Tin mừng Lc 3: 10-18 Sám hối không phải chỉ là một sự ngẫu hứng, thực hiện ngày một, ngày hai nhưng cần thực hiện thường xuyên và liên lỉ để có thể thay đổi được tính cố hủ cùng những tật xất, gian dối và tham lam trong con người.
Suy niệm:
Chúng ta đã đi được nửa chặng đường Mùa Vọng. Hôm nay, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi MV 3-C151
Chúng ta đã đi được nửa chặng đường Mùa Vọng. Hôm nay, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật của niềm vui với phẩm phục phụng vụ từ màu Tím chuyển sang Hồng, và chủ đề tuần này là lời mời gọi “Vui lên” vì Chúa sắp đến. Lời nguyện nhập lễ hôm nay đầy tín hoan lạc: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề.”
Trong bài đọc thứ I, tiên tri Xôphônia đem đến cho dân niềm hy vọng đầy lạc quan để vượt qua những thất vọng, nản chí và đau buồn: “Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” (Xp 3,16-18).
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu thành Philiphê cũng mời gọi các tín hữu vui lên trong niềm vui của Chúa. Đức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến.
Và lời rao giảng của Gioan Tiền hô là cao điểm khi kêu gọi sám hối, dọn đường cho Chúa vì Chúa sắp ngự đến. Lời này đã đánh động con tim dân chúng, và họ đáp lại cách nhiệt tình: “Vậy chúng tôi phải làm gì đây?” Vâng, cám ơn những người người đã đến hỏi tiên tri Gioan về cách thức chuẩn bị đón Chúa đến. Nhờ họ mà chúng ta cũng sẽ có câu trả lời cho chính mình. Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường vượt khả năng và địa vị mỗi người. Điều Chúa muốn là mỗi người sống công bằng và bác ái. Với những đức tính này, chúng ta mới có thể chuẩn bị tốt đẹp để ra đón Chúa.
Ba nhóm người được thánh Gioan giải đáp:
Trước hết, cách chung cho những người đầy thiện chí đang mong chờ Chúa đến, Gioan mời gọi “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”. Điều tối thiểu mình có thể làm được là hãy quan tâm đến những người đang sống quanh ta, chia cơm sẻ áo cho người túng thiếu. Đây là điều tối thiểu có thể làm được.
Đối với người làm nghề thu thuế là những người đại diện cho lớp công chức được trả lương bằng đồng tiền thuế của dân, Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng kêu gọi sự liêm khiết trong công việc, đừng tham nhũng bóc lột người khác hay đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định. Họ được mời gọi chu toàn nghĩa vụ một cách lương thiện.
Với các quân nhân tượng trưng cho hạng người quyền lực, giữ gìn trật tự cho công chúng, họ dễ bị cám dỗ lạm quyền. Gioan mời gọi: “Đừng ức hiếp hay cáo gian ai; hãy bằng lòng với số lương của mình”. Những người này cần sự công minh và biết tôn trọng người khác.
Còn với mỗi người chúng ta hôm nay, cùng giành ít phút hồi tâm, hãy tự trả lời cho chính mình về câu hỏi: “Còn chúng tôi phải làm gì?”
Cha Anthony de Mello dòng Tên đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng. Vị tu sĩ đáng kính này đã nhận định về cuộc đời của mình như sau: “Khi 20 tuổi, tôi là một con người hăng say cách mạng và lời cầu nguyện của tôi lúc đó dâng lên Thiên Chúa là: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để thay đổi trọn cả thế giới này’. Nhưng rồi khi 40 tuổi, sống đến nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa thay đổi được ai cả, tôi ít tự phụ hơn và cầu nguyện cùng Chúa như sau: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con một ơn này mà thôi, là có thể thay đổi được những ai mà con gặp hằng ngày, những người thân trong gia đình cũng như bạn bè. Chỉ được như thế thôi thì con cũng mãn nguyện lắm rồi’. Nhưng giờ đây khi 60 tuổi, đến lúc tóc bạc da mồi, tháng ngày đời tôi sắp tàn, tôi ý thức mình đã tự phụ và điên rồ, tôi khiêm tốn hơn và chỉ cầu nguyện như sau: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con". Nếu tôi đã sống và cầu nguyện như thế ngay từ đầu cuộc đời của tôi, thì tôi đã không uổng phí cuộc sống của mình’.
Sám hối không phải chỉ là một sự ngẫu hứng, thực hiện ngày một, ngày hai nhưng cần thực hiện thường xuyên và liên lỉ để có thể thay đổi được tính cố hủ cùng những tật xất, gian dối và tham lam trong con người. Tuy nhiên, nếu như chúng ta không có một bắt đầu hoán cải thì sẽ không thể có những bậc thang nên thánh được. Một người thánh thiện không phải là một người không mắc tội mà là một tội nhân biết sám hối và vươn lên từng ngày với những hành động thực tế. Như thế, khi nói đến việc chuẩn bị đón mừng Chúa, chúng ta không chỉ là lãnh nhận bí tích Hòa Giải và lo dọn mình sạch mọi tội lỗi mà thôi, nhưng trên hết, chúng ta được mời gọi biến cải đời sống. Một cuộc sống công bằng, yêu thương, chia sẻ và phục vụ giúp cho cuộc sống của người xung quanh ta bớt khổ đau. Được vậy, chúng ta đang chuẩn bị đón Chúa đến một cách đầy đủ và có ý nghĩa nhất, như lời từ Thông điệp Deus caritas est, Đức Thánh cha Bênêđict XVI đã viết: “Tình thương luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất” (số 28).
Xin Chúa cho con biết sống một cuộc sống công bằng và luôn thể hiện nghĩa cử tốt với những người con gặp gỡ, tập bớt đi tính tham - sân - si bằng việc sám hối với những điều thiện ích để sống đẹp lòng Chúa hơn. Amen.
mặc áo hồng, là màu diễn tả niềm vui. Tất cả những lời kinh và những đoạn Kinh Thánh đọc trong thánh lễ mang một màu sắc vui mừng hân hoan đặc biệt. Tại sao thế? Vì Giáo hội đang vui mừng rạo rực đón chờ Chúa đến. Và Chúa đang đến gần, không còn bao lâu nữa. Chúng ta được mời gọi tham dự vào niềm vui trông đợi này, vì Chúa đến là cho mỗi người chúng ta.
Giáo hội mượn lời của tiên tri Xôphônia để mời gọi con cái mình đi vào niềm vui của Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi!... Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị Cứu Tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỉ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.”
Lời của tiên tri có cho chúng ta thấy rằng chúng ta là niềm vui của Chúa không? “Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội”.
Vì thế, hôm nay, Giáo hội mời chúng ta vào niềm vui trong sáng của Chúa. Vui lên đi vì Chúa thương chúng ta, vì Chúa sẽ đến cứu độ chúng ta.
Thánh Phaolô, trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê là giáo đoàn ngài thương nhất cũng bảo họ: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!...Chúa gần đến”.
Chúng ta chưa thấy vui, vì chỉ thấy cuộc sống hôm nay vẫn nặng nề, đầy lo toan, đầy khổ nhọc. Vì chúng ta chưa bao giờ cảm thấy Chúa là ai và tình thương của Chúa như thế nào. Chúng ta không chú ý mấy đến tình yêu của Ngài.
Hơn nữa, chúng ta chưa bao giờ nghĩ một cách chính xác chúng ta là gì, thân phận chúng ta ra sao: chúng ta là những con người đầy tội lỗi, nặng nề trong ách nô lệ tội lỗi và tính hư tật xấu. Thế nhưng Chúa không bỏ rơi chúng ta bao giờ, chỉ có chúng ta bỏ Chúa. Chúng ta hãy vui lên vì Chúa đã thương tha thứ tội lỗi chúng ta. Ngài muốn chúng ta hạnh phúc với Ngài, và trong Ngài. Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta thoát ra khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài đến trong trần gian này, đâu phải để tìm một cái gì cho Ngài, nhưng Ngài đến vì chúng ta, Ngài đến để giải thoát chúng ta. Muốn thế, chúng ta hãy đến với Ngài, thành thật và tha thiết.
Hãy vui lên! Chúa chúng ta sắp đến với tất cả tình yêu của Ngài. Một tù nhân sẽ nghĩ gì khi biết rằng một vài ngày nữa sẽ được tự do? Một thanh nữ nghĩ gì khi người yêu hứa vài ngày nữa cha mẹ anh sẽ đem trầu cau đến hỏi em? Không vui sao được khi Chúa đến đem lại cho chúng ta nguồn vui bình an của Ngài? Nhưng chúng ta chỉ vui thực sự khi chúng ta nhìn thấy tình trạng tù đày của mình, khi chúng ta đang mong chờ ngày người yêu đến với chúng ta.
Chúa biết rằng chúng ta không thể tự mình cứu lấy mình, Ngài sai người đến nhắc nhở, thúc giục chúng ta. Gioan Tẩy Giả được sai đến, ông xuất hiện bên bờ sông Giođan, kêu gọi dân chúng ăn năn thống hối, trở về với Thiên Chúa.
Dân chúng, từ lâu đã được nung nấu trong niềm hy vọng được cứu thoát, đến gặp Gioan và hỏi: “Vậy, chúng tôi phải làm gì?”
Đó là câu hỏi mà hôm nay mỗi người chúng ta phải đặt lại cho chính mình. Tôi phải làm gì để đón chờ Chúa đang đến với tôi đây?
Gioan khuyên bảo dân chúng: “Hãy chia sẻ với người túng thiếu, hãy sống công bằng, đừng gian dối…”
Giáo hội hôm nay nhắc lại những lời của Gioan, khuyến khích chúng ta đi vào cuộc sống tốt hơn. Đó là cách chờ đón Chúa tuyệt vời.
Trong hạnh thánh Vinh Sơn đệ Phaolô, trong một cuộc đàm đạo với nữ hoàng Anna nước Áo, hoàng hậu quay lại phía Cha Vinh Sơn và nói: “Cha làm nhiều việc quá!” Cha Vinh Sơn trả lời: “Tôi làm quá ít, thưa nữ hoàng”.
Hoàng hậu: “Cha biết, cha đã làm rất nhiều, và chắc cũng không mấy người, khi đến tòa Chúa có thể được ghi công đầy đặn như cha”.
Hoàng hậu: “Cha Vinh Sơn này, chúng tôi là những người chỉ biết lo hưởng thụ, và nếu không có cha nhắc nhở, chắc chúng tôi không bao giờ mở mắt để nhìn thấy cái gì tốt, xin cha hãy trả lời tôi, cha luôn sống cho đi, cha từ bỏ tất cả mọi sự kể cả hạnh phúc, quyền lực. Cha đã xây đắp không phải những lâu đài phù phiếm… Vậy đứng trước cái chết, cái lỗ to tướng đó đàng sau cha, cha có thấy như vậy không? Cha Vinh Sơn: “Có, thưa bà”. Hoàng hậu: “Vậy phải làm gì trong một cuộc sống để có thể gọi là làm được cái gì”? Cha Vinh Sơn chỉ nói: “Hơn nữa”.
“Hơn nữa” , đó là định luật của tình yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Con Một Ngài cho chúng ta, tại sao chúng ta không tin? Vì chúng ta không tin, nên chúng ta không cảm thấy vui. Chúng ta không biết Chúa thương chúng ta như thế nào, chúng ta cứ dửng dưng. Ngày lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta trang hoàng nhà thờ, nhà cửa lộng lẫy hoa đèn nhưng lòng chúng ta không có ở đó. Chúng ta vắng mặt trong lễ hội tình yêu.
Chúa sắp đến rồi! Chúng ta sẽ đón tiếp Ngài như thế nào? Với tất cả tâm hồn, với tất cả tình yêu?
Giữ đạo là đó, là sống yêu thương, là đáp lại tình yêu của Chúa. Nhưng chúng ta có biết Chúa thương chúng ta không? Chúng ta có biết chúng ta được yêu như thế nào không? Chúng ta biết chứ, nhưng chỉ biết sơ sài, không mấy chú ý. Đó chính là điều đáng tiếc!
Chúa sắp đến rồi, chúng ta chuẩn bị bên ngoài, nhưng tâm hồn như thế nào?
Gioan Tẩy Giả nói: “Sẽ có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Đấng đó là ai mà Gioan cảm thấy không xứng cởi quai dép cho Ngài, vậy chúng ta có xứng đáng hơn Gioan không? Chúng ta được vinh dự hơn Gioan, ông chỉ là người dọn đường, chúng ta được vinh dự đón rước Ngài, chúng ta không thấy rộn vui sao? Ngài sẽ đến “rửa chúng ta trong Thánh Thần và trong lửa”, và chúng ta sẽ được Ngài cho làm bạn thân tình vì Ngài đến để tìm gặp chúng ta.
Hãy vui mừng hân hoan vì tình thương của Chúa không bao giờ hao hụt, và chúng ta được mời gọi vào tình thương đó. Đó là niềm hạnh phúc mà chúng ta đang nắm trong tay.
Hãy cùng với Mẹ Maria chờ đón Chúa như Mẹ. Những ngày này, xưa kia, Mẹ đang nặng nề với đứa trẻ thần linh Mẹ cưu mang và Mẹ nóng lòng biết bao được nhìn thấy con mình, chúng ta hãy hòa nhập tâm tình yêu thương và chờ mong, mời gọi Chúa đến.
Và nơi đây, trong cộng đoàn phụng vụ, chúng ta cũng đang chờ Chúa đến trong mầu nhiệm Thánh Thể, thì hãy vui lên vì Ngài đã thực sự gần gũi với chúng ta, Ngài đến hôm nay để còn đến trong ngày mai. Hôm nay, Ngài đến trong chúng ta, mai sau, Ngài sẽ đến trong uy quyền, nhưng để bộc lộ nguyên vẹn tình yêu của Ngài trong vinh quang và trong đó chúng ta sẽ có mặt, nếu hôm nay, chúng ta thành tâm đón tiếp Ngài.
Chủ đề chung Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" lại càng hiện tỏ hơn vào Chúa Nhật Thứ MV 3-C153
Chủ đề chung Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" lại càng hiện tỏ hơn vào Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay là thời điểm Chúa gần đến, như phụng vụ hôm nay của Giáo Hội mang một mầu hồng tươi vui chứ không còn mầu tím xám hối nữa.
Đúng thế, ngay trong Tuần Ba Mùa Vọng này, Giáo Hội sẽ bắt đầu tuần bát nhật trước Giáng Sinh, từ ngày 17 đến hết 24 tháng 12, một thời điểm với những bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố nhập thể và giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế.
Bởi vậy, Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay đây chẳng khác gì như một dạo khúc về mầu nhiệm và biến cố "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng sắp đến với dân của Chúa là thành phần đang trông đợi (thậm chí cho đến bây giờ) Người đến như một Vị Thiên Sai Cứu Độ.
Đó là lý do chúng ta thấy Bài Đọc 1 và 2, kể cả bài Đáp Ca đều có nội dung hân hoan vui mừng và đều kêu gọi dân Chúa hãy vui lên.
Bài Đọc 1 hôm nay Tiên Tri Xôphônia đã kêu gọi dân Chúa hãy vui lên như sau: "Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi".
Bài Đáp Ca hôm nay Tiên Tri Isaia cũng kêu gọi dân Chúa hãy vui lên như thế này:
1) Ðây Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Ðấng tôi ca ngợi. Người trở nên phần rỗi của tôi.
2) Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng cứu độ: Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu thánh danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người, hãy nhớ rằng danh Người rất cao trọng.
3) Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hỡi dân Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả.
Bài Đọc II Thánh Phaolô Tông Đồ cũng hợp với Bài Đọc 1 và Bài Đáp Ca đồng thanh kêu gọi Kitô hữu Giáo Đoàn Philiphê như sau: "Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô".
Bài Phúc Âm hôm nay, tuy không thấy tỏ tường bầu khí và tính cách kêu gọi "hãy vui lên... vì Chúa đã gần đến" như Bài Đọc 1, Bài Đáp Ca và Bài Đọc 2, chúng ta cũng cảm thấy như có một cái gì đó gần đến khi thấy một Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện bằng chính ngôn từ của ngài, những ngôn từ được Thánh ký Luca kết thúc bài Phúc Âm hôm nay cho biết tính chất vui mừng ở lời của ngài như sau: "Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng".
Thật vậy, theo tiến trình của phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng chu kỳ Năm C, thì Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chưa hoàn toàn xuất hiện cho đến chính Chúa Nhật III Mùa Vọng này. Ở bài Phúc Âm Chúa Nhật II Mùa Vọng, ngài mới chỉ được Chúa Kitô nói tới, và ở 3 ngày (Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy) cuối Tuần Thứ Hai Mùa Vọng vừa rồi cũng thế, ngài cũng chỉ mới được Chúa Giêsu nói tới mà thôi.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang đích thân thực hiện sứ vụ "rao giảng tin mừng cho dân chúng" chẳng những bằng lời nói của ngài mà còn bằng chính bản thân của ngài nữa.
Trước hết, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang thực hiện sứ vụ "rao giảng tin mừng cho dân chúng" bằng lời nói của ngài:
"Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: 'Vậy chúng tôi phải làm gì?' Ông trả lời: 'Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy'. Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: 'Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?' Gioan đáp: 'Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi'. Các quân nhân cũng hỏi: 'Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?' Ông đáp: 'Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình'".
Sau nữa, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang thực hiện sứ vụ "rao giảng tin mừng cho dân chúng" bằng chính bản thân của ngài:
"Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: 'Có phải chính ông là Ðức Kitô chăng?' Gioan trả lời cho mọi người rằng: 'Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!' Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng".
Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy một Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện để báo trước một Đấng đến sau ngài. Đầu tiên, ở phần đầu, ngài dọn lòng cho dân chúng đủ mọi thành phần đón chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế, rồi sau đó, ở phần cuối, ngài chính thức nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Đấng đến sau ngài cũng là Đấng cần ngài được sai đến trước để dọn đường cho Người.
Ngài đã dọn lòng cho dân chúng tùy theo hoàn cảnh xã hội của họ. Tiêu biểu cho những ai đến với ngài là ba thành phần: dân chúng nói chung, thu thuế và binh lính. Với cả 3 thành phần tiêu biểu trong dân chúng đến với ngài này, cho dù hoàn cảnh khác nhau, nhưng ngài vẫn khuyên một điều giống nhau đó là sống công bình bác ái yêu thương: 1- "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy" (với dân chúng); 2- "đừng đòi gì quá mức đã ấn định" (với thu thuế); và 3- "Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình" (với binh lính).
Ngài quả thực đã thực hiện sứ mệnh dọn đường cho Đấng đến sau nơi dân chúng bằng cách, như bài Phúc Âm Chúa Nhật II Mùa Vọng tuần trước đã nói về những gì ngài cần phải làm đó là: "sửa đường Chúa cho ngay thẳng (với chung dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay), lấp mọi hố sâu và bạt mọi núi đồi (với thành phần thu thuế); uốn ngay đường lối cong queo, san bằng đường lối gồ ghề (với thành phần binh lính)", nhờ thế "mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa", hay mới có thể nhận biết Đấng Thiên Sai Cứu Thế được ngài báo trước.
Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã chính thức làm chứng về Chúa Kitô, trước hết bằng cách phủ nhận mình không phải là "Đức Kitô" như dân chúng tự nhiên cảm nhận, một "Đức Kitô" là Đấng đến sau ngài nhưng lại là "Ðấng quyền năng hơn tôi - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Ở chỗ, trong khi ngài chỉ "lấy nước mà rửa", một phép rửa chỉ có tính cách thống hối chứ không có thể tha tội, thì "chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa", một phép rửa tái sinh con người để con người chẳng những được sự sống mà còn được sự sống viên mãn (xem Gioan 10:10), đến độ họ có thể trở thành chứng nhân cho Chúa Kitô như các vị tông đồ ở Giêrusalem trong ngày Lễ Ngũ Tuần sau khi đã lãnh nhận "phép rửa trong Thánh Thần" với hình lưỡi lửa đậu trên đầu từng vị (xem Tông Vụ 1:5,8;2:1-13).
Phần Kitô hữu chúng ta, đã "được tái sinh bởi trên cao" (Gioan 3:3), "bởi nước và Thánh Linh" (Gioan 3:5), khi lãnh nhận Phép Rửa, và sau đó cũng đã được rửa "trong lửa" nơi Bí Tích Thêm Sức để có thể làm chứng về Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14).
Thế nhưng, thực tế cho thấy, Kitô hữu chúng ta tự bản chất "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14) với vai trò là "chứng nhân của Thày cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8) chẳng những không làm chứng về Chúa Kitô và cho Chúa Kitô mà còn có những xu hướng, ý nghĩ, ước muốn, chọn lựa, quyết định, ngôn từ, tác hành và phản ứng hoàn toàn phản chứng, chỉ là những gì phản Kitô, như hưởng thụ hơn phục vụ, gian dối hơn thành thật, tự cao hơn tự hạ, hận thù hơn tha thứ v.v.
Trong Mùa Vọng để dọn mừng đón Chúa Giáng Sinh năm nay cũng như hằng năm, nếu chúng ta là một người đang đứng chờ tới phiên xưng tội, chúng ta không cần phải hỏi "chúng tôi phải làm gì?" như 3 thành phần dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay hỏi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vì họ chưa biết Chúa Kitô là ai, nên mới hỏi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả mà họ tưởng là "Đức Kitô" như vậy.
Kitô hữu chúng ta, theo đức tin, đã biết Người, Đấng đã đến, là ai, và vì thế chúng ta đã có thể biết được chúng ta đã sống xứng với Người hay chưa, để mà quyết tâm làm sao mỗi ngày một hơn Người có thể "thần hiển - theophany" một cách rạng ngời nơi thành phần chứng nhân chúng ta trước những ai đang khao khát thần linh và Ơn Cứu Độ của Vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhân hậu của chúng ta.
Bác sĩ Karl Menniger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ làm nhiều người kinh ngạc khi đọc MV 3-C154
Bác sĩ Karl Menniger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ làm nhiều người kinh ngạc khi đọc cuốn “Whatever became of sin” (Điều gì đang xảy đến cho tôi?) Ông bắt đầu cuốn sách với câu chuyện khiến mọi người phải suy nghĩ. Vào một ngày Chủ nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại, xuất hiện một nhà giảng thuyết. Vào lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, ông thình lình giơ cánh tay gầy guộc dùng ngón tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó la lên: “Anh là kẻ có tội”, đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây, rồi lại chỉ vào một người khác và la lên: “anh là kẻ có tội”.
Bác sĩ Menniger nói: “Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi qua đó thật là kỳ lạ”. Họ lấm lét nhìn ông rồi quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp…
Chắc hẳn Gioan Tẩy Giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi Ngài xuất hiện bên bờ sông Giođan. Hẳn nhiên, một số chế nhạo Ngài, một số tức giận khó chịu, một số khác giật mình như bị chích vào vùng nhạy cảm, tự tận thâm sâu của lòng họ nhận ra sự sai quấy đã làm. Chúng ta đọc thấy phản ứng đó qua câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”. Trong cuốn sách nói trên, bác sĩ Menniger cho thấy người thời nay làm nhiều điều sai quấy, nhưng điều đó không làm cho ông ưu tư, điều ông ái ngại là có rất nhiều người không chịu chấp nhận rằng mình làm điều sai quấy, chính vì thế mà nhà giảng thuyết trên chỉ nói: anh là kẻ có tội đã tạo ra một tác động kỳ lạ nơi những nhân viên làm việc tại Chicago.
Dầu con người chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật vẫn là con người là một tội nhân:
Mọi người đều phạm tội, Thánh Kinh chép: “Chẳng một người nào công chính dù chỉ một người thôi. Mọi người đều trở mặt, đi vào đường lầm lạc. Chẳng một ai làm lành, dù chỉ một người cũng không. Vì mọi người đều phạm tội không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3,10.12.23).
Nếu vua tiên tri Đavít có thú nhận: “Lúc chào đời, con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” thì cũng chỉ nói lên thân phận của kiếp người trước cái nhìn của Thiên Chúa.
“Nếu chúng ta chối tội là chúng ta tự lừa dối, và không chịu nhìn nhận sự thật. Nếu chúng ta bảo mình vô tội là cho Chúa nói dối” (1Ga 1,8.10).
Chúa Giêsu khẳng định với Nicôđêmô: “Thể xác chỉ sinh ra thể xác. Thánh Linh mới sinh ra tâm linh”. Như vậy cần phải tái sinh.
Nhưng việc tái sinh này, Gioan Tẩy Giả không làm được, ông có thể cho con người biết mình tội lỗi, như các người thu thuế nhận ra mình có lỗi trong việc thu thuế quá mức, đám lính tráng nhận ra mình hay bắt nạt dân chúng, còn tất cả dân chúng đều nhận ra tội ích kỷ không chia sẻ của cải cho những ai túng thiếu. Ông đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm. Ông còn đòi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về với Thiên Chúa… Nhưng còn việc tha tội thì ông không làm được. Ông không làm được nhưng có thể chỉ cho người ta Đấng có thể làm điều ấy: “Tôi thì lấy nước mà rửa cho các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa”. Rửa trong Thánh Thần là cách nói khác của tái sinh, là lãnh nhận ơn tha thứ tội lỗi do công ơn cứu chuộc của Đức Kitô trên thập giá. Đó chính là lý do vui mừng mà thánh Phaolô đã kêu gọi và là cao điểm của Thánh Lễ Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay.
Chúng ta phải hết sức ngạc nhiên khi xét đến bối cảnh mà vị tông đồ đã đưa ra lời kêu mời vui mừng này. Đây không phải là như một người đang vui say lạc thú trần gian đưa tay cầm ly rượu kêu mời bạn hữu, nhưng là một con người đang sống trong ngục tù, Phaolô đã được đưa về giam tại Rôma, đang chờ đợi bản án chung kết, có thể là tử hình (và sau này là tử hình thật). Chỉ trong một bức thư gửi giáo đoàn Philipphê, ngài đưa ra lời kêu gọi vui mừng này tới hai lần, và lần nào cũng “tôi nhắc lại” với một tâm tình tha thiết đặc biệt. Người cha tinh thần ấy đang động viên tinh thần đoàn con của mình trong hoàn cảnh khó khăn mà họ đang phải đương đầu. Ông không thuyết giảng một cách mơ hồ, nhưng khích lệ họ với chính kinh nghiệm của bản thân mình, tại sao ông có thể vui và vui luôn, dầu trong bất cứ hoàn cảnh nào?
Ông có thể vui vì ông đã được tha thứ. Không ai có thể vui vì mình là tội nhân, nhưng vì tội nhân đã được tha thứ: “Đây là lời trung thực, đáng được mọi người tin nhận: Chúa Cứu Thế Giêsu đã đến trần gian để cứu vớt những người tội lỗi. Trong những người được cứu, ta nặng tội nhất” (1Tm 1,15). Ông nặng tội, bởi vì “trước kia, ta là người phạm thượng, tàn bạo, khủng bố người theo Chúa, nhưng Chúa còn thương xót vì ta không hiểu điều mình làm khi chưa tin nhận Ngài” (1Tm 1,13). Chỉ những ai nếm trải được sự tha thứ này mới cảm nhận được điều mà thánh tông đồ chia sẻ. Mỗi lần chúng ta phạm tội, lòng chúng ta luôn áy này, tâm hồn chúng ta nặng chĩu như bị một khối nặng đè lên, nhưng khi vừa được ơn tha thứ, biết rõ tội mình được tha, lòng chúng ta được thanh thoát, khối nặng đã bị cất đi…
Phaolô vui mừng vì tội được tha, vì ngài biết rõ Đấng ngài đặt niềm tin vào: “Vì ta biết rõ Đấng ta tin cậy, chắc chắn Ngài có quyền bảo vệ mọi điều ta uỷ thác cho đến ngày cuối cùng” (2Tm 1,12). Ông đã ký thác linh hồn mình cho Chúa Giêsu, và ông biết chắc chắn cuộc đời ông sẽ kết thúc như thế nào, sẽ dẫn ông đến bến bờ nào. Được như thế là nhờ: “Ta cứ chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu là căn nguyên và cứu cánh của đức tin. Nhằm vào niềm vui tối hậu, Chúa đã kiên nhẫn vác cây thập giá xem thường sỉ nhục, và hiện nay ngồi trên ngai uy quyền tuyệt đối, bên phải ngai Thiên Chúa” (Dt 12,2). Cả cuộc đời đã như thế, còn gì mà không vui mừng: “Riêng phần ta, ta biết gần đến ngày từ giã trần gian, về thiên đàng. Ta đã chiến đấu anh dũng, chạy xong cuộc đua, giữ vừng niềm tin. Từ đây mão miện công chính đã dành sẵn cho ta. Chúa là Chánh án chí công sẽ ban cho ta trong ngày Ngài trở lại, cũng như cho tất cả những ai yêu mến, trông đợi Ngài” (2Tm 4,6-8).
Có lẽ trong chúng ta có người tự nghĩ: ai được như Phaolô, ai được Chúa đích thân gặp gỡ. Đúng thế, nhưng chúng ta cũng rất tự hào vì đã có một anh hùng tử đạo, không những có tinh thần của Phaolô, nhưng còn mang tên Phaolô nữa, đó là cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh.
Trong bức thư viết từ nhà giam tại Hà Nội đề ngày 24.04.1843 gửi cho các bạn ở chủng viện Vĩnh Trị, thầy viết: “’Tôi, Phaolô Lê Bảo Tịnh, đang mang gông xiềng vì Đức Kitô, từ ngục thất tôi gửi về các bạn những lời chào thân ái, và chắc chắn là những lời chào sau cùng… Tù ngục này quả là hình ảnh sống động của hoả ngục muôn đời. Không kể gông cùm xiềng xích, tôi còn phải nghe, phải chứng kiến, phải chịu đựng những oán ghét, thù hằn, những lời phỉ báng Thiên Chúa, những lời nói dâm ô, những cuộc xô xát, những hành vi bỉ ổi, những lời thề nguyền gian dối. Ngoài ra, tôi còn phải chịu phiền cực, chịu muỗi đốt, rệp cắn. Đã hết đâu, người ta còn luôn tuôn ra những lời căm hờn chửi rủa vua quan, bạn hữu, cha mẹ… Ngoài những đau khổ nói trên, mùa hè tôi phải chịu cái nóng nung người, mùa đông chịu rét buốt. Qua nhiều năm không bao giờ nhìn thấy mặt trăng hay ánh sao. Suốt đêm tôi không ngủ được, hoặc chỉ chợp mắt một vài trống canh là cùng… Nhưng nhờ ơn Chúa, ở giữa những cực hình thường làm cho các tù nhân khác phải sầu khổ, tôi lại được tràn ngập hoan lạc, vì tôi không cô đơn, nhưng Chúa Kitô ở với tôi. Chính Người, Thầy của chúng ta, chịu đựng sức nặng của cây thập giá, phần tôi, tôi chỉ vác cách nhẹ thôi. Vì Người không phải chỉ đứng xem chiến đấu nhưng chính Người chiến đấu và đắc thắng. Chính Người sẽ kết thúc cuộc chiến đấu…”.
Nhưng xem ra cuộc chiến chưa kết thúc, thầy lại được ra khỏi ngục, tiếp tục tu, làm linh mục chui, trở thành giám học chủng viện Vĩnh Trị, để rồi lại bị bắt giam tại nhà tù Nam Định, ngày 6.04.1857, tức là mười hai ngày trước khi chịu tử đạo, cha viết cho chủng sinh: “Chúng con hãy ca tụng Chúa nhân lành vì việc Người đã thực hiện nơi cha”, sau đó cha kể sơ qua về đời sống khổ cực trong lao tù, rồi tâm sự: “Cha cảm tạ Chúa đến muôn đời vì Người cho cha được sống trong yên lặng, cha có thể cầu nguyện và suy niệm tuỳ ý. Cha sung sướng tin tưởng rằng không gì có thể phân ly cha khỏi tình yêu Chúa Kitô, dù tù tội, đói khát, gươm giáo hay cái chết, vì Chúa Kitô là sự sống của cha”. Và rồi cha nhắc lại hầu như đúng lời vị đại tông đồ: “Cha có thể nói rằng: đã đến giờ cha phải ra đi, cha đã giữ vững đức tin, đã chạy hết chặng đường và cha đã trông đợi rằng: vị Thẩm phán sẽ trao cho cha vòng hoa dành cho người công chính, không phải chỉ cho cha, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người đến”. Cha kết thúc bức thư: “Sau khi khuất đi, nếu có thế lực gì bên Chúa, cha hứa sẽ không bao giờ quên chúng con. Vĩnh biệt”.
Chính nhờ thế lực của các vị anh hùng đức tin bên toà Chúa, và gương sáng của cha ông để lại mà chúng ta có được như ngày hôm nay. Tôi xin kết thúc bài chia sẻ với câu truyện sau đây: “Khi đạo Chúa được truyền bá ở thành phố lớn nhất miền Nam, có rất ít người tin Chúa. Một hôm có người ga trưởng là thầy Lê theo đạo. Thầy về thuyết phục những người trong gia đình và bạn hữu ở Bình Trị Đông, nhưng không ai chịu theo. Mấy tháng sau, thầy đau nặng rồi qua đời. Khi an táng, các tín hữu chung quanh tới cử hành, họ đau buồn vì mất một người anh em thân yêu, nhưng tất cả đều có niềm an ủi lớn và vui thoả khác thường trong Chúa, vì biết chắc thầy Lê đang an nghỉ trong Nước Chúa như lời Chúa dạy. Niềm an ủi và vui thoả khác thường đó đã gây một ấn tượng sâu xa nơi những người dự đám tang. Sau đó ít lâu, cả gia đình thầy Lê xin theo đạo, và rất nhiều người ở Bình Trị Đông quyết định theo Chúa. Những người ấy khi tin Chúa đều nói rõ, tuy trước kia họ không muốn nghe Phúc Âm, nhưng niềm vui an ủi vui thoả của các tín hữu giữa đám tang thầy Lê đã khiến họ lưu ý đặc biệt, rồi tìm hiểu đạo và tin Chúa”
Có 3 anh em hết sức dễ thương, các em tự hứa với bố chúng rằng: bố ơi, chúng con thương bố nhiều MV 3-C155
Có 3 anh em hết sức dễ thương, các em tự hứa với bố chúng rằng: bố ơi, chúng con thương bố nhiều lắm, chúng con sẽ chăm ngoan, học giỏi để bố vui. Chắc chắn mẹ ở thiên đàng sẽ phù hộ cho bố và cho chúng con nữa. Sau thời gian, đúng là các em ngoan, chăm học, ông bố rất vui và nói với các con: anh hai con thích thứ gì, bố sẽ mua cho con ? anh ba, con muốn quà Giáng Sinh năm nay là gì ? Út, con mơ ước gì, bố cho con chọn lựa đó ? Lần lượt, anh hai thích cái laptop để học, anh ba ước muốn được làm linh mục, út, con sẽ rất vui nếu mai này trở thành bác sĩ chữa bệnh. Đúng, buồn, vui, khổ đau, hạnh phúc, vẫn đang lẫn lộn nơi cuộc sống này là có thật. Người không có niềm tin thì an ủi nhau, hãy vượt lên chính mình, hãy chấp nhận số phận. Người có niềm tin sẽ nói, phải qua đau khổ mới đến vinh quang, buồn vui, chính là cơ hội để người ta lớn lên trưởng thành và gặt hái hạnh phúc thật.
Phụng vụ hôm nay mời gọi “hãy vui lên”, vui lên để biết mình là ai, vui để biết tìm Đấng yêu thương ta, biết cùng mọi người vui lên trong niềm vui có Chúa. Tiền nhân ta cho rằng: mấy ai là kẻ không thầy, không thầy đố mày làm nên. Đọc một bài viết, có hiểu mới hay, có thầy giải thích, tư vấn, công việc sẽ kết quả, sẽ thành công hơn “tự mày mò”. Có thầy hướng dẫn về đời sống cầu nguyện, dễ gặp Chúa, gặp được niềm vui trong các tương quan cao hơn. Tiến trình tìm gặp niềm vui, đám đông dân chúng năm xưa tự đi vào hang địa, xin gặp thầy chỉ dạy, họ nghe, hiểu, họ sống tốt, sống phận vụ riêng như được hướng dẫn. Ngày hôm nay, người ta vẫn được mời gọi đi vào hoang địa của lòng mình, qua đó, mọi người sẽ được nghe, được hiểu, và rồi biết sống tốt, trước niềm vui thật trong các tương quan.
Muốn thành công trên đường đời phải làm chủ lấy mình, muốn có niềm vui thật, rất cần phải được tư vấn, vì không ai tự nhiên mà biết sống đúng, sống đẹp, sống tốt, nếu thiếu học tập đầu tư. Đám đông dân Do-thái chắc họ đã từng hỏi, tai sao tôi đến hoang địa, từng người tín hữu chúng ta cũng từng thắc mắc, tai sao tôi cần đến nhà thờ, cần phải đi sâu vào lòng mình ? Vâng, muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, câu thành ngữ quen thuộc ấy không bao giờ là lý thuyết trừu tượng. Gioan đã hướng dẫn cho từng đối tượng: “ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, hãy làm như vậy”. Người thu thuế, cũng được nhắc bảo: “các ngươi đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”. Kinh nghiệm người đi trước, rước người theo sau, là vậy, nhờ tác động của tình yêu, nhờ một chút thức tỉnh, thấy người anh chị em: vui, bình an, hạnh phúc, lẽ nào ta không thao thức tìm đến hoang địa lòng mình, xin thầy chỉ giáo.
