“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. - Ðó là lời Chúa.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. - Ðó là lời Chúa.
Từ lên trời chứng tỏ một điều gì xa cách, một cái gì đó chia lìa. Đối với Chúa phục sinh lên trời LênTrời ABC-351
Từ lên trời chứng tỏ một điều gì xa cách, một cái gì đó chia lìa. Đối với Chúa phục sinh lên trời không có nghĩa là lên một chỗ xa xôi mông lung nào đó ở trên cao. Chúa lên trời có nghĩa là Chúa đón nhận lại vinh quang tràn đầy, viên mãn của một vị Thiên Chúa, mà khi hóa kiếp làm người Chúa đã khước từ để sống hòa đồng với con người ngoại trừ tội lỗi, và sau khi đã hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha,Chúa đã mặc lại vinh hiển đó.Chính vì thế, chúng ta hãy nhớ lại lời của các hai thiên thần mặc áo trắng đã lay tỉnh các tông đồ:” Các ông người Galilê, tại sao các ông cứ đứng đó nhìn trời “ ( Cv 1, 1-11 ).
Thực sự, các môn đệ và các tông đồ vẫn chưa hiểu rõ việc Chúa về trời. Dù rằng, sau khi sống lại Chúa phục sinh đã nhiều lần trấn an và củng cố niềm tin của các môn đệ, đồng thời đã nhiều lần nói cho các môn đệ hay Chúa đi nhưng Chúa luôn hiện diện với các môn đệ trong Lời của Ngài và trong các ân ban của Ngài. Có một điều quan trọng nhất là Chúa phục sinh luôn ban bình an cho các môn đệ bởi vì nếu thiếu sự an bình của Chúa, các môn đệ sẽ hoang mang và đứt gánh giữa đường. Trước khi về trời, Chúa trao cho các môn đệ sứ mạng cao cả và khẩn thiết:” Phải nhân danh Chúa mà rao giảng cho muôn dân “ ( Lc 24, 47 ). Chúa phục sinh đặt hoàn toàn tin tưởng nơi các môn đệ và mọi Kitô hữu làm chứng cho Ngài khắp nơi, khắp chốn và loan báo, giới thiệu Danh chí Thánh của Ngài cho toàn thể nhân loại. Chúa về trời để cho các môn đệ và nhân loại hiểu rằng:” Tất cả đều là cánh tay nối dài của Chúa để thu góp nhiều người về Giáo Hội do Chúa thiết lập “. Công cuộc truyền giáo và việc cứu độ, Chúa muốn các tông đồ và Hội Thánh góp tay để xây dựng, để mở mang. Ngài muốn các tông đồ làm chứng Chúa về với Chúa Cha vì Ngài đến trần gian do ý Thiên Chúa Cha. Chúa muốn các môn đệ ra đi khắp nơi xây dựng một thế giới đầy yêu thương, hiệp nhất và an bình theo mẫu trời mới đất mới Chúa đã loan báo trước. Thế giới ấy Con Thiên Chúa đã hy sinh mạng sống cứu chuộc để làm của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa Cha. Chúa về với Chúa Cha nhưng thực tế Ngài luôn canh cánh bên lòng đưa toàn Giáo Hội và mọi Kitô hữu về với Ngài ngay khi nhân loại còn đang sống trong hiện tại. Chúa về trời nhưng Ngài vẫn đang sống với Hội Thánh, với con người ngay ở dưới thế này. Đây là một mầu nhiệm bởi vì Giáo Hội lữ hành đang gắn bó với trái đất nhưng không ngừng lên trời với Chúa phục sinh, về cùng Chúa Cha của Chúa sống lại nhưng cũng là Cha của mỗi người.
Lễ Thăng Thiên là một lễ lớn trong phụng vụ. Chính vì thế, lễ này là một thông điệp cho toàn Giáo Hội hãy ra khơi, hãy thả lưới. Thế giới còn gần 80% những người chưa được loan báo Tin Mừng, chưa được nghe Danh Đức Kitô. Chúa về trời nhưng Chúa vẫn hiện diện sống động giữa con người, giữa mọi người, giữa cuộc sống của Hội Thánh. Người môn đệ Chúa hãy làm cho bộ mặt phục sinh của Chúa rõ nét trong cuộc sống, nhờ thế, nhiều người sẽ biết và nhận ra Chúa. Chúng ta hãy tưởng tượng Lễ Thăng Thiên giống như ngọn lửa thế vận được chuyền từ tay vận động viên này tới vận động viên khác, cho tới khi ngọn lửa được châm bùng lên để rồi nó sẽ sáng mãi cho tới ngày chấm dứt thế vận hội. Hãy làm chứng cho Chúa phục sinh bằng chính đời sống thánh thiện, đạo đức của mình.
“Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
Các con là ánh sáng cho toàn thế giới …
…Ánh sáng chúng con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời “(Mt 5,13-16 ).
Lạy Chúa phục sinh, chúng con tin Chúa luôn hiện diện với chúng con trong cuộc lữ hành trần thế tiến về Quê Trời. Amen.
Lc 24:46-53: 46 và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này. 49 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. 51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. 52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Đây là cuộc đối thoại cuối cùng với các tông đồ trước khi Chúa Giêsu lên trời. Người cho họ LênTrời ABC-352
Đây là cuộc đối thoại cuối cùng với các tông đồ trước khi Chúa Giêsu lên trời. Người cho họ hiểu lần cuối sứ mệnh của Người như đã được viết trong các Sách Thánh. Đồng thời Người giao phó cho họ sứ mệnh sắp đến là làm chứng về tất cả những gì họ đã nghe và biết về Người; để trợ giúp họ, Người ban cho họ Thánh Thần. Rồi Người lên trời; còn các tông đồ bắt đầu sứ mệnh của họ. Nằm trong chương 24 trình bày những biến cố và giáo huấn của Chúa Giêsu sau khi Người sống lại, đoạn 24:44-53 gồm hai phần: - Giáo huấn các tông đồ bằng cách làm cho hiểu những điều Sách Thánh nói về Người và giao phó cho họ sứ mạng (24:44-49); - Trình thuật lên trời (24:50-53).
Giáo huấn các tông đồ về con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu (24:44-49)
Để có thể hiểu dễ dàng hơn, đoạn nầy được chia thành hai phần: - Ứng nghiệm những điều đã nói trong các Sách thánh về Chúa Giêsu (24:44-46); - Sứ mạng trao phó cho các tông đồ (24:47-49).
Các tông đồ bị vấp ngã trước cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Họ nghi ngờ về Người như là Đấng Được Sai Đến. Xem câu chuyện hai môn đệ về làng Emmaus (24:13-35; x. 1Cor 1:23.28-24). Chúa Giêsu hiểu điều nầy; nên Người phải dùng đến các Sách Thánh để làm chứng về Người. Với dân Israel, các Sách Thánh là nơi ý định của Thiên Chúa được bày tỏ; đồng thời, họ xem các Sách Thánh là nguồn uy tín nhất để hiểu và giải thích nhất là những điều liên quan đến đời sống tôn giáo. Câu đầy đủ nhất là “phải ứng nghiệm tất cả những gì được viết trong luật Môsê và các ngôn sứ và thánh vịnh về Tôi” (24:44. 45.46). Điều mà các Sách Thánh viết là “Đấng Kitô chết và sống lại từ kẻ chết vào ngày thứ ba” (24:26; x. 9:22; Cv 17:2-3). Các tông đồ đã không hiểu các điều nầy, mặc dù Chúa Giêsu đã lấy Sách thánh mà tiên báo về cái chết và sự sống lại của Người (18:31-34). Bởi đó, họ cần được mở lòng để hiểu (24:45; 24:25). Lời nầy trong các Sách Thánh chỉ có thể hiểu được cách tường tận khi nó đã được thực hiện: Đấng Kitô đã sống lại. Đầu tin mừng khi Chúa Giêsu khởi đầu việc rao giảng công khai, Người tuyên bố là “đã ứng nghiệm” (4:21) lời Sách Thánh trích trong ngôn sứ Isaia (Is 61:1tt; 58:6), nói về sứ mệnh của Người. Bây giờ Người lại tuyên bố là “phải ứng nghiệm” (24:44) để đánh dấu công việc ấy đã hoàn tất. Như thế, Người muốn các tông đồ nhận biết cách rõ ràng và chắc chắn Người chính là Đấng Kitô do Thiên Chúa sai đến, và sự chết và sống lại của Người nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sứ mạng trao phó cho các tông đồ (24:47-49)
Chúa Kitô chết và sống lại là nền tảng và nội dung căn bản của lời rao giảng sám hối để được tha tội (24:47; Cv 2:38; 5:31; 17:30). Lời kêu gọi sám hối để được tha tội đã ngỏ với dân Do thái (1:77; 3:3; 4:18; 5:32; 15:7) để chuẩn bị họ đón nhận tin mừng do Chúa Giêsu rao giảng. Các tông đồ sẽ tiếp tục lời kêu gọi nầy, vì họ sẽ bắt đầu thời kỳ mới rao giảng về Chúa Kitô chết và sống lại; không còn chỉ cho Israel, mà mọi dân tộc. Khi nhân danh Chúa Kitô rao giảng sự sám hối, các tông đồ lấy tư cách và uy quyền của Chúa Kitô mà làm việc nầy. Mục đích là tái lập sự hiệp thông với Thiên Chúa nhờ tin vào Đấng Kitô và nhờ hiệu quả của sự chết và sống lại của Người mà được tha tội (x. Cv 2:38; 3:16; 4:12.17.18; 5:28.40.41). Việc nầy “khởi đầu từ Giêrusalem”, vì nơi đó sứ mạng của Chúa Giêsu đã hoàn tất cách dứt khoát. Chúa Giêsu sống lại làm cho họ trở thành những chứng nhân (24:48; x. 1:2; Cv 1:8.22; 2:32; 3:15; 5:32). “Những điều nầy” là những sự kiện đã xảy ra và những giáo huấn của Chúa Giêsu mà họ đã chứng kiến, lắng nghe và cả cảm nghiệm bằng đức tin (Cv 2:22-36). Tiếp theo việc giao phó sứ mạng làm chứng, Chúa Giêsu loan báo việc ban Thánh Thần do Chúa Cha đã hứa (24:49; Gio 16:7; 14:16). Khi Người đến, Thánh Thần sẽ làm cho họ hiểu hơn về Chúa Giêsu như là Đấng Kitô; đồng thời giúp họ chu toàn vai trò làm chứng cho Người.
Biến cố Chúa Giêsu lên trời (24:50-53)
Biến cố nầy được trình bày cách chi tiết hơn trong Cv 1:4-14. Có thể phân chia đoạn nầy như sau: - Bêtania nơi Chúa lên trời (24:50a); - Hành động của Chúa trước khi lên trời (24:50b-51); - Các tông đồ sau khi Chúa đã lên trời (24:52-53). Bêtania (24:50a), nơi Chúa lên trời, được ghi nhận gần hơn là ngọn núi Cây Dầu (Cv 1:12). Các tông đồ được Chúa Giêsu dẫn đến đó có tên trong danh sách Cv 1:13. Việc “được đem lên trời” được diễn tả cách khác là “đám mây che Người khỏi mắt họ” (Cv 1:9). Đám mây tượng trưng cho “nơi” Thiên Chúa cư ngụ. Vậy “lên trời” là đi vào trong vinh quang của Thiên Chúa (x. 24:24.46), và mắt con người không thể nhìn thấy “nơi” nầy.
Giữa trình thuật lên trời và trình thuật giáng sinh có nhiều chi tiết tương đồng. Rất có thể Luca cố ý trình bày như vậy để nhấn mạnh sứ mạng đã khởi đầu của Chúa Giêsu, nay kết thúc. Trong trình thuật giáng sinh, Luca mô tả các thiên thần xuất hiện và loan báo cho các mục đồng Đấng Kitô xuống trần gian (2:9-11). Trong trình thuật lên trời, cũng chính các thiên thần loan báo cho các tông đồ là Người đã về trời rồi (Cv 1:11). Như thế, sứ mạng ở trần gian đã kết thúc. Chúa Giêsu trở về nơi Người đã đến. Luca nói đến “niềm vui lớn” cả khi Chúa sinh ra lẫn khi Người về trời (2:10 và 24:52). Niềm vui khởi đầu là Đấng Cứu Thế, cũng là Đấng Kitô, đã sinh ra cho mọi người (2:10-11). Người là sự cứu độ mà muôn dân trông đợi (2:30; 3:6). Bởi đó mọi người đều vui mừng: các mục đồng (x. 2:15-20), Zacharia (1:64.68-79), Simêon (2:28-32). Sự cứu độ ấy nay được Đấng Kitô thực hiện trong cái chết và sống lại của Người (24:46.52). Bởi đó các tông đồ vui mừng vì họ đã chứng kiến được việc quyền năng nhất Thiên Chúa đã làm trong Đấng Kitô. Luca khởi đầu tin mừng với việc tế tự của Zacharia trong đền thờ (1:8-10) để cầu xin Thiên Chúa nhớ lại dân của Người mà ban ơn cứu độ. Ông (1:64), Simêôn (2:28), Elizabeth (1:42) và Maria (1:46-55) đã chúc tụng Thiên Chúa khi nhận ra những dấu hiệu cứu độ khởi đầu. Kết thúc tin mừng, Luca nói đến việc các tông đồ trở lại đền thờ để chúc tụng Thiên Chúa (24:55). Họ sẽ còn tiếp tục lui tới đền thờ để cử hành việc bẻ bánh và chúc tụng Thiên Chúa (2:26-47), cầu nguyện (3:1) và rao giảng Chúa Giêsu là Đấng Kitô (5:42). Vậy, với trình thuật lên trời kết thúc tin mừng, Luca cho thấy sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu đã hoàn tất đúng theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa đáng mọi lời chúc tụng (2:14, 24:53).
Chúa Giêsu đã hoàn tất chương trình cứu độ Thiên Chúa muốn. Bây giờ Người đi vào trong vinh quang của Cha Người. Người là gương mẫu của những người tôi tớ trung tín (x. 19:12-27).
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 24:46-53)
Những lời nói, cử chỉ hay việc làm của một người sắp đi xa bao giờ cũng rất quan trọng đối với LênTrời ABC-353
Những lời nói, cử chỉ hay việc làm của một người sắp đi xa bao giờ cũng rất quan trọng đối với những người ở lại. Chúa Giê-su lên trời không có nghĩa là Người đã kết thúc sứ mệnh, mà chỉ là chuyển đổi sang một giai đoạn mới, giai đoạn cần sự tiếp tay của các môn đệ. Thời gian Chúa Giê-su hoạt động với tư cách Thiên Chúa làm người đã mãn, để bắt đầu từ bây giờ Người sẽ hoạt động bằng Thánh Thần của Thiên Chúa. Sứ mệnh tại thế của Chúa Giê-su là Nhập Thể, rao giảng Tin Mừng, “phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”. Biến cố Lên trời mở ra một hoạt động mới, nhưng là tiếp tục những gì Người đã thực hiện trong những năm tháng “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).
Trong hoạt động mới này, Chúa mời các môn đệ cộng tác. Sứ mệnh Chúa Giê-su trao cho họ gồm hai việc: a) rao giảng cho thế giới biết Chúa đã nói gì và đã làm gì cho nhân loại; b) làm chứng nhân cho Người và cho những giá trị Tin Mừng.
Để thi hành sứ vụ cao quý này, các môn đệ được Chúa sai đi cần phải có hành trang. Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai đến với nhân loại và hành trang của Người là Thánh Thần. Giờ đây Người sai môn đệ đi và hành trang của họ cũng phải là Thánh Thần. Người bảo họ cứ ở lại Giê-ru-sa-lem một thời gian ngắn và họ sẽ lãnh nhận hành trang là Thánh Thần trước khi lên đường thi hành sứ vụ.
Chúng ta cũng không thể bỏ qua cử chỉ của Chúa Giê-su khi lên trời. Người “giơ tay chúc lành cho các ông, và đang khi chúc lành, Người rời khỏi các ông và được đem lên trời”. Thật là một cuộc ra đi đầy ý nghĩa, không nước mắt, không ồn ào tiễn biệt, nhưng vừa trang trọng vừa đầy tràn tình yêu thương.
Như vậy, Lên Trời không chỉ là biến cố của riêng Chúa Giê-su mà còn là biến cố của Ki-tô hữu chúng ta. Đó là một móc nối cần thiết giữa Chúa Giê-su và chúng ta, giữa sứ mệnh của Người và sứ mệnh của chúng ta. Nó đánh dấu giai đoạn Chúa ở với chúng ta trên trần gian, nhưng cũng đánh dấu giai đoạn Người ở lại với chúng ta qua Thánh Thần của Người như Người đã hứa: Thầy ở lại với anh em cho đến ngày tận thế. Sống sứ điệp Tin Mừng
Lắng nghe những lời sau hết của Chúa Giê-su và chiêm ngưỡng Chúa được đem lên trời rồi, chúng ta hãy nhìn vào các môn đệ Chúa để học bài học của họ. Cũng như họ, chúng ta hãy “bái lạy Chúa”, tức là nhìn nhận Người là Thiên Chúa của chúng ta. Chúng ta “trở lại Giê-ru-sa-lem” của chúng ta, trở về với môi trường sống hằng ngày là gia đình, sở làm, khu phố, láng giềng. Chúng ta “ở lại trong Đền Thờ”, nghĩa là tham gia những sinh hoạt đạo đức tại nhà thờ giáo xứ cùng các anh chị em giáo dân. Tuy nhiên chúng ta sẽ làm tất cả những điều ấy với thái độ “lòng đầy hoan hỷ”, vì đó là tư thế của đời sống Ki-tô hữu đích thực, những con người sống trong tinh thần lạc quan và sống bằng tình yêu thương Chúa Giê-su đã dạy chúng ta.
Với chúng ta, việc Chúa Giê-su Lên Trời không chỉ là một sự kiện, nhưng là một mệnh lệnh Chúa sai chúng ta đi tiếp nối sứ mệnh của Người. Chúng ta đi rao giảng bằng chính cuộc sống hằng ngày và chúng ta làm chứng cho Chúa bằng cách cư xử với anh chị em qua lời nói và hành động thấm nhuần tinh thần Ki-tô của chúng ta. Có như vậy thì những lời nói và cử chỉ của Chúa Lên Trời mới thực sự có ý nghĩa đối với chúng ta.
Lễ Chúa Giêsu Lên Trời thường được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI Mùa Phục Sinh LênTrời ABC-354
Lễ Chúa Giêsu Lên Trời thường được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI Mùa Phục Sinh, nhưng ở nhiều Giáo Phận, Lễ này thường được chuyển vào ngày Chúa Nhật VII Mùa Phục Sinh để giáo dân có thể đi dâng Thánh Lễ đông đủ hơn. Thánh Lễ hôm nay mừng kỷ niệm Chúa Giêsu Lên Trời trong vinh quang sau 40 ngày hiện ra với các môn đệ để chứng minh Ngài đã sống lại thật.
Lễ Chúa Giêsu Lên Trời là niềm hy vọng cho chúng ta là các tín hữu của Chúa: Chúa Giêsu đã sống cuộc đời trần gian như một người nghèo khó, rao giảng Tin Mừng cứu độ, chịu khổ nạn và chịu chết để chuộc tội chúng ta , chịu táng trong mồ; nhưng sau ba ngày, Ngài đã Sống Lại và Lên Trời trong vinh quang để mở đường về trời cho mọi người chúng ta, khi mỗi người chúng ta lần lượt từ giã cuộc đời đau khổ trần gian qua cái chết mà ai cũng phải trải qua. “Sinh Qúy Tử Quy!” “Sống Gửi Thác Về!” Sự chết không còn là sự tuyệt vọng, một sự tan biến vào hư vô, nhưng là ‘qua cuộc đời’ đau khổ này để trở về quê hương thật, trở về với Chúa là Cha (Sách Khôn Ngoan 3:1-7).
Bài Đọc I (Năm A, B, C: Công Vụ Tông Đồ 1: 1-11) là đoạn đầu của Sách Công Vụ Tông Đồ ghi lại việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ: Chúa Giêsu đã căn dặn các ông đừng rời xa Giêrusalem, chờ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống ban ơn thánh hóa và soi sáng để các ông trở nên những Tông đồ nhiệt thành đi rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cho mọi người, ở mọi nơi, bắt đầu từ Giêrusalem.
Bài Đọc II (Năm A, B, C: Thư Êphêsô 1: 17-23) Thánh Phaolô cầu xin Chúa cho các tín hữu được ơn soi sáng để hiểu biết và tin tưởng nơi Chúa Giêsu đã ‘từ cõi chết sống lại’ và đã Lên Trời trong vinh quang, Ngài là đầu toàn thể Hội Thánh, và chúng ta là các chi thể của Ngài.(Bài Đoc II Năm C có thể chọn Thơ Do Thái 9:24-28;10:19-23).
Bài Phúc Âm (Năm C: Luca 24: 46-53) là đoạn cuối cùng của Phúc Âm Thánh Luca. Trong đoạn này, Thánh sử Luca ghi lại những lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ về những lời “các Tiên tri nói về Đấng Kitô phải chịu khổ hình, nhưng ngày thứ ba Ngài sống lại từ cõi chết” đã được thực hiện, và bổn phận các Tông đồ là phải làm chứng cho cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, và “rao giảng sự thống hối và ơn tha tội cho mọi người, mọi nơi bắt đầu từ Giêrusalem;” sau đó, Chúa Giêsu chúc lành cho các ông trước khi “rời khỏi các ông mà lên trời.” Các Tông đồ được ơn an ủi của Chúa, vui mừng trở lại Giêrusalem và vào Đền thờ ca tụng Thiên Chúa.
Trng Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca cũng ghi lại nơi Chúa Giêsu về trời là gần Bêtania; nhưng trong Công Vụ Tông Đồ (1:12), Thánh Luca ghi rõ hơn về địa điểm Chúa Giêsu lên trời là núi Ô-liu, gần Bêtania .Bêtania ở đây là quê hương của bà Mátta, Maria và Lagiarô, cách Giêrusalem gần 3 cây số (Gioan 11: 18), khác với Bêtania ở phía đông sông Giođanô, nơi Thánh Gioan Baotixita làm Phép Rửa (Gioan 1:28). Nếu chúng ta có dịp hành hương kính viếng Đất Thánh, chúng ta sẽ được hướng dẫn đi kính viếng địa điểm nơi Chúa Giêsu về Trời như Thánh Luca ghi lại.
Trong sách Công Vụ Tông Đồ 1:13-14, Thánh Luca còn ghi thêm một điểm đặc biệt khác rất cảm động, đó là: sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời, các ông vui mừng về Giêrusalem để cùng họp nhau cầu nguyện chung tại ngôi nhà nơi các ông thường cư ngụ, chờ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, có cả sự hiện diện của Mẹ Maria, anh em của Chúa và mấy bà đạo đức khác.
Trước khi Chúa Giêsu lên trời, Chúa cũng đã hứa với các Tông Đồ: “Cha vẫn còn ở với các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Matthêu 28:20). Như vậy, Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài từ bỏ Giáo Hội, từ bỏ Đoàn Chiên của Chúa, nhưng Ngài vẫn ở cùng Giáo Hội và chăn dắt đoàn chiên của Chúa qua các vị Mục Tử mà Chúa đã chọn, đã thánh hiến và sai đến giữa chúng ta (Mátthêu 28: 18-20; Gioan 21: 15-17). Vậy, chúng ta đừng bao giờ thất vọng khi thấy những biến cố đau thương, những bách hại xảy ra cho Giáo Hội. Con thuyền Giáo Hội, trong khi vượt biển trần gian, luôn gặp những sóng to, gió lớn, những bão tố, nhưng không bao giờ bị chìm đắm, như Chúa đã nói với Thánh Phêrô: “Con là Đá, trên Đá này, Thày sẽ xây Giáo Hội của Thày, và mọi quyền lực thế gian cũng không thắng nổi!” (Mátthêu 16:18).
Cuộc vượt biển trần gian của mỗi người chúng ta cũng nhiều khi gặp ‘sóng to, gió lớn’ nhưng đừng bao giờ chúng ta thất vọng, vì Chúa Giêsu Sống Lại và Lên Trời là Niềm Hy Vọng vững chắc của chúng ta là những tín hữu của Chúa.
Xin Chúa Giêsu Lên Trời chúc lành cho Giáo Hội của Chúa, cho Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam, cho mọi người chúng ta, gia đình chúng ta, và cho toàn thể thế giới. Tạ ơn Chúa! Amen! Alleluia! Alleluia!
Thiên thai gợi lên bao nhiêu hình ảnh viễn mộng. Một cảnh tượng tuyệt vời hầu như không bao LênTrời ABC-355
Thiên thai gợi lên bao nhiêu hình ảnh viễn mộng. Một cảnh tượng tuyệt vời hầu như không bao giờ tìm thấy trong cuộc đời thực tế. Thế nhưng hôm nay Đức Giêsu sẽ hướng tất cả nhân loại nhìn về cảnh thiên thai, nơi Chúa Cha đang chờ đợi Chúa Con trở về trong vinh quang sau bao thử thách trần gian. NIỀM VUI LY BIỆT.
Giây phút cuối cùng cuộc đời Đức Giêsu đã đến. Khác hẳn những ngày đi trong bóng đêm thập giá, các môn đệ “lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24:52) khi “Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.” (Lc 24:51) “Niềm vui đã được loan báo khi thánh Gioan và Đức Giêsu sinh ra (Lc 1:14; 2:10) và khi Đức Giêsu chuẩn bị sứ vụ (Lc 8:13; 10:17; 15:7, 10), nhưng nay sẽ hoàn thành vào giây phút cuối cùng.” (NIB 1995:489) Hình ảnh tuyệt vời đó không cuốn đi tất cả những gì tươi đẹp nhất khỏi trần gian. Trái lại, từ nay niềm hi vọng sẽ tràn ngập mặt đất vì “Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa.” (Lc 24:49) Đúng hơn, “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần,” (Cv 1:8) để thực hiện tất cả giấc mộng cứu nhân độ thế.
Giấc mộng đó thành sự thật khi “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:8) Ơn cứu độ có một chiều kích vượt khỏi tầm nhìn của các tông đồ, nhưng đồng thời cũng có một độ sâu không ai dò thấu, tức là lòng người. Chính nơi đây sẽ diễn ra một chuyển biến lớn lao. Vâng lời Thầy, các môn đệ “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24:47) Làm cách nào đi sâu vào lòng người như thế ? Thưa, “chính anh em là chứng nhân về … Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.” (Lc 24:48, 46) Chỉ có kinh nghiệm sống với Thầy mới đánh động lòng người sâu thẳm như vậy. Các môn đệ không làm chứng về giáo lý hay phép lạ. Tất cả lời giảng chỉ xoay quanh sự kiện khổ nạn và phục sinh mà thôi.
Nhưng sự kiện đó chỉ được một số ít chứng kiến. Làm sao lời chứng đó vẫn còn giá trị đối với những người không bao giờ được diễm phúc sống với Đức Giêsu ? Thực ra “ý nghĩa lời chứng đã chuyển từ vai trò chứng kiến tận mắt sang vai trò có thể làm chứng về tầm quan trọng của Đức Giêsu. Thánh Phaolô có thể làm chứng bằng lời tuyên xưng, mà chẳng phải là chứng nhân tận mắt những biến cố về sứ vụ Đức Giêsu (Cv 1:22)” (NIB 1995:488) Không thấy nhưng vẫn có thể làm chứng mạnh mẽ. Chỉ Thánh Linh mới có thể thực hiện được việc đó nơi các chứng nhân sau này. Lời chứng ngày càng mạnh mẽ và tạo nên những chứng nhân anh hùng. Nếu không tin, người ta dễ kết án là cuồng tín hay mê tín. Trái lại, đức tin sẽ giúp con người nhận ra “niềm hi vọng”, “gia nghiệp vinh quang phong phú” và “quyền lực vô cùng lớn lao” (Ep 1:18, 19) nơi những lời chứng đó. “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực,” (Ep 1:19) vì phát xuất tự Thánh Linh.
Thánh Linh đã phục sinh Đức Giêsu, trả lại danh dự và rửa nhục cho Người. Thăng thiên chính là lúc Người chiến thắng kẻ thù và tìm về nguồn gốc thần linh của mình. Tầm vóc thần linh của Người vươn cao đến ngai tòa Thiên Chúa. Từ nay Người sẽ bá chủ muôn loài và đi vào tương quan sâu xa hơn với cộng đoàn Người đã thiết lập trên trần gian. Quả thế, “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh.” (Ep 1:22) Khi “rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Lc 24:51) , Người vẫn không quên “giơ tay chúc lành cho các ông.” (Lc 24:50) Chính nhờ phúc lành ấy, các ông đã phấn khởi lên đường làm chứng cho Chúa. Phúc lành như một bảo chứng “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Phúc lành báo trước “quyền năng từ trời cao ban xuống.” (Lc 24:49) Người càng lên cao, quyền lực ấy càng lan rộng. Lan rộng tới mức bao trùm cả vũ trụ, vì quyền lực Người lên tới tột đỉnh khi ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ep 1:20).
Nhờ quyền lực ấy, các tông đồ đã có thể làm cho nhiều con mắt và tâm trí nhìn thấy tính cách “hữu lý” của mầu nhiệm phục sinh và nghe theo những lời giải thích Kinh thánh mà đi theo sự hướng dẫn của các môn đệ và “chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:53) không ngừng (x. NIB 1995:489) Nhờ đó, tín hữu ngày càng đào sâu niềm tin nơi Thiên Chúa. “Cộng đoàn niềm tin kinh nghiệm Thiên Chúa như Đấng cứu độ, sai đi và chúc lành.” (NIB 1995:490) Từ kinh nghiệm sâu xa đó, họ mới có thể chia sẻ với người khác tất cả phúc lành đã đón nhận từ nơi Thiên Chúa. Cộng đoàn đức tin không thể sống mà không có phúc lành đó. Chính nhờ phúc lành cộng đoàn mới có thể tìm được niềm vui lớn lao và năng lực thi hành những điều Chúa truyền dạy. Niềm vui là dấu chỉ cộng đoàn đang sống trong phúc lành của Chúa. “Niềm vui là kết quả tự nhiên của phúc lành.” (NIB 1995:490) Khi đón nhận phúc lành, “các ông bái lạy Người”, “lòng đầy hoan hỉ,” và “chúc tụng Thiên Chúa.” (Lc 24:52, 53) Đó là những phản ứng tự nhiên của những tấm lòng biết ơn và suy phục Thiên Chúa.
Vì thế “một linh đạo và phụng vụ lành mạnh và thấm nhuần kinh thánh đòi phải có một sự quân bình tương xứng giữa lời giảng về Thiên Chúa như Đấng Cứu chuộc và Cứu thế, kinh nghiệm về phúc lành của Thiên Chúa, và sự vâng phục lệnh truyền công bố danh Thiên Chúa cho muôn dân.” (NIB 1995:490) Lời rao giảng chỉ là tiếng kêu bật lên từ một kinh nghiệm sâu xa và lòng biết ơn vô hạn về muôn ơn lành Chúa ban nhờ cái chết và sự phục sinh của Con Chúa. Sống trong phúc lành và quyền lực Thiên Chúa, các môn đệ không cảm thấy xa lìa “Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời” (Cv 1:11) về thể lý. Về tinh thần, các ông cảm thấy gắn bó với Chúa đến nỗi tin rằng “Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người.” (Ep 1:23) Không còn sự liên kết nào bền chặt hơn ! Đó là một mầu nhiệm giải thích tất cả sức mạnh Hội thánh trên trần gian và hạnh phúc sâu xa của người đặt tất cả niềm tin nơi Chúa.
Hạnh phúc đó không phải là suốt ngày “đăm đăm nhìn lên trời” (Cv 1:10), nhưng dấn thân làm chứng cho Thầy “cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:11) Nỗ lực ấy phải trải dài ra trong một không gian và thời gian hầu như vô tận để kiếm tìm những người biết “sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24:47) Làm sao cho con người thành tâm nhìn ra sự thật về chính mình và cảm thấy nhu cầu cần được giải thoát nhờ ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô ? Chúa thăng thiên để bảo đảm các chứng nhân sẽ thành công trong nỗ lực đem muôn dân về cùng Thiên Chúa. Thật vậy, khi về trời “Đức Giêsu mãi mãi hiện diện với Thiên Chúa.” và “hiện diện mãi mãi giữa trần gian.” (Encyclopedia of Catholicism: 99) Như thế Người đi ra để hiện diện một cách sâu xa và mãnh liệt hơn. Người hiện diện cả hai cõi Thiên Chúa và con người để cho các môn đệ thấy họ chẳng mất mát gì trong cuộc chia ly. Đó là lý do tại sao có niềm vui biệt ly trên cõi đời này ! SỨC SỐNG GIÁO HỘI.
Đúng như Đức Giêsu đã hứa, “sức mạnh của Thánh Thần” (Cv 1:8) đã đẩy các “chứng nhân của Thầy đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:8) Trên quê hương Việt Nam hôm nay, vẫn có hằng ngàn chứng nhân ngày đêm noi gương cha ông làm chứng cho Chúa trên miền rừng núi âm u hay các vùng biên giới, trong các trại cùi hay bệnh viện. Nếu không có sức mạnh Thánh Thần, làm sao các chứng nhân đó có thể tìm được niềm vui và bình an giữa bao sóng gió như thế ? Sức sống Giáo hội thật là một mầu nhiệm. Càng bị bách hại, Giáo hội càng vươn lên !
Từ Mật Hội Hồng Y Đoàn vừa qua, ĐHY Tonini nói: “Nghe ĐHY Jakarta nói về tử đạo, về những vụ thảm sát mà người Công giáo phải trải qua tại các đảo khác nhau của Indonesia; nghe các giám mục trong thế giới của giới trẻ, tôi phải nói rằng chúng ta đang đứng trước một Giáo hội tràn đầy sức sống, và đó là điều kỳ diệu biết mình thuộc về một Giáo hội như vậy.” (VietCatholic 24/5/2001) Sức sống Giáo hội không phải tại việc tổ chức, nhưng vì “Chúa Kitô đang sống giữa chúng ta, Người phấn chấn chúng ta với Thần Khí của Người và giúp chúng ta nhìn ra những gì sẽ xẩy đến, ngõ hầu thế hệ này sẽ nhận ra rằng mình đang sống trong giây phút phi thường nhất của lịch sử thế giới, bởi vì bây giờ mới thật sự trở về lúc khởi đầu.” (ĐHY Tonini, VietCatholic 24/5/2001) Sức sống Giáo hội cũng không hệ tại tiền bạc, mặc dù một tổ chức lớn lao như Giáo hội đòi phải có tiền mới có thể có những phương tiện truyền giáo và những cơ sở hoạt động. Bước theo Thày chí thánh, “Giáo hội trở nên nghèo bởi vì Giáo hội tràn đầy Thiên Chúa. Giáo hội nghèo vì Giáo hội có nhiều thứ vĩ đại hơn.” (ĐHY Tonini, VietCatholic 24/5/2001) Những thứ vĩ đại có thể tìm thấy nơi chứng từ của Giáo hội. Theo ĐHY Etchegaray, “Giáo hội cần phải có tinh thần nghèo khó. Chỉ Giáo hội nghèo khó mới có thể trở thành Giáo hội truyền giáo, và chỉ có Giáo hội truyền giáo mới có thể làm cho Giáo hội nghèo khó trở thành cần thiết cho mọi người.” (CWNews 24/5/2001) Thật là một nghịch lý. Chứng nhân luôn sống giữa những giằng co vì nghịch lý của chứng từ giữa một xã hội có quá nhiều mâu thuẫn và bất ổn.
Đáng lẽ khi xa rời các Tông đồ, Đức Giêsu đã để lại một khoảng trống lớn lao không gì bù lấp nổi. Nhưng thực ra Người ra đi để hiện diện một cách phong phú hơn bằng chính sức mạnh Thánh Linh. Nhờ đó, Giáo hội “cảm thấy nhu cầu cấp bách không những chỉ nói về Thiên Chúa, nhưng cũng làm cho Người ‘được nhìn’ ra: qua việc tuyên giảng Lời có sức cứu độ, và việc làm chứng đức tin táo bạo trong công cuộc truyền giáo được canh tân.” (Mật Hội Hồng Y, VietCatholic 25/5/2001) Cả hai mặt lý thuyết và thực tiễn đều cần cho chứng từ hôm nay. Chứng từ đó đang trở thành cấp thiết ngay trong lòng Giáo hội. Hiện tại các Kitô hữu vẫn chưa thể nào hiệp nhất với nhau. Lý do không phải chỉ vì lý thuyết, nhưng rất nhiều khi vì những lý do tâm lý mà thôi. Nghĩa là tình yêu vẫn chưa mạnh đủ để Thánh Linh có thể tìm ra mối giây liên kết mọi người trong Đức Kitô Giêsu. Nhiều người vẫn coi quyền bính Giáo Hoàng là một cản trở lớn cho việc hiệp nhất Kitô hữu. Nhưng theo ĐHY Avery Dulles, “sự rối loạn trong các giáo phái cho thấy tầm quan trọng của quyền bính trong các vấn đề giáo lý và kỷ luật.” (CWNews 24/5/2001) Do đó càng hiệp nhất, anh em Công giáo càng làm chứng mạnh mẽ cho chính những anh em Kitô của mình.
Đó là chưa kể đến những chứng từ khó khăn hơn vì những cơn bách hại và ngộ nhận. Giữa những não trạng vô thần và lối sống duy vật xã hội hôm nay, Giáo hội đã trở thành xa lạ đối với nhiều người. ĐGM Vincent Malone tại Liverpool nhận định: tình trạng suy giảm số người đi nhà thờ vì ngày càng có nhiều người cảm thấy tự mãn. Người nói: “Hình như mọi sự đều nằm trong vòng kiểm soát của chúng ta. Chúng ta không ý thức về sự lệ thuộc và nhu cầu cần có cái nhìn thần học xa hơn chính mình.” (CWNews 24/5/2001) Nói khác, người ta không còn cần Thiên Chúa nữa, trong khi Giáo hội vẫn cứ nói về Thiên Chúa ! Thiên Chúa trở thành huyền thoại giữa nền văn minh hiện đại. Làm sao cho hình ảnh Thiên Chúa sống động trước con mắt nhân loại hôm nay ? Làm sao cho con người cảm thấy nhu cầu cần đến Thiên Chúa ? Niềm tin luôn luôn là một điều kỳ diệu nhưng đã trở thành lạc điệu vì Kitô hữu đã đánh mất phẩm chất của niềm tin giữa anh em đồng loại.
