Vừa được tin bà chị họ Êlisabét, hiếm hoi già cả sắp được Chúa ban cho một cậu ấm, Đức Maria sẵn có đức thương người, đã không quản ngại đường xa dặm thẳm, vội vã lên đường đi thăm giúp đỡ gia đình bà chị neo đơn ở một thành phố trên miền núi Giuda. Suốt cuộc hành trình lội bộ hơn 150 cây số, gian nan, nguy hiểm, vất vả, cực nhọc, Đức Maria vẫn không ngớt ca tụng, cảm tạ Chúa đã thương đoái đến mình và bà chị son sẻ. Đức Maria vừa thăm viếng, vừa giúp đỡ,vừa đem niềm vui ơn phúc vô cùng của Đấng Cứu thế đến cho gia đình.
Thoạt nghe lời Đức Maria chào, bà Êlisabét đã nhận ra ngay những ơn lạ lùng đổ xuống trên bà và con bà. Bà đã được đầy ơn Thánh thần nhận ra Maria là mẹ Thiên Chúa. Bà đã lớn tiếng ca ngợi Maria: “Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ và người con em cưu mang cũng thật có phúc. Bởi đâu tôi được mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi… Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói cho em biết”.
Mẹ được đầy Thánh thần, con được nhảy mừng trong lòng Mẹ vì được phúc gặp Đấng Cứu thế trong lòng Maria. Bởi đâu gia đình bà Êlisabét được đầy ơn phúc? Thưa bởi đức tin mạnh mẽ và đức ái nhiệt thành của Đức Maria như lời bà Êlisabét nói: “Vì em đã tin lời Chúa”.
Đức Maria là gương mẫu đức tin mạnh mẽ: Không bao giờ Maria dám mơ tưởng mình là Mẹ Đấng Cứu thế vì Ngài thấy rõ thân phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, đã đính hôn với một bác thợ mộc lao động cực khổ ở một làng quê mùa vô danh. Thế mà: “Phận nữ tỳ hèn mọn lại được Thiên Chúa đoái thương tới” (Lc. 1,48). Khi biết đó là ý Thiên Chúa, Đức Maria đã tin và dám xin: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời sứ thần nói”. Lời xin vâng thật khiêm tốn, luôn luôn chỉ coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, không dám nhận là Mẹ Đấng cao cả. Vâng ý Chúa không dễ dàng gì làm Mẹ Thiên Chúa, không như các thanh nữ Do Thái mơ tưởng được địa vị cao sang làm hoàng thái hậu muôn nước. Maria biết rõ Đấng Cứu thế, mà các tiên tri đã loan báo, là người tôi tớ đau khổ, là con chiên bị sát tế, như Bài đọc II nói: Đức Giêsu Kitô đã dâng mình làm lễ tế. Một lễ tế hy sinh vô cùng đau đớn. Với đức tin mạnh mẽ, Đức Maria đã sẵn sàng hiệp thông sát tế đó và sẵn sàng chờ đợi những lưỡi gươm sắc đâm thâu qua trái tim Mẹ như đâm thâu qua Trái tim Con để tỏ lòng thương yêu nhân loại vô bờ.
Đức Maria là gương mẫu đức ái nhiệt thành:
“Maria vội vã lên đường” nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria đi thăm viếng, chia vui sẻ buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ bốn, năm ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Đức Mẹ. Thánh Luca còn viết: “Maria đã lưu lại ba tháng rồi trở về nhà mình”, chứng tỏ Maria giúp đỡ gia đình như một tôi tớ, không quản ngại bất cứ một công việc nặng nhọc hèn hạ nào. Mẹ của Đấng Cứu Thế đã thi hành phận sự một tôi tớ của Thiên Chúa và loài người trong mọi nơi mọi lúc, một tôi tớ đem nguồn vui vô biên của Thánh Thần đến cho gia đình ; một tôi tớ mang Đấng Cứu Thế xuống cho con trẻ được khỏi tội và nhảy mừng trong lòng mẹ, để cậu sinh ra “càng lớn lên, tinh thần càng vững mạnh … để chuẩn bị đến ngày ra mắt dân Israel” (Lc. 1, 80).
Thánh Luca nói lên lòng bác ái nhiệt thành và đức tin mạnh mẽ của Đức Mẹ để làm gương cho các tín hữu thời Giáo hội sơ khai mà lo truyền giáo: Họ phải sống đức tin mạnh mẽ và thi hành bác ái nhiệt thành để đem Đấng Cứu thế đến cho muôn dân được đầy niềm vui của Thánh Thần và được nhảy mừng trong ơn cứu độ. Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ tiên báo cuộc thăm viếng của Ngôi Hai xuống thế làm người để viếng thăm nhân loại, vừa là gương mẫu cho mọi cuộc thăm viếng của những người con Đức Mẹ.
Noi gương Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Gioan 23, lần đầu tiên, một vị Giáo Hoàng rời khỏi Rôma, đến thăm Giáo Chủ Anathagoras của Giáo hội Đông phương, một Giáo hội đã ly khai Giáo hội Công giáo từ lâu đời. Cuộc thăm viếng của Đức Giáo Hoàng đã biểu lộ tình bạn chí thiết với Đức Giáo Chủ và nhìn nhận Giáo hội Đông phương cùng một chi thể của Đức Kitô, hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. Từ hai ngàn năm nay, noi gương cuộc viếng thăm của Đức Mẹ và Chúa Giáng sinh, bao nhiêu cuộc viếng thăm hồng phúc như thế đã loan truyền Tin mừng đi khắp năm châu bốn bể.
Lạy Mẹ Maria, xin cho mỗi người chúng con biết nối tiếp những cuộc viếng thăm hồng phúc chan chứa ơn cứu độ đó, để đem nguồn vui Thánh Thần và ơn bình an của Chúa Giáng Sinh đến cho mọi gia đình trên quê hương thân yêu của chúng con. Amen.
Một lần ngồi chờ xe bên lề đường. Chợt nhìn thấy một bà cụ mù lòa ăn xin đi đến. Tôi nghe rõ nỗi cô đơn của tiếng gậy khua lóc cóc của sáng sớm tinh sương. Tôi nghe rõ sự mệt nhọc của tiếng hát ê a khi bà cụ mù lòa ăn xin đi ngang. Động lòng trắc ẩn tôi đặt tờ giấy bạc vào bàn tay run rẩy của bà, lòng tôi nhẹ bớt đi nỗi cảm thông thương mến. Nhưng điều lạ thường là tôi vẫn cứ nghe hoài tiếng gậy khua lóc cóc… như đòi hỏi tôi điều khó khăn hơn lòng thương hại bình thường, là phải sống nhiệt tình hơn, quảng đại hơn…
Xem ra cho người đói ăn chưa đủ mà con phải dấn thân để xóa đi cái đói, cái nghèo nơi tha nhân. Xem ra an ủi người thất vọng chưa đủ mà còn phải giúp họ đứng lên tự tin xây dựng lại cuộc đời. Xem ra nói lời yêu thương chưa đủ mà còn phải sống công bằng, bác ái, sẻ chia với nhau.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu con người biết động lòng trắc ẩn với nhau. Cuộc đời sẽ không còn người thất vọng bị bỏ rơi, bị loại ra khỏi xã hội nếu con người biết bao bọc và chia sẻ cho nhau. Đáng tiếc, cuộc sống quá tất bật bởi cơm áo gạo tiền khiến con người dễ lãng quên nhau, đôi khi cố tình bỏ rơi nhau. Cuộc đời vẫn còn đó tiếng khóc của tủi hờn cô đơn vì thiếu sự quan tâm nâng đỡ của anh em.
Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn với con người. Lòng trắc ẩn đã thôi thúc Ngài tìm muôn ngàn cách để thể hiện tình yêu với con người. Lòng trắc ẩn của Chúa thể hiện qua cái nhìn xót xa khi Adam – Eva phạm tội. Lòng trắc ẩn ấy đã khiến Ngài hứa ban Đấng cứu độ để chuộc lại lỗi lầm của Adam. Lòng trắc ẩn ấy được tỏ bày một cách trọn vẹn khi Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng chúng ta. Chính Con Thiên Chúa khi làm người đã sống hết mình vì con người. Ngài đã tận hiến chính mình để cho nhân loại được sống dồi dào ơn phúc.
Ky-tô giáo là đạo yêu thương. Tình yêu thương không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu ấy luôn đòi hỏi phải làm điều gì đó cho tha nhân. Thấy anh em đói thì đâu cần chờ van xin! Thấy anh em té thì đâu cần chờ van nài! Thấy cảnh cùng khổ thì đâu có thể đứng nhìn một cách thương hại mà phải làm điều gì đó xoa dịu nỗi đau cho anh em.
Điều này Mẹ Maria đã sống và làm gương cho chúng ta. Mẹ đã vất vả vượt dặm đường xa để đến phục vụ chị họ mang thai trong lúc tuổi già. Mẹ còn lưu lại đó suốt 3 tháng âm thầm phục vụ. Mẹ đã sống tin mừng một cách cụ thể qua lòng thương xót với anh em. Chính lòng thương xót ấy mà Mẹ còn nài xin Chúa làm phép lạ hóa nước thành rượu cho tiệc cưới Cana trọn vẹn niềm vui.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vội vã lên đường đến giúp bà Êlidabét trong những ngày bà mang thai và chuẩn bị sinh nở. Xin giúp con mở rộng vòng tay và tấm lòng cho những người đang cần con giúp đỡ. Xin giúp con đừng bàng quan đứng nhìn sự khổ đau của tha nhân mà luôn hăng hái dấn thân để làm sáng danh Chúa qua việc phục vụ của chúng con. Amen.
Có một gia đình nọ: Chưa đến ngày sinh nhật, còn đến khoảng hai, ba tháng, vợ đã lo nghĩ đến sinh nhật của chồng, con. Rồi chồng lo sinh nhật của vợ con, và con lo ngày mừng tuổi cho ba mẹ. Duy chỉ một người, không ai lo đến - ông nội già yếu. Và cho đến một ngày - ngày ông nội mất.
Chồng hỏi vợ: Sinh nhật ông ngày nào?
Vợ hỏi lại chồng: Ngày nào là ngày sinh của ông?
Con cái hỏi cha mẹ: Ông sinh ngày tháng nào?
Vậy là cả con, dâu, cháu, chắt phải đi tìm ngày sinh cha ông trong chứng minh nhân dân đề làm bia mộ cho ông.
Đó là ngày sinh nhật đầu tiên và cuối cùng của ông.
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta vẫn vô tình lãng quên nhau. Quên nhau không phải là không có dịp gần nhau, nhìn thấy nhau, nhưng là thiếu sự quan tâm chia sẻ với nhau. Sống bên nhau nhưng vẫn thờ ơ, dửng dưng. Sống bên nhau nhưng vẫn như người xa lạ. Không quan tâm, không chia sẻ, không hỏi han nhau.
Có những đôi vợ chồng sống bên nhau mà vợ mang thai, chồng đau yếu mà cũng chẳng hề hay biết.
Có những người cha, người mẹ chẳng bao giờ quan tâm hỏi han sự học hành, quan hệ bạn bè của con cái chỉ tới khi con phạm pháp lúc đó mới hay thì đã quá muộn.
Có những người con chỉ biết xài tiền cha mẹ nhưng đâu hiểu được những giọt mồ hôi, những cay đắng của đồng tiền vẫn gắn liền với chữ “bạc”.
Chính vì thế, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn, thất vọng vì thiếu sự quan tâm, chăm sóc của anh em. Dòng đời vẫn còn đó những con người đang sống trong tủi nhục ngay giữa những người thân của mình. Dòng đời vẫn còn đó những phận người bị loại bỏ ngay trong mái nhà của mình.
Cuộc sống cần tình yêu, cần sự chia sẻ của tha nhân như cơ thể cần không khí để thở, để sống khoẻ mạnh hơn. Cuộc sống không có tình yêu là hoả ngục, là đoạ đầy của kiếp người chúng ta.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta chiêm ngắm một tấm lòng đầy nhân ái nơi Mẹ Maria. Mẹ đã yêu, đã sống vì tình yêu. Một tình yêu không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà thể hiện qua tấm lòng luôn nhạy cảm trước nhu cầu tha thân. Không cần họ van xin. Không cần họ lên tiếng. Tấm lòng nhân ái nơi Mẹ đã hiểu được việc gì cần làm và nên làm. Mẹ Maria khi nghe tin chị họ mình là bà Elizabet mang thai khi tuổi đã già. Mẹ hiểu vợ chồng già cần sự giúp đỡ. Mẹ cảm thông trước những khó khăn của gia đình Giacaria. Mẹ đã đi bước trước để đến đồng hành và giúp đỡ họ.
Vâng, Mẹ đã mang niềm vui đến cho gia đình Giacaria bằng tình yêu nhạy cảm của Mẹ. Mẹ còn mang đến cho gia đình Giacaria tròn đầy niềm vui khi mang Đấng Cứu Thế viếng thăm gia đình họ. Chính vì thế, gia đình Giacaria đã tràn đầy niềm vui. Bà Elizabet đã bộc lộ niềm vui khi thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi”.
Là người ky-tô hữu chúng ta cũng luôn có Chúa ở cùng. Ngài cũng cần đôi chân của chúng ta để mang Ngài đến viếng thăm những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài cũng cần đôi tay của chúng ta để xoa dịu những thương đau cho nhân thế. Ngài cũng cần môi miệng của chúng ta để nói những lời cảm thông chia sẻ đến với tha nhân. Và Ngài cũng rất cần trái tim đầy yêu thương của chúng ta để chạnh lòng thương xót anh em.
Ước gì niềm vui giáng sinh của chúng ta là niềm vui “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta trọn vẹn niềm vui khi mang Chúa đến cho tha nhân qua đời sống yêu thương và phục vụ của chúng ta. Nguyện xin cho mỗi bước chân của chúng ta luôn nở hoa bác ái và yêu thương trên mọi nẻo đường. Amen.
Chỉ còn mấy hôm nữa là đến Lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thể xác để đón mừng Chúa. Chúa chỉ đi vào lịch sử có một lần, nhưng Chúa còn đến trong tâm hồn chúng ta nhất là trong những kỷ niệm này.
Thánh Phaolô nói: Ngài đến sinh ra bởi một người Nữ (Gal. 4, 4). Nhân vật nêu gương cho chúng ta hơn cả trong việc chuẩn bị đón ngày Chúa đến là Đức Mẹ, người Nữ diễm phúc được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Loài người không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Trời và đất đã gặp nhau trong cung lòng Trinh nữ. Mẹ đã trở nên Hòm bia thánh mang ơn cứu độ cho nhà Israen. Luca viết: “Maria chổi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi” đến thăm bà chị họ Isave. Mẹ đến mang tình bác ái, giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ. Mẹ đến mang ơn cứu độ cho Gioan mà cuộc đời sẽ mật thiết liên hệ với con Mẹ.
Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ như cảm động nhận ra Đấng đến với mình. Thiên thần đã loan báo: “Từ trong lòng mẹ, trẻ ấy sẽ được đầy Thánh Thần” (Lc. 1, 15). Con hân hoan thì Mẹ cũng vui mừng vì được “Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, như “song lộc triều nguyên” dâng lời cảm tạ.
Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” – Magnificat (Lc. 1, 46-56).
Tất cả sự cao trọng của Mẹ, như lời Bà Chị nói, là “đã tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Mẹ sống nội tâm, luôn luôn đón nhận Lời Chúa, mau mắn thi hành trong tinh thần đức Tin và phó thác. Đó là bài học cho chúng ta khi suy niệm đoạn Phúc âm “Thăm viếng” này.
Đức Mẹ và Thánh Giuse đang ở Nagiaret, một làng bé nhỏ miền Bắc Do-thái. Mẹ mong chờ ngày con sinh ra như các bà mẹ mong chờ con, nhưng Mẹ càng mong chờ và Mẹ biết rằng con đến là ơn cứu độ đến với nhân loại. Mẹ sống hoàn toàn phó thác và trông cậy vì Mẹ biết rằng 800 năm về trước, nhà tiên tri Michê (trong bài đọc I) đã tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ ở Bêlem, một thị trấn miền Nam cách đó đến 4, 5 ngày đàng. Nhưng, việc Chúa thì Chúa lo. Và Chúa đã dùng một ông vua chọc trời khuấy nước, ra một sắc lệnh kiểm kê dân số, một sắc lệnh có tính cách phô trương nhưng ngầm thực hiện ý nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse và Đức Mẹ thuộc chi họ Đavit quê ở Bêlem nên phải về đó khai sổ bộ. Thế là hai ông bà lên đường. Có lẽ Giuse kiếm được con lừa và ngồi trên lưng lừa do Giuse hướng dẫn, Mẹ ra đi, cà tật cà tang, hướng về Giêrusalem. Đường dài 150 cây số.
Mỗi khi có dịp về xứ Giuđêa, mọi người Do-thái đạo đức đều ghé qua Giêrusalem kính viếng Đền thờ. Hai ông bà hẳn cũng đã làm như vậy, rồi trực chỉ Bêlem cách thủ đô 8 cây số về phía Nam.
Trời đã về chiều. Luca viết: “không có chổ cho hai ông bà trong quán trọ” (2, 7). Quán trọ ở đây theo tập tục Do-thái, là một khu vườn có giếng nước trong có căn nhà lộ thiên cho du khách nghèo ngủ qua đêm. Giuse thấy không tiện để Đức Mẹ trong quán công cộng vào một lúc quan trọng nhất của đời người đàn bà, nên đã tìm về những hang đá tự nhiên ở ngoại ô, nơi có các mục đồng hay lùa chiên vào nghỉ đêm.
“Trong lúc đang ở đó thì Maria sinh hạ con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (2, 6). Mẹ làm lấy mọi tác động, vì Mẹ cưu mang con nhiệm lạ thì cũng sinh con mà không tổn thương sự khiết trinh, cũng như ngày kia, Con Mẹ sẽ ra khỏi mồ đóng ấn niêm phong. Rồi Mẹ đặt con nằm trong máng cỏ gối quì thờ lạy, làm cái việc xa xưa nay chưa ai từng làm là thờ lạy Con. Vì “Mẹ sinh ra Con nhưng Con là Cứu Chúa của Mẹ”. (Thánh Ephrem).
Lạy Chúa, xin đến lại trong tâm hồn con, để con được đón Chúa bằng bàn tay dịu hiền, bằng trái tim nồng cháy của Mẹ.
Với ai thì không biết, nhưng với cái anh chàng trong bài hát "Điệu lý qua cầu” thì như thế này:
Bằng lòng đi em về với quê anh Một cù lao xanh một dòng sông xanh Môt vườn cây xanh hoa trái đơm hương Thuyền ai qua sông dòng hò mênh mông. Bằng lòng đi em anh đón qua cầu Mùa mưa cầu tre dẩu khó đưa dâu
Bằng lòng theo anh dưới mái tranh nghèo Về đây người quê chỉ có tấm lòng Có chiếc xuồng ba lá để yêu em Ôi đóa hoa tím trôi líu riu Dòng sông nước chảy líu riu Anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu nên anh thương ơ...ơ... Ôi những đêm ngăm sông nhớ em buồn muốn khóc Mình anh ca điệu lý qua cầu. Ôi đoá hoa.....anh thương ơ...ơ... Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Tình yêu của cái anh chàng này cũng như cái nhìn của người yêu anh chàng này có cái gì đó khang khác. Khác không chỉ ở thời của anh nhưng đặc biệt khác ở thời nay.
Người ta đi yêu ai đó thì người ta muốn giàu và có cái giàu nhưng với anh thì anh chỉ có mái tranh nghèo với tình yêu bằng cả tâm lòng. Và, người yêu của anh chỉ nhỏ xíu bên cạnh cái dòng sông nước chảy liu riu thôi.
Cái nhìn của anh, quan niệm của anh khác nhiều người.
Thiên Chúa cũng vậy, cái nhìn, quan niệm của Thiên Chúa hay nói đúng hơn là tư tưởng của Thiên Chúa khác tư tưởng của loài người.
"Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi”(Is 55,8). Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt bởi cách hàng động của Chúa không? Những hành động đó không đúng với tính toán và dự liệu của chúng ta, và có khi đi ngược lại các dự tính của chúng ta.
Trang sách Mika vừa bộc bạch cho ta: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".
Thật vậy, trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế.
Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.
Trường hợp của tiên tri Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm tiên tri để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.
Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại.
Thiên Chúa đã hành động như vậy.
Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Isave thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên.
Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.
Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại. Đức Maria thì được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Thế. Còn bà Elisabeth thì được chọn làm mẹ Gioan, vị tiền hô dọn đường và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho muôn người.
Đức Maria, đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Chúa đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa. Trước khi thưa lời: “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình riêng của Mẹ, và qua lời “Xin Vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Đức Maria được chúc phúc, bởi vì không những Mẹ đã tin, mà còn hành động theo lòng tin của mình nữa.
Mẹ Maria chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ thầm lặng ẩn dật, cưu mang Giêsu, hoa trái cứu độ rồi dâng hiến Ngài cho chúng ta. Ánh sáng không cần lời nói, sự sống hơi thở của con tim chính là sứ điệp. Khi lòng càng trống rỗng bao nhiêu thì con người càng gây nhiều tiếng động tình yêu. Kitô hữu là người cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng nhưng có thể mang Chúa Kitô phong phú và hữu hiệu như Mẹ Maria, khi ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ và yêu thích con đường kiểu sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ khiêm hạ.
Phần chúng ta, đứng trước Lời của Thiên Chúa, ta khiêm tốn và tin như Mẹ để đón Lời của Chúa vào trong đời của ta hay không? Câu trả lời, Thiên Chúa để dành cho mỗi người chúng ta.
Chủ đề: "Mùa vọng là thời gian tự chấn chỉnh lấy mình để chờ Chúa đến bằng cuộc sống tín trung MV 4-C106
Chủ đề: "Mùa vọng là thời gian tự chấn chỉnh lấy mình để chờ Chúa đến bằng cuộc sống tín trung hiện tại đồng thời vẫn hướng vọng về cuộc sống tương lai."
William James, nhà tâm lý học lừng danh thế giới, có kể lại câu chuyện có thực sau đây trong tác phẩm nhan đề "Varieties of Religious Experience" (những cảm nghiệm tôn giáo)
Một đêm nọ có người đàn ông đứng một mình trên đỉnh đồi heo hút. Đó là một đêm tuyệt đẹp, bầu trời đầy sao, tình yêu chan hoà muôn trái tim và bình an phủ xuống mọi tâm hồn. Đang khi đứng đó, bỗng ông thấy lòng tràn ngập niềm vui giống như ông đang lắng nghe bản hoà tấu tuyệt vời trong đó mọi nốt nhạc đan quyện vào nhau khiến tâm hồn ông đột nhiên bị xúc động. Thế rồi ông có cảm giác một người nào đó đang cùng hiện diện trên đỉnh đồi với ông. Sự hiện diện của vị này càng lúc càng mãnh liệt đến nỗi ông cảm thấy sự hiện diện ấy còn rõ rệt hơn chính sự hiện diện của ông nữa. Về sau, ông thổ lộ "chính trên đỉnh đồi vào đêm hôm ấy, tôi bắt đầu tin vào Chúa".
Các nhà tâm lý học thường gọi cảm nghiệm trên là "khoảng khắc cao điểm". Đó chính là lúc mà chỉ trong phút chốc chúng ta chợt nhận ra một thế giới vô cùng vĩ đại hơn, xinh đẹp hơn và còn thực hơn thế giới chúng ta hiện sống. Kinh nghiệm trên đỉnh đồi của người đàn ông nọ giúp ta hiểu rõ hơn câu chuyện trong Phúc Âm hôm nay, đặc bịêt giúp ta thấy rõ hơn lời bà Elizabeth nói với Đức Maria "Vừa nghe em chào là con trong bụng chị liền nhảy mừng lên!" Một đứa bé quậy trong bụng mẹ là điều rất bình thường, vì thế khi Luca kể lại câu chuyện này, chắc chắn ông muốn nhấn mạnh đến điều gì khác lạ hơn. Ông muốn ám chỉ cử động kia như là lời chào đón Chúa Giêsu đang hiện diện nơi cung lòng Đức Maria nghĩa là thai nhi trong bụng bà Elizabeth cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu nên đã mừng rỡ nhảy lên. Điều này báo trước những điều sẽ xảy ra thường xuyên về sau trong cuộc đời Chúa Giêsu, tức là quyền năng của Ngài sẽ tác động mãnh liệt trên dân chúng. Hai ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn.
Trước mắt là câu chuyện xảy ra trên biển Galilê lúc Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài. Simon Phêrô và Anrê sau một đêm đánh cá trở về thì gặp Chúa Giêsu bước đến thuyền họ và truyền cho thuyền ra khơi thả lưới. Simon liền đáp: "Thưa Thầy, chúng ta đã vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì nhưng vâng lời Thầy con sẽ thả lưới"… Thế rồi sau khi thả lưới xong, họ đã bắt được vô số cá đến nỗi lưới muốn rách…Thấy thế, Simon Phêrô vội quỳ sụp xuống thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là một kẻ tội lỗi" (Lc 5: 5-6,8). Nói cách khác, ngay phút giây ngắn ngủi ấy, lần đầu tiên Phêrô cảm nhận được sự thánh thiện của Chúa Giêsu.
Câu chuyện thứ hai xảy ra vào một ngày Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Ngài dẫn theo Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bỗng nhiên khuôn mặt Ngài sáng chói như mặt trời và một cụm mây phủ rợp trên Ngài. Thánh sử Matthêu mô tả sự kiện xảy ra tiếp sau đó. "Từ trong đám mây có tiếng phán ra: Đây là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, hãy nghe lời Ngài". Khi các môn đệ nghe thế họ liền sấp mình xuống đất, lòng vô cùng sợ hãi (Mt 17: 5-6). Trong phút chốc ngắn ngủi ấy Phêrô, Giacôbê và Gioan cảm nghiệm được lần đầu tên chiều kích thâm sâu của Chúa Giêsu. Họ sẽ không bao giờ quên được phút giây đó.
Nhiều năm về sau, thánh Phêrô nhắc lại Kinh nghiệm này như sau: "Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt vẻ oai nghi của Ngài, đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi được ở cùng Ngài trên núi thánh" (2 Pr 1: 16,18)
Ngày nay vẫn có nhiều người cảm nhận được Kinh nghiệm của Gioan Tẩy giả khi còn trong bụng bà Elizabeth, Kinh nghiệm của thánh Phêrô trên bãi biển và Kinh nghiệm của ba thánh tông đồ trên núi. Trong quyển tự thuật nhan đề "The Seven Storey Mountain" (Ngọn núi bảy tầng) Thomas Merton, một tác gỉa vĩ đại từng là người trở lại đạo Công giáo, đã mô tả kinh nghiệm của ông về Chúa Giêsu vào những năm cuối thời niên thiếu của mình.
Sau khi tốt nghiệp Trung học, Thomas một mình đi du lịch quanh Âu Châu. Trong những chuyến đi này, chàng trai khám phá ra những ngôi giáo đường hùng vĩ của Âu Châu với những pho tượng gây cảm hứng và những cửa sổ muôn màu. Thomas ghi lại: "khám phá này thật diệu kỳ… tôi bắt đầu lui tới các nhà thờ … lần đầu tiên trong đời tôi khám phá ra đôi điều về Đấng mà mọi người gọi là Đức Kitô, và quan trọng hơn nữa, tôi bắt đầu cảm nghiệm được chính Đức Kitô đang hiện diện trong các ngôi nhà thờ ấy".
Cảm nghiệm về Đức Kitô hiện diện không máy móc nào có thể chế tạo được, không một máy tính nào có thể lập chương trình được, và cũng không thể cứ ước muốn là được, chẳng ai có thể tạo ra cảm nghiệm này được ngoài Đức Kitô. Vì đây chính là quà Ngài ban tặng. Chúng ta chỉ việc mở rộng lòng ra lãnh nhận và Mùa vọng nhằm giúp chúng ta làm việc này. Đây là lúc chính chúng ta phải tự chấn chỉnh lấy mình để đón chào Chúa Giêsu đến trong đời sống chúng ta. Có lẽ chúng ta chưa bao giờ có được cảm nghiệm mãnh liệt giống như thánh Gioan tẩy giả khi còn trong bụng mẹ, hay cảm nghiệm giống như thánh Phêrô trên bờ biển, hay cảm nghiệm của ba tông đồ trên ngọn núi, hoặc cảm nghiệm của Merton trong các giáo đường Châu âu. Nhưng chúng ta cũng biết chắc rằng nếu chúng ta tự chấn nhỉnh mình để chờ đón Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết tiếp tục mở rộng tâm hồn ra cho Ngài, thì ngày diễm phúc ấy sẽ đến, lúc đó chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài. Đó chẳng phải là một cảm nghiệm mơ hồ, chóng qua mà là một cảm nghiệm gặp gỡ tận mặt trên cõi trời. Và khi cảm nghiệm gặp tận mặt này xảy ra, chúng ta cũng sẽ thấu hiểu được chân lý sống động từng được thánh Phaolô ghi nhận "Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Ngài những điều mắt chưa hề thấy, tai chừa hề nghe, tâm hồn chưa hề cảm nhận. Đó chính là những điều Ngài đã mặc khải cho chúng ta qua Thánh Linh của Ngài" (Lc 2: 9-10).
Sách tiên tri Mikha nhắc đến Bêlem vì nơi đây sẽ sinh Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc người có từ nguyên thủy tự muôn đời. Tin Mừng Luca cho thấy bà Isave khi được Đức Maria đến thăm đã thốt lên: “bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm”. Những lời trên liệu có thể áp dụng cho Đức Giêsu, và có giúp người ta hiểu Đức Giêsu là ai không?
I. Đức Giêsu là Giêsu Nazarét, con ông Giuse, con bà Maria
Với những người ở Bêlem, thánh Giuse và Đức Maria là những người bình thường như bao người nhà quê nghèo khác. Chính vì thế, họ không đối xử với Đức Maria và thánh Giuse một cách đặc biệt: hai ngài đã phải ra chuồng chiên cừu trú ngụ qua đêm. Đức Giêsu đã được sinh ra trong chuồng chiên cừu. Với họ, chả có gì đặc biệt khi cặp vợ chồng nghèo Giuse Maria trở về quê và không có chỗ trú ngụ.
Không biết đêm hôm ấy, đêm Đức Giêsu được sinh ra, trời có sáng hơn mọi đêm không? Có ai trằn trọc mất ngủ vì một lý do “không biết” nào không? Hay tất cả vẫn cứ bình thường, vẫn là một ngày như mọi ngày? Biến cố Đức Giêsu được giáng sinh, có lẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với Đức Maria và thánh Giuse, và sau đó đối với một số mục đồng đã tin lời sứ thần; còn với tất cả những người khác, có lẽ tất cả đã như thường.
Khi Đức Giêsu đi rao giảng, và đã làm được một số điều đặc biệt, người ta cũng vẫn xác nhận Ngài là “Giêsu con bà Maria” (Mc.6, 3), “Giêsu con ông Giuse” (Lc.4, 22). Các người bị thần ô uế ám thì gọi Ngài bằng “Giêsu Nazarét” (Lc.4, 34). Với các tông đồ và những chị phụ nữ hôm biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, Ngài cũng chỉ là một người công chính bị nạn! Với những biệt phái tư tế kinh sư, Ngài cũng chỉ là một đối thủ cần loại trừ, và họ đã thành công ở biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá. Với những người không là Kitô hữu hiện nay, có lẽ Đức Giêsu cũng chỉ là con người đặc biệt hơn một người bình thường chút xíu; nhưng cũng chỉ là vậy, Ngài cũng chỉ là một người như bao người khác.
II. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể
“Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi tới viếng thăm!” (Lc.1, 43). Từ ngữ “thân mẫu Chúa tôi”, theo bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh, khác với từ ngữ “Mẹ Thiên Chúa” như trong sách bài đọc dịch. “Anh em gọi Thầy là Thầy là Chúa là đúng rồi… vậy nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 13-14). Từ ngữ “Chúa” ở đây có thể chỉ đơn thuần được hiểu như một người làm chủ, người đứng đầu (Thiên Chủ, Thiên Chúa).
Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha; nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (Nicea năm 325); và nhờ đó hiểu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Ephêsô năm 431). Đi với khẳng định này công đồng Nicea đã kết án “hạ phục thuyết” của Arius chủ trương rằng Đức Giêsu thấp kém hơn Thiên Chúa.
Kitô hữu hiểu Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, nhưng vẫn tin “chỉ có một Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Cái khác nhau là ba ngôi vị. Kitô hữu cố gắng tránh hiểu ba ngôi như là ba Thiên Chúa. Nơi con người, ba người (ngôi vị) khác nhau nhưng vẫn cùng một bản tính người; còn nơi Thiên Chúa, ba ngôi không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
III. Đức Giêsu là ai?
“Người ta bảo Con Người là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt.16, 13) Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Cả với câu này, người ta vẫn giải thích chữ Đức Kitô theo nghĩa rất bình thường: Môsê, Đavít, Kyrô … cũng đều là đức Kitô cả. “Con Thiên Chúa” cũng có thể được hiểu theo nghĩa rất bình thường: các thiên thần, các người công chính,… cũng có thể được gọi là con Thiên Chúa. Chỉ với câu này, người ta không buộc phải hiểu Đức Giêsu là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Khi người ta hiểu Đức Giêsu nhận mình là Con đồng bản tính với Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, thì Ngài phải chết vì đó là tội vô cùng lớn: phạm thượng: là người mà cho mình là Thiên Chúa (Ga.10, 33).
Nhờ những đối kháng dẫn Đức Giêsu tới cái chết, người ta mới hiểu rằng Đức Giêsu ý thức mình là Thiên Chúa, và người ta cũng hiểu Ngài khẳng định như vậy, nên người ta có đủ lý do để kết án Ngài mà không cần phải “cáo gian” nữa! “Máu nó sẽ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25); nếu không ý thức rõ tội của Đức Giêsu, thì người Do Thái không dám nói những lời như thế. “Chúng tôi có luật, mà chiếu theo luật thì nó phải chết, vì nó là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19, 7). Từ ngữ “Con Thiên Chúa” ở đây phải được hiểu là Con “đồng bản tính” vì nếu không, đâu có đủ lý do để kết án tử hình Đức Giêsu. Nếu một người công chính được gọi là con Thiên Chúa, thì tội của Đức Giêsu đâu có là gì mà phải kết án tử hình Ngài.
Đức Giêsu là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa, Đấng “ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62). Người Do Thái kết án tử hình Đức Giêsu thật là chính đáng, vì Đức Giêsu đã nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa. Nhờ lời của Đức Giêsu, và nhờ án tử hình được công nghị Do Thái tuyên cho Đức Giêsu, giúp Kitô hữu thấy rõ chân tướng của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa, là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài đúng là Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Khẳng định của các công đồng Nicea và Êphêsô đã phản ánh đúng đắn niềm tin của Kitô hữu sơ khai, cũng như phản ánh đúng ý thức của Đức Giêsu về chính Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sứ điệp Đức Giêsu mang lại cho thế gian trong ngày lễ Giáng Sinh là gì?
2. Có sự liên hệ nào đó giữa sự bình an trong tâm hồn con người, sự an bình của xã hội và nền hòa bình trên thế giới không?
3. Chỉ dựa vào Kinh Thánh, bạn có thể “chứng minh” Đức Giêsu là Thiên Chúa không?
Gần ngày lễ Giáng sinh người ta thường viết những cánh thiệp để gửi trao cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa Giáng sinh vui tươi và an lành. Lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ của hoan vui và niềm vui đó cần được chia sẻ. Hình ảnh Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth mà Giáo hội gợi lên trong phụng vụ hôm nay phác họa cho chúng ta khuôn mẫu này. Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia.
Niềm vui của Tin mừng – Gaudium Evangelii
Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Do Thái nói về sự vâng phục của Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 6). Đức Giêsu đã đến trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được Thiên Chúa thương xót (x. số 34-36). Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm cảm niềm vui của lòng thương xót này: “ Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của Thiên Chúa.
Càng khiêm tốn, con người càng đạt đến sự toàn hảo. Kiêu căng, tự mãn sẽ nảy sinh ghen ghét và đố kỵ. Cha Thomas Merton đã định nghĩa: “Hỏa ngục là nơi tập trung sự ghen ghét”. Nơi đó dành cho Luxiphe và bè lũ của nó vì nó đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa. Ngược lại, Thiên Đàng đã bắt đầu khai mở nơi tâm hồn Đức Maria vì Mẹ đã hoàn toàn khiêm tốn ẩn náu dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa và nếm cảm lòng thương xót của Ngài.
Chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng.
Niềm vui chân thật như một dòng chảy bất tận. Nó không thể bị quây kín và nhốt chặt lại. Niềm vui cần phải được chia sẻ và trao ban. Điều đó chúng ta thấy thật rõ nét nơi Đức Maria. Chúng ta đừng hời hợt xem việc Đức Maria đến thăm bà Elizabeth chỉ như một nghĩa cử thông thường theo tình cảm huyết nhục tự nhiên. Trước hết và trên hết, Mẹ đem Chúa Giêsu là căn nguyên niềm vui đến chung chia với mọi người. Thánh Luca không phải vô tình đã mở đầu trình thuật bằng câu: “Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số 46-49). Ngài viết “ Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.
Những ai sống ơn gọi thánh hiến, đều biết rằng thánh hiến và tông đồ luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Những ai thánh hiến trọn vẹn cho Chúa, tất sẽ làm bùng cháy ngọn lửa tông đồ nơi tâm hồn mình. Thánh hiến càng sâu xa, ngọn lửa tông đồ càng mạnh mẽ. Việc tông đồ không có nghĩa là phải giảng thật hay, phải phát động nhiều công việc từ thiện, phải khéo léo tổ chức những sinh hoạt xã hội đa dạng. Tất cả sẽ trở nên vô nghĩa nếu những công việc đó không xuất phát từ lòng mến, từ tâm hồn được thánh hiến và thuộc trọn về Chúa. Chúng ta nhớ lại lời dạy của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết “ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần mà không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, biết những điều bí mật và mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì cũng chẳng là gì. Giả như tôi đem hết tài sản của tôi để bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có lòng mến, thì chẳng ích lợi gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3). Phải gắn kết mật thiết với Chúa chúng ta mới có thể thực hành việc tông đồ, vì Thiên Chúa chính là tình yêu, là ‘Đức Mến’ tuyệt đối để chúng ta quy hướng về.
