lời nói này làm cho một người trong bọn lý hình cảm động và trở lại. Vậy đâu là nguyên nhân đem lại cho các ngài sức mạnh và tình thương như thế?
Tôi xin thưa đó là chính Thiên Chúa. Thực vậy Đức Kitô đã nói với chúng ta: Các con đừng sợ những người có quyền giết xác nhưng hãy sợ Đấng có quyền giết cả xác lẫn hồn. Chúa dạy và Chúa ban cho những ai vâng giữ lời Ngài. Bởi thế từ Eleazarô, bảy mẹ con Macbêo cho đến Gioan Tẩy Giả và mãi mãi về sau, đều có một sức mạnh và một tình thương như thế. Các ngài tin rằng khi chịu cực hình, thì không chịu lẻ loi một mình, mà còn có Chúa ở bên cạnh. Bởi thế thánh Phaolô đã nói: Tôi không có gì để khoe khoang ngoài sự yếu đuối, nhưng tôi lại có thể làm được mọi sự trong Đấng nâng đỡ tôi. Nhân ngày mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy suy nghĩ như thế, hãy tin tưởng như thế, hãy cầu xin như thế, để khi gian nguy xảy đến, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh và tình thương để làm chứng cho Chúa.
Năm 2012 tôi có dịp sang Hoa Kỳ du lịch. Tôi có dịp đến nhiều nhà thờ to lớn nguy nga bề thế ở Mỹ. Có những nhà thờ đã được xây dựng vài trăm năm về trước, và có sức chứa đến vài ngàn người. Nhìn những nhà thờ đồ sộ nguy ngay như vậy cho tôi cảm giác các tiền nhân ở đây đã sống đạo rất phong phú. Họ đến nhà thờ rất đông. Họ cũng quảng đại góp công góp sức để có thể làm nên những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ. Tôi thực sự cảm phục về đời sống đạo của các tiền nhân Nước Mỹ.
Thế nhưng, điều tôi ngạc nhiên là nhiều ngôi nhà thờ này hôm nay đã không còn người dự lễ. Có nhà thờ phải đóng cửa. Có nhà thờ phải bán đi trả nợ. Không biết người Công Giáo Nước Mỹ có suy nghĩ gì khi cha ông họ vất vả xây dựng. Dù rằng ngày xưa còn lạc hậu và phương tiện thô sơ, họ còn làm được những công trình to lớn như thế, mà đến nay con cháu sống trong khung trời văn minh lại để hoang lạnh vì thiếu tiền, thiếu người dự lễ...? Phải chăng những gì cha ông vất vả xây dựng nay con cháu lại bất lực khi nhìn thấy cảnh nhà thờ hoang lạnh và phải bán đấu giá vì thiếu tiền duy trì...
Nhìn họ lại nhớ đến ta. Cha ông ta dù trong hoàn cảnh đạo bị bách hại, cuộc sống còn lam lũ nghèo khó, thiếu thốn tư bề, các ngài vẫn giữ đaọ, vẫn sống đạo... Giáo hội vẫn phát triển không ngừng về con người và cơ sở vật chất. Theo thống kê năm 1975 số người tín hữu đã lên tới 5 triệu người trên tổng dân số toàn quốc hơn 40 triệu dân. Tỷ lệ 1/10. Thế nhưng qua 38 năm Giáo hội Công Giáo dường như không có bước tiến về truyền giáo. Số người công giáo sau 38 năm cũng chỉ mới hơn 6 triệu tín hữu so với dân số gần 90 triệu dân. Tỷ lệ 1/15.
Chúng ta vẫn tự hào về cha ông chúng ta - những anh hùng trung kiên với đức tin, đã can đảm hiên ngang đổ máu đào để minh chứng cho đức tin Công giáo. Chúng ta vui mừng tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều vị tử đạo. Chúng ta vui mừng và thành tâm cầu xin, cung nghinh, tôn kính các thánh tử đạo. Đó là những tình cảm và việc làm thật tốt đẹp.
Thế nhưng là con cháu, chúng ta có trung kiên như các ngài hay không? Giáo hội hôm nay không còn kiểu bách hại dẫn đến đổ máu, nhưng lại đòi hỏi chúng ta phải trung kiên giữ đạo vì những quyến rũ của danh lợi thú trần gian. Cha ông ta đã đổ máu để giữ đạo còn chúng ta lại tìm hưởng thụ để bỏ đạo hay lơ là đạo, phải chăng chúng ta cũng đang làm mất đi công trình của cha ông đã xây dựng bằng xương bằng máu của mình?
Nói đến các Thánh Tử đạo, không thể nào ta không nhắc đến đức tin mà các vị ấy đã tuyên xưng bằng chính máu đào và bằng chính sự sống của mình. Một đức tin quá kiên trung. Một đức tin quá can đảm phi thường. Bất chấp mọi cực hình, các ngài vẫn một lòng sắt son với Thiên Chúa. Và dường như càng bị bách hại, giáo hội lại càng có nhiều người anh dũng chết cho đức tin bấy nhiêu. Vua quan, một mặt ra sức bắt đạo dữ dội, mặt khác ra sức ngăn chặn sự phát triển của đạo, thì lại vô tình làm cho đức tin càng được dồn nén, càng được nung nấu, càng được khẳng định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh chóng lan toả mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào.
Điều quan yếu nơi các thánh tử đạo không chỉ là việc đổ máu mà là một chuỗi ngày dài sống đức tin trung kiên. Một đức tin sắt son với Chúa. Một đức mến nồng nàn với tha nhân. Như trường hợp y sĩ Phan Đắc Hòa, ông luôn rộng rãi giúp người nghèo khó, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Với ông Martinô Thọ thì "Công bằng chưa đủ phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện, thế nên, ông đã trồng lúa, trồng rau để có tiền làm việc thiện.
Với ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với quan Hồ Đình Hy thì: "Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý ". Ông từng chăm sóc nuôi nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ngày sáng tối thăm hỏi, và khi người bệnh lìa đời, đã tổ chức lễ an táng tử tế. Ông cũng nuôi hai bé gái bị bỏ rơi cho đến khi trưởng thành: một cô xin đi tu, một xin lập gia đình, ông quảng đại lo đến nơi đến chốn.
Chính đời sống đức tin tỏa sáng bằng việc làm bác ái đã đi vào lòng quan quân, và dân chúng. Mặc cho triều đình nhà Nguyễn ra những chiếu chỉ bách hại, dấu hiệu tình thân giữa bà con chòm xóm đối với người Công Giáo vẫn trước sua như một. Thí dụ trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ ".
Thế nhưng, cha ông chúng ta đã đổ máu vì đức tin, đã hiến dâng cả mạng sống để chứng tỏ tình yêu mạnh hơn sự chết. Những con người hi sinh cao cả như thế chẳng lẽ lại chỉ mong để con cháu ca hát ngợi khen, rước sách tung hô mình? Người ta đã nhận định là tín hữu Việt Nam rất nhiệt tình trong kinh hạt, rước sách linh đình nhưng lại ngại hi sinh dấn thân trong công việc mục vụ, bác ái yêu thương. Đời sống tôn giáo của tín hữu Việt Nam xanh tốt như cây nhiều cành lá mà ít hoa quả. Những nhận định không hoàn toàn đúng nhưng cũng đáng để suy nghĩ. Từ đó, thiết nghĩ, có lẽ cha ông tử đạo của chúng ta mong nơi con cháu một điều gì đó cao hơn, khó hơn việc hát ca, rước sách.
Thực vậy, Giáo hội ngày hôm nay cần có những chứng nhân giữa dòng đời. Những chứng nhân dám sống niềm tin của mình mà không sợ thiệt thòi khi mất chức, mất địa vị trong xã hội. Những chứng nhân dám sống theo chân thiện mỹ giữa một xã hội gian dối, lừa lọc, cho dù vì thế mà nghèo hèn túng thiếu. Những chứng nhân trung kiên không vì danh lợi thú mà sao lãng bổn phận thờ phượng Chúa nhưng luôn hy sinh từ bỏ tham sân si để sống đạo yêu thương giữa cuộc đời.
