Suy niệm Tin Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam 24/11 Bài 51-100 Những chứng nhân anh dũng của Đức Tin ------------------------------------ Phúc Âm: Mt 10,17-22 "Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của: 24/11-51
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê. Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hunga: 24/11-52
Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:
- Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng : Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.
Vị mục sư cười và trả lời :
- Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.
Viên sĩ quan hét lên :
- Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.
Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa :
- Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời :
- Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.
Cũng như vị mục sư kia, các thánh Tử đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói :
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con : Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng”.
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
Chúng ta không thể kể ra đây hết những hình khổ các thánh Tử đạo đã phải chịu. Chúng ta cũng không thể nói hết ở đây những lời di chúc quí báu của các ngài. Đối với các ngài, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Có lẽ ngày hôm nay chúng ta không còn được diễm phúc đổ máu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa nữa. Nhưng nếu phải hy sinh một món lợi vật chất, nếu phải đánh đổi một chức vụ trong xã hội, nếu phải từ bỏ một thú vui tội lỗi vì Chúa, vì luật lệ, và vì Tin Mừng của Người, chúng ta có dám không, thưa quí ông bà và anh chị em? Phải chăng lập trường của chúng ta vẫn là: “Thà bỏ đạo, bỏ Chúa chứ không bỏ những thứ đó”?
Hôm nay mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Giáo Hội cũng mừng kỷ niệm việc thiết lập: 24/11-53
Hôm nay mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Giáo Hội cũng mừng kỷ niệm việc thiết lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam.
Kỷ niệm 41 năm thành lập hàng Giáo Phẩm
Từ khi vị thừa sai Phan-xi-cô Bu-do-mi (Francesco Buzomi, SJ.) có công thiết lập cơ cấu giáo xứ đầu tiên ở Việt Nam bước chân lên nước này năm 1615 cho tới khi hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thiết lập năm 1960, thời gian kéo dài xấp xỉ 3 thế kỷ rưỡi. Giai đoạn lịch sử ấy lần lượt được đánh dấu bằng việc thiết lập thành phần nhân sự quan trọng cho việc xây dựng Giáo Hội địa phương.
Khởi sự cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes, SJ.) đã khai sinh ra hội Thầy Giảng năm 1630. Nhưng quan trọng hơn gấp bội là năm 1659 Toà Thánh thiết lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong và đặt dưới quyền quản trị của hai vị tân giám mục Phan Lữ (Francois Pallu) và Pierre Lambert de la Motte. Đó là hai vị đồng sáng lập hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (M.E.P.). Chính Đức Cha Pierre Lambert de la Motte trong 3 năm 1668-1670, đã ban chức linh mục cho 9 người Việt Nam đầu tiên, hầu hết xuất xứ từ hội Thầy Giảng. Chín linh mục này làm nên hàng giáo sĩ Việt Nam đầu tiên.
Từ cuộc phong chức linh mục do Đức Cha Pierre Lambert de la Motte cho người Việt Nam đầu tiên là thầy Giuse Trang 28 tuổi năm 1668, tới cuộc phong chức giám mục cho Cha Gioan B. Nguyễn Bá Tòng do Đức Thánh Cha Piô XI năm 1933 tại Roma, giai đoạn ấy kéo dài 2 thế kỷ rưỡi. Từ khi có giám mục Việt Nam cho tới khi có hàng giáo phẩm Việt Nam, giai đoạn lịch sử ấy chỉ kéo dài 33 năm.
Về nhân sự của giáo hội địa phương, kế tiếp việc thiết lập hàng giáo sĩ Việt Nam là việc thành lập dòng Nữ Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Nam Định) và Bái Vàng (Hà Nam) do Đức Cha Pierre Lambert de la Motte năm 1670. Khi ấy Đức Cha Pierre Lambert de la Motte cảm thấy như đã đạt được điều ngài mơ ước từ dịp viếng mộ hai thánh Phanxicô Salêsi và thánh nữ Giaoanna Chantal tại Pháp năm 1657. Ơn soi sáng đã đến trên ngài với hình ảnh một Giáo Hội có linh mục và nữ tu là hai con kinh tuôn đổ đức Tin và đức Ái tràn lan trên một đất nước: Linh mục là hiện thân của lòng nhiệt thành, liều mạng như người chiến sĩ xông pha nơi trận tuyến hiểm nguy; còn nữ tu là biểu tượng cho sự trong trắng và kết hợp đời sống cầu nguyện với công việc bác ái phục vụ.
Điều Đức Cha Pierre Lambert de la Motte mơ ước quả là hình ảnh lý tưởng về Giáo Hội không phải lúc nào cũng đạt được. Nhưng ơn đức Tin và đức Ái luôn phải có để làm nên Giáo Hội, đặc biệt trong thời cấm đạo. Cũng chính ơn đức Tin và đức Ái làm nên các thánh Tử Đạo.
Mừng kính Chư Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lịch sử 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam ăn khít với quãng thời gian 117 năm giữa 1745, khi hai vị thánh Phanxicô Frederich Tế và Matthêu Liciniana Đậu hy sinh mạng sống cho tới năm 1862, khi thánh Phêrô Đa vừa bị thiêu vừa bị trảm quyết. Tất cả 117 vị đã chịu chết vì đức tin dưới các triều đại vú Lê Chúa Trịnh, Tây Sơn và triều Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức).
Trong số 117 vị Tử Đạo có 8 vị Giám Mục, 50 linh mục, 59 giáo dân, trong số này có một phụ nữ là thánh Anê Lê Thị Thành, người mẹ của sáu người con.
Các vị ấy chỉ là tượng trưng cho hàng mấy trăm ngàn người đã chịu chết vì đạo trong ba thế kỷ 17, 18 và 19. Đầu tiên phải kể trong tổng số ấy, thầy giảng Anrê Phú Yên bị trảm quyết vì đạo ngày 26.7.1644 trước sự có mặt của cha Đắc Lộ. Thi hài thầy Anrê được chôn táng trong nhà thờ dòng Tên tại Macao. Cuối năm 1645 khi về Âu Châu, cha Đắc Lộ đã đem đầu thầy sang Rôma, còn thân vẫn còn ở Macao.
Cũng phải kể tới những vụ sát hại tập thể ở Biên Hoà và Bà Rịa 1861-1862. Riêng ở Bà Rịa khi ấy có khoảng 2.300 giáo dân từ lâu sống khá yên ổn cho tới tháng 8, 1861. Chính những cuộc hành quân của binh đội Pháp tại Biên Hoà cuối năm 1861 sang năm 1862 đã làm cớ cho nhiều vụ giáo dân bị sát hại tập thể. Hồi tháng 9 năm 1861 nhà cầm quyền tại Bà Rịa nhốt những người Công Giáo bị bắt vào bốn ngục: ngục Dinh là ngục chính ở ngay Bà Rịa, nhốt 300 đàn ông; ngục Thơm ở Long Kiên khoảng 4 cây số về phía Bắc Bà Rịa, giam 135 đàn bà con nít; ngục Thành ở Long Điền giam 140 đàn bà con nít; ngục thứ bốn tại họ đạo Đất Đỏ, nhốt 125 đàn bà trẻ con. Bốn ngục chứa tổng số là 700 tín hữu ngày đêm có lính canh gác cẩn mật. Nhưng với ba ngục giam phụ nữ và trẻ em, lính gác có phần dễ dãi hơn. Vì thế một linh mục Việt Nam có thể tới thăm viếng và ban Bí Tích cho nhiều người bị giam ở ba ngục này. Đó là cha Trí giả dạng đi buôn, gánh hai tĩnh nước mắm vào bán trong ngục. Chính cha Trí ngày 8.1.1862 tới tận ngục Dinh nơi bao giáo hữu từng bị giam thì chỉ còn thấy một đống tro tàn với xác chết nằm ngổn ngang mà chính ngài cùng với một linh mục nữa đã lo chôn cất.
Nhìn về phía trước: Sứ mạng giới thiệu Chúa Giêsu
Từ ngày cha Trí lo chôn xác 288 tín hữu chết vì đạo tại Bà Rịa tới nay, 139 năm đã trôi qua. Điều không thể tưởng tượng được là phần một tập thể của gần 300 chứng nhân anh dũng tại Bà Rịa nay nằm trong lãnh thổ của giáo phận Xuân Lộc với dân số tín hữu đông đảo nhất. Từ Bà Rịa nhìn ra vùng biển Vũng Tàu ngoài tượng Chúa ở Ô Quắn đang dang tay ôm ấp thế giới, nay còn có bức tượng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cao 30 mét trên núi Bãi Dâu, đang giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới.
Bối cảnh cởi mở và lạc quan ấy xem ra không thích hợp lắm với bài Tin Mừng Ga 17,11b-19 được chọn cho thánh lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay. Xem ra có sự đối kháng không thể nào hoà giải được giữa thế gian và các môn đệ của Chúa Giêsu.
Nhưng ở đây Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly đang cầu nguyện cùng Cha cho các môn đệ. Người ngỏ lời cùng Cha là Đấng Thánh (c.11). Sự kiện các môn đệ thuộc về Thiên Chúa (c.9) là lý do tại sao các môn đệ phải tách rời khỏi thế gian vì trong Cựu Ước sự thánh thiện của Thiên Chúa đối kháng với các thế tục.
Một cách đặc thù, các môn đệ cần được thánh hiến trong sự thật tức là trong chính lời của Thiên Chúa. Các môn đệ đã lãnh nhận và đã giữ lời mà Chúa Giêsu mang lại cho họ từ Thiên Chúa (17,6.14); chính lời đó đã làm cho họ nên sạch (15,3); bây giờ lời đó đặt họ riêng ra nhằm sứ mạng là truyền lại lời đó cho người khác (17,20).
Vậy bài Tin Mừng Ga 17,11b-19 nhắc nhở chúng ta là con cháu các thánh Tử Đạo Việt Nam 3 điều sau đây.
+ Người Kitô hữu chúng ta thuộc về Thiên Chúa theo gương các thánh Tử Đạo Việt Nam. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải sống rõ nét đức tin mà Thiên Chúa ban cho ta. Giữa một thế giới xem ra dễ dàng hơn nếu ta chấp nhận điều kém hơn đức tin và kém hơn sự công chính của Thiên Chúa, ta biết ta phải về phe với ai. Rõ ràng các thánh Tử Đạo đã về phe với Chúa Giêsu và đã phải trả giá bằng chính mạng sống của các ngài.
+ Người Kitô hữu cần nhìn mọi sự và mọi người với cặp mắt yêu thương của Thiên Chúa. Thiếu đức tin là thiếu cặp mắt yêu thương của Thiên Chúa, thế giới loài người xem ra sẽ là một thế giới quá xấu để Thiên Chúa có thể sai Con của Người đến cứu chuộc. Không một vị thánh Tử Đạo nào lại bi quan như vậy. Các ngài chết là để đón nhận ơn cứu chuộc do Con Thiên Chúa xuống thế làm người.
+ Dấu chỉ thời đại cho thấy phải đối thoại thay vì đối kháng. Sẽ chẳng có đối thoại nếu không chia sẻ đức tin với người khác, nếu không đánh giá các nền văn hoá theo giá trị tương đối của mỗi nền văn hoá, nếu không quan tâm tới công bằng.
Con cháu các thánh Tử Đạo Viêt Nam cần nhìn về phía trước. Cuộc đối thoại liên quan tới điều gì đó là cơ bản nơi con tim nhân loại: Đó là lòng ước ao tìm kiếm Thiên Chúa giữa một thế giới mang đầy vết thương do tội gây nên. Các thánh Tử Đạo đã gánh lấy gánh nặng do hậu quả của tội chất lên vai các ngài. Về phần ta, để có sự khả tín trong đối thoại, ta đã có trong con tim của ta sự sẵn sàng đó chưa?
Một số câu hỏi gợi ý
1. Trên đường đi Vũng Tàu bạn có dịp dừng lại ở Bà Rịa, để viếng mộ tập thể của 288 vị tử đạo chôn gần nhà thờ Bà Rịa chưa? Trong số 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, vị nào khiến bạn thán phục nhất? Bạn ưa thích kể lại cho con em tiểu sử của vị Thánh Tử Đạo nào?
2. Bạn hiểu thế nào là đối kháng? Thế nào là đối thoại? Thế naò là chống đối cách bất bạo động? Thế nào là đấu tranh cho quyền con người? Bạn nghĩ các thánh Tử Đạo Việt Nam đã tỏ ra lập trường như thế nào về những điều vừa nói?
3. Bạn nghĩ các thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm chứng về điều gì với cái chết của các ngài?
Chúng ta có thể khẳng định: Lịch sử của các Giáo hội cũng là lịch sử của những cuộc bách hại: 24/11-54
Chúng ta có thể khẳng định: Lịch sử của các Giáo hội cũng là lịch sử của những cuộc bách hại. Bắt bớ, bách hại luôn đi liền với những kẻ tin nhận Đức Giê-su Ki-tô là Chúa. Thật ra ngay từ trong Cựu Ước, những người tin vào Thiên Chúa Gia-vê cũng đã phải trải qua những cơn gian nan, thử thách vì Niềm Tin (bài đọc 1).
Vậy thử hỏi: Tại sao người tín hữu thường bị bắt bớ và bách hại ? Lịch sử cho ta thấy người tín hữu bị bắt bớ, bách hại thường vì một trong hai hoặc vì cả hai lý do sau: bị người đời hiểu lầm và ghen ghét. Nhưng với cái nhìn được Thánh Kinh soi sáng, thì chúng ta thấy bắt bớ, bách hại vì Niềm Tin có ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là để Niềm Tin của chúng ta được thử thách và tôi luyện. Miếng hay thỏi vàng chỉ tinh ròng sau khi được cho vào lửa tinh luyện. Niềm Tin Ki-tô của chúng ta chỉ vững vàng, kiên định, tinh tuyền và trong sáng qua gian nan thử thách. Đức Giê-su là "hiện thân sống", là minh họa tuyệt vời về sự kiện ấy: Một đàng Đức Giê-su bị những người cầm quyền Do-thái và Rô-ma kết án loại trừ, vì họ cho rằng Người là mối nguy hiểm cho địa vị, chức quyền của họ. Mặt khác chính qua khổ nạn Thập Giá mà Đức Giê-su chứng minh được lòng thảo hiếu, tuân phục đối với Cha và lòng yêu thương đối với loài người. Sự Khổ Nạn Thập Giá ấy là con đường dẫn tới Phục Sinh.
Các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Công giáo Rô-ma cũng đã có chung thân phận với Đức Giê-su. Gần gũi thân thiết với chúng ta hơn là 117 Thánh Tử Đạo và hàng ngàn hàng vạn các vị tiền bối Việt Nam cũng là những người đã chết vì Đạo mà nguyên nhân chính là hiểu lầm và ghen ghét. Các vị ấy đã kiên cường và anh dũng minh chứng Lòng Tin của mình. Vì thế mà ngày hôm nay toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính các Ngài một cách trọng thể và nhận các ngài làm Bổn Mạng.
2. Ngày nay chúng ta phải sống và làm chứng Niềm Tin như thế nào để không thẹn với cha ông?
Lịch sử đã qua, chúng ta không thể thay đổi được. Điều chúng ta có thể làm là từ lịch sử rút ra những bài học cho đời sống Đức Tin. Sau đây là một vài gợi ý để chúng ta suy nghĩ và thực hiện:
1. Cha ông chúng ta đã lấy máu đào để nói lên lòng tin cậy phó thác và trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta hãy biết dùng mọi phương thế để củng cố và trau dồi Niềm Tin: cầu nguyện, tĩnh tâm, nghiên cứu, học hỏi. Chắc chắn việc ấy đòi chúng ta phải hy sinh thời giờ, tiền bạc, công sức; buộc chúng ta phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi ở một mức độ nào đó. Nhưng so với cái chết khổ hình thập giá của Đức Giê-su, Chúa chúng ta và với bao cực hình của các Vị Tử Đạo cha ông chúng ta, thì có thấm vào đâu !
2. Dù bị hàm oan và bị hành hạ trăm điều, cha ông chúng ta không một lời than trách, không một chút hận thù đối với vua quan hay lý hình, mà trái lại luôn tôn kính, yêu thương, khoan dung, tha thứ chúng ta hãy nỗ lực sống khiêm nhường, yêu thương, hòa đồng và phục vụ đồng bào anh em theo tinh thần Phúc âm mà Thư Chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 và 2001 đã triển khai.
3. "Máu Các Thánh Tử Đạo là hạt giống Đức Tin". Máu cha ông chúng ta đã thấm vào từng thớ đất hình chữ S này, tức hạt giống đức Tin đã được gieo vào lòng đất nước và quê hương Việt Nam yêu dấu. Chúng ta hãy đóng góp phần riêng của mình vào việc làm cho hạt giống Đức Tin ấy nẩy mầm, mọc thành cây và sinh hoa kết trái cho Mùa Gặt Nước Trời. Nói cách khác chúng ta hãy trở thành những người loan báo Tin Mừng cho đồng bào, anh em.
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha đã cho chúng con vinh dự làm con cháu các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Nhưng Cha ơi, vinh dự cũng có nghĩa là trách nhiệm, xin Cha ban sức mạnh cho chúng con để chúng con đủ sức chu toàn trách nhiệm cao trọng ấy, bằng đời sống chứng tá của chúng con trong xã hội Việt Nam hôm nay.
Lạy Chúa Giê-su là Hạt Giống Vĩ Đại mà Thiên Chúa Cha dã gieo vào lòng đất. Xin Chúa ban sức mạnh và tình yêu cho chúng con để chúng con cũng trở thành những hạt giống Tin Mừng gieo vào lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng con hãnh diện được làm con cháu các Ngài. Xin các Ngài cầu bầu cùng Thiên Chúa cho chúng con dũng khí, lòng kiên cường, đức hy sinh, lòng trung thành với niềm Tin, để chúng con vượt thắng mọi trở ngại từ bên ngoài cũng như từ chính trong tâm hồn chúng con trong đời sống chứng tá hôm nay.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng quen thuộc với câu nói bất hủ của giáo phụ Tertullianô: “Máu tử: 24/11-55
Có lẽ ai trong chúng ta cũng quen thuộc với câu nói bất hủ của giáo phụ Tertullianô: “Máu tử đạo là hạt giống sinh người có đạo” (Apogeticum 50,13). Câu nói diễn tả việc TỬ ĐẠO có liên hệ rất mật thiết với việc TRUYỀN GIÁO. Nói khác đi, việc TỬ ĐẠO chính là một lời rao giảng Tin Mừng hùng hồn nhất và có khả năng đem được nhiều người về với Chúa.
Thật vậy, nhiều anh chị em lương dân thời các Thánh Tử Đạo đã phải trầm trồ khen ngợi và cảm phục những tấm gương sáng ngời về lòng can đảm, về sự trung thành với Thiên Chúa nơi những người tín hữu nói chung và nơi các Thánh Tử Đạo nói riêng. Nhiều người trong số họ đã xin trở lại đạo Công Giáo vì hấp lực của những gương sáng ấy. Và cụ thể, hạt giống đức tin mà mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận, trước hết là hồng ân Chúa ban, nhưng bên cạnh đó, hạt giống đức tin ấy đã được tưới gội và vun trồng bằng mồ hôi, bằng nước mắt và bằng máu của các Thánh Tử Đạo, cha ông chúng ta. Chính vì vậy mà mỗi người chúng ta hôm nay sẽ không xứng đáng là con cháu của các Thánh Tử Đạo, nếu chúng ta không biết trân trọng, không biết bảo vệ và không biết làm cho hạt giống đức tin đơm bông kết trái. Một trong những dấu chỉ cho biết hạt giống đức tin sinh hoa kết trái, đó là nhờ đời sống đức tin của chúng ta, anh chị em lương dân nhận ra được rằng: Đạo là một con đường giải thoát, một con đường dẫn đến tự do và hạnh phúc đích thực.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong những giáo huấn giúp cho các Kitô hữu chuẩn bị bước vào thiên niên kyœ thứ ba, đã đề cập đến thực trạng và những thảm kịch đang diễn ra trong thế giới hôm nay. Người cho thấy: thế giới hôm nay là một thế giới có nhiều hỗn loạn về luân lý; một thế giới dửng dưng với sự thật, với niềm tin tôn giáo; một thế giới càng ngày càng giảm sút ý thức về tội lỗi; một thế giới thiếu tôn trọng sự sống con người; một thế giới hưởng thụ và buông thả; một thế giới thiếu vắng những giá trị thiêng liêng cao quý, thiếu lẽ sống, thiếu tình yêu, thiếu lòng trung thành...; một thế giới quá đề cao tự do đến độ phóng túng, tuỳ tiện; một thế giới bị trói buộc trong những giá trị trần thế đến độ không còn biết đến những giá trị siêu việt, những chuẩn mực đạo đức; một thế giới bị thống trị bởi vô vàn thứ tội lỗi và sự ác...
Và không phải nói đâu xa xôi, cứ nhìn quanh ta, nhìn vào chính môi trường mà ta đang sống, nhìn vào họ đạo, nhìn vào gia đình của mình, ta cũng thấy đang diễn ra những thảm kịch mà Đức Thánh Cha đã nói tới. Đức Thánh Cha gọi thực tế này là “một sự thụt lùi chưa từng có”. Điều này cũng dễ hiểu, bởi trong một thế giới, trong một xã hội, trong một họ đạo, trong một gia đình mà Thiên Chúa bị loại trừ, bị xua đuổi thì đương nhiên ma quyœ, sự dữ, sự ác sẽ đến chiếm chỗ. Mà ma quyœ, sự dữ, sự ác không đem đến cho con người điều gì tốt lành cả. Chúng chỉ đem đến sự đổ vỡ, sự bất hạnh và đau khổ. Có điều là những đổ vỡ, những bất hạnh và những đau khổ ấy lại được ngụy trang dưới lớp vỏ bọc đường, dưới những sắc màu óng ả của khoái lạc, của tự do... và vì thế mà con người mắc lừa.
Chính trong bối cảnh của cuộc sống như thế mà chúng ta được mời gọi để làm chứng nhân cho Thiên Chúa, làm chứng cho cuộc sống ở bên kia sự chết. Làm chứng bằng việc sống những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã công bố. Tất nhiên, sống Tin Mừng trong một thế giới dị ứng với Tin Mừng, một thế giới dửng dưng với Thiên Chúa, một thế giới xa lạ với những thực tại linh thánh đó là bơi ngược dòng, là một cuộc tử đạo triền miên, là một sự chết đi cho chính niềm tin.
Điều đáng mừng là dù thế giới này ra sao chăng nữa thì cũng vẫn còn những con người, có thể là ít ỏi, dám sống và chết cho niềm tin của mình. Những con người này đã làm sáng lên bức chân dung của Thiên Chúa trong chính môi trường mà họ đang sống qua việc tử đạo liên lỉ mỗi ngày.
Còn chúng ta, nếu giờ này các Thánh Tử Đạo, nhìn vào đời sống của chúng ta, không biết các Ngài có thể nở nụ cười mãn nguyện và tự hào về sự trung kiên, về lòng đạo đức của chúng ta không? Hay các ngài sẽ phải cúi mặt hổ thẹn và thất vọng về con cháu mình?
Trong hội nghị quốc tế chống tham nhũng họp tại Bắc Kinh lần thứ 7 vừa qua, ông tổng thư ký: 24/11-56
Trong hội nghị quốc tế chống tham nhũng họp tại Bắc Kinh lần thứ 7 vừa qua, ông tổng thư ký của tổ chức cảnh sát quốc tế đã nói như sau: “Tham nhũng hoành hành là vì những người có quyền thế vẫn không thoát khỏi sự cám dỗ của tiền tài. Họ đã lợi dụng địa vị của mình để trục lợi cho bản thân”.
Thật vậy, nạn tham nhũng đã và đang là một đại hoạ cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong nhiều phiên toà xét xử những phạm nhân tham nhũng, người ta thấy có những phạm nhân đã từng là cán bộ rất đáng khâm phục thời chiến tranh. Trong thời gian ấy, họ đã mang trong mình một lý tưởng cao cả, đã sẵn sàng vào sinh ra tử, coi thường súng đạn, coi thường cái chết để chiến đấu với kẻ thù của đất nước. Nhưng hôm nay họ lại bị ngã gục vì những cám dỗ của tiền bạc, đã trở thành những ung nhọt của xã hội. Phải chăng khi còn là những chiến sĩ ở chiến trường, họ phải đối diện với những kẻ thù hữu hình mang khuôn mặt đằng đằng sát khí và súng ống trên tay, nên họ đã cảnh giác và chiến đấu? Còn bây giờ, những kẻ thù bằng xương bằng thịt ấy không còn, cũng chẳng còn kẻ thù nào khác, nên họ không cần cảnh giác và chiến đấu nữa? Thật ra, kẻ thù của đất nước vẫn có đó, vẫn còn đó, nhưng núp sau những khuôn mặt dễ thương là tiền bạc nên họ không nhận ra.
Nhìn vào đời sống đức tin ngày xưa và ngày nay ta cũng thấy một tình trạng tương tự. Thời các thánh tử đạo, những kẻ thù, những nguy hiểm của đức tin xuất hiện rõ ràng trước mắt. Đó là những sắc chỉ cấm đạo, những biện pháp tiêu diệt đạo được ban hành và áp dụng. Người có đạo chỉ có hai con đường để chọn lựa: Hoặc bỏ đạo, hoặc chết vì đạo. Không thể mập mờ, lấp lửng. Nhưng hôm nay, không còn sắc chỉ cấm đạo, cũng không có những biện pháp huyœ diệt đạo. Trái lại, được hoàn toàn tự do. Vì vậy, người ta tưởng đời sống đức tin đã được an toàn nên không cần cảnh giác, không cần đề phòng. Thật ra, kẻ thù của đức tin vẫn còn đó, nhưng mang một khuôn mặt khác nên ta không nhận ra và vì thế rất dễ dàng ngã gục.
Một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất của đời sống đức tin là sự mất ý thức về tội. Người ta phạm tội, nhưng không bao giờ nhận rằng những hành động của mình là xấu xa, là phản đạo đức, là vô luân. Chẳng hạn ngày hôm nay người ta coi chuyện phá thai, ly dị, chuyện quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, chuyện kết hôn không có phép đạo như những chuyện rất bình thường. Ngày hôm nay người ta không còn coi chuyện mãi dâm là một sự xúc phạm nặng nề đến phẩm giá con người mà chỉ coi đó là một nghề nghiệp, một phương tiện để kiếm tiền, để thoả mãn dục tính của mình. Người ta cũng không còn coi việc tôn trọng công bình là điều cần thiết nữa. Người ta sẵn sàng bóc lột, lường gạt, chiếm đoạt tài sản của người khác làm của mình v.v... Sự mất ý thức về tội như thế là do mất ý thức về chân lý. Những chân lý tôn giáo như có Thiên Chúa, có đời sau chẳng còn ý nghĩa gì đối với nhiều người trong thời đại hôm nay nữa. Chỉ có chức quyền, lợi lộc và lạc thú mới là quan trọng.
Phải chăng tất cả những điều kể trên lại chẳng phải là những kẻ thù của đức tin đó sao? Sống một cuộc sống như thế có khác gì tuyên bố mình bỏ đạo.
Do đó, mừng lễ các thánh tử đạo ta cần tìm lại ý thức về tội, về chân lý đã mất, để có thể nhận diện những kẻ thù của đức tin. Chiến đấu chống lại những kẻ thù ấy chính là sống tinh thần tử đạo. Chấp nhận sống tử đạo mỗi ngày như thế, chúng ta sẽ lãnh nhận được triều thiên Nước Trời.
Sơ sử ở Việt Nam chỉ thực sự mở đầu từ văn hoá Đông Sơn, cách đây khoảng 2.500 năm. Nước: 24/11-57
Sơ sử ở Việt Nam chỉ thực sự mở đầu từ văn hoá Đông Sơn, cách đây khoảng 2.500 năm. Nước Văn Lang của các Vua Hùng là một sự thật của lịch sử Việt nam. Sách “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” là bộ chính sử đầu tiên của nước ta ghi chép về nước Văn Lang và theo đó thì nước Văn lang “Đông giàp Nam Hải, Tây giáp Ba Thục, Bắc giáp Hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn”. Nước Văn Lang chỉ tồn tại trước sau trong khoảng 300 năm và con số 18 đời Hùng Vương cho đến nay vẫn là con số của huyền sử. Tiếp đến là nước Âu Lạc của An Dương Vương, rồi đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Trần, Hồ, Hậu Lê, Mạc, Nguyễn...
Lãnh thổ Việt Nam nhỏ bé chỉ đến Châu Cực nam là Hoan Châu, Hà Tĩnh ngày nay. Biên giới phía nam của An Nam là núi Hoành Sơn. Từ Đèo Ngang, Quảng Bình, Quảng Trị đến Bình Thuận là đất nước Chiêm Thành với kinh đô Trà Kiệu. Miền Nam, Miền Tây thuộc vương quốc Phù Nam, Stiêng, Chu Nại, Lục Chân Lạp, Thuỷ Chân Lạp.
Việt Nam thực hiện cuộc Nam Tiến bắt đầu từ thời Lê Đại Hành mở mang bờ cõi về phía Nam. Thời nhà Trần, Vua Trần Nhân Tông gả Công Chúa Huyền Trân cho Vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy 3 châu ( Quảng Bình, Quảng Trị, Huế ). Thời nhà Hồ tiến vào Quảng Nam, Quảng Ngãi. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Nguyễn Hoàng vượt biên giới núi Thạch Bi tiến về phía Nam, cho đến năm 1697 đặt phủ Bình Thuận. Năm 1757, tháp nhập Hà Tiên vào Đại Việt, chấm dứt cuộc Nam Tiến. Việt Nam với bản đồ hình chữ S đã hình thành. Như thế chỉ dài chừng nửa đầu thế kỷ 18, người Việt đã hoàn thành cuộc bành trướng của dân tộc từ Bình Thuận chiếm trọn Nam Kỳ ( theo Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam , tập I, 1994 )
Trong bối cảnh lịch sử xã hội đó, Thiên Chúa đã cử các nhà truyền giáo đến để gieo trồng hạt giống đức tin trên quê hương Việt Nam. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân tộc. Các Họ Đạo phát triển cùng với cuộc Nam Tiến và các cuộc bách hại. Từ khi vị Thừa Sai Phan-xi-cô Buzomi có công thiết lập cơ cấu Giáo Xứ đầu tiên ở Việt Nam năm 1615 cho tới khi Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thiết lập 1960, thời gian đó kéo dài 300 năm. Hơn 3 thế kỷ phát triển cùng với các cuộc bách hại dưới các thời đại Vua Lê – Chúa Trịnh, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Hạt giống Nước Trời cứ phát triển khi được gieo xuống đất. Chúng ta thấy được hồng ân Thiên Chúa tuôn tràn để sức sống Nước Trời nở rộ trên nước Việt thân yêu.
Giữa những bách hại tàn khốc, Giáo Hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Như một Linh Mục giáo sư đã nói: Giáo Hội Công Giáo ngoài bốn đặc tính là Duy Nhất – Thánh Thiện – Công Giáo – Tông Truyền còn có thêm một đặc tính thứ năm, đó là bị Bách Hại, càng bị bách hại càng lớn lên. Các bậc Tổ Tiên đã gieo trong nước mắt và đau thương nhưng hào hùng và can trường. “Đẹp thay những bước chân gieo mầm cứu rỗi” ( Is 52, 7 ) để hôm nay Giáo Hội Việt Nam vững mạnh sánh vai cùng các Giáo Hội trên hoàn vũ. Nhìn những thành quả hiện tại như những bó lúa nặng hạt, là con cháu các Thánh Tử Đạo, người Công Giáo Việt nam không bao giờ quên ơn những Bậc Tiền Bối đã xây đắp nên Giáo Hội yêu dấu của mình.
Chúng ta có thể khẳng định: Lịch sử của các Giáo Hội cũng là lịch sử những cuộc bách hại. Bắt bớ, bách hại luôn đi liền với những kẻ tin nhận Đức Giê-su Ki-tô là Chúa. Ngay từ trong Cựu Ước, những người tin vào Thiên Chúa Gia-vê cũng đã phải trải qua những cơn gian nan thử thách vì niềm tin.
Vậy thì tại sao người tín hữu thường bị bắt bớ và bách hại ? Lịch sử cho thấy người tín hữu bị bắt bớ và bách hại thường vì một trong hai hoặc vì cả hai lý do là: bị người đời hiểu lầm và ghen ghét. Chính Đức Giê-su là một minh hoạ tuyệt vời về sự kiện ấy. Đức Giê-su bị nhà cầm quyền Do-thái và Rô-ma kết án loại trừ, vì họ cho rằng Người là mối nguy hiểm cho địa vị, chức quyền của họ. Thế nhưng, qua cuộc khổ nạn và thập giá mà Đức Giê-su bày tỏ lòng hiếu thảo, vâng phục, yêu mến Chúa Cha và tình thương đối với loài người. Cuộc Khổ Nạn là con đường dẫn tới Phục Sinh.
Các Thánh Tử Đạo của Giáo Hội, 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam và hàng ngàn hàng vạn vị Tiền Bối Việt Nam cũng là những người đã chết vì Đạo mà nguyên nhân chính là do hiểu lầm và ghen ghét. Các vị ấy đã kiên cường và anh dũng chứng minh lòng tin của mình đối với Đức Giê-su Ki-tô, bất chấp gông cùm, tù tội, bá đao hay tùng xẻo, trảm quyết hay lăng trì.
Vì thế, ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là dịp để Giáo Hội hoàn vũ chiêm ngắm suy tôn 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, các chứng nhân trung kiên của Đức Ki-tô. Đặc biệt là dịp mà mỗi tín hữu Công Giáo Việt Nam ca tụng Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại trên quê hương mình. Mừng kính trọng thể các Ngài để cùng nhau chiêm ngưỡng, tự hào, học hỏi nơi những chứng nhân đức tin trung kiên, ý chí quật cường của các chiến sĩ Đức Ki-tô. Từ đó giúp nhau phát huy truyền thống hào hùng bất khuất, dám hy sinh mạng sống cao quý để giữ vững đức tin nơi các thế hệ con cháu Các Thánh Tử Đạo.
Chính trong ánh sáng cùa Đức Ki-tô, Vị Tử Đạo Tiên Khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc Âm: “Đầy tớ không lớn hơn chủ” ( Ga 15, 20 ); “Nếu chúng đã bách hại Thầy, chúng sẽ bách hại các con... Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng... Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các con đừng lo phải nói thế nào, vì không phải các con, nhưng Thánh Linh của Thầy sẽ nói trong các con... Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu độ”. ( Mt 10, 16 – 25 )
Các Thánh Tử Đạo không tìm đến cái chết mà chỉ tìm nên giống Thầy, giống đời sống của Thầy Giê-su, nhất là giống cử chỉ yêu thương tột cùng đã đưa Thầy đến cái chết.
Các Thánh Tử Đạo là những vĩ nhân của nhân loại. Các ngài đã chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Đức Ki-tô như chính Đức Ki-tô đã chết cho các ngài.
Các Thánh Tử Đạo hiên ngang vì đã đáng được chịu đau khổ cho Đức Ki-tô. Các ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy chương, huân chương chiến công. Các Ngài chềt Tử Đạo là chết vì Đức Ki-tô, đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu.
Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa lựa khoát: theo Đức Ki-tô hay theo vua quan ? Theo Đức Ki-tô là sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Ki-tô. Giây phút quyết định ấy chỉ có các ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu Tử Đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả.
Các ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết: “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” ( Mt 10, 32 ). ( x. Thiên Hùng Sử trang 4 ).
Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng muôn ngàn vạn nét nhưng nét đẹp nhất trong chân dung các Ngài là Niềm Tin Phục Sinh. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát Thánh Ca, Thánh Vịnh. Ra pháp trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Halleluia, luôn hướng về trời cao với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát mãi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong Mầu Nhiệm Tự Huỷ và Hiến Dâng. Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin của những con người xác tín rằng: chết vì Đức Ki-tô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh cửu; chết là cánh cửa im lìm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.
Bài học của các vị Tử Đạo không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây từng phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân. Sự sống đó luôn kêu mời chúng ta: mỗi ngày chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng và đấu tranh cho Chân Lý. Sự sống đó hứa hẹn với chúng ta một ngày sau rạng rỡ, ngày đoàn tụ với cha anh chúng ta trên cõi bất diệt. ( x. Thiên Hùng Sử, trang 495 ).
