Gioan Tiền hô có sứ mạng dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến. Luca, như một sử gia, nhập đề MV 2-C151
Gioan Tiền hô có sứ mạng dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến.
Luca, như một sử gia, nhập đề một cách trang trọng. Người viết: “Đời Hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm…” Bằng sáu mốc điểm, Người định vị trí cuộc rao giảng Tin Mừng cho thế giới được coi như những trang đầu của lịch sử nhân loại mới. Năm thứ 15 thời Vua Tibêriô (14-17) khởi đầu tháng 10 năm 27. Vậy Gioan “xuống núi” như một nhà đạo sĩ, bắt đầu rao giảng vào cuối mùa thu năm ấy và việc Chúa Giêsu chịu phép rửa đã xảy ra vào đầu tháng giêng năm 28 kỷ nguyên.
Gioan xuất hiện như một nhà ẩn sĩ, mình mặc áo da thú, ăn châu chấu, uống mật ong rừng và bắt đầu rao giảng. Ông là một nhà tiên tri chuyển tiếp từ đạo cũ Do-thái sang đạo mới của Chúa Giêsu và đề tài rao giảng cũng là đề tài của các nhà tiên tri, là “Hãy ăn năn trở lại, hãy dọn đường Chúa”.
Qua đoạn Phúc âm này, chúng ta chú trọng đến hai điểm.
Một là “Lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, từ trong hoang địa”. Nói một cách chung, chúng ta thấy rằng trong Thánh Kinh, Thiên Chúa thường kêu gọi các vị sứ giả từ trong hoang địa, sau một thời gian sống trong thinh lặng, suy tư và cầu nguyện. Moisê lùa đàn chiên của nhạc phụ ở Madian đi vào sa mạc đến núi của Chúa là Koreb (X.H. 3,1). Isaia kêu lên: “Tôi phải nín thinh, vì môi tôi nhơ uế” (Is. 6,5).
Sống suy tư, thinh lặng và cầu nguyện vẫn là đòi hỏi hiện nay của mọi Kitô hữu; không phải đòi hỏi sống đời tu trì, nhưng phải có những lúc đi vào nội tâm, suy tư cầu nguyện, nhất là đối với những ai giữ trọng trách trong Giáo hội, những người làm việc Tông đồ. Phaolô, trong thư gửi giáo đoàn Philiphê (bài đọc II) đã minh xác như vậy. Lời kinh đó ôm choàng cả Giáo hội hoàn vũ. Lời kinh chiêm ngắm ca tụng và “ngày đêm, trong mọi lúc”. Không phải chỉ đọc máy móc bên ngoài mà là, như lời Thánh Augustinô, “một sự cầu mong, ước muốn là cầu nguyện, lời kinh liên lỉ, vì yêu mến”.
Mùa Vọng là mùa mong đợi, ước muốn và cầu nguyện sốt sắng. Thánh Gioan, Cha sở họ Ars, nhìn thấy một giáo dân ngồi cầu nguyện lâu trước nhà Chầu, đến gần và hỏi:
-“Ông nói gì với Chúa?” -“Tôi nhìn Ngài và Ngài nhìn tôi” (Je l’avise et II m’avise).
Đó là lời kinh Mùa Vọng.
Điểm thứ hai: Gioan rao giảng một “phép rửa xám hối, cầu ơn tha tội”. Người Biệt phái và Saducêô cho rằng chỉ cần giữ Lề Luật là đủ, là hết bổn phận với Thiên Chúa. Gioan khẳng định rằng điều cần thiết là phải có một sự đổi mới tâm hồn: “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu (tội lỗi), hãy bạt mọi núi đồi, con đường gồ ghề hãy san cho bằng”. Sau này, Chúa Giêsu sẽ nói: điều làm cho con người nên dơ bẩn là những điều xuất phát từ tâm hồn như thù oán, ghen tương, dâm ô, bất chính, sống vật chất trụy lạc, và Chúa dạy phải rửa sạch và đổi mới tâm hồn.
Vậy, mùa Vọng là mùa “dọn đường Chúa” (Isaia); khi một vị Thượng khách đến, người ta trải thảm đỏ, khánh thành đại lộ mới. Chúng ta hãy canh tân đời sống, dọn tâm hồn đón Chúa đến trong thân phận thấp hèn.
“Thuở ấy có một Hoàng đế, thuở ấy có một Hài nhi. Suốt ngày Hoàng đế đến đếm đi đếm lại số người dân, số súc vật, số vàng bạc của cải. Còn Hài nhi niềm nở đón tiếp các mục đồng, đám chiên cừu, đoàn thần thiêng…
Hoàng đế không còn nữa, chỉ còn lại Hài nhi. Ai cũng có thể đến gần Người. Thời đại nào cũng có Người, vì thế mà có Giáng Sinh”. (Trích “Prier”)
Luca là tác giả Tin Mừng của lịch sử cứu độ mà ông triển khai thành ba điệp khúc như trong đoạn MV 2-C152
Luca là tác giả Tin Mừng của lịch sử cứu độ mà ông triển khai thành ba điệp khúc như trong đoạn rất súc tích này chẳng hạn: “Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16,16)
Luca muốn xây dựng những chiếc cổng qua đó ông làm cho chúng ta đi vào trong lịch sử một cách long trọng. Vào lúc hạ sinh Chúa Giêsu: “Hồi ấy Xêda đại đế ra chiếu chỉ …”. Và đối với bước đầu công khai của Ngài, cùng với Gioan tẩy giả vén màn lịch sử: “Năm thứ mười lăm triều đại vua Xêda Tibê…” Đây là tiếng chuông lớn của lịch sử.
Có một lời loan báo phi thường: “Mọi người sẽ được ơn cứu độ”. Đây là điều ông già Simêon đã công bố một cách âm thầm hơn: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài". Chúng ta thường quá thu hẹp các chân trời này, loại bỏ những chân trời này, quên lãng những chân trời kia. Và chúng ta luôn có nguy cơ mất đi trên các con đường của lịch sử điều phải là nỗi ám ảnh của chúng ta: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, Ngài muốn cứu độ tất cả những người ấy.
Người Do thái thời bấy giờ mong chờ Đấng Cứu Thế đến độ trái tim họ rung động khi nhìn vị tiên tri mới xuất hiện là Gioan Tẩy giả: “Có phải người này là Đấng Cứu Thế hay không?”.
Điều này sẽ còn khó tin hơn nữa! Sẽ phải có toàn bộ Tin Mừng, sự phục sinh và hiện xuống để người Do thái độc thần triệt để lòng trí mở ra (một cách khó khăn!) cho điều không thể tưởng tượng được: Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa.
Gioan Tẩy giả phác hoạ chân dung đầu tiên đó: “Có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”.
Nhưng cũng sẽ phải có các thần học gia giám mục vĩ đại của các thế kỷ đầu tiên, kinh nghiệm của các thánh, nhất là Chúa Thánh Thần để nói lên điều không thể được trình bày: Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần; và Chúa Con đã làm người, dưới thời Xêda đại đế, dưới triều vua Tibê.
Mùa vọng lại đặt chúng ta trước những chân trời rộng lớn của việc cứu độ tất cả mọi người mà Chúa Cha đã sai phái Con của Ngài cho họ. Còn việc tiếp nhận: Gioan Tẩy giả yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Ngài một con đường. Hai hình ảnh giải toả và tẩy sạch có thể giúp chúng ta hình dung công việc này một lần nữa: làm bung ra những cái cửa quá rỉ sét và làm sập đổ sự từ chối mà chúng ta đã làm cho chai cứng nơi chúng ta, những núi đồi do dự và bác bẻ. Nói với Chúa: “Xin hãy vào trong con” đòi buộc một sự hoạt động tích cực.
Tôi có đi quá nhanh từ lời loan báo lớn lao của Gioan Tẩy giả “tất cả mọi người sẽ xem thấy ơn cứu độ” đến những lo toan cá nhân nhỏ nhặt hay không? Chúng không nhỏ nhặt đâu, những cái nhìn rộng lớn trên thế giới không được làm cho chúng ta quên đi khu vườn của chúng ta. Trả lời cho một lãnh chúa người Tây Ban Nha, thánh Pierre ở Alcantara nói: “Ông hãy tỏ ra có tấm lòng tốt, thì đó đã là một phần của thế giới sẽ trở nên tốt đẹp”. Nói với Chúa trong mùa vọng: “Hãy đến cứu độ tất cả chúng con” sẽ là một lời nguyện của kẻ mơ mộng nếu lời nguyện đó không hướng chúng ta về điều phải được cứu độ nơi mỗi người trong chúng ta.
Chúng ta vừa nghe niềm vui của dân Do Thái khi họ được thoát khỏi cảnh tù đày qua tâm tình MV 2-C153
Chúng ta vừa nghe niềm vui của dân Do Thái khi họ được thoát khỏi cảnh tù đày qua tâm tình của Thánh Vịnh 135:
Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Họ cứ ngân nga mà hát với nhau:
Chúa đối xử đại lượng với chúng tôi nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. Cũng bình thường thôi vì Thiên Chúa luôn luôn yêu thương dân của Ngài và Ngài cũng muốn cứu độ dân của Ngài chứ Ngài có bao giờ bỏ rơi.
Lời hứa cứu độ đó tự ngàn xưa và cứ tiếp nối từ người này qua người khác, từ ngôn sứ này đến ngôn sứ kia.
Hôm nay chúng ta cũng bắt gặp lời hứa của Chúa qua môi miệng của ngôn sứ Baruc:
Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa.
Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa.
Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang.
Thế đó, Thiên Chúa, Đức Chúa sẽ tỏ ánh huy hoàng, tỏ ơn cứu độ của Ngài xuống dân Israel.
Thế nhưng, chuyện quan trọng hơn cả đó là mặc lấy tâm tình gì để đón ơn cứu độ?
Dân Do Thái cứ lầm lũi trong tội lỗi của mình, cứ lầm lũi trong sự cứng đầu của mình để rồi không chuẩn bị cho mình một tâm tình đón ơn cứu độ.
Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Độ - Con Thiên Chúa đến trần gian, Thiên Chúa đã tiên báo để cho mọi người dọn đường. Bằng chứng hết sức cụ thể là có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Không cần phải nói nhiều hay giải thích nhiều. Chuyện hết sức đơn giản là để đi từ điểm này đến điểm nọ, chúng ta cần có một con đường thẳng để mà đi. Nếu gặp hố sâu, nếu gặp núi đồi và gặp đường quanh co thì không thể nào ta đi được.
Hôm nay, Gioan cũng mời gọi chúng ta là chúng ta cũng phải sửa con đường nhà chúng ta để Chúa đến. Gioan không muốn nhắm đến con đường đi nhưng Gioan muốn nhắm đến cõi lòng, nhắm đến tâm hồn của chúng ta.
Nếu như cõi lòng chúng ta còn qúa nhiều đố kỵ, hờn ghe, kiêu căng, thù oán … e rằng Chúa hay nói khác đi là Đấng Cứu Độ không thể nào đến với chúng ta được.
Với lời mời gọi của Gioan, trong tâm tình chờ Chúa đến, mỗi người chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa và xin Chúa thương giúp chúng ta nhìn ra con người thật của chúng ta và xin Chúa cũng thương chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn chúng ta. Để có thể đến lúc Chúa đến với chúng ta, chúng ta có một tâm hồn ngay thẳng, có một tấm lòng sạch trong để mời Chúa đến vào trong tâm hồn chúng ta.
Hài nhi ở đây chính là Gioan Tẩy giả, cũng được gọi là Gioan Tiền hô. Sở dĩ chúng ta gọi ngài MV 2-C154
Hài nhi ở đây chính là Gioan Tẩy giả, cũng được gọi là Gioan Tiền hô. Sở dĩ chúng ta gọi ngài là Gioan Tẩy giả, vì ngài trao ban phép rửa sám hối. Còn gọi ngài là Gioan Tiền hô, bởi vì ngài có nhiệm vụ đi trước để hô hào mọi người chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Nhìn vào cuộc đời của ngài, chúng ta nhận thấy được bàn tay yêu thương của Chúa luôn hướng dẫn. Thực vậy, Phúc âm kể lại rằng:
Bà Êlisabeth và ông Giacaria sống chung với nhau trong bậc vợ chồng đã già rồi mà vẫn chưa có con. Một hôm ông vào đền thờ làm nhiệm vụ tư tế của mình. Thiên thần Chúa đã hiện ra cùng ông và cho biết: bạn ông sẽ sinh con. Ông không tin bởi vì cả hai đã cao niên, nên yêu cầu một bằng chứng. Thiên thần Chúa trả lời: Kể từ nay ông sẽ bị câm và sự thực đã xảy ra như thế.
Được tin bà Elisabeth, người chị họ của mình, đã có mang, Đức Maria liền vội vã lên đường thăm viếng. Trước sự hiện diện của Mẹ Maria và Chúa Giêsu, dù mới chỉ là một thai nhi, Gioan cũng đã nhảy mừng.
Rồi sau khi Gioan đã mở mắt chào đời, người ta hỏi ý kiến ông để đặt tên cho con trẻ, và ông đã trả lời bằng chữ viết: tên con trẻ là Gioan…Và cũng từ lúc ấy ông nói được và không còn câm nữa.
Lớn lên, Gioan vào trong hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ. Mặc áo da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Tiếng tăm về sự thánh thiện của ngài được loan truyền, thế là người ta kéo đến với ngài. Ngài khuyên mọi người sám hối ăn năn, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lúc nào ngài cũng tỏ ra khiêm nhường, tự xưng mình chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc và không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế.
Ngày kia Chúa Giêsu trà trộn với đám đông dân chúng đến xin Gioan làm phép rửa. Lúc đầu Gioan đã từ chối vì ngài biết Chúa Giêsu là ai. Nhưng sau cùng ngài cũng vui lòng trao ban phép rửa. Và lúc đó một sự kiện lạ lùng đã xảy ra: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Đức Kitô và từ trời có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Sau đó Gioan đã long trọng giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ và đám đông: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Ngài vui mừng khi thấy các môn đệ và dân chúng tin theo Đức Kitô. Chính ngài đã nói: Đức Kitô cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Có lần ngài đã sai hai môn đệ thân tín đến hỏi Chúa Giêsu: có phải là Đấng sẽ đến hay là còn phải chờ đợi một Đấng nào khác. Thâm ý của Gioan là muốn để cho các môn đệ của mình được nghe chính Chúa Giêsu xác quyết. Chúa Giêsu đã nói với họ: Hãy về nói với Gioan những điều các ngươi đã ghi nhận: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong cùi được lành sạch và kẻ nghèo túng được đón nhận Tin Mừng.
Với một tính tình ngay thẳng, Gioan đã lên tiếng can ngăn Hêrôđê không được phép lấy vợ của anh mình. Chính vì thế mà ngài đã bị tống ngục và sau cùng đã bị lấy đầu.
Nhìn thoáng qua cuộc đời của Gioan Tiền hô, chúng ta thấy ngài đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó, đó là chuẩn bị mọi người đón nhận Chúa đến, và khi Chúa đến, ngài đã giới thiệu Chúa cho mọi người được nhận biết.
Với chúng ta cũng thế, trong mùa vọng, chúng ta phải uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu để Chúa đến trong tâm hồn chúng ta, đồng thời hãy biết dùng lời nói và việc làm, nhất là những hành động bác ái yêu thương, để giới thiệu Chúa cho những người chung quanh.
Lời hay ý đẹp:
Bài giảng phải biểu lộ tốt ý nghĩa cử chỉ phụng vụ phù hợp để dẫn dắt giáo dân tham dự đầy đủ vào việc thờ phượng đức tin. Sửa soạn tâm hồn họ thấm nhuần phụng vụ, ngõ hầu hiệu quả của Thánh Thể vượt qua việc cử hành hiện tại mà vươn tới mọi lãnh vực của cuộc sống và của toàn thể Hội Thánh.(Fr. John Burke, op. trong Gospel Power tr.79.)
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CRM)
Trong Mùa vọng, có lẽ một nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong các bài đọc đó là Gioan Tẩy MV 2-C155
Trong Mùa vọng, có lẽ một nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong các bài đọc đó là Gioan Tẩy Giả, và có thể nói ông là một trong những mẫu gương sống Mùa Vọng tuyệt vời nhất.
Tuổi đời chỉ sống hơn 30 năm, nhưng ông từ bỏ gia đình mà vào trong sa mạc để tìm thánh ý Chúa, và sống liên kết mật thiết với Chúa. Nhờ đó ông trở thành vị tiền hô cho Đấng Cứu Thế, kêu gọi dân chúng đổi mới tâm hồn, để đón mừng Đấng Cứu Độ trần gian.
Chúng ta biết, hoang địa là nơi vắng bóng người ở, một nơi trơ trụi, thiếu sự sống, khí hậu khắc nghiệt, nhưng chính nhờ môi trường thanh vắng này, mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành hơn trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng tiền hô của mình, nhưng ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi cho đến thời, đến buổi ông nghe thấy tiếng Chúa ngỏ lời với ông.
Tiếng Chúa thúc đẩy ông ra khỏi hoang địa, để đi trước Chúa mở lối cho Ngài.
Tiếng Chúa ông nghe trong hoang địa, đã trở thành Lời Chúa ông công bố nơi phố thị.
Tiếng Chúa gọi ông nghe trong thầm lặng, nay trở thành tiếng hô lớn, mời gọi dân chúng hoán cải, thay lối đổi đường.
Ông kêu gọi dân chúng sám hối sửa lại con đường tâm hồn, để chào đón Vua Giêsu ngự đến.
Việc sám hối không chỉ là một vài giờ tĩnh tâm, hay đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ tận căn những tính hư tật xấu, để Chúa có thể dễ dàng ngự đến và ở lại với chúng ta.
Thật ra Chúa đã đến trần gian từ lâu rồi, nhưng nhiều khi chúng ta chưa đón nhận được Ngài, bởi vì con đường tâm hồn chúng ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo thích nâng mình lên, tự hào về khả năng của mình, luôn cho mình là tài giỏi hơn người khác, không bao giờ chịu thua kém bất cứ ai. Nếu có ai khen thì vui vẻ, còn ngược lại ai chê một chút thì tự ái khó chịu. Xin hãy hạ mình uống với lòng khiêm tốn như Gioan Tẩy Giả.
Để Chúa được vinh quang, Gioan phải khiêm nhường. Để Chúa được nhận biết, Gioan phải quên mình. Để Chúa được nổi lên, Gioan phải chìm xuống. Gioan hiểu rõ điều đó, nên ông không ngừng hạ mình khiêm nhường trong lời nói cũng như trong cách ứng xử.
Khi uy tín của ông lan rộng, người ta tưởng là Đấng Cứu Thế, nhưng ông khiêm tốn nhìn nhận: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đấng đến sau tôi uy quyền hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Ngài; Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ bé đi”.
Tâm hồn chúng ta có những hố sâu ích kỷ, chỉ lo vun đắp cho mình, mà không hề biết quan tâm giúp đỡ người khác. Chúng ta không phải là “đấng toàn năng”, làm được mọi sự. Do đó chúng ta cần sự giúp đỡ của người khác. Không ai dám vỗ ngực là mình không cần đến ai. Vì thế, nhu cầu cần được người khác giúp đỡ đó là nhu cầu của mọi người.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, chúng ta biết nhỏ đi mỗi ngày trong cái tôi ích kỷ, trong những tính hư tật xấu; biết quên mình khi phụng sự Chúa và quảng đại giúp đỡ nhau.
Tâm hồn chúng ta đôi khi có những khúc quanh co dối trá, trong lời ăn, tiếng nói và việc làm, sống không thành thật với Chúa; không thành thật với nhau. Xin hãy uốn lại với lòng thành thật theo Tin Mừng Chúa dạy.
Tâm hồn chúng ta có những lượn sóng gồ ghề, khó tính khó nết, khó sống với người khác, hay than thân trách phận, không bằng lòng với số phận của mình. Xin hãy noi gương Gioan Tẩy Giả đã bỏ thành phố ồn ào náo nhiệt, vào sống trong sa mạc thanh vắng thiếu thốn mọi sự, để sống thân mật với Chúa.
Mùa Vọng, chúng ta cũng cần vào trong sa mạc tâm hồn, nghĩa là sống nội tâm hơn, để sống kết hiệp với Chúa qua đời sống cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí Tích.
Gioan Tẩy Giả đã khước từ những thức ăn cao lương mỹ vị, ông chỉ dùng những thức ăn đơn sơ đạm bạc của núi rừng. Ngài từ bỏ quần áo lụa là, chỉ khoác trên mình tấm da thú che thân.
Noi gương ông, chúng ta cũng phải vui lòng chấp nhận mọi hoàn cảnh mà Chúa an bài gửi đến, như bị bệnh tật, bị con cháu bỏ rơi, bị thiếu thốn cách này, cách khác, để nên giống Chúa Giêsu Đấng là giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta.
Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô chuẩn bị cho Chúa đến lần thứ I. Chúng ta phải là những tiền hô thời đại mới chuẩn bị cho Chúa đến lần thứ II. Làm tiền hô cho quê hương của mình, cho môi trường mình đang sinh sống, đó là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu chúng ta. Ơn cứu độ đã đến từ hơn hai ngàn năm nay rồi, nhưng vẫn thiếu vắng những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp gỡ con người. Vì thế, chúng ta cầu nguyện cho nhau, và xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nỗ lực sửa lại mọi sự trong ngoài chúng ta. Biến chúng ta thành những con đường mới bằng phẳng trong tâm hồn, để Chúa dễ dàng đến ở cùng chúng ta, đồng thời chúng ta cũng dễ dàng đến với nhau.
Đón tiếp người khác hay tiếp khách là một trong việc chúng ta vẫn thường làm trong đời sống MV 2-C156
Đón tiếp người khác hay tiếp khách là một trong việc chúng ta vẫn thường làm trong đời sống hàng ngày. Điều này xảy ra trong mọi lãnh vực của xã hội từ việc đón tiếp một người thân yêu, một ân nhân hay bằng hữu trong sinh hoạt cá nhân hay gia đình, cho đến việc đón tiếp các bậc vị vọng trong đạo hay ngoài đời trong các đoàn thể xã hội hay tôn giáo, trong phạm vi quốc gia hay quốc tế. Cách thức chúng ta chuẩn bị để đón tiếp một người tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố người ấy là ai, người ấy liên hệ thế nào với chúng ta, người ấy đã làm gì cho chúng ta, và việc đón tiếp của chúng ta dành cho người ấy sẽ ảnh hưởng thế nào đến liên hệ giữa người ấy và chúng ta.
Một trong những chủ đề nổi bật trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là lời mời gọi Dân Chúa phải chuẩn bị đón Chúa. Đây cũng là chủ đề then chốt của Mùa Vọng. Thật vậy, ngày xưa Dân Chúa trong Cựu Ước được các ngôn sứ kêu mời để trông mong Đấng Thiên Sai, Đấng nhân danh Chúa sẽ đến để giải phóng họ. Bài đọc một trích sách Ngôn Sứ Barúc nhắc cho chúng ta biết một chân lý thật cảm động: đó là khi mời gọi Dân Chúa chuẩn bị dọn đường mừng đón Chúa nơi Đấng Thiên Sai thì chính Chúa đã thương yêu và dọn đường cho Dân Chúa đi đến vinh quang: “Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây tập họp lại theo lệnh của Đấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đưa họ về cho ngươi trong vinh dự như những hoàng tử.
Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang” (Br 5:5-9).
Cũng vậy, trong Thánh Vịnh 125 được trích dẫn để dùng trong phần đáp ca của Phụng Vụ hôm nay, Thánh Vịnh Gia đã diễn tả niềm vui lớn lao của Dân Chúa khi Chúa đưa dẫn họ từ chốn lưu đầy về quê cha đất tổ, đã thay đổi số phận của họ, đã cư xử với họ một cách hết sức quảng đại và đầy tình thương. Câu điệp ca tóm gọn lý do đem lại niềm vui của Dân Chúa như sau: “Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan” (Tv 125:3).
Chúa Giêsu Kitô-Đấng Cứu Chuộc Nhân Thế mà các tổ phụ và ngôn sứ hàng trông mong -đã đến và hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại bằng việc nhập thể, giáng sinh, cuộc đời rao giảng, cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. Như vậy, nơi Chúa Kitô lòng thương yêu đại lượng của Thiên Chúa dành cho nhân loại đã được thể hiện cách trọn vẹn. Vì vậy, tin vào lời Chúa hứa ngày nay Hội Thánh tiếp tục nhắc nhở và mời gọi chúng ta phải tha thiết trông mong và nỗ lực chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai trong vinh quang.
Chúng ta phải đón tiếp Chúa Giêsu như thế nào? Người là vị khách cao cả và quyền uy trên mọi vị khách, Đấng hằng thi ân cho chúng ta hơn mọi ân nhân khác, Đấng luôn yêu thương chúng ta hơn mọi người thân yêu khác, và Đấng sẽ có thể làm cho chúng ta những điều tốt lành quý giá hơn cả những gì chúng ta có thể mơ ước và cầu xin!
Chính Thiên Chúa đã giúp chúng ta thực hiện việc đón tiếp Chúa Cứu Thế một cách xứng hợp như lòng Người mong muốn qua ơn gọi và sứ mạng của Thánh Gioan Tiền Hô. Tin Mừng hôm nay tóm gọn ơn gọi và sứ mạng của Gioan bằng những lời sau của ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4-6).
Lời mời gọi chuẩn bị đón Chúa ở đây không gì khác hơn là lời mời gọi sám hối và hoán cải. Lời mời gọi này sẽ được chính Chúa Giêsu lập lại trong lời rao giảng công khai đầu tiên của Người: “Thời kỳ đã mãn. Nước Thiên Chúa đã đến gần! Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15).
Việc hoán cải này được ngôn sứ Isaia diễn tả cách cụ thể bằng những hình ảnh với những ý nghĩa sau:
1. “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” và “đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng”: phải chấm dứt lối sống tà vạy, gian dối, quanh co, hai lòng để sống với lòng đơn sơ ngay thật.
2. “Hãy lấp mọi hố sâu”: phải lấp đầy hố sâu của lòng tham lam bằng tinh thần nghèo khó và chia sẻ; lấp đầy hố sâu của lòng ganh ghét hận thù bằng lòng yêu thương chân thật; lấp đầy hố sâu của thành kiến và chia rẽ bằng tinh thần đối thoại và hiệp nhất.
3. “Hãy bạt mọi núi đồi”: phải bạt mọi núi đồi của tính tự kiêu tự đại và những tham vọng bất chính bằng tinh thần khiêm nhu tự hạ của Chúa Giêsu, để ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân.
4. “Con đường gồ ghề hãy san cho bằng”: phải san bằng con đường gồ ghề của ý riêng và lòng tự ái, để ta có thể sống bình an với Thiên Chúa và tha nhân qua việc chuyên chăm thực thi Thánh Ý Chúa với tinh thần xả kỷ vị tha.
Con đường phải sửa chữa ở đây để đón Chúa chính là tâm hồn, con người và cuộc sống của mỗi người chúng ta. Con đường ấy phải được sửa chữa lại theo khuôn mẫu của chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên ngôn: “Ta là Đường là Sự Thật và là Sự Sống”(Jn 14:6). Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta phải hoán cải tâm hồn để chúng ta có được nơi mình “tâm tư như đã có nơi Đức Kitô” (Pl 2:5). Đó là con đường duy nhất đưa đến sự sống thần linh của tình yêu và sự thật.
Vì thế, tất cả nỗ lực chuẩn bị đón Chúa phải được thực hiện trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đây chính là lý do khiến Thánh Phaolô trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay đã tha thiết cầu xin cho các tín hữu của người. Thánh nhân viết:
“Vì Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: tôi yêu mến tất cả anh em với tâm tình của Đức Giêsu Kitô. Điều tôi cầu nguyện cho anh em là lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em được trong sạch và không có gì đáng trách cho đến ngày của Đức Kitô, anh em được Đức Giêsu Kitô ban cho dư đầy hoa quả công chính, hầu tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 4:8-11).
Cũng vậy, một tác giả trong thứ kỷ thứ hai xác quyết rằng lòng yêu thương giúp đỡ tha nhân kèm với tinh thần cầu nguyện hãm mình luôn gắn liền và chiếm chỗ nhất trong việc hoán cải để dọn đường cho Chúa đến: “…bố thí là một cách sám hối rất tốt.
Ăn chay tốt hơn cầu nguyện, nhưng bố thí tốt hơn cả hai. Lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi, nhưng lời cầu nguyện phát xuất từ lương tâm ngay lành sẽ giải thoát cho khỏi cái chết. Phúc cho ai được coi là hoàn hảo trong những việc ấy, vì bố thí sẽ làm cho cho gánh tội nhẹ đi” (Kinh Sách Thứ Sáu tuần XXXII thường niên).
Tóm lại, Thiên Chúa đã tỏ ra đại lượng vô cùng trong việc đối xử với chúng ta trong việc đã ban tặng chúng ta Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô. Cũng vậy, Người cũng muốn chúng ta noi gương Người trong việc đại lượng chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai qua việc tận tình hoán cải để trở nên giống Chúa Giêsu, bằng cách chuyên chăm cầu nguyện hãm mình và thực thi bác ái với tha nhân. Đó chính là cách chuẩn bị đón Chúa tốt đẹp nhất. Và đó cũng là cách thức để đón nhận niềm vui ơn cứu độ mà Chúa Cứu Thế đã mang lại cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy con biết quảng đại và nồng nhiệt trong việc chuẩn bị đón Chúa Giêsu Con Mẹ trở lại trong vinh quang, bằng đời sống chuyên chăm cầu nguyện, hy sinh xả kỷ và yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến - ‘Bước theo’)
Chương 3 Tin Mừng (Lc 1-6) hôm nay, giới thiệu Gioan Tẩy giả, sứ giả của Đấng Cứu Thế, được MV 2-C157
Chương 3 Tin Mừng (Lc 1-6) hôm nay, giới thiệu Gioan Tẩy giả, sứ giả của Đấng Cứu Thế, được trình bày từ câu 1 – 6. Diễn tả hai ý nghĩa quan trọng:
- Một là: -thời gian và hoàn cảnh lịch sử, địa điểm có thật trong nước Do-thái, những sự kiện ấy chứng minh sự thật về Gioan Tẩy giả, và Gioan Tẩy giả là chứng về Đấng Cứu Thế.
Hai là: - kêu gọi sự sám hối và phép rửa.
Như vậy, khi Đấng Cứu Thế đến là lúc người ta sắp được đón nhận một sự kiện trọng đại từ thời cựu ước. Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu chuộc cho con người. Một tâm trạng háo hức và đón chờ. Đón chờ Đấng cứu chuộc đến bằng một thái độ sám hối.
Vậy sám hối có ý nghĩa gì? Tại sao phải sám hối?
Thưa sám hối là một tâm trạng cần thiết để đón nhận tình thương của Thiên Chúa, vì ơn tha thứ và cứu chuộc của Thiên Chúa không phải là những hình thức bên ngoài, mà là chính nội tâm của con người. Ta thử đặt mình vào hòan cảnh lúc bấy giờ của người Do- thái khi họ sống tâm trạng mong đợi Đấng Cứu Thế. Lúc đầu họ lầm tưởng Gioan Tẩy giả là Đấng Cứu Thế.
Nhưng Gioan Tẩy Gỉa không mạo nhận, vì sao? Thưa vì ,ông làm chứng cho sự thật, chứ ông không phải là sự thật. Sự thật chính là Đấng Cứu Thế. Như vậy cho thấy sự mong đợi Đấng Cứu Thế đến, của người Do- thái như thế nào? Họ háo hức, chờ mong rất mãnh liệt, nhưng sự chờ mong ấy không bằng nội tâm mà bằng hình thức. Nên chi, khi Gioan Tẩy Gỉa làm phép rửa cho họ, thì họ chen chúc nhau để được làm phép rửa. Phép rửa mà Gioan Tẩy giả làm cho họ, không phải là ơn cứu độ, mà là hình thức để sám hối. Nhưng họ chen chúc nhau để lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, nhưng ông đã mắng họ:”
Hỡi những loài rắn độc kia, ai chỉ cho các ngươi trốn khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, sắp giáng xuống trên các ngươi vậy?” (c 7). Rõ ràng là họ không ý thức được ơn Cứu Độ. Nhưng sự kêu gọi của Gioan Tẩy giả chính là phải thay đổi nội tâm từ bên trong con người. Nội tâm, bên trong của con người rất đáng sợ vì “Bên ngoài thì thơn thớt nói cười, nhưng bên trong nham hiểm giết người không đao” hay là “sông sâu còn có chổ dò, nhưng ai lấy thước mà đó lòng người.”. Nên chi, nội tâm là điều quan trọng, điều mà Thiên Chúa muốn là nội tâm của con người. Đấng Cứu Thế, chính là ơn cứu độ đến, Nhưng Đấng Thiên Sai đến không phải bằng quân đội hùng mạnh, không phải bằng những phương tiện hiện đại của trần thế mà là bằng một sự khiêm nhường rốt cùng, bằng một kiếp người đơn sơ, khiêm hạ.
Như vậy, tiếng kêu trong hoang địa của Gioan Tẩy giả là một phương tức sám hối.Sám hối là một tâm trạng cần thiết để đón chờ Ngôi Hai NhậpThể. Vì nếu con người không có tâm trang đón chờ từ bên trong, thí ơn cứu độ không có ý nghĩa gì. Lúc đó, lãnh nhận phép rửa ở bên ngoài, khác gì hòn đá bị bám bụi, được ta rửa bên ngoài, còn bên trong vẫn là đá. Sự sám hối bắt đầu bằng sự nhận thức khiêm nhường, chỉ có khiêm nhường mới nhìn nhận giá trị đích thực của thân phận con người mà thôi. Vì khiêm nhường càng thẳm sâu, thì đón nhận càng nhiều. Khiêm nhường chính là nhìn nhận sự thật, nhìn thấy đâu là thân phận mỏng giòn, đâu là Thiên Chúa, đâu là nhân thế?
Như vậy, đón chờ lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa làm Người, là đón chờ một mầu nhiệm của sự nội tâm ,của sám hối, của tình thương bằng sự khiêm nhường đích thực như Ngôi hai nhập thể và nhập thế, chứ không phải bằng những hình thức bên ngoài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến và đang đến trong thế gian bằng con đường khiêm hạ và vâng lời. Đó là điều mà Chúa muốn cho chúng con noi theo, xin thương ban cho chúng con biết nhận ra giá trị đích thực của Chúa bằng con đường khiêm tốn và sám hối. Amen.
Tin mừng Lc 3:1-6: Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô...
Gioan là một con người đặc biệt và rồi một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Hoang địa MV 2-C158
Gioan là một con người đặc biệt và rồi một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người.
Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê, một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này. Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy. Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ. Gioan biết mình là Tiền Hô cho Ðấng Cứu Thế, và ông cố làm tròn sứ mạng của mình trước lịch sử.
Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.
Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Từ trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Ðường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng". Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.
Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.
Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để mất mát.
Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Ðã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày. Ðường quan trọng là đường vào cõi lòng. Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp... Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ. Ðiều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn. Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu. Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối. Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống. Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người. Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.
Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Ðó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y. "Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào". Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.
Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Ðó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Ðường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng".
Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ngôi Lời đã trở thành xác phàm.
Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn ‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.
Sám hối, canh tân đời sống là một yêu cầu của đời sống đức tin. Bởi lẽ con người không thể đón nhận giáo lý của Chúa Giêsu và đến với Ngài nếu không thay đổi suy nghĩ và lối sống xa lạ với giáo lý của Chúa. Tiếng kêu của Gioan gọi mời dọn đường cho Chúa đến, được vang lên trong Mùa Vọng, nhắc nhở chúng ta về điều ấy. Đây cũng chính là nền tảng thâm sâu của niềm vui Giáng Sinh, khi Con Thiên Chúa làm người, ngài lấp đầy những khát vọng nhân loại, một khát vọng được diễn tả qua nỗ lực canh tân cuộc sống.
Ai trong chúng ta cũng có ít nhiều kinh nghiệm về việc chuẩn bị một biến cố hay sự kiện quan trọng MV 2-C159
Ai trong chúng ta cũng có ít nhiều kinh nghiệm về việc chuẩn bị một biến cố hay sự kiện quan trọng đối với cá nhân, gia đình và cộng đoàn mình. Kinh nghiệm ấy giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật II Mùa Vọng Năm C hôm nay.
Gio-an Tiền Hô là người được Thiên Chúa sai đến để giúp dân Ít-ra-en đón nhận Chúa Cứu Thế là Đức Giê-su Na-da-rét. Sứ mạng của Gio-an là “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Dọn đường cho Thiên Chúa cũng là sứ mạng và là niềm hạnh phúc của mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Chúng ta hãy mau bắt tay vào công việc quan trọng này!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1 (Br 5,1-9): "Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi".
Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa.
Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa.
Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang.
2.2 Bài đọc 2 (Pl 1,4-6.8-11): "Anh em hãy ăn ở trong sạch và không đáng trách, cho đến ngày của Đức Kitô".
Anh em thân mến, luôn luôn trong mọi lời cầu nguyện của tôi, tôi hân hoan khẩn cầu cho tất cả anh em, vì anh em đã thông phần vào việc rao giảng Phúc Âm từ ngày đầu cho tới nay. Tôi tin tưởng rằng Ðấng đã khởi đầu việc lành đó trong anh em, cũng sẽ hoàn tất cho đến ngày của Ðức Giêsu Kitô.