Vui để học, vui để không cảm thấy bị cô đơn, vui để lạc quan, yêu bản thân, yêu tha nhân, vui để tự tin như kinh nghiệm cho biết: đủ hy vọng, sẽ vứt bỏ được nỗi sợ hãi bất an, và cùng hướng về tương lai tốt đẹp. Gioan vui khi ông sống khắc khổ ở hoang địa, quanh năm chay tịnh, ông rất vui khi đoàn người nối nhau đến hoang địa tìm gặp ông. Gioan rất vui trước sứ mạng “tiền hô” cho Đấng đang tới, ông vui vì tiếng lành, tiếng dữ, đồn ba ngày đàng, mọi người tìm đến sông Giođan để xin được chỉ dẫn, xin biết cách thống hối ăn năn. Chỉ khi nghe được, cảm nhận được dấu hiệu của tình yêu thật, người ta mới biết sống bác ái, công bình, quảng đại tha thứ, hầu tâm hồn có bình an thật, hạnh phúc thật. Chỉ cần một chút suy xét, ta sẽ thấy con người của mình quả là giới hạn, bất xứng, ai cũng cần được trợ giúp, cần được yêu thương, khi xung quang ta thật giả, tốt xấu, buồn vui, đầy xáo trộn.
Hãy vui lên, vì mắt tinh tai thính, đó là một lợi thế rồi, cơ hội để khoẻ đẹp tâm hồn thể xác là sự thật, nếu mỗi người nghe rõ, hiểu đúng và sống tốt lời chỉ dạy. Vui để sống tốt, vui để tâm trí thanh thản, nhịp đập của trái tim không ngắt quãng, cách cư xử luôn hoà nhã, người người, nhà nhà, sẽ gặp được bình an và tình yêu dồi dào hơn nữa. Vì khao khát niềm vui, bình an tâm hồn, đám đông tìm đến hoang địa gặp Gioan, họ hỏi, họ tư vấn, cũng có thể hiểu, họ được ơn tự nhiên thôi thúc … Ngày hôm nay, chúng ta đến nhà thờ, đến sa mạc lòng mình, là vì phúc lộc tổ tiên, gọi là nhờ ơn ban, ơn mà Gioan đã chia sẻ: “tôi rửa anh em bằng nước, nhưng Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”.
Vui để sống tốt, vui để thấy cuộc đời thật ý nghĩa, vui để cảm nhận rõ hơn về giá trị thật của tình yêu, đúng như bậc hiền nhân nói: kẻ tiểu nhân nhìn ai cũng nghi là thù địch, người quân tử đi khắp thiên hạ, đều thấy vui và bình an, nên thấy ai cũng là bạn hữu. (Trang Tử). Hãy vui lên, vì ai cũng có quân sư ở bên cạnh, có đấng bậc sinh thành, có đời sống các bí tích, có chăng là chúng ta chưa muốn nghe, nên chưa hiểu, chưa thật sự sám hối ! Nói hay không bằng nghe giỏi, có điều kiện, hoàn cảnh tốt, mà chẳng tận dụng thì cũng huề vốn. Tìm đến sa mạc, tự do đến nhà thờ, đó là ơn ban, là nỗ lực cần thiết rồi, rất cần phải biết khiêm tốn lắng nghe để hiểu, để sống tốt, và để tâm hồn thật sự vui trong niềm vui có Chúa. Amen.
Chúng tôi phải làm gì đây?” Câu hỏi thật dễ thương và đáng trân trọng của những người Do-thái MV 3-C156
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
“Chúng tôi phải làm gì đây?” Câu hỏi thật dễ thương và đáng trân trọng của những người Do-thái đã được lời rao giảng của ông Gioan Tiền Hô đánh dộng. Họ muốn làm theo lời khuyên của ông Gioan, nhưng không biết mình phải làm gì và bắt đâu từ đâu nên mới hỏi như thế? Ông Gioan đã trả lời họ một cách rất rành mạch và cụ thể: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy."
Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đặt câu hỏi “chúng tôi phải làm gì đây?” và tìm ra câu trả lời thích hợp cho trường hợp của riêng mình để đón rước Chúa Giêsu là Đấng quyền thế hơn Gioan. Chúa đã đến cách nay hơn hai ngàn năm, Chúa sẽ đến trong ngày Quang Lâm và Chúa đang đến với mỗi người chúng ta, để làm cho chúng ta nên thanh sạch và thánh thiện trong Lửa và Thánh Thần!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1 (Xp 3,14-18): “Chúa sẽ hân hoan vì ngươi” Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.
Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi.
2.2 Bài đọc 2 (Pl 4,4-7): “Chúa gần đền.” Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Đức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.
2.3 Bài Tin Mừng (Lc 3,10-18): “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: "Vậy chúng tôi phải làm gì?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy". Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" Gioan đáp: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi". Các quân nhân cũng hỏi: "Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?" Ông đáp: "Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình".
Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: "Có phải chính ông là Đức Kitô chăng?" Gioan trả lời cho mọi người rằng: "Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!" Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Xp 3,14-18) là những lời ngôn sứ kêu mời dân chúng Israel hãy reo hò mừng vui vì Thiên Chúa đang ngự giữa họ là Đấng cứu tinh quyền năng và yêu thương; Người sẽ thay đổi hiện tại và tương lai khiến cuộc sống của họ tràn đầy niềm vui.
Trong đoạn Sách Xôphônia 3,14-18 trên, chúng ta khám phá ra gương mặt và tấm lòng đầy yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa đối với nhà Israel và thành thánh Yêrusalem. Người sẽ biến đổi mọi hoàn cảnh để niềm vui thay thế cho nỗi sầu khổ, bình an thế chỗ cho lo âu, sợ sệt trong tâm hồn và cuộc sống của người tin theo Chúa.
3.1.2 Bài đọc 2 (Pl 4,4-7) là những lời khuyên nhủ thân thương của Thánh Phaolô Tông đồ dành cho các tín hữu Philípphê. Thánh Phaolô thúc giục họ hãy sống an vui, hiền hòa, quảng đại, tin tưởng và phó thác vì Thiên Chúa đã gần, khi Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, xuống thế làm người và chịu khổ hình vì mọi người.
Qua đoạn thư Philípphê 4, 4-7 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, tinh tuyền, yêu thương, chăm lo cho con cái và nghe lời cầu xin của chúng ta; Người muốn chúng ta sống an bình, hoan lạc và tin tưởng phó thác. Chúng ta cũng nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đang chờ đợi để gặp chúng ta.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 3,10-18) là tường thuật về những lời trao đổi và chỉ dẫn của Gioan Tiền Hô với dân chúng. Ông thúc giục họ thay đổi cách sống để đón nhận Chúa Cứu Thế. Nhiều người xin ông chỉ bảo phải làm gì cụ thể để được Chúa thương. Ông Gioan Baotixita ân cần chỉ bảo từng người, từng giới và giới thiệu cho mọi người biết về Chúa Giêsu: Người cao trọng hơn Gioan bội phận, Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa; Người sẽ thanh lọc kẻ xấu người tốt.
Qua đoạn Phúc Âm Luca 3, 10-18 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng muốn cứu độ tất cả mọi người; Chúa Giêsu là Đấng cao trọng vô cùng và là Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa; Người cũng là Đấng sẽ thanh lọc tức phân xử kẻ xấu người tốt khi Người đến trong thế gian này.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Chúa Cứu Thế là Đấng cao trọng vô cùng; Người sẽ thanh lọc (phân xử) kể xấu người tốt; Người sẽ canh tân đổi mới bằng phép rửa trong Thánh Thần và lửa cho mọi người nên tinh tuyền.
Để đón rước Chúa Cứu Thế, mỗi người tín hữu phải có những hành động cụ thể, thiết thực và phù hợp với mong muốn hay đòi hỏi của Người.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng trung tín trong mọi lời hứa với tổ tiên loài người là sẽ ban Đấng Công Chính cho dân Người. Sống với Thiên Chúa là Ngôi Lời Nhập Thể và đồng hành với chúng ta chỉ đường dẫn lối cho chúng ta qua gương lành và lời giảng dậy của Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, chúng ta cần làm 3 việc sau:
* Một là chúng ta hãy tự hỏi mình như những người Do-thái xưa đã hỏi ông Gioan Tiền Hô: “Chúng tôi phải làm gì đây?”
* Hai là chúng ta xin Chúa Thánh Thần soi sáng, mở lòng, mở trí, mở mắt tâm linh cho chúng ta nhìn thấu suốt con người của mình mà thấy được những “ngóc ngách” nào trong tâm hồn và đời sống của chúng ta cần được Chúa Giêsu Kitô rửa trong Thánh Thần và trong lửa. Trong tâm hồn của chúng ta, có thể có những “ngóc ngách” cần được thanh tẩy, như lòng kiêu căng, cứng tin, ganh tỵ, hận thù, thờ thần nào khác không phải là Thiên Chúa. Trong đời sống của chúng ta, có thể có những “ngóc ngách” cần được thanh tẩy, như đam mê sắc dục, rượu chè, cờ bạc, tiền tài, danh vọng, chức quyền hay lối sống giả hình, nhỏ nhen, ích kỷ, thờ ơ trước nỗi khổ của người chung quanh hoặc hẹp hòi trong chia sẻ (tài năng, tấm lòng, thời gian, tiền của) với người hay cộng đồng cần đến sự giúp đỡ và đóng góp của chúng ta.
* Ba là chúng ta tha thiết nài xin Chúa Giêsu Kitô dùng Máu Châu Báu, Thánh Thần và lửa để rửa sạch những “ngóc ngách” tối tăm, bụi bậm ấy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các dân các nước trên thế giới hôm nay được Thiên Chúa đoái thương và thứ tha mọi tội lỗi xúc phạm đến Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên!» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các Hồng Y, Giám Mục, các Limh Mục và Tu sĩ Nam Nữ, để các ngài luôn được sống trong niềm vui và biết lan tỏa niềm vui đến những người sống xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Chúng tôi phải làm gì đây?» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi thành phần Dân Chúa ở Việt Nam, để ai nấy biết mình phải làm những gì trong Mùa Vọng này hầu đón mừng Chúa giáng trần một cách trọng thị nhất.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho những người chưa biết Chúa, để họ nhận ra Đấng Cứu Thế đã đến trong trần gian này, đó là Chúa Giêsu Kitô.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigon ngày 08 tháng 12 năm 2021 Lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội
Niềm vui trong Thiên Chúa là niềm vui “ra khỏi mình, vượt qua cái tôi”, niềm vui khi phó thác MV 3-C157
TMĐP- Niềm vui trong Thiên Chúa là niềm vui “ra khỏi mình, vượt qua cái tôi”, niềm vui khi phó thác vào lòng thương xót của Ngài, cũng là niềm vui chia sẻ, khi quảng đại trao ban và dấn thân hy sinh phục vụ mọi người.
Hành trình của người Kitô hữu không bao giờ là hành trình thê lương, sầu thảm của người tù bị kết án chung thân ngày qua ngày lê lết “cái chết được triển hạn”, hay như hành trình trĩu nặng hình phạt của thời gian mà người tử tội phải mòn mỏi chịu đựng đến phát điên trong phòng biệt giam với đôi chân ngày đêm bị cùm cho đến giây phút bất ngờ bị đem đi hành hình. Trái lại, con đường của người môn đệ đi theo Đức Giêsu là con đường vui, con đường tràn đầy hy vọng, không chỉ vì được sinh ra từ Thiên Chúa, “Đấng là Nguồn Vui” (Tv 42,4); được nuôi dưỡng bởi Thánh Thần, Đấng làm phấn khởi, hoan lạc tâm hồn (x. Cv 5,41), vì “hoa trái của Thánh Thần là niềm vui” (Gl 5,22), mà còn vui vì được yêu thương, đổi mới do lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ vô cùng nhân hậu đang đến và cư ngụ giữa dân Ngài.
Quả thực, niềm vui của tâm hồn Kitô hữu, niềm vui của người có Đức Giêsu đang tưng bừng nở rộ trong bầu khí đón mừng Chúa đến được loan báo, công bố, reo vang trong các bài đọc phụng vụ của chúa nhật “màu hồng”, chúa nhật của niềm vui Hy Vọng.
Ngôn sứ Xôphônia trong bài đọc thứ nhất nhấn mạnh hai lý do cho phép chúng ta được vui trong Chúa, đó là “Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài”, bởi nếu có Thiên Chúa ở cùng, thì “sẽ chẳng còn tai ương nào khiến dân Ngài phải khiếp sơ” (x. Xp 3, 15), và “Thiên Chúa lấy tình thương của Ngài mà đổi mới dân Ngài” (x. Xp 3,17).
Thiên Chúa ở giữa, ở với, ở cùng dân Ngài, mà lại ở với tình thương, lòng nhân hậu, độ lượng, bao dung thì hỏi sao dân Chúa không vui mừng hoan hỷ, không “nhảy múa tưng bừng như trong ngày hội” (x. Xp 3, 17-18). Như thế, niềm vui bắt nguồn từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính vì thương xót mà Thiên Chúa đã “cắm lều ở giữa loài người chúng ta” và đổi mới, canh tân chúng ta.
Thánh Phaolô thì nhắn nhủ chúng ta hãy vui luôn trong Chúa. Nhưng để vui luôn, chúng ta phải tín thác ở Chúa, đặt để trong tay Chúa mọi khó khăn, mọi hoàn cảnh và tuyệt đối trông cậy ở Chúa là Cha nhân hậu luôn lắng nghe con cái kêu xin, thỉnh cầu. Có như vậy, niềm vui trong Chúa ở chúng ta mới tồn tại vững bền, vì được ăn rễ sâu trong bình an của Thiên Chúa bằng kết hợp với Ngài.
Và để niềm vui ở người môn đệ trở thành niềm vui mang ơn cứu độ, niềm vui mưu ích cho phần rỗi, thánh sử Luca đặt chúng ta vào cốt lõi của lời kêu gọi xám hối trở về của Gioan Tẩy Giả. Cốt lõi ấy không chỉ là thay đổi tâm tình, sửa đổi cách sống, mà còn phải thực hành chọn lựa đổi mới ấy bằng tránh dùng quyền lực mà cư xử bất công, bất chính đối với tha nhân, nhưng thực thi điều công chính: “chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta” (Lc 3,14); bằng nếp sống giản dị, đơn sơ, “đừng đòi hỏi gì qúa mức ..”(Lc 3,13); bằng chia sẻ cơm áo với người đói rách, cùng khổ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3, 111).
Như thế, niềm vui trong Thiên Chúa mà chúng ta tìm không là niềm vui thụ động, lười biếng, ích kỷ, hưởng thụ, nhưng là niềm vui “ra khỏi mình, vượt qua cái tôi”, niềm vui hướng về Thiên Chúa khi phó thác vào lòng thương xót của Ngài, cũng là niềm vui chia sẻ, khi quảng đại trao ban và dấn thân hy sinh phục vụ mọi người.
Xin Chúa cho chúng con ý thức mình là con cái đến từ tình yêu Thiên Chúa, mà tình yêu thì không sợ hãi, “vì sợ hãi gắn liền với hình phạt” (1 Ga 4,18), nhưng từng giây phút cuộc đời luôn sống niềm vui “có Chúa ở cùng, được Chúa xót thương đổi mới”, để hằng ngày “bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, Nguồn Vui của lòng con” (Tv 42,4).
Chúa nhật thứ III Mùa vọng thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Đó là niềm vui ơn MV 3-C158
Chúa nhật thứ III Mùa vọng thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Đó là niềm vui ơn cứu độ mà chúng ta được lãnh nhận từ Đức Kitô, chứ không từ bất cứ quyền lực nào; đó là niềm vui siêu việt mang tính vĩnh cửu, chứ không phải niềm vui phàm tục chóng qua. Lời kêu gọi “Hãy vui lên!” được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Ngôn sứ Xôphônia kêu gọi “thiếu nữ Sion”, tức là dân Chúa, hãy vui lên vì Thiên Chúa đang ngự đến giữa họ. Thánh Phaolô hô hào: “Vui lên anh em!…Anh em hãy vui trong niềm vui của Chúa”: Gaudete in Domino. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã ban hành Tông huấn “Gaudete et exultate” (Hãy vui mừng và hoan hỉ). Đó là niềm vui nên thánh, niềm vui của những người sống trong Chúa và sống cho mọi người.
Nhưng vui sao được nếu lòng ta vẫn còn xa cách Chúa và tha nhân, vẫn còn đầy những bon chen và rối ren trần tục, vẫn còn những ngổn ngang, bất hòa và tranh chấp, vẫn còn vô tâm trước những tình cảnh khốn khó của người khác. Cần phải thay đổi một lối sống mới, ta mới có thể đón nhận niềm vui ơn cứu độ. Bởi vậy, khi dân chúng đến với Gioan nhận phép rửa sám hối thì họ đã hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Phải làm gì, là điều quan trọng và thực tế nhất đối với ai muốn thực tâm hoán cải. Khi bị ngã ngựa trên đường Đamas, Phaolô cũng đã thân thưa: “Lạy Chúa, con phải làm gì?” (Cv 22, 10).
Gioan đã chỉ cho dân chúng những điều cụ thể là phải chia cơm sẻ áo cho người túng thiếu; tránh mọi thứ tham lam vơ vét; càng không được dùng quyền hành để đè nén hay áp bức người khác, luôn an vui với phận mình, không bị lệ thuộc vào tiền tài vật chất mà đánh mất nhân cách. Thật ra, sám hối theo ý nghĩa của Kinh Thánh, không chỉ ở chiều kích luân lý (bỏ điều dữ làm điều lành), nhưng cơ bản là chiều kích thần học: Thiên Chúa mới chính là nền tảng và mục đích của việc sám hối. Ta không chỉ đơn thuần sửa chữa những lầm lỗi thiếu sót, mà cơ bản là sự trở về với Thiên Chúa, nhận ra thân phận thụ tạo của mình và qui hướng tuyệt đối về Ngài, vì ân ban cứu độ là chính Chúa chứ không phải chỉ là một ơn lành nào đó để giải quyết tình trạng cụ thể.
Thế nhưng việc trở về với Thiên Chúa phải được diễn tả qua việc trở về với anh em, đòi ta phải chỉnh đốn lại đời sống mình trong tương quan với tha nhân. Gioan không bắt những người thu thuế bỏ cái nghề bị coi là xấu xa; cũng không đòi những người lính Do thái bỏ phục vụ Hêrôđê; càng không đòi họ phải tu tập và sống nhiệm nhặt như ông, nhưng đòi họ sống một tinh thần mới, là tinh thần của con cái Thiên Chúa và anh em với nhau, trong việc thực thi công bình và bác ái.
Những chỉ dẫn của Gioan vẫn còn nguyên giá trị cho chúng ta hôm nay, đặc biệt là các bạn trẻ đang bước vào đời, đang tìm một định hướng sống và một thái độ sống có ý nghĩa. Chỉ với trái tim yêu thương đi vào đời ta mới làm nên cuộc đời mình. Cũng vậy, chỉ có thể sống trong niềm vui của Thiên Chúa khi ta biết cho đi, biết chia sẻ, biết dâng tặng thời giờ, công sức, tiền của và có khi cả danh giá của mình. Niềm vui của ta không phải là niềm vui của thế gian chạy theo danh lợi, hay thỏa mãn những đam mê trần tục, mà là niềm vui của những người dám bỏ ý riêng mình để sống theo ý Chúa, có khả năng đem lại ích lợi và an vui cho anh chị em xung quanh mình hằng ngày.
Mùa vọng là thời gian ta chờ Chúa đến, nhưng đừng quên chính Chúa đã chờ đợi ta trước khi ta chờ đợi Ngài; Đấng đã hy vọng về ta để ta biết hy vọng vào Ngài. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người có sa ngã, phản bội. Ngài vẫn lớn hơn mọi tội lỗi của chúng ta. Cho dù con người có tệ bạc thế nào thì vẫn mang trong mình hình ảnh và sự sống của Thiên Chúa, Đấng mời gọi con người bức phá mọi trói buộc của tội lỗi để sống thuộc về Ngài.
Nếu ta đặt hy vọng vào Thiên Chúa và nếu trái tim ta biết rung động trước tình yêu vô vàn của Ngài, thì ta cũng sẽ trở nên người gieo hy vọng cho người khác. Người gieo hy vọng không thể mang tính cách nào ngoài tính cách của Đức Kitô: tính cách của con người dấn thân phục vụ và dám hy sinh chính mình vì tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Thú vui hôm nay thật quá nhiều, đang từng ngày lên tiếng vẫy gọi con, nhiều bạn trẻ đang chạy theo nô nức, bản thân con cũng háo hức nôn nao.
Nhưng rồi những niềm vui ngoài Chúa, chỉ làm cho hồn thêm trống vắng, để lại những cay đắng lỡ làng, càng làm cho con phải hoang mang.
Con quyết tâm gạn lọc bản thân mình, khỏi những đam mê phàm tục, khỏi những thú vui phàm hèn, để giữ tâm hồn thanh tịnh, với những niềm vui thanh khiết.
Xin cho con luôn thanh thản vui cười: nụ cười trong sáng và hồn nhiên, nụ cười an bình và hạnh phúc, vì đời con luôn có Chúa ở cùng.
Xin cho con đừng ngại ngùng tiến bước, giữa gian nan và thử thách trên đường, để đem lại niềm vui và hy vọng, cho bao người đang sống kiếp long đong.
Xin cho con cứ khơi sâu nới rộng, niềm vui của Chúa ở trong lòng, lan tỏa đến những người đang khát mong, để ai gặp con cũng có thể tìm gặp Chúa, là niềm vui sự sống của đời mình.
Xin cho con biết sống thân tình với Chúa, đừng chạy theo những lôi kéo bên ngoài, đừng đoái hoài đến những cái mau qua, đừng ham thích những gì là mới lạ, nhưng khám phá ra chính Chúa là tất cả, để con luôn trong tâm thế sẵn sàng, đón chờ Chúa đến trong niềm hân hoan. Amen.
Hành trình của người Kitô hữu không bao giờ là hành trình thê lương, sầu thảm của người tù bị MV 3-C159
Hành trình của người Kitô hữu không bao giờ là hành trình thê lương, sầu thảm của người tù bị kết án chung thân ngày qua ngày lê lết “cái chết được triển hạn”, hay như hành trình trĩu nặng hình phạt của thời gian mà người tử tội phải mòn mỏi chịu đựng đến phát điên trong phòng biệt giam với đôi chân ngày đêm bị cùm cho đến giây phút bất ngờ bị đem đi hành hình. Trái lại, con đường của người môn đệ đi theo Đức Giêsu là con đường vui, con đường tràn đầy hy vọng, không chỉ vì được sinh ra từ Thiên Chúa, “Đấng là Nguồn Vui” (Tv 42,4); được nuôi dưỡng bởi Thánh Thần, Đấng làm phấn khởi, hoan lạc tâm hồn (x. Cv 5,41), vì “hoa trái của Thánh Thần là niềm vui” (Gl 5,22), mà còn vui vì được yêu thương, đổi mới do lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ vô cùng nhân hậu đang đến và cư ngụ giữa dân Ngài.
Quả thực, niềm vui của tâm hồn Kitô hữu, niềm vui của người có Đức Giêsu đang tưng bừng nở rộ trong bầu khí đón mừng Chúa đến được loan báo, công bố, reo vang trong các bài đọc phụng vụ của chúa nhật “màu hồng”, chúa nhật của niềm vui Hy Vọng.
Ngôn sứ Xôphônia trong bài đọc thứ nhất nhấn mạnh hai lý do cho phép chúng ta được vui trong Chúa, đó là “Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài”, bởi nếu có Thiên Chúa ở cùng, thì “sẽ chẳng còn tai ương nào khiến dân Ngài phải khiếp sơ” (x. Xp 3, 15), và “Thiên Chúa lấy tình thương của Ngài mà đổi mới dân Ngài” (x. Xp 3,17).
Thiên Chúa ở giữa, ở với, ở cùng dân Ngài, mà lại ở với tình thương, lòng nhân hậu, độ lượng, bao dung thì hỏi sao dân Chúa không vui mừng hoan hỷ, không “nhảy múa tưng bừng như trong ngày hội” (x. Xp 3, 17-18). Như thế, niềm vui bắt nguồn từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính vì thương xót mà Thiên Chúa đã “cắm lều ở giữa loài người chúng ta” và đổi mới, canh tân chúng ta.
Thánh Phaolô thì nhắn nhủ chúng ta hãy vui luôn trong Chúa. Nhưng để vui luôn, chúng ta phải tín thác ở Chúa, đặt để trong tay Chúa mọi khó khăn, mọi hoàn cảnh và tuyệt đối trông cậy ở Chúa là Cha nhân hậu luôn lắng nghe con cái kêu xin, thỉnh cầu. Có như vậy, niềm vui trong Chúa ở chúng ta mới tồn tại vững bền, vì được ăn rễ sâu trong bình an của Thiên Chúa bằng kết hợp với Ngài.
Và để niềm vui ở người môn đệ trở thành niềm vui mang ơn cứu độ, niềm vui mưu ích cho phần rỗi, thánh sử Luca đặt chúng ta vào cốt lõi của lời kêu gọi xám hối trở về của Gioan Tẩy Giả. Cốt lõi ấy không chỉ là thay đổi tâm tình, sửa đổi cách sống, mà còn phải thực hành chọn lựa đổi mới ấy bằng tránh dùng quyền lực mà cư xử bất công, bất chính đối với tha nhân, nhưng thực thi điều công chính: “chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta” (Lc 3,14); bằng nếp sống giản dị, đơn sơ, “đừng đòi hỏi gì qúa mức ..”(Lc 3,13); bằng chia sẻ cơm áo với người đói rách, cùng khổ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3, 111).
Như thế, niềm vui trong Thiên Chúa mà chúng ta tìm không là niềm vui thụ động, lười biếng, ích kỷ, hưởng thụ, nhưng là niềm vui “ra khỏi mình, vượt qua cái tôi”, niềm vui hướng về Thiên Chúa khi phó thác vào lòng thương xót của Ngài, cũng là niềm vui chia sẻ, khi quảng đại trao ban và dấn thân hy sinh phục vụ mọi người.
Xin Chúa cho chúng con ý thức mình là con cái đến từ tình yêu Thiên Chúa, mà tình yêu thì không sợ hãi, “vì sợ hãi gắn liền với hình phạt” (1 Ga 4,18), nhưng từng giây phút cuộc đời luôn sống niềm vui “có Chúa ở cùng, được Chúa xót thương đổi mới”, để hằng ngày “bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, Nguồn Vui của lòng con” (Tv 42,4).
Tâm tình chính của Chúa nhật III Mùa Vọng[1] là: đấng Tiền hô làm chứng cho Đức Giêsu. Chúa MV 3-C160
Tâm tình chính của Chúa nhật III Mùa Vọng[1] là: đấng Tiền hô làm chứng cho Đức Giêsu. Chúa nhật trước, phụng vụ kêu gọi chúng ta cất đi những trở ngại để chính mình “nhìn – gặp” được Chúa; nghĩa là tự sửa mình. Tiếp tục sửa đổi mình, chúng ta tiến thêm một bước: sống lành, tránh tội để nên giống Chúa và trở thành những chứng nhân của Đức Kitô cho người khác.
Gợi ý qua các bài đọc:
a) Phải thay đổi cách sống
Mùa Vọng nhắc chúng ta tưởng niệm Chúa đã đến và sự trở lại của Ngài trong giờ kết thúc lịch sử. Tin Mừng hôm nay nói về cuộc sám hối, nghĩa là thay đổi tận căn về thái độ sống. Sau những lời loan báo “nảy lửa” của Gioan Tẩy giả, đám đông đã kêu lên: “Vậy chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3,10). Thật không còn chịu nổi những đau buồn tự nội tâm, nhất là những nổi buồn mà tội lỗi ta đã gây ra cho người khác. Cuộc hối cải phải kèm theo những việc sám hối cụ thể liên quan đến những tội lỗi đã phạm. Chính vì vậy mà Gioan đã nói cho từng hạng người: người giàu phải chia sẻ, người thu thuế không được tham lam hối lộ, lính tráng đừng quá cộc cằn thô bạo (x. Lc 3,11-14).
b) Sám hối tích cực: làm lành (chu toàn)
Từ “sám hối” được dịch từ tiếng Hy lạp có nghĩa là thay đổi nội tâm, từ bên trong. Một vài cách “thực hiện” sám hối: trong gia đình, hãy chu toàn những trách nhiệm thường ngày của mình; và từng giây phút, ngày qua ngày, luôn tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Đời sống cộng đoàn, hãy phát huy tính huynh đệ. Cộng đồng giới trẻ hãy đề cao những lý tưởng cao thượng,…
c) Sám hối tiêu cực: lánh dữ (hy sinh)
Ngoài ra, sự sám hối còn bao hàm cả những hy sinh bản thân để đề cao những giá trị hoặc sự dấn thân Kitô giáo. Những hy sinh đó có thể là: các linh mục phải đề phòng những nguy hiểm cho đời độc thân; vợ chồng biết hy sinh nhường nhịn; các luật sư tránh những hối lộ bất công; y bác sĩ tránh phá thai; các chủ nhân không khấu hao tiền lương… Cấp độ lớn hơn: các quốc gia giàu phải có nghĩa vụ chia sẻ với các quốc gia nghèo đói.
Những cách thế sám hối này đang mở cửa trời: Đó là sứ điệp Gioan Tẩy giả loan báo.
Sống tâm tình của Thánh Giuse
Chúa Nhật trước (CN II MV-C), những từ trong lời khẩn cấp mời gọi của Gioan Tẩy giả: “Sửa lối, uốn ngay, san phẳng, lấp đầy, bạt đi”; nghĩa là tự sửa đổi tâm hồn để “con nhìn Chúa, Chúa nhìn con”. Chúng ta đã nói đến việc Thánh Giuse tự ổn định lòng mình trước thánh ý của Chúa. Tuần này chúng ta thấy Thánh Giuse cũng thật đau lòng khi phải khó xử “dọn” những ngày rất gần để Chúa sinh ra. Xin trích lại 2 trong “Bảy sự đau đớn và vui mừng của Thánh Giuse” (Gp Hà Hội)[3].
a) Thánh Giuse thấy Đức Bà có thai (phải chuẩn bị) Ngắm thứ nhất: “Ngắm khi ông Thánh Giuse thấy Đức Bà có thai, mà chẳng hiểu sự ấy làm sao, thì lấy làm đau đớn khốn cực lắm. Nhưng mà khi thánh Thiên thần hiện đến bảo cho Người biết Đức Bà có thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Con Đức Bà sinh ra là Chúa Cứu thế ra đời chuộc tội thiên hạ, thì Ông Thánh Giuse lấy làm yên ủi vui mừng biết là dường nào”.
Đau buồn, bỡ ngỡ trước sự kiện lạ lùng. Nhưng được báo mộng, Giuse đã “làm ngay”: đón nhận và thu xếp mọi việc để chuẩn bị cho Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Nhìn lại cuộc sống, Chúa không hiện ra với chúng ta. Nhưng mỗi người cũng đã mường tượng ra địa vị, trách nhiệm của đời sống mình. Là người giáo dân hay người tận hiến, chúng ta đã xác tín: Tôi không chỉ là tôi; nhưng tôi chỉ là tôi “trong tương quan” với Thiên Chúa. Chúng ta đã làm gì để gọi là “dọn đường” cho Chúa vào hồn tôi, nhất là trong những ngày đặc biệt này.
b) Thánh Giuse chuẩn bị hang đá (chuẩn bị cấp tốc)
Ngắm thứ hai: “Ngắm khi Đức Bà ở thành Belem đã đến ngày sinh mà ông thánh Giuse chẳng tìm được nhà trọ, phải đem Đức Bà vào hang đá, ở làm một với bò lừa, thì lấy làm buồn bã khốn cực lắm; nhưng mà khi Người nghe tiếng các thánh thiên thần bởi trời mà xuống hát mừng Chúa Cứu thế ra đời, thì vui mừng biết là dường nào”.
Chúng ta cũng đã tìm hiểu trong phần “Phương cách Thánh Giuse nhìn ra Chúa” (tuần trước).
Phải chọn hang bò lừa, chẳng còn cách nào hơn! Thánh Giuse cũng phải vất vả dọn trong hang, dẹp ngoài hang để bảo đảm cho một người mẹ sắp sinh. Dọn bên ngoài, nhưng bên trong tâm hồn, Thánh Giuse tự cảm thấy mình phải cư xử hết sức sao cho phù hợp với tâm tình của Mẹ Maria lúc đó.
“Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày. Linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây. Thiên dàng chớm nở, chớm nở ngay dưới thế. Tháng năm hoan lạc trôi từ đây” (Bài hát Giêsu Khoan Nhân, Lm. Tiến Dũng – Lm. Nguyễn Văn Tuyên). Cuộc sống thiêng liêng của chúng ta mỗi ngày sẽ mỗi khác, khi liên kết với những tâm tình của Thánh Giuse và Mẹ Maria. Cố gắng nghe được “tiếng đàn lòng” (tâm tình) của các ngài và hồn mình cũng hòa nhạc theo; thật hạnh phúc cho ta!
Hãy sống Tuần thứ III Mùa Vọng này bằng tâm tình của các Đấng khi chuẩn bị cho sự ra đời của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ gần Chúa Giáng Sinh hơn.
Suy nghĩ và cầu nguyện
Đến hôm nay, hang đá máng cỏ, chiên lừa chắc đã được trưng bày; mới chỉ là “điều cần”theo thói quen đạo đức bình dân. Hãy làm những việc đó nhưng với tâm tình của Thánh Giuse và Đức Mẹ, mục đồng, kể cả bò lừa; đây mới là điều “cần và đủ” để chúng ta có được tâm tình dọn đường cho Chúa Giáng Sinh.
Không chỉ là Mùa Vọng khi hiểu động từ “dọn đường cho Chúa đi vào hồn ta”. Bất cứ một mầu nhiệm nào của Đức Kitô hoặc của Thiên Chúa, đều phải trở thành sinh động bằng “trí – tâm”và dẫn đến hành động cụ thể trong đời sống để chúng ta trở thành chứng nhân của Ngài. —---------------
[1] Cách riêng Chúa nhật III Mùa Vọng sử dụng lễ phục màu hồng và được biết đến như Chúa Nhật mừng vui bởi vì trong tiếng Latinh, những lời đầu tiên của phần mở đáp ca là “Gaudete in Domino Semper” (Luôn mừng vui trong Chúa). [2] Lược dịch KEPHAS, sđd. [3] Trích nguồn: https://tgpsaigon.net/bai-viet/bay-su-dau-don-va-vui-mung-thanh-giuse-40577
Phụng vụ Chúa nhật III Mùa Vọng có hai điều lạ: một là nơi màu áo lễ, màu hồng hy vọng, hai MV 3-C161
Phụng vụ Chúa nhật III Mùa Vọng có hai điều lạ: một là nơi màu áo lễ, màu hồng hy vọng, hai là những lời mời gọi hãy vui lên: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion” (bài đọc 1), “Anh em hãy vui luôn” (bài đọc 2) và dân chúng kéo đến gặp Gioan xin chỉ giáo phải làm gì, họ muốn tìm niềm vui đích thực sau khi đã dọn con đường tâm hồn bằng việc hoán cải (bài Phúc âm).
“Chúng tôi phải làm gì?”
Tin Mừng hôm nay kể chuyện, lời của Gioan đạt kết quả cụ thể là có nhiều người phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống cũ. Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Họ xin ngài chỉ dẫn cách phải sống và việc phải làm.Tùy từng người mà Gioan khuyên bảo việc làm cụ thể:
– Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.
– Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.
– Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Các lời khuyên của Gioan khuyến khích mọi người thực hiện công bằng bác ái và sống chính trực. Công bằng là sống đúng luật pháp: “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”; Chính trực “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”; Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”.
Thánh Gioan rất thực tế và có những giải pháp thích ứng với từng hoàn cảnh, từng hạng người. Gioan không bảo mọi người hãy sống như ngài hoặc gia nhập nhóm của ngài. Gioan không yêu cầu ai phải làm gì khác thường, cũng không đòi hỏi họ phải đổi nghề nghiệp hay đổi chỗ ở, nhưng ngài khuyên : dù ở hoàn cảnh nào cũng phải biết thắng dẹp tính vị kỷ, bằng cách làm việc bác ái, chia sớt với anh em mình, đó là cách sám hối tốt nhất. Gioan khuyên họ phải bằng việc làm cụ thể mới trở thành người biết yêu thương và đáng mến.
Những điều Gioan nói quả thật không giống với những gì người ta quen hiểu về hai chữ “hy vọng”: người ta hy vọng là hy vọng rằng mình sẽ được thêm. Còn Gioan thì dạy phải bỏ bớt: đừng đòi thêm, đừng chiếm đoạt vào, hãy đem những gì mình đang có mà chia sẻ. Mặt khác, người ta hy vọng là thu thêm cho mình những gì từ bên ngoài vào. Còn theo Gioan, hy vọng là mong giải thoát bớt những thứ cồng kềnh đang chất nặng trong lòng mình. Sứ điệp của Gioan là: Hãy chia sẻ; Đừng đòi hỏi quá mức ấn định; Hãy biết bằng lòng.
“Chúng tôi phải làm gì?”. Dân chúng hỏi Gioan Tẩy Giả ở bờ sông Giođan. Sau lễ Hiện Xuống, đám đông cũng đặt câu hỏi ấy với thánh Phêrô: “Chúng tôi phải làm gì?”. Đó cũng là một cách nhắc lại rằng, đức tin phải thực tiễn và sống động. Chúa Giêsu dạy: “Không phải những người nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, nhưng là những người thực hiện ý muốn của Cha Ta” (Mt 7,21). Ngài luôn đòi hỏi bằng việc làm cụ thể: “Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? …Đức Giêsu đáp: Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (x.Mc 10, 17-27). Người nghe mà không làm thì giống như người xây nhà không nền móng (Lc 6,49).Trong cuộc đối thoại với một luật sĩ, Ðức Giêsu đã bảo ông: “Hãy làm như vậy và ông sẽ được sống” (Lc 10,28). Sau dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Ngài còn dặn ông: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37).
“Lạy Chúa, con phải làm gì?”. Đây là câu nói đầu tiên của thánh Phaolô sau cú ngã ngựa trên đường đi Đamát (x.Cv 9,1-19). Phaolô được biến đổi và trở thành vị Tông đồ chuyên lo rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Từ đây cuộc đời của thánh nhân đã viết nên thiên anh hùng ca, sống và chết cho Đức Kitô.