Niềm Tin Phục Sinh mãi mãi là ánh sáng soi dẫn từng suy nghĩ từng lời nói từng việc làm của người tín hữu trong cuộc sống hàng ngày.
Giu-se Túc, thiếu niên, sinh năm 1852 tại Hoàng Xá, Bắc Ninh. Tử Đạo 1.6.1862, bị xử trảm: 24/11-58
001. Giu-se Túc, thiếu niên, sinh năm 1852 tại Hoàng Xá, Bắc Ninh.
Tử Đạo 1.6.1862, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
002. Mát-thêu Lê Văn Gẫm, thương gia, sinh năm 1813 tại Gò Công, Biên Hòa.
Tử Đạo ngày 11.5.1847 tại Chợ Đũi, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
003. Melchior Garcia Sampedro Xuyên, Giám Mục Dòng Đa-minh, sinh 1821 tại Cortes, Asturias, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 28.7.1858 tại Nam Định, bị xử lăng trì đời vua Tự Đức.
004. Francois Gil de Fedrich Tế, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1702 tại Tortosa, Cataluna, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 22.1.1745 tại Thăng Long, bị xử trảm đời chúa Trịnh Doanh.
005. Đa-minh Nguyễn Văn Hạnh – Diệu, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1772 tại Năng A, Nghệ An.
Tử Đạo ngày 1.8.1838 tại Ba Tòa, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
006. Phao-lô Hạnh, Giáo Dân, sinh năm 1826 tại chợ Quán, Gia Định.
Tử Đạo ngày 28.5.1859 tại Sài-gòn, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
007. Đa-minh Henares Minh, Giám Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1765 tại Baena, Cordova, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 25.6.1838 tại Nam Định, bị xử trảm đời vua Minh Mạng. 008. Jeronimo Hermosilla Liêm, Giám Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1880 tại S. Domingo de la Calzadar, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 1.11.1861 tại Hải Dương, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
009. Giu-se Đỗ Quang Hiển, Thầy Giảng, sinh năm 1775 tại Đồng Chuối, Ninh Bình.
Tử Đạo ngày 9.5.1840 tại Nam Định, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
010. Phê-rô Nguyễn Văn Hiển, Thầy Giảng, sinh năm 1783 tại Đồng Chuối, Ninh Bình.
Tử Đạo ngày 28.4.1840 tại Ninh Bình, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
011. Si-mon Phan Đắc Hòa, y sĩ, sinh năm 1878 tại Mai Vinh, Thừa Thiên.
Tử Đạo ngày 12.12.1840 tại An Hòa, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
012. Gio-an Đoàn Trinh Hoan, Linh Mục, sinh năm 1798 tại Kim Long, Thừa Thiên.
Tử Đạo ngày 26.5.1861 tại Đồng Hới, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
013. Âu-tinh Phan Viết Huy, binh sĩ, sinh năm 1795 tại Hạ Linh, Nam Định.
Tử Đạo ngày 12.6.1839 tại Thừa Thiên, bị xử lăng trì đời vua Minh Mạng.
014. Đa-minh Huyện, Giáo Dân, sinh năm 1817 tại Đông Thành, Thái Bình.
Tử Đạo ngày 5.6.1862 tại Nam Định, bị thiêu sinh đời vua Tự Đức.
015. Lô-ren-sô Nguyễn Văn Hưởng, Linh Mục, sinh năm 1802 tại Kẻ Sài, HàNội.
Tử Đạo ngày 13.2.1856 tại Ninh Bình, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
016. Mi-ca-e Hồ Đình Hy, quan Thái Bộc, sinh năm 1808 tại Như Lâm, Thừa Thiên.
Tử Đạo ngày 22.5.1857 tại An Hòa, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
017. Francois Jaccard Phan, Linh Mục Hội Thừa Sai Paris, sinh năm 1799 tại Onnion, Annecy, Pháp.
Tử Đạo ngày 21.9.1838 tại Nhan Biều, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
018. Đa-minh Phạm Viết Khảm, auan Án, Dòng Ba Đa-minh, sinh năm 1779 tại Quần Cống, Nam Định.
Tử Đạo ngày 13.1.1859 tại Nam Định, bị xử giảo đời vua Tự Đức.
019. Giu-se Nguyễn Duy Khang, Thầy Giảng, Dòng Ba Đa-minh, sinh năm 1832 tại Trà Vinh, Nam Định.
Tử Đạo ngày 6.12.1861 tại Hải Dương, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
020. Phê-rô Phạm Khanh, Linh Mục, sinh năm 1780 tại Hòa Huệ, Nghệ An.
Tử Đạo ngày 12.7.1842 tại Hà Tĩnh, bị xử trảm đời vua Thiệu Trị
021. Phê-rô Võ Đăng Khoa, Linh Mục, sinh năm 1790 tại Thuận Nghĩa, Nghệ An.
Tử Đạo ngày 24.11.1840 tại Đồng Hới, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
022. Phao-lô Phạm Khắc Khoan, Linh Mục, sinh năm 1771 tại Duyên Mậu, Ninh Bình.
Tử Đạo ngày 28.4.1840 tại Ninh Bình, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
023. Tô-ma Khuông, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1789 tại Nam Hào, Hưng Yên.
Tử Đạo ngày 30.1.1860 tại Hưng Yên, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
024. Vinh-sơn Lê Quang Liêm, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1732 tại Trà Lũ, Nam Định.
Tử Đạo ngày 7.11.1773 tại Đồng Mơ, bị xử trảm đời chúa Trịnh Sâm.
025. Lu-ca Vũ Bá Loan, Linh Mục, sinh năm 1756 tại Trại Bút, Phú Đa.
Tử Đạo ngày 5.6.1840 tại Ô Cầu Giấy, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
026. Pedro Almato Bình, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1830 tại San Feliz Saserra, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 1.11.1861 tại Hải Dương, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
027. Matteo Alonzo Leciniana Đậu, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1702 tại Nava del Rey, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 22.1.1745 tại Thăng Long, bị xử trảm đời chúa Trịnh Doanh.
028. Valentino Berrio Ochoa Vinh, Giám Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1827 tại Elorrio Vizcaya, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 1.11.1861 tại Hải Dương, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
029. Jean Louis Bonnard Hương, Linh Mục Hội Thừa Sai Paris, sinh 1824 tại Saint-Christo-em-Jarez, Pháp.
Tử Đạo ngày 1.5.1852 tại Nam Định, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
030. Phao-lô Tống Viết Bường, quan Thị Vệ, sinh tại Phủ Cam, Huế.
Tử Đạo ngày 23.10.1883 tại Thở Đúc, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
031. Đa-minh Cẩm, Linh Mục Dòng Ba Đa-minh, sinh tại Cẩm Chương, Bắc Ninh.
Tử Đạo ngày 11.3.1859 tại Hưng Yên, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
032. Phan-xi-cô Xa-vi-ê Cần, Thầy Giảng, sinh năm 1803 tại Sơn Miêng, Hà Đông.
Tử Đạo ngày 20.11.1837 tại Ô Cầu Giấy, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
033. Giu-se Hoàng Lương Cảng, y sĩ, Trùm Họ, Dòng Ba Đa-minh, sinh năm 1763 Làng Văn, Bắc Giang.
Tử Đạo ngày 5.9.1838 tại Bắc Ninh, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
034. Jacinto Castaneda Gia, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1743 tại Javita, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 7.11.1773 tại Đồng Mơ, bị xử trảm đời chúa Trịnh Sâm.
035. Phan-xi-cô Đỗ Văn Chiểu, Thầy Giảng, sinh năm 1797 tại Trung Lễ, Liên Thùy, Nam Định.
Tử Đạo ngày 12.6.1838 tại Nam Định, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
036. Gio-an Bao-ti-xi-ta Còn, lý trưởng, sinh năm 1805 tại Kẻ Báng, Nam Định.
Tử Đạo ngày 8.11.1840 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
037. Jean Charles Cornay Tân, Linh Mục Hội Thừa Sai Paris, sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp.
Tử Đạo ngày 20.9.1837 tại Sơn Tây, bị xử lăng trì đời vua Minh Mạng.
038. Etienne Théodore Cuénot Thể, Giám Mục Hội Thừa Sai Paris, sinh năm 1802 tại Bélieu, Besancon, Pháp.
Tử Đạo ngày 14.11.1861 tại Bình Định, chết rũ tù đời vua Tự Đức.
039. Clemente Ignatio Delgaho Hy, Giám Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1761 tại Villa Felice, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 21.7.1838 tại Nam Định, chết rũ tù đời vua Minh Mạng.
040. Mát-thêu Nguyễn Văn Phượng – Đắc, Trùm Họ, sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình Tử Đạo ngày 26.5.1861 tại Đồng Hới, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
041. Jose Maria Diaz Sanjuro An, Giám Mục Dòng Đa-minh, sinh 1818 tại Santa Eulalia de Suegos, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 20.7.1857 tại Nam Định, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
042. Bê-na-đô Võ Văn Duệ, Linh Mục, sinh năm 1755 tại Quần Anh, Nam Định.
Tử Đạo ngày 26.11.1839 tại Ba Tòa, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
043. Pierre Dumoulin-Borie Cao, Giám Mục Hội Thừa Sai Paris, sinh năm 1808 tại Beynat, Tulle, Pháp.
Tử Đạo ngày 24.11.1838 tại Đồng Hới, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
044. An-rê Trần An Dũng – Lạc, Linh Mục, sinh năm 1795 tại Bắc Ninh.
Tử Đạo ngày 21.12.1839 tại Ô Cầu Giấy, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
045. Phê-rô Dũng, Giáo Dân, sinh tại Đông Hào, Thái Bình.
Tử Đạo ngày 6.6.1862 tại Nam Định, bị thiêu sống đời vua Tự Đức.
046. Vinh-sơn Dương, Giáo Dân, sinh tại Doãn Trung, Thái Bình.
Tử Đạo ngày 6.6.1862 tại Nam Định, bị thiêu sống đời vua Tự Đức.
047. Phao-lô Vũ Văn Dương – Đổng, Giáo Dân, sinh năm 1792 tại Vực Đường, Hưng Yên.
Tử Đạo ngày 3.6.1862 tại Nam Định, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
048. Phê-rô Đa, Giáo Dân, sinh tại Ngọc Cục, Nam Định.
Tử Đạo ngày 17.6.1862 tại Nam Định, bị thiêu sống đời vua Tự Đức.
049. Đa-minh Đinh Đạt, binh sĩ, sinh năm 1803 tại Phú Nhai, Nam Định.
Tử Đạo ngày 18.7.1839 tại Nam Định, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
050. Gio-an Đạt, Linh Mục, sinh năm 1765 tại Đồng Chuối, Thanh Hóa.
Tử Đạo ngày 28.10.1798 tại chợ Rạ, bị xử trảm đời vua Cảnh Thịnh.
051. Mát-thêu Nguyễn Văn Đắc-Phượng, Trùm Họ, sinh tại Kẻ Lai, Quảng Bình.
Tử Đạo ngày 26.5.1861, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
052. Tô-ma Nguyễn Văn Đệ, Giáo Dân, sinh năm 1810 tại Bồ Trang, Nam Định.
Tử Đạo ngày 19.12.1839 tại Cổ Mê, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
053. An-tôn Nguyễn Đích, Giáo Dân, sinh tại Chi Long, Hà Nội.
Tử Đạo ngày 12.8.1838 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
054. Vinh-sơn Nguyễn Thế Điểm, Linh Mục, sinh năm 1761 tại Ân Đô, Quảng Trị.
Tử Đạo ngày 24.11.1838 tại Đồng Hới, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
055. Phê-rô Trương Văn Đường, Thầy Giảng, sinh năm 1808 tại Kẻ Sở, Hà Nam.
Tử Đạo ngày 18.12.1838 tại Sơn Tây, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
056. Jose Fernandez Hiền, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1775 tại Ventosa de la Cueva, Tây Ban Nha.
Tử Đạo ngày 24.7.1838 tại Nam Định, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
057. Francois Isidore Gagelin Kính, Linh Mục Thừa Sai Paris, sinh 1799 tại Montperreux, Besancon, Pháp.
Tử Đạo ngày 17.10.1833 tại Bãi Dâu, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
058. Phao-lô Lê Văn Lộc, Linh Mục. sinh năm 1830 tại An Nhơn, Gia Định.
Tử Đạo ngày 13.2.1859 tại Gia Định, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
059. Giu-se Nguyễn Văn Lựu, Trùm Họ, sinh năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long.
Tử Đạo ngày 2.5.1854 tại Vĩnh Long, chết rũ tù đời vua Tự Đức.
060. Phê-rô Nguyễn Văn Lựu, Linh Mục, sinh năm 1812 tại Gò Vấp, Gia Định.
Tử Đạo ngày 7.4.1861 tại Mỹ Tho, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
061. Đa-minh Mạo, Giáo Dân, sinh năm 1818 tại Ngọc Cục, Nam Định.
Tử Đạo ngày 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
062. Joseph Marchand Du, Linh Mục Hội Thừa Sai Paris, sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp.
Tử Đạo ngày 30.11.1835 tại Thợ Đúc, xử bá đao đời vua Minh Mạng.
063. Đa-minh Mầu, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1808 tại Phú Nhai, Nam Định.
Tử Đạo ngày 5.11.1858 tại Hưng Yên, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
064. Phan-xi-cô Xa-vi-ê Hà Trọng Mậu, Thầy Giảng, Dòng Ba Đa-minh, sinh năm 1790 tại Kẻ Riền, Thái Bình.
Tử Đạo ngày 19.12.1839 tại Cổ Mễ, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
065. Phi-líp-phê Phan Văn Minh, Linh Mục,. sinh năm 1815 tại Cái Mơn, Vĩnh Long.
Tử Đạo ngày 3.7.1853 tại Đinh Khao, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
066. Âu-tinh Nguyễn Văn Mới, Giáo Dân, Dòng Ba Đa-minh, sinh năm 1806 tại Phú Trang, Nam Định.
Tử Đạo ngày 19.12.1839 tại Cổ Mễ, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
067. Mi-ca-e Nguyễn Huy Mỹ, lý trưởng, sinh năm 1804 tại Kẻ Vĩnh, Hà Nội.
12.8.1838 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
068. Phao-lô Nguyễn Văn Mỹ, Thầy Giảng, sinh năm 1798 tại Kẻ Non, Hà Nam.
Tử Đạo ngày 18.12.1838 tại Sơn Tây, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
069. Gia-cô-bê Đỗ Mai Năm, Linh Mục, sinh năm 1781 Đông Biên, Thanh Hóa.
Tử Đạo ngày 12.8.1838 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
070. Pierre Francois Néron Bắc, Linh Mục Hội Thừa Sai Paris, sinh năm 1818 tại Bornay, Saint-Claude, Pháp.
Tử Đạo ngày 3.11.1860 tại Sơn Tây, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
071. Phao-lô Nguyễn Ngân, Linh Mục, sinh năm 1771 tại Kẻ Biên, Thanh Hóa.
Tử Đạo ngày 8.11.1840 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
072. Giu-se Nguyễn Đình Nghi, Linh Mục, sinh năm 1771 tại Kẻ Vồi, Hà Nội.
Tử Đạo ngày 8.11.1840 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
073. Lô-ren-sô Ngôn, Giáo Dân, sinh tại Lục Thủy, Nam Định.
Tử Đạo ngày 22.5.1862 tại Nam Định, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
074. Đa-minh Nguyên, Giáo Dân, sinh năm 1802 tại Ngọc Cục, Nam Định.
Tử Đạo ngày 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
075. Đa-minh Nhi, Giáo Dân, sinh tại Ngọc Cục, Nam Định.
Tử Đạo ngày 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
076. Đa-minh Ninh, Giáo Dân, sinh năm 1835 tại Trung Linh, Nam Định.
2.6.1862 tại An Triêm, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
077. Em-ma-nu-en Lê Văn Phụng, Trùm Họ, sinh 1796 tại Đầu Nước, Cù Lao Giêng, An Giang
Tử Đạo ngày 31.7.1859 tại Châu Đốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
078. Phê-rô Đoàn Công Quý, Linh Mục, sinh năm 1826 tại Búng, Gia Định.
Tử Đạo ngày 31.7.1859 tại Châu Đốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
079. An-tôn Nguyễn Hữu Quynh, y sĩ, sinh năm 1768 tại Mỹ Hương, Quảng Bình.
Tử Đạo ngày 10.7.1840 tại Đồng Hới, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
080. Augustin Schoeffler Đông, Linh Mục Hội Thừa Sai Paris, sinh năm 1822 tại Mittelbonn, Nancy, Pháp.
Tử Đạo ngày 1.5.1851 tại Sơn Tây, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
081. Giu-se Phạm Trọng Tả, cai tổng, sinh năm 1800 tại Quần Cống, Nam Định.
Tử Đạo ngày 13.1.1859 tại Nam Định, bị xử giảo đời vua Tự Đức.
082. Gio-an Bao-ti-xi-ta Đinh Văn Thành, Thầy Giảng, sinh năm 1796 tại Nôn Khê, Ninh Bình.
Tử Đạo ngày 28.4.1840 tại Ninh Bình, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
083. A-nê Lê Thị Thành – Đê, Giáo Dân, sinh năm 1781 tại Bá Đền, Thanh Hóa.
Tử Đạo 12.7.1841 tại Nam Định, chết rủ tù đời vua Thiệu Trị.
084. Ni-cô-la Bùi Đức Thể, binh sĩ, sinh năm 1792 tại Kiên Trung, Nam Định.
Tử Đạo ngày 12.6.1839 tại Thừa Thiên, bị xử lăng trì đời vua Minh Mạng.
085. Phê-rô Trương Văn Thi, Linh Mục, sinh năm 1763 tại Kẻ Sở, Hà Nội
Tử Đạo 21.12.1839 tại Ô Cầu Giấy, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
086. Giu-se Lê Đăng Thi, cai đội, sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị.
Tử Đạo ngày 25.10.1860 tại An Hòa, bị xử giảo đời vua Tự Đức.
087. Tô-ma Trần Văn Thiện, Chủng Sinh, sinh năm 1820 tại Trung Quán, Quảng Bình.
Tử Đạo ngày 21.9.1838 tại Nhan Biều, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
088. Lu-ca Phạm Trọng Thìn, cai tổng, sinh năm 1819 tại Quần Cống, Nam Định.
Tử Đạo ngày 13.1.1859 tại Nam Định, bị xử giảo đời vua Tự Đức.
089. Mác-ti-nô Tạ Đức Thịnh, Linh Mục, sinh năm 1760 tại Kẻ Sặt, Hà Nội
Tử Đạo 8.11.1840 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
090. Ma-ri-nô Thọ, Trùm Họ, sinh năm 1787 tại Kẻ Báng, Nam Định.
Tử Đạo 8.11.1840 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
091. An-rê Nguyễn Kim Thông – Năm Thuông, Giáo Dân, sinh năm 1790 tại Gò Thị, Bình Định.
Tử Đạo 15.7.1855 tại Mỹ Tho, chết rủ trong tù đời vua Tự Đức.
092. Phê-rô Thuần, Giáo Dân, sinh tại Đông Phú, Thái Bình.
Tử Đạo 6.6.1862 tại Nam Định, bị thiêu sống đời vua Tự Đức.
093. Phao-lô Lê Bảo Tịnh, Linh Mục, sinh năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hoá.
Tử Đạo 6.4.1857 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
094. Đa-minh Toái, Giáo Dân, sinh năm 1811 tại Đông Thành, Thái Bình.
Tử Đạo 5.6.1862 tại Nam Định, bị thiêu sống đời vua Tự Đức.
095. Tô-ma Toán, Thầy Giảng Dòng Ba Đa-minh, sinh năm 1767 tại Cần Phan, Nam Định.
Tử Đạo 27.6.1840 tại Nam Định, chết rủ trong tù đời vua Minh Mạng.
096. Đa-minh Trạch Đoài, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1772 tại Ngoại Vối, Nam Định.
Tử Đạo ngày 18.9.1840 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
097. Em-ma-nu-en Nguyễn Văn Triệu, Linh Mục, sinh năm 1756 tại Thợ Đúc, Phú Xuân, Huế.
Tử Đạo ngày 17.9.1798 tại Bãi Dâu, bị xử trảm đời vua Cảnh Thịnh.
098. An-rê Trần Văn Trông, binh sĩ, sinh năm 1808 tại Kim Long, Huế.
Tử Đạo ngày 28.11.1835 tại An Hoà, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
099. Phê-rô Vũ Văn Truật, Thầy Giảng, sinh năm 1816 tại Kẻ Thiếc, Hà Nam.
Tử Đạo ngày 18.12.1838 tại Sơn Tây, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
100. Phan-xi-cô Trần Văn Trung, cai đội, sinh năm 1825 tại Phan Xá, Quảng Trị.
Tử Đạo ngày 2.5.1858 tại An Hoà, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
101. Giu-se Tuân, Linh Mục Dòng Đa Minh, sinh năm 1821 tại Trần Xá, Hưng Yên.
Tử Đạo ngày 30.4.1861 tại Hưng Yên, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
102. Phan-xi-cô Trần Văn Trung, Cai đội, sinh năm 1825 tại Phan Xá, Quảng Trị.
Tử Đạo ngày 2.5.1858 tại An Hoà, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
103. Phê-rô Nguyễn Bá Tuần, Linh Mục, sinh năm 1766 tại Ngọc Đồng, Hưng Yên.
Tử Đạo 15.7.1838 tại Nam Định, chết rủ tù đời vua Minh Mạng.
104. Phê-rô Lê Tù, Linh Mục, sinh năm 1773 tại Bằng Sơn, Hà Đông.
Tử Đạo ngày 11.10.1833 tại Quan Ban, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
105. Phê-rô Nguyễn Văn Tự, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1796 tại Ninh Cường, Nam Định.
Tử Đạo ngày 5.9.1838 tại Bắc Ninh, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
106. Phê-rô Nguyễn Khắc Tự, Thầy Giảng, sinh năm 1811 tại Ninh Bình.
Tử Đạo ngày 10.7.1840 tại Đồng Hới, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
107. Đa-minh Tước, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1775 tại Trung Lao, Nam Định.
Tử Đạo ngày 2.4.1839 tại Nam Định, tra tấn đến chết đời vua Minh Mạng.
108. An-rê Tường, Giáo Dân, sinh năm 1812 tại Ngọc Cúc, Nam Định.
Tử Đạo 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
109. Vinh-sơn Tường, Giáo Dân, sinh năm 1814 tại Ngọc Cục, Nam Định.
Tử Đạo 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
110. Đa-minh Bùi Văn Úy, Thầy Giảng Dòng Ba Đa-minh, sinh năm 1801 tại Tiên Môn, Thái Bình.
Tử Đạo 19.12.1839 tại Cổ Mễ, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
111. Giu-se Nguyễn Đình Uyển, Thầy Giảng Dòng Ba Đa-minh, sinh năm 1775 tại Ninh Cường, Nam Định.
Tử Đạo 4.7.1838 tại Hưng Yên, chết rũ tù đời vua Minh Mạng.
112. Phê-rô Đoàn Văn Vân, Thầy Giảng, sinh năm 1780 tại Kẻ Bói, Hà Nam.
Tử Đạo ngày 25.5.1857 tại Sơn Tây, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
113. Jean Theophane Vénard Ven, Linh Mục Hội Thừa Sai Pháp, sinh n8m 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Poitiers, Pháp.
Tử Đạo ngày 2.2.1861 tại Ô Cầu Giấy, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
114. Giu-se Đặng Văn Viên, Linh Mục, sinh năm 1787 tại Tiên Chu, Hưng Yên.
Tử Đạo ngày 21.8.1838 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
115. Stê-pha-nô Nguyễn Văn Vinh, Giáo Dân, Dòng Ba Đa Minh, sinh năm 1814 tại Phú Trang, Nam Định.
Tử Đạo ngày 19.12.1839 tại Cổ Mễ, bị xử giảo đời vua Minh Mạng.
116. Đa-minh Nguyễn Văn Xuyên, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh năm 1786 tại Hưng Lập, Nam Định.
Tử Đạo ngày 26.11.1839 tại Bảy Mẫu, bị xử trảm đời Vua Minh Mạng.
117. Vinh-sơn Đỗ Yến, Linh Mục Dòng Đa-minh, sinh nam 1764 tại Trà Lũ, Nam Định.
Tử Đạo ngày 30.6.1838 tại Hải Dương, bị xử trảm đời vua Minh Mạng.
GIÁO HỘI VIỆT NAM KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM 470 NĂM, MỘT CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ
Hơn 2.000 năm trước, Cha Gisu đ phn cng cc mơn đệ: “Thầy đ được trao tồn quyền: 24/11-59
Hơn 2.000 năm trước, Chúa Giêsu đã phán cùng các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).
Từ sau ngày Chúa Giêsu phát lệnh truyền giáo đến nay, sứ vụ truyền giáo vẫn không ngừng được tiếp nối trong lòng Giáo Hội.
Riêng tại Giáo Hội Việt Nam, 470 năm truyền giáo đang đi qua là cả một đoạn đường dài chông gai đầy thăng trầm, thử thách. Đó là một chặng đường lịch sử hào hùng dệt bằng sức lực của biết bao nhiêu tâm hồn nhiệt thành nhuộm thắm mồ hôi, nước mắt, kể cả đầu rơi máu đổ. 470 năm đang đi qua. Giáo Hội Việt Nam đang bước vào những tháng cuối cùng của Năm Thánh Truyền Giáo, kỷ niệm 470 năm truyền giáo ấy, cũng là dịp nhìn lại gần một nửa thiên niên kỷ hành trình truyền giáo mà báo đáp ơn nghĩa của tiền nhân bằng chính tình yêu và lòng vâng phục trong đức tin của mỗi Kitô hữu hôm nay.
Phải đến ngày 24.11 mới là chính ngày lễ Bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Nhưng tại quê hương này, Hội Đồng Giám mục cho phép mừng trọng thể vào Chúa nhật thứ XXXIII thường niên, Chúa nhật 14.11.2004. Nhân dịp này, chúng ta thử nhìn lại một cách ngắn gọn những gì đã diễn ra trong quá khứ. Dù chưa đầy đủ, nhưng vẫn có thể giúp ta soi rọi lòng mình mà sống đức tin giữa cuộc đời hôm nay và giữ nghĩa Chúa cho trọn.
1. Mối nghi ngờ đưa tới bắt đạo
Dù luôn phải đối diện với thực trạng phân tranh bờ cõi, Đàng Ngoài dưới quyền chúa Trịnh, Đàng Trong dưới quyền chúa Nguyễn, các nhà chúa nơi chốn triều đình vẫn mãi mê đắm chìm với những vui thú của riêng mình, bằng những trò giải trí rất sa hoa hoặc rất cao cấp.
Chính lúc ấy, lại xuất hiện một thứ tôn giáo mới. Thứ tôn giáo mới này thật xa lạ, có những hình thức tôn thờ khó hiểu, có thể gây nguy hiểm cho sự an dân, mạnh quốc chăng?
Vì thế, bắt đầu từ sự khó hiểu và ngộ nhận, mối nghi ngờ của hoàng triều ngày càng lớn dần, đến nỗi sau cùng, trở thành hành động bách hại khắp nơi kéo dài đến 300 năm.
Suốt 300 năm bách hại, là 300 năm viết nên một trang sử bi đát cho dân tộc VN: Chính người VN sát hại đồng bào VN thân yêu của mình. Nhưng đó lại là 300 năm Giáo Hội Việt Nam đã viết nên một trang sử đẹp lộng lẫy: vì nó được viết không phải bằng những giọt máu mà là bằng những dòng máu của đức tin.
Vì thế, nhân dịp lễ các thánh Tử Đạo, chúng ta ôn lại cái chết diễm phúc của vị tử đạo đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam: Thầy giảng Anrê Phú yên. Ôn lại như thế để, trước là trình bày tiêu biểu mang tính chất đại diện cho đức tin; sau là vì sự nhìn lại rất cần thiết để ta sống lại những ngày gian khó của cha ông mà biết ơn tất cả những ai đã đặt nền móng đức tin trên quê hương Việt Nam thân yêu này.
Ôn lại tấm gương sáng lạn của Thầy giảng Anrê, chúng ta không dừng lại ở một tấm gương trẻ trung này. Đúng hơn, đó là một gợi nhớ cho đức tin của bạn và tôi, giúp chúng ta sống lại cả một thời kỳ rực rỡ của Giáo Hội Mẹ Việt Nam, nơi đã sản sinh hàng trăm ngàn tín hữu Công giáo Việt Nam uy hùng và anh dũng.
2. Thầy giảng Anrê Phú Yên
Lý lịch của Thầy Anrê Phú Yên được người ta biết quá đơn giản: Sinh khoảng 1624 hay 1625. Là con trai út trong một gia đình nghèo, mồ côi cha. Mẹ là bà Gioanna. Khoảng 15 tuổi lãnh bí tích rửa tội. 17 tuổi gia nhập hội thầy giảng. 18 tuổi tuyên khấn trong bậc thầy giảng. 19 tuổi được phúc tử đạo.
Ngay một cái tên thật của Thầy cũng không còn ai nhớ. Cha Đắc Lộ, người rửa tội cho Thầy, chỉ gọi Thầy bằng tên thánh. Bởi đó, lòng quí mến của mọi người đã tặng cho Thầy một tên mới: Anrê Phú Yên. Đó là tên thánh và tên của quê hương Thầy ghép lại. Nhưng suy cho cùng, lại thấy hay quá. Bởi Thầy có còn giữ cho riêng mình điều gì nữa đâu. Mạng sống, thân xác - mỗi một người sinh ra trong cuộc đời chỉ có một duy nhất, nghĩa là rất quí giá, chết là mất, chết là không còn hiện diện, dù vậy Thầy cũng đã dâng hiến.
Ở lứa tuổi còn quá trẻ trung, sức sống đang dồi dào mãnh liệt, một lứa tuổi sẽ đi qua và không bao giờ trở lại, Thầy cũng đã dâng hiến. Bởi đó một cái tên có là gì đáng để mà nói. Anrê Phú Yên, từ ngày nằm xuống, giống như muôn ngàn vị thánh, đã trở thành bất hũ trong lòng người, là gia sản chung của cả Giáo Hội, nghĩ cho cùng, được mang tên quê hương, Thầy chính là người hạnh phúc.
Cứ tưởng rằng ở tuổi 19, người ta sẽ rất nông nổi, bồng bột. Cứ tưởng 19 tuổi, người ta chẳng tha thiết gì đến chuyện đạo đức, lạnh nhạt với việc cầu nguyện, lạnh nhạt với việc sống đức tin. Nào ngờ, một chàng trai 19 tuổi như Anrê Phú Yên đã trở thành thánh nhân.
Ở lứa tuổi mới bắt đầu bước vào tuổi thanh niên, lứa tuổi đẹp nhất đời người, Anrê có quyền sống để hưởng niềm vui, hưởng hạnh phúc mà tuổi trẻ vốn có, nhưng Anrê đã khước từ tất cả để chọn cho mình một vinh quang khác thiêng liêng, sâu lắng và đẹp vô cùng: Vinh Quang Thập Giá. Vinh quang mà Chúa Giêsu đã chọn, Anrê đã bước theo và rao giảng trong suốt những chuỗi ngày làm Giáo Lý Viên của mình.
3. Cuộc tử đạo của Thầy Anrê
Cái chết của Thầy giảng Anrê được cha Đắc Lộ kể lại trong cuốn Hành trình truyền giáo: “Một tên lính lấy giáo đâm Thầy từ phía lưng thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Lúc đó Thầy Anrê nhìn tôi âu yếm như thể vĩnh biệt tôi. Tôi bảo Thầy hãy nhìn lên trời nơi Thầy sắp tới và có Chúa Giêsu đón Thầy. Thầy ngước mắt lên trên cao và không nhìn xuống nữa. Cũng tên lính rút giáo ra, đâm lần thứ hai, rồi đâm lại lần nữa như thể muốn tìm trái tim Thầy.Nhưng người vô tội vẫn không nao núng, thật là kỳ diệu. Sau cùng một tên đao phủ thấy lưỡi giáo không làm cho Thầy lăng xuống đất, liền lấy mã tấu chém cổ, nhưng vẫn chưa xong, phải thêm nhát nữa làm đứt hẳn cổ, đầu rơi về bên tay phải chỉ còn vướng mảnh da”.
Có một điều đáng nói, cần phải nhấn mạnh đó là ngay chính lúc lý hình vung gươm chặt phăng chiếc đầu của mình, Thầy Anrê còn kịp thốt lên hai tiếng “Giêsu” đầy kính trọng và yêu quí.
Cha Đắc Lộ viết tiếp: “Nhưng tôi nghe rất rõ cùng lúc đầu rơi khỏi cổ, thì tên thánh Chúa Giêsu không phải từ nơi miệng Thầy thốt ra mà qua vết thương ở cổ, và cùng lúc hồn bay về trời thì xác lăn xuống đất”.
“Giêsu” thánh danh mà Anrê đã tin tưởng trong ngày được rửa tội ở tuổi mười lăm. “Giêsu” cũng là thánh danh mà Anrê đã từng giảng dạy trong ba năm làm Giáo Lý viên. Và trong giờ chịu tử nạn, thánh danh Giêsu trở thành sức mạnh để Anrê chấp nhận cái chết, một sức mạnh can trường giống như lời thánh Phaolô nói: “Chúng ta Chịu khổ cực tư bề, nhưng không bị đè bẹp; chúng ta long đong, nhưng không tuyệt vọng; chúng ta bị bắt bớ, nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt” (2 Cr 4, 8- 9).
Thầy Anrê đã tin rằng: “Chúng ta luôn mang trên thân xác mình sự chết của Chúa Kitô, để sự sống của Chúa Kitô được tỏ hiện nơi thân xác chúng ta” (2 Cr 4, 10). Để rồi giây phú cuối cùng, khi thân xác chẳng còn toàn vẹn, Thánh Danh “Giêsu”, một lần nữa bật thốt lên, nghe sao mà mạnh mẽ, khí phách, hãnh diện và tin tưởng tuyệt đối. Đẹp! Đẹp quá cái chết của vị Anh Hùng, chết cho Danh Thánh tuyệt diệu!
Chính Chúa Giêsu, vì là Thiên Chúa, nên Người là chủ thân xác chúng ta. Nếu Chúa muốn cuộc đời mỗi Kitô hữu là làm chứng cho Người, thì khi cần, dẫu là cái chết, chúng ta cũng chết vì Chúa Kitô. Anrê đã để lại cho đời, cho Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt cho giới trẻ Việt Nam tấm gương sáng ngời của một người trung thành trong đời sống Kitô hữu của mình.
4. 470 năm, một chặng đường lưu dấu ơn Thiên Chúa
Nhìn lại một chặng đường đã qua suốt 470 năm, chúng ta khám phá ra giữa lòng Giáo Hội Việt Nam là một đức tin quá kiên trung, quá lạ thường mà mãi mãi người đời sau vẫn cứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi chiêm ngưỡng những thử thách, những gian lao của buổi đầu đặt nền móng cho Giáo Hội Việt Nam.
Đặc biệt chiêm ngắm tấm gương trung kiên của các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta càng bắt gặp nơi dòng Lịch Sử ấy cả một mầu nhiệm lớn quá đổi: phong ba, bão táp chỉ là đổ thêm dầu cho đức tin cháy sáng.
Càng khó khăn bao nhiêu, đức tin càng biểu lộ tính anh dũng của nó bấy nhiêu. Càng khó khăn, thì lại vô tình làm cho đức tin càng được dồn nén, càng được nung nấu, càng được khẳng định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh chóng lan tỏa mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào.
Nhìn lại dòng lịch sử của Giáo Hội Việt Nam, ta chỉ biết cảm nhận trọn vẹn một chân lý không hề sai chạy: Chính bàn tay Thiên Chúa đã hiện diện để nâng đỡ và lèo lái lịch sử Giáo Hội Việt Nam.
Ngày nay Giáo Hội Việt Nam rất hãnh diện, tự hào và tràn đầy hy vọng nhìn lại lịch sử của chính mình suốt 470 năm qua. Tạ ơn Thiên Chúa đã luôn luôn quan phòng, để tất cả những gì Người muốn đều diễn tiến tốt đẹp theo thánh ý của Người.
Cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân đức tin, Người đã ban cho chúng ta. Chúng ta tiếp tục cầu xin Người gìn giữ chúng ta trong ơn Đức tin hôm nay và mãi về sau, để mỗi ngày, chúng ta xứng đáng hơn với các bậc tiền nhân của mình.
Hôm nay, hoà chung niềm hân hoan sốt mến với muôn triệu trái tim anh chị em tín hữu Việt Nam24/11-60
Hôm nay, hoà chung niềm hân hoan sốt mến với muôn triệu trái tim anh chị em tín hữu Việt Nam, chúng ta long trọng cử hành Thánh Lễ mừng kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Tâm tình đầu tiên của chúng ta trong Thánh Lễ nầy đó chính là tạ ơn Chúa. Bởi vì, Tử Đạo, trước hết là một hồng ân bao la của Thiên Chúa. Chính nhờ hồng ân nầy, đặc biệt, nhờ việc 117 Chứng Nhân Tử Đạo tại Việt Nam được tuyên phong Hiển Thánh trên bàn thờ của Giáo Hội, mà dân tộc Việt Nam, Hội Thánh Việt Nam được rạng rỡ vinh quang, và con cháu chúng ta hôm nay được dư tràn ân phúc.
Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, với chính giòng máu tử đạo khởi đầu của Đức Kitô đang chảy ra một lần nữa cách nhiệm mầu trên bàn thờ nầy, sẽ liên kết chúng ta lại gần với Cha Ông Tiên Tổ, giúp chúng ta biết trân trọng cái di sản đức tin mà Các Ngài đã để lại cho chúng ta bằng Lời chứng cao quí là chính cuộc tử đạo anh hùng của các Ngài.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa :
Kính thưa ông bà anh chị em, trong Thánh Thi của giờ Kinh Sách lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đã vang lên những lời thơ đẹp :
Vinh danh Chúa vì qua bao thế hệ,
Đức tin lồng vào trang sử đau thương.
Hạt chết đi ôm sức sống Tin Mừng,
Nhập vào đất nở nên hoa Giáo Hội.
Đó cũng chính là tư tưởng được nhắc đến cách rõ nét trong lời kinh kính Các Thánh Tử đạo Việt Nam mà người giáo dân nào cũng đã từng đọc : “Các Ngài đã chấp nhận nên hạt lúa gieo vào lòng đất / để Hội Thánh Việt Nam thu lượm được mùa lúa dồi dào / Nay Hội Thánh lại dâng các Ngài lên Chúa / như hoa quả đầu mùa để cám tạ tri ân…”
Và nếu hôm nay Giáo Hội tại Việt Nam kính trọng thể, thì ngày 24 tới đây, trên toàn thể hoàn cầu, Hội Thánh Công Giáo khắp nơi hân hoan kính nhớ những anh hùng Tử Đạo Việt Nam, như lời Thánh Thi Kinh Chiêu I của ngày lễ đặc biệt nầy :
Giáo Hội Năm Châu mừng Chư Vị,
Anh hùng tử đạo tại Việt Nam
Đau khổ ngàn trùng ba thế kỷ
Đầu rơi máu đổ vẫn bền gan.
Nhưng, 117 Vị Thánh Tử đạo được kính tôn trên bàn thờ Giáo Hội hôm nay là những ai mà lại được Hội Thánh hoàn vũ, Hội Thánh Việt Nam trân trọng kính nhớ đặc biệt như thế ?
Cũng chẳng có chi khác người như kiểu “Thánh Gióng, Phù Đổng Thiên Vương”, cũng chẳng làm nên những chuyện tai trời ách nước như kiểu Hít-le, bạo chúa Nê-ron hay Tần Thủy Hoàng…Đơn giản chỉ là :
- Những người nông dân thật thà chân chất : như Thánh Lô-ren-sô Ngôn, Đa-Minh Ninh, An-rê Tường, Đa-Minh Nhi…
- Những anh dân chài trên sông nước bềnh bồng : như Thánh Đinh văn Dũng, Đinh văn Thuần, Đa-Minh Toại, Đa-Minh Huyên
- Hoặc là một chàng thợ mộc nghèo nàn, đơn bạc : như Thánh Phêrô Đa.
- Họ cũng chỉ là những giáo dân rất bình thường, sống mộc mạc giản đơn, thực hành kinh bổn nơi xóm đạo nhà quê, hay lo lắng việc nhà Chúa với chức danh Trùm họ, Câu xứ : như Giuse Túc, Phaolô Hạnh, An-rê Kim Thông, Nguyễn Văn lựu.
- Đặc biệt trong số nầy có cả một người đàn bà, một người vợ đảm đang, một người mẹ hiền lành đạo đức trong một gia đình với 6 mặt con : Nữ Thánh Anê Lê Thị Thành.
- Cũng có cả những người từng là “bộ đội” của triều đình, sống cuộc đời lính : Thánh Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể…
- Dĩ nhiên làm sao thiếu được những gương mặt sáng ngời của các Vị Mục Tử chăn dắt đoàn chiên : đó là các Thánh Giám Mục như Stê-pha-nô Thể, Va-len-ti-nô O-choa, Linh mục An-rê Dũng Lạc, Lê Bảo Tịnh, Nguyễn Bá Tuần…
- Có cả những chàng thanh niên tuổi đời đầy mộng ước như chủng sinh Tôma thiện nhưng cũng có cả những vị quan uy quyền nơi cung đình như Thánh Hồ Đình Hy…
Cho dù thân phận có khác nhau đấy, tuổi đời có cách biệt đấy, nghề nghiệp mỗi người mỗi thứ… thì đều có chung một lựa chọn : Lựa chọn đứng về phía của Thiên Chúa, phía của Đức Ki-tô, phía của Tin Mừng, phía của chân lý, của Đạo thật như những lời chứng sống động sau :
- Thánh Mỹ thưa với quan Tổng đốc rằng : “Tôi đã suy xét kỹ, và tin nhận đạo Thiên Chúa là đạo thật, nên tôi không chối bỏ bao giờ”
- Thánh Phêrô Cao đã tâm nguyện : “Xin cho con chịu đau khổ vì danh Đức Ki-tô, được đón nhận ngành lá tử đạo về tới bến thiên đàng”
- Thánh Ki-Thông đáp lại quan tỉnh rằng : “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”
- Thánh Phêrô Truật phát biểu như một lời tục ngữ : “Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời”
- Thánh Em-ma-nu-en Phụng đã để lại di chúc tinh thần : “Con ơi hãy nhận lấy kỷ vật Cha trao laị : Đây là ảnh Đức Kitô, Chúa chúng ta, ảnh nầy quí hơn vàng bạc bội phần”
Và dĩ nhiên, tất cả đều có chung một kết cuộc : ngục tù, đau thương, khổ hình và cái chết tử đạo như những lời chứng đầy can đảm còn ghi lại :
- Thánh Phêrô Quí dõng dạc :
“Dù trăng trói, gông cùm tù rạc
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử”
- Thánh Phaolô Tịnh can đảm thưa với quan án : “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ý. Nhưng linh hồn là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”
- Thánh Phaolô Khoan đã hát lên lời nguyện hiến tế cuộc đời : “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài”
- Thánh Anrê Kim Thông : “Thà tôi bị lưu đày và phải chết vì Chúa, chứ tôi không chối đạo”.
Có khác không cái chết của các Thánh Tử Đạo với bao cái chết của các bậc anh hùng thế tục khi thất thế sa cơ? Thưa có đấy. Cái chết của những vị nầy tuy can đảm đó, anh hùng đó, nhưng tận thâm tâm vẫn pha lẫn một chút hận thù, một chút cay cú, một chút hờn căm như kiểu Chu Thần Cao Bá Quát khi sắp bị chém đầu đã để lại câu đối mang đầy uất hận :
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời
Trái lại, Các Thánh Tử Đạo của chúng ta đã đón nhận chén đắng theo mẫu gương của Thầy Chí Thánh Giêsu trong tình yêu phó thác, trong tha thứ khoan dung, trong bình an thanh thản mà lời Thánh thi kinh Chiều, Kinh Sáng trong ngày lễ hôm nay Giáo Hội cùng ca tụng :
Quyết tâm theo Chúa lên Núi Sọ
Cam chịu đóng đinh trong một chiều
Lời Chúa muôn năm làm sáng tỏ
Thí mạng sống mình vì người yêu.
Thầy thuở xưa đứng dang tay trên đó
Lễ tình yêu lấy mạng sống hiến dâng
Môn đệ nay cùng với trọn chữ tâm
Xin hiệp nhất một bài ca hiến tế.
Dù tù ngục xích xiềng gian khổ
Dù thây căng máu đổ chan hòa
Tinh thân như vẫn hát ca
Chứng minh chân lý sáng lòa hơn gương…
Ôi Lời Chúa diệu vời mối phúc
Xây quê hương hun đúc yêu thương
Sướng vui, cực khổ khôn lường
Vẫn xin phục vụ, trọn đường hiếu trung.
Và chính cái chết của tình yêu tha thứ đó đã đem lại muôn ân thánh rạng ngời để hôm nay trỗ sinh mùa lúa mới :
Cho ơn trọng của nguồn tình lai láng
Bừng chiếu soi lịch sử của con người
Tình thứ tha, tình tái tạo đất trời
Tình dư dật sức hoàn sinh vĩnh cửu
Nhưng rồi chúng ta hôm nay mừng kính Cha Ông anh hùng Tử đạo chỉ để nhắc nhớ kỷ niệm hầu khỏi quên đi những chứng từ đẹp, những mẫu gương hay mà thôi sao ? Để rồi đâu vần hoàn đó. Không lẽ Cha Ông đã chịu thương chịu khó, chịu chết để lại gia tài đức tin cao quí nầy, đến đời con cháu chúng ta lại phá nát, lại làm cho xơ cứng hao mòn ? Không. Như thế là bất hiếu, là vô ơn là không xứng đáng được gọi là cháu con của Tổ tiên Tử Đạo. Mừng kính các Thánh Tử Đạo hôm nay cũng là một lời đoan hứa mới, một quyết tâm mới trước Anh Linh Tiên Tổ : quyết tâm “Làm Kitô Hữu đích thực” như lời xác quyết của Thánh Phaolô Hạnh, một Kitô hữu sẵn sàng thuộc về Đức Kitô và Tin Mừng trên mọi nẽo đường cuộc sống; một kitô hữu can đảm thực thi những lời dạy Phúc Âm, những việc đạo đức hằng ngày, những bổn phận trong gia đình, những ứng xử khoan dung, yêu thương và tha thứ như cuộc sống và lời chứng của Thánh Nữ Anê Lê thị Thành và bao Chứng Nhân khác.
Để được như thế, chắc chắn hôm nay chúng ta lại một lần nữa chung lời kinh kêu cầu các Thánh thử Đạo Việt nam cầu thay nguyện giúp :
“Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam / là những Bậc Tiền Nhân đã hoàn thành sứ mạng / xin chuyển cầu cho chúng con là con cháu / được noi gương các Ngài / biết đem lòng bác ái mà dấn thân phục vụ / để một ngày kia trên thiên quốc / chúng con được hợp tiếng với các Ngài / ca ngợi tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển. Amen.
Thánh Anrê Dũng Lạc là một trong số 117 đấng đã tử vì đạo tại Việt Nam từ năm 1820 đến: 24/11-61
VietCatholic News (16/11/2004 )
Thánh Anrê Dũng Lạc là một trong số 117 đấng đã tử vì đạo tại Việt Nam từ năm 1820 đến 1862. Các đấng được tuyên phong Chân Phước trong bốn đợt giữa năm 1900 cho đến năm 1951. Và cuối cùng các đấng được Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lồ II tôn phong hiển thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Đạo Công giáo được truyền bá đến Việt Nam vào khoảng năm 1615 trước tiên do các giáo sĩ người Bồ Đào Nha. Các Cha Dòng Tên đã đặt trụ sở đầu tiên tại Hội An.
Các vua chúa Việt Nam thời bây giờ cấm các giáo sĩ ngoại quốc đến truyền đạo và dân chúng đã theo đạo thì phải công khai chối bỏ đạo bằng cách bước qua thánh gía. Các giáo sĩ cũng như các giáo hữu phải tản mác ẩn núp trong nhà dân chúng.
Các cuộc bắt đạo dử dội và khủng khiếp nhất đã xẩy ra trong ba đợt vào thế kỷ thứ XIX. Trong khoảng 60 năm có từ 100,000 đến 300,000 người Công giáo bị tù đày và bị giêt chết. Các đấng truyền giáo ngoại quốc tử đạo gồm các linh mục và Giám mục thuộc Hội Thừa sai Paris và Dòng Đa Minh Tây Ban Nha.
Cuộc bách hại tàn ác nhất xẩy ra vào năm 1847 khi vua Tự Đức nghi ngờ các giáo sĩ ngoại quốc và các tín hữu Công giáo thông đồng với quân thù xâm lược. Các đấng chịu chết cuối cùng gồm 17 giáo dân trong đó có một em bé 9 tuổi bị giết năm 1862 vì năm đó triều đình Việt Nam phải ký kết với nước Pháp cho phép người dân Việt Nam được tự do giữ đạo Công giáo. Tuy vậy sau đó các cuộc bách hại vẫn còn tiếp diển bởi các nhóm người quá khích Văn Thân.
Đến năm 1954, sau Hiệp định Geneva thì có khoảng một triệu rưởi người Công giáo ở miền Bắc cũng bị áp bức nên có khoảng 670,000 người đã di cư vào Nam. Đến năm 1964 thì ở miền Bắc có khoảng 883,00 người Công giáo nhưng các cơ sở như trường học, tu viện, chủng viện, bệnh viện và tài sản của Giáo Hội đều bị nhà nước tịch thâu và có một số đông linh mục và giáo dân đã bị giết hoặc bị cầm tù đày ải.
Trong niềm Nam thì có được một khoảng thời gian ngắn người Công giáo được tự do giữ đạo và số lượng càng thêm đông đảo nhờ vào cuộc di cư vĩ đại. Rồi trong những năm trong thập niên 70, chiến tranh lại sôi động và người Công giáo lại bị kỳ thị và các cơ sở lại bị đập phá và tịch biên bây giờ thì toàn xứ Việt Nam tự do tôn giáo lại một lần nữa bị hạn chế.
Tuy có nhiều khó khăn nhưng Giáo Hội Việt Nam vẫn sống mạnh và phát triển nhờ lòng trung tín của các giám mục Việt Nam luôn trung thành với Tòa Thánh Vatican cùng lòng mộ đạo và can trường của giáo dân. Giáo Hội Việt Nam thực thi lời Chúa trong khó khăn trong một môi trường khắc nghiệt nhưng luôn bền đổ và trung kiên.
Trong Năm Thánh 2000, Ịức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II đã tuyên phong 44 Chân Phước tử: 24/11-62
Trong Năm Thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II đã tuyên phong 44 Chân Phước tử đạo, trong danh sách có tên thầy giảng Anrê Phú Yên.
Khi đạo Công giáo được truyền bá vào Việt Nam, nhiều thế hệ thầy giảng đã sát cánh cùng các vị truyền giáo ngoại quốc để đi rao giảng Tin Mừng cho đồng bào của mình.
Mặc dù thầy giảng Anrê Phú Yên chỉ đi rao giảng trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng Đức Tin vững mạnh của thầy đã được lưu truyền cho người Công giáo Việt nam trong hơn 350 năm nay.
Cha Alexander de Rhodes là người đã chứng kiến cuộc bắt bớ, cuộc xử án, cuộc giam giữ cầm tù và cuộc hành quyết thầy Anrê. Cha đã ghi chép lại đầy đủ chi tiết cuộc tử đạo của thầy.
Thầy Anrê sinh năm 1625 tại Phú Yên, là con trai thứ của một bà quả phụ đạo đức.Thầy là người có thể xác yếu đuối nhưng rất thông minh và có một tâm hồn trong sáng luôn hướng về sự thiện. Mẹ thầy đã khẩn khoản Cha thâu nhận thầy làm môn đệ. Thầy học hành rất chăm chỉ và trội hơn các đồng bạn.
Lúc thấy lên 17 tuổi, thầy được chịu phép rửa tội cùng một lúc với mẹ mình. Một năm sau khi chịu phép rửa, thầy trở thành thầy giảng và khấn hứa phục vụ Giáo Hội cho đến trọn đời. Thầy được tử đạo lúc thầy vừa tròn 20 tuổi.
Chúa Nguyễn ra lệnh cấm đạo khi nhận thấy đạo Công giáo bành trướng trong xứ sở. Vào tháng 7 năm 1644, quan Tổng trấn Quảng Nam, ông Nghè Bộ ra lệnh cấm các giáo sĩ ngoại quốc đi truyền đạo và bắt giam các thầy giảng Việt nam.
Vào ngày 25 tháng 7, quân lính được sai đến bao vây nhà Cha Alexander de Rhodes để tìm bắt thầy giảng Ignatius, nhưng thầy đi vắng nên chúng bắt thầy Anrê Phú Yên. Chúng đã đánh đập, trói lại và giải đến quan Nghè và giải thích thầy cũng là một thầy giảng như thầy Ignatius, người này đã đến các làng mạc nói về luật lệ của vua Kitô và khuyến dụ dân làng theo đạo mới.
Trước công đường quan Nghè khuyến dụ thầy Anrê “đừng dại dột mà mang họa vào thân, hãy chối đạo thì sẽ được tha để trở về với gia đình.” Thầy Anrê đã khẳng khái tuyên xưng mình là Kitô hữu và muốn chịu tất cả mọi thứ cực hình chứ chẳng bao giờ chối bỏ những điều mình đã rao giảng. Dù bị hăm dọa dùng những cực hình ghê rợn cũng không làm nao núng ý chí cương quyết chịu chết để bảo vệ đức tin, chấp nhận đau khổ để được chết vinh quang. Thầy Anrê bị khép vào tội tử hình.
Ngày kế tiếp, Cha Alexander de Rhodes và vài thương gia người Bồ Đào nha vào thăm thầy trong nhà tù, thầy tỏ ra rất bình tĩnh và an vui chịu khốn khổ vì Chúa Kitô. Nước mắt rưng rưng họ cầu nguyện cho thầy, thầy xin họ cũng cầu cho chính họ được bền đổ trung thành với tình yêu vô biên của Chúa, “đấng đã hy sinh mạng sống của mình cho nhân loại”. Thầy lập lại ý tưởng đó và kết luận: “Chúng ta hãy trao tình yêu của chúng ta cho Chúa như Chúa đã yêu thương chúng ta, hãy trao mạng sống cho Chúa như Chúa đã chết cho chúng ta.”
Trưa ngày 26 tháng 7 năm 1644, ba mươi người lính đến nhà giam dẩn thầy Anrê ra pháp trường. Thầy cám ơn Chúa đã cho thầy được hy sinh tử đạo, thầy chào từ biệt các bạn tù. Cha De Rhodes xin phép được dùng một chiếc chiếu trải ra nơi hành hình để hứng lấy máu của thầy như phong tục của người Việt nam, nhưng thầy đã từ chối vì muốn máu mình sẽ thấm vào lòng đất quê hương. Thầy tiếp tục khích lệ những giáo dân giữ vững đức tin, đừng buồn về cái chết của thầy, chỉ xin cầu cho thầy được trung tín cho đến giây phút cuối cùng. Một người lính dùng chiếc dáo đâm bên hông trái, một người khác dùng mã tấu chặt đầu trong lúc thầy kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy chứng giám lòng trung tín của con.”
Cha De Rhodes xin nhận lảnh xác của thầy chở về Macao để chôn cất. Khi tàu ở trên biển thì bị bọn hải tặc đánh cướp, tàu đụng phải đá. Như một phép lạ, một tảng đá lớn từ trên núi rớt xuống làm vở đầu tàu rồi rơi xuống biển, làm cho bọn hải tặc bỏ đi và tàu đã chạy được về đến bến bình yên.
Qua nhiều thế kỷ, dù thầy Anrê chưa được phong hiển thánh, nhưng người Công giáo Việt nam luôn tưởng nhớ tôn kính đấng tử đạo thứ nhất đã để máu mình thấm vào lòng đất mẹ, với ước nguyện sẽ sinh hoa kết trái đức tin Kitô cho đến muôn đời.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội luôn duy trì một thủ tục khắt khe để phong: 24/11-63
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội luôn duy trì một thủ tục khắt khe để phong thánh hầu tránh đi mọi lạm dụng có thể xảy ra. Khởi đầu thì bất cứ người giáo dân nào cũng có quyền làm đơn xin Giáo Hội xúc tiến thủ tục điều tra để phong thánh cho một hay nhiều Kitô hữu. Đó là những người công giáo đã qua đời, mà còn để lại những mẫu gương thánh thiện cao độ, nhất là khi họ chết vì đạo với những bằng chứng rõ rệt vì đức tin.
Tất cả 117 vị tử đạo Việt Nam mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có đủ bằng chứng đích thực về cái chết anh hùng đó. Qua thủ tục điều tra từ hơn một thế kỷ nay, các vị ấy đã lần lượt được Giáo Hội nhìn nhận là Đấng đáng kính, vì đã nêu gương thánh thiện cho các Kitô hữu. Tiếp đến là nâng lên hàng Chân phước, tức là các vị ấy được nhìn nhận là đang được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Tuy việc tôn kính còn giới hạn chưa phổ quát khắp nơi trên thế giới. Cuối cùng là được phong lên bậc thánh nhân, tức là được tôn vinh hiển thánh với lễ kính có thể được cử hành ở khắp mọi nơi.
Nhìn vào con số 117 vị tử đạo Việt Nam, chúng ta nhận thấy các ngài là những bậc cha ông của chúng ta, trong đó gồm đủ mọi thành phần: 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Ngoài các giám mục và các linh mục là những người lo đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng, chúng ta thấy các ngài thuộc đủ mọi giai cấp xã hội. Thánh Hồ Đình Hy là quan thái bộc, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc trong cả nước. Thánh Phạm Trọng Khảm là quan án. Thánh Vinhsơn Tường làm chánh tổng. Thánh Nguyễn Huy Mỹ làm lý trưởng. Các thánh Đạt, Huy, Thể là quân nhân. Có người làm thầy thuốc, làm nhà buôn, làm thợ mộc, thợ may, có người làm ngư phủ hay nông dân.
Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy chiêm ngưỡng những mẫu gương thánh thiện các ngài để lại. Nhưng chiêm ngưỡng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cố gắng noi theo và bắt chước, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Là những thanh thiếu niên, chúng ta hãy chiêm ngưỡng và bắt chước một chàng trai tuấn tú 18 tuổi đã trả lời quan toà: Tôi chỉ mong chức quyền trên trời chứ không màng danh vọng trần thế. Chàng trai tuấn tú ấy là thánh Tôma Thiện.
Là những người đang sống trong bậc vợ chồng, chúng ta hãy khắc ghi lời bà lý Mỹ: Gia đình tôi luôn sống trong hoà thuật và yêu thương, nhà tôi chuyên chăm đạo đức, tham dự thánh lễ hằng ngày. Nếu vợ con hay người giúp việc vì bận rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm. Ông không đánh bạc, không uống rượu hay to tiếng với ai bao giờ. Bà lý Mỹ đã nói như vậy về chồng bà là thánh Nguyễn Huy Mỹ.
Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi họ yêu cầu cụ đọc kinh, thì cụ lớn tiếng: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các quan trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh. Tại pháp trường, khi chịu xử tử, thánh Lê Văn Phụng còn nhắn nhủ người con trai của mình: Con ơi, hãy tha thứ, đừng báo thù kẻ tố giác ba nhé. Là con cháu của các bậc anh hùng tử đạo chúng ta đã làm được những gì để tuyên xưng đức tin của mình?
Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cũng kỷ niệm việc thiết lập hàng giáo phẩm: 24/11-64
Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cũng kỷ niệm việc thiết lập hàng giáo phẩm đến nay được 50 năm. Vì thế trong một vài phút ngắn ngủi này chúng ta cùng ôn lại đôi dòng lịch sử.
Kể từ khi cha Buzomi, vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất nước này vào năm 1615, cho tới khi hàng giáo phẩm được thiết lập vào năm 1960, thời gian kéo dài là ba thế kỷ rưỡi. Trong khoảng thời gian này, những thành phần nhân sự dần dần được thiết lập để xây dựng cho Giáo Hội Việt Nam.
Trước hết là cha Đắc Lộ đã khai sinh ra hồi Thày giảng năm 1650. Chín năm sau, tức là năm 1659, Tòa Thánh thiết lập hai Giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài, đặt dưới quyền quản trị của hai vị Tân Giám mục là Lambert de la Motte và Francois Pallu, thuộc hồi thừa sai hải ngoại Paris. Chính Đức cha Lambert de la Motte trong ba năm, từ năm 1668-1670 đã truyền chức linh mục cho chín người Việt Nam đầu tiên xuất thân từ hội Thày giảng.
Chín linh mục này làm nên hàng giáo sĩ Việt Nam đầu tiên. Từ việc phong chức linh mục đầu tiên này tới cuộc tấn phong Giám mục cho Đức cha Nguyễn Bá Tòng năm 1933, thời gian kéo dài gần hai thế kỷ rưỡi. Rồi từ khi có giám mục Việt Nam cho tới khi hàng giáo phẩm được thiết lập, thời gian chỉ có 37 năm. Về nhân sự của Giáo Hội địa phương, kế tiếp việc thiết lập hàng giáo sĩ Việt Nam là việc thiết lập dòng nữ Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Nam Định) và Bãi Vàng (Hà Nam) do Đức cha Lambert de la Motte, vào năm 1670.
Cũng trong khoảng thời gian ấy, trải dài hơn ba thế kỷ, Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải những cuộc bách hại và cấm cách đẫm máu, khiến cho hàng vạn người đã bị mất mát tài sản, hàng ngàn người đã ngã gục ngoài pháp trường, trong đó có 117 vị đã được tôn lên hàng hiển thánh, gồm tám giám mục, năm mươi linh mục và 59 giáo dân. Chính các ngài đã trở thành những hạt giống đức tin, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam một vụ mùa bội thu.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng như kỷ niệm ngày thành lập hàng giáo phẩm, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã thực sự thuộc về Đức Kitô hay chưa? Bởi vì tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian là hai cái gì đối kháng, cho nên chúng ta không được phép bắt cá hai tay, hay lửng lơ con cá vàng, như lời Chúa đã nói: không nóng không lạnh, chỉ dở dở ương ương thì Ta sẽ mửa mi ra.
Hơn nữa, Chúa cũng đòi chúng ta phải dứt khoát lập trường và dành cho Ngài địa vị số một trong cuộc đời chúng ta, vì ai đã cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau thì không xứng đáng với Nước Trời. Tuy nhiên chọn lựa Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải thể hiện sự lựa chọn ấy trong cuộc sống thường ngày bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy. Bởi vì có thực thi những điều Ngài truyền dạy, chúng ta mới thực sự trở nên là những môn đệ và chứng nhân của Ngài. Mỗi hy sinh chúng ta chấp nhận để chu toàn Lời Chúa, sẽ là một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Vào thời của các Thánh Tử Đạo cha ông mình, mọi người, kể cả các vua quan đều có một nhận: 24/11-65
Vào thời của các Thánh Tử Đạo cha ông mình, mọi người, kể cả các vua quan đều có một nhận định chung : các Thánh có một lối sống làm cho nhiều người bị lôi cuốn, và tố giác những tham vọng ích kỷ của xã hội. Các Thánh bằng sự liên đới và chia sẻ, trở nên người anh em chân thật của những con người bé nhỏ và đầy khổ đau. Cái chết của các Ngài là chứng từ của Tình Yêu, sự hiến tặng triệt để hầu tha thứ và thiết lập trật tự bình an. Biết bao đấng Thánh đã có một tình bạn keo sơn với ngay cả quan lại đã kết án tử cho các ngài. Các Ngài đi tới cái chết không oán thù, không đấu tranh, và dùng giòng máu thắm nhuần thấm trái tim con người, để họ yêu thương và nâng đỡ những số phận ngheò khổ lam lũ.
Cũng như chính Đức Kitô đứng trước số phận của dân tộc bị nô thuộc, trước một xã hội đầy mâu thuẫn và chia rẽ, trước những ngọn sóng hận thù đấu tranh...Ngài để "Thần Linh của Cha nói" và "làm" trong Ngài. Thần Linh của yêu thương, của tha thứ, của hiệp nhất. Đức Giêsu không coi những sức mạnh cưỡng bức từ bên ngoài là quan trọng, nhưng chính những tham vọng bất chính trong lòng con người mới là nguyên nhân của mọi khốn cùng. Nói theo thánh Phaolô tất cả mọi tham vọng theo lẽ khôn ngoan của loài người đã bị đóng đanh vào thập giá của Đức Kitô, và những tham vọng ấy của mỗi thế hệ lại được đóng đinh vào những khổ hình, những cái chết của các Thánh Tử Đạo của nó. Đối với mọi người, mọi nơi, mọi thế hệ, thì Thập Giá và các Tử Đạo đều là sự điên rồ, là cớ vấp phạm, nhưng với những người tin thì đó là quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Có một điều cần phải được đón nhận một cách đặc biệt trong Thập Giá của Đức Giêsu, cũng như trong những cái chết của các Thánh Tử Đạo, điều mà Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trong đêm Ngài bị nộp : "vì chúng, Con xin hiến thánh mình con". Biết bao chứng nhân cũng đã nộp mình chịu khổ hình thay thế cho anh chị em mình. Chân lý này được Giáo Hội qua muôn thế hệ ngày đêm khắc ghi và công bố, khi Giáo Hội cử hành Hiến Tế của Đức Kitô mà Giáo Hội tuyên xưng là nguồn mạch làm ra Hội Thánh. Thánh Phaolô cũng đã từng tuyên tín " Đức Kitô đã chịu nộp và chịu chết vì tôi". Chính là "TÌNH YÊU" ấy đã đốt cháy và thiêu rụi mọi tham vọng bất chính để mở ra một vương quốc trong đó mọi con người đều nhận lại được địa vị xứng đáng của mình. Lối sống ấy thực sự "được toàn dân thương mến" như sách công vụ tông đồ đã viết. Lối sống mà tuy đông "mà chỉ có một lòng một ý". Giáo Hội Việt Nam được sinh ra trong giòng máu các Thánh Tử Đạo cũng luôn muốn chiếu giãi Tình Yêu phục vụ ấy của các Thánh Cha Ông mình trong mọi hành trình. Có thể có một hoàn cảnh lịch sử nào đó người ta quá nhấn mạnh quan điểm và hành động của một số nhân vật trong Giáo Hội để phủ nhận điều mà Giáo Hội Việt Nam đã kiên trì trong đại đa số những chứng nhân âm thầm của mình để khẳng định chân lý "Hiến Tế Tình Yêu". Sự lớn lên của Giáo Hội ở mọi nơi và mọi thời không phải là công trạng của những thế lực trần thế, mà hoàn toàn chỉ là nhờ sự hiện diện giòng máu Tử Đạo trong Hiến Tế Tình Yêu mỗi ngày. Những công trình đồ sộ dù có tính nghệ thuật tuyệt hảo trong mọi địa hạt cũng không giúp ích gì cho một giáo hội mà ngọn lửa "Hiến Tế Tình Yêu" đã tắt lịm.
Chính trong ý thức và niềm tin ấy, người Kitô Hữu luôn luôn được Giáo Hội mời gọi hãy làm sáng lên, hãy tìm kiếm những Chứng Nhân trong thời đại của mình. Trong tâm tình ấy, nhân ngày tôn vinh "Các Thánh Tử Đạo Việt Nam", chúng ta cùng với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cũng phải tha thiết nài xin Chúa nhờ lời chuyển cầu của Các Thánh Cha Ông ban cho thời đại chúng ta đang sông nhiều chứng nhân anh dũng dám khẳng định như thánh Phaolô "Đức Kitô không sai tôi đi thanh tẩy, mà là rao giảng Tin Mừng : không phải bằng sự khôn ngoan của khoa ngôn ngữ, kẻo Thập Giá của Đức Kitô bị ra hư không".
Tử đạo vẫn là động từ được mến chuộng nơi các tôn giáo và đặc biệt nơi những người theo Chúa: 24/11-66
Tử đạo vẫn là động từ được mến chuộng nơi các tôn giáo và đặc biệt nơi những người theo Chúa Kitô. Bởi vì, tử đạo chỉ là làm chứng cho Đấng là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Đành rằng có những thời, những lúc, những nơi tử đạo xem ra bị lạm dụng, nhưng đúng nghĩa tử đạo vẫn là cái gì cao quí nhất của những con người có lòng tin đúng như ca nhập lễ, lễ các thánh tử đạo đã viết:” Các thánh đã theo chân Đức Kitô,được vui mừng trên thiên quốc.Các ngài đã đổ máu mình ra, vì lòng yêu mến Đức Kitô, nên luôn được hoan hỷ với Người”.
CHẾT LÀ MỘT MỐI LỢI : Thực tế, ai cũng muốn sống và sống lâu dài, sống vĩnh cửu. Chẳng ai muốn chết và chết là một việc bắt buộc phải chết. Quả thế, nếu chưa tới giờ Chúa gọi, Chúa gõ cửa, chắc chắn chẳng ai muốn chết, chẳng ai muốn bỏ thế trần sớm để đi vào một cõi xa xôi mà nếu không có đức tin, con người chẳng sao ngộ ra được. Nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn có nhiều suy tư về kiếp sống, về cõi hư vô, nhưng ông chỉ mới suy nghĩ, đặt vấn đề chứ chưa đưa ra kết luận cho một cõi khác với thế trần hôm nay.” Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi để một mai tôi thành hạt cát bụi…một kiếp rong chơi “. Những vị tử đạo chẳng bao giờ nghĩ xa xôi về một kiếp rong chơi, mà có trở về cát bụi là trở về với thân phận nguyên thủy của con người:” Ngươi là bụi đất, hãy trở về với bụi đất “.Mà những vị tử đạo là những vị đã thấm nhuần đạo lý của Chúa :” Ai muốn theo Thầy,phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”(Lc 9, 23-24 ). Chúa Giêsu mời gọi mọi người theo Chúa làm chứng cho Chúa, có người được hạnh phúc đổ máu cách công khai, thực tế, có những người đổ máu hy sinh bằng những đau khổ hằng ngày. Tựu trung, ai cũng phải hy sinh, ai cũng phải từ bỏ, ai cũng phải phấn đấu. Tuy nhiên, vẫn có những người được diễm phúc chết công khai vì chết là hạnh phúc:” Ai xấu hổ vì Thầy và những lời của Thầy, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy…” ( Lc 9, 26 ). Chúa vẫn mời con con người và mọi người trung thành với Người và bác ái với mọi người, kể cả những kẻ thù nghịch vv…Và khi đã trung thành làm chứng cho Chúa thì Người sẽ ban mũ triều thiên cho con người:” Anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp gian nan thử thách. Vì thế Thầy sẽ ban quyền cai trị cho anh em, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trên Vương Quốc của Thầy “ (Lc 22, 28-30 ).
NHỮNG VỊ TỬ ĐẠO: NHỮNG CHA ÔNG, NHỮNG NGƯỜI QUEN BIẾT, NHỮNG NGƯỜI KHÔNG QUEN ĐÃ MỘT LÒNG TRUNG KIÊN, TÍN THÁC VÀO THIÊN CHÚA : Chiêu bài của những người cấm đạo là dùng những sự đe dọa, những hình phạt kinh khủng để dọa nạt, để tách cha ông, những người tin vào Chúa sợ mà chối Chúa. Họ cũng dùng những chiêu bài khác là dùng những lời đường mật, danh vọng, địa vị để dụ dỗ cha ông khuất phục để bỏ Chúa. Nhưng họ đã lầm, cha ông chúng ta là những người tuyệt vời, khôn ngoan, sáng suốt một lòng trung tín và phó thác vào Chúa Giêsu. Các Ngài đã xác tín sâu xa vào Chúa và hoàn toàn không sợ :” Những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Đọc sách Macabêô : gương của bà mẹ và bảy anh em không sợ vua chúa quan quyền, không sợ hình phạt, không sợ chết mà chỉ một lòng tin vào Thiên Chúa như lời Thánh vịnh 33, 20-21 viết :” Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi.Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không dập gẫy”. Và như thánh Phaolô viết:” Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?Như có lời chép : Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh “ ( Rm 8, 35-36 ). Tuy nhiên, thánh Phaolô viết tiếp:” Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta “( Rm 8, 37 ). Vâng, hàng hàng lớp lớp những người mặc áo trắng, tay cầm cành vạn tuế chiến thắng vào dự tiệc cưới trong Vương Quốc Thiên Chúa. Các thánh tử đạo đã kiên cường hiên ngang vì “Người công chính được Chúa thương cứu độ và bảo vệ che chở trong cơn ngặt nghèo “( Tv 36,39 ). Các Ngài đã hoàn toàn trung thành và hiên ngang với tình yêu cứu độ của Chúa như lời thánh Phaolô tông đồ nói:” …không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta”( Rm 8, 39 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con không bao giờ chùn bước và đầu hàng trước những thử thách cam go.