Để phục hồi phẩm chất chứng từ Kitô hôm nay, theo ĐHY Jean-Marie Lustiger địa phận Paris, phải nhấn mạnh đến sứ mệnh rao giảng Tin Mừng duy nhất của Giáo hội trên toàn thế giới (CWNews 24/5/2001) Chỉ khi nào nhìn Giáo hội như Hiền thê của Đức Kitô, mới có thể cứu Giáo hội khỏi những thách đố lớn lao của thời đại hôm nay.
Ta có khuynh hướng coi lễ Chúa Thăng Thiên là một biến cố trong cuộc đời Chúa Giê-su tại LênTrời ABC-356
Ta có khuynh hướng coi lễ Chúa Thăng Thiên là một biến cố trong cuộc đời Chúa Giê-su tại trần gian. Điều đó đúng vì biến cố ấy là một trong những biến cố nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, hơn cả một biến cố, việc Chúa Giê-su lên trời sau khi sống lại còn là một sứ mệnh, sứ mệnh đưa nhân loại về cùng Chúa Cha. Do đó, ta không chỉ chiêm ngưỡng Chúa lên trời như việc hoàn tất sứ mệnh của Người ở trần gian, mà còn suy nghĩ về sứ mệnh lên trời của Giáo Hội, một tiếp nối sứ mệnh của Chúa Giê-su và con đường Người thiết lập để đưa nhân loại lên cùng Thiên Chúa. “Người rời khỏi các ông và được rước lên trời”
Khung cảnh biến cố Chúa lên trời xảy ra gần Bê-ta-ni-a và được thánh sử Lu-ca mô tả như một buổi cử hành phụng vụ. Chúa Giê-su nhắc lại về sứ mệnh của Người đã được nói đến trong Kinh Thánh, rồi truyền cho các Tông Đồ đi rao giảng và làm chứng nhân cho Người. Chúa chúc lành cho các ông. Còn các ông thì bái lạy Người, cử chỉ tôn sùng Chúa Giê-su là Đức Chúa.
Bốn mươi ngày sau khi sống lại từ kẻ chết, Chúa Giê-su đã hiện diện với các Tông Đồ qua thân xác phục sinh của Người. Trong các lần hiện ra, Chúa thường nhắc nhở các ông nhớ lại những lời Kinh Thánh nói về Người để các ông hiểu và xác tín ý nghĩa tại sao Người đến trần gian, giảng dạy, chịu tử nạn và sống lại. Giờ đây các ông đã biết khá rõ Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô như thế nào và sứ mệnh của Người là gì. Các ông chỉ còn chờ Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần được sai đến giúp các ông nắm được “sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13). Đây sẽ là chuẩn bị cuối cùng để các Tông Đồ sẵn sàng ra đi rao giảng Chúa Giê-su Ki-tô và Tin Mừng cứu độ của Người.
Đã đến lúc Chúa Phục Sinh kết thúc việc hiện ra với các Tông Đồ và trở về với Đấng đã sai Người đi. Thánh sử ghi lại một hình ảnh đầy uy nghi: “Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời”. Thật khác hẳn với khi Người từ trời đến với nhân loại. Khi ấy, Người nhận một thiếu nữ đơn sơ khiêm nhượng làm mẹ (Lc 1:30-31) và tại một thành phố chẳng có cái gì hay đẹp (Ga 1:46), sinh ra trong cảnh nghèo cùng cực (Lc 2:7). Cung cách Người đến với ta trong nghèo nàn và trở về với Chúa Cha trong vinh quang diễn tả thân phận của những kẻ được Thiên Chúa cứu độ, từ tình trạng nghèo nàn bụi đất của con người tiến lên chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đó là cuộc xuất hành của ta từ trần gian về nhà Cha, tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Ki-tô là Trưởng Tử nhân loại mới. Với tư cách là con đầu lòng của nhân loại mới, Chúa Ki-tô đi trước để dọn chỗ cho ta. “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Như vậy ta mới hiểu được việc lên trời của Chúa Giê-su là giai đoạn kết thúc công cuộc cứu độ loài người và là bảo đảm cho số phận tương lai của ta. “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”
Đã nhiều lần Chúa Giê-su dạy các môn đệ phải làm chứng nhân cho Người và cho Tin Mừng (Mt 10:18; 24:14). Họ đã tận mắt nhìn thấy những điều Chúa làm, cách Chúa sống và đối xử với tha nhân. Chính tai họ đã nghe tiếng Người, nghe những lời giảng đơn sơ nhưng vô cùng thâm thúy, nghe những lời ca ngợi từ rất nhiều người nói về Chúa. Nhất là họ đã được tiếp xúc hằng ngày với Người, cảm nghiệm được tình yêu Người dành cho họ. Có biết bao điều họ có thể làm chứng về Người. Thánh Gio-an Tông Đồ quả thực chẳng nói phóng đại: “Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21:25).
Trong bối cảnh Chúa lên trời vinh hiển, Người dạy các Tông Đồ: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24:46-47). Nội dung việc rao giảng là nói về Đấng Ki-tô và sứ mệnh của Người. Cao điểm sứ mệnh của Người là “phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”. Các Tông Đồ đã nghe Chúa tiên báo về cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Thế mà khi gian nan xảy ra cho Chúa, họ đã cao chạy xa bay, bỏ Thầy mà trốn hết. Giờ đây trước khi lên trời, Chúa truyền cho họ phải làm chứng nhân cho cái chết và sự sống lại của Người, dù họ có phải chịu bách hại vì việc làm chứng ấy. Nhưng từ nay họ sẽ đủ can đảm và nghị lực để làm công việc ấy vì “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” tức là Thánh Thần xuống trên họ trong ngày lễ Ngũ tuần (Cv 1:8; 2:3).
Thế nào là chứng nhân của cuộc Thương Khó và Phục Sinh? Thực không ai hiểu ý nghĩa này thấu đáo hơn thánh Phao-lô Tông Đồ. Ngài cho ta câu trả lời qua lời nhắn nhủ người môn đệ yêu dấu Ti-mô-thê: “Anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, như tôi vẫn nói trong Tin Mừng tôi loan báo. Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ... Tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời. Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2 Tm 2:8-12). Sứ mệnh xuất hành của Giáo Hội
Chúa Giê-su là Đầu của Giáo Hội để thâu hợp mọi phần tử nhân loại về một mối (recapitulation), làm thành một cuộc Vượt Qua Mới tiến về quê trời. Người trao cho Giáo Hội sứ mệnh tiếp tục công việc thâu hợp ấy qua việc rao giảng. Trong Tin Mừng Lu-ca, Giê-ru-sa-lem là khởi điểm cuộc Xuất Hành của Chúa Giê-su để về với Chúa Cha. “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (Lc 9:51). Do đó, Người cũng truyền cho các Tông Đồ và Giáo Hội phải lấy Giê-ru-sa-lem như điểm xuất phát rao giảng Tin Mừng cứu độ. Theo lời Chúa dạy, các ông đã “ở lại trong thành” để chờ lãnh nhận “quyền năng từ trời ban xuống” là Thánh Thần, trước khi ra đi mời gọi người ta “sám hối để được ơn tha tội” như ta thấy được kể lại trong sách Công vụ Tông Đồ.
Sứ mệnh truyền giáo là sứ mệnh chung cho mọi Ki-tô hữu. Ta đã được Chúa Ki-tô quy tụ và lãnh nhận quyền năng Thánh Thần để tham gia vào cuộc xuất hành của Giáo Hội. Ta không đi một mình, nhưng dưới sự lãnh đạo của Mô-sê Mới là Chúa Ki-tô và cùng với anh chị em khắp nơi. Ta cũng không đi một cách thụ động hoặc vô ý thức, nhưng biết mình đang đi về đâu và phải làm gì trong cuộc xuất hành ấy. Lời Đức Ki-tô là châm ngôn trong cuộc hành trình: Chính anh em là chứng nhân của những điều này, nghĩa là chứng nhân cho cuộc tử nạn và sống lại của Người. Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi suy nghĩ về ý nghĩa của việc Chúa lên trời gắn liền với số phận được cứu độ của tôi không? Biến cố lên trời của Chúa có giúp tôi luôn luôn lạc quan và hy vọng không?
Chúa Giê-su nói với tôi: Con là chứng nhân của những điều này. Vậy tôi sẽ làm chứng điều gì về Chúa thích hợp nhất và rõ ràng nhất qua cuộc sống của tôi hiện nay?
Lời thánh Phao-lô (2 Tm 2:12) sẽ giúp tôi sống kiên nhẫn trong cuộc sống khó khăn của tôi như thế nào? Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su phục sinh Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con, Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ. Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống. Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã. Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu. Vượt qua những khắc khoải của niềm tin. Vượt qua những thành kiến con có về người khác... Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui. Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.”
Lúc còn nhỏ mỗi lần lễ Chúa lên trời, tôi cứ tưởng Chúa bay vù lên trời như bọn con trẻ chơi LênTrời ABC-357
Lúc còn nhỏ mỗi lần lễ Chúa lên trời, tôi cứ tưởng Chúa bay vù lên trời như bọn con trẻ chơi thả diều. Và có khi tôi đã ra giữa trời ngó về trời để xem Chúa lên trời bằng cách nào ? Những thái độ, những cử chỉ, những suy nghĩ tôi có khi còn tấm bé chẳng khác nào những người Galilêa xưa, cứ đứng trố mắt xem Chúa về trời đến nỗi các ông được lay tỉnh:” Hỡi người xứ Galilê, sao ngỡ ngàng đứng đó nhìn trời ? Các bạn thấy Đức Giêsu lên trời làm sao, Người cũng sẽ ngự giá quang lâm như vậy”( Cv 1, 11 ).Đức Giêsu thăng thiên để trao ban Thánh Thần cho nhân lọai. Ngài về trời và giao cho các môn đệ, cũng như tất cả chúng ta sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ngài.
CHÚA TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG CHO CÁC MÔN ĐỆ:
Phục sinh, Chúa sống lại đã ở với các môn đệ 40 đêm ngày để củng cố niềm tin của các ông và để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, hy vọng và âu lo với các môn đệ. Hôm nay, trước khi về trời, Chúa phục sinh đã trao cho các môn đệ sứ mạng cao cả:” Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”( Lc 24, 47 ).Thực ra sứ mạng rao giảng Chúa phục sinh không chỉ trao cho các môn đệ, nhưng Ngài kêu mời tất cả nhân lọai, kêu gọi tất cả những kẻ tin vào Ngài hãy làm chứng cho Ngài. Rao giảng, giới thiệu Chúa sống lại đến tận thế và làm chứng cho Chúa đến tận cùng thế giới: đó là sứ mạng Chúa trao phó cho tòan thể những người có lòng tin. Đây cũng là khởi đầu con đường của Hội Thánh, con đường của những người đi theo Đức Giêsu, rồi đã nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, cho nhân lọai, cho thế giới. Chúa về trời, các môn đệ cũng phải ra đi. Các Ngài ra đi tuyên xưng niềm tin cho mọi người biết Đức Giêsu Kitô đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng thần chết và nay đang được tôn vinh bên hữu Chúa Cha. Người từ Cha mà đến nay lại trở về với Chúa Cha. Chúa về trời là lúc các môn đệ phải xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, một thế giới hòa bình, huynh đệ, công bình, bác ái, văn minh xứng với trời mới đất mới Chúa Giêsu đã đổ máu ra để cứu chuộc và hiến dâng cho nhân lọai, cho thế giới, cho con người.
NHÂN DANH CHÚA PHỤC SINH KÊU GỌI SỰ SÁM HỐI:
Chúa nói với các môn đệ:” Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”( Lc 24, 47 ). Công việc rao giảng cho muôn dân không chỉ giới hạn trong việc công bố sứ điệp của Chúa Giêsu cứu độ, mà còn có nghĩa là giáo dục muôn dân nhằm giúp họ tìm lại được chương trình của Thiên Chúa về con người. Việc loan báo Tin Mừng và kêu gọi sự sám hối để được ơn tha tội đòi hỏi phải kiên trì, lâu dài. Sám hối là cải tổ, thay đổi bản thân con người. Do đó, các môn đệ phải miệt mài với sứ mạng đổi mới thế giới, đổi mới con người, các Ngài phải quên mình, hy sinh cả mạng sống để loan báo Đức Giêsu phục sinh và làm chứng cho Người.
VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG CŨNG ĐƯỢC CHÚA PHỤC SINH TRAO BAN CHO CHÚNG TA:
Việc tiếp nối sứ mạng của các tông đồ rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Chúa lại là một thách đố rất nặng nề đối với chúng ta vì rằng cả thế giới có gần 7 tỷ người, Hội thánh công giáo mới chỉ có hơn một tỷ người nhận biết danh Chúa mà thôi. Trên thế giới còn hơn 80% người chưa nhận biết Thiên Chúa. Chính vì thế, việc loan báo Đức Kitô trở nên khẩn thiết, cấp bách. Đức Kitô đã về trời nhưng Người luôn hiện diện sống động giữa chúng ta, giữa nhân lọai. Chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của chúng ta để qua cuộc sống chứng nhân có Chúa ở cùng, lời rao giảng của chúng ta mới thực sự có giá trị. Vì lời nói thì bay đi, gương lành lôi cuốn. Sứ mạng rao giảng Tin Mừng được Chúa sống lại trao cho tất cả mọi người. Do đó, bất cứ thành phần nào trong Giáo Hội cũng phải có trách nhiệm hòan thành sứ mạng Chúa trao phó: Rao giảng và làm chứng cho Chúa phục sinh theo khả năng và trách nhiệm của mình. Chúng ta hãy chuyền ngọn lửa đức tin cho mọi người để tất cả mọi người đều chuyền ngọn lửa đức tin cho thế giới và cuối cùng thế giới sẽ nhận ra bộ mặt yêu thương của Chúa phục sinh.
Chúa đã truyền dậy các mộn đệ trong bài giảng trên núi xưa:” Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngòai cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.Một thành xây trên núi không thể nào che giấu được…Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 13-16 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin của chúng con để chúng con rao giảng và làm chứng cho Chúa không mệt mỏi, bất chấp gian nan, không sợ thử thách dẫu có phải hy sinh cả mạng sống của mình. Amen.
Đức Giêsu về trời để hiện diện tại trần gian một cách mới mẻ
ĐỌC LỜI CHÚA
Cv 1,1-11: (8) «Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất».
Dt 9,24-28; 10,19-23: (20) Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người.
TIN MỪNG: Lc 24,46-53
Đức Giêsu được rước lên trời
(46) Khi ấy Đức Giêsu nói: «Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; (47) phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân về những điều này. (49) Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống».
(50) Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. (51) Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. (52) Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, (53) và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Trước khi từ biệt các tông đồ để về trời, đáng lẽ Đức Giêsu phải nói: «Thầy sẽ không còn ở LênTrời ABC-358
Trước khi từ biệt các tông đồ để về trời, đáng lẽ Đức Giêsu phải nói: «Thầy sẽ không còn ở cùng anh em nữa; vậy Thầy xin tạm biệt anh em» mới thuận lý. Tại sao Ngài lại nói: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế» (Mt 28,20)? Điều đó nghĩa là gì?
Đức Giêsu ở lại với chúng ta đến tận thế. Vậy muốn gặp Ngài thì gặp ở đâu? Phải tiếp xúc với Ngài cách nào để thật sự nhận được sức mạnh của Ngài?
Suy tư gợi ý: Đức Giêsu hiện diện tại trần gian theo một cách thức mới
Tại trần gian, chẳng có một trường hợp nào «tụ» mà không «tán», chẳng bao giờ có một cuộc xum họp nào mà không kết thúc bằng sự chia ly. Và sự chia ly của những người yêu thương nhau chẳng bao giờ mà không vương vấn buồn phiền, đau khổ. «Ái biệt ly khổ» (yêu nhau mà phải xa cách nhau thì khổ) là một trong «bát khổ» theo giáo lý nhà Phật. Biết như thế, ta mới hiểu được nỗi buồn và sự bâng khuâng của các tông đồ sau khi Đức Giêsu về trời. Kể từ nay, các ông không còn được gặp mặt người Thầy mà mình hết dạ quý mến bằng xương bằng thịt nữa, chẳng còn nghe thấy tiếng Ngài nói, lời Ngài dạy dỗ nữa.
Nhưng cuộc chia ly của Đức Giêsu và các tông đồ không phải là một cuộc chia ly theo kiểu thường tình của cuộc đời. Vì Đức Giêsu tuy không ở bên cạnh các tông đồ bằng xương thịt như khi còn sinh tiền, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện chẳng những ở bên cạnh các ông, mà ở ngay trong tâm hồn các ông. Ngay trước khi từ giã các môn đệ để về trời, đáng lẽ Ngài phải nói: «Thầy sẽ không còn ở với anh em nữa» thì mới hợp lý, đằng này Ngài lại nói: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế» (Mt 28,20). Sao Ngài nói lạ vậy? Chắc chắn Ngài không ở với các tông đồ và chúng ta bằng thân xác nữa. Nên nếu đúng như lời Ngài nói, thì tất nhiên Ngài phải ở lại bằng tâm linh hay thần khí của Ngài. Đó là cách khôn ngoan nhất để mọi người trên thế gian có thể gặp Ngài.
Giả như Ngài tiếp tục hiện diện tại trần gian bằng thân xác của Ngài – chẳng hạn tương tự như Đức Giáo Hoàng hiện nay ở Rôma – thì cả đời chúng ta không dễ gì gặp được Ngài một lần, dù chỉ gặp trong giây lát. Và sẽ có vô số người muốn gặp Ngài mà không gặp được. Thử nghĩ xem: tỷ lệ số người đang sống tại Việt Nam hiện nay đã từng gặp được Đức Giáo Hoàng một lần để nói chuyện là bao nhiêu phần trăm? E rằng không được 1 phần ngàn (tức 80.000 người). Trái lại, nếu Đức Giêsu hiện diện theo cách thức mới bằng tâm linh hay thần khí, thì ai trong chúng ta cũng có thể gặp Ngài dễ dàng trong bất cứ bao lâu và bất kỳ lúc nào. Ngài có thể nói với ta một cách thiêng liêng trong tâm linh ta; và ta cũng có thể «nghe» Ngài nói bằng lời rõ ràng qua Thánh Kinh, đặc biệt qua các Tin Mừng. Ngoài ra, Ngài còn lập phép Thánh Thể để ta có thể gặp gỡ Ngài một cách thể chất, và để Ngài có thể ngự vào lòng ta cũng một cách thể chất. Phải gặp gỡ và liên kết với Đức Giêsu mới có sức mạnh
Đức Giêsu nói: «Thầy là đường, là sự thật và là sự sống» (Ga 14,6); và «Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Vì thế, muốn sống hạnh phúc, sống tràn đầy, sống cho có ý nghĩa, ta cần phải thường xuyên gặp gỡ và liên kết chặt chẽ với Đức Giêsu. Nhờ đó, ta tiếp nhận được sự khôn ngoan và sức mạnh dồi dào của Ngài, vì Ngài «là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa» (1Cr 1,24). Có sức mạnh nội tâm dồi dào, ta mới có thể thực hiện được Nước Trời ngay trong bản thân mình, và trong quan hệ giữa mình và tha nhân (x. Lc 17,21). Vì «Nước Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh» (Mt 11,12). Nước Trời đó chính là khả năng quên mình để yêu thương, để hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân, và đó cũng chính là nên thánh. Để gặp gỡ và liên kết với Đức Giêsu cách hữu hiệu
a) Phải sống tinh thần quên mình, từ bỏ mình
Chúng ta chỉ có thể gặp gỡ và liên kết với Đức Giêsu khi tâm hồn ta tràn đầy Ngài. Ta chỉ có thể tràn đầy Ngài khi tâm hồn ta không bị chiếm hữu bởi «cái tôi» của chính ta, vì nếu tâm hồn ta bị «cái tôi» của mình tràn ngập, thì nó không còn một chỗ trống nào cho Ngài. Để có chỗ cho Ngài, ta phải dẹp bỏ hay làm trống «cái tôi» của mình đi. Đó chính là sống tinh thần quên mình, từ bỏ mình, không coi bản thân, sở thích hay ý muốn của mình là quan trọng. Nghĩa là không còn sống cho chính mình, mà sống cho Thiên Chúa và tha nhân, coi thánh ý của Thiên Chúa và hạnh phúc của tha nhân là quan trọng.
Sống quên mình là không làm theo ý muốn của «cái tôi» ích kỷ của mình, mà luôn luôn làm theo ý muốn của Thiên Chúa hay Đức Giêsu, theo tinh thần và đường lối của Ngài, và để Ngài tự do hành động nơi mình. Lúc đó ta có thể nói như Đức Giêsu: «Tôi (…) không làm theo ý tôi, nhưng làm theo ý Đấng đã sai tôi» (Ga 6,38; x. 5,30; Lc 22,42). Và như thế ta trở thành công cụ của Ngài, để Ngài hành động qua mọi khả năng của ta. Lúc đó, Ngài sẽ làm nhiều việc lạ lùng và lớn lao ở nơi ta và qua ta. Và với tinh thần quên mình, ta nhận ra những hành động lớn lao ấy không phải là do ta, mà do Ngài. Ta vẫn nhận ra mình là «đầy tớ vô ích» mặc dù ta đã cố gắng làm việc hết sức mình (x. Lc 17,10).
Sống quên mình và từ bỏ mình, ta sẵn sàng đánh mất chính mình vì Đức Giêsu. Nhưng chính khi ta sống tinh thần quên mình ấy, thì thật ra ta lại sống mãnh liệt nhất, và ta lại tìm lại được bản thân ta hay hạnh phúc của ta một cách đích thực nhất. Đúng như lời của thánh Phanxicô Khó Khăn: «Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân».
b) Ý thức sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu ở trong ta
Một khi ta không còn sống cho bản thân ta nữa, không còn bị thúc đẩy bởi những động cơ vị kỷ nữa, mà hoàn toàn sống cho Ngài, thì Ngài sẽ tự do hoạt động ở trong ta. Và ta sẽ cảm thấy: «Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20); hay «tôi làm, nhưng không phải tôi làm, mà là Chúa Kitô làm trong tôi».
Sức mạnh và khả năng ở trong ta sẽ tăng lên khi ta thường xuyên ý thức sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu ở trong ta, ý thức Ngài là sức mạnh của ta. Sức mạnh ấy là vô biên khiến ta có thể thực hiện được tất cả những gì Ngài muốn. Hãy thường xuyên tự nhủ lời của thánh Phaolô: «Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được mọi sự» (Pl 4,13).
Một điều quan trọng khác là ta phải dám tin vào sức mạnh của Thiên Chúa ở trong ta. Dám tin vào những gì Ngài nói, Ngài hứa là đúng sự thật và sẽ được thực hiện ở nơi ta. Hãy dám tin theo gương Đức Maria như lời của bà Êlisabét nói với Ngài: «Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em» (Lc 1,45). Nếu ta dám tin và tin thật lòng, ta sẽ thấy điều mình tin trở thành hiện thực, như lời Đức Giêsu nói: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20).
c) Sống tinh thần yêu thương với tha nhân
Muốn liên kết với Đức Giêsu, không gì cụ thể và chắc chắn bằng liên kết với những tha nhân đang sống chung quanh ta, đặc biệt những người nghèo đói, đau khổ, bệnh tật, bị áp bức, nói chung là những người đáng thương. Vì Ngài thường tự đồng hóa mình với những người ấy. Nếu ta liên kết với Đức Giêsu, mà ta không hề quan tâm hay tỏ ra một chút yêu thương nào đối với những người đáng thương mà ta từng gặp trong cuộc sống, thì sự liên kết ấy chỉ là bề ngoài và hoàn toàn giả dối. Làm như thế chẳng khác gì ta muốn nấu cơm mà lại dùng cát để nấu. Nghĩa là trong thực tế ta chẳng hề liên kết gì với Đức Giêsu cả, và do đó ta sẽ chẳng nhận được sức mạnh nào từ Ngài.
Tóm lại, muốn gặp gỡ và liên kết với Đức Giêsu nguồn sức mạnh, ta phải có tinh thần từ bỏ mình, tự xóa mình để tâm hồn ta tràn đầy thần khí của Ngài. Ta cũng phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện đầy sức mạnh của Ngài trong tâm hồn ta. Đồng thời ta phải yêu thương và liên kết với những người đáng thương mà ta gặp trong cuộc đời. Như thế, ta sẽ cảm nghiệm được tâm hồn ta tràn đầy sức mạnh của Ngài, và ta sẽ hạnh phúc. CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thân xác của Đức Giêsu đã về trời để thần khí của Ngài có thể hiện diện và hoạt động trong bản thân con và mọi người. Xin giúp con ý thức sự hiện diện hoạt động ấy của Ngài trong tâm hồn mình, để tâm hồn con trở nên mạnh mẽ thật sự. Nhờ đó, con thực hiện được những gì Cha mong muốn nơi con.
Biến cố Chúa Giê-su sai các tông đồ lên đường thi hành sứ vụ được kể lại ở cuối mỗi sách Tin LênTrời ABC-359
Biến cố Chúa Giê-su sai các tông đồ lên đường thi hành sứ vụ được kể lại ở cuối mỗi sách Tin Mừng. Nhưng đặc biệt đối với sách Tin Mừng Lu-ca, biến cố này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa tóm tắt những điều sách đã viết về Chúa Giê-su và sứ mệnh cứu thế của Người, đồng thời vừa mở ra một chân trời mới cho các môn đệ Người và toàn thể Giáo Hội, tức là công việc rao giảng Tin Mừng cứu rỗi cho mọi dân nước. Nếu đọc tiếp sách Công vụ Tông đồ cũng do thánh Lu-ca viết, ta sẽ dễ dàng nhận thấy cuốn sách được mệnh danh là Tin Mừng của Chúa Thánh Thần đã tiếp nối sách Tin Mừng Lu-ca và mô tả những công việc của Chúa Thánh Thần thực hiện qua sứ vụ của các tông đồ. Những lời dặn dò của Chúa Giê-su trước khi rời xa các tông đồ mà lên trời hẳn phải có ý nghĩa mạnh mẽ và sâu xa, không chỉ nhất thời trong biến cố Thăng Thiên, mà là vĩnh viễn cho toàn thể Giáo Hội mọi nơi mọi thời. Sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa Giê-su
Dĩ nhiên rao giảng về Chúa Giê-su Ki-tô, nhưng là Chúa Ki-tô nào? Câu trả lời là nội dung căn bản của việc rao giảng Tin Mừng. Chính Chúa Giê-su đã dựa vào Kinh Thánh để tóm tắt nói về chân tính của Người mà ta phải rao giảng: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.” Đức Ki-tô chịu chết trên thập giá và Đức Ki-tô sống lại vinh hiển là hai chiều kích nền tảng của Tin Mừng cứu rỗi không thể tách rời. Thánh Phao-lô đã nói lên tầm quan trọng của sự liên kết này trong thư 1 Cô-rin-tô. “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15:3t). Và tiếp đến, “nếu Đức Ki-tô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15:14). Sự sống lại của Đức Ki-tô đã đem lại ý nghĩa cho cái chết của Người và là cách Thiên Chúa Cha tôn vinh Chúa Giê-su cùng đặt Người làm Chúa của muôn loài muôn vật (Pl 2:9-11). Do đó, công thức “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” chính là nội dung căn bản của việc rao giảng Tin Mừng và là lời tuyên xưng đức tin cho những ai muốn đi theo làm môn đệ Chúa Ki-tô. Từ nay, “chỉ rao giảng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa” sẽ là sứ vụ các tông đồ phải ý thức và thi hành theo lệnh truyền của Người. Vai trò của Chúa Thánh Thần đối với sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa Giê-su
Trong những lời cáo biệt trước khi chịu thương khó, Chúa Giê-su đã đề cập tới vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ do Chúa Cha sai đến. Khi trao ban cho các tông đồ sứ mệnh làm chứng nhân, Chúa Giê-su đã cảm nhận nỗi ưu tư và khả năng yếu đuối của họ. Nhưng Người bảo họ cứ an tâm chờ đợi “điều Cha Thầy đã hứa” và chờ đợi “cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.” Điều đã hứa đây chính là biến cố sẽ xảy ra trong ngày lễ Ngũ tuần: ngày sinh nhật của Giáo Hội, ngày sứ mệnh rao giảng Tin Mừng khởi sự, và ngày Giáo Hội bắt đầu phát triển trên lãnh vực truyền giáo với kết quả ba ngàn người xin chịu phép Rửa tội sau bài giảng của ông Phê-rô (Cv 2:1-47).
Ông Phê-rô đã giảng những gì? Được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, ông Phê-rô đã nói với dân chúng Giê-ru-sa-lem về “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.” Sau khi đề cập tới vai trò của Thánh Thần trong việc rao giảng Tin Mừng, tất cả bài giảng của ông chỉ nhằm khai triển hai điều Kinh Thánh đã nói về Chúa Giê-su: “Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv 2:36). Nghe giảng xong, họ đã sám hối, được rửa tội và lãnh nhận Thánh Thần. Như thế, Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt động nơi những người thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, mà cả nơi tâm hồn những ai đón nhận Tin Mừng nữa. “Đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời”
Mỗi sách Tin Mừng nhất lãm nói lên một hình ảnh cảm động về biến cố Chúa lên trời và sai môn đệ đi rao giảng. Thánh Mát-thêu quan tâm tới “ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ đến.” Thánh Mác-cô nhấn mạnh đến tình trạng “có Chúa cùng hoạt động với các ông.” Còn thánh Lu-ca thì muốn ta chú ý đặc biệt tới hình ảnh Chúa Giê-su chúc lành cho các ông. Nêu lên hình ảnh sống động ấy, chắc chắn thánh Lu-ca muốn ta hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của việc Người lên trời. Thân xác Người rời khỏi Giáo Hội, nhưng “phép lành” của Người luôn ở với Giáo Hội và với ta. Làm sao nói hết được ý nghĩa của phép lành hoặc những ơn lành. Bên cạnh hồng ân lớn lao nhất đó là Chúa Thánh Thần, ta còn nhận được bao ơn khác, những ơn cần thiết cho sứ vụ làm chứng nhân của Chúa Giê-su Ki-tô giữa lòng thế giới. Chính vì vậy, dù là cảnh ly biệt thầy trò, nhưng các môn đệ Chúa sau khi bái lạy Người, vẫn cảm thấy lòng hoan hỷ lên đường thi hành sứ mệnh. Suy nghĩ và cầu nguyện
Các tông đồ đã rao giảng về Chúa Giê-su Ki-tô, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem. Còn tôi, tôi làm chứng cho Chúa bắt đầu từ nơi nào? Từ gia đình tôi? Hay tôi chỉ mang mặt nạ rao giảng ở ngoài kia, còn trở về nhà tôi lại chỉ rao giảng “tin buồn”? Vậy tôi cần suy nghĩ đâu là những Giê-ru-sa-lem của tôi.
Chúa Thánh Thần đã hoạt động hữu hiệu nơi các tông đồ. Tôi cũng đã lãnh nhận Thánh Thần khi chịu Bí tích Thêm sức. Vậy tôi có để cho Thánh Thần tiếp tục biểu dương quyền năng của Người qua đời sống chứng nhân của tôi không? Những gì đã cản trở hoặc giới hạn hoạt động của Người nơi tôi?
Các môn đệ bái lạy Chúa Giê-su, một cử chỉ mang ý nghĩa thần phục và phụng thờ trước khi lên đường thi hành sứ mệnh. Tôi đã bái lạy Chúa Giê-su chưa? Nói cách khác, tôi đã thực sự tin kính Người và có một mối quan hệ mật thiết với Người chưa? Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
• Cv 1,1-11: Nói xong những lời ấy, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên Trời phía Người đi, thì bỗng nhiên có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: «Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên Trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời».
• Ep 1,17-23: Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ với các thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những người tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô chỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. • TIN MỪNG: Lc 24,46-53
Đức Giê-su được đưa lên Trời
Khi ấy, Đức Giê-su nói: «Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Phần Thầy, Thầy sẽ gửi đến anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống».
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao Thiên Chúa đã hoàn tất công trình cứu chuộc nơi Đức Giê-su, mà con người vẫn vẫn còn LênTrời ABC-360
1. Tại sao Thiên Chúa đã hoàn tất công trình cứu chuộc nơi Đức Giê-su, mà con người vẫn còn tội lỗi và đau khổ? Công trình Ngài còn thiếu gì nữa?
2. Tại sao con người lại phải cộng tác vào công trình của Ngài? Ngài làm hết tất cả không được sao?
3. Đức Giê-su đến để cứu rỗi tất cả nhưng theo từng cá nhân riêng lẻ, hay Ngài muốn cứu toàn thế giới với tư cách toàn thể (chứ không chỉ cá nhân)? 4. Người kitô-hữu có cần quan tâm và tìm cách giải quyết những vấn đề xã hội trong khả năng của mình không? Suy tư gợi ý:
1. Công trình cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất nhưng chưa xong
Đức Giê-su đã đến trần gian, đã dạy dỗ nhân loại, đã chịu chết, đã sống lại, và đã hoàn tất công trình cứu chuộc trần gian của Ngài. Nhưng trần gian trong thực tế vẫn chưa được cứu, vẫn còn biết bao đau khổ và tội lỗi đang diễn ra tại trần gian. Công trình cứu độ trần gian gồm hai phần: phần của Thiên Chúa, và phần của con người. Đức Giê-su mới chỉ làm xong phần của Ngài, tức phần của Thiên Chúa. Việc cứu độ trần gian chỉ được hoàn thành với sự cộng tác và tiếp tục của con người. Vì thế, trước khi về trời, Đức Giê-su đã nhắc lại cho các môn đệ bổn phận của các ông là phải tiếp tục rao giảng, để con người hoàn thành công trình cứu chuộc của Ngài nơi chính bản thân mỗi người, đặc biệt trong xã hội và thế giới: «Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội». Ngài giao trách nhiệm rõ rệt cho các ông, cũng là cho chúng ta, là phải làm chứng cho Ngài: «Chính anh em phải là chứng nhân về những điều này». 2. Để được cứu độ, con người phải hoàn tất phần của mình
Phàm trong mọi chuyện, Thiên Chúa không làm một mình, mà luôn luôn đòi hỏi sự cộng tác của con người. Ngài thường làm phần cơ bản, cốt yếu nhất, và để lại phần rất nhỏ cho chúng ta, mà nếu chúng ta không cộng tác, thì công trình của Ngài đành phải dang dở và trở nên vô ích. Điều ấy rất dễ hiểu. Tương tự như cha mẹ lo lắng cho con cái đủ mọi thứ, để con cái được no ấm, đủ phương tiện phát triển nên người. Nhưng dù cha mẹ có lo lắng đến đâu, thì sự hưởng ứng và cộng tác của con cái vẫn là tối cần thiết, không thể thiếu, để những nỗ lực của cha mẹ đạt được kết quả mong muốn. Thật vậy, nếu cha mẹ lo cho con cái cơm bưng nước rót tới tận miệng, nhưng nếu con cái không chịu há miệng đón nhận thức ăn, không chịu nhai và nuốt, thì chúng vẫn đói, và mọi nỗ lực của cha mẹ để chúng khỏi bị đói khát trở nên vô ích. Cũng vậy, cha mẹ lo liệu đủ mọi phương tiện cho con học hành, nhưng nếu chúng lười biếng không chịu học, thì cha mẹ có lo cho lắm cũng bằng thừa. Để ích lợi cho con cái, cha mẹ dù có muốn làm hết tất cả mọi sự để con cái không phải làm gì cả, cũng không thể được. Luật tự nhiên không cho phép như vậy. Thiên Chúa cũng vậy, không hà cớ gì lại muốn chừa phần cho chúng ta, bắt chúng ta phải cộng tác, phải làm phần của mình thì mới được cứu độ hay hạnh phúc! Thiên Chúa dù có muốn làm hết tất cả để chúng ta không phải làm gì cả, cũng không được! Ngài không thể làm gì khác với những điều mà luật tự nhiên đòi hỏi. Vì luật tự nhiên chính là bản tính của Ngài, Ngài không thể hành động phản lại chính Ngài. 3. Để được cứu độ, chúng ta phải làm gì?
Đức Giê-su đã về trời, điều đó có nghĩa là phần việc cứu độ nhân loại của Ngài ở trần gian đã xong. Nếu Ngài không làm phần việc ấy, con người dù có cố gắng nỗ lực đến đâu, cũng không thể tự cứu mình nổi. Nhưng vẫn còn lại phần việc của con người, đặc biệt của các kitô-hữu môn đệ của Ngài, là phải tiếp tục công việc cứu độ ấy cho đến tận thế. Công việc ấy cụ thể nơi mỗi người là gì?
Trước hết, mỗi người phải tự cứu lấy mình bằng cách sống theo giáo huấn và đường lối của Đức Giê-su, là yêu thương tha nhân, và thể hiện tình yêu thương ấy bằng cách làm cho mọi người chung quanh mình trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn.
Kế đến, là mỗi người hãy cố gắng cứu rỗi những người chung quanh mình, bằng cách loan báo Đức Giê-su và công cuộc cứu chuộc của Ngài cho họ, để họ cũng sống theo giáo huấn và đường lối của Ngài, là sống yêu thương mọi người.
Nếu tất cả mọi người đều biết Đức Giê-su và sống tinh thần yêu thương của Ngài với những người chung quanh, thì chắc chắn xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, và thế giới sẽ trở thành Nước Trời. Biến xã hội hay thế giới thành Nước Trời phải là lý tưởng của tất cả mọi kitô-hữu trong cuộc đời của mình.