Mỗi khi mừng kính các thánh tử đạo là mỗi dịp để khơi dậy tinh thần tử đạo nơi chúng ta. Tinh thần tử đạo không gì khác hơn là làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Xưa các thánh tử đạo đã dám chết cho niềm tin của mình, thì nay chúng ta cũng phải dám hi sinh cho những giá trị tinh thần cao quí trong cuộc sống hàng ngày. Xin đừng để những giọt máu đào của cha ông đổ ra cách uổng phí khi con cháu hôm nay chỉ thích hưởng thụ, sống lười biếng, hèn nhát. Amen.
Lửa rất mềm mà cũng rất mạnh. Một đốm lửa có thể dập tắt bằng một hơi thổi nhẹ hoặc làn gió nhẹ, nhưng ngọn lửa lớn thì rất khó dập tắt. Lửa càng chia sẻ càng tăng thêm nhiều. Và “lửa yêu” cũng vậy!
Máu Thánh của Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó mà có nhiều người không “tham sanh, úy tử”, dám liều mạng sống vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Việt Nam là quốc gia có hằng trăm ngàn nhân chứng đức tin đã xả thân vì đức tin Kitô giáo. Các ngài cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng có cách sống khác thường, dù thời đó Việt Nam mới nhận biết đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu.
Thánh Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, thế nhưng đức tin của “chàng trai trẻ” đã trưởng thành nên mới có thể thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Thánh Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
Và còn hằng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam đã chết vì Đạo Chúa, điều mà Đức Kitô đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Và đó cũng là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Chúng ta quen đọc kinh Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy”.
Với người đời, những cái chết đó là dại dột, là ngu xuẩn; nhưng với Thiên Chúa lại là sự khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (Kn 3:1). Đối với những người yêu Chúa thì đau khổ chẳng nghĩa lý gì.
Như kiểu nói của người Việt là “gậy ông đập lưng ông”, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (Kn 3:2-4). Tất cả xem chừng là những nghịch lý, nhưng lại là nghịch-lý-thuận. Mọi khổ hình dã man nhất của loài người đối với các nhân chứng đức tin cũng chỉ là cách “chịu sửa dạy đôi chút”, và rồi “họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao” (Kn 3:5). Đó mới là mục đích của họ!
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Ngài: “Ngài đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3:6-7). Rồi họ sẽ được quyền “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, chính “Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (Kn 3:8). Thiên Chúa giúp họ lật lại thế cờ, chuyển bại thành thắng, đúng như lời Chúa hứa: “Những ai trông cậy vào Ngài, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Ngài yêu thương và cho ở gần Ngài, vì Ngài ban ân phúc và xót thương những ai Ngài tuyển chọn” (Kn 3:9).
Tác giả Thánh vịnh vui mừng trong niềm tín thác: “Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn, là Đấng dạy tôi nên người thiện chiến, luyện thành tay võ nghệ cao cường” (Tv 144:1). Tại sao? Vì “Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở, là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 144:2). Chẳng có gì có thể làm cho người tôi trung phải khiếp sợ, họ vẫn thản nhiên tôn thờ Chúa và vững tin: “Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa một bài ca mới, thập huyền cầm, con gảy đôi cung. Chính Ngài cho các vua thắng trận, cứu mạng Đa-vít, kẻ trung thần, khỏi lưỡi gươm ác nghiệt” (Tv 144:9-10).
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?. Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8:31-32). Thánh nhân tiếp tục chất vấn một loạt: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:33-35). Chính những câu hỏi đó đã ngầm chuyển tải những câu trả lời.
Có lời chép: “Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”. Nhưng trong mọi thử thách ấy, “chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Thánh Phaolô tin chắc: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Tất cả chỉ là “số không”, và chẳng gì cản bước hoặc ngăn cấm được người ta yêu mến Thiên Chúa. Lúc này “lửa yêu” đã bùng cháy, không gì có thể dập tắt!
Trong một lần rao giảng, Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Điều kiện “theo Chúa” vừa dễ, vừa khó. Lửa yêu của ai mạnh thì là dễ, nhưng lửa yêu của ai yếu thì là khó. Chính người đời cũng ví von: “Tình yêu trong cách xa như ngọn lửa trong gió: Gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ, nhưng thổi bùng ngọn lửa lớn”.
Chúa Giêsu nói thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24). Đặc biệt là cách đặt vấn đề của Ngài: “Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” (Lc 9:25). Cách nói “nghi vấn xác định” là cách xác định mạnh mẽ hơn.
Rồi Ngài kết luận: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Rất rõ ràng. Rất mạch lạc. Rất dễ hiểu. Nhưng Ngài vẫn tôn trọng tự do của mỗi người, chứ Ngài không hề ép buộc bất kỳ ai.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin-cậy-mến và lòng can đảm cho chúng con, và giúp chúng con biết noi gương sáng các nhân chứng đức tin là tiền nhân của chúng con. Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay chúng con hôm nay và mãi mãi, nhất là trong Năm Đức Tin này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Hôm nay, chúng ta hân hoan, tự hào và hãnh diện khi mừng kính trọng thể lễ các thánh tử đạo Việt Nam. Với con số 118 đấng đã được Giáo Hội tuyên phong và tôn kính, đây là con số đông đảo nơi sổ bộ các thánh trong Giáo Hội hoàn vũ. Tuy nhiên, còn hàng trăm ngàn đấng chưa được tuyên phong, nhưng các ngài đều mang một mẫu số chung, đó là chết vì Chúa để làm chứng cho đạo của Chúa là đạo thật.
Như vậy, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, thiết tưởng chúng ta nên gợi lại những gương sáng của các ngài để như một lời nhắc nhớ chúng ta về tấm gương anh dũng qua đời sống chứng tá của các thánh, đồng thời như một lời mời gọi mỗi chúng ta hãy noi gương các bậc tiền nhân qua đời sống đức tin hiện nay.
1. Các ngài là những người đã sống Tin Mừng yêu thương
Trong rất nhiều nhân đức cao đẹp của các thánh tử đạo Việt Nam, thì nhân đức yêu thương, tha thứ của các ngài là nhân đức đi đầu, tiên phong trong hàng loạt các nhân đức. Các ngài đã noi gương Chúa Giêsu để yêu và yêu cho đến cùng, yêu đến nỗi chấp nhận chết để chứng tỏ tình yêu của mình vào Thầy Chí Thánh mà các ngài đã tin theo (x.Ga 15,13).
Khi sống và diễn tả tình yêu ấy, chúng ta thấy có thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thấy được nỗi đau khổ của cái nghèo hoành hành nơi dân làng, các ngài đã không chịu ngồi yên trong khi nhìn thấy cảnh người anh em đau khổ, đói khát, nên đã chấp nhận vất vả, tăng gia thêm để có của dư giả nhằm giúp anh chị em đang lâm cảnh nghèo túng, trong số đó, phải kể đến thánh Martinô Thọ, ngài sẵn sàng trồng thêm vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo. Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.
Đỉnh cao của tình thương ấy nơi các ngài là yêu luôn cả những người thù ghét mình. Tình yêu của các ngài là một tình yêu không biên giới. Lời của Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 43) luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động của các thánh. Về điểm này, chúng ta thấy toát lên chân dung của cha thánh Hoàng Khanh, ngài đã sẵn lòng chữa bệnh cho cả những viên cai ngục trong tù...
Các ngài bỏ qua tất cả, không nghĩ cho riêng mình, không còn lằn ranh giữa bạn và thù, bởi vì: “tận cùng của tình yêu là yêu không giới hạn”.
2. Các ngài là những người sống và chết vì sự thật
Có nhiều cái chết và cách chết. Những giá trị của cái chết cũng hoàn toàn khác nhau nhờ vào thái độ của mỗi người. Nhưng chấp nhận cái chết vì sự thật, vì công lý thì thật là điều cao thượng.