Chúng ta hãy học nơi Đức Maria. Mẹ không ồn ào náo động, không tổ chức những cuộc lễ hoành tráng với cờ xí, kèn trống tưng bừng. Mẹ không mở lớp dạy giáo lý cách rầm rộ, không sinh hoạt trong các đoàn thể, cũng chẳng bao giờ đi làm công tác từ thiện để xóa đói giảm nghèo, bởi vì Mẹ chỉ là một cô thôn nữ bình dị, đơn sơ, cũng chẳng học thức hay tài cán cao sang. Nhưng Mẹ hoàn toàn để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Một việc làm xem ra rất bình thường Mẹ đã thực hiện mà không ai biết đến, là đi thăm người chị họ nơi miền núi cao, không kèn không trống và hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Nhưng chính Đức Maria đã trở thành nguyên mẫu cho chúng ta trong việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng đến cho mọi người.
Kết luận
Chân phước Philip Rinaldi đã nói: “Thiên Chúa luôn khởi đầu những công trình vĩ đại từ những con người bé nhỏ và ngang qua những công việc rất khiêm hạ”. Điều đó rất đúng khi chúng ta chiêm ngắm dung mạo của Đức Maria được mô tả trong phụng vụ hôm nay. Một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại thì rất tốt, nhưng ngửa tay ra vẫn tốt hơn”. Mẹ Maria đã chắp tay lại để thưa lời xin vâng, và ngày hôm nay, Mẹ tiếp tục mở tay ra để đem niềm vui của Tin mừng đến cho người khác. Đó là hình mẫu cho chúng ta trong những ngày gần sát lễ Giáng sinh để chúng ta học nơi Ngài cách thái mừng đại lễ thật sốt sắng và ý nghĩa.
Tuần thứ IV Mùa vọng, chúng ta chiêm ngắm Khuôn mặt Mẹ Maria và những tâm tình nhân hậu của Mẹ với người khác, qua tường thuật Tin mừng của Thánh Luca về việc Mẹ đi thăm bà Elisabeth.
Cuộc sống của chúng ta là những cuộc gặp gỡ nhiều người, nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều sắc thái và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Cuộc gặp gỡ của Maria và Elisabeth khá đặc biệt, theo lời tường thuật của Luca. Họ là hai người phụ nữ - lớp người thuộc vào hạng không mấy quan trọng trong xã hội thời đó. Một điều đặc biệt hơn nữa, nếu chúng ta nhìn dưới góc độ văn hóa, tôn giáo và xã hội: Maria, cô thiếu nữ chưa làm đám cưới (dù đã đính hôn, nhưng Giuse chưa rước cô về nhà để chung sống), chưa sống chung mà đã mang thai (có thể bị gán cho tội “không đứng đắn”, phạm tội ngoại tình và sẽ bị ném đá). Bà Elisabeth, người phụ nữ đã già mà chẳng sinh con; người đàn bà son sẻ, hiếm muộn có thể bị gán cho số phận không may mắn, bị sỉ nhục và “bị chúc dữ” (xem St 29,31; 1Sm 1, 10; Is 4,1; Lv 20,20-21; 2Sm 6, 23).
Dưới mắt người đời thời đó, và theo khóe nhìn tôn giáo và văn hóa Do thái giáo, ít nhất là chúng ta có thể “giả định”, hai phụ nữ này chẳng có gì để đem ra ca tụng. Hơn thế, ta phải nói đến chuyện một người sẽ bị đem ra ném đá và người kia có thể được gọi là “kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ”. Điểm đáng nói nữa là chuyện hai người phụ nữ khi gặp gỡ, họ còn chào và gọi nhau là “đầy ơn phúc”, “được chúc phúc”. Họ muốn “tung hô nhau” hay tự “xông hương” cho nhau chăng? Họ thật sự “có phúc” không, và “phúc’ của họ là gì, từ đâu mà có?
Họa hay phúc, ta có thể đánh giá rất chủ quan và có thể bị sai lệch. Có thể mọi sự sẽ xảy ra như chuyện “Tái ông thất mã”, và cuộc sống xem ra là là một chuỗi dài của chuyện “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”…
Từ câu chuyện của Maria và Elisabeth, chúng ta có thể nói rằng chỉ có ai là “người trong cuộc” mới có thể hiểu được mối phúc mà hai người phụ nữ này có được. Đó là điều kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn làm, hay nói cách khác, là chuyện Thiên Chúa can thiệpcách đặc biệt vào cuộc đời của họ. Maria và Elisabeth chính là “những người trong cuộc”, là những người bị “dính vào chuyện của Thiên Chúa”. Và từ đó, thái độ của hai người phụ nữ ấy càng đặc biệt hơn khi họ biết nhìn ra hạnh phúc thật nơi những điều mà người thế gian cho là bất hạnh. Thật thế, chúng ta có thể kể ra những điểm sau:
1) Cả hai người phụ nữ nhận ra thân phận bé mọn của mình; họ “biết mình” bằng sự khiêm tốn chứ không vì tự ti, mặc cảm. Bởi thế họ mới có thể reo lên Linh hồn tôi ca ngợi Đức Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng.
2) Họ hiểu rằng ngay chính nơi sự cùng khốn của mình, Thiên Chúa đã làm những điều cao trọng. Từ đó họ tuyên xưng rằng Người là Đấng Quyền năng vàdanh Người chí thánh chí tôn, là Đấng trung tín và giàu lòng yêu thương – Chúa hằng “thương xót những ai kính sợ Người”.
3) Họ tin rằng những điều cao trọng đã và đang xảy ra cho mình không phải do ý muốn riêng đạt được hay đó là phần thưởng xứng hợp với công trạng của mình, nhưng là do Thánh ý Thiên Chúa và lời giao ước tình yêu của Người với nhân loại, qua dân Israel, với cha ông của họ từ thưở trước.
4) Họ không bận tâm quá nhiều đến chuyện xầm xì của thế gian về những bất hạnh của riêng mình cho bằng phó thác tất cảmọi sự vào tình yêu thương, lòngtrung tínvàsự công minh của Thiên Chúa từ đời nọ trải qua đời kia.
Mẹ Maria và bà Elisabeth đã nhìn nhau và nhận ra nơi mỗi người hồng ân của Thiên Chúa, rồi gọi nhau bằng tên gọi của những “người được chúc phúc” hay là “người có phúc”. Còn chúng ta? Khóe nhìn nào mà chúng ta có được khi hướng tới tha nhân?
Hãy nhìn thực tế cuộc sống bên ngoài cộng đoàn chúng ta: Khắp nơi đầy dẫy những chuyện ghen ghét, lọc lừa. Người ta đánh giá nhau dựa vào những gì bên ngoài hay ở “bề nổi”. Nhiều bạn trẻ đã không dám nhìn vào người khác, vì một cái nhìn bị cho là “đểu” có thể là nguyên nhân vô duyên nhất gây nên cái chết oan khiên của một mạng người. Sự đố kị, cạnh tranh, chèn ép có mặt ở khắp nơi… Có lẽ khi con người lấy tiền tài, vật chất và vẻ hào nhoáng bên ngoài làm thước đo các giá trị và là mục đích tối thượng thì người ta sẽ nhìn tha nhân với một khóe nhìn tiêu cực: “Tha nhân là địa ngục của tôi”, nói như triết gia Jean Paul Sartre. Và cứ theo kiểu như vậy, người đứng trước mặt tôi luôn là “nguy cơ”, chính là “tai họa” và là “đầu mối của mọi rắc rối” cho tôi! Từ đó, trong các mối tương quan nhân vị, sự lựa chọn bắt buộc sẽ nhằm vào việc triệt thoái hay hạ bệ lẫn nhau. Khi ta không còn khả năng nhìn ra được điều tốt lành nơi người khác, thì ta chẳng còn biết yêu thương hay trân trọng ai cả.
Quay lại nhìn cuộc sống hằng ngày bên trong mỗi cộng đoàn ki tô hữu, chúng ta có thể thấy thêm điều gì? Thưa, đó là sự đố kị, tiếng xầm xì, lời trách cứ, chuyện chê bai cách công khai hay ngấm ngầm và việc xúc phạm đến nhau, sự tự tôn, sự tự ty, óc bè phái,…Tất cả chính là thuốc độc làm hao mòn, gặm nhấm các phần tử và tàn hại thân xác mầu nhiệm của Chúa Kitô. Bên trong các cộng đoàn kitô hữu còn có cả căn bệnh tính toán, so đo thiệt hơn hoặc kiểu hành xử theo chiều hướng khác của bệnh dửng dưng, vô cảm; của lối sống cá nhân ích kỷ và thiếu trách nhiệm. Đây là điều mà trước đây Thánh Phaolo đã nhắc nhở các tín hữu trong các cộng đoàn của ngài, và giờ đây, vẫn còn là một thực tế mà mỗi chúng ta có thể trải nghiệm.
Như Mẹ Maria, mỗi chúng ta có thể làm gì? Hãy học biết cách sống khiêm cung và biết đón nhận cuộc sống như một tặng ân vô giá, là hồng ân được hiệp thông vào Đấng yêu thương và cũng chính là Cùng Đích cao trọng mà mỗi chúng ta khao khát đạt đến.
Như Mẹ Maria, ta hãy biết vui mừng vì được Chúa yêu thương, biết tạ ơn vì được Chúa gọi mời cộng tác với Ngài.
Như Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn anh chị em của mình bằng ánh mắt khiêm cung và trái tim rộng mở, biết cảm thông và bao dung hơn khi đón nhận người khác, để nhờ đó ta có thể đọc ra dấu chỉ tình yêu và hồng ân mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người và nơi mọi người; như chính Người “đã cho mặt trời chiếu sáng trên người lành cũng như trên kẻ dữ” (Mt 5, 45).
Bước vào những ngày cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị cùng Mẹ lên đường mang Chúa đến cho người khác như mang một qua tặng quý giá của tình yêu thương, niềm cảm thông lớn lao hơn cả cho mọi người giữa thế giới mà tình người đang có nguy cơ bị hoang mạc hoá.
Trong Kinh Thánh, có lần qua môi miệng các tiên tri, Chúa đã phán: Tư tưởng và đường nẻo của Ta không phải tư tưởng và đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng sẽ cao hơn tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu.
Trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế. Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.
Trường hợp của tiên tri Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm tiên tri để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa cũng đã hành động như vậy. Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Isave thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên. Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.
Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại. Đức Maria thì được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Thế. Còn bà Elisabeth thì được chọn làm mẹ Gioan, vị tiền hô dọn đường và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho muôn người.
Tuy nhiên đường lối của Chúa là một chuyện, sự kêu mời của Chúa là một chuyện, điều quan trọng là chúng ta có biết cộng tác với Chúa hay không. Trong chiều hướng này, thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Bởi đó mặc dù chúng ta là những kẻ hèn kém và yếu đuối, nhưng nếu chúng ta biết xin vâng như Mẹ Maria và biết cộng tác với ơn Chúa như và Isave, Chúa cũng sẽ làm cho chúng ta những việc kỳ diện, đó là biến chúng ta trở nên người đem Chúa đến cho muôn dân.
Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng hôm nay và cũng là Chúa Nhật cuối cùng trước Lễ Giáng Sinh, Hội Thánh đặt trước mắt chúng ta hình ảnh Mẹ Maria đi thăm viếng Bà Êlizabeth mùa Vọng, như mẫu gương đức tin tuyệt hảo để chúng ta chiêm ngắm và noi theo; nhờ đó, chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui linh thánh của Mẹ trong dịp đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh cũng như trong suốt đời sống đức tin.
Để chúng ta có thể có tầm nhìn sâu rộng hơn về niềm vui lớn lao nơi tâm hồn Mẹ Maria, chúng ta không dừng lại ở trình thuật Đức Mẹ thăm viếng Bà Êlizabeth, nhưng ở đây chúng ta sẽ cùng học theo Chân Phước Têrêsa Calcutta chiêm ngắm và chia sẻ các niềm vui của Mẹ nơi cả năm mầu nhiệm mùa vui của Kinh Mân Côi. Theo Mẹ Têrêsa Calcutta, khi chúng ta suy ngắm các mầu nhiệm Kinh Mân Côi là lúc chúng ta cùng chiêm ngắm Chúa Giêsu với đôi mắt của Đức Mẹ và yêu mến Chúa Giêsu với trái tim của Đức Mẹ. Đó là cách thức yêu mến Chúa tuyệt hảo, vì không ai hiểu biết, yêu mến và kết hợp với Chúa Giêsu cách tuyệt hảo hơn Đức Mẹ.
Trước hết, trong trình thuật thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Mẹ đã đón nhận niềm vui Thiên Chúa ban tặng cho Mẹ qua hai tiếng “Xin Vâng”. Nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã vui mừng đón nhận, tìm hiểu, yêu mến và đem hết tâm hồn và cả cuộc sống để vâng phục Thánh Ý Chúa thể hiện qua Lời Chúa do thiên thần chuyển đến cho Mẹ. Tinh thần vâng phục thánh ý Chúa của Mẹ ở đây đã làm cho Mẹ hoàn toàn nên một tinh thần với Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng khi nhập thể trong lòng Mẹ đã tuyên ngôn: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi mới nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa”, như tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái ghi nhận trong Phụng Vụ hôm nay (Dt 10:5-7).
Tinh thần vui lòng vâng phục thánh ý Chúa chính quy luật duy nhất trong đời sống của chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cũng như tất cả các thánh. Đó là lý do Thánh Giêrađô Majella đã luôn sống theo tâm niệm: “Thánh ý Chúa là niềm vui của đời con, con muốn điều Chúa muốn, muốn như Chúa muốn, muốn khi Chúa muốn và muốn vì Chúa muốn.” Vì vậy, chúng ta chỉ có thể có được niềm vui linh thánh khi biết noi gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria để hết lòng vâng phục thánh ý Chúa qua việc chuyên chăm đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và thực hành Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh.
Thứ hai, nơi trình thuật Đức Mẹ khi thăm viếng Bà Êlizabeth, niềm vui hay hạnh phúc của Mẹ được gói trọn trong lời chúc tụng của Bà Êlizabeth khi được chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện” (Lc 1:45). Mức độ hạnh phúc đích thực của chúng ta được đo lường bằng mức độ của đức tin sống bởi lòng mến nơi chúng ta. Vì vậy, tất cả cố gắng kiếm tìm hạnh phúc và niềm vui đích thực là cùng đích cuộc sống của chúng ta phải hướng tới việc gìn giữ, canh tân và phát triển lòng tin và tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Chính nhờ đức tin sống động này mà chúng ta được kết hợp với Chúa là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng ta; nhờ đó, chúng ta sẽ được vui mừng.
Thứ ba, nơi trình thuật Giáng Sinh với hình ảnh Mẹ Maria chìm đắm trong việc chiếm ngắm thờ lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, chúng ta thấy niềm vui của Mẹ là được thờ lạy Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể do chính Mẹ sinh ra. Với đức tin sống động, chúng ta ngày nay cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ khi chiêm ngắm thờ lạy cùng một Chúa Giêsu thực sự hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta chỉ có được niềm vui này khi chúng ta thực sự tin nhận Chúa Kitô và sống theo ơn Chúa Thánh Thần. Vì chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4:23).
Thứ tư, nơi trình thuật Đức Mẹ theo luật Môsê tiến dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ, chúng ta thấy niềm vui của Mẹ được diễn tả qua việc Mẹ vui lòng hiến dâng Chúa Giêsu đúng theo luật Chúa. Lời ngôn sứ Simêon cho biết một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Mẹ báo trước việc Mẹ sẽ phải đón nhận nỗi thương đau vô tận khi phải hy sinh Con Một yêu quý của Mẹ làm Của Lễ Chuộc Tội cho nhân loại trên Đồi Canvê sau này. Ở đây Mẹ cho chúng ta thấy niềm vui đích thực phải là hoa trái của tình yêu đòi hỏi sự quảng đại dâng hiến và hy sinh bỏ mình trọn vẹn.
Cuối cùng, nơi trình thuật Đức Mẹ tìm lại Chúa Giêsu trong Đền Thờ sau ba ngày “mất Chúa”, niềm vui của Mẹ ở đây như báo trước niềm vui Mẹ sẽ đón nhận khi gặp Chúa Giêsu Phục Sinh sau này. Niềm vui ơn cứu độ đã được Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, cho những ai bền đỗ đến cùng trong niềm tin, cho những ai biết đón nhận ơn cứu độ qua việc tìm lại Chúa sau khi “mất Chúa” vì tội lỗi bằng thái độ khiêm nhường sám hối và tin vào Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta sẽ góp phần làm canh tân và gia tăng niềm vui này của Mẹ khi chúng ta cố gắng bền đỗ và thăng tiến trong đời sống đức tin, mỗi khi chúng ta sám hối trở về cùng Chúa sau mỗi lần lìa xa Chúa vì tội lỗi, mỗi khi chúng ta góp phần giúp anh chị em chúng ta tìm gặp Chúa hay trở về với Chúa.
Chỉ còn ít ngày nữa chúng ta sẽ cử hành Đại Lễ Giáng Sinh-Đại Lễ của Ánh Sáng đem lại Sự Sống và Niềm Vui. Chúng ta hãy cùng Đức Mẹ dọn lòng mừng lễ với tinh thần quyết tâm thực thi thánh ý Chúa qua việc chuyên chăm đọc, nghe, ghi nhớ, suy gẫm và thực hành Lời Chúa; nỗ lực sống đức tin qua việc cầu nguyện liên lỉ; khao khát tìm đến thờ lạy và kết hợp với Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể; quảng đại trong việc thực hành việc hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ tha nhân; và trung tín trong bổn phận hàng ngày và thành tâm sám hối sau mỗi lần sa ngã phạm tội. Được như thế, niềm vui của mùa Giáng Sinh sắp tới sẽ thật trọn vẹn và sẽ mãi lớn lên trong cuộc đời chúng ta.
Và rồi cũng như Mẹ Maria đã đem sự hiện diện Chúa ngự trong Mẹ đến cho gia đình Thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta sẽ trở thành những con người biết trao tặng niềm vui có Chúa cho tha nhân.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ của tình yêu mỹ diệu và niềm vui linh thánh, xin Mẹ cho chúng con biết tìm được niềm vui linh thánh qua việc thực tâm yêu mến và thực thi thánh ý Chúa, và quên mình để mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
Ai cũng biết lễ Giáng Sinh là lễ của vui tươi, của rạng rỡ! Đã từ lâu, nhất là trong xã hội phương tây, Giáng Sinh là lễ hội của các lễ hội; nếu nói theo cách người Việt thì là Tết của các ngày tết. Chẳng thế mà ngay cả trong những xã hội vô thần không thiết gì tới việc Thiên Chúa giáng trần, thế mà người ta vẫn cứ trang hoàng mua sắm và ăn mừng. Chắc chắn là chúng ta sẽ, cùng với toàn thể nhân loại hòa mình vào niềm vui chung đó với mọi người, điều đó là thật dễ hiểu, tuy nhiên với tư cách là Ki-tô hữu, chúng ta thuộc số ít những người hiểu biết tường tận nguồn gốc và lý do của niềm vui đó. Nguồn vui có xuất xứ từ việc: một Hài Nhi nhỏ bé, một con người cụ thể đã giáng trần. Và khi Hài Nhi - Con Người đó tới thì đã đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại, và làm cho mọi người đều nhảy mừng. Nhưng ‘biết’ thế thôi thì chưa đủ! Câu hỏi được đặt ra là, có thật tôi và bạn, sau khi ‘biết’ Hài Nhi đến viếng thăm mình, chúng ta có thực sự muốn nhảy mừng như Gio-an ngay từ trong dạ mẹ hay không? “bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng lên”.
Bên Mongolia dân chúng theo một thứ tôn giáo tự nhiên của nhóm người du mục Trung Á gọi là đạo Shaman. Trong tôn giáo đó, tương tự như Cựu Ước, thầy Sha-man đóng vai ngôn sứ sẽ chỉ cho dân biết các nơi thần thánh ngự trị, và sẽ dạy cho dân biết cách làm cho các ngài nguôi cơn thịnh nộ, không ra tay vật chết hay làm hại được mình. Mỗi khi tới gần nơi các ngài ngự - thường là một tảng đá hay một gốc cây cổ thụ nào đó, mọi người đều phải kính cẩn đi quanh ba vòng theo hướng tay phải. Cũng như nhiều tôn giáo cổ xưa khác, Sha-man quả thực là tôn giáo của sợ hãi; chính vì thế mà khi dạy giáo lý cho các sinh viên Mongolia, tôi đã cố gắng trình bày đạo Công giáo như một tôn giáo của tình thương, tôn giáo đem lại vui mừng và hy vọng. Tưởng là một công việc dễ dàng, nhưng càng dạy, tôi càng nghiệm thấy vẫn còn phảng phất đâu đó, ngay trong ‘Tin Mừng’ mà tôi đang rao giảng, một nỗi sợ hãi bàng bạc (đôi khi được biện minh bằng từ ‘kính sợ Thiên Chúa’ chăng?). Chính lúc đó tôi mới nhận ra: yếu tính thực sự của Tin Mừng phải là vui mừng trọn vẹn. Tin Mừng không chấp nhận đội trời chung với sợ hãi dưới bất cứ hình thức nào! bao lâu còn vấn vương sợ hãi, dầu là nhỏ nhất, bấy lâu vẫn chưa thực sự hiện diện Tin Mừng chân chính. Từ cửa miệng Đức Giêsu không biết bao nhiêu lần đã liên tục vang lên điệp khúc: “Đừng sợ!” để trấn an các môn đệ là gì?
Nhưng làm sao mà không sợ cho được: nếu đã phạm tội thì tôi phải sợ hình phạt hỏa ngục chứ…, nếu không hãi sợ thì người ta sẽ phạm tội bừa phứa mất thôi! Đúng vậy: sợ hãi dựa trên thưởng phạt xem ra là yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi nền luân lý và đạo đức xã hội, vì nhân quả là định luật căn bản tuyệt đối của trời đất và con người. Đã có nhân thì phải có quả, có thưởng thì phải có phạt, như vậy mới công bằng, mới giúp làm lành lánh dữ chứ!
Như thế Hài Nhi mà Maria mang trong dạ chắc phải có một khả năng gì đặc biệt lắm: khả năng làm cho con người nhảy mừng và chấm dứt mọi sợ hãi, khả năng đạp đổ định luật nhân quả cho tới lúc đó vẫn thống trị tuyệt đối trên toàn thể nhân loại. Sau này khi lên đường rao giảng ‘học thuyết’ của mình, Giêsu - tên của Hài Nhi đó, sẽ gọi khả năng đó là ‘Tin Mừng’ - Tin Mừng cứu độ; Tin Mừng này hệ tại ở việc tin và chấp nhận vô điều kiện tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót từ ái của Chúa, được thể hiện qua Thập Giá Đức Ki-tô Giêsu, sẽ trở thành định luật mới vĩ đại, đối kháng trực diện với luật nhân quả ngàn đời; “Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án… và không bị luận phạt…” (Ga 3,18). Kể từ khi xuất hiện Hài Nhi, nhân loại sẽ được chia thành hai phe: một bên là những người tiếp tục sống dưới luật nhân quả, chấp nhận thưởng phạt như một định luật bất di bất dịch, kèm theo mối sợ hãi ‘tích cực?’ có khả năng thúc đẩy họ làm lành lánh dữ, còn bên kia là những ai tin và chấp nhận lòng từ nhân và tha thứ nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà Hài Nhi Giêsu đã khai mở. Phe thứ hai này sẽ sống không như đầy tớ trong sợ hãi, nhưng trong tinh thần nghĩa tử của con cái, tuy vẫn biết bản thân mình còn đầy bất toàn và tội lỗi (xem Gl 4:7). Gio-an Tiền Hô đã là một trong các nhân vật đầu tiên được ghi danh vào nhóm thứ hai này, và vì thế ông đã nhảy mừng ngay từ lúc khởi đầu kiếp sống làm người của mình. Tương tự như thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu chúng ta cũng đã ghi tên mình vào nhóm hai này, để vui mừng đón nhận tình yêu tha thứ, là Tin Mừng không vương chút sợ hãi; dưới lối nhìn này, truyền giáo sẽ được hiểu như một cuộc chinh phục phe nhân loại còn nằm trong sợ hãi của luật nhân quả, để đưa họ tới hưởng niềm ‘vui mừng và hy vọng’ của Tin Mừng cứu rỗi.
Vậy tôi hãy nhảy mừng trong ngày Hai Nhi giáng thế, vì đó là ngày cứu độ, ngày giải phòng trọn vẹn của chính tôi và của toàn nhân loại!
Lạy Mẹ Maria hớn hở mừng vui, xin hãy mang Hài Nhi đến viếng thăm con và làm cho con cũng được nhảy mừng. Xin cất khỏi lòng con mọi nỗi sợ hãi, như Mẹ đã từng diễn đạt: “tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, đấng cứu độ tôi; phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…; đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót…” và xin Mẹ làm cho con trở thành một nhà truyền giáo, tức là kẻ loan truyền cho mọi người niềm vui vì biết rằng: mình được Thiên Chúa cứu độ. Amen.
Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng luôn đề cao Đức Maria.
Mẹ luôn tin vào Lời Chúa: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em". Mẹ luôn vâng theo thánh ý Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền". Mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác: viếng thăm và giúp đỡ bà Êlisabét.
Đức Thánh Cha Bênêđictô đã dâng Năm Đức Tin cho Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là ‘người diễm phúc’ vì ‘Mẹ đã tin’ (Lc 1,45)”. (Cánh Cửa Đức Tin, số 15).
“Nhờ đức tin, Mẹ Maria đã đón nhận lời thiên thần và tin nơi lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa trong sự tuân phục tận tụy của Mẹ (x. Lc 1,38). Khi viếng thăm bà Elisabeth, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Chúa thực hiện nơi những người tín thác nơi Ngài (x. Lc 1,46-55). Mẹ vui mừng và hồi hộp sinh hạ Con duy nhất, mà vẫn giữ nguyên sự đồng trinh [...] (x. Lc 2,6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse hôn phu, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x. Mt 2,13-15). Với cùng đức tin Mẹ theo Chúa trong thời gian giảng đạo và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgota (x. Ga 19,25-27). Với đức tin, Mẹ Maria niếm hưởng những thành quả đầu tiên của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và cẩn giữ mọi kỷ niệm trong lòng (x. Lc 2,19.51), Mẹ thông truyền kỷ niệm ấy cho 12 Tông Đồ tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc Ly để lãnh nhận Thánh Linh”. (x. Cánh Cửa Đức Tin, số 13).
Trong “Kinh Năm Đức Tin” (WHĐ), có lời cầu nguyện với Đức Mẹ:“Lạy Mẹ Maria, Mẹ được chúc phúc vì đã tin.Xin giúp chúng con luôn tin những lời Chúa dạy và Hội Thánh truyền, biết phó thác mọi sự cho tình yêu quan phòng của Chúa, biết quan tâm đến nhu cầu của mọi người anh chị em chung quanh chúng con, nhờ đó họ sẽ được nhận biết Chúa, để chính họ cũng nhận được ơn đức tin đem lại sự sống đời đời”.
Đức Maria được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ không chỉ tin mà còn hành động theo điều Mẹ đã tin. Vì thế, Mẹ trở nên thầy dạy về đức tin và đức ái.
1. “Đức tin hoạt động qua đức ái”(Gl 5,6)
Khi được diễm phúc cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng, Đức Mẹ đã hân hoan lên đường đem niềm vui đến với người chị họ cũng đang tràn đầy hạnh phúc, chia sẻ khó khăn với chị mình tuổi cao mà mang thai.Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm và giúp đỡ. Lòng tin thúc đẩy bước chân Mẹ thực thi bác ái. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.
Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang, giữa hai giao ước cũ và mới.
- Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlisabét được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
- Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng mẹ Êlisabét nhảy mừng vui sướng.
- Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
“Đức tin hoạt động qua đức ái”trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống của con người (x. Rm 12,2; Cl 3,9-10; Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17). Đức tin không có đức ái thì không sinh hoa kết quả, và đức ái mà không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn bị sự nghi ngờ chi phối. Đức tin và đức ái cần nhau, đến nỗi đức này giúp đức kia đi trọn con đường của mình. Quả thật, có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương phục vụ những người cô đơn, bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc bị tẩy chay, coi họ như những người đầu tiên cần phải chú ý đến và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi họ phản ảnh dung nhan của Đức Kitô. (x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14).
Đức tin đi đôi với lòng mến. Lòng mến càng nhiều đức tin càng mạnh. Khi yêu mến Chúa, chúng ta sống Lời Chúa: "ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy"; với trọn niềm tin:“Tất cả những gì anh em xin thì sẽ được như ý” (Mc 11,24).
2. Đức ái là hoa trái đức tin
"Đức tin không có Đức ái thì không mang lại hoa trái. Đức ái không có đức tin thì sẽ là một thứ tình cảm không thuyết phục. Đức tin và Đức ái cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình.” (x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14). “Đức Tin là Đức ái trong gốc rễ, còn Đức ái là Đức Tin mang hoa trái. Vì thế, Đức Tin khi được canh tân thì cũng làm cho Đức ái được tăng triển và ngược lại, khi Đức ái được nồng cháy thì Đức Tin cũng được củng cố. Đức Tin đem ánh sáng, Đức ái đem hơi ấm”. (x.tham luận của Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, tại Hội nghị Thường niên Caritas Việt Nam 2012).
Khi đến thăm bà Êlisabét, Đức Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlisabét, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlisabét là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đức Mẹ là mẫu mực đức ái. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlisabét đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi.
Tình yêu đòi hỏi phải thể hiện bằng việc làm.Tình yêu được biểu lộ thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người khác trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Thăm viếng nhau là thể hiện tình liên đới, biết quan tâm giúp đỡ nhau.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu sống đức tin.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
3. Đức Mẹ, thầy dạy đức tin và đức ái
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và đức ái. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao, lên tới Thiên Chúa. Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa kho tàng quý nhất. Mở được cả cánh cửa kho tàng nước trời, mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy chúng ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: "Người bảo làm gì, thì các anh hãy cứ làm theo". Hôm nay, Đức Mẹ cũng muốn nói với chúng ta: nếu Chúa đã dạy: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy", thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành Bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin, vì Đấng quyền năng đã biến nước lã thành rượu ngon thì cũng quyền năng biến đổi bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh của Người, “Anh em biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” (Ga 13,17).
Đức Mẹ dạy chúng ta sống và thực thi đức bác ái. Mẹ đem tình thương đến với gia đình Bà Êlisabét. Người chị họ ca khen Mẹ: "Em có phúc vì đã tin". Đức tin đem lại hạnh phúc. Có nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng:
- "Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh" (Mt 8,13)
- Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết: "Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con". Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)
- Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp "Thưa Ngài chúng tôi tin". Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói "Các anh tin thế nào thì được như vậy". Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Hạnh phúc cho những ai tin vào Thiên Chúa và thực thi đức ái trong đời sống hàng ngày. Sống đạo là sống niềm tin thể hiện qua việc làm “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”(Mt 11,19).
Đức Maria giàu tình thương nên xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Học nơi Mẹ, bậc thầy về lòng tin và lòng mến chúng ta sẽ sống tốt lành và thánh thiện trên hành trình đức tin của đời sống.
Câu chuyện trong đoạn Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Maria đi thăm người chị họ MV 4-C114
của mình là bà Êlisabet để chia vui với chị, vì nghe biết chị được một hồng ân quý báu là có con trong lúc tuổi già. Đối với người Do Thái, có chồng mà không có con là dấu hiệu bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Bà Êlisabet là một người đạo đức không ai trách được, nhưng lại không được vinh dự sinh con, Thiên Chúa có ruồng bỏ bà không? Như mẹ của tiên tri Samuen, bà khóc đêm khóc ngày vì bà không có con. Dù được chồng cưng chiều, nhưng không ai làm cho bà nguôi nỗi buồn ray rứt bà. Bà đã cầu khẩn ngày đêm, và một ngày kia, khi bà cầu nguyện ở Đền thờ, Chúa cho bà được toại nguyện và đứa con bà sinh ra sau này, đã trở thành vị tiên tri của Chúa đó là Samuen.
Bà Êlisabet cũng vậy. Chắc bà đã khẩn cầu suốt năm này qua năm kia, nhưng đến giờ của Chúa, Chúa đã cho bà một đứa con trai. Niềm vui của bà đã được trọn vẹn. Chương trình của Chúa luôn bất ngờ. Đứa con lạ lùng kia đã trở nên người dọn đường cho Chúa, “hơn cả tiên tri”.
Niềm vui của Mẹ Maria âm thầm nhưng sâu đậm. Niềm vui của Mẹ toát ra từ một quả tim đầy yêu thương và khiêm tốn. Mẹ không nghĩ rằng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa mà chỉ biết thân phận mình là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa thôi: “Tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin Chúa cứ thực hiện nơi tôi những gì Ngài muốn”.
Hãy cầu xin cho niềm vui cứu độ Chúa mang đến ngập tràn tâm hồn chúng ta, để chúng ta vội vã lên miền núi của tình thương, đến với những người đang cần đến, đảm nhiệm nỗi đau và những khó khăn của họ.
• Để chúng ta sống mãi trong tâm tình biết ơn và phó thác,
• Để chúng ta dám hiên ngang loan báo trong hân hoan, những hồng ân của Chúa cho tất cả những tâm hồn thiện chí và cả những người không còn muốn nghe tin vui cứu độ,
• Để như Mẹ, chúng ta vững tin vào tình yêu và những lời Chúa hứa,
• Để chúng ta sẵn sàng vâng nghe lời Chúa, cho Nước Tình Yêu Chúa càng lan rộng trong thế giới u ám hận thù của thời đại hôm nay.
Thiên Chúa đang tìm kiếm những tâm hồn thành thật, sẵn sàng lên đường loan truyền tin vui cứu độ. Chúng ta hãy là những người luôn nói “xin vâng”.
Thế giới hôm nay vẫn luôn là một thách đố cho những người thành tín. Chúng ta bị bao vây tư bề bởi bao nhiêu vấn đề… không lúc nào ngơi, nhưng tiếng nói yêu thương của Chúa vẫn luôn vang dội: Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi ban Con Một mình cho nhân loại.
Qua tiếng nói của bà Êlisabet, chúng ta hãy cùng Mẹ Maria tạ ơn Chúa và đón tiếp Con của Chúa Cha vừa trao ban cho Mẹ. Đó là quà tặng vô giá mà chúng ta vừa lãnh nhận qua Mẹ Maria. Hãy chuẩn bị tâm hồn thật chu đáo để hồng ân tuyệt vời này mang lại hiệu quả dồi dào cho chúng ta và cho mọi người.
Này Ngài đến, nhỏ bé hơn bao giờ hết. Hôm nay, Ngài nhỏ bé nhưng Ngài vẫn là Con Thiên Chúa. Ngài đến như một hồng ân cho nhân loại, nhưng có mấy người biết đón tiếp Ngài? Có bao nhiêu người nhận ra được Ngài là nguồn phúc bất tận cho mọi người? Chúng ta có phúc, vì như Mẹ Maria, chúng ta đã tin, chúng ta tin vào tình yêu luôn tràn đầy của Thiên Chúa, chúng ta tin rằng những gì Chúa hứa từ xa xưa sẽ được thực hiện.
Này Chúa đến. Không bao lâu nữa, hãy cùng với Mẹ đón tiếp Ngài với tất cả lòng mến yêu chân thành. Ngài nhỏ bé hơn hết, nhưng lại cao cả hơn hết. Ngài cao cả trong sự tự hiến của Ngài, nuôi dưỡng mọi người và giúp mọi người tiến xa vào quên mình và yêu thương.
Chúng ta hãy vui mừng đón tiếp Ngài qua hình thức tấm bánh và từ từ tự biến mình thành tấm bánh bẻ ra cho muôn người.
Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elizabeth.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.
Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước Thiên Chúa.
Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp gỡ.
Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria. Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác".
Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay, các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập niềm vui.
Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: "Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa". Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: "Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!"
Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt lên kinh Magnificat: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa". Lời kinh tuyệt vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa trong giờ Kinh Chiều của mình.
Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến con mình và nói lên cho mọi người biết: "Này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi". Truyền thống Công Giáo cho rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.
Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay, mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.
Những người rao giảng có khuynh hướng nhấn mạnh đến sự vắng mặt của Đức Kitô trong ngày Lễ Giáng Sinh, và lấy làm tiếc vì sự thương mại hoá của ngày lễ này. Sự thương mại hoá mang lại rất hiệu quả. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, tốt hơn là nên nhấn mạnh đến sự hiện diện của Đức Kitô, và giúp cho mọi người tìm thấy Người trong ngày lễ này.
Việc cử hành Lễ Giáng Sinh của chúng ta có nhiều tầng lớp. Trong một bài viết ở báo The Tablet (tháng 12, năm 1998). Anthony Philpot đã đồng nhất một số tầng lớp này.
Tầng lớp trên cùng là từ người tiêu thụ trong ngày Lễ Giáng Sinh, mà từ đó, những ngày này, không có được lối thoát nữa – họ cứ nhất định phải có những bài hát Lễ Giáng Sinh, những con tuần lộc, Ông già Nôen, và việc năng nổ mua bán tất cả mọi loại hàng hoá. Điều này làm gia tăng tính hám lợi nơi những đứa trẻ, tạo ra sự lo lắng về việc chi tiêu quá mức, và gây mệt mỏi cho người lớn. Đó là một ngày Lễ Giáng Sinh với một cốt lõi rỗng tuếch.