Vì Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: tôi yêu mến tất cả anh em với tâm tình của Ðức Giêsu Kitô. Ðiều tôi cầu nguyện bây giờ là lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Ðức Kitô, anh em được Ðức Giêsu Kitô ban cho dư đầy hoa quả công chính, hầu tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.
2.3 Bài Tin Mừng (Lc 3,1-6): "Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Ðời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Br 5,1-9) là lời của ngôn sứ Ba-rúc kêu gọi thành thánh Giê-ru-sa-lem nhận thức sứ mạng và vai trò lịch sử của mình vì Thiên Chúa đang và sẽ thay đổi số phận của thành. Thiên Chúa ra chỉ thị cho thành là: “bạt thấp núi cao và gò nổng, lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu” để chuẩn bị cho ngày Chúa đến. Sau này Gio-an Tiền Hô cũng hô hào dân Do-thái chuẩn bị tâm hồn đón rước Đấng Mê-si-a sắp xuất hiện.
- Qua đoạn văn Sách Ba-rúc 5,1-9 trên, xuất hiện gương mặt của một Đấng Thiên Chúa trung thành với lời hứa và thích làm điều tốt đẹp cho dân, khiến dân riêng và thành thánh được vẻ vang trước mặt thiên hạ.
3.1.2 Bài đọc 2 (Pl 1,4-6.8-11) là những lời tâm tình của Thánh Phao-lô Tông đồ viết cho các tín hữu Phi-líp-phê. Thánh Phao-lô khen ngợi những việc tốt lành mà họ đã thực hiện để thúc đẩy họ tăng cường hơn nữa đời sống yêu thương, tinh tuyền trong khi chờ đón Ngày Chúa Ki-tô Quang Lâm. Đối với Thánh Phao-lô và các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai thì việc trông đợi Ngày/Biến Cố Chúa Ki-tô Quang Lâm là yếu tố chi phối tư tưởng và cách sống, có nghĩa là người Ki-tô hữu sống, hành động, hy sinh, hãm mình, phấn đấu vì Ngày/Biến Cố ấy. Nói cách khác điều người Ki-tô hữu mong đợi, ngóng chờ nhất là Ngày/Biến Cố Quang Lâm của Chúa Giê-su Ki-tô.
- Qua đoạn thư của Thánh Phao-lô gửi giáo đoàn Phi-líp-phê trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, tinh tuyền; Chúa Giê-su là Đấng sẽ đến để hoàn tất kế hoạch của Thiên Chúa.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 3,1-6) là tường thuật về khung cảnh (tôn giáo và chính trị, xã hội) và những lời kêu gọi và việc làm của Gio-an Tiền Hô là người được giao sứ mạng chuẩn bị các tâm hồn, chấn chỉnh nếp sống con người và cải cách cơ chế tôn giáo và xã hội, để Chúa Cứu Thế có thể đến được với hết mọi người, mọi nhà.
- Qua đoạn Phúc Âm Lu-ca trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng muốn cứu hết mọi người nên mới giao cho ông Gio-an sứ vụ rao giảng trong hoang địa, kêu gọi tội nhân ăn năn sám hối, để dọn đường đón nhận Đấng Cứu Thế là Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Hãy dọn đường cho Chúa Giê-su Ki-tô đến, không chỉ với ta mà còn đến với mọi người, mọi nhà, đến với xã hội và thế giới hôm nay!
Dọn đường không chỉ có nghĩa là đi xưng tội mà còn có nghĩa là dẹp tan tội lỗi và mầm mống của tội lỗi trong tâm hồn con người. Vì thế mà nếu trong đời sống cá nhân hay cộng đồng xã hội còn ngổn ngang bất công, thù ghét, đố kỵ, chia rẽ, phân biệt đối xử và áp bức thì dọn đường cho Chúa có nghĩa là xây dựng và bảo vệ công lý và hòa bình, yêu thương và đoàn kết giữa người với người.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng trung tín trong mọi lời hứa với tổ tiên loài người là sẽ ban Đấng Công Chính cho dân Người. Sống với Thiên Chúa là Ngôi Lời Nhập Thể và đồng hành với chúng ta chỉ đường dẫn lối cho chúng ta qua gương lành và lời giảng dậy của Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Muốn thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến, chúng ta được mời gọi thực hiện hai việc quan trọng sau đây:
4.2.1 Canh tân đời sống cá nhân, có nghĩa là:
* thay đổi từ tình trạng tội lỗi sang tình trạng sạch tội hay ơn nghĩq cùng Chúa;
* thay đổi từ tình trạng khô khan, nguội lạnh sang tình trạng đạo đức, sốt sáng;
* thay đổi từ tình trạng khép kín, bảo thủ, vị kỷ sang tình trạng cởi mở, cầu tiến và vị tha;
* thay đổi từ tình trạng trùm chăn, không dấn thân sang tình trạng dấn thân, phục vụ tha nhân.
* thay đổi từ tình trạng u mê và thờ ơ với Lời Chúa sang tình trạng siêng năng đọc, học Lời Chúa mỗi ngày, mỗi tuần và say mê rao giảng Lời Chúa.
Chúng ta canh tân đời sống thì chúng ta trở thành một con người thánh thiện, dễ thương, hữu ích, được Thiên Chúa và mọi người yêu mến!
4.2.2 Dấn thân phục vụ một xã hội công bằng vì hai lý do khách quan và chủ quan. Khách quan là giá trị nội tại của công bằng; chủ quan là giá trị của công bằng trong mối liên hệ với con người và xã hội:
* Khách quan mà nói thì công bằng là tiền đề của bác ái, yêu thương, là điều kiện của hòa bình và hòa hợp giữa người với người và giữa các nhóm người với nhau.
* Còn chủ quan mà nói thì công bằng là một đòi hỏi bức bách của hàng chục triệu con người đang bị phân biệt đối xử, đang là nạn nhân của bất công trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng.
V. CẦU NGUYỆN CHO LOÀI NGƯỜI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi dân, mọi nước để họ đón nhận những lời kêu gọi thực thi công lý và hòa bình của các vị ngôn sứ mà Thiên Chúa gửi đến trong thời đại này.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam nói chung và cho hàng ngũ lãnh đạo Giáo Hội nói riêng, được Thiên Chúa dẫn đi trong hoan lạc và dưới ánh sáng vinh quang của Chúa trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta, để Thiên Chúa thực hiện những kỳ công nơi mọi người và ban cho mọi người hạnh phúc thật.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho những người thiện chí đang tích cực xây dựng một xã hội công bằng, thịnh vượng và tự do cho mọi người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigon ngày 01 tháng 12 năm 2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Dọn đường đón Chúa đến, chính là đổi mới tâm hồn, thay máu con tim, mặc áo mới cho cõi lòng MV 2-C160
TMĐP- Dọn đường đón Chúa đến, chính là đổi mới tâm hồn, thay máu con tim, mặc áo mới cho cõi lòng, để được trở nên giống Đức Giêsu, một Thiên Chúa “hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29)…
Vì “lìa bỏ Lề Luật Thiên Chúa, chẳng đi theo đường lối Người chỉ dạy” (Br 4,13), nhất là “đã khiêu khích Đấng tạo dựng nên mình” bằng “tế lễ cho ma quỷ thay vì cho Thiên Chúa” (Br 4,7), Ítraen đã bị Thiên Chúa trừng phạt khi “trao vào tay quân thù” (Br 4,5) bằng “gửi đến một dân xa lạ, một dân ngạo ngược, nói tiếng không ai hiểu, già không nể, trẻ không thương. Những đứa con trai yêu của bà góa đã bị dẫn đi xa, bà chỉ còn trơ trọi một mình, mất luôn cả con gái” (Br 4,15-16).
Đó là tình cảnh thê thảm của dân tộc Ítraen thời ngôn sứ Barúc. Nhưng cũng từ môi miệng ngôn sứ, Thiên Chúa đã nói với dân Ngài bằng những lời tràn đầy yêu thương, hy vọng: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa; và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng” (Br 5,1-2). Và Mùa Vọng của Dân Chúa được mở toang ra với huấn lệnh của Thiên Chúa: “Phải bạt thấp núi cao và gò nổng có từ lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu để Ítraen tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa” (Br 5,7).
Hoàn cảnh ấy đã lập lại ở thời Gioan Tẩy Giả trong Tân Ước, thời mà đất nước bị thống trị bởi đế quốc ngoại bang mà thánh sử Luca đã ghi lại: “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê… ” (Lc 3,1) ; thời mà giáo quyền rặt những con người giả hình, “giáo sĩ trị ”, quyền bính, tham lam, hưởng thụ (x. Mt 23) ; thời mà kỷ cương, đạo đức xuống cấp trầm trọng đến nỗi Gioan Tẩy Giả đã phải nặng lời trách mắng khi đám đông kéo đến xin ông làm phép rửa: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh những hoa qủa xứng với lòng xám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham; vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham” (Lc 3, 7-8).
Như Thiên Chúa đã mang đến cho Ítraen bị tủi nhục lưu đày, “bị bán cho dân ngoại” (Br 4,6) trong Cựu Ước niềm hy vọng như đã hứa: “Giêrusalem, can đảm lên nào : Đấng đã đặt tên cho ngươi sẽ mang lại cho ngươi niềm an ủi” (Br 4,30), đến thời Tân Ước, cũng Thiên Chúa nhân hậu ấy qua miệng Gioan Tiền Hô đã loan báo tin vui “Thiên Chúa đến cứu dân Ngài”: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 4-6).
Thực vậy, các ngôn sứ trong Cựu Ước, cũng như Gioan Tẩy Giả ở giao thời Cựu Ước và Tân Ước đã cất tiếng kêu gọi dân trở về với Thiên Chúa bằng chuẩn bị con đường đón Chúa đến, và khi đường được dọn sạch, khúc quanh được uốn thẳng, hố sâu được lấp đầy, nơi cao được san phẳng, thì chính “Thiên Chúa sẽ dẫn Ítraen đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người” (Br 5,9).
Nhưng đường ấy là đường nào?
Thưa đường ấy là Đường Tâm Hồn, đường được xây trên Lời Chúa, được chiếu sáng bởi Lời Chúa, và là chính Chúa, như Đức Giêsu đã mặc khải: “Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống ”(Ga 14,6).
Vì thế, khi dọn đường đón Chúa đến, chính là đổi mới tâm hồn, thay máu con tim, mặc áo mới cho cõi lòng, để được trở nên giống Đức Giêsu, một Thiên Chúa “hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29), tự hạ đến không gì có thể thấp hơn để yêu thương, phục vụ (x. Pl 2,6-8 ; một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, từ bi, nhân hậu, độ lượng, bao dung, ân cần, âu yếm đến tình mẹ thương con cũng không sánh được với tình Ngài, như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15).
Như thế, con đường Mùa Vọng chúng ta phải chuẩn bị sẽ không là con đường ở ngoài tâm hồn, xa lạ với trái tim, xa xôi cõi lòng thầm kín, nhưng chính là nội tâm sâu thẳm, ở đó chỉ một mình ta với Chúa, một mình Chúa với ta; ở đó ta tha thiết xin Ngài thương xót cứu chữa và chính Ngài sẽ chạnh lòng xót thương tự tay lấp đầy những hố sâu mưu mô, thủ đoạn; sẽ uốn thẳng những ý nghĩ quanh co, gian dối, lọc lừa; sẽ san bằng những hống hách, kiêu căng, ngạo mạn; sẽ tẩy sạch những tội lỗi ô uế, ghê tởm; sẽ băng bó, chữa lành những vết thương sâu hoắm sa đọa; và sẽ biến đổi tâm hồn ta thành con đường của Ngài, Con đường là Ngài bằng thực hiện Lời Hứa với dân Ngài qua miệng ngôn sứ Êdêkien: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sdẽ bỏ đi qủa tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36,26-27).
Vâng, giữa một hoàn cảnh đất nước đầy những thách đố, khó khăn, trước một tương lai chập chùng những bế tắc, đe dọa, bên cạnh những con người ngày càng tha hóa trầm trọng làm chúng ta dễ nản chí, mất hướng, lạc đường, thì Mùa Vọng trở về với tiếng chân Thiên Chúa đang đến gần. Ngài là Con Đường : Đường của Trái Tim Thiên Chúa hay chanh lòng, Đường là Đức Giêsu Thiên Chúa làm người rất nhân hậu, Đường Tâm Hồn có Thiên Chúa đồng hành, mà chỉ trên Con Đường này, chúng ta mới được an toàn, bình an, phấn khởi “ vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng ” và nhận ra “ việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại ! (Tv 125,2.3) vì Ngài là Thiên Chúa tìm đến con người để xót thương cứu độ.
Mỗi năm khi Mùa Vọng về, hình ảnh ông Gioan Tẩy giả lại xuất hiện trong phụng vụ. Ông là MV 2-C161
Mỗi năm khi Mùa Vọng về, hình ảnh ông Gioan Tẩy giả lại xuất hiện trong phụng vụ. Ông là con của Bà Elisabét, đã nhảy mừng khi còn là hài nhi trong lòng mẹ, khi Đức Trinh nữ Maria viếng thăm. Ông là vị Tiền hô đến dọn đường cho Chúa Cứu thế. Gioan là mẫu mực về sự khiêm tốn, can đảm và trung thành. Ông nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. So sánh với Chúa Giêsu, ông nhận mình giống như người phù rể. Người phù rể hân hoan trước niềm vui của chú rể. Là người giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, ông hạnh phúc khi thấy người ta tuôn đến cùng Chúa và đón nhận giáo huấn của Người. Dù chỉ là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu, Gioan Tẩy giả vẫn kiên trung trong sứ mạng dọn đường. Ông kêu gọi “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng”. Mọi người nghe Gioan Tẩy giả đều hiểu nội dung của lời kêu gọi này, đó là sửa soạn tâm hồn và ăn năn sám hối để đón chào Đấng Thiên Sai. Kết quả là từng đoàn người đông đảo khiêm tốn đến với ông và chịu dìm mình trong dòng nước sông Giođan để được ơn tha tội.
Hành trình Đức tin của người tín hữu chính là cuộc tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa. Đây là một hành trình lâu dài, liên lỉ và có nhiều chướng ngại. Để theo Chúa và trung tín với Ngài, chúng ta luôn phải can đảm vượt qua những chướng ngại đó. Như những vận động viên chuyên tâm khổ luyện để đạt được vòng nguyệt quế dành cho người chiến thắng, người Kitô hữu phải luôn chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng để thuộc trọn về Chúa. Ông Gioan dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những cố gắng hoàn thiện bản thân: lấp đầy lũng sâu, bạt thấp núi đồi, nắn thẳng quanh co uẩn khúc. Kinh nghiệm cho thấy, người ta có thể dễ dàng chiến thắng trong trận chiến với kẻ thù, nhưng lại ngã gục trước cám dỗ của cái tôi ích kỷ và đầy tham vọng. Cuộc chiến đấu để thanh luyện chính mình là một cuộc chiến đấu dai dẳng, đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh.
Mùa Vọng vừa mời gọi chúng ta nhìn lại mình, vừa nhắc chúng ta hãy nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Những cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân và thực thi bác ái sẽ giúp chúng ta bạt núi kiêu ngạo, lấp thung lũng hèn nhát. Cuộc sống hôm nay có nhiều cám dỗ, quá nhiều khuynh hướng khác nhau, lôi kéo chúng ta đi lạc đường. Những bon chen bận rộn của cuộc đời dễ làm chúng ta đắp những quả đồi, hoặc khoét sâu khoảng cách đối với anh chị em. Khi can đảm dẹp bỏ mọi chướng ngại trong tâm hồn, chúng ta sẽ được “nhìn” thấy Chúa và vinh quang của Ngài. Lúc đó, Chúa sẽ là tất cả của đời sống chúng ta, và chúng ta sẽ chỉ nhìn lên Ngài như định hướng tuyệt hảo duy nhất của cuộc đời.
Lễ Giáng Sinh là ngày lễ của niềm vui, bởi có hạnh phúc nào lớn lao cho bằng được Thiên Chúa hiện diện. Ngôn sứ Barúc đã khẳng định điều đó (Bài đọc I). Ông kêu gọi mọi người hãy thay áo tang chế khổ nhục bằng áo choàng công chính. Vị Ngôn sứ được chiêm ngưỡng một khung cảnh huy hoàng rực rỡ của Giêrusalem trong tương lai. Muôn dân nước cũng tuôn đổ về thành phố có tên gọi “hòa bình” này để tôn thờ và ca tụng Chúa. “Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của Người”. Đó là thời Chúa tỏ mình ra. Khi đó, vũ trụ này sẽ không còn đau khổ, nhưng sự bình an và hạnh phúc sẽ như đại dương bao trùm tất cả. Cùng chung một ý tưởng với Gioan Tẩy giả sau này, Ngôn sứ Barúc cũng kêu gọi mọi người hãy lấp đầy thung lũng, hạ thấp núi cao để có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện. Lời của vị ngôn sứ đã mang đến cho Israen niềm hy vọng tràn trề, để rồi giữa trăm bề đau khổ, Dân Chúa vẫn vững tin rằng, Đấng Thiên Sai sẽ đến.
Như thánh Gioan Tẩy giả, mỗi người tín hữu cũng được mời gọi trở nên những sứ giả của niềm vui, giữa cuộc đời còn phủ đầy bóng tối và tràn lan bạo lực. Bí tích Thanh tẩy trao cho chúng ta ba chức năng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Nhờ ba chức năng này, người tín hữu trở nên những “tiền hô” loan báo và chứng minh cho sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống, dù bất cứ hoàn cảnh nào.
Trong niềm hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta đang cử hành Thượng Hội đồng Giám mục thế giới ở cấp giáo phận. Đức Thánh Cha muốn lắng nghe những ý kiến của Dân Chúa từ khắp các châu lục, để đưa ra những định hướng mục vụ phù hợp với bối cảnh thế giới hôm nay. Là phần tử của Giáo Hội, chúng ta hãy cảm thức với Giáo Hội, chia sẻ niềm vui và những ưu tư trăn trở của Giáo Hội, với ước vọng làm cho Đức Giêsu được nhận biết và tôn vinh. Chúa Giêsu vẫn đang đến với chúng ta. Người kiên nhẫn gõ cửa tâm hồn chúng ta. Có những người nhiệt thành đón tiếp Chúa với con tim nồng ấm, có những người lại từ chối Người với tâm hồn giá băng. Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh: những ai thành tâm đón Chúa sẽ tìm thấy tâm hồn bình an và sẽ trở nên hoàn thiện. Đức Thán Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn “Niềm vui của Tin Mừng” như sau: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không phải dành cho mình, vì “không một ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa Giêsu đem đến”. Chúa không làm thất vọng những ai chấp nhận sự liều lĩnh này; mỗi khi chúng ta bước một bước đến gần Chúa Giêsu, chúng ta hiểu ra rằng Người đã đang ở đó, đang mở rộng vòng tay chờ đón chúng ta” (số 3). Đức Giêsu đã đến trần gian, và giáo huấn của Người làm thay đổi cuộc sống của những ai chân thành đón tiếp Người. Nơi khác, vị Giáo Hoàng người Achentina cũng khẳng định: “Chúa Giêsu chính là Chân Lý: Chân Lý “đã trở thành nhục thể”, đã đến giữa chúng ta để chúng ta biết Chân Lý ấy. Không thể nắm bắt Chân Lý như nắm bắt một sự vật. Chân Lý phải được gặp gỡ. Đó không phải là một vật sở hữu, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một Ngôi Vị”.
Kính thưa Quý vị và Anh Chị Em
Lời mời gọi bạt núi san đồi vẫn vang lên hằng năm. Tuy vậy, nơi đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn, vẫn còn đó những khuyết điểm lỗi lầm. Trong mối tương quan hằng ngày, người ta vẫn tiếp tục xây những bức tường chia rẽ, vẫn đào những thung lũng hận thù và xây những núi đồi của kiêu ngạo. Lời Chúa khích lệ chúng ta không nên thất vọng, vì chúng ta có nguồn trợ lực thiêng liêng đến từ Đấng Tối cao. Chúa Giêsu đã từ bỏ mọi sự để hủy mình ra không, trở nên một trẻ thơ nơi hang đá khó nghèo. Người đã trở nên nghèo để chúng ta được giàu có; Người đã trở nên yếu ớt để chúng ta được mạnh mẽ; Người đã đón nhận thập giá để chúng ta được vinh quang. Vì thế, ơn gọi của chúng ta là cố gắng “sống cho tinh tuyền, không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm, nhờ đó chúng ta mang lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính”, như thánh Phaolô nhắn nhủ giáo dân Philiphê (Bài đọc II).
Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã viết: “Thiên Chúa không ở đâu xa cả. Ngài không phải là một đấng nào đó không thể mường tượng được, nhưng Ngài ở bên ta. Ngài đã trở nên một với ta, đụng vào ta, đón nhận ta, cũng như ta đụng chạm được Ngài và có thể đón nhận Ngài” (Thiên Chúa và Trần thế, Tr 227). Vâng, Đấng Emanuel, Thiên Chúa ở với ta, đó chính là nét mới mẻ của Kitô giáo. Đó cũng là thông điệp của Mùa Giáng Sinh đang đến gần.
Đói ăn, khát uống, có bệnh phải chữa trị, nghèo đói túng thiếu, phải nỗ lực làm việc, điều cơ MV 2-C162
Đói ăn, khát uống, có bệnh phải chữa trị, nghèo đói túng thiếu, phải nỗ lực làm việc, điều cơ bản như thế đâu có gì là mới lạ ? Nhu cầu được no cơm ấm áo, ốm đau bệnh tật gặp thầy thuốc giỏi, kẻ bị áp bức sớm được minh oan, hoàn toàn chính đáng. Từ xa xưa các đấng bậc khôn ngoan đã biết nhắc con cháu: thời giờ là vàng bạc, hoặc sức khoẻ là vàng. Kinh nghiệm của người đi sau cũng cho rằng: bỏ tất cả vàng bạc để mua lấy thời gian, bỏ tất cả tài sản để mua lấy sức khoẻ, đều vô vọng. Dù nhiều người đã sớm ý thức: có sức khoẻ, có hy vọng, là có tất cả mọi thứ. Thực ra, biết giữ sức khoẻ, biết sử dụng thời gian, đó là vấn đề mà mọi người cần đến vị quân sư tài giỏi, vị thầy có tài có đức, chỉ giúp ta đi tới tận cùng của hạnh phúc.
Cổ nhân cho biết: giới hạn cao nhất của tính kiên nhẫn là không nói, không cáu, không giận. Phải chăng, tiền nhân có ý nhắc ta hãy lắng nghe, vì nói hay, nghe giỏi, sống có lý, có tình, khả năng thu hút đám đông bao giờ cũng cao. Mọi người tìm đến hoang địa vì tiếng kêu, tiếng hô, hay vì tần suất âm thanh quá ray dứt ? Gioan không phải là thầy thuốc, không là chuyên gia kinh tế, cũng chẳng là nghệ sĩ, nhưng tiếng của ông vang vọng đến nhiều tâm hồn, hẳn âm thanh ngọt ngào nhất là: “mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Tại hoang địa, tiếng kêu, tiếng hô, tiếng gọi, có thể là lời cảnh báo về thời gian đã gần kề, có thể là nhắc nhớ đến tình yêu và niềm vui ở phía trước. Ở hoang địa nơi cõi lòng, Gioan tác động người nghe, và giúp đám đông hiểu: hạnh phúc không tự nhiên có, nó đến từ chính hành động của mỗi chúng ta.
Tại hoang địa, Gioan đã kêu gọi, đã hô to bằng kỹ thuật nào, ấy vậy mà âm vang của tiếng kêu lay động đủ thành phần, trẻ, già, tri thức, bình dân ? Không những muốn nghe, đám đông còn muốn nghe rõ, nghe chính xác từ Vị thầy đức độ, trăm nghe không bằng một thấy, họ đã tìm đến sông Giođan, họ hiểu, và họ đã không phải hối tiếc thời gian gặp thầy. Dù là phong trào, dù chỉ “tò mò”, muốn nhìn xem Vị thầy, người ta vẫn có chung một điểm: ai chẳng muốn nghe lời nói hay, nói phải, lời nói hay, nói ngọt, chính là giai điệu hạnh phúc. Cho dù Gioan không cho vàng, không cho bạc, không chỉ ai đường đi buôn, nhưng Gioan đủ khôn ngoan thánh thiện, đủ khả năng thuyết phục mọi người bằng lời nói việc làm, thật lòng sám hối để nhận lãnh ơn cứu độ.
Nghe rõ để sống thật, hiểu đúng để không sai lối lạc đường, nhận ra tiếng kêu ở hoang địa, xin chịu phép rửa thống hối, không những là tiến trình gặp Đấng đang tới, còn là minh chứng: đủ tin yêu để biến hành động của mình sinh xứng hợp với giới răn mến Chúa yêu người. Tại sao tiếng kêu ở sa mạc có âm vang to lớn, thôi thúc người người từ khắp thành thị đến nông thôn ? Tại sao cần kíp phải dọn lối sửa đường, phải sửa chữa tâm hồn cho ngay thẳng, có hay không, sức mạnh của tình yêu hằng thôi thúc để người nghe được hiểu, kẻ biết, hết mực khiêm nhường, ăn năn, để thấy được niềm vui ơn cứu độ ? Nhiệt huyết trước sứ mạng tiền hô, Gioan đã “cháy hết mình”, tiếng kêu vang vọng “khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, cầu ơn tha tội”. Gioan đã thành công, ít là ông đủ khiêm tốn để giúp mọi người thú nhận tội lỗi, bỏ chúng lại sau lưng.
Nghe rõ để sống thật, hiểu đúng để biết sống hài hoà giữa các tương quan gia đình xã hội, hành trình hạnh phúc nhất định đã ở sát gần. Thực tế thì con đường tự nhiên lỗ to lỗ nhỏ, hư hỏng, việc đi đến đích sẽ phải vất vả khó khăn nhiều. Con đường thiêng liêng, con đường từ cõi lòng mình đến Chúa và tha nhân, nếu không ngay thẳng, không được sửa chữa, làm sao không sai lạc, ngã lòng ? Kinh nghiệm cho biết: trên đời này, không có ai yêu thương bạn hơn cha mẹ, lúc gặp khó khăn, người khác có thể quay lưng, nhưng cha mẹ thì không bao giờ. Xa hơn một chút, tổ tiên ông bà, các ngài có thể không trực tiếp nuôi dạy, nhưng tình yêu của các ngài vẫn khao khát cho thế hệ con cháu, được đẹp như câu thành ngữ: con hơn cha nhà có phúc. Thiên Chúa Đấng giầu lòng xót thương, Ngài luôn có cách nói, diễn tả, ban ơn, hầu giúp ta sống thật, sống tốt, trước hành trình tìm kiếm hạnh phúc của ta.
Nghe chưa rõ, hiểu chưa thông, làm sao có thể sống đúng, sống đẹp ? Biết bao con cái hối hận vì chữ hiếu, chữ thảo, không được bày tỏ, khi cha mẹ khuất bóng, chỉ vì nông cạn, hiểu sai, hiểu không đúng về đấng bậc sinh thành của mình. Cũng không ít những hiểu lầm chưa được tháo gỡ, vì không tìm được tiếng nói chung giữa anh chị em, giữa những đồng nghiệp của mình, đôi khi chỉ vì chút tự ái dân tộc ! Nghe rõ, hiểu đúng và sống thật, không thể thiếu tác động của tình yêu, không thể thiếu tấm lòng quảng đại bao dung tha thứ, khi ơn ban trợ giúp đôi bên nhận ra điểm tốt của nhau. Người xưa có câu: rủ nhau làm phúc, chớ rủ nhau đi kiện, nhìn các phần tử nối nhau đi tới hoang địa, đó là tín hiệu tốt, là nghĩa cử đoàn kết yêu thương, là tai mắt tâm hồn của mỗi người quả thông sáng. Gioan hạnh phúc bởi sứ mạng tiền hô, bởi sự khôn ngoan thánh thiện, ông đã biết chỉ đường đi nước bước, và đám đông vô cùng hạnh phúc, khi họ được nghe, được thấy tỏ tường, được chung lòng sám hối, đón chào Đấng đang tới và sẽ tới. Amen.
Mở đầu bài Tin Mừng, thánh Luca nêu rõ khung thời gian mà Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng MV 2-C163
Mở đầu bài Tin Mừng, thánh Luca nêu rõ khung thời gian mà Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng, nằm trong một giai đoạn lịch sử đời cũng như đạo tại đất nước Do Thái. Trong bối cảnh này, tác giả cho ta thấy hai quyền lực đạo đời đang phát triển và đối đầu nhau theo xu hướng của mình, đang khi đó xuất hiện một đối trọng thứ ba, là một nhân vật khác thường và đường hướng cũng rất khác biệt. Đó là Gioan Tẩy Giả, với lời kêu gọi mọi người sám hối để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ.
Gioan không những được sinh ra một cách kỳ lạ, mà còn thể hiện một lối sống khác lạ. Các bạn trẻ thường vào đời với những mơ ước thành đạt, muốn tạo lập cho mình một sự nghiệp to tát ở đời. Gioan thì trái lại, không chọn con đường đi lên mà chọn con đường đi xuống: con đường thiêng liêng. Đó là con đường chay tịnh và tu tập, bằng một cuộc sống nhiệm nhặt và khổ chế nơi hoang địa. Chính trong sự thanh thoát, tĩnh lặng và cầu nguyện mà Gioan đã nghe được tiếng Chúa. Chính trong sự gặp gỡ Chúa mà ông nhận ra con đường mình phải đi và sứ mạng mình phải thi hành. Chính nhờ đó mà lời rao giảng của ông càng đáng tin đối với dân chúng, và cũng đáng gờm đối với hai thế lực kia, mặc dù ông đơn thân độc mã, không phe phái, không quyền hành, không thế lực, cũng không dựa dẫm vào bất cứ quyền lực nào.
Lời Chúa đưa bước Gioan rời khỏi hoang địa để đến vùng ven sông Giođan với vai trò là người thanh tẩy tâm hồn cho những ai sám hối, nên từ đó ông được gọi là Gioan Tẩy Giả. Lời Chúa mà ông nghe trong hoang địa trở thành Lời Chúa mà ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người, nên từ đó ông còn được gọi là Gioan Tiền Hô, là người loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan đã trở nên vị ngôn sứ độc đáo cho dân tộc ông sau bốn thế kỷ vắng bóng ngôn sứ.
Để chuẩn bị cho dân mình đón nhận Đấng Cứu Thế, ông yêu cầu dân chúng phải quay về với Thiên Chúa, không thể tiếp tục sống theo đường xưa lối cũ, mà phải làm một cuộc đổi đời, đổi cái nhìn, đổi lối suy nghĩ, như có lời chép trong sách Isaia rằng: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng.” (Lc 3, 5). Có bao lối nghĩ quanh co, muốn đi con đường tắt dễ dãi để sống ung dung, an nhàn; có bao toan tính quanh quẩn, muốn tránh né bổn phận đối với Chúa và với nhau; có những thói quen giả bộ, giả hình, chỉ lo xét người mà không lo xét mình.
Cũng có những tình trạng tâm hồn như thung lũng tối tăm, vì thiếu ánh sáng của tình yêu, nên phát sinh ghen ghét, oán hờn, tranh chấp, thành kiến, vô tâm và ác cảm với nhau. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn, với những phê bình chỉ trích, bất hợp tác, thậm chí còn gây ra chia rẽ trong cộng đoàn, gia đình, xứ đạo. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm, gồ ghề của sự lười biếng và dung dưỡng bản thân, không muốn vươn lên trong sự thiện, và được viện cớ bằng nhiều lý lẽ.
Trong Mùa Vọng này, chúng ta được mời gọi hãy làm lại con đường của lòng mình: phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Giáo hội luôn thiếu những con đường bằng phẳng để Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, và để từ đó mở ra những con đường mới cho mọi người hôm nay. Như Gioan tu luyện bản thân mình và gặp được Chúa trong rừng vắng, ta cũng phải có giờ tĩnh lặng để sống bên Chúa và tu chỉnh lại đời sống mình. Hãy tha thiết đến với bí tích Hòa Giải với lòng yêu mến và khao khát đổi mới bản thân.
Cũng như Gioan, mỗi Kitô hữu cũng là một ngôn sứ, chuẩn bị cho Chúa đến trong cuộc đời này, trên quê hương dân tộc này. Mỗi người chúng ta phải là một tiếng hô giữa sa mạc đời, phải là một sự hiện diện khiêm nhu và đầy tình nhân ái, nhưng cũng rất rõ ràng và ngay thẳng như Gioan, để loan báo trước hình ảnh Đấng sẽ đến.
Chúng ta được chọn gọi làm Kitô hữu là một hồng ân mà cũng vừa là một trách nhiệm trong việc loan báo Đức Kitô, không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống sám hối và đổi mới của mình. Khi con đường của cõi lòng chúng ta đã ngay thẳng và bằng phẳng, thì trước sau gì những người xung quanh ta cũng cảm thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Cũng như thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người chúng con là một con đường, để Chúa đến với con người hôm nay.
Nhưng con đường của bản thân con, còn những khúc quanh co gian dối, còn những nơi tăm tối mịt mù, còn những lối hiềm thù và đố kị, còn những mô cao khinh thị và tự ái, còn những chỗ hư hại của ghét ghen, còn những gồ ghề của nhỏ nhen ích kỷ, còn những vô lý và thô bỉ với mọi người.
Như thánh Gioan đã kêu gọi, xin cho con biết chân thành sám hối, biết tu tâm và đổi mới bản thân, biết dành thời giờ cho Chúa và tha nhân.
Như thánh Gioan đã sống, xin cho con sống khó nghèo và nhiệm nhặt, biết từ khước những gì là dễ dãi, những tiện nghi và thoải mái cho mình, để sống chân tình và giản dị đơn sơ.
Như thánh Gioan đã hành động, xin cho con dám sống đức tin, dám ra khỏi mình và đến với anh em, gần gũi và đỡ nâng người yếu kém, dám xả thân vì sự thật của Tin Mừng.
Như thánh Gioan đã nêu gương, xin cho con biết rút lui vào hậu trường, buông bỏ uy thế và ảnh hưởng của mình, rất hân hoan nhường đường cho Chúa đến, để đem lại niềm vui ơn cứu độ cho đời. Amen.
Vì “lìa bỏ Lề Luật Thiên Chúa, chẳng đi theo đường lối Người chỉ dạy” (Br 4,13), nhất là “đã MV 2-C164
Vì “lìa bỏ Lề Luật Thiên Chúa, chẳng đi theo đường lối Người chỉ dạy” (Br 4,13), nhất là “đã khiêu khích Đấng tạo dựng nên mình” bằng “tế lễ cho ma quỷ thay vì cho Thiên Chúa” (Br 4,7), Ítraen đã bị Thiên Chúa trừng phạt khi “trao vào tay quân thù” (Br 4,5) bằng “gửi đến một dân xa lạ, một dân ngạo ngược, nói tiếng không ai hiểu, già không nể, trẻ không thương. Những đứa con trai yêu của bà góa đã bị dẫn đi xa, bà chỉ còn trơ trọi một mình, mất luôn cả con gái” (Br 4,15-16).
Đó là tình cảnh thê thảm của dân tộc Ítraen thời ngôn sứ Barúc. Nhưng cũng từ môi miệng ngôn sứ, Thiên Chúa đã nói với dân Ngài bằng những lời tràn đầy yêu thương, hy vọng: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa; và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng” (Br 5,1-2). Và Mùa Vọng của Dân Chúa được mở toang ra với huấn lệnh của Thiên Chúa: “Phải bạt thấp núi cao và gò nổng có từ lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu để Ítraen tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa” (Br 5,7).
Hoàn cảnh ấy đã lập lại ở thời Gioan Tẩy Giả trong Tân Ước, thời mà đất nước bị thống trị bởi đế quốc ngoại bang mà thánh sử Luca đã ghi lại: “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê… ” (Lc 3,1) ; thời mà giáo quyền rặt những con người giả hình, “giáo sĩ trị ”, quyền bính, tham lam, hưởng thụ (x. Mt 23) ; thời mà kỷ cương, đạo đức xuống cấp trầm trọng đến nỗi Gioan Tẩy Giả đã phải nặng lời trách mắng khi đám đông kéo đến xin ông làm phép rửa: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh những hoa qủa xứng với lòng xám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham; vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham” (Lc 3, 7-8).
Như Thiên Chúa đã mang đến cho Ítraen bị tủi nhục lưu đày, “bị bán cho dân ngoại” (Br 4,6) trong Cựu Ước niềm hy vọng như đã hứa: “Giêrusalem, can đảm lên nào : Đấng đã đặt tên cho ngươi sẽ mang lại cho ngươi niềm an ủi” (Br 4,30), đến thời Tân Ước, cũng Thiên Chúa nhân hậu ấy qua miệng Gioan Tiền Hô đã loan báo tin vui “Thiên Chúa đến cứu dân Ngài”: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 4-6).
Thực vậy, các ngôn sứ trong Cựu Ước, cũng như Gioan Tẩy Giả ở giao thời Cựu Ước và Tân Ước đã cất tiếng kêu gọi dân trở về với Thiên Chúa bằng chuẩn bị con đường đón Chúa đến, và khi đường được dọn sạch, khúc quanh được uốn thẳng, hố sâu được lấp đầy, nơi cao được san phẳng, thì chính “Thiên Chúa sẽ dẫn Ítraen đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người” (Br 5,9).
Nhưng đường ấy là đường nào?