Trong Cựu Ước, có cụ Eleazaro, cụ là người cương trực, không chấp nhận giả vờ ăn thịt cúng để được tha (x. 2 Mac 6, 18-31). Lời dụ dỗ giả vờ bỏ đạo để được tha và thăng quan tiến chức là những chiêu bài mà nhà cầm quyền thời bấy giờ thường xuyên dùng để khuyên dụ các ngài. Có những đấng nếu chỉ khai mình là lương y chứ không phải là linh mục thì sẽ được tha ngay. Trong số đó, phải kể đến thánh Lê Tùy, Đỗ Yến, Hoàng Khanh, Nguyễn Văn Hưởng, Lê Bảo Tịnh... Các ngài đã chấp nhận cái chết để chứng minh cho chân lý và sứ vụ của mình.
Rồi có những đấng các quan chỉ yêu cầu nhắm mắt, giả bộ bước qua thập giá là sẽ được tha như thầy giảng Nguyễn Cần chẳng hạn, thầy đã được quan gợi ý như thế, nhưng ngài đã nói: "Thưa quan, mắt thì nhắm được, chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm". Thua keo này, các quan đã bày keo khác! Có những đấng, họ chỉ yêu cầu đi vòng quanh thánh giá và các quan sẵn sàng tha cho vì coi đây như là hình thức bỏ đạo. Nhưng các ngài đã khẳng khái khước từ. Trong số này có thánh Phan Văn Minh, các thầy giảng Hà Trọng Mậu, Bùi Văn Úy và các anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh.
Như vậy, mặc cho những lời đường mật hứa hẹn. Các ngài đã cương quyết không thỏa hiệp. Các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết, không bước qua thập giá, hoặc bất cứ hình thức nào được trưng ra dưới chiêu bài “đánh lận con đen”. Các ngài đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, công lý.
3. Các ngài là người sống niềm hy vọng Phục Sinh
Chúng ta nhớ lại trong thư gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã viết: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19). Thật vậy, vì tin vào Đức Kitô, Đấng đã được “Thiên Chúa làm cho [...] sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1 Cr 6,14). Vì thế, các thánh tử đạo Việt Nam luôn coi cái chết như là hy lễ cuối cùng và đẹp nhất dâng lên cho Thiên Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc Trên Trời. Niềm tin này đã được thày giảng Hà Trọng Mậu đại diện cho những người bị bắt thưa với quan rằng: "Thưa quan, chúng tôi mong ước về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy"; hay như quan Án Khảm, ngài đã hé mở cho mọi người đang đứng chung quanh mình về một cuộc sống hạnh phúc trên Thiên Quốc khi nói: “Cha con chúng tôi hôm nay vào Nước Thiên Đàng đây"; hoặc như thánh linh mục Nguyễn Văn Hạnh thì nói: "Anh em ở lại, chúng tôi đi về Thiên Đàng nhé"; còn thầy giảng Nguyễn Đình Uyển thì đã bình tĩnh và dõng dạc tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào mầu nhiệm phục sinh khi nghe quan quát lớn: "Mày không bước qua, tao sẽ chém đầu mày" thầy điềm tĩnh trả lời: "Thưa quan, nếu tôi bị chém chết, thì tôi mới hy vọng được phục sinh với Chúa Kitô". Khi phải lựa chọn giữa sự sống trần gian và cuộc sống vĩnh cửu, cha thánh Nguyễn Văn Xuyên đã nói một cách xác tín rằng: "Thưa quan, tôi chọn cái chết để được sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu rồi muôn đời bị tiêu diệt". Rồi như hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát đi để trổ sinh một mùa lúa bội thu, cha thánh Lê Bảo Tịnh đã nói: "Thân xác tôi đây, các ông muốn làm gì thì làm, tôi sẵn sàng không oán thán, nó chết đi, nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang". Quả thật, không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Mặc cho đòn vọt, gông cùm và ngay cả cái chết. 4. Cái chết của các ngài là lời tạ ơn
Cuối cùng, cuộc đời, sứ vụ và cái chết của các ngài là một bài ca tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa đã tác tạo nên mình, cám ơn những bậc sinh thành đã dày công dưỡng dục và như một gương sáng cho giáo dân noi theo. Tâm tình này đã được thánh Giám Mục Giuse Diaz Sanjurjo An diễn tả khi tới giờ hành xử đã đến, ngài nói: "Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin quan đừng cho chém tôi một nhát. Nhưng tôi xin chém tôi 3 nhát: Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ đã sinh thành ra tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí dù có phải chết cho đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần hạnh phúc cùng các thánh trên Trời". Với các thánh Phạm Khắc Khoan và hai thày Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, cha Khoan xướng ba lần lời ALLÊLUIA, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Hai thày cũng lập lại ALLÊLUIA, ALLÊLUIA, ALLÊLUIA ba lần như đêm vọng phục sinh vậy.
Có được tâm tình đó là vì các ngài đều xác tín rằng: “Đối với các ngài, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”, vì thế "Trong mọi thử thách, các ngài đã toàn thắng nhờ Đấng yêu mến các ngài" (x. Rm 8, 37). Và, giờ chết của các ngài là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu tuyệt đối mà cha ông chúng ta đã dâng lên Thiên Chúa như của lễ tinh tuyền thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Thật vậy: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo? [...] sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39).
Cuộc tử đạo của các ngài được ví như người nông dân đã vất vả ra đi gieo giống, để rồi hôm nay hân hoan vì thấy một vụ mùa bội thu: "Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau sẽ khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo. Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng" (Tv 125,6-7).
Như vậy, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã yêu thương các ngài đặc biệt. Chúng ta cũng ngước lên các ngài để chiêm ngưỡng, noi theo những nhân đức anh hùng, can trường của các ngài để lại hầu mai sau cũng được hưởng hạnh phúc với các ngài trong Cõi Trường Sinh.
Bài học cao quý nhất của các ngài để lại không phải là bài học hận thù, chia rẽ, không phải là ích kỷ nhỏ nhen, không phải là tự phụ kiêu căng, nhưng là bài học của tình yêu, của bao dung, vị tha và khiêm nhường. Sống được như thế là chúng ta đang làm chứng cho Chúa và đang sống niềm hy vọng phục sinh một cách rõ nét nhất.
Mong thay, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng với các ngài hát lên bài ca Tạ Ơn “TE DEUM” ngay trong cuộc sống hiện tại của mình.
Lạy Chúa, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, xin Chúa cho chúng con xác tín rằng: quê hương của chúng con ở Trên Trời, vì thế chúng con chỉ có một điều duy nhất là làm mọi việc vì Chúa và vì phần rỗi của mình cũng như tha nhân, qua đó biết khước từ những điều bất chính, để sau này chúng con được chung hưởng phúc vinh quang với các thánh trên Thiên Quốc. Amen.
Cách đây ít lâu, có một bạn trẻ ngoài Công Giáo hỏi tôi rằng: “Này anh, anh cho em hỏi bên đạo Công Giáo các anh tôn thờ những người mà gọi là thánh tử đạo, vậy họ là ai mà phải thờ”[1].
Lúc đó tôi đã trả lời cho bạn trẻ đó rằng: “Các thánh tử đạo chính là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã theo, sống và làm chứng cho đạo của mình theo là đạo thật, trong khi đó vua quan thời đó lại cho là tà đạo nên cấm và bắt bớ. Ai không chịu bỏ đạo Giatô thì giết, và các ngài đã bị giết vì không chịu bỏ đạo”. Sau đó bạn trẻ đó lại hỏi tiếp: “Khi bị bắt và giết như thế thì các vị tử đạo và người Công Giáo hiện nay có căm thù những người đã làm hại mình không?”. Tôi trả lời: “Không những không căm thù, mà các thánh tử đạo và ngay cả chúng tôi đã yêu và sẽ yêu họ nhiều hơn. Bởi vì cha ông chúng tôi và cả chúng tôi đã, đang đi theo “Đạo Yêu Nhau”[2];[3]. Bạn trẻ nghe đến đây thì tỏ vẻ ngỡ ngàng.