Kế tiếp là tầng lớp Charles Dickens –những tấm thiệp mô tả phong cảnh ngập tuyết, cảnh ồn ào của lò sưởi, gà tây, bánh mận, bánh thịt… Đó là một ngày Lễ Giáng Sinh của cảnh gia đình tụ họp với nhau, của sự thành tâm nơi tất cả mọi người, của tấm lòng nhân ái và cởi mở. Đối với họ, có nhiều điều để nói về những giá trị này. Hầu hết mọi người đều có phần đóng góp vào lối giải thích này về Lễ Giáng Sinh. Nhưng khi không có lòng tin, thì rốt cuộc Lễ Giáng Sinh là gì? Chỉ là một yếu tố kích thích nhỏ nhoi, một vài cách diễn tả sốt sắng, là việc cho và nhận một số quà tặng. Và rồi tất cả mọi sự đều trôi qua giống như lúc trước vậy.
Tầng lớp thứ ba là của máng cỏ, mà đối với chúng ta, đó là cách diễn tả về ngày Lễ Giáng Sinh. Đây là tầng lớp của vở kịch về cảnh Chúa Giáng Sinh, mà đối với tất cả mọi người, việc diễn tả đơn giản về ngày lễ này có thể gây xúc động sâu xa.
Tầng lớp thứ tư và mang tính cách sâu sắc nhất, chính là tầng lớp thiêng liêng. Đây là câu chuyện về một Hài Nhi đã được sinh ra như thế nào tại đất nước Israel, cách đây 2000 năm. Nơi con người của Hài Nhi này, Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản chất của chúng ta trên chính mình Người, và đã đi vào thế giới của chúng ta, trong sự yếu đuối và tình yêu thương của. Người đến để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, và được tiền định một cuộc sống đời đời.
Người ta có khuynh hướng gạt bỏ, hoặc thậm chí còn kết án ba tầng lớp đầu tiên, và coi như tầng lớp thiêng liêng mới là một tầng lớp đích thực duy nhất. Điều này dựa trên giả thiết rằng tầng lớp thiêng liêng và tầng lớp vật chất đối nghịch lại với nhau. Nhưng không phải là như vậy. Đạo Công giáo bao gồm cả tinh thần lẫn vật chất. Không thể có Lễ Giáng Sinh chỉ thuần tuý có yếu tố tinh thần mà thôi.
Điều mà chúng ta phải làm, đó là tìm ra được sự liên kết giữa nơi thị trường trần tục, và nội dung thiêng liêng của ngày lễ. Nhiều cảnh mua bán xảy ra trong ngày Lễ Giáng Sinh tạo thuận lợi cho việc trao tặng quà, những việc làm tốt đẹp, niềm vui và sự khẳng định các mối quan hệ trong gia đình –đưa đến kết quả trong việc cho và nhận.
Cách thế này giúp chúng ta nhận thấy tương quan gần gũi giữa tinh thần và vật chất, giữa những sự việc trên trời và dưới thế này. Chúng ta phải học hỏi được phương cách nào hoà nhập được cả hai yếu tố này. Vấn đề cốt lõi của tôn giáo chính là: Phải làm thế nào để hoà hợp được về mặt thiêng liêng và vật chất, xác thịt và tinh thần, bên trong và bên ngoài, bề mặt và bản chất.
Có những người cứ khăng khăng là cần phải có sự phân chia rõ ràng giữa thần thánh và con người, giữa yếu tố thánh thiêng và yếu tố trần tục, giữa linh hồn và thể xác. Nhưng chúng ta sẽ không tìm được điều đó trong ngày Lễ Giáng Sinh. Trong ngày này, những yếu tố đó đan xen với nhau, đến nỗi dường như chúng trở nên một, và cùng là một yếu tố.
Ngày lễ Giáng Sinh đã gần kề, Hội Thánh cho dân Chúa thấy những biến cố vô cùng trọng đại nhưng lại âm thầm diễn ra trong dòng lịch sử.
Này con đến để thực thi Ý Chúa
Biến cố Đức Maria cưu mang Ngôi Lời nhập thể, được thực hiện trong âm thầm tuy dù đó là biến cố vô cùng quan trọng “Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và vĩnh viễn làm người”. Đức Yêsu đã sống “bình thường” như một người; chỉ khi Đức Yêsu sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ mới nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Ngôi Lời nhập thể để làm gì? “Này con đến để thi hành Ý Chúa”.
Đâu là ý muốn của Thiên Chúa? Thiên Chúa muốn con người được cứu độ, được triển nở, được hạnh phúc, được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Con người phạm tội khi tìm mình, chọn mình trên Thiên Chúa và anh chị em mình, dùng tha nhân như phương tiện để thỏa mãn tham vọng riêng tư của mình. Chỉ khi nào con người sống trong tình yêu, tôn trọng tha nhân và Thiên Chúa, thì con người mới được bình an và hạnh phúc.
Làm sao để con người sống trong tình yêu? Làm sao để con người mở lòng ra với Thiên Chúa và với người khác? Đó là sứ mạng của Ngôi Lời, của Ngôi Lời nhập thể, của Đức Yêsu.
Em có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện điều đã nói với em
Mỗi một người có chỗ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sứ mạng của Yoan con ông bà Zacharia-Isave, là “trở thành tiếng kêu trong hoang địa”, kêu mời người ta chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai. Yoan Tẩy Giả đã làm trọn sứ mạng của mình.
Sứ mạng của Đức Maria, là thực hiện điều Thiên Chúa đề nghị, tuy âm thầm khiêm tốn nhưng rất gian nan, đó là “cưu mang và sinh hạ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể”. Đức Maria đã chấp nhận, và đã trở thành người “cưu mang Thiên Chúa”, mang Thiên Chúa tới cho người khác, mang Thiên Chúa đến cho nhân loại.
Phụ nữ nào mà lại chẳng có con! Cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng một người con, không phải là chuyện “động trời” trên trái đất này. Chuyện đó vẫn xảy ra bình thường, thế nhưng ngay cả chuyện rất bình thường như vậy, cũng trở thành một biến cố “vô tiền khoáng hậu”! Mỗi người đều có thể “có phúc” hơn việc cưu mang và sinh hạ Đức Yêsu, vì “ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa còn có phúc hơn” (Lc.8, 21; 11, 28).
Để thực hiện được thánh ý Thiên Chúa, để có thể cưu mang Thiên Chúa trong lòng, Đức Maria đã tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, mới giúp Đức Maria vượt qua được những khủng hoảng trong đời, như lúc sinh con trong chuồng chiên cừu (tại sao lại phải sinh trong cảnh cùng quẫn như vậy?), lúc sống nghèo tại Nazaret, và đặc biệt lúc đứng dưới chân thập giá (Thiên Chúa có giữ lời hứa với tôi khi thiên thần truyền tin không? Đâu là lời “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng Đavid tổ phụ Ngài?). Phúc cho những ai tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và sẽ làm cho mình những điều tốt đẹp nhất.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Chúa tới, mang gì cho bà Isave, cho ông Zacharia và Yoan? (lúc đó và cuối đời) 2. Ngôi Lời nhập thể để thi hành Ý Chúa Cha! Làm sao để con người yêu Thiên Chúa và yêu thương nhau? 3. Bạn có nghĩ rằng Đức Maria hạnh phúc không (lúc sinh con trong chuồng chiên cừu, lạc mất con, và đứng dưới chân thập giá)? Hạnh phúc hệ tại đâu? 4. Chúa tới, tôi được và mất gì?
Bởi đâu con người đã đánh mất nghĩa tình với Chúa? Bởi lẽ con người quá cao ngạo. Không cao ngạo đi chăng nữa thì cũng đi tìm kiếm sự cao ngạo để rồi qua sự tìm kiếm đó con người đã không còn chỗ cho Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình.
Hết sức cụ thể, hết sức rõ ràng nơi Ađam-Eva. Cũng chỉ vì cao ngạo để rồi đánh mất đi tình, đánh mất đi cái nghĩa cao đẹp mà Thiên Chúa đã dành cho hai ông bà. Thiên Chúa là Chúa, là Chủ nhưng rồi hai ông bà đã loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình.
Sau chuyện của hai ông bà nguyên tổ, ta đi tiếp một chút trong dòng chảy của lịch sử loài người, lịch sử cứu độ thì ta vẫn thấy đâu đó hình ảnh của những con người kiêu ngạo, hình ảnh của những con người cứ tưởng rằng mình là lớn nhất và rồi tất cả những người mà lớn nhất đó đều bị sụp đổ, đều bị tiêu tan cả.
Bởi thế, cái mà con người coi là lớn, là hùng vĩ, là vĩ đại thì đối với Thiên Chúa chẳng là gì cả. Hình ảnh hay nói sát hơn một tí mà chúng ta có thể bắt gặp Lời mà Thiên Chúa nói cho con người biết về điều này thể hiện nơi các ngôn sứ.
Nhìn lại cuộc đời các ngôn sứ, chúng ta thấy man mác hình ảnh của những con người thấp cổ bé họng, những con người nhỏ bé. Thế nhưng đàng sau vóc dáng của những con người nhỏ bé đó lại ẩn hiện một hình bóng của Thiên Chúa.
Trang sách ngôn sứ Mikha mà chúng ta vừa nghe đã tiên báo về hình ảnh Đấng Cứu Độ trần gian: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".
Hình ảnh của Đấng Cứu Độ Trần gian mà Mikha loan báo khi xưa đã, đang hiện thực nơi cuộc đời của Chúa Giêsu.
Gioan Tiền Hô đã loan báo sự xuất hiện của một vị ngôn sứ lớn hơn Gioan gấp bội phần và vị ngôn sứ đó, ngay cả Gioan cũng không đáng cởi dép cho Ngài thế nhưng mà dân chúng chẳng tin. Bởi lẽ hết sức đơn giản là dân chúng lại mong chờ một đấng Mêsia đến trong cõi mây trời, trong vinh quang và nhất là cho dân Israel được nở mặt nở mày và cho dân Israel được ăn trên ngồi chốc.
Với cái nhìn như vậy, với cái nhìn xác phàm như vậy dân chúng thời Chúa Giêsu đã không nhận ra sự hiện diện của Đấng Cứu Độ trần gian.
Giữa những cái nhìn như thế, giữa những quan niệm như thế chúng ta bắt gặp hình ảnh của một cô thiếu nữ Do Thái có tên là Maria. Cô thiếu nữ này đã mau nghe và chậm nói, đã suy đi nghĩ lại những lời mà các ngôn sứ đã nói, suy nghĩ những gì được loan báo trong Cựu Ước và rồi thiếu nữ đã tin nhận Đấng Mêsia đến. Không chỉ tin tin nhận đến mà còn đón nhận vào trong cung lòng của mình.
Hơn nhau là ở chỗ tin và đón nhận. Maria tin và đón nhận Đấng Cứu Độ vào trong cuộc đời của mình.
Trang Tin mừng hết sức ngắn mà Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một lần nữa nói lên lời xác tín của người chị họ Isave: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Phúc cho Bà là kẻ đã tin !
Hết sức tuyệt vời vì Bà là kẻ đã tin chứ không phải phúc cho bà vì bà cao ngạo, bà tưởng là bà to, bà tưởng là bà lớn.
Tin! Maria đã lặng lẽ và tin nhận quyền năng Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ khi nghe lời của sứ thần truyền.
Maria đã vâng theo Thánh ý của Chúa trong cuộc đời của Mẹ.
Để vâng theo Thánh ý Chúa, để đón Chúa vào trong cuộc đời không có con đường nào khác ngoài con đường khiêm hạ.
Trong tâm tình đó, thư gửi tín hữu Do Thái vừa nhắc nhớ chúng ta: Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: 'Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách'".
Thư gửi tín hữu Do Thái đã lấy lại tâm tình của ngôn sứ Isaia: Sách ấy bắt đầu như thế này: "Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật. Ðoạn Người nói tiếp: Lạy Chúa, này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Chỉ có khiêm hạ thì mới mở lòng đón Chúa đến trong đời mình mà thôi.
Ngày hôm nay, Chúa đã đến rồi, Chúa đã có đó rồi trong cuộc đời nhưng rồi người ta vẫn không nhận ra Chúa chỉ vì người ta cao ngạo.
Một chị kia đến không ngần ngại nói rằng nhiều lúc chị nghĩ đến cái chết vì gia đình chị đang gặp bế tắt. Hỏi thăm thì chị nói là chồng chị bị ung thư thận và rồi đang bế tắt và chị muốn tìm đến cái chết cho thanh thản cõi lòng.
Nghe chị nói xong, tôi mời chị hãy dành một chút thời gian nào đó để vào các phòng cấp cứu của các bệnh viện, ít là 115 và Chợ Rẫy để thấy tận mắt nơi đó sự sống của con người. Gia đình, người thân, con cái và đặc biệt là các y bác sĩ dù không hề quen biết nhưng với y đức, với tính nhân đạo của con người họ đã cố gắng hết sức cứu mạng sống cho con người dù mong manh. Tôi mời gọi như thế và chị chợt nhận ra rằng chị hạnh phúc hơn nhiều người. Chồng chị đang bệnh nhưng ít ra gia đình chị vẫn còn một mái nhà để tựa nương vì lẽ xung quanh chị và ngay trong cái bệnh viện Ung Bướu cách đây không xa vẫn còn đó nhưng con người đau khổ mà không có tiền để có được bữa cơm bình thường như bao người mà phải ngửa tay xin bữa cơm từ thiện.
Sau khi tôi phân tích, gợi lên một chút về sự sống, một chút về ân ban mà Thiên Chúa trao ban cho chị, chị nhận ra và mỉm cười với cuộc đời vì lẽ chị hạnh phúc hơn bao người.
Ta cũng thế, nhiều lần nhiều lúc vì cao ngạo để rồi ta không nhận thấy Chúa trong cuộc đời ta. Khi ta cho mình là nhất, khi ta cho mình là chủ đời ta thì không thể nào ta có chỗ cho Thiên Chúa được.
Hôm nay là ngày cận kề của Lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, học nơi Mẹ Maria sự khiêm hạ nhỏ bé để đón Chúa vào trong cung lòng chúng ta như Mẹ đã từng đón Chúa vậy.
Tiên tri Mikêa loan báo Đấng thống trị Irael sẽ xuất hiện tại Belem, đất Giuđa. Chúng ta thường gọi vùng Belem này là Đất Thánh vì đã được đón nhận Đấng Cứu Thế. Người Do-thái dùng từ Đất thánh chỉ Nước Irael (Kingdom of Israel). Từ ngữ Đất Thánh (Holy Land) được dùng bởi cả người Hồi Giáo và Kitô Giáo để định vị miền đất giữa sông Jordan và vùng biển Địa Trung Hải. Đền thờ Giêrusalem là trung tâm tôn giáo của người Do-thái và là nơi thánh. Cùng với những nơi Chúa Giêsu đã đi qua thi hành sứ mệnh và rao truyền ơn cứu đô. Xưa cũng như nay, có rất nhiều người, kể cả Do-thái, Kitô hữu và tín hữu Hồi giáo đến hành hương trong miền Đất Thánh này. Nhiều người ao ước được đến viếng thăm những nơi Chúa Giêsu Nazarét sinh ra, nơi Chúa sinh sống và rao giảng, đồi Chúa chịu chết và nơi sống lại ra khỏi mồ. Nhiều Kitô hữu muốn đến tận nơi ngắm nhìn, đụng chạm, cảm nhận và suy niệm về cuộc đời của Chúa Cứu Thế.
Chương trình cứu độ được tỏ hiện từng bước trong lịch sử dân Do-thái. Thánh ý của Thiên Chúa trải rộng khắp lịch sử của loài người và đặc biệt qua dân được tuyển chọn. Thiên Chúa đã chọn, gọi và sai các tiên tri hướng dẫn Dân đi qua từng biến cố lớn nhỏ. Tiên tri Mikêa đã loan tin: Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en (Mik 5, 2). Mikêa nói đến hình bóng của người phụ nữ đã được nhắc đến ngay trong những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, như lời Thiên Chúa đã hứa: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó (Stk 3, 15). Người phụ nữ này giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình cứu độ loài người. Qua người nữ, Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra trong dòng dõi của những kẻ còn sót lại.
Trong thời Cựu Ước, những lời tiên tri loan báo từ từ được thực hiện. Một trinh nữ miền quê trong trắng, đơn sơ và thánh thiện đã được Thiên Chúa quan phòng để lãnh nhận sứ mệnh làm mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa vũ trụ đã hóa thân làm người nơi cung lòng của Đức Maria trinh nữ. Chúa chọn một người nữ bình thường để thể hiện những việc phi thường. Đất trời đã giao hòa. Sự kiện này hoàn toàn do thánh ý của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa hạ thân làm người và một người nữ khiêm cung đón nhận hồng ân và cưu mang trong lòng. Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."( Lc 1, 38). Sau khi được sứ thần truyền tin cưu mang Con Thiên Chúa, Maria đã nói lời xin vâng và sống niềm tin sâu thẳm. Khi Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ là Isave, bà Isave đã lớn tiếng kêu lên rằng:"Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42).
Từ một thôn nữ đơn thành chất phát, Maria đã trở nên máng chuyển ơn cứu độ. Kinh thánh đã ca khen vai trò của Mẹ Maria qua điềm lạ xuất hiện trên trời:Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12, 1).Thiên Chúa đã quan phòng thay đổi cuộc đời của Đức Maria trong vai trò trung gian của ơn cứu độ. Đức Maria đã hoàn toàn vâng theo thánh ý của Thiên Chúa. Một mầu nhiệm cao siêu nhất hòa nhập trong một con người đơn sơ hèn mọn. Maria tiếp tục sống một cuộc sống hiền hòa, khiêm hạ và âm thầm lặng lẽ vâng phục trong nguyện cầu tín thác. Maria đã đi thăm viếng và giúp đỡ chị họ Isave trong lúc sanh nở. Maria đã không quản ngại phụ giúp chị trong mọi công việc dù thấp hèn nhất.
Sự khiêm hạ của Đức Maria là gương mẫu cho chúng ta. Đức Maria đã sống ơn gọi của mình một cách hoàn hảo. Biết rằng nếu muốn thay đổi số phận, chúng ta phải bỏ ra công sức để tôi luyện công đức. Công đức thay đổi nhân tâm. Công đức căn bản là thực hiện những điều khiêm hạ thấp hèn. Thường thường người ta nói về công đức cao siêu, nhưng cái thấp nhất và nhỏ nhất lại là cái vĩ đại nhất. Giống như nhà khoa học nghiên cứu những cái nhỏ nhất và đơn giản nhất để khám phá ra những qui luật chung mà mắt người thường không nhìn thấy được. Công đức căn bản là lao động công ích. Chúng ta nhìn qua những hành xử của thân, khẩu và ý. Thân nghiệp là hành vi dùng sức khỏe và chân tay lao động để giúp người và giúp đời. Khẩu nghiệp là nói những lời chân thành, nhẹ nhàng và nhân ái giúp gây bầu khí an hòa và cảm thông lẫn nhau. Ý nghiệp là khởi ý cầu mong sự tốt lành và an vui cho người khác.
Bà Isave và Đức Maria đã trao đổi tình thân hữu qua việc giúp đỡ và khen ngợi. Bà Isave đã chúc tụng: Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em (Lc 1, 45). Khẩu và ý nghiệp của bà Isave vừa là lời chúc phúc, vừa là sự cầu mong những điều tốt lành cho Maria. Giáo Hội đã dùng lời ca ngợi của bà Isave biến thành lời cầu nguyện: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ… Đức Maria có phúc vì được Thiên Chúa ưu ái chọn lựa ban đầy ơn sủng. Đức Maria như bình gốm được Thiên Chúa tác thành theo thánh ý của Ngài. Đức Maria là một thụ tạo tuyệt vời để cộng tác vào công trình cứu độ. Mẹ đã cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế đã đến với đoàn dân của Ngài nhưng họ đã không nhận biết Ngài. Ngài đã hoàn thành mọi lời đã tiên báo và đã đi trọn con đường dâng hiến theo thánh ý của Chúa Cha. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã ghi: Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10, 7). Sách Thánh này bao gồm toàn bộ những sách đã được linh ứng viết ra. Mỗi một cuốn sách dù dài hay ngắn đều có liên quan đến sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Công trình cứu độ được thực hiện qua sự hiến tế của Con Người là Đức Kitô, Đấng được xức dầu.Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ (Dt 10, 10). Chúa Kitô đã đổ ra giọt máu cuối cùng để dâng lễ hy tế trên thánh giá. Lễ hiến dâng toàn vẹn bằng chính sự sống.
Cử hành Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta suy niệm về Mầu Nhiệm Con Chúa giáng thế làm Người. Chúa đã giáng trần tại Belem cách đây hơn 2000 năm rồi. Đây là biến cố duy nhất xảy ra trong lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu Kitô đã thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã khiêm hạ bước xuống cùng tận cuộc đời. Chúa đã sống chung với các môn đệ nghèo hèn là những người lao động chài lưới và ít học. Chúa đã đi khắp các nẻo đường để gieo rắc tin mừng tình thương và chữa lành những tâm hồn dập nát đau thương. Chúa đã giao hòa con người tội lỗi và ban cho quyền làm con Thiên Chúa. Chúa đã học vâng phục và vâng phục cho đến cùng. Chúa Giêsu nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới (Dt 10. 9).
Lạy Chúa, biết bao lần con đã thề hứa sẽ sống đạo tốt và sống theo thánh ý Chúa. Rồi biết bao lần chúng con đã lại sa ngã, chối từ và tìm theo ý riêng mình. Xin Chúa ban ơn đảm để chúng con biết nói lời xin vâng và sống tín thác như Đức Maria. Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
Chúa nhật I Mùa Vọng, Giáo hội thắp lên một ngọn nến màu tím tượng trưng cho sự tha thứ của Adam và Evà, đồng thời cùng với con cái mình vươn tâm hồn lên tới Chúa (Ad Te levavi).
Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo hội mặc lấy tâm tình của dân Sion, tâm tình của người trong tư thế nghênh đón chờ Chúa đến (Populus Sion) và thắp lên ngọn nến thứ hai, tượng trưng cho Đức tin của của Áp-ra-ham và các tổ phụ, là những người đã tin rằng có những món quà Thiên Chúa dành cho trong vùng Đất Hứa.
Sang Chúa nhật III Mùa Vọng, niềm vui trào dâng, màu sắc Phụng vụ từ tím chuyển sang hồng, nhất là bài Ca nhập lễ lấy lại lời của Thánh Phaolô gửi tính hữu Philipphê: Vui lên anh em - Gaudete... Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa...vì Chúa dã gần kề. Giáo hội thắp lên một ngọn nến hồng, tượng trưng cho niềm vui của David có dòng dõi ông sẽ trường tồn vạn kỷ. Điều này đã chứng minh cho giao ước của Thiên Chúa
Và đây là Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, sự nóng lòng mong chờ Chúa đến được thể hiện thật rõ nét. Có lẽ dân chúng không thể nén lòng mà trông đợi được nữa, nên đã cất cao giọng, mong rằng tiếng họ kêu được thấu tời Trời: Rorate... Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa, mưa Đấng Công Chính. Giáo hội thắp lên ngọn nến thứ tư, tượng trưng cho giáo huấn của các tiên tri đã loan báo một triều đại của công lý và hòa bình. Phụng vụ Lời Chúa diễn tả niềm vui của Dân Chúa: "Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi"(Dc 2, 8).
"Này đây Đức Vua đang ngự đến, nào chúng ta mau đến trước nhan Đấng Cứu Độ chúng ta" (Phụng vụ Mùa Vọng). Vua Sa-lô-môn cũng đã nói rõ: "Tựa nước mát khi cổ họng ráo khô. Nước bị đục, suối bị dơ, chính nhân bị kẻ gian ác làm nghiêng ngửa.(Cn 25,25). Quả thật, những lời trên loan báo Đấng Cứu Thế đến, Ngài đến để đem bình anh cho nhân loại, Ngài đến làm cho nhân loại hoà giải với Thiên Chúa Cha, quốc gia hòa giải quốc gia, người người hòa giải người người. Đúng như lời ngôn sứ Isaia loan báo: "Bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xi-on rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị"(Is 52,7)...
Giống như những sứ giả, loan báo dòng suối mát trong lành tuôn đổ xuống trên những tâm hồn khát của tc. Họ loan tin Thiên Chúa đến, Ngài là nguồn nước uống của chúng ta "Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ." (Is 12:3).
Chính vì thế mà dường như người mang tin như Đức Maria, tâm hồn Mẹ tràn ngập niềm vui khi nhận lại được những lời của bà Elisatbét ,và người nhận được tin là bà Elisabét cũng có niềm vui khôn tả siết, nên đã thốt lên Thần: "Bởi đâu tôi được Thiên Chúa Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi thế này? Lý do là cả người nhận lẫn người đưa tin đều vui mừng khôn sách, là vì cả hai đều đã được tưới gội bởi cùng một nguồn suối mát là chính Chúa Thánh Thần: Lúc đó, những tiếng vọng lên bên tai Mẹ Marai, thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi."
Vì thế, ngày nay nhân loại hân hoan vui mừng khôn tả siết khi sắp được gặp gỡ Chúa Kitô, và lấy lời Thánh Vịnh mà kêu lên với nhau rằng: "Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm chi? Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Ðấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi! (Tv 42,5)
Ước gì tâm hồn chúng ta ngày hôm nay, khi đang nô nức mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Con Một Chúa, và đón chờ Chúa đến làn thứ hai trong vinh quang của Thiên Chúa là Cha. Chúng ta cũng nhảy mừng hân hoan trong niềm vui của Chúa, và nô nức đến gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng chúng ta và thân thưa với Ngài với những lời này: "Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ. Lạy Chúa, xin thương giúp thành công. (Tv 117,25-26).
Lễ Giáng Sinh đã gần kề, chắc chắn tâm hồn mỗi người tín hữu chúng ta cũng cảm nếm được niềm vui linh thiêng ấy khi thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ vì nghe lời chào của Đức Maria. Cuộc gặp gỡ diệu kỳ của một Vì Thiên Chúa và thánh Gioan Tiền Hô diễn ra trong cung lòng của hai bà mẹ. Đây quả là Tin Vui cho những ai mong đợi ngày cứu độ của Thiên Chúa.
Xin cho nhân loại khắp hoàn cầu cảm nhận được niềm vui ơn cứu độ khi cử hành lễ sinh nhật Con Chúa. Amen.
Sống ở đời “Không ai là một hòn đảo”, vì con người sống là sống cùng sống với và sống cho. Chính vì vậy, viếng thăm nhau không chỉ là chuyện bình thường trong cuộc sống mà còn để chu toàn bổn phận và thể hiện lòng bác ái yêu thương. Có nhiều cách viếng thăm. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm gương viếng thăm của Đức Maria. Từ đó, chúng ta suy ngắm gương viếng thăm của Đức Giêsu và gần đây là gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Cuối cùng, chúng ta tìm hiểu một chút về những cuộc thăm viếng của con người hôm nay để rút ra những bài học cho bản thân.
Thứ nhất, gương viếng thăm của Đức Maria
Khi nghe tin bà Êlizabét, người họ hàng với mình, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai được sáu tháng (x. Lc 1,36). Đức Mẹ nghĩ rằng: Tuổi già là tuổi cần chăm sóc giúp đỡ. Hơn nữa, tuổi già mà còn mang thai thì lại cần phải chăm sóc hơn. Chính vì vậy, Mẹ đã “vội vã lên đường” đi thăm bà chị họ. Sau cuộc hành trình dài đầy gian nan, Mẹ đã gặp được bà Êlizabét. Đây là cuộc gặp gỡ mang tính lịch sử, vô tiền khoáng hậu. Sáu tháng nay, bà Êlizabét sống trong niềm vui mừng. Chắc chắn hằng ngày không ngớt dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì đã cất nỗi khổ nhục son sẻ của hai ông bà, đã cho bà cưu mang con trong tuổi già. Nay niềm vui đó được nhân lên vì có Đức Maria đến viếng thăm. Ngoài Mẹ ra, còn có Chúa Giêsu mà Mẹ đang cưu mang trong lòng. Bà Êlizabét đã nhận ra điều đó khi đứa con trong lòng mình “nhảy mừng”. Bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện"(Lc, 43,45).
Hiệu quả của cuộc viếng thăm này vô cùng to lớn: Đem niềm vui đến cho cả gia đình ông Giacaria; Thánh Gioan được khỏi tội tổ tông truyền ngay từ trong lòng Mẹ; bà Êlizabét được Mẹ giúp đỡ trong những ngày thai nghén sinh nở. Tinh thần thăm viếng không dừng lại ở đó, Mẹ vẫn tiếp tục thăm viếng con người. Đáng kể nhất là cuộc thăm viếng tại tiệc cưới Cana: Mặc dầu giờ chưa đến nhưng nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành rượu ngon để làm vui lòng gia đình chủ tiệc. Khi đã về trời, Mẹ cũng không ngừng viếng thăm nhân loại. Đó là những cuộc viếng thăm: Ở Lộ Đức năm 1858; tại Lavang năm 1798; ở Fatima năm 1917. Và rất nhiều cuộc viếng thăm khác của Mẹ nhằm mục đích thi ân giáng phúc cho con cái loài người.
Thứ hai, gương viếng thăm của Đức Giêsu
Vâng lệnh Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế mang thân phận của một con người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã đi khắp mọi nơi, gặp gỡ mọi người: Đến với miền Samari; miền duyên hải Tirô-Siđôn; miền Ghêrasa. Đối tượng viếng thăm của Ngài là phổ quát: Ngài đến với những người tội lỗi; với những người bệnh tật; với những người có chức quyền danh vọng. Ngài đến với họ để mong muốn biến đổi họ: Một Lêvi trở thành Mathêu Tông đồ; một Giakêu người thu thuế trở thành người biết cho đi; một Maria Mađalêna tội lỗi trở thành một vị thánh. Nhờ những cuộc viếng thăm của Ngài, những người bệnh hoạn tật nguyền trở thành những người khoẻ mạnh: Người mù thấy được; người què đi được; người điếc được nghe; người bệnh được khỏi. Nhờ Ngài viếng thăm mà con trai bà goá thành Naim, con gái ông Giaia và ông Lazarô chết rồi được sống lại.
Không thể kể hết ra đây những hiệu quả mà những cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu mang lại cho con người. Ngài viếng thăm ai là biến đổi cuộc đời của họ trong niềm vui và sự bình an.
Thứ ba, gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô
Tiếp tục tinh thần của Đức Mẹ và Chúa Giêsu, Giáo hội qua mọi thời đại vẫn đến với muôn dân. Gần đây nhất phải kể đến những cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài đã đi khắp nơi, đến với mọi hạng người: Đến với những người vô thần; đến với những người Do thái giáo; đến với những người Anh giáo; đến với những người Hồi giáo; đến với những người Chính thống giáo; đến với tù nhân; đến với những người tị nạn; đến với những người nghèo; đến với những người thất nghiệp; đến với các bệnh nhân. Ngài đến để đem niềm vui và trao ban tình thương cho họ. Tình yêu thương của Ngài đã chạm đến trái tim từng người mà Ngài gặp gỡ. Xin được trích dẫn một bằng chứng: “Tờ Washington Post, xuất bản tại Hoa Kỳ, trong số đề ngày 6 tháng 11 năm 2013, nữ ký giả Elizabeth Tenety đã viết bản tin có tựa đề Đức Giáo Hoàng Phanxicô ôm một người đàn ông có dị tướng tại quảng trường thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã âu yếm ôm hôn người tật bệnh này vào cuối buổi triều yết chung, ngày thứ Tư 6 Tháng 11 năm 2013. Bệnh nhân có diện mạo và thân thể rất kỳ dị đáng thương đến nỗi nhiều người cho rằng ông ta không còn có hình dạng con người. Ký giả tờ Washington Post viết rằng: Nếu phải dùng từ ngữ thì cần cả ngàn từ mới diễn tả được ý nghĩa Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật đã nhanh chóng được phổ biến trên các mạng lưới xã hội và nhiều cơ quan thông tấn quốc tế đã đưa bản tin đặc biệt này. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn và cầu nguyện cho người dị tật làm nhiều người tưởng nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu đã chữa những người phong cùi, và thánh Phanxicô Assisi đã săn sóc người tật bệnh nghèo đói”(Theo Nguyễn Long Thao).
Ông cho biết việc gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô “như ở trên Thiên Đàng vậy” và cuộc gặp gỡ này là khởi điểm mới của cuộc đời ông. Người đàn ông bất hạnh nhưng có phước này bày tỏ cảm nhận của mình khi được chính vị giáo hoàng ôm lấy như sau: “Đôi tay của ngài hết sức mềm dịu. Và nụ cười của ngài rất ư là tươi nở. Thế nhưng cái đánh động tôi nhất đó là việc ngài không lưỡng lự về việc có nên ôm lấy tôi hay chăng. Tôi không gây lây nhiễm, nhưng ngài đâu có biết như thế. Ngài chỉ biết làm điều ấy thôi: ngài đã ve vuốt cả khuôn mặt của tôi và khi ngài làm thế thì tôi chỉ cảm thấy rằng mình được yêu thương. Trước hết ngài đã hôn lấy bàn tay của tôi, trong khi bàn tay kia của ngài mơn trớn đầu tôi và các vết thương của tôi. Sau đó ngài kéo tôi vào mà ôm chặt lấy tôi, hôn lên gương mặt của tôi. Đầu của tôi dựa vào ngực của ngài, hai cánh tay của ngài ôm choàng lấy tôi. Điều này kéo dài hơn một phút, nhưng đối với tôi nó dường như là vô tận” (Theo Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phóng dịch theo http://www.zenit.org/en/articles/severely-disfigured-man-embraced-by-pope-gives-interview).
Thứ tư, những cuộc viếng thăm của con người hôm nay
Họ viếng thăm nhau bằng nhiều cách: Có những cuộc viếng thăm để khử trừ nhau. Có những cuộc viếng thăm vì ngoại giao. Có những cuộc viếng thăm chỉ vì lợi ích phe nhóm. Có những cuộc viếng thăm vì lợi ích của bản thân mình: Vì tiền bạc; vì chức quyền danh vọng; vì tình cảm ngang trái. Có những cuộc viếng thăm vì bổn phận. Có những cuộc viếng thăm vì tình yêu thực sự: Thăm viếng bệnh nhân; thăm viếng người tù tội; thăm viếng cha mẹ già yếu; thăm viếng người tàn tật, neo đơn; thăm viếng những người cần sự thăm viếng để động viên, yên ủi và giúp đỡ họ.
Với chúng ta hôm nay, chắc chắn Chúa muốn chúng ta noi gương Đức Maria, Đức Giêsu và Đức Thánh Cha Phanxicô. Đối tượng viếng thăm của chúng ta phải là phổ quát. Những cuộc thăm viếng của chúng ra phải phát xuất từ tình yêu thực sự. Chúng ta là hiện thân của Chúa để đem niềm vui và bình an đến với mọi người. Nói về vấn đề này, tôi sực nhớ tới câu chuyện ấn tượng trong cuộc đời mục vụ của tôi: Có ông cụ nọ, trạc tuổi 80. Dù tuổi cao, lại bị bệnh nằm liệt giường nhưng ông cụ vẫn còn minh mẫn. Mỗi lần thấy tôi đến viếng thăm, ông cụ đều cất tiếng chào: Kính chào Chúa Giêsu. Ông còn giải thích cho mọi người hiểu: Cha là Chúa. Lời ông cụ giúp tôi tự nhắc nhủ mình rằng: Tôi phải thực sự là hiện thân của Chúa khi đến với anh chị em mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết ra khỏi chính mình để đến với anh chị em xung quanh. Xin cho những cuộc viếng thăm của chúng con không phải vì tiền bạc, của cải, danh vọng nhưng đem niềm vui và tình thương của Chúa đến với mọi người. Để những cuộc viếng thăm của chúng con thực sự là hiện thân của Chúa với những người chúng con gặp gỡ. Amen.
Gần đến ngày Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Mẹ Maria MV 4-C122
Gần đến ngày Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Mẹ Maria với những bước chân vội vã vượt qua núi đồi đến viếng thăm người chị họ. Mẹ đã đem đến cho bà Elisabeth một hạnh phúc trào tràn mà bà rất đỗi ngạc nhiên. Hạnh phúc đó là sự hiện diện tràn đầy niềm vui của Chúa mà Đức Mẹ cưu mang trong chính cung lòng mình. Là một sự kỳ diệu của tình yêu!
Trong cuộc đối thoại với thiên thần, để trấn an và minh chứng quyền năng của Thiên Chúa, thiên thần đã cho Mẹ biết tin người chị họ son sẻ đang mang thai. Mẹ vội vã đi thăm để chia sẻ niềm vui với bà Elisabeht và để giúp đỡ chị họ trong lúc tuổi già. Khi mà lời Mẹ Maria chào vang lên nơi tai bà Elisabeth, hài nhi trong dạ bà nhảy mừng và được đầy Thánh Thần như đã được thiên thần loan báo "Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần." (Lc 1,5) Hài nhi Gioan đã thấy và tiên báo bình minh của thời đại mới ló dạng qua niềm hoan hỉ của mình chứ không qua những từ ngữ, Ngài vui mừng khi nhận biết sự hiện diện của Đấng mà muôn dân trông đợi và kết thúc thời ngóng chờ. Tràn đầy Thần Khí của ngôn sứ, bà Elisabeth cũng có khả năng để đọc được một cách đầy đủ ý nghĩa của những gì đang diễn ra trong cung lòng bà; bà nhận biết chắc chắn rằng Đức Maria là người có phúc và hoa trái mà Mẹ đang cưu mang là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Bà cũng tuyên xưng rằng người họ hàng của bà là thân mẫu Chúa của bà.
Mẹ được chúc phúc vì Mẹ đã được tuyển chọn giữa muôn người phụ nữ và qua muôn thế hệ, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" là lời sứ thần đã chào Mẹ trong ngày truyền tin và chúng ta cũng ca khen Mẹ, cầu nguyện với Mẹ qua lời này để tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời. Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương bởi lòng kính sợ Chúa và tâm tình khiêm nhường thẳm sâu như lời ca Magnificat mà Mẹ đã tung hô Chúa "Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới...Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người...và Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường." (Lc 1,48.50.52) Để được chúc lành và đầy tràn ơn phúc của Chúa, ta hãy noi gương Mẹ, hết lòng tin tưởng yêu mến Chúa, mở lòng đón nhận Thánh Ý Chúa và phụng thờ Chúa suốt cả đời ta.