Thưa đường ấy là Đường Tâm Hồn, đường được xây trên Lời Chúa, được chiếu sáng bởi Lời Chúa, và là chính Chúa, như Đức Giêsu đã mặc khải: “Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống ”(Ga 14,6).
Vì thế, khi dọn đường đón Chúa đến, chính là đổi mới tâm hồn, thay máu con tim, mặc áo mới cho cõi lòng, để được trở nên giống Đức Giêsu, một Thiên Chúa “hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29), tự hạ đến không gì có thể thấp hơn để yêu thương, phục vụ (x. Pl 2,6-8 ; một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, từ bi, nhân hậu, độ lượng, bao dung, ân cần, âu yếm đến tình mẹ thương con cũng không sánh được với tình Ngài, như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15).
Như thế, con đường Mùa Vọng chúng ta phải chuẩn bị sẽ không là con đường ở ngoài tâm hồn, xa lạ với trái tim, xa xôi cõi lòng thầm kín, nhưng chính là nội tâm sâu thẳm, ở đó chỉ một mình ta với Chúa, một mình Chúa với ta; ở đó ta tha thiết xin Ngài thương xót cứu chữa và chính Ngài sẽ chạnh lòng xót thương tự tay lấp đầy những hố sâu mưu mô, thủ đoạn; sẽ uốn thẳng những ý nghĩ quanh co, gian dối, lọc lừa; sẽ san bằng những hống hách, kiêu căng, ngạo mạn; sẽ tẩy sạch những tội lỗi ô uế, ghê tởm; sẽ băng bó, chữa lành những vết thương sâu hoắm sa đọa; và sẽ biến đổi tâm hồn ta thành con đường của Ngài, Con đường là Ngài bằng thực hiện Lời Hứa với dân Ngài qua miệng ngôn sứ Êdêkien: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sdẽ bỏ đi qủa tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36,26-27).
Vâng, giữa một hoàn cảnh đất nước đầy những thách đố, khó khăn, trước một tương lai chập chùng những bế tắc, đe dọa, bên cạnh những con người ngày càng tha hóa trầm trọng làm chúng ta dễ nản chí, mất hướng, lạc đường, thì Mùa Vọng trở về với tiếng chân Thiên Chúa đang đến gần. Ngài là Con Đường : Đường của Trái Tim Thiên Chúa hay chanh lòng, Đường là Đức Giêsu Thiên Chúa làm người rất nhân hậu, Đường Tâm Hồn có Thiên Chúa đồng hành, mà chỉ trên Con Đường này, chúng ta mới được an toàn, bình an, phấn khởi “ vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng ” và nhận ra “ việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại ! (Tv 125,2.3) vì Ngài là Thiên Chúa tìm đến con người để xót thương cứu độ.
Gioan Tẩy Giả có thể được mệnh danh là “Nhà rao giảng của Mùa Vọng”. Ngài là người dọn đường MV 2-C165
Gioan Tẩy Giả có thể được mệnh danh là “Nhà rao giảng của Mùa Vọng”. Ngài là người dọn đường cho sự xuất hiện của Đức Giêsu; Ngài đến trước để giới thiệu về Đức Giêsu và triều đại Nước Thiên Chúa. Mỗi năm, Phụng vụ lại giới thiệu sứ điệp của ngài cho chúng ta. Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Ngài làm Tiền Hô và là một nhà giảng thuyết di động, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối cầu ơn tha tội.
Thánh sử Luca kể về Gioan con ông Dacaria trong khung cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy giờ cách uy nghiêm và trang trọng. Ơn gọi và hoạt động loan báo sứ điệp của thánh Gioan xảy ra vào năm thứ 15, dưới thời hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế lên ngôi năm thứ 14. Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô. Palestine hồi ấy cũng gồm 3 châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa, Philipphê và Lysania. Hai thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ 6 đến năm 14 sau công nguyên) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau công nguyên).
Qua các sự kiện lịch sử chính trị và xã hội ấy, Thánh sử Luca cố ý nêu lên ý nghĩa thần học của lịch sử. Ngài muốn khẳng định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và giới lãnh đạo trần gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể làm người để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn được ơn cứu độ, con người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm lòng, thay đổi lối sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi vì Đấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.
Gioan là cầu nối giữa hai giai đoạn của lịch sử cứu độ. Ngài vừa thuộc nhóm những ngôn sứ của giai đoạn trước,vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau. Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa,và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này. Chúa Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau.Nhưng Người cần Gioan để làm người tiền hô, dọn đường.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống đời sám hối và đền tạ tội lỗi trong nơi hoang vắng cho đến khi đủ khả năng để rao giảng.Trước khi là một người rao giảng, làm tiền hô, Gioan Tẩy Giả là một chứng nhân. Ngài sống tách biệt cách nhiệm nhặt trong hoang địa để cầu nguyện, ăn năn sám hối. Chính nhờ cuộc sống như vậy mà lời rao giảng của Gioan thực sự có sức hút. Ảnh hưởng của Gioan thật rộng lớn: từ khắp Giêrusalem, Giuđêa và tất cả miền Giođan đều tuôn đến xin ngài làm phép rửa, đồng thời lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Gioan rao giảng điều mình đã thực hiện, đã kinh nghiệm chứ không phải là một lý thuyết suông nào đó xa vời với chính bản thân ngài. Gioan Tẩy Giả thành công trong sứ mạng dọn đường cho Chúa cũng chính vì ngài vừa là chứng nhân vừa là một thầy giảng.
Con đường Gioan mời gọi tu sửa là đường trong lòng người. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo, hãy san cho thẳng. Những gì gò cao cần phải bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp; đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Khi Đức Giáo Hoàng hay vị nguyên thủ quốc gia đất nước nào muốn đến thăm viếng đất nước khác, vị Đại sứ hay đoàn Sứ gỉa được cử đến nơi đó hội đàm dọn đường, sắp đặt chương trình cho cuộc viếng thăm, có thể cả hằng năm trước đó.
Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua; như căn nhà cho Chúa ngự tới; Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nỗi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu.
Sửa đường là sám hối, không nói suông, không chỉ là đấm ngực, xé áo. Sám hối là nhận ra cái sai của mình và quyết tâm sửa đổi. Sám hối sẽ không là nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực; sám hối là sống công bằng, không tham lam nhũng lạm, không dùng quyền để cưỡng đoạt, áp bức người khác. Đường vào tâm hồn có những khúc quanh co: lén lút sống trong vòng tội lỗi, dối lừa. Sách Cách Ngôn có dạy “Thiên Chúa ghê tởm tâm địa quanh co” (Cn 11,20). Cứu cánh của kẻ quanh co là gian ác, cho nên cần phải uốn nắn lòng mình thẳng ngay như sách Cách Ngôn nói : “Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng” (Cn 21,28). Uốn những quanh co là sống chính trực công minh ngay thẳng ví như tác giả thư Do thái nhấn mạnh: “Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Dt 1,9); Nếu lòng còn mãi quanh co, gập ghềnh, đầy những dối lừa biện minh cho những sai trái của mình… thì làm sao mà sửa đổi được!. Nếu không nhìn nhận mình sai lỗi thì làm sao có lòng thật tâm sửa lỗi. Sám hối đích thực là hoán cải. Hoán cải đòi hỏi phải hành động, phải trả giá, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, mất mát liên quan đến sự an toàn và tiện nghi của bản thân. Chỉ có sám hối và hoán cải cách đích thực thì mới dọn đường tâm hồn xứng đáng để đón Chúa.
Sửa đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén bạc cho chủ. Như người lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường được làm bằng đất đá, nhựa bê tông.Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển, trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi. Chính vì thế, Giáo hội muốn chúng ta sống 4 tuần lễ Mùa Vọng này như sống trong sa mạc: bình tâm hơn, ăn uống đạm bạc hơn, cầu nguyện nhiều hơn để biết rõ ý Chúa.
Sứ vụ của Gioan có hiệu quả chủ yếu bởi vì cuộc đời ngài là sứ điệp của ngài: sống những gì đã rao giảng. Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép rửa, sửa đường nội tâm. Ngài dọn lòng mình và lòng người khác để Chúa đến. Nếp sống giản dị của Gioan mang tâm tình sám hối, sửa đường. Gioan kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng Cứu Thế, và chính Gioan đã sống như con đường thẳng. Gioan mời gọi người ta sám hối, và chính đời ngài đã mang nét sửa chữa bằng tâm tình sám hối tâm thành.
Mùa Vọng cách đặc biệt mời gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối, thay đổi tâm can, thay đổi nội tâm và tin vào Chúa Giêsu. “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”, lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể. Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức.
Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Thánh Gioan, vị ngôn sứ luôn sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Thầy kính mến! Hôm nay, Thầy dùng lời ngôn sứ Isaia mà nhắc nhở con: hãy dọn đường đón Thầy MV 2-C166
Thầy kính mến! Hôm nay, Thầy dùng lời ngôn sứ Isaia mà nhắc nhở con: hãy dọn đường đón Thầy đến. “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3,4-5). Thầy ơi! Để đi vào tâm hồn con, Thầy gặp nhiều khó khăn lắm phải không? Con cũng đã từng tự hỏi: “Thầy Giêsu đang đến với tôi như thế nào?”, mà chưa thực sự chú tâm đến các khó khăn Thầy gặp phải.
Cuộc sống luôn luôn có đó những khó khăn mà con cần phải vượt qua. Lời Thầy vẫn chỉ cho con thấy một thực tế: đường bằng phẳng thì dễ đi, những con đường quanh co, lồi lõm, hay núi đồi hiểm trở thì có nhiều khó khăn, người ta phải rất vất vả và mất nhiều thời gian để đi; hay có nhiều người thường bỏ cuộc, họ tự tìm một con đường khác. Con thấy mình thường e ngại khi đi trên các con đường gập ghềnh, quanh co, lồi lõm, nhiều hiểm trở. Thầy là Đấng quyền năng, chẳng lẽ Thầy lại không vượt qua được những khó khăn đó sao? Thầy vượt qua được chứ. Thầy có thể đến với con bất cứ lúc nào Thầy muốn. Nhưng vấn đề không nằm ở chỗ Thầy có thể đến được với con hay không mà là chỗ con có đón được Thầy hay không. Đây là trách nhiệm của con, vì Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ, còn việc có đón nhận hồng ân ấy hay không thì hoàn toàn tùy thuộc ở con. Vậy, để dọn đường cho Thầy đi, con phải bắt đầu từ đâu? Con đọc từng lời của Thầy, và con ngẫm suy. Con hiểu rằng Thầy vẫn đến với con ngang qua Lời của Thầy, qua con người, qua cuộc sống và nơi chính bản thân con. Khám phá những con đường này, nhìn nhận tình trạng của từng con đường để từ đó, con biết cộng tác với ơn Chúa mà sửa lại đường đón Chúa đến.
Con nhớ đến việc con đón nhận Lời Thầy mỗi ngày. Con nhận ra nhiều đoạn đường vẫn còn quanh co khi con chưa sống cho sự thật như lời Thầy mời gọi. Con chạy theo “bao vinh dự giả trá và đã làm hư công việc Chúa trao”. Lúc ấy con không nghe Thầy nói nhưng chỉ nghe những mời mọc của thế gian. Thầy chỉ dạy con hãy sống theo sự thật để sự thật giải phóng con. Con đi tiếp, và con tiếp tục nhận ra tâm hồn con còn có nhiều đồi núi của kiêu ngạo, tự mãn. Khi Lời Thầy được gieo vào lòng con, chính sự tự mãn và kiêu ngạo nơi con đã làm cho con không nghe rõ hay không nghe được Lời của Thầy. Để bạt đi núi đồi của sự kiêu ngạo, Thầy mời gọi con hãy khiêm nhường và hiền lành trong lòng; phục vụ với tâm tình của một người tôi tớ. Khi con thấy những lồi lõm xuất hiện vì những tự ti, mặc cảm, hay những hố sâu ngăn cách vì ghen tị, ích kỷ, Lời của Thầy bị chôn vùi và con không nhận ra được tiếng của Thầy nữa. Trong hố sâu của tội lỗi, con chỉ còn thấy những cay đắng và tủi hờn, chỉ còn thấy mình thoi thóp. Thầy vẫn đưa bàn tay đỡ nâng đời con, “vực con vươn lên khỏi những hố sâu tuyệt vọng”. Khi con không nghe được tiếng của Thầy, lòng con không cưu mang Lời của Thầy, con cũng đã tự mình khép lại con đường để đến với người khác, và con cũng không tìm thấy lối thoát cho chính mình. Để sống trong yêu thương với người khác, con phải sống trong sự hiện diện của Thầy. Bao lâu con biết mở lòng đón nhận Lời của Thầy và quyết chí thực thi Lời Thầy dạy thì lúc ấy con mới mở trái tim ra để đến với người khác.
Thầy biết con yêu mến Thầy, và Thầy cũng biết con chưa yêu Thầy như con cần phải yêu. Xin Thầy giúp con biết từng ngày chăm chú ngước nhìn Thầy, lắng nghe Lời Thầy và thực lòng nhìn vào tâm hồn mình để kịp thời sửa đường đón Chúa đến. Xin Thầy dâng lên Chúa Cha lời cầu nguyện của con: “Xin tình yêu Chúa thánh hóa chúng con, cho chúng con biết một lòng một ý và chân thành yêu thương nhau”, vì chính khi chúng con yêu thương nhau là khi Chúa sinh ra trong tâm hồn chúng con. Amen.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta sửa “đường” để Đức Chúa đi vào lòng mỗi người chúng ta MV 2-C167
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta sửa “đường” để Đức Chúa đi vào lòng mỗi người chúng ta. Con đường ấy có đang quanh co, uốn khúc hay đầy dẫy những lồi lõm, núi đồi? Theo lời của Đức Chúa, ông Gioan Tẩy Giả đã đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi Người ta sám hối để được ơn tha tội như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (x. Lc 3, 4). Lời mời gọi ấy cũng dành cho cả chúng ta, những con người của thế hệ của “4.0”.
Ngày nay, khi công nghệ kỹ thuật phát triển, con người có thể gặp gỡ, đến với nhau cách dễ dàng qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông. Con đường để ta đến với nhau không còn bị giới hạn trong không gian địa lý. Từ khắp muôn phương, người ta có thể gặp gỡ nhau, trao đổi với nhau hay mở các lớp học online cách dễ dàng. Phương tiện truyền thông tưởng chừng như hỗ trợ đắc lực cho việc gặp gỡ của chúng ta nhưng bên cạnh đó, nó cũng đang gây cản trở ta đến với nhau. Khi nhà nhà, người người đều có “smart phone” thì ai cũng bận tâm đến chiếc “smart phone” mà có thể quên đi người đang sống bên cạnh. Khi ấy, con đường để ta đến với nhau trở nên khó khăn hơn.
Lời Chúa hôm nay một lần nữa mời gọi ta ăn năn sám hối mỗi ngày, tiếp tục sửa đường để đón Đức Chúa và để đến với nhau. Thiên Chúa vẫn ngày ngày gõ cửa lòng ta. Ngài muốn bước vào lòng ta, ở lại với ta. Ngài mời gọi ta sửa đường để Ngài bước vào. Tâm hồn mỗi Người là một con đường. Con đường ấy dẫn ta đến với nhau và đến với Thiên Chúa. Trong tâm tình của mùa Vọng, mỗi Người trong chúng ta hãy tự hỏi: đâu là những gồ ghề, núi đồi, thung lũng và khúc quanh co trong tôi? Điều gì đang khiến tôi và mọi người gặp khó khăn khi đến với nhau? Tôi có đang cản trở Thiên Chúa đến với mình? Phải chăng, trong tôi vẫn còn đó những gồ ghề, đồi núi của kiêu gạo, vô cảm, dửng dưng khiến tôi không nhìn thấy sự khốn khổ của Người khác? Đâu là những lũng sâu của mặc cảm và tự ti, mang dáng dấp của sự kiêu ngạo ẩn khuất trong tôi, khiến tôi không đủ tin tưởng để nhận sự giúp đỡ của ai đó?
Bao lâu còn sống trên đời thì bấy lâu ta phải thực hiện mỗi ngày một công việc rất quen thuộc: “sửa đường”. Việc sửa đường mỗi ngày sẽ giúp chúng ta biết mình hơn. Có nhiều cách giúp ta sửa đường, mỗi người sẽ chọn cho mình những cách thức khác nhau tùy theo tình trạng tâm hồn mình. Điều quan trọng là mỗi người trong chúng ta phải chân nhận một sự thật: đường tâm hồn tôi đang bị xuống cấp, tôi cần phải sửa đường mỗi ngày. Để đến với nhau và để đến với Chúa cách dễ dàng hơn, mỗi người trong chúng ta luôn phải sẵn sàng bắt tay vào việc sửa đường tâm hồn. Nó quan trọng hệt như việc ta làm đường nhằm phát triển kinh tế. Giao thông thuận tiện thì kinh tế sẽ đi lên. Mỗi ngày ta kiên nhẫn “sửa đường” là mỗi ngày ta gần Thiên Chúa hơn và gần nhau hơn.
Trước khi bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai, Gioan đã sống rất lâu trong hoang địa. Thời gian MV 2-C168
Trước khi bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai, Gioan đã sống rất lâu trong hoang địa. Thời gian lâu đến độ ông trưởng thành trong hoang địa cả về thế lí lẫn tâm linh. Suốt thời gian trong hoang địa Gioan đã nhìn sâu vào nội tâm, vào tâm linh, học hỏi trở nên một tâm linh trưởng thành.
Bài đọc nhắc đến một số tên tuổi thời đó. Mục đích chính không phải xác định thời gian, mà muốn nói đến hệ thống thuế má nặng nhọc, cách cai trị, đối xử bất công của quân bảo hộ Roma. Bài đọc cũng nhắc đến không phải một mà có tới hai Thầy Cả Thượng Phẩm để nói lên tình trạng mất tự do tôn giáo nơi thuộc địa. Nhà vua và quan toàn quyền chi phối việc bổ nhiệm Thầy Cả Thượng Phẩm. Họ cũng xen vào việc điều hành Đền Thờ. Đền Thờ bị lạm dụng đến độ Đức Kitô phàn nàn họ biến Đền Thờ thành chợ đời. Chính Thầy Cả Caiaphas chủ động trong việc đóng đanh Đức Jêsu.
‘Lời Chúa’ không đến với vua chúa, quan quyền. ‘Lời chúa’ cũng không đến với lãnh đạo Đền Thờ. Những người này không nhận được ‘Lời Chúa’ mặc dù họ có trách nhiệm trong việc rao giảng ‘Lời Chúa’. Chúa mặc khải sự khôn ngoan của Ngài một cách không ai có thể ngờ đến,
‘Lời Chúa phán cùng Gioan, sống trong hoang địa, con ông Zechariah’
Thiên Chúa gởi Gioan đến một mình. Gioan sống trong hoang địa, một người vô danh, không thanh thế, đến rao giảng. Cùng một lúc mong thay đổi: a/ hệ thống tổ chức chánh quyền do quân Roma thiết lập, b/ thể chế lãnh đạo Đền Thờ. Gioan kêu gọi đám đông nhìn vào nội tâm mình, nhìn vào tâm hồn mình, để loại bỏ những gì làm cho con tim ra chai đá. Thay đổi trở về đường ngay, nẻo chính, đường lối Chúa. Từ bỏ lối sống dân ngoại thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày, thay vào đó là đường công chính, thống hối, ăn năn.
‘Thành công hay đổ vỡ’ là điều các nhà lãnh đạo đương thời thách thức sứ mạng của Gioan. Họ đã sai lầm khi định lượng Gioan theo phong cách một người sao đánh đổ nổi ngàn người.
Thứ nhất, Gioan sống sót nơi hoang địa. Kinh nghiệm này giúp ông tự tin mình sẽ hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó. Hơn nữa, niềm tin, sức mạnh của ông đặt nơi Thiên Chúa. Gioan rao giảng tin có Chúa cùng đồng hành.
Thứ hai, trưởng thành đời sống tâm linh có nghĩa người đó hoàn toàn thuộc về Chúa. Gioan không còn sống cho mình: ông sống cho Chúa; có chết cũng chết trong Chúa. Ông yêu mến Thiên Chúa và phó thác mọi sự trong tay Chúa.
Thứ ba, Gioan mang Lời Chúa trong mình, dấu chỉ tình yêu Chúa. Một dấu chỉ hai cách nhìn khác nhau. Kẻ thống hối, ăn năn coi Gioan như dấu chỉ tình yêu Chúa. Kẻ kiêu căng, tự phụ coi Gioan như là mối đe doạ. Gioan kêu gọi con người thống hối, trở về với Chúa. Thay vì coi Gioan như là dấu chỉ tình yêu Chúa, lãnh đạo xã hội và lãnh đạo Đền Thờ coi Gioan là thù địch, bởi sự hiện diện của Gioan tạo nên mối lo âu, sợ hãi cho ngai vàng, vị thế của họ. Vì thế họ cấu kết triệt tiêu người gây cho họ lo sợ.
Dùng chính hình ảnh trong ngôn sứ tiên tri Isaiah, Gioan nói với đám đông cải thiện đời sống nội tâm. Đường đi, thung lũng, đồi, núi quanh co ngoài thiên nhiên Isaiah nói đến; Gioan chúng biến thành con đường, thung lũng, núi đồi trong tâm hồn. Đường lối quanh co, tráo trở của gian tham, lạm dụng quyền thế, Gioan kêu gọi từ bỏ, để đón nhận lối sống ngay lành, công bằng, vị tha. Gioan rao giảng ngắn, gọn, trong sáng, và đi vào trọng tâm cuộc sống. Gioan kêu gọi người nghe đón nhận phép rửa tha tội, như là dấu chỉ của thống hối, ăn năn. Ông xác định rõ, phép rửa ông trao ban không ban ơn cứu độ. Đó chỉ là dấu chỉ của thống hối, ăn năn. Ông không có khả năng ban ơn cứu độ. Ông chỉ kêu gọi hoán cải, bỏ đường tà, trở về đường ngay, nẻo chính. Từ bỏ lối sống kiêu căng, tự mãn, sống khiêm nhường. Từ bỏ lối sống dân ngoại, tin vào Thiên Chúa.
Đám đông tin theo Gioan đón nhận phép rửa. Trong số đó có cả quân lính Roma và những người thu thuế (luca 3,11tt). Điều này cho biết quân lính Roma và người thu thuế giầu của cải, mạnh quyền thế, nhưng lại nghèo bình an, đói khát phần tâm linh. Nghe Gioan rao giảng, họ tìm được bình an nội tâm.
Những ai thành tâm thống hối ‘sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa’ c.6. Thấy ơn cứu độ chính là nhận biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế. Gioan mở đường cho Đấng Cứu Thế đến. Khi Ngài đến Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần. Gioan nói với đám đông, ‘Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến…. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa’ Lc 3:16tt.
Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta tin theo Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.
San Đồi Lấp Lũng Khi Sống Mùa Vọng, Lãnh Phúc Hàm Ân Lúc Mừng Giáng Sinh. Phép vệ MV 2-C169
San Đồi Lấp Lũng Khi Sống Mùa Vọng Lãnh Phúc Hàm Ân Lúc Mừng Giáng Sinh
Phép vệ sinh là bài học được giáo dục từ nhỏ. Vệ sinh rất cần thiết, không chỉ để giữ sức khỏe riêng mà còn giữ môi trường sạch đẹp, đặc biệt là giữ phép lịch sự tối thiểu đối với người khác – và cũng là tự trọng. Trong tình trạng dịch bệnh lây nhiễm tràn lan hiện nay, vệ sinh càng cần thiết hơn bao giờ.
Tuy nhiên, điều gì thái quá thì hóa bất cập, cái gì cũng có giới hạn của nó. Thậm chí cái mà chúng ta gọi là “tự do” cũng có giới hạn của tự do, vì không thể làm bất cứ điều gì theo ý mình rồi lấy cớ là “quyền tự do.” Đó là lạm dụng. Xã hội Việt Nam ngày nay thấy “quá tải” tình trạng lạm dụng, hầu như trong mọi lĩnh vực.
Giáo dục là điều cần thiết, vì nhìn vào nền giáo dục của một quốc gia thì người ta có thể biết đất nước đó thịnh hay suy. Ngành giáo dục tại Việt Nam quá dơ bẩn mà người ta còn muốn làm ô uế hơn – như cải cách chữ viết và bỏ nền tảng “tiên học Lễ, hậu học Văn.” Thiếu giáo dục hoặc giáo dục lệch lạc sẽ phá hủy tất cả: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất để thay đổi thế giới. Để phá hủy bất kỳ quốc gia nào, không cần phải sử dụng bom nguyên tử hoặc tên lửa tầm xa, chỉ cần hạ thấp chất lượng giáo dục và cho phép gian lận trong các kỳ thi của sinh viên.” (Nelson Mandela, 1918-2013)
Một trong các cách vệ sinh là dọn dẹp và sắp xếp. Khi chuẩn bị đón tiếp một nhân vật đặc biệt nào đó, người ta thường dọn đường và trang hoàng. Dọn đường có thể theo nghĩa đen là dọn dẹp đường sá cho vệ sinh hơn, tươm tất hơn, gọn gàng hơn, lấp những chỗ lõm, san những chỗ lồi,… Dọn đường cũng có thể hiểu nghĩa đen là trang trí cờ xí, treo đèn, kết hoa, câu đối,… hoặc hiểu nghĩa bóng là tích cực đổi mối cách sống, nếp nghĩ,… Dĩ nhiên nghĩa bóng quan trọng hơn nghĩa đen. Vệ sinh là làm những gì tốt đẹp nhất: gọn gàng, sạch sẽ, tươm tất.
Cần làm như vậy đối với bề ngoài, còn cần hơn nữa đối với bề trong, đặc biệt là khi chuẩn bị đón Vua các vua và Chúa các chúa: Đấng Thiên Sai Giêsu Kitô. Ngài thực sự đã đến thế gian – và chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm ngày Ngài giáng thế lần thứ nhất trong cương vị Vua Thương Xót. Ngài đã về trời, và Ngài sẽ tái lâm trong cương vị Vua Công Lý, Thẩm Phán tối cao và công bình chính trực, không thiên vị bất cứ ai.
Ngày xưa, trước khi Ngài xuống thế lần I, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong cương vị “người mở đường,” đi tiên phong để chuẩn bị cho sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Ông Gioan Tẩy Giả là người rất khác thường, như một “dị nhân” vậy. Vì thế, nhiều người thấy ông mà cứ tưởng ông là Đấng Mêsia, là Êlia, hoặc một ngôn sứ nào đó. Nhưng ông xác định: “Có người ĐẾN SAU tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì CÓ TRƯỚC tôi.” (Ga 1:30) Thật kỳ lạ, người “đến sau” mà lại “có trước.” Những người không có đức tin sẽ cảm thấy chói tai, vì theo lẽ thường thì điều đó trái ngược hoàn toàn. Thật vậy, một phụ nữ Samari gặp Chúa Giêsu bên giếng nước đã thắc mắc: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này?” (Ga 4:12) Bất cứ ai cũng đặt vấn đề như vậy thôi.
Các Phúc Âm nhất lãm cũng cho biết thêm về lời của ông Gioan Tẩy Giả: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người.” (Mt 3:11; Mc 1:7; Lc 3:16) Ông Gioan không tự đánh lừa mình hoặc người khác, mà ông khiêm nhường tự nhận chỉ là “tiếng kêu trong sa mạc” mà thôi. (Ga 1:23)
Thời Cựu Ước, ông Barúc nói với dân chúng: “Hỡi Giêrusalem, hãy CỞI BỎ áo tang khổ nhục, và MẶC LẤY ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy KHOÁC vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa, và ĐỘI lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.” (Br 5:1-2) Thực sự rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa quan tâm và yêu thương như vậy, càng hạnh phúc hơn khi Ngài không coi chúng ta là tội đồ mà trao ban cho chúng ta những điều kỳ diệu, vượt quá ước mơ của chúng ta, đặc biệt là trao chính Con Yêu Dấu của Ngài.
Đó là sự thật minh nhiên. Ngôn sứ Ba-rúc giải thích rõ ràng: “Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi. Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi là Bình An xây dựng trên công chính và Vinh Quang phát xuất từ lòng kính sợ Thiên Chúa.” (Br 5:3-4) Quá đỗi kỳ diệu. Phàm nhân không thể hiểu nổi!
Tiếp tục động viên, ngôn sứ Ba-rúc nói: “Vùng lên, Giêrusalem hỡi, hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông: Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy. Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui. Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng.” (Br 5:5-6) Ôi chao, sự thật hiển nhiên mà cứ ngỡ là trong mơ!
Thiên Chúa chí thánh, ngay thẳng, mọi nơi Ngài đến phải tươm tất, gọn gàng và sạch sẽ: “Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa. Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.” (Br 5:7-9) Thật hạnh phúc khi chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, giàu lòng thương xót, muốn cứu vớt chứ không muốn sát hại, muốn tha thứ chứ không muốn trừng phạt. Có lẽ đôi khi chúng ta có mơ cũng chẳng thấy, thế mà lại là sự thật minh nhiên.
Không thể im lặng, Thánh Vịnh gia cũng đã thốt lên: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ.” (Tv 126:1) Còn hơn là ngạc nhiên chứ thản nhiên sao được, bởi vì chứng kiến nhãn tiền những điều quá kỳ diệu mà. Hạnh phúc trào dâng, niềm vui vỡ òa, dân chúng hân hoan cùng nhau “vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.” Khi thấy vậy, dân ngoại cũng xôn xao: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2) Chắc chắn không ai có thể trì hoãn niềm vui, và phải tâm phục khẩu phục.
Việc Chúa làm cho chúng ta thật là vĩ đại, từ việc nhỏ tới việc lớn – đơn giản mà quan yếu như không khí, và hẳn là cõi lòng ai cũng chan chứa niềm vui khôn tả. Sung sướng và hạnh phúc nhưng không được “ngủ quên,” vẫn phải cầu nguyện liên lỉ, bởi vì tín nhân vẫn còn mang thân xác nặng nề, chưa thực sự thoát vòng kiềm tỏa của ma quỷ. Do đó, phải tỉnh thức và cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.” (Tv 126:4) Hạnh phúc nào cũng có ít nhiều nước mắt, đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:5-6) Quy luật tất nhiên là vậy.
Rất quan trọng đối với việc cầu nguyện, vì cầu nguyện như hơi thở duy trì sự sống. Vả lại, không chỉ cầu nguyện cho mình mà còn cho người khác. Không cầu nguyện, thân xác vẫn sống nhưng linh hồn như đã chết rồi. Thánh Phaolô nói về việc cầu nguyện: “Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm.” (Pl 1:4-6) Ông phân tích cụ thể: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu. Điều tôi khẩn khoản nài xin là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm. Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.” (Pl 1:8-11)
Tín nhân có trách nhiệm và bổn phận phải tôn vinh, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa. Đó cũng là quyền lợi của mỗi tín nhân. Chúng ta chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng chính việc cầu nguyện lại sinh ích lợi cho chúng ta. Thật là tuyệt vời và vô cùng kỳ diệu!
Lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả được đề cập trong trình thuật Lc 3:1-6 (≈ Mt 3:1-12; Mc 1:2-6; Ga 1:19-28). Đoạn Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, dẫn người ta vào tâm điểm của Mùa Vọng là chuẩn bị chu đáo để chờ đón Đấng Cứu Thế.
Theo lời kể của Thánh Luca, lúc đó là năm thứ 15 dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế.
Có lời Thiên Chúa phán với con ông Dacaria là Gioan, anh em họ với Chúa Giêsu, đang ẩn dật trong hoang địa. Gioan liền đi khắp vùng ven sông Giođan để rao giảng và kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”
Cuộc đời có nhiều chướng ngại vật, đủ kích cỡ. Những thung lũng hiềm khích, thù hận; những núi ghen tuông, những đồi gièm pha; những khúc quanh lươn lẹo, gian ngoa, lừa bịp; những con đường đầy những hố chèn ép nhau, khích bác nhau, trù dập nhau; và còn rất nhiều những “khoảng tối tăm” có thể còn âm u hơn những cánh rừng nguyên sinh và đầy nguy hiểm. Đã được san bằng, lấp đầy hoặc uốn thẳng những gì, được mấy phần trăm?
Chờ ai thì mong người đó. Mong ai thì phải chuẩn bị ít nhiều. Chuẩn bị đón mừng Chúa Giêsu giáng sinh không phải là chỉ đua nhau làm những hang đá sang trọng, lộng lẫy, đồ sộ, tốn rất nhiều tiền, rồi lại phát sinh chuyện gây quỹ, bằng ân nhân, hoặc lo sắm sửa đủ thứ để viện cớ là “ăn mừng” Lễ Giáng Sinh.
Chắc chắn Chúa Giêsu không muốn như vậy, và Ngài cũng không “chấm công” cho chúng ta vì những thứ xa xỉ đó. Có lẽ chúng ta không muốn san bằng những hang đá cồng kềnh đó, mà lại tạo ra thêm nhiều hố ngăn cách khác – cụ thể nhất là giàu – nghèo, không rút ngắn khoảng cách cười – khóc, vui – buồn, mà lại nới rộng hoặc đào sâu thêm những khoảng cách “không tên” đó. Vô tình hay vô cảm? Thiết tưởng, tấm lòng của những người mà chúng ta gọi là “khố rách áo ôm” hoặc “nghèo rớt mùng tơi” mới thực sự là những máng cỏ mà Chúa Giêsu Hài Đồng muốn sinh ra và trú ngụ… Họ cam chịu nghèo khổ thay chúng ta, vì thế họ được Chúa yêu thương nhiều.
Điều đó rất hợp lý, như Thánh Phaolô phân tích: “Một số cành cây ô-liu đã bị chặt đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ô-liu chính. Vì thế, bạn đừng có lên mặt khinh dể các cành khác.” (Rm 11:17-18) Chính Chúa Giêsu cũng xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thế nên có lần Ngài dạy rất thẳng thắn: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (Lc 17:10) Rất có thể ai nghe cũng thấy “chói tai” lắm.
ĐGM Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, Australia, đặt vấn đề: “Nếu chỉ sống đạo bằng kinh kệ, rước xách, trống kèn hoành tráng,… chỉ chú trọng hình thức bên ngoài như xây sửa nhà thờ, đền đài,… mà không xây dựng một xã hội công bằng, một cộng đoàn bác ái yêu thương, thì chúng ta có hơn người Pharisêu không?” Rất nhức nhối, vì sự thật dễ gây mất lòng lắm!
Lạy Thiên Chúa công minh chính trực, xin gia tăng nghị lực và can đảm để loại bỏ mọi vật cản giữa mọi người. Xin dạy chúng con làm vệ sinh cuộc đời theo ý Ngài muốn, sẵn sàng loại bỏ ý của chúng con, và xin chấn chỉnh mọi ngõ ngách để kịp đón Đấng Thiên Sai. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Ở Việt nam nghe cụm từ này thường xuyên vào gần dịp cuối năm, các lô cốt mọc lên. Dường như MV 2-C170
Ở Việt nam nghe cụm từ này thường xuyên vào gần dịp cuối năm, các lô cốt mọc lên. Dường như rất quen thuộc với điệp khúc làm cầu đường và giao thông ùn tắc, gây biết bao khổ sở cho người đi đường và cả những gia đình sống ven đường.
Sửa đường, rất cần cho con đường thông thoáng, bằng phẳng, nhưng vì nhiều lẽ đáng ra làm cho con đường mau chóng thì vẫn ì ạch, đội vốn, gây nhiều bức xúc. Con đường của tâm hồn cũng giống như vậy, vẫn cứ ì ạch, sống theo lối mòn, chậm trễ sửa đổi, kéo lê từng ngày đi về phía trước, gây nên cuộc sống nặng nề, buồn chán.
Sửa đường là một lời mời gọi nhanh chóng thực hiện cho xong, thời gian không còn, cửa sẽ khép lại. Đó là lúc hối hận không còn kịp và cũng mất đi cuộc đời hạnh phúc.
Con đường thẳng ngay.
Con đường thẳng ngay là con đường bằng phẳng, bình an tiến về phía trước. Con đường đó được ấn định, không đi sai lệch, không tạt qua ruộng đồng hoa trái. Con đương đó là con đường ngay thẳng, dẫn tới thiên quốc. Tuy nhiên, con đường này không thể đi nếu không có Chúa cùng đi như “ Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? Đức Giê-su đáp: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 5 – 6)
Sửa lại những con đường.
Chúa là đường đi, tại sao lại sửa con đường đi? Chúa là đường đi, nghĩa là con đường chân lý, đường sự sống, đường tình yêu.
Nhưng Chúa lại cho mọi người có thể chọn cho mình một con đường để đi, như ngạn ngữ Roma nói: “Mọi con đường đều dẫn đến Roma”
Con người được mời gọi đi trên con đường của tự do, nhưng con người lại làm cho con đường đi của tự do trong chân lý, trở nên cong queo, để kiếm chác, để mưu lợi trên sự cong queo, giả dối, làm lệch lạc con đường không đi về phía Thiên Chúa.