Hôm nay Hội Thánh Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo, những vị anh hùng đa: 24/11-67
Hôm nay Hội Thánh Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo, những vị anh hùng đã đổ máu đào minh chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Chúa Giêsu. Các thánh tử đạo Việt Nam là ai ? Lễ các thánh tử đạo Việt Nam nói gì cho chúng ta ?
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO LÀ AI ?
Đọc lại lịch sử của Giáo Hội Việt Nam chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì tinh thần bất khuất của các thánh tử đạo. Các Ngài là những bậc tổ tiên, cha ông của chúng ta. Có những vị là bà con thân thích, là người đồng hương, là người cùng giáo xứ, giáo họ, làng thôn của chúng ta. Các thánh tử đạo Việt Nam đã sống tinh thần tám mối phúc thật. Các Ngài là những người đã dám sống đức tin, đã liều mình hy sinh, đổ máu đào để chứng minh cho Chúa Giêsu, để giới thiệu cho mọi người về con người đích thực của Chúa Giêsu. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam thuật lại rằng:” Ngày 19/3/1615 khi hai vị thừa sai đầu tiên là Alexandre de Rhodes và Marquès tới cử Bạng, ngoài Thanh Hóa, các Ngài đã thấy trên một mỏm đá ở giữa dòng sông, hình một cây thánh giá vẽ bằng vôi, không biết từ bao giờ và không biết ai đạ vẽ”.
Các Đấng hiểu đây là dấu chỉ Hội Thánh của Chúa sẽ gặp nhiều thử thách, khó khăn. Trong suốt lịch sử loan báo Tin Mừng đã hơn 300 năm thì 300 rao giảng Đức Kitô với nhiều thăng trầm, với nhiều biến động, nhiều người Kitô hữu nam, nữ, già, trẻ, lớn, bé đã phải đổ máu đào minh chứng cho bộ mặt đầy yêu thương là Đức Giêsu Kitô. Hơn mười vạn người đã ra đi vĩnh viễn. Tuy nhiên, sử gia Tertullien đã viết một câu rất chí lý:” Máu tử đạo là hạt giống nẩy sinh người tín hữu”. Câu nói này phù hợp với lịch sử Hội Thánh Việt Nam. Bởi vì, Giáo Hội La Mã xưa cũng đã cống hiến rất nhiều vị tử đạo, nhưng Hội Thánh Việt Nam sau Hội Thánh La Mã, đã dâng hiến cho Thiên Chúa nhiều thánh tử đạo hơn cả. Hơn mười vạn Kitô hữu đã ra đi vĩnh viễn: Trong số ấy 117 vị đã được tôn phong hiển thánh và một vị nữa là Anrê Phú Yên đã được nâng lên hàng chân phước.
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO ĐÃ LÀM GÌ CHO GIÁO HỘI ?
Các thánh tử đạo Việt Nam là những chứng nhân cho Chúa Giêsu. Các Ngài đã sống cuộc đời như chúng ta, đã chia sẻ đức tin với chúng ta. Họ là tổ tiên, cha ông, mẹ cha và anh chị em, những người làng xóm của chúng ta. Họ đã sống niềm tin thật son sắt. Họ đã đổ máu đào, hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô hầu họa lại con người của Chúa Giêsu đã từ bỏ thân mình để đem lại hạnh phúc cho nhân loại:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Các thánh tử đạo đã lựa chọn làm chứng tá cho Chúa Giêsu. Các Ngài đã làm môn đệ, đã loan truyền Chân Lý cho Chúa Giêsu. Họ là muối, là men cho đời. Sự hy sinh của các Ngài đã xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô cách vững bền.
Các Ngài là những Giám Mục, Linh Mục, Nữ Tu, Thầy giảng, các Kitô hữu đã hiên ngang, kiên cường tuyên xưng đạo Chúa và chết vì Chúa. Chính vì thế, Giáo Hội Việt Nam càng ngày càng sinh hoa tươi tốt và phát triển không ngừng.
CON ĐƯỜNG CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO LÀ CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ NHƯNG ĐẦY VINH QUANG:
Các thánh tử đạo đã đi con đường của Chúa đã đi. Các Ngài đã kê vai vác thập giá để theo chân Chúa Giêsu. Trong cuộc đời theo Chúa, các thánh tử đạo đã hết lòng vì đạo, đã lắng nghe lời Chúa, thực thi lời Chúa và đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống của mình. Các Ngài dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào: lúc thuận hay lúc nghịch cũng luôn trung kiên với Đạo Chúa, cũng luôn kiên vững với con đường Chúa đã vạch ra.
Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta noi gương bắt chước các Ngài:” Hạt lúa mì rơi vào lòng đất có chết đi, có thúi đi, mới trổ sinh bông trái”. Các thánh tử đạo Việt Nam đã thà chết chứ không thà chối bỏ đứctin. Con cháu của các Ngài há lại quên những tấm gương anh hùng của tổ tiên, cha ông trong việc tuyên xưng đức tin sao ?
TỬ ĐẠO LÀ SỐNG TÌNH YÊU:
Chính vì yêu thương loài người, yêu thương con người, Chúa đã chết nhuốc hổ trên thập giá để cứu độ nhân loại, cứu rỗi con người. Vì thương Chúa, yêu con người, các thánh tử đạo đã coi thường mạng sống không hề bỏ Chúa, không hề chối đạo. Các thánh tử đạo là những con người chết vì yêu và sống vĩnh cửu vì yêu. Thập giá là cây đẹp nhất đối Chúa và đối với những người có lòng tin. Các thánh tử đạo là những chứng nhân sáng ngời về niềm tin. Các Ngài đã thắp sáng đức tin, các Ngài mong cho con cháu của các Ngài cũng hiên ngang đốt sáng đức tin mãi mãi để Hội Thánh Việt Nam càng ngày càng tươi xinh. Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cảm tạ tri ân Chúa vì Ngài đã ban cho Giáo Hội Việt Nam nhiều thánh tử đạo tốt lành và quí giá.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, xin cầu cho Hội Thánh Việt Nam và Quê hương thân yêu Việt Nam. Amen.
Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa, và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Kẻ ngu dại coi họ như đã chết, cho là họ gặp điều bất hạnh, nhưng thực ra họ đang được hưởng bình an. Người đời nghĩ họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn tràn trề hy vọng được trường sinh bất tử.Thiên Chúa đã luyện cho họ như vàng trong lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Họ sẽ rực sáng như tia lửa..sẽ xét xử muôn dân và cai trị muôn nước. Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật và những ai trung thành thì được Chúa yêu thương và cho ở gần Người.
* Bài đọc 2: 1 Cr 1,17-25:
Quả vậy, Đức Ki-tô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập gía Đức Ki-tô trở nên vô hiệu. Thật thế, lới rao giảng về thập gía là một sự điện rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.
* Bài Tin Mừng: Mt 10,17-22: Đức Giê-su tiên báo những cuộc bách hại
Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại biết. Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em!
Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
NGẪM:
* Câu hỏi gợi ý:
Ý nghĩa của bắt bớ, bách hại vì niềm Tin? 2. Ngày nay chúng ta phải sống và làm chứng niềm Tin : 24/11-68
1. Ý nghĩa của bắt bớ, bách hại vì niềm Tin? 2. Ngày nay chúng ta phải sống và làm chứng niềm Tin như thế nào để không thẹn với cha ông?
* Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa của bắt bớ, bách hại trong Công giáo?
Chúng ta có thể khẳng định: Lịch sử của các Giáo hội cũng là lịch sử của những cuộc bách hại. Bắt bớ, bách hại luôn đi liền với những kẻ tin nhận Đức Giê-su Ki-tô là Chúa. Thật ra ngay từ trong Cựu Ước, những người tin vào Thiên Chúa Gia-vê cũng đã phải trải qua những cơn gian nan, thử thách vì niềm Tin (bài đọc 1).
Vậy thử hỏi: Tại sao người tín hữu thường bị bắt bớ và bách hại? Lịch sử cho ta thấy người tín hữu bị bắt bớ, bách hại thường vì một trong hai hoặc vì cả hai lý do sau: bị người đời hiểu lầm và ghen ghét. Nhưng với cái nhìn được Thánh Kinh soi sáng, thì chúng ta thấy bắt bớ, bách hại vì niềm Tin có ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là để niềm Tin của chúng ta được thử thách & tôi luyện. Miếng hay thỏi vàng chỉ tinh ròng sau khi được cho vào lửa tinh luyện. Niềm Tin Ki-tô của chúng ta chỉ vững vàng, kiên định, tinh tuyền và trong sáng qua gian nan thử thách. Đức Giê-su là "hiện thân sống", là minh họa tuyệt vời về sự kiện ấy: Một đàng Đức Giê-su bị những người cầm quyền Do Thái và Roma kết án loại trừ, vì họ cho rằng Người là mối nguy hiểm cho địa vị, chứùc quyền của họ. Mặt khác chính qua khổ nạn thập giá mà Đức Giê-su chứng minh được lòng thảo hiếu, tuân phục đối với Cha và lòng yêu thương đối với loài người. Sự khổ nạn thập giá ấy là con đường dẫn tới phục sinh.
Các vị tử đạo trong Giáo hội công giáo Roma cũng đã có chung thân phận với Đức Giê-su. Gần gũi thân thiết với chúng ta hơn là 117 thánh tử đạo và hàng ngàn hàng vạn các vị tiền bối Việt Nam cũng là những người đã chết vì đạo mà nguyên nhân chính là hiểu lầm và ghen ghét. Các vị ấy đã kiên cường và anh dũng minh chứng lòng Tin của mình. Vì thế mà ngày hôm nay toàn thể Giáo hội Việt Nam mừng kính các Ngài một cách trọng thể và nhận các Ngài làm Bổn Mạng.
2. Ngày nay chúng ta phải sống và làm chứng niềm Tin như thế nào để không thẹn với cha ông?
Lịch sử đã qua, chúng ta không thể thay đổi được. Điều chúng ta có thể làm là từ lịch sử rút ra những bài học cho đời sống đức Tin. Sau đây là một vài gợi ý để chúng ta suy nghĩ và thực hiện:
1. Cha ông chúng ta đã lấy máu đào để nói lên lòng tin cậy phó thác và trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta hãy biết dùng mọi phương thế để củng cố và trau dồi niềm Tin: cầu nguyện, tĩnh tâm, nghiên cứu, học hỏi. Chắc chắn việc ấy đòi chúng ta phải hy sinh thời giờ, tiền bạc, công sức; buộc chúng ta phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi ở một mức độ nào đó. Nhưng so với cái chết khổ hình thập giá của Đức Giê-su, Chúa chúng ta và với bao cực hình của các Vị Tử đạo cha ông chúng ta, thì có thấm vào đâu!
2. Dù bị oan và bị hành hạ trăm điều, cha ông chúng ta không một lời than trách, không một chút hận thù đối với vua quan hay lý hình, mà trái lại luôn tôn kính, yêu thương, khoan dung, tha thứ chúng ta hãy nỗ lực sống khiêm nhường, yêu thương, hòa đồng và phục vụ đồng bào anh em theo tinh thần Phúc âm mà Thư Chung Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980 và 2001 đã triển khai.
3."Máu các thánh Tử đạo là hạt giống đức Tin". Máu cha ông chúng ta đã thấm vào từng thớ đất hình chữ S này, tứùc hạt giống đức Tin đã được gieo vào lòng đất nước và quê hương Việt Nam yêu dấu. Chúng ta hãy đóng góp phần riêng của mình vào việc làm cho hạt giống đức Tin ấy nẩy mầm, mọc thành cây và sinh hoa kết trái cho Mùa Gặt Nước Trời. Nói cách khác chúng ta hãy trở thành những người loan báo Tin Mừng cho đồng bào, anh em.
NGUYỆN:
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha đã cho chúng con vinh dự làm con cháu các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Nhưng Cha ơi, vinh dự cũng có nghĩa là trách nhiệm, xin Cha ban sức mạnh cho chúng con để chúng con đủ sức chu toàn trách nhiệm cao trọng ấy, bằng đời sống chứng tá của chúng con trong xã hội Việt Nam hôm nay.
Lạy Chúa Giê-su là Hạt Giống Vĩ Đại mà Thiên Chúa Cha dã gieo vào lòng đất. Xin Chúa ban sức mạnh và tình yêu cho chúng con để chúng con cũng trở thành những hạt giống Tin Mừng gieo vào lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng con hãnh diện được làm con cháu các Ngài. Xin các Ngài cầu bầu cùng Thiên Chúa cho chúng con dũng khí, lòng kiên cường, đức hy sinh, lòng trung thành với niềm Tin, để chúng con vượt thắng mọi trở ngại từ bên ngoài cũng như từ chính trong tâm hồn chúng con trong đời sống chứng tá hôm nay.
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh: 24/11-69
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn.
- Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ - cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
Tôi vẫn còn nhớ mỗi khi xin Cha Sở cho phép đi chơi xa, cha vẫn thường dặn dò và nhắc nhở: 24/11-70
Tôi vẫn còn nhớ mỗi khi xin Cha Sở cho phép đi chơi xa, cha vẫn thường dặn dò và nhắc nhở tôi câu: “đi bình an và nhớ sống cho tốt đạo đẹp đời” thật ra khi đó tôi không hoàn toàn hiểu cho lắm, tốt đạo là như thế nào có phải là đi lễ mỗi ngày, đọc kinh mỗi sáng tối, siêng năng đi học giáo ly cho đúng bổn phận là sống tốt đạo chăng, rồi sống với mọi người không ăn gian nói dối, không tham lam, không ăn cắp ăn trộm, không lường gạt ai là sống đẹp đời chăng. Tuy không hiểu hết ý nghĩa, nhưng câu nói đó vẫn luôn in vào trong tâm trí tôi, và tôi tin một ngày nào đó rồi tôi cũng sẽ hiểu được. Cuối cùng tôi cũng hiểu được nhưng không phải bằng một mớ lý thuyết suôn, mà nó được trả lời bằng chính cuộc sống. Nhưng để hiểu được trọn vẹn câu “sống tốt đạo đẹp đời” phải sống chứng nhân Tin Mừng, nghĩa là dám thực hành ý Chúa trong mọi hoàn cảnh cho dù phải hy sinh tính mạng.
Hôm nay, ngày lễ các thánh tử đạo Việt Nam là dịp đặc biệt để con dân Việt Nam tự hào về những anh hùng tử đạo dám hy sinh mạng sống để chúng ta được như ngày hôm nay. Nhìn lại những trang sử hào hùng đó không phải để thương nhơ các ngài, cũng không phải để lên a1n những kẻ đã gây ra cái chết đau thương, nhưng là để thấy gương sáng mà theo, và cũng biết làm nhân chứng Tin Mừng như các ngài vậy.
Các thánh tử đạo đã làm chứng cho Tin Mừng qua việc loan truyền Mầu Nhiệm Thập Giá, sự chết của các ngài không còn là một cái chết cá nhân riêng tư, không còn là cái chết bình thường, mà là cái chết phát sinh sự sống. Sự sống đó vẫn tồn tại và lớn lên mãi. Nó được thể hiện qua sức sống mãnh liệt của Giáo Hội Việt Nam, cho dù trải qua biết bao cuộc bách hại, và bị nhiều triều đại vua chua tàn sát. Nhưng khi mà sức con người kiệt quệ, thì Thiên Chúa lại ra tay, Ngài gởi các chứng nhân Tin Mừng đến để “bị điệu ra trước mặt vua chúa, quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết”. Chính nhờ những giọt máu đào của các anh hùng tử đạo đã nuôi sống Giáo Hội Việt Nam qua nhiều năm gian khổ. Đặc biệt, cho đến ngày hôm nay, sự chết đó vẫn là tiếng gọi, một lời thúc giục toàn dân Thiên Chúa hãy sống trọn vẹn niềm tin của mình, sống xứng đáng với ơn gọi làm dân thánh, và chiếu sáng niềm hy vọng vĩnh cữu giữa đời. Nếu sống như vậy, thì mỗi người Kitô hữu dù không trải qua cái chết tử đạo, cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm Thập Giá cho thế giới. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân. Các thánh tử đạo làm chứng bằng cả sự sống lẫn sự chết. Tiêu biểu như thánh Hồ Đình Hy, chánh tổng Phạm Trọng Tả, là những vị có chức quyền trong xã hội đã thà mật danh vọng hơn là mất đức tin, hoặc những người còn trẻ, tương lai sáng lạn, đường công danh còn dài như Thánh Tôma Thiện đã quyết thà từ bỏ tất cả, dâng tuổi thanh xuân cho Tin Mừng.
Chúng ta vẫn thường có một suy nghĩ sai lầm khi cho rằng các thánh Tử Đạo là những người “đặc biệt”, được Chúa chọn cách riêng, họ là những anh hùng chứ mình đâu thể làm nổi. Thật ra các ngài cũng là những người rất bình thường, chứ chẳng phải là “siêu nhân, dị tướng”. Đôi khi các ngài còn bị coi là thất học dân dã. Hơn nữa họ còn là như4ng người chân yếu tay mềm, mang gánh nặng gia đình, nhưng cũng sẵn sàng chấp nhận cực hình, hiên ngang vác Thánh Giá theo chân Chúa cho đến giây phút cuối cùng.
Nhìn vào tấm gương các vị tử đạo, chúng ta xác tín rằng “ai liều mạng sống mình vì Ta và Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35), để từ đó chúng ta vững vàng tiến bước trong niềm tin hôm nay, cho dù phải hy sinh, đau khổ, mất mát. Vì đức tin chỉ có thể làm chứng trong đau khổ và chịu đựng. Đức Giêsu biểu lộ sự nhẫn nại và chịu đựng khi Người vác Thập Giá. Sự chịu đựng là cái mà tất cả chúng ta cần có. Chịu dựng có nghĩa là cùng tham dự đau khổ với Đức Kitô và nếu “chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người”.
Lạy Chúa, xin cho các thánh tử đạo Việt Nam luôn đoái thương cộng đoàn tín hữu Việt Nam hôm nay và mãi mãi, luôn sống trọn vẹn niềm tin làm chứng cho sức sống và tình yêu thương của Đức Kitô Phục Sinh, trong sự hoà mình liên đới và cảm thông với hết mọi người. Amen
Chúng ta nhìn thấy những cành cây sau mùa thu hoạch, chúng đang trong thời kỳ sung mãn: 24/11-71
Chúng ta nhìn thấy những cành cây sau mùa thu hoạch, chúng đang trong thời kỳ sung mãn, chúng cũng vừa lập được công trạng, là cho những hoa lợi cần thiết làm vui lòng người. Vậy mà giờ đây chúng phải bị cắt trụi đi, những cành lá sum suê không còn tiếp tục sự sống cần thiết nữa, không còn sinh hoa kết trái được nữa, dường như chúng đi vào quên lãng vì chúng bị loại trừ khỏi sự sống.
Mọi người đều nhìn thấy sự loại trừ đó. Nếu xét về một khía cạnh nào đó thì thật uổng phí, vì những cành lá đang cho hoa lợi lại phải bị loại đi, thì tương lai sẽ ra sao ? Đối với người không hiểu biết, thì sự thất vọng tràn ngập cỏi lòng và việc thu hoa lợi chắm dứt từ đây. Nhưng đối với người hiểu biết thì không phải thế. Một cành cây rơi xuống sẽ là một cơ may rất tốt cho nhiều cành khác vươn lên. Một nguồn lợi tưởng chừng bị mất đi, sẽ được thay thế bằng những nguồn lợi khác tốt hơn, từ những chồi non vươn lên mạnh mẽ.
Nếu những cành cây đã cho hoa lợi kia cứ nhìn vào kết quả mình đạt được, để rồi bám chặc vào thân cây, không muốn tách rời, thì số phận của thân cây sẽ ra sao? chắc là nó sẽ bị huỷ diệt theo thời gian. Chính vì nó bị tách lìa khỏi thân cây trong khi cần thiết, nó sẽ làm cho thân cây thêm sức sống mãnh liệt hơn, nó cũng làm cho thân cây mang lại những hoa lợi bội thu hơn.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị lấy đi sự sống trần gian nầy. Sự sống mà các Ngài đã sống cách rạng rở, đời sống gương mẫu của các Ngài đáng lẽ phải được kéo dài hơn thật nhiều, để cho con cháu nhìn vào đó mà sống. Những việc làm tốt đẹp của các Ngài đáng lẽ phải được làm nhiều hơn nữa, để cho nhiều người hưởng nhờ. Vậy mà các Ngài phải ra đi với sự thương tiếc nhớ nhung của biết bao người. Nhưng đối với các Ngài thì đó là một sự ra đi cần thiết. Các Ngài nhìn thấy việc từ giã cỏi đời của các Ngài có ích hơn là các Ngài cứ bám vào cuộc sống nầy. Việc các Ngài ra đi sẽ mang lại nhiều hoa trái tốt đẹp hơn nữa cho những ngày mùa trong tương lai, vì các Ngài nhìn thấy được sự ích lợi của việc ra đi.
Các Ngài đã sống trọn vẹn Lời Chúa: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai đành mất sự sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ giữ được nó".
Các Ngài từ giã cỏi đời để lại cho những người thân thương một sự trống vắng, tưởng chừng như không thể lấp đầy được. Nhưng sự can đảm của các Ngài đã để lại cho thế hệ con cháu một sức sống mãnh liệt. 117 vị đã ra đi, tưởng chừng như đã đi vào quên lãng, tưởng chừng như đã đi vào cỏi tiêu diệt. Nhưng cứ nhìn vào thực tại của ngày hôm nay thì sao? Không phải chỉ có con số 117 vị khác thay thế vào chỗ trống đó, mà là gấp trăm gấp ngàn lần con số 117 đó. Những đau thương của sự chết, giờ đây là niềm hân hoan của một sức sống mãnh liệt đang dâng trào. Những tiếc nuối của sự mất mát, giờ đây là những thoả mãn của sự đong đầy hồng ân Chúa. Những xót xa của sự trống vắng, giờ đây là sự hãnh diện, là niềm tự hào của những con cháu cũng đang anh dũng bước theo từng bước chân kiêu hùng của các Ngài.
Chúng ta, những người đang tụ họp quanh để tưởng nhớ đến công ơn của các Ngài, nhìn vào gương anh dũng của các Ngài để làm động lực cho những bước chân cho chúng ta trên đường tiến về nước Trời. Nhưng bước chân của chúng ta giờ đây ra sao?
Chúng ta đang chùn bước, chúng ta đang lo sợ cho tương lai. Lo sợ không có được điều kiện thuận lợi cho cuộc sống, lo sợ vì những bất lợi cho bản thân, cho gia đình, lo sợ khi chúng ta phải bị thiệt thòi một ít sức lực hay tiền của. Chính những lo sợ đó đã làm cho chúng ta chùn bước chân, không dám tiến lên làm những việc tốt mà mình nhận thấy. Chính những lo sợ làm cho chúng ta không dám hy sinh, chịu khó để hoàn thành trách nhiệm. Cũng chính những lo sợ, làm cho chúng ta không dám giúp đở người khác khi cần thiết. Với những lo sợ như thế thì tương lai của những thế hệ sau chúng ta, họ sẽ noi gương chúng ta như thế nào? Nếu các vị tử đạo khi xưa cũng mang đầy nỗi lo sợ, thì ngày hôm nay làm sao chúng ta có được những gương sáng như thế .
Xin các thánh tử Đạo Việt Nam phù hộ giúp sức cho chúng ta can đảm bứơc theo những bước chân anh dũng của các Ngài.
Cách nay trên 4 thế kỷ, năm 1596, có cha Đi-ê-gô A-đu-an-tê là một Linh mục dòng Đa minh lần: 24/11-72
Cách nay trên 4 thế kỷ, năm 1596, có cha Đi-ê-gô A-đu-an-tê là một Linh mục dòng Đa minh lần đầu tiên đặt chân lên cửa Hàn thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay, Ngài đã rất ngạc nhiên sửng sồt khi nhìn thấy một cây Thánh giá bằng gỗ rất lớn đứng hiên ngang sừng sững trên bãi biển. Theo lưu truyền, cách đấy 13 năm có một số người định phá Thánh giá đó đã bị trời phạt, nên từ đó mọi người đều kính sợ và không ai dám đụng chạm đến nữa.
Là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân và gieo Tin Mừng trên mảnh đất hình chữ S này, Linh mục Đi-ê-gô có ngờ đâu cây Thánh giá này có ý nghĩa tượng trưng, sâu xa và thâm thuý. Thánh ý Thiên Chúa thật nhiệm mầu đã muốn có một cây Thánh giá đứng sừng sững ngay cửa ngõ đi vào nước Nam này, khác nào như một người hướng đạo báo tin cho các ngài biết, hạt giống Tin Mừng các ngài sắp gieo vãi chỉ có thể nảy mầm và lớn lên trong đau thương, nước mắt và xương máu các ngài. Với dân tộc Việt Nam , cây Thánh giá cũng tiên báo rằng: đức Tin chỉ có thể nảy nở trong lòng dân tộc họ sau khi chính họ phải chịu đựng những cuộc bách hại đẫm máu.
Và lịch sử Việt Nam đã xảy ra đúng như thế: trong khổ đau, nước mắt và máu. Ngày nay chúng ta kính cẩn đọc lại những trang sử đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam thân yêu, không trang trang nào mà không được tô điểm bằng những nét son chói lọi của những cái chết của những bậc tiền nhân anh hùng dười đủ mọi hình thức tàn bạo ghê gớm. Quả thật, trải qua hơn 300 năm bị bách hại: tra tấn, xiềng xích, rũ tù, bá đao, lăng trì, voi giày, ngựa xé, phanh thây, tróc nứa, ròng rã miên man qua nhiều triều đại: Trịnh Nguyễn, Tây Sơn, Nguyễn .... và phong trào Văn Thân bách hại. Ba trăm năm đầu rơi máu chảy với trên một trăm ngàn vị tử đạo, đã sẵn sàng dâng hiến xương máu chứng minh đạo Chúa. Hùng hồn thay cho dân tộc Việt. Theo tài liệu lịch sử ghi lại , trong số đó có 50 vị thừa sai ngoại quốc, 340 thầy giảng, 270 chị em dòng Mến Thánh Giá. Còn thành phần giáo dân thì không thể có con số nhất định.
Trong số đó có 117 vị đã được tuyên Thánh , gồm 21 thừa sai người ngoại quốc và 96 vị là người Việt Nam. Có 8 Giám mục, 50 Linh mục, 14 thầy giảng, 1 chủng sinh và 44 giáo dân .
Tóm lại, trong ngày lễ mừng kính các Thánh tử đạo Việt nam hôm nay, chúng ta hãy ghi nhớ: cuộc du nhập đạo Chúa vào nước chúng ta đã được đánh dấu bằng một cây Thánh giá trồng trên cửa biển, từ thời vị truyền giáo đầu tiên đặt chân đến đất nước này. Rồi từ đó, Thánh giá Chúa càng mọc thêm nhiều và mọc khắp nơi. Những cây Thánh giá đó đã thấm máu đào của trên 130.000 anh hùng tử đạo. Và hạnh phúc thay Thánh giá đó cũng được trồng vào gia đình chúng ta, trên trán, trên ngực và nhất là trên trái tim của chúng ta, biến chúng ta thành những vị tông đồ, nhữhg nhân chứng của Chúa Ki-tô.
Chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một lối biểu hiện về Chúa và đức Tin một cách bất thường và vinh dự Thiên Chúa thưởng cho những tôi trung của Ngài. Tiểu sử các Ngài chứng minh rằng: không phải một sớm một chiều mà các Ngài được phúc tử đạo. Trái lại, vinh dự ấy đã được chuẩn bị âm thầm từng ngày từng ngày qua cuộc sống Công giáo bằng những hy sinh, khiêm tốn và bền chí. Chúng ta cũng có thể nói rằng: cuộc đời của ta là con đường thập giá, không ngày nào chúng ta không gặp những điều bực mình, những cái làm nản chí, những đau khổ những va chạm, nhiều và đủ thứ. Nếu chúng ta biết chấp nhận và nâng cao nó lên, thì nó sẽ biến cuộc đời chùng ta thành cuộc tử đạo không đổ máu, đồng thời nó gìn giữ và củng cố đức tin chúng ta rất nhiều.
Chúng ta hãy xin Chúa vì máu các Thánh tử đạo đã đổ ra, làm cho cánh đồng truyền giáo Việt Nam được nảy nở tươi tốt, và có thêm nhiều thợ gặt nhiệt thành trong hàng ngũ giáo sĩ cũng như giáo dân. Chúng ta cũng đừng quên rằng đây là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Cách thế thi hành trách nhiệm này tốt hơn cả là sống đạo tốt; và để sống đạo tốt trong thời điểm này, mọi người cần phải có chất lượng. Chất lương đó là đời sống nội tâm, có Chúa Ki-tô sống trong chúng ta. Chất lượng đó là bác ái với tha nhân, là khả năng phục vụ tốt: phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Hội Thánh, phục vụ đất nước, phục vụ đồng bào, phục vụ lẫn nhau .
Ngày nọ, tôi được xem một phóng sự trên truyền hình đề cập đến những em bị bệnh “ xương: 24/11-73
Ngày nọ, tôi được xem một phóng sự trên truyền hình đề cập đến những em bị bệnh “ xương thủy tinh ” làm cho những người làm cha mẹ của chúng rất đau khổ và vất vả. Có nhiều lúc họ đã muốn buông xuôi. Nhưng dù sao cũng là con mình nên họ sẵn sàng hy sinh chịu mọi vất vả để bảo vệ cho sự sống của con mình được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Như thế, đối với một con người điều quý nhất là mạng sống. Để bảo vệ nó người ta sẵn sàng hy sinh tiền của hay công sức miễn sao mạng sống của mình hay của người thân được gìn giữ và duy trì. Dầu vậy, mạng sống ấy đến lúc nào đó cũng phải mất đi.
Người ta thường nói: “ Thà chết vinh còn hơn sống nhục ” hay “ Cọp chết để da người ta chết để tiếng ” . Đúng vậy, cái chết của 117 Thánh Tử Đạo Việt nam đã trở nên vinh dự cho con cháu và lưu danh qua muôn thế hệ. Các ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin. Các Ngài đã sống được lời dạy của Chúa Giêsu: “ Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy ” (Lc 9, 24) và “ Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục ” (Lc 12, 4 - 5).
Đứng trước những hình xử như thế chắc chắn các ngài cũng sợ lắm, ai không muốn sống. Nhưng nhờ ơn Chúa nên các ngài đã vì đức tin mà can đảm đón nhận những hình khổ thật đáng ghê sợ từ trảm quyết, chết rủ tù đến bị thú dữ xé xác hay bị lóc thịt cho chết từ từ...
Chính nhờ máu của các ngài mà đức tin của người Công giáo Việt nam ngày càng được củng cố và phát triển mạnh mẽ. Trong các vị thánh ấy có nhiều vị quen thuộc với chúng ta. Chẳng hạn như thánh Philipphê Phan Văn Minh quê ở Cái Mơn, thánh Giuse Trùm Lựu quê ở Mặc Bắc...
Hằng năm, khi sắp kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội Việt nam cho các tín hữu mừng kính trọng thể lễ này. Qua đó, Giáo hội muốn nhắc nhở con cái mình trước hết là tâm tình biết ơn những bậc tiền nhân. Nhờ các Ngài mà ngày nay chúng ta còn được biết Chúa, được nhận ra Thiên Chúa tình yêu chính là nguồn sống của mình.
Đồng thời, Giáo hội cũng muốn con cái mình nhìn vào đó để học đòi bắt chước. Tâm tình biết ơn cao đẹp nhất đối với các ngài là chúng ta luôn sống tốt bậc sống trong môi trường sống của mình. Muốn sống tốt không cách nào khác bằng việc chúng ta gắn bó luôn với Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích. Nhờ sức mạnh Chúa ban, chúng ta mới có thể đủ sức can đảm vượt qua những khó khăn thử thách hay những cám dỗ khiến chúng ta lìa bỏ Chúa.
Hôm nay Chúa Nhật áp chót của năm Phụng vụ, Giáo Hội tại Việt Nam long trọng mừng kính Các: 24/11-74
Hôm nay Chúa Nhật áp chót của năm Phụng vụ, Giáo Hội tại Việt Nam long trọng mừng kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những người không ngại hy sinh mạng sống mình để trung thành với đức tin và để hạt giống Tin Mừng của Chúa Kitô bén rễ sâu vào lòng dân tộc. Các ngài xứng đáng lãnh nhận nhành lá chiến thắng vì các ngài là những chứng nhân lịch sử, chứng nhân tình yêu và chứng nhân hy vọng.
CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ
Có thể nói, hạt giống đức tin đã được các vị thừa sai gieo vãi trên mảnh đất Việt, các vị tử đạo đã tưới nó bằng chính máu và mồ hôi của mình, và Chúa đã cho nó lớn lên, đâm bông kết trái thành mùa bội thu.
Theo sử liệu, Tin Mừng được truyền giảng cho dân tộc ta vào thế kỷ XVI. Khi các vị thừa sai đặt chân đến Việt Nam , các ngài mong ước một ngày kia Đạo Chúa sẽ lan rộng trên đất nước nầy. Quả thật, hạt giống Tin Mừng ấy đã sớm bén rễ và triển nở thành một mùa lúa vàng. Tuy nhiên, mùa gặt bội thu ấy được đánh đổi bằng biết bao thử thách, biết bao khó nhọc, biết bao xương máu!
Trong lịch sử 300 năm truyền giáo tại Việt Nam , đã có hơn 130.000 Kitô hữu bị bách hại. Trong đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị lên bậc hiển thánh ngày 19.06.1988. Con số này tuy ít ỏi nhưng tiêu biểu cho mọi thành phần dân Chúa đã làm nên lịch sử hình thành và phát triển đạo Công giáo tại Việt Nam .
Các vị tử đạo Việt Nam là ai mà lại hiên ngang đón nhận cái chết oai hùng như thế? Các ngài là những người bình thường như bao người khác, cũng gắn bó với cây đa bến nước, với lũy tre làng; cũng là con cháu của những người máu đỏ da vàng. Tuy nhiên, khi đứng trước sự lựa chọn, các ngài đã chọn Chúa và đón nhận cái chết để minh chứng cho người đời thấy một niềm tin vững chắc, và để trung thành với tình yêu Chúa.
CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những môn đệ trưởng thành của Chúa Kitô. Các ngài đã cảm nhận rõ tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, mà đỉnh đồi Golgotha là cao điểm của tình yêu nầy. Nơi đó, qua cái chết của Chúa Kitô, Thiên Chúa đã biểu lộ trọn vẹn tình yêu vô bờ bến của Ngài. "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Gn 15,13).
"Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình" (Phanxicô). Các vị tử đạo ý thức trách nhiệm đáp trả tình yêu mà con người phải có đối với Thiên Chúa Tình Yêu. Các ngài chọn đi theo con đường mà Thầy Chí Thánh đã đi qua, chấp nhận cái chết để được sống với Thầy, để nên đồng hình đồng dạng với Thầy.
Các ngài đã tuyên xưng lòng mến và tình yêu của mình đối với Thiên Chúa bằng cái chết. Hơn thế nữa, các ngài đã chứng minh cho một chân lý: Tình yêu mạnh hơn cái chết. Không có một sức mạnh nào tách được các ngài ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu, các ngài đón nhận cái chết nhẹ tựa lông hồng để đưa đoàn người lữ hành tiếp bước trên đường hy vọng.