Mẹ được chúc phúc vì Mẹ có Chúa ở cùng. Mẹ đã hiến trọn cuộc đời và chương trình riêng để cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ trở nên đền thờ cho Chúa ngự. Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi Con Thiên Chúa trong chính cung lòng mình và Mẹ được gọi là thân mẫu Chúa Giê-su. Đấng được chúc phúc và là nguồn mạch mọi ơn phúc đang ngự trong lòng Mẹ nên trong Mẹ sẽ luôn dư tràn mọi phúc lành. Mẹ không giữ phúc lành ấy cho riêng mình nhưng đã mang đến cho mọi người để những ai gặp Mẹ cũng được Chúa chúc phúc. Mẹ đã chia sẻ niềm vui, niềm hy vọng đến tận gia đình Giacaria nơi miền núi xa xôi. Noi gương của Mẹ, chúng ta hãy dọn tâm lòng để tiếp tục là nơi Thiên Chúa ngự và cuộc đời ta luôn có Chúa hiện diện. Ta cũng hãy tiếp nối sứ mạng của Mẹ đem niềm vui chia sẻ cho anh em vì "Niềm vui chia sẻ niềm vui lớn", và phục vụ tha nhân bằng chính những ân huệ Chúa ban cho mình. Hãy an ủi những người cô đơn, giúp đỡ những người nghèo, người không nơi nương tựa và cộng tác đắc lực thực hiện ý định của Chúa cho mình và cho thế giới.
Mẹ được chúc phúc vì đã tin. Mẹ tin những gì Chúa đã nói với Mẹ qua lời thiên sứ và một lòng tín thác vào kế hoạch của Chúa cho cuộc đời Mẹ. Mẹ tin vào tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên Mẹ và nắm trọn chủ quyền quá khứ, hiện tại và tương lai đời Mẹ, và Mẹ tin vào lòng trung tín vững bền của Chúa. Vì tin, Mẹ đã thưa Xin Vâng và Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người và từ đó, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn như lời ngôn sứ Isaia đã tiên báo thuở xưa "Này đây trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ con trai và đặt tên con trẻ là Emmanuel." (Is 7,14) Mẹ được gọi là Mẹ của những kẻ tin. Với thời gian cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy đón nhận mẫu gương của Mẹ khi biết hăng hái thưa xin vâng với thánh ý của Thiên Chúa cách tin tưởng và sẵn sàng dâng cuộc đời chúng ta để thực hiện những phương cách cứu độ trong thế giới hôm nay. Lạy Mẹ Maria, chúng con ca mừng Mẹ đầy ơn phúc. Mẹ được Thiên Chúa yêu thương chúc phúc và ở cùng. Trong Mẹ luôn đầy tràn ân sủng và niềm vui. Ân sủng thúc đẩy Mẹ tin tưởng vào Chúa và quảng đại dấn thân phục vụ. Niềm vui giúp Mẹ đủ sức mạnh vượt núi đồi để sẻ chia, giúp đỡ chị họ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con cũng được Chúa yêu, chăm sóc và ban tràn đầy niềm vui giúp chúng con biết sống như Mẹ để tâm hồn chúng con xứng đáng trở nên hang đá ấm cho Chúa ngự. Amen.
Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, tác giả Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (Lc 1,5-25), loan báo Đức Giêsu chào đời (1,26-38) và Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (1,39-56). Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết cc. 24-25 với cc. 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay tác giả Lc dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét để liên kết truyện hai lời loan
Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh Đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”) tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của Yhwh (Đức Chúa) với Israel để nói về Đức Maria lúc này: người được coi như là Hòm Bia Giao ước. 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Maria gặp bà Êlisabét (1,39-41); 2) Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (1,42-45): 3.- Vài điểm chú giải - Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (42): Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào như thế: bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18).
- đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng … Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (41.42.43): Tác giả Lc đã dựa vào 2 Sm 6 (vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem), 1–2 Sb và sách Giuđitha để viết 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).
2 Sm 6
Lc 1,39-56
Trong xứ Giuđa (2)
Trong xứ Giuđa
Dân vui
Êlisabét và con vui
Đavít nhảy mừng
Gioan nhảy mừng (44)
Dân reo
Êlisabét reo, anephônêsen (42)
Vào nhà Ôvết Êđôm (10)
Vào nhà Dacaria (40)
Hòm Bia: nguồn phúc (11-12)
Maria:nguồn phúc (41.44)
Bởi đâu tôi được Hòm Bia Đức Chúa đến nhà tôi? (9)
Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi? (43)
Ở nhà Ôvết Êđôm ba tháng (11)
Ở với bà Êlisabét độ ba tháng (56)
- Kêu lớn tiếng (42): Động từ anephônêsen (“reo”) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1 Sb 16,45.42) và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sb 15,28 và 2 Sb 5,13). - Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gđt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:
Gđt 13,18-19
Lc 1,42
Bà được chúc phúc…
Em được chúc phúc…
giữa tất cả các phụ nữ
hơn mọi người phụ nữ
Và Đức Chúa là Thiên Chúa
Và quả lòng dạ em cưu mang
được chúc phúc (eulogêmenos)
được chúc phúc (eulogêmenos)
- Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm tác giả Lc nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabrien hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày - 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày - 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Ít-ra-en”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (3,1).
- Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5). 4.- Ý nghĩa bản văn
Trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét, tác giả Lc cho thấy kinh nghiệm của một người phàm lần đầu tiên hiểu ra điều gì đã xảy ra cho Đức Maria và phản ứng khi hiểu được điều ấy. Ở tại trung tâm, có Thiên Chúa và hoạt động của Người đối với Đức Maria, nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã được thực hiện. * Đức Maria gặp bà Êlisabét (39-41)
Khi đã được biết rằng người chị họ của mình đã mang thai trong tuổi già, Đức Maria đã vội vã đi lên miền núi. Chuyến đi không dễ dàng, nhưng người vẫn vội vã. Có thể nói, với cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, chuyến đi dài được tác giả của tác phẩm hai tập là Lc và Cv trình bày dọc theo tác phẩm, đã bắt đầu. Con Thiên Chúa từ trời đã xuống trần gian, rồi Người đi từ Nadarét lên Giêrusalem, còn các môn đệ của Người sẽ đi từ Giêrusalem, qua Samaria, và đến tận cùng trái đất, tất cả các đấng đều vội vã, dù gặp biết bao khó khăn.
Là Hòm Bia của giao ước mới, Đức Maria mang trong lòng mình “Con Đấng Tối Cao” (1,32), là Đấng mạc khải, là nguồn ơn phúc, là nguyên do đưa lại niềm vui. Đức Maria vội vã đưa Đức Kitô đến với những người khác. Đức Maria đi trong tư cách là người tin vào lời Thiên Chúa qua trung gian sứ thần Gabriel. * Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (42-45)
Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với bà Êlisabét nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa người với sứ thần Gabriel: cả hai vị đều nhận định người đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên người. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người cùng với hoa quả lòng người. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho người có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, cũng là Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của bà Êlisabét là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.
Bà Êlisabét diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào bằng những lời này, đó là bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). Các bà đã đánh bại các đoàn quân áp bức dân các bà. Kinh Thánh không tường thuật những gì các bà đã làm hầu chuẩn nhận cho chiến tranh, nhưng để cho thấy Thiên Chúa có thể làm những việc kỳ diệu bằng cách dùng những con người không phù hợp về phương diện loài người, những con người không có uy lực. Khi ghi nhận bà Êlisabét chào Đức Maria như vậy, tác giả Lc bảo chúng ta rằng Đức Maria thuộc về một hạng người, tuy bị coi là không phù hợp, lại được Thiên Chúa dùng mà đưa lại ơn cứu độ cho chúng ta. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm một việc phi thường nhất trong lịch sử: Ngài ban cho chúng ta Con của Ngài. Nếu Đức Maria được như thế, thì chỉ do cốt yếu và trước tiên Mẹ là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Người, quyền năng của Người. Đức Maria đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Israel mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.
Bà Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (c. 43). Lời này cũng được lấy từ Cựu Ước. Đavít dùng những lời này khi Hòm Bia Giao ước được di chuyển về Giêrusalem. Ông đã reo lên: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2 Sm 6,9). Có những chi tiết khác liên kết cuộc viếng thăm của Đức Maria với Hòm Bia Giao ước. Cả Đức Maria và Hòm Bia ở lại “ba tháng” trong miền Giuđê; Hòm Bia được đón tiếp trong niềm vui và lễ mừng, và đưa phúc lành đến gia đình đã nhận lấy Hòm Bia (2 Sm 6,10-11); khi Đức Maria vào nhà Dacaria, trẻ Gioan (đại diện cho dân Cựu Ước đang trông chờ Đấng Mêsia) đã nhảy lên vui sướng.
Phần Đức Maria, người vẫn tiếp tục sống thân phận nữ tỳ: không chỉ đến thăm bà Êlisabét, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ. + Kết luận
Bà Êlisabét gặp Đức Maria. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của một con người với mẹ của Đức Chúa như tác giả Lc mô tả, hoàn toàn đơn giản và thanh thoát. Cuộc gặp gỡ này chan hòa niềm tâm tình phấn khởi và niềm vui tươi hân hoan. Bà Êlisabét tự giới thiệu cho chúng ta như là người đã tôn kính Đức Maria trước tiên. Bằng những lời “em được chúc phúc”, “Thân Mẫu Chúa tôi”, “em thật có phúc”, bà phác họa những đường nét chính của dung mạo Đức Maria: công trình của Thiên Chúa nơi người, tương quan của người với Chúa Giêsu Kitô, thái độ của người đối với Thiên Chúa. Tất cả những điều này, bà Êlisabét hiểu được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng. Cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội cho phép bà có một kinh nghiệm hết sức mạnh mẽ và một niềm vui thật chan hòa.
Một điều quan trọng hơn nữa, đó là khi giới thiệu tư cách đặc biệt của Đức Maria, bà Êlisabét không ngờ đang đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Đức Maria đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.
Đàng khác, tác giả Lc muốn chúng ta thấy Đức Maria như là Hòm Bia Giao ước. Thiên Chúa đã chọn không ở trong một tòa nhà, nhưng ở trong lòng dạ một người phụ nữ. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của bà Êlisabét (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; bà Êlisabét đã gọi người là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Người ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Đức Maria tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?
2. Đức Maria được bảo là “có phúc” vì người đã tin rằng lời Chúa hứa với người sẽ được hoàn tất (c. 45). Thiên Chúa đã hứa biết bao điều qua các ngôn sứ? Khi thấy rằng các lời hứa của Thiên Chúa chậm được thể hiện, dân nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã đặt niềm tin tưởng vào chính họ, nên đã kết thúc trong thất bại. Đức Maria “có phúc” vì đã tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ biết rằng cho dù bề ngoài thế nào, Lời Chúa sẽ được thực hiện.
3. Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (1,32), Con Thiên Chúa (1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như bà Êlisabét đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Êlisabét chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà bà Êlisabét. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.
4. “Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, người đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của người; sau đó, những gì người đã lãnh nhận, người đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con của người nơi mình, còn bàn thờ người đã thiết lập là tấm lòng của người. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân người, sức mạnh của người, toàn thân người, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô” (CP. Têrêsa Calcutta).
5. Có Chúa trong mình không chỉ là đặc ân dành riêng cho Đức Maria. Mỗi cộng đoàn và mỗi người trong chúng ta phải trở thành như Đức Maria, một “Hòm Bia Giao ước”. Nhiệm vụ của chúng ta là mang Chúa đến cho người khác. Một điều có thể bảo cho biết là chúng ta đang là một “Hòm Bia Giao ước”, đó là niềm vui. Bất cứ đi đâu, Đức Maria đều tuôn đổ niềm vui (x. Lc 1,41.42.45-48). Sự hiện diện của chúng ta có đưa niềm vui đến cho người khác không?
Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng thật đẹp do Thánh Luca thuật lại. Cha đố chúng con câu chuyện hôm nay thánh Luca thuật lại là câu chuyện có liên quan đến ai? Và về vấn đề gì nào?
- Dạ thưa có liên quan đến Đức Maria và bà Elisabeth. - Rất đúng! Nhưng là chuyện gì nào? - Thưa là Đức Mẹ đến thăm bà chị họ của mình là bà Êlisabeth.
- Cũng lại đúng nữa. Thiếu nhi chúng con giỏi quá. Nhìn vào cuộc viếng thăm này chúng con có thấy cái gì đặc biệt không? - Dạ thưa đây là cuộc gặp gỡ của hai người mẹ. - Chúng con trả lời hay quá. Cha khen chúng con. Đúng là cuộc gặp gỡ của hai người mẹ. Người mẹ già và người mẹ trẻ. Chúng con biết hai người mẹ đó là ai rồi. Người mẹ trẻ là người đến thăm. Người đó chính là Đức Maria, người đang cưu mang Chúa Giêsu trong lòng, người được gọi là người “có phúc hơn mọi người nữ”, và là người có một niềm tin tuyệt vời.
Còn Người mẹ già là người được thăm: Đó là bà Êlizabeth. Bà cũng đang cưu mang. Người con bà cưu mang là người con của ân sủng. Người mẹ già và cả người con của mình đều cảm thấy được diễm phúc trước sự xuất hiện của người mẹ trẻ “Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy! Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng chị”.
Chúng con hãy tập cho mình có thói quen thăm nhau như Đức Mẹ đã làm.
Lịch sử còn kể lại rằng George Washington một trong những anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với Mẹ.
Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một vị nguyên thuỷ Quốc Gia, George Washington vẫn thường trở về nhà thăm viếng và chuyện trò lâu giờ với người mẹ già. Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ ông đã hỏi ông:
- Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên mẹ? Vị Tổng Thống nước Mỹ trả lời: - Thưa Mẹ, con ngồi bên mẹ để nghe mẹ nói không phải là một việc mất giờ, bởi vì sự bình thản và lòng tốt của mẹ dạy con muốn tiếp tục sống.
Chúng con hãy nhớ thăm hỏi là việc làm của lòng yêu thương. Tình thương nhiều khi đem lại những kết quả hết sức bất ngờ.
Tại một xứ nhỏ ở miền quê nước Pháp, có một người đàn ông tên là ALIX, mới ngoài 50 tuổi, nhưng chân bị bất toại nên không đi đứng được. Tay ông cũng không thể làm được việc gì. Mỗi buổi sáng trước khi đi làm, vợ ông thường đặt ông trên một chiếc ghế bành, và ông phải vất vả lắm mới có thể lật giở từng trang sách đọc cho qua ngày. Mặc dù, ông không phải là người Công Giáo, nhưng cha sở thỉnh thoảng vẫn đến nhà thăm ông; và tiếp đó, ngai còn lôi kéo được nhiều người trong xứ đạo đến giúp ông nữa. Mỗi ngày thứ năm trong tuần, có một bác sỹ trẻ tuổi tình nguyện đến chăm sóc cho bệnh tình của ông. Chúa nhật nào cũng vậy, có một nhóm trẻ em vẫn đến nhà chơi với ông. Các em giúp ông lật sách, đọc truyện cho ông nghe, bưng nước, đốt thuốc, kể những mẩu chuyện vui ở trường, và làm cho ông bớt cảm thấy cô đơn.
Năm ấy, gần Lễ Giáng Sinh, ông xin cha sở cho ông rước lễ. Cha sở tỏ vẻ ngạc nhiên, bởi vì ông ta đã theo đạo bao giờ đâu, nhưng ông ta nói:
- Thưa Cha, trước đây con không tin vào Chúa. Nhưng từ ngày con được cha đến thăm, được bác sỹ săn sóc và được các trẻ em đến giúp vui, con cảm thấy như mình đã gặp được Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Chúa mới có thể làm cho cha, bác sỹ và các em tỏ tình thương âu yếm đối với con như vậy thôi!
Thế rồi, mùa Giáng Sinh năm ấy ông được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, Giải Tội và được rước Chúa lần đầu tiên. Ông còn sống được thêm một năm nữa, sống một cách gương mẫu nhẫn nại. Chịu khó trong vui tươi, can đảm và sau cùng, ông đã chết trong bình an của Chúa!
2. Bây giờ cha hỏi tiếp: Chúng con thấy cuộc viếng thăm mà thánh Luca thuật lại là cuộc viếng thăm như thế nào? Có đẹp không?
- Đẹp quá đi chứ: đẹp trong ý nghĩa và đẹp cả trong thành quả.
Đẹp trong ý nghĩa bởi vì đây là cuộc viếng thăm của hai người mẹ đang cưu mang trong mình những con người thánh. Và đẹp trong thành quả vì cuộc viếng thăm này đã đem lại những kết quả tuyệt vời: Gioan Tẩy giả được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ và Mẹ Maria đã để lại cho hậu thế một bài ca, một bài ca thánh, một bài ca có một không hai trong Lịch sử ơn Cứu độ, để nói lên tâm tình tạ ơn và ca tụng lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho những lần chúng ta thăm viếng nhau để chúng ta góp phần vào việc làm cho thế giới chúng ta đang sống có một khuôn mặt dễ thương hơn.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn mẹ.
Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:
- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.
Ông ta trả lời hững hờ:
- Tôi đã quen sống như vậy rồi.
- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.
Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?
Ông ta trả lời cộc lốc:
- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.
Tôi hỏi ông:
- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
- Dĩ nhiên là có rồi.
Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:
- Xin gửi lời nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.
Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.
Xin Chúa cho những lần chúng ta gặp gỡ nhau đem lại cho nhau nhiều niềm vui thánh thiện để chúng ta xây dựng cuộc sống chúng ta đang sống được mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn. Amen.
Chỉ vài ngày nữa thôi, Noel lại đến! Trái tim chúng ta đang tràn ngập bầu khí của ngày Đại Lễ. Thực tế là vậy! Phụng vụ Chủ Nhật hôm nay tràn ngập niềm vui sắp đến: “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh xin hãy hát lên và hãy mừng vui”!
Tất nhiên các bài đọc Phụng vụ đều mừng vui, nhưng không phải là hướng chúng ta nghĩ đến những hang đá xinh đẹp hoặc chương trình dạ hội mừng Noel. Trước hết, Giáo Hội như một gia đình mừng vui chờ đợi một biến cố: Thiên Chúa đến viếng thăm. Tuy nhiên, Giáo Hội đặc biệt mừng vui đọc lại bài Tin Mừng về cuộc viếng thăm của Đức Mẹ tại gia đình Giacaria. Đây là một mầu nhiệm mừng vui nhất của Đức Maria, vì Mẹ đã vội vã lên đường vượt qua 150 km đường bộ đồi núi để đến Ain Karim thăm chị họ Elisabeth. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui chung: Mẹ và chị họ Mẹ đều sắp được làm mẹ. Mẹ rất cần thiết đến giúp đỡ chị họ một tay, vì người chị họ Elisabeth này không còn trẻ trung gì!
Cùng với niềm vui của Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng mẹ và niềm vui của Elisabeth: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”, Giáo Hội cũng mừng vui cùng với Đức Maria hát bài Ngợi khen Thiên Chúa (Magnifcat).
Đức Maria mang Chúa Kitô. Mẹ đến viếng thăm chị họ. Mẹ mang Chúa Kitô, mang Đấng cứu chuộc! Mẹ vội vã! Vội vã không phải chỉ là để đem đến một sự giúp đỡ rất cần thiết cho một người phụ nữ có tuổi đang mang thai, nhưng còn là để đem đến cho chị họ người Con Yêu Dấu của Mẹ, mà Mẹ hiện nay là một nhà tạm sống động cho người con ấy. Elisabeth ý thức được món quà trọng đại này, vì được Chúa Thánh Thần linh hứng và nói lên niềm vui ngỡ ngàng của mình: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”.
Chúng ta hiểu thế nào về niềm vui ngỡ ngàng này, các vai trò bị đảo lộn, đó là kẻ bề dưới được tôn kính, là Chúa Kitô phôi thai được Đức Mẹ mang đến để gặp Vị Tiền Hô.
Như vậy, chúng ta nhận ra ơn gọi đặc biệt của Đức Maria: mang Chúa Kitô và đem Chúa Kitô đến cho thế giới. Chúng ta sùng kính Đức Maria vì Mẹ có vinh dự này, Mẹ mang Chuá Kitô và còn mang sự sống cho Đấng là Sự Sống. Người công giáo chúng ta rất sùng kính Đức Maria, nhưng đừng quên rằng Đức Maria chỉ có một nguyện ước: đem Chúa Kitô đến cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy nghĩ đến biết bao phụ nữ trên thế giới mà ơn gọi của họ cũng giống ơn gọi của Mẹ Maria là mang:
- Đó là những phụ nữ mang những đứa con trong lòng và trên cánh tay hoặc trên lưng theo kiểu dân tộc thiểu số, nhưng họ còn phải mang những sô nước và những chiếc gùi nặng trên lưng lo kiếm tìm cuộc sống cho họ và cho con cái họ.
- Đó là những phụ nữ phải mang đứa con tật nguyền, biểu tượng của Chúa Kitô chịu đau khổ.
- Đó là các chị em giáo lý viên mang Chúa Kitô đến cho những đứa trẻ còn biết quá ít về Chúa Kitô tại gia đính của chúng.
- Đó là những phụ nữ quảng đại mang tình yêu của họ (vì tình yêu chính là Thiên Chúa) đến với tất cả những người đau khổ trong thôn xóm và khu phố của ho.
- Nhưng nhất là chúng ta hãy nghĩ đến tất cả những ai khi Rước lễ, biết nên giống Đức Maria yên lặng tôn kính thành thật Chúa Giêsu đang ở với mình.
Đức Maria chịu thử thách về đức tin. Dù Đức Maria được chúc phúc giữa các người phụ nữ, nhưng mối phúc đầu tiên của Mẹ vẫn là “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Thực sự công trạng lớn nhất của Đức Mẹ là chu toàn thánh ý Thiên Chúa hơn là việc đem Chúa cho thế giới. Thiên Chúa không trải chiếc thảm đỏ trước mặt Đức Maria. Đức Maria đã phải trải qua nhiều thử thách về đức tin. Thử thách đức tin bắt đầu ngay khi sứ thần truyền tin:
- Không dễ dàng gì mà Mẹ nhận ra ngay cuộc viếng thăm của sứ thần Gabriel như là một sứ điệp đích thực của Thiên Chúa.
- Không dễ dàng gì một người con gái khiêm nhường của Nazaret khi được nghe nói mình đầy ơn phúc trước mặt Thiên Chúa, lại có thể tin ngay được.
- Không dễ dàng gì khi Mẹ muốn giữ mình đồng trinh mà lại thụ thai con trai bởi phép Chúa Thánh Thần.
- Không dễ dàng gì Mẹ nhận ra rằng Con mẹ sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao, cai trị ngai toà Đavit.
Tuy nhiên mẹ đã tin, Mẹ đã dâng hiến cho Thiên Chúa một sự phó thác tuyệt đối. Ngay cả khi đang mang thai và gần đến ngày ở cữ, Mẹ sẵn sàng lên đường cùng với bạn mình về Belem để làm sổ hộ tịch hộ khẩu.
- Phúc cho tất cả những ai trong suốt cuộc đời còn lại tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa.
- Phúc cho Elisabeth, vì chính bà cũng đã tin rằng Chúa sẽ ban cho bà một người con trai trong lúc tuổi già và son sẻ.
- Phúc cho những ai tin thật Chúa Giêsu trong trái tim họ mỗi khi Rước lễ.
- Phúc cho những ai khi đọc kinh Tin kính biết khẳng định chắc chắn niềm tin của mình.
- Phúc cho những ai tin rằng trẻ thơ nơi hang đá lại là chính Thiên Chúa và là Chúa Kitô sống lại đang ở với mình.
- Phúc cho những ai tin rằng mình sẽ nhận được ơn thánh của Noel sắp tới và cả Noel Thiên Chúa đến lần thứ hai vào ngày cánh chung.
Nếu bà Elisabeth khen Đức Mẹ: Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và nếu Đức Mẹ đã thực hiện được lời tiên tri ấy: muôn đời sẽ khen rằng tôi có phúc, thì là do chính Đức Mẹ đã hoàn toàn lặng lẽ đi vào sự tự huỷ trong chương trình của Thiên Chúa. Phó thác vào Thiên Chúa, Đức Mẹ hiểu được hành trình từ hang đá sẽ dẫn Ngài đến chân thập giá. Chính sự chu toàn hành trình đó cách xuất sắc giúp Đức Mẹ được ở trên cõi Vĩnh Hằng và tiếp tục ban Con của Mẹ cho thế giới.
Lạy Mẹ Maria, Noel sắp đến rồi! Chúng con hát khen Mẹ: “Lạy Nữ Đồng Trinh được chúc phúc giữa các người phụ nữ. Mẹ được chọn giữa các người mẹ. Mẹ hãy ban cho chúng con, Con của Mẹ đi… Nhanh lên! Mẹ nhé!”
Tin mừng theo thánh Luca hôm nay giới thiệu Chúa Giêsu như là khách hành hương vĩ đại, theo những nẻo đường của Palestina và con đường hướng về Giêrusalem. Hai lần trước khi sinh ra, chúng ta gặp thấy Chúa Giêsu ở trên đường:
- Khi Đức Mẹ thăm viếng chị họ là bà Elisabeth như bài Tin mừng hôm nay kể lại.
- Khi Thánh Giuse và Đức Mẹ lên Giêrusalem làm sổ nhân danh ở Giêrusalem và sinh Chúa Giêsu tại Belem.
Trong suốt 2 cuộc hành trình này, Chúa Giêsu ở trong cung lòng Mẹ. Sau này, khi giảng đạo công khai, Chúa Giêsu tự giới thiệu Người là Đường: “Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha, mà không qua Thầy”.
Với bài Tin mừng hôm nay, Thánh Luca không đơn giản chỉ lưu ý đến việc di chuyển nơi chốn của Mẹ Maria và Chúa Giê-su, mà còn chú trọng đến một lời dẫn giải thần học. Con đường là nơi mặc khải và là sứ mệnh của Thiên Chúa. Lời Chúa từ trời đến Nagiaret. Và hôm nay từ Nagiaret đến Giêrusalem, báo trước sau này Chúa Giêsu sẽ lên thành thánh Giêrusalem để chịu chết chuộc tội thiên hạ. Và trong sách Tông Đồ công vụ, Lời Chúa khởi đi từ Giêrusalem trải rộng khắp miền Samaria ngoại giáo và lan tỏa tận cùng trái đất.
Đức Maria đi bộ một chặng đường dài 150 km! Mẹ hướng tới Ain Karem, thuộc vùng ngoại ô phía Tây Giêrusalem, cách trung tâm thành phố Giêrusalem 6km. Giêrusalem là một thành phố núi, vào thời vua Davit, người ta chuyển Hòm Bia giao ước về đó. Mẹ đã trải qua một cuộc hành trình từ Galilêa qua những núi đồi của Samaria rồi mới đến được Giudea có thành phố Giêrusalem ở đó. Trong kinh Cầu Đức Mẹ, có câu: “Đức Mẹ như hòm bia Thiên Chúa vậy”. Khi Đức Mẹ đến gia đình Giacaria, Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng bà Elisabet và bà Elisabet cũng rất đỗi vui mừng, giống như Davit đã nhảy mừng trước Hòm Bia Giao ước. Đức Maria là Hòm Bia Giao ước đích thực, biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân Người. Đức Maria xuất hiện nơi đây đảm bảo chắc chắn cho dân tộc Israel là Thiên Chúa hiện diện và chiến thắng sự dữ. Mẹ mở đầu kỷ nguyên Thiên Sai, kỷ nguyên sự dữ bị loại trừ.
Đức Maria là một cô gái trẻ ít được biết đến thuộc xứ Galilêa. Người dân Galilêa tốt, nhưng theo quan niệm của các luật sỹ và biệt phái, thì dân này không xứng đáng đón nhận mạc khải của Thiên Chúa, vì họ nghèo.
Tư tưởng của Thiên Chúa khác tư tưởng của chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”.
Cũng chính vì vậy mà Thiên Chúa đã chọn Belem để sinh ra ở đó trong hang bò lừa và những trẻ mục đồng nghèo lại là người đầu tiên viếng thăm Chúa và nhận ra Chúa. Thánh Phaolô khẳng định: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh”.
Điều có giá trị trước mặt Thiên Chúa, chính là khả năng nền tảng của Đức Maria, Mẹ hoàn toàn vâng nghe giống Chúa Giê-su: “Tôi đây, là nữ tỳ của Thiên Chúa. Xin Chúa thực hiện nơi tôi lời sứ thần của Chúa”. Chúa Giêsu nói: “Lạy Cha, này con xin đến để thực thi ý Cha”.
Mặc dù Tin Mừng ít nói về Mẹ Maria, nhưng chúng ta thấy khả năng sẵn sàng đáp trả của mẹ Maria là rất cao:
- Từ đầu cho đến cuối, từ Nagiaret tới ngày lễ Ngũ Tuần,
- Vượt qua nghi ngờ của Thánh Giuse, cảnh nghèo tại Belem, lời tiên tri Simeon, trốn sang Aicap, lạc mất con trong đền thờ, đứng dưới chân thập giá, đồng hành với các môn đệ trong nhà tiệc ly chờ đợi Chúa Thánh Thần.
Đức tin của Đức Maria được triển nở qua năm tháng. Mẹ làm cho đức tin đó lớn lên qua các biến cố cứu độ: “Mẹ giữ gìn và suy ngắm những điều đó trong tim”. Điều đáng khâm phục nhất nơi Đức Maria, không phải là thụ thai mà vẫn còn đồng trinh, cũng không phải được làm Mẹ Thiên Chúa. Chị họ Đức Mẹ là bà Isave hiểu rất rõ điều căn bản cao cả của Đức Mẹ khi chúc tụng Đức Mẹ: “Phúc cho em là người đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện”. Tiếng xin vâng của Mẹ Maria thể theo lời đề nghị của Thiên Thần (Tôi xin vâng như lời Thánh Thiên Thần truyền) làm cho Đấng thiên hạ muôn đời đợi trông được sinh ra trong Mẹ. Đầy Chúa Thánh Thần, Mẹ hiểu rằng Mẹ phải đến giúp đỡ chị họ mẹ cũng mang thai một con trai trong lúc tuổi già..
Noi gương mẹ, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta TIN, đem Chúa Kitô và Lời của Người cho thế giới. Chúa Kitô đã đến cho mọi người. Nhưng Người muốn chúng ta là những đôi chân, đôi tay, tiếng nói của Người đến với họ. Ngay từ thời Đức Mẹ và các tông đồ, tất cả những người đã được Chúa Kitô mặc khải và chịu phép Thánh Tẩy luôn luôn phấn khởi đi đến anh chi em mình để loan báo tin mừng. Khi Chúa Kitô đến với một ai đó, Người luôn muốn cho người đó đi xa hơn và gặp gỡ nhiều người khác hơn.
Chúng ta có cảm thấy bổn phận truyền giáo này của chúng ta, là những người đã lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy không? Có lẽ chúng ta không thiết tha với bổn phận truyền giáo, là vì: Nhìn vào cuộc sống chúng ta, chúng ta thiếu Đức Tin ít cảm thấy hứng thú vì mình được gần Thiên Chúa và có Chúa. Nhìn vào khả năng và cách phục vụ của chúng ta, người ta khó nhận ra tình yêu của Chúa Kitô.
Đức Maria đã tin vào tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Tình yêu này thúc đẩy Chúa Kitô đến ở giữa chúng ta, và trở nên một người trong chúng ta.
Phúc cho bà là người đã tin. Đó là mối phúc đầu tiên mà bà Isave công bố. Đó cũng là mối phúc cuối cùng sau khi sống lại, Chúa Kito đã công bố: “Phúc cho ai không thấy mà tin”! Sự hiện diện của Đức Maria luôn là nguồn niềm vui vì Mẹ đem Chúa Thánh Thần đến cho chúng ta. Đón nhận Đức Mẹ vào trong cuộc sống, chắc chắn chúng ta cũng đón nhận được Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ngư trong tâm hồn Đức Mẹ và làm cho Ngôi Lời Thiên Chúa mặc xác phàm trong Đức Mẹ. Mẹ Maria, với danh xưng đặc biệt này, Mẹ là người con gái được Chúa Cha yêu quý đặc biệt. Mẹ đích thực là Mẹ của Con Thiên Chúa và là Mẹ Thiên Chúa.
Ôi Maria, Mẹ được chúc phúc giữa các người phụ nữ vì mẹ không hướng về mẹ nhưng để cho Thánh Ý Thiên Chúa thực hiện trong Mẹ: Ngôi Lời làm người trong thân xác Mẹ.
Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa. Ôi, con không có khả năng hy sinh và cũng không có khả năng tự hủy như Mẹ Maria, nhưng Chúa biết ước muốn của trái tim con và con tin rằng Chúa có thể làm tất cả trong con nhờ Thần Khí của Chúa.
Xin Chúa đến làm người trong xác thịt chúng con để chúng con có thể hiến dâng Chúa cho thế giới và nói với thế giới rằng Chúa đến để cứu chuộc họ, ban cho họ sự sống đích thực, thiết lập thế giới trong bình an của Nước Chúa đến muôn đời. Amen!
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng: một cuộc gặp gỡ giữa hai người đàn bà mang thai, trong bầu khí vô cùng vui mừng và hoan hỉ, hai bà ý thức đang cưu mang tương lai của nhân loại. “ Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”, bà Elisabét kinh ngạc thốt lên như vậy. Một quá khứ dài đã đi trước và đã chuẩn bị khoảnh khắc Đấng cứu độ đến trần gian. “ Nguồn gốc của Người có từ thuở xa xưa”, ông Mikha đã nói từ 8 thế kỷ trước. Đến lượt mình Đức Maria được đưa vào lịch sử dài của giao ước giữa Thiên Chúa và dân Itraen,vì hạnh phúc của toàn nhân loại.
Sau này, tác giả thư gửi tín hữu Do thái sẽ hiểu Đấng Cứu Độ, sinh ngày Noen (viết tắt bởi chữ Emmanuen: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã dứt khoát ký kết giao ước mới như thế nào, khi kiên quyết, khiêm tốn và sẵn sàng để Chúa Cha sử dụng. Đến lượt chúng ta, một cách đơn giản, chúng ta được mời gọi trong tư thế sẵn sàng. Như bà Elisabét, như Đức Maria, cũng như chính Đức Giêsu, chúng ta chỉ cần thưa cách khiêm tốn và thanh thản: “Này con đây !”
Vâng, luôn luôn là khúc ca của niềm vui: Trước lễ Giáng Sinh, chúng ta nên đọc lại bài ca Chúc tụng Benedictus mà ông già Giacaria đã cất tiếng hát nhân ngày sinh của Gioan, con trai ông. Ông vui sướng vì cuối cùng đã có người nối dòng, ý thức về tầm quan trọng của con trai ông, trong dự định của Thiên Chúa “ vì miệng lưỡi ông lại mở ra và nói được”, nên ông đã bộc lộ cảm hứng của mình.
Bài ca của ông hòa hợp với tất cả những lời tạ ơn, qua nhiều thời đại, đã đánh dấu lịch sử dân Itraen và diễn tả lòng tin và hy vọng của các nhân vật có vai trò tích cực trong lịch sử, theo lời chúc lành của ông Abraham và các tổ phụ, như tiếng vang dội lại những tụng ca chiến thắng của ông Môsê và bà Myriam, sau cuộc giải phóng khỏi Ai cập.
Ngày chiến thắng của Thiên Chúa sắp đến. Bất chấp tình hình khó khăn của dân, thiếu chủ chăn, không có tự do thật sự, bị ô danh bởi sự hiện diện của một quyền lực ngoại bang trên đất họ, nhưng ánh rạng đông mọc lên từ ngày Đức Chúa sẽ khẳng định mình là Vua và là Đấng giải phóng.
Đức Maria có thể hát bài ca tiên tri này bên cạnh chiếc nôi của con mẹ. Mọi tín hữu sẽ hát lại bài ca trong ngày vọng Giáng Sinh này, để tìm lại được niềm hy vọng về tương lai (Michel Pinchon)
Sắp đến ngày Giáng Sinh làm sao không tự hỏi: Phải chăng Chúa có mặt trong những lần chúng ta gặp gỡ? Điều làm ta ngây ngất phải chăng là Người, sự sống của Người? Người là Đấng chiếu sáng cuộc đời chúng ta bằng hạnh phúc của Người. Hãy nhìn Đức Maria và bà Elisabét, cuộc gặp gỡ của Người sẽ soi sáng cho những lần gặp gỡ của chúng ta. Đức Maria không nói một lời. Mẹ chỉ có mặt thế thôi. Dĩ nhiên Mẹ chào bà chị Elisabét của mình, nhưng chẳng có gì đặc biệt trong những lời nói thật tự nhiên của Mẹ. Vâng, chính sự viên mãn của sự hiện diện đã gây ấn tượng: Mẹ hiện diện vậy thôi, nhưng là sự hiện diện viên mãn: sự sống ở trong Mẹ đã làm mọi sự. Đức Maria đã mang trong mình Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, không cần nói thêm một lời nào nữa.
Trong ngày vui khôn tả chuẩn bị đón Đấng Cứu Độ trong hình hài một trẻ sơ sinh, nghèo hèn, Đức Maria đã đem Chúa Hài đồng đến cho mọi người ,cho mỗi người chúng ta bất kể là ai giầu sang, nghèo khổ, quan chức hay thứ dân, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Mẹ và Con Mẹ đang cưu mang? và sau đó có sẵn sàng tiếp nối mang Đấng niềm vui cứu độ cho người khác không? Ôi! Hạnh phúc thay, ai đem hạt giống Tin Mừng cho mảnh đất này, cho thế hệ này.
Giáng sinh lễ của tương lai.