4. Phải cứu rỗi những người chung quanh ta, phải quan tâm đến xã hội ta đang sống.
Đức Ki-tô đến không đến chỉ để cứu rỗi từng cá nhân riêng rẽ, mà chủ yếu là để cứu toàn xã hội và thế giới, biến xã hội con người và thế giới thành môi trường lành mạnh, trong đó mọi người đều sống an vui hạnh phúc trong tinh thần yêu thương nhau. Sau khi Ngài về trời, các kitô-hữu có nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu rỗi xã hội và thế giới.
Phải cứu rỗi xã hội và thế giới, bằng cách làm cho tinh thần yêu thương, tự hủy để phục vụ của Đức Giê-su thấm nhập vào trong đời sống xã hội. Hiện nay, tu đức học của Giáo Hội nhấn mạnh nhiều đến nghĩa vụ của người kitô-hữu trước những vấn đề xã hội. Một kitô-hữu đích thực không thể làm ngơ, lãnh đạm, hoặc không hay biết, hoặc không cố gắng làm gì cả để giải quyết những vấn đề xã hội đang xảy ra chung quanh mình (bất công, đói khổ, thất nghiệp, luân lý suy đồi, các tệ nạn xã hội: tham ô, trộm cướp, mãi dâm, ma túy, bệnh dịch, v.v…) Tinh thần đạo đức kiểu hương nguyện, cá nhân – nghĩa là chỉ biết giữ đạo lấy cho mình, chỉ biết tốt hay nên thánh một mình mình, còn ai tốt hay xấu, sướng hay khổ thế nào thì mặc kệ họ – không còn được chấp nhận nữa. Giáo Hội ngày nay kêu gọi người kitô-hữu gắn bó với xã hội nhiều hơn, quan tâm và ý thức trách nhiệm của mình nhiều hơn trước những vấn đề xã hội.
Con người không thể tự cứu rỗi mình một cách riêng lẻ, độc lập, mà sự cứu rỗi ấy luôn luôn mang tính liên đới với những người chung quanh, với xã hội hay môi trường mình sống. Ta không thể được cứu rỗi nếu ta không quan tâm đến việc cứu rỗi những người trong gia đình ta, những người sống chung quanh ta. Cũng tương tự như ta không thể hạnh phúc đang khi những người trong gia đình ta phải đau khổ, ta không thể sống an ổn đang khi xã hội chung quanh ta đầy nhiễu nhương. Ta chỉ có thể hạnh phúc khi gia đình ta, hay những người chung quanh ta hạnh phúc. Ta chỉ có thể an ổn khi xã hội trong đó ta đang sống được yên lành. Hạnh phúc của ta luôn luôn liên đới với hạnh phúc của người chung quanh, phần rỗi của ta cũng luôn luôn liên đới với phần rỗi của những người chung quanh. Do đó, ta phải luôn luôn quan tâm đến sự tốt đẹp, yên lành, hạnh phúc và sự cứu rỗi của xã hội. Một người không quan tâm đến xã hội, đến những vấn đề đang xảy ra trong xã hội, không phải là một kitô-hữu đúng nghĩa. Cầu nguyện
Lạy Chúa, trước khi lên trời, Chúa đã yêu cầu chúng con tiếp tục sứ mạng của Chúa ở trần gian. Xin cho chúng con – các kitô-hữu – biết ý thức trách nhiệm ấy, đặc biệt trên bình diện xã hội. Xin cho chúng con biết thật sự quan tâm đến sự bình an và hạnh phúc của xã hội, đến những vấn đề xã hội và cố gắng giải quyết trong khả năng của mình. Amen.
Biến cố Chúa về trời đem lại cho chúng ta niềm an ủi nào? Niềm an ủi thứ nhất đó là sự hy LênTrời LênTrời ABC-361
Biến cố Chúa về trời đem lại cho chúng ta niềm an ủi nào?
Niềm an ủi thứ nhất đó là sự hy vọng vào cuộc sống vinh quang. Thực vậy, nếu để ý chúng ta sẽ thấy rằng: Núi cây Dầu là nơi đã tiếp nhận những giây phút đau khổ cũng như vinh quang của Ngài. Ngọn núi ấy còn in những vết máu trong cơn hấp hối vào đêm thứ năm Tuần Thánh. Ngọn núi ấy đã nghe thấy tiếng van xin tha thiết của Ngài, đã chứng kiến hành động phản Chúa của Giuđa. Nhưng ở đâu có đau khổ Ngài sẽ biến nó thành vinh quang. Chính vì thế mà Núi cây Dầu đã được chọn làm nơi giã biệt và về trời vinh hiển của Ngài. Đó là một niềm an ủi vì chúng ta sẽ tìm thấy vinh quang ở chính những đau khổ phải chịu cũng như chúng ta chỉ ngắt được những bông hồng thắm trên những gai nhọn của nó, hay như lời Đức Kitô đã phán: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ trước khi được bước vào chốn vinh quang. Chúng ta cũng vậy, sau một cuộc sống đầy chông gai thử thách, chúng ta sẽ được trở v62 trời với Chúa trong niềm hạnh phúc bất diệt.
Niềm an ủi thứ hai đó là Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha để cầu bầu cho chúng ta. Chắc hẳn Ngài sẽ trình bày mọi nhu cầu, mọi ước vọng và mọi sự trợ giúp chúng ta cần đến như lời thánh Phaolô đã viết: Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Ngài chuyển cầu cho chúng ta luôn mãi. Và thánh Gioan cũng nói: Nếu chúng ta trót phạm tội, thì hãy vững tâm vì chúng ta có được một vị trạng sư thần thế trước toà án tối cao đó là Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, bao giờ chúng ta cũng kết thúc lời nguyện bằng câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Sau cùng niềm an ủi thứ ba đó là Chúa Giêsu về trời để dọn cho chúng ta. Điều ấy muốn nói lên rằng quê hương chúng ta không phải là mặt đất này nhưng là ở chốn trời cao. Nhìn vào thực tế chúng ta phải thú nhận rằng: chúng ta đã bén rễ quá sâu vào cuộc sống trần gian, chúng ta đã quá quyến luyến và đã có quá nhiều ràng buộc vào những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu. Chúng ta sẵn sàng bán cả linh hồn cho một nắm bụi đất. Dân Do Thái trong sa mạc đã quỳ gối thờ lạy bò vàng thế nào thì con người hôm nay cũng đang đi vào con đường ấy, họ đã tôn thờ những thần tượng chóng qua thay cho Thiên Chúa, như lời phát biểu châm biếm sau đây: Tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu hiện giờ là tôn giáo bóng đá.
Bởi đó ngày hôm nay, sau khi đã hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn các con tới quê trời. Khốn cho các con nếu các con quên đi điều đó. Khốn cho các con nếu các con ra sức biến đổi trái đất trở thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho các con nếu các con không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu.
Dựa vào đâu chúng ta xác quyết được rằng: Còn có một cuộc đời khác, còn một thế giới khác, còn LênTrời ABC-362
Dựa vào đâu chúng ta xác quyết được rằng: Còn có một cuộc đời khác, còn một thế giới khác, còn một quê hương khác là Nước Trời?
Chúng ta không chụp được hình, chúng ta không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy, không một ai đã có kinh nghiệm. Nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến Nước Trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: mắt không thể nhìn, tai không thể nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những kẻ yêu mến Ngài. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, đói khát và cơm áo, tội lỗi và sự chết. Ở đó chỉ còn Thiên Chúa và vương quốc của Ngài, ở đó Con Chiên sẽ dẫn chúng ta đến nguồn suối mát. Chúng ta không thể biết, nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say công bố Tin Mừng, chịu đựng mọi thử thách, chấp nhận mọi đau khổ.
Thế giới của kẻ chết sẽ lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới đó ở đâu? Có phải là ở ngoài các vì sao? Có phải là ở giữa không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương sâu thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu? Tôi xin thưa thế giới ấy ở bất kỳ nơi nào có Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn thấy và chiêm ngắm Ngài, thì đó là Nước Trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Còn trái lại, ở bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn thấy và chiêm ngắm Ngài, thì đó là hoả ngục, là chốn đoạ đày.
Ngày kia thánh Tôma nói với các tông đồ: Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài. Thì bây giờ chúng ta cũng có thể đối lại câu nói ấy: Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài. Chúng ta sẽ sống với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Phải, chúng ta cần đến khoa học kỹ thuật, nhưng chúng ta luôn nhớ rằng: khoa học kỹ thuật không giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi tôi rằng: điều đó có chắc chắn như ngày mai sẽ là ngày thứ hai hay không? Tôi sẽ trả lời: \ Còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi tôi rằng: điều đó có chắc như mặt trời mọc vào ban sáng và sẽ lặn vào ban chiều không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi tôi rằng: Điều đó có chắc như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Phải, còn hơn thế nữa, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai. Có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn buổi chiều để lặn. Có thể có một mùa đông mà sau đó, mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ, phải, không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời. Vì ý của Cha Ta là hễ ai tin vào Con Ngài thì sẽ có sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. Hãy tin Chúa bằng cách bước theo Ngài, bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhớ đó chúng ta sẽ được sống đời đời, sẽ được về trời trong niềm hạnh phúc bất diệt với Chúa.
Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các LênTrời ABC-363
Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.
Khi nói đến lễ Chúa Giêsu lên trời hay lễ Thăng Thiên, chúng ta thường chỉ nghĩ đó là thời điểm kết thúc sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu. Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng, lại quy hướng chúng ta về với một khởi đầu mới, trong lạc quan và hy vọng. Không phải vô cớ mà cả ba bài Tin Mừng cho chu kỳ ba năm A,B,C đều là những đoạn kết của các Tin Mừng nhất lãm. Đây là những kết "mở", dẫn chúng ta sang một khởi đầu mới.
Trước hết, đó là khởi đầu của sứ mạng truyền giáo được Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ. Sứ mạng này có điểm xuất phát là Giêrusalem, là thành thánh và là trung tâm của Do Thái giáo. Sứ điệp mà các môn đệ được trao phó là lời kêu gọi sám hối. Chúng ta hãy nhớ lại, đây cũng là nội dung lời rao giảng đầu tiên khi Chúa Giêsu khởi sự loan báo Tin Mừng: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!". Có điều khác biệt là bây giờ Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mà Người hiện diện qua các chứng nhân. "Chính anh em là chứng nhân về những điều này". Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.
Tuy Chúa Giêsu không hiện diện thể lý giữa các môn đệ, Người lại hứa ban cho các ông "quyền năng từ trời cao ban xuống". Quyền năng này là Chúa Thánh Thần. Vậy, đây là khởi đầu của một thời đại mà Thiên Chúa tuôn đổ Thần Khí của Ngài trên mọi tạo vật, để hướng dẫn và thánh hoá mọi xác phàm, nhất là những môn đệ. Điều này đã được thực hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. "Quyền năng từ trời cao" đã biến đổi các ông, ban cho các ông sức mạnh và nghị lực, nhờ đó, các ông không còn sợ hãi, mạnh dạn mở tung các cửa và can đảm rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh.
Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã lên đường. Đây là cuộc chia tay với Thày, đồng thời cũng là khởi đầu một cuộc lên đường mới. Tác giả Tin Mừng Luca diễn tả: "Các ông trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa". Sứ điệp mà các ông lãnh nhận để rao giảng phát xuất từ Giêrusalem, nơi có Thiên Chúa hiện diện theo quan niệm của người Do Thái. Từ nơi này, ánh sáng Lời Chúa lên đường cùng với các ông, với tư cách là nhân chứng của Đấng Phục sinh, để chiếu toả đến tận cùng thế giới. Lời căn dặn của Chúa được ghi trong sách Tông đồ Công vụ còn cho thấy "không gian" của sứ vụ tông đồ rất rộng lớn bao la: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
Tác giả sách Công vụ Tông đồ, cũng là Thánh Luca, là một nhân chứng mắt thấy tai nghe, giờ phút chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Sau những lời căn dặn, Chúa Giêsu đã lìa họ mà về trời cao. Tác giả dùng chữ "được cất lên", cùng với chi tiết đám mây bao phủ. Trong truyền thống Cựu ước, đám mây là yếu tố diễn tả các cuộc "thần hiện" của Đức Giavê (x. Xh 13,21-22); của Con Người (x. Dn7,13). Đức Giêsu, mặc dù vắng bóng, vẫn luôn luôn hiện diện trong Giáo Hội. Như vậy, cuộc "lại đến" của Chúa được các sứ thần áo trắng diễn tả, không phải là một cuộc trở lại, nhưng đúng hơn, là sự tỏ mình lần cuối để minh chứng sự hiện diện ấy.
Xem ra có mấy vị trong số các tông đồ vẫn còn quan niệm lệnh lạc về sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu. Vì vậy mà họ hỏi Chúa: "Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?". Xưa cũng như nay, độc giả không khỏi ngỡ ngàng trước câu hỏi đó. Thế mới thấy rằng để canh tân tư duy và quan niệm của con người không phải là điều dễ dàng. Bốn mươi ngày sau biến cố Phục sinh, các ông đã nhiều lần gặp Chúa, mà quan niệm về Đấng Thiên sai của các ông vẫn chưa thay đổi. Trước sự tăm tối của lòng trí con người, tác giả Thư Do Thái khích lệ chúng ta "Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín" (Bài đọc II).
Mười ngày sau lễ Thăng Thiên, Mùa Phục sinh sẽ khép lai. Như đã nói ở trên, Lễ Thăng Thiên không phải hồi kết thúc nhưng là một khởi đầu mới cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa của mỗi chúng ta, với tư cách là tín hữu. "Không ai cho người khác cái mình không có", chúng ta chỉ có thể trở thành chứng nhân can đảm của Chúa Giêsu, một khi chúng ta vững niềm xác tín nơi Người, nhận ra sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc cho chúng ta, quê hương đích thật của chúng ta là trên trời. Chúa Giêsu đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Tin yêu và gắn bó với Người ở đời này, chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.
Hãy cùng nhau lên đường trong hân hoan hy vọng, vì Chúa Phục sinh ở cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế!
Hôm nay, toàn thể cộng đoàn Dân Chúa cử hành đại lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hay còn gọi LênTrời ABC-364
Hôm nay, toàn thể cộng đoàn Dân Chúa cử hành đại lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hay còn gọi là Chúa Giêsu lên trời. Mầu nhiệm này đã được Dân Chúa ngay từ đầu tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha”.
Chúa Giêsu “được đưa lên trời” đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay lại trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”(Ga 3, 13). Vì thế, nếu ta cho rằng về trời theo quan niệm địa lý bình dân như trời cao đất thấp, thì ta có thể nghĩ rằng việc Chúa về trời là ở xa loài người. Quan niệm về trời xa như vậy là rối đạo, là lạc giáo, không khác gì sự ngớ ngẩn của một phi hành gia không gian, anh Youri Gagarine của Liên Xô, sau chuyến du hành vũ trụ, bay về mặt đất, đã ngông nghênh tuyên bố rằng: “Tôi đã bay ngang dọc khắp không gian nhưng chẳng gặp một ông Chúa nào trên đó cả”. Với một quan niệm và niềm tin mơ hồ lệch lạc như thế, chắc chắn không phải chỉ với vài khoảnh khắc trong không gian anh ta không gặp được Thiên Chúa mà nếu anh ta cứ cố chấp và kiêu căng, có lẽ đời đời Thiên Chúa sẽ “ngàn trùng xa cách”.
Như vậy, lễ Chúa Thăng Thiên hay Chúa lên trời không phải là một cuộc tiễn đưa Chúa Giêsu đi vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Nhưng Chúa lên trời được hiểu là chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Ngài tại trần thế, Ngài không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa. Chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Chúa bắt đầu một sự hiện diện “ẩn khuất”, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được. Chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài. Chẳng hạn: Chúa hiện diện trong Lời Ngài, trong Bí Tích Thánh Thể, trong những anh chị em sống chung quanh, trong những người nghèo hèn, khốn khổ, bị bách hại đau thương, trong mỗi người chúng ta khi chúng ta họp nhau dâng lời cầu nguyện và tiến dâng hy tế: “Ở đâu có hai ba người họp lại vì Danh Ta thì có Ta ở giữa họ”…Và lát nữa đây, trên bàn thờ này, nhờ Ngài lên trời, mà chúng ta được hân hoan đón nhận Mình Thánh Ngài như lương thực trường sinh nuôi dưỡng chúng ta trên cuộc hành hương về quê trời vĩnh cửu.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa, Chúa Giêsu về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ cứu chuộc mà Chúa Cha đã trao phó, nhưng sự cứu độ của Chúa Giêsu vẫn còn được tiếp tục qua Giáo Hội khi Ngài ra lệnh cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”(Mt 28, 19-20). Mệnh lệnh này Chúa cũng trao cho mỗi người chúng ta là những người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để chúng ta trở nên chứng nhân cho Chúa Giêsu tại trần gian này.
Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, Chúa cũng nhắc cho chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời…Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời”. Và như lời kinh tiền tụng hôm nay cũng nói: “Người đã lên trời trước, để chúng ta là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”. Quê trời là đích điểm của người kitô hữu. Quê trời là niềm hy vọng cho những ai biết dấn thân xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này. Vì thế, những hy sinh ở đời này, dù có chịu nhiều mất mát, thiệt thòi đi nữa vẫn không thể nào so sánh được cuộc sống trên quê trời.
Trong tờ báo Công Giáo và Dân Tộc, số 1505 có đăng tải thắc mắc của một em bé 10 tuổi, tên là Thu Minh, em hỏi: “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới qua đời có được lên thiên đàng không?”. Với câu hỏi ấy, hôm nay em Thu Minh có lẽ đã tìm được câu trả lời. Vì để tỏ lòng biết ơn Đức Giáo Hoàng về những công lao to lớn trong việc phục vụ cho Giáo Hội hoàn vũ, vào ngày 27. 4. 2014 vừa rồi, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành lễ phong hiển thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhân dịp kỷ niệm ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót. Như chúng ta đã biết, việc ai được lên thiên đàng, đó là quyền Thiên Chúa xét đoán. Chúng ta tin Thiên Chúa như một người Cha, giàu lòng thương xót và luôn giúp chúng ta sống tốt. Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chắc chắn đã sống tốt: ngài hoạt động cho hòa bình thế giới, ngài đã đi thăm những người nghèo khổ, ngài đã bênh vực những người yếu hèn, ngài đã hòa giải những tôn giáo không cùng ý tưởng, ngài đã đem Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô đến cho mọi người trên toàn cầu. Nén bạc mà Thiên Chúa giao cho ngài đã được sinh lợi gấp trăm, gấp ngàn lần. Một cuộc sống như vậy thế nào cũng được Thiên Chúa dành cho một chỗ trên thiên đàng, và chắc chắn Thánh Gioan Phaolô II sẽ được gặp lại Chúa và tất cả những người thân thương của ngài. Tin vào lòng thương xót của Chúa, chúng ta tin chắc giờ này Thánh Gioan Phaolô II rất hạnh phúc vì được ở gần Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Cũng trong tâm tình đó, Chúa Giêsu lên trời là chuẩn bị chỗ cho chúng ta ở trên thiên đàng, để khi chúng ta từ giã cõi đời này cũng được các thiên thần Chúa rước đưa về thiên đàng. Muốn được vậy, chúng ta cần phải yêu mến những sự trên trời bằng cách chu toàn thật tốt bổn phận ki tô hữu ở trần gian. Chu toàn thật tốt bổn phận ở trần gian là góp phần xây dựng Nước Trời. Một khi chu toàn tốt bổn phận ở trần gian như vậy đó là dọn chỗ ở trên thiên đàng. Trần gian không phải là nơi ta chọn để bám víu luôn mãi. Nhưng trần gian là cơ hội để ta đạt tới hạnh phúc trên thiên đàng.
Ước gì, xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết chu toàn bổn phận hằng ngày để mai sau được về trời với Chúa. Amen.
Phục Sinh và Lên Trời là hai từ ngữ diễn tả một thực tại: Đức Giêsu đã chỗi dậy từ giữa những người LênTrời ABC-365
Phục Sinh và Lên Trời là hai từ ngữ diễn tả một thực tại: Đức Giêsu đã chỗi dậy từ giữa những người chết và được vinh quang bên hữu Thiên Chúa Cha. Sau khi sống lại, Ngài đã Lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha.
Cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời tức là cử hành "Sự hiện diện theo cách thế mới" của Chúa Giêsu. Đức Giêsu về trời nhưng Ngài không bỏ rơi các môn đệ. Ngài vẫn hiện diện qua Thánh Thần, qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Ngài và qua biết bao tâm hồn thành tâm thiện ý sống Đức Tin giữa cuộc đời này: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Người cất nhắc lên cõi trời muôn thuở, xác phàm nhân thân cát bụi yếu hèn". Vì "quê hương chúng ta ở trên trời" (Pl 3,20) nên "anh em hãy tìm kiếm những gì trên cao" nơi Đức Giêsu cư ngụ (Cl 3,1).
Con người vốn "đầu đội trời, chân đạp đất", con người là "nhân linh ư vạn vật". Niềm xác tín chúng ta "từ trên cao" sẽ làm cho chúng ta trước hết lo tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng điều đó không có nghĩa là trốn tránh trần gian này. Trái lại, chúng ta phải xây dựng một nước trời tại thế đã được khai mở cùng với sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu; và nước trời đó đang chờ ngày nên viên mãn. "Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự". Đừng để mình nô lệ cho vật chất, tiền bạc, danh vọng, thành đạt, mà quên mục tiêu tối hậu của cuộc đời mình là "quê hương chúng ta ở trên trời".
Phải chăng tôi nhận ra chúa hiện diện trong cuộc đời cùng với tôi; và tôi đang đi tìm "quê hương chúng ta ở trên trời"?
Lạy Chúa Giêsu, Cũng như các môn đệ ngày xưa chúng con tiếc nuối, vì: không thấy Chúa đi lại, không nghe thấy Chúa nói. không thấy bàn tay Chúa can thiệp.
Chúa vắng mặt và bao lần chúng con than trách Chúa như bỏ rơi chúng con trong những khó khăn của cuộc đời. Nhưng niềm tin cho chúng con biết Chúa vẫn đang hiện diện ở đây trong tấm bánh nhỏ này, trong tâm hồn của con, và trong cuộc đời của con.
Lạy Chúa Giêsu xin củng cố niềm tin đó nơi chúng con để chúng con có thể nhận ra Chúa vẫn đang hiện diện hiện diện một cách khác trong từng bước chân của cuộc đời chúng con".
Chúng ta vẫn thường nói với nhau: “người Giời”, nghĩa là người chẳng biết những sự gì dưới LênTrời ABC-366
Chúng ta vẫn thường nói với nhau: “người Giời”, nghĩa là người chẳng biết những sự gì dưới đất. Một người dường như ở cõi trên chứ không phải phàm nhân. Đó là người vô tư, vô lo thật đáng bị khiển trách.
Trong cuộc thi Hoa hậu Đại Dương vừa diễn ra tối 25/5 tại Bình Thuận, thí sinh Phan Thị Thu Phương (SBD 18) đã phát biểu: "Khi biết về việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương tại vùng biển Việt Nam mình, em cảm thấy rất là bức xúc, nó xâm phạm về lãnh thổ, về vùng kinh tế của đất nước Việt Nam mình. Em muốn người Trung Quốc hãy mở giàn khoan đó ra, và để cho đất nước Việt Nam của em ngày càng xinh đẹp hơn".
Trước câu trả lời thiếu sự hiểu biết khi muốn người Trung Quốc mở giàn khoan để đất nước Việt Nam xinh đẹp hơn của thí sinh Thu Phương đã khiến khán giả có mặt trực tiếp xem cuộc thi không khỏi bật cười. Và câu ứng xử này của thí sinh Hoa hậu Đại Dương đã nhanh chóng lan truyền trên các trang mạng xã hội.
Nhiều người đã tỏ ra bức xúc trước sự việc đang là tâm điểm của Quốc gia, được đưa tin trên hàng trăm phương tiện truyền thông mỗi ngày mà thí sinh Hoa hậu Đại Dương lại tỏ ra kém hiểu biết. Đúng là người “Giời”!
Cuộc đời người tín hữu luôn ước ao những sự trên trời nhưng không bao giờ quên bổn phận với gia đình, với quê hương đất nước. Người tín hữu càng không thể bàng quan trước những thăng trầm của cuộc đời, trước những vận mệnh của quê hương. Cuộc đời người ky-tô phải biết dấn thân cho dân tộc khi cần tựa như thánh Gióng biết đứng lên khi đất nước lâm nguy.
Truyện xưa kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này".
Sứ giả trình với nhà vua và được ưng thuận.
Sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Khi giặc Ân đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gẫy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Thánh Gióng về nhà dập đầu lạy mẹ, tạ ơn công nuôi dưỡng sinh thành rồi lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại, cả người lẫn ngựa từ từ bay về trời…
Có một người đã về Trời thực sự. Ngài từ Trời mà đến và sau khi hoàn tất sứ mạng Ngài đã trở về Trời trong vinh quang. Sự kiện Chúa Giêsu về Trời hôm nay không phải là một truyền thuyết mà là một sự kiện lịch sử. Vì Chúa Giêsu là người thật. Chính Ngài đã trải qua những thăng trầm bể dâu đời người. Ngài đã đi qua kiếp người với gió mưa, nắng bụi... Ngài thực sự là Thiên Chúa xuống trần gian để cứu chúng sinh. Qua cái chết Ngài đã đánh bại tử thần để mở cửa trời đưa con người về với Thiên Chúa. Và sau khi kết thúc cuộc đời trần thế trong việc chu toàn sứ mạng của mình, Ngài đã được đưa về Trời trước sự chứng kiến của các môn đệ, và trong sự nuối tiếc vì kẻ ở người đi nơi các môn đệ.
Hôm nay chúng ta mừng Chúa về Trời. Mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa. Mừng Chúa đã hoàn tất cuộc đời trần thế của mình trong vâng phục thánh ý Chúa Cha và thi hành thánh ý trọn vẹn. Sứ vụ của Chúa đến trần gian giúp con người đánh bại tử thần, và mang lại quyền làm con cái Thiên Chúa cho con người. Sự kiện Chúa về Trời cũng mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng sau những bể dâu cuộc đời chúng ta cũng có một bến bờ yên bình hạnh phúc là quê Cha trên Trời. Chúa về Trời cho chúng ta quyền hy vọng sẽ được lên trời với Chúa nếu biết đi trên con đường của Chúa. Con đường của hy sinh phục vụ. Con đường dấn thân cứu đời. Con đường sống vì lợi ích của tha nhân.
Cuộc đời của mỗi con người đều gắn với một sứ mạng phải hoàn thành, một công việc để thi hành. Đó chính là bổn phận mà Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta khi bước vào trần thế. Xin cho chúng ta luôn biết kiên nhẫn chu toàn bổn phận Chúa trao. Xin cho chúng ta luôn theo gương Chúa Giêsu tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Xin đừng vì những đam mê trần thế mà bỏ bê bổn phận của người con với Cha trên trời. Amen.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Matthêu cho chúng ta thấy rằng trước khi về trời, trước khi với LênTrời ABC-367
Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Matthêu cho chúng ta thấy rằng trước khi về trời, trước khi với Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ các môn đệ tại Galilê, và tại đây, Chúa Giêsu trao cho các ông một sứ mạng, đó là, làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là, làm cho muôn dân nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu.
Là một người Kitô hữu. Chúng ta cũng là môn đệ của Chúa Giêsu từ khi lãnh bí tích rửa tội. Trong các cộâng đoàn đức tin, trong họ đạo, trong Giáo hội và nhất là giờ đây, trong ngôi thánh đường này cũng là một Galilê khác mà Chúa Giêsu qui tụ chúng ta và trao cho chúng ta sứ mạng mà Chúa đã trao cho các môn đệ ngày xưa. Vậy tôi và ông bà anh chị em thực sứ mạng này như thế nào?
Dựa vào Lời Chúa truyền dạy và dựa vào những gì các môn đệ của Chúa Giêsu thực hiện qua mọi thời đại thì chúng ta có thể tóm gọn việc thực hiện sứ mạng trong 3 chữ đó là: chữ đi, chữ làm và chữ dạy. Chúng ta có thể áp dụng một cách cụ thể và hữu hiệu 3 chữ này trong cuộc sống của chúng ta như sau:
1. Thứ nhất là chữ "đi": đối với chúng ta ngày nay, thực hiện chữ đi này không chỉ theo phương diện thể lý hay địa lý như đi nơi này nơi khác, nước này nước khác. Nhưng trước hết là đi ra khỏi con người của mình, đi ra khỏi cái tôi của mình để mở rộng tâm hồn đón nhận người khác. Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận kể về một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Ấn độ tên là Gandi như sau: Một hôm ông Gandi đến nhà thờ, nhưng những người Kitô hữu ở đó đã không cho ông vào nhà thờ bởi vì ông là người da đen, còn nhà thờ này chỉ dành riêng cho người da trắng. Ông Gandi đã bỏ về và từ đó về sau ông không đến nhà thờ nữa. Câu chuyện cho thấy rằng đến với người khác, đón nhận người khác là vượt qua những rào cản, những khác biệt về giàu nghèo, địa vị, trình độ tri thức, văn hoá, màu da sắc tộc... Đón nhận người khác là chấp nhận người khác làm phiền mình về thời giờ, sức khoẻ. Vậy để áp dụng chữ đi này trong cuộc sống, mỗi khi gặp gỡ những người chung quanh, chúng ta đến với họ bằng cái bắt tay, bằng một nụ cười, một ánh mắt thân thiện, bằng lời hỏi thăm hay sự quan tâm. Đó là chúng ta đi đến với họ.
2. Chữ thứ hai là chữ "làm": Lời Chúa nói hãy làm phép rửa cho họ, nghĩa là, làm cho họ gia nhập đạo qua Bí tích Rửa tội. Vậy trước khi làm cho họ gia nhập đạo thì chúng ta làm cho họ có một cái nhìn thiện cảm về những người theo đạo, làm cho họ có một cái nhìn tốt đẹp đối với đạo và làm cho họ có một cái nhìn yêu mến đối với Chúa Giêsu bằng chính đời sống của chúng ta. Có 2 người bạn đồng nghiệp của nhau, một hôm cả hai nghe nói về đạo Chúa Giêsu, nhưng một người thì đã theo đạo liền, còn bạn của anh ta thì 1 năm sau mới theo đạo. Thấy vậy, anh ta mới hỏi bạn của mình tại sao như vậy. Bạn của anh ta trả lời rằng, ban đầu tôi không tin Chúa Giêsu, nhưng sau một năm tôi thấy từ khi anh theo đạo, anh đã thay đổi cuộc sống, anh đã ứng xử tốt hơn đối với người khác, cuộc sống của anh lúc nào cũng an vui. Vì thế tôi tin rằng chân lý có trong Kitô giáo nên tôi quyết định theo đạo. Rõ ràng, cuộc sống của chúng ta chính là lời giới thiệu cho người chung quanh chúng ta nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta áp dụng chữ làm này như sau: trong gia đình, chúng ta sống hoà thuận yêu thương nhau, cha mẹ sống đúng bổn phận của cha mẹ như lo cho gia đình và giáo dục con cái, con cái thì sống đúng bổn phận của mình như hiếu thảo, giúp đỡ cha mẹ. Ngoài xã hội, thì chúng ta là một người công dân tốt. Sống như thế là chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác.
3. Chữ thứ ba là chữ "dạy": Chúa Giêsu nói với các môn đệ dạy cho họ những điều thầy truyền dạy cho anh em. Điều Chúa Giêsu truyền dạy cho các môn đệ chính là giới luật yêu thương: "Anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em". Trong xã hội hôm nay người ta thích nhìn thấy những gì chúng ta làm hơn là nghe những gì chúng ta nói. Vậy, để nói cho người khác về yêu thương thì không cách nào tốt cho bằng chúng ta thực hiện yêu thương đối với họ. Chúng ta đã nghe nói về mẹ Têrêsa Caculta. Mẹ Têrêsa Calculta và những người trong tu hội thực hiện yêu thương đối với người khác bằng việc đem những người bị bỏ rơi ngoài đường về tu hội chăm sóc nuôi dưỡng họ, cho họ cảm thấy họ được đối xử và được sống xứng đáng với phẩm giá của một con người. Mẹ Têrêsa Calculta đã trình bày một cách sống động về giới luật yêu thương cho mọi người trong thời đại chúng ta. Thật vậy, đời sống yêu thương của chúng ta chính là lời nói hữu hiệu về giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta. Để thực hiện đời sống yêu thương, trong mùa phục sinh này, chúng ta hạn chế chi xài để quyên góp làm quỹ bác ái giúp cho những người đang thiếu thốn, đang gặp khó khăn chung quanh chúng ta. Sống như vậy là chúng ta nói cho người khác một cách cụ thể về giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã dạy.
Mong rằng chúng ta nhớ lời Chúa truyền dạy hôm nay, nhớ sứ mạng chúa trao cho chúng ta trong thánh lễ này, để mỗi ngày sự ra đi của chúng ta, việc làm của chúng ta, đời sống yêu thương của chúng ta là một nhịp cầu đưa những người chung quanh chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu. Đó cũng là chúng ta thực hiện lời mời gọi của Đức Thánh Cha trong sứ điệp ngày ngày truyền giáo 2010, Đức Thánh Cha mong đợi các tín hữu "cho thấy Đức Giêsu và làm sáng lên khuôn mặt của Đấng Cứu Chuộc nơi mọi hang cùng ngõ hẻm của trái đất này". Amen.
Ở phần đầu sách Tin Mừng, thánh Mátthêu đã nhắc lại lời ngôn sứ Isaia để loan báo sự xuất hiện LênTrời ABC-368
Ở phần đầu sách Tin Mừng, thánh Mátthêu đã nhắc lại lời ngôn sứ Isaia để loan báo sự xuất hiện của người con thuộc dòng họ Đavít, Đấng được gọi là "Emmanuen", có nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Tất cả các phần sau của Tin Mừng Mátthêu đều nhắc đến sự hiện diện này, một sự hiện diện mà người ta có thể cảm thấy, sờ thấy, nhìn thấy...
Nhưng đã đến lúc chấm dứt sự hiện diện này, không phải là tan biến đi, nhưng là mang một hình thức mới còn sâu xa, còn mãnh liệt và cụ thể hơn sự hiện diện trước kia: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Thế nào là sự hiện diện đích thực? Khi nào thì sự sống của một hữu thể khác thấm nhập vào một người đến nỗi cả hai biến thành một? Theo một ngôn ngữ khác với thánh Gio-an, thánh Mát-thêu làm nỗ bùng những sự kiện hữu hình để dẫn đưa độc giả vào một cái nhìn khác về thực tại.
Đức Giêsu hẹn gặp các môn đệ tại một ngọn núi ở miền Ga-li-lê. Theo tác giả sách Tin Mừng thứ nhất, Ga-li-lê là vùng đất của dân ngoại, là điểm tiếp xúc của những biên giới. Đây là miền đất biểu tượng cho thế giới ngoại đạo, đồng thời cũng tiêu biểu cho việc rao giảng Tin Mừng. Chính tại đây, giữa lòng nhân loại mà các môn đệ - cũng như người Kitô hữu sau này - khám phá ra ý nghĩa sự hiện diện của Đức Giêsu.
Đàng khác, sau cuộc gặp gỡ cuối cùng này, Đức Giêsu không còn xuất hiện hữu hình với các môn đệ nữa. Nhưng sự hiện diện vô hình của Người đạt tới chiều sâu và chiều rộng mà thân xác của Người nơi trần gian không cho phép đạt tới. Nhờ Thần Khí, sự hiện diện này không chỉ giới hạn ở đây ở đó, vào những cách thức thông thường, nhưng được mở rộng đến mọi nơi và theo nhiều cách thức khác nhau. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở cùng con người qua lời của Người, qua các bí tích, qua người thân cận, và nhất là qua sứ vụ tông đồ.
Quả thế, Đức Giêsu được Chúa Cha phục sinh và tôn vinh, đặt làm Chúa vũ trụ và làm nguồn mạch thông ban sự sống, được đặt ngự bên hữu Chúa Cha, tức là trong một tình trạng hoàn toàn mới. Qua nhân tính được Thần Khí điều động, Đức Giêsu hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới, nơi mỗi người, qua mọi thời đại, như nguyên nhân cứu rỗi duy nhất. Sự thăng thiên của Đức Giêsu đưa Người ra khỏi một góc trời, khuất khỏi tầm mắt của một nhóm người để làm cho Người có mặt và hoạt động trên khắp thế giới và nơi mọi con người. Đó là cuộc ra đi cần thiết và hữu hiệu như Đức Giêsu đã báo trước. Cuộc ra đi làm cho Đức Giêsu trở nên rộng lớn hơn, cũng như cộng đoàn các môn đệ thêm rộng lớn. Rộng lớn như vũ trụ, như vương quyền của Đức Giêsu.
Vì thế, ngay từ bây giờ, không phải là lúc đứng một chôỵ mà đăm đăm nhìn lên bầu trời, nhưng là lúc phải lên đường, phải trở thành chứng nhân về Đấng Phục Sinh, phải loan báo cho mọi người, phải trở nên kẻ cộng tác với Người để mở rộng vương quốc.
Cuộc ra đi mở đầu
Trong tường thuật về thăng thiên, thay vì dừng lại ở những chi tiết, dù rất đơn giản, về cuộc ra đi thể lý của Đức Giêsu, các độc giả sách Tin Mừng nên nhấn mạnh về ý nghĩa cuộc ra đi của Đức Giêsu cũng như về sứ mệnh Đức Giêsu trao lại cho các môn đệ.
Cuộc ra đi của Đức Giêsu thật bất ngờ. Như một tia sáng vụt qua bầu trời, lần hiện ra cuối cùng của Đức Giêsu là chứng cớ, đúng hơn là dấu khả giác về việc Người đi vào luôn mãi trong vinh quang của Chúa Cha, tức là trở vế với điểm xuất phát của Người. Nhưng Người không trở lại nơi đó một mình. Người lôi kéo theo cả nhân loại, mặc dù còn trong hy vọng, nhưng là một niềm hy vọng có thực, không phải là ảo tưởng.