CHỨNG NHÂN HY VỌNG
Các Thánh Tử đạo Việt Nam đã can đảm chịu đựng gian lao khốn khó, đón nhận cái chết không chỉ vì tin tưởng vào cuộc sống hạnh phúc đời sau, mà còn vì một niềm hy vọng. Các ngài nghĩ đến thế hệ mai sau, thế hệ sẽ được đón nhận đức tin từ cái chết của các ngài. Điều đó làm cho các ngài phấn khởi. Các ngài không những không lo sợ cho Hội Thánh đang bị bách hại, mà còn mừng rỡ vì Hội Thánh sẽ được phát triển hơn. Các ngài không sợ hết tông đồ. Ngược lại, qua cái chết của các ngài, nhiều tông đồ khác sẽ đến và sẽ xây dựng Hội Thánh rực rỡ hơn.
Thật vậy, Giáo Hội tại Việt Nam đã có những chuyển biến tốt đẹp: đi sâu vào nếp sống của dân tộc, hoà nhịp cùng bước tiến của Giáo Hội hoàn vũ. Tuy nhiên cũng còn biết bao việc phải làm: phục vụ người nghèo, đối thoại liên tôn, hội nhập vào truyền thống dân tộc, vào cuộc sống của đất nước...
Hôm nay, nhìn lại gương hy sinh của các thánh tử đạo, chúng ta không chỉ cảm mến sự quảng đại hy sinh của các ngài. Điều quan trọng hơn là chúng ta hãy học cùng các ngài, noi gương các ngài. Chúng ta hãy chung tay đóng góp điều thiện cho dân tộc, cho quê hương để Tin Mừng Chúa Kitô lan toả và bén rễ sâu hơn vào lòng dân Việt và để đất nước Việt Nam ngày càng tươi đẹp hơn.
Giáo Hội long trọng mừng ngày lễ các thánh tử đạo Việt Nam, để chúng ta ca tụng và tạ ơn: 24/11-75
Giáo Hội long trọng mừng ngày lễ các thánh tử đạo Việt Nam, để chúng ta ca tụng và tạ ơn Thiên Chúa, đã thực hiện những công trình vĩ đại trên quê hương Việt Nam, là dịp để chúng ta chim ngắm và noi gương các vị tiền bối đã anh dũng làm chứng cho đức tin, là dịp để chúng ta hãnh diện về Hội Thánh Việt Nam, tuy chỉ mới hơn 400 năm, nhưng đã đóng góp cho Giáo Hội hơn 300.000 vị tử đạo.
Giáo Hội Việt Nam có sức sống mãnh liệt như ngày hôm nay, phần lớn là nhờ các vị tử đạo; các ngài đã gieo những hạt giống vào long đất, và tưới bằng chính máu của mình. Thật thế, những hạt giống tử đạo không chỉ ở một no8i nào, mà các ngài đến từ mọi miền đết nước, khác nào một vườn hoa với đủ sắc màu dâng lên Thiên Chúa, có đủ mọi thành phần: từ Giám mục, Linh mục, phó tế rồi đến cả giáo dân. Đặc biệt là cả những quan nhân, những người phụ nữ cũng quật cường can đảm tuyên xưng đức tin trước muôn vàn lưỡi kiếm mũi đao, chỉ vì trung thành với đức tin mà các ngài phải hy sinh bản thân bị mất danh dự, cam chịu khổ hình, và cuối cùng là dâng hiến bằng cái chết.
Trong số các thánh tử đạo Việt Nam, có người là quan lớn trong triều đình, có chức cao quyền trọng như thánh Hồ Đình Hy vì Chúa dám tuyên xưng đức tin, rồi phải chịu những tai họa khủng khiếp, mất chức quyền, mất danh vọng và mất cả mạng sống. Kế đến là những thầy giảng, như thầy Anrê Phú Yên, chủng sinh Tôma Thiện các Ngài có cả một tương lai rộng mở, tuổi đời còn đang tràn trề sức sống với nhiều ước mơ. Cũng có những lời hứa khuyến dụ của các quan nhưng các ngài đã khước từ tất cả, để chọn Thiên Chúa làm gia nghiệp, hướng dâng tuổi thanh xuân làm của lễ đẹp lòng người.
Có cả những quân nhân như thị vệ Tống Viết Bường, hay y sĩ Phan Đắc Hòa, họ là những người có vợ con, gia đình sống hạnh phúc êm ấm. Nhưng họ sẵn sàng dâng cả gia đình vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, để rồi chịu sức tử đạo trong niềm vui dâng hiến. Đặc biệt là những vị thánh nữ thân phận yếu đuối như bà Anrê Lê Thị Thành, chân tay mền yếu phải chịu gông cùm, bị tra tấn hành hạ để thể hiện tình yêu với Chúa Kitô.
Không phải tất cả các tín hữu đều được ơn tử đạo, hay chấp nhận chịu chết vì đạo. Có rất nhiều tín hữu đã bị bắt, có những người đã chối Chúa. Thật sự được tử đạo ơn ban của Thiên Chúa, không phải người nào cũng đượxc ơn ban này. Nhưng Thiên Chúa chỉ dành cho những người yêu mến Ngài. Lòng yêu mến đó được thể hiện qua chính cuốc sống đời thường của các Thánh. Họ đã sống lời Chúa ngay trong chức vụ của mình, là người cha, người mẹ gương mẫu, là người chồng, là người vợ tốt, là người con thảo hiếu trong gia đình, là những người lính kiên cường dũng cảm, là những lý trưởng yêu dâng. Trái họ đã là những công dân tốt trước khi được làm công dân nước trời.
Các Thánh tử đạo đã để lại cho Giáo Hội Việt Nam những cái chết hào hùng những tấm gương anh dũng cho hậu thế nói theo. Ngày hôm nay hình thức bắt đạo, tử đạo đã khác với thời các Thánh, không còn gươm giáo, xiềng xích nữa. Nhưng chúng ta lại bị bắt đạo bằng nhiều hình thức khác.
Chúng ta bị bắt từ ngay chính bản thân, bị cuốn hút bởi danh vọng và địa vị, chính danh vọng đã làm cho con người bất chấp tất cả, không dám tuyên xưng đức tin Công Giáo trước mặt người đời, danh vọng làm cho người ta bất chấp tất cả, cho dù đó là tội lỗi xấu xa, chỉ sao nhằm đạt đước mục đích bản thân. Lúc này Thiên Chúa của họ là danh vọng địa vị, con người không bào giờ thỏa mãn với những gì mình đang có.
Đứng trước một nền kinh tế đang phát triển ồ ạt, nếu không có một đức tin vững mạnh, chúng ta không thể đứng vững trước những xiềng xích của đồng tiền lôi kéo, nó như một ma lực mà tự chúng ta chui vào. Và khi đó con người là đủ mọi cách để có tiền, không từ chối một phương cách nào, từ cướp bóc, gian lận, co82 bạc, hối lộ… tiền bác hầu như chi phối tất cả mọi lãnh vực trong xã hội. Do đo, người Công Giáo cũng dễ bị cuốn hút theo, đòi hỏi họ phải có quyết tâm trong chọn lựa; Thiên Chúa hoạc tiền bạc. Vì thế để lựa chọn Thiên chúa đòi hỏa chúng ta phải tử đạo ngay trong đời sống này, chấp nhận nghèo còn hơn có được đồng tiền bất chính, thà chịu mất địa vị hơn mất đức tin.
Trong cuộc sống ngày nay, tử đạo không còn phải chạy trốn, né tránh như các Thánh ngày xưa, mà tử đạo là một cuộc chiến đấu không ngừng giữa Thiện vá ác, giữa lựa chọn và từ bỏ. Mỗi quyết định của chúng ta một lưỡi gươm đâm vào người. các Thánh chỉ một lần bị xử trảm. Còn chúng ta bị” xử trảm” mỗi ngày trong cuộc sống.
Lạy Chúa, nhờ ơn Chúa mà các Tháh tử đạo dám hy sinh từ bỏ, đổ máu đào để làm chứng cho đức tin. Ngày hôm nay, xin cho chúng con biết noi gương các thánh tử đạo dám can đảm, từ bỏ, hy sinh để làm chứng cho tin mừng trong thế giới hôm nay.
Để có thể thấy được bài học của Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại các: 24/11-76
Để có thể thấy được bài học của Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại các bài sách thánh vừa nghe. Bài đọc I, tiên tri Malakhi cho chúng ta thấy hai thái độ về ngày phán xét của Thiên Chúa. Đối với người gian ác, đây là ngày khủng, ngày phán xét, ngày giáng phạt. Nhưng với những ai sống trong đường lối Chúa thì đây là ngày cứu độ.
Còn Tin Mừng thánh Luca thuật lại việc có mấy người trần trồ về sự kiên cố ,trang hoàng lộng lẫy của đền thờ như một biễu tượng vĩnh cửu đáng hảnh diện của người Do thái. Để phá tan những suy nghĩ lầm lạc đó, Chúa Giêsu tiên báo về ngày thành Giêrusalem sẽ bị phá hủy "sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào". Và quả thật, lời tiên báo này đã được ứng nghiệm vào năm 70 sau Chúa giáng sinh, khi tướng Titus tiến quân vào thành và tan phá đền thờ một cách thảm hại. Khi nghe những lời ấy, họ kinh hoàng, sợ hãi và xin Chúa Giêsu cho biết thời gian và dấu chỉ báo trước về ngày ấy. Nhưng Chúa không trả lời thời gian và dấu chỉ báo trước thành Giêrusalem sụp đổ mà Ngài lại hướng mọi người về ngày tận thế, ngày mà Chúa sẽ trở lại trong vinh quang.
Nhưng trước khi ngày ấy đến, người tín hữu phải đương đầu với những thử thách nghiệt ngã nguy hai cho đức tin. Vì thế, Chúa kể ra những thử thách ấy để chúng ta cảnh giác, đề phòng hầu có thể can đảm giữ vững đức tin.
Quả thật, khi nhìn về cuộc sống hôm nay, chúng ta dễ nhận ra cuộc đời đầy dẫy những khó khăn thử thách. Chúng ta sống ở trần gian này như người lữ thứ đang tiến về quê hương vĩnh cữu. Cuộc sống con người ở tr6àn gian không phải là cùng đích nhưng chỉ là một chặng đường mà chúng ta phải đi qua. Thế nhưng trong chặng đường ngắn ngủi ấy không bằng phẳng và êm ái mà đầy dẫy nhưng bộn bề, nhưng lo toan mà ta phải chống chọi. Và chính những khó khăn đó nhiều lúc làm cho chúng ta quên mất đi quê trời vĩnh cữu.
Ai ai cũng có thể cảm nhận được những đau khổ, gian truân trong kiếp người lữ thứ. Trên chặng đường trần gian với những bấp bênh, nơi mà xen lẫn giữa hạnh phúc và nước mắt, giữa thánh thiện và gian ác. . . tất cả những thứ ấy dễ làm chúng ta ảo tưởng và lạc lối. Ao tưởng giữa gia trị vĩnh cữu và chóng qua, giữa mục đích và phương tiện. Vì thế đời sống đức tin trong thời đại như thế tất nhiên phải đối mặt với những khó khăn và thử thách mãnh liệt. Nhưng sống là chiến đấu. Đức tin cũng cần phải được tinh luyện và thử thách thì mới trưởng thành mạnh mẽ.
Nhưng thử hỏi làm sao có thể từ bỏ những cám dỗ hấp dẫn mà xem ra ai ai trong xã hội cũng đang theo đuổi tìm kiếm? Làm sao chúng ta có thể sống giản dị, khó nghèo, khiêm tốn trong khi xã hội trọng dụng và đánh giá con người theo các tiêu chuẩn đó? Làm sao chúng ta có thể giữ đạo cách nghiêm túc trong khi những người khác lại khinh chê … và còn rất nhiều điều khác nữa làm cho chúng ta nghi ngờ về Thiên Chúa và sự sống nước trời vĩnh cữu.
Trước những khó khăn đó, chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu cảnh báo trong Tin Mừng hôm nay. Chính trong những nghịch cảnh như thế Thiên Chúa mới cần chúng ta làm chứng cho Tin mừng và cho tình yêu của Ngài hơn bao giờ hết. Dù trần gian đầy dẫy lọc lừa, giả trá, đau khổ và bất hạnh … nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc, chúng ta thất vọng! Vì hạnh phúc vĩnh cữu trong Nước Thiên Chúa chỉ có thể đến được với những ai kiên trì bền đỗ và hằng ngày nỗ lực vươn lên. Dù thân phận con người yếu đuối mong manh dễ chìu theo những cám dỗ trần thế, những ham muốn tầm thường. Nhưng chúng ta hy vọng vào tình thưong và ơn trợ giúp của Chúa chắc chắn sẽ vượt qua. Chúng ta hãy noi gương các thánh tử đạo là cha ông chúng ta đã dùng máu đào minh chứng cho một niềm tin mạnh liệt. Thời đại hôm nay, các Kitô hữu phải lội ngược dòng, sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Tử đao của ngày hôm nay là biết chết cho nhưng ham muốn, chết cho những đam mê nhục dục của thế gian.
Chúng ta hãy cầu xin các thánh tử đạo cho chúng ta là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin mà chính các ngài gieo vãi. Trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa xin các ngài tăng thêm đức tin để chúng ta nhận ra Chúa đang ẩn nơi những gì thế gian chê bỏ. Trong một thế giới bộn bề những tham lam, chiếm đoạt và chà đạp nhau xin cho chúng ta biết nhiệt thành làm chứng cho tình yêu Chúa bằng một đời hiến thân phục vụ.
Xin Chúa dạy chúng con biết tìm đường lên trời nhờ sống yêu thương hiến mạng cho anh em, xin cho chúng con luôn hướng về quê hương vĩnh cữu để từ đó nỗ lực tìm về. Xin Chúa cho chúng con nhận ra tất cả nhửng vất vả trong cuộc đời này đừng bao giờ ngăn cản bước chân con chạy đến với Chúa và ước gì qua cuộc sống hằng ngày của cúng con mọi người thấy được Nước trời đang tỏ hiện. Amen.
Hát những bài như ”Việt Nam minh châu trời Đông” hay ”Việt Nam trên đường tương lai, lửa: 24/11-77
Hát những bài như ”Việt Nam minh châu trời Đông” hay ”Việt Nam trên đường tương lai, lửa thiêng soi toàn thế giới,” người Việt có thực sự tin như vậy không? Hay trong lòng có thể lại đang vang lên một tâm tình khác: ”hát vậy mà không phải vậy!” Dưới con mắt không ít người thì xe Lexus, máy vi tính, máy chụp kỹ thuật số mới đang có sức minh châu như mặt trời mọc thành ”lửa thiêng” rực lên trong tâm khảm ước mơ.
Những khổ nhục của cả một dân tộc trầm luân suốt thế kỷ đã khiến cho người Việt có lý do để mặc cảm thua kém thế giới về mọi phương diện. Không nói gì Âu Mỹ hay Nhật Bản, các nước lân bang kém mình hay ngang hàng với mình trước kia như Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Tân Gia Ba v.v. nay đã trở thành những con rồng nhỏ đang vươn lên từ Thái Bình Dương. Còn mình thì vẫn mang thân phận thua kém vế quá nhiều phương diện!
Nhìn sang nước Đại Hàn, người ta phải ngạc nhiên về hiện tượng vươn lên lạ lùng về mọi phương diện. Sau biến cố phong thánh các thánh Tử Đạo Đại Hàn trước mình mấy năm, là cả một trào lưu quật khởi. Hội Thánh Đại Hàn mở chiến dịch truyền giáo, số người Công Giáo tăng lên gấp bội. Rồi là Thế Vận Hội, Đại Hội Thánh Thể Thế Giới, máy Samsung, xe Hyundai, tràn ngập thị trường quốc tế, phi trường và xa lộ Đại Hàn chẳng thua gì các nước Âu Mỹ.
Còn mình là con của rồng mà sao vẫn chưa thấy ”trứng rồng lại nở ra rồng”, khiến càng mặc cảm về thân phận hẩm hiu rồi đâm nghĩ quẩn biết đâu chhỉ là ”liu điu lại nở ra dòng liu điu”?
Nhưng niềm háo hức xem chừng không đơn giản. Vì những năm cuối cùng của thế kỷ này đang có nhiều dấu hiệu khiến con người với kỹ thuật cao độ mệt mỏi phải đi tìm cách chạy chữa. Phim Hội Phúc Lạc (The Joy Luck Club) đã thu hút thật đông khán giả. Vai chính là June Woo và mẹ là Suyan Woo. Kiều Chinh đóng vai người mẹ này. Tác giả là Amy Tan, một phụ nữ chưa đầy 40 tuổi, gốc Tàu, sinh trưởng tại Mỹ. Cuốn truyện ”Hội Phúc Lạc” của cô ta in bìa cứng tái bản 27 lần, và bìa thường đã bán hơn hai triệu cuốn.
Cái gì hấp dẫn người Âu Mỹ vậy? Vì cũng chỉ thấy những chuyện xem ra lẩm cẩm của đời sống gia đình, của lối sống xung đột Âu Á. Lại cũng những giẫy giụa của nghèo túng, chiến tranh ở bên Đông và những khắc khoải bất an ở bên Tây. Cái ăn khách là cho nhìn thấy một lối thoát, một kiểu nhìn và nếp sống khác với những giải quyết bế tắc hiện tại.
Thì ra đó là những dấu chỉ thời đại. Những vẻ hào nhoáng xem ra lấn lướt và trở thành nỗi mơ ước của những dân nghèo túng, lại được người Âu Mỹ vang lên một điệp khúc khác: ”thấy vậy mà không phải vậy!” Văn minh Âu Mỹ đang có những dấu hiệu bất ổn và mâu thuẫn tự bên trong, có thể đang trên đà tự hủy. Bước sang ngàn năm mới người ta thấy có nhiều biến chuyển từ gốc rễ. Những cơ cấu vá víu về chủ nghĩa, về dân chủ hay cộng hoà, xem ra luẩn quẩn giậm chân tại chỗ. Và họ bắt đầu đi tìm một giải pháp, qua những lối nhìn và nếp sống của những sắc dân khác. Họ tìm về Amy Tan, Tagore... Và bây giờ Hội Thánh Công Giáo giới thiệu lối sống Việt, đề cao nẻo bước an nhiên theo tinh thần Việt.
MỘT GIẢI PHÁP ĐÚNG LÚC
Cách đây ít lâu, nhân được xem phim về biến cố phong thánh tại Roma, một người quen từ vùng Chicago theo đạo Phật, đã thật cảm động nói lên một nhận xét làm nhiều người giật mình:
" Người Công giáo không được quyền giữ niềm hãnh diện riêng cho mình trong biến cố phong thánh Các Thánh Việt, mà đó phải là niềm hãnh diện chung cho cả dân Việt.”
Hãnh diện ở cái nỗi nào đâu để mà giữ riêng hay là chia chung?! Vì tất cả các vị thánh Việt cũng chỉ là những vị sống cuộc sống bình thường, đa số thuộc thành phần giáo dân thầm lặng. Nhiều vị chả để lại dấu vết hay bút tích gì cả. Như vậy thì có gì đặc biệt đâu! Chắc chắn Hội Thánh phải có chủ ý gì?
Nhìn kỹ hơn thì thấy việc phong thánh có chủ đích rõ rệt là nêu lên những cái mẫu sống đáp ứng thời đại, đưa ra những tiêu chuẩn thường là ngược với trào lưu xuống dốc của nếp sống hiện tại. Đó mới là tiêu chuẩn để đo nền văn minh, vì đó là mẫu sống đem lại cho con người nếp sống hạnh phúc thật. Khi phong thánh các vị Tử Đạo, Hội Thánh không chỉ nhằm vào tác động anh hùng đổ máu, mà còn đề cao cả một cuộc sống nhân chứng Tin Vui tạo nên một đạo sống, mà việc tử đạo là một hành động quyết liệt minh chứng điều đó.
Đang khi nếp sống của con người ngày nay càng ngày càng trở nên phức tạp, hạnh phúc ngày càng vượt xa khỏi tầm tay, gia đình là tổ ấm yêu thương càng ngày trở nên mối đe dọa, thì Hội Thánh đưa ra một lối sống đơn giản và gần gũi, ai cũng có thể tìm thấy trong tầm tay. Đó chính là giới thiệu với thế giới về lối sống Việt hài hòa với đức tin Công Giáo trong nếp sống thường ngày, hiện thân qua các Thánh Việt. Đạo sống này chắc chắn biến đổi được những gì tầm thường nhất trở nên những phép lạ, trở nên niềm an vui hạnh phúc.
Câu trả lời được tìm thấy thật rõ trong tông huấn Người Tín Hữu Giáo Dân công bố ngày 30 tháng 12 năm 1988, chỉ sau biến cố phong thánh mấy tháng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xác định:
“Ở đây cần phải nhắc lại việc tôn phong chân phúc hay hiển thánh cho các tín hữu. Toàn dân Thiên Chúa, nhất là các tín hữu giáo dân có thể tìm ở họ, những vị mô phạm mới của các nhân đức anh hùng, được thực hiên trong những hoàn cảnh thông thường hằng ngày. Các Hội Thánh địa phương, nhất là các Hội Thánh trẻ trung phải lưu ý tìm xem trong con cái mình, những giáo dân nam nữ giữa những cánh đồng như thế (cảnh sống thường nhật ở trần thế và bậc sống vợ chồng) đã sống chứng nhân thánh thiện và có thể trở nên gương mẫu cho người khác, để đề nghị phong thánh.” (#17)
BƯỚC THEO ĐẠO SỐNG DŨNG LẠC
Quả thực, biến cố 117 vị tử đạo Việt Nam được tôn phong hiển thánh vào năm 1988 mà đứng đầu là thánh Dũng Lạc, đã tạo nên niềm hãnh diện và hứng khởi không chỉ riêng cho người Công giáo mà còn chung cho cả dân Việt mình với thế giới nữa. Vì cả một đạo sống Phúc Âm theo tinh thần Việt thể hiện qua đời sống các vị Thánh Việt, đã được thế giới Công giáo đề cao như một giải pháp đáp ứng đúng lúc cho thời đại mổi ngày mổi bế tắc trong lúc bước vào thiên kỷ 3. Niềm hãnh diện này cần phải được thể hiện, bộc phát thành những phong trào, và gợi hứng cho những sáng tác về văn, thơ, nhạc, và các ngành nghệ thuật chuyển diễn được căn cước Việt, góp phần Công giáo vào gia tài chung của Mẹ Việt Nam.
Thế giới đang tìm đường giải thoát giữa những khủng hoảng của cơn sốt duy vật. Hội thánh Công giáo đã giới thiệu một con đường, một giải pháp, một đạo sống, như đường sống dũng cảm và an lạc của Thánh Dũng Lạc, của Thánh Lê Văn Phụng, như Đường Nở Hoa Lê Thị Thành. Những con đường như thế vẫn thường được gọi là đường tu đức theo quan niệm người Việt:
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.
Chúng ta đang có được con đường đó, con đường có sức biến đổi cả một lớp dân mặc cảm mất hướng tịt đường như lời Kinh Thánh xác quyết:
”Giới trẻ thì mệt mỏi rã rời, giới già thì nghiêng ngả xiêu vẹo, nhưng những ai tin vào Chúa thì sẽ được canh tân mang sinh lực mới. Họ sẽ mọc cánh như chim phượng hoàng bay cao. Họ chạy mà không mỏi, họ đi mà không mệt.” (Isaia 40:31)
Ngày 24 tháng 11 hằng năm cả thế giới mừng lễ các Thánh Việt: cùng sùng kính, cầu khấn, học hỏi và noi theo nẻo bước sống dũng lực và an lạc của các ngài. Người Việt mình muốn mọc cánh vươn lên khỏi những mặc cảm thua kém để sống đời tròn đầy sung mãn, liệu đã xác tín và hãnh diện bước theo đạo sống Dũng Lạc mà thế giới Công giáo đã công khai xác nhận chưa?
Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
((từ tác phẩm Vũ Khúc Thăng Ca, Thời Điểm xuất bản)
Xin mời thăm gia trang giới thiệu Tư Liệu Xây Nhà Niềm Tin và Văn Hoá Việt: www.dunglac.net
Cách đây mấy tháng báo Thanh Niên có tổ chức một diễn đàn khá đặc biệt với chủ đề “Việ: 24/11-78
Cách đây mấy tháng báo Thanh Niên có tổ chức một diễn đàn khá đặc biệt với chủ đề “Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” Mục đích mà diễn đàn trên nhắm tới là khơi lên lòng tự hào và tự trọng dân tộc của mọi người Việt Nam vẫn được mệnh danh là ‘con rồng cháu tiên”. Nhiều người đã thẳng thắn trình bày suy nghĩ của mình về “giá trị” của đất nước và dân tộc. Nhiều người khác mạnh dạn tố cáo những việc làm sai trái về mặt đạo đức, hại nước hại dân, phản bội tổ quốc và dân tộc của những người có chức có quyền đương thời.
Chúng ta có thể nói người Công Giáo Việt Nam chẳng những là “con rồng cháu tiên” mà còn là “con thần cháu thánh” nữa. Thật vậy, chứng tá kiên cường của 118 Thánh Tử Đạo và của hàng ngàn các Anh Hùng Tử Đạo đã đem đến cho người Công Giáo Việt Nam một niềm vinh dự vô cùng lớn lao và đã tô điểm non sông gấm vóc của Việt Nam thành mảnh đất tươi đẹp trước mặt Thiên Chúa và các Giáo Hội chị em trong Hội Thánh Công Giáo toàn cầu.
Mừng kính trọng thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không chỉ khơi lên lòng tự hào mà còn phải thể hiện ý thức trách nhiệm bằng những dấn thân cụ thể cho quê hương, đồng bào và Giáo Hội.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG CÁC BÀI THÁNH KINH
(1) Bài đọc 1: 2 Mcb 8,18-21.24-31:
18 Ông Giuđa Macabê nói: "Quả thật, bọn chúng vừa cậy vào khí giới, vừa cậy vào lòng dũng cảm của mình, còn chúng ta, chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa Toàn Năng. Trong nháy mắt, Người có thể triệt hạ không những bất cứ ai chống lại chúng ta, mà còn có thể triệt hạ toàn thế giới." 19 Ông còn kể lại cho họ biết tổ tiên đã được ơn phù trợ như thế nào: chẳng hạn dưới thời Xankêríp, một trăm tám mươi ngàn người đã bị tiêu diệt. 20 Rồi trong trận chiến đánh người Galát ở Babylon cũng vậy: số người tham chiến tất cả chỉ có tám ngàn, cộng thêm bốn ngàn quân Makêđônia, thế mà lúc quân Makêđônia gặp khó khăn, thì tám ngàn người kia đã tiêu diệt được một trăm hai mươi ngàn địch: chính nhờ có Chúa Trời cứu giúp mà họ đã thắng lớn. 21 Nhờ lời ông nói mà dân quân thêm can đảm và sẵn sàng chết vì Lề Luật, vì tổ quốc. Ông chia quân làm bốn đơn vị. 24 Nhờ có Đấng Toàn Năng liên minh trợ chiến, họ đã giết hơn chín ngàn quân địch, đánh bị thương và làm cụt chân tay đại đa số quân khác của tướng Nicano, đồng thời buộc tất cả quân còn lại phải chạy trốn. 25 Họ cũng tịch thu số tiền của những người định đến mua họ làm nô lệ. Sau khi đuổi theo quân địch một quãng đường khá dài, họ đành phải quay về vì thời giờ bắt buộc: 26 lúc ấy là chiều áp ngày sa bát rồi, họ không thể tiếp tục đuổi theo chúng được nữa. 27 Sau khi lấy khí giới của địch và thu hồi chiến lợi phẩm, họ mừng ngày sa bát, hết lòng chúc tụng và ngợi khen Đức Chúa, vì chính ngày hôm đó Người đã cứu thoát họ, đã mở lòng thương xót họ. 28 Sau ngày sa bát, họ chia một phần chiến lợi phẩm cho những người đã bị bách hại và cho các cô nhi quả phụ; phần còn lại, họ và con cái họ chia nhau. 29 Chia xong, họ tổ chức cầu nguyện chung với nhau, xin Đức Chúa mở lượng từ bi mà ban cho các tôi tớ Người được mãi mãi giao hòa với Người.. 30 Trong cuộc giao tranh với quân của tướng Timôthê và Bắckhiđê, quân của ông Giuđa đã giết được hơn hai chục ngàn tên, chiếm được những pháo đài rất cao. Chiến lợi phẩm thu được nhiều vô kể, họ chia thành hai phần đều nhau: một phần cho họ, một phần cho những người đã bị bách hại, cho cô nhi quả phụ và cho cả những người già lão.31 Thu khí giới của địch quân xong, họ cẩn thận đem cất vào chỗ an toàn; còn lại bao nhiêu lợi phẩm, họ mang về Giêrusalem.
(2) Bài Tin Mừng: Mt 10,16-23: Chúa Giêsu tiên báo những cuộc bách hại.
16 Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu. 17 "Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ.18 Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. 19 Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: 20 thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.
21 "Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. 22 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
III. CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM ĐÃ KIÊN CƯỜNG SỐNG VÀ LÀM CHỨNG ĐỨC TIN.
Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam (được gọi là Lễ Thánh Anrê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo) ấn định trong niên lịch phục vụ vào ngày 24 tháng 11 mỗi năm, và Hội Đồng Giám Mục quyết định dời lễ kính vào ngày Chúa Nhật liền trước hoặc liền sau ngày 24 tháng 11, để giáo dân có dịp tham dự dễ dàng.
Thực ra việc kính Thánh Anrê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo bao gồm việc kính tất cả 117 Vị Tử Đạo đã được Giáo Hội phong lên bậc Hiển Thánh. 117 vị Thánh này có 96 Thánh Việt Nam (37 linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 Thánh người Tây Ban Nha (6 giám mục và 5 linh mục), 10 Thánh người Pháp (2 giám mục và 8 linh mục).
Thánh Anrê Dũng Lạc tử đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839. Hai vị Thánh Tử Đạo đầu tiên là Linh mục Tế và Linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị Thánh Tử Đạo sau cùng là giáo dân Phêrô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các Bạn Tử Đạo với Thánh Anrê Dũng Lạc ta phải hiểu là các Thánh Tử Đạo kể từ năm 1745 tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm).
Tất cả các Vị Thánh này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức Tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòn vọt đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời v.v.. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu đốt (án thiêu sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt các chi thể rồi mới chém đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra hằng trăm miếng (án bá đao). Cũng có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp, lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở cuối cùng, trước khi bị đem ra pháp trường.
(Đọc tiếp tư liệu về các Thánh Tử Đạo Việt Nam ở phần ghi chú (1).
IV. THỂ HIỆN TƯ CÁCH LÀ “CON THẦN CHÁU THÁNH” TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
4.1 Trách nhiệm sống sứ mạng chứng nhân của mọi Kitô hữu đã được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc nhở trong Thư Mục Vụ 2006 về chủ đề “Sống Đạo Hôm Nay” (2).
4.2 Trong cụ thể nếu muốn sống sứ mạng chứng nhân ngày hôm nay thì người giáo dân Việt Nam không thể thờ ơ trước những thực tại bất thường và đáng xấu hổ của một dân tộc có bốn ngàn năm văn hiến:
(a) Trước hết là tình trạng nghèo đói của đại đa số đồng bào: Xã hội Việt Nam còn đầy rẫy những người nghèo: nghèo về vật chất khiến phải sống dưới mức tối thiểu không thể xem là đủ sống; nghèo về xã hội, như bị kỳ thị (tôn giáo, sắc tộc, phe đảng) hay bị cô lập (già yếu); nghèo về thể chất và tâm lý, như bệnh tật và tàn tật; nghèo về chính trị, như bị ức hiếp, bóc lột, cưỡng bức; nghèo về văn hóa, như ít học, ít hiểu biết và không được bị coi trọng; nghèo về đạo đức, như tội phạm. Những người nghèo kể trên đều bị ngăn cản không được dự phần vào đời sống chung của xã hội một cách thích hợp, và vì thế nhu cầu cấp thiết là phải giúp đỡ họ thể hiện vai trò “chủ thể” của họ phù hợp với phẩm giá con người.
(b) Kế đến là tình trạng bất công tràn lan trong xã hội: Có nhiều kẻ không làm mà hưởng rất nhiều trong khi có nhiều người khác cực khổ từ sáng đến chiều, suốt tuần, suốt tháng, suốt năm, thậm chí suốt đời mà vẫn không đủ sống. Có những người giầu có bạc triệu (tính bằng đôla Mỹ) nhờ có chức có quyền nên có cơ hội kinh doanh đâu tư hoặc tham nhũng, vơ vét dù bất tài và thất đức. Trong Thư Mục Vụ 2006, các Giám Mục Việt Nam đã thúc đẩy mọi tín hữu góp phần xây dựng một xã hội công bằng (3).
(c) Sau cùng là tình trạng thiếu tự do, dân chủ vẫn còn được duy trì mặc dù trào lưu tiến bộ của loài người là tôn trọng phẩm giá và các quyền con người. Do đó, không ai hay nhóm người nào, vì bất cứ lý do gì, được quyền chối bỏ hoặc hạn chế các giá trị thiêng liêng cao cả ấy. Trong l ãnh vực này, người Công Giáo có trách nhiệm đề cao, truyền bá và bảo vệ các giá trị của tự do, dân chủ và phân quyền trong đời sống xã hội vì phẩm giá và các quyền con người là bất khả xâm phạm và không thể chuyển nhượng như Đức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á (4).
V. CẦU NGUYỆN
“Lạy Chúa Giêsu Kitô, là Vị Tử Đạo Tiên Khởi, Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian. Xin cho chúng con luôn giữ được bản lãnh đức tin của mình, giữ được vị mặn của muối, tác động của men…để đem đến cho thế gian một sức sống mới và một tinh thần mới.
“Lạy Chúa Giêsu Kitô, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo những cám dỗ của thế gian, ma quỉ và các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” để chúng con luôn sống xứng đáng là những con cháu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Nở nụ cười khi tiếp xúc, Cởi mở đi bước trước làm quen với những người mới, an ủi những ai đang gặp rủi ro trái ý; khiêm nhường phục vụ tha nhân, đặc biệt những người đau khổ và bất hạnh, đang cần được cảm thông và trợ giúp” (Lời cầu nguyện của linh mục Đan Vinh).
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Kansas City (MO/USA) ngày 04 tháng 11 năm 2006 ……………. Ghi chú:
(1) Tư liệu về gương hy sinh anh dũng của các Thánh Tử Đạo Việt Nam:
- Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lện quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.
- Sau ba tháng tù tại Bình Định ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
- Bà Thánh Inê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là: "Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa." Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về đức Tin.
- Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa. Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ huy: "Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời.
- Năm ông Đaminh Nhi, ông Đaminh Mạo, ông Đaminh Nguyên, ông Anrê Tường, ông Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, bốn vị ông Đaminh Mạo cùng các ông Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
- Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao: "Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?"
- Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: "Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: "Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết."
Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con."
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: "Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm."
Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà cho rằng chỉ nhận lấy kỷ vật đó mà thôi là chưa đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao cho bà thủ cấp của con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại: "Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ." Rồi bà đem về an táng trong nhà.
(2) Sống sứ mạng làm chứng nhân: “Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin của các Tông Đồ, mở trí cho các Ngài hiểu Thánh Kinh và trao cho các Ngài sứ mạng ra đi rao giảng cho muôn dân, kêu gọi thống hối để được ơn tha tội. Người khẳng định: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).
“Từ đó, sống chứng nhân là cách thế biểu thị sống động nhất về sức mạnh yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu đã đến trần gian không để tìm vinh quang cho chính mình, nhưng là để làm vinh danh Thiên Chúa và cứu độ con người, Kitô hữu bước theo Chúa Giêsu để được Tin Mừng của Người biến đổi, và qua đó họ trở nên những người đem Tin Mừng cho thế giới này.
“Nếu trong đời sống Kitô hữu, Chúa Giêsu thực sự là điểm quy chiếu và là chuẩn mực giúp nhận định giá trị các hành vi, thì sự hiện diện tích cực qua việc sống đạo của Kitô hữu trong xã hội sẽ trở thành lời chứng về những giá trị căn bản của Tin Mừng và trở nên dấu chỉ của niềm hạnh phúc Nước Trời.” (Thư Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 4).