Đúng vậy, ngỡ ngàng là phải. Đạo gì mà lại là “Đạo Yêu Nhau”. Tại sao các ngài lại được gọi như vậy? Thưa bởi vì các ngài đã noi theo gương Đức Giêsu, Ngài là Chúa và là Thầy của mình đã sống và chết vì yêu. Tình yêu đó được khởi đi từ Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đức Giêsu xuống trần gian chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, cả cuộc đời và sứ mạng của Ngài đều quy về tình yêu và dạy cho các môn đệ và mọi người bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); Ngài nói tiếp: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12,33), bởi vì: “Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Khi soi chiếu cuộc đời của mình vào trong mầu nhiệm tình yêu của Đức Giêsu, các ngài đã rút ra được một định nghĩa về Đấng mà các ngài yêu mến và tin theo, định nghĩa đó là: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16). Chính vì thế các thánh tử đạo của chúng ta đã đã sống và minh chứng cho mọi người biết về Thiên Chúa là Tình Yêu qua chính cuộc sống của mình: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).
Trải qua suốt thời kỳ bách hại đạo, các thánh tử đạo là những người đã dám chấp nhận cái chết vì tình yêu và niềm tin để minh chứng Đạo mà các ngài theo là Đạo thật, là Đạo yêu thương. Quả thật, cây đức tin đã được các ngài vun xới và phát triển. Tuy nhiên, cây đức tin đó được lớn lên ngay trong thử thách và đau thương: hơn 300 Hội Thánh Chúa tại Việt Nam đã chia sẻ nỗi thăng trầm của quê hương, thì cũng là hơn 300 năm Hội Thánh được lớn lên trong hồng ân của Thiên Chúa[4].
Ngoài việc làm chứng bằng cả mạng sống, các ngài còn nhân chứng về chính nội dung Tin Mừng và tìm mọi cách để loan báo Tin Mừng ấy với vua quan thời bấy giờ. Vậy nội dung Tin Mừng mà các ngài làm chứng là gì?
Các ngài là những người luôn trung thành với Chúa, sẵn sàng đón nhận cái chết để minh chứng niềm tin của mình vào đạo thật: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm1,12). Vì thế, các ngài luôn tin tưởng, phó thác trong tay Chúa: "Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em" (1 Pr 5:7). "Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự" (Cv 17,25). "Chính nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu" (Cv 17,28); "Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và qui hướng về Người” (Rm 11,36:) và các ngài xác tín thật mạnh mẽ: “Chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Hay: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Chính vì vậy mà càng bị đòn vọt nhiều bao nhiêu thì các ngài lại vui mừng bấy nhiêu. Những trận đòn chí tử không làm các ngài nản chí, sờn lòng, mà trái lại các chứng nhân của chúng ta còn lấy thế làm hạnh phúc, vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh[5]. Các ngài luôn nhớ Lời Chúa phán: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế. (Mt 5, 10-12). Và đây là thước đo sự trung thành của người môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23); và như trở thành quy luật: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24); cuối cùng: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Như vậy, các ngài đã chấp nhận tinh luyện cuộc đời của mình như thử vàng trong lò lửa, khi chấp nhận tinh luyện như thế, các ngài được đón nhận như của lễ toàn thiêu. Quả thật, khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, các ngài đã rực sáng như những vì sao trên vòm trời và như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy (x. Kn 3:6-7). Và các ngài thật xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời, vì đã sống trung thành với Chúa đến cùng. Cái chết của các ngài đã không đi vào quên lãng, bởi vì: Linh hồn các ngài ở trong tay Chúa, đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Trước mặt người đời và những người không hiểu biết thì hình như các ngài đã chết và đi vào cõi tiêu diệt. Không phải vậy, các ngài đang sống trong bình an. Vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu (x. Kn 3,1-9).
Các ngài cũng là những người yêu nước; kính trọng vua quan, nhưng không vì thế mà bỏ đạo:
Có thể nói, các thánh tử đạo là những người rất mực yêu nước như bao người yêu nước khác và kính trọng vua quan hết lòng. Là thần dân trong nước, các tín hữu sẵn sàng thi hành nghĩa vụ công dân, từ thuế khóa cho đến gia nhập quân ngũ, điều này đã được chứng minh qua cuộc sát hạch thân thế và tôn giáo của các binh lính tại tỉnh Nam Định, năm 1838, nguyên tại tỉnh Nam Định, quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã tụ tập được 500 binh sĩ Công giáo, để rồi bắt đạp lên Thánh Giá[6].
Cũng vậy, chốn quan trường, theo chiếu chỉ tháng 9-1855 ra lệnh sàng lọc các quan Công Giáo, cấm đạo đồ đi thi hay nhận chức vụ trong làng trong tổng[7], thế mà sáu năm sau (1861), trong một đợt thanh trừng, triều đình còn bắt được 32 viên quan[8] và đã cấm bỏ đạo, nhưng phần đông các ngài đã khước từ. Khi khước từ bỏ đạo như vậy, các ngài đã bị tra hỏi, bị đòn vọt đau đớn, nhưng các ngài vẫn rất ôn tồn nhã nhặn, thưa gửi đàng hoàng. Bởi lẽ, các ngài được Thánh Thần Thiên Chúa dạy cho biết phải nói thế nào. Vì có Chúa ở cùng, nên các ngài không hề sợ hãi, ngược lại, thái độ ôn tồn và kiên trì là đặc trưng chung của các thánh tử đạo Việt Nam. Điển hình như linh mục Nguyễn Văn Tự đối đáp với quan tòa: "Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được "[9]. Giám mục Alonso Phê trong thư chung năm 1798 xác định khí giới đánh giặc bách hại "chẳng phải là súng ống gươm giáo đâu, mà là đức tin, lời cầu nguyện và đức bác ái"[10]. Giám mục Hemosilla Liêm nhắc nhở các tín hữu phải tuân giữ luật nhà phép nước, còn nếu bị vu cáo tội chính trị thì cứ an tâm, vì Đức Giêsu xưa từng bị dân Do Thái lấy cớ chính trị để giết (x. Ga 19,12). Ngài nói tiếp: "....Phô con đừng hòa tập vuối giặc, đừng nghe chúng nói dối dá đấng ấy đấng khác sai chúng nó, vì cái ấy là không hẳn"[11]. Làm được điều đó là vì các ngài luôn xác tín rằng mọi sự đều không nằm ngoài thánh ý Chúa. Vì thế, những người làm khổ mình là những tác nhân trong chương trình quan phòng của Chúa. Nên thái độ của các ngài là: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23,34). Tuy nhiên, lòng kính trọng phải được xây dựng trên nền tảng sự thật, tức là nếu sự kính trọng mà trái với lương tâm, đức tin và chân lý của mình thì các ngài cũng khẳng khái khước từ cách dứt khoát: khi vua Minh Mạng có ý định ban đặc ân làm quan cho các vị thừa sai, linh mục Gagelin Kính đại diện anh em từ chối đặc ân đó, ngài nói: "Tuy nhiên, những việc đó nào có thể dung hòa với nhiệm vụ linh mục của tôi"[12]. Hay như binh sĩ Trần Văn Trung, sẵn sàng đi lính để đáp lại lệnh truyền của vua, nhưng phải bỏ đạo trước khi đi lính thì đã không chấp nhận, ngài nói: "Tôi là Kitô hữu tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ" [13].