Và điều quan trọng hơn, đó là trước khi biến đi, Đức Giêsu đã đặt các tông đồ làm những người "tiếp nối" công việc cứu độ của Người trong thế giới. Để thực hiện sự liên tục này, Người đã sai Thần Khí của Người đến trên các ông. Sự tuôn đỗ Thần Khí một cách viên mãn ấy sẽ được mô tả vào ngày lễ Ngũ Tuần. Thần Khí biến nhóm môn đệ nhỏ nhoi này thành Giáo Hội của Đức Kitô với sứ mạng làm chứng về sự phục sinh của Người cho toàn thế giới. Như trên một cây cầu mà móng cắm sâu vào dòng sông, đối với các môn đệ, kể từ nay các môn đệ sẽ phải rời bỏ bờ sông quen thuộc với những lần hiện diện thân thương để đi đến những miền đất còn xa lạ. Tại những miền đất đó, chính Thánh Thần của Đấng Phục Sinh sẽ nắm lấy các ông và hướng dẫn các ông.
Đó quả là một kinh nghiệm lớn mà dần dần các môn đệ sẽ hiểu ra. Nhưng ngay lúc này, khi chứng kiến việc Đức Giêsu biến đi, các ông vẫn tràn ngập niềm vui "trở về Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ".
Do đó, với tư cách là cộng đoàn kế tục cộng đoàn tông đồ, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu sẽ luôn kiểm điểm đời sống của mình xem có phù hợp với sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu. Theo đúng lời bảo của Đức Giêsu, Giáo Hội sẽ phải trung thành thực hiện sứ mạng này trong suốt chiều dài của lịch sử, cho đến ngày Người trở lại, với niềm tin chắc chắn vào sự hiện diện đầy năng động của Vị Thủ Lãnh, Đấng luôn gìn giữ và hướng dẫn Giáo Hội qua ân sủng Thần Khí.
Như vậy, cuộc ra đi của Đức Giêsu là khởi đầu cho những cuộc ra đi khác, bắt đầu là các tông đồ, sau đó là Giáo Hội cho đến ngày tận thế.
Chúa chúng ta ở đâu?
Đối với chúng ta ngày nay, một câu hỏi vẫn thường được đặt ra: "Đức Giêsu, Chúa của bạn, đang ở đâu?" Câu hỏi này càng trở nên gay gắt hơn trong những hoàn cảnh bi đát và buồn phiền, đến nỗi ngay cả những người bình tĩnh nhất cũng cảm thấy lúng túng.
Quả thất, trước một câu hỏi như vậy, những câu trả lời chúng ta đã nghe khi học giáo lý thời nhỏ không làm chúng ta thoả mãn. Đức Giêsu không chỉ ngự "trên trời" hay "khắp mọi nơi", và cũng không phải chỉ "ở trong tâm hồn những em bé ngoan ngoãn".
Đối với chúng ta cũng như với các môn đệ, niềm xác tín duy nhất chính là Đức Giêsu ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Nếu chúng ta tin vào lời hứa đó, để rồi trong mọi hoàn cảnh, giữa những thăng trầm của cuộc sống, chúng ta vẫn sẵn sàng quả quyết: ""Vâng, Đức Kitô đang sống, Người ở đây, mặc dù tôi không thấy Người, cũng chẳng biết Người như thế nào"", thì câu hỏi chẳng còn ý nghĩa gì.
Bởi vì, vấn đề ở đây không phải là "biết" Chúa ở đâu, nhưng là "thấy" Chúa ở đâu. Cũng không phải là học một câu trả lời, nhưng là hướng cái nhìn của chúng ta để nhận ra Đức Kitô ở bất cứ nơi nào có sự sống, bất cứ nơi nào sự sống đang phát triển.
Như thế, Đức Giêsu không có mặt trong những nơi sự chết đang hoành hành. Và ngược lại, ở bất cứ nơi nào có sự sống, chúng ta có cơ may được nghe thấy tiếng của Người, được nhìn thấy Người đang bước đi trên những nẻo đường đầy hy vọng.
Do đó, chúng ta không chỉ bằng lòng với việc quả quyết: "Đức Kitô đang ở đây", nhưng còn phải mở to đôi mắt, phải lắng tai để nhận ra Người.
Và chúng ta cũng nhận ra rằng ở đâu có Tình Yêu làm sức mạnh cho đời sống, ở đó có Chúa ngự trị, và tại đó chúng ta sẽ gặp Người.
Hơn nữa, chúng ta sẽ không buồn phiền vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, trái lại chúng ta hân hoan làm chứng về Người. Bởi vì từ cuộc ra đi của Người, chính chúng ta cũng được mời gọi ra đi trên những nẻo đường khác nhau, trong ân huệ Thần Khí, để công bố về lời quả quyết "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Sau khi Đức Giêsu được đưa về trời để ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và làm chủ tể mọi loài, thì Giáo LênTrời ABC-369
Sau khi Đức Giêsu được đưa về trời để ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và làm chủ tể mọi loài, thì Giáo Hội mà Ngài thiết lập bắt đầu chính thức hoạt động dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua các Tông đồ.
Khi chính thức hoạt động, các Tông đồ luôn luôn xác tín rằng: đời sống cầu nguyện trong sự hiệp nhất là điều căn cốt để xây dựng và phát triển Giáo Hội. Mặt khác, sự ghét ghen, chống đối, sỉ nhục, đánh đập và ngay cả giết chết… sẽ làm cho người môn đệ trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu hơn.
Như vậy, nếu Đức Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng chính đời sống chứng tá, nhất là cái chết trong đau thương trên thập giá, thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng không thể có con đường nào tốt đẹp và làm vừa ý Thiên Chúa Cha khi chúng ta tôn vinh Người cùng một cách thức như Đức Giêsu. Đây chính là những nét quan trọng trong sinh hoạt Giáo Hội thời sơ khai mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay qua các bài đọc đã lần lượt mặc khải cho chúng ta. Cầu nguyện là nền tảng căn cốt để xây dựng Giáo Hội
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy hình ảnh và đời sống của các Kitô hữu thời ban sơ thật là lý tưởng, chân tình và chất phát. Họ đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi sự, nhất là đời sống cầu nguyện. Cùng một tâm hồn và một tấm lòng là điều mà các Kitô hữu tiên khởi đã sống.
Quả thật, các Tông đồ đã thấy được tầm quan trọng của việc cầu nguyện, nên các ngài đã không ngừng làm gương và thúc đẩy các Kitô hữu gia tăng cầu nguyện, để củng cố đức tin, lòng mến và nhất là tìm ra thánh ý Chúa để thi hành.
Không cầu nguyện, sẽ không có niềm xác tín mạnh mẽ. Không cầu nguyện sẽ kiêu ngạo. Không cầu nguyện sẽ làm cho tâm hồn trai lỳ, u mê chẳng còn nhạy bén với thánh ý Thiên Chúa. Không cầu nguyện sẽ không biết yêu thương và phá vỡ sự hiệp nhất…
Xác tín được tầm quan trọng của cầu nguyện, nên các Tông đồ đã trung thành với lời cầu nguyện qua mọi hoạt động tập thể, chẳng hạn như: trong các cuộc quy tụ cộng đoàn để tham dự nghi thức bẻ bánh (x. Cv 2, 42-46), chọn ông Mátthia (x. Cv 1, 24), xin Chúa ban Thánh Thần xuống (x. Cv 8,15), khi bị bách hại (x. Cv 4, 24-31; 12,5-12), cầu cho các vị truyền giáo (x. Cv 13,3; 14,23). Việc cầu nguyện riêng cũng thường gặp ở nhiều trường hợp, như ông Têphanô cầu nguyện khi bị ném đá (x. Cv 7,59-60), ông Saolô khi trở lại (x. Cv 9, 11), ông Phêrô tại nhà ông Conêliô (x. Cv 10, 9; 11,5).
Như vậy, cầu nguyện trong sự hiệp nhất là yếu tố rất cần thiết trong tiến trình xây dựng Giáo Hội. Không hiệp nhất, Giáo Hội sẽ có nguy cơ tan rã. Thấy được tầm quan trọng này, nên Đức Giêsu đã không ngớt cầu nguyện để xin Chúa Cha cho các môn đệ của mình được hiệp nhất theo khuôn mẫu của chính Thiên Chúa Ba Ngôi, ngõ hầu các ông đứng vững trước những thử thách đau thương khi thi hành sứ vụ. Giáo Hội được lớn lên nhờ thử thách
Nếu đời sống và hoạt động của Đức Giêsu luôn luôn bị chống đối gắt gao, đến nỗi Ngài đã phải chấp nhận cái chết để tôn vinh Thiên Chúa Cha, thì vẫn cùng một hệ quả như vậy, các môn đệ sẽ gặp những chống đối, bắt bớ, đánh đập và ngay cả bị giết chết… Nói cách khác, đời sống của người môn đệ được gắn liền với thập giá và cái chết. Đây chính là mẫu số chung cho tất cả những ai bước theo Đức Giêsu trên con đường sứ vụ.
Điều này đã được chứng minh nơi Giáo Hội sơ khai. Cộng đoàn tiên khởi đã chịu sự bách hại, bắt bớ tàn khốc kéo dài suốt 300 năm trường. Sự bách hại ấy đã không ngừng buông tha con cái của Chúa trên khắp năm châu ở mọi thời.
Trước biết bao nhiêu khó khăn thử thách như vậy, người môn đệ Đức Kitô đôi khi vì yếu đuối do sợ hãi nên bị những cám dỗ bỏ cuộc, buông xuôi. Thấu hiểu điều đó, nên thánh Phêrô, trong tư cách là người đứng đầu Giáo Hội, đại diện Chúa Kitô ở trần gian, ngài đã lên tiếng an ủi: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1 Pr 4, 13).
Chính vì điều này đã làm cho tinh thần của người môn đệ được củng cố, bởi vì nhờ nó mà được thông phần với Đức Kitô chịu đóng đinh để mai ngày được phục sinh vinh hiển với Ngài.
Tuy nhiên, vì sức con người có giới hạn, nên Chúa Thánh Thần sẽ là thầy dạy luôn bên cạnh để giúp cho người môn đệ thêm sức mạnh, biết nói gì, làm gì để đáp trả trước những khó khăn do con người gây nên (x. Mc 13,11).
Như vậy, dù trong hoàn cảnh nào, người môn đệ vẫn luôn tự hào và hãnh diện trong sự khiêm tốn để tôn vinh Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật. Thiên Chúa Cha được tôn vinh
Khi nói về việc tôn vinh Thiên Chúa Cha, chúng ta thấy Đức Giêsu chính là mẫu mực để mỗi người noi theo. Thật vậy, trong suốt cuộc đời tại thế của Ngài, từ lời giảng dạy đến hành động, tất cả đều hướng con người về việc tôn vinh Thiên Chúa Cha. Việc tôn vinh mà Đức Giêsu đã thi hành và dạy cho các môn đệ cũng như mọi người thực hiện, đó là giúp cho họ “biết danh Cha, thuộc về Cha và tuân giữ lời Cha”.
Biết danh Cha qua chính Đức Giêsu, vì Ngài đã phán: ai biết Ta là biết Đấng đã sai Ta. Khi biết Chúa Cha, chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa Cha nếu chúng ta ở lại trong Đức Giêsu và vâng nghe lời Ngài chỉ dạy.
Nhưng lựa chọn để thuộc về Chúa Cha khi đã biết Người không phải lúc nào cũng êm xuôi, mà ngược lại, luôn luôn gặp phải những cạm bẫy chông gai, chống đối, thử thách và ngay cả cái chết.
Khi đã hoàn tất sứ vụ tôn vinh Thiên Chúa Cha trên trần thế, Đức Giêsu đã trao phó sứ mạng tôn vinh Chúa Cha cho Giáo Hội, để Giáo Hội tôn vinh Thiên Chúa trong chân lý và tình yêu.
Kể từ khi nhận lãnh trách nhiệm, từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay, Giáo Hội không ngừng tôn vinh Thiên Chúa Cha trong Đức Giêsu và nhờ Chúa Thánh Thần. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cùng một sứ vụ và trách nhiệm trong lòng mến, người tín hữu Kitô luôn được mời gọi hãy ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa Cha qua Đức Giêsu để tôn vinh Người.
Một trong những điều mà chính Đức Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa Cha và đã được Người rất ưng ý, đó là làm chứng cho sự thật và thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa cho mọi người.
Trong xã hội hôm nay, sự thật luôn luôn bị coi thường nếu không muốn nói là bị đe dọa. Ngược lại, sự gian dối lại lộng hành và lên ngôi đến chóng mặt.
Trước thực trạng ấy, người môn đệ là người thuộc về Đức Giêsu, mà Đức Giêsu đến để làm chứng cho sự thật, đồng thời Ngài cũng mời gọi ai đứng về phía sự thật thì thuộc về thần dân trong Nước của Ngài.
Như vậy, người tín hữu Kitô phải là người làm cho sự thật được sáng tỏ trong những lời nói, lựa chọn, quan điểm và hành vi của mình. Chúng ta không thể chấp nhận một người tín hữu với những khái niệm và lựa chọn mù mờ giữa sự thật và gian dối.
Mặt khác, vì Thiên Chúa là tình yêu, nên chúng ta thuộc về Thiên Chúa, thì chắc chắn chúng ta phải thi hành luật yêu thương trong cuộc sống của mình. Nếu không yêu thương, nhất là không yêu thương những người kém may mắn và bị loại ra bên lề, thì bấy lâu chúng ta đang phản lại bản chất của Thiên Chúa và mâu thuẫn với chính chúng ta.
Thiết nghĩ, sống và chu toàn những điều trên, ấy là chúng ta đang tham gia vào công việc tôn vinh Thiên Chúa Cha cách thiết thực nhất, bởi vì Thiên Chúa sẽ được tôn vinh khi chúng ta làm cho hình ảnh của Người được tỏa sáng qua hành vi, lời nói và việc làm của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con để chúng con biết nhận ra, ở lại và tôn thờ Thiên Chúa Cha cách trung thành và yêu mến. Xin cho chúng con biết hãnh diện để tôn thờ Thiên Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, ngoc hầu mai ngày chúng con được trực diện trước tôn nhan Chúa để tôn thờ Người mãi mãi không ngừng. Amen.
Lễ Chúa Giêsu lên trời là một trọng những lễ trọng nhất của năm phụng vụ. Do đó, lễ Chúa thăng LênTrời ABC-370
Lễ Chúa Giêsu lên trời là một trọng những lễ trọng nhất của năm phụng vụ. Do đó, lễ Chúa thăng thiên mang một ý nghĩa quan trọng và có một chiều kích lớn lao đối với Giáo Hội. Lễ Chúa thăng thiên có thể được mường tượng như một cuộc đua tiếp sức giữa các vận động viên trong một thế vận hội hay một Sea games nào đó. Các vận động viên chuyền gậy từ vận động viên này tới vận động viên khác vv…Đây là hình ảnh và sứ mạng Chúa Giêsu phục sinh giao cho các môn đệ và chúng ta làm chứng cho Ngài giữa thế giới và rao giảng, loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.
Lễ Chúa Giêsu lên trời cho chúng ta hay Chúa Phục Sinh không còn hiện diện trước mặt các môn đệ một cách hữu hình nữa, Ngài có mặt cách vô hình.Bởi vì, khi Phục Sinh, Chúa đã hiện ra và ở với các môn đệ bốn mươi đêm ngày để chứng minh cho các môn đệ rằng Ngài đã sống lại khải hoàn.Giờ đây Ngài về cùng Cha và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, Chúa Phục Sinh vẫn luôn đồng hành với các môn đệ, với Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận thế “.Đây là bảo chứng niềm tin cho các môn đệ, cho cả Giáo Hội. Chúa truyền lệnh, trao sứ vụ rao giảng và lời hứa ở cùng Giáo Hội luôn mãi, minh chứng Chúa Phục Sinh luôn tin tưởng vào các môn đệ, tin tưởng Giáo Hội trong sứ mạng loan truyền Lời Chúa và giúp các môn đệ, giúp Giáo Hội củng cố niềm tin và hy vọng đạt được Nước Thiên Chúa. Ngài sai các môn đệ:” Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Các con là những chứng nhân cho Thầy “.
Vâng, cách đây 2017 năm, Chúa Phục Sinh đã chuyền cho các môn đệ, các tông đồ chiếc gậy tượng trưng cho công cuộc cứu độ và công việc truyền giáo của Ngài. Các môn đệ có sứ mạng tiếp tục chuyền cây gậy cho những người khác và cho chính chúng ta. Nên, thao thức của các môn đệ cũng chính là thao thức của mỗi người chúng ta là thực hiện điều Chúa truyền. Tin Mừng các môn đệ, Giáo Hội và mỗi người chúng ta phải loan báo, đó là rao giảng Chúa đã Phục Sinh. Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi nhân loại, tội lỗi thế gian, nhưng nay Ngài luôn sống và lên trời, Ngài mở ra cho nhân loại, cho chúng ta một viễn tượng vinh quang mai sau. Ngài hướng mỗi người chúng ta và nhân loại về Nước Thiên Chúa: là Nước cùng đích chúng ta phải tới mai sau.
Chúa Thăng Thiên mở ra cho chúng ta, cho nhân loại một lối sống mới:” sống ở đời nhưng chúng ta phải hướng về Quê Trời, là nơi ở vĩnh viễn cho chúng ta “. Hướng về trời, nhìn lên cao sẽ giúp nhân loại, giúp mỗi người chúng ta vượt thắng, đẩy lui những tình cảm thấp hèn, những sự xấu xa của thế gian, ma quỷ, để hướng về Thiên Chúa, hướng về một tình yêu tuyệt đối, tình yêu cao cả, tình yêu vô biên là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Tình yêu cao vời giúp chúng ta hướng trọn về Chúa, hướng về Quê Trời. Tuy nhiên, khi hướng về trời, chúng ta không quên được những thực tại trần thế, không quên sứ mạng, bổn phận Chúa Phục Sinh trao phó là rao giảng Tin Mừng tới tận cùng thế giới với tất cả lòng nhiệt thành, hăng say vì biết rằng lúc nào Chúa Phục Sinh cũng đồng hành với chúng ta.
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa:” Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được; nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài để cho người ta chà đạp lên nó.Cũng thế, các con là ánh sáng cho thế gian, là thành phố xây trên núi, nên không thể dấu kín được…Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ, để họ nhìn xem việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” ( Mt 5, 13-16 ).
Lạy Chúa, Xin sai Thánh Thần đến để giúp chúng con nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện, đang đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa về trời để làm gì ? 2.Chúa giao cho các môn đệ và cho chúng ta sứ mạng gì ? 3.Hướng về trời, nhưng chúng ta có được sao nhãng những bổn phận ở trần gian không ? 4.Bổn phận ở trần gian của chúng ta là gì ?
Trong mùa sinh viên ra trường, chúng ta chứng kiến những hình ảnh nhộn nhịp đượm chút lo lắng. LênTrời ABC-371
Trong mùa sinh viên ra trường, chúng ta chứng kiến những hình ảnh nhộn nhịp đượm chút lo lắng. Tốt nghiệp sau những năm tháng vất vả học hành, các tân khoa cũng có phần lo âu làm sao kiếm được việc làm tốt. Tâm trạng ấy giúp chúng ta hiểu được hoàn cảnh của các môn đệ Chúa trong ngày Người lên trời về cùng Chúa Cha. Sau ba năm trời được đào tạo dạy dỗ dưới mái trường Giê-su Ki-tô để tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Người, giờ đây các tân khoa là các tông đồ và môn đệ Chúa được Người chính thức sai đi vào cánh đồng truyền giáo. Quả thực Phụng vụ Lời Chúa đã mô tả ngày lễ Chúa lên trời không chỉ là kết thúc cuộc đời trần thế của Chúa, mà cũng là khởi đầu mới cho sứ mệnh của các môn đệ và Giáo Hội Người.
Phần mở đầu sách Công Vụ Tông Đồ của thánh Lu-ca kể lại sơ lược giai đoạn cuối chương trình đào tạo tông đồ truyền giáo. Trong bốn mươi ngày sau khi sống lại, Chúa Giê-su đã hiện ra với các tông đồ để “nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”. Chúng ta có thể tưởng tượng ra khung cảnh các ông chăm chỉ tham dự các lớp học quan trọng này và hết sức chú ý lắng nghe Chúa “nói chuyện”. Chắc chắn các ông cũng có rất nhiều thắc mắc và câu hỏi cần được giải đáp. Nhưng dù các ông có chú tâm học hỏi cách mấy thì vẫn chưa đủ, vì còn thiếu một yếu tố vô cùng quan trọng. Đó chính là “sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em”. Thánh Thần sẽ được sai đến, không phải để trao cho các môn đệ Chúa mảnh bằng tốt nghiệp, nhưng là để đổi mới tâm hồn họ và trang bị đầy đủ cho họ để được sai đi. Thời gian chờ đợi Thánh Thần không còn bao lâu, chỉ mười ngày sau khi Chúa Giê-su về trời!
Tuy thánh Lu-ca không ghi lại các chi tiết nội dung những cuộc “nói chuyện” của Chúa Giê-su với các tông đồ, nhưng thánh Phao-lô thì trình bày điểm cốt lõi của việc rao giảng Tin Mừng: Phải rao giảng về Chúa Giê-su Ki-tô, bởi vì chỉ nơi Người chúng ta mới có “niềm hy vọng nhờ ơn Người kêu gọi, gia nghiệp vinh quang nhờ được chia sẻ cùng dân thánh, và quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:19). Đó là tất cả những gì Chúa Giê-su đã mang lại cho chúng ta sau khi Người chiến thắng tội lỗi và sự chết. Câu chuyện “Nước Thiên Chúa” mà Chúa Giê-su đã từng rao giảng và nhất là nói chuyện với các tông đồ sau khi phục sinh bao gồm những điểm cốt yếu kể trên. Sứ mệnh của Chúa Giê-su là đặt nền móng vững chắc cho tương lai của chúng ta.
Tương lai ấy phải là kết quả của việc sống niềm hy vọng và chiếm hữu được gia nghiệp vinh quang. Cuộc đời trần thế của chúng ta không còn vô nghĩa vô định như nhiều người tưởng nữa, nhưng đã có một hy vọng chắc chắn và một số phận hạnh phúc. Chắc chắn vì Chúa Giê-su đã sống lại khải hoàn, và hạnh phúc vì được cùng với Người thừa kế gia nghiệp đời đời Chúa Cha dành cho Người và những ai tin vào Người. Tương lai tốt đẹp ấy chúng ta sẽ có được, không phải do cố gắng của riêng chúng ta, nhưng là do “quyền lực vô cùng lớn lao Chúa đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu”. Dĩ nhiên cũng có phần đóng góp của chúng ta, nhưng phần chính vẫn là do quyền lực của tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa biểu lộ qua Chúa Giê-su Ki-tô.
Rõ ràng việc đào tạo tông đồ truyền giáo đây không phải là trình bày mớ kiến thức thần học cao siêu, mà là giúp người ta phát triển đức tin vào Chúa Ki-tô và sứ mệnh của Người. Các môn đệ Chúa được sai đi để công bố cho người ta biết: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”, Thầy đã đến để nói với nhân loại những lời ban sự sống, để chia sẻ một lối sống mới trong Thánh Thần, nhất là lối sống yêu thương. Sứ mệnh của tông đồ truyền giáo là chia sẻ đức tin ấy với mọi người ở khắp nơi và mọi thời, như mệnh lệnh Chúa ban trước khi Người lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúa Giê-su mời gọi chúng ta bước vào mái trường đào tạo của Người là nơi đức tin chúng ta sẽ được phát triển. Nhưng muốn giúp người khác “tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền”, chúng ta phải học hỏi, lắng nghe và tuân giữ trước, thì mới có thể chia sẻ với người khác những gì ta có. Mong mọi người tốt nghiệp và làm việc truyền giáo tốt!
Bùi Văn Ngợi, Nguyễn Mậu Linh, Phan Thanh Nhiên là ba người Việt Nam đầu tiên chinh phục LênTrời ABC-372
Bùi Văn Ngợi, Nguyễn Mậu Linh, Phan Thanh Nhiên là ba người Việt Nam đầu tiên chinh phục thành công đỉnh Everest trong chương trình Everest Việt Nam 2008, Tinh thần Việt hòa cùng thế giới. Đoàn leo có 10 người, gồm 5 người Sherpa hỗ trợ, 3 người Việt Nam, 1 người Thái, và 1 người Mỹ. Ngày 18.5.2008, chúng tôi từ trại chính lên trại 1, rồi tiếp tục qua trại 2, 3, 4. Ngày 22.5, chúng tôi chạm đỉnh Everest. Trước khi bắt đầu hành trình, đã phải luyện tập rất gắt gao. Tuy không quy định chính xác bắt buộc, nhưng đây là một nguyên tắc phải có. Bình thường, mỗi người mất khoảng 3 năm tập luyện để có sức khỏe, thể lực, kiến thức leo núi, đặc biệt là thích nghi độ cao và nhiệt độ âm. Như hơn 7 tháng tập luyện leo một số đỉnh như Fansipan cao 3.143m ( Việt Nam ), Kinabalu 4.095m ( Malaysia ), Kilimanjaro, nóc nhà châu Phi cao 5.895m, Island Peak cao 6.160m ( Nepal ). Island Peak có thời tiết và địa hình gần tương tự, nếu không leo thành công thì khó nghĩ tới Everest cao 8.848 m.
Tình trạng khắc nghiệt là cái lạnh -30 độ C, leo núi trong điều kiện gió mạnh, mưa tuyết, băng qua những dốc núi tuyết dựng đứng lên đến 70, 80 độ, khi oxy chỉ còn 27% trong không khí.
Trong thời gian dài tập luyện, họ đã được trang bị rất kỹ về tâm lý, khả năng và về phản ứng thích nghi trong môi trường tập thể, tình đồng đội. Vì vậy, trên hành trình, tâm lý mọi người khá vững vàng, không nghĩ đến cái chết, chỉ tập trung cho việc hỗ trợ đồng đội và phải chiến thắng.
Thực sự đã có những khoảnh khắc nguy hiểm tưởng như sắp chết: điều kiện ăn uống không phù hợp, khí hậu khắc nghiệt, lượng oxy xuống quá thấp, cơ thể kiệt sức triền miên, không ngủ được trong nhiều ngày nên đầu nóng lên. Những lúc đó, suy nghĩ không còn tỉnh táo nữa. Nhưng tất cả cũng qua.
Do lượng oxy thấp, lúc nào nhịp tim cũng làm việc rất nhanh, đập hơn 142 nhịp/phút, vừa để cung cấp oxy, vừa sưởi ấm cơ thể ( vì thiếu oxy và lạnh nữa nên rất khó ngủ ). Những trang thiết bị bảo hộ chuyên dụng chống lạnh được khí lạnh bên ngoài, nhưng do mình hít thở bằng khí trời nên luồng không khí lạnh đi thẳng vào lồng ngực, làm lạnh từ trong ra. Không phải lúc nào cũng có thể dùng bình oxy, chỉ có những đoạn cuối cùng như từ trại 4 lên đỉnh, hay ở thềm Hillary. Hầu hết các vận động viên leo núi đều phải tập tự hít thở.
Người Nepal cung cấp lương thực mang theo. Đoàn Việt Nam chủ yếu ăn lương khô. Mỗi người phải tự mang những thứ đó, vì trên hành trình, nếu quá mệt, phải nghỉ ngơi nên cần đồ sử dụng ngay. Ngoài ra trong balo còn có lương thực, nước uống, trường hợp lạc vẫn có thể cầm cự được vài ngày. Tất cả những thứ này không thể nhờ người khác mang giúp, vì hoàn toàn có thể lạc nhau… ( Hải An, Người Việt kể gian truân trên đường chinh phục đỉnh Everest )
Ba chàng thanh niên Việt Nam đã vượt bao khó khăn, nguy hiểm, thách đố, chinh phục đỉnh Everest. Ngày xưa, mười một môn đệ cũng không quản bao cơ cực, gian lao, vất vả, lên núi hạnh ngộ với Đức Giêsu Phục Sinh. Người để lại di ngôn trước khi về Trời. Tóm tắt lại là tiên quyết dám bỏ mình theo Chúa, chịu khổ giá, sống theo đúng theo ba trạng thái thiên hoà, địa hoà và nhân hoà.
Thiên hoà
“Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Ðức Giêsu đã truyền cho các ông đến.” Vâng lệnh truyền, vâng theo trái tim nhiệt thành, không sợ hãi, không sợ cường quyền, không sợ đòn vọt, tù đầy, chết chóc, bỏ lại đàng sau tất cả những gì níu kéo chân, như tình cảm, quyền lợi, vật chất, sang giàu, chức danh. “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” ( Mc 6, 34 ). Nghe và thực hành Lời Chúa mời gọi là thiên hoà, là chấp nhận, đồng thuận, hợp ý với Nước Trời, với Đức Giêsu Kitô đã răn dạy, hướng dẫn, khuyên nhủ, không một chút do dự, hay lo lắng đối phó thế gian. Dẫu thế, người môn đệ luôn phải chiến đấu với cám dỗ, như lời Thánh Phaolô công khai bày tỏ: ”Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” ( Rm 7, 18-19 ).
Địa hoà
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em.” Nếu sống theo thiên Hoà, thì đương nhiên phải có nhiệm vụ rao truyền Lời Chúa, Tin Mừng, đến mọi người, đó chính là địa hoà. Đem chân lý hoà vào muôn dân, dẫn tha nhân về Nước Chúa.
Địa hoà là sống an vui với tha nhân, dù chịu chống đối, bất bình, bắt bớ, đau khổ, tra tấn và chịu chết vì Lời Chúa, vì chân lý, sự thật. “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” ( Ga 15, 18-19 ).
Nhân hoà
“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." Lời an ủi, bảo đảm và chứng thực cho những ai theo Chúa Giêsu, làm môn đệ chân chính của Người. Trạng thái nhân hoà là sống giao hoà, hoà hợp, hoà bình với Thiên Chúa
Được "Chúa ở cùng" chính là niềm vui, hạnh phúc và hy vọng cho tất cả những ai là Kitô hữu, như Vua Đavít đã hân hoan chúc tụng: “Chúa là mục tử, chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trong đồng có xanh tươi, Người cho tôi năm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên nẻo ngay đường chính vì danh dự Người” ( Tv 23, 1-3 ).
“Thời đại mới, nhu cầu mới, phương pháp mới. "Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế", và Ngài ban cho Hội Thánh lễ Hiện Xuống mới” ( Đường Hy Vọng, số 296 ).
Xin Chúa luôn ở với chúng con, để chúng con có thể sống và đem Tin Mừng đến mọi người, qua chính chứng tá của chúng con.
Khấn xin Mẹ luôn cầu bầu cho chúng con trở nên những tông đồ nhiệt thành và trung thành của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên hay nói một cách bình dân là lễ Chúa lên trời. LênTrời ABC-373
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên hay nói một cách bình dân là lễ Chúa lên trời.
Cả ba bài đọc lời Chúa hôm nay liên kết với nhau một cách chặt chẽ. Bài đọc thứ I sách TĐCV mô tả việc Đức Giêsu được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Bài đọc II, thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Epheso cho biết Đức Giêsu sau khi hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó ở dưới thế đã về trời ngự bên hữu Chúa Cha; và bài Tin Mừng theo thánh Luca (năm C) cho biết -trước khi về trời- Đức Giêsu PS đã truyền cho các môn đệ làm chứng cho Ngài; rồi nhân danh Ngài mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân. Ngài cũng chúc bình an và hứa ban Thánh Thần cho các ông để các ông được tràn đầy niềm vui và hân hoan chu toàn sứ mạng.
Mầu nhiệm Chúa lên trời là một tín điều chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin …Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên Trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha".
Vậy, lên trời là gì? Và việc Đức Giêsu lên trời có ý nghĩa gì với cuộc đời người Kitô hữu chúng ta?
Khi nói về việc Chúa Giêsu lên trời, nhiều người tưởng là Ngài bay vào không gian; rồi ở đâu đó giữa muôn vàn tinh tú! Cho nên, người ta kể rằng: sau khi từ không gian trở về, một nhà du hành vũ trụ đã tuyên bố: “không có Thiên Chúa” vì ông đã lên tới trời rồi mà không gặp!
Vậy, trước hết, chúng ta cần hiểu việc Chúa "lên Trời" là một sự kiện diễn ra trước mắt các tông đồ (bài đọc I). Đồng thời, chúng ta cần đọc biến cố này trong ngôn ngữ thánh kinh: Đức Giêsu lên trời nghĩa là Ngài được ‘cất nhắc lên’ được ‘tôn vinh’; và cũng để khẳng định: Ngài là Đấng từ trời xuống; vậy sau khi đã hoàn tất sứ vụ, Ngài trở về trời với Chúa Cha (bài đọc II).
Hơn nữa, thiên đàng hay cõi trời của Thiên Chúa ở trong chiều kích khác với chiều kích không gian địa lý của chúng ta. Thật vậy, Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Mà Thiên Chúa là tình yêu; cho nên, nơi nào có tình yêu, nơi đó là thiên đàng! Sách tu đức có kể lại câu chuyện:
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh.
Ngày nọ, đang lúc ông rửa chén, bỗng một Thiên thần hiện ra và nói: “Thiên Chúa sai ta đến để báo cho thầy biết là giờ thầy lìa đời đã đến”. Tu sĩ vẫn điềm nhiên vui vẻ trả lời: “Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa để phục vụ cho kịp bữa cơm chiều của tu viện, xin ngài có thể hoãn lại sau khi tôi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?” Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc một cách hăng say, hoàn tất rồi chờ mãi mà cũng không thấy thiên thần trở lại.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói: “Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, [Bề trên tổng quyền lại sắp về tu viện kinh lý!] ngài có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?”. Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân đang kêu la đau đớn trên giường bệnh. Thiên thần biến đi không nói một lời nào.
Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, mãn nguyện vì đã xong bổn phận, ông cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con đã sẵn sàng theo Ngài về trời”. Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa xuất hiện; vị tu sĩ mừng rỡ: “Lần này, Thiên thần mang tôi đi, vì tôi đã sẵn sàng theo ngài về thiên quốc”. Thiên thần trìu mến nhìn vị tu sĩ và nói: “Này ông thánh sống ơi, những ngày tháng vừa qua, ông không nghĩ rằng ông đã ở thiên đàng rồi sao?”
Qua câu chuyện, tác giả sách tu đức không phủ nhận thiên đàng đời sau dành cho những ai chu toàn bổn phận và sống giới răn yêu thương nhưng muốn chúng ta hiểu và sống thực tại thiên đàng ngay tại trần thế.
Tuy nhiên, như các môn đệ Chúa năm xưa, nhiều Kitô Hữu cứ đăm đắm hướng về trời mà quên mất bổn phận dưới đất! (MV 43, 1b).
Vì vậy, sách TĐCV bài đọc thứ nhất cho thấy thiên sứ phải thức tỉnh các tông đồ: “Hỡi các ông người Galilê, thôi đừng đứng đó mà nhìn lên trời nữa!”. Thiên thần nhắc nhở các ông nhìn xuống đất để sống với thực tại; và nhất là để thực hiện sứ mạng mà Đức Giêsu -Thầy của các ông đã trao phó.
Như thế, sự kiện Chúa lên trời là khởi đầu cho sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội: từ đây, nhất là từ ngày lễ Ngũ Tuần, khi đã lãnh nhận tràn đầy Thánh Thần, các môn đệ hân hoan ra đi làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu, và loan báo Tin Mừng cứu độ không chỉ ở Giêrusalem và cho người Do Thái mà thôi, mà còn ở khắp nơi, và cho mọi người.
Đức Giêsu lên trời nhưng không rời xa chúng ta “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài vẫn hiện diện cùng chúng ta trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong các thừa tác viên Chúa chọn, trong những người anh em quanh ta, nhất là trong những người nghèo khổ, bệnh tật. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Chúa Cha không có nghĩa là Ngài đóng đô ở một chỗ nào đó trong không gian, trên các tầng trời. Ngài ở bất cứ nơi nào có tình hiệp nhất, yêu thương, chia sẻ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, Chúa về trời là niềm hy vọng cho chúng con. Chúng con tin tưởng, sau những gian nan thử thách và cả cái chết ở đời này, đến ngày tận thế, thân xác chúng con sẽ được Chúa cho phục sinh để hưởng phúc vinh quang. Xin cho chúng con ý thức rằng: mừng lễ Chúa thăng thiên, chính là dịp để chúng con nhìn tới tương lai để định hướng sống cho hiện tại; hơn nữa, thay vì chỉ mải mê nhìn trời, xin cho chúng con biết cùng nhau xây dựng nước trời ngay đời này bằng đời sống yêu thương, dấn thân phục vụ. Đó là cách thức truyền giáo hữu hiệu và cũng là con đường đưa chúng con về quê trời khi chúng con hoàn tất cuộc đời dương thế. Amen.
Mừng Chúa lên trời, cả trần hoan cất tiếng ca. Có lẽ Chúa Giêsu cũng rất vui, nhưng trước khi LênTrời ABC-374
Mừng Chúa lên trời, cả trần hoan cất tiếng ca. Có lẽ Chúa Giêsu cũng rất vui, nhưng trước khi được rước về trời, Ngài đi thực hiện lời hứa với các môn đệ. Ngài đã hứa sẽ gặp các môn đệ ở Galilê. Ngài chỉ định cho các môn đệ đến đó chờ đợi Ngài.
Các môn đệ đã thực hiện điều đó, các ông đến và chờ đợi Ngài. Chúa đến với họ như một người từ phía nào tới, chứ không phải từ trời xuống, khiến cho mấy môn đệ hoài nghi. Chắc hẳn, chúng ta sẽ thắc mắc tại sao mười một môn đệ là người thường ở gần Chúa, được nghe và thấy việc Ngài làm mà sao vẫn hoài nghi khi thấy Thầy. Có lẽ, trong số đó có người ở bên cạnh Chúa nhưng không để ý và không ở lại với Thầy nên Thầy có chút lạ thường thì liền hoài nghi.