Con đường tự do của tình yêu chân chính, con người lại làm cho nó trở nên gập ghềnh, nhiều hố sâu tội lỗi. Vì ích kỷ của mình, gây nhiều phương hại đến cho người mình yêu, người chung quanh, người thân cận và người khác không thể sống trong tình yêu hy sinh, nhẫn nại, tha thứ. Con đường tình yêu đầy hiểm trở, bẫy giăng, gai góc, khiến đường đi tình yêu nhiều người ngần ngại không dám đi, sợ phiền lụy, sợ mất đi tự do cá nhân, không muốn chia sẻ cuộc sống mình cho người khác…
Con đường tự do trong chia sẻ chính cuộc đời mình. Nhiều người đã không chọn cho mình con đường như thế. Vì những lý luận, “những gì mình làm ra mình cần hưởng thụ, phục vụ cho chính mình”. Như người thanh niên giàu có, làm giàu từ bàn tay lao động của mình, tuân giữ các điều răn, nhưng không thể chia cho người nghèo và buồn sầu bỏ đi trước lời mời gọi của Chúa (Xem Mt 19, 16 – 22).
Suy nghĩ lại đường mình đang đi.
Có lẽ tiếng hô trong sa mạc là tiếng hô này để suy nghĩ lại đường mình đang đi. Câu ngạn ngữ người Anh này đáng lưu tâm: “Nếu bạn đang đi quá nhanh, hãy chậm lại để linh hồn bạn theo kịp”. Đường đi nhanh, đi tắt mà dẫn đến “mất linh hồn nào có ích chi? (Mt 16, 26).
Con đường đi của Chúa với nhiều người thấy khó, nhưng trong văn học Việt nam có dạy: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học). Đúng vì ngại núi, e sông mà nhiều người bỏ đi trước lời mời của Chúa “Hãy theo Ta!”.
Sửa lại con đường của chính mình đang đi là để đi trên con đường hạnh phúc thật. Một hạnh phúc cùng đi với Chúa qua con đường cửa hẹp, hy sinh, nhẫn nại, tha thứ, yêu thương. Con đường là chính Chúa đến trong trần gian này, và đón nhận Chúa sinh ra trong cuộc đời mình là đón nhận con đường chính Chúa đang mời gọi.
Mùa Vọng đến, vai trò của Gioan Tẩy Giả lại đánh thức con người.Ngài đến vạch tội nhân loại MV 2-C171
Mùa Vọng đến, vai trò của Gioan Tẩy Giả lại đánh thức con người.Ngài đến vạch tội nhân loại, chỉ tội con người và đặc biệt thức tỉnh chúng ta để chúng ta nhận ra những lỗi lầm, những sai phạm của mỗi người chúng ta khiến chúng ta phải sám hối, đổi mới cách sống, cách làm và lối suy nghĩ của chúng ta. Gioan Tây Giả đã cất tiếng vang :” Có tiếng kêu trong hoang địa.Hãy dọn đường cho Chúa,sửa lối cho thẳng để Người đi “ ( Lc 3,4 ).
Gioan Tẩy Giả là vị ngôn sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã sống trong dòng lịch sử đạo và đời của dân Do Thái. Một hoàng đế Tibêrio, hai thượng tế Hanna và Caipha, một Philatô hèn nhát,tham vọng, tàn bạo,làm tổng trấn Giuđê, một Hêrôđê, ác độc, sẽ giết Gioan sau này.Gioan đã sống hòa mình vào dòng lịch sử của người Do Thái. Nơi lịch sử ấy sẽ diễn ra lịch sử cứu độ. Gioan Tẩy Giả đã được Thiên Chúa chọn làm tiền hô cho Ngài, để loan truyền cho nhân loại, đặc biệt cho dân Do Thái biết, Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu vớt ho. Gioan đã cố gắng hết mình để làm tròn sứ mạng Thiên Chúa trao phó. Thời gian ở trong sa mạc là thời gian Gioan ăn chay, cầu nguyện, chuẩn bị cho sứ mệnh cao cả là dọn đường cho Đấng Cứu Độ. Do đó, Ông đã kêu gọi toàn dân hãy sám hối. Sám hối là nhìn lên Chúa hơn là nhìn vào chính mình hay là nhìn vào người khác để so sánh. Gioan kêu mời mọi người rời bỏ nếp sống cũ, không thể cứ mãi mãi sống trong tội lỗi, sa hoa, trụy lạc.Ông mời gọi con người hãy đổi mới, thay đổi cách nhìn, lối suy nghĩ.Ông kêu gọi mọi ngưởi hãy sửa sang đường sá để đón Đấng Mêsia, mà ngay chính Ông cũng không dám cởi dây giầy cho Ngài.Đường quan trọng mà Gioan kêu gọi là đường vào cõi lòng.Thực tế là con đường Giêsu. Đường đưa vào cõi lòng phải là con đường thẳng ngay,con đường chân chính bởi vì con người có biết bao lối suy nghĩ thật quanh co, lệch lạc. Bao căm hờn, ghen tỵ,thù oán.
Do đó, Ông khuyên mọi ngưởi hãy lấp hố sâu cho đầy ánh sáng tình yêu.Có những ngăn cách, tỵ hiềm giữa người với người, Ông nhắc nhở hãy san cho phẳng, sửa cho ngay, uốn cho thẳng vv…Sám hối là sửa cõi lòng của mình, làm cho lòng mình thẳng tắp, không còn lồi lõm, gồ ghề, cao thấp để Đấng Cứu Tinh ngự vào. Con đường tình yêu hay con đường Giêsu là con đường Gioan Tẩy Giả có sứ mạng cao cả chuẩn bị cho mọi người…Tuy nhiên, sửa cõi lòng, đổi mới con người, lối sống, lối nhìn, lối suy nghĩ không phải lúc nào cũng dễ. Nó đòi hỏi mọi người phải canh tân mà muốn đổi mới phải có ơn Chúa và sự tác động của Thánh Thần, sự quảng đại, vượt thắng của mỗi người.Đổi mới cũng không phải một sớm một chiều có thể làm được, nhưng là phải dẹp bỏ con người cũ, dẹp bỏ những rào cản trong tâm hồn để Chúa có thể dễ dàng đến và ơ lại.
Vâng, Gioan đã hoàn thành sứ mạng là người dọn đường cho Chúa đến lần đầu. Mỗi người chúng ta hôm nay phải là những tiền hô cho Chúa đến lần cuối.Quả thực, Chúa đã đến và ở giữa nhân loại, giữa con người cách đây hơn hai ngàn năm.Ơn cứu độ đã đến với thế giới, với con người. Nhưng thực tế, đã có biết bao rào cản, biết bao con đường thiếu phẳng phiu, thiếu ngay thẳng để Chúa có thể đến và gặp gỡ con người.
Lạy Chúa Giêsu, nhìn ra lỗi lầm và biết sám hối canh tân để từ bỏ con người cũ, mặc lấy Đức Kitô quả thực là khó khăn, không dễ dàng một chút nào.
Xin cho chúng con biết luôn luôn sẵn sàng sám hối, đổi mới tư duy, đổi mới cái nhìn, để chúng con biết nhận ra Chúa đang ở trong tha nhân. Xin cho chúng con thêm can đảm để chúng con
dám hy sinh cắt tỉa những gì là rườm rà, những gì không cần thiết hầu Chúa dễ dàng đến và ngự trị trong tâm hồn chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Sám hối canh tân là gì ? 2.Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là gì ? 3.Tại sao lại gọi Chúa đến lần thứ nhất ? 4.Chúa đến lần thứ hai lúc nào ? 5.Sứ mạng của chúng ta là gì ?
Gio-an Tẩy Giả là ai? Chúa thương chọn gọi, đóng vai người phàm. Sống trong hoang địa khổ MV 2-C172
Mật ong châu chấu, không ham mùi đời. Sửa đường dọn lối gọi mời, Người ơi hoán cải, ơn trời đoái thương. Hố sâu đầy lấp môi trường, Núi đồi san phẳng, mở đường Chúa đi. Cong queo uốn thẳng thực thi, Gồ ghề bạt xuống, ngại gì khó khăn. Khiêm nhường hối cải ăn năn, Tội tình xa tránh, tâm căn xóa nhòa. Bỏ đường gian ác, giao hòa, Dọn lòng đón Chúa, thiên tòa giáng ân. Xả thân cứu độ nhân trần, Thay lòng đổi dạ, dự phần phúc vinh. Ơn thiêng tuôn đổ trọn tình, Cho người dưới thế, an bình mến thương. Niềm vui kết nối tựa nương, Trở về bên Chúa, dẫn đường con đi.
Một tinh thần mới trong một niềm vui mới qua sự sám hối. Hãy sám hối và trở về. Trở về bao giờ cũng là niềm vui. Đời là cuộc lữ hành. Đôi khi cuộc lữ hành bị lạc hướng, nên chúng ta mất niềm hy vọng và nên cần đổi hướng. Thánh Gioan đã xuất hiện kêu gọi mọi người hãy sửa lại đường Chúa đi cho ngay thẳng. Gioan nói: “Hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống và quanh co uốn cho ngay.” Hình ảnh mà Gioan dùng qua lời tiên tri Isaia, là hình ảnh rất đẹp và rất dễ hiểu.
Hãy chuẩn bị đường cho Chúa đi. Đạo chính là con đường. Đường vào đạo, đó chính là đi vào cõi lòng của mỗi người. Cần thời gian tĩnh niệm để chúng ta nhận ra con đường quanh co, đâu là hố sâu và nơi nào là thung lũng của tâm hồn để chúng ta san bằng. Chúng ta cần bạt thấp những kiêu căng và tham vọng. Lấp đầy những ghen ghét, lười biếng và giận hờn. Uốn ngay những thói hư, bất công và gian trá. Những lỗi lầm tiêu cực này là những đầu mối dẫn chúng ta xa dần con đường ngay nẻo chính.
Cậu truyện dưới đây xảy ra vào dịp gần lễ Giáng Sinh. Bọn cướp chia nhau của cải cướp được và vật sót lại là cuốn Thánh Kinh, không ai thèm lấy. Một tên cướp pha trò, đề nghị mở Kinh Thánh đọc, hầu cho cả bọn ăn năn sám hối và từ bỏ đường tà. Những tiếng nhạo cười khúc khích làm như mới tìm được một niềm vui lý thú. Một tên cướp cầm sách Kinh Thánh lên, mở một đoạn và thêm vào những câu bông đùa làm cho cả bọn cười. Anh đọc: Đường gồ ghề, hãy san cho phẳng; hố sâu, lấp cho đầy; nơi cao bạt xuống. Hãy chuẩn bị tâm hồn và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Vừa nghe qua, tên tướng cướp im bặt và khuôn mặt trở nên đăm chiêu. Hắn gợi nhớ lại 30 năm trước khi hắn bỏ nhà ra đi, cả gia đình đã tụ họp đọc đoạn Kinh Thánh này và cầu nguyện cho gia đình được ơn cứu độ. Anh nhớ về khung cảnh gia đình năm xưa. Anh hối hận. Anh liền dằng lại cuốn Kinh Thánh, từ giã bọn cướp và tìm nơi thanh vắng để sám hối làm lại cuộc đời.
Thánh Gioan kêu mời mỗi người chúng ta hãy sám hối và trở về. Sự trở về nào cũng đòi hỏi sự từ bỏ. Từ bỏ những qúa khứ lầm lạc để tìm về nguồn Chân, Thiện, Mỹ. Hãy cầu xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng ta phấn đấu với chính bản thân mình. Thắng được chính mình là chúng ta đã thành công trên con đường trọn lành. Người ta nói: “Thắng mình khó hơn thắng vạn quân” là thế. Xin Chúa ban sức mạnh và sự can đảm để chúng ta từ bỏ con đường lầm lạc và hướng tới sự trọn lành đích thực.
Chạy chiếc xe Citi 50 trên con đường đầy ổ voi, người tông đồ đổ đầy mồ hôi đang khi tiết trời MV 2-C173
Chạy chiếc xe Citi 50 trên con đường đầy ổ voi, người tông đồ đổ đầy mồ hôi đang khi tiết trời se lạnh. Cú điện thoại chợt đến vừa lúc bánh xe trượt xuống cái ổ voi đầy nước mưa và sình lầy. Điện thoại trong túi áo đang đổ chuông bỗng tắt ngúm khi người tông đồ nằm trọn trong cái ổ voi đó. Chiếc xe đã văng ra bờ cỏ bên cạnh, cùng lấm đầy bùn như chủ nhân của nó.
Mùa Vọng về, người tông đồ vẫn đang phục vụ cho những anh em sắc tộc nơi điểm truyền giáo. Đang khi té xe, Lời Chúa vang lên trong tâm hồn người tông đồ: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi” (x. Lc 3,4).
Để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, ông Gioan đã là một tiếng hô trong hoang địa, ông trở nên “một người rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (x.Lc 3,3). Bước chân của ông rảo khắp vùng sông Giođan, tiếng hô của ông là lời mời gọi, là sự hối thúc mong chờ Chúa đến. Là người tông đồ của Chúa, đã bao giờ ta trở nên một tiếng hô thức tỉnh người khác trở về với Chúa? Cuộc sống của ta có diễn tả tâm tình mong chờ Chúa đến, có trở nên một lời mời gọi và hối thúc anh chị em mở lòng đón nhận lòng thương xót của Chúa? Nói khác hơn, ta được mời gọi sống chứng tá cho Chúa bằng chính đời sống bình dị, lặng lẽ, âm thầm phục vụ hằng ngày, với một con tim tràn đầy lòng mến Chúa yêu người. Ta đã sẵn sàng đón Chúa chưa?
Dọn đường vốn dĩ là một công việc đòi hỏi nhiều công sức và sửa đường lại là một công việc có lắm gian nan hơn bao giờ hết. Một con đường cỏ dại, gai góc, đầy sỏi đá. Người ta phải dọn đi những thứ ngổn ngang đó để có một con đường quang đãng an toàn. Một con đường dốc cao hay nhiều lỗi lõm, người ta phải ra sức sửa lại cho bằng phẳng. Tình trạng tâm hồn cũng được ví như việc dọn đường và sửa đường ấy. Vì sao người ta ghen ghét đố kỵ nhau? Vì sao người ta khó đón nhận nhau, khó yêu thương nhau? Bởi vì tâm hồn con người đầy dẫy những ích kỷ, kiêu căng, toan tính nhỏ nhen, chuộc lợi. Dọn đường đón Chúa đến trước hết, ta phải nhìn lại chính mình để thấy đâu là những hố sâu ngăn cách ta đến với người khác, đâu là những cản trở con tim ta yêu thương, để khi nhìn thấy tình trạng tồi tệ của bản thân, ta quyết tâm loại bỏ những gì làm ta xa Chúa, xa anh chị em. Sửa đường đón Chúa đến trong tâm hồn cũng đòi hỏi ta phải biết hạ mình, khiêm nhường, can đảm nhìn vào tâm hồn mình để thấy những quanh co của gian dối, những lỗi lầm của ích kỷ, những núi đồi của kiêu ngạo, tự mãn… Khi đến với Chúa, ta chấp nhận để cho Chúa gọt tỉa, để Chúa tăng thêm sức mạnh giúp ta tự tay sửa lại những đoạn đường xấu nơi con người mình và khiêm tốn đón nhận sự sửa dạy của người có trách nhiệm. Bấy giờ, tâm hồn ta hoàn toàn tự do mà bước đến với Thiên Chúa, hoàn toàn mở rộng trái tim để đón Chúa đến và sẵn sàng đón nhận người anh chị em mình.
Lạy Chúa Giêsu khiêm nhường và hiền lành, con thật hạnh phúc vì được Chúa viếng thăm. Chúa là vua vũ trụ nhưng lại thích đến với con cách âm thầm, lặng lẽ qua sự hiện diện của người anh chị em, qua những công việc nhỏ bé mỗi ngày, và qua từng biến cố vui buồn của đời con. Xin cho con ý thức rằng chính khi con mong chờ Chúa đến trong tâm hồn là khi con nỗ lực bắt tay vào việc dọn đường và sửa đường nơi chính con người mình bằng lời cầu nguyện liên lỉ, bằng từng chọn lựa của ngày sống. Tất cả con người con, con xin dâng cho trái tim dịu hiền Chúa. Amen.
Lan dắt xe thật nhanh chạy đến nhà Hằng và gọi: Hằng ơi đi siêu thị không? Có, đợi tớ một MV 2-C174
Lan dắt xe thật nhanh chạy đến nhà Hằng và gọi:
Hằng ơi đi siêu thị không? Có, đợi tớ một chút. Nhanh lên nhen, tớ đợi đó. Là bạn bè, hằng ngày đi học hay đi đâu, Lan thường chạy qua gọi Hằng cùng đi. Có lúc tiếng gọi của Lan mang sự thôi thúc và sung sướng, cũng có lúc nặng nề. Sung sướng khi Lan được đi chơi, và nặng nề khi phải đi trực lớp.
Hôm nay, Tin Mừng gợi cho mọi người một tiếng gọi trong hoang địa. Tiếng gọi ấy xuất phát từ một con người khiêm nhường sống trong hoang địa. Ông là người được chọn để dọn đường cho Chúa Giêsu. Khởi sự sứ mạng dọn đường cho Chúa, ông đã đi khắp vùng ven sông Giođan rao giảng, kêu gọi mọi người chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Người ấy là Gioan Tẩy Giả. Tiếng gọi của ông thôi thúc và tha thiết: “Hãy dọn đường cho Đức Chúa” (Lc 3, 4a).
Dọn con đường nào đây?
Khi xưa dân Do Thái rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Họ đã cầm lá reo hò hớn hở nhưng sau đó, họ lại nộp Chúa cho quan Philatô. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng lại xa ta. Vậy điều mà Chúa Giêsu cần hơn chúng ta dọn hơn cả là tấm lòng thật, tâm hồn đơn sơ, trái tim rộng mở. Ông Gioan rao giảng, kêu gọi mọi người chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Phép rửa là bí tích mang ơn hiệp thông với thân thể Đức Kitô, là bí tích thanh tẩy tâm hồn. Như vậy, con đường mà ông Gioan kêu gọi dọn dẹp là con đường tâm hồn, một tâm hồn phải tỏ lòng sám hối. Sám hối là một hành động mở ra con đường cho Chúa đến qua việc lấp đầy tâm hồn bằng tình yêu Chúa, lòng chân thành, bác ái với mọi người, và san bằng lòng hận thù ghen ghét. Nhưng để thực hiện được điều này, mỗi người cùng nhìn lại chính bản thân mình là ai? Tôi đang ở tình trạng nào? Điều gì cần thiết cho Thiên Chúa và cho tôi để tôi biết dọn con đường cho Chúa ngự đến? …
Là người Kitô hữu, nhưng mang thân phận loại người yếu đuối nên dễ lạc vào con đường tội lỗi. Vì vậy, mỗi người hãy cùng nhau chạy đến với Chúa qua bí tích Giải tội để tẩy rửa tâm hồn nhơ bẩn thành một tâm hồn đơn sơ. Nhờ đó, mỗi người được bình an trông chờ Chúa đến.
Lạy Chúa là Đấng chí thánh, xin cho chúng con biết dọn đường tâm hồn và chuẩn bị tâm hồn thật đơn sơ để trông chờ Chúa đến. Vì chỉ có Chúa mới thật là suối bình an của mỗi người chúng con. Amen.
Bài Tin mừng Chúa nhật thứ hai mùa Vọng theo thánh Luca đã tường thuật việc việc rao giảng MV 2-C175
Bài Tin mừng Chúa nhật thứ hai mùa Vọng theo thánh Luca đã tường thuật việc việc rao giảng thống hối của Gioan Tẩy giả trong hoang địa. Gioan vốn được sinh ra trong một gia đình tư tế phục vụ đền thờ Giêrusalem, với cha là tư tế Zakaria và mẹ là Êlisabét cả hai đều vốn thuộc dòng dõi tư tế và là những người công chính, nhưng ông đã sớm khước từ địa vị dòng dõi tư tế của mình với những việc phục vụ nghi lễ ở đền thờ và những hiến lễ chiên bò để bắt đầu một đời sống mới theo ơn gọi Thiên Chúa dành cho ông. Ông sống khắc khổ ở hoang địa và bắt đầu xuất hiện ở bờ sông Giordan, rao giảng mời gọi mọi người thống hối vì Nước Thiên Chúa gần đến. Ông cũng đề nghị mọi người đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa và lãnh nhận phép rửa. Thực hành này của Gioan đã được thánh sử Luca cẩn thận ghi lại với những mốc lịch sử của đế quốc Rôma hùng mạnh đang thống trị lúc bấy giờ là năm thứ mười lăm của triều đại hòang đế Tibêriô và Philatô làm tổng trấn ở Giuđêa và những vị thủ hiến do thái.
Nơi Gioan thực hành phép rửa là giao lộ quan trọng, các đoàn buôn bán thường qua lại trên đường này để tiến về miền bên kia sông Giordan. Chính ông là người có sáng kiến thực hành phép rửa, tức là việc tắm thanh tẩy, như là dấu chỉ việc dấn thân sám hối thay đổi đời sống. Nơi Gioan chọn để làm phép rửa có ý nghĩa vì xưa kia vùng này là nơi những người do thái, sau khi được giải thoát khỏi nô lệ Ai cập, họ vượt qua biển đỏ, và sau hành trình dài qua sa mạc, họ đã đến đây để chuẩn bị tiến vào đất hứa. Chính nhà lãnh đạo Môisen cũng đã qua đời ở đây và dân chúng đã cùng với nhà lãnh đạo mới của mình là Giosuê tiến qua sông Giorđan để vào đất hứa. Thế nên, với sự xuất hiện của Gioan tẩy giả rao giảng phép rửa thống hối và việc nhắc lại lời kêu gọi của tiên tri Isaia sửa đường Chúa cho ngay thẳng, làm chúng ta hiểu được ý nghĩa của lời mời gọi của Gioan. Lần này lại một cuộc xuất hành mới và quyết định đối với lịch sử Israel. Theo lịch sử do thái, vào khoảng năm 587 trước công nguyên, thành Giêrusalem cùng với đền thờ đã bị xâm chiếm và tàn phá, vua và dân bị bắt đi lưu đày sang Babylon cho đến khoảng gần 50 năm sau là năm 538, một vị tiên tri xuất hiện và loan báo tin mừng ngày hồi hương gần kề, một cuộc xuất hành còn hùng vĩ và kỳ diệu hơn lần xuất hành đầu tiên ra khỏi xứ Ai cập, ông đã mời gọi mọi người sửa lại mọi con đường cho ngay thẳng để đón tiếp ơn cứu độ của Thiên Chúa : “Hãy dọn đường Chúa, hãy san bằng mọi con đường. Mọi thung lũng hãy lắp cho đầy, núi đồi hãy bạt xuống; đường quanh co hãy sửa cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Is 40,3-5). Dầu vậy, lần hồi hương lần sau cuộc lưu đày, dù rất là kỳ diệu đối với những người do thái bị bắt, cũng chưa phải là lần vượt qua và trở về quyết định, nó vẫn chỉ là một lần can thiệp của Thiên Chúa để giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày xa quê hương để trở về đất hứa và xây dựng lại đền thờ.
Thế nhưng lần này, nơi biên thùy của đất nước, nơi mọi người có thể qui tụ về đây, vào một thời điểm chính xác trong lịch sử thế giới, Gioan đã đề nghị mọi người lãnh phép rửa thống hối vì nước Chúa đã gần đến, vì giờ phán xét của Thiên Chúa đã gần kề. Lần này không phải là để ra khỏi xứ Ai cập và vào đất hứa, cũng không phải là hồi hương, trở về từ thân phận nô lệ nhục nhã từ một đất nước xa lạ nhưng là một cuộc trở về với chính mình và với Thiên Chúa, để được đón tiếp Thiên Chúa viếng thăm thực sự. Đây là một biến cố quyết định dứt khoát. Gioan làm phép rửa thống hối và thôi thúc mọi người canh tân đời sống vì ngày phán xét của Thiên Chúa gần kề không thể trì hoãn. Biến cố lần này không chỉ liên hệ tới một dân tộc riêng biệt nào như xưa kia đã là biến cố của dân tộc do thái, nhưng có chiều kích phổ quát hơn. Giờ đây việc vượt qua chính là đón nhận dòng nước phép rửa để đón nhận ơn tha thứ tội lỗi và đi vào trong thế giới của Thiên Chúa, thế giới ân sủng của hồng ân cứu độ. Cuộc xuất hành mới không chỉ là chuyện diễn ra ở một nơi nào đó nhưng là thiêng liêng diễn ra trong nội tâm của mỗi người. Lần này, cũng những lời đó là những lời của tiên tri Isaia đệ nhị hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, nhưng con đường này không phải chỉ là con đường hồi hương sỏi đá nhưng chắc là dễ làm, nhưng là con đường của hành trình nội tâm khó khăn hơn gấp bội, đòi hỏi mỗi người sáng suốt và can đảm, nhìn sâu vào trong chính con người của mình để thấy những chỗ gồ ghề mà san cho bằng. Sự thống hối của mùa Vọng không chỉ là tang chế, mà là sự thống hối đầy tràn niềm vui, đầy tràn hy vọng vì trông cậy vào lời hứa đổi mới của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa thúc đẩy qua lời rao giảng của vị tiền hô là Gioan, hãy để cho ân sủng dư đầy của Thiên Chúa đổi mới chính mình. Những lời trong bài đọc thứ nhất của sách tiên tri Bakhúc tràn đầy những lời lẽ thôi thúc ân cần của Thiên Chúa ngỏ lời với mọi người. Thời gian mùa vọng tràn ngập những ân sủng cứu độ và đổi mới của Thiên Chúa. Mọi người đừng sợ hãi cũng đừng chần chừ vì họ được thực sự yêu thương và đổi mới. Thân phận của họ giờ đây được Thiên Chúa yêu thương, họ hãy cởi bỏ áo tang chế và họ sẽ được mặc áo vinh quang. Chính Thiên Chúa sẽ mặc cho họ áo công chính. Họ hãy lên nơi cao và nhìn sang khắp đông tây để thấy con trai và con gái của họ trở về với họ trong vui mừng với vinh dự như các hoàng tử. Lời của sách tiên tri Barúc đầy tràn những hình ảnh hạnh phúc tràn ngập: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa”.
Những gì Thiên Chúa làm cho con người vượt quá những hy vọng và chờ đợi của chúng ta. Đây không phải chỉ là những giấc mơ, mà là thực tại lớn hơn những cái nhìn hạn hẹp của con người. Chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người đến để mặc lấy thân phận con người và đổi mới chúng ta từ bên trong. Về phần con người, chúng ta cần can đảm để đổi mới, từ bỏ những yếu hèn đam mê tội lỗi của mình và để cho ân sủng của Thiên Chúa tác động và canh tân như lời thánh Phaolô nhắc nhở “anh em đã thông phần vào việc rao giảng Tin mừng từ ngày đầu cho tới nay, giờ đây tôi cầu nguyện cho anh em được gia tăng lòng bác ái trong sự hiểu biết và am hiểu để anh em xác định được những điều quan trọng hơn để anh em được trong sạch và không đáng trách cho tới ngày Chúa Giêsu Kitô”.
Nếu chúng ta để ý thì trong Mùa Vọng, có một người được nhắc đến nhiều nhất trong các bài MV 2-C176
Nếu chúng ta để ý thì trong Mùa Vọng, có một người được nhắc đến nhiều nhất trong các bài đọc Thánh kinh đó là khuôn mặt của Gioan Tẩy giả, và có thể nói ông là một trong những mẫu gương sống Mùa Vọng tuyệt vời nhất.
Tuổi đời chỉ sống hơn 30 năm, nhưng ngay từ tuổi ấu thơ ông đã từ bỏ gia đình đi vào trong sa mạc để dọn lòng đón đợi Chúa đến, nhờ đó mà sau này ông trở thành vị tiền hô cho Đấng Cứu Thế.
Chúng ta biết, hoang địa là nơi vắng bóng người ở, một nơi trơ trụi, thiếu thốn mọi tiện nghi, nhưng chính nhờ môi trường thanh vắng này, mà Gioan đã lớn lên trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông vẫn kiên trì chờ đợi cho đến thời đến lúc ông nghe thấy tiếng Chúa ngỏ lời với ông.
Tiếng Chúa thúc đẩy ông ra khỏi hoang địa, để đi trước dọn đường mở lối cho Đấng Cứu Thế. Tiếng Chúa ông nghe trong thầm lặng nay trở thành tiếng hô lớn nơi phố xá đông người.
Ông kêu gọi dân chúng sám hối sửa lại con đường tâm hồn, để chào đón Vua Giêsu ngự đến.
Việc sửa lại con đường tâm hồn đón đợi Chúa đến không phải là một vài giờ tĩnh tâm, hay đi xưng tội là xong, nhưng là một quá trình dài suốt cả cuộc đời, nghĩa là không ngừng dẹp bỏ tận căn những tính hư tật xấu, tập thành những đức tính tốt của người Công giáo.
Tin mừng thánh Luca ghi lại: “Có tiếng người hô trong hoang địa”. Tại sao Gioan lại hô giữa hoang địa?. Hoang địa vắng bóng người, ấy thế mà tiếng hô của Gioan lại thức tĩnh lòng người, làm cho dân chúng lũ lượt tìm đến với ông, bày tỏ sự sám hối bằng việc xin chịu phép rửa, làm mới lại tâm hồn.
Như vậy, hoang địa ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý. Hoang địa ở đây chính là sa mạc của lòng người. Tình người trong những mối tương quan đã khô cạn. Giữa phố xá đông người, nhưng con người vẫn xa lạ, lạnh lùng dửng dưng với nhau. Tại sao vậy?.
Thưa, bởi vì tâm hồn chúng ta có những hố sâu ích kỷ, chỉ lo vun đắp cho mình mà ít quan tâm đến người khác.
Thật vậy, bên cạnh chúng ta có biết bao người sống cô đơn lây lất vì sự vô tâm vô cảm của tha nhân.
Có biết bao giọt nước mắt vẫn rơi rớt trên giòng đời vì sự vô ơn bội bạc, bất trung, bất hiếu của những người thân trong gia đình.
Người ta sống trong những khu xóm san sát nhau, nhưng dường như nhà ai nấy ở, cửa ai nấy cài, chính vì thế họ không biết nhau, và như vậy con người sẽ rơi vào tình trạng cô đơn giữa lòng nhân thế.
Tâm hồn chúng ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo thích nâng mình lên, tự hào về khả năng của mình, luôn cho mình tài giỏi hơn người khác, không bao giờ chịu thua kém bất cứ ai. Xin hãy hạ mình xuống với lòng khiêm tốn như Gioan tẩy giả.
Để Chúa được vinh quang Gioan phải khiêm nhường. Để Chúa được nhận biết, Gioan phải quên mình. Để Chúa được nổi lên, Gioan phải chìm xuống. Gioan hiểu rõ điều đó, nên ông không ngừng hạ mình khiêm nhường trong lời nói cũng như trong hành động.
Khi uy tín của ông lan rộng, người ta tưởng là Đấng Cứu Thế, nhưng ông khiêm tốn nhìn nhận: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đấng đến sau tôi uy quyền hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Ngài; Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ bé đi”.
Tâm hồn chúng ta đôi khi có những khúc quanh co dối trá, trong lời ăn tiếng nói và việc làm, sống không thành thật với Chúa, không thành thật với nhau. Xin hãy uốn lại với lòng thành thật theo Tin mừng Chúa dạy.
Tâm hồn chúng ta có những lượn sóng gồ ghề, khó tính khó nết, khó sống với người khác, hay than thân trách phận, không bằng lòng với số phận của mình.
Gioan tẩy giả từ bỏ phố xá đông người, để vào nơi hoang địa thanh vắng tìm gặp Chúa. Ông đã khước từ những thức ăn cao lương mỹ vị, ông chỉ dùng những thức ăn đơn sơ đạm bạc của núi rừng. Ngài từ bỏ quần áo lụa là, chỉ khoác trên mình tấm da thú che thân.
Noi gương ông, chúng ta cũng phải vui lòng chấp nhận mọi hoàn cảnh mà Chúa an bài gởi đến, như bị bệnh tật, bị con cháu bỏ rơi, bị thiếu thốn cách này hay cách khác, để nên giống Chúa Giêsu Đấng giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Gioan tẩy giả đã chuẩn bị cho Chúa đến lần thứ I, chúng ta phải là những tiền hô chuẩn bị cho Chúa đến lần thứ II. Làm tiền hô cho quê hương, cho môi trường mình đang sinh sống, đó là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu chúng ta.
Chúa Giêsu đã đến trần gian hơn hai ngàn năm rồi, vậy mà ngày nay vẫn còn thiếu vắng những con đường phẳng phiu, ngay thẳng. Vậy để Chúa đến trong cuộc đời, để Chúa đến mang ơn trời, mỗi người chúng ta cố gắng sống theo mời gọi của Gioan Tẩy Giả, là tích cực dọn đường tâm hồn đón Chúa, bằng con đường siêng năng đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ. Bằng còn đường dấn thân phục vụ tha nhân. Và nhất là dành thời giờ đi đến thăm hỏi những người đau yếu bệnh tật, đang thiếu vắng tình thương, ở ngay bên cạnh làng xóm chúng ta. Amen.
Lại một làn nữa, chúng ta được nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Sử Luca. Tin Mừng chúng ta MV 2-C177
Lại một làn nữa, chúng ta được nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Sử Luca.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe gồm 3 ý :
Ý số một: Thánh Luca muốn cho mọi người thấy Đức Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử.
Chính vì thế mà Luca liệt kê ra những nhân vật lịch sử đang hành quyền lúc Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng. Trong số những nhân vật ấy,
– Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực chính trị, như Hoàng đế Tibêriô, Tổng trấn Phonxiô Philatô, các Tiểu vương Hêrôđê, Philípphê, Lyxania.
– Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực tôn giáo, như các thượng tế Khanna và Caipha.
Lãnh địa mà họ đang hành quyền vừa là phần đất Do thái (như Giuđê, Galilê), vừa là phần đất lương dân (như Iturê, Trakhônít, Abilên).
Ý thứ 2: Khi kê khai ra những nhân vật đang cầm quyền vừa trong lãnh vực tôn giáo lẫn lãnh vực chính trị, vừa ở đất Do thái vừa ở đất lương dân, Thánh Luca còn muốn nói Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ phổ quát, chẳng những cho người Do thái mà còn cho mọi dân tộc. Thiên Chúa là Chúa của mọi người, mọi dân tộc chứ không phải là Chúa của riêng ai, hay của một dân tộc nào.
Một thi sỹ nọ đã sáng tác một bài thơ để giúp chúng ta tránh những tư tưởng ích kỷ trong lúc đọc kinh Lạy Cha như sau:
“Bạn không thể đọc Kinh Lạy Cha Nếu chỉ một lần bạn nghĩ là “của tôi” Bạn không thể đọc Kinh Lạy Cha Nếu chỉ một lần bạn nghĩ là “cho tôi” Bạn cũng không thể đọc Kinh Lạy Cha Nếu không cầu cho kẻ khác”.
Khi chúng ta xin lương thực hằng ngày chúng ta phải hiểu là “cho mọi người”. Bởi lẽ mọi người đều có mặt trong mỗi một và trong tất cả câu kinh. Từ chữ đầu cho đến chữ cuối, không một chữ nào mang chữ “tôi”.
Anthony de Mello, S.J.kể lại rằng:
Một Kitô hữu nọ đến thăm một vị thiền sư và nói với vị ấy rằng:
– Xin Ngài cho phép tôi đọc cho Ngài nghe bài giảng trên núi.
Vị thiền sư trả lời:
– Rất hân hạnh được nghe ngài.
Người Kitô hữu đọc được một câu. Vị thiền sư mỉm cười bảo:
– Người tuyên bố những lời này đúng là kẻ đã giác ngộ.
Thích thú, người Kitô hữu đọc tiếp. Vị thiền sư ngắt lời và nói:
– Lời này phải là của một Đấng cứu chuộc thiên hạ.
Ý thứ 3: Gioan Tẩy giả chính là kẻ Tiền Hô dọn đường cho Chúa.
Vâng! Gioan được kêu gọi “trong sa mạc”, nghĩa là trong một khung cảnh thinh lặng. Và ông cũng lại lên tiếng trong sa mạc.
“Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt. 3,3)
Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong sa mạc chứ không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, chợ búa, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay đang vui chơi tội lỗi? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới mong có kẻ quay đầu qui chánh, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ!
Lạ lùng thật! Gioan sống trong sa mạc và tiếng hô của ông cũng lại vang lên giữa vùng hoang vắng.
Không biết chốn trời không mông quạnh thế kia thì tiếng hô được mấy ai chú ý. Tiếng hô vang, vang lên mãi… Nhưng trong nơi trống vắng thì ai nghe cho!
Phải chăng Gioan đã hô lên cho chính mình ông nghe?
Quả đúng như vậy. Trước khi lời kêu gọi: “Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” đến được với mọi người thì trước tiên lời đó phải đến với chính Gioan trước.
Chính nhờ biết hô với chính mình trước hết nên Gioan đã có sức lôi kéo từng đoàn người từ khắp xứ Giuđê đến với ông, để nghe tiếng ông hô, và chịu làm theo lời ông răn dạy. Chính nhờ biết hô cho chính mình mà tiếng hô của Gioan đã vang đến tận khắp các vùng Giêrusalem, xâm nhập tới cõi lòng của bao kẻ sa đọa khô khan.
Không phải chỉ sau khi nghe tiếng hô của Gioan mới bắt đầu có người ăn năn hối cải, chịu thanh tẩy để dọn đường cho Chúa đến. Đúng hơn, từ hoang vắng của sa mạc và trong nơi tịch liêu của cõi lòng, Gioan đã nghe tiếng hô phát ra: “Hãy dọn đường cho Chúa đến”. Lời đó vang đi dội lại trong lòng ông, thúc bách ông nối dài tiếng hô bằng cách ra đi “dọn lòng người cho Chúa đến.”