(3) Góp phần xây dựng một xã hội công bằng: “Lòng mến Chúa yêu người thôi thúc chúng ta góp phần xây dựng một xã hội trong đó con người có điều kiện để sống xứng với phẩm giá của mình. Bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, nên mọi người có quyền được tôn trọng và phát huy những khả năng Chúa ban để phục vụ xã hội một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, bởi vì con người là anh em của nhau, được tác tạo do quyền năng của Thiên Chúa và là đối tượng của ơn cứu chuộc trong Chúa Giêsu Kitô, nên mỗi người cần được đối xử với lòng kính trọng và yêu thương chân thành như là mục đích của sự phát triển toàn diện, để họ không bao giờ bị biến thành phương tiện cho sự phát triển kinh tế, cho sự thăng tiến xã hội của bất kỳ tổ chức hay thế lực nào.
“Để xây dựng một xã hội công bằng, ngoài việc giáo dục để biết tôn trọng những quyền căn bản của con người, cũng cần có một đường lối thích hợp bảo đảm thực hiện được quyền này. Công việc này đòi hỏi sự đóng góp từ nhiều phía. Là Kitô hữu, được mời gọi để trở thành ánh sáng cho thế gian, muối cho đời, men trong bột, chúng ta hãy tập trung xây dựng một cộng đoàn trong đó mọi thành phần đều được yêu thương và được đối xử công bằng.
“Sự công bằng cần phải đi đôi với lòng tôn trọng sự thật, vì tôn trọng sự thật là điều kiện để xây dựng một cộng đoàn yêu thương. Chúng tôi tin chắc rằng gương sáng phát xuất từ cộng đoàn của những người con cái Chúa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong xã hội chúng ta” (Thư Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 7).
(4) Tôn trọng phẩm giá con người: “Con người, chứ không phải của cải hay kỹ thuật là TÁC NHÂN CHỦ YẾU & MỤC TIÊU của sự phát triển. Thế nên, sự phát triển mà Giáo Hội cổ võ vượt xa những vấn đề kinh tế và kỹ thuật. Sự phát triển ấy bắt đầu và kết thúc với sự toàn vẹn của con người, đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá cũng như các quyền con người bất khả nhượng. Các bản Tuyên Ngôn Quốc Tế khác nhau về các quyền con người cũng như nhiều sáng kiến được khởi hứng từ các Tuyên Ngôn ấy là một dấu hiệu cho thấy, trên cấp độ toàn cầu, càng ngày người ta càng quan tâm tới phẩm giá con người. Không may, trong thực tế, các bản Tuyên Ngôn này thường xuyên bị vi phạm. Đã năm mươi năm sau ngày long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, mà nhiều dân tộc vẫn còn là nạn nhân của những hình thức bóc lột và thao túng làm hạ phẩm giá, biến họ thành nô lệ thực sự cho những người quyền thế hơn, cho một ý thức hệ, cho quyền lực kinh tế, cho những hệ thống chính trị đàn áp, cho chủ nghĩa khoa học kỹ thuật thống trị hay sự xâm nhập của các phương tiện thông tin đại chúng.” (Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, 33).
Nhân ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thập giá trong: 24/11-79
Nhân ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thập giá trong cuộc sống của các ngài.
Hơn ai hết, các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta đã sống mầu nhiệm thập giá một cách sâu xa nhất. Đúng thế, chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh thiện quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác, các ngài còn thực sự uống chén đắng và trải qua cuộc thanh tẩy bằng máu mà Chúa Giêsu đã trải qua trong cuộc khổ nạn.
Các ngài chịu đau khổ và chết trong thân xác như Đức Kitô trên thập giá. Cuộc đời các ngài lặp lại từng bước những chặng được thập giá của Chúa Giêsu và kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng đời sống và bằng cái chết các ngài nói lên niềm xác tín của mình: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Tình yêu của các ngài còn mạnh hơn cả sự chết và là yếu tố tạo nên chiến thắng. Các ngài sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, đối với tình yêu thì giá nào cũng vẫn còn là thấp, kể cả sự chết.
Các ngài đã làm chứng và loan truyền mầu nhiệm thập giá. Cái chết của các ngài không còn là một việc riêng tư, nhưng đã trở nên một biểu hiện cho niềm tin chung của Giáo Hội vào giá trị tuyệt đối của Nước Trời, vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Sự chết đó còn là một tiếng gọi, một lời thúc giục toàn thể dân Chúa hãy sống trọn vẹn niềm tin của mình và chiếu sáng niềm hy vọng giữa lòng cuộc đời. Nếu sống được như vậy, thì dẫu không trải qua cái chết tử đạo, chúng ta cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm thập giá. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân. Các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng cả sự sống lẫn sự chết. Thập giá đã đưa Đức Kitô đến phục sinh. Sau khi đã tự hạ vâng lời cho đến chết, Đức Kitô đã được suy tôn cùng với uy quyền và vinh quang. Còn các thánh tử đạo thì sao? Dù các ngài chưa thể sống lại trong thân xác như Đức Kitô, nhưng cũng đã đạt tới sự sống vinh quang của Ngài, bởi vì ngay lúc chết, các ngài đã được tham dự vào sự sống vinh quang của Đức Kitô phục sinh chỉ còn phải chờ đợi ngày được tỏ hiện mà thôi. Sự liên đới với Đức Kitô trong cái chết chắc chắn sẽ tạo nên sự liên đới trong sự sống.
Dù trong cảnh ngộ nào, Đức Kitô và các môn đệ Ngài cũng vẫn chung một số phận: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị. Vẫn là một quy luật muôn thuở của Nước Trời: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Trong mùa gặt phong phú của Giáo Hội Việt Nam thời sơ khởi, các thánh tử đạo đã loan truyền mầu nhiệm thập giá một cách kiên trì trên mảnh đất thân yêu. Xin các ngài giúp chúng ta, là những người công giáo Việt Nam hôm nay luôn sống trọn vẹn niềm tin, và làm chứng cho tình thương Chúa bằng đời sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
Mỗi lần nói đến các thánh tử đạo, là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh đầu rơi, máu đổ, gông: 24/11-80
Mỗi lần nói đến các thánh tử đạo, là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh đầu rơi, máu đổ, gông cùm, gươm giáo… Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần tới Thế kỷ 21, những cảnh hành trình tàn bạo, cổ điển ngày xưa và sự bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo được hiểu rộng rãi hơn. Vì tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức, nói chung là chết vì chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Maximilianô Kolbê, ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình, trong trại tập trung của Đức Quốc xã. Vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi Cha là vị tử đạo, chỉ coi Cha là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (Confessor). Nhưng khi phong thánh cho cha vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi cha là một vị tử đạo. Trong bài giảng phong thánh cho Cha Kolbê, Đức Thánh Cha nói: “Cái chết được cha hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm cho cha Kolbê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?”
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba” (TMA), Đức Thánh Cha kêu gọi các Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh”vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thày về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những Giám mục, Linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (TMA. 37).
Anh chị em thân mến,
Các Thánh Tử đạo là những người sống, làm chứng, loan truyền mầu nhiệm Thánh giá. Mỗi Kitô hữu, dầu không phải trải qua cái chết tử đạo thì đời sống vì đạo, sống vì Chúa, cho Chúa, cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm Thập giá cho thế giới. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân.
Không hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt Nam ngày xưa đã dùng Thập giá làm phương tiện để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là “Quá Khóa”để dùng Thập giá vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết: bước qua hay không bước qua Thập giá. Bước qua là được tiếp tục sống ở đời này, được trả lại tất cả những gì đã mất, được tặng thêm bao phú quý vinh hoa. Không bước qua là chấp nhận tù đày, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân…
Đã có người bước qua và đã có nhiều người không bước qua, không quá khóa. Đã có người được khiêng qua Thập giá, nhưng đã co chân lên, như Thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua Thập giá, nhưng sau lại hối hận, đó là trường hợp của ba vị thánh Augustino Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể và Đaminh Đinh Đạt. Vua Quan đã bày ra trước mặt các ông 10 cây vàng, một tượng Chúa Chịu Nạn và một thanh gươm, rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển”. Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của tôi. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Thánh Stêphanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập giá, nay tôi lại đạp lên Thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua Thánh giá, để quan có cớ mà tha cho, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước Thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hòa hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu qua mọi thời đại.
Không bước qua Thánh giá là làm chứng về niềm tin vào Đức Kitô. Dù chỉ là cây gỗ xếp chéo nhau, nhưng đó vẫn là một biểu tượng cho Thầy Chí Thánh, Đấng đã chịu chết trên Thánh giá. Các vị tử đạo đã không bước qua Thánh giá, vì họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng các ngài không phải chỉ là những chứng nhân đức tin mà còn là những chứng nhân đức mến. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng các ngài tin, mà còn là Đấng các ngài yêu mến bằng một tình yêu lớn nhất: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Cuối cùng, các vị Tử đạo còn là những chứng nhân cho một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết khủng khiếp đang chờ họ, nhưng họ như nhìn thấy thế giới ở đàng sau cái chết tạm thời. Họ thấy Thiên đàng, thấy sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường tồn. Chính vì thế, cái chết tử đạo không bao giờ mang nét bi đát của sự tuyệt vọng. Trái lại, nó ẩn chứa một sự bình an, vui tươi của người được hạnh phúc gặp Đấng mình mới tin mà chưa giáp mặt.
Anh chị em thân mến,
Các vị tử đạo là những chứng nhân dám chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Có thể chúng ta không được ơn tử đạo, nhưng chắc chắn chúng ta phải trở nên chứng nhân cho Chúa. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi, bị coi rẻ. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin. Mỗi thời đại nhạy cảm với một lối làm chứng. Lối làm chứng của cha Kolbê, của Mẹ Têrêsa Calcutta, của các tu sĩ bị ám sát ở Algêri, rất hấp dẫn con người hôm nay. Cần tìm được những lối sống Tin Mừng phù hợp khiến người ta dễ tin có Chúa, có linh hồn, có đời sau. Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi vật chất và không cần đến Thiên Chúa, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi sống một đời sống đơn sơ, chia sẻ và phụ vụ trong vui tươi? Khi con người hôm nay như bị cuốn hút vào cơn lốc của hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng thái độ thanh thoát, trong sáng và vô vụ lợi? Làm chứng bao giờ cũng là lội ngược dòng thế gian. Các Thánh Tử đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong thời đất nước chuyển mình theo kịp thế giới. Thời nào, người Kitô hữu cũng được đặt trước Thánh giá, dấu hiệu của một tình yêu hiến thân, một sự từ bỏ tận căn, một sự khiêm hạ đến tận cùng. Hãy đặt Chúa lên trên mạng sống của mình, yêu Chúa trên hết mọi sự.
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô: 24/11-81
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giê-su, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên: 24/11-82
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: "Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
Chúng ta có thể coi đạo Công Giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16, còn trước đó thì: 24/11-83
Chúng ta có thể coi đạo Công Giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16, còn trước đó thì rất mơ hồ. Một vài tác giả cho rằng: các môn đệ của Thánh Tôma từ Ấn Độ theo các tàu buôn đã đến truyền giáo cho người Việt Nam.
Theo Đại Việt Sử Ký thì Sĩ Nhiếp là người thờ kính Chúa Trời, có xây một đền tại dinh của ông. Trong đền này có hình Gia tô thập tự. Ông chết năm 226, thọ 90 tuổi. Tuy nhiên đó mới chỉ là ức đoán mà thôi. Việc truyền giáo chỉ thực sự khởi sắc vào thời hậu Lê thuộc thế kỷ 16, khi các cha dòng Tên theo các tàu đã đến và giảng đạo tại Việt Nam.
Thời hậu Lê, tuy cấm đạo nhưng chưa khắc nghiệt lắm vì hoàn cảnh loạn lạc. Sau đó Tây Sơn đánh đổ nhà hậu Lê, đã ban cho tự do tôn giáo, nhưng không được bao lâu, nhà Tây Sơn cũng ra lệnh cấm đạo. Từ thời hậu Lê cho tới nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian 162 năm, đã có 11 lần cấm đạo, những chưa gắt gao cho lắm.
Nhờ giám mục Bá Đa Lộc giúp đỡ, Nguyễn Phúc Ánh đánh thắng nhà Tây Sơn, lên làm vua và khởi đầu cho triều đại nhà Nguyễn. Vì thế, vua Gia Long không cấm đạo mà còn bênh vực và nâng đỡ. Có người nói rằng khi gần chết nhà vua đã trở lại, nhưng không có bằng chứng chắc chắn nào cả.
Sang thời Minh Mạng, lúc đầu nhà vua không cấm đạo, nhưng chung quanh nhà vua, toàn những vị quan thù ghét đạo, luôn tìm cách vu khống cho người có đạo, thành thử nhà vua đã ngả theo và ra sắc chỉ cấm đạo trong cả nước.
Thời Thiệu Trị cũng vậy, lúc đầu nhà vua cũng không cấm đạo, nhưng kể từ ngày tàu Pháp tấn công cửa Hàn Tứ tại Đà Nẵng, nhà vua tức giận và đã cấm đạo một cách gắt gao. Nhà vua treo thưởng cho ai bắt được một linh mục Pháp là 30 nén bạc. Công việc chua đi đến đâu, thì nhà vua lâm bệnh và qua đời.
Thời Tự Đức, khi mới lên ngôi, nhà vua tỏ ra rất khoan hồng, mở cửa ngục tù cho giáo dân ra về, hy vọng những ngày đen tối sẽ chấm dứt. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, hoàng hậu và các quan không đồng ý. Vì sợ có chia rẽ, nên nhà vua lại ban hành lện cấm đạo một cách gắt gao, không kém gì các bạo vương Rôma ngày xưa.
Trải qua hơn ba thế kỷ, hằng trăm ngàn người đã phải lìa xa quê hương, sống lén lút nơi rừng thiêng nước độc, để trốn tránh sự truy lùng như những giáo dân vùng La Vang Quảng Trị. Còn những người bị bắt, thì đã phải chịu những cực hình dã man, không kém gì các thánh tử đạo của Giáo Hội trong thời buổi sơ khai. Vậy đâu là những lý do khiến cho vua quan ra lệnh cấm đạo.
Lý do thứ nhất đó là vì óc thủ cựu và hẹp hòi. Họ luôn cho rằng chỉ mình mới tốt và đúng, còn người khác thì xấu và sai. Hơn nữa do ảnh hưởng của Nho giáo, phàm những gì thánh hiền đã nói hay đã viết, đều là khuôn vàng thước ngọc cần phải tuân theo.
Lý do thứ hai đó là vì thái độ giận cá chém thớt. Thuở ban đầu các vua Minh Mạng, thiệu Trị và Tự Đức đều không cấm đạo, nhưng sau đó, vì không ngăn chặn được sự tấn công của người Pháp, nên vua quan quay ra thù ghét những người mà họ cho rằng đã theo đạo của Tây và khép vào tội phản động, nối giáo cho giặc.
Lý do thứ ba, đó là vì cho rằng những người theo đạo không còn tôn trọng truyền thống cha ông để lại, chẳng hạn trong việc thờ cúng ông bà tổ tiên, hiếu kính đối với cha mẹ…Đây cũng chỉ vì óc thiển cận, không tìm hiểu cho thấu đáo, nên đã gây ra những ngộ nhận, những hiểu lầm đáng tiếc.
Tuy nhiên lý do căn bản nhất vẫn là sự đối kháng giữa tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian. Đối kháng như lửa và nước, như ánh sáng và boqng tối. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: Người ta đã bắt bớ Thầy, thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con…Nhưng ai xưng tụng Thầy trước mặt người đời thì Thầy cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự ở trên trời.
Sự bắt bớ, hay nói đúng hơn, sự đối kháng này không phải chỉ xảy ra bên ngoài trên bình diện xã hội, như chúng ta đã thấy, mà còn xảy ra bên trong, trên bình diện nội tâm. Thực vậy, chúng ta luôn cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, để rồi như thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Bởi đó, hãy trung thành với Chúa trong những bắt bớ bên trong bằng cách thự hiên điều thiện điều tốt, nhờ đó chúng ta sẽ trung thành với Chúa trong những bắt bớ bên ngoài. Vì ai bền đỗ đến cùng, thì sẽ được cứu thoát.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những viên thuốc đắng, người ta phải bọc đường để cho: 24/11-84
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những viên thuốc đắng, người ta phải bọc đường để cho dễ uống. Thế nhưng qua Tin mừng, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Trái lại, Ngài đã nói rõ cho các môn đệ biết những khó khăn đang chờ đón các ông. Ngài bảo: - Thầy sai các con đi như chiên con ở giữa sói rừng. Người ta đã ghét bỏ Thầy, thì rồi họ cũng sẽ ghét bỏ các con. Đầy tớ không trọng hơn chủ. Họ sẽ xua đuổi các con ra khỏi hội đường, sẽ bắt bớ và hãm hại các con. Đã đến giờ những kẻ giết các con tưởng rằng làm như thế là phụng sự Thiên Chúa…
Quả thật là rõ ràng và minh bạch, không dấu diếm, không úp mở và chúng ta cũng chẳng cần phải cắt nghĩa hay thêm bớt điều gì nữa. Kể từ nay, các ông sẽ phải mạnh dạn tiến lên với dấu ấn của người môn đệ Đức Kitô. Thế gian sẽ nhìn các ông như những kẻ xa lạ và thù địch, không có cùng một mẫu số chung, không đồng hội đồng thuyền với họ.
Nếu Đức Kitô đã bị đóng đanh vào thập giá như một tên tội phạm về phương diện chính trị, thì các ông cũng vì Ngài mà bị điệu tới vua chúa và chính quyền, bị hành hạ và ngược đãi, để rồi sau cùng đã chết đi cho ánh sáng Tin mừng được chiếu tỏa. Và sự thật đã xảy ra như thế. Tất cả các ông, ngoại trừ thánh Gioan tông đồ, đều đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô.
Theo mẫu gương kiên hùng của các ông, Giáo hội sơ khai cũng đã bị nhuộm thắm bởi dòng máu của hàng ngàn, hàng vạn các tín hữu bị bách hại duới thời các bạo vưong La Mã, đúng như lời Chúa đã báo trước:
- Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con.
Tại Hollywood, kinh đô điện ảnh của thế giới, người ta đã dàn dựng những cuốn phim vĩ đại nói về những cuộc bách hại các tín hữu trong những thế kỷ đầu. Hàng ngàn tín hữu đã bị làm mồi cho sư tử tại các hý trường. Với màn ảnh rộng và với màu sắc huy hoàng, người ta đã thực hiện được những cảnh hùng vĩ ấy một các dễ dàng và đã gây được một sự xúc động mạnh mẽ nơi khán giả.
Dầu vậy, đó vẫn chỉ là những cảnh giả tạo. Ống kính không thể thu được cái thực tại sống động và cay đắng mà các môn đệ cũng như các tín hưu sơ khai đã phải trải qua:
- Thầy sai các con đi như chiên con ởi giữa sói rừng.
Kinh nghiệm đau thương ấy vẫn luôn xảy ra ơ mọi nơi và trong mọi lúc. Ngay như Giáo hội Việt Nam cũng vậy. Với hơn ba trăm năm cấm cách, trải dài từ thời Hậu Lê cho đến thời nhà Nguyễn, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, hàng trăm ngàn người đã phải rời bỏ nơi quê cha đất tổ, sống lẩn trốn nơi rừng thiêng nước độc như các tín hữu vùng La Vang Quảng Trị. Hàng ngàn tín hữu đã ngã gục duới những cực hình dã man để trở thành những chứng nhân bất khuất cho Tin Mừng, trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 tại Rôma.
Từ những sự kiện trên, chúng ta thấy tinh thần Kitô giáo luôn là một cái gì trái ngược với tinh thần thế gian. Chẳng hạn khi Đức Thánh Cha lên tiếng trình bày quan điểm của Giáo hội trước những vấn đề thời sự nóng bỏng trên thế giới, thì người ta lập tức mổ xẻ, phê bình và không ngần ngại chỉ trích và phản đối. Họ muốn giới hạn tôn giáo vào những hoạt động mang tính cách riêng tư, chứ không để cho tôn giáo ảnh hưởng đến đời sống của xã hội cũng nhu đến những sinh hoạt trong lãnh vực kinh tế, chính trị…
Làm như vậy là đi ngược lại với sứ mạng của Kitô giáo. Đúng thế, Kitô giáo không phải là một hòn đảo biệt lập, hay là một pháo đài cho chúng ta ẩn náu an tòan, cũng không phải là một cái vỏ ốc cho chúng ta thu mình vào đó. Trái lại, Kitô giáo phải là một con đường dẫn chúng ta đến với người khác để rồi cùng với họ chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa.
Vì thế mỗi người Kitô hữu đều có bổn phậnph trở nên như muối ướp cho trần gian khỏi ươn thối, phải trở nên như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.
Chúng ta không phép được che dấu tinh thần của Đức Kitô, trái lại phải làm cho nó thấm sâu vào môi trường chúng ta đang sống.
Chúng ta không được phép để mặc cho thế gian chìm vào bóng đêm, dù có gặp phải những gian nan và thử thách.
Như các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta phải lấy làm vinh dự vì đã bị thế gian ghét bỏ, chúng ta phải lấy làm hãnh diện vì được trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô.
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng: 24/11-85 FB
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển? Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không? Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị: 24/11-86
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá. Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13) Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không. Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa? Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
(LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM- Chúa Nhật XXXIII TN A)
Từ ngữ “tử đạo” vốn dễ được mến mộ theo nguyên nghĩa của từ gốc. Tử đạo là làm chứng: 24/11-87
Từ ngữ “tử đạo” vốn dễ được mến mộ theo nguyên nghĩa của từ gốc. Tử đạo là làm chứng. Các Thánh Tử đạo là những vị đáng tôn kính cách đặc biệt. Trong Kitô giáo, các Ngài được xếp sau hàng các Thánh Tông đồ và một vài Đấng đặc biệt như Mẹ Maria, Thánh cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả. Thế nhưng, chúng ta cần chân nhận một thực tế đó là hàng Thánh Tử đạo thường mang tính cục bộ của từng tôn giáo. Một vị tử đạo trong tôn giáo này chưa hẳn được trân trọng bởi người tôn giáo khác so với các bậc Thánh hiển tu, nhất là những vị Thánh có đời sống nổi bật về đức ái. Hơn nữa hai từ tử đạo ngày nay xem ra đang bị lợi dụng và cả lạm dụng khiến người ta dễ nghi ngờ, khi mà đã và đang có đó những người ôm bom tự sát làm thiệt hại mạng sống của nhiều người vô tội.
Nói rằng các Thánh Tử đạo là những người chịu chết vì đạo thì không sai. Tuy nhiên cái nhìn này còn hạn chế và mang dáng vẻ tiêu cực. Xin mạo muội gọi các Ngài là những vị “Thánh sống đạo bằng cả giá máu”. Các Ngài sống đạo kính mến Chúa và yêu thương tha nhân bằng cả mạng sống mình.
“Chúa Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9, 23-24). Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu ngõ những lời ấy với tất cả mọi người. Chính vì thế, đã là Kitô hữu, thì chúng ta phải là những người sống đạo bằng cả giá máu, dĩ nhiên là có người đổ máu ra cách hữu hình và có người đổ máu ra cách vô hình. Xin được gợi ý về một trong những cách thế sống đạo đến hy sinh bằng cả giá máu, đó là trung thành một cách hiên ngang với Chúa Kitô và Lời của Người. “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy...” (Lc 9 26).
Trung thành một cách hiên ngang với Đức Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế: Theo Chúa Giêsu là phải trung thành với công cuộc cứu thế, độ nhân, phải thực thi đức bác ái với hết mọi người, bất phân chủng tộc, màu da hay chính kiến, phải sống yêu thương trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gian nan. Quả thật cái tâm lý tìm kiếm hiệu năng trước mắt, đã khiến chúng ta tính toán quá nhiều theo cách nghĩ suy nhân loại. Một đôi khi chúng ta cần biết khôn ngoan “đừng quẳng ngọc trai trước mặt heo”, nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng Thiên Chúa không ngần ngại gieo hạt giống trên các thửa đất, có khi rơi vãi trên cả vệ đường. Chỉ cần có hạt rơi vào đất tốt thì kết quả thu được sẽ lợi hơn nhiều so với phần xem như hoang phí. Hơn nữa, với ơn Chúa và sự cộng tác của con người thì dù là vệ đường, là đất cằn khô, đất gai góc đều có thể trở nên đất tốt. Khi trong tay đã đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần, khi điều kiện ngoại cảnh đang thuận lợi thì sẽ có đó nhiều người tuy khác niềm tin vẫn có thể thi hành việc độ thế cứu nhân. Khi điều kiện còn thiếu, hoàn cảnh còn khó khăn mà chúng ta vẫn kiên trì trong đức ái thì tình yêu của chúng ta mới nên giống tình Chúa đã yêu thương ta. Vì khi ấy tình yêu ta dành cho tha nhân mới đậm nét vị tha và vô cầu.
Trung thành và hiên ngang với Lời cứu độ: Một trong những cơn cám dỗ tinh tế mà ma quỷ gieo vào lòng chúng ta đó là cải biến nội dung lời mạc khải cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài. Dù rằng Hội Thánh dạy ta cần học hỏi, nghiên cứu để phân biệt đâu là ý tác giả Thánh Kinh muốn trình bày theo hình thức văn chương, theo nền văn hóa của từng thời kỳ và đâu là Thánh ý Chúa muốn dạy. Có thể có sự không trùng khớp giữa những gì các tác giả nhân loại trình bày với ý Thiên Chúa muốn dạy. Điều này ta dễ nhận ra trong Cựu Ước và cả trong Tân Ước. Tuy nhiên luôn có đó những lời mà các nhà nghiên cứu đã đồng thuận đúng là những lời đích thị từ miệng Đấng Cứu Thế (ipsisima verba). Lời Chúa, cách riêng lời của Chúa Giêsu như lưỡi gươm sắc bén, phân rẽ tâm hồn. Chính vì thế tính thách đố luôn có trong Lời Chúa. Chúng ta nhận ra điều này nơi miệng các sứ ngôn thời Cựu Ước và cách rõ nét nơi Lời của Đấng Cứu độ. Tin Mừng tường thuật rằng khi nghe những lời của Chúa Giêsu, nhiều Biệt Phái và luật sĩ đã phải tím bầm ruột gan.
Không một ai được phép tự tiện uốn nắn nội dung Lời Chúa vì bất cứ lý do gì. Hãy để cho Lời Chúa trực diện với lòng ta, với tha nhân, với môi trường xã hội, với mọi thể chế, luật lệ của con người. Xin đừng nhân danh hiệu năng mà cắt xén hay cải biên lời Chúa. Xin chớ nhân danh đức ái mà uốn ép lời Chúa cho “mềm mại” và “dễ nghe”. Những điều “dễ nghe” và “mềm mại” thường là thiếu sự thật, ít trung thực và nếu có thì chỉ là phiến diện. Ánh sáng thì chói chang. Sự thật thì mất lòng. Khi ta trung thành loan báo cách trung thực lời cứu độ thì thập giá luôn có đó.
Các tiên tổ anh hùng Tử đạo của chúng ta quả thực là những vị đã sống đạo yêu thương cho đến cùng. Martinô Thọ, Phanxicô Trung, Micae Hy, Emmanuel Triệu...không chỉ yêu thương vợ con, cha mẹ nhiệt tâm, nhiệt tình mà còn yêu thương bà con lối xóm, những người khốn khổ bất hạnh, yêu thương quê hương dân tộc, yêu cả vua quan, những người đang hành hạ mình. Và trên hết các Ngài yêu mến Đấng các Ngài tôn thờ, Thiên Chúa toàn năng, chí tôn, chí thiện. Các Ngài đã trung thành với Thầy Chí Thánh và lời của Người một cách dũng cảm, hiên ngang. “Tâu bệ hạ, đánh Tây thì hạ thần đánh hết mình, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ” (Thánh Phanxicô Trung ) “ Chúng tôi không phạm tội ác, không chống lệnh vua, không lỗi luật nước, chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu” (thánh Phaolô Khoan). Dòng máu đào đổ ra chỉ là điểm đến của một cuộc đời sống đạo đến cùng mà thôi. Quả thật nếu như máu có đổ đến giọt cuối cùng mà không sống đạo yêu thương thì chỉ là tử nạn chứ không có tử đạo.
Nói tới các Thánh Tử Đạo, chúng ta không khỏi ngạc nhiên đến lạ lùng bởi vì hàng hàng lớp các : 24/11-88
Nói tới các Thánh Tử Đạo, chúng ta không khỏi ngạc nhiên đến lạ lùng bởi vì hàng hàng lớp các vị tử đạo trên khắp thế giới đã đổ máu đào để minh chứng cho Chúa Giêsu. Tertullien đã viết :” Chính dòng máu các Thánh Tử Đạo đã nẩy sinh Kitô hữu “. Và chúng ta cũng không thể tả xiết nỗi vui mừng khi sách Khải Huyền mô tả :” …Xuất hiện một đoàn lũ thật đông đảo không thể đếm được, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô :” Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai và chính Chiên Con đã cứu độ chúng ta “ ( Kh 7, 9-11 ). Họ là ai ? Vị Kỳ mục trả lời :” Họ là những người đã đến, sau khi trải qua những cơn thử thách lớn lao, đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu của Chiên Con “ ( Kh 7, 14 ). Họ là những người đã không tiếc gì với Chúa, đã không khước từ tình yêu dù để cứu lấy mạng sống mình. Và họ là những người đã luôn tin vào Chúa, tin vào ơn cứu độ chỉ có nơi Thập Giá của Đức Kitô.
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO LÀ AI ? : Đọc lại lịch sử các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta hông khỏi bùi ngùi xúc động, bởi vì các Thánh Tử Đạo Việt Nam xuất thân từ mọi thành phần trong xã hội. Họ là những người thấp bé trong xã hội. Họ là những giáo dân vì theo Chúa, nên họ đã bị bắt, bị kết án và bởi vì không chịu chối đạo, không chịu bước qua Thánh Giá, họ đã bị xử tử hình bằng nhiều cách hung bạo dã man. Họ là những phụ nữ chân yếu tay mềm, nhưng quyết không nhường bước, không thỏa hiệp để được sống thảnh thơi mà chối Chúa. Họ đã trung kiên, tín thác nơi Chúa và như thánh Phaolô họ đã :” Tôi làm được mọi sự trong Đấng củng cố tôi “( Pl 4, 13 ). Họ là cụ già 80 tuổi như thánh Lê Bảo Tịnh; là một bà cụ già 62 tuổi như nữ thánh Anê Đê; như một cậu trai 14 tuổi, thánh Phaolô Bột; là một thiếu nữ 12 tuổi như cô Lucia Liễu; như Phaolô Đạm 10 tuổi; như em bé Phaolô Túc 9 tuổi. Họ là các Giám mục, các Linh mục, các Nữ tu. Họ là chủng sinh, là Ban Hành Giáo, là quan trong triều đình, là quân lính, là công chức, là y sĩ, là thương gia. Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, trong Giáo Hội. Tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam dù vô danh tiểu tốt hay có chức có quyền trong Hội Thánh, có địa vị trong xã hội. Tất cả họ đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Chúa Giêsu.
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO ĐÃ LÀM GÌ ?: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có thể là tổ tiên, cha ông, những người thân thương trong gia đình chúng ta, có thể là những Kitô hữu sống trong địa phận, trong giáo xứ, giáo họ, điểm giáo của chúng ta. Họ đã sống trên quê hương, đất nước của chúng ta, đã chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người chúng ta. Tuy nhiên, họ đã giữ vững đức tin, thà chết chứ quyết một lòng không chối Chúa, không bỏ đạo. Họ đã nghe tiếng Chúa :” Không có Thầy các con không thể làm được gì “ ( Ga 15, 5 ) hoặc “ Ai yêu mạng sống hơn Ta thì không xứng đáng làm môn đệ của Ta “. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã dám liều sống đức tin, làm chứng cho đức tin và chết cho đức tin, lấy máu mình làm chứng cho Thiên Chúa. Tử đạo là chọn Chúa, là chết cho Chúa. Tử đạo là sống đạo một cách sống động và làm môn đệ của Chúa. Các thánh tử đạo Việt Nam là men, là muối, là ánh sáng soi dọi đức tin cho những người khác. Nhờ các thánh tử đạo Việt Nam mà Giáo Hội Việt Nam càng ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói :” Giáo Hội Việt Nam đã phát sinh các nhân chứng, đặc biệt là các Vị Tử Đạo.Lời tiền nhân nói rất đúng : Máu đào là hạt giống phát sinh Kitô hữu. Vì do máu các Đấng Tử Đạo của dân tộc và Giáo Hội Việt Nam mà đức tin trong thế hệ trước đã mọc lên, và đức tin của thế hệ hiện tại được bảo toàn, và hy vọng đức tin của thế hệ mai sau được gìn giữ “.
HÃY NOI GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM : Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã sống hết mình vì đức tin. Các Ngài đã giữ đạo và sống đạo một cách hết sức anh hùng. Các Ngài đã thà chết chẳng thà bỏ Chúa. Nên, Chúa đã củng cố đức tin cho các Ngài và trước những cực hình hết sức dã man, điên dại của những kẻ bách hại, các Ngài đã anh dũng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Các Ngài đã không hận thù, không gây hấn, không bạo lực; các Ngài luôn sống hiền lành và khiêm nhượng như Chúa Giêsu. Các Ngài đã sống yêu thương, trung tín và đơn sơ trước những kẻ bách hại đầy hận thù, gây hấn, dọa nạt. Các Ngài đã hiểu rõ lời Chúa :” Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của kẻ hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Các Ngài đã sống như lời một tu sĩ nói :” Hãy để cho mình bị bách hại, nhưng đừng bách hại ai. Hãy để cho mình bị đóng đinh, nhưng đừng đóng đinh ai . Hãy để cho mình bị vu khống, nhưng đừng vu khống ai “. Chúng ta hãy noi gương bắt chước các Ngài để làm chứng cho Chúa bằng đời sống đạo tốt, trung kiên và bền vững, luôn bám chặt và thuộc trọn về Chúa.
ÁP DỤNG THỰC TẾ : Trong cuộc đời có nhiều người chỉ mang danh Kitô nhưng lại sống phản Kitô. Họ sợ hãi, thỏa hiệp để được sống an nhàn. Họ quên mình là Kitô hữu. Chúa đã nói :” Không Thầy chúng con làm được gì “ hoặc như thánh Phaolô viết :” Không phải là chính tôi mà là ơn Chúa ở với tôi “( 1 Co 15, 10 ). Theo Chúa, chúng ta phải can đảm sống chứng nhân giữa đời bằng đức tin sắt đá của mỗi người.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tử đạo là gì ? 2.Tại sao máu của các Thánh Tử Đạo lại nẩy sinh Kitô hữu ? 3.Ngày nay có còn cần đến việc tử đạo không ? 4.Tại sao các Thánh Tử Đạo lại chịu được các cực hình hết sức dã man ? 5.Bách hại đạo là gì ? Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
"Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".
Suy Niệm:
Ngày 24 Tháng 11: Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(2M 7,1-2.9-14; 2C 4,7-15; Mt 10,16-23)
Ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để chúng ta ca tụng Thiên Chúa đã làm những việc: 24/11-89
Ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để chúng ta ca tụng Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại trên Quê hương Đất nước và nơi Dân tộc anh hùng chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng lại khuôn mặt đẹp đẽ và ý chí quật cường của bao bậc tiền bối. Chúng ta học để quý mến sự sống mà chúng ta đang mạng trong mình và do các ngài để lại. Và chúng ta sẽ cố gắng phát huy cơ nghiệp mà tiền nhân đã hy sinh mạng sống để giữ lại cho chúng ta.
A. Cảm Mến Công Ơn Của Các Anh Hùng Tử Đạo
Bài sách Macabê thuật lại câu truyện tử đạo của một gia đình 7 mẹ con ở thời Cựu Ước. Đó là một gia đình không tên không tuổi; và vì thế được phụng vụ coi như là tiêu biểu cho bao bậc tử đạo vô danh. Chúng ta có thể tựa vào câu truyện ấy để nhắc tới những bậc tử đạo quá nhiều trên Đất nước chúng ta.