Các ngài còn là những người luôn sống nhân ái, yêu thương hết mọi người:
Có lẽ điều nổi bật nhất nơi các vị tử đạo của chúng ta là tình bác ái, các ngài luôn yêu thương hết thảy mọi người, bất luận họ là ai, làm gì. Điều này đã được các vị tử đạo của chúng ta thể hiện rất xuất sắc. Điển hình như y sĩ Phan Đắc Hòa, ông luôn giúp đỡ người khác qua việc bốc thuốc cứu người, đồng thời ông luôn khuyên họ trung thành mà giữ đạo để được sống đời đời. Còn ông Trùm Đích thì khi có điều kiện là ông tới thăm trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình. Linh mục Emmanuel Triệu sẵn sàng nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử để đổi lấy tiền mà cho người nghèo. Biết giáo dân sẽ tổ chức an táng cho mình linh đình thì Linh mục Phan Văn Minh đã kịp can ngăn và gợi ý lấy tiền đó giúp cho người nghèo. Với ông Cai Tả, thì yêu thương để xin ơn tha tội, nên ông sẵn sàng cho vay mà không cần trả lại. Ông Năm Thuông thì quả quyết: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng". Với quan Hồ Đình Hy thì: "Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý” [14].
Còn về lòng bao dung, các ngài sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù của mình. Điều này đã được chứng tỏ qua thái độ của các thừa sai. Thừa sai Gagelin Kính gửi thư cho bạn bè: "Tôi sẵn lòng tha thứ cho những kẻ áp bức tôi". Chuyện linh mục Théophane Vénard Ven, khi viên quan nói: "Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé", ngài đáp: "Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan". Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười, vì khi cụ cầu nguyện: "Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh". Ông Lê Văn Phụng tại pháp trường nhắn nhủ con trai mình: "Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố giác ba nhé". Và dặn dò thân hữu: "Hãy tha thứ các bạn ơi. Hãy tha thứ, vì chính tôi đã thứ tha"[15].
Thật vậy, các ngài luôn yêu thương, tha thứ cho hết mọi người. Luôn coi sự sống của người khác như là của mình, và hạnh phúc của con người là vinh quang của Thiên Chúa.
Khi lược lại một số hành vi mà các thánh tử đạo của chúng ta đã thể hiện trong việc tuyên xưng đức tin tuyệt đối vào Chúa; lòng kính trọng vua quan và luôn tỏ ra yêu thương, bao dung với hết mọi người. Ai trong chúng ta cũng hết lòng cảm phục trước thái độ bao dung và kiên cường của các ngài. Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta đáng lưu tâm hơn cả, đó là học được bài học gì qua những gương sáng của các ngài.
Trước tiên, luôn biết chọn Chúa làm điểm tựa của cuộc đời, là niềm hy vọng và ơn cứu độ, là gia nghiệp của ta. Luôn biết đón nhận đau khổ như là ân huệ Chúa ban. Đồng thời phải can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình yêu trong khi thi hành bác ái. Sẵn sàng chấp nhận thân phận của hạt lúa gieo vào lòng đất, thối đi để trổ sinh hoa trái dồi dào.
Thứ đến: luôn yêu thương hết mọi người, vợ chồng chung thủy với nhau, con cái biết nghe lời cha mẹ trong những điều ngay lẽ phải. Luôn sống chan hòa yêu thương với dân làng, giáo xứ, công sở, trường học...Như thế là chúng ta đã trở thành muối, thành men và ánh sáng cho đời. Trung thành với những điều đó phải chăng cũng là cuộc tử đạo liên lỉ thời nay.
Tắt một lời, các thánh tử đạo là những người luôn trung thành với Chúa, sẵn sàng chết để bảo vệ đức tin. Các ngài cũng là những người có tấm lòng bao dung với hết mọi người, nhất là với những người nghèo khổ, yếu đau và cả với những người bách hại mình nữa. Như thế, các ngài đã sống đúng như lời Chúa dạy về giới luật yêu thương. Thế nên, người ta gọi các ngài là những người sống “Đạo Yêu Nhau” thì quả là đúng không sai.
Ước gì, mỗi khi nhớ đến các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta làm mới lại tinh thần của các ngài trong cuộc sống thường ngày nơi các mối tương quan của chúng ta. Tinh thần đó chính thánh Anrê Phú Yên đã khẳng định: “Tình yêu không thể chết”
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung thành với Chúa, biết sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Xin cho chúng con một tấm lòng quảng đại và bao dung, để yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho hết mọi người, kể cả những người bách hại chúng con. Amen. ______________________________ [1] Vì là người ngoài Công Giáo, nên bạn trẻ đó dùng chữ “thờ” để nói về hành vi tôn kính của người Công Giáo đối với các thánh tử đạo Việt Nam. Người Công Giáo “thờ” là thờ Chúa, còn tất cả các thánh là tôn kính. [2] Lm. Đỗ Quang Chính, Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 61. [3] Bức thư của linh mục thừa sai Gaspar d’Amaral viết ngày 31/12/1632, trong đó cho biết “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau”. [4] Xc. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (biên soạn cho giáo dân Việt Nam), không rõ tác giả, 1997, tr. 153. [5] Xc. Mai Tuyến, OP. Tử Đạo Hôm Nay, truy cập ngày 12-11-2012; http://tinmung.net/ TimHieu/Tu-dao-hom-nay.htm [6] Gispert, Historia de las Misiones Dominicas en Tunkin, Avila 1928, tr. 428. [7] Louvet, La Cochinchine Religieuse II, tr.204-207. [8] Ibid. 267. [9] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 207. [10] Thư chung các đấng Vicario, Kẻ sặt 1903, tr.63-68. [11] Thư chung các đấng Vicario II, tr.53-54. [12] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 208. [13] Thư chung các đấng Vicario II, tr.53-54. [14] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 211. [15] Ibid. tr. 231.
Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo”.
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn một trăm ngàn Đấng Tuẫn Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong dòng thời gian bị bách hại, các Kitô hữu phải trải qua một trong những thử thách Đức Tin là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một thập giá dưới đất rồi bắt các Kitô hữu bước qua. Đôi khi chỉ là hai cây gỗ bắt chéo nhau. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình dã man. Ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bổng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình. Bước qua là được tiếp tục sống an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất cả mạng sống. Chỉ cần một bước chân thôi là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá nhưng đã co chân lên, như Thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh Tử Dạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Đứng trước thập giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi ? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng. Giây phút đứng trước thập giá là giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua thập giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất... Các Thánh Tuẫn Đạo có chung một chọn lựa lựa khoát: theo Đức Kitô hay theo vua quan ? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô.
Giây phút quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu tuẫn đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì Đức Tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết: “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” ( Mt 10, 32 ). ( x. Thiên Hùng Sử, trang 4 ).
Thánh Nữ Inê Lê Thị Thành, sinh tại làng Bái Điền, địa phận Thanh Hóa, vào khoảng năm 1781; nhưng sau này theo mẹ về quê sống tại làng Phúc Nhạc, địa phận Phát Diệm. Năm lên 17 tuổi bà kết duyên cùng ông Nhất và sinh được 2 trai, 4 gái. Vì con trai đầu lòng tên Đê, nên theo tục lệ thời ấy, dân chúng gọi hai người là ông bà Đê. Suốt 60 năm trời, cuộc đời của bà êm đềm trôi qua trong nghĩa vụ làm người vợ thảo, mẹ hiền.
Thế rồi, vào lối tháng 3 năm 1841, có 4 Linh Mục thừa sai về đến làng Phúc Nhạc. Họ chia nhau ẩn trú mỗi người tại một nhà Giáo Dân. Bà Đê được vinh dự che dấu cha Thành trong nhà mình. Nhưng một ngày kia, ông Đễ, một Giáo Dân thường hay theo giúp cha Thành, đã thay lòng đổi dạ, ham tiền thưởng nên đi mật báo với quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Thế là quan tổng đốc bất thần đem 500 quân về vây làng Phúc Nhạc vào rạng sáng Phục Sinh, 14.4.1841.