Hai người phụ nữ sung sướng được trở thành mẹ và Tân Ước bắt đầu như thế, khi mẹ của Gioan Tẩy giả gặp Mẹ của Giêsu, họ sung sướng đã sản sinh ra thế giới mới nhờ những đứa con đến từ Thánh ý Phụ tử của Thiên Chúa. Mọi cuộc sống nảy mầm là một lời hứa hẹn cho tương lai và cho sự tự do. Nếu lễ Giáng Sinh gắn liền với một thông điệp của hòa bình và hy vọng, chính là vì nó không thể làm thất vọng thế giới và sự sống, khi Con của Thiên Chúa sinh ra giữa chúng ta. Và cũng chính vì thế mà Giáng sinh là lễ hội. Một thoáng hy vọng trong đám mây mù giữa xã hội của hưởng thụ. Noel, chính là lễ hội của tương lai. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa giữ lời hứa của Người là làm cho gia đình của anh em nhân loại, con cái của Người trong tình yêu, được sống trong hòa bình.
“Mầu nhiệm Nhập Thể, chính là sự tham gia thường ngày vào việc sinh ra Đức Kitô, qua các bà mẹ sung sướng để sinh ra và tạ ơn, vì Thiên Chúa đã giữ lời hứa của Người...nhất là cho những ai không tin vào con người, vì họ không còn tin vào Thiên Chúa. Nhìn vào hai bà mẹ sung sướng trong Phúc Âm, là một việc thực tập mới của niềm tin, rạng ngời trong một nụ cười của hy vọng”. (Giám muc Gerard Defois.)
Dòng chảy cuộc đời luôn đòi chúng ta phải chờ đợi. Chờ đợi trong mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Chờ đợi là điều hiển nhiên trong cuộc sống. Mỗi ngày ta vẫn thấy:
Hàng ngàn người chờ đèn xanh để bước tới. Hàng ngàn người chờ xe buýt để bước lên. Chờ đợi là sẵn sàng kẻo chậm chân là lỡ nhịp.
Có những cha mẹ chờ đợi trong thời gian dài để cầu mong cho đứa con ngỗ nghịch biết nhìn lại và yêu mến cha mẹ nhiều hơn. Đây là sự chờ đợi đầy hy vọng của tình yêu luôn mong điều kỳ diệu đến cho người mình yêu.
Có những bà vợ chờ đợi chồng quay trở về với gia đình khi chồng đi dưới những ánh đèn màu, những tiếng nhạc xập xình. Dù là phải chờ đợi trong từng phút giây xót xa, giận hờn, ghen tuông. . . Đây là sự Chờ đợi tin cậy, dù đau xót!
Có câu chuyện kể rằng: Cô bé 18 tuổi, giống như các thanh niên ngày nay – thích nổi loạn, thích sống ra ngoài sự kiểm soát của cha mẹ.
Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi. nhưng dòng đời đã đẩy đưa cô từ thất bại này đến thất bại khác.Cô bị ruồng bỏ vì nghèo đói. Cô đã phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ra làm thứ để mua bán, đổi chác.
Năm tháng cứ thế trôi qua, cô già đi và bị dòng đời đẩy đưa vào tận cùng khốn khó, có những ngày đói khổ phải tìm tới quán cơm xã hội để kiếm chút lót dạ.
Và một lần đi đến xin cơm xã hội cô nhìn thấy tấm bảng nhỏ ghi ở cửa: “Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”. Cô nhìn tấm hình mẹ đang bế cô ngày nào. Đúng là mẹ đang tìm cô. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.
Cô quyết định đi về nhà dầu phải đi bộ hàng chục cây số. Về đến nhà trời tảng sáng, cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khóa. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà.
Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô chạy vội lên buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên. Cô đánh thức mẹ dậy:
– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!
Không tin vào đôi mắt mình, bà mẹ lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô nói với mẹ:
– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khóa, con cứ nghĩ nhà có trộm!
Bà mẹ nhìn con âu yếm:
– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khóa. Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!
Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!
Nhìn vào xã hội hiện nay, biết bao gia đình đang rơi vào cảnh đổ vỡ hoang tàn. Phải chăng thiếu vắng những người vợ, những bà mẹ biết kiên nhẫn chờ đợi trong sự im lặng của tình thương và hy vọng.
Phụng vụ hôm nay cho chúng ta nhìn ngắm Mẹ Maria như mẫu gương chờ đợi. Chờ đợi của Mẹ là chờ đợi của hy vọng, của tin tưởng vào tình thương quyền năng của Chúa. Thế nên, Mẹ luôn có thái độ chờ đợi trong im lặng để suy niệm và cầu nguyện tìm ra ý Chúa. Bắt đầu từ sự im lặng nơi máng cỏ Belem , rồi trải qua ba mươi năm âm thầm tại Nazarét, rồi ba năm lặng lẽ theo dõi bước chân truyền giáo của con, và cuối cùng im lặng đau khổ dưới chân thập giá.
Trong năm mục vụ đồng hành với gia đình khó khăn, chúng ta hãy xin Mẹ Maria mang Chúa hài nhi đến trên những ngôi nhà đang sống trong sự im lặng của thất vọng, của khổ đau đầy nước mắt trong bệnh tật, nghèo đói và tha hương. . . Xin cho họ biết suy niệm và cầu nguyện trong niềm tin tuởng vào Chúa như Mẹ, để dầu cuộc đời có đẩy đưa biết bao sóng gió vẫn bình an và tin tưởng vào quyền năng Chúa như Mẹ. Và ước gì niềm vui Giáng Sinh “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta trọn vẹn niềm vui khi mang Chúa đến cho tha nhân qua đời sống yêu thương và phục vụ như Mẹ đã mang Chúa đến cho Dacaria năm xưa. Amen
Bạn có nhận ra sự hiện diện bên trong của Chúa Giêsu ngay trong cuộc đời mình không? Phúc cho bạn nếu bạn nhìn thấy và nhận ra Chúa với “cặp mắt đức tin”. Hạn từ “phúc” (makarios của tiếng Hy lạp) theo nghĩa đen là “hạnh phúc” hay “phúc lành”. Nó diễn tả một niềm vui trong sáng và không thể đụng chạm, không chút bợn nhơ, độc lập, và không bị lệ thuộc vào cơ hội và sự những biến cố thay đổi của cuộc sống.
Thiên Chúa ban cho chúng ta niềm vui siêu nhiên với sự hy vọng vào các lời hứa của Người
Có sự nghịch lý nào đó đối với những người “được chúc phúc” bởi Ðức Chúa. Đức Maria được gọi là “người diễm phúc” vì làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Sự diễm phúc đó cũng trở nên lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn bà khi Con của bà chết trên thập giá. Anselm, một giáo phụ nổi tiếng và Tổng Giám mục thành Canterbury (1033-1109), cắt nghĩa những lời này trong một bài giảng: “Không có Con Thiên Chúa, không gì có thể hiện hữu. Không có người Con của Đức Maria, không ai có thể được cứu chuộc.” Được Thiên Chúa tuyển chọn là một ơn huệ lớn lao và là một trách nhiệm nặng nề. Đức Maria đón nhận cả hai, triều thiên của niềm vui và thập giá của đau khổ. Niềm vui của bà không bị tan biến bởi sự thống khổ, bởi vì nó được đốt cháy bởi đức tin, đức cậy, và đức mến nơi Thiên Chúa và những lời hứa của Người.
Ðức Giêsu hứa với các môn đệ rằng “Không ai có thể lấy mất niềm vui của anh em” (Ga.16,22). Ðức Chúa ban cho chúng ta một niềm vui siêu nhiên, giúp chúng ta mang lấy bất kỳ đau khổ và nổi đau đớn nào, mà cho dù cuộc sống hay cái chết có thể lấy mất được. Bạn có biết niềm vui của cuộc đời dâng hiến cho Thiên Chúa trong niềm tin cậy không?
Họ được tràn đầy Chúa Thánh Thần
Ý nghĩa cuộc thăm viếng người chị họ Elizabeth của Đức Maria trước việc sinh ra của Ðức Giêsu là gì? Khi bà Elizabeth chào bà Maria và nhận ra Đấng Mêsia trong lòng bà Maria, họ đều được tràn đầy Thánh Thần và sự tham dự phấn khởi của sự hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa ban Đấng cứu tinh. Thật là lạ lùng vì Thiên Chúa không chỉ đổ đầy Thánh Thần trong lòng bà Elizabeth, mà còn cho cả đứa trẻ trong lòng bà nữa. Gioan Tẩy giả, thậm chí trước khi Đấng Mêsia sinh ra, đã chỉ cho thấy việc Chúa đến và đã nhảy mừng trong lòng mẹ, khi Thánh Thần tỏ ra cho ông biết sự hiện diện của vị Vua sắp sinh ra.
Chúa muốn lấp đầy mỗi một người chúng ta với Thánh Thần của Người
Chúa Thánh Thần là quà tặng của Thiên Chúa cho chúng ta để giúp chúng ta hiểu biết và cảm nghiệm sự hiện diện bên trong của Thiên Chúa và sức mạnh vương quốc của Người. Chúa Thánh Thần là cách thức trong đó Thiên Chúa ngự trị trong mỗi người chúng ta. Bạn có sống trong niềm vui và sự hiểu biết sự hiện diện bên trong của Thiên Chúa với bạn qua Thánh Thần của Người không?
Lạy Chúa Giêsu, xin lấp đầy lòng con với Thánh Thần của Chúa và ban cho con niềm vui trong việc tìm kiếm Chúa ngày càng hơn nữa. Xin gia tăng đức tin của con trong tất cả những lời hứa của Chúa, đức cậy của con trong những niềm vui Thiên đàng, và đức mến của con dành cho Chúa, là Tất Cả của con.
Càng đến lễ Giáng Sinh thì khuôn mặt Đức Mẹ càng nổi bậc vì Mẹ đóng vai trò quan trọng trong MV 4-C130
Càng đến lễ Giáng Sinh thì khuôn mặt Đức Mẹ càng nổi bậc vì Mẹ đóng vai trò quan trọng trong mầu nhiệm nhập thể. Cụ thể, Tin Mừng hôm nay nói đến việc Mẹ Maria đi thăm chị Elizabét. Tại sao Mẹ đi thăm bà ấy? Có người cho rằng Sứ thần truyền cô Maria sẽ thụ thai đang khi cô không biết đến người đàn ông là chuyện mơ hồ. Rồi Sứ thần còn cho biết bà chị họ của cô Maria là Elizabét đã có thai trong khi già nua, những chuyện đó khó tin thật nên Mẹ quyết định lên đường vừa thăm chị vừa xem sự thể có đúng không? Nếu đúng thì chuyện mình cũng đúng. Nghĩ như vậy thì tội nghiệp cho Đức Mẹ, Mẹ đâu có hồ nghi như chúng ta! Mẹ cũng không đi thăm bà chị để khoe rằng tôi được làm mẹ Đức Chúa Trời. Trái lại, Mẹ tin vững vàng và sắt son vào Chúa từ lâu rồi, cho nên bà Elizabét khen ngợi Đức Mẹ rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với em”.
Cô Maria là một cô thôn nữ xinh đẹp như bao thiếu nữ trong làng. Cô mơ ước có được một tấm chồng, sinh con và gia đình hạnh phúc. Thế mà, Thiên Chúa đến mời gọi Cô dấn thân vào một cuộc sống mới, đó là tham dự vào công trình đem ơn cứu độ, là Lòng Thương Xót Chúa đến cho mọi người. Qủa thế, Mẹ Maria đã tin vào Lời Chúa và để cho Lời Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ chấp nhận lên đường mang Chúa đến cho con người trong tin yêu và phó thác. Khi nghe tin bà chị có thai trong lúc tuổi già, Mẹ đi để chia sẻ lòng thương xót Chúa, tình nguyện phục vụ và chăm sóc bà chị thân yêu của mình. Cho nên, khi mẹ đến với bà Elizabét, thì Gioan trong bụng bà nhảy mừng. Vì sao mừng? Vì Đức Mẹ chính là hòm bia Thiên Chúa và cung lòng Mẹ đang cưu mang chính Thiên Chúa làm người, Chúa Giêsu Kitô. Mà Chúa Giêsu chính là dung nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là niềm vui cho nhân loại mà hôm nay Mẹ Maria đã thông chia nhân loại già nau, cằn cổi, héo hon như lòng bà Elizabét và Gioan đại diện nhân loại mới nhảy mừng trước ơn cứu độ, là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm cuộc thăm viếng hồng phúc chứa chan ơn cứu độ của Mẹ Maria, để rồi mỗi người hãy tiếp tục đem nguồn vui là Lòng Thương Xót Chúa đến cho những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa như Mẹ. Bài đọc hai trả lời rằng hãy vâng nghe và thực thi ý Chúa. Bất cứ ai sống và vâng nghe Lời Chúa đều có thể ngợi khen Thiên Chúa như Mẹ: thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Giờ đây, chỉ còn vấn đề là chúng ta có hăng hái lên đường mang Đấng cứu độ, Lòng Thương Xót của Chúa và tinh thần phục vụ yêu thương đến cho mọi người không? Chúng ta có tha thiết gì với niềm khát khao hạnh phúc của người khác không? Chúng ta mau mắn giúp đỡ những người cần chúng ta giúp đỡ tinh thần cũng như vật chất không?
Kính thưa quý ông bà, anh chị em, vì yêu thương, Mẹ Maria đã không quản ngại hy sinh gian khổ, cực nhọc lặn lội suốt 3-4 ngày đi bộ chỉ mong đem Lòng Thương Xót của Chúa và niềm vui đến cho gia đình bà chị họ và cho cả nhân loại. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người tùy khả năng của mình biết hy sinh tinh thần vật chất đem niềm vui ơn cứu độ Chúa đến với toàn thể nhân loại này. Chúng ta đang đi vào những ngày thánh của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Để Năm Thánh này đat hiệu quả tốt nhất, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: hãy mở mắt và mở cõi lòng mình ra cho tất cả những ai đang sống tại những vùng rìa khác nhau của kiếp hiện sinh, những người nghèo khổ, những người bị cướp đi phẩm giá của họ và các bệnh nhân. Chúng ta được mời gọi chữa trị những vết thương ấy, hầu xoa dịu những vết thương ấy bằng dầu ủi an, băng bó những vết thương ấy bằng Lòng Thương Xót, và chữa lành những vết thương ấy bằng tình liên đới và sự kính trọng (số 15§1). Hãy làm việc bác ái đối với tha nhân cả thể xác và tinh thần theo theo lời dạy của Chúa Giê-su: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, khuyên bảo, dạy dỗ, an ủi... (x. Mt 25, 31-45) (số 15§2). Và Đức Thánh Cha quả quyết họ là hiện thân của Chúa Giê-su, vì thế chúng ta phải nhận ra, đụng chạm và giúp đỡ họ một cách chu đáo (số 15§3).
Đặc biệt trong Thư chung Năm Phúc âm hóa xã hội, Hội Đồng Giám mục Việt nam mời gọi hãy sống, loan báo, làm chứng và chia sẻ Lòng Thương Xót nơi xã hội mình sống. Cụ thể, mỗi gia đình biết hy sinh một chút thời gian để cùng nhau đọc kinh sáng tối để Chúa xót thương từng người trong gia đình đồng thời làm sáng danh Chúa. Mỗi người biết hy sinh một chút tiền tiêu, một chút công sức để giúp đỡ người nghèo, những người cô thế cô thân. Còn các bạn trẻ hãy hy sinh một ít thời gian quý báu đi học giáo lý, tập hát, giúp lễ hay làm việc gì đó trong nhà thờ để ca tụng, ngợi khen và tôn vinh Chúa. Các em thiếu nhi hãy biết hy sinh quảng đại phục vụ gia đình và mọi người bằng những việc rất nhỏ như quét nhà, giúp mẹ nấu ăn rửa chén, cầm tay giúp bà già qua đường, cho người ăn xin, người khuyết tật một nụ cười thay vì khinh chê, chọc nghẹo. Vâng, chỉ những hy sinh như thế mới có giá trị thật sự để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giêsu sắp giáng sinh cứu độ chúng ta và cũng sẵn sàng sẻ chia tin vui cứu độ cho người khác như Mẹ Maria hôm nay.
Hôm nay, Mẹ Maria dạy chúng ta một bài học đáng giá: Hãy mang Chúa và Lòng Thương Xót đến với mọi người, chứ đừng mang hận thù, đừng mang những suy nghĩ đen tối, những nghi kỵ đến với nhau. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ để yêu thương và chia sẻ tình yêu thương xót với mọi người. Hãy cưu mang Chúa Giêsu trong tâm hồn, để như Mẹ, ta cũng có thể mang một tâm hồn tràn ngập sự sống của Chúa Giêsu và Lòng Thương Xót của Ngài hầu mang chính Chúa Giêsu đến với anh chị em xung quanh, nhờ đó, mọi người sẽ chứa chan niềm vui, chứa chan ơn thánh, chứa chan niềm hạnh phúc và thương xót nhau. Amen.
Tuần cuối của Mùa Vọng này Lời Chúa mời gọi chúng ta chú trọng và khám phá ý nghĩa trung thực MV 4-C131
Tuần cuối của Mùa Vọng này Lời Chúa mời gọi chúng ta chú trọng và khám phá ý nghĩa trung thực của Giáng Sinh: Emmanuen - Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Tiên tri Mica thách thức chúng ta cậy trông vào Thiên Chúa, đặc biệt là trong những lúc thất vọng và buồn chán. Tin Mừng kêu mời chúng ta luôn tin tưởng vào Thiên Chúa như Mẹ Maria, hầu chúng ta có thể mang Ngôi Lời Nhập Thể, chính là Chúa Giêsu thành Nagiarét, đến cho mọi người và trở nên dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa đến cho nhau.
Giáng Sinh đã trở thành một đại lễ của gia đình. Khoảng thời gian này nhiều người, trong đó có lẽ có chúng ta, đang trên đường hoặc sẽ lên đường trở về họp mặt với gia đình và họ hàng. Giáng Sinh là một đại lễ mang lại niềm vui qua việc gặp lại những người thân yêu và là dịp trao đổi quà cáp.
Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Đức Mẹ viếng thăm bà dì Êlisabét và niềm vui đã diễn ra giữa hai người. Mẹ Maria có một bí mật nóng bỏng muốn bật mí và chia sẻ cho một người hiểu được Mẹ. Sứ thần đã cho Mẹ biết là Êlisabét cũng đã đón nhận một đặc ân kỳ diệu từ Thiên Chúa, đó là bà đã thụ thai trong tuổi già. Bà là người hiểu được những gì đã xảy ra cho mình. Mẹ Maria cũng biết rằng Êlisabét, đang mang thai trong tuổi già, cần có một người thông hiểu và giúp đỡ. Vì thế, Mẹ đã mang đến cho Êlisabét sự chúc phúc của người con trong lòng Mẹ. Ngoài ra, Mẹ cũng đích thân phục vụ Êlisabét trong lúc bà cần nhất. Mẹ đã ở lại với Êlisabét ba tháng, thời gian Êlisabét cần sự giúp đỡ cho đến khi sinh con. Sau đó Mẹ mới nghĩ đến việc trở về nhà mình.
Mẹ Maria và bà Êlisabét đã dọn mình và mong đợi để đón nhận món quà cao cả là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ nhân loại. Trong ba tuần qua chúng ta cũng đã dọn mình và mong đợi. Chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế tái sinh trong tâm trí và tâm hồn của nhân loại. Mong đợi có thể mang lại sự chán nản. Tuy nhiên, ngày mong chờ càng gần thì sự phấn khởi càng trào dâng. Hãy để sự phấn khởi đó trở thành những hành động vui vẻ và bác ái trong những ngày lễ đang chờ đợi chúng ta.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết sống thế nào để qua chúng ta, Chúa Kitô có thể mang một thân xác mới; qua chúng ta, Chúa Kitô có thể trở nên hiện thực cho mọi người; và qua chúng ta, Chúa Kitô có thể thắp sáng cuộc sống của những người bần cùng với ngọn nến hy vọng. Xã hội vẫn còn những Êlisabét cần đến sự thăm viếng của chúng ta. Vì vậy, trong khi chờ đợi Chúa đến, như Mẹ Maria, chúng ta cùng nhau đến với tha nhân và trao ban cho họ niềm vui và an bình. Được thế thì Lễ Giáng Sinh không chỉ đơn giản là một dịp họp mặt chia sẻ niềm vui trong gia đình nhỏ bé của mình, nhưng còn là dịp để chúng ta thì hành bác ái với những ai đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Bà Lely Lemieux là một Kitô hữu Canada. Từ 8 năm nay, bà là hội trưởng hội "Ngọn Lửa Cháy MV 4-C132
Bà Lely Lemieux là một Kitô hữu Canada. Từ 8 năm nay, bà là hội trưởng hội "Ngọn Lửa Cháy" của giáo phận thành phố Mông-rê-an. Hội có mục đích dẫn đường và cùng đi với các người trẻ trong cuộc hành trình nhắm tới tương lai. Ngoài ra, bà Mỹ còn năng thăm viếng các tù nhân, mang lại cho họ niềm hy vọng và sự cảm thông. Vậy do đâu mà bà Mỹ có được tinh thần nhiệt thành đối với người trẻ và với người tù tội? Hãy nghe lời bà Mỹ tâm sự:
Đời sống của tôi thật giản dị và đâm rễ sâu trong tình thương của Chúa. Giờ đây ở tuổi trưởng thành, tôi càng thấy rõ tôi hết lòng tin vào sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong đời tôi. Tôi vô cùng cảm tạ Chúa về hồng ân đức tin đó. Tôi còn hưởng một hồng ân khác nữa là được sinh ra trong một gia đình trên thuận dưới hoà. Cha mẹ tôi rất quan tâm săn sóc con cái. Tình thương, sự chăm sóc tế nhị và lòng trìu mến của cha mẹ đối với tôi, là một món quà tôi không bao giờ quên, cũng không bao giờ giữ riêng lấy cho tôi.
Ngay ở tuổi 14, tôi đã dành giờ rảnh ngày thứ bảy đi giúp tắm rửa các em bé tại nhà thương Từ Bi. Kế đến tôi gia nhập hội Hướng Đạo. Các sinh hoạt Hướng Đạo đã cho tôi cơ hội sống với người trẻ.
Từ tám năm nay, tôi được giáo phận giao cho việc điều khiển hội đoàn "Ngọn Lửa Cháy". Đây là cộng đoàn dành riêng cho người trẻ từ 18-25. Cứ vào cuối tuần, chiều thứ 6 đến chiều Chúa Nhật, họ họp lại để suy tư về những đề tài xoay quanh "Bản thân, tha nhân, gia đình và Chúa Kitô". Mỗi chiều Chúa Nhật, tôi được an ủi rất nhiều khi thấy những người trẻ ra về với gương mặt vui tươi. Đó là những người trẻ đã từng trải qua những kinh nghiệm đau thương, như nghiện rượu, nghiện ma tuý, thất tình, cô đơn, không kiếm được việc làm, thiếu tự tin. Nhờ được chung sống và chia sẻ với nhau những ngày cuối tuần mà họ tìm lại được hơi ấm của tình người, nhất là có được hy vọng và lòng tự tin.
Ngoài ra, tôi còn thường xuyên thăm viếng các tù nhân. Những người này chiếm một chỗ đứng quan trọng trong đời tôi và mang lại cho tôi rất nhiều kinh nghiệm quý báu. Thật ra việc tiếp xúc với họ không phải là chuyện dễ dàng và đơn giản. Tôi không bao giờ biết trước được ai là người tôi sẽ gặp nơi nhà tù, và khi gặp họ tôi phải nói gì. Tôi hoàn toàn phó thác nơi Chúa Thánh Linh qua mỗi cuộc gặp gỡ. Chính Chúa Thánh Linh cho tôi biết phải nói gì. Tôi thường ra về lòng tràn đầy ơn bình an nhờ tham dự vào lòng thương xót của chính Chúa Giêsu.
Tôi có một niềm tin vững chắc nơi Chúa. Với tôi, Thiên Chúa là một người CHA tuyệt diệu, trên hết mọi người cha. Nơi Chúa, tôi đặt trọn niềm tin và tình cảm, nhờ đó tôi được an tâm trước mọi thử thách.
Bất Cứ Ai Đón Nhận Sự Hiện Diện Ưu Ái Của Thiên Chúa…
Buổi sáng khi thức dậy, tôi dâng ngày cho Chúa, rồi tôi khiêm tốn xin Chúa cho tôi trở nên người phản ảnh tình thương của Chúa cho tha nhân.
Với ai đó than phiền vì chỉ gặp toàn khó khăn xui xẻo, tôi liền hỏi người đó: "Đâu là chỗ đứng trong đời của bạn?" Quả thật, đối với tôi, Thiên Chúa chính là gia nghiệp đời tôi. Tôi tìm nơi Người sức mạnh, niềm hy vọng, tình thương và ánh sáng chiếu soi bước đường hàng ngày của tôi.
Riêng với Mẹ Maria, bà Lely Lemieux kể ra một câu chuyện nhỏ: "Trước kia, tôi có tật hút thuốc lá mỗi ngày hai gói! Tôi đã cố gắng bỏ tật xấu đó một số lần nhưng lần nào cũng thất bại. Ngày kia, một người bạn nói với tôi: "Bạn biết không? Đức Mẹ đã giúp mình bỏ thuốc đó." Nghe vậy, tôi tự nhủ: "Chắc Đưc Mẹ cũng sẵn sàng giúp tôi bỏ thuốc." Thế là tôi mang gói thuốc đặt dưới chân tượng Đức Mẹ. "Xin Mẹ giúp con bỏ thuốc từ này trở đi" và quả thật, từ hồi đó, Đức Mẹ đã giúp tôi bỏ hẳn tật hút thuốc.
Lời tâm sự của bà Lely Lemieux gợi ý cho thấy biến cố Đức Maria đi thăm viếng bà Isave thường được lặp đi lặp lại nhiều lần nhiều cách trong đời người Kitô hữu. Có thể nói chính việc lặp đi lặp lại này làm nên đời người Kitô. Quả thật không riêng gì bà Lely Lemieux, bất cứ ai đón nhận sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa đều được mời tham dự mầu nhiệm đi viếng của Đức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế.
Xuất Xứ Của Mầu Nhiệm Đi Viếng
Hãy coi xuất xứ của mầu nhiệm đi viếng này bắt rễ từ biến cố Truyền Tin. Một cô gái thôn quê làng Na-da-rét, mới 13-14 hoặc 15 tuổi, đã kết hôn và được Sứ Thần của Thiên Chúa đến loan tin động trời. Cô đã được ban cho đầy ơn sủng và được Thiên Chúa ở cùng (Lc 1,28), bây giờ cô còn được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa làm người do quyền năng của Chúa Thánh Thần (c.31.35) vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, nên Đức Trinh Nữ đã đặt mình hoàn toàn để Thiên Chúa sử dụng khi thưa: "Xin cứ làm cho tôi như Sứ Thần nói" (c.38). Đó chính là xuất xứ của mầu nhiệm của mọi việc viếng thăm có ý nghĩa Kitô giáo, khởi sự với cuộc thăm viếng bà Isave được kể trong bài Tin Mừng hôm nay.
Điều kiện tiên quyết cho giá trị của mọi cuộc thăm viếng Kitô giáo là Thiên Chúa ở cùng ta. Dọc theo mọi ơn gọi trong Kinh Thánh, như với nhà lãnh tụ Mô-sê (Xh 3,12), với ngôn sứ Giê-rê-mi (1,8.19; 15,20), với tổ phụ Áp-ra-ham (St 26,24; 28,15) cũng như với Đức Trinh Nữ Maria, khởi sự phải là việc Thiên Chúa chiếu cố đến thân phận yếu hèn (Lc1, 48) của con người mà Người muốn ban ơn. Ơn Người ban bao giờ cũng vậy, phải phát xuất do lòng tốt lành của Người. Tuỳ ở mức sẵn sàng đón nhận mà con người được tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa. Nơi Đức Maria sẽ không có rào cản đối với ơn Chúa hiện diện và hành động, nên Mẹ được nhìn nhận là "Đấng đầy ân sủng" (Lc 1,28). Loài người càng thoát ách tội lỗi (dù chỉ là thoát khỏi một đam mê nhỏ như thói quen hút thuốc), ơn Chúa càng tự do hoạt động. Nhưng khởi sự bao giờ cũng là chính Chúa hiện diện và hoạt động như lời bà Lely Lemieux nói "ngay từ nhỏ tôi đã cảm nhận tình thương của Chúa. Giờ đây ở tuổi trưởng thành, tôi càng thấy rõ tôi đã hết lòng tin vào sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa trong đời tôi".
Thiên Chúa mặc xác phàm nơi lòng Đức Maria do quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần: đó là cội nguồn của sự hiện diện và hành động hoàn toàn mới của Thiên Chúa ở giữa loài người. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Maria sẵn sàng (c.39) như thế nào để Chúa sử dụng Mẹ trong vai trò hòm bia Giao Ước mới của Thiên Chúa. Rõ ràng cuộc gặp gỡ của hai người mẹ là cơ hội để hai người con gặp nhau. Có thể nói ông Gioan Tẩy Giả bắt đầu thi hành sứ mạng tiền hô bằng động tác nhảy lên trong bụng mẹ (c.41) để giới thiệu vị Thiên Sai Giêsu cũng còn trong dạ mẹ. Hẳn bà Lely Lemieux có lý khi khám phá ra nguồn suối của ơn nhiệt thành tông đồ ngang qua cha mẹ mình khi nói: "Cha mẹ tôi rất quan tâm săn sóc con cái. Tình thương, sự chăm sóc tế nhị và lòng trìu mến của cha mẹ đối với tôi, là món quà tôi không bao giờ quên, cũng không hề giữ riêng lấy cho tôi".
Nhưng mãnh liệt nhất trong nhiệm cục mới của ơn cứu độ là sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh. Với biến cố Đức Giêsu được Mẹ Người cưu mang do quyền năng của Chúa Thánh Linh (c.35), Thần Khí của Thiên Chúa sẽ hành động mạnh mẽ nơi các nhân vật khác nữa như bà Isave (c.41), ông Da-ca-ria (c.67) cũng như cụ già Si-mê-on (Lc 2,27). Hiện tượng đó báo hiệu việc Đức Giêsu sau này được tôn vinh. Đó là lúc Thiên Chúa ra tay uy quyền nâng Người lên, trao Người Thánh Thần đã hứa để Người đổ xuống: "Đó là điều anh em đang thấy đang nghe" (Cv 2,33), đó cũng chính là hiện tượng mà bà Lely Lemieux nghiệm thấy khi thăm viếng các tù nhân như chính bà tâm sự: "Tôi không bao giờ biết trước được ai là người tôi sẽ gặp. Tôi hoàn toàn phó thác cho Chúa Thánh Linh qua mỗi cuộc gặp gỡ".
Một số câu hỏi gợi ý
1. Lời tâm sự của bà Lely Lemieux có điều gì đáng chú ý hoặc đánh động bạn chăng?
2. Bạn nghĩ vì lý do gì mà Đức Maria đã vội vã lên đường (c.39)?
Tin Mừng Lc 1:39-45 Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ.
Mở lại những trang Kinh Thánh, có lần qua môi miệng các ngôn sứ, Chúa đã phán: Tư tưởng và MV 4-C133
Mở lại những trang Kinh Thánh, có lần qua môi miệng các ngôn sứ, Chúa đã phán: Tư tưởng và đường nẻo của Ta không phải tư tưởng và đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng sẽ cao hơn tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu.
Trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế. Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.
Trường hợp của ngôn sứ Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm ngôn sứ để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.
Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ. Ngài được thụ thai cách lạ lùng trong lòng một trinh nữ, và Ngài đã lớn lên bình thường trong dạ mẹ. Dạ mẹ là mái nhà êm ấm đầu tiên, là Đền Thánh trước khi Con bước vào thế giới.
Và rồi nhiều lần nhiều lúc ta cũng thấy Chúa đã hành động như vậy. Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Elizabeth thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên. Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.
Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Bà Elizabeth đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: “Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa”. Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: “Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!”
Nguyên nhân chính yếu của sự vui mừng hôm nay đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Và rồi ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elizabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người.
Chính vì tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Thiên Chúa muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta.
Qua ta, Thiên Cúa muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Cùng với Mẹ Maria, mỗi người chúng ta biết mở rộng lòng ra để đón nhận niềm vui đích thực là Ngôi Lời Thiên Chúa và lên đường mang niềm vui ấy đến với những người xung quanh. Cầu mong cho tình liên đới hiệp thông giữa từng người trong chúng ta ngày càng trở nên tốt đẹp hơn góp phần làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn. Ý nghĩa vì chính chúng ta cùng đón nhận và chia sẻ niềm vui đích thực, niềm vui Ngôi Hai Thiên Chúa trong dịp lễ Giáng sinh sắp tới.
Ta hãy mừng vui ngây ngất trước nhan Mẹ! Nhưng còn mừng vui hơn nữa trước một Thiên Chúa dám chọn con đường của phàm nhân để bắt liên lạc với nhân loại.
Tin Mừng Lc 1:39-45 Tin mừng trình thuật lại cuọc viếng thăm bà chị họ Elisabet của Đức Trinh Nữ Maria, một cuộc thăm viếng bề ngoài có vẻ bình thường nhưng bên trong lại là cả một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa dành cho dân Người.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa: Lc 1: 39-45
Tin mừng trình thuật lại cuộc viếng thăm bà chị họ Elisabet của Đức Trinh Nữ Maria, một cuộc MV 4-C134
thăm viếng bề ngoài có vẻ bình thường nhưng bên trong lại là cả một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa dành cho dân Người.
1. Được Thánh Thần thúc đẩy, Đức Maria lên đường đến ngôi làng miền núi, thuộc xứ Giuđêa, theo truyền thống đồng hóa với làng Ain-karin. Ngài đến để thăm viếng và phục vụ người chị họ Elisabet.
2. Cuộc gặp gỡ của hai người phụ nữ như là một sự mở đầu của Tin Mừng: Còn ở trong lòng mẹ nhưng Đức Giêsu đã thánh hóa người anh em họ Gioan, người đã nhẩy mừng lên trong lòng mẹ khi gặp Chúa. Việc hài nhi nhẩy mừng trong lòng mẹ tiên báo số phận tương lai của con trẻ. Việc gặp gỡ giữa hai người mẹ thực ra là cuộc gặp gỡ giữa hai con trẻ. Gioan Tẩy Giả đã nhận lấy Chúa Thánh Thần ngay từ khi còn trong bụng mẹ như đã được loan báo ở Lc1, 15.
3. Noi gương Đức Maria mang Đức Kitô đến cho tha nhân trong đức ái đích thực. Chúng ta hãy sống như Mẹ, trầm lặng thanh thoát để Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta như đã hoạt động trong Mẹ.
II. Gợi Ý Sống Lời Chúa
1. Từ việc Đức Maria thăm viếng đến sứ mạng loan báo Tin Mừng của Kitô hữu: Khi được tin bà chị họ Elisabet, mang thai trong lúc đã lớn tuổi, Đức Mẹ lên đường viếng thăm bà và ở lại chăm sóc cho bà. Sự thăm viếng của Đức Maria nhìm bề ngoài có vẻ là chuyện thường tình. Có gì lạ khi một người bà con nghe người thân của mình có tin vui đến hỏi thăm. Cũng có gì lạ khi một người em gái đến giúp chị mình trong lúc mang thai. Việc thăm viếng giúp đỡ của Đức Maria rất là tự nhiên, là bình thường chẳng có gì đáng nói, đáng ca ngợi nếu như ẩn sâu trong cuộc thăm viếng này không phải là cuộc thăm viếng của chính Chúa Giêsu, Đấng đang là một thai nhi trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Điều quan trọng của cuộc thăm viếng này không phải ở tình cảm tự nhiên giữa người với người; không phải ở sự giúp đỡ phải đạo của anh chị em trong họ hàng mà chính là cuộc gặp gỡ thăm viếng của hai hài nhi Giêsu và Gioan cả hai đang ở trong lòng mẹ. Điều này cho thấy Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa của Ngài, Ngài sẽ đến viếng thăm dân Ngài. Đức Maria thực hiện cuộc thăm viếng để đưa Đức Giêsu đến gặp và thánh hoá Gioan tẩy Giả. Đức Maria vội vã đưa Chúa đến cho người khác, đó cũng là bổn phận của người Kitô hữu. Trong cuộc sống của mình, mỗi Kitô hữu đều có sứ mạng loan báo Tin Mừng, nghĩa là đưa Chúa đến cho người khác. Mọi cuộc gặp gỡ tiếp xúc của người Kitô hữu nhìn bên ngoài cũng bình thường như những cuộc thăm viếng gặp gỡ khác, thế nhưng, bên trong lại hoàn toàn không phải như thế mà chính là làm cho những người gặp mình được gặp Chúa.
Trong bối cảnh của những ngày cuối cùng mùa vọng, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy chuẩn bị tâm hồn cho những cuộc viếng thăm của Thiên Chúa qua kinh nguyện, qua thánh lễ và qua sự gặp gỡ với anh chị em chung quanh. Đồng thời mỗi người cũng phải ý thức sứ mạng đứa Chúa đến với mọi người.
2. Kitô hữu đồng hành và theo gương Đức Maria đến với anh chị em của mình: Đức Maria không chỉ đến thăm mà còn ở lại phục vụ bà chị họ cho đến khi Gioan chào đời. Tự nhận là 'Tôi tớ của Thiên Chúa', cũng muốn làm tôi tớ mọi người. Không nghĩ đến phẩm chức cao quí làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã phục vụ. Mẹ quả thật là mẹ của Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Chúa Giêsu đến để phục vụ, Mẹ Người cũng chọn sống con đường phục vụ. Mỗi Kitô hữu ngày nay cũng đi vào con đường phục vụ của Chúa và Mẹ Maria. Cách này cách khác, ở bất cứ cương vị nào, mọi Kitô hữu đều có chung một sứ mạng đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng cho tha nhân. Loan báo không phải bằng lời nói suông mà bằng chính cuộc sống phục vụ của mình. Trong cuộc sống phải cho người khác thấy được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong chúng ta và chúng ta đưa Người tới với người khác bằng lối sống vui đời phục vụ. Như Đức Maria đã phục vụ bà Elisabét, mỗi người Kitô hữu cũng hết lòng quan tâm phục vụ anh chị em chung quanh với tất cả khả năng của mình. Phục vụ một cách cụ thể, đúng đắn. Nhất là đến phục vụ những anh chị em nghèo khổ, bệnh hoạn, già cả neo đơn … Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng làm tôi tớ cho mọi người cũng là tôi tớ mọi người, chúng ta những Kitô hữu là môn đệ Chúa Giêsu, là con của Mẹ cũng phải sống cuộc đời tôi tớ như thế. Nói cách khác, cuộc đời Kitô hữu là cuộc đời đồng hành với Chúa Giêsu, với MẹMaria lên đường đến phục vụ anh chị em mình.