Đối với chúng ta ngày nay, lời khuyên của thánh Gioan rất thiết thực trong những ngày chờ đón Chúa giáng sinh. Mỗi người hãy tự đặt câu hỏi: “Còn tôi, tôi phải làm gì ?”. Cách trả lời của Gioan còn nguyên giá trị: mỗi người hãy sống đúng cương vị của mình, hãy hoàn thành trách nhiệm của mình, hãy thực thi tình bác ái huynh đệ và sống trong tương giao tốt đẹp với mọi người. Gioan không đòi những điều kì diệu, nhưng rất đơn giản và thực tế. Người dấn thân phục vụ thì sống đời tận hiến.Người có gia đình được mời gọi sống yêu thương, trung thành. Người thương gia ngay thẳng, người quản lý tín trung.Người làm công chu toàn bổn phận, người chủ quảng đại khoan dung.Người có hai áo thì chia cho người không có áo mặc.Người có quyền thì yêu thương đùm bọc kẻ dưới. Ai nấy sống đúng chức phận của mình trong công lý và tình yêu. Đó là thay đổi lối sống: nhân đạo hơn, công bình hơn, liên đới hơn…
“Chúng tôi phải làm gì?” là câu hỏi mà mỗi Kitô hữu phải đặt ra cho mình. Gioan đã gợi ý ba điều: – một cuộc sống luôn biết chia sẻ; – một thái độ biết an vui với những gì hiện có; – một nỗ lực không để cho sự dữ và giả dối thống trị. Ba điều này vừa chung nhưng cũng áp dụng riêng cho từng đối tượng tùy theo hoàn cảnh riêng. Nếu tôi đến với Gioan, tôi sẽ nhận được đề nghị nào, và từ đó có những quyết tâm cụ thể nào tùy thuộc vào hoàn cảnh của riêng tôi, để giúp tôi thay đổi đời sống hầu đón Chúa đến?
Niềm vui Tin Mừng
Chủ đề Phụng vụ Chúa nhật III là ‘niềm vui’. Bài đọc 1 và bài đọc 2, mời gọi dân Chúa hãy vui lên. Vui vì Thiên Chúa sắp đến thực hiện ơn cứu độ. Người đến để tha thứ, để hòa giải, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tội lỗi và ma quỷ.Thánh Phaolô khẳng định niềm vui đó là niềm vui trong Chúa : Anh em hãy vui luôn trong Chúa. Niềm vui trong Chúa là niềm vui có được từ nơi Thiên Chúa. Hãy vui và vui luôn mãi trong niềm vui của Chúa. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc đời: sống hiền hòa rộng rãi với mọi người; không phải lo lắng gì cả, vì có điều gì thì cứ trình bày với Chúa; lòng trí luôn được bình an.
Niềm vui là nét tiêu biểu của người Kitô hữu, là mong ước của mọi người. Sống ở đời ai cũng mong mình có được niềm vui sống và nỗ lực đi tìm niềm vui. Người Kitô hữu xác tín rằng, niềm vui đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa. Một khi biết mình đã có Chúa thì mọi âu lo buồn phiền sẽ không còn. Càng khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, càng gia tăng niềm vui sống. Càng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống, niềm vui sống càng sâu sắc bền vững. Niềm vui trong Chúa luôn là một niềm vui gia tăng sức mạnh cho tâm hồn trước những nghịch cảnh, đau khổ của kiếp người. Niềm vui trong Chúa cũng là niềm vui biến đổi đau thương thành hạnh phúc. Niềm vui trong Chúa giúp cho mỗi người có nghị lực vươn lên vượt qua nghịch cảnh.
Là con người, ai cũng mơ ước và đi tìm niềm vui sống. Ngày nay, có nhiều người mải miết tìm kiếm những thú vui xác thịt, thú vui thụ hưởng vật chất. Có những niềm vui mà sau đó người ta cảm thấy trống rỗng buồn phiền và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó người ta mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui mà sau đó người ta lo âu hối hận. Còn người Kitô hữu đi tìm niềm vui trong Chúa. Niềm vui này là dấu hiệu của bình an nội tâm, của sự hài lòng, của tự tín, là dấu hiệu cho thấy rằng người ta đang cảm thấy được an toàn, được đón nhận, được yêu mến. Một người Kitô hữu mà sống bi quan chán chường, thất vọng buông xuôi, ấy là dấu hiệu có điều gì đó không ổn về đức tin.
Hạnh phúc là niềm vui. Khi người ta vui thì hạnh phúc. Khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, thật dễ hiểu. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng.
Niềm vui chỉ thực sự có khi có tình yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi được tình yêu của Thiên Chúa tiếp sức, con người ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương.
Niềm vui Tin Mừng là có trong tâm hồn chính Chúa Giêsu. Đó là động lực thúc đẩy chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa qua cuộc sống của mình.
“Chúng tôi phải làm gì?“. Mùa Vọng này, mong sao những thao thức sẽ biến thành việc làm cụ thể, đời sống chúng ta sẽ luôn màu hồng và tâm hồn chúng ta chan chưa niềm vui Tin Mừng.
Hai chữ Mùa Vọng từ lâu đã lưu lại một tiếng vang trong tâm hồn ta. Mỗi lần Mùa Vọng về, ta MV 3-C162
Hai chữ Mùa Vọng từ lâu đã lưu lại một tiếng vang trong tâm hồn ta. Mỗi lần Mùa Vọng về, ta lại được hối thúc hãy hoán cải, sửa đổi đời sống cách quyết liệt hơn để đón Chúa đến. Ta hiểu rằng mình cần phải trở lại đường ngay nẻo chính, phải trở về với Chúa. Chỉ có lòng ước muốn thôi thì chưa đủ, ta cần phải hành động bằng cách từ bỏ như Chúa mời gọi. Nhận ra một lời mời gọi hoán cải thì không khó lắm, vì khi nhìn vào cõi lòng mình, ta sẽ được Chúa chỉ cho biết rằng mình chưa trở nên người môn đệ như Chúa muốn. Thế nhưng, để hành động trong từng trường hợp cụ thể thì ta lại chần chừ và thiếu cương quyết. Ta cũng hãy khiêm nhường tìm đến với những Gioan của ngày hôm nay để hỏi xem: “Tôi phải làm gì?”. Và đã bao giờ ta ý thức vai trò ngôn sứ của mình trong đời sống chưa?
Trước lời loan báo “Hãy dọn đường cho Đức Chúa” của ông Gioan Tẩy Giả, đám đông dân chúng kéo đến với ông. Lời nói của ông thực sự lôi cuốn họ, làm cho họ phải tự vấn lòng mình, thấy được mình cần phải thay đổi đời sống. Họ biết mình phải thay đổi đời sống để đón Đấng Mêsia nhưng không biết rõ mình thật sự phải làm gì. Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3, 10). Ông nói cho họ biết điều họ phải làm là thực thi lẽ công bình và bác ái. Dù họ là ai, chỉ cần họ thật lòng muốn trở về với Chúa, ông đều hướng dẫn cách tận tình mà không từ chối một ai. Họ là thường dân ư, ông chỉ cho họ cách sống tình yêu thương đồng loại, chia sẻ cơm bánh và quần áo cho người không có. Cả những người thu thuế cũng tìm đến xin ông làm phép rửa. Ông không kết tội họ nhưng khuyên họ đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình. Cả những binh lính cũng tìm đến và hỏi: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Lc 3,14). Bên bờ sông Giođan, đoàn người cứ lũ lượt tìm đến với ông Gioan. Người ta không dành nhau quyền lợi, không dè bỉu hay chê trách kẻ khác. Ai cũng tự nhận thấy mình cần phải thay đổi đời sống, ai cũng muốn biết mình cần phải làm gì để xứng đáng chờ đón Đấng Mêsia. Dường như khi người ta nhận ra lỗi lầm của mình, nhìn nhận tình trạng khốn cùng của mình với lòng đơn sơ, khiêm tốn và chân thành, người ta cũng sẽ có lòng yêu thương người khác, đón nhận người khác. Còn ta, ta đã yêu thương người khác như thế nào?
Về phần mình, ông Gioan Tẩy Giả hiểu cõi lòng của đám đông dân chúng: họ đang trông ngóng Đấng Mêsia. Theo lệnh của Đức Chúa, ông thực thi sứ vụ ngôn sứ của mình với lòng nhiệt thành, quảng đại, với một khát mong duy nhất: Tin Mừng được loan báo cho muôn người, để muôn người trở về với Đức Chúa. Dân chúng nghĩ rằng ông chính là Đấng Mêsia. Họ nhận thấy sự thánh thiện toát ra nơi chính con người và cuộc sống của ông. Họ hy vọng ông chính là Đấng phải đến. Được lòng dân chúng yêu mến, kính trọng và tin tưởng, ông Gioan Tẩy Giả đã không vì thế mà quên mất vị trí và sứ vụ của mình. Ông cho họ biết: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,16). Ông tự nhận mình là kẻ mọn hèn, không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng sẽ đến. Ông lùi lại để Đấng ấy được lớn lên, được tôn vinh. Ông hiểu rõ niềm hy vọng mà dân chúng đặt nơi mình và ông hướng họ đặt niềm hy vọng vào Đấng sẽ mang đến cho họ niềm hạnh phúc đích thực, Đấng sẽ giải thoát họ, sẽ tẩy trừ mọi tội lỗi của họ. Nhìn vào tấm lòng khiêm nhường của ông, ta cũng tự hỏi lòng mình: “Trong vai trò là một ngôn sứ, tôi có đang làm mọi việc để vinh danh Chúa hay không?”.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương con. Gẫm suy lời Chúa, con nhận thấy mình được hối thúc làm gì đó để thay đổi đời sống, trổ sinh hoa trái của tình yêu. Chúa cho con thấy được sự chờ mong nơi các ông bố bà mẹ đang chuẩn bị đón chào đứa con đầu lòng. Họ chuẩn những điều cần thiết cho đứa con yêu. Ngày chuyển dạ, người mẹ phải trải qua đau đớn để đứa con được sinh ra, người cha cũng lo lắng đợi chờ, và biết bao người thân cũng chung một niềm chờ mong ấy. Còn con, khi đón chờ Chúa sinh đến trần gian, Chúa giáng sinh trong lòng con, con đã chuẩn bị được gì? Con có sẵn sàng trải qua những đau đớn để Chúa được sinh ra hay không? Xin Chúa thánh hóa tâm hồn con. Amen.
Tin Mừng thánh Luca thuật lại việc dân chúng lũ lượt kéo đến với ông Gioan để xin ông làm phép MV 3-C163
Tin Mừng thánh Luca thuật lại việc dân chúng lũ lượt kéo đến với ông Gioan để xin ông làm phép rửa. “Chúng tôi phải làm gì?” là câu hỏi được nhiều người quan tâm nhất. Ông Gioan đã có những chỉ dẫn cụ thể cho từng đối tượng. Đó là một tín hiệu đáng mừng vì dường như mọi người đang thao thức thay đổi lối sống của mình để có thể đón chờ Đấng Mêsia. Trong thâm tâm ai nấy đều tự hỏi: “Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia”. Trước những thao thức ấy, ông Gioan giới thiệu cho họ Đấng Mêsia đích thực: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3, 16).
“Ai có hai áo, thì chia cho Người không có; ai có gì ăn thì cũng hãy làm như vậy; đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh; chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của mình” (Lc 3, 10). Đó là những việc cần phải làm mà ông Gioan đã hướng dẫn dân chúng, binh lính và những người thu thuế. Những chỉ dẫn đó vẫn còn rất thiết thực cho đời sống hôm nay. Bác ái là lối sống đẹp mà mỗi người chúng ta cần làm cho nhau. Chúng ta được mời gọi nhìn sang trái, nhìn qua phải, nhìn lại sau lưng và nhìn về phía trước để thấy anh chị em của chúng ta, nhìn thấy họ đang cần được giúp đỡ, quan tâm, chia sẻ, đặc biệt là trong hoàn cảnh khó khăn của dịch bệnh như hiện nay. Mỗi người tùy hoàn cảnh của mình mà có những sáng kiến để sống tình thần bác ái với tha nhân.
Trong thư gửi tín hữu Philiphê, thánh Phaolô khuyên mời mọi người hãy vui lên trong niềm vui của Chúa vì Chúa đã gần đến. “Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa, tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến (Pl 4, 4-5). Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu sống niềm vui cách tròn đầy khi biết rộng rãi chia sẻ và sống hiền hòa với nhau trong khi chờ đợi ngày Chúa đến. Có thể nói, cách chúng ta sống với nhau thực sự rất quan trọng vì nó diễn tả tình yêu của ta đối với nhau và nhất là đối với Thiên Chúa. Vì mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa, nên khi ta yêu thương nhau chính là khi ta đang yêu mến Thiên Chúa cách cụ thể và sống động nhất. Niềm vui của chúng ta sẽ là niềm vui đến từ Thiên Chúa.
Chúa Nhật III mùa Vọng được xem là Chúa Nhật của niềm vui, Chúa Nhật hồng. Niềm vui vì ngày Chúa đến đã gần kề. Tâm hồn chúng ta háo hức đón chờ ngày Chúa giáng sinh, đón chờ Đấng là niềm vui và bình an đích thực. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết dùng đời sống bác ái, yêu thương đối với nhau để niềm vui đón chờ ngày Chúa đến được tròn đầy và ý nghĩa hơn.
Diễn tả hình ảnh “Thiên Chúa nhảy mừng” xem ra là điều báng bổ hoặc xúc phạm, vì làm giảm MV 3-C164
Diễn tả hình ảnh “Thiên Chúa nhảy mừng” xem ra là điều báng bổ hoặc xúc phạm, vì làm giảm suy vị thế thiêng liêng cao cả của Ngài. Tuy vậy, đây là điều ngôn sứ Isaia đã được gợi hứng để phát ngôn. Thiên Chúa nhảy mừng, vì niềm vui thật lớn lao vĩ đại. Nhưng, vì cớ gì mà Thiên Chúa vui mừng đến thế? Đó là ngày chiến thắng đối với Sion, tức là đối với dân Israen, bởi vì Chúa rút lại án phạt và đẩy lui thù địch của dân tộc được Ngài tuyển chọn. Ngôn sứ còn dẫn chúng ta tới một lý do quan trọng hơn, là nền tảng cho niềm vui mừng của con người: đó là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài.
“Thiên Chúa nhảy mừng!”. Đó là cách diễn tả “như nhân”, tức là nhân cách hóa Thiên Chúa, trình bày Ngài cũng thể hiện cảm xúc như con người vậy. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường nhảy mừng khi đón nhận một tin vui, hoặc khi đạt được một điều gì mà chúng ta mong đợi. Lời Chúa hôm nay, khi diễn tả Thiên Chúa nhảy mừng, có ý khơi dạy nơi chúng ta niềm vui mừng phấn khởi, trong lúc chờ đón Chúa đến. Thực ra, Đấng Cứu thế đã đến trần gian rồi. Người đang hiện diện giữa cuộc sống của chúng ta. Người hiện diện qua Lời của Người, trong Bí tích Thánh Thể và giữa cộng đoàn cầu nguyện, như chính Người đã hứa. Lời ngôn sứ Isaia nhắc chúng ta về sự hiện diện này, để rồi, cùng với việc chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, hãy đón Chúa đến trong tâm hồn của cá nhân mỗi người. Như thế, lễ Giáng Sinh không có nguy cơ bị biến thành một sự kiện văn hóa hay một ngày lễ hội truyền thống như bao lễ hội khác ta thấy thường ngày ở nơi này nơi kia.
Nếu Thiên Chúa nhảy mừng giữa dân Người, thì mỗi chúng ta, những người Ki-tô hữu, có cảm nhận được niềm vui ấy không? Biết bao người tín hữu chỉ “giữ Đạo” một cách miễn cưỡng, chiếu lệ theo kiểu cha truyền con nối. Họ ít khi, thậm chí không bao giờ, cảm nhận được niềm vui ngọt ngào đến từ sự hiện diện của Chúa. Trái tim và đức tin mách bảo chúng ta, nơi nào có Chúa hiện diện, nơi đó tràn đầy phúc lành, vì Chúa là nguồn mạch của mọi ơn phúc.
“Niềm vui” là chủ đề chính xuyên suốt các Bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật III Mùa Vọng. Đó không chỉ là niềm vui của con người, mà là niềm vui của thiên nhiên vũ trụ và muôn loài tạo vật. Quả thế, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”. Khi con người buồn bã, tạo vật xung quanh và môi trường cuộc sống cũng nhuốm màu buồn. Ai trong chúng ta cũng đã có lần kinh nghiệm điều này. Niềm vui thiêng liêng nơi người tín hữu sẽ giúp cho cuộc sống này lạc quan hạnh phúc hơn.
Nếu Thiên Chúa nhảy mừng, thì mỗi tín hữu chúng ta được mời gọi hãy sống lạc quan, trong niềm tín thác nơi Ngài. Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Philipphê, lưu ý các tín hữu đừng lo lắng gì cả, nhưng hãy tạ ơn Chúa và giãi bày trước tôn nhan Ngài những nhu cầu, những trăn trở lo toan của cuộc sống. Đối với nhiều người hôm nay, lời khuyên này xem ra có vẻ lý thuyết và vô nghĩa. Làm sao sống vô tư lạc quan khi có một người thân bệnh nặng, hoặc gia đình đang hoạn nạn thiếu thốn nợ nần? Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, Chúa có phương pháp và đường lối của Ngài. Rất nhiều người đến với Chúa và đã được Ngài đỡ nâng, có thể không đem lại kết quả trực tiếp và không theo cách họ muốn, nhưng chắc chắn Ngài là Cha nhân hậu, biết những người con đang cần gì, và Ngài đã ra tay giải cứu.
Hãy đến với Chúa để tìm thấy niềm vui. Tin Mừng hôm nay kể lại, có biết bao người đến với Gioan Tẩy giả. Họ thuộc đủ mọi thành phần xã hội: người thu thuế, binh sĩ, thợ thuyền. Đến với ông, mọi người đặt câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”. Ông Gioan đã tùy từng người, từng nghề nghiệp, mà đưa ra những lời khuyên cụ thể. Tựu trung mọi lời khuyên đều giúp họ hoán cải canh tân đổi mới cuộc đời. Đó là điều kiện căn bản để được gặp Chúa và để tìm thấy niềm vui. Để chuẩn bị đón Chúa vào tâm hồn nhân dịp lễ Giáng Sinh, mỗi chúng ta cũng tự đặt câu hỏi : « Tôi phải làm gì đối với Chúa và đối với anh chị em xung quanh ? ». Câu hỏi này giúp ta xác định mình đang đi về đâu, đồng thời mời gọi chúng ta trở về với Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm vui Chúa ban cho những ai yêu mến Ngài. Đời sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là gương mẫu cho chúng ta về sự khiêm nhường. Khi nói về Đấng Cứu độ, ông tự coi mình chỉ là đầy tớ, không xứng đáng cởi quai dép cho Người. Trước những người đang tò mò đặt câu hỏi về thân thế của mình, ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Sa mạc là nơi vắng bóng người, chỉ có nắng và gió. Lời nói trong sa mạc dễ bị mất hút trong khoảng không gian mênh mông. Gioan Tẩy giả kêu gọi mọi người sám hối theo lệnh truyền của Chúa. Chứng từ khiêm tốn của ông đã lay động con tim nhiều người và thúc đẩy họ đến dìm mình trong dòng nước để được ơn tha thứ.
Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau nơi hang đá máng cỏ. Trời với đất nên một nơi Hài nhi Giêsu. Đón nhận Chúa Cứu Thế là đón nhận niềm vui. Hình ảnh Thiên Chúa nhảy mừng gợi hứng cho chúng ta sống niềm vui và loan báo niềm vui cho những người xung quanh. Quả vậy, « niềm vui được chia sẻ thì càng được nhân lên ». Nếu chúng ta biết rao truyền niềm vui cho những người khác, thì niềm vui ấy càng lớn mãi, tỏa sáng và âm vang đến mọi ngõ ngách của cuộc đời.
Mỗi thứ bệnh đều cần được điều trị bằng những thứ thuốc khác nhau. Nhiễm trùng thì phải dùng MV 3-C165
Mỗi thứ bệnh đều cần được điều trị bằng những thứ thuốc khác nhau. Nhiễm trùng thì phải dùng đến các loại kháng sinh, sốt cao thì cần những thứ thuốc hạ nhiệt, còn ung thư thì cần phải xạ trị hoặc phẫu thuật cắt bỏ khối u, vân vân…
Tuy nhiên, đối với các chứng bệnh của tâm hồn con người như tham lam, ích kỷ, gian dối, kiêu căng, áp bức, hận thù… thì không có loại dược phẩm nào trên khắp thế giới có thể điều trị được mà cần phải nhờ đến những phương dược do Thiên Chúa đề ra. Chính Chúa Giê-su và các sứ giả Ngài sai đến là những bác sĩ tinh thần kê toa điều trị những chứng bệnh này.
Gioan tẩy giả là một trong những bác sĩ tinh thần đó.
Đối với người khá giả mắc bệnh ích kỷ, tham lam… thì Gioan tẩy giả kê toa: “Hãy chia cơm sẻ áo cho người khác” (Luca 3, 11).
Đối với người thu thuế mắc chứng nhũng nhiễu dân lành thì ngài điều trị bằng lời răn dạy: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Luca 3, 13).
Đối với người quyền lực mắc chứng ức hiếp dân lành và tham nhũng thì ngài điều trị bằng lời răn bảo: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Luca 3, 14).
Nói tóm lại, đối với những căn bệnh tâm hồn do tội lỗi gây ra, thì không thứ thuốc nào trên thế giới này có thể điều trị được mà cần nhờ đến lời răn của Thiên Chúa là thứ thuốc kiến hiệu nhất.
Chúa Giê-su là lương y hàng đầu
Chúa Giê-su đến trần gian làm người và vai trò quan trọng bậc nhất của Ngài là làm Thầy thuốc cứu chữa đủ thứ bệnh nhân.
Ngài đã chữa vô vàn người đau yếu mắc đủ các chứng bệnh khác nhau như bại liệt, phong hủi, mù lòa, câm điếc, què quặt… bằng cách chạm đến các bệnh nhân hoặc dùng lời truyền cho bệnh tật biến mất và họ được chữa lành.
Sứ mạng của Ngài là “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi , người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại… ” (Mt 11,4).
Quan trọng hơn, Ngài quan tâm cứu chữa những con bệnh tinh thần như Gia-kêu, tên trùm thu thuế đầy tội lỗi, như người phụ nữ phạm tội ngoại tình và nhiều tội nhân khác.
Ngài tự giới thiệu mình là thầy thuốc cứu chữa những người tội lỗi như lời Ngài nói: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng người đau ốm mới cần. Tôi không đến kêu gọi người công chính nhưng là người tội lỗi” (Mc 2,17).
Hội thánh tiếp nối sự nghiệp cứu chữa của Chúa Giê-su
Chúa Giê-su truyền cho Hội thánh tiếp nối sứ mạng cứu chữa của Ngài để tiếp tục điều trị những căn bệnh của xã hội loài người, chủ yếu là những chứng bệnh tinh thần do tội lỗi gây ra. Ngài phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).
Như thế, vài trò của Hội thánh Chúa là dùng Lời Chúa như phương dược tuyệt vời để cứu chữa cho muôn người khắp nơi mang đủ thứ tội lỗi và thói hư tật xấu khác nhau.
Mỗi người chúng ta là thành viên trong Hội thánh, chúng ta phải tham gia vào sứ mạng cứu chữa của Hội thánh.
Trước hết, chúng ta phải vận dụng Lời Chúa để tự điều trị cho mình khỏi các thói hư tật xấu trước, và sau đó, chúng ta phải dùng Lời Chúa để điều trị nhiều thứ bệnh đang bùng phát, đang lây lan trong gia đình, trong xóm đạo và trong xã hội chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho nhân loại hiểu rằng các loại dược phẩm cần thiết để chữa trị các chứng bệnh thể xác thế nào thì Lời Chúa cũng cần thiết để điều trị các chứng bệnh của tâm hồn như ích kỷ, tham lam, hận thù, ghét ghen… như thế.
Và Chúa giúp chúng con hiểu rằng các y bác sĩ là những người có vai trò quan trọng trong việc chữa lành và cứu sống các bệnh nhân thì các sứ giả Tin mừng của Chúa cũng là những người có vai trò quan trọng trong việc cứu chữa những tâm hồn bị tội lỗi làm cho băng hoại.
Xin cho mỗi người chúng con trở nên những thầy thuốc tinh thần, biết vận dụng Lời Chúa để cứu chữa cho mình và cho những người chung quanh.
Trong cuộc sống, khi gặp một vấn đề khó khăn và bế tắc, mọi người thường chất vấn mình rằng MV 3-C166
Trong cuộc sống, khi gặp một vấn đề khó khăn và bế tắc, mọi người thường chất vấn mình rằng: “Tôi phải làm thế nào đây?” Nếu sự việc không được giải quyết, họ sẽ tìm ai đó để giúp đỡ. Tuy nhiên, cũng có ít người đã không thoát được sự khó khăn của mình.
Sau khi nghe những lời ông Gioan nói về việc sám hối, đám đông đã hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Ông Gioan trả lời: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; Ai có gì ăn thì cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,11). Câu trả lời của ông Gioan là một lời nhắn nhủ chung cho tất cả mọi người không có luật trừ dù là người nghèo, vì người nghèo thì chia sẻ cho người nghèo hơn mình. Trong số những người chịu phép rửa, có những người thu thuế cũng muốn được chịu phép rửa nên đã hỏi ông Gioan: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3,12). Dựa vào chức vụ của họ, ông mời gọi họ đừng đòi hỏi gì là quá mức đã ấn định cho họ. Việc quá mức là không tăng tiền thu thuế với mức đã định để thu lợi riêng. Họ không được làm những hành động ngoài phạm vi của một người thu thuế mà hãy sống công chính. Đối với người binh lính cũng vậy, họ chớ hà hiếp ai, cũng không tìm cách kiếm lợi cho bản thân. Trái lại, họ cần vui vẻ đón nhận với số tiền lương của mình (x. Lc 3,12-14).
Ông Gioan đã trả lời từng câu hỏi để cho mọi người nhận thấy việc sám hối không chỉ dừng ở lời nói “ xin lỗi” hay bằng những khuôn mặt u buồn mà còn phải hành động. Mọi người cần thể hiện lòng sám hối ngay trong các chức vụ, phận sự hằng ngày. Bạn là sinh viên ư? Hãy làm tròn một sinh viên. Bạn là cha mẹ ư? Hãy chăm sóc dạy dỗ các con của mình sống yêu thương. Bạn đang được mời gọi sống đời thánh hiến chăng? Hãy sống vui tươi và trọn lành trong lời cam kết. Bạn đang làm việc kiếm sống chăng? Hãy làm việc với hết khả năng và sự liêm chính để phục vụ anh chị em. Như vậy, việc sám hối luôn được thực hiện hằng ngày.
Thánh Phaolô đã viết: “Khi tôi muốn làm việc thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay” (Rm 7,21). Mang thân xác yếu đuối, mỗi người dễ sa vào con đường tội lỗi. Trong từng ngày sống, mỗi người nỗ lực tránh sai lầm ngay cả việc nhỏ chuyện to, và biết chạy đến với Chúa trong Thần Khí và kết hợp với Ngài bằng cách tham dự thánh lễ hằng ngày, mọi người sẽ được tràn đầy yêu thương và sự tha thứ của Chúa. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa cũng là Đấng công chính nhưng giàu lòng xót thương.
Lạy Chúa, sám hối ở lời nói thì dễ hơn việc làm. Khi đứng trước vẻ đẹp quyến rũ của trần gian mà sự xấu đội lốt, xin Chúa cho mỗi người chúng con cố gắng khước từ. Trong mọi chức vụ công việc, xin cho chúng con thực thi với tinh thần bác ái. Nhờ đó, chúng con có được một tâm hồn trong sạch, sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Amen.
Trước khi ra đồng, người mẹ trẻ dặn dò các con: Chị Hai ở nhà nhớ phơi cho mẹ bao đậu đen. MV 3-C167
Trước khi ra đồng, người mẹ trẻ dặn dò các con:
Chị Hai ở nhà nhớ phơi cho mẹ bao đậu đen. Phúc nhớ dắt trâu sang cho chú Nam mượn.
Dạ vâng ạ.
Mẹ ơi! Còn con thì làm gì?
Bé út mới năm tuổi cũng hỏi mẹ. Nghe con gái yêu hỏi, mẹ bật cười rồi âu yếm:
À! Con ở nhà chơi cho ngoan là được.
Trước một lời đề nghị hay lời mời gọi nào đó, người ta vẫn thường tự hỏi mình hoặc hỏi người khác: “Tôi phải làm gì? Sau khi nghe ông Gioan Tẩy Giả rao giảng, có rất nhiều người đến xin ông làm phép rửa, họ cũng hỏi ông: “ Chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3,10). Quả là, khi đã quen với một lối sống, người ta khó thay đổi và nhiều khi không biết phải thay đổi từ đâu. Từng ngày Chúa vẫn gieo vào tâm hồn ta, vào trí óc ta Lời của Người. Có nhiều lần lòng ta cháy lên một khao khát mãnh liệt, khao khát được đổi mới, đổi mới con người sao cho giống Chúa hơn. Ta cũng hỏi Chúa rằng: “ Lạy Chúa, con phải làm gì?” Chiêm ngắm cuộc đời của Chúa Giêsu, ta nhìn thấy con đường Chúa đã đi, ta lắng nghe được lệnh truyền của Chúa, ta thấy lối sống của Chúa. Chúa Giêsu đã nhìn thẳng vào ta bằng ánh mắt xót thương, Chúa đã yêu ta đang khi ta là tội nhân, và Chúa đã chọn ta dù ta bất xứng. Từng ngày, ta hãy năng chuyện trò cùng Chúa để biết được ta phải làm gì, để biết đâu là điều cốt yếu và căn bản của người môn đệ. Trong cầu nguyện, lao động hay học tập, Chúa vẫn chỉ cho ta đường lối phải đi. Hãy dành cho Chúa một vị trí ưu tiên trong trái tim ta, để khi ta sống, Chúa luôn hiện diện với ta như từng hơi thở và từng nhịp đập của trái tim. Bởi vì Chúa là sự sống của ta. Ta đang giữ vị trí và vai trò gì trong cộng đoàn, nơi trường học, trong công sở, … thì hãy sống hết mình, sống hết tình trong vai trò đó. Chúa đã đặt để ta vào đó là vì Chúa muốn ta thi hành sứ mạng Chúa trao phó.
Giả như ta được thành công lẫy lừng như ông Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ, ta sẽ làm gì khi được mọi người ca ngợi? Để có được sự khiêm tốn như ông Gioan Tẩy Giả, đòi hỏi ta phải biết xóa mình đi. Mọi việc ta làm, mọi điều ta sống dù có thành công mỹ mãn thì cũng là bởi ơn Chúa ban cho. Tự sức ta, ta sẽ làm được gì đây? Ông Gioan biết dân chúng coi mình là Đấng Mêssia, dù là không nói công khai. Ông ý thức vai trò của mình chỉ là “tiếng hô” mà Thiên Chúa đã chọn, là người dọn đường cho Chúa. Ông sẵn sàng rút lui, sẵn lòng chỉ cho dân chúng biết Đấng Mêsia. Khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (x.Ga 1,29). Cuộc sống của ta có trở nên một lời chứng sống động cho Chúa giữa đời không?
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Cảm tạ Chúa đã chỉ cho con biết phải làm gì để đón chờ Chúa đến. Chúa còn muốn con trở nên một lời mời gọi người anh chị em mở lòng đón chờ Chúa. Xin cho con ý thức thân phận mỏng giòn của mình, biết cậy trông nơi lòng nhân hậu của Chúa, để khi sống đẹp lòng Chúa con biết cất cao lời ngợi khen Chúa; dù có vấp ngã vì yếu đuối, xin cho con biết đứng lên với niềm hy vọng nơi Chúa. Xin cho con biết chọn Chúa trong từng chọn lựa nhỏ bé hằng ngày để Chúa là cuộc sống của con. Amen.
Chúng tôi phải làm gì?”. Đây là câu hỏi các nhà sản xuất chế tạo thường xuyên đặt ra với sản MV 3-C168
“Chúng tôi phải làm gì?”. Đây là câu hỏi các nhà sản xuất chế tạo thường xuyên đặt ra với sản phẩm của mình: Tôi phải làm gì… để cải tiến công nghệ… để nâng cao chất lượng hàng hoá? Kết quả là họ đã thực hiện được vô vàn cải tiến trong rất nhiều lãnh vực, từ máy bay siêu thanh khổng lồ cho đến những con chíp nhỏ xíu, tất cả đều được cải tiến nhanh chóng phi thường. Không chỉ trong lãnh vực công nghệ lớn lao mà ngay cả trong các mặt hàng tiêu dùng nhỏ mọn hằng ngày như cái chổi lau nhà, cái thùng rác nằm trong xó bếp, cũng luôn được cải tiến. Nói chung, tất cả mọi sản phẩm do con người làm ra, từ những sản phẩm lớn lao đồ sộ cho đến những thứ ti tiểu như cái chổi quét nhà… cũng đều được cải tiến từng giờ từng phút!
Một đất nước phát triển là nhờ kết quả của những việc làm cụ thể.
Tôi vừa đọc trên fb Đỗ Ngọc Thống có bài viết “Thưa Thủ Tướng”.
Hôm qua 8/12, Thủ tướng làm việc với tỉnh Đắk Lắk (vtc.vn/thu-tuong-dak-lak-thieu-qua-dam-thep), tại đây ông phát hiện tỉnh này còn thiếu “quả đấm thép”. Tôi đọc thấy băn khoăn, bạn tôi bảo: Có thể Thủ tướng quen nói kiểu ấy rồi và hình như không ai góp ý với ông về cách phát biểu như thế.
Rồi cậu ấy dẫn ra hàng loạt câu nói tương tự của Thủ tướng khi đến các tỉnh như: “Thanh Hoá là một Việt Nam thu nhỏ”, “Phú Yên là cô gái đẹp đang ngủ quên”, “Khánh Hoà phải là hình mẫu của một chính quyền đối thoại”, “Bắc Ninh phải là thủ phủ sản xuất điện tử sáng tạo của châu Á và thế giới”, “Bình Phước phải là thủ phủ của nông-công nghiệp cao”, “Ninh Bình phải thành một trung tâm du lịch tầm cỡ quốc tế”, “Bình Thuận phải trở thành trung tâm năng lượng sạch”, “Hà Nội phải là trung tâm khởi nghiệp sáng tạo”, “Thành phố Hồ Chí Minh phải là hòn ngọc chiếu sáng Viễn Đông”, “Đà Nẵng phải là thành phố độc đáo, độc nhất vô nhị trên toàn thế giới”, “Sóc Trăng phải là kho chứa bạc của các nhà đầu tư”, “Ninh Thuận là Tây Á thu nhỏ”,…
Ví von nhiều quá nên dễ lặp, có đến mấy tỉnh: Hải Phòng, Long An, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Cần Thơ, Bình Dương… đều “phải trở thành đầu tàu kinh tế”. Rồi Thủ tướng lại nói: “Nghệ An phải là vùng đất khởi nghiệp và thu hút nhân tài”, thế chẳng lẽ các tỉnh khác không phải thế?…
Kính thưa Thủ tướng!
Xưa nay các đấng quân vương, các vị đứng đầu quốc gia đều trị vì, lãnh đạo, điều hành đất nước bằng luật pháp và chính sách, bằng những chủ trương và các giải pháp rất cụ thể. Không ai chỉ nói hay, nói giỏi mà đất nước đi lên cả. Cũng có tuyên ngôn, nhưng rất ít và chỉ nói trong những dịp “quốc gia đại sự” để giữ được sự trang trọng, thiêng liêng. Cái chính là phải hành động.
Đức Thánh Trần từng răn: “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh;…tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai”. Ông Mác cũng đã cảnh báo: “Vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất”. Vì thế chính phủ kiến tạo và hành động của Thủ tướng chủ yếu là phải làm, phải thực thi quyết sách một cách quyết liệt; không chỉ tuyên bố; không nên tuyên ngôn nhiều. Bằng việc làm, bằng những minh chứng thật sự về thành quả phát triển của đất nước trên mọi phương diện, làm cho mong ước của Ức Trai xưa: “khắp nơi thôn cùng, xóm vắng không có tiếng oán hận, sầu than” trở thành hiện thực mới là gốc của mọi niềm tin.
Tôi chỉ là một lương dân, xin thành thực góp ý với Thủ tướng. Tôi nếu có nói sai chỉ ảnh hưởng đến mình tôi, còn Thủ tướng nếu nói dở sẽ ảnh hưởng tới cả đất nước, buồn cười cho cả đất nước. Báo chí cũng đừng vì nịnh nọt mà giật những tít bài màu mè, thớ lợ; tưởng đề cao hóa ra lại hạ thấp Thủ tướng.
Cũng biết “trung ngôn nghịch nhĩ”, nhưng vì trân trọng Thủ tướng mà đành phải nói đôi lời. (Hà Nội 9-12, Đỗ Ngọc Thống).
***
Tác giả nói thật đúng: Bằng việc làm, bằng những minh chứng thật sự về thành quả phát triển của đất nước.
Chúa Giêsu đã từng dạy rằng: “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động” (Mt 11,19). Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng việc làm, để biết ý nào là ý khôn ngoan, cần phải nhìn vào kết quả cụ thể.
Sứ điệp Chúa Nhật II, Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng sám hối dọn con đường tâm hồn. Chúa Nhật III, Tin Mừng kể chuyện, lời của Gioan đạt kết quả cụ thể là có nhiều người phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống cũ. Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Họ xin ngài chỉ dẫn cách phải sống và việc phải làm.Tùy từng người mà Gioan khuyên bảo cụ thể:
– Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.
– Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.
– Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Các lời khuyên của Gioan khuyến khích mọi người thực hiện công bằng và bác ái. Công bằng là sống đúng luật pháp: “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”; “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”.