Cho nên, Gioan chính là người đã dọn đường lòng mình trước nhất. Vì biết lắng nghe những điều mình hô, nên tiếng hô của mình mới có người đáp lại. Sự lắng nghe không chỉ bằng thính giác, nhưng còn bằng tâm hồn. Và từ tâm hồn mới phát sinh những thái độ sống. Một đứa trẻ “biết nghe” không nhất thiết phải là một đứa trẻ có thính giác tốt, nhưng là một đứa trẻ biết ghi tâm lời nói của bố mẹ, thầy cô, và mang ra thực hành.
Thomas Merton đã từng nhận xét:
“Nếu đời ta cứ phun ra những lời vô ích Chẳng bao giờ ta nghe được bất cứ điều gì, Chẳng bao giờ ta thấy bất cứ điều gì, Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ cái gì.
Thế rồi, Vì cứ nói mãi trước khi có cái gì để nói, Ta trở thành người không biết nói.”
Không biết nói hoặc nói điều vô ích mà cứ bắt người khác lắng nghe thì chỉ tạo nên những cực hình, phản kháng.
Nhiều gia đình bất an, nhiều cộng đoàn bất thuận, nhiều quốc gia bất hoà chỉ vì có kẻ không biết nói. Nguyên do là thiếu lắng nghe, sự lắng nghe của tâm hồn. Tâm hồn không nghe được vì còn ngổn ngang đây đó nhiều chướng ngại của tự ái, ích kỷ, kiêu căng, tự mãn… Nói tới đây tôi nhớ một câu chuyện. Câu chuyện có liên quan tới một nhân vật lịch sử rất quen thuộc với nhiều người. Đó là ông Gandhi.
Mahatma Gandhi là một vị lãnh tụ chính trị chủ trương bất bạo động, do vậy ông được mọi người dân An-Độ rất tin cậy quý mến trong mọi việc lớn nhỏ. Một hôm, có một bà mẹ dắt một bé gái đến, khẩn nài Gandhi thuyết phục con bà chừa bỏ tật xấu ăn quá nhiều kẹo. Gandhi trầm ngâm hồi lâu rồi bảo:
– Thế này nhé, tôi xin hẹn 3 tuần nữa bà đưa cháu bé trở lại đây, tôi sẽ nói chuyện với cháu…
Ba tuần sau, người mẹ đưa con trở lại. Lần này Gandhi gọi bé gái đến bên cạnh và ôn tồn giải thích cho em về những tai hại của thói quen ăn quá nhiều chất ngọt như kẹo bánh. Em bé gật đầu hiểu ra và hứa sẽ chừa bỏ. Bà mẹ mừng rỡ, rối rít cám ơn Gandhi, nhưng bà cũng không quên thắc mắc:
– Thưa ngài, sao ngài không bảo ngay cho cháu cũng những lời khuyên quý báu ấy cách đây 3 tuần?
Gandhi khiêm tốn thú nhận
– Cách đây 3 tuần ư? Lúc ấy chính tôi cũng còn đang mắc phải tật xấu ăn quá nhiều đồ ngọt…”
Gandhi đã ý thức thật rõ: mình còn có tật xấu thì làm sao mà chinh phục được người khác!
Lắm khi ta than thở: “Chúa không chịu nghe tiếng tôi”. Nhưng thử hỏi: “Chúa không nghe tiếng tôi hay vì tôi không nghe được tiếng Ngài? Rồi khi nghe được tiếng Chúa, liệu tôi có chấp nhận để tiếng ấy uốn nắn biến đổi đời mình không?”
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Thung lũng lấp đầy, núi đồi bạt thấp. Khúc quanh uốn thẳng, lồi lõm san bằng. Tin Mừng theo Thánh MV 2-C178
Thung lũng lấp đầy, núi đồi bạt thấp Khúc quanh uốn thẳng, lồi lõm san bằng
Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 3:4-5) cho biết như vậy, như lời kêu gọi của ngôn sứ Isaia từ ngàn xưa: “Hãy bước qua, hãy bước qua các cửa thành, hãy mở con đường cho dân, hãy dọn đường, hãy dọn đường, hãy nhặt cho hết đá. Hãy phất cờ ra hiệu cho các dân” (Is 62:10).
Các ngôn sứ là “tiếng loa” kêu gọi theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Như ở Việt Nam ngày xưa, mỗi khi làng xã có điều gì cần thông báo thì có “mõ làng” đi khắp nơi để thông báo. Thời nay, xã hội văn minh hơn, người ta gọi là văn hóa thông tin, và phương tiện thông báo cũng tiện lợi và mau hơn nhiều. Các trang thông tin nhan nhản như sao sa – đặc biệt là Facebook, Twitter, Pinterest, Linkedin, Mix, Tumblr, Instagram,… Nếu không khôn khéo, người ta dễ bị “bội thực thông tin”, và còn dễ bị lừa vì những tin rác, thậm chí có những trang có vẻ đạo đức nhưng thực ra chỉ là chiêu lừa đảo mà thôi. Hơn bao giờ hết, câu “cẩn tắc vô ưu” thật là đúng và cần thiết – trước tiên là tự bảo vệ chính mình và không sa chước cám dỗ.
Ngày xưa, vào lúc “giao thời”, giai đoạn quá độ – chuyển tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa trao cho công việc “mõ làng” để kêu gọi người ta canh tân và chờ đón Đấng Thiên Sai. Ông có nickname là “Tiếng Kêu Trong Hoang Địa”. Lạ thật, tiếng kêu trong hoang địa thì hiệu quả gì chứ? Đó là dạng tiếng-vang-thầm-lặng. Vang mà thầm lặng ư? Đúng vậy. Và tiếng kêu đó đã và đang vang đến tận cùng trái đất.
Mỗi ngôn sứ có một sứ vụ riêng theo từng giai đoạn. Ngôn sứ Ba-rúc kêu gọi: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa; và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng. Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi” (Br 5:1-3). Được cởi bỏ “áo tang khổ nhục” thì hẳn là mừng vui khôn tả. Mà không chỉ có vậy, chúng ta còn được khoác “áo choàng công chính”. Đúng là trên cả tuyệt vời!
Chiếc “áo choàng công chính” đó được chính Thiên Chúa trao ban, và chúng ta còn được Người gọi tên là “Bình An Xây Dựng Trên Công Chính” và “Vinh Quang Phát Xuất Từ Lòng Kính Sợ Thiên Chúa” (Br 5:4). Cái tên “lạ” lắm, nhưng có ý nghĩa sâu sắc và thật là độc đáo.
Và như để giải thích, ngôn sứ Ba-rúc tiếp tục kêu gọi một hơi dài: “Vùng lên, Giêrusalem hỡi, hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông: Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy. Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui. Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng. Vì Thiên Chúa đã ra lệnh PHẢI BẠT THẤP núi cao và gò nổng CÓ TỰ LÂU ĐỜI, PHẢI LẤP ĐẦY thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa” (Br 5:5-7). Mệnh lệnh cách “phải” rất mạnh mẽ, đặc biệt là đối với những thứ “có tự lâu đời” – những thói hư tật xấu “thâm căn cố đế” không dễ đánh bật gốc, nhưng PHẢI làm. Thánh Gioan Tẩy Giả cũng có ý tương tự: Bạt thấp các núi, gò, và lấp đầy thung lũng.
Và theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, “rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người” (Br 5:8-9). Có Thiên Chúa cứu thoát, kiếp-người-khốn-khổ trở nên hạnh phúc, một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục biết bao!
Có những thứ giả mà như thật, có những thứ thật mà như giả. Điều Thiên Chúa hứa luôn là sự thật 100%, bởi vì niềm vui sướng tột cùng khiến con người cứ ngỡ như mơ, chưa dám tin vào thực tế, nhưng hoàn toàn là sự thật: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ” (Tv 126:1). Tuy tưởng mình mơ, nhưng vẫn “vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126:2a), đến nỗi dân ngoại còn phải xì xầm bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2b). Ai cũng biết, chẳng riêng gì ai.
Vâng, không lạ sao được, không ngạc nhiên sao được, phàm ngữ chẳng đủ lời để mà diễn tả về kỳ công của Thiên Chúa, bởi vì quá vĩ đại và quá sức tưởng tượng của con người. Rồi người ta cũng chỉ biết cười và xác định: “Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3). Thấy người ta hạnh phúc quá đỗi nên chúng ta cũng khao khát mà cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam” (Tv 126:4). Quả thật, “ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126:5), nghĩa là: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:6). Đúng vậy, hạnh phúc nào cũng có ít nhiều đau khổ và nước mắt, đau khổ càng lớn thì niềm vui càng dâng trào.
Vốn dĩ cuộc đời là thế. Trong mọi thứ xảy ra hằng ngày, điều gì hợp ý mình thì bảo là “hên”, điều gì trái ý mình thì cho là “xui”. Kỳ cục ghê đi! Mà thật ra chẳng có “hên xui” hoặc “may rủi” chi cả, bởi vì không có gì ngoài Thánh Ý Chúa. Chính đau khổ lại là “viên ngọc quý” mà các thánh đã luôn trân trọng từng ngày khi còn sinh thời. Hạnh phúc mà không có nước mắt thì hạnh phúc đó chưa thực sự trọn vẹn niềm vui. Đau khổ cũng là những tiếng-động-tĩnh trong mỗi con người chúng ta. Vâng, tiếng động đó rất tĩnh lặng mà không ai lại không cảm nhận được. Cuộc đời luôn có nhiều cái lạ mà chúng ta không thể giải thích theo lẽ thường.
Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày Chúa Giêsu đến lần thứ hai, Thánh Phaolô bày tỏ: “Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. Tôi tin chắc rằng Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (Pl 1:4-6). Thánh nhân ân cần nhắc nhớ việc mong chờ Chúa quang lâm là chính, chứ đừng mọi người chờ bất cứ điều gì khác rồi đâm ra bối rối, hoang mang, sợ hãi. Thật chứ không đùa đâu đấy!
Thật vậy, Thánh Phaolô minh định: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm” (Pl 1:8-10). Vấn đề là như thế, cần hiểu đúng đắn và chính xác, đừng mơ hồ hoặc nhẹ dạ cả tin, bởi vì không khéo lại hóa mê tín dị đoan, tốt lành chẳng thấy mà chỉ thấy tác hại!
Cuối cùng, Thánh Phaolô xác định: “Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là SỐNG MỘT ĐỜI CÔNG CHÍNH nhờ Đức Giêsu Kitô, để TÔN VINH và NGỢI KHEN Thiên Chúa” (Pl 1:8-11). Đây cũng là “điểm” đáng quan ngại, bởi vì con người có máu háo danh, làm được gì là cứ tưởng mình “số dzách”, nhìn người bằng nửa con mắt, và thậm chí còn dám coi trời bằng… nắp bia.
Trình thuật Lc 3:1-6 cho biết: Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3:4-5). Một đoạn sử ngắn gọn nhưng súc tích, nhưng chủ yếu là câu 4 và câu 5. Vấn đề cấp bách là chấn chỉnh nếp nghĩ và lối sống để có thể “thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Thời quân chủ, khi biết tin hoàng đế hoặc vua quan đi tới đâu thì dân chúng phải quỳ mọp xuống mà rước “thiên tử” đi qua; khi một vị nguyên thủ quốc gia đến, người ta sửa soạn nhiều ngày trước, an ninh được kiểm soát nghiêm ngặt; khi một đại sứ tới một nơi nào đó thì cũng thế; khi giáo hoàng kinh lý hoặc tông du một nơi nào đó cũng được người ta nghinh đón long trọng, một giám mục tới một giáo xứ hoặc một tu viện nào thì cũng được đón tiếp tương tự; thậm chí chỉ là một nghệ sĩ nổi tiếng đi tới đâu cũng được người hâm mộ chờ chực để chỉ mong được nhìn dung mạo “thần tượng”. Thần tượng hay tượng thần mà lại tưởng thần?
Thế nhưng, mặc dù là Vua các vua và Chúa các chúa, mệnh danh là Đấng Thiên Sai, vậy mà Chúa Giêsu chẳng được ai chú ý chứ đừng nói là có tiền hô hậu ủng. Ngài đến mà không ai hay biết, Ngài là Tiếng Động cực mạnh thế mà cũng chẳng khác hơn sự Tĩnh Lặng. Thậm chí có ngôn sứ Gioan Tẩy Giả hô hào và kêu gọi mà cũng chẳng mấy người quan tâm lưu ý, đúng như Thánh sử Gioan đã nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11).
Đúng như vậy, mỗi khi rước lễ là chúng ta đón tiếp một Quân Vương Tối Thượng, Vua Vũ Trụ, Thiên Tử đích thực, thế mà nhiều lần chúng ta vẫn không chuẩn bị tâm hồn cho đúng mức, vẫn rước lễ cho chiếu lệ, như một thói quen, thậm chí còn rước lễ vì… sĩ diện, xong rồi thôi. Chắc chắn Chúa Giêsu buồn lắm, nhưng Ngài không hề nói gì vì Ngài luôn tôn trọng quyền tự do mà Ngài đã ban cho mỗi chúng ta.
Đối với Thiên Chúa mà chúng ta còn tệ như thế, đối với tha nhân thì chúng ta còn tệ hơn nhiều. Phàm nhân yếu đuối lắm, thế nên cứ bạt mãi mà mảnh-đất-tâm-hồn vẫn gồ ghề, lởm chởm, đầy ổ gà và ổ voi, san mãi vẫn chưa phẳng phiu, và con-đường-tâm-hồn vẫn cứ quanh co, chưa uốn cho ngay thẳng. Thiên Chúa cũng biết rõ mười mươi như vậy, nhưng vấn đề không phải là khó quá, làm không được thì thôi, mà Ngài muốn thấy chúng ta có thực sự thành tâm nỗ lực bạt cho bằng cái núi “cái tôi”, san lấp cái hố chia rẽ, uốn thẳng con đường lươn lẹo hay không.
Có những người rất rành bịa chuyện, giỏi dựng đứng câu chuyện hoặc ăn không nói có, vì muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, trong khi đó còn gây tổn thương cho người khác. Rất đáng quan ngại, và phải sửa ngay!
Có những cái lạ nên học hỏi vì quá hay, có những cái lạ phải cố tránh vì quá dở. Tương tự, có những người có cách sống kỳ lạ rất đáng khâm phục vì kỳ diệu, nhưng có những người có lối sống kỳ lạ chớ noi theo vì kỳ cục!
Lạy Thiên Chúa, xin ban Đấng Thiên Sai đến bạt “cái tôi” trong con và uốn cách nghĩ của con cho thẳng thắn. Chắc chắn thiếu Ngài thì con không thể làm được gì (Ga 15:5), vì Ngài là tất cả. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai và Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tin Mừng Chúa Nhật này tập trung giới thiệu dung mạo của Gioan Tẩy Giả. Ngay từ giây phút MV 2-C179
Tin Mừng Chúa Nhật này tập trung giới thiệu dung mạo của Gioan Tẩy Giả. Ngay từ giây phút sinh ra, Gioan Tẩy Giả được cha mình chào đón như một ngôn sứ: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76). Với tư cách là một người mở đường, Gioan Tẩy Giả đã làm gì để được coi là một ngôn sứ và là “một người cao cả nhất trong các ngôn sứ” (Lc 7,28)?
1- Gioan Tẩy Giả, người mở đường
Trước hết, kế tục con đường các ngôn sứ Israel, ông đã lớn tiếng chống lại những áp bức và bất công xã hội. Gioan Tẩy Giả xuất hiện như là tiếng kêu trong hoang địa để thức tỉnh lương tâm con người. Trong Tin Mừng, chúng ta nghe ông nói với dân chúng: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng phải làm như vậy” (Lc 3,11).
Đối với những người thu thuế đã thường lạm quyền và tham nhũng tiền của người nghèo một cách bất công, họ cũng đến hỏi ngài rằng: “Chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Lc 3,11-14).
Ông đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa, tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Lc 3,4-6).
2- Ngôn sứ ngày nay
Ngày hôm nay, chúng ta có thể diễn tả lại những lời đó như thế này: “Mọi sự khác biệt, bất công xã hội giữa người giàu (núi đồi) và người nghèo (thung lũng) phải được xóa bỏ hoặc ít ra phải được giảm bớt; những con đường cong queo của tham nhũng, dối trá và tội ác phá hoại môi trường, của công… phải đưa ra ánh sáng, được xét xử nghiêm minh và mọi sai trái, giả dối phải được uốn nắn cho ngay thẳng v.v…
Theo cái nhìn này, chúng ta dễ dàng để có sự hiểu biết đúng đắn về một ngôn sứ: đó là một người thúc đẩy sự thay đổi, người lên án những bất công của các hệ thống và tổ chức xã hội; là người chỉ ngón tay mình chống lại những lạm dụng của quyền lực trong mọi hình thức của nó như quyền lực tôn giáo, chính trị, kinh tế, quân sự và là người dám tuyên bố trước mặt bạo chúa rằng: “Ngài không được phép làm như thế” (x. Mt 14,4).
Khi phân định về ngôn sứ thật và ngôn sứ giả thời nay, Thomas Merton, một bậc thầy tu đức nổi tiếng ở Mỹ, cho rằng: ngôn sứ giả là người rao giảng về mình, kéo người khác đến với mình và chạy theo thị hiếu của đám đông. Ông làm ngôn sứ để được giàu có và nổi tiếng, thích đưa ra một câu trả lời hoặc một hướng đi dễ dàng. Còn ngôn sứ thật là người rao giảng sự thật và hướng người khác tới chân lý, chấp nhận chịu đau khổ vì ơn gọi ngôn sứ, ông nói cho chúng ta biết chúng ta là ai, và thách thức chúng ta hơn là làm cho chúng ta cảm thấy hài lòng với chính mình.
3- Bài học từ Gioan Tẩy Giả
Nhưng ở đây có điều gì đó hơn thế mà Gioan Tẩy Giả đã làm: ông nói cho dân chúng biết rằng: “Người (Chúa) sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên” (Lc 1,77). Chúng ta phải tự hỏi: đâu là tính chất ngôn sứ trong trường hợp này? Quả thế, các ngôn sứ đã loan báo ơn cứu độ trong tương lai; nhưng Gioan Tẩy Giả không loan báo ơn cứu độ trong tương lai; ông chỉ cho thấy ơn cứu độ lúc này và tại đây, trong hiện tại. Ông là người chỉ ngón tay mình về phía một Người và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29); Đây là Đấng được trông chờ từ bao thế kỷ, là Đấng Messia! Chúng ta hãy hình dung lời chứng này đã thật sự gây một sự chấn động khủng khiếp đối với những người nghe Gioan nói như thế!
Các ngôn sứ truyền thống đã giúp những người đương thời của họ biết “nhìn vượt lên” bức tường của thời gian để nhìn thấy tương lai, nhưng Gioan giúp dân chúng biết “nhìn xuyên qua” bức tường của dáng vẻ bên ngoài rất bình thường và trái ngược, để thấy Đấng Messia ẩn dấu bên trong dáng vẻ của một con người giống như mọi người. Như thế, theo cách này, Gioan Tẩy Giả đã khai mở một hình thức mới mẻ của ngôn sứ cho Kitô giáo, nó không cốt ở việc loan báo ơn cứu độ trong tương lai, trong “thời sau hết,” nhưng mạc khải sự hiện diện ẩn dấu của Đấng Kitô trong thế giới. Đây chính là điều làm nên sự vĩ đại của Gioan Tẩy Giả.
Tất cả những điều này muốn nói gì với chúng ta hôm nay? Trước hết, sứ vụ ngôn sứ của Gioan nhắc chúng ta nhớ lại sứ vụ ngôn sứ của mỗi người Kitô hữu mà hôm nay đang có nguy cơ bị lãng quên hoặc bị lệch đường. Chúng ta cũng phải giữ cả hai phương diện gắn liền nhau của sứ vụ ngôn sứ: một đàng, ngôn sứ là người vì công lý xã hội và đàng khác, ngôn sứ là người loan báo Tin Mừng. Nếu việc loan báo về Chúa Kitô mà không được gắn liền với một sự cố gắng hướng tới sự cải thiện con người có lẽ nó sẽ mang lại điều gì đó không thiết thực và thiếu sự khả tín.
Nếu chúng ta chỉ thi hành sứ vụ ngôn sứ vì công lý mà không loan báo Đức Tin và không có sự gặp gỡ sống động với Lời Chúa, chúng ta sẽ sớm gặp những giới hạn của mình và kết thúc chỉ như những người chống đối.
Từ dung mạo Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng học biết rằng việc loan báo Tin Mừng và đấu tranh cho công lý cần phải gắn liền và liên kết với nhau. Sống trong xã hội mà gian dối và lừa lọc lên ngôi, thật đáng quý trọng nếu mỗi người chúng ta được Tin Mừng Chúa Giêsu thúc đẩy để đấu tranh cho sự tôn trọng nhân vị và phẩm giá của con người; lên tiếng chống lại những bất công xã hội. Nhờ sự tranh đấu này mà nhân quyền được tôn trọng, môi trường sống được an toàn và mỗi người trong xã hội có thể “nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” Chúng ta cũng phải noi gương Gioan Tẩy Giả đã không rao giảng và chống lại những lạm dụng như một người gây rối xã hội nhưng như một sứ giả của Tin Mừng “để làm cho tâm tư người ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17).
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả, can đảm thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình như là một cách thế làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hôm nay. Amen!
“Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,6)
Hết mọi người phàm”, nghĩa là bất cứ người nào sống trên trần gian này, không chỉ những tín hữu MV 2-C180
“Hết mọi người phàm”, nghĩa là bất cứ người nào sống trên trần gian này, không chỉ những tín hữu Ki-tô mà thôi. Ơn cứu độ của Thiên Chúa là cho hết thảy mọi người. Nhưng làm thế nào để ta có thể nhận thấy ơn cứu độ của Chúa; có thể lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa mới là quan trọng. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của các TÔN GIÁO. Nơi các Tôn Giáo, sẽ chỉ cho con người biết, phải làm thế nào để người ta có thể lãnh nhận được ơn cứu độ.
Trên thế giới ngày nay, có rất nhiều TÔN GIÁO. Có Tôn Giáo do Thiên Chúa; có Tôn Giáo do con người. Tôn Giáo do con người, tức là do con người lập ra, theo “Linh Hứng” họ nhận được. Điều này rất dễ nhận ra, khi mọi điều họ nói, họ dạy, cho dù họ nói là do THẦN LINH nói đi nữa, thực tế là do ý của họ và mang màu sắc người phàm nhiều hơn. Tức là theo kiểu của con người; rồi họ “thần thiêng hóa” nó đi.
Có Tôn Giáo do Thiên Chúa thiết lập, không do ý của người phàm mà do ý của Thiên Chúa. Vì do ý của Thiên Chúa nên sẽ không giống như kiểu của con người và thường những gì được dạy là khó chứ không dễ. Dù khó, nhưng chắc chắn, khi thực hành ta sẽ lãnh nhận được ơn cứu độ. Còn hơn, dễ dãi theo kiểu con người mà cuối cùng “Sôi hỏng, bỏng không”, “Mất cả chì lần chài”, không lãnh nhận được ơn cứu độ đích thực.
Như thế, con người phải sáng suốt để tìm cho mình một Tôn Giáo, khả dĩ hướng dẫn cho mình làm thế nào để nhận biết và lãnh nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Quả thật, các Tôn Giáo, chỉ là phương tiện giúp cho con người nhận thấy và lãnh nhận ơn của độ của Thiên Chúa. Đương nhiên không phải Tôn Giáo nào cũng như Tôn Giáo nào; mỗi Tôn Giáo điều có những giáo lý và cách dạy riêng.
Trong Đạo Công Giáo, chúng ta thấy, những điều Đức Giê-su giảng dạy; cũng như những điều Giáo Hội hướng dẫn, không theo kiểu của người phàm, nhưng hoàn toàn theo ý, theo kiểu của Thiên Chúa, nên ta vâng theo, dù có hơi khó nhưng chắc chắn cho ta nhận biết và lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Lời Chúa trong Chúa Nhật II Mùa Vọng, sẽ chỉ cho ta cách làm thế nào, ta có thể nhận biết và lãnh nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đó là: “Mọi thung lũng, hãy lấp cho đầy; mọi núi đồi, phải bạt cho thấp; khúc quanh co, phải uốn thật ngay; Đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (x. Lc 3,5). Như thế, có 4 việc phải làm.
Mọi thung lũng, hãy lấp cho đầy. Thung lũng đây là hình ảnh của sự tự ti, mặc cảm. Cảm thấy mình là phàm nhân yếu nhược, thấp hèn, tội lỗi; không nhận biết cũng không lãnh nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Từ đó đâm ra thất vọng, nản lòng, nản chí. Ngay cả của cải, danh vọng, tiền tài ở đời này cũng không bù lấp được. Đó là thái độ bi quan, thất vọng về bản thân cũng như không tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa.
Quả thật, “thung lũng” này không có gì có thể lấp đầy, nếu ta không học hỏi cho biết sự giới hạn của con người, cũng như chấp nhận sự yếu đuối và tội lỗi của mình. Đồng thời phải trông cậy vào tình thương và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ riêng sức của ta, ta không làm được, nhưng có ơn Chúa, có Thiên Chúa cùng làm với, ta sẽ cố gắng, sẽ hy vọng; dù có thất bại, dù có theo Chúa bao năm, mà ta vẫn chưa nên tốt lành, chưa nên thánh thiện đi nữa. Ta hãy cố gắng và tiếp tục phấn đấu. Đó coi như một lý do Chúa còn để ta sống trên cõi đời này.
Vậy ta hãy lấp cho đầy cái “thung lũng tự ti, mặc cảm” này, bằng cách chấp nhận sự yếu đuối và giới hạn của mình; đồng thời tin tưởng vào tình thương và ân sủng của Thiên Chúa. Hãy biến “Thung lũng” này thành “thung lũng tình yêu”. Hãy yêu mình; yêu con người của mình; yêu giới tính của mình; yêu những gì mình đang có, đang là; yêu ơn gọi được làm người của mình; yêu người mình yêu; yêu người yêu mình; yêu Chúa; yêu đời. Thế có phải là vui sướng và hạnh phúc không !!! Đó chẳng phải là ƠN CỨU ĐỘ của Thiên Chúa sao. Ta đã thấy tận mắt; đã nhận bằng tay; đã cảm bằng trái tim còn gì.
Mọi núi đồi, phải bạt cho thấp. Đối lập với thung lũng là núi đồi. Núi đồi đây là thái độ kiêu căng, ngạo mạn của ta. Ta tự cao, tự đại; ta tưởng mình tài giỏi; ta làm được mọi sự mà không cần đến Chúa; không cần cầu nguyện. Phải bạt cho thấp, nghĩa là ta phải tự khiêm, tự hạ trước Thiên Chúa và người khác; dù ta có làm được gì đi nữa.
Ta hãy tự nghĩ mà xem: bây giờ ta còn trẻ, còn khỏe mạnh, ấy thế mà chỉ một cơn gió thoảng qua; một sự thay đổi thời tiết bình thường thôi cũng làm cho ta nói không ra tiếng; tay chân rã rời, không muốn làm gì; cũng không muốn ăn gì. Con người của ta là thế đấy, nay thế này, mai thế khác, không biết đâu mà lường. Rồi có hay hơn ai; có giỏi bằng người nào đâu; có làm được được một chút; có biết được một chút chứ có siêu quần, bạt chúng đâu.
Lại nữa ta có làm được gì, có biết được chi cũng nhờ ơn Chúa; cũng nhờ người khác giúp cho mới có, chứ đâu tự ta, ta được như vậy đâu. Nghĩ đến đó, ta mới có thể tự hạ mình trước mặt Chúa để thờ lạy và tạ ơn; ta mới có thể tự khiêm trước mặt người khác để được yêu thương và quí trọng.
Khúc quanh co, phải uốn thật ngay. Khúc quanh co đây là ý nghĩ quanh co, lươn lẹo; lối sống dối trá, giả hình của ta. Lúc nào cũng “rào trước, đón sau”; “nói một đàng làm một nẻo”; “Ngoài miệng thì nam mô, trong bụng thì một bồ dao găm”; mập mờ, không ngay thẳng. Có nói không; không lại nói có; làm cho người khác không biết đâu mà lần. Cố ý để lừa gạt người khác. Lừa gạt được người khác thì hí hửng lắm, nhưng tâm hồn đâu có bình an.
Không chỉ quanh co mà còn khúc khuỷu nữa. Khúc khuỷu là gập ghềnh khó đi, khó qua. Nơi con người là sự bí hiểm, thâm độc; “ngậm máu phun người”; “ném đá giấu tay”; làm chứng dối, thề gian; phán đoán hồ đồ; nói hành, nói xấu, vu khống.
“Công khai nói nghịch với sự thật là một lỗi nặng. Trước tòa án, (trước người khác) lời nói như thế là làm chứng dối. Khi nói dối như thế mà còn thề nữa thì gọi là thề gian” (x. GLCG, số 2467).
“Phán đoán hồ đồ, nghĩa là không có cơ sở mà minh nhiên hay mặc nhiên cho rằng người đó có lỗi”, (người đó làm điều sai quấy).
“Nói xấu nghĩa là không có lý do khác quan chính đáng mà lại tiết lộ những tật xấu và những lỗi lầm của kẻ khác cho những người chưa biết”.
“Vu khống tức là dùng những lời ngược với sự thật mà làm hại thanh danh kẻ khác và tạo cớ cho người ta phán đoán sai lầm về người đó”.
Do đó, để tôn trọng thanh danh của người khác, ta không được vu khống, nói xấu và phán đoán hồ đồ (x. GLCG, số 2477). Để tránh phán đoán hồ đồ, ta phải cố gắng cắt nghĩa tốt ý nghĩ, lời nói và việc làm của tha nhân (x. GLCG, số 2478) và nói xấu và vu không người khác là phạm đến công bình và bác ái đó (x. GLCG, số 2479).
Làm như thế là ta uốn thật ngay lương tâm lươn lẹo của mình; uốn ngay những thái độ xấu xa của mình; cũng như uốn ngay những ý nghĩ thâm độc của mình. Khi lương tâm ngay thẳng; khi ý nghĩ của ta tốt lành; khi thái độ của ta thánh thiện, thì ta sẽ cảm thấy một niềm hạnh phúc trào dâng; tâm hồn ta thanh thản. Đó chẳng phải là ơn cứu độ của Thiên Chúa hay sao !!!!!
Đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Lồi lõm là chỗ cao chỗ thấp; ổ gà, ổ voi. Đó là hình ảnh của người “lúc nóng, lúc lạnh”; “lúc nắng, lúc mưa”; lúc thế này, lúc thế khác, không nhất quán. Người đó bị cuốn theo chiều gió; bị cuốn theo thời đại, theo mốt, dễ bị lung lạc; thiếu sự kiên định; thiếu lòng tin; thích nịnh bợ; thích tâng bốc; hối lộ, luồn cúi.
Phải san cho bằng phẳng bằng cách phải học hỏi, phải biết rút kinh nghiệm trong cuộc sống. Thấy cái gì hay, cái gì tốt thì học lấy và thực hành trong cuộc sống mình. Chắc ăn nhất là nghe và thực hành Lời Chúa, chứ đừng ham nghe lời của người đời.
Nếu ta thực hiện 4 việc trên đây, thì “Thiên Chúa sẽ dẫn ta đi trong hoan lạc; dưới ánh sáng vinh quang của Chúa cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người”(x. Br 5,9); “lòng mến của ta ngày thêm dồi dào, khiến ta được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên; để nhận ra cái gì tốt hơn và ta sẽ được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách” (x. Pl 1, 8-10). Nói tóm là ta “sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” đấy.
Có là thung lũng thì hãy là “Thung lũng tình yêu”; có là núi đồi thì hãy là “đồi thông hai mộ”; có uốn khúc quanh co thì hãy là “bức tranh thủy mặc”; có lồi lõm thì hãy như “người nam và người nữ” ấy, chấp nhận giới tính của mình, tất cả tạo nên một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Ta sẽ nhận thấy và lãnh nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Thánh Gio-an Tiền Hô là người được ngôn sứ Isaia nhắc đến trong lời sấm: “Có tiếng người hô MV 2-C181
trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.” (Lc 3, 4-5). Ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ, Gio-an đã được gọi làm Tiền Hô cho Đấng Mê-si-a. Sự kiện sứ thần loan báo việc ông sinh ra đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên: Dacaria cha của Gioan đã bị câm vì không tin lời của sứ thần Thiên Chúa. “Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đa.” (Lc 1, 65).
Bài Tin Mừng hôm nay (CN II/MV -C) trình thuật về “Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng” (Lc 3, 1-6). Nếu đem so sánh với 3 tác giả Mat-thêu, Mac-cô và Gio-an trong cùng đề tài (Mt 3, 1-12; Mc 1, 2-6; Ga 1, 19 -28), sẽ thấy thánh Lu-ca đã trình bày rất trang trọng giai đoạn khai mạc cuộc đời hoạt động của thánh Gio-an Tẩy Giả. Như một nhà viết sử, Thánh Lu-ca đã đặt các biến cố vào một bối cảnh lịch sử có các niên hiệu chắc chắn, để trình thuật sự kiện một cách khoa học, có đầu có đuôi đàng hoàng. Nhưng vì sao khi kể việc Ðức Giê-su bắt đầu rao giảng, thánh nhân lại không viết một cách trang trọng như vậy? Thực ra, trong những chương đầu của sách Tin Mừng mang tên ngài, thánh Lu-ca đã trình thuật những chuyện về thánh Gio-an Tiền Hô chen lẫn với những chuyện về Ðức Giê-su. Ngài viết về thánh Gio-an như dàn một tiền cảnh, tạo một hình nền, cốt ý để làm nổi bật nhân vật trọng tâm là Ðức Giê-su Ki-tô.
Vì thế, đoạn văn “Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng” đã trở nên như một tiền đề dẫn đưa độc giả vào những câu chuyện về Ðức Giê-su. Ấy cũng bởi vì thánh Gio-an chỉ là người đi trước báo cho mọi người (tiền hô) biết Đấng Cứu Độ đã tới, đúng như lời thánh nhân tự nhận: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23). Không những thế, sứ giả Tiền Hô còn khiêm nhường khẳng định mình không đáng cởi quai dép cho Đấng mà thánh nhân muốn giới thiệu: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.” (Lc 3, 16)
Như vậy, trước khi giới thiệu con người và sứ vụ của thánh Gio-an Tiền hô cũng như của Chúa Giê-su, thánh sử Lu-ca đã không quên nói đến một bối cảnh lịch sử để giúp độc giả nhận ra tính cách phổ quát của ơn cứu độ, đó là: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 6). Sứ điệp về ơn cứu độ phổ quát ấy phải là cốt lõi trong lời rao giảng của thánh Gio-an Tiền Hô. Đồng thời, kèm theo lời rao giảng trọng đại này, thánh nhân còn muốn có một nghi thức dễ khiến cho người ta cảm động và nghiêm túc tiếp nhận Tin Mừng cứu độ. Đó là nghi thức làm phép rửa được thánh nhân thực hiện với mục đích giúp mọi người “tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”.
Ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người có tính cách phổ quát, nên ai cũng có khả năng thấy được; nhưng có tiếp nhận được ơn cứu độ ấy hay không lại là chuyện khác, cần phải có sự nỗ lực đáp trả của mỗi người. Sự đáp trả đó chính là đức tin (“Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” – Thánh Au-gus-ti-nô). Nói cách khác, đó chính là sự cộng tác của tín hữu, vì “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” (thánh Au-gus-ti-nô). Bởi thế, đối với thánh Gio-an, muốn kêu gọi người ta chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn cứu độ, không gì tốt hơn là mượn lời ngôn sứ Isaia để kêu gọi mọi người: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Lc 3, 4).
Đường lối là hình ảnh cụ thể nhất để diễn tả một chuyển động, có điểm đi điểm tới. Muốn cho sự chuyển động được thông thoáng thì mọi ngăn cản, vướng mắc cần phải được dẹp bỏ. Hình ảnh con đường với những thung lũng trùng điệp, đồi núi gập ghềnh, đường lối quanh co, mặt đường lồi lõm, thật là thích hợp giúp mọi người hiểu thế nào là một tâm hồn có những vướng mắc, trở ngại khiến cho việc đón tiếp Chúa thật khó khăn. Vì thế, cần phải biết dọn đường sửa lối tâm linh chờ đón Chúa đến. Đó là hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào lòng mình, lấp cho đầy những thung lũng tị hiềm, bạt cho thấp mọi núi đồi kiêu căng, uốn cho ngay khúc quanh co hiểm ác, san cho phẳng những lồi lõm bất minh; tắt một lời, hãy sửa lối đi tâm hồn cho ngay thẳng, công chính (“chịu phép rửa tỏ lòng sám hối”), ngõ hầu được hưởng ơn tha tội. Có như vậy mới xứng đáng với danh hiệu Ki-tô hữu, để theo chân thánh Gio-an Tiền Hô mà gióng lên “tiếng hô trong hoang địa”, tiếng hô trong sa mạc cuộc đời.