Thực vậy, Hội Thánh Việt Nam có nhiều tử đạo bậc nhất thế giới: xét cả về tổng số, cả về tỷ số... Người ta đã nói tới con số 300,000 tử đạo ở Việt Nam. Được mấy Giáo hội có nhiều tử đạo như vậy! Và con số 300,000 kia ở thời bấy giờ, chắc phải chiếm tới 3, 4 phần trăm tổng số tín hữu. Chúng ta rùng mình khi nghĩ đến điều ấy. Nhưng thật như lời người ta nói: máu tử đạo làm nảy sinh kẻ có đạo. Chính Đức Yêsu cũng đã dạy trong Phúc Âm: hạt thóc có rơi xuống đất, thối đi thì mới mọc lên cây, đem lại mùa màng phong phú. Chúng ta ngày nay có đời sống đạo, là nhờ có đông đảo tiền nhân đã cương quyết giữ vững niềm tin cho đến cùng� Chắc chắn có nhiều bậc phụ huynh ngồi đây, nhiều gia đình Công giáo ở bên cạnh chúng ta có thể tính lên đời thứ ba thứ tư và gặp thấy một hay nhiều tử đạo trong gia tộc của mình. Ít nhất ai cũng nói được rằng tổ tiên của mình đã phải giữ đạo một cách rất vất vả. Và tất cả chúng ta đều là con cháu các tử đạo theo cả hai nghĩa thiêng liêng và xác thịt.
Điều đó chắc chắn không cần phải nói thêm. Nhưng phải nói lên điều này, là: 300,000 tử đạo kia là một đoàn thể đông đảo đủ mọi màu sắc, khác nào một cánh đồng bát ngát đủ mọi sắc hương. Giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ có; nhưng số giáo dân đông hơn nhiều. Và già có, trẻ có; thanh niên, phụ nữ, nhi đồng cũng có: không thiếu một hạng người nào. Đặc biệt hơn nữa là rất nhiều người đã tử đạo trong y phục lý trưởng cũng như quân nhân. Họ là những người dân tốt, phục tùng Nhà nước, làm việc tận tâm, được lòng quan chức nêu gương cho mọi người.
Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là viên chức có lẽ đã giết rất nhiều tín hữu ở miền Bắc. Thế mà dưới quyền ông vẫn có nhiều người lính có đạo. Và những người này nhiều khi lại gương mẫu và xuất sắc. Ông quý mến họ và ra sức dụ dỗ họ bỏ đạo... Ông không hiểu rằng chính đức tin họ đang giữ là động lực cho đời sống công dân tốt lành kia. Thấy họ cương quyết trung thành với tín ngưỡng đang khi vẫn nhiệt tình với chức năng, ông tìm cách bao che cho họ. Nhưng họ không chịu. Ông Huy, ông Thể, ông Hiếu và nhiều người khác dưới quyền Trịnh Quang Khanh đã ra xưng đạo, trước sự khâm phục và xót thương của bao nhiêu chiến sĩ, không cùng một quan điểm tôn giáo nhưng không thể không cảm mến những người chiến hữu và đồng bào giá trị như vậy.
Chúng ta không thể kể hết ở đây về đời sống gia đình, xã hội của các Tử đạo Việt Nam. Chúng ta thường chỉ biết các ngài tử đạo nghĩa là chịu chết vì đạo. Cùng lắm chúng ta chỉ hay nghĩ tới lòng can đảm, chí chịu đựng của các ngài khi bị tra tấn, hành hạ. Nhưng chúng ta cần phải biết: Tử đạo là ơn rất lớn. Nó đưa thẳng người ta về thiên quốc và lên bàn thờ các thánh ngay ở đời này. Một ơn như vậy không dành cho bất cứ một người nào đâu, nhưng chỉ dành để cho những phần tử ưu tú được Chúa lựa chọn. Ở thời các tử đạo, rất nhiều tín hữu đã bị bắt. Có những người đã chối Chúa. Vì họ không mến đủ! Và sở dĩ như vậy vì như lời thánh Yoan nói: người ta không mến Chúa vô hình khi không yêu mến Người nơi anh em hữu hình. Các tử đạo, dù ở chức năng nào, trước khi tuyên chứng lần cuối cùng về lòng yêu mến Đấng vô hình, cũng đã trải qua nhiều thử thách trong đời sống phục vụ tha nhân. Chúng ta cứ đọc lại mà xem! Hết mọi hạnh thánh tử đạo Việt Nam đều kể rằng trước khi ra pháp trường hay chịu chết trong ngục để xưng đạo, các ngài đã là những người mẹ, người cha chu toàn phận sự gia đình; những người chồng người vợ thi hành tốt mọi phận sự công dân; những người con hiếu thảo và những người lính dũng cảm; những y sĩ và lý trưởng được đồng bào quý mến việc phục vụ. Bởi vì không ai có thể trở thành công dân Nước Trời sau này, nếu đã không là những công dân tốt trên mặt đất.
Ngay cái chết của các tử đạo Việt Nam cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ về khía cạnh vừa nói. Anh em Macabê được tử đạo trong một hoàn cảnh đơn giản hơn. Họ là những người Israel bị ngoại xâm Batư bắt phải bỏ đạo của tổ tiên. Trong một cái chết họ đã tỏ ra trung thành với Thiên Chúa và Tổ Quốc. Trường hợp các tử đạo Việt Nam éo le hơn. Những người bắt các ngài bỏ đạo lại là vua quan "phụ mẫu chi dân". Thế nên các ngài không có một lời nào xúc phạm đối với các quan tòa. Và cho đến lúc chết các ngài vẫn chứng tỏ đã chu toàn tốt đẹp mọi nghĩa vụ xã hội. Các ngài đã chết trong tình mến Chúa yêu người và thương nhà thương Nước. Các ngài đã hy sinh mạng sống cho đức tin và chân lý ở trên giải đất này... Cho nên Giáo hội toàn cầu chỉ biết các ngài là tử đạo của Việt Nam.
Do đó khi mừng lễ các ngài, chúng ta phải biết để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài. Chúng ta phải soi gương các ngài chu toàn các nhiệm vụ xã hội một cách thánh thiện. Và cho được như vậy chúng ta phải tìm hiểu động lực bên trong thúc đẩy đời sống của các ngài.
Bài thư Phaolô có thể giúp chúng ta làm công việc này.
B. Đi Theo Đường Lối Của Các Tử Đạo
Quả thật các Tử đạo Việt Nam có thể mượn những lời thư Phaolô hôm nay để nói với chúng ta. Một đàng các ngài không giấu giếm sự thật. Bí quyết khiến các ngài có thể vượt thắng trăm ngàn thử thách là chính sự sống và sự sống lại của Chúa Yêsu trong thân xác yếu hèn của các ngài. Các ngài nói: chúng tôi chứa đựng những kho tàng ấy trong những bình sành để biết rằng quyền lực vô song ấy là của Thiên Chúa chứ không phải phát xuất tự chúng tôi. Các ngài chịu khổ cực tư bề nhưng không bị đè bẹp, bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi... bởi vì sự sống của Đức Kitô tỏ hiện nơi thân xác của các ngài. Chính Đức Kitô trong bài Tin Mừng cũng đã nói không phải các tử đạo ở trước tòa nhưng là Thánh Thần nói trong các ngài.
Và để có Thánh Thần và sự sống của Đức Kitô ở trong mình như vậy, các tử đạo đã phải hư vô hóa mình, tức là chết cho bản thân, không sống theo xác thịt tự nhiên nữa, nhưng theo Thần trí của Đức Kitô, tức là đường lối của Người. Hết mọi tử đạo đều đã chết cho đức tin và vì đức tin; nhưng đức tin ở đây không phải là một hệ thống tư tưởng vũ trụ nhân sinh quan mà là đức tin sống động, tin Thiên Chúa và tin Đức Yêsu Kitô đã yêu thương mình cho đến chết. Đó là đức tin đầy lòng mến và đầy lòng trông cậy, chắc chắn rằng nếu cùng chết với Đức Kitô và vì Đức Kitô thì sẽ được sống lại với Ngài và được đồng thừa tự với Ngài. Thế nên, các tử đạo là những người đầy Chúa Yêsu sau khi đã tát cạn bản ngã và các khuynh hướng xấu xa ở nơi mình.
Và cũng chính nhờ đó mà đàng khác, các vị tử đạo trước khi hy sinh mạng sống mình vì Chúa, đã có một đời sống xã hội đáng khâm phục. Điều này cũng rất dễ hiểu! Lời thư Phaolô viết: sự chết hoành hành nơi chúng tôi còn sự sống hoạt động nơi anh em. Các tử đạo cũng có thể nói: chúng tôi đã chết cho bản thân để sự sống tăng trưởng nơi anh em. Thật vậy, con người đã chết đi cho chính mình, thì sống cho Chúa. Nhưng đối với họ, Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng Vô hình, mà hơn nữa còn là Đấng đang hiện diện trong Hội Thánh và trong anh em. Mọi hành vi làm cho người anh em nhỏ mọn nhất là làm cho Chúa. Thành ra các đấng thánh là những người nhìn thấy Thiên Chúa ngay ở đời này và cụ thể trên mặt đất này nơi Hội Thánh và nơi anh em. Và vì họ không còn sống cho chính bản thân và vì bản thân nữa, nên mọi phục vụ của họ chỉ còn quy vào một đối tượng. Đó là Thiên Chúa nơi tha nhân... Đó là tha nhân trong cái nhìn của đức tin và lòng mến. Các tử đạo làm tốt các nhiệm vụ xã hội là vì thế. Và mọi người thật có lý để nghi ngờ những kẻ đã phản bội đức tin của mình.
Như thế, nếu hôm nay mừng lễ các Tử đạo Việt Nam, chúng ta phải để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải soi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ anh em đồng bào, thì chúng ta � người có đức tin � phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy đời sống xã hội kia tức là Thánh Thần và Đức Kitô ở trong mình. Và cho được như vậy, chúng ta phải mang sự chết của Ngài trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng vị kỷ. Phải làm như vậy mới đi vào được đường lối của các tử đạo và mới có thể theo các ngài cho đến cùng. Bởi vì muốn nên giống các ngài hoàn toàn, chúng ta không những phải biết sống như các ngài mà còn phải biết chết như các ngài. Mà muốn chết như các ngài, chúng ta phải sống đạo như trên mà vẫn không quên Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
C. Tin Tưởng Như Các Tử Đạo
Chúa nhắc nhở chúng ta biết số phận thông thường của các môn đệ Người: "Người ta sẽ bắt bớ các con". Và trong sách Tin Mừng Yoan, Người còn nói rõ hơn: đó là điều thật dễ hiểu, vì tôi tớ không trọng hơn Thầy. Có lạ chăng là việc thế gian yêu các con chứ các con có thuộc về thế gian nữa đâu mà thế gian quý mến các con! Và lịch sử làm chứng Hội Thánh của Đức Yêsu, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người, luôn luôn có các tử đạo, không ở nơi này thì ở nơi khác, không dưới hình thức này thì dưới hình thức khác. Đó là mầu nhiệm, nhưng là mầu nhiệm tương đối dễ hiểu.
Sứ mệnh của Đức Yêsu cũng như của Hội Thánh Người là sứ mệnh tuyên chứng. Tuyên chứng về chân lý, về những chân lý siêu phàm; thế mà chân lý thì như ánh sáng và thế gian đã bị tối tăm bao phủ nên luôn luôn muốn vùi dập ánh sáng. Và cũng đồng thời tuyên chứng về tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa yêu thương loài người và chẳng tình yêu nào lớn bằng tình yêu nơi người hy sinh mạng sống vì người mình muốn yêu.
Thế nên chính khi chịu chết vì đạo, người tín hữu trở thành chứng tá hoàn toàn hơn cả. Cái chết của họ vừa nói lên niềm tin chắc chắn, vừa nói lên tình mến tận cùng. Chỉ những kẻ có niềm tin yếu ớt mới sợ tử đạo. Nhưng nếu chúng ta yếu thì đã có Chúa ban Thánh Thần của Người đến nâng đỡ sự yếu đuối nơi chúng ta. Và việc này tùy ở chúng ta trong lúc bình thường có cầu xin và sống đạo để nhận được nhiều Thánh Thần hay không?
Giờ đây chúng ta cử hành thánh lễ. Chung quang bàn thờ này hiện diện vô hình đoàn thể các tử đạo Việt Nam. Các ngài ước mong chúng ta dâng lễ này sốt sắng và hiệu quả. Nếu chúng ta cầu xin và nhất là phó thác bản thân trong tay Chúa thì Người sẽ ban sự sống của Chúa Yêsu và Thánh Thần của Người cho chúng ta. Chính Thánh Thần sẽ là sức mạnh cải tạo cho chúng ta một nếp sống mới để chúng ta dần dần sống bớt đi cho mình và nhiều hơn cho Chúa, tức là cho Người ở trong anh em. Như vậy chúng ta sẽ có đời sống trần gian này tốt để chúng ta cũng sẽ chết tốt như các tử đạo. Chúng ta sẽ tuyên xưng Chúa khi sống và khi chết. Chúng ta sẽ khơi được lòng ngưỡng mộ của mọi người. Chúng ta sẽ xứng đáng với tổ tiên đức tin của mình, những vị mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trang Tin mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu báo cho các môn đệ biết trước tương lai các 24/11-195
Trang Tin mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu báo cho các môn đệ biết trước tương lai các ông sẽ bị các vua chúa quan quyền bắt bớ, đánh đập, hành hạ sỉ nhục. Thế nhưng, tất cả những đau khổ đó Đức Giêsu sẽ trải qua trước. Chẳng hạn như Chúa nói: “Các con hãy coi chừng người đời, họ sẽ bắt nộp các con cho các hội đồng, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ” (Mt 10, 17).
Người Do thái đã bắt nộp Đức Giêsu cho hội đồng, người đứng đầu hội đồng là thượng tế Caipha năm ấy. Ông đã nói một câu ám chỉ về cái chết của Đức Giêsu: “Thà một người chết thay cho dân được nhờ”. Sau đó, họ điệu Đức Giêsu đến quan Philatô xét xử, quan trao cho lý hình đánh đập Đức Giêsu tả tơi đến nổi chẳng còn hình tượng người ta nữa.
Tiếp đến: “Các con sẽ bị điệu ra trước mặt vua Chúa quan quyền để làm chứng cho họ….” (Mt 10, 18). Đức Giêsu đã bị các thượng tế điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền. Trước mặt quan Philatô, Ngài đã làm chứng: “Tôi là vua, Tôi đến thế gian này là để làm chứng cho sự thật, ai hâm mộ sự thật thì nghe Tôi” (Ga 18,37).
Rồi Chúa nói tiếp: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh…..vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đổ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10, 21-22).
Chính Đức Giêsu đã bị Giuđa dùng nụ hôn là dấu chỉ của tình yêu, trở thành nụ hôn phản bội, nộp Thầy mình với giá 30 đồng bạc. Cho nên, khi chúng ta nhìn vào cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta mới biết thế nào là tử đạo.
Anh chị em thân mến,
Theo sử liệu để lại, thì Giáo Hội Việt Nam có khoảng 130.000 tín hữu can đảm đổ máu ra làm chứng cho Chúa Kitô trên quê hương đất nước chúng ta. Trong số đó có 118 vị đã được thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc hiển thánh ngày 19/6/1988, mà năm nay, Giáo hội Việt nam mừng năm thánh tròn 30 năm.
Thế thì, do động lực nào mà các vị tử đạo dám đổ máu mình ra như thế?. Thưa, chính là tình yêu. Tình yêu này khởi đi từ Đức Kitô, khi Ngài nói: “Các con hãy yêu thương kẻ thù, hãy cầu nguyện cho những kẻ làm hại mình, hãy tha thứ cho những kẻ bắt bớ mình, và chúc phúc cho những kẻ làm khổ mình” (Mt 6,44).
Tình yêu ấy được thể hiện khi Đức Giêsu cầu nguyện trên cây thánh giá “Lạy Cha, xin Cha cho họ vì họ lầm chẳng biết” (Lc 23,34). Có thể nói đây là lời cầu nguyện hay nhất, khi Đức Giêsu nói lời tha thứ cho những kẻ hành hạ mình cho đến chết.
Noi theo gương Đức Kitô, các vị tử đạo đã sẵn sàng tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ mình. Nhờ Chúa ban ơn trợ giúp, những con người vốn mỏng dòn yếu đuối đã trở nên can đảm phi thường. Chính khi các ngài chịu trăm bề đau khổ, các ngài làm chứng cho đạo Chúa là đạo của tình thương và tha thứ.
Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nổi đã hiến ban Con Một của Ngài cho thế gian. Ngay cả khi thế gian loại trừ Con của mình, Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương. Cả khi thế gian đóng đinh người Con của mình vào cây thập giá, Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ.
Để làm chứng cho đạo yêu thương, nên các vị tử đạo đã yêu thương dân tộc Việt nam hơn ai hết. Các Ngài xác tín rằng: nhờ Tin mừng của Chúa mà đất nước này được tốt đẹp hơn. Tình Chúa tình người ắp đầy bình an hạnh phúc. Và vì thế, các ngài đã chấp nhận hiến dâng mạng sống không chỉ vì lòng yêu mến Đức Kitô mà cả vì lòng yêu mến quê hương đất nước này nữa. Cho nên, dù vua Chúa quan quyền có hành hạ các ngài cho đến chết, các Ngài vẫn một lòng yêu thương tha thứ.
Thật vậy, chỉ vì tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian treo trên thánh giá, mà thánh Matthêu Gẫm can đảm không bước qua Thánh giá. Ngài trả lời với ông quan tỉnh rằng: “Thánh giá tôi tôn thờ, tôi giẫm lên sao được?”.
Chỉ vì tin có sự sống lại ở đời sau, tin có hạnh phúc Nước trời, mà thánh Mỹ vui lòng chịu trăm bề đau khổ, để bước theo chân Chúa đến cùng. Ngài nói với quan tổng đốc rằng: “Tôi đã suy xét kỹ, và tin nhận đạo Thiên Chúa là đạo thật, nên tôi không chối bỏ đạo này bao giờ”.
Ngày nay, Giáo Hội cần có những người dám sống, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Cuộc sống làm chứng cho Chúa ngày nay là một hình thức tử đạo tuy không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng đòi chúng ta làm chứng cho Chúa về đạo yêu thương của mình.
Cuộc sống tử đạo ngày nay không vua chúa quan quyền nào bắt bớ hành hạ chúng ta cho đến chết, nhưng đòi chúng ta biết can đảm chết đi cho những đam mê tật xấu. Và vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta sẵn sàng bao dung, tha thứ và cầu chuyện cho những người xúc phạm đến chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Giáo hội Việt nam tưới thắm không biết bao nhiêu máu của các thánh tử đạo, đó là các bậc tiền nhân đi trước chúng ta. Các ngài đã dầy công vun xới để cho hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước, mà ngày nay chúng ta được thừa hưởng.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta chung lời tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội có những hạt giống đức tin, được gieo vãi trên quê hương Việt Nam. Tạ ơn Chúa, vì đức tin chúng ta được lớn lên trong dòng máu tử đạo của các chứng nhân tình thương.
Chúng ta hết lòng ngưỡng mộ, vì các Ngài đã anh dũng trong đức tin, kiên trì trong đức cậy và bền đỗ trong đức mến dưới bất cứ hình khổ nào.
Khi cử hành lễ các thánh tử đạo Việt nam, là cơ hội chúng ta nhớ về quá khứ để tỏ lòng tri ân, vì cha ông tổ tiên để lại cho chúng ta một gia sản cao quí đó là đức tin vững mạnh vào Chúa.
Đồng thời, mừng lễ hôm nay, hướng về tương lai, noi gương các thánh tử đạo, chúng ta tiếp tục sống làm chứng cho Chúa bằng đời sống bác ái yêu thương, vui lòng đón nhận những đau khổ dưới bất cứ hình thức nào, để danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các bậc tiền nhân đã thắp lên bằng cái chết đẫm máu, để làm chứng cho Chúa, sẽ được bừng sáng lên mãi trên tổ quốc Việt Nam thân yêu này. Nhờ đó làm cho công cuộc loan báo Tin mừng sinh nhiều hoa trái hơn nữa. Amen
Đức Giám mục đang kiểm tra một nhóm dự tòng để quyết định xem họ có đủ điều kiện lãnh: 24/11-91
Đức Giám mục đang kiểm tra một nhóm dự tòng để quyết định xem họ có đủ điều kiện lãnh phép Rửa tội không. Ngài hỏi họ:
-Bằng dấu hiệu nào người ta nhận ra anh chị em là người Công giáo?
Không có ai trả lời. Rõ ràng câu hỏi này làm mọi người bất ngờ. Đức Giám mục nhắc lại cau hỏi. Vẫn lặng thinh. Ngài lập lại câu hỏi một lần nữa, và ngài vẽ một hình Thánh giá để gợi ý cho những người dự tòng biết cách trả lời.
Thình lình, một người trong họ lên tiếng:
-Thưa Đức cha, dấu hiệu đó là tình yêu!
Đức Giám mục giật bắn mình. Suýt chút nữa ngài đã nói “sai”. Rất may là ngài đã kịp nén lại, không bật ra thành lời.
***
Chính bằng dấu hiệu của tình yêu mà người ta nhận ra chúng ta là người Công giáo. Chính vì Tình yêu mà các Thánh Tử Đạo Việt Nam dám hy sinh máu đào để minh chứng cho lòng trung kiên với Thiên Chúa. Các ngài đã lấy cái chết để bày tỏ một tình yêu sắt son với Thầy Giêsu. Đúng như lời người đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Nếu Con Thiên Chúa đã vui lòng chịu đòn vọt đau đớn và chết một cách nhục nhã trên thập giá vì yêu nhân loại tội lỗi, thì các thánh Tử Đạo Việt Nam cũng can đảm chịu mọi nhục hình, tra tấn dã man cho đến chết, để đền đáp lại Tình yêu bao la hải hà mà Thầy Giêsu đã tự hiến cho các ngài. Ai cũng muốn sống: sống đẹp, sống lâu, sống sung mãn, không ai muốn chết bao giờ. Nhưng một khi tình yêu dành cho Thiên Chúa đã dâng cao đến tuyệt đỉnh, thì các ngài coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Các ngài sẵn sàng hiến dâng mạng sống để mình chứng cho một Tình yêu cao cả, một “tình yêu mạnh hơn sự chết”.
Để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên thập giá, các Thánh Tử Đạo Việt Nam vô cùng tôn kính thánh giá Chúa. Không một khổ hình nào, không một cám dỗ nào, cho dù là cái chết cũng không thể di chuyển đôi chân các ngài tự ý bước qua thánh giá. Đứng trước thánh giá là một thách thức nặng nề, một áp lực kinh hoàng đè nặng trên tâm trí các ngài. Hoặc là bước qua để được sống với gia đình, an nhàn sung sướng, có khi còn được cho thêm bổng lộc. Hoặc là không bước qua để rồi phải chịu dí sắt nung đỏ lên mặt hai chữ “tả đạo”, phải chịu tù đày, đòn vọt, nhục hình, tùng xửo cho đến chết, chết một cách đau đớn, quằn quại, cho đến khi kiệt lực, rã rời, ngất lịm đi.
Quả thật, đứng trước thánh giá, sự chọn lựa không phải dễ dàng. Nếu không có một niềm tin sắt đá, một tình yêu sắt son, một lòng đạo sâu xa, một đời nội tâm sâu sắc, thì không ai có thể vượt qua được thử thách này. Đức Giêsu đã nói với thánh Phaolô: “Ơn của Thầy đh cho con” (2Cr 12,9).
Thật vậy, các ngài đã phải cầu nguyện hàng bao đêm trong chốn lao tù; các ngài đã phải xin ơn trợ giúp thật nhiều để lướt thắng sợ hãi, đớn đau, cực hình, các ngài đã phải đối mặt với cuộc chiến nội tâm gay gắt, để đi tới quyết định một lần thay cho suốt cả đời. Đó là “không” bước qua thánh giá có nghĩa là quết định chọn lấy án tử hình. Chọn lấy án tử hình là chọn lấy cái chết. Nhưng chết đau đớn cách nào, kéo dài trong bao lâu thì còn tùy quan quân lý hình.
Hôm nay, người tín hữu vẫn đứng trước những chọn lựa ấy. Cọn thánh giá Chúa hay chọn những dễ dãi, an nhàn, sung sướng. Chọn yêu mến Chúa hay chọn đời sống ích kỷ của riêng mình. Chọn phục vụ an hem hay là chọn hưởng thụ, khoái lạc. Người ta không thể chọn Chúa khi người ta còn đầy ứ “cái tôi” của mình! Chúng ta không thể chịu tử vì đạo khi tình yêu dành cho Chúa quá ít! Chúng ta không thể chứng minh niềm tin khi tình yêu dành cho anh em chỉ là con số không!
Với bao cực hình mà các Thánh Tử đạo Việt nam đã phải trải qua, cho chúng ta đứng trước một Giáo Hội tràn đầy sức sống, với một tình yêu diệu kỳ. Để noi gương anh dũng của các ngài, người tín hữu chúng ta hãy tập sống tử đao, bằng cách âm thầm vui chịu những đớn đau thử thách từng ngày. Nếu đã có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng phục sinh.
***
Lạy Chúa, chúng con hãnh diện là con cháu các Thánh tử đạo Việt Nam.
Xin cho chúng con biết noi gương các vị tiền nhân anh dũng, can đảm là chứng nhân cho Chúa trong đời sống đức tin bằng cách chu toàn các giới răn Chúa.
Xin cho chúng con biết nhiệt hành làm chứng cho Tình yêu bằng một đời sống quảng đại, hiến thân và phục vụ anh em.
Xin cho máu các Thánh Tử đạo Việt Nam thắm đượm trên quê hương chúng con, để cánh đồng truyền giáo Việt Nam sớm gặt hái được mùa lúa bội thu. Amen.
By Thiên Phúc, “Như Thầy Đã Yêu”. (dongcong.net 2011) dongcongnet 2011
Từ thế kỷ 16, Tin mừng Chúa Giêsu được loan truyền trên quê hương Việt Nam. Ngay từ lúc: 24/11-92
Từ thế kỷ 16, Tin mừng Chúa Giêsu được loan truyền trên quê hương Việt Nam. Ngay từ lúc còn phôi thai, Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách bách hại, đúng như lời Chúa Giêsu: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con”. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Suốt ba trăm năm, Giáo Hội Việt Nam đã chịu những cuộc bách hại và cấm cách đẫm máu, khiến cho hàng vạn người đã bị mất mát tài sản, hàng ngàn người đã ngã gục ngoài pháp trường, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man để trở thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó, 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Đọc lại hạnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi nhận thấy, các ngài can đảm phi thường, vì yêu mến Chúa Kitô nên coi nhẹ mọi cực hình đau đớn, một lòng trung thành giữ vững đức tin. Dòng máu tử đạo ấy đã trở thành những hạt giống Tin mừng, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam những mùa gặt bội thu.
1. Trung thành với đức tin.
Đối với các Thánh Tử Đạo, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Các ngài đã trung thành giữ vững đức tin trước mọi thử thách gian lao. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Xin kể ra đây một vài chứng từ về lòng trung thành (x.Thiên Hùng Sử).
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 đứa con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con : Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng”. Lời sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giàu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng vẫn luôn bình tĩnh vui tươi. Ngài nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt ngài bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
2. Can đảm phi thường.
Vì đức tin, các ngài đã phải chịu đủ mọi thứ cực hình dã man. Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
- Lòng lang dạ sói của con người nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác, thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích".
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần. -Sáng ngày 5.6.1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ngài cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ngài.
- Sau ba tháng tù tại Bình Định, ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
3. Coi thường sự đau đớn.
Là con người, ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ai mà không tham sống sợ chết! Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt những khổ hình dã man. Lòng yêu mến Chúa đã giúp các ngài vượt thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình. Vì thế các ngài xem nhẹ khổ hình, vui mừng và hãnh diện vì được chết cho đức tin.
- Trước khi bị chém, Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời”.
- Năm vị: Đaminh Nhi, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, còn bốn vị đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
- Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao:“Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”.
- Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835. Sáng hôm đó, ngài gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc mẹ mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết.”. Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ của Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ bị xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù, con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con”. Khi được con cho biết là không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”. Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, bà nhận lấy kỷ vật đó và chưa cho là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con trai cho bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:“Ôi con trai yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”. Rồi bà đem về an táng trong nhà.
Các Thánh Tử Đạo coi thường đau đớn với lòng can đảm lạ lùng là vì các ngài trung thành với đức tin. Do đó, các ngài vui mừng được chết vì Chúa Kitô. Các ngài đã chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang vì đã đáng được chịu đau khổ cho Chúa Kitô. Các ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy chương, huân chương, chiến công. Các ngài chết tử đạo là chết vì Chúa Kitô, đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu (x.Thiên Hùng Sử, trang 4). Chết vì Chúa Kitô là niềm hạnh phúc “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; x.Lc 6,22). Chính trong ánh sáng của Chúa Kitô, Vị Tử Đạo tiên khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc âm : “Đầy tớ không lớn hơn chủ” (Ga 15,20); “Nếu chúng đã bách hại Thầy, chúng sẽ bách hại các con...Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng… Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các con đừng lo phải nói thế nào, vì không phải các con, nhưng Thánh Linh của Thầy sẽ nói trong các con… Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.”. (Mt 10,16-25). Các Thánh Tử Đạo không tìm đến cái chết mà chỉ trung thành với đức tin cho dù phải chịu muôn vàn gian truân đau đớn. Các ngài tìm cách nên giống đời sống của Thầy Giêsu, nhất là giống cử chỉ yêu thương tột cùng đã đưa Thầy đến cái chết.
Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng muôn ngàn vạn nét. Nét căn bản nhất chính là Niềm Tin Phục Sinh. Tin vào Chúa Kitô đã chết và đã sống lại nên các ngài đã chấp nhận tất cả mọi cực hình, vượt thắng mọi truân chuyên. Yêu mến Chúa Kitô và bước theo Người nên các ngài luôn sống niềm tín thác, lạc quan. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát thánh ca, thánh vịnh. Ra pháp trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Alleluia, luôn hướng về trời cao với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát mãi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin của những con người xác tín rằng: chết vì Đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh cửu; chết là cánh cửa im lìm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.
4. Kế thừa dòng máu hào hùng để tiếp nối sứ vụ loan Tin mừng.
Hạt giống Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.
Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Ðạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.
Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái... khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó, những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo. Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người Kitô hữu sống giữa lòng đời và chia sẽ đời sống của anh chị em chung quanh mình. Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng. (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. (x. Ga 15,13).
Các Thánh Tử Đạo là những chứng nhân can trường dám chết cho niềm tin, sống cho tình yêu, và loan báo chân lý Tin Mừng. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin.
Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Làm chứng chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”... như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng.
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường: 24/11-93
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam – Eva: “cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng sa tan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy".
Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: “Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Ðức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng". Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Ðạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha anrê Dũng lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh tử dạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà “quạ đen ban tặng”. Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh TDVN là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay. Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chúng ta đang hân hoan chuẩn bị mừng lễ CTTĐVN. Một ngày lễ có ý nghĩa thực sự trong: 24/11-94
Chúng ta đang hân hoan chuẩn bị mừng lễ CTTĐVN. Một ngày lễ có ý nghĩa thực sự trong đời sống đức tin của chúng ta.
Đức tin đã đến với chúng ta không phải là qua sách vở. Tôi nhớ một nhà thần học hiện đại nói "Người ta đến với đức tin như đến với tình yêu". Chính Thiên Chúa đã đến gặp gỡ con người trước... và nhờ thế mà con người mới gặp được Thiên Chúa. Người đến kêu gọi con người: từ Ađam, đến Abraham, Môsê ... và qua họ Người kêu gọi chúng ta. Nơi mỗi một thế hệ, Thiên Chúa làm cho sự hiện diện của Người trở nên rõ ràng và mạnh mẽ hơn. Sự hiện diện sung mãn đậu lại nơi Chúa Giêsu, Con Chí Ái.Về phần Người, Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi một số người làm môn đệ : sống chung và chia sẻ sứ vụ làm chứng cho sự hiện diện sung mãn ấy, rồi sai họ đi thông ban cho các môn đồ kế tục cái kinh nghiệm ấy.
Như thế Đức Tin đến với chúng ta qua sự chúng ta được gặp gỡ, được đón nhận cái kinh nghiệm sống với sự hiện diện Thần Linh nơi các thế hệ Tông Đồ. Các Thánh Tử Dạo Việt Nam đã diễn đạt tất cả Kinh Nghiệm Đức Tin này qua sự sống và sự chết của mình, chính là cái nguồn vô cung sung mãn sinh ra hạt giống đức tin nơi mảnh đất thân yêu này. Đức Tin của anh và của tôi đều đã đâm rễ trong giòng máu chứng nhân ấy để triển nở. Không gắn bó với gốc, đức tin của chúng ta sẽ tàn lụi.
Ý nghĩa này nó hết sức hệ trọng: nó liên quan tới một vấn đề làm nhức nhối chúng ta hôm nay: vai trò của sự hiệp nhất tại gốc của đức tin.Tôi muốn nói tới sự hăng say của mỗi người trong việc xây dựng củng cố đức tin cho Dân Chúa, xem ra đang chối bỏ sự hiệp nhất này. Ở đâu người ta cũng chỉ muốn dừng lại trước những ống kính khoa học, kỹ thuật để phân tích, để phê phán, để đóng góp công sức, trong khi đó người ta quên đi sự sống Đức Tin được lưu truyền trong sự hiệp nhất với nguồn cội. Không lạ gì, có thể người ta làm được những công trình đồ sộ để đời, nhưng Giáo Hội thì bị đẩy lùi khỏi cuộc sống.
Ngày lễ các Thánh Tử Đạo, ngày TRỞ VỀ NGUỒN của người tín hữu VN. Trong cái nguồn cội ấy, chúng ta thấy rõ bản sắc văn hóa dân tộc nơi cuộc sống của các Cha Ông mình. Chính cái bản sắc được sống cụ thể ấy cho thấy sự hòa hợp, nhân ái và nhất là Đạo Hiếu chính là sức mạnh làm triển nở Giáo Hội VN xứng với danh hiệu được ban tặng "Trưởng Nữ của Hội Thánh" tại Á Đông. Cái gốc Đức Tin cũng tôn vinh cái gốc Dân Tộc. Cha ông mình bởi Đức Tin đã đóng góp vào tiến trình phát triển văn hóa dân tộc mình. Tuần lễ hội thảo gần đây tại Huế do Tòa TGM Huế tổ chức đã làm nức lòng bao nhiêu người không cùng một tín ngưỡng, xoay quanh sự hiện diện và sự đóng góp ấy của Cha Ông chúng ta.
Những ngày tháng sống trên đất Mỹ, tôi có một chút e ngại về những gì bị đánh mất trong lối sống người VN tại Mỹ. Thực ra họ có thể tự hào về gốc gác VN của mình, vì gốc gác ấy đã được tôn vinh nơi các Thánh Cha Ông. Một gốc gác phù hợp với Tin Mừng và làm môi trường triển nở tuyệt vời cho Tin Mừng.
Nhưng cái cảm nhận đức tin từ chứng từ của Cha Ông làm tôi mãi băn khoăn về những mất mát ấy. Gia đình VN trong chứng từ của các Tử Đạo VN thật sự là gia đình hạnh phúc trong nề nếp hiếu thảo của mình. Điều ấy khoa học, văn minh, kỹ thuật, phương pháp cũng không thể thay thế.
Xin cám ơn các Thánh, và nguyện xin Cha Ông chúng ta bầu cử cho anh, cho tôi giữ mãi ĐỨC TIN gắn kết với ĐẠO HIẾU vì đó là con đường hạnh phúc thật.
Thật là một sự trùng hợp rất ý nghĩa khi chúng ta được kính trọng thể Lễ các Thánh Tử Đạo: 24/11-95
Thật là một sự trùng hợp rất ý nghĩa khi chúng ta được kính trọng thể Lễ các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam vào dịp cuối Năm Phụng Vụ và ngay trước Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Bài Tin Mừng Lc 9, 23 – 26 có thể được chọn đọc trong Thánh Lễ hôm nay khắc họa một cách rất rõ ràng dung mạo người đồ đệ mà Chúa Kitô đòi hỏi và các Thánh Tử Đạo đã thực hiện một cách anh hùng.