Khi thấy các môn đệ như vậy, Ngài tiến đến gần và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”(Mt 28,18-20). Lúc này đây, Ngài tỏ mình ra cho các môn đệ biết Ngài là chủ vũ trụ. Và đây cũng không phải là lúc dạy dỗ nữa mà là sai các môn đệ ra đi lên đường làm nhân chứng cho Ngài ở trần gian. Những gì Chúa Cha trao cho Ngài thì nay Ngài trao lại cho các môn đệ. Ngài không còn ở thế gian nhưng các môn đệ vẫn tiếp tục thực hiện việc Ngài làm và đem tình yêu đến cho mọi người. Chúa Cha đã trao ban cho Chúa Giêsu quyền trên muôn loài vũ trụ. Ngài là Đấng trung gian, là con đường đến với Chúa Cha, là vị thẩm phán quyết định mọi sự và là Đấng công lý và hòa bình. Quyền năng ấy, Ngài ủy thác trao ban cho các môn đệ. Ngài kêu gọi các môn đệ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, là đưa muôn dân đến bước đầu của niềm tin, của ơn cứu độ; “làm phép rửa nhân danh Chúa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, để khắc ghi cho họ ấn tín đức tin và là cánh cửa vào của Nước Trời; “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”, vì có đức tin mà họ không thực hiện thì nào được ích gì. Chúa Giêsu trao quyền cho các môn đệ không có nghĩa là Ngài không còn ở bên các môn đệ nữa. Ngài vẫn ở cùng và ở mãi cho đến ngày tận thế. Ngài luôn đồng hành và gia tăng sức mạnh cho các môn đệ trên hành trình sứ mạng.
Ngày nay, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng của các môn đệ và chúng ta đang được mời gọi tham dự vào việc thờ phượng Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người. Chúng ta hãy lên đường ra đi làm chứng cho Chúa trong niềm tin: “Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta hãy vui mừng vì Ngài về trời chứng thực Ngài là con Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện đúng và trọn vẹn theo ý Chúa Cha. Ngài cũng không ngừng chuyển cầu ý nguyện cho chúng ta. Chúng ta hãy tôn vinh, ca tụng Ngài mãi mãi qua việc thực thi ý Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài về trời nhưng không để chúng con sợ hãi, bơ vơ và mồ côi. Ngài đã trao tặng những quyền năng của Ngài cho chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận hồng ân Ngài trao, để mau mắn lên đường đem tình yêu đến cho mọi người. Amen.
Cuộc sống vốn dĩ không bình yên như ta mong đợi. Khi nhịp sống thường ngày bị đứt đoạn bởi LênTrời ABC-375
những biến cố khiến ta không dễ vượt qua, ta chỉ mong cho qua khỏi cái tao đoạn khó khăn này. Những khó khăn cứ ập tới, khó khăn này chưa kịp đối mặt thì khó khăn khác đã đến như những đợt sóng vỗ liên hồi. Ta như chiếc thuyền không người lái, như cái nón không quai chòng chành trước gió.
Theo Thầy Giêsu, dù cuộc sống có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua nhưng ta vẫn vững tin vào tình yêu Chúa. Bởi, Thầy chẳng bao giờ để chúng ta mồ côi.
Mới ngày nào, Thầy gọi các ông nơi biển hồ Galilê. Mối tình đầu ấy chắc hẳn vẫn còn khắc ghi trong tâm hồn bốn môn đệ đầu tiên. Thầy đã chọn và gọi các ông dù cho các ông chỉ là những con người yếu đuối, những ngư phủ ít học và suốt ngày chỉ biết bám biển mà sống. Hay dù chỉ là một Mátthêu tội lỗi bên bàn thu thuế… Tất cả các ông dù mỗi người có một quá khứ rất riêng nhưng chính Thầy đã chọn từng người và dành cho mỗi người một tình yêu không đổi dời.
Có mối tình nào đẹp hơn tình yêu Giêsu. Tình yêu ấy không dừng lại ở những điểm hẹn yêu thương nhưng tiến xa hơn thế, đẹp hơn thế nữa đó là: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu hẹn các Tông đồ đến Galilê, không còn ở biển hồ sóng vỗ nhưng lên núi. Tất cả những gì Thầy nhận được nơi Chúa Cha, Thầy đã ban tặng cho các ông rồi. Thầy đã sống lại và hiện diện trước mặt các môn đệ. Mười một môn đệ cùng đi tới nơi đã hẹn. Khi thấy Thầy, các ông bái lạy Người nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi. Tại sao vậy?
Phục sinh là một mầu nhiệm và bởi thế, dù đã được thấy Thầy tận mắt, được nghe lời Thầy nói nhưng các ông vẫn hoài nghi. Chỉ dùng lý trí làm sao chấp nhận nổi, nhưng khi đã được ơn đức tin và từ chính kinh nghiệm yêu Thầy, các ông mới có thể đón nhận được mầu nhiệm cao vời ấy. Có mấy ông còn hoài nghi bởi tình yêu các ông dành cho Thầy chưa đủ lớn nhưng không vì thế mà Thầy không yêu thương các ông. Thầy vẫn đến gần, ân cần trao ban lệnh truyền: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (x. Mt 28, 18- 20a). Thầy không nại vào những yếu đuối của chúng ta mà cất đi ơn thánh, nhưng đi từ những yếu đuối ấy, Thầy bày tỏ tình yêu nhưng không đến cùng. Thầy luôn bên cạnh chúng ta vì Thầy yêu chúng ta. Chính trên ngọn núi ấy, Giêsu đã trở về cùng Chúa Cha. Người lên trời trước mắt các ông. Các ông đăm đăm hướng nhìn trời, lòng hoan hỉ và cảm tạ Thiên Chúa. Rồi một ngày, các ông cũng được chung phần với Thầy trên nhà Cha dấu yêu.
“Năm sự Mừng: Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.” Lời kinh Mân Côi nhắc nhở mỗi chúng ta hướng lòng về quê thiên đàng. Nơi ấy, quê hương vĩnh cửa dành cho những ai nhiệt tâm sống Lời Chúa. Chúa Giêsu đã đi dọn chỗ cho chúng ta. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.” (Ga 14, 2). Tin tưởng vào tình yêu Chúa, chúng ta hãy nỗ lực canh tân đời sống, sống chứng nhân Tin Mừng giữa những biến cố của cuộc đời. Ước chi mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn ý thức và cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình. Sứ mạng rao giảng Tin Mừng vẫn thôi thúc mỗi chúng ta ra đi đến với muôn dân, mang con tim của tình yêu Chúa đến với muôn người.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã lên trời nhưng Chúa vẫn ở mãi với chúng con. Đến với Bí tích Thánh Thể, chúng con được Chúa nâng đỡ và bổ sức thiêng. Xin cho chúng con biết chạy đến cùng Chúa để được Chúa yêu thương. Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi chúng con, dù cho chúng con yếu đuối và bất xứng. Xin Chúa đổi mới tâm hồn chúng con để chúng con biết hướng lòng về quê thiên đàng, ái mộ những sự trên trời và tránh khỏi cái nhìn hạn hẹp vì những phù vân chóng qua. Xin chúa thương ấp ủ chúng con trong bóng cánh của Ngài. Amen.
“Thứ hai thì gẫm: Đức Chúa Giêsu Lên Trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”
Những sự ở trên trời là những sự gì thì chỉ có người ở trên trời mới biết. Hồng Phúc thay! Chúa Giêsu LênTrời ABC-376
Những sự ở trên trời là những sự gì thì chỉ có người ở trên trời mới biết. Hồng Phúc thay! Chúa Giêsu, người ở trên trời, xuống thế làm người, rao giảng cho con người trần gian biết có một cuộc sống mới, có một cuộc sống thiêng thánh, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… cuộc sống ấy ở trong Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để có thể tin được rằng: có một cuộc sống khác với cuộc sống trần gian nầy, và để có thể biết được chuyện ở trên trời, thì chỉ có con người khiêm cung chấp nhận và vâng phục mạc khải từ trời, rồi sống mạc khải ấy mới thấu hiểu được.
Chúa Lên Trời, Chúa Thăng Thiên là cách nói diễn tả hình ảnh không gian mà các Tông đồ chứng kiến (Cv 1,9-11). Thực ra, phải nói là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, về với cuộc sống, với thế giới, nơi Ngài đã xuất phát để đi làm nhiệm vụ cứu thế… Sau khi sống lại Chúa Giêsu đã nói với bà Maria Madalena việc “về với Cha”,: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
Như vậy các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa, trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục sinh ở trần gian, đến việc “Về Với Thiên Chúa Cha” trong đời sống Thiên Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền, là Vua Vũ Trụ: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: “Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ga 1,22).
Lên trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương quốc Chúa Giêsu. Để hiểu cho thấu mầu nhiệm vượt qua nơi Chúa Giêsu, và giải thích được như thế, chắc chắn người ấy đã kết hiệp với Chúa Giêsu cách chí thiết để sống mầu nhiệm vượt qua của chính mình: Được Thiên Chúa sinh ra trong đời, vượt qua sự ràng buộc, sự nô lệ của tội lỗi nhờ ơn tái sinh nơi giếng nước rửa tội; vượt qua những rào cản là những hấp dẫn của “những sự dưới đất”, đồng thời chấp nhận mất mát là tử nạn với Đức Kitô; vượt qua cuộc tử nạn hằng ngày để phục sinh tại thế nhờ cuộc sống siêu thoát và kết hiệp; và cuối cùng, chờ ngày vượt qua đời tạm nầy mà lên trời, mà về cùng Thiên Chúa Cha trong cuộc sống vĩnh cửu.
Thực tế là một thách đố to lớn đối với đời sống vượt qua của Kitô hữu công giáo, ở mọi thời, nhất là thời nầy, khi giá trị các sự ở dưới đất nầy đang nổi loạn đòi chiếm ưu thế trong đời sống các gia đình: tiện nghi vật chất thẩm định giá trị nhân bản nên phải đua đòi cho bằng chị, bằng em; người người khôn ra đang thụ hưởng những hiệu quả của một nền văn minh mà không cần nghĩ đến hậu quả thì ta dại gì mà phải khép mình trong lời mời gọi của Tin Mừng!
Buổi sáng thật tĩnh lặng, may ra nếu có, thì cũng chỉ mấy phút trong giờ kinh nguyện ngắn ngủi, sau đó là chuyện cơm áo gạo tiền làm cho cả ngày đời phải loay xoay toàn chuyện dưới đất. Thiết nghĩ, Chúa Giêsu biết rõ cái căn tính phàm phu tục tử trong mỗi con người, nên Ngài đã bàn giao công cuộc cứu thế vĩ đại của Ngài cho Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ.
Tưởng là Chúa Thánh Thần không nói gì, làm gì, nhưng Ngài đang nói tất cả, kể cả đối với những người đang cố quên sự hiện diện của Ngài; Ngài đang làm tất cả, kể cả đối với những người tránh né sự hướng dẫn, chỉ đạo, hay sự can thiệp tài tình của Ngài. Ngài soi sáng cho chúng ta việc “phải làm”. Ngài không soi sáng cho chúng ta việc “thích làm”. Cho dù có đôi khi ta vẫn đọc kinh “cúi xin Chúa sáng soi” trước những công việc ta thích làm cho danh ta cả sáng, hoặc cho “những sự dưới đất” được thành công, thì Chúa Thánh thần khôn ngoan vẫn dẫn dắt chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của sự dối trá trong lòng mình. Nhờ Ngài, mà thực tế thách đố kia không còn đáng lo ngại nữa, và đời sống tín hữu thật sự cảm nghiệm được ơn Ngài tác động-sáng soi hướng dẫn đời mình hướng về “những sự trên trời”, “ái mộ những sự trên trời”, chắc ăn hơn.
Và chỉ khi nào thực sự “ái mộ những sự ở trên trời”, thì có thể nói, chúng ta mới thực hiện nỗi lời di chúc của Chúa Giêsu: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,18-20)
Đây không phải là lời di chúc để thừa hưởng một quyền bính, nhưng là một chuyển giao đặc nhiệm quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa Cha: qui tụ mọi loài dưới quyền thủ lảnh của Chúa Giêsu Kitô, để mọi loài chung hưởng Tình Yêu vô biên và ơn cứu chuộc vĩ đại hơn tội lỗi con người. Nhiệm vụ đặc biệt ấy không chỉ trao ban cho các tông đồ, mà còn cho tất cả chúng ta hôm nay: Giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người để họ đón nhận chính Ngài qua bí tích rửa tội và dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Ngài để được về với nguồn cội yêu thương và hạnh phúc vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” đồng nghĩa với việc anh em tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền để họ thấy mà ngợi khen Cha ở trên trời, vì gương sáng là lời giảng dạy tốt nhất.
Thực vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta có thể tin người sống lời rao giảng của mình. Vì thế, đòi hỏi tinh thần thoát tục và gương sống “ái mộ những sự trên trời” đối với những chứng nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Và không nên trách cứ ai, nếu họ dựa vào tiêu chuẩn “dính bén với các sự dưới đất” mà đánh giá cao thấp giá trị của người tông đồ Chúa hôm nay.
Có thể nói việc “dính bén với các sự dưới đất” của một chứng nhân gây nên việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn: cứ lao mình vào những chuyện dưới đất, như người rao giảng chuyện trên trời đã lao. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi người.
Mừng Chúa Giêsu Lên Trời, một cơ hội cho mỗi tín hữu tự kiểm lại lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, tự kiểm lại lòng khát khao với cuộc sống vĩnh cửu đời sau, tự kiểm lại mức độ dính bén với các sự dưới đất, và nhất là tự kiểm lại hiệu quả làm chứng cho Chúa Giêsu, cho Nước Thiên Chúa của mình trong cuộc đời.
Mẹ Maria chắc chắn là mẫu gương “ái mộ những sự trên trời” hơn cả và loài người chúng con. Mẹ cũng là mẫu gương “chứng nhân Chúa Kitô” thật sống động vì lòng Mẹ luôn hướng về Nước của Thiên Chúa. Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con sống mầu nhiệm vượt qua của đời mình, nhờ kết hiệp với cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, noi gương Mẹ chí thánh -cho chúng con xứng đáng hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc của Chúa Giêsu, con chí ái của Mẹ- cho cuộc sống chúng con thực sự trở nên lời rao giảng Thiên Chúa cho mọi người. A-men.
Chúa Giêsu sống lại là một mầu nhiệm khó hiểu, khó tin. Chúa lên trời càng là mầu nhiệm khó khiểu LênTrời ABC-377
Chúa Giêsu sống lại là một mầu nhiệm khó hiểu, khó tin. Chúa lên trời càng là mầu nhiệm khó khiểu, khó tin hơn. Vì xưa nay chưa ai tự mình có khả năng đưa thân xác nặng nề bay bổng lên trời cao được. Nhưng sự gì con người làm không được, thì Thiên Chúa làm được. Đúng thế, cách đây gần 2000 năm, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng mình bay bổng về trời.
Thánh kinh tả cảnh Chúa về trời như sau: Sau khi sống lại 40 đêm ngày, Ngài dẫn 11 tông đồ và 1 số đông tín hữu khác lên núi cao, ở đó Ngài phán một câu chứng tỏ Ngài đầy uy quyền: “Ta đã được mọi quyền trên trời dưới đất”.
– Và trước khi Chúa về trời, Chúa Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ tiếp tục công việc của Ngài ở trần gian: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, và làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
– Ngài còn an ủi, khích lệ các tông đồ: “Thầy không để chúng con mồ côi. Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Nói đoạn, Ngài từ từ bay bổng lên trời, cho tới khi mây che không còn thấy Ngài nữa. Mắt họ dán lên trên trời cao, như nuối tiếc, như ước mong. Họ cứ đứng ngẩn người, cho tới khi hai Thiên Thần hiện ra bảo họ: “Hỡi người xứ Galilêa, các người còn đứng nhìn trời làm chi?”. Lúc đó, họ mới hoàn hồn. Họ trở về nhà tiệc ly để cầu nguyện và chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Nhưng tại sao Chúa về trời?
– Chúa về trời, hay về thiêng đàng là nơi Chúa ngự, là nơi vĩnh phúc, là nơi các Thiên Thần và các thánh hưởng nhan Chúa.
Người tín hữu sống đạo là theo Chúa. Nhưng làm sao theo Chúa về thiên đàng?
– Muốn được về thiên đàng với Chúa, chúng ta phải giữ giới răn Chúa: Một chàng thanh niên đến hỏi Chúa: “Làm sao để được sống đời đời?”. Chúa trả lời: “Hãy tuân giữ giới răn Chúa…giữ giới răn Chúa sẽ hạnh phúc thiên đàng”.
– Muốn được về thiên đàng, ta phải theo Chúa: “Chúa Giêsu đã phán: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Ai tin Thầy không đi trong tối tăm, không bước đi trong sai lầm, sẽ sống mãi ngàn năm”.
– Muốn được vào thiên đàng, ta phải trung thành với Chúa: Chúa Giêsu đã từng dạy: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ”.
Kẻ chạy đua trong vận động trường, muốn đoạt giải thưởng phải cố gắng từ đầu và “nước chót” càng phải cố gắng hơn. Thiên đàng cũng dành cho những kẻ cố gắng và cố gắng đến cùng.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài nói với các tông đồ: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho chúng con”. Nhưng muốn dành được một chỗ trên nước trời, chúng ta phải tuân giữ giới răn Chúa, chúng ta phải đi theo Chúa, và phải trung thành với Chúa đến cùng.
Lạy Con Một Chúa, Đấng cứu độ chúng con đã lên trời, xin cho chúng con sau này cũng được về trời với Chúa.
Biến cố Đức Giêsu lên trời là một biến cố lịch sử. Vì biến cố này đã diễn ra trong một thời gian và không LênTrời ABC-378
Biến cố Đức Giêsu lên trời là một biến cố lịch sử. Vì biến cố này đã diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định, có sự chứng kiến của nhiều người và đã được sách Cộng Vụ Tông Đồ và các sách Tin mừng ghi lại. Bài đọc I cho chúng ta biết, sau thời gian thi hành nhiệm vụ ở thế gian, Ngài chịu nạn chịu chết, sống lại và hiện ra với nhiều người. Hôm nay, trước mặt các Tông đồ, Ngài được cất nhắc lên trời (x. Cv 1, 1-11). Cũng trong khung cảnh đó, bài Tin mừng cho chúng ta biết, theo lời hẹn trước, Mười một Tông đồ đã đến Galilê gặp Đức Giêsu. Trước khi lên trời, Ngài trao cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng (x. Mt 28,18-20).
Qua biến cố trên và qua những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu, chúng ta thử hỏi: Biến cố Đức Giêsu lên trời nói gì với mọi người chúng ta hôm nay?
Biến cố Đức Giêsu lên trời khẳng định cho chúng ta rằng: Có Thiên Đàng.
Có đời sau, có Thiên đàng là niềm tin căn bản của người Kitô chúng ta. Niềm tin này luôn được củng cố bởi Kinh Thánh.
Chính Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài bởi thượng giới (x. Ga 8,23), Ngài tự trời mà xuống (x. Ga 6, 38). Ngài nói với Matha rằng: “Ta là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ta thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43); Ngài nói với các Tông đồ: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14,2-3). Ngài khuyên nhủ mọi người rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-20); “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).
Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn chứng minh cho chúng ta về sự hiện diện của Thiên đàng: Trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó cho chúng ta biết: ông La-da-rô chết và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham (x. Lc 16, 18 – 31). Trong dụ ngôn những nén bạc: người đầy tớ tài giỏi và trung thành được vào hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25,21). Trong bài Tin mừng nói về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 41- 45) cũng cho chúng ta biết về phần thưởng của kẻ lành là được “thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn từ thuở tạo thiên lập địa”…
Trong bài đọc II hôm nay, thánh Phaolô cho chúng ta biết: Đức Kitô đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn loài muôn vật: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,22-23). Ngài còn nói: “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).
Tóm lại, tin vào sự sống lại, tin vào Thiên đàng là đức tin căn bản mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Và, biến cố Đức Giêsu lên trời một lẫn nữa củng cố đức tin của chúng ta.
Biến cố Đức Giêsu lên trời giúp chúng ta sống niềm hy vọng sẽ được lên Thiên Đàng
Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn cho hết thảy mọi người được lên Thiên đàng. Bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Nhưng, Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người. Vì vậy, để được lên Thiên đàng, xin được nêu lên một số cách thế mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện sau đây: Đó là những kẻ tin và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã trả lời với ông Nicôđêmô rằng: “Tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3); Đó là những người đi theo con đường thơ ấu thiêng liêng của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nghĩa là họ trở nên như trẻ nhỏ, vì nước trời là của những ai giống như chúng (x. Mt 19,14); Đó là những ai thực hiện tám mối phúc thật (x. Mt 5,1-12), chẳng hạn như: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ; Đó là những người tình nguyện sống khiết tịnh vì Nước Trời như các linh muc, tu sĩ (x. Mt 19,12) và những người từ bỏ mọi sự trần gian vì danh Chúa (x. Mt 19, 27-29); Đó là những người tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với Chúa (x. Mt 21,31-32), như người trộm lành (x. Lc 23,39-43), như Augustinô, như Maria Madalêna…; Đó là những người biết làm việc từ thiện, bác ái (x. Mt 6, 20; Mt 25,31-46); Đó còn là những người biết dọn mình xứng đáng để ăn uống Mình và Máu Thánh Chúa, vì “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”(Ga 6,54)…
Tóm lại, ai cũng có thể được lên Thiên đàng. Nhưng để được lên Thiên đàng cần thực hiện những điều Đức Giêsu chỉ cho như vừa nêu trên, và duy trì tình trạng đó, đặc biệt trong giờ kết thúc cuộc đời này. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói rất rõ rằng: “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ ‘nhìn thấy Ngài’ mặt đối mặt” (Số 1023); “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa” (Số 1054).
Biến cố Đức Giêsu lên trời mời gọi chúng ta thực thi bổn phận loan báo Tin mừng.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng: Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cho người cùng khổ.”
Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng.”
Sau giấc mơ ấy, biết bao nhiêu người cùng khổ, cô đơn đã được chăm sóc và chết êm ái trong vòng tay yêu thương của Mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu của Mẹ. Thế rồi, cùng đi với Mẹ Têrêxa lên Thiên Đàng là một đội quân đông đảo, họ là những người cùng khổ, cô đơn, những người bị bỏ rơi bên lề xã hội. Thật đúng như ai đó đã nói: “Không ai lên thiên đàng một mình.” Đó là bài học cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay. Để lên Thiên đàng, không phải chỉ lo cho chính mình mà còn phải giúp cho người khác nữa, bằng việc chu toàn bổn phận truyền giáo. Bổn phận đó đã được Đức Giêsu đề cập đến trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.”(Mt 28,19).
Nhưng phải loan báo Tin mừng như thế nào? Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc rao giảng, rao giảng lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện (x. 2Tm 4,2), để có thể nói được như Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc cầu nguyện, hy sinh như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã làm. Đặc biệt, chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng một đời sống thấm nhuần Giáo huấn của Đức Giêsu trong gia đình, trong giáo xứ và ngoài xã hội. Đối với gia đình: vợ chồng luôn sống đúng với những lời cam kết trong Bí tích Hôn Phối bằng cách biết yêu thương chung thủy, giúp đỡ nhau phần hồn phần xác; cha mẹ biết tôn trọng sự sống, sinh sản và giáo dục con cái theo đức tin Công giáo; con cái kính trọng, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ, ông bà. Tất cả mọi thành viên trong gia đình biết siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích. Đối với giáo xứ: các thành viên luôn biết chu toàn những bổn phận mà Giáo xứ đề ra như tham gia các sinh hoạt chung của giáo xứ, đóng góp công của xây dựng giáo xứ, sống tình liên đới với mọi người xung quanh. Đối với xã hội: hãy luôn ý thức sống tinh thần truyền giáo nơi mỗi môi trường sống của mình bằng đời sống công bằng, bác ái, yêu thương.
Ước mong rằng, nhờ lời rao giảng, nhờ lời cầu nguyện và đặc biệt nhờ đời sống chứng tá của chúng ta nhiều người sẽ biết Chúa, biết tìm đến với Giáo hội để biết con đường tới Thiên đàng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lên trời và sẽ trở lại đón chúng con. Xin cho chúng con luôn xác tín mạnh mẽ vào sự sống đời sau, biết sống niềm hy vọng và thực hiện những điều Chúa chỉ cho để được lên Thiên đàng. Đồng thời, xin cho mỗi chúng con luôn biết chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.
Thưở còn thơ, những chiều bên ruộng lúa, bạn bè chúng tôi thường hay rủ nhau đi thả diều ở những cánh LênTrời ABC-379
Thưở còn thơ, những chiều bên ruộng lúa, bạn bè chúng tôi thường hay rủ nhau đi thả diều ở những cánh đồng.
Những ngày hồn nhiên tươi vui và trong sáng của tuổi thơ thường hay mơ về những ngày hạnh phúc.
Cả những hạnh phúc đơn sơ thật thà của những đứa trẻ đói ăn thường xuyên trong những năm mất mùa, đói kém.
Những khuôn mặt đen nhẻm, chân tay gầy guộc, bám đầy bụi đất trên áo quần. Mỗi đứa một chiếc diều làm bằng tre và vài tờ báo cũ. Thả những chiếc diều trên cao, những đứa trẻ thường rủ nhau gửi thư cho bầu trời, gửi những ước mơ theo đường chỉ.
Những lá thư trong đó gửi niềm mơ ước, gửi những ngày đói rách được ăn no, được hạnh phúc.
Lớn lên, chúng tôi nhận biết rằng những lá thư gửi về trời đâu thể bay cao đến tận cõi trời, không thể đến tay người nhận.
Không còn thả diều để chuyển thư, chúng tôi rủ nhau làm những chiếc đèn trời. Đèn trời được làm bằng giấy mỏng, có đèn đặt dưới theo nguyên tắc như khinh khí cầu. Chiếc đèn trời vừa sáng lung linh bởi ánh đèn vừa hiện rõ những lời cầu nguyện dán trên thành của đèn giấy.
Mỗi khi thắp đèn chuẩn bị thả là mỗi lần thinh lặng, thời gian tĩnh lại để cầu nguyện, để ký thác tâm tư. Những ước nguyện lại được bay cao, mỗi lần nhìn theo đèn trời được thả không lần nào tránh khỏi cảm xúc bâng khuâng, thương nhớ, ước vọng, đôi khi cảm xúc dâng trào có đứa còn rưng rưng ngấn lệ. Không biết đèn trời bay cao bao nhiêu và đi xa chừng nào, cứ trông mắt nhìn cho đến khi không còn thấy đèn mình trên bầu trời. Lúc ấy, chúng tôi cứ lặng lẽ, mỗi người một tâm tư ra về, lòng cứ quẩn quanh với chiếc đèn vừa thả lên.
Hôm nay, lại nghe từ sách Tông Đồ công vụ kể lại việc Chúa về trời, lòng lại bâng khuâng nhớ tới những kỷ niệm đã qua, nhưng rồi lại chợt tỉnh, khi được nhắc: “Hỡi người Galilê, sao còn đứng đó trông trời làm chi?”.
Chúa đã về trời, nhưng Chúa vẫn còn dưới thế, bởi trời đã một lần nhập thế nên trời vẫn mãi ở gấn người. Sao còn đứng đó nhìn trời, khi Chúa đang bên cạnh tôi, cùng đồng hành với tôi, Người vẫn cùng tôi chia ngọt bùi cay đắng, Người vẫn bên tôi ngay cả khi tôi không ý thức về sự hiện diện của Người. Người ở bên tôi! Gần hơn tôi tưởng và đầy tình thương mến hơn tôi nghĩ. Người yêu thương tôi.
Bạn thân mến! Cuộc đời mỗi chúng ta đều có những ước mơ, có những ước mơ dang dở, những mơ ước không thành, những ước mơ đã lỡ một thời… Chúng ta gửi về trời cao bằng nhiều cách, nhưng có cách thông thường nhất lại thường hay quên. Cầu nguyện cùng Giêsu, Người là Đấng từ Trời xuống, đã về trời và vẫn ở với con người, Người muốn yêu thương bạn.
Suy niệm Lời Chúa Chúa nhật VII/PS-A, nếu chỉ đọc bài Tin Mừng (Mt 28, 16-20) thì không thấy LênTrời ABC-380
Suy niệm Lời Chúa Chúa nhật VII/PS-A, nếu chỉ đọc bài Tin Mừng (Mt 28, 16-20) thì không thấy tác giả trình thuật biến cố thăng thiên, mà chỉ trình thuật Lời Đức Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Để được rõ hơn phải suy niệm bài đọc 1 (Cv 1, 1-11) và bài đọc 2 (Ep 1, 17-23). Bài đọc 1 trích dẫn Lời tựa sách Công vụ Tông đồ (Cv 1, 1-5) và biến cố Thăng thiên (Cv 1, 6-11). Đặt tâm trạng mình vào tâm trạng các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”, kẻ viết bài này bỗng băn khoăn tự hỏi “Trời ở đâu?” Chợt nhớ đến một truyện cổ (Truyện “MẶT TRỜI XA GẦN” trong Cổ Học Tinh Hoa – Quyển thượng). Truyện kể rằng:
Một hôm Đức Khổng Tử ra chơi ngoài đồng, thấy 2 đứa trẻ cãi nhau, hỏi tại sao, thì 1 đứa nói rằng: “Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở gần ta hơn, và buổi trưa ở xa ta hơn”. Nó lý luận: “Mặt trời lúc mới mọc to như cái bánh xe, đến giữa trưa nhỏ như cái bát ăn, thì chẳng phải xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì?” Còn một đứa cãi: “Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, và buổi trưa ở gần ta hơn”. Nó lý luận: “Lúc mặt trời mới mọc thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, đó chẳng phải gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì?” Đức Khổng Tử nghe nói không giải quyết được ra làm sao. Hai đứa bé cười bảo: “Thế thì cho ông là người đa tri thế nào được” (Liệt Tử). Một nhà thông thái bậc thầy như Khổng Tử mà còn “bó tay.chấm.com” đến nỗi bị trẻ chê không phải là người biết nhiều (đa tri), huống hồ là bàn dân thiên hạ bình thường!
Chính vì thế, Thiên Chúa mới phải ”dùng sự bất toàn của con người để công bố Lời Toàn năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí thánh”. Nói cách khác, với sự bất toàn của con người, nếu không được vén tấm màn che bí mật ra thì mãi mãi vẫn ở trong u tối, không thể hiểu được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm. Không hiểu biết thì làm sao mà mộ mến, tin yêu? “Vô tri bất mộ” là điều tất nhiên thôi. Vì thế, Thiên Chúa phải mạc khải (vén tấm màn lên) để con người hiểu rõ, mà muốn mạc khải thì phải làm sao để con người nhìn thấy tận mắt họ mới tin (“Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” (1Sm 16, 7)
Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Vâng, hiện tượng “Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Mc 16, 19) đã được diễn ra rất cụ thể trước mắt tất cả mọi người hiện diện, cũng chỉ cốt để họ tin rằng Đức Giê-su đã chết, đã sống lại và lên trời. Rõ ràng Thiên Chúa thương yêu loài người như con cái, Người luôn luôn muốn đến với con cái để thể hiện tỉnh yêu vô bờ bến đó. Khốn nỗi loài người lại bất toàn, u mê tăm tối, không hiểu ra được ý nghĩa cao quý vô song đó. Vì thế, tấm màn che phủ bí mật cần phải được vén lên, được mở ra (mạc khải). Quả thật “mạc khải là con đường Thiên Chúa đế#7871;n với con người”, nên chi con người cần phải đáp trả tình yêu vô lượng đó, mà cách đáp trả vẹn toàn nhất chính là niềm tin, là đức tin vậy. Vâng, “Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô).
Còn một điểm nữa khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay khiến phải lưu tâm. Đó là trong khi các thánh sử đều tường thuật sơ qua việc Chúa lên trời, thì chỉ có thánh Lu-ca trong sách Tông Đồ Công Vụ có tường thuật thêm một chi tiết rất đáng để suy niệm, đó là “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 9-11).
Các Tông đồ đã được “thực mục sở thị” mầu nhiệm thăng thiên của Thầy mình, cũng tức là đã được củng cố đức tin vững vàng về mầu nhiệm Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, xuống thế làm người, chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người, đã sống lại và thật sự lên trời vinh hiển. Những việc làm, những Lời dạy của Thầy đã là hiện thực 100%. Vậy thì còn “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” làm chi nữa, bởi chính Thầy đã dạy “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20). Lời thiên sứ “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” cũng đã được Thầy nhắn nhủ từ trước: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 2-3). Người còn nói rất rõ chính Người sẽ đến: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.” (Mt 25, 31).
Biến cố Chúa lên trời chỉ là một cách Thiên Chúa mạc khải cho con người dễ hiểu mà thôi. Còn thực chất trời không phải là một không gian cố định nào và kể từ khi Chúa phục sinh thì Người không còn bị giới hạn bởi thân xác phàm tục nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người còn ở khắp mọi nơi “cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ nữa”. Như vậy là đã rõ, trời không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, ở trên cao hay dưới thấp, mà là ở khắp mọi nơi. Chúng ta vẫn thường nói khi con người sống thánh thiện là đã nên thánh giữa đời, lên thiên đàng ngay ở trần gian này. Và quả thật chỉ có như thế thì mới có “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20) được.
Vấn đề quan trọng không phải là cứ đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy, để mà tiếc nuối, hoặc để mà thắc mắc xem trời ở đâu và Thầy lên trời sẽ cư ngụ chỗ nào (kiểu như những con người ở thế kỷ XXI này thắc mắc); mà là hãy nhớ lại lời Thầy đã truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28, 19). Vì thế, nên “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Sở dĩ các Tông đồ tiên khởi làm được như vậy, chính là nhờ các ngài đã có một lòng tin sắt đá vào Thầy của mình, bởi “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” (Mc 16, 17-18).
Có thể kết luận, khi Thiên Chúa đến với con người bằng con đường mạc khải, thì tại sao con người lại không đến với Thiên Chúa bằng con đường đức tin? Vâng, chính đức tin là con đường giúp con người tìm gặp Thiên Chúa để khám phá ra một số ‘con đường giúp nhận biết Người. Những con đường này còn được gọi là “bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, không theo nghịa bằng chứng khoa học tự nhiên, nhưng theo nghĩa những “luận chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người biết chắc có Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG, điều 31). Đồng thời với việc tin và hành động, người Ki-tô hữu còn phải sống chứng tá bằng cách sống cụ thể trong tin yêu và hiệp nhất với anh em trong Chúa Ki-tô Phục Sinh. Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách chân thực. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình thật hùng hồn trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu, thậm chí có nhiều khi con còn hoài nghi cả chính mình về một niềm tin con đã chọn cho đời mình! Vậy mà con lại luôn miệng chia sẻ niềm tin ấy cho mọi người, khiến người nghe cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ trên môi miệng, những lời giả dối… Thật chẳng khác “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, ). Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ gì nào chúng con? - Dạ thưa lễ Thăng Thiên. Hay còn LênTrời ABC-381
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ gì nào chúng con?
- Dạ thưa lễ Thăng Thiên. Hay còn gọi là lễ Chúa Giêsu Lên Trời.
Việc lên trời hay thăng thiên của Chúa phải được hiểu như thế nào?
1. Chắc chắn chúng ta không được hiểu theo nghĩa hoàn toàn vật chất. Chúng con nghe cha kể cho chúng con câu chuyện này.
Chuyện xảy ra cách đây cũng đã khá lâu: ngày 5-9-1961. Chuyện xảy ra tại nước Nga thời Cộng Sản trước kia. Chuyện kể rằng sau khi Nga sô đã đưa được người đầu tiên lên không gian, trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev của Nga lúc đó đã nói với ký giả của tờ New York Time một tờ báo nổi tiếng của Mỹ rằng: " Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung: Youri Gararine. Anh đã đi vòng quanh quả địa cầu mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy đặc, không có chi giống như thiên đàng cả. Sau đó chúng tôi đã suy nghĩ và chúng tôi lại gửi một thám tử khác lên: German Titov. Chúng tôi đã bảo anh rằng: "Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy Thiên đàng vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ"
Titov đã trẩy đi, rồi trở về và anh xác nhận lời tuyên bố của Gagarine là sự thật: "Hư vô! Chỉ có Hư vô!"
Rồi Krouchev kết luận: "Cho nên người cộng sản chúng tôi không tin có đời sau"
Đó chúng con thấy. Đấy là cái nhìn của một người cộng sản, một cái nhìn hoàn toàn vật chất duy vật. Đúng hay không thì chúng ta không cần phải xét những chắc chắn đó không phải là cái nhìn của chúng ta.
Chúng con biết rằng tín điều chúng ta tuyên xưng hôm nay đã được các tông đồ truyền lại, với mục đích làm cho chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”. 2. Vậy thì chúng ta phải hiểu việc Chúa lên trời hay Thăng Thiên như thế nào?
Cha xin mượn sách Giáo lý chung để trả lời cho chúng con.
Sách Giáo Lý chung diễn tả việc Chúa lên trời bằng nhiều gợi ý:. Chúa Giêsu Kitô, là Đầu của Hội Thánh, đã đi trước chúng ta vào Nước vinh hiển của Chúa Cha, để chúng ta, là chi thể của Thân Thể Người, sống trong niềm hy vọng một ngày kia sẽ được vĩnh viễn ở với Người.(666)
‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" (Ga 20,17).
Chỉ có Đấng “từ Chúa Cha mà đến” mới có thể “trở về cùng Chúa Cha”: đó là Đức Kitô. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Nhân loại, với sức tự nhiên của mình, không thể vào được “Nhà Cha”, không thể đạt tới sự sống và sự vinh phúc của Thiên Chúa. Chỉ có Đức Kitô mới có thể mở lối cho con người tiến vào: “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Đầu và là Thủ lãnh của chúng con đã đến trước”(661).
Như vậy việc thăng thiên chỉ là sự chia tay vắng mặt với con người các môn đệ. Từ nay các ngài không thể nhìn Chúa Giêsu bằng mắt, bắt bằng tay. Nhưng Thăng Thiên không phải là Chúa biến luôn. Lý do là vì ngay trước khi về trời Chúa Giêsu đã nói hết sức rõ rệt với các tông đồ: "Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế". Chúa ở như thế nào?