Thánh Gioan rất thực tế và có những giải pháp thích ứng với từng hoàn cảnh, từng hạng người. Gioan không bảo mọi người hãy sống như ngài hoặc gia nhập nhóm của ngài. Gioan không yêu cầu ai phải làm gì khác thường, cũng không đòi hỏi họ phải đổi nghề nghiệp hay đổi chỗ ở, nhưng ngài khuyên : dù ở hoàn cảnh nào cũng phải biết thắng dẹp tính vị kỷ, bằng cách làm việc bác ái, chia sớt với anh em mình, đó là cách sám hối tốt nhất. Gioan khuyên họ phải bằng việc làm cụ thể mới trở thành người biết yêu thương và đáng mến.
“Chúng tôi phải làm gì?”. Dân chúng hỏi Gioan Tẩy Giả ở bờ sông Giođan. Sau lễ Hiện Xuống, đám đông cũng đặt câu hỏi ấy với thánh Phêrô: “Chúng tôi phải làm gì?”. Đó cũng là một cách nhắc lại rằng, đức tin phải thực tiễn và sống động. Chúa Giêsu dạy: “Không phải những người nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, nhưng là những người thực hiện ý muốn của Cha Ta” (Mt 7,21). Ngài luôn đòi hỏi bằng việc làm cụ thể: “Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? …Đức Giêsu đáp: Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (x.Mc 10, 17-27). Người nghe mà không làm thì giống như người xây nhà không nền móng (Lc 6,49).Trong cuộc đối thoại với một luật sĩ, Ðức Giêsu đã bảo ông: “Hãy làm như vậy và ông sẽ được sống” (Lc 10,28). Sau dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Ngài còn dặn ông: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37).
“Lạy Chúa, con phải làm gì?”. Đây là câu nói đầu tiên của thánh Phaolô sau cú ngã ngựa trên đường đi Đamát (x.Cv 9,1-19). Phaolô được biến đổi và trở thành vị Tông đồ chuyên lo rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Từ đây cuộc đời của thánh nhân đã viết nên thiên anh hùng ca, sống và chết cho Đức Kitô.
Đối với chúng ta ngày nay, lời khuyên của thánh Gioan rất thiết thực trong những ngày chờ đón Chúa giáng sinh. Mỗi người hãy tự đặt câu hỏi: “Còn tôi, tôi phải làm gì ?”. Cách trả lời của Gioan còn nguyên giá trị: mỗi người hãy sống đúng cương vị của mình, hãy hoàn thành trách nhiệm của mình, hãy thực thi tình bác ái huynh đệ và sống trong tương giao tốt đẹp với mọi người. Gioan không đòi những điều kì diệu, nhưng rất đơn giản và thực tế. Người dấn thân phục vụ thì sống đời tận hiến.Người có gia đình được mời gọi sống yêu thương, trung thành. Người thương gia ngay thẳng, người quản lý tín trung.Người làm công chu toàn bổn phận, người chủ quảng đại khoan dung.Người có hai áo thì chia cho người không có áo mặc.Người có quyền thì yêu thương đùm bọc kẻ dưới. Ai nấy sống đúng chức phận của mình trong công lý và tình yêu.
Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người Tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:
– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
– Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.
– Vậy xin hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào?- Rất tiếc là tôi quên mất chi tiết này.
– Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tuổi?
– Tôi cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.
– Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?-
Tôi không biết.
– Quả thật anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo.
Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ.Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi sau khi tôi đi làm về. Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã làm cho tôi và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.
“Chúng tôi phải làm gì?“. Mùa Vọng này, mong sao những thao thức sẽ biến thành việc làm cụ thể.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết hỏi, để được nghe câu trả lời: “Hãy chia cơm sẻ áo,đừng hà hiếp anh em,vui lòng sống hiện tại, tôn trọng lẽ công bằng”.
Lạy Chúa, chúng con đang tiến gần đến niềm vui mừng ngày Con Chúa giáng trần. Như xưa dân chúng đã khiêm tốn và thành tâm đón nhận lời mời gọi sám sối của Gioan Tẩy Giả, xin cho chúng con giờ đây cũng biết tích cực cải thiện đời sống bằng việc làm cụ thể và cùng giúp nhau chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến trong công bình và yêu thương. Amen.
Hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Hồng”, vì chúng ta thấy lễ phục màu hồng. Màu hồng tượng trưng MV 3-C169
Hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Hồng”, vì chúng ta thấy lễ phục màu hồng. Màu hồng tượng trưng cho tình yêu và niềm vui. Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta “Hãy vui lên, vì Chúa sắp đến rồi”. Thế thì, niềm vui trong Chúa là niềm vui nào?.
Kinh nghiệm cho thấy, có những bữa tiệc diễn ra trong niềm vui òa vỡ, tay bắt mặt mừng, dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp, cùng nâng ly rượu làm ngất ngây tâm hồn. Cộng thêm chương trình văn nghệ, hòa với những lời ca tiếng nhạc kích động nhảy nhót tưng bừng thật là vui nhộn, nhưng rồi sau khi tiệc tàn, dư âm để lại là trạng thái chán chường mệt mỏi rả rời.
Ngược lại, khi chúng ta tự thắng mình vượt qua cơn cám dỗ nào đó, hay thực hiện một nghĩa cử yêu thương, theo như lời Gioan tẩy giả mời gọi trong Tin mừng hôm nay “Ai có hai áo hãy cho người không có; ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”, thì tâm hồn mình cảm thấy có niềm vui bên trong, tuy nhẹ nhàng thầm kín thôi, nhưng lại rất sâu xa. Như thế, đó mới thật là niềm vui trong Chúa, niềm vui biết cho đi, biết sống cho người khác.
Đức Giêsu chính là niềm vui cho nhân loại. Không vui sao được, vì sau bao ngàn năm dân tộc bước đi trong u tối đợi trông, nay được nhìn thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng bừng lên chiếu soi những người ngồi trong bóng tối sự chết.
Thật vậy, trong bài đọc I, ngôn sứ Xôphônia hô lên: ” Hỡi thiếu nữ Sion! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem! Hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn, vì Thiên Chúa đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi”(Xp 3,14).
Trong bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ cũng mời gọi các tín hữu: “Anh em hãy vui lên, hãy vui lên trong niềm vui ơn cứu độ, vì Chúa sắp đến rồi” (Pl 4,4).
Trong niềm vui này, Mẹ Maria là người diễm phúc đón nhận đầu tiên, khi được sứ thần Gabriel loan báo trong buổi truyền tin: “Mừng vui lên! Hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Khi đón nhận niềm vui Giêsu trong lòng, Mẹ Maria liền cất tiếng tạ ơn” Tâm hồn tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 46).
Tiếp đến, niềm vui của Gioan tẩy giả. Ông nhảy mừng trước Đấng cứu độ ngay từ trong lòng mẹ, khi Đức Maria mang Hài nhi Giêsu đến viếng thăm.
Ông vui vì được làm ngôn sứ cho Đấng Cứu thế, như lời thân phụ Giacaria đã thốt lên: “Hài nhi hỡi! Con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người ” (Lc 1, 76).
Ông vui vì như là ngọn đèn, để Đức Giêsu là ánh sáng, được làm tiếng kêu trong sa mạc, để Đức Giêsu là Lời loan báo cho dân chúng, được là người đi trước dọn đường, để Đức Giêsu mang ơn cứu độ đến.
Ông vui vì lời rao giảng của ông được dân chúng lắng nghe, nên họ lũ lượt tìm đến xin ông làm phép rửa, bày tỏ sự sám hối. Để rồi Đấng đến sau ông sẽ rửa dân chúng trong Thánh Thần.
Trong đêm Chúa giáng sinh, đạo binh các thiên thần từ trời xuống hát mừng và loan tin vui cho các chú Mục đồng: “Ta báo cho anh em một tin mừng, cũng là cho toàn dân, đêm nay Đấng cứu độ đã giáng sinh cho chúng ta” (Lc 2, 10).
Như vậy, Đức Giêsu chính là niềm vui mà Thiên Chúa Cha trao ban cho nhân loại. Niềm vui ơn cứu độ, niềm vui của một của một vị Thiên Chúa vì quá xót thương nhân loại, nên đã hạ cố xuống ở trong lòng nhân thế, bởi tên Ngài là Emmanuel. Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thế thì, thử hỏi chúng ta có cảm nghiệm được niềm vui vì có Chúa ở cùng, ở với chúng ta không?. Vì mỗi khi tham dự Thánh lễ, linh mục chủ tế nhắc đến nhiều lần”Chúa ở cùng anh chị em; bình an của Chúa ở cùng anh chị em”.
Anh chị em thân mến,
Khi được cưu mang niềm vui Giêsu trong lòng, Mẹ Maria không giữ riêng cho mình, nhưng vội vả lên đường mang niềm vui Giêsu đi chia sẻ cho người khác.
Gioan tẩy giả cũng vậy, khi đã nhảy mừng trước ơn Cứu Độ, ông không giữ riêng cho mình, nhưng ra đi loan tin vui rao giảng sự sám hối, chuẩn bị tâm hồn cho dân chúng đón nhận niềm vui Giêsu.
Các chú Mục đồng khi đến máng cỏ Bêlem gặp thấy Hài Nhi Giêsu, họ trở về tung hô ca ngợi Chúa, về tất cả những gì họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Chúng ta cũng vậy, mỗi khi rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, noi gương Mẹ Maria, bắt chước Gioan Tẩy giả và các chú Mục đồng, hãy mang niềm vui Giêsu, đi chia sẻ cho những người chúng ta gặp gỡ, đặc biệt những người chưa nhận biết Chúa.
Xin Chúa giúp chúng ta tiếp tục sống tinh thần sám hối của Mùa Vọng, bằng cách dọn cho Chúa Hài đồng một máng cỏ tâm hồn, được đan kết bằng những cọng rơm của lòng sám hối. Cùng đắp cho Chúa Hài Nhi ấm áp bằng tấm khăn của tinh thần bác ái, hi sinh, và dâng lên Chúa những hương kinh nguyện cầu.
Cầu xin Chúa ban cho chúng ta cảm nghiệm được niềm vui Giêsu ở cùng, ở với chúng ta, và rồi chúng ta cũng biết chia sẻ niềm vui ấy cho người khác như Mẹ Maria, như Gioan tẩy giả. Amen.
Chúa nhật tuần này được gọi là Chúa nhật của niềm Vui bởi vì các bài đọc mời gọi thúc đẩy người MV 3-C170
Chúa nhật tuần này được gọi là Chúa nhật của niềm Vui bởi vì các bài đọc mời gọi thúc đẩy người tín hữu hãy vui lên “anh em hãy vui luôn trong Chúa”. Chủ đề của Chúa nhật này là Vui mừng trong hy vọng. Mùa Vọng là thời gian của vui mừng vì Chúa đến để đổi mới vận mệnh của mỗi người, làm cho chúng ta được trở nên thánh thiện và xứng đáng với Thiên Chúa hơn. Niềm vui của người Kitô hữu không phải vì quà cáp hay của cải dư đầy, nhưng niềm vui của họ là vì có Chúa đến thăm viếng và ở lại với họ, và Chúa làm cho cuộc đời của họ được thay đổi. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Xôphônia đã loan báo tin vui cho thiếu nữ Sion và mời gọi họ hãy vui lên vì Chúa đến thăm viếng và ở lại với họ, họ không còn phải sợ hãi quân thù nữa. Trước Chúa Giêsu giáng sinh khoảng 600 năm, vào giai đoạn vua Josias đang cố gắng canh tân do thái giáo, tiên tri Xôphônia khuyến khích dân chúng hãy vui lên vì Thiên Chúa đã rút lại lời kết án họ và ban cho họ phần thưởng chiến thắng và nhất là Thiên Chúa ở giữa họ, Thiên Chúa ở với họ. Họ không còn phải sợ hãi nữa. Bài đáp ca diễn tả cùng một niềm vui, tiên tri Isaia mời gọi dân chúng hãy reo vui bởi vì Đấng Thánh của Thiên Chúa đã ở giữa họ. Họ sẽ tin tưởng hành động vì Thiên Chúa là ơn cứu độ của họ. Thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philipphê nhắc nhở họ hãy phát triển và củng cố đời sống đạo đức, họ hãy luôn sống vui tươi và tỏ ra ôn hòa đại lượng với mọi người, lý do là vì Chúa gần đến. Cộng đoàn Philipphê là cộng đoàn mà thánh Phaolô rất yêu mến, bởi vì đây là cộng đoàn mà ngài đã thành lập trên phần đất Âu châu, trong tỉnh Macêđônia. Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người rằng chính Chúa Giêsu là động lực và bảo đảm của niềm vui của họ, và họ diễn tả niềm vui bằng đời sống tử tế với mọi người và nhất là dâng lời cầu nguyện tạ ơn và khẩn cầu Thiên Chúa luôn trong mọi sự để cho lòng của họ luôn được bình an.
Tin mừng trình bày hoạt động rao giảng của Gioan tẩy giả, ông thúc đẩy mọi người chuẩn bị tâm hồn để đón đấng cứu thế đang đến, kêu gọi mọi người thay đổi cách sống để xứng đáng với đấng cứu thế đến khai mạc triều đại nước Thiên Chúa. Theo nguyên tự thống hối metanoia có nghĩa là thay đổi lòng trí, một thay đổi đời sống cách triệt để bao gồm hai mặt là xa lánh tội lỗi và trở về với Thiên Chúa. Việc thống hối này đòi hỏi phải cụ thể như là bằng chứng của lòng thống hối, vì thế Gioan nói với đám đông và ngỏ lời với từng giới như những người lính, hoặc những người thu thuế, mỗi hạng người đều có những mục tiêu thống hối cụ thể phù hợp với nghề nghiệp của họ. Cách chung, Gioan đòi hỏi mọi người phải biết chia sẻ của cải của mình, thức ăn và áo mặc cho người túng thiếu. Đồng thới mỗi người được mời gọi chu toàn tốt đẹp công việc bổn phận của mình, người thu thuế chu toàn công việc bổn phận của người thu thuế, đừng đòi hỏi quá mức ấn định, người lính cũng phải chu toàn bổn phận của người lính, không hà hiếp dân chúng.
Lời rao giảng của Gioan tẩy giả đánh động dân chúng sâu xa đến độ họ hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì”. Dầu vậy, ông không thúc đẩy mọi người từ bỏ mọi sự để sống khắc khổ nơi hoang địa như ông, nhưng mời gọi họ thay đổi chính đời sống của mình trong môi trường và nghề nghiệp của mỗi người để chứng tỏ sự thống hối chân thực. Có điều ông nhắc nhở mọi người đừng ảo tưởng về một sự an toàn giả tạo do mình được cắt bì hay thuộc dòng giống Abraham. Câu trả lời của Gioan cho mọi người rất hiện thực, ông không nhấn mạnh mọi người phải dâng hy lễ để đền tội hay phải ăn chay hãm mình nhưng lại xoáy vào chiều kích công bằng xã hội cụ thể trong tương quan với những người khác: giúp đỡ và chia sẽ cho những người túng thiếu, sống ngay thẳng công bằng trong nghề nghiệp không lợi dụng để bóc lột hay bắt chẹt người khác. Đây cũng là những đòi hỏi phát xuất từ những yêu cầu thiết yếu của Lề luật Môisen. Sứ điệp của Gioan không nhắm đến những cải cách thay đổi xã hội, nhưng mời gọi mỗi người phải biết thay đổi từ chính mình. Đoạn kết của bài Tin mừng là câu hỏi mọi người đặt ra về Gioan: “Có phải ông là Đức Kitô không?” Và Gioan đã trả lời thẳng thắn cho mọi người: “Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, – tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, – chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!”. Gioan đã phân biệt cho mọi người biết phép rửa mà ông thực hành cho mọi người chỉ là phép rửa bằng nước, chỉ là hình bóng tạm thời của một thực tại trọn vẹn hơn là phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa mà Đấng sẽ đến sẽ thực hiện và ông cũng như mọi người phải hướng về. Gioan cũng nói rõ cho mọi người biết ông chỉ là người loan báo cho Đấng sẽ đến và sánh với người thì ông chỉ là một con người tầm thường và bất xứng: “Tôi không đáng cởi dây giày cho người”.
Niềm vui của người tín hữu là niềm vui sâu xa, niềm vui của một sự đổi mới thực sự và nội tâm hướng về Đấng Cứu thế đang đến với mọi người. Không phải những món quà bên ngoài làm cho con người thay đổi mà chính mỗi người phải cố gắng tự đổi mới chính mình khi chu toàn những công việc bổn phận và nghề nghiệp của mình. Người ta không phải đi tìm một sự đổi mới ở đâu xa xôi hơn là chính nơi bản thân mình, đổi mới tương quan với những người khác, như lời thúc đẩy của thánh Phaolô, sao cho mọi người thấy được đức ôn hòa của anh em. Đời sống liên lĩ cầu nguyện cũng là một yếu tố thiết yếu của sự đổi mới này, bởi vì người tín hữu cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện cảm tạ và trình bày mọi ước vọng và họ sẽ xứng đáng lãnh nhận bình an của Thiên Chúa gìn giữ lòng trí của họ luôn được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa đến và ở với mỗi người.
Chúa Nhật III Mùa Vọng được Giáo Hội gọi là “Domenica Gaudete,” Chúa Nhật của niềm vui MV 3-C171
Chúa Nhật III Mùa Vọng được Giáo Hội gọi là “Domenica Gaudete,” Chúa Nhật của niềm vui; hay Chúa Nhật hồng giữa mùa tím. Quả thế, phụng vụ Lời Chúa hôm nay lặp đi lặp lại lời mời gọi: “Hãy vui lên, hãy hân hoan, hãy nhảy mừng.” Đây là sứ điệp căn bản của Tin Mừng, mời gọi mỗi Kitô hữu vui lên vì Chúa sắp đến; vui lên vì ơn cứu độ mà Chúa sắp thực hiện; vui lên vì Người là Đấng Cứu Độ chúng ta.
1- Niềm vui Chúa đến
Trong bài đọc I, ngôn sứ Xôphônia mời gọi dân Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy nức lòng phấn khởi…” (Xp 3,14). Ngôn sứ giải thích những lý do khiến dân Israel phải vui mừng, bởi vì Thiên Chúa sẽ đến ngự giữa họ; Người là Đấng quyền năng và yêu thương; Người lấy tình thương mà đổi mới họ; Người vui niềm vui của dân Người (x. Xp 3,14-18a).
Lời loan báo về niềm vui này chỉ được thực hiện một cách cụ thể và viên mãn qua biến cố nhập thể của Con Thiên Chúa khi tổng lãnh thiên thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, thiếu nữ Xion mới: “Hỡi Trinh Nữ, hãy vui lên!” (Lc 1,28). Nhờ tiếng xin vâng của Đức Maria, Thiên Chúa đến với loài người, trở thành một con người để cứu độ mọi người. Bởi thế, khi Chúa Giêsu sinh ra, thiên thần loan báo với các mục đồng: “Này đây tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
Vì thế, trong bài đọc II, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Kitô ở thành Philiphê: “Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Ước gì sự hòa nhã của anh chị em được mọi người biết đến. Chúa đang gần kề!” (Pl 4,4-5).
Tắt một lời, toàn bộ cuốn Kinh Thánh diễn tả sứ điệp niềm vui này: Thiên Chúa đến viếng thăm và cứu độ dân Người qua biến cố nhập thể làm người của Con Thiên Chúa.
2- Niềm vui cứu độ
Thế nhưng, niềm vui mà Chúa Giêsu mang đến không chỉ là một tình cảm, cảm xúc chóng qua, cũng không phải là những niềm vui mà thế gian ban tặng, nhưng là niềm vui cứu độ, bền vững, đích thực cho tâm hồn con người. Thiên Chúa chính là niềm vui đích thực của con người. Niềm vui đó được biểu lộ và ban tặng qua Đức Kitô. Bởi vậy, ai gặp gỡ Chúa Kitô, người đó sẽ có niềm vui trong tâm hồn; ai được Chúa Kitô cứu độ, người đó sẽ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi, đau khổ và buồn rầu; ai có niềm vui của Chúa Kitô, người đó sẽ biết sống yêu thương và chia sẻ với tha nhân. Niềm vui đó mang lại cho chúng ta bình an và sức mạnh, để có thể đứng vững trước những gian nan thử thách, hay những bất ổn và biến động xảy ra trong cuộc đời.
Chính vì thế, người Kitô hữu phải là người của niềm vui. Nếu một người Kitô hữu mà luôn sống với một khuôn mặt “đưa đám,” hay chỉ có sống tinh thần Mùa Chay mà không có tinh thần Mùa Phục Sinh, thì chưa thực sự là môn đệ Đức Kitô. Một người Kitô hữu mà sống bi quan chán nản, thất vọng buông xuôi, ấy là dấu hiệu của một Đức Tin hời hợt và xa lạ với Tin Mừng. Nên người ta thường nói: một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn! Sống vui tươi là nét đặc trưng của người Kitô hữu vì sống vui là sống thánh thiện. Chúng ta cần cảm nghiệm, chia sẻ và làm chứng niềm vui đó cho mọi người.
3- Niềm vui hoán cải
Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải có sự hoán cải. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện hoán cải thật tuyệt vời mà Gioan Tẩy Giả đề nghị cho dân chúng thực hiện. Sau khi nghe lời kêu gọi sám hối của ông, nhiều người muốn phục thiện, sẵn sàng thay đổi nếp sống sai lạc của mình. Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Tùy từng người một mà Gioan khuyên bảo:
– Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy.”
– Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi.”
– Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình” (x. Lc 3,10-18).
Gioan không có ý khuyên người ta phải bỏ việc đang làm, nhưng ông dạy họ phải làm việc thật tốt, đúng với trách nhiệm họ đã lãnh nhận. Câu trả lời của Gioan cho mỗi hạng người có hành động khác nhau, nhưng tựu trung lại, tất cả đều phải hoán cải.
Cũng thế, để có niềm vui đích thực và bền vững, mỗi người chúng ta phải có sự hoán cải. Hoán cải là điều kiện để chúng ta đón nhận niềm vui ơn cứu độ. Hoán cải là thay đổi cách suy nghĩ, lối sống và hành động của chúng ta cho phù hợp với các giá trị của Tin Mừng. Việc hoán cải cũng bao gồm việc thực thi công bằng, bác ái và sống lương thiện đối với tha nhân.
Lễ Giáng Sinh là lễ tình yêu Thiên Chúa nhập thể, đang đến gần. Niềm vui Giáng Sinh của người Kitô hữu gắn liền với thái độ sống thức tỉnh và hoán cải để canh tân đời sống. Niềm vui của người Kitô hữu chính là sự kết hợp với Đức Kitô, gắn bó mật thiết với Người. Từ đó, chúng ta lan tỏa niềm vui nội tâm này trong đời sống hằng ngày bằng việc chu toàn bổn phận và sống yêu thương phục vụ mọi người.
Lạy Chúa, Chúa đến mang niềm vui và ơn cứu độ cho chúng con. Xin cho mỗi người chúng con, luôn cảm nghiệm được niềm vui vì có Chúa đồng hành. Và xin Chúa cho chúng con biết lan tỏa niềm vui ấy tới những người xung quanh bằng việc sống bác ái và yêu thương mọi người chúng con gặp gỡ. Amen!
Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói nhiều đến niềm vui. Nhưng tại sao lại vui như vậy? Thưa vì MV 3-C172
Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói nhiều đến niềm vui. Nhưng tại sao lại vui như vậy? Thưa vì Chúa sắp đến. Cha Gutzwiller một nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng có viết một câu rất đơn sơ nhưng ý nghĩa rất đẹp: Gặp được Chúa là gặp được niềm vui. Và trong bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho chúng ta cách để chúng ta có thể có được niềm vui của Chúa.
A. Như anh chị em đã thấy, khi Gioan xuất hiện ở bên bờ sông Giorđanô để rao giảng thì có rất nhiều người tuốn đến với ông. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy trước mặt ông là cả một đám rất đông quần chúng. Đây là thành phần được Gioan Tẩy Giả dành cho những tình cảm đặc biệt. Ngoài ra, ta còn thấy có hai nhóm nhỏ hơi đặc biệt một chút. Đó là những người thu thuế và một số lính tráng, những thành phần không mấy được ưa chuộng, thậm chí còn bị liệt vào số những người tội lỗi cần phải tẩy chay. Nhưng tất cả đều cảm thấy có một khát vọng phải làm một cái gì đó sau khi được nghe những điều Gioan nói. Họ thành khẩn xin Gioan Tẩy Giả chỉ cho họ và Gioan đã không phụ lòng họ.
Đầu tiên là đám đông quần chúng Họ cảm thấy bị lay động một cách mạnh mẽ trước những lời Gioan giảng. Họ cảm thấy phải làm một cái gì đó như Gioan mong đợi.
Tiếp đến là những người lính.
Cuối cùng là những người thu thuế. Đây là giai cấp bị người Do Thái ghét cay ghét đắng và luôn tìm cách xa lánh.
B. Bây giờ chúng ta hãy nghe Gioan Tẩy Giả khuyên dạy.
Để được hiểu rõ hơn những lời Gioan Tẩy Giả nói, ta phải lưu ý một vài chi tiết này.
a- Trước hết ta thấy Gioan có đầu óc. Ông biết những gì cần phải nói và nói những việc có thể làm được.
Gioan cũng là người rất thực tế. Ông hiểu cuộc sống của từng lớp người. Ông hiểu những gì người ta có thể làm được. Ông không đòi hỏi những điều trên mây trên gió. Ông thấy được mỗi người cần phải làm gì trong chính hoàn cảnh cụ thể của mình. Đòi hỏi một điều mà người ta không thể thi hành được thì chẳng khác gì làm một việc vô ích.
b- Bây giờ chúng ta đi vào một vài chi tiết. Tin Mừng hôm nay ghi lại.
+ Với đám đông: Ông đòi hỏi họ phải biết chia sẻ. Họ phải thực hiện Bác ái. “Ai có hai áo, hãy cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”(Lc 3,11)
+ Với những người thu thuế ông bảo họ: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức ấn định cho các ngươi”(Lc 3,13)
+ Với những người lính thì ông lại khuyên khác: “Đừng ức hiếp ai. Đừng cáo gian ai. Hãy bằng lòng với số lương của mình”(Lc 3,14)
c- Qua những lời nói trên chúng ta thấy Gioan xứng đáng là một bậc thầy. Rất khôn khéo và cũng rất tế nhị. Không gay gắt trong ngôn từ nhưng rất quả quyết và rỏ ràng trong hành động.
+ Với những người vốn đã có một đời sống tốt đẹp như đa số đám đông quần chúng là những người đã được luật Công Bình của Cựu Ước giáo dục và chỉ dẫn, thì ông khuyên họ hãy đưa cuộc sống họ lên cao hơn một bậc nữa. Đó là cuộc sống Bác ái. Đây là cuộc sống lý tưởng mà chính Chúa Giêsu sau này cũng đòi hỏi như thế.
+ Nhưng đối với những người mà hai tiếng Công Bình còn quá xa lạ với họ như những người lính và những người thu thuế lời khuyên của Gioan hơi khác. Ông không đòi hỏi những người thu thuế phải đoạn tuyệt với người Roma mà họ đang cộng tác. Ông cũng không đòi hỏi những người lính đang phục vụ trong đạo binh của Hêrođê phải đào ngũ. Họ cứ việc giữ nguyên nghề nghiệp của họ. Thế nhưng vì họ xin ông chỉ cho họ cách họ phải làm gì thì chúng ta thấy Gioan cũng chỉ đòi hỏi họ phải đưa cuộc sống của họ lên cao hơn một bậc. Ông đề nghị với họ hãy từ bỏ những cách cư xử thiếu Công bằng: “đừng đòi gì quá mức ấn định – đừng cáo gian ai – đừng ức hiếp ai”. Đòi hỏi quá mức – cáo gian – ức hiếp người khác – Cách cư xử đó chẳng khác gì cách cư xử của muôn loài cầm thú. Cư xủ như thế là cư xử theo luật rừng. Gioan khuyên họ hãy biết sống Công bằng đối với nhau: “Hãy bằng lòng với số lương đã được ấn định cho các người”
Đó là những lời khuyên rất cụ thể và thực tế cho những người đến xin ông chỉ dẫn. Còn đối với cá nhân của Ông thì sao?
C. Khi người ta hỏi ông về vai trò của mình, ông đã trả lời một cách rất sòng phẳng và thành thật. Ở điểm này thì chúng ta phải cảm phục sự thành thật của ông. Ông không lạm dụng lòng tin của quần chúng. Giữa lúc mọi người tin rằng ông chính là Đấng Kitô, Đấng phải đến thì ông lại bảo: Ông không phải là đấng đó. Đúng là một con người ngay thẳng. Có sao thì nói vậy. Có gì thì nhận nấy. Một lời cũng không thêm, nửa chữ cũng không bớt. Khó mà tìm được một con người như thế nhất là trong xã hội nghèo khó, dầy giai cấp của người Do thái lúc đó.
Ông cũng là một con người rất khiêm nhường. Ông tự ví mình như một người không xứng đáng dù là chỉ cúi xuống cởi dây dép cho Chúa.
Vâng! Ông thành thực, ông khiêm nhường. Ông không muốn gì cho ông. Điều mà ông muốn đó là làm cho người ta nhận ra Đức Kitô. Chính Ngài mới thật là Đấng có uy quyền. Ngài mới là Đấng rửa trong Thánh Thần. Gioan chỉ rửa bằng nước. Ngài mới là Đấng đến để thánh hóa những kể thống hôí ăn năn và trừng phạt những kẻ cứng lòng.
Như vậy Gioan cũng như Sophonia, các ngài chỉ là những ngôn sứ. Các ngài là những người chỉ đóng vai trò loan báo và dọn đường. Chúa Cứu thế mới là Đấng phải đến và đã đến như lời của các ông loan báo. Ngài đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho cả loài người. Người là Tình yêu. Ai gặp được Ngài là gặp được niềm vui.
Cha John Diamond kể lại một câu truyện như sau:
Một hôm kia có một người chẳng ưa gì đạo hỏi một cô bé có đạo:
– Em có thể cho tôi biết Thiên Chúa của em ở đâu không?
+ Xin ông vui lòng chỉ cho cháu biết chỗ nào không có Thiên Chúa!
– Thế Thiên Chúa của em có to lớn không?
+ Dạ có.
– Thế Thiên Chúa của em có nhỏ không?
+ Dạ có
– Làm sao mà lại vừa lớn vừa nhỏ như thế được?
– Vâng Ngài lớn đến nỗi cả bầu trời không chứa nổi. Nhưng lại nhỏ, nhỏ đến mức có thể ngự vào tâm hồn nhỏ bé của em.
Kính thưa anh chị em
Chúng ta sắp sửa lại mừng lễ Giáng Sinh của Chúa. Đây không phải chỉ là một việc làm ôn lại quá khứ mà là sống lại một biến cố trọng đại: Biến cố Thiên Chúa đã làm người vì chúng ta. Sự việc Ngài làm người quả đã làm cho mối tương quan giữa Ngài với con người hoàn toàn được đổi mới.
Một Thiên Chúa uy quyền cả bầu trời không chứa nổi nhưng lại có thể đến ngự ở trong mỗi tâm hồn nếu chính con người biết mở cõi lòng đón nhận. Nhưng làm sao để cho chúng ta có thể có được Ngài? Lời của Gioan Tẩy Giả nói với dân chúng, nói với những người thu thuế và lính tráng cũng chính là những lời Chúa muốn mượn miệng lưỡi của Gioan mà nói với chúng ta. Không phải thay đổi nghề nghiệp, cũng không phải thay đổi hoàn cảnh mà là phải thay đổi cách sống…sống sao cho Công Bằng, cho Bác ái. Được như thế chúng ta sẽ xứng đáng với sự Giáng Sinh của Chúa, không cần phải bằng một con người xương thịt như thuở xưa, nhưng bằng Thánh Thần và ơn Thánh Hóa để chúng ta được sống một cuộc sống xứng đáng hơn, làm con người và làm con Thiên Chúa. Amen.
Niềm vui ngày Chúa đến đang cận kề lắm rồi. Nó không còn chỉ là cảm giác lâng lâng nhưng là MV 3-C173
Niềm vui ngày Chúa đến đang cận kề lắm rồi. Nó không còn chỉ là cảm giác lâng lâng nhưng là những biểu hiện cụ thể trong đời sống chúng con. Các nhà thờ, nhà nguyện, đèn hoa đã giăng mắc. Lễ đài, máng cỏ cũng đang đựoc chuẩn bị. Cờ phướn đã tung bay. Bài Thánh ca đầu lễ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng cũng mở đầu với lời mời gọi :”Vui lên anh em hãy vui trong Chúa Trời, chớ sao cho cuộc đời thắm một niềm vui “ dựa theo thư Thánh Phao Lô Tông đồ: ” Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Chúa đã gần đến “ ( Bài đọc 2 ) ; “ Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dây đi nào! Nhà Israel. . . “ (Bài đọc 1). Và đỉnh điểm của ngày vui là hình ảnh dân chúng lũ lượt đến xin Gioan làm phép rửa như một ngày hội hành hương hôm nay, với đủ mọi thành phần dân Chúa : “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì ? “.
Câu hỏi mọi người đặt ra cho Gioan cũng đang là một dấu hỏi lớn đặt ra cho con hôm nay. Con xin đặt mình trước mặt Chúa để xin được lắng nghe tiếng Chúa vọng lên trong con. Con xin thân thưa cùng Chúa : “Lạy Chúa Giêsu ! Con phải làm gì để đón Chúa ?”.
Có lẽ không khó gì nếu lặp lại câu trả lời của Gioan. Thế nhưng, có một điều con giật mình, Thánh Gioan không bảo những người đến xin rửa tội là phải đến đền thờ đọc kinh, phạt tạ, mặc dầu đó là những điều đạo đức nên làm, nhưng không là điều cốt yếu. Điều cốt yếu Ngài nêu lên là phải thể hiện Đức tin một cách cụ thể , bằng hành động rất thiết thực với anh em đồng lọai : ”Ai có hai áo hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy “.
Đức Thánh Cha Phanxicô trong thời gian vừa qua đã đi đến nhiều quốc gia từ Á Châu, Mỹ Châu, Phi Châu. Dự đại hội Giới trẻ Thế giới tại Ba Lan và sắp tới đây vào đầu năm 2019 là JMJ PANAMA . Qua những chuyến đi này, Ngài đã gặp gỡ biết bao người đang phải khổ đau. Một em bé tại Philiphin đã khóc khi gặp Ngài. Ngài đã từng ôm hôn một người đàn ông với bộ mặt kinh dị tưởng như không ai dám đến gần, thậm chí nhìn đến. Ngài đã vào các nhà tù để đem đến cho các tù nhân niềm hy vọng và sự sống lại về niềm tin vào cuộc đời. Ngài đã đến với các dân tộc Châu Phi đang có những hận thù chia rẽ nhau, đang có chiến tranh tương tàn với nhau, để kêu gọi họ hãy chung sống hòa bình, hãy mở lòng đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa và thể hiện lòng thương xót lẫn nhau. Ngài đã khiến một vị Tổng Thống tự mình hối lỗi công khai trước Đấng tối cao và trước những người dân của mình, xin được tha thứ. Tất cả những điều ấy, chẳng ai bảo Ngài phải làm. Nhưng chính là sự thôi thúc của Thiên Chúa qua lời nhắc nhở của Vị Tiền hô trong Tin Mừng : “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?”, Ngài đã lên đường.
Lạy Chúa,
Lời Thánh Gioan mãi mãi là một lời nhắc nhở con. Tin vào Chúa con phải thể hiện đời sống chia sẻ, biết quan tâm đến những nhu cầu cấp thiết của người sống quanh mình, hầu mọi người đều được hưởng niềm vui có Chúa ở cùng. Không đòi hỏi người khác cung phụng, không hà hiếp ai, không bóc lột ai. Chính từ cách sống ấy dẫn đến mọi người chúng con trở thành anh chị em với nhau, trở thành những người con Chúa đích thực.
Xin cho con luôn biết lắng nghe và đáp trả lời dạy của vị Tiền hô, chính là lắng nghe, đáp trả tiếng Chúa trong thẳm sâu tâm hồn. Bằng cách mỗi ngày dành ít phút tĩnh lặng khi đêm về hay lúc trời sáng tinh mơ hướng lòng lên cùng Chúa, để biết phải làm gì trong cuộc sống mỗi ngày của con.
”Lạy Chúa, con phải làm gì để đón Chúa đến với con? “ AMEN.
Thiên Chúa nhân từ ban ơn cứu độ. Thế nhân tục lụy hưởng phúc bình an. Cuộc sống luôn nhiêu MV 3-C174
Thiên Chúa nhân từ ban ơn cứu độ Thế nhân tục lụy hưởng phúc bình an
Cuộc sống luôn nhiêu khê, phức tạp hơn người ta tưởng. Vì thề, cần hiểu biết quá khứ, tin tưởng vào tương lai, chấp nhận chính mình và người khác để có thể “nhẹ lòng” mà sống hết phần đời mình. Biết chấp nhận mình là tự tặng món quà cho mình, biết chấp nhận người khác là trao tặng món quà cho họ. Thật vậy, Brian Tracy (Canada) nói: “Món quà lớn nhất mà bạn có thể trao cho người khác là món quà của tình yêu và sự chấp nhận vô điều kiện – The greatest gift that you can give to others is the gift of unconditional love and acceptance”.
Đó là điều phù hợp với Mùa Vọng vì Mùa Vọng là mùa chia sẻ yêu thương – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, cả cụ thể lẫn trừu tượng. Sắc Tím Mùa Vọng không phủ màu tím “buồn” mà là sắc tím thủy chung khi mong đợi Đấng Thiên Sai đến cứu độ nhân loại.
Hai ngọn nến tím đã được thắp lên, ngọn nến thứ ba được thắp lên mang sắc hồng vui mừng vì chúng ta đã kiên trì chờ đợi Chúa được nửa chặng đường Mùa Vọng, cũng đồng nghĩa rằng Ngài sắp đến: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4:4).