Cha Thành và cha Ngân nhanh chân trốn kịp. Cha Nhân trốn trên gác bếp vô tình để gấu áo lò ra ngoài kẽ ván nên bị bắt. Cha Lý, đang ẩn bên nhà ông trùm Cơ, lúng túng không tìm được đường tẩu thoát, nên chạy sang nhà bà Đê ẩn núp. Bà dẫn cha ra vườn sau, dấu cha dưới đường mương, rồi mẹ con bà lấy rơm rác phủ dấu che cha. Nhưng quan quân đã thấy cha Lý chạy sang nhà bà Đê, nên kéo đến vây kín, lục soát thật kỹ, cuối cùng họ đã bắt được cha Lý, bắt luôn bà Đê áp giải về Nam Định. Với tuổi cao sức yếu, lại phải mang gông cùm nặng nề, đoạn đường từ Phúc Nhạc về đến Nam Định đã trở thành chặng đàng thánh giá, con đường dẫn đến Núi Sọ.
Tại Nam Định, bà đã bị lôi ra tòa, bị đánh đập nhiều lần nơi công đường, khi thì bằng roi, khi thì bằng cây củi lớn, nhưng bà vẫn một mực trung kiên tuyên xưng Đức Tin. Lính vừa đánh vừa lôi bà dẫm lên thánh giá. Bà vùng ra rồi nằm sụp xuống ôm lấy thánh giá.
Bà cầu nguyện: "Chúa con ơi, xin thương con, con không bao giờ bỏ Chúa đâu. Họ cậy con là đàn bà yếu đuối mà ép lôi con dẫm lên thánh giá. Con không bỏ Chúa đâu, con không bỏ Chúa đâu. Xin thương giúp con."
Quan: "Con mụ già này to gan thật. Được, để ta xem ngươi to gan đến đâu. Quân bây đâu, đem rắn độc ra cho ta. Túm áo túm quần nó lại. Thả rắn độc vào mình nó, để xem nó to gan đến đâu, xem Chúa nó có cứu nó được không ?" Lính thi hành. Nhưng bà vẫn bình tĩnh đứng yên. Quan đi từ khoái chí đến kinh ngạc, rồi giận dữ. Quan: "Lôi nó vào ngục, đánh cho nó thêm một trận nhừ đòn. Đánh cho toét máu, cho áo quần nó phải đẫm máu mới thôi."
Cô Nụ, con bà Đê đến xin thăm nuôi mẹ. Một người lính lôi bà Đê ra. Vừa thấy mẹ, cô Lucia Nụ òa lên khóc vì thấy mẹ quá tiều tụy, áo quần rách nát, đẫm máu. Nhưng bà vẫn vui vẻ an ủi con. Cô Nụ: "Mẹ, sao áo quần mẹ tả tơi, đẫm máu thế này ?" Mẹ: "Con ơi, con đừng có khóc. Con hãy vui mừng với mẹ, vì mẹ đang mặc áo hoa hồng đây. Áo này là áo đau khổ vì Chúa mà. Con phải vui mừng với mẹ mới đúng."
Cô Nụ: "Mẹ, sao mẹ khổ thế này ?" Mẹ: "Con ơi, con đừng khóc nữa. Mẹ đang sung sướng kia mà. Mẹ sắp được chết cho Chúa đây, còn gì phúc hơn. Con phải mừng với mẹ, cám ơn Chúa với mẹ mới đúng chứ. Con hãy về đi, về đi và cho mẹ gởi lời thăm hỏi mọi người. Các con hãy cố gắng giữ đạo cho sốt sắng, rồi một mai mẹ con ta sẽ lại đoàn tụ trên thiên đàng."
Bên cạnh những cực hình của ngục tù, đòn vọt, bà Đê lại mắc thêm bệnh kiết lỵ. Chính trong cảnh tù đày, đòn vọt, bệnh tật này, bà đã nhìn lên Đức Giêsu tử nạn, để tìm thấy lẽ sống cho đời mình, để múc lấy sức mạnh vác thánh giá cho đến hơi thở cuối cùng. Và cũng như Đức Giêsu trên thánh giá, bà đã cầu nguyện cùng Chúa trong cơn hấp hối: "Lạy Chúa... xưa Chúa đã chết cho con... thì nay con xin hết lòng vâng theo Ý Chúa... Xin Chúa tha thứ cho họ... cũng như tha hết... mọi tội của con." Rồi bà gục đầu tắt thở trong tay cô Nụ.
Bà Đê đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 12.7.1841, sau ba tháng bị giam cầm, thọ 60 tuổi. Lính đã đến đốt ngón chân bà để biết chắc bà đã chết. Sau đó thi hài bà được đem chôn tại Năm Mẫu, sau lại được cải táng đưa về Phúc Nhạc. Vị thánh nữ đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam. ( x. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Trong Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, Lm. Vinh sơn Bùi Đức Sinh, trang 216-220 ).
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng Chịu Đóng Đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác. Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn. Ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống. Ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời. Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, bởi lẽ “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25 ). Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” ( Gl 6, 14 ).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đây là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Khổ nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại. Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh Lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ sức mạnh của Thánh Thể nên đã chọn Thánh Giá cách tuyệt đối và quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Là con cháu của các Ngài, xin cho chúng con luôn khôn ngoan trong những chọn lựa của đời sống hàng ngày. Amen.
Cuộc sống càng văn minh thì lại càng tạo ra nhiều nhu cầu, và dường như con người mỗi ngày một bị trói buộc vào trong những tiện nghi vật chất.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn như báo chí, truyền thanh và truyền hình. Những người quen đọc báo hay nghe truyền thanh. Một ngày không cầm lấy tờ báo, một ngày không mở cái đài thì xem như nó trống trải thiếu thốn thế nào ấy. Hay như gia đình chúng ta mới tậu được cái tivi, thì tối nào cũng vậy, chúng ta vội vã thanh toán những chuyện lỉnh kỉnh cho xong để rồi được thảnh thơi ngồi xem. Nếu bỏ qua một chương trình nào thì chúng ta lại cảm thấy tiêng tiếc. Nhu cầy này nẩy sinh ra nhu cầu khác, khiến con người cố gắng tìm tiềm kiếm bạc để được thoả mãn. Từ nhà lầu xe hơi, đến tivi tủ lạnh, những tiện nghi vật chất này đôi khi trở thành những loại tượng thần chi phối và làm chủ toàn bộ cuộc đời chúng ta.
Tại nhiều thành phố lớn, người ta sống một cách thừa thãi, không bao giờ biết đến cái đói là chi và cũng chẳng bao giờ nghĩ đến những người khác đang vất vả, đang đau khổ, đang túng thiếu tại các nhà tù, tại các hầm mỏ, tại các nhà thương. Và hơn thế nữa còn có biết bao nhiêu người hiện giờ đang bị bách hại, đang bị ghét bỏ vì danh Đức Kitô. Điều này khiến cho chúng ta nhớ tới lời thánh Gioan đã cảnh giác: Anh em đừng ngạc nhiên nếu như anh em bị thế gian ghét bỏ. Đúng thế, dưới cắp mắt thế gian, thì người Kitô hữu chúng ta đã trở nên một cái gì kỳ dị, nhiều khi chúng ta đã trở thành những đề tài cho người ta bôi bác, đả kích, bài xích. Phải chăng âm vang lời Chúa từ ngàn xưa vẫn còn là một sự thật: Nếu họ ghét bỏ Thầy thì họ cũng sẽ ghét bỏ các con. Mỗi khi đi qua nhà thờ chúng ta ngả mũ bái chào Chúa. Mỗi khi gặp linh mục đưa Mình Thánh cho kẻ liệt chúng ta thinh lặng cung kính tôn thờ. Có thể là chúng ta quỳ gối. Trước thái độ này, những người ngoại cho là kỳ dị, họ không thể hiểu nổi vào một thời buổi văn minh như hiện nay mà còn có những người làm những hành động như thế.