Chắc không phải là như trước dây. Trước Chúa đã ở giữa các môn đệ của Ngài. Suốt ba năm trời như thế. Chúa có mặt, gần gũi, xương thịt, đến nỗi tông đồ Gioan đã phải nói lên: "Chúng tôi đã sờ thấy Ngôi Lời hằng sống". Phêrô cũng phải xác nhận trước cộng đoàn những ng Do thái: "Chúng tôi đã được cùng ăn cùng uống với Người". Sự có mặt như thế quả là rất cụ thể. Lịch sử cũng đã xác nhận. Đây không còn phải là một vấn đề phải tranh cãi.
Những với sự việc lên trời hôm nay, chúng ta thấy rõ, sự có mặt cụ thể như thế không còn hay nói đúng hơn: không cần nữa.
Rõ ràng với việc được tôn vinh trong biến cố lên trời hôm nay Chúa đã đổi cách thức có mặt của Ngài: Đổi từ hữu hình sang vô hình. Đổi từ cuộc sống xác thịt sang cuộc sống thần linh, đổi để Người có thể có mặt rộng lớn hơn, phổ quát hơn. Cha Teilhard de Chardin gọi sự có mặt này là sự có mặt tàn lan, tràn lan khắp địa cầu.
Chắc chắn lúc đầu các môn đệ chưa có thể chấp nhận được điều đó. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phải để một thời gian tương đối dài: 40 ngày sau Phục Sinh để tập cho các môn đệ làm quen với sự có mặt đó bằng những lần hiện ra với các ông, cá nhân cũng như với tập thể để rồi sau đó các ngài dám sống cuộc sống chứng nhân một cách triệt để hơn, mạnh dạn hơn, bất chấp những thách đố, bắt bớ và kể cả sự chết vì có Chúa luôn ở với các ngài.
Vâng! Nhờ có Chúa ở cùng mà cuộc sống của các tông đồ sau đó đã hoàn toàn đổi mới. Rồi cộng thêm với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ngài đã trở thành những chứng nhân không biết mệt mỏi trên con đường rao giảng và làm chứng. Kết quả các ngài để lại đã làm cho Voltaire một trong những nhà văn hào lớn của nhân loại đã phải ghen tức mà nói lên: "Ông Giêsu với 13 môn đệ của mình đã thay đổi cả bộ mặt của thế giới". 3. Bây giờ đến lượt chúng ta.
Đây là lời của thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philípphê: "Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.(Phil 3,20-21)
Cha kể cho chúng con câu chuyện này:
Ai cũng biết đền thờ Thánh Phêrô ở Roma là một trong 8 kỳ công lớn của Thế giới. Mỗi dịp có năm thánh, các tin hữu ở khắp nơi hành hương về nơi đây rất đông. Có lúc con số lên đến cả 3.000.000 người. Trong ngôi đền thờ này có một nhà nguyện nhỏ nhưng rất đẹp. Cha đã có lần được vào kính viếng ngôi Nhà nguyện này: Đó là nhà nguyện Sixtina.
Đây là Nhà nguyện ở trong nội thành Vatican. Nhà nguyện này đã được Đức giáo hoàng Sixto thứ 4 cho xây cất vào cuối thế kỷ thứ 15. Đây không những là nơi các vị hồng y tụ tập để bầu giáo hoàng hay còn là nơi để tổ chức những buổi họp quan trọng có tính cách thượng đỉnh khác, mà Nhà nguyện Sixtina còn là một bảo tàng viện với những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, nhất là những bức bích họa của Michel Angelo.
Bất cứ du khách nào đến Roma cũng tìm đủ mọi cách để được một lần chiêm ngắm các bức tranh được vẽ trên tường và trên trần nhà này. Người thưởng lãm không những chỉ ngắm nghía dưới khía cạnh lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, nhưng còn để hồn hòa nhập vào niềm tin sâu sắc của nhà nghệ sĩ. Thật thế, tất cả những bức tranh mà Michel Angelo đã thực hiện trạng nhà nguyện Sixtina đều được cảm hứng từ Kinh thánh.
Nhà danh họa của chúng ta đã phải nằm ngửa trên một giàn gỗ hướng mặt về trần bảng ròng rã không biết bao nhiêu năm trời. Nóng lòng chờ đợi các tác phẩm của mình, ngày kia, đức Sixto đã to tiếng hỏi vọng lên từ dưới đất:
- Ông Michel Angelo, chừng nào ông mới hoàn thành công việc đây?
Từ trên giàn gỗ, nhà danh họa đáp lại:
- Chừng nào còn có thể!
Vị giáo hoàng đường như mất hết kiên nhẫn:
- Thế ông có biết là ông đã bắt đầu mấy năm rồi chưa? Thế mà tôi vẫn chưa thấy gì hết..."
Một cách điềm tĩnh, Michel Angelo trả lời:
- Thưa Đức thánh cha, con không làm việc cho đời tạm này, mà cho đời sau..."
Chúng con yêu quí,
Mọi sự trên cõi đời này rồi sẽ qua đi hết. Chẳng có chi tồn tại vĩnh viễn. Hãy nhớ lời thánh Phaolô căn dặn và hãy làm mọi việc với mục đích cuối cùng cuộc đời của mình là Nha Cha ở trên trời. Amen.
Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc đang được coi là một mô hình phát triển năng động tại Châu Á. Như LênTrời ABC-382
Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc đang được coi là một mô hình phát triển năng động tại Châu Á. Như nhiều quốc gia khác trong khu vực, người dân Hàn Quốc cũng bị ảnh hưởng bởi các truyền thống văn hóa, tôn giáo Đông Phương. Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây, Giáo Hội Hàn Quốc là nơi có số người trở lại đạo Công Giáo nhiều nhất. Cách đây hai mươi năm, người Công Giáo Hàn quốc chỉ chiếm chừng 7-8% (bằng với Việt nam hiện nay). Họ đang quyết tâm đạt đến mục tiêu 20/20, tức là 20% người Công Giáo vào năm 2020. Thực hiện được kỳ tích này là do nhiều yếu tố cộng lại, từ những chiến dịch cầu nguyện, kết thân với các gia đình lương dân đến các chương trình đồng loạt đến với lương dân, các công tác hỗ trợ đời sống kinh tế của các doanh nhân Công Giáo dành cho nông dân không phân biệt lương giáo đã khiến cho người Hàn có cảm tình và gia nhập đạo.
Tại Việt Nam, trải qua hơn 400 năm, từ khi hạt giống Tin Mừng được gieo vãi đến nay, tỷ lệ người Công Giáo vẫn chỉ dừng ở mức 7 – 8% trong tổng số 80 triệu dân. Thời gian đầu dù có rất nhiều khó khăn, trải qua các cơn bách hại, nhưng số người tin vào danh Chúa Giêsu lại gia tăng nhanh chóng. Thế nhưng trong vòng 50 – 60 năm trở lại đây, nhất là từ khi cuộc sống kinh tế, xã hội được thoải mái hơn thì dường như số người tín hữu gia tăng không đáng kể.
Giáo phận Xuân Lộc là một trong những giáo phận có tỷ lệ người Công Giáo cao. Số giáo dân trong Giáo phận là gần một triệu người, chiếm khoảng 30 – 35% tỷ lệ người Công giáo trong toàn tỉnh Đồng Nai. Hàng năm, số người lớn được rửa tội lên đến hàng ngàn người, nhưng phần lớn là để kết hôn, còn những người rửa tội vì gương sáng đời sống của người tín hữu thì rất ít. Số người lớn được rửa tội tính trên tỷ lệ trên số tín hữu chỉ chiếm khoảng 0,03%. Đó là một con số quá khiêm tốn, chưa tương xứng.
Mừng lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người. Sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại sự kiện Chúa Giêsu lên trời như là điểm kết thúc sứ mạng của Ngài và mở ra sứ mạng của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa về trời không phải Ngài thoái thác trách nhiệm, cũng không phải Ngài từ bỏ con người, nhưng Ngài hoàn tất nhiệm vụ Thiên Chúa Cha đã trao phó và trở về với Chúa Cha trong vinh quang của Ngài. Chúa lên trời, không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện tại trần gian, nhưng là một sự thay đổi cách thức hiện diện. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước đây, nhưng vẫn hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Người được cất lên trước mặt các Tông đồ và có đám mây bao phủ lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Hình ảnh đám mây bao phủ lấy Ngài, Thánh Kinh muốn nói rằng, Ngài vẫn hiện diện ở bên mỗi người, chỉ có điều là mắt chúng ta bị mây che phủ nên không nhận ra Ngài.
Chúa về trời để chỉ cho ta rằng, mục đích của mỗi người và quê hương đích thực của chúng ta là Nước Trời. Chúa về trời là một bảo đảm chắc chắn cho tất cả những ai tin theo Chúa, thực hành những điều Chúa dạy, đi theo con đường của Ngài thì cũng sẽ được về trời với Ngài. Ngài là người mở đường, Ngài đi trước để dẫn lối cho chúng ta theo sau. Vì thế, mỗi người phải luôn nhớ hướng tâm hồn và cả con người mình về quê trời, là nơi Thiên Chúa là Cha yêu thương đang đón đợi chúng ta.
Tuy nhiên, việc hướng lòng về trời không làm cho chúng ta coi thường, bỏ quên những công việc và trách nhiệm trần thế. Hai Thiên thần đã hiện ra nói với các môn đệ : Hỡi người Galilê, sao còn mải đứng nhìn trời, hãy trở về Giêrusalem mà làm chứng về Chúa. Điều đó có nghĩa là người Kitô hữu không thể trốn tránh trách nhiệm trần thế, không thể sống lơ lửng trên không, nhưng vẫn phải bước đi trên mặt đất, đối diện với cuộc sống hiện tại cùng với vui buồn sướng khổ, thành bại. Chúng ta cùng bước đi với anh chị em chung quanh, sống trong hy vọng và chờ đợi Chúa trở lại, cùng chia sẻ mọi vui buồn của nhịp sống xã hội, cùng tham gia vào mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục…, để làm cho xã hội và cuộc sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn.
Sống trong hy vọng phải là thái độ không thể thiếu nơi người tín hữu. Chúng ta không thể để những khó khăn hoặc những đe dọa của con người, của xã hội làm chúng ta mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng của người tín hữu không ảo tưởng, nhưng được đặt trên lời hứa của Chúa Giêsu. Ngài hứa sẽ ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài sẽ trở lại đem chúng ta về với Ngài và chung hưởng hạnh phúc với Ngài.
Từ niềm tin tưởng và hy vọng nêu trên, mỗi người được thúc đẩy thực thi mệnh lệnh của Chúa : Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Mệnh lệnh này mời gọi chúng ta phải liên tục nói về Chúa cho mọi người và mọi loài, đưa Chúa đến với mọi người và đưa mọi người về với Chúa. Việc loan báo Tin Mừng là trách nhiệm của hết mọi người. Tuy nhiên, nhiều người đã để mình ngủ quên trong nếp sống đạo thường ngày, đánh mất sự thao thức đem Chúa đến cho anh em. Vì thế, họ bằng lòng với những sinh hoạt hiện có mà quên rằng bên cạnh còn rất nhiều người chưa biết Chúa Kitô, chưa có cơ hội để nghe Tin Mừng yêu thương của Chúa.
Có người hỏi rằng : Tại sao anh em Tin Lành rất nhiệt tình để nói về Chúa cho người khác và họ nói một cách say sưa không mệt mỏi, còn người Công Giáo thì không bằng họ ? Đó là điều thực tế mà chúng ta cần tự vấn chính mình và cần sám hối. Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa cho người khác khi chúng ta có Chúa, đồng thời, ta chỉ có thể nói về Chúa một cách không mệt mỏi khi chúng ta hoàn toàn xác tín vào Chúa. Trong khi anh em Tin Lành không hề ngại ngùng nói về Chúa Giêsu, thì dường như người Công Giáo lại rất ngại khi nói về niềm tin của mình. Lý do là vì đời sống của họ quá khác với đời sống của Chúa Kitô và của Tin Mừng. Họ sống đạo một cách hời hợt qua lần, không cầu nguyện, không lãnh nhận Bí tích. Nhất là nhiều người không tự tin về vốn giáo lý của mình, bởi vì họ không học hỏi, không trau dồi nên họ tránh né không dám nói về Chúa, không dám mạnh dạn bênh vực niềm tin của mình.
Nguyên nhân sâu xa là vì nhiều người Công Giáo đã không có thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa, họ xa lạ với cuốn Kinh Thánh, họ không biết nhiều về Chúa Giêsu nên không thể nói về Chúa Giêsu cho người khác. (Bà Bill Clinton luôn mang cuốn Kinh Thánh trong giỏ xách, bất kể khi bà đi đâu). Nhiều người sống đạo hoàn toàn theo thói quen cha truyền con nối, không có những kinh nghiệm gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa, không yêu mến và không xác tín mạnh mẽ, vì vậy, họ chấp nhận im lặng hoặc thỏa hiệp khi phải nói về Chúa và về niềm tin của mình.
Để có thể mạnh dạn nói về Chúa cho người khác, cần phải có một xác tín thâm sâu, một lòng mến nồng nàn, và một sự nhiệt tâm không mệt mỏi dành cho Chúa. Muốn được như thế, chúng ta cần phải bắt đầu lại bằng việc siêng năng đến với Chúa qua Thánh lễ, các Bí tích ; siêng năng đọc và gẫm suy Lời Chúa, để cho Chúa biến đổi tâm hồn và con người của mình. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải có một tâm hồn quảng đại với Chúa và với Giáo Hội, dám để cho Chúa sử dụng hết mọi khả năng trí tuệ, sức lực, thời giờ và con người của mình cho chương trình của Chúa.
Xin cho chúng ta cũng bị thôi thúc như thánh Phaolô : Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm, để rồi chúng ta biết ra khỏi chính mình, ra khỏi sự tiện nghi vốn có, dám bước đến với anh chị em để thực thi mệnh lệnh Chúa truyền cho mỗi chúng ta. Amen.
Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Thực ra thời gian đầu, lễ Chúa LênTrời ABC-383
Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Thực ra thời gian đầu, lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống được mừng chung với lễ Chúa phục sinh. Từ thế kỷ IV, Giáo hội đã mừng riêng lễ Chúa lên trời vì dựa theo sách Công vụ Tông Đồ, bốn mươi ngày sau khi Chúa phục sinh, Chúa đã “được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (CVTD 1,9).
Khi cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời đúng bốn mươi ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội có ý giúp con cái mình sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai, một kinh nghiệm rất hữu ích và phong phú cho đời sống của những người con Chúa. Trong thời gian bốn mươi ngày, Giáo hội sơ khai đã vinh dự được sống những tháng ngày mà Thầy Chí Thánh “chiếu cố” gặp gỡ một cách hữu hình, và ngày thứ bốn mươi là lần cuối cùng họ được diễm phúc gặp gỡ Người một cách trực tiếp. Để rồi từ đây, họ sẽ vui mừng hơn nữa khi đã đủ khả năng để bước vào một kinh nghiệm lớn lao hơn, đó là kinh nghiệm gặp gỡ. sống và hoạt động tông đồ với Người, Đấng từ nay sẽ hiện diện một cách vô hình. Điều này đã được thánh Luca mô tả rất hay. Sau khi đã chứng kiến tận mắt Thầy Chí Thánh “được cất lên” và “có đám mây quyện lấy Người”, để rồi “không còn thấy Người nữa”. “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24,53).
Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Phục sinh, là Đấng đang hiện diện cách vô hình, quả là một kinh nghiệm thiêng liêng vô giá. Chính vì thế, trong suốt thời gian của Mùa Phục Sinh, đặc biệt những ngày trong tuần Bát Nhật Phục Sinh, Giáo hội đã không ngừng cho chúng ta suy ngắm những sự kiện Chúa Phục sinh đến gặp cách tỏ tường với nhiều người, với Giáo hội. Đó là thời gian Giáo hội sơ khai chưa thoát ra được cái thói quen của sự gặp gỡ, đồng hành. Những ước mong được tận mắt trông thấy dấu đinh hay được tận tay đặt vào cạnh sườn Người (Ga 20,25) đâu phải chỉ có một mình thánh Tôma? Những ước muốn được ôm chặt và giữ lấy Người (Ga 20,17) đâu phải chỉ có một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la? Đó là ước mong, khao khát của hết mọi người, nhất là những người đã một thuở vui buồn có nhau. Chúa Phục sinh hiểu điều đó, bốn mươi ngày là thời gian Người “chiều theo” thói quen của họ, nhưng cũng là thời gian Người bắt đầu tập cho họ bước vào một kinh nghiệm hoàn toàn mới, đó là kinh nghiệm gặp gỡ và sống với Người, Đấng không còn phải hiện diện hữu hình nữa mà là vô hình. Hễ khi họ tưởng không có Chúa, vắng bóng Chúa, thì ngay lập tức Chúa hiện diện bên họ. Bốn mươi ngày là thời gian đủ để Chúa củng cố niềm tin và giúp Giáo hội sơ khai sống kinh nghiệm mới đó. Và một khi đã sống kinh nghiệm đó rồi, Giáo hội mới nhận ra cái kinh nghiệm hữu hình của thời gian đầu thật “buồn cười” làm sao! Và cũng từ đây, Giáo hội không ngừng xác tín và khẳng định Đấng Phục sinh luôn hiện diện vô hình ngay trong lòng Giáo hội.
Giáo hội đã sống niềm tin đó (Giáo hội mang tên là lữ hành trong đức tin), không ngừng rao giảng niềm tin đó và sẵn sàng chết cho niềm tin đó. Giáo hội sơ khai đã ra sức truyền lại cho chúng ta cái kinh nghiệm vô cùng quý báu đó: Chúa Phục sinh đang hiện diện, đang có mặt trong cuộc đời chúng ta, không phải chỉ khi chúng ta họp nhau cầu nguyện, không phải chỉ khi chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng Người còn hiện diện trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta. Khi thì như một người đang làm vườn (Ga 20,11-18), lúc thì như một người đi đàng (Lc 24,13-35), khi thì lại như một người đang cầu nguyện (Lc 24,50-53), lúc lại như một người thuyền chài (Ga 21,4-23). Chúa Phục sinh vẫn luôn đang hiện diện như vậy, không ngừng hiện diện như vậy với Giáo hội. “Lên trời” đấy, “ngự bên hữu Thiên Chúa” đấy; ấy vậy mà Giáo hội vẫn mạnh dạn khẳng định chắc chắn rằng: “Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).
Cảm nghiệm được Chúa Phục sinh vẫn đang hiện diện với mình, đang cùng sống với mình, Giáo hội đã “mỉm cười” và “hoan hỷ” biết bao. Liệu đó có phải là kinh nghiệm của tôi không? Đã bao giờ tôi cảm thấy “hoan hỷ” và “mỉm cười” hạnh phúc vì biết rằng Chúa Phục sinh đang ở bên cạnh mình?
Ai cũng muốn “về trời”, nhưng không phải ai cũng thật lòng muốn “vào đời”. Phải thực sự can LênTrời ABC-384
Ai cũng muốn “về trời”, nhưng không phải ai cũng thật lòng muốn “vào đời”. Phải thực sự can đảm mới đủ sức dấn thân vào đời, vì trách nhiệm nhiều mà đau khổ cũng chẳng ít. Nhưng phải VÀO ĐỜI rồi mới có thể VỀ TRỜI với Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài cũng đã vào đời và chịu nhiều đau khổ, thậm chí còn phải chết trên Thập Giá.
Là những người đi theo Ngài, chúng ta cũng không thể đi lối tắt hoặc đường khác mà về trời. Chắc chắn như thế! Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài bảo chúng ta phải vào đời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Tuy nhiên, chúng ta không lẻ loi hoặc đơn độc, vì Ngài hứa chắc: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Hơn nữa, chính Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý sẽ dạy chúng ta những điều phải làm (x. Ga 14:26). Cứ an tâm mà vào đời!
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông Đồ mà Ngài đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà họ đã nghe Ngài nói tới, đó là: “Ông Gioan làm phép rửa bằng nước, còn họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:5).
Đã có những người “vô tư” hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Thời đó, người ta cứ tưởng Chúa Giêsu là một chính trị gia có thể đảo chính để cướp chính quyền mà khôi phục quốc gia Ít-ra-en. Nhưng ai cũng “bé cái lầm”, vì có lần Ngài đã xác định trước mặt tổng trấn Phi-la-tô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36).
Sau 40 ngày sống lại, Chúa Giêsu căn dặn xong, Ngài được cất lên ngay trước mặt các tông đồ, và rồi có đám mây quyện lấy Ngài, khiến họ không còn thấy Người nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm ngước lên trời, nhìn theo phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11).
Lên trời là một hiện tượng vô cùng lạ, các ông ngạc nhiên là điều tất yếu. Lên trời ở đây là “về trời” chứ không phải lên trời du lịch một thời gian, cũng chẳng phải như Chú Cuội bám gốc đa bay lên cung trăng, hoặc như Táo quân cưỡi cá chép bay lên trời. Đó chỉ là huyền thoại. Lại càng không phải như các phi hành gia bay lên cung trăng bằng phi thuyền. Đó chỉ là dạng lên trời không chính thức, họ lên trời nhưng không thể sống được nếu không có bình dưỡng khí. Phải trở lại đất cho nhanh, kẻo hết dưỡng khí là chết chắc. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13).
Chúa Giêsu lên trời là sự kiện vô cùng kỳ lạ. Các ông đã từng ngơ ngẩn khi thấy Thầy Giêsu bị người ta giết chết, tưởng thế là hết, nào ngờ Thầy phục sinh. Hạnh phúc tràn ngập. Nay các ông lại càng ngơ ngẩn hơn vì Thầy đi rồi, còn lâu Thầy mới trở lại, tiếc hùi hụi, nhớ ngẩn ngơ, nhưng chắc chắn các ông phải vào đời. Và mỗi chúng ta ngày nay cũng vậy, ai cũng phải vào đời để hy vọng và mong chờ ngày về trời.
Cuộc chia tay nào cũng có phần lưu luyến, thường buồn hơn vui, nhưng khi Chúa Giêsu chia tay lại không buồn vời vợi mà lại tràn đầy niềm hy vọng. Ngài về trời là dấu chỉ cho biết chắc chắn chúng ta cũng được về trời. Vậy là vui chứ không buồn. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).
Chúa Giêsu thăng thiên, Ngài về trời, nơi Ngài đã xuất phát, chúng ta vui mừng khôn tả, tác giả Thánh Vịnh mô tả là “rộn rã tiếng hò reo, vang dội tiếng tù và, đàn ca kính mừng Ngài”. Nhưng cuộc sống đôi khi không êm đềm như thảm lụa, nên chúng ta luôn phải tiếp tục động viên nhau: “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:8-9).
Trong mọi hoàn cảnh, sự khôn ngoan rất cần thiết, cần cho cả đời sống xã hội và tâm linh. Sự khôn ngoan đó không như khôn ngoan bình thường, mà đặc biệt hơn, đó chính là Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời” (Ep 1:17-20). Nhờ khôn ngoan, chúng ta đón nhận nhiều điều quý giá khác từ Thiên Chúa. Thật tuyệt vời!
Thánh Phaolô giải thích và cũng là kết luận: “Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:21-23).
Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Đó không chỉ là lời căn dặn, là lời người ra đi, mà còn là mệnh lệnh – tức là điều phải thực hiện bằng mọi giá. Ngài vừa hứa hẹn vừa cảnh báo: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16:16). Đó là hệ lụy tất yếu chứ không là sự hù dọa.
Đức tin rất quan trọng, tạo nên sức mạnh vô song, tạo nên điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của loài người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18). Thực tế cũng đã và đang có những người làm được như vậy, đó là tặng phẩm mà Thiên Chúa trao cho ai thì người đó phải biết sử dụng hợp lý. Ai cũng có một tặng phẩm, người được tặng phẩm này, kẻ được tặng phẩm khác, có người được hai hoặc ba tặng phẩm, cũng như kẻ được một nén, ba nén, năm nén, nhưng dù nhiều hay ít cũng chỉ là để làm sáng danh Thiên Chúa, chứ không phải để cậy mình hoặc nhắm tư lợi nào đó.
Thánh sử Mác-cô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Rõ ràng, Chúa Giêsu về trời rồi thì các ông đã vào đời, làm chứng về Đức Giêsu Kitô “ba-trong-một”, với ba sự kiện: Chịu chết trên Thập Giá, phục sinh và lên trời.
Vào đời như thế nào? Thánh Phaolô cho biết về phong cách vào đời: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12:6-8). Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi hoàn cảnh và trình độ khác nhau, mỗi người là một các chi thể khác nhau nhưng vẫn chung một Nhiệm Thể Đức Kitô. Tất cả các chi thể phải đồng tâm nhất trí, cùng hợp lại để phát triển Nhiệm Thể Thánh.
Thánh Phaolô nói thêm về phong cách vào đời: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12:9-13). Được vậy thì thật hạnh phúc cho chúng ta, và Thiên Chúa cũng vui mừng vì Ngài được tôn vinh nơi chính mỗi chúng ta.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết “ái mộ những sự trên trời” bằng cách sống nhân bản, nên hoàn thiện hàng ngày, chứng tỏ sự sống dồi dào của Đức Kitô qua việc thể hiện lòng thương xót với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn. Xin Đức Maria và Đức Thánh Giuse hướng dẫn chúng con biết đi đúng lối về trời và đưa chúng con đến đích thật. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Sau khi đã hoàn tất sứ mệnh cứu LênTrời ABC-385
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Sau khi đã hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc được Thiên Chúa Cha trao phó, và sau khi đã trao sứ mệnh này lại cho các môn đệ tiếp tục, Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, đã lên trời trở về với Thiên Chúa Cha.
Trong một dịp đến thành phố Chicago, tôi có ghé tham quan tòa nhà lớn có tên là Tribune. Bức tường bên ngoài của tòa nhà có những viên đá khác thường được đặt lồi ra bên ngoài. Trên những viên đá này có một bảng nhỏ cho biết xuất xứ của viên đá. Có viên đá được lấy từ kim tự tháp bên Ai cập; có viên đến từ tòa nhà Taj Ma-hah bên Ấn độ, có viên từ Khải hoàn môn bên Pháp, có viên từ bức tường Bá linh bên Đức. Mục đích của kiến trúc sư khi vẽ và xây tòa nhà Tribune này là muốn có sự hiện diện của các quốc gia thế giới. Chúng ta thấy ngày nay, với những phương tiện truyền thông hiện đại như internet hay vệ tinh, nếu người kiến trúc sư này muốn có sự hiện diện của thế giới thì chỉ cần có những màn ảnh vĩ đại để trực tiếp truyền hình từ các thủ đô trên thế giới. Hay nếu chủ nhân của tòa nhà Tribune và người kiến trúc sư muốn thế giới hiện diện bằng xương bằng thịt thì chỉ cần đưa những người đại diện đến ngồi hay “trưng bày” họ ở ngoài phòng tiếp khách.
Sự kiện này dẫn chúng ta đến một điểm quan trọng, đó là, có nhiều cách và mức độ, để tạo sự hiện diện của người nào hay điều gì đó. Như những người Việt hải ngoại, chúng ta có thể hiện diện với người thân thuộc ở Việt Nam bằng nhiều cách như gọi điện thoại, e-mail, video, facetime là phương cách nói và nhìn hình trực tiếp cùng một lúc, hay về thăm bằng xương bằng thịt. Cũng vậy, sự kiện lên trời của Chúa không chấm dứt sự hiện diện của Ngài nơi trần gian, nhưng chỉ thay đổi cách hiện diện và đánh dấu một giai đoạn mới trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô không còn hiện diện nơi trần gian bằng xương bằng thịt, bằng thân thể thông thường của con người, nhưng Chúa hiện diện qua Nhiệm Thể Tinh Thần, đó là Giáo Hội mà Chúa đã lập nên.
Và sự kiện này cũng nói lên một điểm hết sức quan trọng khác mà chúng ta phải lưu ý, đó là, Chúa Giêsu Kitô không còn hoạt động nơi trần gian bằng những chi thể xương thịt trong thân thể con người, nhưng qua những phần tử trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Người. Hay nói một cách khác, Chúa Giêsu không còn xử dụng miệng, âm thanh của thân thể để nói và dạy dỗ, hay không còn xử dụng con tim thân xác để yêu thương, và cũng không dùng cánh tay xương thịt để dẫn dắt. Nhưng Chúa hoạt động qua những phần tử trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, trong Hội thánh. Chúa xử dụng tiếng nói và miệng của chúng ta để an ủi và dạy dỗ. Chúa xử dụng con tim của chúng ta để yêu thương. Chúa xử dụng bàn tay của chúng ta để dẫn dắt và che chở. Ngày nay, Chúa xử dụng những phương cách này để tiếp tục kế hoạch mang ơn cứu độ đến cho mọi người, và xây dựng Nước Chúa nơi trần gian.
Ông bà anh chị em thân mến. Đó là điều vui mừng mà chúng ta cử hành trong ngày lễ Chúa Lên Trời hôm nay. Thật vậy, cách đây hơn 2 ngàn năm, Chúa đã trao ban cho chúng ta trách nhiệm và bổn phận thay mặt Chúa, trở thành những “Ki-Tô” hiện diện nơi trần gian, để tiếp tục nói Lời Chúa, tiếp tục mang Tin mừng đến cho mọi người, tiếp tục yêu thương những người nghèo khổ, bất hạnh, tiếp tục dẫn dắt người tội lỗi và chưa có đức tin đến với Chúa và Chúa cũng nhờ những cánh tay, con tim và lòng quảng đại của chúng ta để xây dựng Nước Chúa nơi trần gian. Chúa qua Thánh Thần thánh hóa, ban ơn và kêu gọi chúng ta hãy để cho Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động qua chúng ta, cũng như sai chúng ta đi mang Tin mừng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa Cha đến cho mọi người.
Chúng ta thấy các bài Kinh thánh hôm nay diễn tả biến cố Chúa lên trời và trao ban sứ vụ rao giảng Tin mừng cho các môn đệ. Trong bài đọc 1, thánh Lu-ca tường thuật cả hai biến cố: Chúa lên trời và trao ban cũng như sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bài đọc còn cho chúng ta biết trước ngày lên trời, Chúa Giê-su Ki-tô đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Sau khi sống lại, Người đã hiện ra nhiều lần trong bốn mươi ngày, để củng cố đức tin, chứng tỏ cho các ông thấy Người đã sống lại như lời Người đã tiên báo, sau khi đã chịu khổ hình chết trên thập giá, và nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Chúa còn báo cho các ông biết các ông sẽ lãnh nhận Phép Rửa bằng Thánh Thần.
Thật vậy, các Tông đồ lãnh nhận Phép Rửa này trong ngày Lễ Ngũ Tuần mà Hội thánh mừng vào lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống tuần tới. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cầu nguyện cho các tín hữu có thần trí khôn ngoan để hiểu Mầu Nhiệm Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, được thực hiện qua Chúa Giê-su Kitô. Thánh Phao-lô xác định cho mọi người biết Chúa Giê-su Ki-tô là đầu của Hội thánh và chúng ta là thân thể của Người, ngài nói “Thiên Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài.” Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin Mừng, và Người ban quyền cần thiết để người khác tin vào lời các ông rao giảng. Đây là sứ mệnh và cũng là một sự thử thách mà Tin mừng đề cho chúng ta trong cuộc sống Ki-tô hữu.
Ông bà anh chị em thân mến. Muốn truyền thông, muốn rao giảng Tin mừng một cách thiết thực, chúng ta phải tha thiết, gắn bó, xử dụng và phải sống Tin mừng là Lời Chúa. Lời Chúa phải thấm nhuần trong đời sống chúng ta. Hôm nay, Chúa nói với chúng ta “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.” Chúng ta hỏi lại chính mình “Tôi có gắn bó và tha thiết và với Lời Chúa không?”, “Tôi có lời Chúa trong trái tim tôi không?” “Tôi có Tin mừng trong đời sống tôi không?” Nếu chúng ta không có, không biết Lời Chúa, không có Lời Chúa trong trái tim, không thấm nhuần Lời Chúa trong đời sống, thì làm sao chúng ta có thể truyền thông, có thể rao giảng Tin mừng Lời Chúa cho ai được! Nếu tôi muốn rao giảng Lời Chúa cho ông bà anh chị em, thì tôi phải cố gắng tha thiết và gắn bó với Lời Chúa trong đời sống, phải cố gắng đọc Lời Chúa, phải soạn và sau đó mới truyền thông, mới rao truyền Lời Chúa.
Chúa Giêsu chỉ rao giảng Ơn Cứu Độ 3 năm ngắn ngủi nơi trần gian, rồi Người phải từ giã các môn đệ về trời ngự bên hữu Chúa Cha vinh hiển, và Chúa cũng muốn chúng ta “Người ở đâu thì chúng ta ở đó.” Vì vậy Người đã ban Chúa Thánh thần để hiện diện và giúp chúng ta chu toàn sứ mệnh Người đã giao phó cho chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta có tâm hồn khao khát, có sự gắn bó và thành tâm sống Lời Chúa, để Lời Chúa thấm vào cuộc sống chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta can đảm và sức mạnh để rao truyền Tin mừng trong môi trường chúng ta đang sống là gia đình, nơi làm việc và cộng đoàn giáo xứ, bằng những việc tốt lành, bác ái, yêu thương và hy sinh phục vụ xây dựng Nước Chúa.
Giầu sang phú quí, địa vị danh vọng có thể là điểm nhắm của nhiều người đang gắng sức tìm kiếm. Lý LênTrời ABC-386
Giầu sang phú quí, địa vị danh vọng có thể là điểm nhắm của nhiều người đang gắng sức tìm kiếm. Lý tưởng của người lao động là có được lương cao, thao thức của người nhạc sĩ là có được tác phẩm để đời, người kiến trúc sư với mơ ước bản vẽ của mình được sử dụng. Đối với công trình lớn hay nhỏ, các chủ đầu tư đều đưa ra khẩu hiệu : an toàn là bạn, tai nạn là thù, đó cũng là mong ước của người lao động. Người ta dù cao sang hay nghèo hèn cũng được gọi công dân của một đất nước; từ khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã được gọi là Kitô hữu, và đích điểm hạnh phúc vẫn là của mọi phần tử xã hội.
Vì thấy cuộc đời là “bể khổ”, nên giáo lý “Nhà Phật” chỉ đường cho chúng sinh cách giải thoát là “diệt dục”. Giáo lý Hội-thánh Công-giáo đặt nền tảng cho cuộc đời dựa trên “luật yêu thương”, con đường dẫn tới hạnh phúc của người Kitô hữu sẽ tùy thuộc chúng ta sử dụng khả năng, điều kiện, của mình như thế nào.
Sự kiện “Chúa Thăng Thiên” hay “Chúa về Trời”, là hoa trái của tình yêu Đức Giêsu hoàn tất “sứ mạng yêu thương” suốt 33 năm tại trần thế. “Chúa Thăng Thiên” là khởi đầu cho sứ mạng kế tiếp của các học trò Đức Giêsu, của từng người Tín hữu chúng ta. Sứ mạng tông đồ được mở ra với lệnh truyền : “các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ”.
Khi xưa tại Na-ra-rét, Đức Giêsu có 30 năm vừa học cầu nguyện vừa sống cầu nguyện, sau đó 3 năm tiếp theo, Chúa Thánh Thần dẫn Ngài thực thi sứ mạng yêu thương, và đến “điểm hẹn” Đức Giêsu đã thi hành trọn vẹn ý Chúa Cha. Sách Công vụ hôm nay diễn tả sự kiện Chúa Giêsu lên trời, và Thánh Thần tiếp tục hoạt động nơi các tông đồ, đó là ơn gọi làm chứng nhân tại Giêrusalem, các vùng Giuđêa, Samaria, và đến tận cùng trái đất. Điểm hẹn mà Thánh Phaolô nói nơi bài đọc 2 là hãy cầu nguyện, nhân danh Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô để ban cho các Tín hữu được ơn khôn ngoan của Thánh Thần.
Điểm hẹn giữa Chúa Giêsu và các tông đồ hôm nay không đơn giản chỉ là mệnh lệnh : “các con hãy đi khắp thế gian”; điểm hẹn mà các tông đồ phải đọc ra, đó là hạnh phúc được “lên trời ngự bên hữu Chúa Cha với Thầy Giêsu”. Sau nữa, điểm hẹn không chỉ là nơi hội ngộ, điểm hẹn còn cho thấy sức mạnh đầy quyền năng của Thánh Thần, có tình yêu Chúa cùng hoạt động ở hiện tại. Điểm hẹn của chúng ta hôm nay cũng được mang dáng dấp tình yêu thương, phải được bổ dưỡng hạnh phúc bằng cả vật chất lẫn tình thần, xem ra như thế mới đủ khỏe, đủ vui, đủ hấp dẫn cho những ai sống luật yêu thương.
Có một câu ca dao mà mhiều người trong chúng ta đã nghe : đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam. Có một câu trong Tin mừng hôm nay : “đây là phép lạ đi theo những người đã tin, nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải độc dược thì cũng không bị hại.” Cảm nhận về thủy chung, hiểu theo nghĩa chặt hay nghĩa rộng, đều đẹp, nói tới tình yêu là nhắc đến một sức sống mãnh liệt, dù tình yêu nặng về vật chất hay tinh thần.
Các tông đồ không thể hiểu hết về sự kiện Thầy lên trời, vì thế, các ông chỉ có thể trung thành với lời căn dặn của Thầy và không ngừng hiệp thông cầu nguyện. Ơn gọi của người tông đồ, của mỗi chúng ta theo Đức Giêsu phải có sự gắn bó như tình nghĩa phu thê, nếu ta tin Đức Giêsu vừa là Thầy vừa là Chúa. Thầy Giêsu là người tiên phong chiến thắng sự chết, Thầy là đường và cũng là người chỉ đường giúp chúng ta đạt tới điểm hẹn Nước Trời.