Nói và diễn cho hết ý thì dài dòng văn tự, nhưng rút gọn lại chỉ cần nhấn mạnh điều mà Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II trong suốt triều đại của ngài, đã đề ra và kêu mời tín hữu thực hiện, đó là “canh tân và sám hối”. Để thực sự dọn dẹp con đường tâm linh cho ngay thẳng đón Cứu Chúa, thì cần phải dốc lòng ăn năn hối cải về những sai phạm thiếu sót của bản thân. Không những thế, còn cần phải đổi mới cả phương cách dọn dep, tẩy uế nữa. Chỉ có như thế mời thật sự đổi mới được con người của mình. Nói khác hơn, muốn đổi mới, cần phải biết nhìn lại mình mà sám hối và đổi mới luôn cả tư duy và hành động sám hối. Sám hối không phải là ngoẹo đầu méo miệng, đấm ngực thật mạnh, day tay vào mắt cho đỏ lên và chảy nước mắt ra; sám hối cũng không phải là hô khẩu hiệu, kêu gọi người khác ăn năn khóc lóc; mà phải là toàn tâm toàn ý đối diện với con người thật của mình, bóc trần mình ra trước thánh nhan Chúa, để cầu xin được thứ tha mọi lỗi lầm thiếu sót, đồng thời cầu nguyện cho mình có đủ dũng khí và kiên tâm như một Gio-an Tẩy Giả đã sám hối trong sa mạc, rồi làm phép rửa và kêu gọi mọi người sám hối.
Sẽ có thật nhiều câu hỏi được đặt ra: “Anh có thực sự tin rằng Đấng Cứu Thế đã đến, đang đến và sẽ đến với anh, với cả nhân loại không? Với những hiện tượng thiên nhiên và nhân sinh như hiện nay, anh có tin rằng Nước Chúa đã đến gần không? Anh có tin rằng “những sợi tóc trên đầu anh đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30), hay nói khác hơn, anh có tin rằng Chúa thấu suốt mọi điều tới tận chân tơ kẽ tóc con người của anh không? Nếu anh tin, thì đừng quanh co che giấu nữa, mà hãy sám hối, sám hối và canh tân cuộc đời của anh để chờ đón ngày Chúa quang lâm. Cụ thể nhất, nếu anh thực lòng tin, thì đừng chần chờ nữa, mà hãy hành động, bởi “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17).
Vâng, xin hãy tỉnh thức và sẵn sàng hành động dọn đường sửa lối chờ đón Chúa quang lâm. Nào, “Hãy dọn đường Chúa đi! Hãy dọn đường Chúa đi! Đồi cao hãy san bằng. Hố sâu bạt cho phẳng. Vì này đây Chúa đến, Chúa đến. Đường quanh co uốn cho ngay. Nơi gồ ghề lấp cho đầy. Vì này đây Chúa đến, đến gần. ĐK: Mừng vui lên anh em, vì Chúa sắp đến rồi. Người sắp đến rồi, Hồng ân cho muôn nơi. Mừng vui lên anh em, Chúa cứu độ đang tới. Chúa sắp đến rồi, ngày hạnh phúc tuyệt vời.” (“Hãy Dọn Đường” – Mi Trầm – TCCĐ).
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng ái tuất, xin đừng để chúng con mải mê thế sự, chẳng còn hăm hở đi đón mừng Con Chúa, nhưng xin dạy chúng con biết ham thích những sự trên trời, hầu được cùng Người vui hưởng phúc trường sinh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN II/MV )
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng chuẩn bị cho người tín hữu tâm tình chờ đón Chúa MV 2-C182
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng chuẩn bị cho người tín hữu tâm tình chờ đón Chúa đến. Giáo Hội mời gọi người Ki-tô hữu tìm lại ý nghĩa của việc Chúa đến qua những bản văn Kinh Thánh.
Br 5: 1-9
Bài Đọc I, trích từ một bản văn rất muộn thời, mô phỏng lại những đề tài về cảnh giam cầm tại Ba-by-lon và cuộc hồi hương trở về. Thiên Chúa sẽ đích thân đến cứu dân Người và dọn sẵn một con đường để dẫn họ trở về thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Pl 1: 4-11
Bài Đọc II được trích từ thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh Phao-lô kêu mời người Ki-tô hữu hãy thăng tiến trên con đường thánh thiện và mở rộng lòng mình trước ân sủng để sống trong tâm thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Ki-tô trở lại.
Lc 3: 1-6
Tin Mừng tường thuật bước khởi đầu sứ vụ của thánh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền Hô khuyên bảo mọi người hãy sống trong tâm thế sẵn sàng đón chào Đức Ki-tô sắp ngự đến.
BÀI ĐỌC I (Br 5: 1-9)
Ông Ba-rúc là “bạn tâm giao” và là “thư ký” của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, nhưng không là tác giả của sách mang tên ông. Sách Ba-rúc này được viết rất muộn thời, chắc chắn từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Sách này thật sự là một tuyển tập: những phần khác nhau của sách không do cùng một tác giả và cũng không thuộc cùng niên biểu.
Bối cảnh
Dù thế nào, sách Ba-rúc đưa chúng ta trở về thời kỳ trào lưu ngôn sứ vắng bóng từ lâu, người ta lấy lại những bản văn cũ, suy niệm chúng và thích ứng chúng (như chúng ta đã đọc bản văn của Giê-rê-mi-a được sửa đổi ở Chúa Nhật I Mùa Vọng). Người ta cố gắng hiện tại hóa sứ điệp khi đặt nó dưới sự bảo trợ của một nhân vật quá khứ nổi tiếng. Tác giả của sách Ba-rúc cũng theo một cách thức như vậy (thể loại văn chương này được gọi là “trào lưu ngôn sứ ẩn danh”).
Tác giả chọn cảnh giam cầm tại Ba-by-lon làm khung cảnh lịch sử, bằng cách tưởng tượng ông Ba-rúc ở giữa những người lưu đày, để báo trước cho họ biết họ sắp được trở về quê cha đất tổ và kêu mời Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng. Thật ra, ông Ba-rúc cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị phát lưu sang Ba-by-lon. Những đề tài, hình ảnh, ngôn từ được mượn ở I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ an ủi những người lưu đày, cũng như ở I-sai-a đệ tam (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời kỳ những người lưu đày được hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Sấm ngôn
Rất dễ nhận ra đoạn văn Ba-rúc này mô phỏng vài bản văn của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và I-sai-a đệ tam (Is 56-66), ở đó chúng ta gặp thấy cũng một lời mời gọi thành thánh Giê-ru-sa-lem hãy vui lên như thế: “Hỡi Xi-on, thức dậy, thức dậy đi, hãy biểu dương sức mạnh! Hỡi thành thansah Giê-ru-sa-lem, hãy mặc lễ phục huy hoàng! Vì từ nay kể không cắt bì cũng như người ô uế sẽ không còn bước vào thánh điện nữa. Hỡi Giê-ru-sa-lem bị tù đày, hãy giũ bụi, đứng lên! Nào thiếu nữ Xi-on bị tù đày, hãy mở tung xích xiềng buộc cổ!” (Is 52: 1-2).“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông” (Is 60: 1-4).
Và cũng ở đó chúng ta cũng gặp thấy chính thành thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng như vậy: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi đức chính trực công minh, như chú rễ chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61: 10).
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã sánh ví rồi cuộc hồi hương của những người lưu đày với cuộc Xuất Hành mới ở đó Thiên Chúa còn thực hiện những điều kỳ diệu cho dân Ngài: “Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40: 4), “trong vùng hoang địa, Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với ô-liu; trên những dải đất hoang, Ta sẽ cho mọc lên một trật nào trắc bá, nào du, nào hoàng dương” (Is 41: 19).
Những danh hiệu biểu tượng
Những danh hiệu mà tác giả sách Ba-rúc gán cho Giê-ru-sa-lem như “Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính” hay “Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa”, được định vị vào hàng những danh hiệu thuộc trào lưu ngôn sứ: ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã trao cho Giê-ru-sa-lem danh hiệu “Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta” (Gr 33: 16); ngôn sứ I-sai-a đệ tam gọi thành thánh là “Xi-on-của-Đức-Thánh-Ít-ra-en” (Is 60: 14) hay “Thành-không-bị-bỏ-rơi” (Is 62: 12), …
Bù lại, việc Thiên Chúa được gọi là “Đấng Vĩnh Hằng” là một nét mới và đặc thù của sách Ba-rúc. Danh hiệu này được lập đi lập lại đến bảy lần trong toàn bộ bài thơ; đây là một ví dụ độc nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Qua đó tác giả nhấn mạnh: tất cả những gì Thiên Chúa làm đều “vĩnh hằng”: “mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi”, “Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi…”.
Hiện tại hóa sứ điệp
Vấn đề tất yếu được nêu lên: tại sao có sự mô phỏng này? Tại sao mô phỏng theo cách thức này? Tại sao “loan báo” cuộc hồi hương vốn đã xảy ra bốn trăm năm trước đó? Tại sao thánh thánh Giê-ru-sa-lem lại được tán dương nhiều thế kỷ sau này? Phải đọc ẩn dụ này như thế nào để gặp lại độ nhạy bén của những người đương thời mà tác phẩm được gởi đến?
Thay vì đọc và nghĩ đến “những người Do thái lưu đày”, chúng ta nên đọc và nghĩ đến “những người Do thái tha hương”, điều này giúp chúng ta giải đáp được một phần điều bí ẩn này. Đây là những cộng đoàn Do thái Hải Ngoại gởi gắm những tâm tư nguyện vọng của mình vào nơi sách Ba-rúc. Bị phân tán trong thế giới Hy-La và trong miền Trung Đông, sống xa thành thánh Giê-ru-sa-lem, các cộng đồng này cảm thấy mình như “những kẻ lưu đày”; tuy xa mặt nhưng không cách lòng: mọi tâm tư tình cảm của họ đều hướng về Thành Thánh; họ hiệp nhất với Thành Thánh qua lời cầu nguyện (phần thứ nhất của sách Ba-rúc), qua việc thực hành Lề Luật, tức sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (phần thứ hai của sách) và qua niềm hy vọng (phần thứ ba, từ đó đoạn trích dẫn của chúng ta).
Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a
Bản văn được đọc lại trong viễn cảnh này: bài thơ ngợi tán dương thánh thánh Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a. “Ánh vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa” sẽ được biểu lộ trong Thành Thánh. Thành Giê-ru-sa-lem sẽ là Thành Đô Bình An vì được xây dựng trên sự công chính, tức là sự thánh thiện của Thiên Chúa; Thành Thánh sẽ rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa, do “lòng kính sợ Thiên Chúa”. Chính “Lời Đấng Thánh” sẽ quy tụ mọi con cái Thiên Chúa. Kỷ nguyên Mê-si-a này sẽ là Triều Đại chứa chan niềm vui, tràn ngập ánh sáng “của lòng từ bi và sự công chính của Người”.
Người Do thái đã đọc lại bài thánh thi này vào năm 63 trước Công Nguyên, để lấy lại can đảm sau khi tướng Rô-ma là Pom-pê đánh chiếm Giê-ru-sa-lem; họ cũng đã đọc lại bài thánh thi trong nước mắt vào ngày kỷ niệm các đạo binh của tướng Ti-tô phá hủy Đền Thờ thành bình địa vào năm 70; như vậy họ khẳng định niềm hy vọng muôn đời bất biến của họ.
Người Ki-tô hữu đọc bản văn này bởi vì họ hiểu được tầm quan trọng mang tính ngôn sứ của bài thơ này: Thiên Chúa sắp viếng thăm dân Ngài “để dân Ngài tiến bước bình an dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người”.
BÀI ĐỌC II (Ph 1: 4-6, 8-11)
Thánh Phao-lô sáng lập cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên ở thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a, trên vùng đất Châu Âu vào năm 49-50, khi thánh nhân dự tính thực hiện một cuộc mạo hiểm lớn: vượt qua biển Ê-gi-ê để loan báo Tin Mừng cho một lục địa khác.
Bối cảnh
Thành Phi-líp-phê được đặt tên theo vua Phi-líp-phê II, thân phụ của A-lê-xan-đê đại đế. Sau khi đã sáp nhập miền này vào năm 360 trước Công Nguyên, vị đại đế Hy lạp này đã tái thiết và phát triển thành phố. Vào năm 42 trước Công Nguyên, hai tướng Rô-ma, Mác-cô An-tô-ni-ô và Ốt-ta-vi-a-nô (Âu-gút-tô), đã đánh bại Bru-tô và Ca-xi-ô, và đã thiết lập một khu cho các cựu chiến binh thuộc các binh đoàn chiến thắng. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố đã trở thành một đô thị Rô-ma, có những quan tổng trấn Rô-ma cai trị và được cấu trúc theo kiểu thành thị Rô-ma.
Vào năm 56 hay 57, thánh Phao-lô có dịp gởi một bức thư cho các Ki-tô hữu Phi-líp-phê. Đối với thánh nhân đó là một niềm vui, vì ngài rất quý mến giáo đoàn này, vả lại họ đã chứng tỏ tấm lòng trung thành đến cảm động. Thánh nhân đã hai lần chấp nhận sự hỗ trợ vật chất của các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu này, trong khi ngài từ chối bất kỳ sự hỗ trợ nào từ phía các cộng đoàn Ki-tô hữu khác. Thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê bộc lộ lòng quý mến của thánh nhân đối với giáo đoàn này mà không có bất kỳ hậu ý trách cứ cũng như vấn đề đạo lý; bức thư này cũng là bức thư hấp dẫn nhất.
Phụng Vụ chọn đoạn văn hôm nay vì nó gợi lên ngày Đức Giê-su trở lại và cách thức người Ki-tô hữu chuẩn bị chờ đón. Đoạn văn này gồm có hai phần, chứa đựng một suy tư thần học có tầm mức lớn lao theo hình thức tạ ơn và khuyến dụ.
Công trình của Đức Giê-su
Trước hết, thánh Phao-lô nói lên niềm vui và lòng biết ơn của mình đối với các tín hữu Phi-líp-phê vì họ nhiệt tâm đối với Tin Mừng và góp phần vào sứ mạng tông đồ của ngài; thánh nhân nhận ra đó là công việc tốt lành của Thiên Chúa ở nơi họ. Viễn cảnh này vẫn là một quan điểm thường hằng của thánh nhân: chúng ta không thể tự mình thánh hóa chính mình bằng sức riêng của mình, như vậy thánh Phao-lô khẳng định “quyền ưu tiên của ân sủng”.
Tuy thế, người Ki-tô hữu phải luôn luôn sống trong tâm thế sẵn sàng, đó là điều tất yếu. Thánh nhân cũng gởi đến các tín hữu Phi-líp-phê những khuyên nhủ khẩn thiết bằng những lời lẽ trìu mến.
Sự cộng tác của con người
Sau khi bày tỏ niềm vui, thánh Phao-lô nói lên tâm tình của mình: thánh nhân nhắc các tín hữu Phi-líp-phê nhớ đến tấm lòng của ngài đối với họ: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi, là tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giê-su Ki tô”. Từ ngữ Hy lạp diễn tả “tình thương của Đức Ki-tô” theo nghĩa rất mạnh; nó gợi lên “tình phụ tử”; Đức Ki-tô đã sinh ra họ trong đức tin qua sứ vụ của vị tông đồ của Ngài; vị tông đồ yêu thương họ bằng tình yêu có nguồn gốc ở nơi tình yêu của Đức Ki tô.
Qua lời khẩn nguyện dâng lên Thiên Chúa, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê hãy kiên tâm bền chí: động lực thăng tiến tinh thần của họ cốt ở nơi tình yêu, vừa lòng mến đối với Thiên Chúa vừa đức ái đối với nhau. Chính nhờ tình yêu này mà họ đạt được “ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên”. Thánh Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân định: “nhận ra cái gì là tốt hơn” mà thánh nhân thường lập lại ở đây. Sự phân định này là một khía cạnh của đức khôn ngoan Ki-tô giáo, đổi mới thật sự lòng trí con người.
Ngày của Đức Ki-tô
Trong đoạn văn này, thánh Phao-lô hai lần nhắc đến “ngày của Đức Ki-tô”. Như hai thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê làm chứng rằng các thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên nao nức mong chờ ngày Quang Lâm của Đức Giê-su Ki-tô sắp đến gần. Vào ngày đó, những người Ki-tô hữu phải được tinh tuyền và không làm gì đáng trách, sinh nhiều hoa trái dồi dào từ đời sống công chính nhờ Đức Ki-tô (từ ngữ công chính theo nghĩa Kinh Thánh là sống cuộc sống đạo hạnh phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa). Chúng ta gặp lại ở đây Thần Học về ân sủng. Đây là phương thức quen thuộc của thánh Phao-lô, thánh nhân thích lập lại ở phần cuối lời khẳng định ban đầu.
Tất cả cuộc sống Ki-tô hữu này, được định vị trong Đức Ki-tô, nhằm một mục đích tối hậu là “tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa”. Đây là cứu cánh của con người.
TIN MỪNG (Lc 3: 1-6)
Thánh Lu-ca giới thiệu sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả với lời mào đầu long trọng (3: 1-2), qua đó thánh ký định vị biến cố này vào trong lịch sử thế giới khi trích dẫn hoàng đế Rô-ma. Điều này cho thấy thánh Lu-ca quan tâm đến lịch sử, tuy nhiên thánh ký cũng muốn nói rằng lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, loan báo kỷ nguyên cứu độ, liên quan đến hết mọi người. Chính cũng vì lý do này, khi viện dẫn Is 40, thánh Lu-ca tuân theo truyền thống Mc 1: 3 và Mt 3: 3; tuy nhiên, thánh Lu-ca đem đến một điều mới mẽ khi trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của I-sai-a, vì sấm ngôn này chấm dứt với những từ: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Qua câu này, thánh Lu-ca khẳng định tính cách phổ quát của ơn cứu độ mà Is 40: 6 đã loan báo, cũng như thánh Lu-ca đã nói trước ở 2: 30-31: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.
Bối cảnh lịch sử (3: 1-2a)
Lời mào đầu giới thiệu sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả trước quần chúng một cách long trọng trong bối cảnh lịch sử thế giới qua đế quốc Rô-ma; lịch sử trong và ngoài miền đất Pa-lét-tin qua ba tiểu vương, các con của vua Hê-rô-đê Cả; cũng như lịch sử dân thánh qua hai vị thượng tế vào thời đó.
– “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô”: Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô xem ra từ ngày 1 tháng 10 năm 27 đến ngày 30 tháng 7 năm 28. “Thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê”, tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Kể từ năm thứ sáu Công Nguyên, miền Giu-đa không còn có chính quyền bản địa nữa; vào năm này chính quyền Rô-ma đã truất quyền vua Ác-khê-lao, con và người kế vị vua Hê-rô-đê Cả, và nắm quyền trực tiếp trên miền Giu-đê, miền thường gây ra những cuộc bạo động. Như vậy miền Giu-đê có một thể chế đặc biệt. Chúng ta biết điều đó trong cuộc xét xử Đức Giê-su.
– “Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê”: Miền Ga-li-lê vẫn duy trì chính quyền bản địa do tiểu vương Hê-rô-đê, biệt hiệu An-ti-pát, con Hê-rô-đê Cả. Chính vị tiểu vương này đã giết Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su bị điệu đến trước ông.
– “Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít”: Tiểu vương Phi-líp-phê, cũng là con của Hê-rô-đê Cả, cai trị lãnh địa đông bắc biển hồ Ti-bê-ri-a. Ông là vị tiểu vương ôn hòa, không nhiệt thành lắm với Do thái giáo, thậm chí ưu đãi những việc thờ cúng ngoại giáo.
– “Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên”: Miền A-bi-lên là một lãnh địa nhỏ bé được định vị ở Anti-Liban, phía tây Đa-mát. Tiểu vương Ly-xa-ni-a rất ít được biết đến. Vì thế người ta có thể tự hỏi trong danh sách của thánh Lu-ca vị tiểu vương này đóng vai trò gì. Đế quốc Rô-ma cho ba người con của Hê-rô-đê Cả làm tiểu vương ba lãnh địa, hai trong đất Pa-lét-tin và một ở ngoài đất Pa-lét-tin. Thật hợp lý khi kể thêm tiêu vương Ly-xa-ni-a cho đủ số ba người con của Hê-rô-đê Cả. Nhưng lý do thật sự xem ra còn sâu xa hơn. Rõ ràng ý định của thánh Lu-ca là muốn thông tri cho đọc giả hiểu rằng “biến cố Gioan Tẩy Giả” vượt quá bên ngoài ranh giới miền đất Pa-lét-tin.
– “Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế”: Sau khi nói đến thế quyền, thánh Lu-ca đề cập đến giáo quyền: Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, và Cai-pha, người con rể, vị thượng tế đương nhiệm. Kha-nan được nêu tên, vì thế lực của ông vẫn còn ảnh hưởng rất lớn. Theo thánh Gioan, sau khi bị bắt, Đức Giê-su bị điệu trước tiên đến thượng tế Kha-nan, sau đó mới đến thượng tế Cai-pha.
Đối diện với thế quyền và giáo quyền này, thánh Lu-ca đưa vào một nhà khổ hạnh sống ẩn dật trong hoang địa, ông Gioan, con ông Da-ca-ri-a. Chính nơi nhân vật khiêm hạ này mà Lời Chúa được gởi đến.
Sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả (3: 2b)
“Có Lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gioan trong hoang địa”.Thánh Lu-ca mượn văn phong Kinh Thánh để mô tả ơn gọi ngôn sứ như Hs 1: 1 hay Gr 11: 1. Như vậy thánh ký ghi nhận rằng ông Gioan Tẩy Giả là một vị ngôn sứ, ông nói với tư cách một vị ngôn sứ. Sự kiện này lại càng gây chú ý hơn nữa vì từ năm trăm năm qua đã không có một ngôn sứ nào xuất hiện.
Ông Gioan xuất thân từ gia đình tư tế; cha ông, ông Da-ca-ri-a, là tư tế phụng sự đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ấy vậy, chức vụ tư tế của dân Ít-ra-en là cha truyền con nối. Ông Gioan khước từ chức vụ và danh dự này; được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ông vào sống ẩn mình “trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” (Lc 1: 80).
Hoang địa này là sa mạc Giu-đê, dưới chân những ngọn đồi khô cằn, trong miền này được định vị giữa thành Giê-ri-cô và địa danh Qum-ran, có dòng sông Gio-đan đổ nước vào Biển Chết. Để thi hành sứ vụ của mình, ông Gioan Tẩy Giả tiếp cận với dân cư quanh vùng: “Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan”.
Phép rửa tỏ lòng sám hối (3: 3)
Phép rửa mà Gioan Tẩy Giả đề xướng không nhằm mục đích nào khác ngoài việc tỏ lòng sám hối. Các vị lãnh đạo Do thái giáo đòi buộc các dự tòng muốn gia nhập vào cộng đồng Ít-ra-en phải chịu phép rửa cùng với phép cắt bì. Các nghi thức thanh tẩy thì rất nhiều; thậm chí người Do thái thời hậu lưu đày vì lòng sốt sáng đã thêm một số lượng lớn; nghi thức thanh tẩy được thực thi hằng ngày và đa dạng tại các tu sĩ Qum-ran. Nhưng phép rửa mà Gioan đề xướng là một nghi thức duy nhất, bất khả lập lại, cũng không thuần túy chỉ là nghi thức. Thanh tẩy của thánh nhân là dấu hiệu thanh tẩy nội tâm, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng tự nó chưa có quyền ban ơn tha thứ này.
Ơn cứu độ phổ quát (3: 4-6)
Cả bốn tác giả Tin Mừng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị hứa với những người lưu đày ở Ba-by-lon, họ sẽ sớm được hồi hương. Thiên Chúa sẽ sai phái một sứ giả “trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa” (Is 40: 3-5), vì chính Thiên Chúa sẽ dẫn đường cho dân Ngài trở về Giê-ru-sa-lem.
Cả ba tác giả Tin Mừng nhất lãm đều đã thấy ở nơi vị sứ giả này dung mạo của ông Gioan Tẩy Giả khi hiện tại hóa bản văn của I-sai-a vào trong hoàn cảnh hiện nay của mình: thay vì “Trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa”, thì lại “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa”, bởi vì Gioan Tẩy Giả thi hành sứ vụ dọn đường cho Đức Chúa ở trong hoang địa. Tuy nhiên, chỉ duy thánh Lu-ca trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a, nhưng thánh ký chủ ý thay đổi một chút câu cuối: thay vì “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy”, thánh ký viết: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Thật ra vinh quang của Đức Chúa được bày tỏ ở nơi quyền năng rực rỡ của Ngài, Đấng, sau một thời gian dài xem ra không đoái hoài đến dân Ngài, ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm tại Ba-by-lon, tiên trưng một cuộc giải thoát khác, chính xác hơn, giải thoát khỏi mọi giam cầm của tội lỗi.
Thành quả vui nhất, tốt nhất, đối với người trẻ nói riêng và xã hội nói chung là ổn định được “chỗ MV 2-C183
Thành quả vui nhất, tốt nhất, đối với người trẻ nói riêng và xã hội nói chung là ổn định được “chỗ đứng” có thu nhập lý tưởng nhất, xứng hợp với cuộc sống hiện tại và tương lai của phận người. Mục đích càng cao to, cơ hội tìm kiếm và đầu tư càng phức tạp ; chủ trương có rộng lớn, công sức và chất xám phải dồi dào mới đáp ứng được kết quả mà ta hướng tới. Ai sẽ chỉ cho ta con đường dẫn tới đỉnh cao danh vọng, thần tượng nào, quân sư vĩ đại nào đủ đức, đủ kiên nhẫn, giúp ta đạt tới hạnh phúc thật ? Liệu người đời có đủ lạc quan để “nghe-nhìn” điềm lạ từ trên trời, những biến chuyển mới từ mặt đất không, trong khi ở thành thị nông thôn, tâm hồn người người đều rạo rực mừng vui bởi tiếng hô thấm sâu đến cõi lòng nhân thế.
Tiếng kêu mạnh mẽ nơi hoang địa, ít nhiều đã thức tỉnh giới bình dân và cả thành phần tri thức, vì sao cần dọn đường, dọn lòng, cho thẳng ngay, tiếng thôi thúc ấy gợi mở cho mọi người hiểu là vì ơn cứu độ của Thiên Chúa đang tới. Tiếng kêu không ầm ĩ như còi tầu, nhưng lại vang vọng vồn vã đến muôn tâm hồn, được ứng với sách Tiên tri Isaia: “có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con ông Giacaria trong hoang địa”. Ơn gọi và sứ mạng của “tiếng kêu” là nhắc nhớ thúc giục mọi người sửa đường, san lấp chỗ lồi lõm nơi tâm hồn mình, việc làm không được trì hoãn, vì đó là phương thế duy nhất để người ta gặp gỡ niềm vui ơn cứu độ. Âm vang của “tiếng kêu” có một lực hút mạnh tới độ người người nối nhau đến xem, nghe, và cùng đồng lòng thống hối, sửa chữa, làm thông thoáng mọi bế tắc, theo lời chỉ dạy của Vị ngôn sứ mệnh danh là “tiếng hô dọn đường”.
Kinh nghiệm cho thấy, có những lúc ta gặp một người tưởng họ chính là người mình cần tìm, quay lại thực sự người ấy cũng chỉ là người đem đến cho ta những điều mà ta cần trong một quang đường thôi. Cùng nhau dõi bước và hoang địa, người ta được gặp “vĩ nhân” ; ở bên “tiếng hô”, người ta bắt gặp tính mực thước của ông Gioan: “hãy lấp hố sâu, hãy bạt núi đồi, đường cong queo hãy làm cho thẳng”. Chính nhờ ơn sám hối, mà người ta nhận biết: ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban nhưng không, nghĩa là không như một cuộc trao đổi mua bán: bạn có của, tôi có tiền. Tiếng hô ở hoang địa, lời kêu gọi sám hối ở sông Gioa-đan, tiếng vang lên nơi toà giảng, và hành động thống hối ở “toà cáo giải” hôm nay, nhất định không phải từ sự giận dữ của chức quyền, mà từ dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Khái niệm tìm kiếm, gặp gỡ người thân, chúng ta không lạ lẫm, nhưng gặp gỡ tình yêu thương, đến với ơn cứu độ của Chúa, thật khó hình dung, nếu chúng ta thiếu sự chuẩn bị, lắng nghe sứ giả của Chúa. Cái gì mới, nhìn cũng mát mắt, phòng ốc sạch đẹp, đều cho cảm giác dễ chịu ; do đó, tâm hồn trong sạch, tương quan với Chúa và tha nhân hỏng hóc, nay được sửa chữa, làm mới, lẽ nào không mang lại hạnh phúc tột cùng ? Ông Gioan ở hoang địa đã hô thế nào, tiếng hô của ông tại sao âm vang và đụng chạm tới “tâm trí” của biết bao tâm hồn ? Người đời chỉ có thể hiểu như câu thành ngữ: lời nói lung lạy, gương bày như tay lôi kéo, Gioan “vừa hô vừa sống” tiếng kêu cách nghiêm túc, hoặc ông “vừa nói vừa làm”, không thể chậm trễ việc sám hối, sửa tâm sửa tính của mình.
Trong đời sống tự nhiên, người ta quét nhà, lau chùi hàng ngày, nhà cũ, áo quần cũ, ta phải lo sơn phết, mua sắm áo quần mới cho con cho cháu, vì nếu để nhà sập đổ, con cháu rách nát, có thể ta hết cơ hội. Trong đời sống siêu nhiên, các nhà tu đức luôn chủ trương người tín hữu nên cầu nguyện, xét mình hàng ngày, phải sống tình bác ái với nhau ở mọi giây phút cuộc đời, cũng là cách sống có đức, có đạo, có Chúa, trong ơn gọi làm người. Âm vang dọn đường, dọn lòng, sửa tính hư nết xấu quả là mạnh mẽ, dù Gioan thành đạt vì số lượng, hay chất lượng, mỹ mãn do đã thu phục được nhiều tâm hồn biết sám hối, ông vẫn khẳng định ông chỉ là người dọn đường cho Đấng cứu thế đang tới.
Trong tuyển tập truyện hay Đông Tây, người ta chia sẻ câu truyện như sau: có một thằng bé tức giận cha mẹ, nó chạy vào rừng sâu và hô to: ta chán đời, tiếng vọng lại: ta chán đời. Nó ngạc nhiên hỏi: ngươi là ai ? âm vang lại vọng lên: ngươi là ai ? Thằng bé tức giận hét lên: mày là thằng điên, tiếng ấy lại vọng lên: mày là thằng điên. Lập tức thằng bé chạy nhanh về nhà trong sợ hãi. Tiếng vọng cuộc đời của mỗi chúng ta cũng vang lên như thế, dù tiền nhân chúng ta từng nhắc con cháu: gieo gì gặt nấy. Cùng với Gioan, ta hãy đến với cầu nguyện, hãy đến trong sám hối cậy trông, hẳn âm vang cõi lòng ta sẽ vang lên: bình an, niềm vui, hạnh phúc, vì lòng thương xót của Chúa, vì tình yêu thương được san sẻ, nỗi đau và sự chán nản được tan biến. Cùng đến nhà thờ hiệp nhất với muôn cõi lòng, và hãy cùng nhau sống tốt, sống đẹp, hầu âm vang lòng ta sẽ vọng lên: cha mẹ yêu quý của con, tôi yêu bạn, Chúa luôn yêu thương loài người. Amen.
Nhiều người coi hoang địa là vùng đất chết, hang của rắn độc, nhà trọ của bọ cạp, đấu trường của MV 2-C184
Nhiều người coi hoang địa là vùng đất chết, hang của rắn độc, nhà trọ của bọ cạp, đấu trường của thú dữ, sân khấu của luật rừng. Nơi đó mạnh được, yếu thua. Cả người lẫn thú ngày sống không yên, đêm ngủ không ngon, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ không biết thứ gì đang rình rập coi mình là con mồi. Thánh Gioan Tiền Hô không chung quan niệm đó. Ngài sống ở hoang địa, lớn lên nơi hoang địa, trưởng thành trong hoang địa và nhận biết ơn gọi của mình tại hoang địa. Nơi đây Ngài nhận biết í nghĩa cuộc sống đời mình và trưởng thành trong tin tưởng, phó thác vào Đấng Cứu Thế Lk 1,18. Ơn gọi phục vụ Đấng Cứu Thế của thánh nhân trưởng thành trong kinh nghiệm: cuộc đời trần thế vắn gọn, sống không tính năm, chết không định tháng, đêm ngày chứng kiến cảnh thú lớn giết thú bé, ngày nóng phỏng da, đêm lạnh thấu xương, gió bão đến bất ngờ, cây đổ bất thường, liên tục lo âu, sợ sệt đối mặt với đau khổ, cô đơn trong hoang địa. Con đường duy nhất tránh bất công, chém giết, thù hằn đòi hỏi thống hối, đấm ngực ăn năn. Ngoài con đường thống hối không còn chọn lựa nào khác.
Có thể coi đau khổ trong cuộc sống hiện tại như bệnh tật, cô đơn, cơ hàn, áp bức, chèn ép, bất công hay thất nghiệp trong xã hội hiện nay là hiện thân của đau khổ, bất công nơi hoang địa. Qua kinh nghiệm đau khổ bản thân thánh nhân nhận ra ơn gọi làm chứng nhân cho Đấng Cứu Thế. Ngài từ hoang địa đi ra kêu gọi con người thống hối, nhận phép rửa dấu chỉ của thống hối xin tha tội. Thánh nhân không phải là đấng duy nhất xuất thân từ hoang địa. Chính Đức Kitô trước khi bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai cũng đi vào hoang địa và rồi suốt cuộc đời trần thế của Ngài nhiều lần Ngài lui vào hoang địa cầu nguyện cùng Chúa Cha. Gần kề với sự chết để suy nghĩ, tưởng niệm sự chết. Khi các tông đồ không tìm gặp Đức Kitô nơi đám đông, các ông tìm gặp ngài nơi thanh vắng, hoang địa Ngài một mình cầu nguyện, tâm sự cùng Chúa Cha. Như thế hoang địa là điểm gặp gỡ của sự chết để suy niệm về sự sống. Hoang địa là nơi con người cảm thấy nhỏ bé, tầm thường, mỏng dòn để gặp Đấng Toàn Năng, Cao Cả, yêu nhân loại bằng cách chết thay cho nhân loại. Hoang địa cũng là nơi mình gặp lại chính mình, nhìn sâu vào tâm tư, tình cảm và tâm hồn mình.
Tiếng vọng từ hoang địa tiên tri Isaiah loan báo, không ai khác mà chính là tiếng của Gioan Tiền Hô.
Có tiếng khóc trong hoang địa Is.40,3
Người ta nói khóc cho vơi lệ sầu hay khóc cho tăng niềm vui. Giọt lệ thường đại diện cho buồn sầu, đau khổ, nhưng không phải trường hợp nào cũng thế. Rất nhiều trường hợp bạn khóc vì vui; thi đậu, trúng độc đắc, thăng quan tiến chức- vui quá mà giọt lệ chảy ra; khóc cho niềm vui chan hoà. Gioan Tẩy Giả khóc rống trong hoang địa. Không phải là tiếng khóc buồn thảm mà chính là tiếng khóc của vui mừng. Không có lí do nào để Gioan phải buồn sầu. Đúng ra thánh nhân rất vui vì nhiều lí do:
Thứ nhất vui vì được tuyển chọn là Đấng duy nhất và là Đấng đi trước mở đường cho Đấng Cứu Thế.
Thứ hai vui vì Ngài từ lâu chuẩn bị cho ngày rao giảng và vui mừng khi ngày đó xuất hiện.
Thứ ba vui vì người ta đến với Ngài hàng ngàn nghe giảng và xin ơn thứ tha qua việc thống hối, cải thiện đời sống.
Thứ tư vui vì quân lính, quan chức đến hỏi làm cách nào để thay đổi lối sống, từ bỏ đường tham lam, bất công để đón nhận, trở về cùng Đấng Cứu Thế.
Thứ năm vui vì lời Ngài kêu gọi thống hối ăn năn loan truyền đến tai những kẻ lãnh đạo khiến họ phải suy nghĩ.
Thứ sáu vui vì Ngài may mắn được nghe và nhìn thấy Đấng Cứu Thế mà nhiều vua chúa, quan quyền trước Ngài đã ước ao nhưng không được Mat 13,17.
Thứ bảy và cũng là niềm vui lớn lao nhất là Ngài đã đổ máu đào làm chứng nhân, mở đường cho Đấng Cứu thế.
Lời kêu gọi của Gioan dọi ánh sáng vào nơi tối tăm và nhờ thế nhiều tâm hồn từng sống trong bóng tối bước ra đón nhận ánh sáng; từ giã, đoạn tuyệt với hoang địa để sống đời sống mới. Chúng ta hãy cầu nguyện cho chính mình biết đón nhận ánh sáng Lời Chúa chiếu dọi vào nơi tối tăm trong con tim mình và nhỏ lệ vui mừng vì có được con tim an bình.
Từ “sửa đường” tra trên Google cho ta 103.000.000 kết quả, mà phần lớn là những phản hồi tiêu MV 2-C185
Từ “sửa đường” tra trên Google cho ta 103.000.000 kết quả, mà phần lớn là những phản hồi tiêu cực. Chính thực tại tiêu cực này mà lòng dân khao khát một con đường bằng phẳng, an toàn,… Với niềm khao khátbình dị của dân Việt Nam giúp chúng ta hiểu tại sao thánh Gioan Tẩy Giả mượn hình ảnh con đường đầy sỏi đá, dốc hố khó đi của nước Do Thái thời 2000 năm trước để lên tiếng kêu gọi một sự chuẩn bị nghiêm túc, ráo riết “dọn đường, sửa đường, lấp mọi hố sâu để Chúa đến”, ông nhấn mạnh con đường thiêng liêng của dân Chúa. Vậy đâu là động lực và mục đích để Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi toàn dân sám hối, chuẩn bị đón Chúa?