Họ nghĩ vậy vì họ không hiểu. Họ cho chúng ta là lập dị, là kỳ cục, là chậm tiến. Đó cũng là điều dễ hiểu. Thế gian nhận biết những kẻ thuộc về họ, với cách thức suy tư, hành động và hưởng thụ như họ. Thế nhưng một khi đụng đầu với những kẻ tin vào một thế giới khác, cao cả hơn, thánh thiện hơn thì họ lại cho đó là điều kỳ cục. Ngày nào mà người Kitô hữu không còn làm cho thế gian ngạc nhiên và đặt vấn đề, thì chúng ta đã phản lại sứ mạng của chúng ta. Người Kitô hữu lúc bấy giờ sẽ bị xếp vào hàng những kẻ thuộc về thế gian. Họ cố gắng xoá bỏ những điểm dị biệt với thế gian và che giấu cái sự thực của riêng mình. Mặc dù bên ngoài họ vẫn đi tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, nhưng bên trong tinh thần đức tin đã tắt ngấm từ lâu.
Thiên Chúa là Alpha và Omega, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian. Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên Chúa hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian vì “ngàn năm đối với Chúa như một ngày”.
Chỉ còn 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày quang lâm. Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo.
Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đã muốn cứu chuộc loài. Ngài đã can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh, một Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính. Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi. Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối dài và phân phát Ơn Cứu Rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Kitô, lịch sử sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.
Đức Giêsu là trung tâm của Lịch Sử Cứu Rỗi. Nơi Người, Ơn Cứu Rỗi không còn là lời hứa mà đã trở thành hiện thực. Đức Giêsu còn là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, vì tất cả lịch sử quy hướng về Người. Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Người loài người đạt tới sự sống viên mãn. Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch sử trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.
Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng ta nhận ra có một Lịch Sử Thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm và thấm nhập lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ý nghĩa. Từ đỉnh cao của vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung cuộc.
Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Người.
Ngày Đức Giêsu trở lại, ngày quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48), Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Kitô (Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17). Chính Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26, 64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39-40).
Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ đến, kể cả Đức Giêsu về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ "như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1-3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại. (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33-37; Lc 17, 22-37; 21, 35).
Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giêsu tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Người. Sẽ có một cuộc phán xét chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu ám chỉ ngày phán xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới (Mt 15, 39-49), chủ đòi gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày ấy các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Người hết thảy. Tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo... đều được triệu tập trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các tòa án trần gian: tố cáo, biện minh, đối chiếu, bằng chứng... Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong. Trong ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rõ những giá trị các hành vi của mình, cách mình đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.
2. Thiên Chúa là Tình Yêu
Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Gioan còn định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế thời gian và tình yêu song hành là một.
Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ trở thành lạnh lùng buồn tẻ. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nhìn thời gian như vàng ngọc. Ai sống trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay mời mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động.
Sách Châm Ngôn mô tả người đàn bà lý tưởng. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình bằng đôi tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ.
Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Thêxalônica đã đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có người lo sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả. Thánh nhân đã cảnh tỉnh: Hãy làm việc, đừng ngũ mê. Hãy biết trân trọng thời gian Chúa ban.
Với bài phúc âm, Chúa Giêsu nói đến giá trị của thời giờ, công việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện sinh sống như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".
Thiên Chúa ban tài năng thì chúng ta có trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho mình và cho người khác. Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ làm việc, sinh lợi các nén bạc thì được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà Chúa xét xử đó là tình yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là tình yêu chúng ta thực thi đối với anh chị em mình.
3. Dùng thời gian để yêu thương
Thiên Chúa là thời gian và là tình yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.
Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:
Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh. Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan. Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác. Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn. Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa. Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.
Giá trị đời người không được tính bằng thời gian ngắn hay dài, nhưng ở chỗ mình đã sử dụng nén bạc thời gian, sức khỏe, trí tuệ Chúa ban để phục vụ cuộc sống ra sao. Giá trị ở chỗ mình đã sử dụng thời gian như thế nào, có sinh nhiều ích lợi cho mình, cho tha nhân và cho thế giới hay không.Thời gian qua đi thật mau và chẳng chờ đợi ai. Sống có ý nghĩa là làm cho thời gian hiện tại trở thành yêu thương.
Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời Gian, là Vua của Tình Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục vụ trong tình yêu. Amen.
Giáo Hội Việt Nam vui mừng tôn vinh các thánh anh hùng tử đạo của mình. 117 vị được tôn phong hiển thánh, trong số đó có 8 Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân, trong đó có một thánh nữ là thánh A-nê Lê Thị Thành (Bà thánh Đê). 117 vị được tôn phong hiển thánh, nhưng còn một số đông đảo bị giết tập thể, bị thiêu sống trong nhà thờ, chết rũ trong rừng sâu… không tìm được di tích.
Chúng ta vui mừng nhắc đến các thánh Tử đạo Việt Nam, xem như những vị anh hùng đã chiến thắng mọi cực hình để trung thành với Chúa, là những tấm gương sáng chói để chúng ta noi theo.
Chắc chúng ta không có vinh dự chịu chết vì Chúa như các thánh, nhưng mỗi người chúng ta, không trừ ai, đều được gọi để “sống cho Chúa và chết cho Chúa” như thánh Phao-lô đã nói. Nghĩa là chúng ta được mời gọi tử đạo một cách nào đó.
Ai đã mang trên mình dấu thánh giá, đều phải chịu đóng đinh thôi. Đó là ơn gọi của Kitô hữu.
Các thánh tử đạo đã sống thực tế những gì Chúa Giêsu đã báo trước:
“Người ta sẽ lôi chúng con đến trước mặt vua chúa quan quyền… vì Thầy”. Tại sao như thế?
Chúng ta đâu làm hại ai. Chúng ta vẫn sống như mọi người, cũng cực nhọc như mọi người. Chúng ta đâu cướp phá của ai sao lại bị lôi ra tòa? sao lại bị giết chết như những tội phạm?
Tại sao?
Có một bàn tay vô hình. Có một sự cạnh tranh, thù hằn trong bóng tối: Satan. Satan mang lấy hình một thần tượng…, đòi quyền bá chủ… và không thể chấp nhận chúng ta… vì chúng ta không thuộc về nó.
Satan nấp sau bức màn chính trị, tôn giáo…Satan dùng mọi phương tiện, tìm hết mọi cách để tiêu diệt chúng ta. Khổ hình là phương tiện sơ đẳng nhất.
Satan hôm nay tinh vi hơn. Nó dùng những phương tiện luật pháp, truyền thông xã hội, khai thác và thổi phồng những lỗi lầm của những người yếu đuối. Nhục mạ Giáo Hội bằng mọi cách.
Thời cha ông chúng ta, Satan chỉ bách hại một số người trong một vùng nào đó, hôm nay cuộc bách hại lan tràn trong khắp Giáo Hội toàn cầu. Hôm nay không có nơi nào không có bách hại. Hôm nay người ta lôi ra tòa, không phải một vài người, mà cả Giáo Hội. Tòa án hôm nay không phải là tòa án vua quan mà là tòa án của dư luận, tòa án của thế giới. Đây chính là thứ tòa án nguy hại nhất. Giáo Hội chịu bách hại hằng ngày trên báo chí, trên truyền hình, trên internet… Và không chỉ là người ngoài, người thờ ngẫu tượng, cuộc bách hại nằm ngay trong gia đình, trong lòng Giáo Hội. Con cái Giáo Hội đứng lên giết hại Giáo Hội, cũng bằng mọi phương tiện. Chúa Giêsu đã báo trước:
“Anh sẽ nộp em…Cha sẽ nộp con…”
Cuộc bách hại xảy ra ngay trong gia đình chúng ta, ngay giữa lòng Giáo Hội. Đây mới thực sự là đau đớn !
Nhưng chúng ta bị lôi ra hành hạ. Để làm gì?
“Để làm chứng”.
Chúa Giêsu đang cần những nhân chứng kiên tâm, đáng tin trước làn sóng nhục mạ, bôi nhọ…
Ngài đòi hỏi, không phải những giọt máu vật chất, nhưng là những giọt máu tinh thần, cần những con người dám sống cho sự thật, cho bác ái…bất chấp mọi chống đối.