Người Việt Nam chúng ta quan niệm trời và đất xa nhau nhưng vẫn có liên hệ, trời chi phối tất cả mọi sinh hoạt của đất; vì thế mà dân gian có truyện “Cóc kiện trời”. Xảy ra lúc đó ở dưới đất nhiều năm không mưa, vạn vật khổ đau trăm bề, Cóc – Cáo – Cọp – Gấu là những con vật đại diện, tìm lối lên trời thưa kiện về việc hạn hán. Sau khi gặp gỡ được “Ngọc Hoàng”, không những khúc mắc được giải tỏa, “Ngọc Hoàng” còn cho “Cóc” một ân huệ, mỗi khi ở dưới đất cần mưa thì Cóc cứ nghiến răng ken-két. Dân gian còn đặt ra một câu vè, đề cao sự khăng khít giữa tương quan đất và trời : con Cóc là Cậu Ông Trời, hễ ai đụng đến là Trời đánh cho.
Tương quan giữa Chúa Giêsu với các tông đồ là yêu thương, sứ mạng Chúa Giêsu trao cho các ông là một diễm phúc, từ sự gắn bó yêu thương, các ông có thể chu toàn việc Thầy giao phó cách dễ dàng hơn. Do đó, Kinh Thánh đã diễn tả sức mạnh, quyền uy đi kèm với niềm tin của các ông : “nói được tiếng lạ, trừ được quỷ thần, chữa lành được các bệnh tật, cầm rắn trong tay, uống phải độc dược cũng không bị hại”. Điểm hẹn mà các tông đồ, và mỗi người tin theo Chúa đó là tình yêu hiệp thông, là hạnh phúc có Chúa cùng hoạt động, là niềm vui trọn vẹn vì được ở cùng Thầy Giêsu bây giờ và mai sau. Amen.
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
Ý CHÍNH:
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng Nước LênTrời ABC-387
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi loài thụ tạo, để ai tin và chịu phép rửa thì được tái sinh làm con Thiên Chúa và được sống đời đời. Còn những kẻ không tin thì sẽ bị kết án. Chúa còn hứa ban quyền làm những dấu lạ cho các Tông đồ. Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi với sự trợ giúp của Người.
CHÚ THÍCH:
– C 15-16: +Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng cho sứ mạng tông đồ. +Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người đã trao sứ mạng “loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” cho các Tông đồ. +Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin hạnh phúc”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là “Tin Mừng được Đức Giê-su công bố. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. +Cho mọi loài thọ tạo: Mọi loài thọ tạo mang ý nghĩa cánh chung, nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ biến đổi trần gian nên Trời Mới Đất Mới vào ngày Tận Thế (x. Kh 21,1). +Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép Rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên người mới và nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời. + Còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Còn kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa nên đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên sẽ khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời ở đời sau (x. Ga 15,5-6). +Còn những người không tin Đức Giê-su nhưng không do lỗi của họ thì có được hưởng ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì “Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn”. Chỉ những kẻ cố tình theo ma quỷ làm điều gian ác và cố chấp không hồi tâm sám hối, thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục, nơi dành cho các đầy tớ bất trung, “những kẻ đạo đức giả. Ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (x. Mt 24,51a), cũng là nơi “dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).
– C 17-18:
+Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Chúa Giê-su Phục Sinh đã trao lại cho các ông quyền làm các dấu lạ ấy.
+Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), các Tông đồ đã làm nhiều dấu lạ. Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, sau khi nhận được đầy ơn Thánh Thần, các Tông đồ đã nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân qua các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv 14,8-10) ; Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay và cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
– C 19-20:
+Chúa Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Các Vua đã “lên trời trong cơn gió lốc” (2 V 2,11), thì thân xác Chúa Giê-su Phục Sinh cũng được rước lên trời trên các tầng mây. Từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa.
+Và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14; Cv 2,34), được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18), ngang hàng với Thiên Chúa (x. Ep 1,21). Công Nghị Do Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giê-su vì cho Người chỉ là phàm nhân mà dám phạm thượng khi nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa (x. Mc 14,62-64). Đức Giê-su lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa không có nghĩa là lìa xa con người, nhưng có nghĩa: Người được tôn vinh lên ngang hàng với Thiên Chúa. Là Thiên Chúa nhập thể làm người, là “Em-ma-nu-en” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
+ Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi khắp nơi loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8).
+Có Chúa cùng hoạt động với các ông…: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Chúa Phục Sinh đã hiện ra thổi hơi ban Thần Khí cho các Tông đồ để ban quyền tha tội (x Ga 20,21-22), và vào lễ Ngũ Tuần, Thần Khí hay Thánh Thần đã được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai để giúp Hội Thánh chu toàn sứ vụ ngôn sứ là loan báo Tin Mừng khắp thế gian (x. Cv 2,18).
CÂU HỎI:
1) Mầu nhiệm Phục Sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mạng được sai đi? Các Tông đồ được Chúa Phục Sinh sai đến với những người nào?
2) Tin Mừng của Đức Giê-su có những ý nghĩa thế nào?
3) Để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su, đòi ta phải có những điều kiện nào?
4) Những ai chắc chắn sẽ bị kết án sa hỏa ngục? Những người tuy chưa có đức tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được Chúa ban ơn cứu độ không?
5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những quyền nào?
6) Trườc khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao sứ vụ loan Tin Mừng cho các Tông đồ kèm theo những gì?
7) Lời Chúa tiên báo về các dấu lạ đi kèm với lời rao giảng của các Tông đồ đã được ứng nghiệm thế nào trong thời Giáo Hội Sơ Khai?
8) Trong thời Cựu Ước, ngôn sứ nào đã được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Mầu nhiệm thăng thiên của Chúa Giê-su khác với mầu nhiệm mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao?
9) So sánh hai lệnh truyền của Chúa Giê-su trước khi lên trời trong Tin Mừng Mat-thêu “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x Mt 28,19), và trong Công vụ Tông đồ “Hãy nên chứng nhân của Thầy…” (x Cv 1,8) giống và khác nhau thế nào?
10) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su có còn hiện diện trong Hội thánh nữa không?
11) Chúa Phục Sinh thổi ban Thần Khí cho các Tông đồ nhằm mục đích gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng (Mc 16,19-20).
CÂU CHUYỆN:
1) Phải chăng không có Thiên Đàng ?
Do hiểu Thiên đàng chỉ là một nơi cực lạc về vật chất nên vào ngày 5.9.1961 Thủ tướng Liên xô cũ là ông KÚT-XẾP (Kroutchev) đã nói với ký giả SUN-BÉC-GƠ (Sulberger) rằng : ”Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung: anh GIU-RI GA-GA-RIN (Youri Gagarine). Anh này đã đi vòng quanh trái đất mà cũng chỉ quan sát thấy những bóng đen dầy đặc, chứ không có gì như thiên đàng cả. Sau đó, chúng tôi đã suy nghĩ và gửi thêm một thám tử khác nữa lên là GIƠ-MEN TI-TỐP (German Titov). Chúng tôi đã bảo anh ta rằng : ”Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Ga-ga-rin chưa trông thấy thiên đàng, vì chàng ta chỉ mới bay có một tiếng rưỡi đồng hồ thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”. Ti-tốp đã ra đi rồi sau khi trở về, anh đã xác nhận lời tuyên bố của Ga-ga-rin: ”Hư vô ! Chỉ có hư vô!” là đúng. Rồi cuối cùng Kút-xếp xoa tay kết luận: ”Cho nên chúng tôi không tin có đời sau”. (Information catholique ngày 1.10.1961, tr 14).
Tuy nhiên đối với những người không có đức tin vào Thiên Chúa và vào thế giới siêu nhiên, thì làm sao có thể nhìn thấy Thiên Chúa hay thấy Thiên đàng bằng cặp mắt thường được?
2) Thiên đàng hỏa ngục hai bên:
Cách đây ít lâu thập niên 50, ở miền Nam Việt Nam các trẻ em thường chơi trò mà nội dung có ý nghĩa giáo dục rất lớn về hạnh phúc Thiên Đàng và bất hạnh của Hỏa Ngục như sau:
Hai em được đề cử sẽ đứng đối diện với nhau và giơ hai cánh tay lên nắm vào nhau để làm thành cánh cửa Thiên Đàng. Các em khác thì xếp hàng một, người sau đặt hai bàn tay lên vai người trước và nối đuôi nhau đi qua cánh cửa Thiên Đàng, trong lúc mọi người chơi đều hát một bài ca đồng dao theo cung giọng chung như sau:
“Thiên Đàng địa ngục hai bên, Ai khôn thì lại, ai dại thì qua. Đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha, Đọc kinh cầu nguyện, kẻo sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn, Đến khi mình chết được lên Thiên Đàng”.
Cuộc chơi bắt đầu khi các em vừa hát bài đồng dao vừa di chuyển chầm chậm chui qua cửa Thiên Đàng. Nhưng khi bài hát gần hết, các em sẽ phải đi nhanh hơn. Khi hát tới câu “Đến khi mình chết được lên Thiên Đàng”, thì cánh cửa Thiên Đàng do hai em trấn giữ sẽ đóng sập xuống. Những em chưa qua được cửa Thiên Đàng đương nhiên sẽ bị kẹt lại trong hỏa ngục, và phải chịu hình phạt như hít đất, thụt dầu hay nhéo lỗ tai, v.v…
3) So sánh Thiên đàng và hỏa ngục giống và khác nhau thế nào?
Ngày xưa có ông vua triệu vời một đạo sĩ vào triều để hỏi xem Thiên Đàng và Địa Ngục là có thật hay chỉ là sự hoang đường mê tín. Đạo sĩ mời vua nằm ngủ đầu dựa trên chiếc gối có phép mầu. Vua vừa nằm ngủ liền xuất hồn ra khỏi xác đi theo vị đạo sĩ, vào trong một căn phòng lớn. Giữa phòng có đặt một nồi cháo thật to đáng bốc khói, bốc ra mùi cháo thơm phức. Chung quanh nồi cháo có rất đông người ốm đói đang chen lấn nhau rất mất trật tự. Mỗi người cầm trên tay một cái muỗm có cán dài quá khổ. Ai nấy đều cố giành cho mình được quyền vào múc cháo trước. Nhưng vì cán muỗm quá dài, nên họ chỉ múc được cháo mà không thể đưa muỗm cháo tới gần miệng để ăn. Họ tranh cãi nhau ồn ào như một cái chợ. Có kẻ còn dùng muỗm đánh nhau làm cháo đổ văng tung tóe. Vua lắc đầu ngao ngán: “Đúng thật là hỏa ngục!”
Vua lại thấy hồn mình đi theo đạo sĩ bước vào căn phòng lớn thứ hai, cũng có nồi cháo thật to đang bốc mùi cháo thơm phức như vậy và có rất đông người đứng gần đó. Mỗi người đều cầm một cái muỗm có cán khá dài. Nhưng những người ở đây lại xếp hàng trật tự để lần lượt chờ tới phiên mình. Khi múc được cháo, họ không thể đưa vào miệng mình nên đã đưa muỗm cháo cho người ở bên cạnh ăn. Vị biết nhường nhịn và quảng đại chia sẻ cháo cho nhau nên mọi người đều được ăn no. Ai nấy đều cảm thấy vui và bầu khí trong phòng thật an bình hạnh phúc. Vua thấy vậy liền gật gù và nói: “Đây thật là một Thiên Đàng hạnh phúc!”
Câu chuyện trên cho thấy Thiên Đàng và Hỏa Ngục nói chung rất giống nhau. Chỉ khác nhau ở chỗ người ta có biết nghĩ đến nhau và biết cách ứng xử với nhau bằng tình thương hay không. Tình thương phải được thể hiện qua thái độ biết nghĩ đến nhau, nhẫn nhịn chịu đựng nhau và hay tha thứ cho nhau, biết tôn trọng lẫn nhau, tránh thói ích kỷ và biết khiêm tốn phục vụ và làm vui lòng nhau hay không thôi.
THẢO LUẬN:
1) Thiên Đàng là gì? 2) Thiên Đàng ở đâu? 3) Ta phải làm gì ngay từ bây giờ để sau này sẽ được sống an vui hạnh phúc với Chúa trên Thiên Đàng?
SUY NIỆM:
1) Thiên Đàng hay Địa Đàng là gì?:
– Thiên Đàng (Hy ngữ là Pa-ra-dei-sos) nghĩa là Hoa viên hay khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ (x St 2,8). Theo Kinh Thánh, Địa đàng là một khu vườn hoan lạc, nơi con người được sống trong bình an hạnh phúc. Đầu tiên Thiên Chúa đã dựng nên một khu vườn có nhiều hoa trái tươi xinh, có suối nước trong và rất nhiều thú vật hiền hòa đều sinh sống bình an hòa thuận với nhau. Rồi đến lượt ông bà nguyên tổ Ađam Evà được Chúa dựng nên và nhận làm nghĩa tử. Chúa cho hai người ở trong Vườn Địa Đàng (Eđen), và trao cho họ nhiệm vụ coi sóc canh tác vườn (Stk 2). Nhưng Nguyên tổ Ađam Evà do tội kiêu ngạo, đã cãi lệnh truyên của Thiên Chúa, nghe lời cám dỗ của con rắn ma quỷ để ăn quả cây Chúa cầm, hầu được theo sở thích của mình và không bị lệ thuộc vào Chúa nữa. Do phạm tội Tổ Tông này nên hai ông bà đã bị truất quyền làm nghĩa tử, bị đuổi ra khỏi Địa đàng, phải vào sống trong thung lũng trần gian đầy gai góc, nước mắt đau khổ với nhiều tai ương hoạn nạn bệnh tật và cuối cùng còn phải chết (x. St 3,7.16-19).
– Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc loài người chết trong tội lỗi muôn đời, nên đã hứa ban một Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi người nữ đến, với nhiệm vụ chịu hình phạt chịu đóng đinh chân tay vào thập giá để chịu chết đền tội thay cho loài người, hầu khôi phục lại tình trạng hoan lạc và hạnh phúc đời đời cho loài người (x. St 3,15). Đức Giê-su đã mở ra một con đường mới để dẫn đưa loài người về giao hòa với Thiên Chúa. Người biến trần gian là nơi lưu đầy trở thành Nước Trời bình an hạnh phúc, trở lại tình trạng Thiên Đàng ban đầu khi mới được tao thành (x. Ed 36,35; Is 51,3), trở thành “Trời Mới Đất Mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3,13; Kh 21,1), trở thành Miền Đất Hứa cho dân It-ra-en Mới là Hội Thánh trở về quê hương đời sau.
2) Thiên Đàng ở đâu?
– Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi đầy hoan lạc bình an và hạnh phúc. Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Phi-lip-phê đề cập đến quê hương Thiên Đàng như sau: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
– Thiên Đàng không phải ở đâu xa, mà ở đâu có tình yêu, có hòa bình, không chém giết hận thù nhau, mọi người sống chung hòa hợp và hạnh phúc thì nơi đó là Thiên Đàng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm về triều đại hòa bình của Đấng Thiên Sai:
“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,6-9).
Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng đời sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Tóm lại, Nước Trời hay Thiên Đàng có thể không ở đâu xa, mà ở trong lòng mỗi người, trong cộng đoàn ta đang sinh hoạt. Thiên Đàng hay Triều Đại của Thiên Chúa không phải thuộc vật chất nên chúng ta không trông thấy được như lời Đức Giê-su nói: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này!” Hay “Ở kia kìa!”, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,20-21). Ai yêu thương thì người ấy đang sống trong Nước Trời hay đang hưởng hạnh phúc Thiên Đàng vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,16). Còn ai không yêu thương sẽ bị loại ra ngoài Nước Trời, “Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 13,50).
3) Kiến tạo Thiên đàng đời sau bằng việc gieo việc tốt yêu thương từ đời này:
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một cha Bề Trên có tiếng là đạo đức của một dòng tu trong vùng và hỏi cha rằng:
– Thưa cha, cha có tin có Thiên Chúa không ?
Cha Bề Trên trả lời:
– Có chứ. Tôi tin.
– Nhưng dựa vào đâu mà cha lại tin như thế ?
– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nghiệm được Ngài ở trong tôi mỗi ngày.
– Nhưng làm sao mà cha cảm nhận được như thế ?
– Khi chúng ta yêu thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi trong ta sẽ tan biến như những giọt sương mai sẽ tự nhiên tan biến dưới ánh nắng mặt trời.
Chàng thanh niên suy nghĩ một lúc rồi hỏi tiếp :
– Xin cha chỉ rõ cho con phải làm gì để tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa?
– Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn.
Cha bề trên chẳng nói gì khác hơn điều Tông Đồ Gio-an đã viết như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu”. Nhà danh họa Van Gogh cũng nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc nhận biết Chúa và yêu mến Chúa. Không yêu Chúa thì sẽ không nhận biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì vực thẳm này được lấp đầy ngay. Yêu Chúa là nhận biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa và là Thiên Đàng, cũng như nơi nào có Chúa thực sự thì nơi đó chắc chắn sẽ có tình yêu đang ngự trị và trở thành Thiên Đàng.
4) Hiện nay công trình cứu chuộc của Chúa cần chúng ta góp phần hoàn tất:
Công trình cứu độ loài người của Thiên Chúa gồm hai phần: Đức Giê-su đã hoàn tất phần đầu thuộc về Thiên Chúa là nhập thể và mở ra con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” để cứu độ nhân loại. Nhưng việc cứu độ chỉ hoàn tất với sự cộng tác của các tín hữu với ơn Thánh Thần để nhận được ơn tha tội và tích cực cứu độ anh em.
Vì thế, trước khi về trời, Đức Giê-su đã nhắc lại cho các môn đệ sứ vụ loan báo Tin Mừng để làm cho chương trình cứu độ được hoàn thành nơi mỗi người tín hữu, rồi mọi người cùng góp phần cải thiện môi trường mình đang sống ngày một sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, để khu phố, xí nghiệp, cơ quan… mình đang làm việc trở thành Thiên Đàng yêu thương, mang lại bình an hạnh phúc là dấu chỉ sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trên Thiên Đàng.
Chúa Phục Sinh đã trao trách nhiệm cho các Tông Đồ cũng là cho mỗi tín hữu hôm nay là phải làm chứng nhân cho tình thương của Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Vậy gieo yêu thương để làm chứng cho Chúa hôm nay, đòi mỗi người chúng ta phải tha thứ, nhịn nhục, thăm viếng, giúp đỡ những người khó ưa sống chung trong gia đình, trong các đoàn thể của giáo xứ, nơi trường học, chợ búa, xí nghiệp, cơ quan, và bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện…
LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi Chúa về trời, sứ thần đã nhắc nhở các môn đệ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn cứ đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời (Cv 1,10-11). Lạy Chúa, bấy lâu nay chúng con đã lơ là với lệnh Chúa truyền loan báo Tin Mừng. Chúng con thường chữa lỗi mình rằng: Tôi lo cho mình chưa xong, làm sao dám lo cho người khác! Tôi phải tối ngày lo kiếm tiền nuôi gia đình nên không có giờ rảnh để tham gia sinh hoạt hội đoàn; Chúng con thường nhát đảm sợ hãi khi đối diện với những lời chống đối hay chối từ… nên đến hôm nay chúng con vẫn chưa làm được gì cho Chúa. Xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng một đời sống vị tha bác ái, luôn nghĩ đến tha nhân. Xin cho chúng con biết chiếu ánh sáng của Chúa ra trước mặt người đời và trở nên muối ướp thiên hạ khỏi hư hỏng. Xin cho chúng con luôn sống chan hoà, như nắm men được hòa lẫn vào ba đấu bột, để cả khối bột là học đường, xí nghiệp, chợ búa, khu xóm, giáo xứ… được dậy lên men tình yêu mến Chúa.
Khi nói đến lễ Chúa Giêsu lên trời hay lễ Thăng Thiên, chúng ta thường chỉ nghĩ đó là thời điểm LênTrời ABC-388
Khi nói đến lễ Chúa Giêsu lên trời hay lễ Thăng Thiên, chúng ta thường chỉ nghĩ đó là thời điểm kết thúc sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu. Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng, lại quy hướng chúng ta về với một khởi đầu mới, trong lạc quan và hy vọng. Không phải vô cớ mà cả ba bài Tin Mừng cho chu kỳ ba năm A,B,C đều là những đoạn kết của các Tin Mừng nhất lãm. Đây là những kết “mở”, dẫn chúng ta sang một khởi đầu mới. Trước hết, đó là khởi đầu của sứ mạng truyền giáo được Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ. Sứ mạng này có điểm xuất phát là Giêrusalem, là thành thánh và là trung tâm của Do Thái giáo. Sứ điệp mà các môn đệ được trao phó là lời kêu gọi sám hối. Chúng ta hãy nhớ lại, đây cũng là nội dung lời rao giảng đầu tiên khi Chúa Giêsu khởi sự loan báo Tin Mừng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!”. Có điều khác biệt là bây giờ Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mà Người hiện diện qua các chứng nhân. “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”. Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin. Tuy Chúa Giêsu không hiện diện thể lý giữa các môn đệ, Người lại hứa ban cho các ông “quyền năng từ trời cao ban xuống”. Quyền năng này là Chúa Thánh Thần. Vậy, đây là khởi đầu của một thời đại mà Thiên Chúa tuôn đổ Thần Khí của Ngài trên mọi tạo vật, để hướng dẫn và thánh hoá mọi xác phàm, nhất là những môn đệ. Điều này đã được thực hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. “Quyền năng từ trời cao” đã biến đổi các ông, ban cho các ông sức mạnh và nghị lực, nhờ đó, các ông không còn sợ hãi, mạnh dạn mở tung các cửa và can đảm rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh. Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã lên đường. Đây là cuộc chia tay với Thày, đồng thời cũng là khởi đầu một cuộc lên đường mới. Tác giả Tin Mừng Luca diễn tả: “Các ông trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Sứ điệp mà các ông lãnh nhận để rao giảng phát xuất từ Giêrusalem, nơi có Thiên Chúa hiện diện theo quan niệm của người Do Thái. Từ nơi này, ánh sáng Lời Chúa lên đường cùng với các ông, với tư cách là nhân chứng của Đấng Phục sinh, để chiếu toả đến tận cùng thế giới. Lời căn dặn của Chúa được ghi trong sách Tông đồ Công vụ còn cho thấy “không gian” của sứ vụ tông đồ rất rộng lớn bao la: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Tác giả sách Công vụ Tông đồ, cũng là Thánh Luca, là một nhân chứng mắt thấy tai nghe, giờ phút chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Sau những lời căn dặn, Chúa Giêsu đã lìa họ mà về trời cao. Tác giả dùng chữ “được cất lên”, cùng với chi tiết đám mây bao phủ. Trong truyền thống Cựu ước, đám mây là yếu tố diễn tả các cuộc “thần hiện” của Đức Giavê (x. Xh 13,21-22); của Con Người (x. Dn7,13). Đức Giêsu, mặc dù vắng bóng, vẫn luôn luôn hiện diện trong Giáo Hội. Như vậy, cuộc “lại đến” của Chúa được các sứ thần áo trắng diễn tả, không phải là một cuộc trở lại, nhưng đúng hơn, là sự tỏ mình lần cuối để minh chứng sự hiện diện ấy. Xem ra có mấy vị trong số các tông đồ vẫn còn quan niệm lệnh lạc về sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu. Vì vậy mà họ hỏi Chúa: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?“. Xưa cũng như nay, độc giả không khỏi ngỡ ngàng trước câu hỏi đó. Thế mới thấy rằng để canh tân tư duy và quan niệm của con người không phải là điều dễ dàng. Bốn mươi ngày sau biến cố Phục sinh, các ông đã nhiều lần gặp Chúa, mà quan niệm về Đấng Thiên sai của các ông vẫn chưa thay đổi. Trước sự tăm tối của lòng trí con người, tác giả Thư Do Thái khích lệ chúng ta “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Bài đọc II). Mười ngày sau lễ Thăng Thiên, Mùa Phục sinh sẽ khép lai. Như đã nói ở trên, Lễ Thăng Thiên không phải hồi kết thúc nhưng là một khởi đầu mới cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa của mỗi chúng ta, với tư cách là tín hữu. “Không ai cho người khác cái mình không có”, chúng ta chỉ có thể trở thành chứng nhân can đảm của Chúa Giêsu, một khi chúng ta vững niềm xác tín nơi Người, nhận ra sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc cho chúng ta, quê hương đích thật của chúng ta là trên trời. Chúa Giêsu đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Tin yêu và gắn bó với Người ở đời này, chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau. Hãy cùng nhau lên đường trong hân hoan hy vọng, vì Chúa Phục sinh ở cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế!
Người phụ nữ có biệt danh là ‘bà Năm khòm’ đã trở thành nhân vật quá quen thuộc đối với những ai LênTrời ABC-389
Người phụ nữ có biệt danh là ‘bà Năm khòm’ đã trở thành nhân vật quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi gập người xuống để tìm nhặt những đồng tiền lẻ mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập tương đối khá, nên ngày nào bà cũng khom người xuống và căng mắt tìm kiếm miệt mài như con kiến cần cù chăm chỉ nhất.
Vì ngày nào bà cũng cúi gập người xuống, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn sát mặt đất để tìm kiếm những đồng tiền rơi nên rốt cuộc, cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa. Vì thế, người dân quanh đó gán cho bà biệt danh là “bà Năm khòm.”
Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền lẻ mà chẳng biết gì đến thế giới bao la muôn màu muôn vẻ chung quanh!
Hình ảnh người đàn bà còng lưng trong mẩu chuyện trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà không màng gì đến thế giới thiêng liêng.
Nếu không được ánh sáng phục sinh và cuộc thăng thiên vinh hiển của Chúa Giê-su soi sáng, con người chỉ có thể thấy gần mà không thể thấy xa; chỉ biết chú mục vào cuộc sống phù du đời nầy mà lãng quên cuộc sống mai sau; chỉ biết vun quén của cải vật chất tạm bợ trần gian mà không lo tích lũy cho kho tàng vĩnh cửu; chỉ biết kiếm tìm lạc thú chóng qua mà lãng quên hạnh phúc trường cửu muôn đời…
Nếu không được ánh sáng phục sinh chiếu dọi, con người dễ dàng ngoảnh mặt với Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!
Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất. Họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của cuộc sống, như nhận định của thi hào Nguyễn Du:
“Trăm năm còn có gì đâu Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” Hãy ngước nhìn lên
Sự kiện Chúa Giê-su lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ tối tăm nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.
Như ấu trùng ve sầu chui ra khỏi những lớp đất tăm tối, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất tiếng ca vang dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi vượt lên trên thế giới hữu hình, phá bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống một đời sống mới.
Thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta hãy hướng về đích xa:
“Quê hương chúng ta ở trên trời” (Phi-lip 3, 20).
Thế nên: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.” (Col 3, 1-4) và “đừng chú tâm đến những sự vật hữu hình nhưng đến những thực tại vô hình, vì những sự vật hữu hình là phù vân, vô hình mới trường cửu” (2 Cr 4, 18 ).
Sự kiện Chúa Giê-su lên trời kêu gọi chúng ta hướng về đích cao: đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn, không chỉ biết đời nầy nhưng còn phải chuẩn bị cho đời sau.
Chỉ cúi nhìn xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời là đánh mất cuộc sống. Lạy Chúa Giê-su, Sau cuộc khổ hình đầy đau thương và bi thảm, Chúa đã được phục sinh vinh hiển và lên trời trong vinh quang.
Xin cho biến cố trọng đại này nhen lên trong lòng chúng con niềm hy vọng lớn lao là: Nếu hôm nay chúng con thực thi lời Chúa mỗi ngày, thì mai đây chúng con sẽ cùng được phục sinh vinh hiển như Chúa.
Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên LênTrời ABC-390
Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu mỗi ngày một hơn.
Đức Giêsu lên trời
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại. Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định, Người đã lên trời trước mắt các ông.
Phải hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ, trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời, nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế: “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?
“Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Các ngươi là chứng nhân về những điều này
Không phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông đồ rao giảng “đáng tin”.
Các tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con người thời đại hôm nay.
Các tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương, như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.
Nên giống Đức Giêsu
Đức Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền tội con người, để con người không phải chết vì tội mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế cho mình.
Đức Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với Ngài.
Là người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.
Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.
Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?
Có câu thơ viết rằng: Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai LênTrời ABC-391
Có câu thơ viết rằng:
Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay ?…
Đây là mấy câu thơ tuyệt đẹp của Hàn Mặc Tử. Nó đẹp bởi nó gợi lên một bức tranh quê đầy thơ mộng, lãng mạn. Một đêm trăng có gió, có mây, có cả bóng hình người con gái đưa đò sang sông.
Nó gợi nhớ cho ai xa quê một kỷ niệm, một nỗi niềm riêng. Xa quê nên chạnh lòng nhung nhớ. Xa quê nên chỉ mong được trở về tao phùng bên mái nhà xưa. Nỗi nhớ ấy dường như luôn da diết trong lòng.
Ai mang quê hương vào trong nỗi nhớ Để chiều này da diết quá đi thôi ! Đôi quang gánh nghèo trên vai chị bán xôi Chợt thương sao đôi vai gầy của mẹ.
Nỗi nhớ quặng vào tim khi nhớ người thân. Mong đem mưa về làm mát cho vườn cau, cho luống trầu xanh vì ở đó có bóng hình của Nội đầy yêu thương.
Khói bếp nhà ai thân thương quá đổi! Nhớ khói lam chiều khuất bóng hàng Cau Ai mang mưa về tưới mát vườn rau Chợt thưong sao luống Trầu xanh của Nội!.
Hai tiếng quê hương không chỉ gợi nhớ về một nơi chốn mà còn là một cõi linh thiêng. Nơi ấy chất chứa bao kỷ niệm ngọt ngào như chùm khế ngọt mà ai đi xa cũng mong được trở về. Trở về mái nhà xưa hay trở về khung cảnh đồng nội thân thương đều là nỗi nhớ nhung da diết trong lòng người xa quê.
Thế nên, xa quê ai cũng mong trở về. Ai cũng mong kết thúc công việc, hay kết thúc hành trình để “áo mão về quê” hay “vinh quy bái tổ”. Dầu sao, xa quê ai cũng mong, cũng cầu được sớm trở về quê hương.
Hôm nay, chúng ta mừng ngày Chúa Giê-su vinh thắng trở về Quê Trời. Ngài về Quê Trời sau 33 năm dãi dầu mưa nắng chốn dương gian. Ba mươi ba năm sống xa Quê Trời đến cư ngụ giữa chốn nhân gian để thi ân, để phục vụ trong yêu thương. Ngài đã làm tất cả để cho danh Chúa Cha cả sáng. Ngài luôn tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa. Ngài đã kết thúc hành trình dương gian trong chén đắng vâng phục Chúa Cha để danh cha cả sáng. Ngài đã hoàn tất chuyến đi cuộc đời khi hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao là cứu độ nhân gian qua hiến tế đồi Calve.
Cuộc vinh thắng trở về Quê Trời của Chúa Giê-su cũng là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Ky-tô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.
Cuộc vinh thắng trở về quê trời của Chúa Giê-su là cuộc khài hoàn vì Ngài đã trải qua đau khổ mới tới vinh quang. Hay nói cách khác, cuộc vinh quy bái tổ nơi quê trời cần lắm nhưng công lao mà chúng ta đã làm nơi dương thế. Đó là những hy sinh, những từ bỏ con đường xấu, từ bỏ con đường thênh thang để đi vào con đường hẹp, con đường của nói không với tội và sống tuân hành theo thánh ý Thiên Chúa.
Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giê-su: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.
Nhà du hành vũ trụ người Nga sau khi trở về từ trạm không gian đã tuyên bố : Tôi không thấy LênTrời ABC-392
Nhà du hành vũ trụ người Nga sau khi trở về từ trạm không gian đã tuyên bố : Tôi không thấy thiên đàng ở đâu cả ! Trái lại, nhà tư tưởng Pascal sau khi nhìn vào kính thiên văn, ông đã nói : Tôi thấy Thiên Chúa bay ngang qua ống kiếng của tôi ! Gần đây hơn, các nhà khoa học Mỹ khi nghiên cứu về sự hình thành vũ trụ đã tuyên bố : Chúng tôi đã thấy dấu vết bàn tay của Thiên Chúa.
Sự hiện diện và vắng mặt của Thiên Chúa trong cuộc sống và trong thế giới luôn là một thách thức đối với niềm tin của nhiều người. Có người cho rằng, Chúa Giêsu lên trời là chấm dứt tất cả sứ mạng của Ngài, Ngài không còn liên hệ gì với thế gian này nữa và cũng không còn ảnh hưởng nhiều trên cuộc sống cá nhân người tín hữu nữa. Các bài đọc của ngày lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay muốn khẳng định một giáo lý hết sức quan trọng : Chúa Giêsu kết thúc sứ mạng của Ngài tại trần gian, nhưng Ngài không bỏ thế giới này. Ngài không cắt đứt mối liên hệ với con người, nhưng chỉ là thay đổi cách thức hiện diện và hoạt động mà thôi. Ngài không hiện diện với con người bằng thân xác hữu hình như trước đây nữa, nhưng Ngài hiện diện cách vô hình, song lại có thể can thiệp cách mạnh mẽ để bảo vệ con người. Chúa Giêsu đã từng mang thân phận con người, nên đã thuộc về thế giới này, Ngài không thể bỏ con người. Ngài về trời, tức là Ngài trở về trong vinh quang của một một vị Thiên Chúa, như một hoàng đế chiến thắng trở về trong tiếng ca khải hoàn và trong vinh quang. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương dẫn dắt chúng ta.
Các tông đồ là nhưng người đã hiểu và đã tin vào sự hiện diện vắng mặt này cùa Chúa Giêsu, nên các ông vẫn hăng say làm việc như là Chúa vẫn đang hiện diện cụ thể bên các ông. Đoạn mở đầu Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy những bước ngoặt quan trọng làm thay đổi các tông đồ. Tác giả lược lại vắn tắt cuộc đời tại dương thế của Chúa Giêsu Nazaret. Ngài chính là vị Thiên Chúa đến ở với con người, Ngài đã sống và rao giảng Tin Mừng trong toàn cõi Giuđêa, cuối cùng Ngài đã chết và đã sống lại. Sau khi sống lại, Ngài đã hiện ra trò chuyện, ăn uống với các tông đồ và Ngài nói trước cho các ông về việc Ngài sẽ rời khỏi các ông và sẽ trao ban Thánh Thần cho các ông.
Chúa về trời, Ngài thay đổi cách thức hiện diện với nhân loại. Ngài không hiện diện bằng thể xác như trước đây, nhưng Ngài hiện diện bằng quyền năng Thánh Thần của Ngài, Đấng Ngài sai đến từ nơi Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu không muốn các tông đồ bị bó hẹp trong những lợi ích, ranh giới quốc gia nhỏ hẹp, không chỉ nghĩ đến việc khôi phục vương quốc Israel, nhưng Ngài đã mở ra cho các tông đồ một chân trời mới rộng lớn hơn, vượt mọi ranh giới quốc gia, để hòa mình vào thế giới, trong quyền năng và kế hoạch của Thiên Chúa. Một khi được đón nhận quyền năng của Chúa Thánh Thần, các tông đồ không còn bị giới hạn bởi bất cứ rào cản nào, nhưng phải trở thành chứng nhân của Chúa, khởi đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Trong sứ mạng này, Chúa Giêsu hứa sẽ ở bên các ông và cùng hoạt động với các ông nhờ Thánh Thần của Người.
Tác giả sách Công Vụ kể tiếp : Chúa Giêsu được cất lên ngay trước mặt các tông đồ và có đám mây quyện lấy Người khiến các ông không còn thấy Người nữa. Như thế, Kinh Thánh muốn nhấn mạng rằng : Chúa Giêsu được cất lên, không phải là đi vào một hành tinh xa xôi, nhưng Ngài vẫn ở trên cao ngay trước mắt các tông đồ và mỗi chúng ta. Chỉ vì bị giới hạn bởi mắt thịt, bị che khuất bởi những đám mây là giới hạn của con người, bởi những hào nhoáng của vật chất, khiến chúng ta không thể nhìn thấy Ngài.
Sách Công Vụ kể tiếp : Lúc các ông còn mải nhìn lên trời, thì có hai thiên thần mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói : Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông về trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời. Thánh Gioan còn ghi thêm cảm nhận và tâm trạng của các tông đồ : Các ông bái lậy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Cho đến lúc này, chứng tỏ các tông đồ đã nhận ra Thầy của mình chính là Thiên Chúa, vì thế, họ bái lậy Người như họ vẫn bái lậy Thiên Chúa của Israel. Họ chia tay Chúa Giêsu không phải trong buồn thảm, nhưng trong sự hân hoan vui mừng. Các tông đồ hân hoan vui mừng vì từ nay, Chúa Giêsu sẽ hiện diện với các ông trong từng lời nói và hành động. Các ông sẽ không còn co cụm tại Gierusalem, cũng không chỉ đứng ngước mắt nhìn trời, nhưng Chúa muốn các ông trở về với cuộc sống thường ngày để nói cho mọi người và chỉ cho mọi người thấy Chúa đang hiện diện và hoạt động trong các ông.
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc chúng ta đã trở về trong vinh quang của Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng, vì đã từng chia sẻ thân phận với con người, Ngài dễ dàng cảm thông với thân phận con người chúng ta. Giờ đây, trong vinh quang của Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn hiện diện, che chở và dẫn dắt thế giới và mỗi người ta qua mọi chặng đường cuộc sống.
Tuy tin vào Chúa Giêsu, Đấng quyền năng đang hiện diện, nhưng khi gặp thử thách, nhiều người vẫn bị chao đảo. Những khi rơi vào vực thẳm tăm tối không lối thoát, chúng ta cảm thấy dường như Chúa vẫn im lặng, Chúa vẫn ẩn mặt làm ngơ. Có những người trong cơn cùng cực đã oán trách : Chúa ở đâu ? Chúa có thấy nỗi khổ của tôi không ? Nhiều người khác đã sống như thể là Thiên Chúa không còn hiện diện trong cuộc đời của họ. Vì thế, họ sống một cuộc sống buông xuôi, không cầu nguyện, thiếu tin tưởng, họ cho rằng tự mình có thể giải quyết được tất cả mọi sự mà không cần Thiên Chúa.
Vì không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, nhiều người đã sống như kẻ không niềm tin, không hi vọng, sống trong buồn chán, hoặc sống cách buông thả. Người khác lại sống như thể không có Chúa bên mình, nên họ gian dối, quanh co và làm những điều bất công gian ác.
Sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, một cô gái, con một vị giảng thuyết nổi tiếng trả lời phỏng vấn trên truyền hình. Người hướng dẫn chương trình đã hỏi cô như sau : Tại sao Thiên Chúa lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy ?
Thiếu nữ này trả lời thật thâm thúy : “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học, khỏi chính phủ và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là người “quân tử” nên đã lẳng lặng rút lui. Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình ? Về những biến cố mới xảy ra như tấn công khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh …, tôi nghĩ rằng, mọi sự đã bắt đầu với việc người ta đề nghị không nên đọc kinh cầu nguyện nữa. Và chúng ta đã đồng ý”.
Thật kỳ lạ là con người có thể vứt bỏ Chúa một cách dễ dàng rồi sau đó lại tự hỏi tại sao thế giới nhiều sự ác và biến thành địa ngục. Thật kỳ lạ là chúng ta lại có thể tin những gì báo chí nói mà lại nghi ngờ những gì Kinh Thánh và Giáo Hội nói. Thật kỳ lạ là chúng ta nói với nhau đủ điều, đủ chuyện, nhưng khi nói về Thiên Chúa thì chúng ta lại đắn đo suy nghĩ và ngại ngùng.
Chúa lên trời, Ngài để lại sự nghiệp của Ngài cho chúng ta và muốn chúng ta tiếp tục sứ mạng của Ngài. Xin cho chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi hoàn cảnh và xin Chúa giúp ta trở thành người không mệt mỏi nói về Chúa cho anh chị em. Amen.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 660) viết: “Biến cố Thăng Thiên, vừa lịch sử vừa siêu việt LênTrời ABC-393
Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 660) viết: “Biến cố Thăng Thiên, vừa lịch sử vừa siêu việt, đánh dấu sự chuyển tiếp từ vinh quang này đến vinh quang kia.” Nói việc Chúa Giê-su Ki-tô thăng thiên mang tính lịch sử vì nó đã xảy ra trong một thời điểm nhất định (năm 33 – thế kỷ I công nguyên), ở một nơi chốn cụ thể (núi Ô-liu gần Bê-ta-ni-a, giáp phía đông thành Giê-ru-sa-lem của It-ra-en – xc Lc 24, 50-51; Cv 1, 12). Còn nói biến cố này mang tính siêu việt là muốn nói đến tính chất siêu linh vượt trên tất cả các biến cố trần thế.
Biến cố lịch sử siêu việt Thăng Thiên đã được Đức Giê-su tiên báo và dạy bảo rất kỹ từ trước: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” – Ga 14, 1-3). Tuy nhiên, khi biến cố đó xảy ra thì các môn đệ vẫn bày tỏ thái độ hoang mang lo sợ, điển hình như cảnh: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”, và thế là các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi” (Cv 1. 9-10).
Các Tông đồ đã được “thực mục sở thị” mầu nhiệm thăng thiên của Thầy mình, cũng tức là đã được củng cố đức tin vững vàng về mầu nhiệm Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, xuống thế làm người, chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người, đã sống lại và thật sự lên trời vinh hiển. Những việc làm, những Lời dạy của Thầy đã là hiện thực 100%; vậy thì còn “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” làm chi nữa? Cái tâm trạng băn khoăn lo lắng để rồi thì cứ “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” nó cũng chẳng khác gì cảnh Thầy dạy: ”Thầy đi đâu thì anh em đã biết đường rồi”, thì ngay lập tức hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 4-5). Tuy không dám nói ra, nhưng chắc chắn trong lòng các môn đệ vẫn băn khoăn thắc mắc: “Thầy lên trời, vậy trời ở đâu, và tại sao Thầy lại nói Thầy về với Chúa Cha ở trên trời mà vẫn “ở cùng anh em mọi ngày cho đến ngày tận thế” (Mt 28, 20 )? Và vì thế nên cứ “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy”.
Tâm trạng các tông đồ cũng là tâm trạng chung của con người, bởi cho đến thế kỷ XXI văn minh tiến bộ vượt bậc này, khoa học vẫn chưa chứng mình được trời ở đâu. Nếu đã tin chắc trái đất tròn, đặt giả thử biến cố thăng thiên xảy ra ở mặt địa cầu phía đối nghịch với Ít-ra-en (như ở Việt Nam, chẳng hạn), thì Đức Giê-su sẽ bay lên trời theo hướng ngược lại với hướng mà các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn theo”. Vậy thì trời ở đâu, ở phía trên đầu các môn đệ tại Giê-ru-sa-lem hay phía trên đầu các dân tộc Á Đông? Điều đó cho thấy biến cố Chúa lên trời chỉ là một cách Thiên Chúa mạc khải cho con người dễ hiểu mà thôi. Còn thực chất trời không phải là một không gian cố định nào và kể từ khi Chúa phục sinh thì Người không còn bị giới hạn bởi thân xác phàm tục nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người còn ở khắp mọi nơi “cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ nữa”. Như vậy là đã rõ, trời không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, ở trên cao hay dưới thấp, mà là ở khắp mọi nơi.
Quả thật “Trời” chỉ là một tình trạng chớ không phải là nơi chốn hay khoảng không gian cố định. Hiểu theo Ki-tô giáo thì “Trời” chỉ là tình trạng của con người được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, là nguồn sự sống vĩnh cửu, hạnh phúc vô biên, nguồn chân thiện mỹ, vinh quang tuyệt đối. Vì thế, việc Đức Giê-su lên trời có nghĩa là Người trở về với Chúa Cha, mang theo nhân tính mà Người đón nhận khi trở thành người trần trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và nhập thế; để từ đó đưa nhân tính ấy kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi. Với biến cố thăng thiên, Đức Giê-su muốn đưa các môn đệ vào không gian mầu nhiệm để họ kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa, được thông hiệp sự sống kỳ diệu, nguồn chân thiện mỹ vô tận với Người. Người đã đưa họ lên trời vì Người là Đầu và các môn đệ là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. (xc GL/HTCG, số 659-667).
Cũng trong ý nghĩa siêu việt đó, Đức Giê-su còn giao cho các môn đệ một nhiệm vụ quan trọng là xây dựng Nước Trời ngay trong lòng xã hội trần thế này, để cho mọi người tin vào Đấng Cứu Độ cũng được chia sẻ sự sống kỳ diệu, nguồn chân thiện mỹ vô tận và hạnh phúc vô biên của Thiên Chúa. Các môn đệ phải trở thành chứng nhân của Đức Ki-tô Phục Sinh (“Chính anh em là những chứng nhân về những điều này” – Lc 24, 48), nhờ sự kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su và những đặc sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha hứa ban cho họ. Vì thế, càng kết hợp với Chúa Giê-su, người Ki-tô hữu càng cảm nghiệm được tình trạng thiên đàng và cũng là tình trạng Nước Trời (GL/HTCG, số 1023-1029). Khi Giáo hội hướng dẫn người tín hữu sống thánh thiện để được “nên thánh giữa đời” (lên Thiên đàng, lên trời ngay ở trần gian này) là có chủ ý giúp giáo dân “cảm nghiệm được tình trạng thiên đàng và cũng là tình trạng Nước Trời” vậy. Chỉ đến khi nào “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20), thì mới hiểu được Lời dạy: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20).
Rõ ràng vấn đề quan trọng không phải là “cứ đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy”, để mà tiếc nuối, hoặc để mà thắc mắc xem trời ở đâu và Thầy lên trời sẽ cư ngụ chỗ nào; mà là hãy nhớ lại lời Thầy đã truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28, 19). Vì thế, nên “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Sở dĩ các Tông đồ tiên khởi làm được như vậy, chính là nhờ biến cố “ngày lễ Ngũ Tuần” tiếp liền với biến cố lịch sử siêu việt Thăng Thiên đã giúp cho các ngài có một lòng tin sắt đá vào Thầy của mình, bởi “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” (Mc 16, 17-18).
Có thể kết luận: “Thiên Chúa đã muốn dùng mạc khải để bày tỏ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến phần rỗi nhân loại, “nghĩa là cho họ được tham dự vào các ân thiêng hoàn toàn vượt khỏi trí khôn loài người”. Chính nhờ Thiên Chúa mạc khải mà “tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa tự nó vốn không vượt quá khả năng lý trí con người, trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, đều có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn mà không lẫn lộn sai lầm”. (Hiến chế Tín Lý về Mạc Khải “Dei Verbum”, số 6). Rõ ràng Thiên Chúa đã vì Tình Yêu đến với con người bằng con đường mạc khải (mạc khải liên tiếp mầu nhiệm Lòng Thương Xót Nhập Thể => mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh => mầu nhiệm Thăng Thiên và Hiện Xuống); vậy thì tại sao con người lại không đến với Thiên Chúa bằng con đường đức tin?
Vâng, chính đức tin là con đường giúp con người tìm gặp Thiên Chúa để “khám phá ra một số ‘con đường” giúp nhận biết Người. Những con đường này còn được gọi là “bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, không theo nghịa bằng chứng khoa học tự nhiên, nhưng theo nghĩa những “luận chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người biết chắc có Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG, số 31). Từ đó “con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do “dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự qui phục hoàn toàn của lý trí và ý chí”, đồng thời sẵn lòng chấp nhận mạc khải Ngài ban cho. Ðể được niềm tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài thúc đẩy và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý”. Và để việc hiểu biết mạc khải được sâu rộng thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài.” (Hiến chế “Dei Verbum”, số 5)
Ôi! Lạy Chúa, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách chân thực. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình thật hùng hồn trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu, thậm chí có nhiều khi con còn hoài nghi cả chính mình về một niềm tin con đã chọn cho đời mình! Vậy mà con lại luôn miệng chia sẻ niềm tin ấy cho mọi người, khiến người nghe cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ trên môi miệng, những lời giả dối… Thật chẳng khác “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, ).
Ôi! Lạy Chúa! Xin ban Thánh Linh giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống. “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thăng Thiên).
Trong bài giảng sáng thứ Ba, 03/05/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xin mọi người đừng là Kitô LênTrời ABC-394
Trong bài giảng sáng thứ Ba, 03/05/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xin mọi người đừng là Kitô hữu “xác ướp”, hay Kitô hữu “lang thang”. Đối với loại Kitô hữu lang thang, Ngài nói: “Khi đổi hướng sau bao nhiêu lần (con đường) trở thành một trận đồ huyền bí, một bến mê, và họ không biết làm sao để ra khỏi. Họ đã để mất tiếng gọi của Chúa Giêsu. Họ không có la bàn để tìm đường ra và họ cứ phải loay hoay tìm kiếm. Có những Kitô hữu kia, trên hành trình đã bị mê hoặc bởi một cái gì và họ dừng lại nửa đường, bị mê hoặc bởi cái gì họ thấy, bởi một ý tưởng, một đề nghị hay một phong cảnh đẹp. Và họ đã dừng lại! Đời sống Kitô không phải là một sự mê hoặc: mà là chân lý! Đó là Chúa Giêsu Kitô!”.
Con đường về trời
Đời sống đức tin của chúng ta là bước theo Đức Giêsu Kitô. Ngài đã xuống thế làm người, sống với con người, chết cho con người, sống lại để ban ơn cứu độ cho con người, lên trời để đưa con người vào đời sống mới. Cho nên, nó là một cuộc tình để chúng ta gắn bó đời mình với Đấng đã yêu thương chúng ta, và chúng ta hạnh phúc.
Để có thể bước theo và gắn bó đời mình với Đấng đã yêu thương chúng ta, thánh Luca đã nói trong đoạn đầu của sách Tông Đồ Công Vụ: “Trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những viêc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho đến ngày Người được rước lên trời” (Cv 1, 1-2a). Nghĩa là Tin mừng đã tường thuật tất cả cho chúng ta về cuộc đời của Đức Giêsu. Vì vậy để yêu mến Đức Giêsu chúng ta phải yêu mến cuộc đời của Ngài trong Tin Mừng; để khỏi lạc đường, chúng ta có Tin Mừng là la bàn để chỉ đường cho chúng ta đi.
Ai trong chúng ta cũng biết mình xuất phát từ đâu? Mình đang làm gì? Và mình sẽ về đâu? Chúng ta xuất phát bởi tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa; chúng ta đang nổ lực để xây dựng cuộc đời mình trong sự canh tân của Chúa Thánh Thần; và chúng ta sẽ được về trời cùng với Đức Giêsu. Thế cho nên, con đường chúng ta đang đi là con đường về quê trời.
Vấn đề của chúng ta là vấn đề đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nêu lên trong bài giảng sáng ngày 03/05/2016 tại nhà nguyện thánh Macta: “Có những Kitô hữu kia, trên hành trình đã bị mê hoặc bởi một cái gì và họ dừng lại nửa đường, bị mê hoặc bởi cái gì họ thấy, bởi một ý tưởng, một đề nghị hay một phong cảnh đẹp. Và họ đã dừng lại!” Vấn đề ở chỗ có “một cái gì” đó đã cản trở chúng ta về trời.
Xuyên suốt bài đọc Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm nhận một tình yêu chan chứa của Chúa Giêsu LênTrời ABC-395
Xuyên suốt bài đọc Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm nhận một tình yêu chan chứa của Chúa Giêsu dành cho môn sinh. Những lời nhắn nhủ như càng tha thiết hơn! Chúa mong muốn môn đệ hiểu và xác tín thâm sâu trong trái tim những Lời Kinh Thánh nói về Thầy mình,về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người đã trải qua. Và giờ đây, sắp đến lúc Chúa rời các ông. Mong ước cuối cùng của Chúa trước khi về trời là các môn đệ trở thành chứng nhân cho Chúa. Con đường làm nhân chứng cũng là con đường dẫn về trời cao của môn đệ và của mỗi Kitô hữu.
– Chúa Giêsu lên trời, đánh dấu cuộc ra đi và vắng mặt của Chúa. Từ nay, môn đệ không còn thấy Chúa cách cụ thể, không đụng chạm, không nghe và cũng không đồng hành bên cạnh như trước đây Người đã sống cùng. Chúa ra đi và vắng mặt, nhưng Người sẽ hiện diện với môn đệ, với Giáo Hội và với mỗi người chúng ta bằng cách thế mới. Người không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa.
– Chúa Giêsu lên trời, kết thúc sứ mạng của Người nơi trần gian. Nhưng lại là lúc khởi đầu sứ mạng của môn đệ, sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa.
Chúa cho các môn đệ hiểu vinh quang của Chúa đòi phải hy sinh. Muốn có phục sinh, phải chết. Hy sinh là biểu hiện của tình yêu, như hạt lúa gieo vào lòng đất phải thối và chết đi mới sinh bông hạt (x. Ga 12,24). Với Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa, chết là một bước trong quá trình biến đổi để đi tới Phục sinh. Chính vì thế, Chúa muốn môn đệ xác tín vững vàng để rồi: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân.”(Lc 24,47) , lời rao giảng Nhân Danh Người không ngoài lời rao giảng về Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa. Các Tông đồ và môn đệ sau này đã nằm lòng mỗi khi rao giảng cho dân chúng vì các ông là chứng nhân những gì các ông giảng. (x.CVTĐ 2, 22-24)
Trọng tâm của sứ vụ rao giảng là tác động của Chúa Thánh Thần. Người ban quyền năng và cho môn đệ hiểu tất cả Lời của Chúa Giêsu, sẽ hướng dẫn môn đệ biết phải làm gì, nên “Hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”(Lc 24,49) Vì thế, để ra đi thi hành sứ mạng, người môn đệ cần phải lắng nghe Lời Chúa để có thể hợp nhất trọn vẹn trong từng lời nói, hành động của ta với Chúa Cha và Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã sống hiệp nhất với Cha “Lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra…”(Ga 14,10). Vậy sứ mạng chứng nhân luôn được Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hành và trợ giúp, vì đó là công việc của Thiên Chúa sai chúng ta làm. Chúng ta là khí cụ trong bàn tay Chúa nên hãy can đảm và tin tưởng ra đi vì có Chúa luôn gìn giữ vững bước chân của ta.
– Đường lên trời của người Kitô hữu chúng ta đó là con đường làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh bằng chính đời sống phục vụ, yêu thương, tha thứ, vui tươi…. Tiếp nối sứ mạng của các môn đệ, mỗi Kitô hữu cũng được Chúa sai vào trong thế gian. Dù sống giữa trần gian, nhưng chúng ta không thuộc về trần gian này. Chính Chúa Giêsu đã đến trần gian và sống trọn phận người, Chúa thấu hiểu những khổ đau, bi đát hay niềm vui, hạnh phúc của cuộc đời.
Có những khi chúng ta phải đối diện với bao nặng nề, gian khó của cuộc sống vì miếng cơm manh áo, đôi lúc làm chúng ta mệt mỏi, chán chường. Nhưng Lời Chúa và sức mạnh của Chúa đã giúp chúng ta tin tưởng nhận ra thánh ý Chúa và ơn gọi của mình giữa cuộc đời.
Sống sứ mạng chứng nhân của Kitô hữu, nhiều lúc chúng ta gặp phải bao sự chống đối, thù nghịch, chê bai… cũng làm chúng ta ngại ngùng, sợ hãi. Thế nhưng bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa luôn che chở, phù giúp chúng ta vượt thắng vững vàng.
Giữa thế gian luôn đầy dẫy những cám dỗ về quyền lực, tiền của, danh vọng…Có nhiều lần chúng ta cũng đã xao xuyến, lo âu, xem nhẹ hạnh phúc Nước Trời. Như các môn đệ xưa, chỉ nghĩ theo kiểu con người, mong có một vương quốc chính trị và chức vụ cao sang (x. CVTĐ 1,6) Nhưng rồi quyền năng và lòng thương xót Chúa đã dẫn chúng ta về với Người, để ta nhớ lại và ghi tâm “Quê hương chúng ta ở trên trời” và ta biết ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu để được thêm sức mạnh nâng đỡ.
Dẫu cuộc sống có vất vả nhọc nhằn nhưng không làm chúng ta quên trời cao, và vinh hoa của thế gian quyễn rũ không làm chân ta lạc lối về Quê Trời. Nhưng ta luôn biết tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là bác ái, chia sẻ; là yêu thương, khiêm nhường; là công lý và hòa bình, …là sống tinh thần Nước Trời ngay tại thế… tất cả là thực thi Lời Chúa và Giới răn của Người, đó mới là những gì tồn tại và vĩnh cửu đưa chúng ta vào hưởng vinh quang bên Chúa.
– Đường lên trời là hành trình xa xôi, vất vả. Theo Chúa và làm chứng cho Chúa là sứ mạng khó khăn không đơn giản. Chúng ta còn đang loay hoay giữa biển đời. Nhưng niềm tin tưởng của ta đặt nơi chính Chúa. Chúa đã lên trời, Chúa là đầu, chúng ta là thân thể của Người (x.1Cr 12,27). Chỉ một mình Chúa đã từ trời xuống thế vì lòng thương xót nhân loại, nay Chúa lên trời thì chắc chắn khi chúng ta sống hợp nhất với Chúa và hoàn thành sứ mạng Chúa trao, chúng ta cũng sẽ có ngày đoàn tụ bên Chúa bởi Người đã hứa “Thầy đi dọn chỗ cho các con.” (x. Ga 14,2-3) vì trong nhà Cha có nhiều chỗ ở và đầu ở đâu thì thân thể cũng sẽ ở đó.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết đường lên trời và trung thành thực thi sứ mạng chứng nhân cho Chúa tại trần gian này. Nguyện Thánh Thần Chúa cùng đồng hành để chúng con có thể lên đường trong tin tưởng và an vui. Amen.
Bước vào Chúa nhật thứ VII, Chúa nhật cuối cùng mùa Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng LênTrời ABC-396
Bước vào Chúa nhật thứ VII, Chúa nhật cuối cùng mùa Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống như lời Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi về trời là không bỏ chúng ta mồ côi, Người sẽ gửi Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa đến.
Khi đến giờ rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều, toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là một bằng chứng. Sau một loạt diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (Ga 17, 1-5). Thứ đến là xin "Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1). Và sau cung là lời cầu xin cho các môn đệ.
Xin cho chúng nên một
Chúa Giêsu thấu hiểu những yếu đuối mỏng giòn của các môn đệ, nên Người tha thiết cầu xin Cha cho họ được hiệp nhất trong tin yêu, để các ông có thể thi hành sứ mạng rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa, một sứ mạng vô cùng khó khăn và đầy những thử thách. Các ông phải tự mình đương đầu với những khó khăn ở trong thế gian, mặc dù sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, hoạt động của các ông phải qui hướng về thế giới khác. Đó là lý do khiến Chúa Giêsu cầu nguyện : "Xin cho họ nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha" (Ga 17, 21). Nhờ "sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần", được ràng buộc "bởi sợi dây bình an", tất cả họ sẽ "duy trì sự hiệp nhất của Thần khí... Chỉ có một Thân mình và một Thần khí " (Ep 4, 3 - 4), giúp họ đồng lòng hợp ý với nhau.
Vì muốn nhân loại kết hiệp ở trong Thiên Chúa, nên đã sai Con Ngài đến thế gian để thánh hiến họ trong chân lý. Khi đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria, Chúa Giêsu đã thực hiện một sự hiệp thông đầy kinh ngạc giữa bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người "Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật" (Kinh Tin Kính). Trong cuộc Thương Khó, Người đã xuống ngục tổ tông, nhà tù giam hãm chúng ta để giải thoát và đưa chúng ta lên cùng Thiên Chúa.
Chúa Giêsu ban vinh quang cho các môn đệ : "Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con" (Ga 17, 22). Vinh quang ở đây là Chúa Thánh Thần, Đấng liên kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban cho họ vinh quang khi nói, "Hãy lãnh nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20, 22). Chúa Giêsu đã nhận được vinh quang khi mặc lấy bản tính loài người chúng ta, bản tính đã được tôn vinh trong Thánh Thần. Vinh quang Người đã có "trước khi tạo thành thế gian" (Ga 17,5) liên kết nhân loại nên một trong Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu nói: "Lạy Cha, vinh quang mà Cha đã ban cho con, con đã ban cho chúng, để họ nên một như chúng ta là một" (Ga 17,22).
Xin Cha gìn giữ chúng
Trong suốt thời gian ở giữa các môn đệ, Chúa Giêsu đã trung thành gìn giữ họ. Khi trở về cùng Cha, Người không vắng mặt, Người cầu xin Cha cho họ, để họ giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, là Cha và Con và Thánh Thần.
Chúa Giêsu đến thế gian để hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao, đến lượt các môn đệ, họ cũng được trao cho một sứ mạng (x. Ga 13, 1). Chúa Giêsu không xin Cha đưa họ ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi những hiểm nguy của thế gian (x. Ga 17, 15). Vì nếu đưa họ ra khỏi thế gian thì sứ mạng tông đồ của họ chấm dứt. Xin Cha gìn giữ họ khỏi bị thế gian lây nhiễm, và thánh hoá họ trong sự thật (x. Ga 17, 17), xin cho họ được tràn đầy thần chân lý. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu làm sáng tỏ : "Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Chúa Giêsu xuống tận vực thẳm của con người để kéo con người lên vì : "Thiên Chúa là Tình Yêu". Đây là tột đỉnh của Mạc Khải. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thôi thúc chúng ta hiệp nhất với Thiên Chúa, và trong vinh quang đầy quyền thế Chúa Giêsu không ngừng cầu nguyện và gìn giữ để : "Không một ai trong chúng bị mất" (Ga 17,12).
Xin thánh hiến họ
Lời khẳng định trên cho thấy Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Để hoạt động trên thế gian và trong thế gian, mà không liên can đến thế gian, nghĩa là được miễn dịch khỏi thế gian, các môn đệ cần phải được hiến thánh (x. Ga 17-19).
Khi muốn bảo vệ các môn đệ khỏi Sự Dữ trong thế gian, Chúa Giêsu đã tự thánh hiến chính mình, Người nhấn mạnh đến tầm quan trọng là "viên mãn trong Thiên Chúa" khi "ở trong tình yêu". Nguồn gốc của sự thánh hiến này là trung thành với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, Đấng tự hiến chính mình. Người ban Chúa Thánh Thần cho họ và xin cho họ sớm đạt được điều Người cầu xin. Chúa Thánh Thần là sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con, liên kết tâm hồn họ với Chúa Cha, kết hợp trái tim tội lỗi của chúng ta với Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. "Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17, 14). Họ đã nhận được Lời, từ "Logos", Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta (Ga 1, 14).
"Lời Cha là chân lý "(Ga 11, 14). Bản chất của Lời là ở với Chúa Cha, đó là chân lý. Kể từ khi Người cho họ tham dự vào sứ mạng của Chúa Con (x. Ga 10, 36 và Ga 17, 18), họ cũng phải tham gia vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Người đã chọn và cắt đặt họ để họ sinh nhiều hoa trái. Đức Giêsu được thánh hiến trong sự thật. Người cũng xin Chúa Cha thánh hiến họ "trong sự thật". Sự thánh hiến này không phải là bên ngoài nhưng nó là sự thật, sâu sắc, thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.
Chính thánh Luca, đã từng ghi lại thao thức của Chúa Giêsu về sứ mạng truyền giáo, khi đề nghị các LênTrời ABC-397
Chính thánh Luca, đã từng ghi lại thao thức của Chúa Giêsu về sứ mạng truyền giáo, khi đề nghị các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin Chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (Lc 10, 2).
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chọn chính lời của Chúa Giêsu làm chủ đề cho Sứ điệp Ơn gọi 2004, để xin mọi người cầu nguyện cho việc truyền giáo, cách riêng cho những người sống ơn gọi tu trì “luôn trung thành với ơn gọi của mình và đạt tới mức cao độ nhất của sự hoàn thiện Phúc Âm” (Sứ điệp Ơn gọi 2004, số 3).
Đến lúc Chúa về trời, một lần nữa, thánh Luca đã không bỏ qua chi tiết quan trọng trong di chúc của Người: “Hãy nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24, 47). Những lời ấy chỉ ít phút trước khi Người “lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa”, trở thành lẽ sống, thành hướng nhắm để đi tới, thành mục tiêu để theo đuổi và là hoạt động không ngơi nghỉ của Hội Thánh.
Bởi từ ngày Chúa rời trần gian, bất cứ làm gì, dù chiêm niệm, cầu nguyện, sinh hoạt thường nhật của đời sống, làm công tác xã hội và từ thiện… Hay suy nghĩ gì, cử hành mầu nhiệm và bí tích nào, tổ chức phong trào nào… Hội Thánh cũng chỉ quy về một việc duy nhất: giới thiệu Chúa Kitô cho con người, và thánh hóa lòng người. Hội Thánh làm như thế vì, hơn ai hết, Hội Thánh hiểu rõ: truyền giáo là sự sống của mình.
Riêng quê hương Việt Nam, cách đây trên dưới năm trăm năm, vào năm 1533, Hội Thánh Việt Nam đã bắt đầu phôi thai với sự hiện diện của một giáo sĩ Tây dương tên là Inikhu. Ngài đến làng Ninh Cường, và làng Trà Lũ, thuộc giáo phận Bùi Chu ngày nay…
Nhờ những bước chân mở mang truyền giáo ấy, Tin Mừng đã bắt đầu. Hạt giống Lời Chúa đã gieo, vẫn âm ỉ, để khi có điều kiện, sẽ nảy nở và trổ sinh trong lòng người. Tất nhiên, điều đó cần ơn Chúa và nỗ lực truyền giáo của người Kitô hữu, có khi rất gian truân, đòi hỏi công sức, hy sinh, kể cả mồ hôi, nước mắt và đổ máu.
Một nửa thiên niên kỷ, dù không thể sánh với nhiều Hội Thánh địa phương khác, càng không thể sánh với Hội Thánh hoàn vũ đã mấy ngàn năm, Hội Thánh Việt Nam vẫn tự hào vẽ thêm một đường lịch sử không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ dừng lại trên trang sử đức tin.
Ý thức truyền giáo của Hội Thánh Việt Nam phải vượt nhiều thử thách, do lòng người đố kỵ, thù ghét, cả lo sợ sự phát triển và ảnh hưởng của Hội Thánh, nên chưa khi nào Hội Thánh Việt Nam sống trong bình yên thực sự, chưa bao giờ được tôn trọng đúng mức.
Thật lạ lùng, càng khó khăn, Hội Thánh Việt Nam càng thắm thiết với đức tin. Ơn gọi tu trì của Hội Thánh Việt Nam không thiếu, nơi nào có người Việt Nam sinh sống, dù quê nhà, hay quê người, vẫn có người Công giáo Việt Nam hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Các nhà thờ bao giờ cũng đông đảo. Các lớp giáo lý, các nhóm chia sẻ Lời Chúa, các hội đoàn, phong trào đạo đức, các tổ chức làm công tác xã hội… vẫn không ngừng phát triển.
Nhưng những gì Hội Thánh Việt Nam đã làm, chưa là tất cả của công tác truyền giáo. Nhiệm vụ của Hội Thánh Việt Nam chưa bao giờ kết thúc. Sau nửa thiên niên kỷ, hình như đó chỉ là cánh cửa vừa mở ra. Trách nhiệm của từng người Công giáo Việt Nam hôm nay phải luôn luôn ra đi theo lối mở ấy của tiền nhân để nhân danh Thiên Chúa và làm chứng cho Người bằng cuộc sống chứng tá của mình ngay trong hoàn cảnh hiện tại.
Chúng ta cần ghi nhớ: Hội Thánh nơi quê hương này, thuở ban đầu, là cả một cánh đồng truyền giáo bao la. Nhưng đã năm thế kỷ đi qua, quê hương vẫn chỉ là một cánh đồng bao la mà chúng ta phải truyền giáo!
Mừng lễ Chúa về trời, ôn lại thao thức truyền giáo của Người, lắng nghe lời Người: “Hãy nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24, 47), ta nhận ra nhiệm vụ lớn lao và vinh dự của mỗi người Việt Công giáo hôm nay. Đó là tiếp nối bước chân truyền giáo của Chúa, noi gương Người, cùng với lớp lớp cha ông, lên đường mang ơn cứu rổi cho cuộc đời, cho con người.
Có hai cách để chúng ta hoạt động truyền giáo theo khả năng của mình:
Cách 1: Chúng ta hãy khẩn thiết: “Xin Chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10, 2). Đó là bổn phận cầu nguyện cho việc truyền giáo của bạn và tôi. Chúng ta cầu xin Chúa “cho có nhiều trái tim quảng đại biết cảm thương những cảnh đời bơ vơ không người chăn dắt; nhiều tâm hồn thiện chí dấn thân ra đi loan báo Tin Mừng” (Thư chung 2004 – HĐGM VN).
Cách 2: Hãy nhớ rằng, trước khi là người loan báo Tin Mừng, bản thân người Công giáo phải sống Tin Mừng ấy. Vì thế, “nêu gương sống lương tâm Công giáo” là việc cấp bách, liên lỉ. Bởi vậy, người tín hữu “hãy nỗ lực cùng với đồng bào xây dựng một nếp sống lành mạnh trong khu phố xóm làng, loại trừ mọi tệ đoan tật xấu. Đặc biệt, hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng… Nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương. Không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận…” (Thư chung 2003).
Chúa Giêsu đã về trời. Biến cố về trời ấy bế mạc giai đoạn hiện diện của Người trên trần gian, nhưng khai mạc giai đoạn hiện diện và hoạt động của Hội Thánh.
Bởi vậy, Hội Thánh nói chung và Hội Thánh tại Việt Nam nói riêng, vẫn tiếp tục được mời gọi chia sẻ chức vụ mục tử của Chúa Giêsu, đem ơn thánh hóa, cứu độ mọi người và chính đồng bào Việt Nam của mình.
Nhưng nỗ lực sống lời mời gọi chia sẻ chức vụ của Chúa Kitô, phải là nỗ lực của từng cá nhân, trong từng ngày sống. Vậy bản thân chúng ta hãy tiếp nối sứ vụ của Chúa, bằng cách sống vai trò chứng nhân của tình yêu Chúa trong từng giây phút sống của mình.
Ai nào đó trong cuộc đời cũng hơn một lần chứng kiến cảnh chia xa. Có khi là chia tay để lên LênTrời ABC-398
Ai nào đó trong cuộc đời cũng hơn một lần chứng kiến cảnh chia xa. Có khi là chia tay để lên Sài Thành đi học hay lập nghiệp. Có khi là chia tay để đi … vượt biên và có khi là chia tay người thân của mình khi người thân của mình ra đi trở về lòng đất mẹ.
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta thấy Chúa Giêsu là Thiên Chúa xuống thế trần để làm – Người, cũng có linh hồn và thân xác như ta. Đến thời gian đã định, Chúa Giêsu sẽ lên trời và đoàn tụ với Thiên Chúa là Cha của Ngài. Đây là những ý nghĩa sâu xa nhất củabiên cố Chúa lên trời: Chúa Giêsu, đã chiến thắng trên sự chết, đã bắt đầu một cuộc sống mới với Thiên Chúa, là Cha của Ngài.
Chúa Giêsu ra đi trước ta, cũng để chuẩn bị một nơi cho ta trên Thiên đàng. Chúa Giêsu cùng tham dự vào một cuộc sống mới với Cha Ngài trên Trời. Và rồi, Ngài muốn đem mỗi người chúng ta cùng vào sống chung cùng cuộc sống với Ngài để ta được hạnh phúc viên mãn với Ngài.
Chúa Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất. Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.
Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ. Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn. Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng. Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.
Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt. Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn, để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.
Trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời có điểm khác biệt là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.
Đặc điểm nữa trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.
Ta không được khoanh tay nhìn trời, nhưng lòng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời. Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời, thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.
Ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất: ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói và nhất là vấn đề xây dựng con người.
Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề. Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra, bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực. Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng, và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).
“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1). Đừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.
Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế mái ấm gia đình để sau Lễ Lên Trời này. Và rồi ta sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.
Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Chúa Kitô, trước khi về trời, đã để lại cho Hội LênTrời ABC-399
“Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Chúa Kitô, trước khi về trời, đã để lại cho Hội Thánh mệnh lệnh truyền giáo như lời di chúc đặc biệt mà Hội Thánh phải cất giữ và ấp ủ từng ngày, để thao thức truyền giáo của Chúa Kitô trở thành nỗi thao thức và niềm say mê của Hội Thánh.
Có thể nói, ngày Chúa Kitô về trời là ngày mở ra sứ mạng của Hội Thánh: Hội thánh phải truyền thông Lời Chúa. Sứ mạng này phải được thi hành nhanh chóng, cấp bách. Đó là nhiệm vụ không miễn trừ một ai, miễn là chúng ta sống trong lòng Hội Thánh.
Nội dung của ngày lễ Chúa lên trời nhấn mạnh đến sứ mạng truyền giáo càng nói lên tính khẩn thiết, khi Hội Thánh gọi ngày lễ này là ngày Quốc tế Truyền thông.
Năm 1966, Đức Phaolô VI chọn ngày lễ Chúa Giêsu thăng thiên làm ngày Quốc tế Truyền thông. Có ba lý do để Đức Giáo hoàng chọn ngày lễ này chứ không chọn ngày nào khác:
1. Đức Giáo hoàng muốn nhấn mạnh việc rao giảng Lời Chúa, tức là truyền thông Lời Chúa cho anh chị em của mình.
2. Truyền thông Lời Chúa là mệnh lệnh mà Chúa truyền cho Hội Thánh trong chính ngày lễ này là hãy nhân danh Chúa mà rao giảng cho muôn dân.
3. Đức Giáo hoàng nhắc nhở những người làm truyền thông, nhất là người Công giáo, hãy truyền thông sự thật, truyền thông niềm hy vọng, truyền thông những điều tốt lành, phù hợp với Lời Chúa, phù hợp thánh ý Chúa.
Phải truyền thông Lời Chúa. Lệnh truyền ấy vừa là bổn phận, vừa làm cho Hội Thánh vinh quang:
– Bổn phận là vì Hội Thánh phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô: “Ngày sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).
Và một khi thi hành sứ mạng truyền giáo, sứ mạng ấy trở thành nhiệm vụ cốt yếu của cả Hội Thánh và của từng người: “Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6,2). Thánh Phaolô còn nói mạnh hơn về nghĩa vụ không thể bỏ qua của việc thực thi sứ mạng truyền giáo: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.
– Còn vinh quang là vì Hội Thánh được cộng tác với Chúa Kitô mang ơn cứu độ cho trần gian. Lời Thiên Chúa là Lời quyền năng, lại được trao và tay con người. Không phải chỉ hôm nay, nhưng đã có từ muôn thuở: “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt 1,1).
Nhận lãnh sứ mạng truyền thông Lời Chúa, những con người mỏng dòn, yếu đuối lại tiếp tục trao gởi cho hết thế hệ này đến thế hệ khác Lời sự sống sống, để mọi thời, từng con người phải ấp ủ cho mình ngày càng trưởng thành, rồi đem Lời luôn được ấp ủ ấy san sẻ cho nhau.
Ý thức bổn phận vinh quang ấy, Hội Thánh luôn luôn lên đường dấn thân cho hoạt động truyền giáo.
Thế là con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá, con người yếu đuối công bố Lời quyền năng, con ngươi giới hạn công bố Lời vĩnh cửu.
Ý thức mệnh lệnh cuối cùng của Chúa trước khi về Nhà Cha là hãy truyền thông Lời Chúa, ta lên đường bằng tất cả những gì có thể làm được để Lời Chúa được gieo vào lòng người.
Hãy tin tưởng và can đảm truyền thông Lời Chúa không bao giờ sợ hãi, để “những gì Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng” (Mt 10, 27).
Hãy gieo lời Chúa chăm chỉ miệt mài như người gieo giống: gieo khắp nơi, gieo trong mọi hoàn cảnh, dù đó là “đất tốt” kết quả đạt đến “gấp trăm, hoặc “sáu mươi”, hoặc “ba mươi”, hay đó chỉ là “vệ đường”, là “nơi sỏi đá”, là “bụi gai” (Mt 13, 3-9).
Hãy gieo Lời Chúa đến cùng, gieo “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện”.
Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ: "Chúng ta được qui tụ LênTrời ABC-400
Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:
"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất".
Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"
Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. "Trời", nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: "Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa."
Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: "Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em."
Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.
Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này".
Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.