Mùa Vọng càng rút ngắn thì niềm hân hoan vui mừng càng dâng cao vì nhân gian sắp được đón Chúa Giêsu đến giải thoát nhân gian khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi, vì được lãnh nhận Ơn Cứu Độ. Niềm hy vọng ấy không mơ hồ, mà chắc chắn được toại nguyện.
VUI VẺ CHẤP NHẬN
Chấp nhận trái ngược với khước từ, nhưng chấp nhận cũng có hai kiểu khác nhau: chấp nhận vì yêu thích thì vui mừng, còn chấp nhận vì miễn cưỡng thì chẳng vui chi. Điều không vui hoặc điều buồn thì người ta thường muốn giữ kín, chỉ muốn ngồi một mình và tự gặm nhấm nó, nhưng niềm vui thì người ta muốn người khác cũng biết, đó cũng là một dạng chia sẻ – chia sẻ trong niềm vui nỗi mừng.
Thuở xưa, ngôn sứ Xôphônia phấn khởi mời gọi: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi!” (Xp 3:14). Sao lại thế nhỉ? Lý do rất đơn giản mà kỳ diệu: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Ngài đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ” (Xp 3:15). Và rồi vào chính ngày ấy, người ta sẽ nói với Giêrusalem: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời” (Xp 3:16). Thật vậy, chớ hoang mang hoặc run sợ vì Thiên Chúa của chúng ta đang ngự giữa chúng ta, chính Ngài là Vị Cứu Tinh, là Đấng Anh Hùng. Không ai lại sợ hãi khi ở bên một vị oai phong lẫm liệt như vậy.
Mạnh mẽ xác định, ngôn sứ Xôphônia cho biết: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa” (Xp 3:17-18). Đó cũng là lời dành cho mỗi chúng ta – đặc biệt là ngay ngày hôm nay. Quả thật, chúng ta vui mừng có Chúa, và Ngài cũng vui mừng ở giữa chúng ta để chia vui sẻ buồn với chúng ta, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Niềm vui tột đỉnh, hạnh phúc dạt dào. Thật tuyệt vời biết bao!
Trong niềm vui khôn tả đó, ngôn sứ Isaia quả quyết: “Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Is 12:2). Và ông cũng nói với tất cả chúng ta: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó: Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn danh Ngài, vĩ nghiệp của Ngài, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở: danh Ngài siêu việt” (Is 12:3-4). Như vậy, chúng ta cũng phải thể hiện cho mọi người biết niềm vui đang rạo rực trong lòng mình: “Đàn ca lên mừng Đức Chúa, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Hãy reo hò mừng rỡ, vì Đức Thánh của Israel quả thật là vĩ đại!” (Is 12:5-6). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó.
Người ta nói rằng “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, thế nhưng chúng ta đang có những niềm vui trùng lặp – không chỉ theo cấp số cộng mà là cấp số nhân. Niềm vui nối tiếp điều mừng, Thánh Phaolô cũng chẳng giấu được nên phải lặp đi lặp lại lời động viên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4:4). Thế nhưng không thể nói suông, mà phải thể hiện niềm vui đó qua cách sống “sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi” (Pl 4:5), lý do chính xác là “vì Chúa đã gần đến”. Lý do đơn giản mà to lớn và đặc biệt lắm.
Như đoán biết chúng ta còn e dè, ngần ngại, Thánh Phaolô tiếp tục động viên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7). Niềm vui của Kitô hữu khác hẳn niềm vui của người không có niềm tin tôn giáo. Đạo Chúa là đạo của tình yêu thương, đạo của niềm vui mừng. Và dù có thế nào cũng vẫn vui, vui vì có Chúa, vui cả ngay trong nỗi buồn, vui vì luôn hy vọng và tin tưởng – tích cực chứ không tiêu cực.
TIN TƯỞNG CHẤP NHẬN
Chấp nhận là điều không dễ, cũng là dạng quyết định, càng khó hơn khi phải chấp nhận điều gì đó quan trọng, và lại càng khó hơn gấp bội khi điều đó cần có niềm tin. Thánh Bernadette lý luận đơn giản mà chí lý: “Đối với người tin thì không cần giải thích, đối với người không tin thì giải thích cũng vô ích”.
Xã hội Việt Nam ngày nay khiến dân chúng mất niềm tin, bởi vì những người hữu trách chỉ nói mà không làm – nói thẳng ra là “lừa đảo đúng quy trình”. Cướp giỏi mà hèn hạ khi phải đối mặt với sự thật. Nói hay mà làm dở thì quá tệ, hoàn toàn vô ích, không có tác dụng. Tân Ước nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Cựu Ước nói: “Con chó quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần. Nếu con gặp một kẻ tự cho mình là khôn, thà hy vọng vào đứa ngu còn hơn” (Cn 26:11).
Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là con ông Dacaria, và mệnh danh là Tiếng-Hô-Trong-Hoang-Địa, nhưng ông là người đầy uy tín. Khi đám đông hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Ông trả lời ngay: “Ai có hai áo thì CHIA cho người không có; ai có gì ăn thì cũng LÀM như vậy” (Lc 3:11). Ui da, sao mà khó quá! Ông này đúng là dị nhân chính tông đây. Ấy thế mà vẫn có những người thu thuế đến chịu phép rửa, và tôn ông là Sư phụ. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Ông bảo họ: “ĐỪNG ĐÒI HỎI gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Lc 3:13). Ngay cả binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì PHẢI LÀM GÌ?”. Ông bảo họ: “CHỚ hà hiếp ai, cũng ĐỪNG tống tiền người ta, HÃY an phận với số lương của mình” (Lc 3:14). Một câu ngắn mà có ba mệnh lệnh – hai xác định, một phủ định.
Ông Gioan chấp nhận “sống bụi” và muốn chia sẻ cách sống giản dị với mọi người – nghĩa là ông muốn chúng ta hành động như ông vậy: Chấp nhận đức tin và chia sẻ đức tin. Đó là sống theo chân lý, công bình, bởi vì mọi người có thể hiện công lý thì xã hội mới khả dĩ có nền hòa bình đích thực. Thể hiện công lý là tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của người khác. Những điều ông Gioan kêu gọi ngày xưa thì ngày nay là những điều thuộc lĩnh vực Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Ngày xưa “dị ứng” với chính trị, nhưng ngày nay đã có cách nhìn khác. Thánh GH Phaolô VI nói: “Chính trị là một trong những hình thức bác ái cao nhất”. Chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2019 (ngày 1-1, tết dương lịch) đề cập mối quan hệ giữa chính trị và hòa bình: “Chính Trị Tốt Phục Vụ Hòa Bình”.
Ngày xưa, trong khi tha thiết trông mong Đấng Cứu Thế, dân chúng thấy ông Gioan có phong cách lạ nên họ đặt vấn đề: “Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia?” (Lc 3:15). Thế nhưng ông xác định với mọi người thẳng thắn và rạch ròi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi KHÔNG ĐÁNG cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: THÓC MẨY thì thu vào kho lẫm, còn THÓC LÉP thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3:16-17). Mùa Vọng là cơ hội tốt, là dịp may để thóc lép “hút” các dưỡng chất tâm linh mà có thể trở nên thóc mẩy.
Là người được Thiên Chúa đề cao, nhưng ông Gioan khiêm nhường nhận mình bất xứng, không đáng “cởi quai dép” chứ đừng nói chi là “xách dép” cho Chúa Giêsu. Ông biết người và biết mình nên ông chấp nhận. Vả lại, chính ông cũng đang mong đợi Đấng đến sau ông, vì người đó mới đích thực là Đấng Thiên Sai – Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Bất cứ lúc nào chúng ta mong chờ ai đó thì cũng chỉ vì quý mến người đó. Mong đợi Chúa, chắc chắn chúng ta cũng phải yêu mến Ngài, nếu không thì… “kẹt” lắm! Thật vậy, Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22). Rất rõ ràng, rất rạch ròi.
Lạy Thiên Chúa, hôm nay chúng con hân hoan vì Ngôi Lời sắp sửa đến ở với chúng con, để chia vui sẻ buồn, đồng lao cộng khổ, thông phần số phận với chúng con, và dạy chúng con những điều tốt lành. Xin giúp chúng con biết yêu mến Con Chúa, hiện thân của Chúa, mà dám sống “khác người”, đồng thời can đảm chấp nhận và chia sẻ mọi thứ với bất cứ ai – nhất là với những người hèn mọn nhất. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
Mỗi cuộc đời đều có những nẻo đường khác nhau và mỗi bước ngoặt lại tự hỏi: Tôi phải làm gì? MV 3-C175
Mỗi cuộc đời đều có những nẻo đường khác nhau và mỗi bước ngoặt lại tự hỏi: Tôi phải làm gì? Chắc hẳn, chẳng vẽ ra được gì trong tương lai, khi tương lai còn ngoài tầm tay, nhưng có thể thực hiện ngay trong hiện tại điều có thể làm để đi tới tương lai. Trong hoàn cảnh nhiều người đến hỏi Gioan Tẩy Giả tại sống Gio đan. Gioan trả lời cho từng hạng người: Ai có đem cho, ai làm thu thuế đừng đòi hỏi quá những điều đã ấn đinh, những binh lính hãy thi hành trách nhiệm đừng ức hiếp ai…
Từng người cần bắt đầu từ vị trí của mình. Từ Tốn trong sách Trung Dung viết: “Muốn đi xa, bước từ gần, lên cao bước từ thấp”.
Kiên trì trong điều lành.
Con đường ngay thẳng của người công chính sẽ không gây ra những sợ hãi. Điều con người sống ngay chính như người xưa dạy: “Cây ngay không sợ chết đứng”. Lời Chúa sẽ mách bảo lúc gặp thử thách sẽ có Chúa Thánh Thần nói thay (Lc 12, 12) và “Sự thật sẽ giải thoát” (Ga 8, 31). Bước đi của người ngay lành, được Chúa giữ gìn: “Chúa chăm sóc cuộc đời người thiện hảo, gia nghiệp họ tồn tại đến muôn năm. Buổi gian nan họ không hề hổ thẹn, ngày đói kém lại được no đầy.” (Tv 37. 18 – 19).
Cuộc sống bấp bênh.
Hãy vượt qua nó! Đó là quyết định sáng suốt khi gặp những khó chịu trong đời sống. Lắm lúc mình cũng chẳng hiểu mình chứ đừng nói hiểu người khác. Những khi đang trôi chảy, bỗng dưng có cảm giác chán nản. Quả như Phan Bội Châu viết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng quá, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Chúa cũng dạy: “Vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Mỗi người đều có những thập giá, chẳng ai giống ai, có đem ra chia sẻ với người khác, cũng không ai vác thay cho mình. Con người cần có thử thách để nên mạnh mẽ, cần có những khó chịu để tìm cách vượt qua, cần có niềm tin vào Chúa để vững bước. Nếu Chúa ban cho quả chanh, ở đâu đó Chúa cũng để một gói đường.
Tự hỏi bản thân!
Khi luôn tự hỏi bản thân muốn gì và làm sao? Con người sẽ phát huy được những khả năng thích ứng. Tự hỏi như một chất vấn nhưng cũng chính mình trả lời. Không được buông xuôi, không để xao lãng. Như những người đến hỏi Gioan: “Tôi phải làm gì?” Là một câu hỏi hay để điều chỉnh hoặc gia tăng tiến bước về phía trước không sợ lạc đường. Điều người thanh niên giàu có hỏi Chúa là quan trọng nhất: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” ( Mc 10, 17). Chắc chắn câu trả lời từ Chúa, đừng dựa vào của cải thế gian, mà hãy sống với Chúa và tuỳ thuộc nơi Người.
Dọn đường Chúa đến là dọn lại tâm hồn đã cũ kỹ qua năm tháng. Dọn lại những khúc mắc, băn khoăn, lo ấu. Dọn lại những tình bằng hữu, tình yêu vợ chồng, tình yêu gia đình, long bác ái yêu thương. Và cuối cùng bước tiếp trong năm mới, chặng đường mới trong tuơi vui, mạnh mẽ, cùng Chúa lớn lên trong đời.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng năm C tập trung vào việc dọn đường cho Chúa Cứu MV 3-C176
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng năm C tập trung vào việc dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với mỗi/mọi người. Vì Chúa Cứu Thế là Con Một Thiên Chúa, là Đấng Thánh của Thiên Chúa mang tên Giêsu Kitô nên Người xứng đáng được đón nhận một cách trọng thị nhất.
Nhung đọn đường như thế nào, bằng cách nào, bằng những việc làm cụ thể nào thì không ít người trong chúng ta còn lung túng. Những người Israel thời Gioan Tiền Hô cũng lung túng và thắc mắc như thế. Nên họ mới hỏi Goan: Vậy chúng tôi phải làm gì?” Câu trả lời của Gioan Tiền Hô chỉ cho chúng ta những việc phải làm.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 3,10-18: “Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: "Vậy chúng tôi phải làm gì?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy". Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" Gioan đáp: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi". Các quân nhân cũng hỏi: "Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?" Ông đáp: "Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình".
Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: "Có phải chính ông là Đức Kitô chăng?" Gioan trả lời cho mọi người rằng: "Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!" Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 3,10-18:
3.1 Câu hỏi dân chúng đặt ra cho Gioan tiền hô: Sau khi nghe Gioan tiền hô rao giảng nhiều người Israel đã chịu phép rửa trong dòng sống Giócđan bởi tay Gioan. Một số người còn lên tiếng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì” để dọn đường cho Đấng Mêsia đến? Câu hỏi hợp tình hợp lý hợp khung cảnh và làm Gioan hài long. Vì thế mà Gioan đã trả lời một cáh rành mạch.
3.2 Câu trả lời của Gioan tiền hô: Gioan tiền hô có câu trả lời chung cho tất cả moi người và có câu trả lời riêng cho một số thành phần dân chúng khác nhau.
a) Câu trả lời chung cho tất cả moi người: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy"
b) Câu trả lời riêng cho những người thu thuế "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi" và cho các binh lính: "Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình"
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 3,10-18:
4.1 Câu hỏi của mỗi người chúng ta: Uớc gì mỗi người chúng ta cũng biết đặt ra câu hỏi riêng của mình: “Phần riêng tôi, tôi phải làm gì đây? đế dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với tôi, với gia đình tôi, với mọi người? Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình và cũng hãy hỏi Chúa Thánh Thần, để có câu trả lời.
4.2 Câu trả lời của riêng mỗi người chúng ta: Nếu chúng ta chân thành tự hỏi mình và khiêm tốn hỏi Chúa Thánh Thần thì chúng ta sẽ có câu trả lời riêng của chúng ta. Và một khi đã có câu trả lời nghĩa là biết mình phải làm gì thì chúng ta hãy làm điều ấy ngay tức thì. Chúng ta đừng quên rằng trong đời thường cũng nhuu trong đời sống tâm linh, việc làm (actio/action) là yếu tố quan trọng nhất. Ví dụ phương châm kiềng ba chân của Phong trào Cursillo là mộ đạo/hiểu đạo và hành đạo. Mộ đạo và hiểu đạo là quan trọng nhưng quan trọng hơn vẫn là hành đạo.
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 3,10-18:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã đến trần gian để ở với chúng con và đưa chúng con về với Cha. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: "Vậy chúng tôi phải làm gì?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa tất cả mọi người quan tâm đến việc mình phải làm gì để có đời sống tử tế và thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùn g cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" Gioan đáp: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy luôn sống xả kỷ, vị tha khi thi hành sứ vụ của các vị.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Các quân nhân cũng hỏi: "Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?" Ông đáp: "Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu sống công bằng bác ái với mọi người xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người chưa biết, chưa tin Chúa để họ được ơn nhận ra Chúa Cứu Thế.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại chúng con.
Chúng con xin Cha ban Thánh Thần cho chúng con để Người soi sáng cho chúng con biết việc chúng ta phải làm và để Người ban cho chúng con sức mạnh để chúng con thực hiện được những điếu ấy hầu dọn đường cho Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế đến với chúng con và đến với mọi người. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa MV 3-C177
Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa sắp đến rồi. Quả thật, xưa kia, Chúa Nhật III Mùa Vọng này được gọi Chúa Nhật “hãy vui lên”, nhan đề được mượn từ thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật hôm nay.
Xp 3: 14-18
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ Xô-phô-ni-a mời gọi Giê-ru-sa-lem “hãy vui lên”, vì đã được Thiên Chúa sủng ái và sắp được Thiên Chúa viếng thăm.
Pl 4: 4-7
Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê “hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, chính Ngài là nguồn bình an.
Lc 3: 10-18
Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca thuật lại lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, lời rao giảng này xác định những nét đặc trưng của “Tin Mừng”.
BÀI ĐỌC I (Xp 3: 14-18)
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a sống vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên, ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào những năm 640-625 trước Công Nguyên.
Bối cảnh
Vào lúc đó, vương quốc Giu-đa được cai trị bởi một ấu chúa là Giô-si-gia, lên ngôi lúc tám tuổi. Thời kỳ này được ghi dấu bởi những di hại của một triều đại dài lâu do một vị vua vô đạo là Mơ-na-se: phong tục ngoại giáo, thờ cúng ngẫu tượng, bạo lực, gian lận, bất công xã hội, thói kiêu căng của những kẻ quyền thế, tinh thần hưởng thụ của những người giàu có, v.v… Vị ngôn sứ lớn tiếng phê phán lối sống vô đạo, thiếu tình người này và tiên báo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, đó sẽ là “Ngày của Đức Chúa”, ngày thịnh nộ. Tuy nhiên, đó sẽ không là ngày tận thế, vì Thiên Chúa sẽ cho sót lại một dân nghèo hèn và bé nhỏ, dân này sẽ không làm những chuyện tàn ác bất công, nhưng tìm nương ẩn nơi Đức Chúa.
Bài hoan ca được trích dẫn hôm nay mời gọi Giê-ru-sa-lem hãy vui lên, và ngay liền sau đó, gợi lên những người công chính thoát khỏi án phạt. Nguyên nhân sâu xa khiến Giê-ru-sa-lem hoan hỉ vui mừng chính là chắc chắn mình đã được Thiên Chúa sủng ái, đã được Thiên Chúa cứu độ, Ngài là Chủ Tể lịch sử và đang ngự giữa dân Ngài.
Niềm vui của dân Ngài cũng là niềm vui của Thiên Chúa
Điều ngạc nhiên nhất của bài hoan ca này đó là vị ngôn sứ thiết lập một sự đối xứng giữa niềm vui của dân thành Giê-ru-sa-lem và niềm vui của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ vui mừng hoan hỉ vì gặp lại dân Ngài.
Chắc chắn không cần thiết phải tìm kiếm xem biến cố nào đã gây nên niềm phấn khởi đầy lạc quan ở nơi vị ngôn sứ. Trước tiên, đây là viễn cảnh thời Thiên Sai. Bài thơ của ông ca ngợi vị Vua Cứu Tinh tiến vào Thành Thánh, Ngài là vị vua chiến thắng và giải thoát: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy xa”, vì thế “Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”. Trong ngôn từ của vị ngôn sứ, sự giải thoát là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa tha thứ: “Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng”.
Thành Thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan reo mừng đón tiếp Đức Vua của mình, chính Đức Chúa thân hành ngự giá đến ở giữa dân Ngài, Ngài là vị vua đích thật của Ít-ra-en. Trong một bản văn mang đậm nét Thiên Sai hơn, ngôn sứ Da-ca-ri-a ca ngợi niềm vui của Giê-ru-sa-lem bằng những lời lẽ tương tự: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỹ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Chúa của người đang đến với ngươi…” (Dcr 9: 9). Thành Đô Giê-ru-sa-lem được giải thoát và sống trong cảnh thái bình thịnh trị, bởi vì Chúa “sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi” như người yêu lấy tình thương mà biến đổi người mình yêu. Niềm vui của Thiên Chúa chẳng thua kém gì niềm vui của Thành Thánh. Thiên Chúa hạnh phúc được ở giữa những người mà tình thương của Ngài đã cứu thoát. “Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” vì dân Ngài đã thấy ơn cứu độ.
Một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ tam, cũng thấy Thiên Chúa vui mừng hoan hỉ, nhưng trong viễn cảnh cánh chung, Thiên Chúa liên kết mình vào niềm vui của những người được tuyển chọn: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo. Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng. Vì Giê-ru-sa-lem Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng. Nơi đây, sẽ chẳng còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la” (I s 65: 17-19). Thật ra bản văn của Xô-phô-ni-a gợi lên quang cảnh Thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời.
Niềm vui cứu độ thời Thiên Sai là niềm vui mà sứ thần loan báo cho Đức Ma-ri-a, thiếu nữ Xi-on tuyệt vời nhất: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà… Thưa bà, xin đừng sợ… Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 4-7)
Thánh Phao-lô cũng khẩn khoản kêu mời các tín hữu Phi-líp-phê hãy vui lên. Còn hơn cả lời khuyến dụ, lời mời gọi này là nguyên tắc căn bản trong thần học của vị Tông Đồ, đây là niềm vui tâm linh: “Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, đó là biểu thức quen thuộc của thánh Phao-lô.
Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa
Tuy nhiên, nhờ bức thư này, chúng ta biết các tín hữu Phi-líp-phê phải chiến đấu cam go vì niềm tin của mình: “Quả thế, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục” (Pl 1: 29-30).
Thánh Phao-lô đưa ra một mẫu gương về niềm vui này, vì vào lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, chắc chắn ở Ê-phê-xô. Thánh nhân đã nhận biết những đau khổ của sứ vụ tông đồ (vài người dân Cô-rin-tô đố kỵ vu khống ngài và cản trở sứ vụ của thánh nhân ở Ê-phê-xô), tuy nhiên, thánh nhân vẫn vui trong niềm vui của Chúa.
Sống hiền hòa
“Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi”. “Hiền hòa” là dụng ngữ của khoa khôn ngoan Hy lạp, đức hạnh này đặt nền tảng trên lý trí và mực thước, được thăng hoa ở nơi một cuộc sống hiền hòa. Thánh Phao-lô lập lại đức hiền hòa này trong lời khuyên gởi đến hai môn đệ và là cộng tác viên của ngài là Ti-mô-thê: “Không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, không hay gây sự, không ham tiền” (1Tm 3: 3) và Ti-tô: “Đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người.” (Tt 3: 2) Nếu dân ngoại tìm kiếm đức hạnh như vậy, huống chi là những người Ki-tô hữu. Còn gì tốt đẹp cho bằng các tín hữu phải nêu gương về một cuộc sống hiền hòa. Rõ ràng thánh Phao-lô gởi đến các Ki-tô hữu gốc Hy lạp, họ có thể hiểu được lời khuyên của thánh nhân.
Chúa đã gần đến
Những người Ki-tô hữu sống vui vẻ và hiền hòa vì họ xác tín ơn cứu độ đang ở trong tầm tay, điều mà các tác giả Tin Mừng diễn tả “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần rồi”. Thánh Phao-lô có một cái nhìn tăng tốc của lịch sử. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su đã thiết lập kỷ nguyên cứu độ; chắc chắn kỷ nguyên này sẽ triển nở viên mãn vào ngày Đức Giê-su quang lâm. Viễn cảnh này phải đem lại niềm vui tròn đầy cho người Ki-tô hữu, tuy nhiên, ngay từ bây giờ viễn cảnh này được khai mở trong một cuộc sống kết hiệp với Đức Ki tô.
Niềm vui, lời khẩn nguyện và bình an
Vui vì tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, do đó chẳng có gì phải lo lắng cả. Chính ở nơi niềm tin tưởng này mà lời khẩn nguyện và tâm tình tạ ơn được liên kết mật thiết với nhau. Mối liên kết này hoàn toàn thuộc truyền thống Kinh Thánh. Các tác giả thánh vịnh dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện và tâm tình cảm tạ tri ân của mình, đồng thời các ngài tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ đáp trả niềm tin tưởng của mình. Trong những viễn cảnh Ki-tô giáo, lời khẩn nguyện cắm rể sâu vào trong tâm tình cảm tạ và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ. Từ đó sinh ra một sự bình an trong tâm hồn, một sự bình an không phát xuất từ nỗ lực phàm nhân, nhưng từ lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài, một sự bình an vượt quá mọi hiểu biết phàm nhân.
Trong các thư của thánh Phao-lô, chúng ta cũng gặp thấy những lời khuyên tương tự, nhưng thư gởi tín hữu Phi-líp-phê được viết với những lời lẽ thân tình và tràn đầy tin tưởng, qua đó thánh Phao-lô để lộ những bí ẩn đời sống nội tâm của mình.
TIN MỪNG (Lc 3: 10-18)
Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng duy nhất cho nhiều chi tiết xác định về lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Bản văn này cũng dâng hiến một lợi ích lớn lao: thánh ký không rao giảng về những đề tài thần học khó hiểu, nhưng về đời sống. Bản văn bao gồm hai phần, tương xứng với chuyển động kép của câu chuyện: phát triển sứ điệp của thánh Gioan Tẩy Giả, khởi đi từ giáo huấn thực tiễn đến mặc khải về Đấng Mê-si-a; đồng thời phát triển tâm lý của những ai thực tâm muốn thay đổi cuộc đời mình, từ việc mở lòng mình ra thi hành đức ái và sự công chính, cho đến việc vươn mình lên tìm kiếm Thiên Chúa hay ít ra vị sứ giả của Ngài.
Đám đông
Đối với đám đông, những người đến xin được chịu phép rửa và bày tỏ ước nguyện thăng tiến trên con đường đức hạnh, thánh Gioan Tẩy Giả đề xuất nguyên tắc đức ái: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Việc san sẻ chia sớt cho nhau những hạt cơm manh áo là bước khởi đầu của sự biến đổi tấm lòng. Chúng ta đừng quên, thánh Lu-ca cũng là tác giả sách Công Vụ Tông Đồ, trong đó thánh ký đã mô tả hành động “tương thân tương ái”giữa các Ki-tô hữu tiên khởi: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung” (Cv 4: 32).
Những người thu thuế
Những người thu thuế bị quy trách nhiệm là những kẻ tham lam hút máu đồng bào của mình, bởi vì những người thu thuế này ứng trước tiền thuế dân chúng phải nộp cho đế quốc Rô-ma, sau đó, nâng cao tiền thuế của dân chúng để làm giàu cho mình. Hơn nữa, dân chúng khinh bỉ họ vì sự hiện diện của họ nhắc nhớ ách đô hộ của chính quyền Rô-ma trên dân Do thái và buộc tội họ là tay sai của thế lực ngoại bang và đối xử họ như “quân trộm cướp”.
Đức Giê-su thường giao du với “quân trộm cướp” này, những kẻ tội lỗi này; Ngài cũng sẽ đưa ra một người trong số họ làm mẫu gương cầu nguyện (Lc 18: 9-14). Chính họ mà thánh Lu-ca, ngay từ khởi đầu Tin Mừng, giới thiệu họ như những người thành tâm thiện chí muốn được hoán cải: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Thật lạ lùng, trong Tin Mừng Gioan những người Pha-ri-sêu cũng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, nhưng với thái độ hiếu kỳ và ngờ vực, vì thế họ từ chối hoán cải. Thói tự cao tự đại làm cho họ trở nên cố chấp trong khi những kẻ bị khinh bỉ, ghét bỏ lại là những người khiêm tốn mở lòng mình ra trước ánh sáng.
Đối với những người thu thuế này, thánh Gioan Tẩy Giả không đòi hỏi họ phải từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Đừng đòi hỏi điều gì quá mức ấn định cho các anh”.
Binh lính
Binh lính cũng đến hỏi thánh nhân: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Những binh lính này là ai? Chắc chắn không phải là binh lính Rô-ma, họ tránh không trà trộn vào đám đông dân chúng, cũng không phải binh lính Do thái, vì Rô-ma không cho các đất nước bị chiếm đóng quyền tổ chức quân đội. Chắc hẳn đây là dân quân tự vệ được chiêu mộ từ các dân tộc chung quanh, họ thường hộ tống những người thu thuế, vì việc thu thuế thường khó khăn. Khi kể họ là binh lính, phải chăng thánh Lu-ca có ý định khoác cho sứ điệp của Gioan Tẩy Giả một chiều kích phổ quát? Dù thế nào, họ cũng là hạng người bị dân chúng ghét cay ghét đắng như bọn người thu thuế. Đối với những binh lính này, thánh nhân cũng không đòi hỏi họ từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.
Dân chúng
Thật có ý nghĩa biết bao, vào lúc này, thánh Lu-ca không còn nói đến “đám đông”, nhưng đến “dân”: “Hồi đó, dân đang trông ngóng”. Như các ngôn sứ xưa kia, thánh Gioan kêu gọi họ hãy hoán cải đừng chần chờ gì nữa vì thời gian sắp đến gần rồi. Thánh nhân nói như một người có uy quyền khiến những ai trông đợi Đấng Thiên Sai tự hỏi: “biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mê-si-a!”. Qua sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta biết rằng trong suốt nhiều thập niên có những cộng đoàn môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, họ vẫn trung thành lời dạy của thầy mình và tôn kính thánh nhân như Đấng Thiên Sai (Cv 18: 24-25; 19: 1-7).
Lúc đó, thánh Gioan Tẩy Giả công bố cho mọi người biết rằng ông không là Đấng Thiên Sai. Với sự khiêm hạ, thánh nhân gợi lên sự cao cả vô cùng tận của Đấng mà ông chỉ là Tiền Hô của Ngài: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Lời này ám chỉ chính xác đến một truyền thống lâu đời, theo đó các kinh sư cấm không được bắt một người nô lệ Do thái làm một công việc nặng nhọc hay hèn hạ như cởi dày cho chủ hay rửa chân cho chủ. Ngay cả một công việc hèn hạ đến thế, thánh nhân tự nhận mình cũng không xứng đáng đối với Đấng mà ông có nhiệm vụ chuẩn bị con đường cho Ngài đến.
Phép rửa của Đấng Thiên Sai
Thánh Gioan Tẩy Giả nhấn mạnh sự khác biệt giữa phép rửa của ông và phép rửa mà Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. “Lửa” này phải chăng được hiểu là lửa của Chúa Thánh Thần như các Giáo Phụ đã hiểu, hay phải hiểu lửa theo Kinh Thánh, nghĩa là lửa có chức năng vừa thanh luyện những người công chính vừa tiêu hủy quân vô đạo? Chúng ta không biết chính xác, nhưng một điều chắc chắn, đó là thánh Gioan Tẩy Giả tự nhận mình là vị Tiền Hô, không chỉ của Đấng Thiên Sai nhưng cũng của Giáo Hội. Chính Giáo Hội sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, Đấng ngự xuống trên Giáo Hội như “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 1-4).
Đấng Thiên Sai Thẩm Phán
Khi mô tả chân dung của Đấng Thiên Sai với tư cách là một vị Thẩm Phán, Ngài sẽ tách biệt những người tốt ra khỏi những kẻ xấu, thánh Gioan Tẩy Giả định vị mình vào hàng những đại ngôn sứ, liên kết kỷ nguyên Thiên Sai và kỷ nguyên cánh chung vào trong cùng một viễn cảnh: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Giờ thu hoạch mùa màng sẽ tới, nhưng chậm hơn. Chính Đức Giê-su sẽ là vị Thẩm Phán của ngày Chung Thẩm.
Khởi điểm của Tin Mừng
“Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ”. Cũng như Tin Mừng Mác-cô, Tin Mừng Lu-ca đánh dấu khởi điểm Tin Mừng bằng lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Điều này khiến chúng ta nghĩ rằng khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với việc kể ra thánh Gioan Tẩy Giả và lời dạy của thánh nhân. Bản văn của thánh Lu-ca bày tỏ rất rõ nét khoa giáo lý này. Việc thực hành đức ái và công bình được xem như bước khởi đầu của việc hoán cải, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải dẫn đến việc kết hiệp với một con người, Đức Ki-tô. Chính trong Giáo Hội mà sự kết hiệp này sẽ được thực hiện. Đây là một trong những bài học, một bài học không nhỏ chút nào, của Tin Mừng hôm nay.
Cũng như Chúa Nhật IV Mùa Chay, Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật mầu hồng MV 3-C178
Cũng như Chúa Nhật IV Mùa Chay, Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật mầu hồng. Không biết truyền thống này có từ bao giờ, nhưng hẳn chúng ta thầm hiểu ý của Giáo Hội khi cho phép mặc phẩm phục mầu hồng trong Thánh Lễ. Mầu hồng gợi lên niềm vui, niềm hân hoan. Các bài đọc Lời Chúa cũng tràn đầy niềm hân hoan, phấn khởi. Tất thảy vì một lẽ này: đổi mới vì sợ hãi thì sẽ hời hợt và chóng qua, trái lại vì hân hoan phấn khởi mà canh tân cuộc đời thì sẽ thiết thực và bền lâu.
Sau khi nghe Gioan Tẩy giả rao giảng, dân chúng tuôn đến tham vấn: “chúng tôi phải làm gì đây?” Không ẩn mình trong đám đông, nhóm thu thuế, anh em binh lính cũng đến để xin hướng dẫn cách cụ thể đối với trường hợp của mình (x.Lc 3,11-14). Chắc hẳn người dân Israel thời bấy giờ đang khát khao sự xuất hiện của Đấng Thiên sai để giải thoát họ khỏi ách nô lệ ngoại bang. Và họ cũng như đã thông thuộc lời tiên báo của ngôn sứ Isaia năm nào về thời của Người: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi…Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Is 40,4-5). Qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta có thể nhận ra một vài lý do để phấn khởi, vui mừng:
-“Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Đấng Thánh của Israel thật cao cả”. Điệp khúc của đáp ca cho chúng ta một lý do để hân hoan đó là vì Đấng Thánh đang ở giữa chúng ta. Gioan Tẩy Giả cũng đã trả lời với một số tư tế và thầy Lêvi được phái đi từ Giêrusalem: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26). Đấng ấy chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Có Chúa ở cùng, chính là hạnh phúc bất tận. Có Đấng cao cả cũng là Đấng đầy lòng từ bi và hay thương xót ở cùng, thì chúng ta đâu còn sợ gì. Dù người mẹ nào có bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa không bao giờ bỏ chúng ta, vốn là hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Vấn đề là chúng ta đã thực sự nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa chưa? Câu trả lời nằm ở nơi thái độ của chúng ta, đó là có phấn khởi mừng vui hay không.
Nếu như chúng ta chưa thực sự mừng vui thì đó là một trong những dấu chỉ cho biết chúng ta chưa nhận ra Đấng Thánh, Đấng cao cả đang ở giữa chúng ta. Phận phàm hèn, làm thế nào để chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, Đấng ngàn trùng chí thánh? Chính Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta chìa khóa vấn nạn. “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Những lời khuyên của Gioan Tẩy Giả cho dân chúng cũng như cho binh lính và những người thu thuế xưa chính là cách thế giúp họ thanh tẩy tâm hồn để nên trong sạch. Và Ngài đã lưu ý rằng không phải cứ cúi mình xuống nhận dấu thanh tẩy mà được thanh sạch, nhưng phải thay đổi đời sống. Sau này chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định với người Pharisiêu đã mời Người dùng bữa rằng không phải do việc tẩy rửa bên ngoài mà làm cho chúng ta nên thanh sạch, nhưng phải đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho chúng ta (x.Lc 11,37-41).
-Hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã rút lại lời kết án. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và vì chúng ta, Người cũng quy tụ những kẻ hư hỏng, người tội lỗi về (x.Soph 3,14-18). Niềm vui của người được tha thứ tội lỗi là niềm vui thật khó tả, hơn nữa, khi đó là một món nợ, vượt quá khả năng chi trả của chúng ta. Một người được thứ tha sẽ trở thành nguyên cớ để nhiều người tội lỗi khác tin tưởng trở về. Bất cứ tội lỗi nào cũng có tính lây nhiễm ít nhiều. Cũng thế và hơn thế nữa, ân phúc tha thứ nào cũng có sức năng động lan tỏa. Đây chính là lý do để ngôn sứ Xôphônia mời gọi chúng ta hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn (Xp 3,14).
-Hãy vui mừng vì Chúa Kitô đã chọn chúng ta, không vì công nghiệp của chúng ta mà chỉ vì tình yêu của Người. Thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Philipphê rằng nếu tự hào về công trạng theo lề luật, thì ngài có thể hơn rất nhiều người. Nhưng ngài bỏ tất cả đằng sau, ngài chấp nhận mọi thua thiệt, trước một mối lợi lớn là được biết chúa Kitô (x.Pl 3,1-16). “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em…” (Ga 15,16). Vì đã chọn chúng ta nên Chúa Giêsu tự nguyện liên đới với chúng ta cho đến cùng. Người không chỉ làm con chiên gánh lấy tội nhân trần mà còn đón nhận loài người như đàn em đông đúc để thông chia phần phúc gia nghiệp đã hứa ban (x.Ep 1,3-14).
Tuy nhiên, một vấn đề cần làm sáng tỏ đó là niềm vui đích thật được biểu lộ như thế nào? Chắc hẳn đó không phải là những tiếng cười ha hả của những bữa tiệc tùng đầy sơn hào hải vị và rượu bia, và cũng chẳng nhất thiết là trạng thái lâng lâng, ngay sau khi đạt được một thành công trong kinh doanh hay trong thi đấu thể thao…Một niềm vui đích thật đó là tâm trạng của người cảm nhận mình được yêu thương vượt quá mọi công trạng mình đã có, vượt quá mọi khả năng mình đang có hay sẽ có. Tâm trạng này chính là sự bình an tận đáy tâm hồn khiến chúng ta can đảm vượt qua mọi thử thách và gian khổ, đồng thời thúc đẩy chúng ta nỗ lực sống đức ái, nghĩa là biết yêu thương một cách không tính toán, không chỉ với người dễ thương mà còn với người khó thương, với cả những người thù ghét và bách hại chúng ta. Có thể nói rằng các thánh tử đạo là những người đã thể hiện niềm vui đích thực này cách rõ nét.