Thực ra, Lc 9, 23 – 26 gồm bốn lời Đức Giêsu nói trong những dịp khác nhau, được tập hợp lại (có lẽ do Marcô trước tiên) và áp dụng vào hoàn cảnh bị bách hại mà cộng đoàn Hội Thánh đang phải trải qua: “Khi ấy, 23 Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn đi sau tôi, hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá mình mỗi ngày và hãy theo tôi. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ?26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Cha và các thánh thiên thần”.
Chúng ta sẽ suy niệm đoạn văn Tin Mừng trên đây trong ngày lễ trọng thể này.
1.“Đức Giêsu nói với mọi người” ( c. 23 ). Những điều sắp được công bố là đòi hỏi phổ quát và căn bản, được nói cho mọi người thuộc mọi thời ( thay vì cho đám đông và các môn đệ như trong Mc 8, 32 ). Động từ “nói” ở đây được chia ở thời vị hoàn ( thay vì thời aorist như trong Mc và Mt ) nhằm nhấn mạnh tính chất thường xuyên của giáo huấn được trình bày.
2. "Ai muốn đi sau tôi, hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá mình mỗi ngày và hãy theo tôi” ( c. 23b ).
Khi nói “đi sau tôi”, Đức Giêsu không chỉ có ý nói đến sự gia nhập vào trường của Ngài, sự trở thành đồ đệ của Ngài, mà còn là sự thực hành một cách cụ thể chính lối sống của Ngài. Quả thực, trong Hội Thánh, lối nói “đi sau Đức Giêsu” đồng nghĩa với lối nói “là Kitô hữu”.
- Điều kiện thứ nhất để trở nên đồ đệ đích thực của Đức Giêsu là “từ bỏ chính mình”. Tác giả sách tin mừng không có ý nói đến một vài sự thực hành tu đức, mà là nói đến một thái độ căn bản của đời sống Kitô hữu. Đó là: không tìm sống tự tại nơi mình. Từ bỏ chính mình, như thế, không có nghĩa là huỷ bỏ chính con người hay phẩm giá mình, mà là ý thức và đón nhận chính con người và cuộc sống của mình như là một ơn huệ và không tự tại nơi mình như thể mình là chủ tể của cuộc đời mình. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô, thì đó là: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ). Theo nghĩa này, sự từ bỏ chính mình thực ra lại là điều làm cho người đồ đệ trở nên hết sức mạnh mẽ, vì sức mạnh làm cho họ sống là sức mạnh của chính Thiên Chúa. Hơn ai hết, các Thánh Tử Đạo đã được trải nghiệm sự thực này một cách đặc biệt.
- Nhìn theo một khía cạnh khác, từ bỏ chính mình là “vác lấy khổ giá mình mỗi ngày”. Đó là chấp nhận đau khổ và vượt qua những khó khăn mỗi ngày mà trung thành với những đòi hỏi của Đức Chúa. Đó là quyết định bước đi trong một cuộc sống mà đích đến không còn là cái tôi vị kỷ của mình, không còn là chính mình nữa. Không có quyết định này và sự thực hành quyết định này, thì sẽ không thể có được những chọn lựa anh hùng trong những khoảnh khắc kinh khủng nhất của những cuộc cấm cách đẫm máu. Sở dĩ cha ông chúng ta đã là những vị tử đạo anh hùng trong các cuộc bách hại, ấy là vì các ngài đã từng kiên tâm “vác lấy khổ giá mình mỗi ngày”.
- Đòi hỏi cuối cùng là “hãy theo tôi”.
Thoạt nhìn, đây có vẻ là một sự lặp lại của ngữ đoạn “đi sau tôi” ở đầu câu. Chúng ta biết: vào thế kỷ I, dân chúng xứ Palestina đã từng và sẽ còn chứng kiến nhiều cuộc hành hình đóng đinh vào thập giá, một cách thi hành án tử hình rất tàn khốc của đế quốc Rôma. Sinh thời, Đức Giêsu hoàn toàn có thể nghĩ đến kết cục bi thảm đó cho chính bản thân Ngài. Vậy khi nói “hãy vác lấy khổ giá mình và theo tôi”, Đức Giêsu đang mời gọi các đồ đệ ý thức và đón nhận những thách đố quyết liệt của việc đi theo Đấng Mêsia, đến độ sẵn sàng chết và là chết một cách đau thương, nhục nhã và tàn khốc như người ta có thể đã từng chứng kiến trong các cuộc hành hình thập giá đương thời.
“Vác lấy khổ giá mình”, theo nghĩa đen, chính là việc người bị kết án tử hình vác lấy thanh ngang của cây thập tự trên vai, đi giữa đám đông đang la ó sỉ vả mà đến nơi hành hình. “Đi theo Đức Giêsu” là chấp nhận một cuộc đời cay đắng và đau thương như của một người bị kết án tử hình đang vác lấy khổ giá mình mà đi ra pháp trường vậy. Ở đây, “vác lấy khổ giá mình” có nghĩa là người đồ đệ của Đức Giêsu phải sẵn sàng bị nhục mạ, bị vu khống, bị sỉ nhục và bị loại trừ khỏi xã hội. Lịch sử Hội Thánh Việt Nam chúng ta đã được kết dệt bằng muôn vàn những cuộc đời chấp nhận bị nhục mạ, vu khống và loại trừ như thế.
Sau khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết, lời mời gọi đó của Đức Giêsu được hiểu là lời mời gọi chấp nhận bước đi trên chính con đường đau khổ mà Đức Giêsu đã đi, tức là sẵn sàng chấp nhận sống chính thân phận bi thương của Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh Hội Thánh đang trải qua những ngày tháng bị bách hại tàn khốc, thì lời mời gọi này thực sự có tính thời sự: lòng trung thành đối với Đức Giêsu đòi hỏi các tín hữu sẵn sàng đi vào cuộc tử vì đạo trong thực tế cụ thể.
Thánh Luca đã thêm vào yếu tố “mỗi ngày”, không phải để loại bỏ cách hiểu về sự sẵn sàng chịu tử vì đạo, nhưng là để thêm vào một sắc thái nữa: đó là đòi hỏi hàng ngày trong đời sống tín hữu. Đó không chỉ là đòi hỏi của những tháng ngày bị bách hại, mà còn là quy luật sống mỗi ngày của người tin.
3. “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( câu 24 ). Câu này là một lời có vẻ mâu thuẫn. Nhưng nội dung thì thật đơn giản: ai trốn tránh cái chết bằng cách từ chối Đấng Mêsia, thì sẽ bị kết án trong ngày Con Người đến để phán xét; còn ai sẵn sàng chết vì đạo, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình, thì sẽ không bị kết án trong ngày đó, tức là sẽ “giữ được mạng sống cho sự sống đời đời” theo kiểu nói của Ga 12, 25. Lời này quả thực ám hạp và mang tính thời sự trong những hoàn cảnh Hội Thánh bị bách hại. Khác với Mc 8, 35 ( “vì tôi và vì Tin Mừng” ), tác giả Luca chỉ ghi đơn giản: “vì tôi”. Ông muốn nhấn mạnh mối tương quan thiết thân của người tín hữu với Chúa Kitô xét như yếu tố căn bản chi phối thái độ sống và cách hành xử của Kitô hữu.
4. “Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ?” ( câu 25 ). Đây là một loghion không liền mạch với cc. 23 – 24 đi trước. Có lẽ nó được nối vào đây chỉ vì động từ “mất”. Tác giả Lc không có ý nói đến câu chuyện của một người được lời lãi cả và thế gian rồi sau đó đi vào cõi chết, mà là câu chuyện của một người phải trả giá cho việc được lời lãi cả và thế gian bằng chính việc thiệt mất mạng sống mình. Vậy đây không phải là sự cay đắng của kiếp nhân sinh phù vân, mà là sự phi lý đến độ ngu đần của một sự đánh đổi dại dột. Các Thánh Tử Đạo đã không chọn sự phi lý và ngu đần của sự đánh đổi đó. Chính vì thế, các ngài đã sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình chứ không chấp nhận những bả vinh hoa thế gian dâng tặng. Gương anh hùng của các ngài cho chúng ta thấy đâu mới là những ích lợi đích thực và vĩnh cửu mà chúng ta phải bằng mọi giá đạt tới.
5. Câu 26 ( Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Cha và các thánh thiên thần ) là một lời của Đức Giêsu cảnh báo một nguy hiểm khác mà Lc coi là một nguy hiểm hiện thời trong cộng đoàn tín hữu: mối nguy của việc hổ thẹn vì cớ Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài. Tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm của những tín hữu hổ thẹn vì Tin Mừng của Đức Giêsu. Ông cố ý nhắc đến vinh quang của Con Người, của Cha và các thánh thiên thần, tức là nhấn mạnh đến thế giới thiên thai và cuộc sống vĩnh cửu. Số phận vĩnh cửu của mỗi người tuỳ thuộc vào thái độ và vị trí của họ đối với bản thân và sứ điệp của Đức Kitô.
Nói cách khác, Lc 9, 26 cảnh giác mối nguy thoả hiệp với cái thế gian trong đó người ta chỉ tìm cách xây dựng cho mình một bộ mặt đẹp giữa xã hội, đến độ hổ thẹn vì những đòi hỏi của Tin Mừng. Đó cũng có thể là mối nguy buông mình theo những trào lưu và học thuyết sai lầm nhưng “dễ coi” hơn và “danh giá” hơn Tin Mừng của Đức Giêsu. Những mối nguy hiểm đó luôn luôn có trong các cộng đoàn tín hữu mọi thời. Và chắc chắn, đó cũng là những mối nguy mà chúng ta đang phải đối diện hàng ngày trong cuộc sống hôm nay.
Tóm lại, Lc 9, 23 – 26 đưa ra những đòi hỏi căn bản cho người Kitô hữu trên con đường làm đồ đệ của Chúa Kitô. Họ được mời gọi bước đi trên con đường đau khổ, được mời gọi từ bỏ chính con người vị kỷ của mình, từ chối tìm kiếm lời lãi và vinh dự thế gian, và cuối cùng được mời gọi can đảm trung thành với Đức Kitô và với những đòi hỏi của Tin Mừng.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã trung kiên đi theo sau Đức Giêsu, từ bỏ chính mình, vác lấy khổ giá mình mà theo Đức Giêsu, chấp nhận bị ngược đãi, bị hành hình và sỉ vả. Các ngài đã thực hiện lời mời gọi ấy mỗi ngày, nên vào những giai đoạn khốc liệt nhất của các cuộc bách hại đẫm máu, các ngài đã có thể can trường làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính mạng sống mình. Là con cháu các ngài, chúng ta được kêu mời bước đi trên cũng một con đường ấy, mỗi ngày trong suốt cuộc đời.
Lâu nay, nhiều người vẫn quan niệm rằng suy giảm trí nhớ là dấu hiệu tuổi già. Vì quan niệm: 24/11-96
Lâu nay, nhiều người vẫn quan niệm rằng suy giảm trí nhớ là dấu hiệu tuổi già. Vì quan niệm này mà suy giảm trí nhớ ít được quan tâm tại các nước đang phát triển. Theo báo cáo tại hội thảo Sa sút trí tuệ trong thực hành y khoa của Trường Đại Học Y Dược Sàigòn, kết hợp với Công ty Dược Phẩm Janssen- Cilag tổ chức vừa qua, khoảng 50% người bị suy giảm trí nhớ sẽ chuyển sang thành bệnh sa sút trí tuệ 3 năm sau đó.
Sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm mức trí tuệ đã đạt được từ trước. Bệnh nhân sẽ bị suy giảm trí nhớ, khả năng xét đoán, định hướng không gian và thời gian, ngôn ngữ, tư duy nhận thức, hành động... ảnh hưởng nặng nề đến chức năng và chất lượng cuộc sống.
Quá trình phát triển của hệ thần kinh từ trong phôi thai đến năm 25 tuổi thì hoàn chỉnh. Sau lứa tuổi này, mỗi ngày khoảng 3.000 nơron thần kinh bị hủy đi mà không có sự sinh sản thêm. Càng lớn tuổi, cơ thể càng ít tạo ra các chất trung gian cần thiết cho não hoạt động. Vì vậy, bước vào tuổi trung niên bạn đã có thể phải đối mặt với tình trạng suy giảm trí nhớ. Nguyên nhân do tình trạng lão hóa nhanh của các tế bào thần kinh, môi trường sống, stress, thiếu một số chất quan trọng trong cơ thể... ( Báo Thanh Niên ).
Tuy khoa học đã minh chứng sự lão hóa của cơ thể theo năm tháng, cụ thể như các nơ rôn, tế bào não chỉ mất dần đi theo tuổi tác, chứ không còn khả năng tái sinh. Nhưng mấy ai chịu tin rằng mình sắp chết dần, đang chết dần, chết mòn, mà hầu như ai cũng nghĩ mình còn sống mãi, sống dai, sống dài, sống hoài !
Dù vài chục năm ký cóp chút của cải, chút danh vọng, rồi cũng phải bỏ lại tất cả trên cõi trần. Dù tình yêu có mặn nồng cách mấy, thì cũng phai nhạt dần theo năm tháng với người quá cố. Như vậy, cái chết là dấu chấm hết cho đời người ? Đúng với người vô thần. Nhưng sai với người Kitô hữu chúng ta, vì cái chết là khởi điểm cho cuộc đời mới, hoàn toàn tùy thuộc vào nhân quả của đời trước.
Chết đi để sống mãi
Chúa Giêsu còn nâng cao tầm quan trọng của cái chết. Không phải chỉ cái là chết thể lý đơn giản, mà còn là cái chết của các ham muốn, đam mê, dục vọng, bản năng, thú vui xác thịt, hy sinh, quên mình vì phục vụ tha nhân, vì Bát Phúc, vì Danh Cha Cả Sáng. Như thế, cái chết mới phát sinh sức sống mới, tràn trề hoa thơm trái ngọt, gặt hái mùa bội thu, như dòng máu đào của các Thánh Tử Vì Đạo đã giúp cho Giáo Hội thêm bền vững, phát triển.
“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” ( Ga 12, 24 ).
Thiên hạ nói “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng.” Nhưng cái danh để lại có khi chỉ là xú danh, chứ không phải thanh danh. Dẫu thế, tốt hay xấu thì cũng chẳng nghĩa lý gì với người quá cố, chỉ có chút ảnh hưởng nào đó đến thân bằng quyến thuộc.
Nhưng với lẽ đạo, Thiên Chúa bao giờ cũng công bằng chánh trực, thưởng phạt phân minh từng người theo công đức và tội lỗi vấp phạm.
Như thế chết đi để được sống viên mãn mãi, hay là trầm luân muôn kiếp, đều tùy thuộc cuộc đời dương thế. Một khi sống để hưởng thụ, góp nhặt, chiếm đoạt, say mê danh lợi, bon chen của cải phù vân, thì đâu còn hy vọng chi đời sau ? Một nắm xương tàn kết thúc cuộc đời, chẳng mang gì theo, ngoài những tam độc, lục dục và thất tình chăng ?
Do vậy Chúa Giê su khuyên bảo hãy chết đi cái tôi mau hư nát, hãy mau mắn đổi của hèn, cuộc sống phù du ngắn ngủi, lấy của của trọng, cuộc sống vinh hiển muôn đời:
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 25 ).
Thánh Phaolô cũng tha thiết khuyên nhủ tín hữu Philipphê: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki tô, và được kết hợp với Người” ( Pl 3, 7 – 9 ).
Sống theo Thầy
Đề được hưởng phúc trường sinh, Chúa Giêsu mời gọi sống theo Thầy, phục vụ Thầy mọi nơi, mọi lúc. Phục vụ Chúa cũng có nghĩa là phục vụ tha nhân đồng loại bất cứ khi nào và ở đâu.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” ( Ga 12, 26 ).
Tuy nhiên, không phải dễ dàng sống theo Đấng Ki tô, một khi còn nặng tính xác thịt, nặng đam mê phù vân thế gian. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã phải khóc thét lên, cảnh báo về sự chọn lựa quan trọng và dứt khoát sống còn này.
“Bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” ( Pl 3, 18 – 21 ).
Theo Thầy sống mãi
Phần thưởng cao quý vô ngần, đó chính là Đức Chúa Cha yêu quý, khen thưởng trên Nước Trời những ai quên mình, bỏ mình, phục vụ Chúa Giêsu Kitô, cùng tha nhân bất kể bạn hay thù.
“Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy" ( Ga 12, 26 ).
Con người vốn bất toàn, thiếu sót và tội lỗi, nay được vinh hạnh diện kiến Thánh Nhan nhờ ơn Cứu Rỗi của Chúa Giêsu, thì còn hồng phúc nào dưới thế này có thể sánh nổi ?
Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đồi “của thiệt” lấy toàn “đồ giả” ( Đường Hy Vọng, 676 ).
Các Thánh Tử Vì Đạo chúng ta đã sáng suốt phó dâng mạng sống, từ bỏ bản thân và mọi cám dỗ xác thịt, để anh dũng tuẫn đạo, theo chân Chúa đến hơi thở cuối cùng. Các ngài đã được ân thưởng trên cõi phúc viên mãn muôn đời. Các ngài đã hiệp thông cùng Chúa Giêsu mà đồng thanh: ”Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha !”
Lạy Chúa, con vẫn biết Chúa luôn mời gọi phục vụ, nhưng lòng dạ con còn nặng nề thế tục, xin cứu giúp con biết từ bỏ ý riêng, chết đi tà tâm, để trung thành và bên vững phục vụ Chúa luôn mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành, che chở con thoát khỏi cạm bẫy danh lợi, quyền thế, dục vọng, để mãi vững tâm đi theo Chúa, Amen.
Trong vô vàn danh ngôn về tình yêu của nhân loại, có lẽ không lời lẽ nào thâm thúy cho: 24/11-97
Trong vô vàn danh ngôn về tình yêu của nhân loại, có lẽ không lời lẽ nào thâm thúy cho bằng khẳng định của Đức Giêsu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ). Vâng, đó cũng chính là điều mà các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta đã làm.
Tình yêu bao giờ cũng đẹp. Lý thuyết tình yêu lại càng đẹp hơn, nhưng dựa trên lý thuyết khó xác minh đâu là tình yêu thật, giả. Chỉ có hành động yêu mới là bằng chứng hùng hồn và đầy đủ nhất về tình yêu chân chính mà thôi.
Nói và hành động, cả hai làm nên tình yêu hoàn hảo. Yêu chỉ để yêu, và nếu dùng ngôn từ để diễn tả tình yêu thì vô cùng, không bao giờ có điểm dừng và cũng không có chuẩn mực xác định, nhưng cần phải có hành động. Hành động mới là bằng chứng xác thực nhất của ngôn từ là vậy.
Sự khập khễnh giữa hành động và ngôn từ không phải không xảy ra. Những lời hứa hẹn, những câu văn hoa mỹ miều về tình yêu không thiếu, nhưng khi đối chất với hành động thì kết quả trở nên hoàn toàn trái ngược.
Tình yêu là một mầu nhiệm. Tình yêu luôn mang đến hạnh phúc cho con người và làm cho họ được thăng hoa. Bởi thế, những ai dám sống cho tình yêu, dám chết cho tình yêu mới là người hạnh phúc đích thực, mới là người thủ đắc tình yêu chân thực.
Đức Giêsu, Đấng là Tình Yêu, Đấng đầu tiên thực hiện hành động yêu đúng nghĩa. Ngài đã hy sinh cả tính mạng mình để cho nhân loại được sống. Tình yêu, sự hy sinh của Ngài cao cả, mênh mông đến nỗi không ngòi bút nào có thể diễn tả cho hết, mà chỉ có thể cảm nghiệm ở tận đáy lòng. Nhân loại mấy ai có thể làm được điều đó, nhân loại mấy ai có thể nói yêu và giữ trung tín động từ yêu ? Vì chưng, từ bỏ mình không phải là chuyện dễ dàng.
Các Thánh Tử Đạo mà Hội Thánh hân hoan mừng kính hôm nay cũng đã làm được như vậy. Các ngài đã yêu và dám yêu. Các ngài đã có được tình yêu đúng nghĩa. Hoa trái tình yêu của các ngài với Thiên Chúa đó chính là ơn gọi Kitô hữu chúng ta ngày nay. Nhờ sự can đảm, hy sinh, quảng đại của các ngài mà hạt giống tình yêu Kitô hữu chúng ta ngày nay mới trổ sinh. ( Ảnh chụp cuộc đấu tố kết tội một Linh Mục tại miền Bắc ).
Không biết bằng hình thức nào, nhưng nhắc đến Tử Đạo ai ai cũng hiểu, đó là dùng chính cái chết để đánh đổi niềm tin. Cái chết là một bằng chứng, là một lời tuyên tín về niềm tin và tình yêu mà các ngài dành cho Thiên Chúa. Ngày nay không còn Tử Đạo, không còn bách hại, nhưng vẫn không thiếu những cơ hội để có cái chết nho nhỏ, âm thầm, hy sinh cho người khác được hạnh phúc.
Xem ra cái chết nhãn tiền về đạo, khó vậy mà còn dễ hơn cái chết bản thân, cái từ bỏ ý riêng, từ bỏ cái tôi chủ nghĩa cá nhân để sống cho người khác, để xây dựng cộng đồng chung. Cái tôi con người thời đại hôm nay được đề cao hơn tất cả, hơn bao giờ hết. Người ta yêu mình hơn cả yêu Chúa, nói chi đến yêu người. Việc thỏa mãn nhu cầu lợi ích cá nhân được đặt lên vị trí hàng đầu. Và tất nhiên, khi giá trị vật chất chiếm vị thế ưu việt, tức khắc những giá trị tinh thần bị lui vào hàng thứ yếu, Thiên Chúa cùng tha nhân trở nên xa vời.
Chẳng lẽ ngày xưa, các vị Thánh Tử Đạo không biết yêu mình ? Nhu cầu bảo tồn Sự Sống là nhu cầu tất yếu của nhân loại, làm sao người ta có thể xem thường được. Nhưng trên hết, các ngài làm được như vậy chỉ vì lòng yêu Chúa. Tình yêu chính là sức mạnh giúp họ làm được những việc cao cả trọng đại.
Tử Đạo ngày nay nhẹ nhàng hơn nhiều, chỉ cần một trái tim, một tấm lòng, một cử chỉ, lời nói thể hiện hành động yêu là được. Thiên Chúa không đòi hỏi gì nhiều, Ngài cũng không cần đổ máu, Ngài chỉ cần trái tim mở rộng, biết trao ban, biết tha thứ, biết hy sinh, biết chia sẻ…
Lạy Chúa, cầm bút viết lại tình yêu các Thánh Tử Đạo, con hãnh diện và xúc động đến chừng nào, những gương anh hùng quả cảm, kiên quyết thà mất mạng sống chứ không thể mất Chúa. Hành động của các ngài đã cho thế giới hiểu chết một lần nhưng sống ngàn đời.
Thế nhưng, càng xúc động bao nhiêu con càng lấy làm xấu hổ bấy nhiêu. Các ngài đã dùng chính mạng sống, hơi thở của mình như chính Ngài đã chết để chứng minh Tình Yêu Thiên Chúa Cha. Giọt máu của Ngài đã đổ ra, hòa lẫn với máu tình yêu của các Thánh Tử Đạo cho con Sự Sống.
Con đã làm được gì trước tình yêu cao cả, vô biên ấy ? Con đã làm gì để bảo vệ thành quả mà các ngài đã để lại ? Con đã sống ra sao ? Con đã tuyên tín niềm tin của mình thế nào, để người xung quanh có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa nơi con là thật ? Xin Chúa giúp con, nếu có phải chết mỗi ngày vì yêu Chúa, thì cũng hãy can đảm chết; nếu có phải chết một lần thì cũng hãy chết để Thiên Chúa được ngàn lần sống !
Mang kiếp sống cn người, được sinh ra trên trần gian thì cũng sẽ có ngày từ giã trần gian. Chúng : 24/11-98
Mang kiếp sống con người, được sinh ra trên trần gian thì cũng sẽ có ngày từ giã trần gian. Chúng ta từng chứng kiến nhiều cái chết: có những cái chết hết sức thương tâm, có những cái chết mà dường như người chết không hay biết gì, không có được một sự chuẩn bị nào hết. Có những cái chết mà đương sự lo sợ, cố tìm mọi cách để nó đừng đến nhưng không được, có những cái chết hết sức bình thản ung dung, cũng có những cái chết mang lợi ích cho biết bao nhiêu người, vì cái chết làm cho nhiều người sống xứng đáng hơn, mạnh mẽ hơn.
Ngày hôm nay, giáo hội Việt mừng những cái chết của những người đã từ giã trần gian nầy, mừng những cái chết hào hùng, đã để lại cho biết bao người tấm gương anh hùng trong đời sống, những người này dám dùng cái chết của mình để làm cho mình và nhiều người được sống, họ dám hiên ngang từ bỏ những gì không cần thiết nên giờ đây họ được sống mạnh mẽ cùng với hạnh phúc Thiên Đàng.
Họ là ai mà họ can đảm thế?
Họ là ai mà họ anh hùng thế?
Họ là ai mà họ được hưởng hạnh phúc như thế?
Thưa họ là những con người như bao nhiêu người khác. Họ cũng là những người Việt Nam, cũng có một mái ấm gia đình, cũng biết yêu thương và tràn đầy những ước mơ cho cuộc sống. Nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa: "Ai lo bảo vệ mạng sống mình thì sẽ mất", "ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Ta".
Các ngài đã lắng nghe lời Chúa, không phải chỉ nghe mà thôi, nhưng nghe mà còn sống, còn hành động. Các ngài đã anh dũng sống lời Chúa, khi các ngài dám chọn con đường chết. Những ước mơ của các ngài không là gì khi các ngài nhìn thấy được hạnh phúc đời đời. Tình yêu thương nơi trần thế giờ đây không chỉ đơn thuần là của trần thế, nhưng đã được thăng hoa, được nâng lên để trở thành bất diệt. Mái ấm gia đình mà các ngài đang sống làm sao có thể so sánh được với gia đình vĩnh cửu mà các ngài đang sống trên Thiên Đàng, nên mạng sống của các ngài cũng đã hoà nhập vào sự sống bất diệt.
Các ngài dám bước di trên con đường thập giá, dám hy sinh mạng sống, các ngài đã để lại cho con cháu, cho chúng ta gương anh hùng, để lại con đường sống, con đường theo Chúa.
Chúng ta là con cháu các ngài, nhưng giờ này cuộc sống của chúng ta có là cuộc sống anh hùng mà các ngài đã nêu gương và để lại cho chúng ta, hay chúng ta vẫn sống bình thản, như không hay biết gì về sự hy sinh của các ngài. Lời Chúa mà các ngài đã thực hiện, chúng ta cũng đã nghe, đã biết, nhưng không thể thi hành được như các ngài. Chúng ta còn quá nhiều ước mơ chưa thực hiện được, nên đang tìm mọi cách để thực hiện cho được những gì là ước mơ, không cần biết nó có chính đáng hay không. Chúng ta sợ mất đi những gì mình có, nên cố gắng bảo vệ nó. Chúng ta bảo vệ những gì mà một ngày nào đó nó cũng sẽ phản bội và từ bỏ, khi chúng ta bước vào sự chết. Chúng ta đang cố lừa dối mình, không nói đến cái chết, để không chuẩn bị gì hết, cố bám lấy điều mà chúng ta gọi là sự sống và cố gắng một cách vô vọng. Như thế chúng ta đang run sợ trước cái chết vì không biết chuẩn bị, cũng không biết mình đi đâu. Chúng ta cũng đang bị bất ngờ trước cái chết vì đang tìm sự sống cho chính mình, sự sống của trần gian này.
Nếu chúng nhìn thấy được gương anh hùng mà các thánh tử đạo đã thực hiện, nếu chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà các ngài đã cảm nhận và đã sống, nếu chúng ta nhận ra được con đường mà các ngài đã đi, để biết noi gương các ngài thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta can đảm chu toàn những gì mà mình phải làm trong trách nhiệm với tất cả ý thức, đó là một hình thức tử đạo, không phải một lần, nhưng từng giây từng phút của cuộc đời. Nếu trước những gian khó mà không lùi bước, sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa, để biết yêu thương giúp đở người khác khi cần thiết. Đó là chúng ta đang đi trên con đường can đảm mà các ngài đã đi. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa và xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cho chúng ta được ơn can đảm, biết chu toàn bổn phận trong đời sống hằng ngày và biết yêu thương giúp đỡ mọi người,để sống xứng đáng là con cháu của các Ngài.
Trong thế giới ngày nay, dường như khi nhắc tới hai chữ hy sinh làm cho nhiều người cảm thấy "dị ứng":24/11-99:
Trong thế giới ngày nay, dường như khi nhắc tới hai chữ hy sinh làm cho nhiều người cảm thấy "dị ứng". Điều này càng thấy rõ hơn nơi các bạn trẻ. Người ta ngại phải hy sinh, vì nếu hy sinh sẽ bị thua thiệt và mất mát. Thật ra, đó chỉ là kết quả của lối sống hưởng thụ ích kỷ. Từ đó đưa đến nhiều hậu quả đáng tiếc: nhiều gia đình đổ vỡ, học hành không tiến bộ, đời sống nhiều cộng đoàn bị rạn nứt ... Cách riêng với người có đức tin thì đời sống đức tin xuống dốc. Bởi vì họ không dám sống hy sinh để bảo vệ đức tin.
Một lần cầu nguyện Chúa Giêsu đã xin với Chúa Cha: "Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần" (Ga 17, 15). Nghĩa là Người muốn cho các môn đệ cần phải sống giữa thế gian này. Sống thì phải có hy sinh. Chính Người cũng vì vâng theo thánh ý Chúa Cha nên đã xuống thế gian này và sống như con người chúng ta. Cả đời sống của Người là một chuỗi nhưng hy sinh. Hy sinh lớn nhất là Người tự nguyện chịu chết thảm thương và nhục nhã trên thập tự giá.
Hôm nay, cùng với Giáo hội Việt nam chúng ta mừng trọng thể các Thánh Tử đạo Việt nam. Nếu các ngài không sống hy sinh, thì hạt giống đức tin trên quê hương đất nước chúng ta làm sao trổ sinh những hoa thơm, trái ngọt như ngày hôm nay. Các ngài đã sống hy sinh đến độ dám dùng chính mạng sống của mình để bảo vệ đức tin. Mặc dù các ngài cũng muốn sống và sợ chết lắm chứ. Chỉ vì các ngài muốn nên giống Thầy Chí Thánh Giêsu.
Một trong những truyền thống tốt đẹp của người Việt nam là "Uống nước nhớ nguồn - Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Do đó, là con cháu được thừa hưởng gia sản đức tin của các các ngài, chúng ta có bổn phẩn phải bảo vệ và gìn giữ. Dù rằng chúng ta đang sống trong thời buổi quê hương đất nước thanh bình, không còn cấm cách bắt đạo như thời cha ông nhưng chúng ta vẫn được kêu gọi tử đạo mỗi ngày. Tử đạo bằng cách sống hy sinh. Hy sinh những gì có thể ảnh hưởng và làm phai nhạc đức tin của chúng ta.
Người ta thường hay nói: "Hổ chết để da người chết để tiếng", muốn ám chỉ đến một cái chết có ý : 24/11-100
Người ta thường hay nói: "Hổ chết để da người chết để tiếng", muốn ám chỉ đến một cái chết có ý nghĩa, một cái chết hiển vinh, một cái chết biết lựa chọn. Nhưng trong thực tế chính vì bản thân và sự ích kỷ, con người chỉ muốn có một cuộc sống yên ổn, cho dù đó là sống nhục phải luồn cúi, miễn sao cuộc sống họ được an nhàn êm ấm, chẳng ai muốn gặp phải những tan tác đau thương. Vì thế lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải từ bỏ mình, vác thập giá, hy sinh mạng sống. Hay nói đúng hơn là biết chết đi để được sống. Thật là điều mà đa số những người trong chúg ta khó mà chấp nhận được. Nhưng với niềm tin và tình yêu. Chúng ta vẫn tin rằng nếu biết chết với Đức Kitô thì mình cũng được sống lai với Người. Đó chính là điều Ngài muốn và muốn chúng ta:
1.Chết bằng cách từ bỏ.
Hàng rào ngăn cản chúng ta đến với Chúa chíh là danh - lợi - thú, không phải bất cứ ai cũng có thể rũ bỏ được, vì nó như một loại ký sinh luôn bám vào cuộc sống ta, và ngày ngày sẽ lớn mãi nếu ta không bài trừ. Do dó, con người luôn phải chiến đấu mãi và phải biết lựa chọn cho mình. Vì khi bám víu vào điều gì thì cũng bị tan biến theo điều đó. Nếu bám víu vào cái bất toàn, ngày ngày chỉ biết lao đầu vào cuộc sống hơn thua, bon chen, gom góp cuộc sống cho mình...kết cuộc mình cũng đi vào hư vong.
Chúng ta nên biết cuộc sống mỗi người ở trần gian này chỉ là "phù vân", như hoa huệ ngoài đồng sớm nở tối tàn rồi cũng qua đi. Nếu thật sự là người khôn ngoan thì không ai muốn bám víu vào của cải tạm bợ để làm gia nghiệp đời đời mà phải biết từ bỏ. Không phải ngày hôm nay chúng ta mới biết cách lựa chọn, mà từ ngàn xưa đã có những chứng nhân anh hùng quả cảm, các ngài đã chấp nhận từ bỏ, chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là đã chịu từ bỏ chính bản thân để làm chứng cho chân lý, chịu mất mạg sống để làm chứng cho đức tin. Tiêu biểu như thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình, hay chánh tổng phạm trọng Tả là nhửng vị có chức quyền trong xã hội, các ngài tha mất chức, mất danh vọng chứ không chịu mất đức tin.
2. Chết qua việc vác thập giá.
Khi nói đến hai từ "Thập Giá' chúng ta nghĩ ngay đến dụng cụ hành hình mà trên đó Đức Kitô đã chết để cứu chuộc thế gian. Đó cũng là biểu tượng của mọi đau khổ mà một Kitô hữu phải chịu hay tự nguyện đón nhận để kết hiệp với Đức Kitô và cộng tác với Người trong việc cứu độ các linh hồn. Bởi đó thập Giá là một mầu nhiệm đã được mạc khải như Đức Kitô đã dạy:"Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập Giá mình hàng ngày mà theo". Câu nói của Đức Kitô như một lời khẳng định chắc nịch đã được các thánh tử đạo Việt Nam hân hoan đón nhận như một đặc ân dành riêng cho mình. Các ngài không nề chông gai gian khó vác những thập giá Tin Mừng vào những nơi u mê. Các ngài đã gieo hạt giống Tin Mừng trong những hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Và cuối cùg đã can đảm vác cây Thánh Giá đến nơi pháp trường, chấp nhận hy sinh để hạt giống được gieo vào lòng đất, vì các ngài luôn ý thức rằng "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác".
3. Chết vì tình yêu Đức Kitô.
Đối với người tín hữu chúng ta vẫn ý thức một cách chắn chắn về phần thưởng đời sau. Vì thế, cái chết không còn nặng nề, mà cái chết có ý nghĩa thì nhẹ tựa lông hồng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng là gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa tình yêu. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh đã hình thành một sự sống mới cho chúng ta, để chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng "Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình thật mãnh liệt, không gì có thể chiến thắng, không gì có thể xóa nhòa. Như thánh Phaolô đã từng thách thức "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô" (Rm 8,35), Làm sao tôi có thể làm được điều thánh Phaolô đã làm nếu tôi thiếu tình yêu mến Chúa, làm sao tôi có thể hy sinh như các thánh tử đạo Việt Nam nếu tôi không phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi khi nghe đọc lại tiểu sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, tôi lại thấy một dòng máu nóng chảu cuồn cuộn trong huyết quản của mình, như một hơi nóng thúc đẩy tôi phải biết can đảm sống ở giữa pháp trường hôm nay. Pháp trường không còn sử dụng gươm đao, không còn lăng trì khổ nhục, vì ngày nay người ta sử dụng những thứ vũ khí tinh vi hơn, họ có thể "xử trảm" chân lý một cách vô tội va, họ có thể biến đen thành trắng, biến có thành không... đó là những cực hình cứ liên tục giàng xé cuộc sống làm cho ta đau đớn không khác gì những cực hình mà các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu. Noi gương các thánh , chúng ta cũng xác tín "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ được cứu mạng sống ấy".Amen.