Động lực của thánh Gioan Tẩy Giả đó là biết Chúa đến, hạnh phúc nào lớn lao hơn khi được Chúa ngự đến với dân mình. Nhờ ơn Chúa tác động, ông biết mình trong hoang địa chỉ là tiếng hô (x Lc 3,4), khi chàng rể là Đức Kitô đến ông biết mình chỉ là phụ rể (x Ga 3,29 -30), khi gặp Chúa ông xác định mình chẳng xứng đáng cuối xuống để cởi quai dép cho Chúa (x Ga 1,27). Chính lúc biết mình không là gì trước mầu nhiệm nhập thể của Chúa thì cũng là lúc Chúa thúc bách để ông lên đường loan báo cho toàn dân. Không phân biệt địa vị cao thấp, giàu nghèo, sang hèn, … ông bất chấp những hiểm nguy đến với mình chỉ một niềmhăng say loan báo tin vui Chúa đến.
Mục đích của thánh Gioan Tẩy Giả không vì mình mà vì dân Chúa, dân đang đi trong tối tăm phải trở về với sự thánh thiện công chính (x Lc 3,3). Đó mới đích thực là dân Chúa chọn. Ngôn sứ đích thực không thể im lặng trước sự lầm lạc, tội lỗi, mà cất lên Lời của Chúa, nói tiếng nói của Chúa hơn thế nữa khi mà Chúa gần đến đó lại càng không thể đánh mất đi mục đích của mình.
Trong khung cảnh lên đường truyền giáo hậu Năm Thánh mừng 400 năm Loan Báo Tin Mừng của dân Chúa giáo phận Qui Nhơn, cùng với động lực và mục đích của Thánh Gioan Tẩy Giả trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy “tỉnh thức, cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, siêng năng tham dự các cử hành phụng vụ, nhất là thánh lễ, hướng về Chúa với tất cả tâm hồn và lòng khao khát, sống trọn vẹn mỗi phút giây để có thể luôn sẵn sàng đón Chúa” (Thư mục vụ Mùa Vọng 2018 của Đức cha Giáo phận).
Cụ thể hơn chính trong tuần Chủ nhật thứ 2 mùa vọng này, ai chưa vào sa mạc để lắng nghe “tiếng hô” thì hãy thu xếp để nghe được tiếng nói ấy qua việc tĩnh tâm, hồi tầm. Ai chưa dọn mình xưng tội thì cũng hãy ý thức dọn mình để giao hòa với Chúa. Ai còn những vướng mắc nợ nần, mất lòng, phiền muộn,… hãy hóa giải và làm hòa. Ngoài những việc thiêng liêng còn có những việc rất tự nhiên: làm hang đá tại tư gia mình, giáo họ mình, giáo xứ mình. Thăm viếng những người già neo đơn, ngặt nghèo, những hoàn cảnh khó khăn, viết thiệp, tặng quà giáng sinh cho các em thiếu nhi,… thiết nghĩ ai cũng hoàn thành một việc nhỏ nhưng với tình yêu lớn “rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,6). Amen.
Sứ điệp Phụng vụ CN II MV dẫn dắt chúng ta đi vào những chiều kích “dọn đường đón Chúa” ngang MV 2-C187
Sứ điệp Phụng vụ CN II MV dẫn dắt chúng ta đi vào những chiều kích “dọn đường đón Chúa” ngang qua những nẻo đường hiện thực cuộc sống cũng như lịch sử cụ thể của đời mình.
Trong viễn tương đức tin, việc “Chúa đến”, việc “Chúa nhập thể” vào đời không bao giờ chỉ là một “mầu nhiệm hoàn toàn tách biệt” khỏi thế giới, một huyển tưởng chỉ có trong trí tưởng tượng của một não trạng cuồng tín nào đó; nhưng nhất thiết là “câu chuyện tình, câu chuyện cứu độ, giải thoát…” được dệt nên từ “tấm thảm nhân loại” với tất cả những “đường chỉ ngoằn ngoèo của kiếp nhân sinh”.
Trước hết, chúng ta nhận ra “những đường chỉ” nầy ngay trong trích đoạn sách Barúc (BĐ 1), một tác phẩm được coi là “phụ lục của sách ngôn sứ Giêrêmia” mà nội dung quy chiếu vào giai đoạn lịch sử dân Ít-ra-en đang bị lưu đầy bên Babylon cùng với lời động viên “giữ vững niềm hy vọng ngày về Giêrusalem” trên những nẻo đường thênh thang được chính Thiên Chúa tái thiết và dẫn đưa.
“Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Ít-ra-en vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa…Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Ít-ra-en đến ánh vinh quang” (Br 5,1-9)
Trong ánh sáng mạc khải và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đó không chỉ là niềm hy vọng dành riêng cho dân Ít-ra-en thời lưu đầy, mà cho muôn dân tộc, muôn kiếp phận con người muôn nơi và muôn thuở.
Ở giữa một giai đoạn mà đất nước đang bị đè nặng dưới gông cùm nô lệ của một “ý thức hệ hoang tưởng”, bị ngoại bang đô hộ theo một cách tinh vi của thời đại hôm nay, lòng người mệt mỏi rẻ chia, đạo đức xã hội băng hoại xuống cấp, môi trường thiên nhiên bị tàn phá…người Kitô hữu Việt Nam cần giữ vững niềm hy vọng vào “lòng từ bi và công bình của Thiên Chúa”, sẵn sàng cọng tác với Ngài để “triệt hạ mọi núi cao…lấp đầy những hố sâu…vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa”.
Cũng vậy, cuộc đời nào, gia đình nào, lại không trải qua những “ngày tháng lưu đầy”, những thử thách gian nan; nhất là những cuộc đời dấn thân theo Chúa, những cuộc đời bước đi trên con đường “Tám Mối phúc thật” ! Hãy vững tin như lời Thánh vịnh 125 : “Miệng vui cười…, lưỡi hân hoan…Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan…”.
Từ những “đường chỉ lưu đầy” của ngôn sứ Barúc, chúng ta lại được thánh sử Luca dẫn đưa tới những con đường “máu và nước mắt” của Palestina vào triều đại hoàng đế Tibêriô, vị hoàng đế lừng danh thứ hai của đế quốc Rôma, kế tục sự nghiệp của Hoàng đế thứ nhất, Augustô.
Nếu Luca, Vị Thánh sử đã trình bày một Đấng Emmanuel nhập thể làm người trong thân phận của một con người thật sự : một em bé nghèo nơi hang lừa máng cỏ ở Bê-lem, hay một chàng thợ mộc bên xưởng thợ Na-da-rét, thì lại đặt “em bé” đó sinh ra ngay trong thời đại của vị hoàng đế thứ nhất – Augustô : “Thời ấy, hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ…” (Lc 2,1-7) để rồi 30 năm sau xuất hiện ngay trong triều đại của vị hoàng đế thứ hai – Tibêriô : “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô…” (Lc 3,1-6).
Chỉ vỏn vẹn có 2 câu đầu của chương 3, Thánh Luca đã mô tả toàn cảnh lịch sử, địa lý, xã hội, chính trị, tôn giáo…vào thời Gioan Tẩy Giả chuẩn bị giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái.
Về phương diện con người, Luca muốn dựng lên cái thế đối lập : giữa một bên là những con người quyền lực (chính trị : Hoàng đế Tibêriô, tổng rấn Philatô, tiểu vương Hêrôđê…; tôn giáo : Thượng tế Kha-nan và Cai-pha), một bên là những kẻ thấp cổ, bé miệng, nghèo hèn mà đại diện đó chính là Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ ẩn tu đến từ hoang mạc, xuất hiện sau gần 500 năm vắng bóng trong lịch sử Ít-ra-en, và sau đó là Giêsu, người thợ mộc đến từ Na-da-rét !
Nhưng đằng sau các “bức phông đối lập không cân xứng này”, chúng ta thấy gì ? Phải chăng đó chính là lời được phát ra từ môi miệng cũng của một con người thuộc hàng “thấp cổ bé miệng” – Đức Trinh Nữ Maria trong bài thánh thi Magnificat : “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường…” (Lc 1,51-53).
Khi đặt “cuộc đời công khai” và công cuộc “rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu” vào thời của một triều đại đế quốc hưng thịnh – Hoàng đế Rôma Tibêrio, cùng với những thuộc hạ đang vận hành một lãnh địa mênh mông, bát ngát bao trùm thế giới (vào lúc bấy giờ), chắc chắn Luca còn muốn ngụ ý rằng : đã đến lúc, Tin Mừng của Chúa Giêsu phải “vượt khỏi luỹ tre làng” để được loan báo cho toàn thế giới, sứ điệp Cứu Độ do Đấng mà “Gioan giới thiệu và chẳng đáng cởi quai dép” không chỉ hạn hẹp, giới hạn cho một vùng miền, một quốc gia, một dân tộc, một thời đại…mà phải lan rộng đến mọi chân trời góc biển, mọi nền văn hoá, mọi tâm hồn…
Không chỉ dừng lại với những ý nghĩa trên ! Luca tiếp tục dẫn dắt chúng ta đến những nội dung phong phú khác qua những “địa danh mang tính ẩn dụ và điển tích” để từ đó phác hoạ những bài học tâm linh sâu lắng.
– Nào là hình ảnh “HOANG MẠC” nơi ông Gioan vừa từ bỏ lại để xuất hiện rao giảng đã gợi nhớ về một thời “ít-ra-en lang thang suốt 40 năm trường” để nhờ đó học được biết bao nhiều bài học của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, “hoang mạc” luôn là địa chỉ cần thiết để những người Kitô hữu tìm được sự khôn ngoan và sức mạnh tinh thần hầu trang bị cho mình những vốn liếng cần thiết để ra đi rao giảng.
– Nào hình ảnh bờ sông “GIO-ĐAN” nơi Gioan gặp gỡ đoàn người đông đảo và giúp họ chịu thanh tẩy để chứng tỏ sự hoán cải trở nên một con người mới. “Bờ sông Gio-đan” hôm nay lại không là những cuộc tập họp của những con người được “tái sinh nhờ Phép Rửa trong Đức Kitô” để làm nên một cộng đoàn Dân Mới, một cộng đoàn thường xuyên “hoán cải và đón nhận Tin Mừng” để thuộc về Vương Quốc Thiên Chúa. (Mc 1,15).
Từ “Hoang Mạc lắng nghe và cầu nguyện” đến “Gio-đan gặp gỡ, hiệp thông, hoán cải và cử hành Phụng vụ” lại không là cuộc hành trình tâm linh cụ thể của Mùa Vọng Kitô hữu đó sao !
Và như thế, sứ điệp “CON ĐƯỜNG” từ Isaia đến Gioan Tẩy giả và cho tới “Mùa Vọng” của Phụng vụ hôm nay luôn mang tính thời sự và cần thiết.
Trong những ngày nầy, trên muôn vạn nẻo đường của thế giới đã thấy xuất hiện nhiều dấu chỉ của trang trí Giáng Sinh : cây thông Noel, hang đá Bêlem, ông già Noel, nhạc, ánh sáng…; nhiều cộng đoàn đang tất bật tập hoan ca, diễn nguyện…Chúng ta cùng cầu nguyện để tất cả những công việc đó đều, như ước nguyện của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Philip – BĐ 2 : “trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Đức Kitô”; hay như ước nguyện giản đơn nhưng cũng đầy thâm thuý và nhân bản của Tổng Thống Mỹ Donald Drump và Phu nhân Melania trong lời chúc Giáng Sinh 2018 : “ Giáng Sinh với những gói quà cho trẻ em…các gia đình và xóm giềng gần gũi, các cộng đồng đến cùng nhau và phục vụ cho nhau…”.
Để làm được những “quà tặng Giáng Sinh” như thế, thì ngay từ hôm nay, Chúa Nhật II Mùa Vọng nầy, mỗi người chúng ta phải ra sức “sửa dọn những con đường tâm hồn”, như được ngụ ý với những câu thơ lục bát trong bài thơ “MÙA VỌNG VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG CÒN DANG DỞ”:
Đường gia đạo, lối uyên ương, Đường lên cung thánh, đường vương chợ đời. Đường gặp gỡ giữa mọi người, Đường chia cảnh ngộ phận đời hẩm hiu. Đường phục vụ, nẻo thương yêu, Gia đình, xã hội bao nhiêu là đường…!
Hận thù giờ đổi yêu thương, Xa xôi cách biệt nay đương lại gần. Đường nào dục vọng, tham sân, Nay theo lối mới lại gần phúc thiêng. Mỗi người có một đường riêng, Canh tân sám hối cần chuyên nguyện cầu…
Và con đường gần nhất, thiết thân nhất ngay trong giây phút nầy, đó chính là “con đường Thánh Thể”. Chúng ta cùng thành tâm hoán cải và khiêm hạ sốt sắng cử hành Hy Tế của Đấng đang hiện diện giữa chúng ta và ban Lời cùng Máu Thịt mình cho chúng ta. Amen.
Nếu “tẩy” là xóa, bôi, bỏ, vứt… và “giả” là gian trá, điêu ngoa, lọc lừa, mưu mô… thì “tẩy giả” MV 2-C188
Nếu “tẩy” là xóa, bôi, bỏ, vứt… và “giả” là gian trá, điêu ngoa, lọc lừa, mưu mô… thì “tẩy giả” là xóa bỏ hay vứt đi những khuyết điểm, tiêu cực, tính xấu, sai lỗi…
Chuyện vui kể rằng: Một hôm, hai người bạn cùng nhau tâm sự.
Một người nói: “Khu nhà tôi vừa dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm”.
Người kia hỏi: “Thế anh có báo cảnh sát không?”.
Người bạn trả lời: “Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng điên, vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn”.
Thưa các bạn!
Phải chăng, chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi? Tuy nhiên, ta thường ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai?
Danh ngôn có nói: “Đời sẽ dịu dàng hơn biết mấy, khi con người biết đặt mình vào vị trí của nhau”. Vậy nên, “hãy tỉnh táo trước khổ đau và nhẹ nhàng trước sung sướng. Sướng khổ là do tâm mình thôi”…
Hay “chớ để cuộc sống trôi tuột qua kẽ tay, vì mải đắm mình trong quá khứ, hoặc mơ mộng ảo tưởng về tương lai. Hãy tận hưởng cuộc sống trong từng khoảnh khắc, thì sẽ cảm thấy từng ngày trôi qua thật trọn vẹn”.
Thiết tưởng lời mời gọi của Gioan Tiền Hô được chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: “Có tiếng người hô trong hoang địa” (Lc 3,4) chưa ổn lắm. Trong hoang địa hay sa mạc làm gì có người, vậy hô cho ai nghe?
Có lẽ, nếu quảng cáo hay kêu gọi người khác ủng hộ mình, thì đến chỗ đông người hay nơi có nhiều sinh hoạt cộng đồng. Chẳng ai đến chốn không người để rao giảng. Vậy hoang địa có lẽ là “cõi lòng” của ta.
Thưa các bạn!
Phải chăng “cõi lòng” là nơi chất chứa nhiều điều băn khoăn, trăn trở và khúc mắc nên mới cần đến “tiếng người hô” nhằm lay động và thức tỉnh ư?
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Vọng C (Lc 3,1-6) chính là thời cơ cho “bạn & tôi” lắng nghe và hồi tâm để “tẩy giả” bằng cách dọn đường sửa lối, qua một vài hành vi thiết thực trong cuộc sống, như:
Núi đồi của kiêu căng, tự mãn và ích kỷ cần “bạt cho thấp”. Cách biệt giàu và nghèo cần “bạt cho thấp”. Phân biệt chủng tộc và giai cấp, kẻ trên và người dưới, mạnh được và yếu thua cần “bạt cho thấp”.
Thung lũng của đam mê tiền bạc bất chính hay lạc thú phi pháp cần “lấp cho hết”. Quanh co của lừa lọc, xảo trá, quỷ quyệt cần “uốn cho ngay”. Lồi lõm của bất hòa, tranh chấp, xung đột cần “san cho phẳng”…
Nếu “sáng xỉn chiều say tối lăn quay” hay “sáng Game chiều Phone tối Internet” thì tâm trí còn đâu để chuẩn bị và sửa soạn nữa; tâm hồn còn đâu cơ hội để bôi xóa, vứt bỏ hay tẩy đi những “cái giả” nữa…
Lời “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa và tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” vẫn vang vọng bên tai “bạn & tôi”, bằng cách “tẩy giả cõi lòng” cho sạch đẹp để “hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Thực ra, Chúa đã đến và đang chờ “bạn & tôi” mời vào nhà: “Này đây, Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).
Ước gì, không ai như “thằng điên” hay “người tập kèn” giữa đêm khuya, nhưng là người “tẩy giả” biết nghe tiếng gõ cửa và mở cửa mời Chúa vào nhà trong vui mừng, hy vọng, và tin yêu. Amen
------------------------------
MV 2-C189: SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG_C
Jorathe Nắng Tím
Nếu Tin Mừng chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng đã mặc khải đường lối của Thiên Chúa khác xa
Nếu Tin Mừng chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng đã mặc khải đường lối của Thiên Chúa khác xa đường lối của nhân loại, và đường lối của Ngài là Sự Thật và Tình Yêu, thì Tin Mừng chúa nhật này, Thiên Chúa mời gọi chúng ta lên đường với Ngài.
Bài đọc một của ngôn sứ Barúc mô tả tương lai của Giêrusalem với rất nhiều hình ảnh huy hoàng ngày lễ hội: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục , và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi, hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng” (Br 5,1- 2).
Trong bầu khí tưng bừng của bình an và hoan lạc khi Giêruslem được khôi phục, thánh vịnh 125 thuộc nhóm thánh vịnh “Lên đền thánh” , gồm các thánh vịnh 120 đến 134, đã làm tâm hồn rạo rực niềm vui trên đường tiến về Đền Thờ Thiên Chúa, với lời ca tụng, tri ân : “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126, 3).
Riêng thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê đã khuyến khích các tín hữu hãy tiếp tục bước đi trên đường của Thiên Chúa, bắng qủa quyết rằng : “Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô quang lâm” (Pl 1,6).
Tin Mừng Luca thì hoàn toàn xoay quanh chủ đề con đường và lên đường, khi kể về ông Gioan Tẩy Giả và sứ vụ dọn đường cho Đức Giêsu của ông : “Gioan đã đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, như lời chép trong ngôn sứ Isaia: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lại cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,3-6).
1. Gioan kêu gọi mọi người dọn đường:
Gioan đã kêu gọi mọi người dọn đường và phải gấp rút dọn đường, vì Đức Chúa sắp đến. Không còn có thể trễ nải, trì hoãn, vì thời gian không còn nhiều. Con đường mà Gioan kêu gọi phải sửa chữa tức khắc là con đường tâm hồn của mỗi người, con đường Sự Thật và Tình Yêu mà bấy lâu rất ít người lo tu sửa, dọn dẹp. Có con đường quanh co, gian dối cần được uốn cho thẳng như Sự Thật; có con đường tham lam vô độ như thung lũng cần phải lấp đầy bằng công bình, chính trực; có con đường đồi núi kiêu căng, bạo lực phải bạt cho thấp thành đường khiêm nhu, hiền lành; những đọan đường khúc khủyu, ganh ghét phải uốn cho ngay bằng bác ái, vị tha; những khúc đường ổ gà ích kỷ, lồi lõm hận thù phải san cho phẳng bằng bao dung, qủang đại. Tắt một lời, đường tâm hồn của tất cả mọi người đều có vấn đề, và phải gấp rút tu sửa, vì Thiên Chúa sắp đến.
Đó là sứ điệp, lời kêu gọi khẩn thiết của Gioan, người dọn đường cho Đấng phải đến sau ông, mà ông đã tự nhận “không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài” (Lc 3,16).
2. Gioan kêu gọi mọi người lên đường :
Khi kêu gọi mọi người dọn đường tâm hồn để đón Đấng Cứu Thế, Gioan cùng lúc kêu gọi mọi người để tâm hồn lên đường với Thiên Chúa, bởi khi con người chưa sẵn sàng lên đường đến với Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã đến trước để cùng đi với con người; con người chưa kịp ra đón Thiên Chúa, Thiên Chúa đã đến tận nhà con người. Bằng chứng là “Ngôi Lời đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người.Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 9-11).
Như thế, lên đường với Đức Kitô chính là dọn đường tâm hồn để đón Ngài; vì công việc dọn dẹp, tu sửa, chỉnh đốn con đường tâm hồn cũng chính là nhịp bước đồng hành với Đức Giêsu trên hành trình Sự Thật và Yêu Thương của Ngài. Công việc chấn chỉnh đường tâm hồn không dễ chút nào, vì những thói quen xấu đã ăn sâu vào đời sống, tạo thành nếp nghĩ ích kỷ, nhỏ mọn, bon chen; hằn sâu thành lối mòn gian dối, lưu manh, tráo trở. Công việc sửa đường tâm hồn không luôn đơn giản, dễ dàng, vì từ lâu lương tâm đã bỏ quên sự thật và trái tim đã xa lạ với tình yêu.
Không dễ dàng, dễ chịu khi phải từ bỏ những lối mòn tuy cũ nhưng dễ đi vì quen thuộc; không đơn sơ, đơn giản thay đổi “đường xưa lối cũ”, tuy xưa, tuy cũ, nhưng gắn bó thiết thân, nên không mấy tâm hồn lại không tiếc nuối, do dự, vương vấn, giằng co khi được kêu gọi lên đường sửa đường.
Cũng vì thế mà tiếng kêu “dọn đường, lên đường” của Gioan chỉ như tiếng kêu trong sa mạc (Lc 3,4), chẳng mấy người lắng nghe, chẳng mấy ai quan tâm, để ý, vì ai cũng nghĩ: cần chi đến con đường Sự Thật và Tình Yêu, cần chi phải đổi đường, vì “đường xưa lối cũ” đang đi đã có hề hấn, nguy hiểm gì đâu mà sợ?
3. Dọn đường – Lên đường là điều kiện để thấy ơn Cứu Độ:
Tin Mừng qủa quyết: “Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,6), sau khi sửa đường tâm hồn, dọn đường tâm hồn, để cùng bước đi trên con đường mới với Đức Giêsu. Đây là điều kiện phải có để nhận được ơn cứu rỗi, nhưng cũng là lời cảnh cáo nghiêm khắc cho những tâm hồn chai cứng, bất chấp lời kêu gọi sám hối, bởi không ai có thể tránh được cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (x. Lc 3, 7), khi Ngài “có thể làm cho những hòn đá trở nên con cái Ápraham” (Lc 3,8), “khi chặt đi bất cứ cây nào không sinh qủa tốt và quăng vào lửa” (Lc 3,9).
Lậy Chúa, Chúa mời gọi chúng con sửa cho ngay đường Sự Thật, uốn cho thẳng đường Yêu Thương, để có Chúa là Sự Thật và Tình Yêu ở cùng và đồng hành. Xin giúp chúng con can đảm đứng dậy lên đường, để cùng với Chúa dọn dẹp, sửa chữa con đường tâm hồn mình, bởi tự sức, chúng con không thể lấp đầy hố sâu tham lam, thung lũng gian ác; bởi một mình, chúng con không thể bạt thấp núi đồi kiêu căng, bạo lực, san phẳng lồi lõm hận thù.
Phải có Chúa ở cùng, chúng con mới có thể nghĩ đến chuyện sửa đường tâm hồn; phải có ơn phù trợ ở Danh Chúa, chúng con mới có thể đứng dậy, cất bước với cuốc xẻng ra đi làm đường Sự Thật; phải có Chúa ủi an, bồng bế những khi mệt lả, yếu đuối, chúng con mới nhẫn nại, kiên trì dọn dẹp con đường Trái Tim; phải có Chúa đồng hành mọi nơi mọi lúc, chúng con mới không sợ hãi, do dự, nhưng an tâm và hăng hái lên đường làm chứng Sự Thật và Tình Yêu, như Thánh Ý đời đời của Chúa trên chúng con.
Có một câu chuyện kể rằng: Một linh mục lúc còn làm việc được các linh mục bạn và các giáo MV 2-C190
Có một câu chuyện kể rằng: Một linh mục lúc còn làm việc được các linh mục bạn và các giáo dân ngưỡng mộ và quý mến. Nhưng vì mắc một chứng bệnh nên buộc phải về hưu, cả quãng đời còn lại phải ngồi trên chiếc xe lăn. Ban đầu, một số người đến nhà hưu thăm ngài, nhưng năm tháng trôi qua, số người đến thăm ngày càng giảm bớt và cuối cùng không còn ai lui tới. Ngài buồn vô cùng nhưng không nản chí vì tin rằng Chúa không bao giờ quên những người đã hy sinh vì và cho Chúa.
Quả thực, chúng ta thấy trong xã hội này, người già thường cảm thấy cô đơn, buồn sầu vì bị bỏ quên hay quên lãng. Chúng ta cũng có thể nghĩ như thế về Chúa. Khi một điều gì xấu xảy đến cho chúng ta thì chúng ta thầm trách: “Chúa đã quên tôi rồi.” Hay “Chúa không còn thương, không còn chú ý đến tôi nữa.” Và đó cũng là cảm nghĩ của dân Do Thái lưu đày, sống trong đau khổ và nhục nhã. Bởi thế họ hỏi nhau: “Thiên Chúa ở đâu rồi? Ngài có còn nhớ đến những lời đã hứa chăng?” Và họ kết luận: “Chúa đã quên chúng ta!”
Nhưng ngôn sứ Ba-rúc trong bài đọc 1 trấn an rằng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài, những đau khổ của họ sẽ sớm chấm dứt, và sẽ đem họ trở về quê hương. Nhưng họ cần phải dọn đường cho Ngài đến cứu họ. Những lời này làm cho dân chúng được an ủi và phấn khởi. Quả thực, sau đó những tù nhân lưu đày đã trở về cố hương. Dù vậy, Lời Chúa hứa vẫn chưa thực hiện trọn vẹn mà phải chờ tới khi Ðấng Messia, Đấng Cứu Thế đến.
Gioan Tiền hô mà bài Tin mừng hôm nay nhắc đến là người loan báo Ðấng Messia đã đến. Chúa Giêsu chính là Ðấng Messia ấy và còn là Con Thiên Chúa. Việc Con Thiên Chúa đến với loài người là bằng chứng rõ ràng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài. Thật vậy dù khi mọi người quên chúng ta, nhưng Thiên Chúa sẽ không quên chúng ta. Ngài vẫn nhớ đến chúng ta. Ngài không thể nào không nhớ đến chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái yêu dấu của Ngài.
Mùa Vọng là thời gian sửa soạn và nhớ đến Chúa vì Chúa đã mang ơn cứu độ đến cho chúng ta. Trong mùa này, người ta thường biểu lộ lòng nhớ đến người khác bằng một món quà, hay một tấm thiệp với một lời chúc tốt đẹp. Chúng ta nhớ đến Chúa bằng cách chuẩn bị tâm hồn lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy. “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” Đây là những lời dạy rất tốt đẹp, mang lại cho chúng ta niềm an ủi và vui mừng vì cho chúng ta thấy Thiên Chúa rất yêu thương và nhân từ với chúng ta, những người tội lỗi, yếu đuối và hay sa ngã.
Có một linh mục tên là Ambrôsiô rất đạo đức và nổi tiếng được nhiều người biết đến. Ngài được mời đi giảng tĩnh tâm nhiều nơi và được nhiều người ưu thích. Ngài sung sướng vì đã làm chủ được mọi việc mình làm. Nhưng đột ngột ngài ngã bệnh, không còn làm gì được nữa. Ban đầu ngài rất tuyệt vọng. Nhưng sau một thời gian, ngài chợt nghĩ phải biết cách dùng cơn bệnh của mình để hiểu được những khổ đau của người khác. Thế là ngài vui sống với cơn bệnh của mình. Khi có ai đến với ngài, ngài chia sẻ những suy nghĩ của mình và an ủi, khuyến khích họ. Kết quả là thời gian nằm bệnh của ngài còn sinh hoa quả nhiều hơn thời gian ngài còn khoẻ mạnh. Trước khi chết, ngài viết: “Trước đây tôi đã đi theo một hướng, rồi thình lình tôi bị buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng nhờ đó tôi đã học biết về bản thân mình và về người khác nhiều hơn gấp bội so với những gì tôi học biết trong những năm trước khi bệnh.”
Nếu chúng ta chú ý, chúng ta sẽ nhận ra có rất nhiều hoàn cảnh lạ lùng mở tấm lòng chúng ta ra đón nhận ơn Chúa ban. Khi chúng ta đến với Chúa với thái độ tự mãn, tự cao là người đạo đức, tốt lành, thì khi đó chúng ta đẩy Chúa ra xa. Còn khi chúng ta đến với Chúa với tấm lòng chân thành là những con người yếu đuối, tội lỗi và bất xứng thì khi đó chúng ta mới thật lòng mời Chúa vào tấm lòng mình. Chính những sự bất toàn của tâm hồn mở rộng lòng chúng ta đón nhận ơn của Chúa, vì đó là những vết thương thu hút lòng nhân từ của Chúa, làm cho chúng ta đáng được Ngài thương xót và chữa lành. Chúa Giêsu đã nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.”
Mỗi năm vào Mùa Vọng có một người chỉ cho chúng ta biết những lỗi lầm, tội lỗi, thiếu xót và khuyên bảo chúng ta ăn năn sám hối, sửa chữa. Ðó chính là Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi.”
Gioan Tiền hô đã nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”. Ông kêu gọi mọi người sửa chữa đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là con đường dẫn chúng ta tới Chúa, hay con đường dẫn ơn Chúa đến với chúng ta, và chỉ khi nào chúng ta khiêm nhường và chân thành nhìn vào cuộc sống, thì chúng ta mới có thể thấy được những chỗ lồi lõm và quanh co để sửa chữa, để hoán cải và thay đổi. Lấy hành động bác ái, quảng đại, hy sinh, chu toàn bổn phận đối với Chúa, đối với giáo xứ, với gia đình để lấp những hố sâu. Bạt núi đồi là từ bỏ tính tự cao, tự phụ, có lòng khiêm nhường hy sinh phục vụ và giúp đỡ. Uốn nắn những chỗ quanh co, cong queo là từ bỏ những sự gian dối, giả hình, ăn không nói có, những lời chỉ trích gây tranh chấp, chia rẽ, lời nói và việc làm không đi đôi với nhau. San phẳng những chỗ gồ ghề lồi lõm là từ bỏ lối sống ích kỷ, những tính mê nết xấu, những sự nghiện ngập và đam mê, thù hằn, ghen ghét.
Chúng ta phải ý thức Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp chúng ta trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Chúa cũng chỉ đến với những người thành tâm đón nhận. Xin Chúa ban ơn giúp sức và chỉ dạy chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa dạy.
Mỗi khi Mùa Vọng về, hình ảnh Gioan Tẩy giả lại xuất hiện trong phụng vụ. Ông là vị Tiền hô MV 2-C191
Mỗi khi Mùa Vọng về, hình ảnh Gioan Tẩy giả lại xuất hiện trong phụng vụ. Ông là vị Tiền hô đến dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ông cũng là mẫu mực về sự khiêm tốn, can đảm và trung thành. Gioan khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. So sánh với Chúa Giêsu, ông nhận mình giống như người phù rể. Người phù rể hân hoan trước niềm vui của chú rể. Là người giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, ông hạnh phúc khi thấy người ta tuôn đến cùng Chúa và đón nhận giáo huấn của Người. Dù chỉ là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu, Gioan vẫn kiên trung trong sứ mạng dọn đường. Ông kêu gọi “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng”. Mọi người nghe Gioan Tẩy giả đều hiểu nội dung của lời kêu gọi này, đó là sửa soạn tâm hồn và ăn năn sám hối. Kết quả là từng đoàn người đông đảo khiêm tốn đến với ông và chịu dìm mình trong dòng nước sông Giordan để được ơn tha tội.
Hành trình Đức tin của người tín hữu chính là cuộc tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa. Đây là một hành trình lâu dài, liên lỉ và có nhiều chướng ngại. Để theo Chúa và trung tín với Ngài, chúng ta luôn phải kiên trung và can đảm vượt qua những chướng ngại đó. Như những vận động viên chuyên tâm khổ luyện để đạt được vòng nguyệt quế dành cho người chiến thắng, người Kitô hữu phải luôn chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng để thuộc trọn về Chúa. Ông Gioan dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những cố gắng hoàn thiện bản thân: lấp đầy lũng sâu, bạt thấp núi đồi, nắn thẳng quanh co uẩn khúc. Kinh nghiệm cho thấy, người ta có thể dễ dàng chiến thắng trong trận chiến với kẻ thù, nhưng lại ngã gục trước cám dỗ của cái tôi ích kỷ và đầy tham vọng. Cuộc chiến đấu để thanh luyện chính mình là một cuộc chiến đấu dai dẳng, đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh.
Mùa Vọng vừa mời gọi chúng ta nhìn lại mình, vừa nhắc chúng ta hãy nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Những cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân và thực thi bác ái sẽ giúp chúng ta bạt núi kiêu ngạo, lấp thung lũng hèn nhát. Cuộc sống hôm nay có nhiều cám dỗ, quá nhiều khuynh hướng khác nhau, lôi kéo chúng ta đi lạc đường. Những bon chen bận rộn của cuộc đời dễ làm chúng ta đắp những quả đồi hoặc khoét sâu khoảng cách đối với anh chị em. Khi can đảm dẹp bỏ mọi chướng ngại trong tâm hồn, chúng ta sẽ được “nhìn” thấy Chúa và vinh quang của Ngài. Lúc đó, Chúa sẽ là tất cả của đời sống chúng ta, và chúng ta sẽ chỉ nhìn lên Ngài như định hướng tuyệt hảo duy nhất của cuộc đời.
Lễ Giáng Sinh là ngày lễ của niềm vui, bởi có hạnh phúc nào lớn lao cho bằng được Thiên Chúa hiện diện. Ngôn sứ Barúc đã khẳng định điều đó (Bài đọc I). Ông kêu gọi mọi người hãy thay áo tang chế khổ nhục bằng áo choàng công chính. Vị Ngôn sứ được chiêm ngưỡng một khung cảnh huy hoàng rực rỡ của Giêrusalem. Muôn dân nước cũng tuôn đổ về thành phố có tên gọi “hòa bình” này để tôn thờ và ca tụng Chúa. Đó là thời Chúa tỏ mình ra. Khi đó, vũ trụ này sẽ không còn đau khổ, nhưng sự bình an và hạnh phúc sẽ như đại dương bao trùm tất cả.
Lời mời gọi bạt núi san đồi vẫn vang lên hằng năm. Tuy vậy, nơi đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn, vẫn còn đó những khuyết điểm lỗi lầm. Lời Chúa khích lệ chúng ta không nên thất vọng, vì chúng ta có nguồn trợ lực thiêng liêng đến từ Đấng Tối cao. Chúa Giêsu đã từ bỏ mọi sự để hủy mình ra không, trở nên một trẻ thơ nơi hang đá khó nghèo. Người đã trở nên nghèo để chúng ta được giàu có; Người đã trở nên yếu ớt để chúng ta được mạnh mẽ; Người đã đón nhận thập giá để chúng ta được vinh quang. Vì thế, ơn gọi của chúng ta là cố gắng “sống cho tinh tuyền, không gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm”.
Nhờ những cố gắng sửa đổi đời sống và thánh hóa bản thân, chúng ta có thể trở thành những Gioan Tẩy giả, giúp anh chị em xung quanh đón Chúa. Mỗi tín hữu chúng ta sẽ là tiếng kêu trong cuộc sống xã hội hôm nay đang rơi vào tình trạng “sa mạc hóa”, để giới thiệu Chúa đang hiện diện. Lúc đó, thế giới này sẽ bước đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa, cùng với lòng từ bi và công chính của Ngài.
Năm ngoái, khi làm con đường đắt nhất hành tinh tại Hà Nội, vì tránh ngôi nhà của một quan chức MV 2-C192
Năm ngoái, khi làm con đường đắt nhất hành tinh tại Hà Nội, vì tránh ngôi nhà của một quan chức nào đó, người ta đã phải uốn cong con đường. Khi bị truy vấn, họ không dám nói lên sự thật mà lại biện minh gọi đó là đoạn cong mềm mại. Ở Đồng Nai, dự án con đường bờ sông cũng bị dừng lại nhiều năm, đến nay chưa hoàn tất được vì vướng phải những ngôi nhà “nhạy cảm”. Người ta nói rằng, có lẽ ở Việt Nam, luật pháp chưa nghiêm minh hoặc do một ảnh hưởng ngầm nào đó nên mới có tình trạng như thế. Những ngày vừa qua, UBND Tp.HCM đã phải rút ra bài học sâu sắc khi làm ăn với nước ngoài, đó là nhà thầu Nhật Bản đòi phạt mỗi ngày 2,5 tỷ đồng vì chậm bàn giao mặt bằng đường xe điện Bến Thành – Suối Tiên do vướng mắc giải tỏa đền bù. Đến nay, việc trễ hợp đồng đã gần 2 năm, số tiền nộp phạt lên đến hàng trăm tỷ.
Con đường trong tâm hồn của mỗi người cũng bị tình trạng giống như thế. Có những lối sống bị bẻ cong, bị vướng mắc vì phải tránh né những bận vướng trong tâm hồn không giải toả được. Thiên Chúa muốn đến với mỗi người để bày tỏ tình yêu thương, nhưng con người vẫn không giải tỏa được những khúc quanh co, những bận vướng đó, khiến Thiên Chúa không đến với ta được.