Nước Trời là vương quốc của tình yêu và của niềm vui đích thật. Chúng ta có thể luận suy chân lý này qua các hình ảnh tiệc cưới mà Chúa Giêsu đã dùng để minh họa về thực tại Nước Trời và các hình ảnh mà Người nói về tình trạng trầm luân đời đời, đó là nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Mt 22,2; Mt 8,12). Mùa Vọng lại về, một trong những ý nghĩa của Mùa Vọng là chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Chúa nhập thể – nhập thế. Thiên Chúa đã làm người, đã vào trần gian và Người mãi ở với chúng ta cho đến tận thế (x.Mt 28,20). Nước Trời đang ở giữa chúng ta (x.Lc 17,21). Ước gì bà con lương dân, anh em khác đạo và cả những người tự nhận là vô thần, thấy được niềm vui đích thật nơi Kitô hữu chúng ta, một niềm vui được thể hiện qua sự an bình và tình yêu liên đới trong những chia sẻ cách vô vị lợi. Trăm nghe không bằng một thấy. Thiết tưởng rằng đó cũng là một lời loan báo tin mừng khả tín không thua, mà có khi lại hơn những tổ chức “lễ hội đình đám” bên ngoài trong dịp mừng Chúa Giáng Sinh.
Mơ ước chung chung ở đời vẫn cho rằng: ăn ngon phải ngủ ngon mới hạnh phúc, làm ra tiền MV 3-C179
Mơ ước chung chung ở đời vẫn cho rằng: ăn ngon phải ngủ ngon mới hạnh phúc, làm ra tiền, biết cách sử dụng tiền, thế mới gọi là thành công. Nếu có lụa là nhung gấm đẹp, có vóc dáng chuẩn, lại gặp thợ thiết kế giỏi, người đó đúng là được phúc lộc đất trời ưu đãi. Thời nào cũng vậy: nói ngọt, lọt tới xương, thầy nói hay, trò nghe giỏi, gia đình xã hội tiến triển còn gì tốt hơn, mong muốn được như thế mới ở phạm vi lý thuyết, nếu bao lâu “thầy trò” chưa sống lời hay ý đẹp mà họ đã am tường. Miệng dẻo, tai không dị tật, gọi là một lợi thế, nếu muốn đạt tới lý tưởng trọn vẹn, người ta cần đôi mắt tinh thông và cái đầu sáng suốt, hầu có thể hiểu và sống “cháy bỏng” hơn cho ơn gọi riêng của mình.
Ở trên đời này, người ta muốn có bằng cấp, đều phải nghiêm túc chăm chỉ học tập, và rồi làm sao bạn có thể nghe được, hiểu được vấn đề, nếu không có thầy truyền đạt hướng dẫn ? Cũng chẳng hề có vị thầy nào diễn thuyết hùng biện, cuốn hút, nếu người thầy đó không có kiến thức và một chút kỹ năng về tâm lý truyền đạt. Muốn được gọi là đại gia, người ta chỉ cần có việc làm ổn định, thu nhập cao ; muốn tốt danh hơn lành áo, người ta phải có đời sống trung thực, lưu tâm hơn đến phẩm chất đạo làm người của mình. Xưa kia Gioan đã lắng nghe và hiểu được ơn gọi và sứ mạng của ông ở rừng sâu, ông đã tu thân tích đức để “tiền hô” cho Đấng cứu thế. Rồi từng đoàn người đông đảo, họ đã được thôi thúc đến để nghe Gioan hướng dẫn, chỉ dạy đường đi nước bước, hầu gặp Đấng mà họ đang ngóng trông.
Quy luật ở đời, “tri – hành”, chính là con đường dẫn người ta vượt qua gian khổ để đến hạnh phúc thật: có vay có trả, có nợ có đòi. Có biết mà không sống, thì gọi là nổ, là bom, học giỏi mà không thực hành, thiên hạ mỉa mai nào có oan: nửa thằng, nửa ông ; nửa người nửa ngợm, nửa đười ươi. Kinh nghiệm cho thấy, người ta không thể có bình an thật, khi họ đang làm việc mờ ám, thất đức ; người ta sẽ chẳng cần ai tham mưu tư vấn làm gì nữa, đang khi họ nói gì đều có kẻ vỗ tay, làm việc nào cũng thành công rực rỡ ! Hãy dõi nhìn nơi rừng sâu năm xưa có đủ thành phần: người thu thuế, các quân nhân, đám đông dân chúng tìm đến với Gioan, xin chịu phép rửa thống hối, họ xin Gioan chỉ cho việc phải làm, và họ hoàn toàn tâm phục khẩu phục !
Ở sông Gio-đan, nhiều đối tượng khác nhau tìm đến với Gioan không phải ông đẹp khoẻ, hay ông sẽ chỉ cho cách kiếm tiền, nhưng vì nơi Gioan có một “lực hút”: lưu loát thuyết phục, vì ông ý thức được sứ mạng của ông là dọn đường, chuẩn bị cho Đấng đang tới. Gioan rao giảng bằng đời sống nhiệm nhặt, đầy nhiệt huyết tông đồ, Đấng mà ông tin yêu, Đấng mà nhân loại đang chờ mong. Hãy nghe và hãy thực hành, sẽ mãi là một bài học cho những ai muốn hiểu, muốn sống, muốn cảm nhận rất “siêu nhiên” về sứ mạng được “ơn trên” trao phó. Hãy nghe và đem ra thực hành, kinh nghiệm truyền đạt của Gioan, phương pháp thuyết phục được đám đông của Gioan không phải là bằng cấp, mà bằng cách sống, bằng niềm tin vào Đấng yêu mến ông. Đám đông hôm xưa vô cùng hạnh phúc vì họ được nghe, được thấy, được hiểu, bằng cả mắt xác phàm và mắt tâm hồn như họ đã “tự hỏi trong lòng về Gioan: có phải chính ông là Đức Kitô chăng” ? Họ thích thú vì trăm nghe không bằng một thấy.
Biết bao tâm hồn xưa cũng như nay, họ vẫn tìm kiếm hiền tài qua diện mạo của trời đất, qua dung mạo của thầy tư vấn: khôn ngoan hiện ra mặt, đức độ biểu lộ ra cách sống. Gioan vui và tự tin vì ông có sự khôn ngoan nội tâm, đám đông vui và hạnh phúc vì được nghe, được cảm nghiệm về lần “du hành sám hối” tại hoang địa, tất cả không phải vì ai hay ai giỏi, mà do Đấng họ tin thờ thương yêu ban ơn, chúc phúc cho thao thức của họ. Ơn gọi làm người trước hết và trên hết là lời gọi sống vui sống khoẻ, lời gọi tự nhiên đó, chỉ cần một chút ý thức đến tác động của khôn ngoan khi đầu tư công sức, như thế là họ đã nghe chuẩn, và sẽ biết thực hành đạo làm người. Ơn gọi làm con Chúa, ơn gọi làm công dân của Nước trời, cũng phát xuất từ khôn ngoan của ý chí, tấm lòng, nối kết trong khiêm tốn để lắng nghe và thực hành trọng trách, bổn phận, theo sứ mạng riêng của mỗi người.
Người tín hữu chúng ta đang sống trong lộ trình mầu tím của hy vọng, và rồi chúng ta lại được dẫn tới mầu hồng của yêu thương, qua Gioan Tiền hô, qua tiếng gọi sâu thẳm từ bên trong, chúng ta được mời gọi cụ thể rõ ràng về việc thanh luyện nội tâm, hầu đón nhận ơn bình an, niềm vui trong trắng mà Con Thiên Chúa ban tặng. Cùng với các thánh hiền từ cổ chí kim, cùng với tiền nhân dồi dào kinh nghiệm, chúng ta sẽ không dừng lại ở việc nhìn xem sự hào nhoáng của văn minh thời đại. Sẽ không mở mắt, mở tai, mở trí lòng, để nghe lời hấp dẫn: ngọt như đường cát, mát như đường phèn của thế lực tiền tài danh vọng, nhưng là cùng nghe, cùng vui lên trong tình Chúa tình người của phúc lộc an hoà đang tới. Amen.
Có đôi khi chúng ta tự hỏi: tại sao mình lại phải cho người này, biếu người kia? Tại sao mình phải MV 3-C180
Có đôi khi chúng ta tự hỏi: tại sao mình lại phải cho người này, biếu người kia? Tại sao mình phải phục vụ những người chẳng quen biết với mình?Thực ra, việc cho và nhận đó là một vòng tròn tuần hoàn của đời ngừơi. Con người đã biết nhận thì cũng phải biết cho đi. Tôi vẫn nhớ một bài thơ viết rằng:
Nếu là con chim, chiếc lá, Thì con chim phải hót ,chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình
Người ta còn ví đời người như dòng sông, luôn trôi đi và chảy xuôi ra biển. Nhưng dòng tuần hoàn sẽ đến một lúc từ biển bao la sẽ rót vào những dòng sông mênh mông tràn đầy, mạch luân lưu không ngơi nghỉ ấy chính là cuộc sống.
Nhận và cho là sông và biển luôn cho và nhận với nhau. Thế nên, có ai đó nói rằng: “Tôi học cách cho đi không phải vì tôi đã có quá nhiều, mà vì tôi đã biết ý nghĩa và cảm giác của việc cho đi”.Khi chúng ta cho đi những điều tốt đẹp thì chúng ta sẽ nhận được sự bình yên trong tâm hồn. Khi chúng ta cho đi từ tình yêu thương thì chúng ta sẽ nhận được hạnh phúc niềm vui vì cuộc đời mình có ý nghĩa
Trên môt chuyến xe lửa đang chạy trên đường cao tốc, một người đàn ông không cẩn thận làm rơi một chiếc giầy mới mua ra ngoài cửa sổ, mọi người chung quanh đều cảm thấy tiếc cho ông. Bất ngờ, ông liền ném ngay chiếc giầy thứ hai ra ngoài cửa sổ đó. Hành động này khiến mọi người sửng sốt, thế là ông bèn từ tốn giải thích: “Chiếc giầy này bất luận đắt đỏ như thế nào, đối với tôi mà nói nếu chỉ còn một chiếc thì nó không còn có ích gì nữa, nếu như có ai có thể nhặt được đôi giày, nói không chừng họ còn có thể mang vừa nó thì sao!”.Người đàn ông đó sau này đã trở thành lãnh tụ được yêu mến của đất nước Ấn Độ. Tên ông là Ganhi.
Phụng vụ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng mời gọi chúng ta hãy vui lên. Vui lên vì Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Vui lên vì giờ hồng phúc đã đến với con người chúng ta. Và niềm vui này càng được nhân lên khi Gioan mời gọi mọi thành phần hãy làm điều thiện, điều tốt cho anh em. Gioan bảo đám đông dân chúng hãy làm cho xã hội vui lên qua việc thực thi bác ái một cách quảng đại với tha nhân: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Xã hội sẽ vui hơn nếu con người biết sống công bình với nhau. Cuộc đời sẽ vui hơn nếu người nghèo được quan tâm, được giúp đỡ. . . Xã hội sẽ hòa bình trật tự nếu mọi người biết tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của nhau thay cho những hà hiếp, áp bức làm đau lòng nhau. . .
Có ai đó nói rằng: cuộc sống vốn đầy khổ đau rồi, đừng chồng chất gánh nặng lên nhau. Hãy sống làm vui lòng nhau hơn là đầy đọa nhau. Không ai lại vui khi nhìn thấy người khác khóc. Tại sao chúng ta không đối xử nhân ái với nhau thay vì cứ nói xấu, hay tìm cách loại trừ nhau? Làm đau lòng nhau đâu khiến ta vui lên?
Trong năm mục vụ với chủ đề đồng hành với những gia đình khó khăn như mời gọi chúng ta hãy thể hiện tình yêu một cách cụ thể là nhường cơm xẻ áo cho người đói ăn. Hãy tạo tình liên đới khi mời một gia đình nghèo hay người tha hương nghéo khó cùng ăn cơm với gia đình trong ngày Noel. Hãy sống khoan dung khi tha nợ cho những người bất hạnh đang gặp rủi ro, tai nạn trong làm ăn. Hãy sống tình tha thứ thay cho những đố kỵ ghen tương. Hãy xây dựng hòa bình thay cho những xung đột, hiềm khích lẫn nhau . . .
Xin cho đời sống của chúng ta luôn mang lại niềm vui cho nhân thế qua việc bác ái, phục vụ . Xin cho lời loan báo tình thương của chúng ta luôn đi đôi với việc làm để muôn dân sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, và cùng ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Amen
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” ( Pl 4,4).
Hôm nay là Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng. Còn gọi là Chúa Nhật HỒNG. Hôm nay sẽ đốt cây MV 3-C181
Hôm nay là Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng. Còn gọi là Chúa Nhật HỒNG. Hôm nay sẽ đốt cây nến màu HỒNG và Chủ Tế cũng mặc áo màu HỒNG. Màu hồng là màu của niềm vui; màu của hạnh phúc; màu của tình yêu.
Thánh Phao-lô kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”. Nghĩa là ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa chứ không phải của con người hay của thế gian. Niềm vui của con người, của thế gian, là khi ta có nhiều tiền lắm của; ta được vinh hoa, phú quí. Quả thật niềm vui này chóng qua và vô bổ. Chúng không làm cho ta an bình và hạnh phúc; trái lại chúng làm cho ta bất an và bất hạnh.
Bất an vì ta luôn nơm nớp lo sợ mất tiền mất của; sợ người ta chôm chỉa; sợ người ta giành giật vinh hoa, phú quí của ta. Bất hạnh, vì tiền của không mua được hạnh phúc. Thực tế cho thấy, càng lắm của nhiều tiền lại càng sinh nhiều vấn đề, gây chia rẽ và bất đồng. Xưa kia nghèo khổ thì đồng lòng, chung sức; nay giàu sang thì mỗi người một hướng, ganh tị, hơn thua.
Có ai giàu mà hạnh phúc bao giờ. Có ai hạnh phúc mà giàu có bao giờ. Hạnh phúc và giàu có thường là tỉ lệ nghịch chứ không tỉ lệ thuận. “Nhiều” hạnh phúc thì “ít” giàu có và “nhiều”giàu có thì “ít” hạnh phúc. Phải chọn một trong hai. Chỉ có một chứ không có cả hai. Đó như là qui luật bất thành văn vậy.
Niềm vui trong Chúa sẽ tồn tại mãi, làm cho ta sống trong bình an và hạnh phúc. Làm sao ta có được niềm vui trong Chúa đây ? Thánh Phao-lô nói: “Vui lên anh em, sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi, vì Chúa đã gần đến” (x. Pl 4,4,5). Quả thật, có niềm vui thì ta mới sống hiền hòa và rộng rãi được. Ai sống hiền hòa và rộng rãi, chứng tỏ người đó có niềm vui trong Chúa. Nếu ta chỉ có niềm vui của con người, của thế gian, ta không sống hiền hòa và rộng rãi được đâu, trái lại ta sẽ hùng hổ giữ danh, giữ của và sợ Chúa đến lắm.
Càng chính xác hơn, đối với người đang yêu. Đây là tình yêu đích thực. Mà tình yêu đích thực là tình yêu trong Chúa; tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là tình yêu” mà (x.1Ga 4,8). Ai đang sống trong tình yêu thì người đó sống hiền hòa và rộng rãi. Họ thấy cái gì cũng đáng yêu, dễ yêu, dễ mến. Nhất là những gì thuộc về người yêu của họ. Khi yêu rồi thì cái gì cũng đẹp hết. Thật là chí lý !!! Người ta nói không sai: “Khi yêu củ ấu cũng tròn; khi ghét thì quả bồ hòn cũng méo”.
Khi yêu rồi thì cái gì cũng màu hồng; đời là màu hồng; tâm hồn là màu hồng; cứ phơi phới; cứ thấy vui vui làm sao ấy !!!! Sống trên mặt đất mà cứ như đi trên mây vậy. Niềm vui đó xuất phát từ con tim; từ cõi lòng; từ Thiên Chúa. Họ không phải là đeo kính hồng, mà họ có trái tim hồng; có tâm hồn màu hồng. Họ không giữ tiền, giữ của mà cho đi tất cả những gì họ là, những gì họ có. Họ cho đi tất cả tâm tình, cuộc sống; họ dành tất cả những tâm tư, tình cảm cho người họ yêu.
Có thể nói yêu và hạnh phúc là tỉ lệ thuận. Càng yêu bao nhiêu thì càng hạnh phúc bấy nhiêu. Và càng hạnh phúc bao nhiêu thì càng yêu bấy nhiêu. Nhất là yêu nhau mà lại ở xa nhau. Khi gần đến lúc được gặp nhau thì không có hạnh phúc nào bằng. Yêu nhau mà phải sống xa nhau, quả là một “cực hình”. Nhưng “cực hình” này có “cực” một chút mà “hình” như hạnh phúc dâng trào. Cứ như “hình” với bóng, lúc nào cũng có nhau trong tư tưởng, trong con tim, dù xa hay gần. Có thể nói “Cực hình” này là thiên đàng chứ không phải hỏa ngục; là “Cực hình” hạnh phúc.
Thánh Phao-lô nói tiếp: “Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (x. Pl 4,6).
Không lo lắng, ta sẽ có bình an và niềm vui. Lo lắng đây là lo lắng về tiền của, danh vọng. Ta đừng lo lắng về những thứ đó.
Trong mọi hoàn cảnh, nghĩa là dù vui hay buồn; dù khỏe hay ốm; dù thất bại hay thành công; dù đủ hay thiếu, ta hãy cầu khẩn, van xin và tạ ơn Chúa. Những gì ta lo lắng, ta muốn, ta ước ao, ta hãy giãi bày trước Thiên chúa. Những khi ta buồn, ta ốm, ta thất bại, ta thiếu thốn, ta hãy van xin Chúa với tấm lòng chân thành và tha thiết. Những khi ta vui, ta khỏe, ta thành công, ta no đủ, ta hãy tạ ơn Chúa.
Làm được như thế, chắc chắn ta sẽ có niềm vui trong Chúa và có sự bình an của Chúa.
Thứ đến, “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn thì cũng làm như vậy” (x. Lc 3,11).Đó là niềm vui chia sẻ.
“Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định” (x. Lc 3,13). Nghĩa là những gì đã được ấn định và quyết định thì cứ thế mà theo, mà làm. Đó là niềm vui xin vâng.
“Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người; hãy bằng lòng với đồng lương của mình” (x. Lc 3, 14). Nghĩa là bằng lòng với những gì mình có, mình là. Mình thế nào thì mình chấp nhận mình như thế; không bắt chước ai; không so bì với ai; không ghen tị ai, cũng như không ghen ghét ai. Như thế ta sẽ không hà hiếp ai, không chiếm đoạt của ai, vì mình cảm thấy những gì mình có là đủ. Đó là niềm vui chấp nhận.
Quả thực, khi ta vui vẻ chấp nhận tất cả; ta vui vẻ xin vâng theo thánh ý Chúa; khi ta vui lòng chia sẻ những gì mình có thì ta sẽ sống hiền hòa, rộng rãi; ta sống trong bình an và hạnh phúc. Điều đó, làm cho Chúa vui mừng và hoan hỷ. Chúa sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới ta; thánh hóa ta, làm cho ta nên thánh nên thiện.
Đối với người đang yêu, họ chấp nhận tất cả để yêu và được yêu. YÊU là trên hết, họ không hà hiếp nhau nhưng tôn trọng và nâng niu. Họ “nâng nhau như nâng trứng; họ hứng nhau như hứng hoa”. Họ chẳng phải dùng mánh khóe hay mưu mô gì để chiếm đoạt nhau cả. Tình yêu đã chiếm đoạt họ và họ đã thuộc về nhau, không gì có thể tách họ ra được. Trời có gầm, họ cũng không nhả. Họ bằng lòng chấp nhận nhau với tất cả con người, khả năng và tính khí của nhau.
Họ vâng nghe nhau. Cái gì tốt, cái gì hay, cái gì đẹp họ bàn bạc, họ chia sẻ; không có chuyện hơn thua; cũng không đòi nhau phải như thế này, phải như thế kia mới được. Không. Có làm sao thì họ chấp nhận như vậy.Họ đồng lòng; họ cùng chung một ý hướng, để xây dựng một mối tương quan tốt đẹp; để xây dựng một mối tình chung thủy và bền vững. Mối tình đó làm cho Chúa vui lòng và Chúa sẽ lấy TÌNH YÊU của Ngài mà thánh hóa và đổi mới TÌNH YÊU của họ, làm cho họ luôn bình an, luôn vui mừng và luôn hạnh phúc.
Vậy, ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa và đừng lo lắng gì cả, để ta ta luôn vui vẻ chấp nhận tất cả; xin vâng tất cả và chia sẻ tất cả. Hôm nay là ngày vui của ta, ngày hạnh phúc của ta và thế là ngày nào ta cũng vui, ngày nào ta cũng hạnh phúc.
Hãy YÊU đi, hãy YÊU với hết tấm chân tình của mình đi, thì cuộc sống ta sẽ là “bể vui”; cuộc đời ta sẽ là “bể hạnh phúc”. Ta sống trên trần gian này là để YÊU; một đời để YÊU; một đời hạnh phúc; một đời màu HỒNG TƯƠI.
Tất cả các bài đọc và Tin Mừng hôm nay đều diễn tả một niềm vui khôn tả trên đường đi gặp MV 3-C182
Tất cả các bài đọc và Tin Mừng hôm nay đều diễn tả một niềm vui khôn tả trên đường đi gặp Thiên Chúa, là Thiên Chúa cứu độ. Nơi Ngài, không còn sợ hãi, vì Ngài là sức mạnh (Is 12, 2), và niềm vui bật thành lời ca tiếng hát, câu hò chúc tụng Thiên Chúa đang ở giữa dân Người sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới muôn dân.
Thực vậy, bầu khí chúa nhật thứ ba muà vọng thật tưng bừng, phấn khởi và ngôn sứ Xôphônia đã hoan hỷ kêu gọi trong bài đọc thứ nhất: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi, nhà Ít-ra-en hỡi, vì án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại” (Xp 3,14-15). Quả thực, không gì hạnh phúc cho can phạm khi án toà được hủy bỏ, lệnh tống giam được xé đi, và Đức Chúa đã đến như vị cứu tinh, người giải phóng, Đấng Cứu Độ để đem hạnh phúc cho dân Người.
Thánh Phaolô thì dường như xuất thần với niềm vui Chúa đã đến gần, và kêu gọi mọi người vui lên trong Chúa bằng sống hiền hoà, quảng đại, chân thành, tử tế, nhất là cầu nguyện và kết hợp với Đức Giêsu Kitô (x. Pl 4, 4-9).
Cũng trong niềm vui Đức Chúa đã đến gần, Tin Mừng Luca tiếp tục triển khai lệnh lên đường của Thiên Chúa đã được Gioan Tẩy Giả loan báo, kêu gọi. Trả lời câu hỏi của đám đông : “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3, 10), Gioan đã trình bầy công việc phải làm của người đáp lời kêu gọi dọn đường, lên đường, sám hối của ông. Theo Gioan, có ba công việc phải làm :
1. Chia sẻ cơm ăn, áo mặc với anh em :
Gioan không úp mở xa gần, nhưng bộc trực, huỵch toẹt: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3, 10). Đơn sơ, ngắn gọn, nhưng thiết thực và hữu hiệu: chia sẻ cơm áo với người thiếu thốn chung quanh. Người đói ăn, thiếu mặc thì khắp nơi, không tìm cũng thấy, không mong cũng gặp, nên ai cũng có cơ hội để chia sẻ những gì mình có, cho đi những gì mình dư thừa cho người anh em thiếu thốn, đang cần được giúp đỡ.
Ngay từ buổi đầu, nghiã là trước khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Ngài đã nắm bắt chính xác đòi hỏi tất yếu của Tin Mừng, đó là Yêu Thương, Chia Sẻ. Là người đi trước dọn đường, Gioan đã thấy con đường Đức Giêsu mở ra, cũng là con đường Ngài đi và bất cứ ai muốn theo Ngài cũng sẽ phải đi : con đường Bác Ái, con đường Xót Thương, con đường Chia Sẻ.
2. Công Bình trong ứng xử :
Công việc thứ hai phải làm là công bình : “Đừng đòi hỏi gì qúa mức đã ấn định” (Lc 3,13). Đòi hỏi ai điều gì quá mức quy định họ phải làm là vi phạm luật công bình, bởi mỗi người có trách nhiệm, nhưng cũng có quyền lợi đi đôi với trách nhiệm ấy. Đòi hỏi ai làm qúa trách nhiệm là bất công với họ, cũng như bắt người khác làm quá nhiều, quá sức, quá độ, quá khả năng, mà không cho quyền lợi tương xứng là bóc lột, vi phạm luật công bằng.
Công bình không chỉ đòi chúng ta tôn trọng quyền sở hữu, mà còn tôn trọng quyền sống làm người của người khác, và trong mọi trường hợp, công bình luôn là nền tảng của bác ái. Không thể có bác ái, không thể quảng đại sẻ chia, nếu thiếu phân minh, công bình. Như thế, chẳng khác nào người tham nhũng đi làm từ thiện bằng tiền cắc của khối tiền tham những kếch xù. Việc từ thiện đó tưởng do lòng bác ái, nhưng thực chất chỉ là trò giả hình gian xảo, điếm đàng, lừa lọc, cốt che mắt phàm nhân, nhưng sao che được mắt Thiên Chúa ?
Vì thế, công bình rất cần thiết và không thể thiếu trong đời sống người lữ hành theo Đức Gêsu trên đường Sự Thật và Yêu Thương, bởi cả sự thật và yêu thương đều không thể thiếu công bình như nền tảng, bệ phóng.
3. Không bạo lực :
Công việc thứ ba Gioan khuyên phải làm, đó là : “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta” (Lc3,14). Hà hiếp, tống tiền là đàn áp, trấn lột, và tất nhiên để thực hiện việc hà hiếp, tống tiền, người ta cần xử dụng bạo lực. Có thể là bạo lực ngôn từ, bạo lực chân tay, bạo lực vu khống, bạo lực gieo tin đồn thất thiệt, bạo lực vũ khí… Cách nào của bạo lực thì cũng là bạo lực, là vi phạm luật giao thông của Con Đường Sự Thật và Tình Yêu, bởi làm tổn thương con người, vì con đường này Thiên Chúa đã lập nên cho hạnh phúc của con người.
Gioan Tẩy Giả đã hiểu rõ hơn ai hết, vì ngài là Tiền Hô của Đức Giêsu, giá trị của sự hiền lành, không bạo lực, bởi chính Sự Thật sẽ giải giới mọi bạo lực, vì Sự Thật có sức mạnh giải phóng toàn diện, không để con người chìm đắm trong u mê, tăm tối của gian dối, lầm lạc là nguyên nhân đưa đến mâu thuẫn, chia rẽ, đố kỵ, tạo cơ hội cho bạo lực chiếm sân, can thiệp. Sự hiền lành, nhu mì cũng rất cần thiết để sống Yêu Thương, vì người có lòng yêu mến anh em mình, sẽ không thể chung sống với bạo lực, vì bạo lực là kẻ thù của Tình Yêu.
Và để đám đông hiểu rõ hơn đòi hỏi cấp bách phải thay đổi não trạng, thay đổi nếp nghĩ cũ, thay đổi lối sống vô độ, gian ngoa, thù hận, Gioan Tẩy Giả cho mọi người biết thêm : “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,16). Tuyên bố này xác định thật rõ ràng, chính xác : Anh em phải khẩn trương thay đổi, vì Đấng đến sau tôi cao cả hơn tôi rất nhiều, nên đòi hỏi còn gắt gao nhiều lần hơn, bởi “tay Người sẽ cầm nia ria sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3,17).
Tóm lại, Thiên Chúa muốn chúng ta đón rước Ngài bằng bước đi với Ngài trên con đường Sự Thật và Tình Yêu, bằng sống đời công bình, bác ái, tẩy chay bạo lực nhưng xây dựng hoà bình. Trên con đường có Chúa đồng hành và chờ đón, ta nhận được Niềm Vui ơn Cứu Độ, và có Chúa là nguồn Bình An (Pl 4, 9). Chính nguồn “bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4,7), sẽ giữ lòng trí chúng ta được kết hợp với Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ là Sự Sống, Sự Thật, và Tình Yêu đang đến trong nhà chúng ta.
Có thứ niềm vui nhưng sau đó đem đến cho người ta cảm giác trống rỗng, như vui trong men rượu MV 3-C183
Có thứ niềm vui nhưng sau đó đem đến cho người ta cảm giác trống rỗng, như vui trong men rượu. Có thứ niềm vui nhưng sau đó khiến người ta cảm thấy đời vô nghĩa như những buổi tiệc tùng, vui chơi vô ích. Có thứ niềm vui nhưng sau đó khiến người ta hối hận, nhiều khi không còn kịp nữa, như vui với nàng tiên nâu, vui với anh hùng tốc độ. Có thứ niềm vui, nhưng sau đó đem đến mặc cảm tội lỗi như vui trong men tình… Tuy nhiên có một niềm vui trọn vẹn, niềm vui tròn đầy, niềm vui viên mãn, niềm vui vĩnh cửu… đó chính là niềm vui ơn cứu độ mà phụng vụ lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài đọc I: Xp3, 14-18a
Tiên tri Xôphônia rao giảng vào khoảng thế kỷ thứ VII trước công nguyên, trong hoàn cảnh đất nước Do Thái thật tồi tệ, bên ngoài thì bị kẻ thù vây hãm xâm lăng, bên trong thì đời sống đạo đức suy đồi. Trong hoàn cảnh như vậy nhưng tiên tri Xôphônia vẫn có tinh thần lạc quan và mời gọi dân chúng “Hãy reo vui lên! Hãy hò vang dậy đi nào!”.Tại sao? Thưa vì: “Án lệnh phạt ngươi Đức Chúa đã rút lại”, vì “Thù địch ngươi Đức Chúa đã đẩy lùi xa”. Tại sao nữa? Thưa tại vì: “Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa người”. Đó là những lý do mà tiên tri Xôphônia mời gọi dân Chúa hãy vui lên.
Thánh vịnh: Is 12
Thánh vịnh này triển khai tâm tình lạc quan của bài đọc I. Lý do khiến họ lạc quan là vì Thiên Chúa là chính sức mạnh, là Đấng cứu độ họ. Vì vậy họ mừng vui và hoan lạc, vì “ở giữa ngươi có Đấng thánh của Israel thật là cao cả”
Bài đọc II: Pl 4, 4 -7
Thánh Phaolô mời gọi giáo dân thành Philiphê “Hãy vui lên!” để chắc chắn ông còn nhấn mạnh: “Tôi nhắc lại hãy vui lên anh em!” Nhưng không phải niềm vui bình thường, mà là “Vui lên trong niềm vui của Chúa”. Và niềm vui này không chỉ là một tình cảm, mà là hoa trái của một đời sống: “Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi. Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa”.
Tin Mừng: Lc 3, 10-18
Luca giới thiệu cho chúng ta một trong những khuôn mặt nổi bật trong mùa Vọng, đó chính là Gioan Tẩy giả. Sự xuất hiện của Gioan Tẩy giả trở thành dấu chấm hỏi cho những người thời bấy giờ, vì ông được thành hình trong khi cha mẹ ông đã già nua. Ông vào hoang địa sống một đời sống khắc khổ trong khi gia đình ông thuộc hạng trung lưu, và người thời đó đang tìm cách để sống hưởng thụ… Chính vì vậy khi ông xuất hiện, mọi người đã tuôn đến với ông để nhờ ông hướng dẫn, chỉ bảo. Một câu hỏi được lặp tới lặp lui trong bài Tin Mừng hôm nay là: “Chúng tôi phải làm gì đây?”Mọi hạng người đều hỏi Gioan như vậy, chứng tỏ mọi người đều mong muốn cho mình được một niềm vui, hạnh phúc thực sự. Tùy theo đối tượng mà Gioan đã chỉ dạy họ phải làm những việc cụ thể để có được niềm vui đích thực.
Qua đó phụng vụ lời Chúa của CN 3 Mùa Vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên vì Chúa đã đến gần. Muốn có được niềm vui đó thì mỗi người phải hành động cụ thể theo lời chỉ dạy của Gioan Tẩy Giả.
II. LỜI DẠY CỦA GIOAN
Khi người dân hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Ông trả lời: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng hãy làm như vậy”. Gioan mời gọi họ hãy biết sống bác ái với mọi người xung quanh. “Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc…”
Những người thu thuế cũng đến hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Gioan cũng trả lời: “Đừng đòi hỏi những gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Gioan mời gọi họ hãy sống công bằng: “Của Cesa trả cho Cesa, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Thuế quy định làm sao thì thu như vậy chứ đừng tìm cách gian lận, chiếm đoạt của dân chúng.
Chính quyền cũng đến hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì đây?” và Gioan trả lời:“Các anh đừng ăn hiếp dân chúng”. Nghĩa là Gioan mời gọi họ hãy biết sống yêu thương và phục vụ cho dân chúng. “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hy sinh mạng sống mình”.
III. ĐỂ CÓ ĐƯỢC NIỀM VUI
Cùng với Giáo hội, chúng tra đang quan tâm đến các gia đình, đặc biệt năm 2019, chúng ta “Đồng Hành Cùng Những Gia Đình Gặp Khó Khăn”. Để đồng hành với những gia đình gặp khó khăn thì mỗi người cần ý thức để có niềm vui ơn cứu độ theo sự hướng dẫn của Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bác ái
Việc sống bác ái ở đây không phải là cho người khác những thứ dư thừa, mà là san sẻ những gì mình có trong tinh thần “chia cơm sẻ áo”, “hạt gạo cắn làm đôi”: “Ai có hai áo hãy chia cho người không có”. Như vậy tất cả mọi người đều có thể sống bác ái. Người nghèo cũng có thể san sẻ với người khác, vì “hạt gạo cắn làm đôi”, “lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá nát”. Người giàu càng có điều kiện để chia sẻ với người khác hơn. Điều quan trọng là chúng ta đừng tích trữ cho riêng mình, mà muốn san sẻ với người khác, nhất là những người nghèo khổ chung quanh chúng ta. Mẹ Têrêxa đến thăm một người đàn bà ở khu ổ chuột bên Ấn Độ. Mẹ gởi cho bà 10 ký gạo. Bà mừng quá sức, nhưng sau đó lấy bọc sớt ra làm hai. Mẹ hỏi sao bà không cất đi, để dành ăn từ từ mà sớt ra chi vậy? Bà trả lời: “Ở kế bên nhà tôi cũng có một gia đình đang đói lắm!” Đó là bác ái thực sự: chia sẻ với người khác những gì mình đang có, dù đó chỉ là phần nhỏ nhoi, ít ỏi. Chúng ta cũng có thể thực thi bác ái bằng việc chia sẻ cho nhau sự quan tâm, lo lắng, động viên thăm hỏi: “Vui với người vui, khóc với người khóc”.
Công bằng:
Công bằng cũng không có gì phức tạp, chỉ đơn giản là giữ đúng luật pháp, giữ những điều đã giao ước với nhau, tôn trọng tài sản của chung và của riêng. Cái gì của người khác tức là không phải của mình, hãy để cho người ta.
Mỗi người hãy thực hiện công bình và bác ái trong đời sống hằng ngày. Thánh Gioan không kêu người ta rời khỏi môi trường mình đang sống, nhưng kêu gọi họ từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ việc thu thuế. Binh linh cứ làm binh lính, nhưng với một tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới môi trường sống, đổi mới công việc, mà là đổi mới chính bản thân, đổi mới suy nghĩ, đổi mới lời nói, đổi mới hành động.
Người ta thường bất bình với những gì xung quanh, mong muốn thay đổi thế giới. Hãy nghe lời Gioan Tẩy Giả, đừng bắt người khác đổi mới, hãy đổi mới chính mình trước rồi mọi thứ xung quanh sẽ thay đổi. Hãy bắt đầu sống tốt thì mọi thứ xung quanh sẽ trở nên tốt vì ý thức sâu xa mình được Thiên Chúa yêu thương ban ơn cứu độ.
Khi chúng ta lo sửa đổi chính bản thân mình bằng cách sống theo những giá trị công bằng, bác ái, là chúng ta đã dọn một con đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến. Lúc đó chúng ta sẽ có một niềm vui trọn vẹn, niềm vui ơn cứu độ.
Xin ơn Chúa giúp qua lời bầu cử của Mẹ Maria, thánh cả Giuse ban cho mỗi người chúng ta biết ý thức rằng Chúa đang ngự đến, cụ thể là trong ngày lễ giáng sinh sắp tới, cách riêng là việc Chúa ngự đến trong giờ chết của mỗi người, và lớn lao hơn là ngày tận cùng của vũ trụ này để chúng ta biết sửa đổi bản thân mình, lo sống tốt, sống theo giá trị công bằng, bác ái, nhờ đó chúng ta xứng đáng hưởng niềm vui ơn cứu độ trong ngày Chúa đến.
Chuyện vui kể rằng: Cô con gái trước khi về nhà chồng được bà mẹ căn dặn rằng: – Về bên ấy con MV 3-C184
Chuyện vui kể rằng: Cô con gái trước khi về nhà chồng được bà mẹ căn dặn rằng:
– Về bên ấy con phải giữ gìn ý tứ, “ăn coi nồi, ngồi xem hướng” nghe con.
Cô con gái vâng vâng dạ dạ. Nhưng chưa đầy một tháng thì bà sui trai qua than phiền với bà sui gái:
– Trước khi con chị về bên này, chị không hướng dẫn gì cho nó sao?
Bà sui gái liền bảo:
– Sao lại không! Tôi dặn dò nó thật kỹ lưỡng là “ăn phải coi nồi, ngồi phải xem hướng” đó chị à.
Bà sui trai đập tay lên đùi một phát rồi nói:
– Hèn gì! Lúc ăn thì nó luôn coi nồi nào ngon mới ăn. Lúc ngồi vào bàn thì nó chọn hướng nào có đồ ăn nhiều thì mới ngồi…
Thưa các bạn!