Trong tâm tình của người tôi tớ phục vụ tha nhân, mỗi người Kitô hữu trong mùa vọng này khi chiêm ngưỡng những vẻ đẹp lộng lẫy của đèn hoa, khi lắng nghe những cung giọng trần bổng quyến rũ của những bài Thánh ca Giáng sinh bất hủ trong ngày lễ Noel thì hãy nhớ rằng: niềm vui Giáng sinh, lễ hội huy hoàng náo nhiệt của ngày Noel chỉ có gía trị nhờ sự khiêm nhu tự hạ trở nên tơi tớ phục vụ mọi người của Đức Giêsu Kitô.
3. Kitô hữu, người Hướng dẫn viên Du lịch của Chúa: Ngày nay, ngành công nghiệp du lịch ngày một phát triển, để có thể thu hút du khách cần phải có các chương trình hấp dẫn, các điểm du lịch hấp dẫn và không thể không có những hướng dẫn viên du lịch khéo léo, nhanh nhẹn và nhất là am hiểu nhiều về các danh lam thắng cảnh … Mỗi khi đi du lịch thật thú vị và gia tăng thêm được nhiều sự hiểu biết và yêu mến đối với các nơi tham quan, nghỉ ngơi nếu như được hướng dẫn bởi các hướng dẫn viên có trình độ, thạo công việc và mến khách. Nhìn vào Đức Maria qua biến cố thăm viếng bà Elisabet, Mẹ cũng như một người hướng dẫn Chúa đến gặp mẹ con bà Elisabet. Đặc biệt, sau cuộc gặp gỡ Gioan Tẩy Giả đã được tràn đầy Thánh Thần, đã Thiên Chúa tuyển chọn trao trách nhiệm giới thiệu về Chúa Giêsu, Đấng cứu thế cho dân chúng, chuẩn bị dân chúng tiếp đón Người. Hình ảnh của Đức Maria và của Gioan cũng khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của người hướng dẫn viên du lịch đưa khách đến gặp gỡ những nơi tham quan. Đức Maria đưa Chúa đến viếng thăm gia đình Giacaria; Gioan đưa Chúa đến viếng thăm dân người; mỗi Kitô hữu cũng sẽ là những hướng dẫn viên du lịch đưa Chúa đến với mọi người và đưa mọi người gặp gỡ Thiên Chúa. Như người hướng dẫn viên du lịch cần thông thạo, mến khách như thế nào, thì người Kitô hữu, hướng dẫn viên cũng cần phải thông thạo về Chúa, về con người; cũng cần phải có lòng mến Chúa yêu người mới có thể giới thiệu về Thiên Chúa một cách rõ ràng cho người khác.
Điều này đòi hỏi mỗi người phải thực sự gắn bó với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong việc sống và thực thi Lời Ngài để biết Ngài rõ hơn, để yêu Ngài nhiều hơn, đồng thời, cũng phải am hiểu về thế giới, về anh chị em chung quanh để có thể yêu thương hiện diện, đồng hành cùng họ và có cách thế phù hợp để loan báo Tin Mừng.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã yêu thương viếng thăm và ban ơn cứu độ cho chúng ta là dân của Ngài. Trong tâm tình cảm mến chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh có sứ mạng đưa Chúa đến cho con người và xã hội hôm nay trong bổn phận truyền giáo. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Hội Thánh luôn hết lòng chu toàn sứ mạng này, và nhất là, xin cho Hội Thánh luôn là nơi thể hiện trọn vẹn, cụ thể tình yêu của Thiên Chúa dành cho mọi người.
2. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã ân cần đến với mọi người để yêu thương và phục vụ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo Quốc gia, các vị lãnh đạo tinh thần cũng như tôn giáo luôn biết đến với dân, tìm hiểu dân, gần gũi với dân để hết lòng phục vụ nhân dân.
3. Mỗi người Kitô hữu đều là những người đưa Chúa đến với người khác. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong chúng ta luôn có đời sống gắn bó với Chúa, yêu mến Chúa và luôn hăng hái giới thiệu về Chúa cho người bên cạnh bằng đời sống yêu thương và khiêm nhường phục vụ như Đức Maria.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa, Chúa không ngừng hiện diện và đồng hành với chúng con trong cuộc sống hiện tại. Xin Chúa soi sáng cho chúng con luôn cảm nghiệm được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa giữa chúng con để ái nấy can đảm tiến bước trong mọi gian nan thử thách; để mọi người tìm được niềm an vui. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Tin Mừng Lc 1:39-45 “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”
Đặt chân tới Hà Nội, chúng ta nghe câu quen thuộc: “Đến Hà Nội không vội được đâu”, đó là MV 4-C135
Đặt chân tới Hà Nội, chúng ta nghe câu quen thuộc: “Đến Hà Nội không vội được đâu”, đó là văn hóa điềm đạm, từ tốn từ trong cách nói năng, trong từng cử chỉ của người miền Bắc Việt Nam.
Thế nhưng, đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại tâm thế nhanh nhảu đến cử chỉ “vội vã” của Đức Maria, một thiếu nữ miền quê Nazaréth phương bắc Israel khi đón nhận Tin Mừng. Vị Sứ thần của Chúa vừa loan báo Tin vui rằng Đức Maria sẽ cưu mang Đấng Cứu Thế, và gia đình Isave người chị họ vừa hiếm muộn lại cao niên, ở cách xa cả 150 cây số, nay cũng chuẩn bị sanh một em bé là Gioan sẽ đi mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nghe tin ấy xong, Maria thu xếp lên đường ngay đến giúp người chị họ trong thời kỳ sanh nở. Đây không đơn thuần là một sự di chuyển về địa lý nhưng là một dấu chỉ. Lời Chúa đã thúc đẩy thôn nữ Maria không chút trì hoãn lên đường dẫu cho chặng đường xa xôi, việc đi bộ cực kỳ khó khăn, đường đi một mình cũng không ngăn bước chân người thi hành sứ vụ loan báo Tin Vui.
Là một y sĩ, thánh sử Luca đã lưu ý đến chi tiết “vừa nghe tiếng Maria chào, thì đứa con trong bụng bà Isave nhảy lên vui sướng”. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ cũng đều có giây phút khó quên, khi thai nhi biểu hiện dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Nhưng chúng ta cũng đừng giải thiêng việc đó đơn thuần là một hiện tượng sinh học. Nhớ lại lời Kinh Thánh đoạn sách tiên tri Giêrêmia: “Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng ‘Trước khi cho ngươi hành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân’.” (Gr 1,5). Vâng, Chúa cũng đã thánh hóa để con trẻ Gioan bắt đầu vai trò của mình là tiên tri và nhân chứng cho Chúa Giêsu Kitô ngay từ lúc còn trong bụng mẹ.
Với lời ca ngợi Đức Maria: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”, bà Isave đã gián tiếp ngợi khen kỳ công của Thiên Chúa cùng những hoạch định của Ngài khi chuẩn bị cho Con Chúa ra đời. Thiên Chúa đã chọn cung lòng một người nữ và thánh hóa để Đức Maria có thể đảm đương vai trò làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đức Maria còn có phúc hơn nữa vì đã tin Chúa thực hiện được mọi sự. Vậy chuyện Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa mà vẫn đồng trinh do bởi không phải từ một nam nhân mà do từ quyền phép Chúa Thánh Thần ban xuống là chuyện khả dĩ. Đương nhiên với quyền năng của Chúa thì Ngài làm được mọi sự.
Thiên Chúa là Đấng Toàn năng và chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn Cứu chuộc. Dẫu vậy, Ngài vẫn để chỗ cho con người tự do cộng tác phần mình vào để sinh ơn cứu chuộc cho chính mình và cho mọi người. Với Đức Maria, đó là thái độ sẵn sàng để Chúa hoạt động nơi mình; với con trẻ Gioan, đó là việc mừng vui khi được Đức Maria đem Chúa đến viếng thăm; với bà Isave, đó là ánh mắt nhận ra những ơn phúc Chúa không ngừng ban cho con người, và chính Ngài cũng đang hiện diện giữa họ. Họ là những người đã mở lòng mình ra để đón Chúa.
Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng 2018. Thánh sử Luca đã giúp chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ngài mời gọi chúng ta “ngẩng đầu lên” vì Chúa Kitô vinh quang đang “ngự đến” trên đám mây trời vào ngày Cánh Chung. Chúa nhật thứ II và III Mùa Vọng, thánh sử cho chúng ta quay lại thời gian cách đây 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho sứ vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nazaréth. Và hôm nay, Chúa nhật thứ IV, chúng ta mời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Chúa Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng Đức trinh nữ Maria để cảm nghiệm Tin Vui của Chúa đến cho nhân trần như lời Chúa hứa với tổ tiên con người.
Đến lượt mỗi chúng ta cũng được mời gọi nhìn nhận ơn Chúa và cộng tác phần mình để ơn cứu chuộc đến được cho bản thân, đến được các thành viên trong gia đình, như Đức Maria đem Tin Mừng trước tiên đến cho người bà con, rồi mới rộng khắp mọi người. Mùa Vọng năm nay đang dần khép lại và sẽ không còn mùa Vọng năm 2018 nào nữa. Vậy chúng ta đã có một quyết tâm nho nhỏ gì cho mình khi sống Mùa Vọng này như là món quà mừng sinh nhật Chúa? Nhanh kẻo muộn, muộn còn hơn không!
Còn ít ngày nữa là tới lễ Chúa Giáng Sinh. Đường phố nhộn nhịp, nhất là các cửa hiệu tưng bừng khuyến mãi, các gian hàng trang trí cho có không khí Noël thực ra là đua nhau quảng cáo mà chẳng biết chuẩn bị mừng lễ ai giáng sinh. Và lắm khi người đông dạo phố cũng chẳng quan tâm ý nghĩa của ngày trọng đại mà chỉ xem như là một dịp lễ hội cuối năm. Còn chúng ta, những Kitô hữu, hãy dành ít phút thinh lặng nội tâm, để cùng với Đức Maria suy niệm mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, và nhìn lại xem mình đã chuẩn bị tâm hồn mình thế nào để đón Chúa. Tâm thế của người đang hăm hở đợi chờ một người sẽ làm cho niềm vui vỡ òa khi gặp được người đó; niềm vui của người đón chờ Chúa nhận ra đó là một tin quan trọng và tốt lành mà người đó đang mong đợi Chúa đến xóa tội trần gian, thì họ sẽ nên háo hức, nhanh nhảu chia sẻ để niềm vui được nhân đôi.
Lạy Chúa, xin cho con đừng mải mê chuẩn bị bên ngoài mua sắm đón lễ Noel mà thôi mà còn chuẩn bị tâm hồn mình đơn sơ, chân thành và sẵn sàng mở rộng lòng mình làm thành máng cỏ cho Chúa ngự vào đêm Giáng sinh. Amen.
Khi Đức Mẹ được Sứ thần Gabriel truyền tin để làm Mẹ Thiên Chúa Ngôi Hai thì Ngài đang sống MV 4-C136
Khi Đức Mẹ được Sứ thần Gabriel truyền tin để làm Mẹ Thiên Chúa Ngôi Hai thì Ngài đang sống tại làng Nazareth thuộc xứ Galile, miền bắc nước Do Thái (Lc 1,26). Trong cuộc truyền tin này Sứ thần có cho Đức Mẹ biết một tin quan trọng là bà Elizabeth, chị họ Ngài lâu nay vẫn bị coi là son sẻ và tuy tuổi đã cao mà đã có thai được 6 tháng (Lc 1,36). Lập tức Đức Maria đã vội vã đi thăm người chị họ này ở mãi tận Giuđêa miền nam nước Do Thái (Lc 1,39). Zacaria, chồng bà Elizabeth lúc đó làm Tư tế và vừa hết phiên dâng hương trong đền thờ Giêrusalem (Lc 1,8-9). Con của hai ông bà là Gioan Tiền Hô được ơn khỏi tội nguyên tổ nên nhảy mừng trong lòng mẹ (Lc 1,44). Hai người phụ nữ đặc biệt: Maria Mẹ Thiên Chúa và Elizabeth mẹ Gioan Tiền Hô Chúa Cứu Thế, gặp gỡ nhau. Hai hài nhi trong bụng mẹ: Giêsu Cứu Thế và Gioan Tiền Hô cũng gặp nhau lần đầu tiên trong cuộc đời để rồi sẽ sát cánh nhau trong cuộc cứu chuộc nhân loại mai sau. Thật là một cuộc gặp gỡ lịch sử quan trọng và kỳ ngộ có một không hai trong nhân loại.
Trong cuộc gặp gỡ này, Elizabeth được đầy ơn Thánh Thần đã thốt lên một câu ca tụng Đức Mẹ Maria rất ý nghĩa và thích hợp tuyệt vời: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc 1,45). Đó còn là một nhận định rất chính xác về con người Đức Maria. Tuy Maria lúc ấy chỉ là một thiếu nữ độ 16 xuân xanh đơn sơ thơ ngây trước ngưỡng cửa của cuộc đời mới lớn. Maria không biết những gì sẽ xảy ra cho đời mình, trong đó có cả những sự việc mà Maria đã nghĩ là không thể xảy ra được như việc ở đồng trinh mà lại sinh con (Lc 1,34). Nhưng Maria có một niềm tin to lớn và trưởng thành: cứ tin vào Thiên Chúa toàn năng đầy thương yêu và quan phòng cho mình mà tuân theo ý Người (Lc 1,38). Khiêm nhường tin tưởng và phó thác cho Chúa đó là con người Maria. Chính vì thế mà Maria đã trở thành vĩ đại “hơn mọi phụ nữ” (Lc 1,42, 49). Maria đã được khỏi tội nguyên tổ, đã được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, đã được đồng trinh khi sinh con, đã được đồng công cứu chuộc và đã được hồn xác về trời. Thật đúng Maria có phúc vì “đã tin rằng lời Chúa phán cùng mình sẽ được thực hiện”.
Vì vậy Maria là gương mẫu tuyệt vời của mùa Vọng Giáng Sinh và nhất là của mùa Vọng trông chờ Chúa đến vào lúc chúng ta từ giã cõi đời tạm này.
Lạy Chúa, tuần này con quyết noi gương sống khiêm nhường tin tưởng và phó thác cho Chúa trong mọi sự như Đức Mẹ Maria. --------------------------------
"Bởi đâu tôi được mẹ Thiên-Chúa đến thăm tôi?" (Lc 1,39-45).
I. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ Isave, để nói lên MV 4-C137
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ Isave, để nói lên vai trò duy nhất của Đức Maria là thân mẫu Chúa Cứu Thế.
II. SUY NIỆM:
1. "Ngày ấy Maria trỗi dậy vội vã ra đi …":
"Ngày ấy" sứ thần Thiên-Chúa kết thúc buổi truyền tin cho Maria bằng cách loan báo thêm một dấu lạ, bà chọ Isave đã mang thai được sáu tháng lúc tuổi già, Maria đã tin như vậy và ngay sau ngày truyền tin ấy, Maria đã chỗi dậy đi thăm viếng… "Ngày ấy" chỉ về biến cố truyền tin cho Maria.
"Maria chỗi dậy…"
+ Việc đi thăm viếng này chắc không phải để xác nhận việc bà Isave có thai: vì Maria đã tin việc trinh thai của mình là việc lớn lao hơn nhiều nên không chút hồ nghi về việc chị họ có thai trong lúc tuổi già.
+ Việc thăm viếng này không phải vì mối liên lạc gia đình bà con dòng họ đế thăm viếng nhau. Vì thời đó trường hợp một thiếu nữ đi xa ba bốn ngày đường để thăm viếng như vậy thật là hiếm.
+ Nhưng việc viếng thăm là do một sự can thiệp đặc biệt của ơn trên, để cho người ta nhận thấy mối liên quan giữa hai sự việc xảy ra nơi bà Isave và trinh nữ Maria.
+ Đối với Maria, đây cũng là cơ hội đặc biệt để tỏ lòng biết ơn Thiên-Chúa vì hồng ân vô cùng lớn lao của Thiên-Chúa đã ban cho Người và cũng là cơ hội thực thi bác ái đối với bà con: giúp đỡ bà trong những tháng cuối cùng trước khi sinh. Vì thế Maria đã chỗi dậy, vội vã ra đi…
Vội vã ra đi tiến lên niềm núi…
"Vội vã ra đi" là dấu tỏ lòng tin vững chắc và lòng trông cậy ký thác hoàn toàn của Maria vào lời của sứ thần Thiên-Chúa, đây cũng là dấu của một tâm hồn quá chan hoà vui sướng đang có Chúa ở trong lòng.
"Miền núi": theo lời truyền tụng từ thế kỷ V, gia đình Giacaria ở trên núi trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem bảy cây số về phía Tây. Đường đi từ Nadarét đến Ain Karim phải ba bốn ngày đường.
2. "Bà vào nhà ông Giacaria chào bà Isave":
Người Do Thái có thói quen chào nhau bằng cách chúc bình an cho nhau.
3. "Và khi Isave nghe lời chào của Maria…":
Hai bà mẹ gặp nhau, nhưng thực sự hai thi nhi trong dạ của hai bà là Gioan và Giêsu gặp nhau. Liên lạc giữa đôi bên được nổi bật khi sự hiện diện của thai nhi Giêsu làm cho thai nhi gioan có phản ứng lạ lùng. Thai nhi trong dạ Isave nhảy mừng lên. Việc nhảy mừng này nói lên rằng: thời Đấng Cứu Thế đã đến, bây giờ chính là ngày của Chúa, ngày của hân hoan vui mừng (Lc 1,14;1,47 ; 2.10 và Tv 114,1-6).
4. "Và Isave được tràn đầy Thánh Thần..":
Chính thánh thần đã mạc khải cho Isave về hồng phúc của maria. Những nhân vật chính yếu trong Kinh Thánh đều được đầy Thánh Thần như: Giêsu, Gioan, Maria, Giacaria, Isave, Simon… các nhân vật ấy đều hành động dưới sự thúc đẩy và soi sáng của Thánh Thần. Ta có thể nói hoạt động chính là Thánh Thần. Người hướng dẫn mọi người mọi hoàn cảnh và làm cho các nhân vật nói lên ý nghĩa của Người muốn diễn tả đó là dấu chỉ thời Đấng Cứu Thế đến (Xem Cv 2,17).
5. "Bà được chúc phúc giữa những người phụ nữ…":
Được tràn đầy Thánh Thần nên Isave đã hiểu biết điều Thiên-Chúa muốn thực hiện nơi Maria: Đức Maria có phúc hơn mọi người nữ vì Thiên-Chúa thực hiện việc cứu chuộc dân người trong Đức Maria. Lời chúc phúc này là âm hưởng của lời chúc phúc cho bà Gioel(Thp 5,24) và bà Giuđich (Gđ 13,17-18) hai bà này đã giết được tướng giặc để đem lại chiến thắng cho dân Israel. Ơ đây Luca muốn ám chỉ việc maria đã chiến thắng bằng cách đạp dập đầu kẻ thù thật sự của dân Thiên-Chúa là satan để đem ơn cứu độ cho nhân loại như lời Thiên-Chúa đã ám chỉ lúc lên án ma quỷ: "Người sẽ đạp dập đầu mày" (St 3,15).
"Và con lòng bà được chúc phúc …":
Chức vụ lạ lùng của người con đang ở trong cung lòng Maria thật đáng chúc khen ca ngợi.
6. "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên-Chúa tới thăm…":
Đây không phải là lời bộc phát từ một tình cảm bồng bột, nhưng là một lời hân hoan đầy trịnh trọng vì do thánh thần soi sáng, isave nhìn nhận nơi thai nhi Giêsu mà Cha Người đã ban cho Người mọi quyền hành của Đấng Thiên Sai, vì vậy bà nhận biết Đức Maria là mẹ Thiên-Chúa.
Đồng thời lời này cũng là ân hưởng của tiếng kêu đầy ngạc nhiên của đavit trước hòm bia Thiên-Chúa (Ism 6,9). Vì thế Luca muốn gợi lên mối tương quan giữa Maria với hòm bia: Maria mang thai Chúa Giê-su trong cung lòng như là một hòm bia chứa đựng Thiên-Chúa.
1.1. "Vì này tai tôi vừa nghe lời bà chào..":
Việc nhảy mừng của Gioan trong cung lòng Mẹ là dấu chỉ cho bà Isave nhận ra sự cao cả của thai nhi Giêsu và của Đức Maria.
1. 2. "Phúc ho bà là kẻ đã tin…":
Isave kết lời ca ngợi bằng cách nêu lên lý do khiến Maria được chúc phúc: Maria là kẻ đã tin: tin vào lời Thiên-Chúa hứa sẽ được thực hiện. Đức Maria đã tin vào lời loan báo rằng dù là trinh nữ, nhưng bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, Người sẽ trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế.(Lc 11,27-28).
Lời chúc phúc này cũng theo kiểu của tám mối phúc thật mà Chúa Giê-su sẽ nêu lên trước công chúng (Mt 5,1-12). Vì thế từ đây hạnh phúc thuộc về những kẽ nào như Maria, tin vào lời Thiên-Chúa hứa sẽ thực hiện.
III. ÁP DỤNG THỰC HÀNH:
A/ Áp dụng theo Tin-Mừng:
Phụng vụ đặt bài Tin-Mừng về cuộc thăm viếng của Đức Maria vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng, để nhắc nhở chúng ta về vai trò duy nhất của Đức Maria là Mẹ Thiên-Chúa và đồng thời để gợi lại cho chúng ta, trong khi mừng lễ Chúa Giáng Sinh hãy tin tưởng và trông cậy vào mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc của Chúa Giê-su Kitô.
B/ Áp dụng thực hành:
a. Nhìn vào Đức Maria:
1. Maria vội vã tiến lên miền núi: được ơn Chúa thúc đẩy, maria đã vâng theo dù vất vả gian lao. Được ơn Chúa thúc đẩy trong tâm hồn hoặc bên ngoài do tha nhân và ngoại cảnh, chúng ta cần có lòng can đảm quên mình, chấp nhận vất vả gian lao và hy sinh mới có thể thực hiện ý Chúa.
2. Maria vội vã đến thăm Isave: đó cũng là bổn phận đặc biệt của người Kitô hữu. Trong cuộc sống hằng ngày đòi hỏi chúng ta phải tích cực gieo rắc sự vui mừng và bình an cho mọi người xung quanh nhất là trong những hoàn cảnh có nhiều u buồn và xáo trộn.
3. Maria đã đến thăm và ở lại phục vụ bà isave chùng ba tháng chứng tỏ Đức Mẹ là Mẹ thật của Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến không phải là để phục vụ, nhưng để phục vụ chúng ta càng thuộc về Chúa Kitô càng phải nên giống Người: không phải để được phục vụ mà để phục vụ, phục vụ bất cứ ai, trong bất cứ công việc gì, miễn sao cho người được phục vụ có hạnh phúc đích thật.
4. Đức Maria là nguồn vui của isave và của gioan: người Tông Đồ sống ở đâu là đem bình an ở đó và ở với ai là đem lại niềm vui, sự phấn khởi và hạnh phúc cho người đó.
5. Đức Mẹ có phúc vì đã tin vào lời Chúa hứa sẽ thực hiện. Chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc và bình an đích thực khi chúng ta biết đặt niềm tin phó thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên-Chúa trong mọi việc, nhất là những việc ta đang lo âu, bối rối, bất lực…
b. Nhìn vào bà Isave:
1. Isave dâng lời ngợi khen chúc mừng Đức Maria chúng ta noi gương chúc mừng Đức Maria bằng cách năng lần hạt mân côi kính mừng Maria…
2. Thai nhi nhảy mừng trong lòng là dấu chỉ cho Isave nhậnbiết hồng phúc của Maria và của Chúa Giê-su chúng ta biết nhận ra những dấu chỉ trong bản thân mình trong cuộc sống mình để nhận ra hồng ân của Thiên-Chúa mà ca ngợi chúc tụng và cảm tạ Thiên-Chúa.
3. Isave cảm tạ chúc mừng Đức Mẹ: chúng ta đừng tiếc lời chúc mừng, khen tặng và nghĩ tốt cho người khác.
Trong cuộc sống đời thường cũng như đời sống đạo, có nhiều cơ hội mà chúng ta không nắm bắt MV 4-C138
Trong cuộc sống đời thường cũng như đời sống đạo, có nhiều cơ hội mà chúng ta không nắm bắt được, vì không biết đó là cơ hội của mình. Có nhiều người đi qua cuộc đời chúng ta mà chúng ta không nhận ra và không gặp được họ vì chúng ta không biết họ là ai và họ đến với chúng ta để làm gì?
Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa đã đến trần gian mà nhiều người không nhận ra Người. Có một số người còn tìm mọi cách loại trừ Người, nhưng phần đông là họ không biết Người là ai và Người đến thế gian để làm gì?
Các Bài Sách Thánh hôm nay giúp chúng ta biết Người là Ai và Người đến trần gian để làm gì. Vậy chúng ta hãy đọc và tìm hiểu kỹ 3 bài Thánh Kinh ấy để không để mất cơ hội gặp Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1 (Mk 5,1-4): “Nơi ngươi, sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel”
Đây lời Chúa phán: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".
2.2 Bài đọc 2 (Dt 10,5-10): “Này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa.”
Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: 'Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách'".
Sách ấy bắt đầu như thế này: "Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật. Đoạn Người nói tiếp: Lạy Chúa, này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
2.3 Bài Tin Mừng (Lc 1,39-45): “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave. Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Mk 5,1-4) là những lời loan báo của ngôn sứ Mikha (rao giảng vào khoảng năm 721 trước Công Nguyên) về sứ mạng trọng đại của Bêlem và của nhân vật sẽ xuất thân từ xứ sở nhỏ bé và vô danh này.
Trong đoạn Sách Mikha 5,1-4 trên, chúng ta khám phá ra dung mạo, uy quyền (có từ thời trước, từ thuở xa xưa; quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất; Người sẽ chiến thắng vua ngoại và sẽ đem lại hòa bình cho dân Chúa) và sứ mạng (thống lãnh và chăn dắt Israel) của Vị Thiên Sai là Chúa Giêsu Kitô.
3.1.2 Bài đọc 2 (Dt 10,5-10) là những lời khẳng định của Thánh Phaolô Tông đồ về lý do thâm sâu tại sao Chúa Giêsu đến trong trần gian. Lý do đó là Người đến để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha và dâng hiến mình làm của lễ đẹp lòng Chúa Cha, thay thế các lễ tế và lễ vật của Cựu Ước.
Qua đoạn thư Do-thái 10,5-10 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng vô hình, siêu việt, chẳng ưa thích gì những lễ tế vật chất như máu thịt chiên bò xúc vật. Lễ dâng đẹp lòng Người là tấm lòng của con người, là việc thực hiện thánh ý của Người là cứu độ muôn dân, muôn họ.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 1,39-45) là tường thuật về cuộc viếng thăm người chị họ (là bà Isave của Đức Maria. Nói bằng ngôn ngữ bình dân Việt Nam thì là đây đúng là cảnh “bà bầu đi thăm bà bầu.” Bà bầu Maria đang mang trong lòng cả một BÍ MẬT của Trời Đất (là Giêsu Cứu Chúa) đến thăm bà bầu Isave đang mang trong lòng một ngôn sứ vĩ đại của lịch sử Cứu Độ (là Gioan Tiền Hô). Hai bà bầu gặp nhau cũng là hai con trẻ gặp nhau. Thật diệu kỳ! Bà Isave vừa ca ngợi người em họ Maria của mình, vừa chúc tụng Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của muôn dân.
Qua đoạn Phúc Âm Lu-ca 1,39-45 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng và Mạc Khải tuyệt diệu. Chúa quan phòng để hai người mẹ và hai người con gặp nhau chẳng bao lâu trước ngày Gioan và Giê-su chào đời. Chúa tự mạc khải qua cảm nghiệm tâm linh và lời công bố đầy Thần Khí và bất ngờ của Bà Isave.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có 2 phần:
* Một là Chúa Giêsu là Đấng
* sinh ra ở Bêlem (là một địa danh khiêm tốn và vô danh),
* sinh ra bởi Đức Maria, một thiếu nữ đơn sơ, giản dị, nhưng thánh thiện tuyệt vời (vô nhiễm nguyên tội) của Israel và của cả nhân loại,
* được Gioan Tiền Hô, con ông bà Giacaria và Isave, dọn dường bằng lời rao giảng và bằng phép rửa kêu gọi sám hối.
* Hai là Chúa Giêsu đến để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha là cứu chuộc, hướng dẫn và chăn dắt (hay chăm lo) hết mọi người, mọi dân. Chúa Giêsu có sứ mạng hòa giải con người với Thiên Chúa bằng của lễ toàn thiêu mà Ngài dâng lên Thiên Chúa là chính mình Ngài trên thập giá. Một khi con người được hòa giải với Thiên Chúa rồi thì con người sẽ được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Vì thế Chúa Giêsu là Vua Hòa Bình!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng thực hiện kế hoạch cứu độ nhân loại nơi Ngôi Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu con Đức Maria. Sống với Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã xuống thế làm người để thực thi Ý Cha. Sống với Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành và cộng tác với Chúa Giêsu Kitô trong Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến trần gian để thực hiện Thánh Ý của Cha. Người là Chúa Cứu Thế, là Vua Hòa Bình, là Lãnh Đạo của toàn Dân Chúa.
Chúng ta cần nhận ra Người ở những nơi Người hiện diện:
* Trước hết là trong Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa, là lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu Kitô” (Thánh Giêrônimô, linh mục tiến sĩ Hội Thánh).
* Và trong Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu, là Lễ Dâng đẹp lòng Thiên Chúa hơn mọi lễ dâng khác của Cựu Ước và của loài người.
* Kế tiếp là trong Cộng Đoàn, là Gia Đình của Chúa: “Hễ ở đâu có hai, ba người tụ họp vì Danh Thày thì Thày có mặt ở đó.”
* Và trong những con người chúng ta gặp hằng ngày, nhất là những người bé mọn, nghèo hèn vì mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là anh chị em của Chúa Ki-tô: “Ai làm việc ấy (hay không làm việc ấy) cho một trong những người bé mọn đây là làm (hay không làm) cho chính Ta” (xem Mt 25).
* Sau cùng là trong các biến cố cuộc đời, vì mỗi sự việc xẩy ra đều do Chúa cho phép và đều mang theo một lời nhắn, một sứ điệp cho chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN CHO LOÀI NGƯỜI VÀ HỘI THÁNH
[Cách cấu nguyện với Lời Chúa]
5.1 Lạy Thiên Chúa là Đấng đã dùng sấm ngôn của Mikha mà phán rằng: «Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel», chúng con tha thiết cầu xin Chúa ban cho dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng con, ơn nhận ra Chúa Giêsu Kitô là Đấng Thiên Chúa đã ban cho nhân loại để Người đưa nhân loại về với Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của muôn loài muôn vật.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su và là Cha của chúng con, Thánh Phaolô Tông đồ đã viết trong thư gửi giáo đoàn Do-thái rằng: Chúa Giêsu đã thưa với Cha: «Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài», chúng con tha thiết cầu xin Cha ban ơn cho mọi thành phần Dân Chúa ở Việt Nam, nhất là cho các giám mục, linh mục, tu sĩ và tông đồ giáo dân, để ai nấy biết lấy việc thực thi Thánh Ý Thiên Chúa làm Lẽ Sống cuộc đời mình.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, trong Phúc Âm thánh Luca ghi lại rằng: «Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa» chúng con tha thiết cầu xin Chúa ban cho mọi giáo dân trong giáo xứ chúng con có được một tấm lòng yêu thương quý mến nhau mà ân cần thăm viếng và chia sẻ với nhau như Mẹ Maria.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, trong Phúc Âm thánh Luca còn ghi lại rằng: «Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện» chúng con tha thiết cầu xin Chúa ban cho tất cả các phụ nữ Việt Nam một tấm lòng yêu thương quý mến con cái của mình mà bảo vệ và chăm sóc chúng.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigon ngày 15 tháng 12 năm 2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Hài Nhi chúng ta trông đợi và ráo riết chuẩn bị con đường tâm hồn để xứng đáng đón Ngài MV 4-C139
TMĐP- chính là Mục Tử nhân lành, Đấng Chúa Cha sai đến để chăn dắt.
Những ngày sắp sinh con, người mẹ nào cũng tự hỏi: Con mình sẽ ra sao? Con mình sẽ thế nào? Đó là câu hỏi của cha mẹ trước khi con chào đời. Còn chúng ta, những người đang sống Mùa Vọng trông đợi “Đấng phải đến thế gian”, câu hỏi được đặt ra sẽ là: Hài Nhi sắp sinh ra cho chúng ta là ai?
Thực vậy, câu hỏi này không mới mẻ, vì dân Do Thái suốt Mùa Vọng trông đợi Đấng Thiên Sai rất lâu dài của lịch sử, họ cũng có cùng câu hỏi này.
Và họ đã được các ngôn sứ, đặc biêt ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êdêkien, và Mikha trả lời: Đấng sắp đến xuất thân từ Bêlem. Ngài là Mục Tử chăn dắt Ítraen, như sấm ngôn của ngôn sứ Mikha: “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen… Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp…” (Mk 5,1.3).
Và hình ảnh Mục Tử được các ngôn sứ loan báo trong Cựu Ước đã được thực hiện nơi Đức Giêsu, như Tin Mừng Gioan đã ghi lại với lời xác quyết của chính Ngài: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11) được thánh Phaolô qủang diễn trong thư gửi giáo đoàn Do Thái.
Trong thư mục vụ này, thánh nhân cho chúng ta thấy: Đức Giêsu không là mục tử đến để thống trị, đến để được đoàn chiên phục dịch, để gây phiền toái, khổ sở, bất hạnh cho đoàn chiên “thấp cổ bé miệng”, nhưng đến như người tôi tớ tự hạ thẳm sâu và tuyệt đối vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài đến để yêu thương, phục vụ đoàn chiên như Mục Tử nhân lành, Mục Tử như lòng Chúa mong ước.
Mục Tử như lòng Chúa mong ước ấy đã không làm gì khác ngoài thực thi Ý Muốn của Chúa Cha, và suốt đời hằng tâm niệm: “Này con đây, con đến để thực thi ý Cha” (Dt 10,9).
Cũng thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philípphê đã diễn tả sự vâng phục Thánh Ý Chúa Cha của Đức Giêsu Mục Tử: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Chính vì tự hạ làm người bé nhỏ giữa những anh em nhỏ bé, hèn mọn, mà Mục Tử như lòng Chúa mong uớc mới mang lấy mùi chiên, nghĩa là mới gần đoàn chiên để chăn dắt và mang lại cho từng con chiên niềm vui được yêu thương, âu yếm, cưng chiều, và hạnh phúc được chở che, chữa lành, cứu sống.
Cảnh tượng Đức Maria đi thăm người chị họ Êlisabét sắp đến ngày sinh, ở đó, “vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,41-42) đã nói lên sứ vụ Mục Tử nhân lành của Đức Giêsu là đến với đoàn chiên, đi tìm con chiên để ban niềm vui của Thánh Thần.
Thực vậy, ngay sau khi nhập thể trong lòng Đức Maria, Đức Giêsu đã thực thi sứ vụ Mục Tử nhân lành của mình, bằng theo mẹ đến với gia đình ông bà Dacaria, Êlisabét đang mong đợi Gioan chào đời, để đem hạnh phúc cho gia đình, như Mục Tử nhân lành mang đến cho đoàn chiên niềm vui được yêu thương, chăm sóc, niềm vui được ăn uống no nê, niềm vui được bảo đảm an toàn, niềm vui “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Như thế, Hài Nhi chúng ta trông đợi và ráo riết chuẩn bị con đường tâm hồn để xứng đáng đón Ngài chính là Mục Tử nhân lành, Đấng Chúa Cha sai đến để chăn dắt.
Mục Tử nhân lành sẽ lấy chính thân mình bảo vệ đoàn chiên, không để con chiên nào trở thành mồi ngon cho thú dữ, hay lọt vào cạm bẫy của trộm cướp, rơi vào tham vọng đê hèn của bọn chăn thuê; Mục Tử nhân lành sẽ lấy chính máu mình rửa sạch “vết thương nặng mùi” của chiên và làm cho chiên nên tươi tắn, trong sạch; Mục Tử nhân lành sẽ dẫn đoàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, dòng nước mát để chiên được nghỉ ngơi, bồi dưỡng, và dù có phải đi qua thung lũng âm u, ở vào hoàn cảnh ngặt nghèo, bế tắc, chiên cũng chẳng sợ hãi gì, vì có lòng nhân hậu và tình thương của Mục Tử nhân lành ấp ủ suốt cả cuộc đời (x. Tv 22).
Quả thực, hơn lúc nào hết, Mùa Vọng là thời điểm chúng ta cần đặt cho mình câu hỏi: Hài Nhi sắp sinh ra là ai? Đức Giêsu là ai?
Bởi chỉ khi nào xác tín câu trả lời: “Đức Giêsu là Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào” mà từ bao đời những người đi theo Ngài đã khẳng định và chọn làm lẽ sống , chúng ta mới cảm nhận được Niềm Vui, và Hạnh Phúc thuộc về đoàn chiên của Ngài.
"Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?"