Bài đọc một, tiên tri Baruc mô tả những việc Thiên Chúa yêu thương thực hiện cho dân Người. Qua lời vị tiên tri, Thiên Chúa nói với dân Israel: Hỡi Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang chế mà mặc lấy áo vinh quang. Hãy khoác lên mình áo công chính và đội triều thiên vinh quang mà Đấng Vĩnh Hằng ban tặng. Thiên Chúa sẽ cho khắp hoàn cầu được nhìn thấy ánh vinh quang rực rỡ của ngươi. Vị tiên tri còn tiên báo ngày tất cả con cái của Thiên Chúa sẽ được quy tụ về trong niềm vui mừng hớn hở : Ngày xưa, chúng bị giải đi như những tên nô lệ, nay sẽ đến ngày, Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với Giêrusalem trong tiếng cười hân hoan.
Lời tiên báo của Baruc gợi lên hình ảnh của một vị Thiên Chúa hết mực xót thương dân Người. Cho dù Israel có phản bội, từ chối Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn không thể từ chối họ. Ngài vẫn cho họ cơ hội và tương lai tươi sáng. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn chờ đợi nơi dân Người một thái độ thích hợp trước tình yêu của Ngài. Bài đọc một cũng cho thấy, để Thiên Chúa có thể đến viếng thăm và đem dân trở về, họ phải chẩn bị một con đường cho ngay thẳng: bạt thấp núi cao gò đồi, lấp đầy hố sâu, san phẳng những chỗ gập ghềnh. Trên con đường đó, Thiên Chúa sẽ dẫn họ bước đi dưới ánh sáng và lòng từ bi công chính của Người.
Con đường Chúa kêu mời Israel chuẩn bị là con đường trở về quê hương, nhưng cũng còn là con đường của mỗi người trở về với Chúa. Cần phải san bằng tất cả những chỗ gập ghềnh trên con đường ấy, để Thiên Chúa có thể đến với con người và con người có thể về với Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ cho thấy, Thiên Chúa của chúng ta là vị Thiên Chúa luôn chủ động bước đến con người. Ngài như người mục tử không biết mệt mỏi để tìm kiếm và cứu chữa những con chiên bị lạc, bị thương tích.
Tin Mừng Luca cho thấy, Thiên Chúa đã bước vào lịch sử nhân loại. Ngài không còn đứng bên trên hoặc bên ngoài để nhìn vào con người, nhưng đã chấp nhận bước vào thế giới, nhập cuộc với con người, để có thể đem tình yêu thương của Thiên Chúa cho thế giới loài người theo cách thức của con người. Việc Thánh Luca liệt kê các nhân vật trong lịch sử: Năm thứ mưới lăm triều hoàng đế Tiberiô, Phongxiô Philatô làm tổng trấn…để cho thấy việc xuất hiện của Gioan Tiền Hô và của Đấng Cứu Thế không phải là một câu chuyện hoang tưởng, mà là một biến cố lịch sử, tức là có thể xác định được không gian và thời gian.
Gioan được chọn trở thành người dọn đường cho Đấng Cứu thế. Ông mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn, thay đổi thái độ sống, để có thể đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Ông cũng kêu gọi mọi người tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa để sám hối và đón nhận ơn tha thứ. Sám hối không chỉ là than khóc về quá khứ, nhưng phải là một quyết tâm thay đổi từ trong suy nghĩ đến hành động, thay đổi nếp sống cũ không phù hợp với Thiên Chúa để tạo lập một nếp sống mới tốt hơn. Sám hối đòi mỗi người phải có những hành động quyết liệt: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, mở lối cho thẳng để Người đi. Như thế, việc sám hối là việc cần phải làm ngay lúc này, không thể chần chừ, phải luôn dọn sẵn, để bất cứ lúc nào Thiên Chúa cũng có thể đến với con người. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho phẳng, đường quanh co uốn lại cho ngay, đường gồ ghề phải san cho bằng. Con đường Gioan nói lúc này chắc chắn không phải là con đường bằng đất bằng đá nữa mà là con đường trong tâm hồn.
Như vậy, để đón nhận Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, là hiện thân của lòng Chúa thương xót, chúng ta cần phải khai thông những chỗ ùn tắc trong tâm hồn. Mọi đồi núi của sự kiêu căng, tự mãn, tự phụ cần phải được san phẳng, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng và Ngài nâng cao kẻ khiêm nhường. Mọi chỗ gồ ghề trong tâm hồn là những lối sống quanh co, gian dối, là cách làm ăn bất minh, bất chính cần phải được làm cho bằng phẳng để có thể có được một tâm hồn bình an, một lương tâm trong sáng. Nếu như con đường quốc lộ, chính quyền có thể dùng biện pháp cưỡng chế giải toả cho thông thoáng, nhưng con đường trong tâm hồn thì không thể cưỡng chế bằng bất cứ biện pháp nào nếu một khi người đó không muốn. Vì thế, không ai khác hơn là chính mỗi người phải tự nắn lại con đường mình đang đi, tự mình giải toả những vướng mắc đang cản trở bước tiến của mình cũng như cản đường của Thiên Chúa.
Chúng ta cũng cần phải san bằng những con đường gồ ghề trong gia đình. Do sự khác biệt về tuổi tác giữa các thế hệ, do sự tác động của xã hội, khiến cho nhiều gia đình vợ chồng cha mẹ, con cái, dù ở trong một nhà nhưng vẫn không thể đến với nhau, không thể nói chuyện với nhau. Nhiều gia đình anh em, cha mẹ vì một chút quyền lợi, của cải đất đai mà không còn nhìn mặt nhau, coi nhau như người dưng nước lã. Cần phải lấp đầy con đường này bằng tình yêu thương và sự quảng đại, bằng sự cảm thông và tha thứ, để các thành viên trong gia đình có thể bước đến với nhau.
Cũng còn có những con đường đang bị vướng mắc bởi sự giàu có, bởi sự tiện nghi và bởi thiếu tình yêu thương trắc ẩn bởi ít khi đi lại, khiến cho nó trở nên rậm rạp um tùm, đó là con đường đến với người nghèo và những người bất hạnh. Sống trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót là cơ hội để chúng ta khai thông những con đường này. Hãy chủ động dẹp đi những bận vướng, những rào cản để mỗi người có thể đi ra khỏi sự giàu có hưởng thụ, khỏi sự êm ấm an toàn của mình để có thể đến với những con người nghèo khó, bất hạnh. Họ đang cần nơi chúng ta không hẳn là tiền bạc bố thí, nhưng họ đang cần nơi chúng ta tình yêu thương và sự cảm thông, tôn trọng. Đừng cố ý hay vô tình nhân danh những con người nghèo khó này để trục lợi hay làm tổn thương họ.
Chúng ta cũng cần phải giải tỏa và làm thông thoáng con đường đến với anh chị em. Trong thực tế, nhiều người, nhiều nhà đã chặn rào bịt lối của nhau khiến cho hàng xóm không còn lối ra. Cũng vậy, trong đời sống đạo cũng như đời sống thường ngày, chúng ta cũng đã lấn chiếm đường xá, xây ụ đắp mô khiến đường xá trở nên nhỏ hẹp. Con đường bên ngoài đã trở nên nhỏ hẹp thì con đường trong tâm hồn sẽ không còn có thể đi lại được được nữa, vì đã bị những sự nghi kỵ, ghen tị rào kín. Có nhiều người là hàng xóm với nhau, nhưng đã nhiều năm nghi kỵ, thù hận đến độ ra trông thấy nhau, vào trông thấy nhau mà không có được một lời chào hay thăm hỏi.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mời gọi chúng ta bảo vệ và làm cho môi trường sống trở nên sạch đẹp. Hãy bắt đầu từ con đường ở cửa nhà mình, đừng biến đường chung thành của riêng, đừng xả rác và làm tắc nghẽn con đường và dòng nước chảy. Trái lại, hãy làm cho mọi con đường trước cửa nhà, trong ngõ xóm trở nên sạch đẹp, thông thoáng, cũng cần làm sạch đẹp mọi con đường trong tâm hồn. Hãy trồng thêm cây xanh, bông hoa không chỉ ở cửa nhà mà còn phải trồng nhiều bông hoa trong tâm hồn của mình, để con đường ấy sẽ là con đường chờ đón Chúa đến trong và cũng là con đường để chúng ta có thể đến với anh em trong niềm vui. Amen.
Dọn đường là công việc chuẩn bị để đón tiếp một nhân vật đặc biệt nào đó. Dọn đường có thể MV 2-C193
Dọn đường là công việc chuẩn bị để đón tiếp một nhân vật đặc biệt nào đó. Dọn đường có thể theo nghĩa đen là dọn dẹp đường sá cho vệ sinh hơn, tươm tất hơn, gọn gàng hơn, lấp những chỗ lõm, san những chỗ lồi,… Dọn đường cũng có thể có nghĩa đen là trang trí cờ xí, treo đèn, kết hoa,… hoặc nghĩa bóng là tích cực đổi mối cách sống,… Dĩ nhiên nghĩa bóng quan trọng hơn nghĩa đen. Nói chung, dọn đường là làm những gì đẹp mắt nhất.
Bề ngoài cần như vậy, bề trong còn cần hơn, nhất là khi chúng ta chuẩn bị đón Vua các vua và Chúa các chúa: Đấng Thiên Sai Giêsu Kitô. Ngài thực sự đã đến thế gian – và chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm ngày Ngài đến thế gian lần thứ nhất trong cương vị Vua Thương Xót, nhưng rồi Ngài đã về trời, và rồi Ngài sẽ lại đến thế gian lần thứ hai trong cương vị Vua Công Lý, Thẩm Phán tối cao và chí minh.
Trước khi Chúa Giêsu đến thế gian lần thứ nhất, Gioan Tẩy Giả (Tiền Hô) đã xuất hiện trong cương vị “người mở đường”, đi tiên phong để chuẩn bị cho sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô. Gioan Tẩy Giả rất khác thường, nói đúng ra là một “dị nhân”. Vì thế, nhiều người thấy ông mà cứ tưởng ông là Đấng Mêsia, là Êlia, hoặc một ngôn sứ nào đó. Nhưng ông biết rõ ông là ai: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:30). Người “đến sau” mà lại “có trước”, người không có đức tin sẽ cảm thấy chói tai, vì theo lẽ thường thì điều đó “ngược đời” lắm. Như phụ nữ Samari, khi đối thoại với Chúa Giêsu bên giếng nước, cũng đã thắc mắc: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này?” (Ga 4:12).
Về câu nói của ông Gioan Tẩy Giả, các Phúc Âm nhất lãm cũng cho biết tương tự: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3:11; Mc 1:7; Lc 3:16). Ông Gioan không tự đánh lừa mình hoặc đánh lừa người khác, và ông khiêm nhường tự nhận: “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc. Hãy dọn đường cho Chúa đến!” (Ga 1:23).
Ngày xưa, ông Ba-rúc (con ông Nê-ri-gia) nói với dân chúng: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa, và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng” (Br 5:1-2). Thật hạnh phúc biết bao vì được Thiên Chúa quan tâm và yêu thương như vậy, càng hạnh phúc hơn khi Ngài không coi chúng ta là tội đồ mà trao ban cho chúng ta những điều kỳ diệu, vượt quá ước mơ của chúng ta.
Lý do đó rất lạ, hầu như chúng ta không dám tin, nhưng đó lại là sự thật minh nhiên. Ngôn sứ Ba-rúc giải thích rõ ràng: “Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi. Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi là Bình An xây dựng trên công chính và Vinh Quang phát xuất từ lòng kính sợ Thiên Chúa” (Br 5:3-4). Vâng, quá đỗi kỳ diệu!
Ngôn sứ Ba-rúc tiếp tục động viên: “Vùng lên, Giêrusalem hỡi, hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông: Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy. Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui. Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng” (Br 5:5-6). Đúng là ngỡ như giấc mơ vậy!
Thiên Chúa chí thánh, ngay thẳng, mọi nơi Ngài đến phải tươm tất, gọn gàng và sạch sẽ: “Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa. Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người (Br 5:7-9). Thật hạnh phúc khi chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, giàu lòng thương xót, muốn cứu vớt chứ không muốn sát hại, muốn tha thứ chứ không muốn trừng phạt. Có lẽ đôi khi chúng ta có mơ cũng chẳng thấy, thế mà lại là sự thật minh nhiên.
Tác giả Thánh Vịnh cũng đã từng phải thốt lên: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ” (Tv 126:1). Vâng, không ngạc nhiên sao được, không bất ngờ sao được, khi nhãn tiền chứng kiến những điều kỳ diệu như vậy. Quá đỗi hạnh phúc, niềm vui vỡ òa, thế nên dân chúng hân hoan cùng nhau “vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng”. Và rồi khi thấy vậy, dân ngoại đã xôn xao bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2). Họ cũng phải tâm phục, khẩu phục. Chắc chắn không ai có thể trì hoãn sự sung sướng được!
Việc Chúa làm cho chúng ta thật là vĩ đại, từ việc nhỏ tới việc lớn – đơn giản mà quan yếu như không khí, và hẳn là cõi lòng ai cũng chan chứa niềm vui khôn tả. Sung sướng và hạnh phúc, nhưng không được “ngủ quên”, mà vẫn phải không ngừng cầu nguyện, vì chúng ta vẫn còn trong thân xác phàm nhân, chưa thực sự thoát sự kềm kẹp của ma quỷ. Do đó, chúng ta phải tỉnh thức, noi gương tác giả Thánh Vịnh cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam” (Tv 126:4). Hạnh phúc nào cũng có ít nhiều nước mắt, đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:5-6).
Cầu nguyện luôn quan trọng, cho mình và cho người khác. Như hơi thở cần thiết để duy trì sự sống thể lý thì cầu nguyện là hơi thở để duy trì sự sống tâm linh, nhất là trong Mùa Vọng này. Không cầu nguyện, thân xác còn sống nhưng linh hồn đã chết. Thánh Phaolô nói về việc cầu nguyện: “Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (Pl 1:4-6).
Thánh Phaolô phân tích chi tiết và cụ thể: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu. Điều tôi khẩn khoản nài xin là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm. Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 1:8-11).
Tôn vinh, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa không chỉ là trách nhiệm và bổn phận của mỗi chúng ta, mà còn là quyền lợi. Chúng ta làm vậy cũng chẳng thêm điều gì cho Ngài, nhưng chính động thái đó lại sinh ích lợi cho chính chúng ta. Thật là trên cả tuyệt vời!
Trình thuật Lc 3:1-6 (tương đương Mt 3:1-12; Mc 1:2-6; Ga 1:19-28) nói về lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả. Trình thuật Tin Mừng hôm nay ngắn gọn nhưng súc tích, xoáy sâu vào tâm điểm của Mùa Vọng.
Lúc đó là năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế. Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là chàng Gioan (anh em họ với Chúa Giêsu) ở trong hoang địa. Gioan liền đi khắp vùng ven sông Giođan để rao giảng và kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Những thung lũng hiềm khích, thù hận; những núi ghen tuông, những đồi gièm pha; những khúc quanh lươn lẹo, gian ngoa, lừa bịp; những con đường đầy ổ gà kèn cựa nhau, đầy ổ voi khích bác nhau, trù dập nhau; và còn rất nhiều những “vùng tối” âm u hơn những cánh rừng nguyên sinh, đầy thú dữ,… Chúng ta đã san bằng được gì, lấp được hố nào, uốn thẳng được chỗ nào?
Chuẩn bị đón mừng Chúa Giêsu giáng sinh không phải là chỉ đua nhau làm những hang đá sang trọng, lộng lẫy, đồ sộ và tốn bạc triệu, bạc tỷ, hoặc lo sắm sửa đủ thứ để viện cớ là “ăn mừng” Lễ Giáng Sinh. Chúa không cần những thứ đó, và Ngài cũng không “chấm công” cho chúng ta vì những thứ xa xỉ đó. Hãy san bằng những hang đá cồng kềnh đó đi! Tại sao người ta không cố gắng san bằng khoảng cách giàu – nghèo, khoảng cách cười – khóc, khoảng cách vui – buồn, mà lại cứ “nới rộng” hoặc “đào sâu” thêm những khoảng cách “vô tình” đó?
Thiết tưởng, tấm lòng của những người mà chúng ta gọi là “khố rách áo ôm” hoặc “nghèo rớt mồng tơi” mới thực sự là những máng cỏ mà Chúa Giêsu Hài Đồng muốn sinh ra và trú ngụ… Họ chịu nghèo thay chúng ta đấy, vì thế họ được Chúa yêu thương nhiều. Rất hợp lý! Thánh Phaolô phân tích: “Một số cành cây ô-liu đã bị chặt đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ô-liu chính. Vì thế, bạn đừng có lên mặt khinh dể các cành khác” (Rm 11:17-18). Và chính Chúa Giêsu đã xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Thảo nào có lần Ngài đã dạy: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10).
Veni, Emmanuel! Lạy Đấng Emmanuel, xin ngự đến!
Lạy Thiên Chúa chí ái, xin giúp con biết can đảm san lấp mọi chướng ngại ngăn cản con đến với Ngài qua tha nhân. Xin cho con một trái tim hoàn toàn mới để con biến đổi cấp tốc cho kịp đón mừng Con Một Ngài là Đấng Thiên Sai. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Để việc kinh doanh mang lại hiệu quả tốt nhất, ngoài năng lực, kinh nghiệm, người ta còn phải MV 2-C194
giám sát thực tế, đến tận nơi mà họ sẽ dồn công sức tiền của vào việc đầu tư làm ăn. Để biểu lộ lòng mộ mến, chúng ta vẫn chuẩn bị nhà cửa, không gian thích hợp, mỗi khi đón khách, nhất là khách quý. Kế hoạch làm kinh tế, phép lịch sự xã giao, tùy mỗi người, mỗi giai đoạn mỗi khác, nhưng trong tương quan người ta vẫn qui về câu châm ngôn : vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi. Đúng là chất xám, kiến thức, luôn cần thiết đối với mọi tầng lớp xã hội, nhằm giúp người ta đạt được thành công tốt đẹp.
Tin Mừng hôm nay cho thấy nhiều nghịch lý, ông Gioan vào nơi hoang địa để kêu gọi người ta sám hối, thay vì phải đi đến các thành thị, ông kêu gọi sửa đường để Chúa đi, chứ không phải để mọi người đi. Lời hô hoán không phát xuất từ nơi vua chúa quan quyền, hay người có vị thế trong xã hội, mà từ một nhân vật “chân quê” mang tên Gioan. Chúa sẽ đến, Chúa đang đến, chỉ có ý nghĩa khi con người biết chuẩn bị thái độ hầu gặp gỡ, đón nhận. Nếu như có thể, hãy cùng nhau sửa đường bạt lối để Chúa đến, nếu không thể, hẳn chớ cản đường cản lối, làm hại ai.
Con đường nào sửa chữa, làm mới, cũng cần đến thời gian công sức, dù đường tự nhiên hay đường thiêng liêng. Đổi mới tâm hồn, sửa sang lại đời sống cách nghiêm túc là điều cần thiết, dù không ai nhìn thấy, nhưng Chúa biết. Thời nào, hoàn cảnh nào cũng vậy, việc đổi mới con người, thay đổi cách sống, không thể thiếu những cố gắng, hy sinh, từ bỏ. Chúa đến thăm gia đình, Chúa thăm tâm hồn, hay Chúa đến để cứu độ nhân loại, việc dọn dẹp chuẩn bị không thể đại khái, tùy ý được.
Dù không thế lực nào có thể cản ngăn được tình yêu thương và ơn cứu độ của Chúa, nhưng con người vẫn được mời gọi chuẩn bị xa, chuẩn bị gần để Chúa đến ; tình yêu có dồi dào, hạnh phúc càng tuyệt đối. Để Chúa đến khai mở triều đại mới, một triều đại chỉ có niềm vui, bình an và tình yêu, do đó mà Thiên Chúa đã sai nhiều sứ giả, đặc biệt vị ngôn sứ Tiền Hô hôm nay đang kêu gọi ta sám hối, dọn đường, dọn lòng, nhận lãnh ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Ngôn sứ Gioan ở hoang địa, nhưng ông vẫn hô to, tiếng hô ấy có khả năng chạm vào chốn sâu thẳm của tâm hồn con người. Vì thế, cả khắp miền sông Gio-đan và các vùng lân cận, người ta tìm đến để xin Gioan làm phép rửa, bày tỏ lòng sám hối, chuẩn bị nhận lãnh ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, Chúa vẫn đang sai các sứ giả của Chúa tới, nhưng con người còn nghe được lời mời gọi sửa đường, bạt lối cho ngay thẳng để Chúa đến không ? Ngày nay, chúng ta không phải vất vả tới sông Gio-đan để thể hiện lòng sám hối ; nhưng nhất định phải biết đến sa mạc của lòng mình, để được thay đổi, xứng hợp với cuộc gặp gỡ thân tình với Đấng cứu độ trần gian.
Gioan Tiền Hô ở hoang địa, ông không kêu gọi mọi người dọn tiệc, không hô người ta trở về hội đường để cầu nguyện lâu giờ, hầu đón Chúa cho long trọng. Gioan đã chỉ dẫn mọi người phải sám hối để được ơn tha tội, để Chúa đến, để thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chính vì sự giới hạn, con người không thể tự mình trở nên tốt, không tự giữ tâm hồn mình khỏi hư hỏng ; Chúa biết điều đó, Ngài sai sứ giả đi trước chuẩn bị cho mọi người cách thế đón nhận ơn cứu độ.
Sách có câu : nếu bạn có lương tâm trong sáng, bạn không cần phải đi gõ cửa lúc ban đêm. Đúng, nếu tâm hồn ta sạch đẹp, dù ở phương trời nào ta cũng nghe được Tiếng Hô của sứ giả Chúa, nếu biết chuẩn bị, biết sám hối, trái tim của ta sẽ dễ dàng mở rộng để Chúa đến. Có nghe mới hiểu, có hiểu mới thấy Đức Giêsu chính là tình yêu và ơn cứu độ được ban cho con người. Sự thu hút của Gioan nơi hoang địa, đám đông dân chúng tuôn đổ về sông Gio-đan, chắc không phải là khả năng hùng biện của Gioan, mà phải là ảnh hưởng sâu đậm của Lời Thánh Kinh được loan báo.
Để Chúa đến, vẫn mãi là sứ điệp được hô vang bao lâu chúng ta chưa kết thúc chặng đường trần thế. Để ơn cứu độ được ban cho mọi tâm hồn, nhất định ai cũng phải thật lòng sám hối, dù cuộc sống có “lắm bả phù vân”. Chúng ta chỉ thất bại thật sự, một khi chúng ta đã từ bỏ mọi cố gắng. Nếu Nho Giáo cho rằng : không có cái tai hại nào lớn hơn là không chịu sửa mình; thì hôm nay, tiếng hô nơi hoang địa, thế nào cũng sẽ làm đổ sập tất cả những tâm hồn chai cứng : nghe, hiểu, mà không sám hối. Để Chúa đến, để ơn cứu độ không trở nên vô ích, hãy khiêm tốn để Lời Chúa khai mở trí lòng mà hiểu rõ hơn vì sao Thiên Chúa nhập thể làm người. Amen.
Phàm nhân mang lấy án phạt từ thần dữ, là tội kiêu ngạo, phản nghịch lại Đấng toàn năng, một ân MV 2-C195
Phàm nhân mang lấy án phạt từ thần dữ, là tội kiêu ngạo, phản nghịch lại Đấng toàn năng, một ân ban muôn thuở. Có thể, con người trong muôn thế hệ không thể nhận ra điều quan trọng ấy.Nhưng, Thiên Chúa đã mặc khải, tức biểu lộ nhiều lần, nhiều cách, nhưng , phàm nhân vẫn bưng tai bịt mắt, vì án phạt nguyên tổ đã dày đặc.
Vì một dấu chỉ nào đó, qua các ngôn sứ, dân tộc Dothai nhận ra và mong chờ “ ƠN CỨU ĐỘ”. Nhưng, đáng thương thay, cũng chính họ không nhận ra” ƠN CỨU ĐỘ” mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại qua họ. Trước Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, họ sống trong một niềm mong chờ, nỗi khao khát đến cháy bỏng. Nỗi chờ mong một Vị Cứu Tinh cho dân tộc Dothai của họ và theo ý họ . Nhưng, Thiên Chúa không ban riêng Vị Cứu Tinh cho họ và theo ý họ. Bởi vì, Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho hết thảy phàm nhân.
Thật vậy, sự sống của phàm nhân trên mặt đất, nếu không nhận biết Thiên Chúa, thì chỉ có đồng tiền. Nhưng, đồng tiền là phương tiện để sinh sống, chứ không phải là nguyên lý của sự sống. Vì đồng tiền chỉ lưu giữ sự sống cho phàm nhân cách hữu hạn nơi trần thế, chứ không thể tạo ra sự sống, hoặc bảo tồn sự sống. Như vậy, mặc nhiên, đồng tiền có sự giới hạn. Nhưng, mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ đồng tiền, tức phương tiện vật chất.
Như vậy, ơn cứu độ và đồng tiền hoàn toàn đối lập nhau. Vì ơn cứu độ hoàn toàn không thể dùng tiền để mua được. Vì ơn cứu độ dẫn đưa con người đến sự sống bất diệt, viên mãn. Còn đồng tiền sẽ dẫn đưa con người đến sự chết, sự chết muôn đời.
Đồng tiền là phương tiên chối bỏ Thiên Chúa, sự cám dỗ dành cho con người sự sống tạm bợ, xa hoa, tiện nghi giả tạo. Vì, sự sống hiện hữu chỉ xoay quanh đồng tiền.
Núi đồi, thung lũng, đường quanh co, chính là lòng người, tâm hồn bất chính của con người. Nếu lao động chân chính tạo ra vật chất cho gia dình xã hội và bản than là sự thánh thiện to lớn. Bời vì, lao động là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhưng, lòng lang, dạ sói, mưu đồ bất chình, làm giàu bât chấp mọi tội ác là núi đồi, thung lũng, đường quanh co. Nếu chúng ta không sửa cho ngay thẳng, lấp cho đầy, chúng ta không thể đón nhận được ơn cứu độ, như dân Dothai đã được Thiên Chúa ban Đấng Cưu Tinh , nhưng, họ không đón nhận Đấng Cứu Tinh, THÌ ƠN CỨU ĐỘ SẼ KHÔNG ĐẾN VỚI HỌ, dù họ sống trong sự mong đợi, sự khát khao Đấng Cứu thế thì cũng vô ích.
Tâm tình người Kitô hữu ngày nay có khao khát, chờ mong Đấng Cứu Thế như “Tiếng kêu” trong hoang địa của thánh Gioan Tiền Hô hay không? Một gương sống từ bỏ, một gương sống “ dọn đường” cho Đấng Cứu Thế. Có nghĩa là, thánh Gioan Tiền Hô đã tích cực chờ mong, sống tâm tinh mong đợi Đấng Cứu Thế cách tích cực nhất.
Ngày nay, những ai noi gương Gioan Tiền Hô, dường như cũng mang lấy “tiếng kêu” trong sa mặc như ngài. Nhưng, đừng thất vọng mà hãy mang tâm tình “ mùa vọng ” như ông. Một mẫu gương “ Mùa Vọng” đích thực. Ơn cứu độ sẽ ban cho phàm nhân với điều kiện phải “dọn đường” cho Chúa đến
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian lần thứ Nhất, mặc lấy nhân tính, để cứu độ phàm nhân. Trong thân phận người lữ thứ, hầu chia sẻ cảnh gian truân của người phàm, bằng sự kêu gọi sống công chính, qua nhân vật Gioan Tiền Hô. Xin cho loài người biết chân nhận và đáp trả, hầu mang lại ơn cứu độ cho họ. Để mong chờ Chúa đến trong vinh quang lần thứ hai. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ktiô, Chúa Chúng con ./. Amen
“Mọi núi đồi, phải bạt cho thấp”: Núi cao tượng trưng cho sự tự cao và kiêu căng. Đó là những người luôn thích khẳng định mình, không chấp nhận những khác biệt của tha nhân và thậm chí còn loại trừ người khác. Chê bai, chỉ trích, nói xấu, không có khả năng lắng nghe, thiếu tinh thần đối thoại, độc tài, quyền hành….là những biểu hiện của người có đầu óc và tâm hồn cao như núi thái sơn.
“Khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”: Quanh co, lồi lõm ám chỉ đến một lối sống thiếu ngay thẳng và chân thành. Gian dối, lươn lẹo, khôn ranh, giả hình, hai mặt, sống nước đôi…là những biểu hiện của những người có một cuộc sống không chân thật. Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay, ta nhận thấy rằng “anh chị gian dối” đang có mặt ở khắp mọi nơi. Có người đau đớn phải thốt lên: “Gian dối trở thành thói quen. Thói quen từ từ, dần dần với thời gian biến thành văn hóa”.
Kiêu căng, gian dối và những khuyết điểm khác cũng có thể tồn tại một phần nào trong tâm hồn ta và nó đang điều khiển những hành vi, thái độ ứng xử của ta với Thiên Chúa và tha nhân. Bài hát “Từ Trái Tim Con” của Linh Mục- Nhạc Sĩ Thái Nguyên có thể giúp ta nhìn rõ tận cõi lòng của mình:
“Chúa ơi xin dẫn con vào nhà của con Căn nhà của trái tim con Căn nhà vừa quen vừa lạ Xin cho con thấy những phủ vây đời con đây Những che đậy giằng co hằng ngày Những ngổn ngang giăng mắc tâm can Xin cho con thấy những hững hờ biết mấy khô khan Những lỡ lầm phút chốc hoang mang Những lo toan buồn thương lỡ làng. …Xin cho con thấy những nhỏ nhoi và yếu đuối Vẫn trĩu nặng đời con nhọc nhằn Vẫn làm con đau nhức tâm can Xin cho con thấy cõi tâm hồn trống vắng hoang vu Những hận thù bóng tối âm u Vẫn phủ che đời con tháng ngày.
…Xin cho con thấy những đổi thay lòng con đây Đã bao lần chạy theo lợi danh Đã nhạt phai tình nghĩa anh em Xin cho con thấy những sa lầy xuống cấp trong tâm Đã âm thầm biến chất nơi con Đã đưa con dần xa cách Ngài”.
Đời ta là thế. Cuộc sống ta luôn bất toàn và có nhiều giới hạn. Hạnh phúc thay ! Chúa Giêsu đã chấp nhận bước vào một thế giới đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Người cũng không ngần ngại đến với những cuộc đời còn có nhiều khuyết điểm và sẵn sàng bước vào nhà của những tâm hồn vẫn còn nhiều tội lỗi. Chúa Giêsu đã vui lòng chấp nhận như thế để tỏ Lòng Thương Xót và giúp ta biến đổi từng ngày. Người là Ánh Sáng đến xua tan bóng tối. Đó là một sự liều lĩnh của Thiên Chúa. Trong Tông Sắc “Misericordiae Vultus” (Khuôn Mặt Thương Xót), Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định: “Chúa Giêsu là khuôn mặt Lòng Thương Xót của Chúa Cha. Lòng Thương Xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Đức Giêsu thành Nagiarét và đạt đến đỉnh cao nơi Ngài” (MV số 1).
Dọn lòng- dọn dẹp tâm hồn-điều chỉnh lại cuộc sống là một việc làm thiêng liêng đầy thách đố và khó khăn. Ta phải bắt đầu lại mỗi ngày và thực hành suốt cả cuộc đời. Một mình ta không thể làm tốt được vì bản tính con người luôn yếu đuối và đầy giới hạn. Tuy nhiên, bên cạnh ta có Chúa Giêsu-một người Bạn đồng hành có thể trợ giúp ta luôn luôn. Người đang chờ ta nơi Bí Tích Giao Hòa. Thiên Chúa dùng trung gian các Linh Mục để thực thi Lòng Nhân Từ đối với những tội nhân.
Trong Năm Thánh đặc biệt về Lòng Chúa Thương Xót, Đức Thánh Cha khuyên các tín hữu như sau: “Chúng ta hãy đặt Bí Tích Hòa Giải ở trung tâm một lần nữa sao cho Bí Tích này giúp mọi người chạm vào sự hùng vĩ của Lòng thương Xót Chúa…Với mỗi hối nhân, Bí Tích này sẽ là nguồn mạch của bình an nội tâm thật sự” (MV số 17).
Ngài còn nhắc nhở các Linh Mục: “Mỗi cha giải tội phải đón nhận các tín hữu tương tự như người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng…Các cha giải tội được mời gọi ôm người con trai ăn năn đang trở về nhà và diễn tả niềm vui được có lại người con ấy…Cầu xin cho những cha giải tội đừng đặt ra những câu hỏi vô ích…Cầu xin cho các cha giải tội học được cách chấp nhận những lời kêu gọi giúp đỡ và lòng thương xót tuôn chảy từ trái tim của mỗi hối nhân” (MV số 17).
Vậy khi đến với Bí Tích Giao Hòa, tâm hồn ta sẽ chạm vào Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu sẽ tha thứ cho ta. Người ban cho ta sự bình an trong tâm hồn. Chính Chúa Giêsu sẽ quyét dọn căn nhà nội tâm của ta và biến đổi ta trở thành một con người mới.
“Chúa ơi xin thương đổi mới trái tim hoang dại đã bao u hoài Chúa ơi rửa sạch bợn nhơ trong trái tim con đã bao ngày qua Để lại cho con trái tim hiền hòa đơn sơ tươi nở Giống như trái tim tình yêu muôn đời của Chúa vẫn bao la tuyệt vời Để lòng vui sống thảnh thơi tình yêu mến Chúa sáng ngời đẹp tươi”.
Trên con đường dẫn vào một họ đạo vùng thôn quê, đập vào mắt tôi không phải là những cây xanh MV 2-C197
Trên con đường dẫn vào một họ đạo vùng thôn quê, đập vào mắt tôi không phải là những cây xanh hay những hàng cây ăn trái trĩu quả dọc hai bên đường, mà là những thùng rác đặt ven lối đi dọc lộ. Nhờ những thùng rác công cộng này mà con đường trở nên sạch đẹp, thoáng mát.
Từ hình ảnh đó cho tôi một suy nghĩ: Trong khi kêu gọi người dân ý thức bảo vệ môi trường, thì phải biết tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hành ý thức đó. Thùng rác là một việc làm cụ thể.
Bước vào Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, tất cả các bài đọc của chu kỳ phụng vụ A, B, C đều nói đến việc dọn đường, và làm mọi cách để giúp chúng ta dọn đường.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Tin Mừng Matthêu của năm A viết: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.
Cũng với ý tưởng đó, trong năm B, Maccô trích lời của tiên tri Isaia: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Hơn thế nữa, để giúp người khác dọn đường, Maccô mô tả chân dung vị tiền hô của Đức Chúa là Gioan Tẩy Giả. Ông đã “xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Ông còn giúp người ta dọn đường bằng chính cuộc sống mang tính tiên tri của ông: “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và uống mật ong rừng”.
Còn trong Tin Mừng của năm C mà chúng ta vừa nghe đọc, những việc làm cụ thể để dọn đường cho Đức Chúa được Luca liệt kê: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”.
Như vậy lời Chúa không phải chỉ là một khẩu hiệu, một lời hô hào, mà còn là những chỉ dẫn hết sức cụ thể để con người có thể thực hành. Hơn thế nữa, chính Chúa đã làm gương trước để con người noi theo.
II. CHUẨN BỊ CHO ƠN CỨU ĐỘ
Vị tiền hô Để chuẩn bị cho con người đón nhận ơn cứu độ, Thiên Chúa đã chọn vị tiền hô để ông “đi trước Chúa, mở lối cho Người”. Đời sống của ông là một lời nói tiên tri cho con người.
“Ở trong hoang địa” nghĩa là ông xa lánh mọi thứ vui thú, không ồn ào, náo động, nơi ông đối diện với chính con người ông, để từ đó ông đối diện với Thiên Chúa.
“Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da”. Phải hiểu bối cảnh thời đó là sự hy sinh nhiệm nhặt. Da và lông thú khoác trên người sẽ làm cho ông không được thoải mái, nhắc nhở cho ông nhớ đến mục đích chính yếu của đời người là gì, chứ không phải để trang hoàng như ngày hôm nay.
“Ăn châu chấu và uống mật ong rừng” để thân xác ông nhẹ nhàng, thanh thản: “Không để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”.
Từ lối sống đó, ông đã nghe được tiếng Chúa để rao giảng lại cho dân chúng: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”.
Đức Giêsu Kitô Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, Đức Giêsu cũng đã trãi qua thời gian 40 ngày trong sa mạc. Ở đó, Ngài chiến đấu để vượt qua ý riêng mình hầu dễ dàng thực hiện thánh ý của Chúa Cha.
Trong suốt cuộc sống của Ngài, không hề có một sự tìm kiếm để hưởng thụ, nhưng luôn hy sinh để đem đến hạnh phúc cho người khác, nhất là cái chết trên cây thập tự của Ngài.
Ngài không bị vướng bận bởi những quyến luyến của tình cảm, vật chất, tiền bạc, nơi ăn, chốn ở,… vì Ngài luôn nhớ: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta”.
Những lời ra giảng đầu tiên trong sứ vụ của Chúa Giêsu vẫn là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Để nêu gương sám hối, mặc dù không phải là tội nhân, nhưng Ngài cũng đã đến xin ông Gioan để được thanh tẩy bằng nước.