“Ăn và ngồi” hay những việc làm thông thường khác diễn tả nếp sống của con người có giáo dục, biết văn hóa, và phép lịch sự…
Là người, sống cho ra người thì không đơn giản chút nào. Ai đó đã sánh ví “làm người thì khó, làm chó thì dễ”. Buồn dễ vui khó…
Là người, sống có lý tưởng và đúng mục đích thì càng không dễ. Tìm được lối đi và quyết tâm đi trọn hết con đường thì sẽ có niềm vui…
Là người, niềm vui và nỗi buồn luôn hiện hữu và không ngừng chờ bạn phía trước. Nếu bi quan mà nói “ngày vui thì ngắn ngủi, nỗi buồn thì nghìn trùng”…
Là người, cần sống lạc quan hơn, vì vậy “nếu một câu chuyện vui không làm cho ta cười nhiều lần, thì tại sao ta lại buồn hoài một chuyện không vui?”.
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng C, Lời Chúa mời gọi “bạn & tôi” sống tích cực hơn, hãy “vui lên” vì Chúa sắp đến. Nếu màu tím là màu của hy vọng, thì màu hồng là màu của niềm vui.
Thưa các bạn!
Vui lên không chỉ trong việc “ăn và ngồi” chừng mực, lễ phép và đúng cách…
Vui lên không chỉ trong việc “trang trí bên ngoài” như cây thông hay đèn sao của hang đá máng cỏ…
Vui lên không chỉ trong việc “đi đến nhà thờ” đọc dăm ba câu kinh, cầu nguyện đôi chút, dự lễ đầy đủ…
Vui lên không chỉ trong việc “xưng tội, rước lễ” chuẩn bị tâm hồn theo lời mời gọi của Giáo Hội…
Hơn hết, vui lên như Tin Mừng Luca hôm nay kêu mời sống bác ái, “của ăn và y phục” cần giúp đỡ lẫn nhau.
Vui lên thực sự trong việc “chia sẻ và cho đi” nhu cầu cần thiết, nhất là với người túng thiếu hay nghèo khổ.
Tác giả Chesterton đã viết: “Niềm vui là bí mật to lớn của người Kitô hữu”. Thánh Phaolô đã khuyên: “Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”.
Nhạc sĩ Đức Huy đã mong đợi: “Và con tim đã vui trở lại tình yêu đến cho tôi ngày mai tình yêu chiếu ánh sáng vào đời tôi hy vọng được ơn cứu rỗi và con tim đã vui trở lại…”.
Ước gì, Lời Chúa thức tỉnh “Chúng tôi phải làm gì?”, nếu không làm gì, niềm vui sẽ trở thành nỗi buồn, buồn rồi lại buồn thêm, “hèn gì” rồi lại “hèn chi”, “ăn và ngồi” rồi sẽ hết. Amen
Ngày 24 tháng 11 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Thông điệp Niềm Vui của MV 3-C185
Ngày 24 tháng 11 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Thông điệp Niềm Vui của Tin Mừng. Trong Thông điệp này, vị Chủ chăn tối cao của Giáo Hội công giáo dành một phần quan trọng để diễn tả niềm vui của người tín hữu. Đức Thánh Cha đã khởi đi từ những chứng từ của Cựu ước và Tân ước để chứng minh niềm vui là sứ điệp căn bản của Kinh Thánh. Niềm vui cũng là phần thưởng Chúa ban cho những ai tin cậy Ngài. Trong phần mở đầu, Đức Thánh Cha đã viết: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không phải dành cho mình, vì không một ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa Giêsu đem đến” (Số 3). Ngài cũng phê phán những tín hữu “sống đời mình như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục sinh” (Số 6). Khía cạnh hân hoan vui mừng của Đức tin đã bị nhiều người quên lãng. Có thể đây là ảnh hưởng của một lối dạy giáo lý khiếm khuyết, nhấn mạnh đến sự thưởng phạt, và trình bày Thiên Chúa như một vị thần nghiêm khắc khô khan. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Ngài đến trần gian để đem niềm vui cho con người. Nội dung Tin Mừng chính là niềm vui, là Bonne Nouvelle, tức là tin tốt. Người Kitô hữu sống trong niềm vui, vì có Chúa luôn hiện diện. Ngôn sứ Sôphônia đã ca tụng Chúa với tâm tình hân hoan. Có Đức Chúa hiện diện, không còn chi phải sợ, kể cả tang tóc, tai ương, bạo lực và ngay cả sự chết. Không chỉ vị ngôn sứ, mà Chúa cũng « nhảy mừng » trong ngày lễ hội hân hoan. Cuộc sống này đáng yêu biết bao, vì Chúa hiện diện và chia sẻ niềm vui với con người. Có Chúa là có tất cả, vì Ngài là nguồn hạnh phúc. Tuy vậy, để được hưởng trọn vẹn niềm vui Chúa ban, chúng ta phải sửa soạn tâm hồn. Một lần nữa, sứ điệp mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta qua Gioan Baotixita được nhắc lại. « Tôi phải làm gì ? », đó là câu hỏi của các binh sĩ, những người thu thuế và cả đoàn dân đông đảo đang xếp thành hàng dài để đến với ông bên bờ sông Giorđanô. Gioan Tẩy giả như một thày thuốc bắt mạch và kê đơn cho từng con bệnh, đồng thời đưa ra những lời khuyên cụ thể để giúp họ được chữa lành. Để chuẩn bị đón Chúa vào tâm hồn nhân dịp lễ Giáng Sinh, mỗi chúng ta cũng tự đặt câu hỏi : « Tôi phải làm gì đối với Chúa và đối với anh chị em xung quanh? ». Câu hỏi này giúp ta xác định mình đang đi về đâu, đồng thời mời gọi chúng ta trở về với Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm vui Chúa ban cho những ai yêu mến Ngài. Đời sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là gương mẫu cho chúng ta về sự khiêm nhường. Khi nói về Đấng Cứu độ, ông tự coi mình chỉ là đầy tớ, không xứng đáng cởi quai dép cho Người. Trước những người đang tò mò đặt câu hỏi về thân thế của mình, ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Sa mạc là nơi vắng bóng người, chỉ có nắng và gió. Lời nói trong sa mạc dễ bị mất hút trong khoảng không gian mênh mông. Gioan Tẩy giả kêu gọi mọi người sám hối theo lệnh truyền của Chúa. Chứng từ khiêm tốn của ông đã lay động con tim nhiều người và thúc đẩy họ đến dìm mình trong dòng nước để được ơn tha thứ. Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau nơi hang đá máng cỏ. Trời với đất nên một nơi Hài Nhi Giêsu. Đón nhận Chúa Cứu Thế là đón nhận niềm vui. Điều này được chứng minh nơi Đức Maria trong ngày truyền tin. Ngay vừa khi được Ngôi Lời ngự đến trong lòng, Mẹ đã ca lên bài ca tạ ơn tuyệt vời (Magnificat). Những người chăn chiên ở đồng quê Belem vui mừng vì được chiêm ngưỡng Đấng Cứu Thế, họ tôn vinh ca tụng Chúa trong niềm hân hoan vui mừng (x. Lc 2,20). Nối bước Đức Mẹ và các mục đồng, mỗi tín hữu chúng ta cần phải cảm nhận niềm vui trong đời sống Đức tin. Thánh Phaolô khuyên chúng ta, dầu cuộc đời này còn nhiều truân chuyên đau khổ và phong ba bão táp, chúng ta vẫn giữ được cho mình niềm vui, vì Chúa gần đến. Không phải Chúa gần đến với hình hài một trẻ thơ ở hang đá Belem năm xưa, nhưng Chúa đang đến với chúng ta mỗi ngày mỗi phút mỗi giây trong cuộc đời. “Tôi phải làm gì?”. Đó là câu hỏi của nhiều người đặt ra cho Thánh Gioan Tẩy giả. Đó cũng phải là câu tự vấn của mỗi chúng ta trước mặt Chúa trong khi chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Bởi lẽ, những tâm hồn chứa đầy tham vọng, chẳng còn chỗ cho Người ngự đến. Những ai khiêm cung đón Chúa sẽ được niềm vui đích thực, vì Người là Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy lo âu, sợ hãi, buồn chán. Cuối tháng 11 vừa qua, quân MV 3-C186
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy lo âu, sợ hãi, buồn chán. Cuối tháng 11 vừa qua, quân khủng bố IS đã đánh bom vào nhiều mục tiêu tại Paris, khiến hơn 200 người chết và hàng trăm người bị thương. Mục đích của bọn khủng bố là gieo sợ hãi, bất an cho thế giới, khiến cho nhiều người sợ không dám đến chỗ đông người. Tại Việt Nam, kỳ họp Quốc Hội vừa qua đã khiến dư luận trong nước nóng lên về vấn đề an toàn thực phẩm. Một đại biểu đã nói : Chưa bao giờ tại Việt Nam, con đường từ dạ dày đến nghĩa trang lại gần như hiện nay. Từ đó, báo chí đặt câu hỏi : Vậy ăn gì để khỏi chết, khỏi bị hoá chất, ung thư ? Vấn đề này gây nhiều lo lắng cho xã hội, biết tin ai, biết ăn gì cho an toàn. Trong đời sống xã hội cũng còn nhiều vấn đề khác gây lo lắng, sợ hãi cho người dân, chẳng hạn như tình trạng an toàn giao thông. Mỗi khi lấy xe ra đường, mọi người đều mang tâm lý lo sợ, không biết mình có tự về được đến nhà hay phải có người khiêng về ? Bên cạnh đó còn những vấn đề liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hoá, trật tự xã hội cũng đang là nỗi băn khoăn của nhiều người. Tất cả những điều đó khiến con người cảm thấy bất an, buồn chán và không có niềm vui.
Trong hoàn cảnh u buồn lo sợ bởi thế giới và xã hội ngày nay, Lời Chúa trong các bài đọc Chúa nhật thứ III Mùa Vọng lại gợi lên cho chúng ta ngập tràn niềm vui và chỉ cho chúng ta cách sống để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tiên tri Sôphônia cho thấy lý do phải vui mừng, đó là vì con người được Thiên Chúa yêu thương và tha thứ. Như một tù nhân được ân xá, như kẻ có tội được thứ tha, Thiên Chúa cũng đã tha thứ cho dân Người khỏi những ngỗ nghịch mà họ đã xúc phạm đến Chúa. Ngài không ra tay trừng phạt, nhưng trái lại, Ngài đến ở giữa họ để kết bạn với họ, để yêu thương họ.
Cũng qua tiên tri Sophonia, Thiên Chúa còn khẳng định : Khi Thiên Chúa là Đức Vua ở giữa dân Người thì họ không còn phải lo âu, sợ hãi ; không một tai ương từ thiên nhiên hoặc những khủng bố bách hại nào có thể làm cho họ sợ hãi, kinh hoàng, vì Thiên Chúa đang ở giữa họ để bảo vệ, bênh đỡ họ. Ngài không chỉ là Đấng bênh vực chở che, mà Thiên Chúa còn là Vị Cứu Tinh, là nguồn vui cho con người, Ngài lấy tình yêu thương mà đổi mới con người. Vì thế, niềm vui mà chúng ta được mời gọi đón nhận hôm nay là chính Thiên Chúa. Nhưng để có được niềm vui đó, chúng ta phải có một tâm hồn ngay thẳng, một lương tâm trong sáng, một đời sống không gian dối. Nhưng quan trọng hơn nữa là nhận ra mình là kẻ được Thiên Chúa yêu thương.
Tin Mừng Luca cho thấy, sau khi nghe Gioan rao giảng về sự sám hối, chuẩn bị tâm hồn đề đón Đấng đến sau ông, thì dân chúng đã lũ lượt đến với ông để xin thanh tẩy, bày tỏ lòng sám hối. Những người này đã thành tâm hỏi Gioan : Vậy, chúng tôi phải làm gì ? Gioan đã trả lời cho nhiều thành phần khác nhau tìm đến với ông. Với đa số dân chúng, ông nhấn mạnh đến việc thực thi lòng thương xót đối với anh em qua việc chia sẻ tình yêu thương cách cụ thể : Ai có hai áo, chia cho người không có; ai có gì ăn, cũng hãy làm như vậy. Với lời hướng dẫn này, Gioan muốn đám đông dân chúng hãy làm những việc yêu thương cụ thể, chứ không chỉ là việc khóc lóc hoặc kể cả việc lãnh phép rửa sám hối bên ngoài. Một khi mỗi người biết nghĩ đến nhu cầu người khác, biết sống quan tâm, mỗi ngày đem đến cho nhau một niềm vui nho nhỏ, thì cả thế giới sẽ ngập tràn niềm vui và tình yêu thương.
Cũng có những người thu thuế, đại diện cho công chức chính quyền đặt vấn đề với Gioan : Chúng tôi phải làm gì ? Gioan trả lời : Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh. Với những người có chức quyền này, Gioan mời gọi họ hãy làm việc đúng với lương tâm, với hết trách nhiệm và với sự công bằng. Những người này đang là những người thay mặt cho dân để lo việc chung của đất nước, vì thế, điều cần thiết nơi họ là phải có một lương tâm trong sáng, những việc làm minh bạch, làm việc vì công ích chứ không vì tư lợi. Họ là những người đại diện cho dân nên dân có quyền đòi họ phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, không thể ù lì, vô trách nhiệm.
Các quân nhân cũng đến hỏi Gioan : Người lính chúng tôi phải làm gì ? – Chớ hà hiếp ai, đừng chiếm đoạt của người khác, hãy bằng lòng với đồng lương của mình. Những người lính là những người nhận lương của dân để bảo vệ và giúp đỡ dân. Vì thế, Gioan chỉ cho họ thấy, họ cần phải làm đúng trách nhiệm của mình, không thể biến mình trở thành kẻ có quyền hà hiếp dân chúng, cũng không thể lợi dụng quyền hạn để tham ô nhũng nhiễu. Chỉ khi họ sống bằng đồng lương chính đáng và lương tâm ngay thẳng thì họ mới có thể có niềm vui và bình an trong tâm hồn và trở thành người bảo vệ và đem niềm vui đến cho người khác.
Lời kêu gọi của Gioan hôm nay cho thấy, mỗi người đều phải nỗ lực canh tân điều chỉnh lại cuộc sống của mình, sống đúng với vai trò của mình trong xã hội thì mới có được niềm vui trong tâm hồn và đem niềm vui đến cho cộng đoàn. Chính Gioan Tiền Hô đã sống hết mình với nhiệm vụ là một người dọn đường. Dù ông được nhiều người coi như là Đấng Cứu thế, nhưng ông không hề lợi dụng lòng yêu mến và sự ủng hộ của họ để gây uy tín cho mình, trái lại, ông sống và nói thật cho mọi người về bản thân : Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.
Lời hướng dẫn của Gioan cho nhiều thành phần trong dân Do Thái ngày xưa cũng vẫn mang tính thời sự và thích hợp cho chúng ta hôm nay. Xã hội ngày nay tạo ra rất nhiều thứ vui chơi giải trí, nhưng dường như con người vẫn cứ sống trong lo âu, buồn chán. Sự buồn chán ấy phản ánh tình trạng tâm hồn nhiều người đang bị bất an, thiếu vắng niềm vui đích thực. Nhiều người đang khép lòng lại trước lời mời gọi của Thiên Chúa, từ chối không muốn để Ngài bước vào tâm hồn của mình. Khi không có Chúa trong tâm hồn thì không thể có niềm vui và bình an. Không có Chúa trong tâm hồn, thì ma quỷ, sự dữ cùng sự buồn chán sẽ xâm chiếm tâm hồn và cuộc đời chúng ta. Những cuộc vui xã hội đang cố gắng bày ra, những cuộc nhậu gọi là giải sầu, không thể lấp đầy sự trống rỗng, buồn chán trong tâm hồn, trái lại, chỉ khi đem Chúa vào tâm hồn, loại trừ được những hận thù ghen ghét, biết sống quan tâm, hướng đến những nhu cầu của anh em và rộng tay chia sẻ thì chúng ta mới có được niềm vui.
Ngày nay, sự tham lam và tính kiêu căng, ngạo mạn đang gây ra lo sợ, bất an cho con người và xã hội. Nhà sản xuất và người buôn bán tham giàu, hám lợi đã dẫn đến việc làm ăn giả dối, đầu độc người khác bằng những thực phẩm bẩn, ướp tẩm hoá chất độc hại ; cộng tác với họ là những người tiêu dùng ham rẻ, thích mẫu mã bên ngoài, đã dẫn đến tình trạng thực phẩm trái cây hoá chất, nguy hiểm, gây lo lắng sợ hãi cho nhiều người. Là tín hữu Công Giáo, chúng ta không thể gây ra lo âu hoặc cộng tác vào những việc giả gối, gây nguy hiểm và lo âu cho người khác như thế.
Cũng vậy, nhiều người đang để cho tiền bạc và công việc chiếm hết thời gian của gia đình, nhiều người khác đã để trong mình sự giận hờn, thù ghét, khiến cho gia đình thiếu niềm vui, thiếu sự cảm thông. Để tìm lại niềm vui trong tâm hồn và gia đình, Thánh Phaolô hôm nay kêu gọi chúng ta : Anh em hãy vui luôn trong Chúa, sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi. Hãy cân nhắc mọi sự, điều gì tốt thì giữ lấy, con điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa. Sống và thực hành như thế, chúng ta sẽ tìm lại được niềm vui trong tâm hồn và trong gia đình mỗi người.
Nhiều bạn trẻ đang chìm trong các tụ điểm vui chơi, game, internet ; nhiều người khác lao vào heroin, đua xe…, mong tạo ra cái vui hời hợt giả trá bên ngoài, nhưng trong tận sâu tâm hồn, nó khiến cho nhiều người trở nên trống rỗng buồn chán, thấy cuộc sống của mình đơn điệu vô nghĩa. Sống như thế thật đáng buồn và đáng tiếc. Trái lại, tuổi trẻ là tuổi của tình yêu và sức sống. Chúng ta cần làm cho tâm hồn mình ngập tràn tình yêu thánh thiện, trong sáng, biết dùng tuổi trẻ và thời giờ vào những việc tốt, việc có ích cho mọi người. Được như thế, chúng ta sẽ tìm được niềm vui trong tâm hồn.
Xin Chúa và Mẹ Maria giúp mỗi chúng ta trở thành người đem niềm vui đến cho người khác, bằng cách mỗi ngày làm một cử chỉ đẹp cho người bên cạnh, cuộc sống này sẽ vui hơn và thế giới này sẽ đẹp hơn. Amen.
Chúa nhật III Mùa Vọng thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Lời kêu gọi “hãy vui lên MV 3-C187
Chúa nhật III Mùa Vọng thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Lời kêu gọi “hãy vui lên” được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Đây là niềm vui trong Chúa, niềm vui có Chúa. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời của mình. “Niềm vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và đời sống tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Những ai tiếp nhận đề xuất cứu rỗi của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống rỗng và cô đơn nội tâm. Với Chúa Kitô, niềm vui luôn luôn trổ sinh như mới”. (x.Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng). Đức Thánh Cha Phanxicô luôn luôn thao thức đối với việc sống và rao giảng Tin Mừng. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin vào trưa Chúa Nhật 01/02/2015, ngài khích lệ các tín hữu hãy có thói quen hàng ngày đọc và suy niệm Lời Chúa để cho Lời Chúa biến đổi tâm hồn, cuộc sống của mình. Ngài mời gọi mọi người dám ra khỏi mình để đem Tin Mừng đến các vùng ngoại biên. Theo ngài, niềm vui chính là vẻ đẹp của Tin Mừng.
Niềm vui Tin Mừng là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.
Niềm vui trong Chúa
Chủ đề Phụng vụ Chúa nhật III là ‘niềm vui’. Bài đọc 1 và bài đọc 2, mời gọi dân Chúa hãy vui lên. Vui vì Thiên Chúa sắp đến thực hiện ơn cứu độ. Người đến để tha thứ, để hòa giải, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tội lỗi và ma quỉ ( Bài đọc 1).Thánh Phaolô khẳng định niềm vui đó là niềm vui trong Chúa : “Anh em hãy vui luôn trong Chúa”. Niềm vui trong Chúa là niềm vui có được từ nơi Thiên Chúa. Hãy vui và vui luôn mãi trong niềm vui của Chúa. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc đời: sống hiền hòa rộng rãi với mọi người, không phải lo lắng gì cả, vì có gì thì cứ trình bày với Chúa, lòng trí luôn được bình an.
Niềm vui là nét tiêu biểu của người Kitô hữu, là mong ước của mọi người. Sống ở đời ai cũng mong mình có được niềm vui sống và nỗ lực đi tìm niềm vui. Người Kitô hữu xác tín rằng, niềm vui đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa. Một khi biết mình đã có Chúa thì mọi âu lo buồn phiền sẽ không còn. Càng khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, càng gia tăng niềm vui sống. Càng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống, niềm vui sống càng sâu sắc bền vững. Niềm vui trong Chúa luôn là một niềm vui gia tăng sức mạnh cho tâm hồn trước những nghịch cảnh, đau khổ của kiếp người. Niềm vui trong Chúa cũng là niềm vui biến đổi đau thương thành hạnh phúc. Niềm vui trong Chúa giúp cho mỗi người có nghị lực vươn lên vượt qua nghịch cảnh. Đức cha Bùi Tuần viết: “Niềm vui cần nhất và quý nhất là niềm vui có Chúa là Tin Mừng trong lòng mình”.
Là con người, ai cũng mơ ước và đi tìm niềm vui sống. Ngày nay, có nhiều người mải miết tìm kiếm những thú vui xác thịt, thú vui thụ hưởng vật chất. Có những niềm vui mà sau đó người ta cảm thấy trống rỗng buồn phiền và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó người ta mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui mà sau đó người ta lo âu hối hận. Còn người Kitô hữu đi tìm niềm vui trong Chúa. Niềm vui này là dấu hiệu của bình an nội tâm, của sự hài lòng, của tự tín, là dấu hiệu cho thấy rằng người ta đang cảm thấy được an toàn, được đón nhận, được yêu mến. Một người Kitô hữu mà sống bi quan chán chường, thất vọng buông xuôi, ấy là dấu hiệu có điều gì đó không ổn về đức tin.
Niềm vui là dấu hiệu của hạnh phúc. Một tâm trạng an vui thường xuyên và sâu xa, niềm an vui không loại trừ gian nan, thử thách và đau khổ. Người Kitô hữu biết mình được thương yêu, được đón nhận và tha thứ. Họ biết mình đang tiến về đâu. Cái gì có thể làm cho họ sợ hãi? Gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, chết chóc chăng? Hay là ma quỉ, hay những sức mạnh vô hình nào chăng? Hay là tội lỗi của ta chăng? Thánh Phaolô trả lời khẳng khái: Không! Tôi không sợ vì không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Ðức Kitô được, trái lại trong tất cả những thử thách ấy, tôi toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến tôi (x.Rm 8,35-38).
Niềm vui hoán cải
Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Người. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải khi lầm lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay kể câu chuyện hoán cải tuyệt vời. Sau khi nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả, nhiều người tỏ vẻ phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống sai lạc của mình. Phải làm gì để hoán cải. Phải làm gì để có hạnh phúc, có niềm vui ?
Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: “Chúng tôi phải làm gì đây?“. Tùy từng người mà Gioan khuyên bảo:
– Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.
– Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.
– Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Gioan không có ý khuyên người ta phải bỏ việc đang làm nhưng ngài dạy họ phải làm việc thật tốt đúng với bổn phận đã được lãnh nhận, không những họ phải trở thành người biết yêu thương mà còn phải trở nên những người đáng mến và dễ thương.Câu trả lời của Gioan cho mỗi hạng người có một hành động khác nhau, nhưng tựu trung đều nhắm tới việc hoán cải. Ơn hoán cải hướng đến đời sống bác ái, công bằng với người khác. Ơn hoán cải mang lại niềm vui biết trao ban.
Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người Tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:
– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
– Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.
– Vậy xin hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào?- Rất tiếc là tôi quên mất chi tiết này.
– Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tuổi?
– Tôi cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.
– Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?-
Tôi không biết.
– Quả thật anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo.
Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ.Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi sau khi tôi đi làm về. Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã làm cho tôi và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.
Niềm vui Thiên Chúa ban chỉ dành cho những ai đón nhận được ơn đổi đời. Từ một người hẹp hòi ích kỷ trở thành người quảng đại dấn thân, biết sống bác ái yêu thương mọi người. Từ một người lạm dụng quyền hành hà hiếp bạo lực trở nên người dễ mến đáng yêu, được mọi người kính trọng. Từ người cơ hội, tham lam thủ đoạn chiếm đoạt của cải người khác khiến họ phải oán giận nguyền rủa trở thành người biết sống công bằng. Ơn hoán cải và niềm vui được biến đổi sẽ là khởi đầu để người ta đón nhận ơn cứu độ.
Niềm vui Tin Mừng. “Tin Mừng có nghĩa là tin mang đến niềm vui.Tin Mừng luôn là một lời mời gọi con người sống vui tươi. Tin Mừng là một lời xác nhận cao cả cho giá trị của thế giới và giá trị của con người. Bởi vì Tin Mừng là chính sự mạc khải sự thật về Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch nguyên thủy của niềm vui và hy vọng cho con người” (x.Bước qua ngưỡng cửa hy vọng). Tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta luôn có niềm vui và hạnh phúc.
Niềm vui Tin Mừng đến từ nội tâm. Mỗi ngày, người tín hữu tìm được niềm vui khi đến Nhà thờ, khi đi tham dự thánh lễ: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: ta hãy đi đến nhà Đức Chúa” (Tv 122,1).
Niềm vui Tin Mừng vì được sống trong lòng Giáo Hội. Giáo Hội như người mẹ, ôm ấp và chở che mọi người, đón nhận và đỡ nâng tất cả : “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống sum vầy bên nhau” (Tv 133,1).
Niềm vui Tin Mừng nhờ sống phó thác vào Chúa. Còn gì phải lo lắng nếu chúng ta có Chúa dẫn đường? Còn gì phải sợ hãi nếu chúng ta có Chúa là Đấng che chở? Niềm phó thác nơi Chúa sẽ giúp chúng ta tự tin hơn trong cuộc sống “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào. Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con, thành niềm vui của lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15, 16).
Niềm vui Tin Mừng đối với người tín hữu là sự bình an của một trẻ thơ trong vòng tay mẹ: “Như trẻ thơ nếp mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).
Niềm vui Tin Mừng là được sống kết hợp mật thiết với Đức Kitô. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến cách sống hiền hòa rộng rãi, yêu thương và sẵn sàng tha thứ. Để thực hiện được điều này, ngài tha thiết mời gọi phải khiêm nhường cầu khẩn và tạ ơn. Có như thế, bình an của Thiên Chúa mới giữ cho lòng trí của chúng ta được kết hợp với Đức Giêsu Kitô được.
Niềm vui Tin Mừng là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Mt 11, 25-26 ; Lc 10, 21).
Niềm vui Tin Mừng còn là chia sẽ trao ban.Niềm vui được nhân lên khi chia sẽ. Đi từ trái tim đến trái tim, hoa trái của bác ái thật là dịu ngọt đối với cả người cho lẫn người nhận. Hoa trái dịu ngọt chính là hạnh phúc.Hạnh phúc là niềm vui. Khi người ta vui thì hạnh phúc. Khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, thật dễ hiểu. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng.
Niềm vui chỉ thực sự có khi có tình yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi được tình yêu của Thiên Chúa tiếp sức, con người ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương.
Niềm vui Tin Mừng không phải là niềm vui của những thành công, của những thanh thế, của những hoạt động. Càng không phải là niềm vui do có nhiều phương tiện vật chất và được nâng đỡ của xã hội. Niềm vui Tin Mừng là có trong lòng mình chính Chúa Giêsu khiêm nhường tự hạ và yêu thương để cứu chuộc loài người. Niềm vui Tin Mừng ấy là động lực chính khiến chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa qua chính con người và cuộc sống của chúng ta. Con người chúng ta sẽ là con người hiền lành khiêm nhường đầy yêu thương tự hạ. Cuộc sống của chúng ta sẽ là cuộc sống hy sinh, phấn đấu, để được phục vụ như Chúa Hài nhi Giêsu và như Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá.
Lễ Giáng Sinh, lễ tình yêu nhập thể đang đến gần. Niềm vui Giáng Sinh là niềm vui được thức tỉnh, sám hối và hoán cải để canh tân đời sống. Đó là niềm vui trong nội tâm và diễn tả qua đời sống luôn chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, yêu thương phục vụ mọi người.
Chúa Nhật III Mùa Vọng là Chúa Nhật Vui (Gaudete, x. Pl 4:4-6 và Tv 85[84]:1) [*], mở đầu Ca MV 3-C188
Chúa Nhật III Mùa Vọng là Chúa Nhật Vui (Gaudete, x. Pl 4:4-6 và Tv 85[84]:1) [*], mở đầu Ca Nhạp Lễ: “Gaudete in Domino semper – Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”. Ba ngọn nến tím và một ngọn nến hồng. Chúng ta vui mừng vì đã “đi” được nửa chặng đường Mùa Vọng, đồng nghĩa với việc Chúa Giêsu đến gần, và lễ Giáng Sinh sắp tới rồi…
Thánh Vịnh cho biết: “Triều đại Người [Thiên Chúa] đua nở hoa công lý, và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:7). Công lý và hòa bình có mối liên quan lẫn nhau. Không có Công lý, không có Hòa bình – No Justice, no Peace. Chắc chắn như vậy! Thế nhưng công lý là gì?
Triết gia John Rawls (1921-2002, Hoa Kỳ) cho rằng “công lý là đặc tính tiên quyết của tất cả các định chế xã hội”. Còn Giáo hội Công giáo hiểu rằng “công lý và hoà bình là dấu chỉ của thời Thiên Sai, là triều đại của Vua vinh hiển”. Công lý bao gồm sự công bằng xã hội, sự liêm khiết, tính hợp lý, sự phán quyết công minh, phù hợp pháp luật, và trên hết là thực hiện Luật Chúa, cả luật tự nhiên ghi khắc trong lòng con người và luật được Thiên Chúa truyền dạy.
Horatio Walpole (1717-1797), bá tước thứ tư của Oxford, sử gia nghệ thuật, tiểu thuyết gia và chính trị gia người Anh, nói: “Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là động thái của sự dối trá”.
Albert Einstein (1879-1955), nhà vật lý lý thuyết người Đức đoạt giải Nobel Vật lý năm 1921, nói: “Về sự thật và công lý, không có sự khác biệt giữa những vấn đề lớn nhỏ, vì những điều liên quan tới cách con người được đối xử đều giống như nhau”. Sự bình đẳng – về mọi phương diện – cũng chính là công lý.
Xã hội loài người có quá nhiều bất công – bất công với nhau đã đành, chúng ta còn bất công cả với Thiên Chúa, Đáng tác tạo nên chúng ta. Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí thiện, chí minh và chí công. Ngài luôn rạch ròi mọi điều: “Ta chuộng lẽ công minh, ghét chuyện cướp bóc gian tà, nên Ta sẽ theo lòng thành tín mà ban phần thưởng cho các ngươi, và sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu” (Is 61:8).
Thiên Chúa tái xác định: “Ta là Đức Chúa, Đấng thực thi nhân nghĩa, công bình và chính trực trên mặt đất. Phải, Ta ưa thích những điều này. Sẽ đến những ngày Ta sẽ hạch tội mọi kẻ cắt bì mà kể như không” (Gr 9:23-24). Ngài không đùa, nói là làm, và rồi chính “tay hữu Chúa thi hành công lý” (Tv 48:11). Trước mặt Philatô, một con người đầy quyền lực, Chúa Giêsu vẫn khẳng khái minh định: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37).
Công lý là điều tối quan trọng, luôn được đề cập trong Kinh Thánh: “Công lý của Ngài như đỉnh núi Thái Sơn, quyết định của Ngài tựa vực sâu thăm thẳm” (Tv 36:7). Chúa Cha cũng đã nói rõ về Chúa Con: “Người sẽ loan báo công lý trước muôn dân” (Mt 12:18). Chính Chúa Giêsu sẽ “theo công lý mà xét xử và giao chiến” (Kh 19:11), và “trời mới và đất mới là nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3:13).
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a mời gọi: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao lại reo hò vui mừng như vậy? Sự kiện rất minh nhiên: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ” (Xp 3:15). Thế thì không thể không reo vui, không thể không hát mừng.
Ngày xưa, người ta đã nói với Giêrusalem thế này: “Sion ơi, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời. Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương, Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa” (Xp 3:16-18a). Và ngày nay, chúng ta cũng đang được nhắn nhủ như vậy. Hạnh phúc ấy quá lớn, lớn đến nỗi cứ ngỡ mình ngủ mơ. Không phải giấc mơ, không phải chiêm bao, nhéo mặt vẫn thấy đau, vậy là rất tỉnh táo. Hoàn toàn là sự thật, chân vẫn đạp đất, không phải chuyện trên cung trăng.
Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đến cứu chúng ta thoát khỏi mọi đau khổ, mọi bất công, mọi bất hạnh,… Đó là ngày Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế, ngày khởi đầu công cuộc cứu nhân độ thế. Và ngày đó, chúng ta sẽ cùng nhau cất lời xưng tụng: “Lạy Đức Chúa, con dâng lời cảm tạ: Ngài đã từng thịnh nộ với con, nhưng giờ đây cơn giận đã nguôi rồi, và Ngài lại ban niềm an ủi” (Is 12:1). Đồng thời chúng ta cũng sẽ hân hoan xác nhận: “Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó: Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn danh Người, vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở: danh Người siêu việt” (Is 12:2-4).
Bất ngờ được người mình yêu quý đến thăm, chúng ta vui mừng và nói là “rồng đến nhà tôm”. Được người quyền cao chức trọng tới thăm, chúng ta còn vui mừng hơn nhiều. Mức độ vui mừng lên tới tột cùng, không thể tả, khi được chính Con Thiên Chúa tới thăm. Thế thì không thể im lặng, và chúng ta phải thúc giục nhau như dân Chúa xưa: “Đàn ca lên mừng Đức Chúa, vì Người đã thực hiện bao kỳ công; điều đó, phải cho toàn cõi đất được tường. Dân Sion, hãy reo hò mừng rỡ, vì giữa ngươi, Đức Thánh của Ít-ra-en quả thật là vĩ đại!” (Is 12:5-6).
Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, Thánh Phaolô nhắn nhủ và động viên chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4:4-6).
Ngôn sứ Isaia cũng đã xác định rạch ròi: “Khi ngươi kêu cứu, Người sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi; nghe tiếng ngươi kêu là Người đáp lại” (Is 30:19). Và rồi “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí chúng ta được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:7). Thánh Phaolô còn mạnh mẽ nói: “Ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22).
Trình thuật Lc 3:10-18 cho chúng ta biết cách thực hiện công lý và hòa bình, thực hiện cụ thể chứ không mơ hồ hoặc nói suông. Các động từ cần thiết cho việc sống yêu thương, sống lòng thương xót, là các động thái rất ư bình thường, nhưng tác dụng phi thường: Chia sẻ, cho, trao, tặng, biếu,… Đó là thực hiện công lý, là kiến tạo hòa bình.
Một hôm, đám đông hỏi ông Gioan Tẩy Giả về những việc cần làm. Ông trả lời: “Ai có hai áo thì CHIA cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa, gọi ông Gioan là Thầy và xin ông chỉ cho biết những gì phải làm. Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Binh lính cũng hỏi và ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.
Các động từ ở mệnh lệnh cách thật đáng lưu ý, vì đó là các động từ hứng tỏ giữ luật công lý: Đừng đòi hỏi nhiều, chớ hà hiếp ai, đừng tống tiền ai, và cứ an phận thủ thường, bằng lòng với những gì mình có. Đó cũng chính là dạng bí quyết sống hạnh phúc ngay ở thế gian này. Tâm bình an thì sống thanh thản. Không so đo để dễ dàng chấp nhận những gì mình có, thế là hạnh phúc. Càng so đo càng tự dày vò mình, tự làm khổ mình, và rồi cũng dễ ghen tỵ với người khác – thế thì hóa ra phi yêu thương, phi công lý.
Ngày xưa, khi dân đang trông ngóng, trong thâm tâm ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia! Nhưng ông Gioan trả lời thẳng thắn với họ: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”.
Ông Gioan nói ngắn gọn, giản dị, nhưng rất thực tế, nhẹ nhàng mà đáng sợ, trong đó hàm chứa luật công lý, luật công bằng, luật bác ái.
Về vấn đề công lý và hòa bình, bà Aung San Suu Kyi (sinh năm 1945) nhận định rất chí lý: “Chỉ có một nhà tù đích thực là sự sợ hãi, chỉ có một tự do đích thực là thoát khỏi sự sợ hãi đó”. Sự thật đó chính là công lý. Như chúng ta đã biết: Không có công lý, không có hòa bình – No justice, no peace. Nhưng trước tiên cần có và phải có TÌNH YÊU THƯƠNG, cũng chính là LÒNG THƯƠNG XÓT. Có Yêu Thương mới biết Trắc Ẩn, biết Trắc Ẩn để có thể Tha Thứ, có Tha Thứ mới có Công Lý, có Công Lý sẽ có Hòa Bình. Một chuỗi-hệ-lụy không thể tách rời, một chuỗi-ân-tình nối kết với nhau vô cùng chặt chẽ.
Công Lý và Hòa Bình cũng liên quan Sự Sống, chạm đến Sự Sống là chạm đến Thiên Chúa. Một thông tin đáng buồn: “Chỉ trong vòng 1 tháng và 1 tuần đã có 645 thai nhi bị sát hại do tệ nạn phá thai tại một số cơ sở ý tế của thành phố Hải Phòng”. Như vậy, tính trung bình mỗi ngày có 64 thai nhi bị sát hại. Thật kinh khủng!
Số thai nhi này đã được Nhóm Bảo Vệ Sự Sống tại Hải Phòng đón nhận và hiệp dâng thánh lễ lúc 14 giờ 30 ngày 26-11-2015. Các thai nhi vô tội này được an táng tại nghĩa trang Gx Trang Quan.
Theo thống kê, Việt Nam là nước có tỷ lệ nạo phá thai nhiều nhất Đông Nam Á, và là một trong năm nước có tỷ lệ nạo phá thai nhiều nhất thế giới. Không chỉ vậy, Việt Nam còn là “khu trù mật” cho tệ nạn buôn người (phụ nữ và trẻ em) và cung cấp nội tạng cho Trung cộng. Điều đó cho thấy Việt Nam là đất nước đầy tội lỗi, đặc biệt là tội về sát sinh và vi phạm công lý. Và tội lỗi thì đáng bị trừng phạt thôi!