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Cao điểm và cũng là trọng điểm của Mùa Vọng là loài người nhận ra Đấng được Đức Maria cưu MV 4-C140
Cao điểm và cũng là trọng điểm của Mùa Vọng là loài người nhận ra Đấng được Đức Maria cưu mang trong lòng và sẽ hạ sinh tai Bêlem là Con Thiên Chúa. Đấng ấy chính là Chúa Giêsu Kitô. Đó cũng chính là ý nghĩa của Thánh Lễ Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm C hôm nay. Chúng ta hãy dành thời gian tìm hiểu và suy niệm về chủ đế quan trọng này.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 1,39-45: Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave. Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 3,10-18:
3.1 Câu chuyện cảm động giũa hai bà mẹ và hai người con: Bà mẹ và người con chủ nhà là bà Isave và con trẻ Gioan Baotixita. Bà mẹ và người con khách mời là Đức Maria và bào thai Giêsu. Bà mẹ Maria bước vào nhà và cất tiềng chào người chị họ thì bà ấy nhận được mạc khải của Thánh Thần lên tiếng ca ngợi Con Thiên Chúa (là Chúa Giêsu) và me Người (Maria). Bào thai Giêsu đã tác động trên bào thai Gioan và bà mẹ Isave. Giống như chuyện thần thoại hay chuyện cổ tích hay chuyện dân gian. Nhưng quả là chuyện nhiệm mầu của ơn cứu độ Kitô giáo!
3.2 Cao và trọng điểm của sự kiện hay câu chuyện là việc Chúa Giêsu được nhận ra là Con Thiên Chúa: Bà mẹ Isave đã nhận ra con trẻ trong lòng người em họ là Con Đấng Tối Cao, là Đấng Thánh, là Đấng Mêsia. Tác giả Luca muốn tất cả những ai đọc câu chuyện này cũng nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, là Cứu Chúa của loài người, của mỗi người.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 3,10-18:
4.1 Chúng ta hãy đọc đi đọc lại và suy niệm sâu câu chuyện kỳ lạ này để thấy Thiên Chúa thật gần với chúng ta, và thấy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Từ cảm nhận ấy chúng ta hãy thể hiện lòng yêu mến và cảm phục của mình đối với Thiên Chúa và các vị thánh của Người.
4.2 Chúng ta hãy rao truyền công trình và kế hoạch cứu độ kỳ diệu của Thiên Chúa: Nếu chúng ta yêu mến và cảm phục kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa thì chúng ta không thể không rao truyền kế họach ấy, để nhiều người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia là Con Thiên Chúa, là Đấng đã thành thai trong lòng Đức Maria và sinh ra trong hang bò lừa Bêlem để cứu chuộc nhân loại. Mừng Lễ Giáng Sinh cách trọn nghĩa không phải là dựng hang đá Bêlem trong hay trước cửa nhà thờ, không phải là giăng đèn sao dọc theo các dẫy phố mà là nhìn nhận Chúa Giêsu Hài Nhi là Cứu Chúa của mình và giúp người khác nhận ra Sự Thật vĩ đại ấy.
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 3,10-18:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã đến trần gian để ở với chúng con và đưa chúng con về với Cha. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả mọi người quan tâm đến những người xung quanh mà gặp gỡ thăm viếng và giúp đỡ trong khả năng của mình như Đức Maria đã đến thăm và giúp đỡ người chị họ là bà Isave.
Xướng: Chúng ta cùn g cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy luôn noi gương bắt chước Đức Maria mà bước vào nhà của những ngưởi cần đến sự thăm viếng của các vị ấy
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc!» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu được Thánh Thần tác động mà nhận ra Chúa Cứu Thế, Con Mẹ Maria.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người thành tâm thiện chí nhận được những dấu chỉ của Thiên Chúa mà tin vào kế hoạch cứu độ kỳ diệu của Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại chúng con.
Chúng con xin Cha ban Thánh Thần cho chúng con để Người soi sáng cho chúng con nhận ra Hai Nhi Giêsu là Con của Cha và là Cứu Chúa của chúng con. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Đối với người phụ nữ, được làm mẹ là một hạnh phúc tuyệt vời. Những người phụ nữ không may MV 4-C141
Đối với người phụ nữ, được làm mẹ là một hạnh phúc tuyệt vời. Những người phụ nữ không may son sẻ, phải mang nỗi niềm đau khổ suốt đời. Phụng vụ Chúa nhật 4 Mùa Vọng nói với chúng ta niềm vui của hai người mẹ, đó là Đức Trinh nữ Maria và bà Elisabet. Cả hai bà mẹ đều đang mang thai. Cuộc gặp gỡ của hai người mẹ, cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con. Niềm vui của hai bà mẹ, cũng là niềm vui của hai hài nhi. Bởi thế mà bà Elisabet cảm nhận rõ hài nhi nhảy mừng trong lòng mình. Cuộc gặp gỡ này để lại ấn tượng sâu đậm nơi Đức Trinh nữ, và đoạn Tin Mừng này chắc chắn là do Trinh nữ thuật lại với tác giả Luca. Trước đó vài ngày, sứ thần Gabrien đã cho Đức Trinh nữ biết, bà Elisabet là chị họ của Trinh nữ đã mang thai được sáu tháng dù ở tuổi cao niên. Sau cuộc gặp gỡ, Trinh nữ Maria đã vội vã lên đường để thăm người chị, và cũng để kể cho chị nghe những điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp thực hiện cho dân tộc mình.
Hai người mẹ cảm nhận được những kinh nghiệm rất đặc biệt. Cả hai người đều khám phá qua hài nhi còn trong lòng dạ mình ánh sáng sâu thẳm đến từ Thiên Chúa. Trinh nữ Maria cảm nhận sâu sắc rằng hài nhi trong lòng là ánh sáng của quyền năng trên cao, lan toả và tác động nơi những người đến gần mình. Sự nhảy mừng của Gioan Tiền hô đã chứng minh điều đó. “Khi bà Elisabet nghe lời chào của Maria, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng bà. Bà Elisabet được ơn Chúa Thánh Thần và thốt lên: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm?”. Đó là tiếng kêu ngạc nhiên vui mừng. Đó cũng là lời ca tụng tán dương quyền năng cao cả của Thiên Chúa.
Trinh nữ Maria và bà Elisabet, hai người phụ nữ đều cùng sống niềm hy vọng của dân tộc mình. Như những người tín hữu đạo hạnh, họ ngày đêm mong đợi Đấng Cứu thế đến để giải thoát dân tộc khỏi đau khổ lầm than. Trinh nữ Maria và bà Elisabet, hai người phụ nữ đều đang chuẩn bị sinh con và đang nóng lòng chờ đón con mình chào đời. Chúng ta, những tín hữu cũng đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm ngày Ngôi Hai ra đời. Hai người phụ nữ là gương mẫu cho chúng ta trong tâm thế chờ đợi Chúa. Việc đón Chúa đến trong đời không còn chỉ là dựa vào những lời sấm xa xưa, nhưng phải được thực hiện với tâm tình yêu mến và với trái tim rộng mở. Chúa Giêsu không đến với hình hài bé thơ như cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng Người đang đến với chúng ta qua anh chị em, qua những biến cố vui buồn của cuộc sống và nhất là qua các cử hành Phụng vụ.
Ngôi Lời giáng trần là một sự kiện lịch sử. Chúa Giêsu xuống thế làm người có một quê hương và một gia đình. Nơi Người sinh hạ là thành phố bé nhỏ có tên là Belem, thuộc xứ Ephata như lời Ngôn sứ Mika đã tuyên sấm (Bài đọc I). Gia đình của Chúa là Thánh Giuse, người cha nuôi, và Đức Trinh nữ Maria, người mẹ hiền. Sự sinh hạ và cuộc sống của Chúa gắn liền với những địa danh và những nhân vật của thời đại Người. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật của huyền thoại, nhưng là nhân vật lịch sử. Sự sinh hạ của Người là một mốc son trong lịch sử loài người. Tác giả thư Do Thái đã chiêm ngắm và suy tư Đức Giêsu ở khía cạnh tư tế. Người là Thượng tế vĩnh viễn, đã dâng trọn vẹn con người của mình làm của lễ hy sinh dâng lên Chúa Cha. Hiệu quả của hy lễ ấy là ơn thánh hoá mà nhân loại mọi nơi mọi thời đều được hưởng. Hôm nay, Người vẫn tiếp tục dâng hy lễ lên Chúa Cha. Nói rõ hơn, mỗi khi thừa tác viên của Giáo Hội cử hành Bí tích Thánh Thể, thì làm cho hy lễ thập giá năm xưa trở thành hiện tại, nên suối nguồn ân phúc cho những ai tham dự. Như thế, cung kính đón nhận Thánh Thể cũng là một điều kiện quan trọng để mừng lễ Giáng Sinh.
Đấng Cứu độ đã hoá thân làm người, và đang ở giữa chúng ta. Người là Đấng Emmanuel. Mừng lễ Giáng sinh, chúng ta hãy ý thức về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong tâm hồn và trong cuộc sống, nhờ đó, chúng ta luôn có trái tim mở rộng, chân thành đón tiếp Người. Như Mẹ Maria, chúng ta có bổn phận phải đem Chúa đến với mọi người, để niềm vui lan toả mọi nẻo đường của cuộc sống và ơn cứu độ đến với trần gian. mục lục
Lễ Giáng Sinh, lễ của tình yêu, niềm vui và chia sẻ, lễ kỷ niệm Thiên Chúa viếng thăm dân Người.
Lời của ngôn sứ Mikha lôi kéo chúng ta hướng nhìn về Belem và chung niềm vui với họ. Bởi MV 4-C142
Lời của ngôn sứ Mikha lôi kéo chúng ta hướng nhìn về Belem và chung niềm vui với họ. Bởi Belem, châu thành bé nhỏ của nước Giuđa, một biến cố vĩ đại xảy ra không chỉ làm cho Israel nhảy mừng, mà cả thế giới mừng vui: “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời” (Mk 5,1). Không mừng vui sao được, vì nói đến Belem, là người ta nghĩ ngay đến một thành nhỏ cách Giêrusalem chừng 30 dặm về phía Nam. Ðavít đại vương, tổ tiên của Đấng Mêsia đã sinh ra tại đây từ ngàn năm trước Chúa Kitô giáng sinh, chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương, tha thứ và đem niềm vui cho Israel.
Niềm vui, tình yêu và sự sẻ chia ấy được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa giáng sinh làm người tại Belem. Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng, Chúa Giêsu đã sinh ra tại Belem bởi vì ông Giuse, chồng của bà Maria, “thuộc dòng dõi Ðavít” phải trở về nơi ấy để kiểm tra dân số, và chính vào lúc đó Maria đã hạ sinh Hài Nhi Giêsu (x. Lc 2,1-7).
Cứ sự thường, để chọn nơi chốn cho con mình sinh ra, người cha sẽ chọn Giêrusalem, một kinh thành có đầy đủ tiện nghi và nổi tiếng. Thiên Chúa thì khác, Ngài đã chọn Giuđa một thị tộc nhỏ bé nhất Ephratha, giống như chọn Đavid là đứa con nhỏ nhất trong gia đình của Giêse, để làm vua thay Saul.
Cách trích dẫn có tính lịch sử của Malaki giúp ta hình dung ra ngày Chúa đến gặp dân Ngài. Khi phải sống lưu đày xa Thiên Chúa, con người cảm thấy đau khổ. Nay “tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt” (Dc 2,11). Thiên Chúa chuẩn bị viếng thăm và ra tay cứu thoát.
Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ nơi gia đình Dacaria cho thấy, Thiên Chúa đã đến gần. Tin Mừng ghi lại: “Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabeth” (Lc 1,39-40), cuộc viếng thăm tưởng như là cuộc thăm viếng giữa người với người; nhưng thực tế, đây là cuộc thăm viếng lịch sử, Thiên Chúa viếng thăm dân Ngài. Thiên Chúa đã chuẩn bị biến cố này từ lúc con người sa ngã trong vườn Địa Đàng. Từ đó, con người khao khát Thiên Chúa viếng thăm; vì nhờ Chúa viếng thăm, con người được Thiên Chúa đổi vận mạng: từ chỗ bị lưu đày đến chỗ được vào Đất Hứa, từ chỗ phải xa cách Thiên Chúa đến chỗ được đoàn tụ với Ngài muôn đời, từ chỗ phải chết đến chỗ sống muôn đời.
Bà Elisabeth đại diện cho Dân Chúa đón nhận niềm vui Chúa ban: Thứ nhất, Bà đang chịu cảnh góa bụa đau khổ và mang tiếng là không con; nhưng Thiên Chúa đã thay đổi cuộc đời Bà, cho Bà được cưu mang và sinh hạ Gioan Tẩy Giả trong lúc ông đã già, bà đã lão. Thứ hai, Bà được Mẹ Thiên Chúa tới viếng thăm, vì Người Con Mẹ Maria sắp sửa sinh ra sẽ mang lại ơn cứu độ cho Bà và cho muôn người.
Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, bà Elisabeth nhận ra Người Con Đức Maria đang cưu mang là Đấng Cứu Thế, bà kêu lên: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực” (Lc 1, 42-45) Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả tượng trưng cho gia đình nhân loại trong Cựu Ước, vui mừng khi được Đấng Thiên Sai đến viếng thăm. Bà Elisabeth biết rõ lý do tại sao Đức Mẹ thật có phúc: “vì đã tin rằng Chúa phán cũng Bà sẽ được thực hiện” (Lc 1,45). Ông Dacaria, chồng bà Elisabeth, người đã nghi ngờ, không tin nơi lời hứa của Thiên Thần và vì thế ông bị câm cho đến khi Gioan sinh ra.
Đức Maria có phúc vì đã tin, ông Dacaria không tin nên đã bị câm điếc. Ðức tin được nuôi dưỡng trong đức ái. Đức Maria chỗi dậy và vội vã lên đường đến gặp bà Elisabeth. “Chỗi dậy” là một cử chỉ đầy ân cần. Lẽ ra Ðức Maria có thể ở lại nhà để chuẩn bị sinh con, nhưng trái lại Mẹ chăm lo cho những người khác trước khi lo cho bản thân. Qua những cử chỉ đó Đức Maria chứng tỏ mình đã là môn đệ của Đấng mà Mẹ mang trong lòng. Biến cố Chúa Giêsu sinh ra bắt đầu như thế, với một cử chỉ bác ái đơn sơ là viếng thăm, chia sẻ niềm vui, mang lại hy vọng cho gia đình Dacaria và Elisabeth.
Lễ Giáng Sinh đã gần kề, cuộc viếng thăm của Đức Maria nơi bà Elisabeth giúp chúng ta chuẩn bị sống tốt đẹp lễ Giáng Sinh, thông truyền cho chúng ta năng động của đức tin và đức ái nhờ tác động của Chúa Thánh Thần như ta thấy trong cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ, tất cả là một bài ca vui mừng hân hoan trong Chúa, Ðấng thực hiện những điều cao cả nơi những người bé nhỏ tín thác nơi Ngài.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp cho chúng con hướng về Chúa Giêsu Hài Nhi đang dang tay ra cần sự trợ giúp, ám chỉ tha nhân cần đến chúng con. Như thế chúng con mới có thể dành chỗ cho Ðấng là Tình Thương, ngày hôm nay muốn nhập thể và đến ở giữa chúng ta. mục lục
Ngày nay không còn như ngày xưa, vì tin tức cập nhật hằng ngày – thậm chí từng phút. Dù là MV 4-C143
Ngày nay không còn như ngày xưa, vì tin tức cập nhật hằng ngày – thậm chí từng phút. Dù là đưa tin bằng thư từ cũng không trở ngại, bởi vì việc đi lại cũng dễ dàng hơn rất nhiều.
Có quá nhiều thông tin hằng ngày nên rất cần khôn ngoan để phân định kẻo bị “mê hoặc” vì tin giả, tin rác. Việt ngữ gọi là tin tức thật chí lý, vì có những tin đọc xong rồi thấy tức anh ách, nếu tin cái tin đó thì càng tức hơn nữa. Nguyên nhân là do thiếu lý trí, bởi nhẹ dạ cả tin.
Hằng ngày, có những tin bình thường – thậm chí vớ vẩn mà người ta lại chú ý thái quá, còn những tin cần thiết (về phương diện nào đó) thì người ta lại coi thường. Chọn tin tức cũng là một nghệ thuật, và cũng cần có trình độ nhất định, bởi vì nó có thể giúp người ta hiểu biết và khôn ngoan hơn hoặc ngược lại. Tùy cách chọn tin tức mà người ta có thêm kiến thức cần thiết.
Đáng quan ngại vẫn là tin đồn. Có những tin người ta tạo ra, gọi là tin giả, với độ “giật gân” khiến người ta như bị điện giật, hoang mang, lo sợ,... Nhưng có những tin đồn có tính thời sự và giật gân thực sự, đặc biệt là các tin liên quan tâm linh – như trường hợp truyền tin cho Đức Mẹ, tin báo bà lão Êlidabét có thai, tin báo mộng cho Đức Giuse, tin báo cho các mục đồng, cho các đạo sĩ,... Đối với các loại đặc tín này, ai BIẾT và DÁM TIN thì thực sự là người can đảm, không ảo tưởng. Đó là một dạng hạnh phúc mà người đời khó hiểu hoặc không thể hiểu nổi. Thế nên Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng tin vào bất cứ phàm nhân nào mà chỉ tin vào Ngài mà thôi.
Đức tin rất quan trọng, trừu tượng mà cụ thể, bởi vì đức tin cần phải có hành động rõ ràng. (x. Gc 2:14-26) Thánh Don Bosco cho biết rằng “chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự.” Thánh TS Teresa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra.” Còn Thánh TS Thomas Aquino lý luận: “Công hiệu của năng lực cầu nguyện đến từ đức ái, nhưng năng lực để cầu nguyện cho được hiệu quả là do đức tin và đức cậy.”
Từ ngàn xưa, ngôn sứ Mikha đã tin tưởng mà công bố lời Chúa: “Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa. Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Israel cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Israel.” (Mk 5:1-2)
Ở đâu cũng có ngọc quý và rác rưởi. Nhân tài có thể xuất thân từ một nơi bình thường, không nhất thiết xuất thân từ danh gia vọng tộc, giàu sang phú quý, con ông cháu cha, hoặc nơi này hay nơi nọ. Không, thậm chí còn ngược lại. Xưa nay đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Tài năng có thể lóe lên bất cứ lúc nào hoặc bất cứ nơi nào. Hiển nhiên nhất là từ Bêlem bé nhỏ, nghèo hèn, vậy mà lại là nơi xuất hiện Đấng Cứu Thế – Con Thiên Chúa.
Ngôn sứ Mikha cho biết về Đấng đó: “Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất.” (Mk 5:3-5) Vô cùng kỳ diệu, quá đỗi lạ lùng!
Tôn Danh Ngài vượt trên mọi danh hiệu, đến nỗi khi nghe đến Danh Ngài thì mọi loài đều nể phục, ngay cả ma quỷ cũng phải khiếp run. Những người tin vào Ngài đều thành tâm khấn nguyện: “Lạy Mục Tử nhà Israel, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá, xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Épraim, Bengiamin và Mơnase được thấy. Xin khơi dậy uy dũng của Ngài, đến cùng chúng con và thương cứu độ.” (Tv 80:2-3)
Ngài đã đến, đang đến, và sẽ đến. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đến để cứu nhân độ thế. Chúng ta luôn ngưỡng vọng Ngài, không chỉ trong Mùa Vọng mà suốt cả đời, và không ngừng nài xin Ngài xót thương: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” (Tv 80:15-16)
Chúa Giêsu đã hứa chắc rằng cứ xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở. (Mt 7:7; Lc 11:9) Vấn đề còn lại là chúng ta phải kiên trì, tin tưởng, đồng thời phải quyết tâm thành tín: “Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh. Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài.” (Tv 80:18-19) Lời thề hứa thật đẹp, giữ trọn lời hứa còn tuyệt vời hơn nữa.
Cầu nguyện và cầu xin không giống nhau. Có lẽ đa số chúng ta thường cầu xin, ít khi cầu nguyện. Lời cầu nguyện tiêu chuẩn là Kinh Lạy Cha, trong đó xin nhiều thứ nhưng chỉ một câu xin có lương thực hằng ngày. Thánh Bonaventura khuyên: “Khi chúng ta cầu nguyện, lời từ con tim phải được lắng nghe nhiều hơn là lời từ miệng lưỡi.” Thiên Chúa là Thánh Phụ giàu lòng thương xót, muốn tha thứ chứ không muốn trừng phạt. Nếu bị phạt là tại mình cố chấp. Lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này, chẳng có tội gì mà Ngài không tha, điều kiện đơn giản chỉ là sám hối và tin tưởng.
Với cách giải thích và phân tích ngắn gọn, Thánh Phaolô nói: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã KHÔNG ƯA hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng CHẲNG THÍCH lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để THỰC THI Ý NGÀI, như Sách Thánh đã chép về con.” (Dt 10:5-7) Thiên Chúa có mọi sự, Ngài không cần gì cả, Ngài chỉ muốn chúng ta “xin vâng” trong mọi sự – vui buồn, sướng khổ, vừa ý hoặc trái ý – để “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Chỉ cần như thế mà thôi.
Dâng lễ vật là cách thể hiện lòng sùng kính, tôn thờ, nhưng quan trọng vẫn là dâng chính mình. Thánh Phaolô cho biết: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người BÃI BỎ các lễ tế cũ mà THIẾT LẬP lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” (Dt 10:8-10) Chúa Giêsu luôn có cách lạ, khác hẳn thế nhân nhưng rạch ròi. Người ta không thể hiểu nên đôi khi cảm thấy khó chấp nhận, thế nên các tư tế, kinh sư, thông luật, nhóm Sađốc và Pharisêu đều “dị ứng” với Ngài.
Một tin báo lạ lùng được đề cập trong trình thuật Lc 1:39-45, đề cao lòng tin của Đức Maria. Thánh Luca kể:
Hồi ấy, sau khi được Sứ Thần Gáprien truyền tin và báo tin người chị cũng vừa thụ thai cách lạ lùng, Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Đức Maria vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlidabét. Vừa nghe tiếng Đức Maria chào thì đứa con trong bụng bà Êlidabét nhảy lên, bà được đầy Thánh Thần nên kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã TIN rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1:42-45)
Nghe Sứ Thần nói, Đức Maria tin ngay, và liền đi thăm bà chị họ – không đắn đo, không tính toán, dù đường xa cách trở. Đức Maria đi thăm bà chị để chia vui và giúp đỡ bà chị, đặc biệt là đưa Chúa Giêsu đến với gia đình bà chị. Khi đó, Hài Nhi Gioan “gặp” Thánh Nhi Giêsu, quá vui nên Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Bà Êlidabét cũng không thể giấu niềm hạnh phúc khi gặp Em Maria với tin vui trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Hai phụ nữ diễm phúc vì một người là Mẹ của “người mở đường” cho Đấng Cứu Thế, một người là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đấng đem bình an và công lý đến cho nhân loại, đồng thời giao hòa đất với trời. Ngài cũng dạy cách chọn lựa và phân định đúng – sai, có thể trở nên người báo tin tốt lành cho người khác giữa thời đại này và trong hoàn cảnh dịch bệnh này.
Lạy Thiên Chúa, Đấng quan phòng và tiền định mọi sự, tạ ơn Ngài đã chuẩn bị cho chúng con mọi thứ để chúng con an tâm tôn thờ Ngài. Xin gia tăng ân sủng cần thiết cho chúng con, xin giúp chúng con sống trọn Mùa Vọng theo Thánh Ý Ngài, sẵn sàng chia sẻ với tha nhân những gì cần thiết. Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa và xứng đáng đón Ngôi Lời giáng sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục
“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, Mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi của họ”. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miêng ngôn sứ: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”.
Chú giải:
Nếu ai đã từng xem bộ phim “Đức Giêsu thành Nadarét” của đạo diễn Franco Zeffirelli chắc còn MV 4-C144
nhớ phân cảnh Thánh Giuse nằm mơ thấy Đức Maria bị ném đá chết vì tội “ngoại tình”. Nếu không thì cũng đã có lần được xem một vở kịch diễn lại bài Tin Mừng hôm nay, trong đó có cảnh Thánh Giuse khắc khoải, lo âu, dằn vặt trước sự kiện Đức Maria mang thai mà ông chẳng biết nguyên cớ. Đó là những tình tiết lâm ly, bi đát, đầy kịch tính, làm khán thính giả bồi hồi xúc động, nhưng có lẽ không nằm trong nhãn giới của tác giả Tin Mừng. Cái đó, theo các nhà chú giải hiện nay, là do cách dịch không đúng về một vài từ trong văn bản.
1. Khúc mắc tâm tư.
Lúc mở đầu bản văn bằng câu “Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô” và bằng chi tiết “Trước khi hai ông bà về chung sống, Maria đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, Mátthêu muốn chứng minh cho độc giả Do Thái của mình thấy làm sao Đấng Cứu Thế sinh ra thiếu cha trần gian mà vẫn thuộc về dòng dõi Do Thái và con cháu Đavít được (trong lúc Lc 1,26-38 thì trình bày mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho độc giả lương dân). Việc lạ lùng này, chắc hẳn Đức Maria đã tỏ lộ cho người bạn đời yêu quý (bà chị họ Êlisabét mà còn được biết nữa là, vả lại sứ thần đâu có cấm: x. Lc 1,39- 45). Với hai lý do: cho ông chia sẻ niềm vui và vinh dự được chọn làm mẹ Con Đấng Tối Cao, hai là để Thánh Giuse khỏi nghĩ dông dài, nhất là rồi đây Đức Maria sẽ vắng nhà nhiều tháng. Việc Mátthêu nêu sự kiện lạ lùng ngay từ đâu bản văn cũng ngầm ý như vậy. Thế nhưng việc tỏ lộ này đặt Thánh Giuse vào một hoàn cảnh khó xử.
Theo nhiều nhà chú giải Công giáo hiện đại, khi kết hôn với nhau, hai ông bà chắc dự tính sẽ có con với nhau một cách bình thường (Cựu Ước luôn cho hôn nhân là tốt đẹp và con cái là hồng ân cao cả, còn vô sinh vô hậu là tủi nhục lớn lao) đồng thời cầu mong con họ sẽ được Thiên Chúa chọn làm Đấng Thiên Sai như bao mộng ước của mọi gia đình Do Thái thời đó. Thế nhưng, đang lúc chưa chung sống, Đức Maria đã được sứ thần báo tin cho biết Thiên Chúa đã chọn bà làm mẹ Đấng Thiên Sai nhưng bà sẽ sinh con một cách nhiệm lạ-do quyền năng Chúa Thánh Thần-vì người con đó chính là Con Thiên Chúa. Đây là điều mà Cựu Ước cũng như hai ông bà không thể ngờ nổi!
Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, Thánh Giuse đâm băn khoăn. Từ nay, Thiên Chúa đã can thiệp vào mối dây liên hệ của đôi bạn, đã sử dụng Đức Maria như phương tiện để thực hiện kế hoạch lớn lao của Người. Từ nay Đức Maria đã trở thành một vật thánh, thuộc quyền sở hữu của Đấng Tối Cao. Thánh Giuse tự nghĩ mình không có quyền động đến nàng nữa. Và dù không động đến nhưng nếu tiếp tục chung sống trong một nhà, tới lúc con nàng sinh ra, chắc thiên hạ sẽ nói là con của đôi bạn. Để cho ai nấy lầm tưởng như thế là một sự bất công với Thiên Chúa vì Hài Nhi là con của Người. Công bố chuyện này cho thiên hạ ư? Ai mà tin nổi! Có dấu chứng nào? Vả lại Thiên Chúa đâu đã tỏ ý định hãy loan truyền cho bá tánh! Thế là Thánh Giuse dự tính ra đi, để Thiên Chúa đích thân giải quyết mọi chuyện… Ngài xử sự như bao người công chính trong Cựu Ước là run khiếp trước sự hiện diện của Đức Chúa (Môsê cởi giày trước bụi gai rực cháy, Isaia khiếp đảm trước sự xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh), nên không dám đoạt lấy một thành quả bởi tay Người. (Công chính, công bình-hay just, juste trong tiếng Anh, tiếng Pháp-có nghĩa là của ai thì trả cho người ấy, không vi phạm quyền lợi tha nhân). Chính cách phiên dịch mới: “Giuse là người công chính và không muốn tiết lộ chuyện bà” hoàn toàn hỗ trợ cho lối giải thích vừa nói trên đây. (Từ Hy Lạp “deigmatisai” mà người ta thường dịch là “tố giác, bêu nhục” thì theo hai giáo phụ Origène và Eusèbe và một nhà chú giải hiện đại là Linh mục Dòng Tên Paul Jouon, không bao hàm ý nghĩa xấu mà chỉ có nghĩa là “tiết lộ, bày tỏ”).
2. Gỡ mối tơ vò.
“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”. Thiên Chúa cuối cùng đã can thiệp: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về”. Đến đây, các nhà chú giải hiện nay đề nghị một cách dịch mới: “Vì vẫn biết người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, nhưng ông phải đặt tên con trẻ”. Từ “vẫn biết” nói lên một sự thật mà Giuse đã rõ (nên đây không có vấn đề mặc khải mầu nhiệm cưu mang đồng trinh). Maria sẽ sinh con “nhưng” Thánh Giuse sẽ đặt tên cho con trẻ: đặt tên (quyền của người cha) là thừa nhận kẻ được đặt tên như con của mình. Theo Do Thái, con đẻ hay con nuôi đều có giá trị như nhau trước pháp luật, nghĩa là con nuôi cũng hoàn toàn thuộc về dòng dõi cha nuôi với mọi quyền lợi và nghĩa vụ y như con đẻ. Cách giải quyết của Thiên Chúa thật tài tình: lợi dụng một điều khoản trong luật pháp Do Thái (con nuôi # con đẻ) (mà chắc Người đã xui khiến cho có), Thiên Chúa hoàn tất lời Thánh Kinh: Đấng Thiên Sai sẽ thuộc dòng dõi Đavít dù là con của một Trinh nữ, với Thiên Chúa là Cha.
Còn một lý do thực tế: cần phải tạm thời che giấu mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể (khó chấp nhận khi chưa có ngôn hành xác quyết của Đức Giêsu) bằng cách để thiên hạ lầm tưởng Giuse là cha đẻ của Người. Sự hiện diện của Thánh Giuse trong ngôi nhà Nadarét còn cần thiết để bảo vệ thanh danh Đức Trinh Nữ cũng như để chăm sóc nuôi dưỡng Ấu Chúa và Mẹ Người. mục lục
Cuộc viếng thăm Elizabeth của Maria cũng là cuộc trùng phùng của Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả MV 4-C145
Cuộc viếng thăm Elizabeth của Maria cũng là cuộc trùng phùng của Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Luca đã diễn tả tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu rất hồi hộp và cảm động trong một bối cảnh kinh thánh khá quen thuộc.
Đây không chỉ là câu chuyện cho thấy hoạt động của Gioan Tẩy Giả bắt đầu trước Chúa Giêsu (Lc 1:5-24) mà còn cho biết Gioan Tẩy Giả sinh ra trước Chúa Giesu (Lc 1:26-38). Sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Maria biết sẽ sinh Chúa Giêsu (Lc 1:39-45) cùng lúc với hai ông bà Zechariah và Elizabeth là sẽ sinh Gioan Tẩy Giả.
Trong hai biến cố này, sứ thần Gabriel đã làm cho cả Zechariah và Maria rất bối rối trước một viễn tượng to lớn và lạ lùng khó hiểu (Lc 1:11-12, 26-29). Nhưng sứ thần đã trấn an họ là đừng sợ (Lc 1:13,30). Khi nghe tin thì cả hai đều thắc mắc vì điều đó khó có thể xảy ra: Zechariah đã già, vợ ông cũng già và lại hiếm muộn. Maria thì vừa đính hôn, không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:18, 34). Để trấn an, sứ thần liền xác nhận việc Chúa muốn thì không gì là không thể làm được. Đặc biệt nữa, sứ thần còn cho biết Chúa Giêsu là Con vua Đavít (Lc 1:32-33) và là Con Thiên Chúa (Lc 1:32,35).
Trước khi Maria đi thăm Elizabeth thì Gioan và Giêsu đều không biết nhau, nhưng khi Maria bước vào nhà, vừa cất tiếng chào Elizabeth thì Gioan đã vui mừng nhảy múa trong bụng mẹ, vì nhận ra được trong bụng Maria có sự hiện diện của Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai.
Cả hai ra đời đều được chào mừng bằng hai bài thánh ca tuyệt vời: Một bài là bài ca CHÚC TỤNG / BENEDICTUS được Zechariah, cha của Gioan Tẩy Giả hát (Lc 1:68-79) và một bài là bài ca AN BÌNH RA ĐI / NUNC DIMITTIS được Simon, một người đạo hạnh và công chính cất giọng ca lớn trong đền thánh Jerusalem, khi ông bế Hài Nhi Giêsu trong vòng tay (Lc 2:22-35).
Cả Maria lẫn Elizabeth đều nhận ra những dấu chỉ đặc biệt của Thiên Chúa. Điều sứ thần Gabriel cho Maria biết về Elizabeth cũng không khác gì mấy về điều Maria là người trinh thai (mang thai nhưng vẫn còn trinh): “Hãy coi kìa, bà Elizabeth, bà con họ hàng với bà, tuy đã già, lại hiếm muộn, mà nay đã có thai được 6 tháng, vì đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được (Lc 1:36-37). Elizabeth lúc đó cũng cảm thấy con trẻ trong bụng Maria đến thăm mình là cả một biến cố đặc biệt khác thường. “Tôi là ai mà mẹ Thiên Chúa lại đến với tôi?” (Lc 1:43). Đúng vậy, mỗi người đều cảm thấy trong đời đã có lúc mình sống những điều mà người đời khó có thể tưởng tượng được. Làm được điều không thể làm được.
TIN TƯỞNG NƠI THIÊN CHÚA
Việc Maria đi thăm Elizabeth đã trở thành việc Chúa đến thăm bà Elizabeth. Hòm bia Giao Ước/Thiên Chúa không mang đến tai họa nhưng mang lại ơn phúc khi nó đến nhà Obed-edom (1Samuel 6:9-11). Không giống như Sarah đã cười khi nghe Chúa phán bà và Abraham sẽ có con trai nối giòng khi cả hai ông bà đã quá già (St 18:12) và, không giống như Zechariah bị ngọng không nói nên lời vì thắc mắc về quyền năng của Chúa (Lc 1:8-20). Riêng Elizabeth thì dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và tin tưởng vào sự quan phòng của Người: “Thiên Chúa đã làm cho tôi như thế lúc đó khi Người cất bỏ nỗi ô nhục khỏi tôi trước mặt mọi người” (Lc 1:25). Về phần Maria, mẹ xứng đáng được Elizabeth reo mừng:“Em thật có phúc vì đã tin tưởng rằng Lời Chúa nói với em đã được ứng nghiệm” (Lc1:45).
Dù Maria được làm Mẹ Thiên Chúa và, vì tin, Mẹ hành sử như là tôi tớ Chúa trong ca vịnh ngợi khen. Bài ca Ngợi Khen / Magnificat tung hô những kỳ công của Thiên Chúa đã làm cho con người, không phải chỉ nơi các bà trong mùa Vọng mà tất cả mọi người mà “Đấng Toàn Năng đã làm những việc vĩ đại cho họ” (Lc 1:49).
Chúng ta hãy để ý đến hai khía cạnh của cuộc viếng thăm lịch sử này. Đầu tiên, không kể chuyện thăm viếng có tính riêng tư giữa hai người, cả Maria lẫn Elizabeth đều có lý do để bận rộn vì chuyện thai nghén và những việc cần làm cho cuộc sống mới này. Cả hai cũng có quyền chăm lo cho chính mình một chút để điều chỉnh lại cuộc sống thường nhật và sắp xếp một chương trình mới.
Maria tính gọi Elizabeth đến giúp mình, đồng thời cũng giúp đỡ Elizabeth. Đây là hai nữ lưu lớn trong Kinh Thánh muốn an ủi giúp đỡ nhau, chia sẻ với nhau câu chuyện đặc biệt của đời mình và tặng nhau kỷ vật của chính mình trong cuộc sống mới mà các bà đã trải nghiệm: Elizabeth, sau những năm dài hiếm muộn, nay bất thần có thai. Maria thì, với cuộc hôn nhân “bất thường”, “không hề biết đến người nam”, khi gặp sứ thần Thiên Chúa thì lại mang thai.
Điểm thứ hai cần để ý là Maria đã nhanh chóng trả lời sứ thần Thiên Chúa và hành động ngay. Thánh Luca kể rằng Mẹ đã “vội vã” lên đường thăm Elizabeth, đi từ Nazareth đến một làng quê hẻo lánh ở miền núi xứ Judea (Lc 1:39). Mẹ biết rõ ràng điều Mẹ đã muốn thì không muốn bất cứ ai hay cái gì cản trở.
Khi bình luận Phúc Âm thánh Luca, thánh Ambrose thành Milan đã diễn tả sự vội vàng này của Mẹ Maria bằng một câu Latinh: “nescit tarda molimina Spiritus Santi gratia” lược dịch là: “Hồng ân Chúa Thánh Thần không biết đến những cố gắng bị trì trệ” hoặc “Những cố gắng bị trì trệ thì xa lạ đối với hồng ân của Chúa Thánh Thần” hoặc “hồng ân Chúa Thánh Thần không muốn những cố gắng bị trì trệ”. Theo tôi, dịch cho xuôi tiếng Việt thì nên dịch là ‘Hồng ân Chúa Thánh Thần không để cho những cố gắng (của Mẹ) bị trì trệ’. Tại sao thánh Ambrose lại phải cầu kỳ để ý đến mấy chữ vội vàng lên đường? Có lẽ ngài muốn nói là Mẹ Maria đã tự do lựa chọn, quyết định rồi hành động ngay.