Tất cả Kitô hữu đều phải “đưa má cho người ta vả”… Chấp nhận bị loại trừ, bị tước đoạt mọi sự… như thư gởi cho giáo đoàn Do thái đã nói…
Nhìn về các thánh tử đạo, chúng ta phải kính phục lòng can đảm, sức chịu đựng của các ngài. Đúng! Các ngài đã chấp nhận mọi khổ hình, tù ngục, đọa đày, lâu ngày lâu tháng. Nếu người ta giết các ngài ngay sau khi bị bắt, cái chết như thế cũng không khó gì. Nhưng các ngài phải chịu tù ngục, bị hành hạ, đánh đập dã man lâu ngày mà vẫn không nao núng. Trong số các ngài, có những người còn vợ, còn con. Ai không thương vợ con, nhưng các ngài đã chọn Chúa trên hết, đã yêu mến Chúa đến cùng.
Sự anh hùng của các ngài được thử thách qua thời gian, qua bao nhiêu khốn khổ. Sức mạnh nào đã nâng đỡ các ngài, giúp các ngài thắng mọi đau đớn cực hình?
Sức mạnh nào có thể giúp chúng ta thắng những cơn bách hại hôm nay?
Chúa Giêsu đã cho chúng ta một bảo đảm: “Chúng con đừng sợ. Chúng con đừng lo phải đối đáp cách nào. Chính trong giờ đó (hôm nay), Thiên Chúa sẽ cho chúng con biết phải nói gì”. Chính Thần Khí của Cha trên trời là bảo đảm cho chúng ta.
Hơn nữa, chúng ta có một thứ vũ khí mà Satan không thể thắng được đó là BÁC ÁI. Đó là tiếng nói của Thần Khí Tình Yêu trong chúng ta. “Chúng con sẽ bị mọi người thù ghét”.
Chúng con sẽ đáp trả bằng bác ái. Thầy Chí Thánh của chúng ta đã thắng thế gian nhờ cái chết yêu thương của Ngài: “Họ sẽ nhìn Đấng họ đâm thâu”.
Không vũ khí nào có thể chống lại bác ái. Hận thù có thể mạnh như vũ bão, nhưng hận thù không thể tồn tại. Hận thù sẽ bị tiêu diệt trong biển lửa bác ái.
Những người bách hại Giáo Hội thi nhau nằm xuống, biến tan. Chúa Giêsu vẫn còn… Đâu rồi những người đã dìm Giáo Hội trong biển máu? Họ đã đi xa, chỉ còn một nắm xương khô…
Chúa Kitô vẫn sống. Ngài sống trong mỗi Kitô hữu. Cho đến tận thế, Kitô hữu phải là những người nối dài cuộc sống của Chúa Kitô trong trần gian, nối dài cuộc thương khó của Ngài, “phải làm trọn những gì còn thiếu trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô cho Hội Thánh Ngài”. “Trò không hơn Thầy, được như Thầy là quí lắm rồi”. Chúng ta có được như Thầy chưa?
Những người bách hại chúng ta, ý thức hay không ý thức, đều trông chờ nơi chúng ta, vì họ đang khao khát sự thật, khao khát tình yêu. Trong thế giới hận thù và gian ác không có chỗ cho tình yêu và sự thật, công bằng và tự do. Họ không thương nhau, họ bóc lột lẫn nhau, nô lệ hóa những người yếu kém. Họ tự trói buộc họ trong gông cùm xiềng xích của tham vọng… Họ đang cần tự do…
Chúng ta có thể đem lại cho họ những gì họ cần không? Chúng ta dám là những chứng nhân đích thực, đáng tin không? Cuộc sống chúng ta có đủ điều kiện để làm bằng chứng cho một Thiên Chúa Tình Yêu không?
Rất nhiều người trong chúng ta chỉ sống bằng ước mơ, bằng những khẩu hiệu thật đẹp, nhưng trống rỗng vì không có việc làm cụ thể. Chúa Giêsu không là “một người mơ mộng hiền lành” như ông Renan, một người nghịch đạo đã nói. Ngài đúng là chứng nhân Mẫu cho chúng ta. Ngài bị bách hại ngay từ khi mới sinh cho đến chết. Ngài trông chờ nơi chúng ta bước theo Ngài trên con đường hi sinh khổ giá. Chúng ta được như Thầy chưa? Chúng ta không thể, nhưng chúng ta còn thời gian để tiếp tục…
Nơi bàn tiệc thân yêu này, Chúa Giêsu vẫn có mặt. Ngài là của ăn cho chúng ta. Ngài nhờ tấm bánh nhỏ này để sống trong chúng ta, giúp chúng ta bước tới mỗi ngày trong nhiệm vụ chứng nhân âm thầm của Ngài. Xin các thánh Tử Đạo Việt Nam đồng hành với chúng ta trong nhiệm vụ cao đẹp này.
Chúa nhật ngày 19/6/1988, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nâng 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Dịp khai mạc Năm Thánh 2010, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam có viết: “Việc cử hành Năm Thánh trùng với ngày lễ kính 117 vị thánh Tử đạo hiển vinh của đất nước Đức Cha. Việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài sẽ giúp toàn thể dân Chúa tại Viêt Nam kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày” (Trích Sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam dịp Năm Thánh 2010). Thư của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội, nguyên Chủ tịch HĐGMVN gửi cộng đoàn Dân Chúa nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày tôn phong 117 Hiển Thánh Tử đạo Việt Nam có đoạn: “Đây là cơ hội giúp Dân Chúa Củng cố đức Tin qua đức Cậy nhờ đức Ái (số 1); Giúp cho Giáo hội Việt Nam sống chan hòa trong tình hiệp thông và hiệp nhất (số 2); Thúc đẩy chúng ta hăng say hơn trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (số 3); là dịp để cháu con noi gương các Ngài sống xứng đáng những người con thảo của Cha trên Trời (số 4)”.
Những gợi ý sống trên làm chúng ta nhớ lại bài giảng của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngày 19/6/1988 như sau: “Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm thấy nhu cầu đứng chung quanh các thánh, để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, mến thương …”.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sử liệu ghi lại sự đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. Ba trăm năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người vì tử đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: “Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”.
Hôm nay đây, chúng ta hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài, trong hân hoan và hãnh diện. Chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài và cùng nhau hô vang: Vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo anh hùng.
Làm sao kể lại cho hết tất cả 117 vị Tử Đạo, 1 vị á thánh, trong số đó có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ, Thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ sáu người con. Còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” mà chưa được tuyên phong, cũng được mừng kính. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần, tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số những nhà truyền giáo “ngoại quốc” Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền Đạo và chết vì Đạo.
Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đaminh là người Việt Nam tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Cha thánh Anrê Trần An Dũng Lạc bị trảm quyết năm 1838. Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như: gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu lên rốn rồi cho bấc vào đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v. Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Bị xử lăng trì, phân thây ra từng mảnh hay là xử bá đao là những hình phạt man rợ và hiểm độc nhất. Tổng số 79 vị bị chặt đầu. 18 vị bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3, 1). Quả quyết như trên có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử: thực ra đau khổ đã va chạm thân xác các ngài đến ghê sợ như: tùng xẻo, lăng trì, chặt đầu. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng: “Đối với mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thực ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các nài cũng không chết” (Kn 3, 2-4).
Đúng là: “Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời” (Thánh Phêrô Truật); “Thân xác tôi ở trong tay quan… nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được” (Thánh Phaolô Tịnh)
Các ngài là chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, các ngài được nhiều ơn vĩ đại, “vì Thiên Chúa đã luyện lọc các ngài và thấy các ngài xứng đáng, Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu” (Kn 3, 5- 6). Trong Chúa Kitô các ngài được Thiên Chúa cứu rỗi.
Chúng ta, dòng giống các vị tử Đạo. Hôm nay, hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: “Trong ngày phán xét, người công chính sẽ chói sáng và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau”. (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn Ngoan: “Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài đến muôn đời” (Kn 3, 17).
Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng con biết chân thành chọn lựa đi theo Chúa, trung thành làm chứng cho đức tin và nhiệt thành yêu mến Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương, đất nước chúng con. Amen.