Thật rùng rợn khi nghe Mẹ Têrêsa Calcutta vạch trần tội ác: Mỗi ngày trên thế giới có tới 130 ngàn thai nhi bị tước mất quyền làm người. Phá thai là bất công, là phi công lý, do đó mà lòng người bất an, dẫn tới xã hội vắng bóng sự an bình, vì chỉ những ai thiện tâm mới được Thiên Chúa yêu thương và được hưởng bình an đích thực (x. Lc 2:14).
Về cái tệ hại thì Việt Nam được hai “hạng nhất”, về cái tốt lành thì Việt Nam bị “hạng áp chót”: Theo đánh giá về mức độ “đáng sinh sống” của 125 nước, Việt Nam là nước xếp hạng 124 – nghĩa là quá tệ, là nơi “không đáng sống”. Thật đáng buồn biết bao! Phải chăng nguyên nhân là do coi thường công lý?
Thiên Chúa chí minh, chí thiện, và hành động thế nào? Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:6b-9).
Lạy Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, xin giúp con biết tôn trọng Sự Thật để bảo vệ công lý, luôn “biết mến yêu và phụng sự Ngài trong mọi người”, và xin biến đổi con nên “khí cụ bình an của Ngài”. Ước gì con nhìn thấy rõ Tôn Nhan Ngài nơi tha nhân, và tha nhân cũng thấy được Ngài nơi con. Xin ngự đến, lạy Đấng Emmanuel – Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến thiên thu vạn đại. Amen. -------------- [*] Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật Mừng (Laetare, x. Is 66:10-11).
Dù ăn, dù nói, dù làm việc hoặc nghỉ ngơi, nếu có nghệ thuật, vẫn hơn; dù trẻ, dù khỏe, dù thông MV 3-C189
Dù ăn, dù nói, dù làm việc hoặc nghỉ ngơi, nếu có nghệ thuật, vẫn hơn; dù trẻ, dù khỏe, dù thông thái hay chỉ là người tầm thường, hẳn ai cũng cần được tư vấn để biết vui và biết sống thật ý nghĩa. Cuộc đời có vui có buồn, đôi khi còn mông lung như hành trình không thấy bến bờ…, bế tắc ấy, tâm sự ấy, sẽ sớm được giải tỏa, nếu chúng ta gặp được “chuyên gia”, hoặc có một vị thầy khôn ngoan đức độ ! Tiếng hô từ sa-mạc đã thu hút và biến đổi nhiều tâm hồn, nhưng liệu tiếng hô của Giáo hội có còn tạo nên được niềm vui và hy vọng cho cuộc sống chúng ta hôm nay không ?
Ở đời có nhiều thứ chi phối, làm thay đổi giá trị sống của con người, nhưng niềm vui, sức khỏe, và phong cách sống, vẫn mãi được chú ý, nhằm mang đến hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà. Có tạo được niềm vui cho bạn, cho mình, mới thấy rõ tình người trong cuộc sống. Có sức khỏe, bạn sẽ bẻ gẫy được gian nan. Có vui, khỏe, mỗi thành viên gia đình và xã hội mới đủ lực làm nên cuộc sống ổn định. Ở tâm điểm của sám hối, Gioan Tiền hô đã trở nên quân sư chỉ dẫn mọi đối tượng, cần phải làm gì để có được niềm vui cho cuộc sống ở phía trước.
Sự khôn ngoan ở đời là biết chạy đến người giầu, người có chức quyền, để hy vọng có hỗ trợ về vật chất tiền của. Khi cần trang bị kiến thức, kinh nghiệm sống, người ta tìm thầy danh tiếng để thọ giáo. Những lúc mệt mỏi, căng thẳng về thể xác tinh thần, người ta thường tìm nơi chốn thích hợp để thư giãn, nghỉ ngơi. Số đông dân Do-thái năm xưa tìm đến Gioan không phải vì họ thiếu tiền, cũng không phải vì cần một số kiến thức, cũng chẳng phải do họ đang cần nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Thực ra thì họ đang cần được xoa dịu những khổ đau tinh thần, cần đươc no thỏa về hạnh phúc tâm linh.
Hôm nay đây, chúng ta đến ngôi thánh đường để mong tìm gặp một người “hao hao” giống Gioan, hay chúng ta hy vọng được nghe, được giải tỏa những khổ đau tinh thần ? Triết lý cuộc đời đã nói lên một kinh nghiệm : khi ta thất vọng, chỉ vì ta chưa đứng lên được với quá khứ sai lầm của mình. Khi ta bối rối lắng lo nhiều điều, là do ta bỏ qua thực tế, chỉ hướng về sự “kiện toàn” ở tương lai. Khi ta có bình an, thực sự là bạn đang đối diện với hiện tại cách đơn giản và đẹp hơn cả. Rất tiếc là không phải hết tất cả mọi người, đều đủ khôn ngoan, tìm đến với quân sư Gioan để được hướng dẫn một lối sống cụ thể nhất.
Cha ông chúng ta có câu : áo sứt chỉ, mơ ước đơn giản là gặp được người biết khâu vá; còn được Tiên, được Phật, cho điều ước, hay nhất vẫn là ước được trở nên người hiền tài. Hãy sống mơ ước đơn giản, hãy khao khát trở nên người hữu ích, nhưng trước hết đừng ngại tìm đến người chỉ đường, bởi vì không có thầy đố mày làm nên. Người thầy Gioan chỉ đường cho dân chúng gặp Đấng cứu thế, thầy cũng chỉ cho từng đối tượng biết phải sống thế nào để có niềm vui, có tình yêu Chúa trong cuộc đời.
Tận tình hướng dẫn đám đông, nhiệt thành với sứ mạng dọn đường, Gioan cho mọi người biết ông chỉ làm công việc bổn phận, ông cũng như mọi người rất mong chờ được lãnh nhận ơn cứu độ. “Tôi thì lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người”. Và điều chung cho mọi người, ai cũng cần chuẩn bị tâm hồn, thay đổi cách sống cho xứng hợp để Chúa đến. Nghĩa là không phải thay mới nơi ở, mà đổi mới chính mình, để có được niềm vui, ơn bình an trong tương quan với anh chị em mình.
Các bậc hiền nhân có để lại câu thành ngữ như sau : dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi cách sống, bạn vẫn chỉ là con người cũ mà thôi. Dù đám đông dân chúng có ùn ùn tìm đến sông Gio-đan mà không sám hối, không thực hiện việc phải làm để đón Chúa, để được ơn cứu độ, hẳn việc tìm kiếm, mong chờ cũng chỉ là vô ích.
Ngày hôm nay, nếu Gioan có tái thế, ông vẫn hô to hãy chuẩn bị tâm hồn để Chúa đến. Lúc này đây dù vị linh mục có giảng giải hùng biện bằng Gioan, hẳn vị linh mục ấy cũng chỉ đang thực hiện sứ mạng dọn đường cho Chúa đến. Bậc sống hiện tại của ta là giám mục, linh mục, tu sĩ, hay giáo dân, ai cũng cần phải biết làm gì, phải sống bổn phận cụ thể ra sao để nhận lãnh ơn Chúa cứu độ.
Truyền thống sống đạo làm người, từ xưa tiền nhân chúng ta vẫn nhắc nhớ : hãy tu thân, tề gia rồi mới mong trị quốc, bình thiên hạ. Ngụ ý rằng : ai cũng phải bắt đầu cuộc từ bỏ, đơn giản và thực tế là tu thân, là thay thay đổi cuộc sống của mình theo tinh thần của “phúc âm”. Từ bỏ mình, cũng là câu trả lời : tôi phải làm gì ? Nhận biết phải làm gì, nghĩa là tôi rất cần niềm vui cho tôi, và tôi sẽ chia sẻ niềm vui cho anh chị em tôi. Niềm vui dồi dào, hạnh phúc càng to lớn. Niềm vui nào, bình an nào mới thực, nếu không chuẩn không đúng, niềm vui chóng qua và bình an giả tạo sẽ làm tâm hồn người ta trống rỗng và buồn chán mà thôi !
Trông đợi và hy vọng, không phải là những khẩu hiệu chung chung để thời gian dẫn người Kitô hữu vui hướng sự hoành tráng của hang đá bò lừa do tay người phàm làm ra. Niềm vui và bình an thật chỉ đến khi mà người trẻ khỏe, người già yếu, người thầy người thợ, hoặc trình độ cao, trình độ thấp, đều biết làm công việc bổn phận của mình cách tốt nhất để Chúa đến. Amen.
Trong Hiến chế Gaudium et Spes, công đồng Vaticanô 2 đã mở đầu với đường hướng mục vụ MV 3-C190
Trong Hiến chế Gaudium et Spes, công đồng Vaticanô 2 đã mở đầu với đường hướng mục vụ như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô, và không có gì là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”. Những môn đệ của Chúa Giêsu phải sao chép lại cuộc sống của Thầy mình. Ngài đã đến trần gian chung hòa kiếp sống đi sâu vào phận người, vui với người vui, khóc với người khóc và tiến nhận cái chết trên Thập giá để khai mở cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu chính là căn nguyên của niềm vui, biến ưu sầu thành hoan lạc, biến khổ đau thành hạnh phúc cho con người chúng ta.
Nói tóm lại, đạo Công giáo không phải là một tôn giáo nhuốm vẻ bi thương và sầu khổ, cho dù khi nhìn lên Thánh giá, chúng ta dễ rơi vào tình cảm đạo đức mang dáng dấp khổ đau. Đạo hay con đường mà Chúa Giêsu mở toang ra cho chúng ta chính là con đường của niềm vui và hy vọng.
Đây cũng chính là chủ đề của phụng vụ Chúa nhật hôm nay, Chúa nhật Gaudete. Các bài đọc đều vang vọng lời hiệu triệu: “ Hãy vui lên vì Chúa đã gần đến, Đấng thánh Israel đang ở giữa ngươi”. Chúa Nhật hôm nay còn được gọi là ‘Chúa Nhật hồng giữa mùa tím’ với tâm tình hoan vui này.
Vui mừng và hy vọng
Các bài đọc Lời Chúa Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay đều mang âm hưởng của một niềm vui sâu xa. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Sôphônia nhắc đi nhắc lại: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, con cái Israel hãy nức lòng phấn khởi” (Sop 3, 14). Có một nét đặc thù nơi sứ điệp của Sophonia khi ông mời gọi nhà Israel cũng như thiếu nữ Sion hãy reo vui, vì Thiên Chúa sẽ thực hiện ơn cứu độ, đồng thời chính Ngài cũng sẽ vui mừng khi ở giữa dân và thể hiện lòng thương xót cho dân. “Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ.” (Sop 3, 17). Đức Chúa là căn nguyên của niềm vui và Ngài cũng cảm nhận niềm vui thực sự nơi chính Ngài.
Cùng với lời hiệu triệu hãy vui lên, vị tiên tri còn nhắn nhủ dân chúng “ Hỡi Sion đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”(c 38).
Trong Tin mừng, Đức Giêsu cũng nhiều lần nhắc đi nhắc lại khẩu lệnh đó, mời gọi các học trò tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi Ngài để có được bình an và thoát vượt mọi sợ hãi.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của mình với thông điệp ‘Đừng sợ’. Đây không phải là lời trấn an mang tính tâm lý nhưng là lời mời gọi chúng ta hãy đi sâu vào cảm thức đức tin để luôn bám chặt vào Thiên Chúa, Đấng mang lại niềm vui và sự an bình. Vì thế bắt đầu mùa vọng để khai mở năm thánh 2000, Ngài đã gửi đi bức thông điệp để nhắn nhủ mọi người, đặc biệt các bạn trẻ: “ Đừng sợ, hãy mở cửa đón Đức Kitô” (Don’t be afraid, open the door to Christ).
Kinh thánh Cựu ước kể lại câu chuyện về bà Sara vợ ông Abraham. Bà Sara đã già nua, đến tuổi gần đất xa trời, nhưng Đức Chúa lại nói cho bà biết bà sẽ sinh con trai. Có lẽ bà nghĩ Thiên Chúa cũng có đầu óc khôi hài, nên bà đã phì cười. Thần sứ hỏi tại sao bà cười, hay bà nghi ngờ và không tin lời Chúa nói. Bà chối phắt vì sợ (St 18, 16). Sự sợ hãi đã làm lịm tắt nụ cười trên đôi môi của bà. Nhưng khi bà sinh con, niềm vui đã trở lại, vì bà đã hoàn toàn tin tưởng nơi Chúa. Abraham được mệnh danh là cha của những kẻ tin. Còn bà Sara, (theo nguyên ngữ tiếng Aram, có nghĩa là ‘người đàn bà cười’), đã tìm lại niềm vui và thoát khỏi sợ hãi, vì cuối cùng bà cũng tin vào lời của Đức Chúa.
Vì vậy, để có được niềm vui, chúng ta phải quy hướng trọn vẹn về Chúa. Niềm vui và sự bình an chân thật không đến từ những ồn ào náo nhiệt bên ngoài của ngày lễ Giáng sinh, nhưng niềm vui phát xuất từ sâu tận bên trong tâm hồn. Chúng ta nhìn vào mẫu gương Mẹ Maria. Sau khi thưa lời xin vâng và đón nhận Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng mình, Mẹ liền vội vã lên đường với niềm vui tròn đầy. Vừa đến nhà bà chị họ Isave, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi” (Lc 1, 39). Đó là niềm vui sâu xa trong tâm hồn của những ai luôn sống kết hợp với Chúa là Chúa của niềm vui.
Thưa ông chúng tôi phải làm gì?
Để có được niềm vui thực sự, chúng ta cũng phải đặt ra câu hỏi giống dân Do thái ngày xưa khi nghe Gioan rao giảng: “ Thưa ông, chúng tôi phải làm gì?”. Câu trả lời của Gioan trong Tin mừng hôm nay cũng là sứ điệp Giáo hội muốn nhắn gửi đến chúng ta :“ Ai có hai áo hãy chia cho người không có…. Đừng đòi hỏi quá mức đã ấn định … Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người khác, hãy bằng lòng với đồng lương của mình” (Lc 3, 10-14). Điều mà Thánh Gioan tiền hô khuyên nhủ dân chúng là hãy thành tâm chỉnh sửa lối sống, thực thi công bằng và sống bác ái đối với nhau. Con đường đến với Chúa và con đường đến với tha nhân cũng chỉ là một, bởi vì tha nhân chính là bí tích hiển thị dung mạo của Đức Kitô, như Ngài đã nói: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta trần trụi các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu hay ở tù các ngươi đã thăm nom” (Mt 25, 40).
Triết gia Nietzche đã có lần tuyên bố: “ Tha nhân là hỏa ngục”. Ông là một người vô thần, không tin Thiên Chúa nên không thể nào khám phá ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những con người mà ông gặp gỡ hằng ngày. Ngược lại như Thánh Giacôbê đã viết: “ Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là kẻ nói dối”. Thánh Gioan tiền hô là người dọn đường để chúng ta đến với Chúa, và con đường để đến được với Chúa phải đi ngang qua tha nhân.
Trước lễ Giáng sinh, chúng ta vẫn thường gửi những cánh thiệp để chúc nhau một lễ Noel vui tươi và an bình. Niềm vui và sự bình an đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta biết giao hòa thực sự với Chúa và với nhau, gạt bỏ hết những thù hận và chia cách.
Có một vị linh mục đã có sáng kiến trang trí cho ngày lễ Giáng sinh bằng cách dựng một máng cỏ với cây Thánh giá bên cạnh thay cho cây Noel. Sáng kiến này khá độc đáo, bởi vì theo Ngài, Chúa Giêsu đến trần gian để bắt đầu cuộc hành trình yêu thương nơi chuồng bò Belem và kết thúc cuộc hành trình ấy nơi đỉnh cao Calvê. Máng cỏ Belem và Thập giá núi Sọ là hai thông số của một thực tại duy nhất, đó là tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Vì thế muốn hưởng nhận niềm vui Giáng sinh cách thật sự, chúng ta cũng phải cảm thấu và hiển thị tình yêu một cách rõ nét, không phải chỉ qua những buổi tham dự phụng vụ để đến với Chúa, mà còn trong trọn cuộc sống để đến với nhau, nhất là phải cải thiện mối tương quan với mọi người như lời nhắn nhủ của thánh Gioan tiền hô ngày hôm nay.
Kết luận
Chúa Nhật hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật Gaudete, Chúa Nhật của niềm vui và cũng là Chúa Nhật hồng giữa mùa tím. Đạo Công giáo là đạo của niềm vui, đạo của mầu hồng tươi sáng. Chúa đến trần gian không phải để thiết lập một tôn giáo như người ta vẫn hay nghĩ tưởng. Hai ngàn năm trước, Ngài đi sâu vào phận người để công bố cho chúng ta một tin vui, đó là tin Thiên Chúa yêu thương con người. Tin vui hay Tin mừng này khởi đầu từ máng cỏ Belem và đạt đến đỉnh điểm khi Ngài bị treo thân trên Thập giá. Chúa Giêsu đến trần gian và mời gọi chúng ta nên thánh, nhưng như DonBosco đã nói cho các học sinh: “Bí quyết nên thánh là luôn sống vui tươi và chu toàn bổn phận của mình”. Cũng tương tự, Thánh Phanxicô Salê cũng dí dỏm nói rằng: “Một vị thánh buồn là một vị thánh thật đáng buồn”. Chớ gì chúng ta cảm nhận được niềm vui thánh thiện trong dịp lễ Giáng sinh sắp tới cũng như trong suốt cả ‘mùa vọng lớn’ là chính cuộc lữ hành đức tin chúng ta ngày hôm nay.
Gio-an hướng tới điều gì, khi ông dùng các hình ảnh, cũng như những lời đe loi nặng nề, để MV 3-C191
Gio-an hướng tới điều gì, khi ông dùng các hình ảnh, cũng như những lời đe loi nặng nề, để kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón đấng Mê-si-a; chính tôi, khi nghe những lời cảnh báo của Gio-an, bản thân tôi cũng thấy đấng Mê-si-a mà tôi đang mong đợi quả là đáng sợ; một đấng như thế ai mà không kinh khiếp:“Tay Người cầm nia rê sạch lúa trên sân; thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”? Đứng trước một nhân vật công thẳng như thế thì ai ai cũng thấy mình phải mau mau, không chút trì hoãn, để… thoát khỏi bị liệt vào hạng thóc lép, và mau chóng trở thành hạt thóc mẩy để khỏi bị thiêu đốt! Và nếu quả là như thế thật, thì tôi sẽ không gọi sự chuẩn bị này là ‘vọng = mong đợi’ nữa đâu, mà xin mạnhphép gọi là ‘vọng = canh chừng = phòng chống’ như khi người ta vẫn thường hô hoán phòng chống bão lụt hay thiên tai!
Rất may là dân chúng, và có lẽ ngay cả Gio-an, cũng chưa có một khái niệm rõ ràng nào về đấng mà lúc đó ông đang kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón tiếp. Chính họ đã chẳng bị vẻ bên ngoài khổ hạnh và liêm chính của Gioan lôi cuốn là gì, tới độ nhiều người còn tự hỏi: “Biết đâu ông Gio-an lại chẳng là đấng Mê-si-a”. Diện mạo đích thực của đấng Mê-si-a vẫn còn là một ẩn số, ngay cả đối với Gio-an: “Thầy có thật là đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11:3). Và có lẽ đây cũng là lý do, tại sao Gio-an đã gởi tới dân chúng một sứ điệp khủng khiếp đến thế. Cựu Ước, với cao điểm và điển hình nhất là Gio-an, có mục đích chuẩn bị đón chào đấng Mê-si-a, tuy nhiên mới chỉ phác lên được một dung mạo lờ mờ không rõ gì lắm về Ngài; họ võ đoán về Con Người đó nhiều hơn: Ngài phải như một đấng cao cả đầy quyền uy, long trọng ngự xuống từ đám mây trời (trong văn phong khải huyền). Chính vì thế mà: khi Con Người đến giữa đoàn dân có sứ mạng đón tiếp Người, thì “… họ lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:10-11). Đơn giản là vì họ có biết Người là ai đâu; họ thậm chí đã có một hình ảnh quá sai lạc về Người.
Tác giả Lu-ca cũng như cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, khi ghi lại những lời của Gio-an, chắc chắn đã có một hiểu biết và nhận thức hoàn toàn khác, chẳng hạn: khi trích lời Gio-an “Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa”, Lu-ca chắc phải hiểu Thánh Thần trong nội dung của biến cố ngày lễ Ngũ tuần, trong khi Gio-an thì hiểu đơn thuần là ‘sức mạnh của Đức Chúa’ theo quan niệm Cựu Ước, và ‘lửa’ ông hiểu trong nội dung lửa tình yêu nung nấu:“Thầy đến để ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12:49), thay vì là ngọn lửa hỏa hào thiêu hủy và luận phạt của Gio-an.
Vấn đề chính ở đây là: bạn và tôi, chúng ta là người của Cựu Ước như Gio-an, hay của Tân Ước như Lu-ca? Chúng ta ‘phòng chống’ hay ‘mong đợi’ Chúa đến? Chúng ta có hình ảnh Thiên Chúa như một Thẩm Phán công thẳng đáng sợ hay như một Người Cha giầu lòng thương xót thứ tha? Vì là Ki-tô hữu, hình ảnh về Thiên Chúa mà ta phải có chắc hẳn phải là hình ảnh Đức Giê-su đã cất công xuống thế, và bằng cái chết Thập Giá của Người, đã trình bày: “…Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời… Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án…” (Ga 3:16-18). Là Ki-tô hữu, ta không thể tự biện minh là mình chưa biết hoặc chưa hề đặt niềm tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa như thế! Nếu biện mình như thế có nghĩa là ta đang minh nhiên phủ nhận bí tích Rửa Tội mà mình đã lãnh nhận, cũng như giá trị các Thánh Lễ mà ta vẫn cử hành hàng ngày. Vậy thì, bất chấp những lời lẽ đe loi khủng khiếp mà Gio-an – Cựu Ước gióng lên, tôi và bạn vẫn có thể, cùng với Lu-ca, lập lại những lời của Gio-an trong một nội dung Tin Mừng hoàn toàn khác: “Ngoài ra ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ”.
Lạy Chúa, xin cho con biết khao khát và mong đợi Chúa đến, vì con biết rằng chính Chúa hằng khát khao và mong đợi được đến với con, cho dầu (đúng hơn, chính vì) con tội lỗi, yếu đuối và bất xứng. Xin cho các yếu đuối và nhơ nhớp mà con mang nơi mình không làm con khiếp sợ Chúa đến, trái lại càng làm cho con thêm tin tưởng chờ mong Chúa nhiều hơn; y hệt như một bệnh nhân mắc chứng nan y hiểm nghèo, mong đợi thầy thuốc cao tay và từ nhân tới chữa cho mình lành bệnh. A-men.
Trong thời gian mùa Vọng chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa nhật hôm MV 3-C192
Trong thời gian mùa Vọng chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa nhật hôm nay được gọi là “Chúa nhật vui mừng”, tiếng La- tinh là Gau-đa-tê, vì trong những bài Kinh thánh lời Chúa chứa đựng những niềm vui mừng hy vọng.
Trong bài đọc một, ngôn sứ kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và sửa đổi đời sống vì ngày Thiên Chúa đến đã gần kề. Ngôn sứ khích lệ và kêu gọi dân chúng đang trong tình trạng đau khổ, hãy vui lên vì niềm hy vọng của họ sắp thành tựu. Ngài cho họ biết “Án lệnh phạt ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy lùi xa.”
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy vui mừng, và phải vui luôn trong niềm vui của Thiên Chúa, vì khi một người đã có Chúa, họ không còn thiếu một sự gì nữa cả.
Câu Thánh vịnh đáp ca hôm nay cũng kêu gọi chúng ta “Hãy nhảy mừng và ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng thánh của Israel thật cao cả.” Thánh vịnh cho chúng ta biết Thiên Chúa chính là sức mạnh và là Đấng cứu độ của chúng ta. Như thế chúng ta thấy Giáo hội muốn chúng ta sửa soạn và chuẩn bị mừng ngày giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ nhân loại, với một tinh thần đầy hy vọng và vui mừng.
Như mọi người đều biết, hy vọng và vui mừng là điều rất quan trọng và cần thiết cho đời sống chúng ta trong xã hội ngày nay. Chúng ta nhận thấy tiền bạc, vật chất và thú vui không đem đến hy vọng và vui mừng đích thực được. Đối với người Ki-tô hữu chúng ta, chúng ta nhận biết chỉ tìm được vui mừng đích thực với sự hiện diện của Chúa trong đời sống, và hy vọng chỉ đến qua việc sống và thực hành lời Chúa mà thôi, và tùy vào quyết định và hành động, cũng như thái độ và cuộc sống của chúng ta.
Tôi xin đưa ra 1 thí dụ sau đây. Ngày nay, khi chúng ta muốn lái xe đi đâu chúng ta có một dụng cụ điện tử giúp chúng ta, đó là cái GPS, hay gọi nôm na là dụng cụ chỉ đường. Dụng cụ này chỉ đường, và nói cho chúng ta biết lộ trình tới địa điểm. Nhưng máy này chỉ chỉ đường và báo cho chúng ta biết chi tiết thôi. Chúng ta có đi đúng đường và đến đúng chỗ tùy vào chúng ta là tài xế. Tất cả những ai lái xe đều biết công hiệu của đèn sinh-an là để báo quẹo phải hay trái mà thôi. Chiếc xe có quẹo hay không là do người tài xế điều khiển, do chúng ta làm việc đó. Người tài xế phải vặn tay lái thì xe mới di chuyển, mới đổi hướng.
Ông bà anh chị em thân mến. Sự kiện này giúp chúng ta hiểu ý nghĩa lời Chúa trong bài Tin mừng hôm nay một cách rõ ràng hơn. Thật vậy, bài Tin mừng cho chúng ta biết dân chúng khắp nơi tuôn đến bờ sông Gio-đan để nghe lời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị đón chờ sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế mà họ đang trông chờ từ lâu. Bài Tin mừng còn cho chúng ta biết có 3 nhóm dân chúng: nhóm thứ nhất là những người dân bình thường, thứ nhì là những người thu thuế, và thứ ba là quân nhân. Cả 3 nhóm người này cùng hỏi một câu giống nhau “Chúng tôi phải làm gì?” Chúng ta thấy Gioan đã bảo họ phải lái “chiếc xe cuộc sống” của họ, vào con đường yêu thương và hy sinh, bác ái và công bằng, và ngay thẳng và thành thật.
Chúng ta có thể so sánh lời dạy dỗ, chỉ bảo của thánh Gioan Tiền hô cho dân chúng trên đây, như lời chỉ dẫn của dụng cụ GPS cho tài xế. Và chúng ta cũng nhận thấy, người tài xế có đi đúng đường và đến đúng địa điểm một cách an toàn và chắc chắn, tùy thuộc vào hành động của tài xế có nghe lời báo, và hướng dẫn của dụng cụ GPS hay không. Cũng vậy, tùy vào quyết định và hành động của dân chúng có nghe và làm theo lời của Gioan chỉ bảo hay không, để chuẩn bị một cách tốt đẹp cho Đấng Cứu Thế xuất hiện.
Ông bà anh chị em thân mến.
Trong mùa Vọng này, Giáo hội kêu gọi mọi người chúng ta chuẩn bị đón mừng sinh nhật của Đấng Cứu Thế, và ngày Chúa đến lần thứ hai, và như dân chúng ngày xưa, chúng ta cũng hỏi thánh Gioan Tiền hô: “Tôi phải làm gì?”
Thưa ông bà anh chị em. Trước hết, tôi nghĩ rằng chúng ta hãy cho ngài biết chúng ta thuộc vào nhóm nào. Nếu chúng ta ở trong nhóm những người dân bình thường, thánh Gioan kêu gọi chúng ta hãy từ bỏ nếp sống ích kỷ và thờ ơ, hãy lái chiếc xe cuộc sống của mình vào con đường siêng năng cầu nguyện, gia tăng lòng yêu mến Chúa, có đời sống bác ái và quảng đại hơn.
Nếu chúng ta ở trong nhóm những người thương mại, buôn bán như những người thu thuế, chúng ta hãy từ bỏ đời sống đức tin hình thức bề ngoài, từ bỏ sự tham lam và gian dối, và hãy lèo lái cuộc sống vào con đường công bằng, con đường sốt sắng chân thành hơn, con đường đúng với danh nghĩa Ki-tô hữu, và sống gần gũi với Chúa hơn.
Nếu chúng ta ở trong nhóm những người binh sĩ, hay những người có bổn phận và trách nhiệm hướng dẫn, dạy dỗ người khác, thánh Gio-an khuyên chúng ta hãy từ bỏ tánh kiêu căng, tự cao, đàn áp hay hà hiếp người khác, và lái cuộc sống vào con đường khiêm nhường, bằng lòng với những gì chúng ta có, hay đối xử với người khác một cách tốt đẹp và thân thiện hơn.
Đây là dụng cụ chỉ đường, chỉ bảo chúng ta lái cuộc sống của chúng ta vào con đường tốt lành và đúng để đến đích điểm, và cũng là lời Chúa chỉ bảo chúng ta chuẩn bị cuộc sống, để chúng ta sửa soạn cho ngày mừng ngày sinh nhật của Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, hay ngày trở lại của Thiên Chúa. Nhưng ông bà anh chị em thân mến, chiếc xe cuộc sống của chúng ta có tới đúng đích điểm, hay tâm hồn chúng ta tràn đầy hy vọng và vui mừng, hay lãnh nhận hồng ân Chúa không, đòi hỏi chúng ta phải quyết định và có hành động, chúng ta phải áp dụng những lời chỉ bảo của thánh Gioan vào trong cuộc sống. Lời Chúa không những là máy chỉ đường, mà còn là nguồn mạch của ân sủng, vui mừng và hy vọng cho cuộc sống của người Ki-tô hữu. Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan để mỗi người chúng ta có một quyết định, và Chúa cũng ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta để lái chiếc xe cuộc sống của chúng ta theo đúng con đường lời Chúa chỉ bảo.
Xin Chúa ban ơn lành cho mỗi người chúng ta để chúng ta thành tâm lắng nghe và thực hành lời Chúa chỉ bảo, chuẩn bị hang đá tâm hồn một cách tốt đẹp cho Chúa ngự. Chúng ta vui mừng vì Chúa đã đến gần. Nhất là khi chúng ta họp nhau trong Thánh lễ thì Chúa rất gần. Ngài đang hiện diện giữa cộng đoàn chúng ta.
Báo chí thế giới hiện đang đồng loạt đưa tin về việc người sáng lập ra mạng xã hội Facebook – Mark MV 3-C193
Báo chí thế giới hiện đang đồng loạt đưa tin về việc người sáng lập ra mạng xã hội Facebook – Mark Zuckerberg – tuyên bố sẽ hiến tặng 99% cổ phần Facebook để phục vụ cho các mục đích từ thiện với tổng trị giá vào khoảng 45 tỉ đô la. Hành động này thể hiện niềm vui khôn tả của vợ chồng Mark Zuckerberg vì tình yêu của họ đã đơm hoa kết trái, là cô con gái – Max. Niềm vui của tình yêu luôn luôn là một tình yêu biết sẻ chia.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Xp 3, 14-18a
Vào thế kỷ VII (TCN), đất nước Do Thái rơi vào tình trạng tồi tệ: đạo đức suy đồi, hiểm họa xâm lăng đang chờ chực… Tiên tri Xôphônia được sai đến để kêu gọi dân chúng: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion!” Lý do để Xôphônia rao giảng điều đó là vì: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa”. Tình thương tha thứ của Thiên Chúa sẽ đem đến cho họ niềm vui, mặc dù họ không xứng đáng.
Tin Mừng: Lc 3, 10-18
Bằng cuộc sống mang tính tiên tri, với lối sống hy sinh nhiệm nhặt, qua lời rao giảng mạnh mẽ của Gioan, nhiều người đã đến để xin chịu thanh tẩy tỏ lòng sám hối ăn năn.
Những người này gồm có dân chúng nói chung, những người thu thuế và binh lính của triều đình. Họ là đại diện cho mọi hạng người: giới bình dân, công nhân viên chức, các quan chức. Mỗi hạng người Gioan đều chỉ cho họ những việc làm cụ thể phù hợp với tình trạng và hoàn cảnh của họ. Gioan không buộc họ phải từ bỏ nghề nghiệp, nhưng mời gọi họ hãy sống tốt trong nghề nghiệp, trong hoàn cảnh của mình. Điểm chính yếu trong giáo huấn của Gioan là dù là ai, làm gì, ở đâu cũng phải biết sống công chính thánh thiện và thực thi tình bác ái.
Như vậy đức bác ái, tình yêu thương, sự sẻ chia sẽ đem đến cho chúng ta niềm vui. Nói cách khác, niềm vui chúng ta đón nhận từ Thiên Chúa chính là niềm vui của yêu thương trao ban. Chính tình yêu thương này đem đến cho chúng ta ơn cứu độ.
II. NIỀM VUI CỦA TÌNH YÊU TRAO BAN
Để có được niềm vui sâu thẳm trong tâm hồn, đòi hỏi chúng ta phải có tình yêu thương để biết sống chia sẻ với mọi người như Thiên Chúa đã yêu thương và chia sẻ chính Con Một của Ngài cho chúng ta.
Thiên Chúa Cha đã trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại. Chúa Giêsu đã hy sinh cả mạng sống của Ngài cho con người chúng ta. Tất cả chỉ vì yêu thương. Đó là bản chất của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Tình yêu”. Tình yêu này là một tình yêu sống động, tình yêu biết vượt ra khỏi chính mình để trao ban cho người khác những gì là quý giá nhất.
Biết bao nhiêu vị thánh đã hy sinh cả cuộc đời mình để sống bác ái, chăm lo cho những người nghèo khổ, bất hạnh như Thánh Vinh Sơn, Mẹ Têrêxa Calcutta…
Biết bao nhiêu người cha, người mẹ đã hy sinh cho gia đình, cho con cái mình được ăn no, mặc ấm, ăn ngon, mặc đẹp, được học hành, được công danh sự nghiệp…
Biết bao nhiêu mạnh thường quân đã góp phần vào việc từ thiện bác ái của xã hội…
Thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu Philipphê rằng: “Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã đến gần”. Lời khuyên của vị tông đồ là trong khi mong chờ Chúa đến, chúng ta phải sống rộng rãi, đừng ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Những ai chỉ nghĩ đến bản thân mình sẽ không bao giờ đem đến cho người khác niềm vui, ngược lại, còn làm cho người ta khó chịu vì người ích kỷ không muốn cho đi, mà chỉ thu gom cho mình.
Ở vùng quê, chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh của những ông bà già cái gì cũng để dành cho con cháu, hàng xóm mượn vật gì cũng cho, có bánh trái chia mỗi người một ít… Họ luôn luôn cho những người xung quanh cảm giác dễ chịu. Ngược lại, có những người không ai đụng được gì của họ. Cái gì cũng cất, cũng giấu, sợ mất, sợ hư hao, gặp gì cũng xin, đi đâu, làm gì cũng tìm kiếm để gom về nhà của mình… Họ làm cho người khác khó chịu vì sự ích kỷ của họ. “Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi”.
Sự ích kỷ không chỉ thể hiện qua vật chất, mà nguy hiểm nhất là nó làm cho tâm tính của con người bị băng hoại. Biết bao nhiêu những thảm trạng trong cuộc sống cũng chỉ vì sự ích kỷ. Hận thù cũng chỉ vì không tha thứ được cho người khác. Cướp của, giết người cũng chỉ vì lợi ích cá nhân. Tà dâm, gian dâm, ngoại tình cũng chỉ vì yêu chính bản thân mình. Ngừa thai, phá thai cũng chỉ vì ích kỷ…
Biết chia sẻ
Gioan tiền hô đã chỉ cho dân chúng con đường để hoán cải: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Đó là những việc làm hết sức cụ thể để chúng ta biết chia sẻ cho người khác, nhất là những người nghèo.
Quỹ Lòng Thương Xót mà Giáo phận Cần Thơ đã đề ra trong mùa Vọng của Năm Thánh này cần được nhiều người quan tâm thực hiện.
Trước hết để đền bù tội lỗi của chúng ta. Chúng ta thường xuyên đi xưng tội và đã làm việc đền tội mà Linh mục đã đề nghị, nhưng vài kinh Kính Mừng, thậm chí là một chuỗi Mân Côi cũng đâu xứng đáng với những tội lỗi của chúng ta, nó chỉ là việc đền tội tượng trưng. Điều quan trọng là sau mỗi lần xưng tội, chúng ta có ý hy sinh, hãm mình một cách cụ thể để đền tội. Việc làm phúc bố thí là một trong những việc làm cụ thể đó.
Kế đến, việc góp quỹ Lòng Thương Xót còn là để giúp cho những người nghèo khó chung quanh chúng ta, bất kể lương giáo. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”.
Sẽ có nhiều người nói: “Tôi nghèo muốn chết lấy gì mà giúp người nghèo?!!!”. Điều quan trọng là chúng ta có dám hy sinh để cho đi hay không. Đồng tiền của bà góa rất nhỏ bé, nhưng tấm lòng của bà rất lớn, vì bà đã dám “cho đi tất cả những gì để nuôi sống bản thân bà”. Hơn thế nữa, chúng ta cho đi cũng là để lãnh nhận. Cho đi tấm lòng của mình, để nhận lại tấm lòng của Thiên Chúa và người khác.
Tóm lại, chúng ta đón nhận niềm vui từ Tình Yêu trao ban của Thiên Chúa Cha và Tình Yêu nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ niềm vui cho mọi người bằng việc sống trao ban.
Chúng ta chỉ có thể trao ban khi biết sống rộng rãi, không ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình. Chúng ta chỉ có thể trao ban khi chúng ta biết làm phúc bố thí, biết san sẻ cho những người nghèo khổ…