TRÌ HOÃN
Áp dụng vào cuộc sống đạo đức, chúng ta nên tự hỏi có bao nhiêu điều chúng ta muốn làm mà chẳng bao giờ làm? Có bao nhiêu lá thư đã được viết, bao nhiêu ước mơ đã được thực hiện, bao nhiêu tình nghĩa không được bày tỏ, bao nhiêu tình cảm chẳng bao giờ được biểu lộ, bao nhiêu lời nói đã nói ra, v..v…? Trì hoãn và trì trệ đã đè nặng trên vai chúng ta, kéo chúng ta xuống và làm chúng ta nản chí. Chúng đã gặm nhấm chúng ta dần dần. Thánh Ambrose đã diễn tả thái độ vội vã của Mẹ Maria thật là chính xác: Thần Linh Chúa đã hoàn toàn làm chủ người trinh nữ thành Nazareth và thúc dục Mẹ hành động.
Câu chuyện Maria đi thăm Elizabeth đã cho chúng ta một bài học tuyệt vời. Khi chúa Kitô lớn lên trong chúng ta, chúng ta sẽ được dẫn đưa đến với những người, những nơi, những tình huống mà chúng ta không bao giờ nghĩ tới. Chúng ta sẽ nhận được an ủi và hy vọng không phải do chúng ta. Chính lúc chúng ta an ủi người, thì chúng ta cũng được người ủi an. Khi chúng ta để cho tâm hồn lắng đọng thì chúng ta mới có thể có những suy tư và hành động chính xác và hợp lý, bởi vì chúng ta biết rằng, dù cho cuộc sống của chúng ta và những kết quả của nó chẳng ra gì đi nữa thì Chúa Kitô cũng đã ở trong ta.
Những người phụ nữ trong Phúc Âm hôm nay chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng chúng ta có thể vượt qua khỏi những chương trình nhỏ bé và riêng tư của chúng ta để làm công tác mục vụ và phục vụ trong Giáo Hội. Công tác mục vụ và phục vụ không đơn giản là làm việc cho tha nhân. Những thừa tác viên Kitô giáo chính thức và những người gọi là đầy tớ đã tự cho phép mình phục vụ và được phục vụ, được giảng dạy, được săn sóc, được an ủi và yêu thương. Những lúc như vậy, chúng ta sẽ đưọc giải thoát và chúng ta có thể hát bài ca Ngợi Khen / Magnificat trên suốt cuộc hành trình đời sống của chúng ta và ca tụng những công trình vĩ đại mà Thiên Chúa làm cho chúng ta và dân ngài.
ĐÔI LỜI KẾT
Để kết thúc, xin mượn lời của Thánh Têrêsa thành Calcutta (1910-1997) – người gặp Chúa nơi người nghèo và đau khổ làm đề tài suy niệm:
“Trong công tác mục vụ Báo Tin và Thăm Viếng, Mẹ Maria chính là khuôn mẫu của đời sống mà chúng ta phải noi theo. Trước tiên Mẹ chào đón Chúa Giêsu trong đời sống của Mẹ; đoạn Mẹ chia sẻ tất cả những gì Mẹ nhận được. Mỗi khi chúng ta nhận Mình Thánh Chúa là chính chúa Giêsu trở thành máu thịt thực sự trong ta. Đó là tặng phẩm của Thiên Chúa ban cho chúng ta ngay lập tức lúc đó, tuyệt mỹ, âu yếm và độc nhất.
“Vậy, đây là phép Thánh Thể đầu tiên: Con Mẹ chính là của lễ của Mẹ Maria, trong đó Thiên Chúa đã lập một bàn thờ đầu tiên. Và Maria là người duy nhất xác nhận lễ vật đó với lòng tin cậy tuyệt đối: “Đây là Mình Ta”. Ngay từ lúc đó, chính thân xác Mẹ đã được hiến dâng để làm nên thân xác Chúa Kitô”. mục lục
Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ IV mùa Vọng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật lại MV 4-C146
Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ IV mùa Vọng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật lại rằng: “Bà Maria đã vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa…” (Lc 1:39). “Tại sao Đức Maria lại phải vội vã lên đường như vậy?” Câu trả lời rất đơn giản, là vì Đức Maria là người biết để ý và quan tâm tới những nhu cầu của người khác.
• Phúc Âm của thánh Gioan tường thuật rằng, tại tiệc cưới Ca-na, khi thấy chú rể & cô dâu lâm vào cảnh khốn khó vì bị thiếu rượu, Mẹ Maria đã mau mắn can thiệp, và đã giúp cho gia đình hai họ khỏi bị xấu hổ, khỏi bị mang tai mang tiếng vì tiệc cưới chưa tàn mà rượu đã hết (Ga 2:1-12).
• Và hôm nay, Tin Mừng của Thánh Luca ghi lại rằng, sau khi nghe Sứ Thần Gabriel cho hay bà Ê-li-sa-bét đang mang thai trong lúc tuổi già, thì Đức Maria đã nghĩ ngay đến những sự vất vả, và những sự khó nhọc của một người đang mang thai, cho nên Mẹ đã vội vã lên đường để đến thăm viếng và giúp đỡ cho bà chị của mình.
Bạn thân mến, Giáng Sinh là ngày mà toàn thế giới mừng Sinh Nhật của Con Một Thiên Chúa. Ngày mà Thiên Chúa đã biểu lộ tình thương yêu vô biên của Ngài cho nhân loại, qua việc trao tặng cho nhân loại món quà vô cùng quý giá, đó là chính Người Con Một rất yêu dấu của Ngài. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con Một của Ngài cho thế gian” (Ga 3:16).
Để ngày mừng Sinh Nhật của Con Thiên Chúa được tràn ngập tình yêu, vui tươi, hạnh phúc, bình an và mang đầy đủ ý nghĩa, chúng mình hãy cố gắng noi gương bắt chước Đức Maria, hãy có một trái tim nhạy cảm, biết quan tâm đến những người chung quanh, bắt đầu từ những người ở trong gia đình của mình. Ví dụ:
• Khi thấy ông bà, cha mẹ chuẩn bị ra đón xe bus đi nhà thờ, đi chợ, đi thăm bạn bè, đi bác sĩ … xin bạn mau mắn thưa với các ngài: “Trời lạnh lắm, nếu ông bà, ba má đứng đón xe bus thì sẽ bị bịnh, trời mưa ướt át trơn trượt, lỡ bị té thì sẽ khổ lắm… để con đưa ông, bà, ba má … đi nha!”
• Khi thấy vợ mệt mỏi sau một ngày làm việc vất vả …chồng hãy tươi cười hỏi han: “Em ngồi nghỉ một chút đi, để anh phụ cho một tay.” Rồi mau mắn dọn dẹp, nấu ăn, đổ rác, lau nhà, dọn bàn…giúp vợ!
• Khi nghe các cha, hay Hội Đồng Giáo Xứ…kêu gọi phụ giúp tỉa cây, cắt cỏ, làm vệ sinh nhà thờ, lau lá gói bánh chưng, làm tiệc gây quỹ…giáo dân hãy mau mắn hưởng ứng, đóng góp tài năng và công sức cho giáo xứ, cho cộng đoàn, cho công việc chung được hoàn thành một cách mau chóng và tốt đẹp.
• Khi nghe tin anh A đau yếu bệnh tật, chị B bị tai nạn nằm bệnh viện, cô C bị thất nghiệp…xin bạn hãy dâng lên Chúa một lời cầu nguyện cho họ được ơn chữa lành, hãy gọi phone hỏi thăm, động viên và nếu họ không ngại, bạn hãy đến thăm viếng và an ủi họ.
Khi động lòng trắc ẩn, biết quan tâm tới tha nhân, và biết đưa tay ra để trợ giúp, xoa dịu những đau khổ, hoặc làm vơi nhẹ đi những gánh nặng của những người xung quanh…thì khi đó, bạn và tôi mới thực sự xứng đáng được gọi là con của Mẹ Maria, và mới là những môn đệ đích thực của Đức Giê-su Kitô. Chưa hết, khi biết quan tâm và biết đưa tay ra trợ giúp cho tha nhân, là khi đó bạn và tôi đang làm lợi cho chính mình, bởi vì Chúa Giê-su đã phán: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong bằng đấu ấy cho anh em!” (Mt 7:2).
Thật vậy, nếu chúng mình có lòng thương xót, và biết quan tâm giúp đỡ cho tha nhân, thì trong những ngày bạn và tôi lâm vào cảnh khốn cực đau thương, những người chung quanh, và chính Chúa sẽ quan tâm, tỏ lòng thương xót và sẽ ban ợn trợ giúp cho chúng mình!
Trong không khí hân hoan, vui mừng và náo nhiệt của những ngày cuối mùa Vọng, và nhân dịp kỷ niệm mừng ngày sinh nhật của Đức Giêsu Kitô, tôi cầu chúc bạn và gia đình bạn một đêm Giáng Sinh thật vui vẻ, bình an và nhờ lời chuyển cầu của thánh cả Giuse, qua tay hiền mẫu Maria, xin Chúa chúc lành và ban cho mỗi cá nhân, cho các Hội đoàn, cho mỗi gia đình một năm mới an khang thịnh vượng. Tôi cũng cầu chúc bạn và mọi người trong gia đình của bạn luôn có một trái tim của Mẹ Maria, biết quan tâm đến những nhu cầu của tha nhân và ra tay trợ giúp cho họ. Merry Christmas - 聖誔快樂 - Feliz Navidad - Fröhliche Weihnachten – Joyeux Noël. mục lục
Trong nhà dòng tôi ở, có một linh mục có tài kể truyện. Truyện của Ngài làm say mê lòng người MV 4-C147
Trong nhà dòng tôi ở, có một linh mục có tài kể truyện. Truyện của Ngài làm say mê lòng người. Câu chuyện nào cũng có sức lôi cuốn và thu hút người nghe. Khi kể truyện Ngài có pha các tình tiết làm cho người nghe vui, nhưng không vì thế làm giảm đi ý nghĩa của sứ điệp mà cha muốn truyền đạt. Có một lần anh em trong nhà xin Ngài bớt chút cường điệu hay cử chỉ khi kể truyện. Nhưng kết quả vẫn như nguyên.
Phần tôi không có năng khiếu kể truyện. Tôi đã cố gắng, nhưng vẫn thấy lối kể truyện của mình thật vô duyên. Nhiều lúc, sau khi kể truyện tôi cũng chẳng biết đầu đuôi hay tình tiết của câu chuyện mình đã thuật lại nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn biết rằng dùng câu chuyện để truyền tải sứ điệp thì ích lợi hơn cho người nghe. Do đó, xin bắt đầu bằng một câu chuyện và truyện kể như sau.
Trong xóm đạo kia có một chàng thanh niên, khôi ngô tuấn tú, diện mạo khá bảnh bao mà nhiều người hằng ngưỡng mộ. Chúng ta gọi tên anh là Thi nhé. Thi có tài ca hát. Thêm vào đó, anh ngoan và siêng năng trong mọi công tác của xứ đạo. Nói chung, anh là mẫu mực mà nhiều người thán phục.
Vào một ngày kia, anh phải đối diện với một biến cố thật kinh hoàng. Anh là nạn nhân trong một tai nạn xe cộ. Tuy thoát chết, nhưng đôi chân anh bị cưa. Nghịch cảnh đã tiêu hủy mọi ước mơ của anh. Những người trước đây ngưỡng mộ anh thì bây giờ họ nhìn anh bằng cặp mắt thương hại và tội nghiệp. Cuộc đời anh xem như đã xong. Người ta dần dần quên đi sự hiện diện của anh. Đó là nguyên nhân khiến anh bị trầm cảm kinh niên. Đôi khi anh có ý nghĩ chẳng thà bị trẻ con chọc ghẹo và coi thường còn hơn là bị quên lãng. Anh chỉ muốn chết!
Vào một ngày kia, anh nhận được tin người bà con, tuy không phải ruột thịt, từ Mỹ về thăm quê nhà, nghe kể về hoàn cảnh của Thi nên muốn đến thăm. Thi chẳng bận tâm hay có kỳ vọng nào trong chuyện thăm viếng này. Lần viếng thăm này rồi cũng giống như bao lần thăm viếng trước đây. Lại thêm một cử chỉ tội nghiệp và vài lời khuyên nhủ. Cuối cùng, anh vẫn là người cụt hai chân.
Trong lúc hai người trò chuyện với nhau. Bỗng nhiên anh nghe ông anh họ hỏi anh rằng: “Cậu có muốn đi đứng lại được không?” Thi không tin vào đôi tai của mình, nên đã hỏi lại: “Anh đùa để chọc tôi phải không?” Ông anh họ đáp: “Không tôi nói thật, tôi có thể tặng cậu đôi chân nhân tạo.” Thi đáp: “Đêm nào tôi cũng mơ đến điều kỳ diệu này! Nhưng hoàn cảnh thiếu thốn của gia đình đã khiến tôi bỏ qua ý nghĩ này. Như anh biết, kể từ ngày bị tai nạn đến nay, trong nhà còn gì thì cũng đã bán hết để lo thuốc men cho tôi. Giờ này, cơm lo từng ngày còn chưa đủ no, nói chi đến việc đi đứng!” Ông anh họ từ tốn nói: “Tôi sẽ biếu cậu, hãy coi cặp chân này như món quà Giáng Sinh sớm của gia đình chúng tôi tặng cậu.”
Thế là mọi sự đã xẩy ra. Giáng Sinh năm đó Thi đã có đôi chân để đi. Lòng tự tin của anh được phục hồi. Sau này, anh còn tìm được việc trong chức vụ cố vấn của một trung tâm thể dục thẩm mỹ. Cuộc sống gia đình ổn định hơn. Thi rất hài lòng với những gì anh đang có. Tất cả được bắt đầu qua lần thăm viếng của ông anh họ. Và, tuy việc này xẩy ra đã lâu, nhưng Thi không bao giờ quên cuộc viếng thăm của ông anh họ năm nào.
Câu chuyện nói trên có thể minh họa phần nào ý nghĩa của bài Tin Mừng mà chúng ta suy tư trong tuần này, đó là cuộc viếng thăm của Mẹ Maria dành cho người chị họ mình, bà Ê-li-sa-bét.
Kính thưa anh chị em,
Thăm viếng là dấu chỉ của tình thương. Đó có thể là khởi điểm của một mối tình hay là bước đầu của một dự án. Chúng ta thường đến thăm những người chúng ta yêu thương. Tình yêu cần được nhìn thấy, chứ không thể khư khư, giữ kín và ôm lấy cho riêng mình. Một thứ tình yêu âm thầm, chỉ dựa vào ngôn từ mà không được biểu lộ thành hành động thì không phải là tình yêu chân chính và đích thực. Đây là kinh nghiệm vô cùng quí giá của những ai đang yêu. Họ tìm mọi cách để thăm nhau. Và thường thì mỗi lần như thế họ để lại trong nhau các trải nghiệm khó phai mờ.
Không chỉ có thế, thăm viếng là một trong các điều vô cùng cần thiết trong xã hội mà khuynh hướng tôn sùng chủ nghĩa cá nhân được cổ võ và phát triển như hiện nay.
Ngày xưa, con người đến với nhau để giao tiếp. Hôm nay, lệ thuộc vào sự tiến bộ của truyền thông, con người bỗng trở nên lười biếng hơn, chưa kể đến việc lạm dụng các phương tiện văn minh kỹ thuật để bớt gặp nhau hơn. Có ai ngờ được hiện tượng của những con người sống chung trong một mái nhà mà lại phải dùng điện thoại để nhắn tin hay gọi nhau xuống ăn cơm tối. Tiện lợi vô cùng, nhưng hiểm họa ngay bên! Lối sống mỗi người là một ốc đảo càng ngày càng hiện rõ trong các sinh hoạt của gia đình và đương nhiên sẽ lan tràn như bệnh dịch sang môi trường mình sinh sống.
Ngày xưa, trong các tuần đại phúc, nghĩa là trong các lần giảng tĩnh tâm tại các Giáo xứ, chúng tôi thường dành mấy tuần đầu cho chương trình, ban ngày đi thăm viếng buổi tối họp nhóm. Công việc này giúp chúng tôi và giáo dân trong xứ hiểu nhau hơn, nhìn thấy nhu cầu của nhau mà quan tâm… rồi từ đó các bài giảng thuyết được chuẩn bị hầu đáp ứng đúng nhu cầu của bà con trong giáo xứ.
Vì sao mà được như thế? Tất cả nhờ vào công tác thăm viếng. Qua đó, chúng ta dễ dàng tiếp cận và hiểu nhau hơn. Ngày nay, vì nhiều nguyên do khác nhau, dù lòng chúng ta muốn áp dụng cách thức này; nhưng thực tế cũng không cho phép. Con người quá bận rộn! Nhu cầu thăm viếng, đến với nhau càng ngày càng thấy hiếm. Chính vì thế, bài học trong bài Tin Mừng hôm nay nên được chúng ta ôn lại.
Quả thật, đây cũng không phải là điều gì mới lạ. Lần giở sách Kinh Thánh, chúng ta nhận ra chuỗi dài của việc viếng thăm mà Thiên Chúa đã thực hiện trong dân Ngài. Qua các sứ giả của Thiên Chúa, mà cụ thể là việc Thiên Thần đến với E-li-sa-bét và Đức Maria trong các trình thuật truyền tin; rồi qua môi miệng và chứng từ của các ngôn sứ, như lời tụng ca của Dacaria “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.”
Trong sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, chúng ta có thể liệt kê vô số các lần thăm viếng và đồng bàn với dân chúng của Đức Giê-su. Và nhiều điều kỳ diệu đã xẩy ra trong và sau những lần thăm viếng đó. Cụ thể như việc Đức Giê-su chữa lành cho người đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng trong lần Người ghé thăm Ca-pha-na-um; qua lần ghé Nain, Người đã làm cho cậu con trai duy nhất của bà goá được sống lại. Với việc đến thăm và làm bạn với những người tội lỗi khiến cho mấy ông bà tưởng mình đạo đức phật lòng… Nhưng lần thăm Giê-ru-sa-lem sau cùng, tuy được đón tiếp trọng thể như một quân vương, nhưng lại không có kết quả tốt. Người đã bị từ khước và cuối cùng là hành trình khổ nạn và Thập Giá; nhưng đàng sau của Thập Giá là vinh quang của sống lại mà ngày nay con cháu của Người được thừa hưởng sự hy sinh đó.
Trong bối cảnh đó, giờ đây chúng ta cùng suy gẫm cuộc thăm viếng của Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét.
Sau khi để cho ý định của Thiên Chúa được thành sự trong cung lòng của Ngài, Đức Maria vội vã ra đi lên miền sơn cuớc để thăm bà Ê-li-sa-bét, chị họ Ngài. Trình thuật này thường được suy gẫm trong Kinh mân côi để ca tụng nhân đức thương người, luôn quan tâm đến nhu cầu của kẻ khác nơi Mẹ. Tất cả đều là những bài học thật quí giá mà Mẹ đã để lại cho chúng ta học hỏi và noi gương.
Tuy nhiên, hôm nay tôi xin dựa vào một yếu tố khác. Đây là hậu quả dưạ trên các kinh nghiệm thật sâu xa của các bà mẹ đang mang thai đã chia sẻ với nhau mà tôi nghe đuợc. Nhờ đó, chúng ta khám phá ra một điều là trình thuật diễn tả việc Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-sa-bét mang tính nhân bản, nói lên cách xử sự thật con người của Mẹ.
Trước tiên, việc mang thai là niềm vui khôn tả, là nguồn sức mạnh của tất cả các người mẹ. Mẹ Maria cũng thế. Trong niềm vui được Thiên Chúa đoái thương viếng thăm, Mẹ được thúc đẩy để lên đường, chia sẻ niềm vui và điều kỳ diệu đang xẩy ra trong cung lòng của Mẹ cho người khác. Và ai là người có thể đồng cảm với Mẹ trong giai đoạn này? Người đó chính là chị họ Mẹ, người cùng cảnh ngộ và đang mang thai như Mẹ, bà Ê-li-sa-bét. Niềm vui không chỉ được trao đổi giữa hai người mẹ: Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét mà thôi, nó còn được lan tỏa qua hai người con. Vừa nghe lời Mẹ chào thì Gio-an Tẩy giả, tuy là một thai nhi nhưng cũng đã nhẩy lên để diễn tả niềm vui khi được Mẹ và Chúa đến viếng thăm.
Như vậy, mỗi lần chúng ta gặp nhau, dù là tình cờ hay đã định trước, đều là cơ hội để chúng ta có thể đem tin vui đến cho nhau, hỗ trợ nhau trong nỗi đau, củng cố và giúp nhau đối diện với cơn buồn phiền rồi hướng dẫn nhau vuợt qua tình trạng bối rối để hướng về cùng đích của Nuớc Trời. Chính qua các cử chỉ đó, chúng ta làm cho mầu nhiệm hy tế của Đức Giê-su mà chúng ta đang cử hành trong các Thánh Lễ trở thành hiện thực và sống động hơn bởi cuộc sống dấn thân và phục vụ mà chúng ta dành cho nhau.
Uớc mong Chúa vừa là hành trang vừa là quà tặng mà chúng ta mỗi lần thăm viếng đem đến cho nhau trong cuộc sống, cụ thể trong Mùa Giáng Sinh này. Bởi vì, chúng ta tin rằng: mỗi lần gặp gỡ là một cơ hội mà chúng ta đem Chúa đến cho nhau để niềm vui mà chúng ta trao cho nhau trong Chúa được trở nên trọn vẹn hơn. Amen! mục lục.
Chúa nhật thứ bốn Mùa Vọng thường được gọi là Chúa nhật của Đức Trinh nữ Maria, bởi vì MV 4-C148
Chúa nhật thứ bốn Mùa Vọng thường được gọi là Chúa nhật của Đức Trinh nữ Maria, bởi vì các bài Tin Mừng trong cả chu kỳ ba năm đều nhắc tới Trinh nữ khiêm hạ thành Nagiarét. Người thôn nữ bình dị ấy đã sẵn sàng nhận lời khi được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ trần gian. Gần đến ngày lễ Giáng sinh, Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng những nét đẹp đến từ nhân đức của Đức Mẹ, đồng thời hãy đón Chúa với tâm tình của Đức Trinh nữ. Vẫn biết rằng Thiên Chúa có thể dùng nhiều phương thế khác để cứu độ con người, nhưng phương thế mà Ngài đã dùng trong lịch sử là sai Con một của Ngài xuống trần gian, mặc lấy thân phận con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Đó là cách biểu hiện tuyệt vời tình thương của Thiên Chúa đối nhân loại. Trong mầu nhiệm Nhập thể và trong công trình Cứu chuộc, có sự cộng tác của một thiếu nữ đơn sơ khiêm nhường. Ngày hôm nay, mỗi chúng ta cũng đang được mời gọi loan báo Tin Mừng Giáng sinh.
Chúng ta hãy cùng với Đức Maria đón Chúa và loan báo Tin Mừng bằng những tâm tình sau:
Trước hết là tâm tình khiêm nhường: Chính Thiên Chúa làm gương cho chúng ta về sự khiêm nhường, qua mầu nhiệm Nhập thể. Thiên Chúa cao sang đã hạ mình làm người trần thế, chấp nhận mọi khó khăn, thậm chí cả những chống đối phản loạn từ phía con người. Mầu nhiệm Giáng sinh dạy chúng ta về sự khiêm nhường của Con Thiên Chúa. Tác giả thư Do Thái quảng diễn tấm gương hạ mình của Đức Giê-su (Bài đọc II). Người đã thưa với Chúa Cha: “Này con đến để thực thi ý Ngài”. Trọn vẹn cuộc đời dương thế, từ khi sinh hạ cho đến khi chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã thể hiện sự vâng lời ấy. Cùng một tâm tình như Đức Giê-su, Đức Maria đã thưa với Sứ thần trong ngày truyền tin: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ thần truyền”. Hai lời thưa này cùng diễn tả sự khiêm tốn, vâng phục và phó thác. Quỳ cầu nguyện nơi hang đá máng cỏ, chúng ta hãy xin cho được sự khiêm nhường như Ngôi Hai Thiên Chúa và như Đức Maria, hiền mẫu của Người. Khi lòng chúng ta đầy những đam mê và kiêu ngạo ích kỷ, chúng ta không còn chỗ để đón Chúa. Chỉ khi nào can đảm dốc hết những hận thù toan tính, lòng chúng ta mới có khả năng đón Chúa đến và ở lại với chúng ta.
Tiếp đến là sự kiên nhẫn trung thành trong khi chờ đợi Chúa: Ngôn sứ Mika đã gửi đến cho dân Do Thái một thông điệp hy vọng. Ông sống và thi hành sứ vụ ngôn sứ vào thế kỷ thứ tám trước Công nguyên. Vào lúc dân chán chường thất vọng, ông đã quả quyết: Hãy hy vọng, vì Thiên Chúa sẽ can thiệp sau thời dân tộc bị bỏ rơi. Belem tuy là một thành nhỏ bé, nhưng đừng vì thế mà mặc cảm tự ti. Hãy tin vào Chúa, vì vị thống lãnh Israen sẽ xuất hiện từ thành trì nhỏ bé này. Cuộc sống của chúng ta có bao nhiêu gian truân thử thách. Kinh nghiệm thực tế đã chứng minh, những ai trung thành với Chúa sẽ được Ngài trợ giúp. Thánh Têrêsa Avila đã viết: “Không có gì làm cho bạn xao xuyến cả. Cũng chẳng có gì làm cho bạn hãi sợ. Mọi sự đều phải qua đi, còn Thiên Chúa thì không bao giờ thay đổi. Sự nhẫn nại chịu đựng đem lại tất cả. Ai có Thiên Chúa, thì không còn thiếu thốn gì. Một mình Thiên Chúa là đủ rồi”. Kiên nhẫn trung thành sẽ giúp chúng ta có sức mạnh để đạt tới hoàn thiện.
Một khi được đón Chúa đến trong đời, mỗi người tín hữu được mời gọi nhiệt thành loan báo Tin Mừng Giáng Sinh: Khi được chia sẻ, niềm vui sẽ nhân rộng và lớn mãi. Sau cuộc gặp gỡ với Sứ thần Gabrien, Thánh sử Luca nói, Đức Maria đã “vội vã lên đường”. Hình ảnh một thôn nữ đang mang thai tất bật vội vã vượt qua chặng đường dài xa xôi miền sơn cước hiểm trở cho thấy Đức Maria đang thao thức loan báo cho mọi người những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa sắp làm cho nhân loại. Đến thăm gia đình bà Elisabet, Đức Maria đã đem đến cho họ niềm vui. Bằng chứng cụ thể là hài nhi Gioan trong lòng mẹ đã nhảy mừng cách kỳ diệu. Đức Maria không dành những ơn phúc đã đón nhận từ Thiên Chúa cho cá nhân mình, nhưng Mẹ đã chia sẻ cho người khác. Ngôi Lời giáng sinh là niềm vui lớn lao cho cả thế giới (x. Lc 2,10). Ngày hôm nay, xung quanh chúng ta, có biết bao người chưa bao giờ được nghe nói về Chúa Giêsu, hoặc giả có nghe nói, nhưng đó là những khái niệm và hình ảnh sai lạc về Đấng Cứu thế. Người tín hữu khi mừng lễ Giáng Sinh được mời gọi lên đường để đem niềm vui Giáng Sinh vào cuộc sống. Con Thiên Chúa đã đến trong trần thế, chính người sẽ đem lại hòa bình cho nhân loại. Loan báo Chúa không chỉ bằng lời, mà còn bằng chính đời sống cụ thể của chúng ta, nhờ đó chứng từ của chúng ta mới mang tính khả tín, có sức thuyết phục mọi người.
Trong những ngày này, chúng ta hãy noi gương Đức Trinh nữ thành Nagiarét, mở rộng tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế. Cùng với Mẹ, chúng lên đường để nói với mọi người đang sống trong thời đại chúng ta rằng: NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI VÀ Ở CÙNG CHÚNG TA.
Hạnh phúc có phải là khi ta đầy đủ vật chất tinh thần, hạnh phúc là khi gia đình sống no thoả MV 4-C149
Hạnh phúc có phải là khi ta đầy đủ vật chất tinh thần, hạnh phúc là khi gia đình sống no thoả đức độ yêu thương, hạnh phúc là khi sống mà không còn phải lo nghĩ đến khổ đau, không sợ phải mất mát chia ly ? Những khái niệm hạnh phúc được gợi lên như thế, ít nhiều vẫn đang quy hướng mọi hoạt động của con người trở về với công bằng bác ái và khao khát sống có tình có nghĩa hơn. Tâm điểm của bác ái là phục vụ, là ý thức lời mời gọi mang tình Chúa đến với anh chị em mình, là chia sẻ tình người thiết thực với nhau. Vượt ra ngoài sự riêng tư gia đình, tìm khám phá sự kỳ bí của chữ tình, thực hiện mơ ước: đi một ngày đàng, học một sàng khôn, hoặc làm cuộc thăm viếng người thân, chúng ta đã trải nghiệm, nhưng học hỏi, làm ô-sin, chia sẻ với người chị em 3 tháng, thật là chuyện hiếm.
Rất nhiều người hôm nay vẫn hiểu loan báo tin-mừng là mang Chúa đến cho anh chị em mình, là chia sẻ vật chất, tình thương yêu, xoá đi những rào cản thù hận ích kỷ, làm mới lại tình thân hữu từng bị lãng quên. Từ cuộc viếng thăm người chị họ, Trinh nữ Maria đã mở ra cho hậu thế nhiều suy tư về công cuộc loan báo tin-mừng hôm nay: ơn gọi làm chứng nhân tin-mừng, tính hiệu quả, nhiệt huyết tông đồ, luôn tuỳ thuộc tình yêu giữa người lãnh nhận và người cho đi. Hành trình vội vã ra đi đến miền núi thăm người chị họ của Đức Maria, vẫn còn mãi tính thời sự do lần chia sẻ yêu thương đầm ấm, hoà cùng tác động của thần linh. Người chị họ phát hiện ra niềm vui tin-mừng: “hài nhi nhảy mừng trong lòng ; Đức Maria cảm nhận được Sứ-thần Chúa tác động trên người chị họ: bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”….?
Gặp gỡ người thân, loan báo tin mừng, chia sẻ niềm vui, sẽ mãi còn thích hợp, khi tình người được diễn tả thực tế nhất về hành động bác ái với nhau. Loan báo tin mừng, san sẻ yêu thương, có phải là lúc người ta đang được nâng hồn lên trong vui say, đang sống trong một thế giới đầy tràn hạnh phúc của tương lai không ? Tự tin và mạnh mẽ để làm một cuộc lên đường theo gương Đức Maria, chính là câu trả lời cho anh chị em mình rõ hơn về tác động của tình yêu thương. Lịch sử giáo hội thời nào cũng sống động bởi gương truyền giáo, đem Chúa đến, đem tình thương Chúa đến với anh chị em mình, không phân biệt sang hèn, tội phúc. Nhiệt huyết tông đồ, dù đơn giản hay phức tạp, tất cả đều phản ánh từ tình yêu thương mà các đấng bậc chân thành, sẻ chia.
Để tiếp tục rao giảng và loan báo về niềm vui, hạnh phúc, tiền nhân chúng ta có nói tới quan niệm: được tiền được của, không được, được tình được nghĩa, được tất cả. Dù sao thì loan báo tình yêu thương, chia sẻ những vất vả khổ đau về tinh thần, thể xác, vẫn là căn bản của đạo làm người, đạo làm con Chúa. Để gieo rắc niềm hy vọng, làm giảm bớt những áp lực căng thẳng nơi cuộc sống, tiền nhân chúng ta thường nhắc tới sự xuất hiện của “bụt-thần”, vừa có ý xoa dịu khổ đau, vừa có ý hướng lòng con cháu về sự thiện, điều lành. Vào những ngày này, hình ảnh “ông già Noel” áo đỏ viền trắng, râu dài, đang chuyển tải rất nhiều thông điệp “Giáng Sinh” tới các em thiếu nhi. Công cuộc loan báo tin-mừng giữa hai phụ nữ năm xưa, sẽ còn được tiếp nối thông điệp an vui vì tình người, tình Chúa, được hoà nhập và sẻ chia nơi tự do của chúng ta.
Năm xưa, khi loan báo tin-mừng cho người chị họ, tình Chúa, tình người không dừng lại ở phạm vi riêng tư cá nhân, niềm vui, hạnh phúc được lan toả cho muôn dân, tình yêu được cụ thể, ơn bình an cho người thiện tâm được ứng nghiệm. Sứ mạng loan báo tin-mừng tiếp tục âm vang rộng lớn, tác động đến “hai con trẻ”, niềm vui vỡ oà và hạnh phúc trào dâng, qua tác động của tin yêu hoà với lời chào chúc của Sứ-thần. Nhắc nhớ việc loan báo tin-mừng nơi chúa nhật 4 hôm nay, đang được minh chứng bởi tình yêu, để rồi niềm vui vượt qua giới hạn ở ngôi thánh đường này, đụng chạm đến từng tâm hồn, mọi người sẽ cảm nhận rõ ràng hơn về nét đẹp được toả lan: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế.
Thời xưa, thời nay, đều có chung một quy luật: tất cả những ai muốn vào nhà đều phải qua cửa ; tất cả mọi người muốn đến với nhau đều phải có đường đi. Gia đình Dacaria là gia đình đầu tiên được thấm nhuần tin-mừng cứu độ, nay gia đình nhân loại, gia đình giáo xứ, đang đi qua tiến trình làm sống động hơn nữa về sứ mạng loan báo tin-mừng. Sống bác ái phục vụ, sẻ chia vật chất, tinh thần cho anh chị em mình, tất cả đều phát xuất từ tình yêu thương, từ sứ mạng loan báo tin-mừng của Thiên Chúa. Mỗi chúng ta ở đây có thể chưa đủ tâm, chưa đủ tài, nhưng tình yêu Chúa vẫn nhiệm mầu chúc lành cho chúng ta: khi đi học gặp được thầy nhiệt tình, khi đi làm gặp được chủ tốt, khi sống sứ vụ loan báo tin-mừng gặp được bạn đồng tâm đồng lòng. Amen.
Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng bao giờ cũng dành chỗ đặc biệt để nói về Đức Mẹ. Mà chẳng đề cao MV 4-C150
Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng bao giờ cũng dành chỗ đặc biệt để nói về Đức Mẹ. Mà chẳng đề cao vai trò của Đức Mẹ sao được khi mẹ Maria đã được Thiên Chúa chọn lựa để làm mẹ Con Thiên Chúa, làm mẹ chính Thiên Chúa và mẹ nhân loại, mẹ Giáo Hội…Mẹ Maria nắm vai trò quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Mẹ Maria là người được chúc phúc hơn mọi người nữ như lời bà Êlisabét ca tụng mẹ.
Vâng, Tin Mừng của Thánh Luca hôm nay cho ta gặp gỡ hai người phụ nữ : Đức Maria và và Êlisabét, cả hai phụ nữ nay đều đang mang thai. Cả hai thai của hai người phụ nữ đều là những phép lạ. Đức Trinh nữ Maria, mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần và bà Êlisabét thụ thai cũng bởi quyền năng của Thiên Chúa vì hai ông bà Giacaria, Êlisabét đã già,và mang tiếng là son sẻ. Mẹ Maria khi nói lời xin vâng làm theo ý Chúa, đã vội vã lên đường đi thăm bà chị họ là Êlisabét.Cuộc gặp gỡ này, tạo điều kiện, cơ hội để Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Êlisabét và Hài Nhi Giêsu nơi cung lòng thanh khiết của Đức Mẹ được gặp nhau trong sự vui mừng, hân hoan và tràn đầy Chúa Thánh Thần. Bà Isave đã nhận ra điều mà mắt thường, sự suy nghĩ thường không bao giờ có thể nhận ra được.Nhưng với ơn Chúa Thánh Thần bà Isave đã nhận ra con trong cung lòng của Mẹ Maria là Đấng Cứu Thế.,
Mẹ Maria đem niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với người chị họ Isave, nhưng cũng đem đến cho người chị họ sự phục vụ. Mẹ Maria càng xác tín hơn điều mà Mẹ đã lãnh nhận, bởi vì chính điều kín ẩn nơi cung lòng của Mẹ đã được người chị họ nhận ra. Mẹ đã tin và chị họ của mình cũng đã tin. Do đó, Mẹ cất tiếng ngơi khen Thiên Chúa và ca ngợi Lòng Thương xót của Chúa đối với Mẹ…Mẹ biết mình là người có phúc hơn mọi người nữ vì Thiên Chúa chọn mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tin vào Lời của Chúa cũng như người chị họ đã tin vào Lời của Chúa.
Mẹ đã cưu mang Đấng Mêsia bởi phép Chúa Thánh Thần.Mãi mãi Thiên Chúa gìn giữ Mẹ. Mãi mãi cung lòng của Mẹ là nơi Thiên Chúa ngự trị. Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Thiên Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra có Cha, có Mẹ. Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm đức tin. Mẹ đã tin.Nhân loại cũng phải tin như Mẹ.
Bà Êlisabét đã tin vào Lời của Chúa.Mẹ Maria cũng đã tin vào Chúa. Tất cả đều thành sự như lời Thiên Chúa truyền…
Mừng mầu nhiệm Giáng Sinh Nhập Thể, mọi Kitô hữu trên thế giới phải yêu mến gia đình, tôn trọng phụ nữ và tôn trọng thai nhi.Biết bao phụ nữ lầm lỗi đã phá đi biết bao mạng trẻ vô tội.Chúng ta cầu nguyện cho mọi phụ nữ trên thế giới, đặc biệt trong giáo xứ chúng ta biết bảo vệ phẩm giá làm người của mình, đừng biến thân xác mình làm trò chơi cho thiên hạ.Tin mừng Giáng Sinh và Sứ điệp Giáng Sinh là kính trọng thân xác phụ nữ, tôn trọng thai nhi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn một gia đình có Cha có Mẹ để sinh ra.Xin giúp chúng con biết yêu mến và bảo vệ sự hạnh phúc của gia đình.Amen.
Gợi ý để chia sẻ :
1.Mẹ Maria đi thăm bà chị họ Êlisabét để làm gì ? 2.Bà chị họ đã nói gì với Đức Trinh Nữ Maria ? 3.Mẹ Maria đã chúc tụng Thiên Chúa thế nào ? 4.Sứ điệp của Lễ Giáng Sinh là gì ? 5.Chúa Nhật IV Mùa Vọng thường nói về ai ?